Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các...

88
LUẬN VĂN: Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam

Transcript of Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các...

LUẬN VĂN:

Tác động của thuế GTGT tới hoạt

động kinh doanh của các doanh

nghiệp Việt nam

Lời nói đầu

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một

loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban

hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của

Việt nam.

Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được

công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng

suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước. Điểm nổi

bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua

nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây

nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh

hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng

khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế

doanh thu. Ngược lại thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra,

thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Hơn nữa thuế

GTGT còn có tác dụng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất,

chống thất thu có hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho NSNN.

Sau hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số kết quả

đáng khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến nhưng

còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình

thực hiện.

Hơn lúc nào hết, nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam

để nhanh chóng phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm ra được những giải pháp thích

hợp là điều kiện cực kỳ quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc của

việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam.

Qua một thời gian nghiên cứu, kết hợp với những hiểu biết của bản thân em chọn

đề tài “Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp

Việt nam” để nghiên cứu.

Đề tài bao gồm 3 chương:

Chương I: Thuế và thuế GTGT đối với hoạt động của các doanh nghiệp

Chương II: Tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp

Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

CHƯƠNG i

THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động

của các doanh nghiệp

i. KHáI QUáT Về THUế.

1. Sự ra đời của và bản chất của thuế.

1.1 Nguồn gốc xuất hiện của thuế.

Nhà nước là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối

với giai cấp khác.

Theo quan điểm của Ăng ghen, Nhà nước có hai đặc trưng chủ yếu :

- Một là : phân chia dân cư theo khu vực để quản lý.

- Hai là : thiết lập những quyền lực công cộng và để duy trì những quyền lực

công cộng đó cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế.

Trước xã hội nô lệ, khi điều kiện làm việc còn mông muội, năng suất lao động

còn thấp, con người rất khó nhọc mới tìm ra tư liệu cần thiết cho đời sống, lúc đó xã

hội chưa biết đến thuế, càng đến xã hội văn minh thuế càng phát triển.

Như vậy khái niệm về thuế xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát

triển của Nhà nước. Hai khái niệm Nhà nước và thuế đi với nhau rất mật thiết, gắn bó

như hình và bóng - không thể thiếu được. Nhà nước sử dụng thuế để phục vụ cho mục

đích của mình: Nhà nước giai cấp bóc lột thu thuế để phục vụ cuộc sống xa hoa, đài

các của bọn thống trị áp bức, còn đối với Nhà nước nào thực sự của dân, do dân và vì

dân, Nhà nước đó thu thuế của dân để trở lại phục vụ cuộc sống của người dân cho

công bằng và hợp lý hơn, đảm bảo quyền sống của con người đầy đủ và tốt đẹp hơn .

Lịch sử phát triển của thuế cũng đã chứng minh đó là quá trình phát triển ngày

càng hoàn thiện và hợp lý trong thực hiện nhiệm vụ phân phối sản phẩm xã hội và thu

nhập quốc dân, nhờ đó để đi dần tới chỗ động viên thu nhập của người dân một cách

công bằngvà ngày càng hợp lý hơn, từ đó yêu cầu các luật thuế phải được xây dựng

hợp lý, đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Để cho chính sách thuế góp phần động viên

công bằng hợp lý thu nhập quốc dân được tạo ra trong toàn xã hội và nhất là khi nền

sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa

các cá nhân với nhau và với xã hội ngày càng mật thiết, chặt chẽ hơn thì sự phân phối

thu nhập quốc dân trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách thuế

mà ở đó có sự liên kết trong một tổng thể thống nhất cùng tham gia trong quá trình

phân phối đó.

1.2 Bản chất của thuế .

Có thể hiểu thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc được Nhà nước quy định

thành luật để mọi người dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào NSNN theo

từng thời kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Cũng có

thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và

thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ

tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

2. Vai trò của thuế.

Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu sau:

2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN.

ở nước ta trong thời kỳ bao cấp thuế thường mới chỉ đảm bảo được khoảng 50%-

60% tổng số thu của NSNN. Một phần thu quan trọng của NSNN lúc đó còn phải dựa

vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho

không đã giảm nhiều, quan hệ kinh tế đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay, có

trả, có đi, có lại hai bên cùng có lợi. Hệ thống thuế phải bảo đảm đến 80%- 90% tổng

số thu của NSNN, có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ.

2.2 Thuế góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Chính sách thuế được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh

lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải

phóng mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các

ngành nghề, các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước.

Tuỳ tình hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền

kinh tế, bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, điều chỉnh các

thành phần kinh tế phát triển theo định hướng phát triển của Nhà nước, điều chỉnh các

quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng,

giữa cung và cầu, nhập và xuất). Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê,

kiểm soát, thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất,

hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế.

2.3 Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập, bảo đảm công

bằng xã hội.

Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa việc động

viên phù hợp với khả năng và tính chất của hoạt động sản xuất, kinh doanh với việc

tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các chế độ, biện pháp thuế.

Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp được thể hiện qua việc áp dụng chính

sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, sự cân bằng

về thuế, trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi,

nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với Nhà nước, người đại diện cho

quyền lực và lợi ích của toàn xã hội.

II. thuế giá trị gia tăng.

1. Khái niệm.

Theo điều 1 của luật thuế GTGT: “Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản

giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông

đến tiêu dùng”.

Trong đó giá trị tăng thêm là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát

sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và khoản giá trị tăng thêm

này do người tiêu dùng chịu.

2. Mục đích.

Mục đích của thuế GTGT là nhằm khuyến khích chuyên môn hoá cao, khuyến

khích các nhà doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tăng năng suất lao

động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo tích luỹ cao cho doanh nghiệp,

tăng tỷ lệ huy động cho NSNN. Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ sản

xuất hàng hoá xuất khẩu vì mức thuế hàng xuất khẩu 0%, ngoài ra còn được thoái trả

lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị

trường khu vực và thế giới. Thuế GTGT hàng nhập khẩu có tác dụng thiết thực bảo vệ

sản xuất kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu.

3. Nội dung của thuế GTGT.

3.1 Đối tượng áp dụng.

3.1.1 Phạm vi áp dụng.

Xét về góc độ kinh tế, thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm phát sinh qua

các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó mọi hoạt động kinh

doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi hoạt

động của quá trình sản xuất kinh doanh nêu trên đều thuộc đối tượng nộp thuế.

Như vậy phạm vi áp dụng của thuế GTGT có thể bao gồm :

- Hoạt động kinh doanh nhập khẩu.

- Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB.

- Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất

nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp.

1.1.2. Đối tượng nộp thuế .

Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ

chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh

doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng

hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.

Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm :

- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh

nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã.

- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp

tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ

chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam.

- Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và

các đối tượng kinh doanh khác.

3.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế

3.2.1. Căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.

Giá tính thuế : Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị

định số 79/2000/NĐ-CP, giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định như

sau:

- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng

cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT.

- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế

nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo

các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.

Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính

thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với (+) thuế nhập khẩu xác định theo mức

thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm.

- Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không

phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ

không chịu thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán

của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại.

- Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở

Việt nam, giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài.

Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi,

phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị.

Giá để tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo

hình thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế

GTGT tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới

hình thức khác như thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu

cầu của bên thuê.

- Đối với các hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định.

Thuế suất: Luật thuế GTGT hiện nay quy định 4 mức thuế suất : 0%, 5%, 10%,

20% trong đó :

- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.

- Thuế suất 5%, 10%, 20% đối với hàng hoá, dịch vụ.

3.2.2. Phương pháp tính

Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương

pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT.

Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ

thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch

toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT.

Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau :

Phương pháp khấu trừ thuế

Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh

nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty

cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng

tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.

Xác định số thuế GTGT phải nộp

Số thuế GTGT

phải nộp =

Thuế GTGT

đầu ra -

Thuế GTGT

đầu vào

Trong đó:

Thuế GTGT

đầu ra =

Giá tính thuế

của hàng hoá,

dịch vụ chịu

thuế bán ra

x

Thuế suất thuế

GTGT của hàng

hoá, dịch vụ đó.

Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi

bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra.

Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có

thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ

ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng

hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ.

Doanh thu

chưa có thuế = Giá bán -

Thuế tính trên

giá bán

Ví dụ : Doanh nghiệp bán sắt, thép

Giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt 6 là 4.600.000 đ/tấn

Thuế GTGT 5% 230.000 đ/tấn

Khi bán, có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán 4.800.000 đ/tấn

Thuế GTGT tính trên doanh số bán được xác định:

4.800.000 đ/tấn x 5% = 240.000 đ/tấn

Doanh thu được xác định lại bằng:

4.660.000 đ (= 4.800.000đ - 240.000đ)

Doanh nghiệp mua thép cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với

hoá đơn mua không ghi thuế GTGT này.

Thuế GTGT đầu

vào =

Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn

GTGT mua hàng hoá, dịch vụ

Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ

thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp

thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước

được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ

thuế GTGT đầu vào.

Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT

Đối tượng áp dụng

- Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam.

- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn

chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.

- Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.

Xác định thuế GTGT phải nộp:

Số thuế GTGT

phải nộp

=

GTGT của hàng

hóa, dịch vụ

chịu thuế

x

Thuế suất thuế GTGT

của hàng hoá, dịch vụ

đó

GTGT của

hàng hoá, dịch

vụ

=

Doanh số của

hàng hoá, dịch

vụ bán ra

- Giá vốn của hàng hoá,

dịch vụ bán ra

Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau:

- Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh

số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh.

Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá,

dịchvụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì được xác định như sau:

Giá vốn Doanh số Doanh số Doanh số

hàng bán

ra

= tồn đầu kỳ + mua trong

kỳ

- tồn cuối kỳ

Ví dụ : Một cơ sở A sản xuất đồ gỗ, trong tháng bán được 150 sản phẩm tổng

doanh số bán là 25 triệu đồng.

Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng,

trong đó :

Nguyên liệu chính (gỗ) 14 triệu

Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác 5 triệu

Thuế suất thuế GTGT là 10% , thuế GTGT cơ sở A phải nộp được tính như sau:

GTGT của sản phẩm bán ra

25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đ

Thuế GTGT phải nộp

6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng

- Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt

công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực,

vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt

công trình, hạng mục công trình.

- Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp

trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt

động vận tải.

- Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh

lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá

quý, ngoại tệ bán ra.

3.3. Các quy định khác

Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.

Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp

tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng

nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT được khấu trừ, đối

tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế GTGT được sử dụng hoá đơn thông

thường.

Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ

thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh

doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn và ghi rõ: Giá bán chưa

có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã

có thuế. Nếu cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ không ghi tách riêng số bán và

thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá

thanh toán. Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT (trừ trường hợp

hàng hóa, dịch vụ đặc thù được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế

GTGT).

Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và

các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, sử

dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực

thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT).

Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với quy định chung,

phải đăng ký với Bộ Tài Chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được

thông báo bằng văn bản cho sử dụng. Mọi trường hợp doanh nghiệp đăng ký sử dụng

hoá đơn theo mẫu quy định.

Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ

theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ Tài Chính ban hành. Các cơ sở kinh

doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ

theo quy định của pháp luật.

Mã số thuế

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng nộp thuế, thủ tướng Chính

phủ ra quyết định số 75/1998/QĐ-Ttg ngày 4/4/1998 quy định về mã số đối tượng nộp

thuế.

Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế là đối tượng nộp thuế theo

pháp luật Việt Nam đều phải thực hiện kê khai, đăng ký thuế với cơ quan thuế để cấp

mã số xác định đối tượng được nộp thuế (gọi tắt là mã số thuế). Mã số thuế được sử

dụng để nhận diện đối tượng nộp thuế. Mỗi một đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một

mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt

hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng

nộp thuế khác.

Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch,

chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh, trên các sổ sách kế toán, trên các giấy

tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý

Nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in

sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải của từng tờ hoá đơn.

Hoàn thuế GTGT

Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế

được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:

- Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được

khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào

chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.

- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế đầu vào

chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở nên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hoặc

chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng).

Đối với hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký

hợp đồng gia công xuất khẩu, đối tượng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá đi uỷ thác

xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu.

- Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký theo phương pháp

khấu trừ nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu

thời gian đầu tư từ một năm trở nên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số

thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở

nên thì được xét hoàn thuế từng quý.

- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể,

phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế

GTGT nộp thừa.

- Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật.

Cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn đối tượng được hoàn thuế lập đúng, đủ

các hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo đúng quy định. Chịu trách nhiệm kiểm tra, xem xét

hồ sơ và giải quyết hoàn thuế trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hoàn

thuế của đơn vị gửi đến. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh, bổ sung hồ sơ… thì thời

gian tối đa là 30 ngày. Nếu không đủ thủ tục và điều kiện hoàn thuế phải trả lời cho

đơn vị biết trong khoảng thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ.

Sau khi hoàn thuế, trường hợp nghi vấn hoặc cần tổ chức, kiểm tra, thanh tra lại

cơ sở để xác định đúng số hoàn thuế thì cơ quan thuế quyết định kiểm tra hoặc thanh

tra.

Khấu trừ thuế

Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ

thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:

- Thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh

hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ.

- Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào đồng thời cho sản xuất,

kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được

khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng

hoá, dịchvụ chịu thuế GTGT.

- Thuế đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ

khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó.

- Các cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ

thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầuvào theo tỷ lệ (%) tính trên giá hàng hoá, dịch

vụ mua vào không có hoá đơn GTGT theo quy định như sau:

Tỷ lệ 2% đối với hàng hoá là nông sản lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến, đất

đá cát sỏi và các loại phế liệu mua vào không có hoá đơn.

Tỷ lệ 3% đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mua của cơ

sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá

đơn bán hàng.

3.4. Cơ chế vận hành

3.4.1 Để hiểu được cơ chế vận hành của thuế GTGT trước tiên cần phải nhận rõ được

bản chất của thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế đánh trên diện rộng, tính trên

giá và đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau. Thực vậy:

- Thuế GTGT là loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế này về mặt lý

thuyết mọi hàng hoá và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế.

- Thuế GTGT là một loại thuế tính trên giá thể hiện ở chỗ tiền thuế phải được

tính trên một tỷ lệ % nhất định trên giá cả mà không phải là số tiền cố định trên hàng

hoá và dịch vụ.

- Thuế GTGT đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau từ sản xuất, phân phối đến

tiêu thụ các loại hàng hoá và dịch vụ.

3.4.2 Tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu

dùng có sự khác nhau:

Đối với các doanh nghiệp: Thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập

với nhau.

- Yếu tố có liên quan đến chế độ khấu trừ thuế, tức là liên quan đến bộ phận thuế

GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài

sản cố định .ở đâydoanh nghiệp cần thiết phải chia ra làm 2 khoản:

Thuế GTGT có thể khấu trừ .

Thuế GTGT không thể khấu trừ.

- Yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT

thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả

nghiệp vụ bán tài sản cố định).

Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào một

trong hai trường hợp:

Nếu là số dương (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp.

Nếu là số âm (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được

Nhà nước thoái trả.

Cơ chế vận hành của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua mô

hình sau:

doanh thu tính thuế

nhân (x)

thuế suất

bằng (=)

thuế tính trên doanh thu

trừ (-)

thuế tính trên doanh số mua hàng

( VAT được khấu trừ )

bằng (=)

Ví dụ : Giả định thuế suất 10%

Doanh thu bán hàng 200.000; thuế GTGT 20.000

Doanh số mua hàng 150.000; thuế GTGT 15.000

Thuế GTGT phải nộp 5.000

Doanh số bán hàng 180.000; thuế GTGT 18.000

Doanh số mua hàng 200.000; thuế GTGT 20.000

Thuế GTGT được thoái trả 2.000

Đối với người tiêu dùng cuối cùng.

Nếu như thuế GTGT có ảnh hưởng trung tính đối với các hoạt động sản xuất kinh

doanh (từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ) thì nó lại là một loại thuế đánh vào người

tiêu dùng cuối cùng (toàn bộ gánh nặng về thuế GTGT, nói cách khác, do người tiêu

dùng cuối cùng chịu) bởi lẽ đối với họ chỉ phát sinh hành vi mua sau đó không phát

sinh hành vi bán.

Thuế GTGT phải nộp (nếu kết quả là số

dương)

Thuế GTGT được thoái trả

(nếu kết quả là số âm)

4. Điều kiện áp dụng

Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở doanh nghiệp. Hoá đơn chứng từ là

căn cứ pháp lý để thực hiện việc tính thuế, kê khai thuế GTGT. Cơ sở tính thuế là giá

trị tăng thêm vì vậy muốn xác định được giá trị tăng thêm thì doanh nghiệp phải thực

hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu vào, đầu ra. Mặt khác đối với doanh nghiệp

thực hiện theo phương pháp khấu trừ, không có hoá đơn thuế GTGT của bên bán thì sẽ

không được khấu trừ phần thuế GTGT đã nộp ở khâu trước.

Công tác quản lý của cơ quan thuế: Thực hiện luật thuế mới không những tác

động đến công tác quản lý của các doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng phải cải tiến

phương pháp quản lý như: Cấp mã số thuế, áp dụng tin học vào công tác thuế, phát

hành và quản lý hoá đơn chứng từ, phát huy tinh thần tự giác của doanh nghiệp trong

việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo vào kho bạc Nhà nước.

Qua đó quản lý được đối tượng nộp thuế, hạn chế được thất thu ngân sách và tiêu cực

trong lĩnh vực thuế.

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thuế GTGT

Quan điểm tư tưởng: Nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc thực hiện thành

công thuế GTGT ở nước ta là quan điểm và sự quyết tâm của chúng ta đối với việc

thực hiện loại thuế mới này bởi nó định hướng cho tư tưởng, nhận thức của chúng ta

và ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng, nhận thức của các doanh nghiệp và mọi tổ chức cá

nhân trong xã hội, những người nộp thuế GTGT.

Công tác tuyên truyền thực hiện: Khi áp dụng thuế doanh thu, các doanh

nghiệp đã quen với việc mua bán thanh toán theo giá đã có thuế. Khi chuyển sang thực

hiện thuế GTGT, việc mua bán được căn cứ trên giá chưa có thuế, do đó khó có thể

tránh khỏi tình trạng lúng túng trong việc xác định giá bán chưa có thuế nếu không

được tuyên truyền, hướng dẫn cụ thể. Mặt khác sẽ có một số doanh nghiệp do không

hiểu hoặc cố tình coi thuế GTGT là một loại thuế mới sẽ cộng thêm vào giá hiện hành

làm tăng giá, gây tâm lý tiêu cực của người tiêu dùng đối với thuế GTGT.

Tổ chức thực hiện:

- Bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta

được tổ chức theo ngành dọc từ TW đến cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa

theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế, tức là có bộ phận quản lý lĩnh vực thuế

doanh thu, thuế lợi tức và có bộ phận quản lý doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế tư nhân. Một cán bộ thuế phải đảm nhận

nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện

chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy

trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế,

hoàn thuế, trình độ của một số cán bộ thuế còn thấp sẽ không đủ đáp ứng yêu cầu.

Hơn nữa do chế độ “chuyên quản “ được chuyển sang chế độ tự kê khai của

doanh nghiệp cho nên nếu như không có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ

hơn hiện nay thì tình trạng thất thu thuế khó có thể hạn chế được.

- Công tác quản lý hành chính thuế: Hiện nay còn thô sơ, thủ công là chính cho

nên việc xử lý dữ liệu còn chậm chạp, có nhiều khả năng xảy ra sai sót cả do nguyên

nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của cán bộ thu thuế. Trong khi đó đối với

việc quản lý thuế GTGT, thông tin cần lưu trữ lớn, đòi hỏi phải xử lý nhanh, chính

xác. Hiện nay ngành thuế vẫn chưa có một chương trình hoàn chỉnh về xử lý thông tin

thống nhất và nối kết trong một hệ thống máy tính trên phạm vi toàn quốc để truy cập

đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc thu nộp thuế được thuận lợi.

- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan: Hiện nay việc thu thuế doanh

thu và thuế xuất nhập khẩu được tách rời nhau: Thuế xuất nhập khẩu do cơ quan hải

quan thu, thuế doanh thu do cơ quan thuế trong nước thu mà không có sự phối hợp

thường xuyên trao đổi thông tin giữa các cơ quan này. Khi áp dụng thuế GTGT thì

hàng nhập khẩu khi nhập khẩu vào Việt nam ngoài thuế nhập khẩu phải nộp thuế

GTGT, hàng xuất khẩu thì được hoàn thuế GTGT. Do đó để xác định đúng số thuế

phải thu cần phải có sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa ngành thuế nội địa và cơ quan

hải quan trong việc quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế

GTGT. Tương tự như vậy, đối với hàng xuất khẩu được hoàn thuế GTGT đã nộp cũng

cần phải có sự phối hợp đồng bộ để việc hoàn thuế được thực hiện đúng, đủ và kịp

thời, tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp.

Tình hình sản xuất, kinh doanh: Luật thuế GTGT được thông qua giữa tháng

5/1997 trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta đang trên đà phát triển vững chắc

mạnh mẽ. Có quan điểm cho rằng mặc dù thuế GTGT sẽ phải nộp cao hơn thuế doanh

thu đối với một số ngành nghề nhưng trong hoàn cảnh kinh tế đang lên, quá trình hội

nhập được đẩy nhanh, doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận cao để bù đắp được rủi

ro thiệt thòi trong việc phải nộp thuế mới. Tuy nhiên chỉ 2 tháng sau khi luật thuế

GTGT được ban hành thì cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ khu vực đã ập đến, gây

nhiều thách thức, khó khăn đối với doanh nghiệp Việt nam. Đây là một thách thức lớn

đối với nước ta trong quá trình thực thi luật thuế GTGT vào thời điểm này.

III. Thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT. Sự cần thiết áp dụng thuế

GTGT ở Việt Nam

1. Thuế doanh thu

1.1. Những nội dung cơ bản của thuế doanh thu

Thuế doanh thu là một loại thuế gián thu đánh vào phần doanh thu của các hoạt

động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong xã hội.

Mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, xây

dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác (gọi

chung là cơ sở kinh doanh) có doanh thu đều phải nộp thuế doanh thu. Căn cứ tính

thuế là doanh thu và thuế suất.

Doanh thu là toàn bộ tiền hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ sau khi thực hiện việc

bán hàng, trả hàng gia công hoặc cung ứng dịch vụ chưa trừ một khoản phí tổn nào và

đã hạch toán vào kết quả tiêu thụ trong kỳ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa

thu được tiền.

Doanh thu tính thuế là doanh thu được quy định phù hợp với đặc điểm của từng

hoạt động. Cụ thể:

Doanh thu đối với hoạt động sản xuất, thương mại, ăn uống là tiền bán hàng.

Doanh thu đối với hoạt động gia công là số tiền gia công bao gồm tiền công, tiền

nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác.

Doanh thu đối với hoạt động đại lý bán hàng hoặc uỷ thác mua hàng là tiền hoa

hồng được hưởng.

Doanh thu đối với hoạt động dịch vụ là số tiền dịch vụ bao gồm mọi khoản chi

phí cho hoạt động dịch vụ.

Doanh thu đối với hoạt động tín dụng là khoản chênh lệch giữa thu lãi và tiền

vay, tiền lãi gửi với trả lãi tiền vay, trả lãi tiền gửi. Doanh thu đối với hoạt động dịch

vụ khác thuộc lĩnh vực ngân hàng là tiền thu được hoặc tiền hoa hồng được hưởng đối

với dịch vụ đó.

Doanh thu đối với hoạt động bảo hiểm là tiền thu về phí bảo hiểm nhận của

khách hàng.

Cơ sở kinh doanh có doanh thu bằng ngoại tệ được nộp thuế bằng ngoại tệ hoặc

đồng Việt Nam, quy đổi theo tỷ giá mua vào và do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

công bố tại thời điểm nộp thuế.

Trong trường hợp trao đổi hàng hoá, dịch vụ hoặc tự cung ứng hàng hoá, tự cung

ứng dịch vụ thì hàng hoá dịch vụ trao đổi hoặc tự cung ứng phải được tính thành tiền

tại thời điểm phát sinh theo giá thị trường để làm căn cứ tính thuế.

Thuế suất doanh thu được quy dịnh cụ thể cho 6 ngành nghề sản xuất, xây dựng,

vận tải, thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ. Đối với các ngành nghề, danh mục sản

phẩm sản xuất kinh doanh đã được quy định chi tiết trong biểu thuế thì áp dụng đúng

theo thuế suất đã quy định. Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề thì phải hạch toán

riêng doanh thu của từng ngành nghề, sản phẩm. Nếu không hạch toán riêng được phải

áp dụng thuế suất cao nhất trong số những ngành nghề đó để tính thuế trên tổng doanh

thu của các ngành nghề sản phẩm đã tiêu thụ.

Hộ kinh doanh nhỏ được tính và nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu từng thời

kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng. Mức doanh thu khoán được cơ quan thuế ấn định căn cứ theo

tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, tài liệu điều tra của cán bộ thuế được thảo luận

công khai trong các tổ kinh doanh và công bố trước khi áp dụng.

Hộ kinh doanh nhỏ là hộ có doanh thu tính thuế bình quân tháng đối với từng

ngành nghề:

Ngành sản xuất, thương mại: Đến 6 triệu đồng.

Ngành ăn uống: Đến 3 triệu đồng.

Ngành sản xuất, gia công, xây dựng, vận tải, dịch vụ: Đến 2 triệu đồng.

Ngoài ra, chương IV luật thuế doanh thu còn quy định việc giảm thuế, miễn thuế

doanh thu trong các trường hợp:

Người già yếu, tàn tật hoặc kinh doanh lặt vặt chỉ đủ bảo đảm mức sống tối thiểu

cho bản thân.

Cơ sở kinh doanh gặp khó khăn lớn do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngờ.

Cơ sở kinh doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, khai thác thuỷ sản vùng biển xa

bờ, cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, cơ sở sản xuất mới đi vào

hoạt động, chạy thử dây chuyền sản xuất mới, cơ sở sản xuất mặt hàng thay thế hàng

nhập khẩu nếu gặp khó khăn được xét giảm thuế không quá 2 năm. Riêng cơ sở kinh

doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, thời gian được hoàn thuế không quá 3 năm.

Luật thuế doanh thu cũng quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ sở kinh

doanh và quyền hạn, trách nhiệm cơ quan thuế, việc đăng ký, kê khai nộp thuế, việc xử

lý vi phạm, giải quyết khiếu nại về thuế.

1.2. ưu điểm của thuế doanh thu

- Tính toán đơn giản: Hàng tháng các cơ sở sản xuất kinh doanh tính số thuế

doanh thu phải nộp bằng doanh thu nhân thuế suất thuế doanh thu.

- Thuế doanh thu được thu dứt điểm từng lần bán hàng không phải theo dõi thuế

đã nộp ở khâu trước.

- Nguồn thu ngân sách giữa các địa phương tương đối ổn định.

1.3. Nhược điểm của thuế doanh thu

- Thuế doanh thu có quá nhiều mức thuế suất (11 mức thuế suất) gồm 0%,

0,5%,1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%, 30% nên việc tính thuế không chính xác

và áp dụng nhiều mức thuế suất vào từng loại hoạt động rất phức tạp. Việc áp dụng

nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều

mặt hàng với các mức thuế suất khác nhau tìm cách dồn doanh thu vào mặt hàng có

mức thuế suất thấp. Vì vậy thuế doanh thu của từng cơ sở khó chính xác tuyệt đối và

gây ra tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.

- Thuế doanh thu đánh trùng nhiều lần trên một giá trị và thuế đánh trên thuế.

Một hàng hoá, dịch vụ qua càng nhiều lần luân chuyển thì chịu thuế doanh thu càng

nhiều, thuế ở khâu sau tính trên cả phần thuế đã nộp ở khâu trước.

- Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu

độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế

đã nộp ở các khâu trước.

- Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực

hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu

trước.

- Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của

thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người

bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng

nộp thuế và đối tượng chịu thuế.

2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay

Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau:

2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp

Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không

còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền

kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT

nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu.

Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT

theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết

định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong

quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến

từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch

vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý.

2.2. Do yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực

Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển

nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng

hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi

nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là

một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế

điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong

tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC.

Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với

mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản

xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân

dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực

và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi.

Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự

trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ

1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin

áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng

1/1995…

Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận

động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt

tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú

trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo

đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách

thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II

nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của

nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế

bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai

luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại

thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật

thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức.

Thuế GTGT triển khai thực hiện ở trên 120 nước trên thế giới và đã được đánh giá là

tiên tiến, khoa học và công bằng, có nhiều ưu điểm và khắc phục được những tồn tại

của thuế doanh thu.

IV. Kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT ở một số nước

1. Thuế GTGT áp dụng ở một số nước trên thế giới

1.1. Trung quốc

- Thuế GTGT của Trung Quốc được bắt đầu áp dụng từ năm 1984. Tuy nhiên do

những quy định về thuế GTGT năm 1984 được coi là phức tạp, không công bằng và

rất khó áp dụng vì nó chủ yếu chỉ được áp dụng ở cơ sở sản xuất nên đến năm 1994,

luật thuế GTGT mới được ban hành thay cho thuế GTGT năm 1984.

- Về cơ bản thuế GTGT năm 1994 của Trung Quốc là một loại thuế đánh trên

diện rộng từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ.

- Thuế GTGT của Trung Quốc có 2 điểm khác biệt quan trọng so với thuế GTGT

ở các nước Châu á khác:

Thứ nhất, tài sản cố định bị đánh thuế GTGT song lại không được khấu trừ thuế

đầu vào.

Thứ hai, hầu hết các dịch vụ đều không chịu thuế GTGT (thay vào đó các dịch vụ

này chịu thuế kinh doanh).

Một số nhận xét và bài học về việc thực hiện thuế GTGT của Trung Quốc

- Về đối tượng nộp thuế: Có 2 loại đối tượng nộp thuế : Đối tượng nộp thuế

thông thường (chiếm 20) và đối tượng nộp thuế nhỏ (chiếm 80%) căn cứ vào doanh số

bán hàng và điều kiện hạch toán của từng đối tượng.

Tiêu chí để trở thành đối tượng nhỏ như sau:

Đối với các đối tượng kinh doanh dịch vụ: Các cơ sở có doanh số chịu thuế

GTGT hàng năm dưới 1 triệu NDT.

Đối với đối tượng kinh doanh hàng hoá có doanh số chịu thuế hàng năm dưới

1,8 triệu NDT.

Những cá nhân, đơn vị sản xuất, doanh nghiệp không thường xuyên tiến hành các

hoạt động chịu thuế, không kể có doanh số là bao nhiêu cũng được coi là đối tượng

nộp thuế nhỏ.

Trong số các đối tượng nộp thuế thì có tới 80% là đối tượng nộp thuế nhỏ và

20% là đối tượng nộp thuế thông thường.

Khi đối tượng nộp thuế nhỏ có chế độ hạch toán lành mạnh và khả năng hạch

toán chính xác thuế đầu ra, thuế đầu vào, số thuế phải nộp hoàn toàn tuân thủ theo các

chế độ kế toán và những yêu câù của cơ quan thuế thì có thể trở thành đối tượng nộp

thuế thông thường nếu được cơ quan thuế có thẩm quyền chấp thuận.

- Căn cứ và phương pháp tính thuế. Tương ứng với hai nhóm đối tượng nộp thuế,

có hai phương pháp tính thuế khác nhau:

Các đối tượng nộp thuế nhỏ được áp dụng thuế doanh thu với một mức thuế suất

thống nhất là 6% trên doanh thu, không được phép miễn giảm và khấu trừ thuế. Từ

năm 1998, mức thuế này giảm xuống còn 4%.

Các đối tượng nộp thuế thông thường được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.

Số thuế phải nộp sẽ là số chênh lệch giữa số thuế đầu ra sau khi đã khấu trừ thuế đầu

vào cho giai đoạn đó. Nếu như số thuế đầu ra ít hơn hay không đủ để bù đắp thuế đầu

vào thì số thuế đầu vào vượt trội đó được chuyển sang các giai đoạn tiếp theo để bù

đắp.

Đối tượng nộp thuế thông thường mua nông sản miễn thuế, phế liệu và dịch vụ

vận chuyển, không được cung cấp hoá đơn GTGT đặc biệt sẽ được khâú trừ theo tỷ lệ

là 10% theo giá thực mua.

Với việc chỉ quy định một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ, còn

những đối tượng có doanh số chưa đạt tới ngưỡng tối thiểu chịu thuế GTGT thì áp

dụng thuế doanh thu đơn giản đã tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế.

Thuế GTGT của Trung Quốc được áp dụng cả đối với hàng chịu thuế TTĐB, do

đó rất dễ dàng trong quản lý. Đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT đánh trên cả thuế

hải quan và thuế tiêu dùng (nếu có).

- Đối với hàng xuất khẩu.

Theo quy định thuế GTGT năm 1994, những hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất

0% và được hoàn lại số thuế GTGT đã nộp ở khâu đầu vào. Tuy nhiên, sau một thời

gian áp dụng, việc hoàn thuế đã phát sinh một số vấn đề phức tạp như: Số lượng thuế

phải hoàn trả tăng lên nhanh chóng, tốc độ hoàn thuế tăng nhanh hơn cả tốc độ thu

thuế và lượng xuất khẩu, tình trạng gian lận trong việc nhận các khoản hoàn thuế dẫn

đến thất thu nghiêm trọng cho Ngân sách, gây cản trở cho công tác hoàn thuế kịp thời

đối với những doanh nghiệp làm ăn hợp pháp.

Để giải quyết những khó khăn nêu trên, Hội đồng Nhà nước đã quyết định giảm

tỷ lệ hoàn thuế từ 1/7/1995 căn cứ vào gánh nặng thực tế mà các doanh nghiệp xuất

khẩu phải gánh chịu, đồng thời củng cố công tác hành chính về việc hoàn thuế khi

xuất khẩu. Các tỷ lệ hoàn thuế cụ thể được quy định như sau:

3% đối với nông sản và than.

10% cho các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hay chế biến từ nguyên vật

liệu nông nghiệp và các sản phẩm khác chịu thuế suất thuế GTGT 13%.

14% cho các hàng hóa chịu thuế suất thuế GTGT 17%. Đến 1/1/1996, mức hoàn

thuế này được giảm xuống còn 9%.

Việc giảm tỷ lệ hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu đã có tác dụng giảm bớt sự

căng thẳng đối với NSNN.Đồng thời do chú trọng tới việc đảm bảo tốc độ cũng như

độ chính xác trong quá trình hoàn thuế cho nên quyền lợi của các doanh nghiệp xuất

khẩu vẫn được đảm bảo, hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh.

1.2. Inđônêxia

Luật thuế GTGT của inđônêxia được ban hành tháng 4/1985 và được áp dụng

thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn I (từ năm 1985-1989): Trong giai đoạn này thuế GTGT chỉ được áp

dụng cho những hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu với 1 mức thuế suất

là 10%. Khác với luật thuế GTGT của Việt nam, theo luật thuế GTGT của Inđônêxia,

những mặt hàng đã chiụ thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT.

Giai đoạn II (từ năm 1989-1994): Từ 1/4/1989, thuế GTGT được mở rộng tới

người bán buôn và áp dụng đối với 21 loại dịch vụ. Về nguyên tắc, tất cả dịch vụ đều

là đối tượng chịu thuế, song Inđônêxia cũng quy định một số trường hợp được miễn:

dịch vụ y tế, ngân hàng, giáo dục và khách sạn (vì đã có một loại thuế địa phương

đánh vào khách sạn).

Giai đoạn III: Bắt đầu từ tháng 1/1995 thuế GTGT tiếp tục mở rộng đối tượng

nộp thuế tới người bán lẻ. Tuy nhiên, những người bán lẻ có doanh thu dưới một

ngưỡng nhất định không thuộc diện chịu thuế GTGT.

Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT theo từng

giai đoạn như trên là một trong những yếu tố dẫn đến thành công của thuế GTGT ở

nước này.

Một số kinh nghiệm cụ thể được rút ra từ thực tế Inđônêxia:

- Về ảnh hưởng của thuế GTGT tới số thu ngân sách và giá cả: Khi áp dụng thuế

GTGT, giá cả ở Inđônêxia vẫn ở mức ổn định, không tăng; Trong khi đó số thu ngân

sách lại tăng lên. Năm 1989, sau 5 năm áp dụng thuế GTGT, số thu từ thuế GTGT đã

tăng từ 1% lên 3,5% GDP.

- Thuế GTGT của Inđônêxia chỉ có 2 mức thuế suất là 0% và 10%, điều này làm

cho luật thuế GTGT của Inđônêxia rất đơn giản, thuận lợi cho công tác quản lý thuế.

- Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT thành

từng giai đoạn là một yếu tố đảm bảo sự thành công của thuế GTGT ở nước này.

- Do quy định mặt hàng chịu thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT nên

Inđônêxia hầu như không gặp phải khó khăn gì trong việc xử lý đối với các loại hàng

hoá này.

- Quy trình hoàn thuế của Inđônêxia rất rõ ràng và có những chỉ dẫn cụ thể nên

cán bộ thuế hầu như không có cơ hội để trì hoãn hoặc cản trở quá trình hoàn thuế.

- Công tác tuyên truyền cho đối tượng nộp thuế cần hết sức coi trọng. Ban đầu,

Inđônêxia gặp phải rất nhiều phản ứng từ những đối tượng nộp thuế do họ không biết

phải làm gì để được nộp thu. Chỉ khi cơ quan thuế cung cấp những hướng dẫn cụ thể,

rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể thì những phản ứng này mới lắng xuống.

- Tình trạng gian lận GTGT được thực hiện dưới nhiều hình thức, phổ biến nhất

là việc sử dụng hoá đơn giả ở khâu đầu vào nhằm tăng số thuế được khấu trừ. Cũng có

một số trường hợp gian lận được đưa ra toà án, song vẫn không ngăn chặn được hiện

tượng này.

1.3. Singapore

Với nhận thức là việc đánh thuế đối với hàng nhập khẩu không mang tính chất là

một loại thuế đánh trên GTGT nên ở Singapore không dùng tên thuế GTGT như ở các

nước mà gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ. Thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) ở

Singapore được áp dụng vào ngày 1/4/1994. Sự ban hành GST là một phần trong kế

hoạch đổi mới toàn bộ hệ thống thuế của chính phủ Singapore. Điều này cho thấy sự

thay đổi quan trọng trong chính sách quản lý tài chính từ việc chú trọng các loại thuế

trực tiếp đánh trên thu nhập tới các loại thuế gián tiếp đánh vào tiêu dùng. Song song

với việc ban hành GST, thuế suất thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân và thuế

tài sản được giảm xuống, từ đó duy trì được tính cạnh tranh quốc tê của hệ thống thuế

của Singapore .

Để giảm tối đa chi phí tuân thủ và chi phí hành chính liên quan tới việc áp dụng

GST cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, đảm bảo cho hệ thống GST hoạt động

có hiệu quả, GST của Singapore được xây dựng rất đơn giản:

- Thuế đánh vào tiêu dùng trong nước, sử dụng phương pháp khấu trừ trên cơ sở

hoá đơn và áp dụng một mức thuế suất thống nhất là 3%.

- Giảm tối đa các loại hàng hoá và dịch vụ được hưởng thuế suất 0%, chỉ có xuất

khẩu và một số ít dịch vụ quốc tế đặc biệt mới được hưởng thuế suất 0%.

- Giảm tối đa việc miễn giảm thuế cho các loại hàng hoá và dịch vụ.

- Singapore cũng quy định ngưỡng đăng ký thuế: Các doanh nghiệp có cung cấp

chịu thuế hàng năm lớn hơn 1 triệu đôla Singapore đều phải đăng ký GST. Theo quy

định này, chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp (35.000 doanh nghiệp) phải thực

hiện nghĩa vụ đăng ký thuế .

- Khác với một số nước thực hiện miễn thuế GTGT hoặc áp dụng thuế suất 0%

đối với lương thực, thực phẩm, y tế và các nhu yếu phẩm khác nhằm giúp đỡ các hộ

có thu nhập thấp, Singapore cho rằng những ưu đãi như vậy có lợi cho các hộ có thu

nhập cao hơn các hộ có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hệ thống GST của singapore bao

phủ hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ.

Về giá cả: Theo kinh nghiệm của các nước, khi áp dụng GST thường chỉ gây

tăng giá một lần. Lường trước sự tăng giá đó và để hạn chế đến mức thấp nhất sự lợi

dụng của các nhà buôn có thể dẫn đến lạm phát, Chính phủ Singapore đã tiến hành:

- Làm việc với các nhóm tiêu dùng và người bán lẻ để phổ biến với các nhà buôn

và dân chúng về GST và ảnh hưởng của nó tới giá cả hàng hoá và dịch vụ.

- Theo dõi chặt chẽ mọi sự tăng giá và tiến hành điều tra mọi khiếu nại về các

hiện tượng gian lận của các nhà buôn.

- Khuyến khích các nhà buôn không tăng giá bằng toàn bộ mức thuế GST, mà rút

bớt một phần vào giá thành bù đắp bằng sự tiết kiệm tăng lên từ việc giảm thuế thu

nhập công ty khi GST được thực thi.

2. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam

- Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT phải có một

thời gian áp dụng thử thuế GTGT sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi ngành nghề.

- Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các ngành nghề để

khuyến khích một số ngành nghề sản xuất phát triển cũng như hạn chế những ngành

nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân.

- Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề

nếp, đi đến việc chấm dứt không có hóa đơn.

- Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của

chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về mặt nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều

nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt

là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học,

nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan

tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư,

thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng

quy định của pháp luật.

- Hoà nhập chính sách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới.

chương II

tác động của thuế GTGT tới hoạt động

của các doanh nghiệp

I. Khái quát về viện Nghiên cứu tài chính.

1. Khái quát về Viện Nghiên cứu Tài chính.

Viện nghiên cứu tài chính là cơ quan nghiên cứu trực thuộc Bộ Tài Chính, thành

lập ngày 1/11/1961 với tên gọi là Viện khoa học tài chính. Từ năm 1961 đến năm

1995, Viện chỉ có một phòng nghiên cứu và một số bộ phận chức năng với số cán bộ

nghiên cứu dưới 30 người hoạt động chủ yếu trong phạm vi nội bộ Bộ Tài Chính. Năm

1996, Viện đảm nhận thêm việc xuất bản “Tạp chí tài chính”, một trong những cơ

quan ngôn luận của Bộ và do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ mới nên cần phải xắp xếp lại

cơ cấu tổ chức của Viện, hình thành các phòng nghiên cứu với những chức năng rõ

ràng hơn Viện đã đổi tên thành Viện Nghiên cứu Tài chính (NCTC), tên giao dịch

tiếng Anh là “ institute of finance reseach “ viết tắt là IFR.

Viện NCTC là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính, có tư cách pháp nhân,

có con dấu riêng, được mở tài khoản tại KBNN.

Viện nctc có nhiệm vụ nghiên cứu, phân tích, dự báo và thông tin các vấn đề về

kinh tế tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học

trong nghành tài chính và tổ chức đào tạo sau đại học và trên đại học cho các đối

tượng thuộc chuyên ngành tài chính – tiền tệ.

Viện nctc chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, các hoạt động

về chuyên môn thực hiện theo quy chế của Bộ Tài Chính, Bộ Khoa học công nghệ và

môi trường, và Bộ giáo dục và đào tạo.

2. Cơ cấu tổ chức của Viện NCTC

Tổ chức bộ máy của Viện NCTC gồm:

- Ban lãnh đạo gồm có: 1 viện trưởng và 4 phó viện trưởng.

- Các phòng nghiên cứu:

Phòng nghiên cứu tổng hợp.

Phòng nghiên cứu tài chính công.

Phòng nghiên cứu thị trường tài chính.

Phòng nghiên cứu tài chính thế giớivà các quan hệ tài chính quốc tế.

Phòng phân tích và dự báo tài chính.

- Các phòng chức năng:

Phòng quản lý khoa học và đào tạo.

Trung tâm thông tin và dịch vụ tài chính .

Phòng hành chính, tài vụ và quản trị.

Viện nctc có phân viện nctc tại thành phố Hồ chí minh.

3. Viện nctc có một số chức năng, nhiệm vụ chính như sau:

- Nghiên cứu lý luận cơ bản về tài chính, tiền tệ, chính sách tài chính tiền tệ, thị

trường tài chính - tiền tệ trong nước và quốc tế.

- Tham mưu cho lãnh đạo bộ tài chính trong việc hoạch định các chính sách tài

chính và cơ chế quản lý tài chính ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Ngoài ra viện nctc còn có những hoạt động nghiên cứu thực hiện nghiên cứu cơ

bản những vấn đề tài chính - tiền tệ trong nước và quốc tế, làm cơ sở cho việc hoạch

định các chính sách, chiến lược kinh tế- tài chính của Nhà nước, cụ thể như:

Nghiên cứu thực trạng, xu hướng phát triển và các chính sách về tài chính, tiền

tệ của Việt nam, mối quan hệ qua lại với các chính sách kinh tế khác, xây dựng cơ sở

lý luận cho việc hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.

Nghiên cứu thị trường tài chính quốc tế, thực trạng và chính sách tài chính -

tiền tệ của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế và các mối quan hệ tài chính quốc

tế, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và làm cơ sở cho việc hoạch

định chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Tổ chức công tác điều tra thống kê về tình hình tài chính tiền tệ và thực hiện

phân tích đánh giá, dự báo phục vụ cho yêu cầu hoạch định chiến lược và chính sách

tài chính - tiền tệ.

II. Vài nét về quá trình cải cách hệ thống thuế và tiến trình áp dụng thuế

GTGT ở Việt Nam.

1. Cuộc cải cách thuế bước I trong các doanh nghiệp.

1.1. Sự cần thiết tiến hành cuộc cải cách thuế bước I.

Đại hội Đảng VI đã vạch ra con đường đổi mới toàn diện đất nước. Đó là phát

triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền của

dân, do dân và vì dân, phát triển quan hệ giao lưu với các nước trên thế giới. Những

nội dung đổi mới có tác động sâu sắc tới toàn bộ hoạt động kinh tế- xã hội của đất

nước, làm cho mọi cơ chế chính sách quản lý được hình thành trong thời bao cấp bộc

lộ những hạn chế, không phù hợp với đường lối Đại hội VI của Đảng.

Hệ thống thuế trước năm 1990 là hệ thống thuế ban hành năm 1991, đã qua nhiều

lần bổ sung sửa đổi cũng bộc lộ nhiều hạn chế và không còn phù hợp với đặc điểm

tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn mới. Cụ thể:

- Hệ thống thuế áp dụng thời kỳ này là thuế nông nghiệp và thuế công thương

nghiệp ngoài quốc doanh, đối với kinh tế quốc doanh áp dụng chế độ thu quốc doanh.

Do vậy hệ thống thu nói chung và thuế nói riêng chưa thể hiện bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế, chưa khuyến khích các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần

kinh tế cá thể và tư nhân phát triển.

- Tính hệ thống giữa các chính sách thuế chưa chặt chẽ, không bao quát hết các

nguồn thu, thiếu cơ sở pháp lý, mạng tính tuỳ tiện trong vận dụng thực hiện.

Với những hạn chế trên, hệ thống thuế không thích hợp với công cuộc đổi mới,

cần thiết phải tiến hành công cuộc cải cách thuế.

1.2. Mục đích và nội dung của cải cách thuế bước I.

Mục tiêu của cải cách thuế bước I là: Xây dựng một hệ thống thuế phù hợp với

sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Thuế phải thực sự trở thành công cụ

của Nhà nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc điều tiết của chính sách

thuế thể hiện:

- Khuyến khích các thành phần kinh tế hăng hái bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất

kinh doanh, làm ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội.

- Khơi thông việc giao lưu hàng hoá, hình thành các loại thị trường, thúc đẩy

cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.

- Nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, giành vốn đầu tư cho

phát triển sản xuất.

- Mặt khác cải cách thuế 1990 còn hạn chế việc sản xuất kinh doanh những sản

phẩm có hại đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc gia.

Việc đổi mới hệ thống thuế đảm bảo cho thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ

yếu của NSNN. Đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế

trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Đảm bảo hệ thống thuế có

tính pháp luật cao, để đạt được mục tiêu này, nội dung chủ yếu của cải cách thuế bước

I tập trung:

+ Ban hành một hệ thống các luật, pháp lệnh thuế áp dụng thống nhất cho mọi

thành phần kinh tế. Các luật, pháp lệnh thuế ra đời trong thời kỳ này bao gồm:

Thuế sử dụng đất nông nghiệp (áp dụng ngày 1/1/1994)

Thuế doanh thu (áp dụng tháng 10/1990)

Thuế Tiêu thụ đặc biệt (áp dụng từ tháng 10/1990)

Thuế lợi tức (áp dụng ngày 1/1/1991)

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (áp dụng ngày 1/3/1992)

Thuế tài nguyên (áp dụng ngày 30/3/1990)

Thuế thu nhập đối với người thu nhập cao (áp dụng tháng 4/1991)

Thuế nhà đất (áp dụng ngày 15/7/1991)

Thuế sử dụng vốn ngân sách Nhà nước (áp dụng ngày 24/1/1991)

+ Cải tiến hoạt động bộ máy quản lý thuế. Công tác quản lý được tập trung về

cho ngành thuế với việc sát nhập cục thuế quốc doanh và cục thuế công thương nghiệp

thành cục thuế, thành lập Tổng cục thuế trực thuộc Bộ tài chính.

2. Cuộc cải cách thuế bước II trong các doanh nghiệp.

2.1. Sự cần thiết tiến hành cuộc cải cách thuế bước II.

Sau 5 năm thực hiện cải cách thuế bước I, hệ thống thuế nước ta đã có những

chuyển biến cơ bản, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN và trở thành công

cụ điều tiết nền kinh tế tầm vĩ mô. Hệ thống thuế kỳ này đã thực sự phù hợp với tình

hình kinh tế nước ta trong bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường.

Khi kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển, quan hệ kinh tế với các

nước trên thế giới và khu vực ngày càng mở rộng, Việtnam đã trở thành thành viên của

ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN… thì hệ thống thuế cũ đã bắt

đầu bộc lộ những yếu điểm, hạn chế không còn phù hợp với tình hình mới. Cụ thể :

- Thất thu thuế còn lớn, nguyên nhân của tình trạng thất thu do việc tổ chức, quản

lý chưa tốt, bản thân các chính sách thuế còn chứa đựng nhiều yếu tố chính sách xã hội

nên diện miễn giảm thuế còn nhiều, chính sách thuế chưa bao quát hết diện và đối

tượng nộp trong tình hình mới.

- Chính sách thuế còn phân biệt đối xử quá lớn giữa các doanh nghiệp trong nước

và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa thể hiện quan điểm coi trọng đầu tư

trong nước.

- Chính sách thuế chưa thể hiện rõ nét, cụ thể việc khuyến khích doanh nghiệp tự

tích luỹ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng nguổn thu cho Ngân sách.

- Chính sách thuế, lệ phí còn nhiều chỗ bất hợp lý, chưa quản lý một cách chặt

chẽ, còn gây nhiều phiền hà gây trở ngại lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Hệ thống thuế phức tạp, chồng chéo, trùng lắp nhất là thuế doanh thu nên hiệu

quả chưa cao, chi phí hành chính (gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp) cho công

tác thuế quá cao, khoảng 10% so với tổng số thu về thuế, trong khi đó ở các nước khác

nhau trên thế giới là 2%-3%. Hệ thống thuế chưa tương đồng, chưa đảm bảo những

thông lệ quốc tế về thuế đã dẫn đến những vướng mắc trong việc thực hiện tạo kẽ hở

bị lợi dụng trốn thuế và lậu thuế.

Nhằm khắc phục những hạn chế yếu kém trên, để thích ứng với tình hình mới

cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế bước II.

2.2. Mục tiêu và nội dung của cải cách thuế bước II.

- ổn định tỷ lệ động viên thuế phí thu vào NSNN từ 20%-22% GDP. Chính sách

thuế tiến tới tách dần yếu tố chính sách xã hội và áp dụng thống nhất đối với các sản

phẩm hàng hoá, giảm bớt việc miễn thuế.

+ Sắp xếp lại các loại thuế cho phù hợp với tính chất của từng loại thuế, mở rộng

diện thuế TTĐB đánh vào một số hàng cần điều tiết tiêu dùng và áp dụng thống nhất

đối vơí mặt hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.

+ Thu hẹp và đi đến thống nhất thuế đánh vào lợi nhuận doanh nghiệp thương

mại trong nước, áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho thuế lợi tức, thuế thu

nhập cá nhân thay cho thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

+ Đổi mới cơ chế quản lý thuế, chuyển dần từ hình thức thu thuế sang hình thức

đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính thuế và trực tiếp nộp vào Kho bạc Nhà nước.

- Thực hiện cải cách thuế bước II, Quốc hội đã thông qua hai luật thuế mới: Luật

thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp và sửa đổi bổ sung luật thuế TTĐB, luật

thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, pháp lệnh thuế tài nguyên. Trên cơ sở chủ động tạo ra

các điều kiện cho việc áp dụng thuế GTGT trước hết là kế toán, áp dụng chứng từ, hoá

đơn trong việc mua bán sản phẩm dịch vụ.

III. Tình hình thực tế áp dụng thuế GTGT ở các doanh nghiệp Việt nam.

Thuế GTGT ở Việt nam được tiến hành thí điểm từ tháng 9/1993. Qua một thời

gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt nam và chọn lọc những bài học

thành công, thất bại ở một số nước, dự thảo luật được xây dựng từ đầu năm 1995, được

Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 11 thông qua vào giữa tháng 5/1997 đã bắt đầu áp dụng

chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999.

1. Công tác tổ chức thực hiện.

Thực hiện nghị quyết của Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ hai, thông qua ngày

23/12/1992 giao cho Chính phủ thực hiện thí điểm việc áp dụng thuế GTGT để rút

kinh nghiệm xây dựng dự án luật thuế này, Bộ Tài Chính đã được Chính phủ giao cho

triển khai thực hiện thí điểm thuế GTGT.

1.1 Tình hình thực hiện thí điểm.

Trước khi áp dụng luật thuế GTGT (1/1/1999), Bộ Tài Chính đã cùng các doanh

nghiệp tiến hành hai đợt tính thử thuế GTGT ở các doanh nghiệp lớn. Đợt 1 được tiến

hành vào tháng 1/1998, tuy nhiên các số liệu tính toán trong đợt này chưa phản ánh

đúng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cách tính, phương pháp xác

định thuế đầu vào, thuế đầu ra, giá bán chưa có thuế .. ở một số doanh nghiệp còn chưa

chính xác cho nên khó có thể đánh gía đúng những tác động của 2 luật thuế tới doanh

nghiệp. Chính vì vậy, tháng 8/1998, đợt tính thử lần 2 được tiến hành với sự tham gia

của các chuyên gia Bộ Tài Chính nhằm đánh giá chính xác tình hình tài chính của các

tổng công ty khi thực hiện luật thuế GTGT.

Theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính, các doanh nghiệp đã tiến hành tính thử số

thuế GTGT phải nộp so với thuế doanh thu và dự đoán những tác động của nó tới hoạt

động sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Có hai xu hướng đánh giá trái ngược

nhau:

- Những doanh nghiệp có số thuế GTGT phải nộp thấp hơn so với thuế doanh

thu: Trong nhóm này chỉ bao gồm một số ngành đang áp dụng thuế doanh thu với thuế

suất cao như điện (8%),xi măng (10%), da giày (6%), một số sản phẩm công nghiệp

thực phẩm (6%), xổ số kiến thiết (20% - 30%)... và các doanh nghiệp làm hàng xuất

khẩu. Những doanh nghiệp này khi áp dụng thuế GTGT với thuế suất không cao hơn

nhiều so với thuế doanh thu, đồng thời phần thuế đã nộp ở đầu vào khấu trừ lớn;

Những doanh nghiệp xuất khẩu không phải nộp thuế đầu ra, đồng thời lại được hoàn

thuế đầu vào ,do vậy số thuế GTGT phải nộp giảm nhiều so với thuế doanh thu.

Bảng số 1: Một số tổng công ty có số thuế GTGT phải nộp giảm

so với thuế doanh thu.

( Ước tính năm 1999 )

(đơn vị : triệu đồng)

Đơn vị.

Thuế

doanh

thu.

Thuế GTGT

Thuế GTGT

giảm so với thuế

doanh thu

Phải nộp

Được

hoàn

TCT lương thực miền nam

TCT cà phê

TCT da giầy

TCT khoáng sản.

TCT cao su

TCT sữa

TCT xi măng

TCT bưu chính viễn thông

TCT điện lực

0

0

0

0

4.903

61.200

220.678

501.981

188.600

162.290

2.260

22.249

7.300

143.872

31.626

2.932

2.708

16.018

6.900

300.270

136.758

982.721

(Nguồn: Bộ tài chính)

- Những doanh nghiệp gặp khó khăn: Nhóm này bao gồm các doanh nghiệp hiện

đang nộp thuế doanh thu với thuế suất thấp hoặc sản xuất, kinh doanh những mặt hàng

có chi phí vật tư ít, giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn.

Ví dụ

+ Sản phẩm cơ khí thuế suất thuế doanh thu hiện nay là 1% - 2%, khi áp dụng

thuế GTGT với thuế suất 10% thì số thuế GTGT phải nộp tăng gấp 3 lần so với thuế

doanh thu hiện hành.

+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, khách sạn, việc áp dụng thuế GTGT

với thuế suất 20% - mức thuế cao nhất trong biểu thuế GTGT thay cho thuế doanh thu

10% cũng được kiến nghị là quá cao. Kết quả tính thử số thuế phải nộp trong 6 tháng đầu

năm theo luật thuế GTGT so với số thuế doanh thu hiện nay đang nộp ở 40 doanh nghiệp

kinh doanh dịch vụ du lịch, khách sạn cho thấy, đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch

lữ hành, số thuế phải nộp tăng gấp 2 lần, còn đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn,

mức tăng từ 1,6 đến 1,8 lần.

+ Đối với ngành điện tử, tin học: Hiện nay mức thuế doanh thu của ngành điện tử

ở mức 4% và tin học là 1%. Khi áp dụng thuế GTGT thuế suất là 10%. Theo tính toán

của tổng công ty điện tử - tin học, số thuế GTGT phải nộp sẽ tăng lên 2 lần so với số

thuế doanh thu nếu như mọi điều kiện khác không thay đổi. Theo số liệu tính thử cho

năm 1999, số thuế GTGT mà tổng công ty này phải nộp là 32,4 tỷ đồng, so với thuế

doanh thu là 17,2 tỷ.

Bảng số 2: Một số tổng công ty có số thuế GTGT phải nộp tăng

so với thuế doanh thu.

(ước tính năm 1999)

(đơn vị: nghìn đồng)

Tên đơn vị Thuế doanh thu Thuế

GTGT Chênh lệch

TCT vật tư nông nghiệp

TCT xăng dầu

Liên hiệp đường sắt Việt nam

TCT tàu thuỷ

TCT hàng hải

TCT hàng không

TCT dệt may

TCT máy động lực

TCT thép

TCT than

6.342

508.176

46.756

13.110

76.000

120.000

109.900

5.020

62.826

54.000

79.456

1.156.188

70.787

28.604

85.000

158.000

136.400

26.150

229.380

141.000

73.114

648.012

24.031

15.530

9.000

38.000

26.500

21.130

166.554

87.000

(Nguồn: Bộ tài chính)

Việc chuyển từ thuế doanh thu với 11 mức thuế suất (từ 0% tới 30%) sang thuế

GTGT với 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%) tất yếu dẫn đến tình trạng có mặt

hàng chịu thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu, có mặt hàng được hưởng thuế suất thấp

hơn, do đó số thuế doanh nghiệp phải nộp cũng thay đổi. Nhiều trường hợp được nộp

thuế thấp hơn rất phấn khởi trong việc thực hiện luật thuế mới. Ngược lại có không ít

ngành phải nộp thuế cao hơn so với thuế doanh thu đang rất băn khoăn lo lắng, đặc

biệt trong hoàn cảnh hiện nay đã phải đương đầu với bao thách thức, khó khăn như

ngành cơ khí, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống, bảo hiểm, tư vấn vì được khấu

trừ thuế đầu vào không đáng kể.

1.2 Tổ chức thực hiện.

Tổ chức bộ máy chỉ đạo triển khai thực hiện.

Chấp hành chỉ thị số 44 CT/TW ngày 04/11/1998 của Bộ Chính Trị và Nghị

quyết số 18/1998/QH ngày 25/11/1998 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã có

quyết định số 208/1998/QĐ-Ttg ngày 26/10/1998 về việc thành lập ban chỉ đạo triển

khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ do một phó thủ tướng chính phủ làm

trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các bộ: Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ

Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng cục thuế. Bộ phận thường trực của

ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ được đặt tại Bộ Tài

Chính. Tiếp theo Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 41/CT-Ttg ngày 7/12/1999 về

việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới. Căn cứ vào chỉ thị số 41/CT-Ttg của Thủ

tướng Chính phủ, các địa phương đã thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật

thuế mới do một đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh làm trưởng

ban, thành viên là lãnh đạo các sở, ngành có liên quan.

Các ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới đều có chương trình hành

động, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận để chỉ đạo, kiểm tra việc triển

khai thực hiện các luật thuế mới; chỉ đạo việc quản lý thị trường, giá cả, xử lý những

khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới.

Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Sau khi Quốc hội thông qua các luật thuế mới, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ,

các ban soạn thảo đã tích cực chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành các luật thuế

mới và các luật có liên quan như: Luật ngân sách, Luật khuyến khích đầu tư trong

nước ...

Đến ngày 31/12/1998 đã có trên 70 văn bản mang tính pháp quy về cơ bản đã đủ

để hướng dẫn thi hành các luật thuế mới; Các văn bản hướng dẫn đã bảo đảm đúng

luật, phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Tổ chức công tác hướng dẫn, tuyên truyền.

Đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn về mục đích, ý nghĩa, nội dung, tác dụng và quy

trình nghiệp vụ quản lý thuế cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, cho

cán bộ ngành tài chính và ngành thuế, cho các doanh nghiệp quốc doanh, xí nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài và ngoài quốc doanh; Việc tuyên truyền về thuế đã được tiến

hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại

chúng (đài báo trung ương; đài báo địa phương; hệ thống thông tin phường, xã ..), in

sách, phát hành tờ rơi, xây dựng phim truyện, hội thảo.

Ban tư tưởng văn hoá Trung ương đã có văn bản hướng dẫn thực hiện chỉ thị số

44 CT/TW của Bộ Chính Trị, tổ chức tập huấn về thuế cho các tổng biên tập báo, cho

ban tuyên huấn của các bộ, địa phương để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phối

hợp với Bộ Tài Chính soạn thảo thông tin vắn tắt về thuế để làm tài liệu sinh hoạt

trong các chi bộ Đảng.

Tổ chức bộ máy, nghiệp vụ quản lý thuế.

Cấp mã số cho đối tượng nộp thuế: Việc cấp mã số cho đối tượng nộp thuế

nhằm mục đích quản lý số lượng đối tượng nộp thuế và là khâu đầu trong công tác đưa

tin học vào quản lý thuế. Đến hết quý I/1999 đã cấp mã số thuế cho 985.194 cơ sở

kinh doanh, trong đó có 485.517 cơ sở kinh doanh được phép thành lập và có đăng ký

kinh doanh, số còn lại chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cấp mã số để quản lý

thu thuế.

Về hoá đơn, chứng từ : Hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện việc

tính thuế, kê khai thuế, nhất là trong việc tính thuế GTGT. Bộ Tài Chính đã in và cung

cấp đủ hoá đơn cho các địa phương, các cơ sở kinh doanh. Đến hết tháng 3 năm 1999

số lượng hoá đơn đã phát hành là 636.315 quyển (trong đó có 434.400 quyển hoá đơn

GTGT, 201.915 quyển hoá đơn thông thường) và cho gần 700 cơ sở kinh doanh tự in

và sử dụng hoá đơn GTGT. So với năm 1998, việc sử dụng hoá đơn cuả các doanh

nghiệp tăng lên nhiều.

Về công tác tin học phục vụ cho công tác quản lý thuế: Việc đưa tin học vào

công tác quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Ngay từ khi

các luật thuế mới mới được thông qua, ngành thuế đã tiến hành xây dựng chương

trình quản lý thuế bằng máy vi tính và mua sắm, lắp đặt máy vi tính.đến ngày

17/1/1999, các cục thuế đã được trang bị đủ máy tính cần thiết phục vụ cho đối tượng

nộp thuế, nhập tờ khai, kiểm tra tờ khai, in thông báo thuế, lưu trữ dữ liệu về thuế.

Ngành thuế cũng đã tổ chức lại bộ máy quản lý thuế ở cục thuế, chi cục thuế để

phù hợp với nghiệp vụ, kỹ thuật quản lý các loại thuế mới. Đã thành lập phòng thuế

quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu

trừ ở các cục Các chi cục thuế chỉ quản lý các hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT

theo phương pháp trực tiếp. Việc thay đổi tổ chức bộ máy quản lý thuế nêu trên đã

giúp cho ngành thuế nắm chắc trên 90% số thu ở cục thuế đồng thời tạo điều kiện

từng bước đưa công tác tin học vào quản lý thuế.

Ngoài ra ngành thuế còn xây dựng quy trình quản lý các loại thuế mới, quy trình

quản lý thuế đối với cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh. Ngành hải quan cũng đã xây

dựng quy trình tự kê khai, tự tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu.

Nhìn chung, do có sự chỉ đạo sát sao của TW Đảng, Bộ chính trị, uỷ ban thường

vụ Quốc hội, Chính phủ đã cùng với các bộ, các ngành, các địa phương chuẩn bị thực

hiện các luật thuế mới tương đối cụ thể, đồng bộ từ khâu chuẩn bị tổ chức bộ máy chỉ

đạo, xây dựng văn bản, hướng dẫn, tuyên truyền về thuế đến khâu tổ chức quản lý

thuế.

2. Kết quả sau hai năm thực hiện thuế GTGT.

Sau hơn hai năm thực hiện luật thuế GTGT về cơ bản đã đạt được các yêu cầu đề

ra. Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất, kinh doanh giữ được ổn định, bước

đầu đã phát huy được tác dụng.

2.1 Khuyến khích đầu tư , thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.

Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư

xây dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của công

trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như

thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp

mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế; Mặt khác

khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước

chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện

chịu thuế GTGT. Từ khi thực hiện Nghị định số 78/NĐ-CP giảm 50% mức thuế

GTGT đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây

lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn khoảng 1% đến 2%, thấp

hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế.

Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không hoàn thuế

GTGT, nếu thuộc vốn ODA vay thì được hoàn thuế GTGT trong thời gian 3 ngày kể

từ ngày nộp tờ khai.

Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa

phát triển do thuế GTGT chỉ thu thêm giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các

khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với 2 phương pháp tính thuế;

(phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp). Đã khắc phục được nhược

điểm của thuế doanh thu là thuế chồng lên thuế, đã thúc đẩy công nghiệp hoá, hiệp tác

sản xuất nhất là trong lĩnh vực sản xuất cơ khí như sản xuất, lắp ráp xe đạp, xe máy, ô

tô, điện tử .

Trong quá trình thực hiện, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt

hàng, dịch vụ gặp khó khăn do thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu nhưng chưa

chuyển đổi kịp cho phù hợp với cơ chế thuế mới và chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc

khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực như: than, cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí

tiêu dùng), luyện cán, kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, hoá dược,vận tải, bốc

xếp, xây dựng, lắp đặt, khách sạn, ăn uống, du lịch đã được Quốc hội, Chính phủ, Bộ

Tài Chính thực hiện các biện pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn như: giảm mức thuế nhập

khẩu của 569 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế

giảm gần 1000 tỷ đồng, giảm mức thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ ấn định đối với một

số mặt hàng.

Bằng các nội dung chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, luật thuế

GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư và ổn định sản xuất kinh doanh.

Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do số dự án đầu tư trực tiếp của nước

ngoài giảm khoảng 12,5% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó

vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,0%, vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản

phẩm chủ yếu đạt khá so với năm 1998 là: dầu thô tăng 19%, sữa hộp tăng 8,7%,

đường mật tăng 28%, bia tăng 1,5%, giấy bìa tăng 8,8%, xi măng tăng 9,2%, thép cán

tăng 12,9%, điện phát ra tăng 9,7%…

Mặt khác, năm 1999 do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tốc độ tăng

trưởng kinh tế so với những năm trước giảm nhưng cũng đạt 4,8%; giá trị tổng sản

lượng công nghiệp đạt 10,4%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 5,2%. Sự giảm

sút tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được chặn lại, nhịp tăng trưởng kinh tế đã khá lên và

đạt khoảng 6,7%. Sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất

công nghiệp tăng 15,5% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Khu vực ngoài quốc doanh

tăng 18,5%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%; sản xuất nông nghiệp tiếp

tục tăng, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,9% so với kế hoạch, các hoạt động dịch

vụ đã được đẩy mạnh, giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 6%. Tổng mức lưu

chuyển hàng hoá tăng 10%, doanh thu du lịch tăng 14%, doanh thu ngành bưu điện

tăng 8,5%, doanh thu hàng không tăng 14%, vận tải hàng hoá tăng 10,4%, vận tải hành

khách tăng 5,5%.

Nhiều sản phẩm quan trọng trong hai năm có mức tăng khá cả về sản xuất và tiêu

thụ như: Dầu thô, điện, than sạch, xi măng, thép, phân đạm, giấy, hàng may mặc, vải,

đường mật, dầu thực vật… Đặc biệt, nhiều loại sản phẩm cơ khí đã tăng đáng kể do

chất lượng được nâng lên, thị trường tiêu thụ có cải thiện như: Động cơ điện (năm

2000 tăng 12,1%), động cơ điêzel (năm 2000 tăng 9,2%), quạt điện (năm 2000 tăng

17,6%), bơm thuốc trừ sâu (năm 2000 tăng 33,3%), máy công cụ (năm 2000 tăng

21,2%), máy biến thế (năm 2000 tăng 14,5%)…

Hầu hết các mặt hàng có mức tăng trưởng khá là những mặt hàng được giảm

50% mức thuế suất thuế GTGT như: than, thép, các sản phẩm cơ khí (trừ sản phẩm cơ

khí tiêu dùng), giấy in báo, vận tải, du lịch….Đối với sản xuất đường mật, nhà nước

gần như là giảm 100% mức thuế suất thuế GTGT.

Một tác động rõ nét nhất là với thuế suất 0% việc hoàn thuế GTGT đã thiết thực

hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc giảm bớt được giá thành,

tạo điều kiện cạnh tranh thuận lợi hơn trên thương trường quốc tế. Thuế GTGT đánh

vào hàng nhập khẩu đã tích cực góp phần bảo vệ sản xuất nội địa và phát huy tiềm

năng của nội lực kinh tế. Việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư và thuế TNDN

có các mức miễn giảm thuế phải nộp khác nhau trong thời gian đầu cơ sở sản xuất mới

được thành lập đã góp phần khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề,

vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư. Tổng mức đầu tư xã hội năm 1999 bằng 141,1% năm

1998 và năm 2000 bằng 112% năm 1999 đã góp phần bảo đảm sự tăng trưởng về kinh

tế.

2.2 Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu

nền kinh tế.

Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng

mức thuế suất 0%. Một số loại hàng chịu thuế xuất khẩu như: gạo, than đá, sản phẩm

từ gỗ trồng rừng, bàn ghế, sản phẩm chế biến từ kim loại (dây đồng, dây nhôm ..)

trong năm 1999 cũng được giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với các

biện pháp xuất khẩu như : Cho phép các doanh nghiệp sản xuất trong nước được xuất

khẩu trực tiếp, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu... thì việc thực hiện luật thuế GTGT có

tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo quy định của luật

thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số

thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá xuất

khẩu thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh

nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn

trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh

tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền đã hoàn thuế, tăng

vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 1.800 tỷ đồng.

Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng

với sự cố gắng của các ngành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của

cơ chế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của nước ta năm 1999 vẫn tăng so với

năm 1998 là 23,15% và năm 2000 dự kiến là 21,4%. Việc hoàn thuế GTGT đối với

hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ đồng trong đó

những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như

là: cao su 37,2%, cà phê 27,6%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,1%, rau quả 39,6%, giày dép

36,4%, dệt may 15,1%, thủ công mỹ nghệ 48,6%, điện tử 17,5% .

Thuế GTGT đánh vào hàng hoá nhập khẩu đã cùng với thuế nhập khẩu góp phần

bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước, đây là biện pháp hết sức quan trọng. Thực tế

trong năm 1999, Việt nam đã giảm thuế nhập khẩu 569 lần mặt hàng với số thuế giảm

gần 100 tỷ đồng và giảm thuế theo chương trình cắt giảm thuế quan CEPT 3591 dòng

hàng (tính đến năm 1999) trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng.Việc hoàn thuế

GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ

đồng. Trong đó hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu lớn nhất là ở Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh. Những mặt hàng hoàn thuế nhiều như gạo, hạt tiêu, hàng dệt may, giày

dép, hàng điện tử, hàng thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng xuất khẩu

lớn.

Việc thực hiện luật thuế GTGT cùng với các luật thuế mới khác trong năm 1999

góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt: hợp lý hoá và giảm

số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả,

đạt và vượt mức lợi nhuận trung bình của xã hội. Thông qua việc ưu đãi đầu tư các luật

thuế mới đã khuyến khích việc đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo

định hướng phát triển của Nhà nước, thúc đẩy việc chuyên môn hoá, hợp tác hoá.

Không còn đánh trùng thuế như thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất

kinh doanh những hàng hoá mà Việt nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, hải sản,

thủ công mỹ nghệ do được khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3% - 5% khi mua hàng

của nông dân. Trường hợp nông sản, lâm sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT

đầu vào cũng được hoàn thuế.

2.3 Không gây biến động về giá.

Trong hai tháng đầu áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, giá một số mặt hàng như

lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm, dược phẩm… nhích lên so với tháng 12 năm

1998. Nhưng do Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp như: miễn thuế đối với hoạt

động buôn chuyến lương thực, thực phẩm; tăng cường quản lý thị trường, dán tem

hàng hóa, chống buôn lậu, chống hàng giả, thực hiện niêm yết giá… nên giá cả trở lại

ổn định. Trong 2 năm giá cả không có biến động nhiều, cụ thể như: Năm 1999 chỉ số

giá tiêu dùng tăng khoản 0,1% và năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng dự kiến chỉ tăng 1%.

Trong đó giá hàng lương thực, thực phẩm liên tục giảm làm chỉ số giá hàng tiêu dùng

giảm. Giá dầu mỏ trên thế giới tăng từ cuối năm 1999 và tăng cao hơn ở năm 2000 làm

cho giá một số vật tư, nguyên liệu nhập khẩu tăng lên, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất

trong nước.

2.4 Không ảnh hưởng đến kế hoạch thu NSNN.

Trong 2 năm 1999-2000 cơ quan thuế đã phải hoàn trên 9000 tỷ đồng tiền thuế

GTGT nhưng ngành thuế vẫn đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán thu được giao

(năm 1999 đạt 106,8%; năm 2000 đạt 109% và tăng 102% so với năm 1999, góp phần

bảo đảm tỷ lệ tích luỹ tăng lên gấp đôi sau 10 năm, từ 14% GDP năm 1991 lên 27%-

28% GDP vào năm 2000, duy trì được tỷ lệ động viên về thuế, phí, lệ phí trong 10

năm qua là 19,4% GDP. Những con số đó có ý nghĩa rất lớn, vừa góp phần trực tiếp

tạo ra tốc độ tăng trưởng, vừa tạo ra một cách nhìn mới về cách thức và khả năng huy

động nguồn lực phát triển đất nước trong tương lai.

Xét theo địa phương thì có 61/61 tỉnh, thành phố đều hoàn thành và hoàn thành

vượt mức dự toán năm nên khả năng các địa phương được thưởng lớn. Trong đó có

22/61 địa phương hoàn thành toàn diện cả 3 chỉ tiêu chủ yếu là thu từ khu vực doanh

nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc

doanh. Số địa phương hụt thu về thuế GTGT Ngân sách Trung Ương phải bù thêm chỉ

có 14 địa phương và số phải bù cũng không lớn.

Tuy nhiên tỷ lệ động viên thuế và phí trên GDP của năm 1999 thấp (17,6%) chưa

đạt được mức độ động viên theo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là 20% -

21% GDP.

2.5 Tổ chức tốt công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp.

Để từng bước thực hiện chính sách công bằng về thuế, Bộ Tài Chính đã điều

chỉnh từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT, điều

này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới

trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện được các mức thuế suất mới. Do

yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã thúc đẩy các

doanh nghiệp, người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ

sách kế toán, ghi chép quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Trong năm 1999, số

lượng hoá đơn các doanh nghiệp sử dụng tăng gần gấp đôi so với năm 1998 và mức sử

dụng hoá đơn tăng thể hiện sự chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng

hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện chuyển biến một

bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự

chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm

hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh doanh cá thể. Hơn 30.000 tư nhân, công ty trách

nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nộp

thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh doanh cá thể đã thực

hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuế khoán trước đây

sang nộp thuế GTGT theo phương pháp kê khai trực tiếp.

Đối với 6.000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 2.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đã được củng cố, có nhiều tiến bộ so

với các năm trước đây.

Do làm tốt hơn công tác kế toán, hoá đơn chứng từ, các đối tượng nộp thuế đã

chủ động kê khai lập và nộp tờ khai thuế hàng tháng tương đối đầy đủ và đúng thời

hạn. HIện nay đã có thêm khoảng 200.000 hộ cá thể, doanh nghiệp loại lớn và vừa bắt

đầu thực hiện chế độ hoá đơn để được nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và

có căn cứ để thực hiện chế độ tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai và tự nộp thuế vào

Kho bạc Nhà nước, nâng dần được trách nhiệm và nghĩa vụ khai báo, nộp thuế theo

quy định của pháp luật. Chính sách thuế mới đã gắn được quyền lợi và nghĩa vụ của cơ

sở kinh doanh, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ quản lý cơ sở ở nhiều nơi đã

làm thay công việc tính thuế, kê khai nộp thuế của cơ sở kinh doanh. Qua đó cơ quan

thuế có thêm điều kiện để quản lý hoạt động kinh doanh tính thuế qua hệ thống máy vi

tính để tập trung được cán bộ cho công tác đôn đốc, kiểm tra, xử lý vi phạm.

IV. Đánh giá kết quả thực hiện thuế giá trị gia tăng ở việt nam.

1. Những thuận lợi.

Việc triển khai thực hiện luật thuế GTGT đạt được kết quả nêu trên là do:

- Chính phủ, ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của chính phủ, các Bộ, các

ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo triển khai của trung ương Đảng, của Bộ

chính trị, của Quốc hội để tổ chức triển khai thực hiện các luật thuế mói.

Trong quá trình triển khai, ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã

bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá

trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ

khó khăn cho các doanh nghiệp như bổ sung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không

thuộc diện chịu thuế GTGT. Điều chỉnh giảm mức thuế suất cho 18 nhóm hàng hoá,

dịch vụ. Mở rộng việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với phế liệu, đá, cát sỏi mua

của người tự khai thác.

- Tập trung chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo trung ương và địa

phương đã phối hợp khá chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải

thích các luật thuế mới, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các

luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế

mới.

- Các cơ sở kinh doanh và mọi tầng lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình

thực hiện các luật thuế mới do nhận thức được các luật thuế mới tiến bộ hơn và có

nhiều ưu điểm hơn các luật thuế cũ, có quyết tâm cao trong việc thực hiện luật thuế

mới. Đồng thời phản ánh kịp thời những nhược điểm và vướng mắc để Chính phủ kịp

thời điều chỉnh, chỉ đạo thực hiện .

- Sự phấn đấu nỗ lực của ngành thuế và ngành hải quan từ việc chuẩn bị triển

khai đến việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới. Cụ thể :

+ Đã triển khai việc cấp mã số cho 1.105.560 đơn vị. Trong đó: doanh nghiệp

Nhà nước (kể cả đơn vị phụ thuộc) 18.785 đơn vị; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài 2.416 đơn vị; Tổ chức kinh tế của đoàn thể đơn vị, lực lượng vũ trang 7.196 đơn

vị; Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân 36.680 đơn

vị;hợp tác xã 15.970 đơn vị; hộ cá thể 1.024.456 hộ. Qua việc cấp mã số đã nắm chắc

được số lượng đối tượng nộp thuế.

+ In và cung cấp đủ hoá đơn, chứng từ cho các doanh nghiệp. Đến ngày

31/12/1999 số lượng hoá đơn đã phát hành là 1.465.300 quyển (tương ứng với

73.065.000 số hoá đơn). Trong đó có 1.061.300 quyển hoá đơn GTGT fà 404.000

quyển hoá đơn bán hàng thông thường. Ngoài ra còn cho phép gần 1.000 tổng công ty,

công ty tự in hoá đơn để sử dụng.

+ Đã cải tiến quy trình kê khai thuế, nộp thuế theo hướng nâng cao trách nhiệm

của doanh nghiệp trong việc tự tính thuế, tự khai thuế và nộp thuế theo thông báo thuế.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thực hiện chế độ tự kê khai và tính nộp thuế tương

đối đầy đủ, đúng hạn. Đến nay chỉ còn 2%-3% số đối tượng nộp thuế theo phương

pháp kê khai là chưa nộp tờ khai, cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp hàng

tháng.

+ Đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý thuế ở cục thuế, cục hải quan, chi cục

thuế, để đáp ứng được yêu cầu của quản lý thu theo các luật thuế mới.

+ Đã từng bước trang bị máy tính để hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế. Đến

nay cơ bản đã trang bị xong số lượng máy tính cần thiết cho công tác quản lý thuế ở

các cục thuế.

Bên cạnh những thuận lợi về công tác tổ chức, chuẩn bị nêu trên việc thực hiện

thuế GTGT đạt được những kết quả như trên còn do chính những ưu điểm của nó.

- Thuế GTGT tránh được hiện tượng thuế chồng chéo, phù hợp với nền kinh tế

sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường: thuế GTGT không tính trên toàn bộ

doanh thu mà chỉ tính trên phần giá trị sản phẩm hoặc dịch vụ do đơn vị sản xuất kinh

doanh mới tạo ra chưa bị tính thuế. Như vậy thuế GTGT đã khắc phục được hiện

tượng thuế chồng lên thuế, một nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu trước đây.

- Thuế GTGT mang tính trung lập đối với các nghiệp vụ dịch chuyển sản phẩm

và dịch vụ. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó không gây ra bất cứ ảnh hưởng

nào đến hoạt động của các doanh nghiệp nếu Chính phủ không muốn thế.Trong thuế

doanh thu người ta có khuynh hướng tối thiểu hoá số tiền thuế phải nộp bằng cách hội

nhập các xí nghiệp theo chiều dọc. Ví dụ xí nghiệp sợi có thể kết hợp với xí nghiệp

dệt, xí nghiệp may … Với sự hội nhập này không làm phát sinh doanh thu khi chuyển

sản phẩm từ khâu trước sang khâu sau. Chính phủ không muốn các doanh nghiệp hội

nhập lại với nhau nhưng bản thân loại thuế trên đã tạo ra sự hội nhập ấy. Rõ ràng trong

thuế doanh thu với cơ chế như vậy nó không mang tính trung lập.

Thuế GTGT không hề khuyến khích các doanh nghiệp hội nhập như trên, bởi các

doanh nghiệp trong trường hợp hội nhập và không hội nhập thì tổng số thuế phải nộp

là như nhau. Như vậy có thể khẳng định rằng thuế GTGT là loại thuế mang tính trung

lập.

- Hàng nhập khẩu được hoàn thuế GTGT, giảm được chi phí, có thể cạnh tranh

thuận lợi trên thị trường quốc tế, hàng nhập sẽ có tác dụng thiết thực bảo vệ sản xuất

kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu. Bên cạnh

đó thuế GTGT cũng góp phần khuyến khích xuất khẩu do thuế suất thuế GTGT đối

với hàng hoá xuất khẩu bằng không, tức là toàn bộ thuế GTGT đầu vào sẽ được hoàn

lại nên nó có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hoá xuất khẩu có

thể cạnh tranh dễ dàng hơn trên thị trường quốc tế.

- Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả

cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã buộc

người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực

của hoạt động mua bán, khắc phục tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán

để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ thường xảy ra trốn lậu thuế vì người tiêu dùng cuối

cùng khi mua hàng không cần đòi hoá đơn. Do đó thay vì phải quản lý một số lượng

lớn đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế chỉ cần quản lý một số ít đối tượng nộp thuế

trong khâu bán lẻ. Hơn nữa, ở khâu bán lẻ giá trị tăng thêm thường không lớn nên số

thuế thu ở khâu này cũng không nhiều.

- Luật thuế GTGT bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tạo

điều kiện cho các cơ quan quản lý Nhà nước tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt

động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: thuế GTGT góp phần tăng cường

công tác hạch toán kế toán, thúc đẩy việc mua bán hàng hoá phải có đầy đủ chứng từ

hợp lệ theo luật định. Sự chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp

thương mại, côngt ty trách nhiệm hữu hạn… Việc đơn vị kinh doanh tự kê khai, tính

thuế giúp cho cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian, công sức vào việc kiểm tra,

xử lý các vi phạm. Vì vậy thuế GTGT từng bước góp phần nâng cao tính tự nguyện, tự

giác của đối tượng kinh doanh trong việc thực hiện nghĩa vụ khai báo nộp thuế của

mình.

- Việc ban hành luật thuế GTGT gắn với việc sửa đổi, bổ sung luật thuế TTĐB,

luật thuế xuất nhập khẩu, hệ thống thuế ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, thu

hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.

2. Những khó khăn.

Qua hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, có thể khẳng định rằng luật thuế

GTGT đang đi vào thực tiễn. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế nước ta luôn vận

động và phát triển, có nhiều vấn đề khi xây dựng luật và các văn bản dưới luật về thuế

GTGT, các cơ quan chức năng chưa thể dự kiến hết tác động nảy sinh trong thực tế, do

đó khi áp dụng luật thuế mới khó có thể tránh khỏi những phát sinh vướng mắc.

Thuế GTGT là loại thuế mới lần đầu tiên đưa vào áp dụng tại Việt nam trong đó

có những quy định khác với luật thuế doanh thu và không hoàn toàn giống như thuế

GTGT của các nước khác. Mặt khác việc chuyển từ thuế doanh thu sang thuế GTGT

không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về kỹ thuật nghiệp vụ mà là sự thay đổi cơ bản về

nội dung chính sách và biện pháp tổ chức quản lý thuế, nhằm làm cho chính sách thuế

phù hợp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng CNH–HĐH, thích ứng

với yêu cầu hội nhập trong khu vực và quốc tế. Sự thay đổi như vậy sẽ không dễ dàng

và không tránh khỏi những khó khăn. Cụ thể:

Thuế suất thuế GTGT:

Đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất chuyển sang áp dụng thuế GTGT có

4 mức thuế suất vì vậy không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp

giữa hai loại thuế: Những sản phẩm trước đây chịu thuế doanh thu với mức thấp 0,5%,

1%, 2% nay lên 10% trên gía chưa có thuế mặc dù được khấu trừ thuế đầu vào nhưng

số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trước kia rất nhiều. Vì

vậy khi áp dụng thuế GTGT một số ngành, một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn

về tài chính, có doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ.

Từ trước đến nay các doanh nghiệp thương mại chỉ phải nộp thuế doanh thu từ

1%- 2% (trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dưới 24 chỗ có mức thuế suất

4%), nay áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10% cho rằng như vậy là quá cao và

nhiều doanh nghiệp đã bị thua lỗ trầm trọng.

Để giải quyết khó khăn kịp thời cho các doanh nghiệp, chính phủ đã ra Nghị định

số 102/1998/NĐ-CP tạm giảm 50% mức thuế GTGT đối với 7 mặt hàng, số sản phẩm

cơ bản, khách sạn, du lịch, ăn uống, hàng hóa chịu thuế TTĐB, đặc biệt cho các doanh

nghiệp thương mại.

Việc xem xét giảm thuế suất GTGT phải được cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo sự

công bằng về nghĩa vụ nộp giữa các thành phần kinh tế, không ảnh hưởng lớn đến số

thu Ngân sách.

Giải pháp xử lý tạm giảm 50% thuế suất ở một số nhóm hàng hoá cụ thể là rất

thụ động và chưa hợp lý, khi xét giảm không đảm bảo chính xác, tạo sự bất bình đẳng

giữa các doanh nghiệp. Mặt khác, việc giảm thuế ở khâu này có nghĩa là tăng thuế ở

khâu tiếp theo vì thuế đầu vào ở khâu tiếp theo sẽ giảm đi, thuế đầu ra sẽ tăng lên nếu

không được điều chỉnh giảm tương ứng. Nếu điều chỉnh tiếp thuế đầu ra ở khâu tiếp

theo thì ảnh hưởng của nó lại tiếp tục lan toả tới khâu tiếp sau nữa. Nhiều doanh

nghiệp phản ánh số thuế GTGT mới chỉ thực hiện trong thời gian ngắn. Do đó không

thể lấy mức nộp thuế doanh thu để so sánh với mức nộp thuế GTGT vì có thể đến thời

điểm hiện tại mức thuế suất thuế doanh thu không còn phù hợp.

Thuế GTGT hàng nhập khẩu:

- Thuế suất thuế GTGT hàng nhập khẩu

Việc tính thuế GTGT hàng nhập khẩu để bảo hộ kinh doanh trong nước là chủ

trương đúng đắn, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế một cách vững chắc, không

ảnh hưởng đến nguồn thu trong nước khi Việt nam gia nhập vào các tổ chức quốc tế.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thuế GTGT hàng nhập khẩu các cơ sở kinh doanh

gặp rất nhiều khó khăn vì mức thuế suất một số mặt hàng còn cao, gây ảnh hưởng

không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hàng nhập khẩu chiếm tỷ

trọng lớn.

Ngành điện tử tin học là một ngành còn non trẻ, lượng máy lắp ráp trong nước

còn rất hạn chế đòi hỏi cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa, nâng cao sản lượng để có thể

đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Thực tế việc lắp ráp hoàn toàn nằm trong

khả năng của các doanh nghiệp trong nước với giá bán rất hợp lý, chế độ bảo hành tiện

lợi nhanh chóng. Hiện nay thuế suất thuế GTGT linh kiện nhập khẩu là 10%.

áp dụng bằng mức nhập khẩu máy nguyên chiếc là không hợp lý. Thuế suất cao

chưa hẳn để bảo hộ hàng trong nước vì với năng lực sản xuất và trình độ công nghệ

hiện nay, Việt nam chưa thể sản xuất những linh kiện máy tính chứ chưa nói đến máy

tính nguyên chiếc. Với mức thuế suất như vậy ngành tin học rất khó phát triển. Nguy

hiểm hơn, thuế suất cao khiến hàng nhập lậu gia tăng vì đặc điểm của linh kiện điện tử

và máy tính nguyên chiếc cùng một lúc mức thuế suất sẽ không khuyến khích sự phát

triển của ngành tin học.

- Thời gian nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu.

Theo quy định hiện hành, nếu đơn vị nhập nguyên liệu, máy móc thiết bị về sản

xuất, khi về đến cảng phải nộp ngay thuế GTGT hàng nhập khẩu trong vòng 30 ngày

kể từ khi có thông báo cuả hải quan. Thuế GTGT là thuế gián thu đánh trên giá trị tăng

thêm, ở đây chưa xuất hiện một giá trị tăng thêm nào đã phải nộp thuế GTGT là trái

với bản chất của thuế GTGT. Mặc dù số thuế này sau này sẽ được khấu trừ hoặc hoàn

trả nhưng doanh nghiệp hoạt động với 80% là vốn vay. Như vậy, ngoài việc đi vay để

mua máy móc thiết bị các doanh nghiệp còn phải đi vay để nộp thuế GTGT. Điều này

không phù hợp với cơ chế tín dụng hiện hành và không phù hợp với tình hình thực tế.

Trường hợp Công ty liên doanh Đoàn kết quốc tế trao đổi hàng hoá với Lào được

phía bạn thanh toán bằng 4.000 xe máy trị giá 4.950.000 USD. Khi nhập hàng qua cửa

khẩu phải nộp 495.000 USD thuế GTGT, tương đương 7 tỷ VNĐ. Do thiếu vốn nên

Công ty phải vay vốn Ngân hàng với lãi suất 1,2%/tháng để nộp thuế GTGT. Nhưng 3

tháng sau mới được khấu trừ do đó bị mất 250 triệu đồng trả lãi vay, dẫn đến thương

vụ làm ăn này hầu như không có lãi.

Hàng hoá nhập khẩu về chưa gia tăng giá trị mà đã phải đóng thuế GTGT là điều

chưa hợp lý vì GTGT trước đó người bán đã đóng ở nước họ rồi.

Về phương pháp tính thuế.

Việc duy trì hai phương pháp tính thuế cùng với một biểu thuế có các mức thuế

suất khác nhau đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khi họ áp dụng

các phương pháp tính thuế khác nhau.

Nếu gọi :

T1: là số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ ;

T2: là số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp;

tr : là thuế suất thuế GTGT đầu ra;

tv: là thuế suất thuế GTGT đầu vào;

Gr: là giá hàng hoá, dịch vụ bán ra;

Gv: là giá hàng hoá, dịch vụ mua vào;

GTGT: là giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ.

Thì:

T1 = Gr x tr - Gv x tv

= ( Gv + GTGT)tr - Gv x tv

= Gv x tv + GTGT x tr - Gv x tv

= GTGT x tr + Gv( tr - tv )

= T2+ Gv ( tr - tv)

Nếu : tr > tv T1 > T2

Tr = tv T1 = T2

Tr < tv T1 < T2

Đối với các đơn vị chế biến thực phẩm có sử dụng nguyên vật liệu đầu vào là

nông sản, thuế suất thuế GTGT đầu ra thường ở mức 10%, trong khi nguyên vật liệu

đầu vào lại có thuế suất là 5% (hoặc được khấu trừ khống 5% nếu có bảng kê). Chính

vì vậy, những đối tượng này khi áp dụng thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu

trừ sẽ có số thuế gía trị gia tăng phải nộp nhiều hơn nếu họ áp dụng thuế giá trị gia

tăng theo phương pháp trực tiếp.

Vấn đề khấu trừ thuế.

Theo luật thuế GTGT có hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn phù hợp

với hai phương pháp tính thuế. Mỗi phương pháp được xác định thuế GTGT đầu vào

được khấu trừ hoặc không được khấu trừ là khác nhau. Vì vậy vấn đề khấu trừ sẽ

nghiên cứu theo hai phương pháp nộp thuế.

- Đối với các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ :

Các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được phép khấu trừ đầu vào. Số

tiền thuế đầu vào được ghi trên hoá đơn của hàng hoá dịch vụ được mua vào trong

tháng không phân biệt đã xuất dùng hay chưa xuất dùng. Hàng tháng các cơ sở sản

xuất kinh doanh lập bảng kê khai hàng hoá, dịch vụ mua vào và thuế GTGT đầu vào

trong tháng cùng với số thuế của hàng hoá, dịch vụ bán ra để xác định số thuế GTGT

phải nộp của cơ sở mình trong tháng.

Việc xem xét khấu trừ khống sẽ không khuyến khích các cơ sở mua phế liệu, sản

phẩm nông, lâm, sản về sản xuất kinh doanh thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ.

Ngoài ra việc tự kê khai để tính thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tốn nhiều công sức

và tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp khai man, trốn lậu thuế.

- Đối với các doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp.

Tất cả các doanh nghiệp, các hộ cá thể là đối tượng nộp thuế GTGT. Trong đó có

1,2 triệu hộ cá thể, tư nhân kinh doanh thì có khoảng 80% là chưa sử dụng hoá đơn

hoặc đã dùng hoá đơn nhưng chưa đúng quy định, chưa hạch toán kế toán đầy đủ vì

vậy đối với những hộ kinh doanh này phải áp dụng theo phương pháp trực tiếp trên

GTGT. Tính thuế theo phương pháp trực tiếp có 3 cách thu:

+ Thu theo kê khai đầy đủ: Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ chế độ

lập hoá đơn, chứng từ theo quy định, giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào và

doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ đều có hoá đơn, chứng từ hợp lệ.

+ Thu theo kê khai doanh số bán: Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện chế độ lập

hoá đơn, chứng từ khi bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không đủ hoá đơn, chứng từ đối

với hàng hoá, dịch vụ mua vào.

+ Thu khoán: Đối với hộ kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán, chế độ độc

lập hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.

Trong đó thu khoán là hình thức thu chủ yếu. Thuế khoán thường phụ thuộc vào

sự đánh giá chủ quan của thuế vì vậy không tránh khỏi tiêu cực, không công bằng giữa

các cơ sở sản xuất. Thực tế các cơ sở nộp thuế thu khoán nên việc sử dụng hoá đơn

bán hàng rất tuỳ tiện, khó có thể quản lý được.

Các cơ sở nộp thuế theo phương pháp trực tiếp gặp khó khăn:

Không được khấu trừ thuế: Theo phương pháp trực tiếp

Số thuế phải nộp

=

(Doanh số bán- giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ

mua vào tương ứng) x thuế suất

Trong số liệu này không bao gồm chi phí tài sản cố định. Như vậy, những cơ sở

nộp thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào.

Gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nộp thuế theo

phương pháp khấu trừ:

- Không được khấu trừ thuế đối với tất cả các chi phí đầu vào gồm nguyên liệu,

tài sản cố định … Vì vậy cùng với một loại hình sản xuất kinh doanh nộp thuế theo

phương pháp trực tiếp chi phí sản xuất sẽ cao hơn cơ sở nộp thuế theo phương pháp

khấu trừ (nếu coi các chi phí khác là bằng nhau). Đứng về mặt nào đó thì sẽ gặp khó

khăn trong cạnh tranh với các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.

- Theo quy định của luật thuế GTGT thì các doanh nghiệp mua hàng hoá, dịch vụ

của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp trực tiếp sẽ không được khấu trừ thuế đầu

vào hoặc được khấu trừ với tỷ lệ thấp. Do đó tất yếu dẫn đến tình trạng các doanh

nghiệp hạn chế mua hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các cơ sở

này có thể bị thu hẹp.

Hoá đơn thuế GTGT bất hợp pháp lưu hành trên thị trường:

Để đi sâu vào tìm hiểu hoá đơn bất hợp pháp lưu hành trên thị trường trước tiên

tìm hiểu về hoá đơn hợp pháp.

- Hoá đơn hợp pháp :

Tất cả các tổ chức, cá nhân, sản xuất kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi thành phần

kinh tế khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thu tiền của người tiêu dùng đều phải lập

và giao hoá đơn hợp pháp. Trường hợp mọi người kinh doanh không giao hoá đơn sẽ

được xem là hành động trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Hoá đơn là căn

cứ quan trọng để doanh nghiệp xác định được doanh thu, tiền thuế đầu ra, đầu vào

phục vụ việc tính thuế, kê khai thuế đúng đắn. Đối với người tiêu dùng, hoá đơn là

bằng chứng về xuất xứ của hàng hoá để người tiêu dùng yêu cầu người kinh doanh

thực hiện các chế độ hậu mãi, bảo hành (nếu có).

Hoá đơn hợp pháp là tờ hóa đơn do Tổng cục thuế phát hành hoặc Tổng cục thuế

uỷ quyền theo quy định, phải do người bán hàng lập và giao cho người mua hàng hoá,

dịch vụ phải là bản gốc của liên thứ hai (liên giao cho khách hàng). Theo đó các nội

dung quy định phải được ghi đầy đủ, không được tẩy xoá, sửa chữa, tờ hoá đơn phải

nguyên vẹn không được rách hoặc nhàu nát.

- Các loại hoá đơn bất hợp pháp lưu hành trên thị trường: Hiện nay trên thị

trường xuất hiện 4 loại hoá đơn bất hợp pháp:

+ Loại thứ nhất: Không sử dụng loại hoá đơn theo quy chế của luật thuế.

+ Loại hoá đơn giả 100% do bọn in lậu lưu hành trên thị trường, tuy vậy bằng

mắt thường cũng khó phân biệt.

+ Loại thứ ba: Là loại hoá đơn thật hoàn toàn nhưng ký hiệu và mã số thuế trên

hóa đơn là giả, những cán bộ các đơn vị cần hoá đơn để thanh toán thường gặp phải

hoá đơn này tại thị trường.

+ Loại thứ tư: Hoá đơn ghi tổng giá trị hàng hoá không khớp giữa các bên của

hoá đơn, liên giao cho khách hàng cao hơn rất nhiều so với bên lưu. Loại gian lận này

sẽ giúp các doanh nghiệp mua hàng được khấu trừ thuế cao hơn so với khấu trừ trên

giá trị thật của hàng hoá.

Qua kiểm tra đối chiếu hoá đơn đầu vào của công ty đường Biên hòa (Đồng nai)

cơ quan thuế phát hiện trong số 22 tờ hoá đơn của cơ sở kinh doanh bột mỳ Bội ký xã

Bình MInh, huyện Thống nhất xuất cho công ty đường Biên hoà thì có tới 20 tờ ghi số

tiền chênh lệch 1.3 tỷ VND (giữa liên lưu và liên giao cho khách hàng để thanh toán).

Những tác hại của hoá đơn giả đối với doanh nghiệp thương mại.

- Tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp thương mại. Cơ

sở nào sử dụng hoá đơn giả không bị phát hiện sẽ phải nộp thuế ít hơn (được khấu trừ

khống nhiều hơn thực tế, thuế đầu ra nộp ít hơn) những cơ sở thực hiện nghiêm túc chế

độ hoá đơn chứng từ nên có thể hạ giá sản phẩm vẫn đảm bảo có lãi. Vì vậy có thể

đánh bại đối thủ cạnh tranh bằng chính sách giá.

- Khi doanh nghiệp sử dụng hoá đơn bất hợp pháp do chủ quan hay khách quan

thì ngành thuế đều không khấu trừ thuế GTGT, không cho tính hoá đơn này vào chi

phí hợp lý khi tính thuế TNDN, đồng thời bị phạt hành chính tối đa 2 triệu VND. Khi

không được tính là khoản chi hợp lý thì phải chi từ quỹ trích từ lợi nhuận sau thuế.

Như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận để lại cho cơ sở, điều này không một cơ sở nào

mong muốn. Tác hại của hoá đơn bất hợp pháp gây ra cho nền kinh tế cũng như đối

với bản thân doanh nghiệp hết sức to lớn. Theo quy định các tổ chức, các cá nhân bị vi

phạm hành chính tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, trường hợp vi phạm nghiêm

trọng có thể bị truy cứu hình sự theo quy định của pháp luật.

Tuy vậy trên thực tế hiện tượng sử dụng hoá đơn bất hợp pháp vẫn xảy ra vì:

- Sự quản lý hoá đơn, chứng từ của các cơ sở còn rất lỏng lẻo, nhiều chủ cơ sở

chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc quản lý hoá đơn.

- Sự phát hiện hoá đơn bất hợp pháp của cơ quan thuế còn chưa kịp thời. Khi

phát hiện được còn xử phạt quá nhẹ, do đó đối tượng sử dụng không sợ.

- Một số cá nhân, cơ sở còn chạy theo lợi nhuận, kiếm lợi trước mắt,không quan

tâm tới tác hại do hoá đơn bất hợp pháp gây ra.

Về vấn đề hoàn thuế:

Các nước tiên tiến trên thế giới đã áp dụng thuế GTGT từ lâu, có kinh nghiệm thì

việc hoàn thuế không có gì khó khăn, vướng mắc vì đã đi vào nề nếp, nhưng việc hoàn

thuế đối với các nước phát triển áp dụng thuế GTGT là một vấn đề khó khăn cho Nhà

nước. Thường các quốc gia chỉ chủ trương chuyển số thuế này sang kỳ năm sau. Đối

với Việt nam thì luật thuế GTGT các cơ sở kinh doanh có số thuế đã nộp đầu vào lớn

hơn số thuế phải nộp đầu ra liên tục trong 3 tháng, đơn vị có thể đề nghị hoàn thuế

GTGT đã nộp.

Để được hoàn thuế cơ sở phải lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế bao gồm:

- Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT đầu vào đã nộp.

- Bảng kê tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế phát sinh đầu vào được khấu

trừ, số thuế đã nộp, số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra đề nghị hoàn lại.

- Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác

định thuế GTGT đầu vào, đầu ra.

Thủ tục, trình tự giải quyết hoàn thuế cơ quan thuế các cấp có trách nhiệm hướng

dẫn đối tượng được hoàn thuế lập đúng, đủ các hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo quy định

và chịu trách nhiệm kiểm tra, xác định số thuế hoàn trả cho cơ sở kinh doanh, ra quyết

định hoàn thuế cho cơ sở gửi ra kho bạc, kho bạc có trách nhiệm làm thủ tục hoàn thuế

cho cơ sở trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của cơ quan thuế.

Hồ sơ tưởng chừng như rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại nhiều lần

mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Hiện nay tại cục thuế Hà nội, một hồ sơ hoàn thuế

phải đủ 8 chữ ký việc hoàn thuế mới được thực hiện.

Ví dụ: Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội có doanh số xuất

khẩu chiếm tỷ trọng lớn. Sau đây là bảng số liệu hoàn thuế từng tháng của Công ty. Số

thuế GTGT phải nộp là số âm (-) vì vậy số thuế được hoàn từng tháng. Vì việc hoàn

thuế phức tạp, Công ty phải cử riêng một nhân viên kế toán chuyên làm nhiệm vụ tính

thuế GTGT đầu vào và đầu ra và chịu trách nhiệm hoàn thuế. Theo quy trình thu thuế

mới không có cán bộ xuống cơ sở kiểm tra mà Công ty phải hoàn tất thủ tục hoàn thuế.

Bảng số 3: Bảng tổng hợp thuế GTGT được hoàn lại (năm 1999)

(Đơn vị: đồng)

Tháng Thuế GTGT đầu vào

được khấu trừ.

Thuế GTGT đầu ra. Thuế GTGT phải

nộp.

Tháng 1 11.076.558 8.544.065 -2.532.493

Tháng 2 301.299.841 234.897.768 -66.402.073

Tháng 3 816.659.478 234.897.768 -581.761.710

Tháng 4 705.362.578 204.317.256 -501.045.322

Tháng 5 732.091.081 83.254.010 -648.837.071

Tháng 6 1.392.966 735.463.576 -657.344.390

Tổng cộng 3.959.297.502 1.501.374.443 -2.457.932.059

( Nguồn số liệu: Phòng kế toán- Công ty xuất nhập khẩu Hà nội.)

Do trình độ cán bộ thuế có hạn nên hướng dẫn công ty chưa đầy đủ, phải mất

nhiều thời gian, đi lại mất nhiều lần mới hoàn tất thủ tục hoàn thuế. Công ty phải dịch

hợp đồng tiếng nước ngoài ra tiếng Việt nam để phục vụ riêng công tác hoàn thuế (vì

không cơ quan nào đòi hỏi bản dịch). Mặt khác, do luật thuế còn mới nên cả cán bộ

thuế cũng như cán bộ doanh nghiệp cũng chưa nắm bắt kịp thời.

Chính vì thủ tục hoàn thuế quá mất thời gian nên trong năm 1999, cả nước mới

hoàn thuế 236 tỷ đồng trên tổng số 350 tỷ đồng xin hoàn thuế của 800 đơn vị xin hoàn

thuế. Các cơ quan thuế cũng rất dè dặt trong việc hoàn thuế vì sợ số liệu hoàn thuế

không chính xác. Một số cục trưởng cục thuế chưa mạnh dạn giải quyết theo thẩm

quyền quy định về hoàn thuế GTGT, một vài cục trưởng còn sợ trách nhiệm.

Việc hoàn thuế theo luật thuế GTGT chỉ được thực hiện trong một thời gian nhất

định (tháng, quý, năm, thời vụ), các cơ sở kinh doanh đi vay để nộp thuế và phải trả lãi

vay, làm cho chi phí của doanh nghiệp tăng cao, hiệu quả kinh doanh giảm. Với tư

cách quy định hoàn thuế hiện hành sẽ làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn.

3. Nguyên nhân.

Nguyên nhân của những khó khăn trên là do:

Về quan điểm, tư tưởng.

* Cơ quan thuế

- Có xu hướng đơn giản hoá vấn đề, muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang

thuế GTGT một cách dễ dàng, thuận chiều vì chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm của

các nước, không cần giải pháp xử lý cần thiết mang tính quá độ cho giai đoạn chuyển

tiếp.

- Có quan điểm cho rằng khi thi hành thuế GTGT mặc nhiên sẽ thúc đẩy việc

thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn mà lại bỏ qua một đặc điểm quan trọng của

thuế GTGT ở nước ta chỉ là trường hợp nộp thuế GTGT theo chế độ khấu trừ người ta

mới quan tâm đến vấn đề này, còn đối với trường hợp nộp thuế theo phương pháp trực

tiếp và mua hàng để tiêu dùng thì thuế GTGT chưa phát huy được tác dụng tích cực,

chưa tạo cho mọi người ý thức sử dụng hoá đơn… hơn nữa việc lập sổ sách chứng từ

chủ yếu xuất phát từ lợi ích của cơ quan thuế chứ không phải của người nộp thuế nên

chắc chắn họ sẽ tìm cách trì hoãn để trốn lậu thuế.

* Doanh nghiệp

- Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, việc chấp hành chế độ kế toán, hoá

đơn chứng từ chưa cao sẽ là khó khăn lớn cho việc áp dụng thuế GTGT. Các doanh

nghiệp và người tiêu dùng đều chưa quen với tập quán bán có xuất hóa đơn, ghi chép

và lưu giữ sổ sách, hoá đơn chứng từ đầy đủ. Trong thời gian đầu chưa thể thay đổi

hoàn toàn thói quen trên nên việc thực hiện thuế GTGT còn nhiều khó khăn.

- Các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức rõ bản chất của thuế GTGT là thuế gián

thu đánh vào người tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ là trung gian thu thuế hộ Nhà nước.

Ngoài ra, nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT thì sẽ còn đượckhấu trừ các khoản thuế

đầu vào, không những làm giảm giá thành mà còn tạo ra “ sân chơi “ bình đẳng giữa

các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế.

- Ngoài ra, các doanh nghiệp còn chưa chịu đi sâu tìm hiểu luật thuế để thực hiện

mà còn trông chờ ỷ lại được phổ biến đến tận nơi. Vài tháng trước khi luật thuế GTGT

có hiệu lực, một số doanh nghiệp nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh có tư tưởng mong

hoãn thi hành luật thuế, nhưng không được giải thích triệt để nên các doanh nghiệp

này chưa tích cực nghiên cứu, tìm hiểu luật thuế, khi áp dụng không tránh khỏi lúng

túng.

Cơ chế chính sách.

Việc quy định 3 mức thuế suất (không kể mức thuế suất 0%) được coi là bước

quá độ cho việc chuyển từ 11 mức thuế suất doanh thu sang áp dụng thuế GTGT, song

điều này không chỉ gây ra những tác động méo mó tới nền kinh tế mà còn làm phức

tạp trong công tác quản lý thuế vì khó phân định giữa các hàng hóa dịch vụ có mức

thuế suất khác nhau.

Do quy định nhiều trường hợp không chịu thuế GTGT dẫn đến tình trạng gián

đoạn trong thu nộp thuế, gây ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp

cũng như tới toàn bộ nền kinh tế. Thuế GTGT là một loạithuế gián thu, đánh vào

người tiêu dùng cuối cùng, doanh nghiệp chỉ là người thu hộ thuế cho Nhà nước cho

nên về danh nghĩa là miễn giảm thuế cho doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không

được gì cả. Về thực chất nếu như một mặt hàng hay dịch vụ nào đó được miễn thuế có

nghĩa là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó sẽ không phải tính thuế khi bán nhưng

họ cũng không có quyền khấu trừ thuế đầu vào đã nộp của hàng hoá, dịch vụ đó.

Tình hình sản xuất kinh doanh trong nước.

Đến nay, một số doanh nghiệp, ngành nghề tiếp tục đề nghị điều chỉnh thuế suất

thuế GTGT do gặp khó khăn. trên thực tế, trước khi áp dụng thuế GTGT, theo tài liệu

của ban chỉ đạo trung ương đổi mới doanh nghiệp thì có gần 40% doanh nghiệp Nhà

nước đang gặp khó khăn. Điển hình là các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí, sản xuất

sắt thép, sản xuất than, một số doanh nghiệp sản xuất hoá chất cơ bản, giấy, vật liệu

xây dựng, một số doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp.

Công tác tuyên truyền thực hiện.

Công tác tuyên truyền còn nặng về truyền đạt luật một chiều, nặng về đả thông,

thuyết phục hơn là lắng nghe vướng mắc để phản ảnh lên cấp trên xem xét có những

sửa đổi bổ sung nhanh nhạy.

Thiếu quan tâm giải thích, giới thiệu về cách xác định giá bán chưa có thuế trong

hoàn cảnh giá bán trên thị trường đều là gía bán có thuế, dẫn đến các doanh nghiệp

lúng túng trong vấn đề này. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế cho các

doanh nghiệp còn nặng về bề rộng. Việc tập huấn nghiệp vụ cụ thể như kê khai, thu

nộp, hoàn thuế cho cán bộ ngành thuế cũng như đối tượng nộp thuế chưa thật chi tiết,

cụ thể sẽ dẫn tới những khó khăn khi áp dụng trên thực tế.

Tổ chức thực hiện.

- Số lượng văn bản quá nhiều: Có thể nhận thấy hiếm có một luật tài chính nào ở

nước ta có lượng văn bản lớn như các văn bản liên quan đến thuế GTGT đã được ban

hành. Thậm chí trong thực tế có những văn bản phủ định nhau khiến cho việc thực

hiện càng trở nên phức tạp.

- Những văn bản hướng dẫn đối với những ngành đặc thù đến cuối tháng 12/1998

mới được ban hành. Điều này gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp này trong việc

tính toán, hoạch định kế hoạch kinh doanh cho năm 1999.

- Mặc dù Quốc hội để hơn một năm rưỡi cho việc chuẩn bị chuyển tiếp của cơ

quan thuế và doanh nghiệp nhưng hầu hết các doanh nghiệp chỉ ngồi chờ phổ biến

chính sách, chế độ không chủ động tìm hiểu nội dung của luật thuế, chủ động tính

toán, tổ chức sản xuất kinh doanh, đến sát nút mới lo lắng, vội vàng tìm cách tháo gỡ

mang tính bị động.

Chương III

một số kiến nghị nhằm hoàn thiện

thuế GTGT trong thời gian tới

I. Về phía Nhà nước.

1. Yêu cầu cơ bản để hoàn thiện thuế GTGT.

Quan điểm.

- Cần khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, cầu toàn, cắt đứt với thuế doanh

thu. Không thể đòi hỏi những yêu cầu nhảy vọt đột biến hoàn toàn khác thuế doanh

thu. Trong bướcđầu chuyển tiếp từ thuế doanh thu sang thuế GTGT cần có những quy

dịnh mang tính quá độ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở kinh doanh từng bước cải

tiến được phương án sản xuất kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức, quy trình hoạt động có

hiệu quả, nộp thuế và có lãi, cơ quan thuế có thời gian cải tiến và củng cố được tổ chức

bộ máy, biện pháp quản lý nghiệp vụ, đưa dần việc thực hiện các nguyên tắc, chế độ

mới vào nề nếp, kỷ cương.

- Trong giai đoạn đầu áp dụng, cần ưu tiên cho công tác quản lý thuế, nghĩa là

làm thế nào để việc quản lý thuế đơn giản nhất, có hiệu quả nhất. Sau đó khi bộ máy

quản lý đã đạt được trình độ nhất định, theo kịp mức độ tiên tiến của thuế GTGT thì sẽ

chú trọng hơn tới tính hiệu quả của loại thuế này (tức là loại bỏ tình trạng đánh thuế

trùng của thuế doanh thu ).

Về triển khai luật thuế GTGT phải bảo đảm những mục tiêu cơ bản đề ra trong

chỉ thị số 44- CT/TW ngày 4/11/1998 của Bộ Chính Trị là:

- Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh trong

nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động, nâng cao năng lực quản

lý, tạo thêm khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước.

- Bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu của Ngân sách trung ương

trong những năm đầu thực hiện.

- Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về

giá cả, đặc biệt là giá cả vật tư, hàng hoá quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng thiết

yếu để ổn định sản xuất, không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.

2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy.

2.1 Thuế suất:

Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế

GTGT (không kể mức thuế suất 0%) được xác định là giai đoạn đầu để dần tiến tới

còn một mức thuế suất theo mục tiêu, yêu cầu đơn giản, bình đẳng, công bằng mà cải

cách thuế bước II đã đặt ra.

Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu đơn giản, công bằng và bình đẳng thì về lâu dài

cần thống nhất một mức thuế suất thuế GTGT khoảng 10% như một số nước xung

quanh Việt Nam (Inđônêxia 10%, Hàn Quốc 10%, Trung Quốc 13% và 17%, Philippin

10%, Thái Lan 10%). Nhưng về lộ trình có thể chọn một trong hai phương án:

Phương án 1: Đến năm 2005 vẫn còn hai mức thuế suất là 5%, 10% (không kể

thuế suất 0% đối với xuất khẩu). Mức 5% chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng thiết

yếu, còn đại bộ phận các loại hàng hoá, dịch vụ đều áp dụng thuế suất 10%. Đến năm

2010 thì thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ.

Phương án 2: Đến năm 2005 áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất

cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện phương án này bảo đảm được mức động viên

theo yêu cầu của cải cách thuế bước II đề ra và bảo hộ được sản xuất trong nước do

phải giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.

Trước mắt vẫn duy trì 3 mức thuế suất 5%, 10%, 20% (không kể thuế suất 0%

đối với xuất khẩu) và cần phải xử lý giảm mức thuế suất cho một số hàng hoá, dịch vụ

nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc:

- Giảm mức thuế suất nhưng không làm tăng số lượng thuế suất đã quy định

trong luật mà phải nhằm tới đơn giản mức thuế.

- Hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời phải hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ

trong mối quan hệ sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa các cơ sở kinh doanh và

phải áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu cũng như sản xuất ở trong nước.

- Không vì những loại hàng hóa, dịch vụ này được giảm mức thuế suất mà lan

rộng ra những hàng hoá, dịch vụ khác gây đảo lộn biểu thuế.

- Không áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ không làm ảnh

hưởng lớn đến nguồn thu của NSNN.

- Việc giảm mức thuế suất phải được đặt trong mối quan hệ tương đồng với

chính sách thuế của các nước và chính sách hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước.

- Đối với những hàng hóa, dịch vụ xử lý cho giảm thuế tạm thời phải công bố rõ

thời gian áp dụng trong vòng 3 năm, hết thời hạn sẽ trở về mức thuế quy định để các

doanh nghiệp có phương án phấn đấu thực hiện.

2.1 Phương pháp tính thuế:

Hầu hết các nước đã áp dụng thuế GTGT đều có quy định mức doanh thu để

phân biệt đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Inđônêxia 60.000 USD/năm, Thuỵ Điển 200.000

SEK/năm, Trung Quốc 1,8 triệu NDT/năm… Đối với hộ kinh doanh có doanh số trên

mức quy định phải nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; đối với hộ kinh doanh

có doanh số dưới mức quy định hoặc không phải nộp thuế GTGT mà chỉ phải nộp thuế

thu nhập hoặc có nước đánh thuế GTGT nhưng lại theo một tỷ lệ ấn định trên doanh

thu.

áp dụng kinh nghiệm của các nước khi xây dựng luật thuế GTGT dự kiến đưa ra

mức doanh thu là 600 triệu đồng/ năm, những hộ kinh doanh nhỏ có doanh thu dưới

mức quy định không áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà áp dụng

cách thu đơn giản (tính trên doanh số) như thuế doanh thu. Nhưng do đặc điểm của

nước ta số hộ kinh doanh cá thể nhiều (trên 1 triệu hộ) đóng góp vào nguồn thu ngân

sách đáng kể, nếu áp dụng cách thu đơn giản sợ không bình đẳng với những doanh

nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Vì vậy, Bộ tài chính đã có chỉ đạo tại

thông báo số 41 TB/TW ngày 12/2/1997 là “ những người kinh doanh có nơi sản xuất,

có cửa hàng, cửa hiệu cố định đều là đối tượng áp dụng thuế GTGT (không phân biệt

hộ kinh doanh lớn, hộ kinh doanh nhỏ); những người kinh doanh không có nơi cố định

thì áp dụng chế độ khoán.”

Căn cứ vào thực tiễn của nước ta, căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ tài chính, luật

thuế GTGT đã đưa ra hai phương pháp tính thuế là: Phương pháp khấu trừ thuế và

phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối

với các doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật

Đầu tư nước ngoài, luật Công ty, luật Hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn chấp

hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT

áp dụng chủ yếu đối với những hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ hoá đơn

chứng từ. ứng với hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn tương ứng đó là hoá

đơn giá trị gia tăng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ ) và hoá

đơn bán hàng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp).

Để dần dần tiến tới một phương pháp tính thuế cần phải từng bước triển khai

công tác kế toán hoá đơn chứng từ đối với khu vực ngoài quốc doanh. Để chuyển dần

họ sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, trước mắt: Củng cố công tác kế toán, hoá

đơn chứng từ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để 100% hộ nộp thuế theo

phương pháp kê khai, khấu trừ thuế và triển khai công tác kế toán, hoá đơn chứng từ

đối với 100% số hộ cá thể kinh doanh lớn để chuyển từ khoán thuế sang nộp thuế theo

phương pháp kê khai. Còn những hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế.

2.3 Thực hiện khấu trừ thuế GTGT đối với các trường hợp sai sót.

Việc khấu trừ thuế GTGT được giải quyết trên các căn cứ được xác minh thông

qua:

- Phản ánh đầy đủ trên hoá đơn, tuỳ mức độ mà người bán hàng hoặc cung ứng

dịch vụ được phép ghi trên hoá đơn.

- Việc xác định đối với hàng nhập.

- Việc xác định là đơn vị kinh doanh đã trả do tự cung ứng.

Trong thực tế xảy ra trường hợp cơ sở cấp hoá đơn hàng bán ra sai thuế suất, ví

dụ cơ sở kinh doanh máy điều hoà nhiệt độ bán máy điều hoà cho công ty điện lực

dùng sản xuất kinh doanh. Khi bán, do sơ xuất của cán bộ viết hoá đơn đã ghi mức

thuế suất trên hoá đơn bán hàng là 10%, thực tế mặt hàng này đã được giảm thuế suất

50% tức là chỉ còn 5%. Tháng sau, cơ sở mới phát hiện ra. Theo chế độ khoản chênh

lệch do cơ sở nộp sai thuế suất không được khấu trừ.

Tương tự như vậy, trường hợp hàng bán bị trả lại, hàng giảm giá không thu đủ

tiền hàng theo hoá đơn bán hàng cũng không được hoàn thuế. Qua thực tế hoạt động

kinh doanh, do nhiều lý do khác nhau, các cơ sở có thể bị bỏ sót thuế GTGT đầu vào

được khấu trừ.

Để đảm bảo tính chính xác của thuế GTGT cũng như đảm bảo các cơ sở không bị

thiệt thòi, đề nghị chế độ thuế GTGT nên quy định:

- Cho phép các cơ sở viết hoá đơn sai thuế suất được làm các thủ tục hợp thức

hoá để điều chỉnh lại hoá đơn đã cấp cho đúng thuế suất quy định.

- Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp hoạt động giao

hàng hoặc cung ứng dịch vụ thực tế bị huỷ bỏ, giảm giá không thu được đủ tiền hàng

hoặc tiền dịch vụ đã ghi trên hoá đơn.

- Số thuế GTGT đã nộp chưa được khấu trừ đúng thời hạn quy định do bị bỏ sót

có thể vẫn được tiếp tục giải quyết thông qua các tờ khai bổ sung, nhưng tờ khai phải

được gửi trước ngày 31/12 của năm tiếp liền năm bỏ sót với nội dung đúng chế độ quy

định .

Ngoài ra trong quá trình kiểm tra mà người nộp thuế làm đầy đủ các thủ tục điều

chỉnh số liệu bỏ sót cũng được giải quyết khấu trừ theo quy định.

Người bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ có sai sót trong việc ghi hoá đơn có thể

làm đầy đủ các thủ tục về điều chỉnh và cấp lại cho khách hàng hóa đơn điều chỉnh về

số thuế GTGT đã nộp. Từ đó khách hàng được phép làm tờ khai xin điều chỉnh và làm

thủ tục khấu trừ bổ sung về thuế GTGT đã nộp và phải khai nộp trước ngày 31/12 của

năm tiếp theo sau năm có hoá đơn điều chỉnh.

3. Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện luật thuế GTGT.

Đối với Việt Nam, luật thuế GTGT còn rất mới lạ đối với cán bộ thuế, các cơ sở

sản xuất kinh doanh cũng như từng người dân, vì vậy để thực hiện tốt luật thuế này cần

thực hiện tốt một số giải pháp sau:

3.1. Về vấn đề quản lý chứng từ hoá đơn.

Hiện nay việc sử dụng hoá đơn của các cơ sở còn rất tùy tiện, hiện tượng hoá đơn

bất hợp pháp lưu hành trên thị trường còn phổ biến. Vì vậy việc xây dựng chế độ quản

lý hoá đơn chứng từ là điều cần thiết. Một số biện pháp cụ thể xin được đề cập để thực

hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ như sau:

Cần xây dựng những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm khắc phục

tình trạng sủ dụng hoá đơn bất hợp pháp. Cụ thể:

Quy trình số lượng chuyển hoá đơn tối đa mỗi lần mua tại các cục thuế hoặc tự in

cho từng loại hình doanh nghiệp. Từ đó tránh tình trạng sau khi mua hoặc tự in một số

lượng lớn hoá đơn thì giải thể. Số lượng hóa đơn này được tung ra bán trên thị trường

như một hàng hoá. Không một cơ quan nào có thể quản lý được số hoá đơn này.

Theo quy định hàng tháng các doanh nghiệp phải báo cáo tình hình sử dụng hoá

đơn cho cục thuế. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không thực hiện nghiêm túc việc này và

cũng không bị sử phạt. Vì vậy, xin đề nghị quy định rõ mức xử lý đối với các cơ sở

hàng tháng không báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn trong tháng cũng như các trường

hợp làm mất hoá đơn thuế GTGT.

Xử phạt nghiêm minh các trường hợp sử dụng hoá đơn bất hợp pháp:

Các doanh nghiệp khi mua vật tư hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn hợp

pháp để thanh toán tiền mua hàng. Nếu cố tình sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để thanh

toán đề nghị cần được xử phạt theo các mức sau:

Đối với người mua: Nếu là doanh nghiệp thì không cho phép vào chi phí hợp

lý để tính thu nhập doanh nghiệp, trường hợp nghiêm trọng ngoài xử lý hành chính còn

có thể bị truy tố hình sự trước pháp luật.

- Đối với người bán: Phạt giá trị vật chất bằng số tiền ghi trên hoá đơn bất hợp

pháp. Nếu nhiều lần vi phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

Một số giải pháp khác:

- Tuyên truyền phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng các loại hoá đơn

hợp pháp trên thị trường, cách nhận biết hoá đơn bất hợp pháp.

áp dụng công nghệ tin học trong hệ thống thông tin quản lý thuế trên phạm vi cả

nước để có thể kiểm tra theo yêu cầu của doanh nghiệp, phát hiện nhanh nhất hoá đơn

bất hợp pháp, giúp doanh nghiệp không sử dụng hoá đơn bất hợp pháp.

3.2. Hình thành và phát triển tư vấn thuế ở Việt Nam.

Phát triển tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết không thể thiếu của các đối tượng

nộp thuế trong nước và các nhàđầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Tư vấn thuế không chỉ

là một nhiệm vụ, chức năng của cơ quan thuế mà còn là biện pháp để cơ quan thuế

hoàn thành tốt công tác thu nộp thuế. Để phát triển hơn nữa tư vấn thuế phục vụ cho

công tác thu nộp thuế vàđáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của đối tượng nộp thuế trong

nền kinh tế thị trường. Sau đây là một số giải pháp:

- Thành lập một bộ phận chuyên trách làm công tác tư vấn thuế nằm trong cơ cấu

tổ chức bộ máy ngành thuế có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Đây là một dạng

dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp và phục vụ mọi tầng lớp nhân dân, không thu bất cứ

một khoản lệ phí nào. Các trung tâm tư vấn thuế cũng cần có những công chức nghiệp

vụ giỏi, tinh thần phục vụ tận tuỵ, tư cách đạo đức tốt. Các trung tâm này cũng cần

được trang bị đầy đủ phương tiện, tài liệu để có thể đáp ứng được đầy đủ nhất, nhanh

chóng nhất nhu cầu tìm hiểu, giải đáp thắc mắc của đối tượng nộp thuế và của nhân

dân.

- Đề nghị chính phủ cho phép thành lập dịch vụ tư vấn thuế như một nghề, hoạt

động độc lập với cơ quan thuế. Trên thế giới hiện nay, tư vấn nói chung và tư vấn thuế

nói riêng đã được coi là một nghề. Nhiều nước coi tư vấn là một ngành kinh doanh ,

đây là một hoạt động dịch vụ trí tuệ, cung cấp các kiến thức kinh nghiệm, hiểu biết về

một lĩnh vực nào đó cho một tập thể hoặc một cá nhân có nhu cầu và hưởng dịch vụ

phí. Song song với hoạt động thuế mang tính chất tư vấn dịch vụcông của cơ quan

thuế, cần phải tăng cường và mở rộng hoạt động tư vấn thuế với tính chất là một dịch

vụ tư. Các trung tâm tư vấn thuế tư hoạt động theo phương thức kinh doanh, tự hạch

toán và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật Nhà nước. Để

khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng tư vấn thuế, đề nghị Bộ tài chính có quy định

chấp nhận chi phí tư vấn thuế là chi phí hợp lý để tính thu nhập doanh nghiệp .

3.3. Cải cách hành chính thuế.

Mục đích của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ

tục nhưng bảo đảm sự kiểm soát của cơ quan thuế. Sau khi nghiên cứu quy trình quản

lý thu mới và qua gần một năm thực hiện, xin đề nghị với tổng cục thuế nghiên cứu bổ

sung, sửa đổi những vấn đề sau:

- Một biểu khai thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, giúp cho doanh nghiệp

có thể sử dụng ngay số liệu kế toán và báo cáo tài chính để kê khai mà không cần xử

lý, lại tất nhiên, báo cáo thuế có thể có những số liệu chi tiết hơn báo cáo tài chính

nhưng những số liệu bổ sung này cũng chỉ là số liệu kế toán sẵn có.

- Để đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế, cơ quan thuế có quyền kiểm tra sổ sách

chứng từ doanh nghiệp. Song kiểm tra không đồng nghĩa với cung cấp chứng từ, báo

cáo.

- Thu kịp thời là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách

song kịp thời không có nghĩa là thu trước. Thuế GTGT chỉ thu trên phần gia tăng gía

trị , nếu chưa có gia tăng giá trị không nên thu thuế GTGT, gây thêm khó khăn cho

đơn vị vì phải dùng vốn kinh doanh để nộp thuế làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh

doanh của các đơn vị.

Thuế là vấn đề ngân sách quốc gia, thị trường cũng là thị trường quốc gia, nhưng

việc thu thuế lại mang tính địa phương như việc quy định công trình xây dựng ở địa

phương nào nộp thuế GTGT thuế ở địa phương đó. Một công ty xây dựng có thể hành

nghề ở nhiều địa phương và thường hạch toán tập trung. Như vậylà công ty không chỉ

làm việc với cơ quan thuế ở địa phương có công trình phải làm nhiều bản kê khai thuế,

tốn phí công đi lại, lo chứng minh đã nộp thuế ở nơi khác trình cơ quan thuế quản lý

Công ty. Nếu chỉ tính thuế đầu ra còn đỡ vất vả, việc tính thuế đầu vào phải khấu trừ

rất phức tạp, vật tư công ty cung cấp có thể được làm ở nhiều công trình. Vì vậy nên

thu thuế tập trung ở nơi công ty đóng trụ sở là hợp lý nhất, thủ tục đơn giản việc kiểm

soát cũng hiệu quả hơn. Ngoài ra phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về

thuế GTGT. Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới , đối tượng nộp thuế tự tính

thuế , kê khai, tự nộp nên công tác tuyên truyền hiểu biết về thuế là rất quan trọng.

Công tác tuyên truyền thuế cần nhằm vào mục tiêu cơ bản:

+ Phổ cập kiến thức về thuế GTGT và các chính sách thuế khác.

+ Xây dựng ý thức tự giác, thực hiện nghĩa vụ công dân trong việc nộp thuế,

người dân cần phải hiểu và thấy được sự cần thiết của việc mua bán lẻ phải có hoá

đơn chứng từ.

- Tạo lập lòng tin giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế.

Để đạt được mục tiêu trên cần phải đưa ra các hình thức tuyên truyền như sau:

+ Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức tuyên truyền, giải thích

giáo dục về thuế thường xuyên liên tục về nội dung và mục đích ý nghĩa, tác dụng của

thuế GTGT. Qua đó giúp mọi người hiểu, ủng hộ, tự giác chấp hành luật thuế, giúp cơ

quan thuế phát hiện sai phạm trong quá trình thực hiện thuế GTGT.

+ Tổ chức hội diễn văn nghệ kết hợp nội dung về thuế GTGT để tăng cường thu

hút sự tìm hiểu về thuế đối với người dân. Tổ chức thi tìm hiểu về thuế GTGT trong cả

nước. In áp phích tuyên truyền về thuế phát không cho các đối tượng nộp thuế và mọi

người dân có quan tâm về thuế GTGT.

+ Phản ánh kịp thời những vướng mắc cần giải quyết của các cơ sở sản xuất kinh

doanh cũng như giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền hay giải thích cho đối

tượng hiểu.

Công tác kiểm tra và thanh tra thuế GTGT.

- Mục tiêu kiểm tra, thanh tra thuế để xem việc tuân thủ của đối tượng nộp thuế

và của cơ quan thuế có đúng quy định cuả pháp luật hay không là biện pháp có tính

ngăn ngừa, phải cân đối giữa kiểm tra thuế với việc cung cấp dịch vụ thuế cho đối

tượng nộp thuế. Việc kiểm tra, thanh tra phải quan tâm đến nguồn nhân lực, do đó phải

chọn lọc phân loại doanh nghiệp. Cần chia thành hai bộ phận kiểm tra, thanh tra thuế

đối với thể nhân và pháp nhân.

- Kiểm tra, thanh tra thuế GTGT đối với thể nhân. Cơ quan thuế có thể căn cứ

vào số liệu tính thuế TNDN để tính được doanh thu, hoặc dựa vào số thuế phải nộp

năm trước để dự tính số thuế phải nộp. Để xác định đối tượng thuộc diện chịu thuế

GTGT hay không, cơ quan thuế gửi tờ khai mẫu hướng dẫn cho từng đối tượng nộp

thuế kê khai, từ đó tính được số mặt hàng, ngành hàng kinh doanh để xác định đối

tượng có thuộc diện chịu thuế GTGT hay không. Công tác điều tra lựa chọn các điểm

nghi ngờ hoặc chọn mẫu trọng điểm, tập trung điều tra thu thuế TNDN và thuế GTGT.

Đối với thuế GTGT cần tập trung vào các đối tượng có nghi vấn, đối tượng xin hoàn

thuế.

- Kiểm tra thanh tra thuế GTGT đối với pháp nhân.

Tổ chức điều tra tổng quát và đồng thời kết hợp điều tra trọng điểm, khi có dấu

hiệu gian dối cần chú trọng về thuế GTGT của pháp nhân như: Đối tượng không đăng

ký nộp thuế có đơn xin hoàn thuế, lãi gộp thấp, thực hiện các loại thuế khoá không tốt,

hoạt động kinh doanh áp dụng nhiều loại thuế suất thuế GTGT. Các doanh nghiệp có

hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Tiến hành điều tra thực

nghiệm như sự tồn tại của doanh nghiệp, đối chiếu hồ sơ bằng cách gửi thư, công văn

trao đổi, về sự thiếu sót chứng từ, hoá đơn giao dịch có thực hay không và gửi chứng

từ chứng minh. Nếu phát hiện thấy sai sót thì kiểm tra trực tiếp.

Nghiên cứu xây dựng hệ thống chương trình máy tính xử lý đồng bộ quy trình

quản lý thuế GTGT: Dùng máy quang học để tăng tốc độ kiểm tra mã số thuế quy

định cho từng đối tượng nộp thuế. Tờ khai thuế được đưa qua máy đọc quang học và

xác định đối tượng nộp thuế, số thuế phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế còn phải nộp.

Nhờ vậy mới tránh khỏi những đối tượng nộp thuế và khai man thuế.

Đào tạo cán bộ thuế :

Cần huấn luyện bồi dưỡng cán bộ thuế trở thành những người tinh thông, nắm

chắc được mục đích, ý nghĩa và cả nội dung cụ thể của thuế GTGT, đủ sức làm tuyên

truyền viên giỏi và một cán bộ đủ năng lực tổ chức quản lý, thu thuế GTGT tốt. Các

cuộc tập huấn không chỉ tổ chức theo lôi truyền đạt văn bản mà phải trau dồi sâu, kỹ,

cụ thể. Không những thế, cán bộ thuế còn phải nắm chắc cả chế độ kế toán, kiểm toán

kiểm tra, lập và xử dụng các chương trình của mạng lưới vi tính, đáp ứng được những

yêu cầu của quy trình quản lý thuế mới.

3.4. Cải tiến quy chế, quy trình quản lý thu thuế :

Nhằm đảm bảo việc thu thuế GTGT được triển khai thuận lợi, đạt hiệu quả cao,

quy trình quản lý thu thuế được cải tiến với nội dung chủ yếu như sau:

- Tất cả đơn vị kinh doanh phải kê khai đăng ký thuế và được cấp một mã số thuế

để có điều kiện thuận lợi cho việc xử lý các thông tin về tình hình hoạt động, khai báo,

tính thuế, thông báo thuế, đảm bảo việc tra cứu, xác định tài liệu được nhanh chóng,

chính xác. Cần có sự quản lý, kiểm tra thường xuyên để phát hiện những cơ sở kinh

doanh thực tế có hoạt động nhưng không chịu kê khai để được cấp mã số.

- Đề cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế qua việc tự kiểm

tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế và hoàn toàn

chịu trách nhiệm về tài liệu kê khai. Tờ khai được thực hiện căn cứ trên hoá đơn, kế

toán được chấp hành nghiêm chỉnh. Cán bộ thuế tập trung thời gian tăng cường kiểm

tra, thanh tra, xử lý nghiêm khắc, đúng luật với các vụ vi phạm.

- Ranh giới xác định phạm vi chịu thuế GTGT đối với hoạt động dịch vụ. Hiện

tại các hoạt động dịch vụ tại các Công ty thương mại, công ty môi giới dịch vụ, dịch

vụ thương mại, dịch vụ kiểm định hàng hoá xuất nhập khẩu, dịch vụ quảng cáo… đặc

biệt là các hoạt động dịch vụ xuyên quốc gia, giao dịch thương mại thông qua quảng

cáo trên Internet không thể kiểm tra đơn thuần trên sổ sách, hoá đơn thông thường

được nên rất khó xác định phạm vi chịu thuế. Đây là vấn đề rất phức tạp và khó xác

định, nhiều nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới cũng chưa có cách giải quyết

hữu hiệu nào. Theo thông lệ quốc tế thì nguyên tắc xác định phạm vi chịu thuế đối

với hoạt động dịch vụ là căn cứ vào nơi cung cấp dịch vụ và nơi được cung cấp dịch

vụ.

- ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học trong công tác quản lý thuế, bảo đảm tính

khoa học, hiện đại, phục vụ công tác đạt hiệu qủa cao…Nối kết mạng thông tin giữa

hệ thống cơ quan thuế với Kho bạc Nhà nước, phục vụ việc theo dõi, đối chiếu số liệu

thu thuế theo định kỳ, nối mạng giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng, kịp

thời theo dõi, nắm chắc cơ sở đăng ký kinh doanh, bảo đảm 100% số cơ sở thực tế

kinh doanh lọt vào “ống kính quản lý” của cơ quan thuế.

- Đẩy mạnh việc thu thuế qua hệ thống kho bạc, hạn chế thấp nhất các trường

hợp thu thuế bằng tiền mặt, hạn chế tiêu cực có thể xảy ra.

- Xác định trách nhiệm cụ thể của từng bộ phận,quy định chặt chẽ về thời gian

và các thủ tục giao nhận tài liệu, cung cấp thông tin trong nội bộ các bộ phận đảm bảo

nguyên tắc kiểm tra, giám sát lẫn nhau.

- Để đảm bảo tính thống nhất và công bằng trong việc áp dụng thuế GTGT, trước

hết cần hạn chế đối tượng nộp thuế GTGT theo hình thức khoán, hướng số đối tượng

này mở sổ sách kế toán để tính thuế. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành những chính

sách ưu đãi về thuế cùng với những chính sách hỗ trợ khác để khuyến khích họ mở sổ

sách kế toán.

II. Về phía doanh nghiệp.

Khi thực hiện thuế GTGT từ 1/1/1999 sẽ có tác động đến các cơ sở kinh doanh

cụ thể là tính thuế, hạch toán thuế GTGT khối lượng công việc nhiều hơn. Về mặt lý

thuyết, thuế GTGT không ảnh hưởng đến giá thành chi phí của doanh nghiệp nhưng

trong thực tế rất nhiều doanh nghiệp đã ảnh hưởng tới chi phí và giá thành: Doanh

nghiệp nhập khẩu phải nộp thêm thuế GTGT hàng nhập khẩu, một số doanh nghiệp có

lượng hàng tồn kho lớn không được khấu trừ và việc hoàn thuế không kịp thời cho

các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trước đây nộp thuế doanh thu ở

mức thuế suất thấp nay phải nộp thuế GTGT thuế suất 10%. Điều đó dẫn đến nhiều

doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và dẫn đến làm ăn thua lỗ. Vì

vậy các doanh nghiệp cần có các giải pháp thích hợp nhằm chủ động tính toán phương

án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

1. Cách lập hoá đơn chứng từ.

Muốn công việc kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt chế

độ hoá đơn chứng từ, các quy định hiện hành về thuế GTGT, đảm bảo làm ăn có lãi

và thực hiện nghĩa vụ tốt với NSNN.

Các doanh nghiệp có thể tăng cường chế độ hoá đơn chứng từ sổ sách kế toán

như sau:

Hoá đơn bán hàng: Việc kê khai thuế GTGT chủ yếu là dựa vào sổ sách kế

toán, hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ… Hoá đơn có thể do cơ quan thuế phát

hành hoặc do đơn vị tự phát hành để tiện cho việc thanh toán, nhưng phải đăng ký mẫu

hoá đơn với cơ quan thuế. Hoá đơn có nội dung thể hiện được các chỉ tiêu: Số tiền

bán hàng chưa có thuế, số thuế GTGT, tổng số tiền thanh toán, số hoá đơn, tên, địa

chỉ, mã số thuế của người mua, người bán.

Sổ sách kế toán

Cách ghi sổ kế toán:

- Mọi đối tượng nộp thuế GTGT đều phải lập sổ kế toán ghi rõ các căn cứ xác

minh hoạt động thực tế của đơn vị thuộc hoặc không thuộc diện chịu thuế GTGT.

- Trên sổ sách kế toán phải được ghi chép sạch sẽ, rõ ràng, chính xác, cập nhật

hàng ngày, không để chừa khoảng trống, không gạch xoá. Sổ kế toán phải được đánh

số trang liên tục và phải xuất trình cho cơ quan thuế khi có yêu cầu của cơ quan

thuế.

- Sổ kế toán phải phản ánh được: Hoạt động chịu thuế GTGT chia ra từng loại

thuế suất, hoạt động không chịu thuế GTGT, tên và địa chỉ, mã số thuế người mua.

Ngoài ra còn phải thể hiện giá trị hàng hoá mua vào, thuế GTGT đầu vào được khấu

trừ, tên, địa chỉ, mã số thuế người bán.

- Riêng đối với các hộ kinh doanh nộp thuế gtgt theo chế độ khoán được thực

hiện chế độ kế toán đơn giản theo hướng dẫn của cơ quan thuế.

Tài khoản sử dụng: Theo chế độ sử dụng tài khoản 3331- thuế GTGT phải nộp

và tài khoản 133- thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ các doanh nghiệpphải

thực hiện mở tài khoản theo quy định và theo dõi chi tiết hàng hoá mua vào, bán ra

cũng như thuế GTGT đầu vào đầu ra.

2. Thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu.

Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có nguồn hàng hoá

cung ứng kịp thời. Nhiều doanh nghiệp nguồn hàng hoá trong nước chưa đáp ứng

được yêu cầu cả về chất lượng, chủng loại, số lượng. Do đó các doanh nghiệp phải

nhập hàng hoá để đảm bảoyêu cầu kinh doanh của mình. Theo luật thuế doanh thu thì

không thu thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, nhưng theo quy định luật thuế GTGT thì

doanh nghiệp nhập khẩu vật tư hàng hoá trong danh mục chịu thuế GTGT phải tiến

hành nộp thuế GTGT khi nhập khẩu hàng hoá.

Việc thu thuế GTGT hàng nhập khẩu là cần thiết. Tuy nhiên do các doanh

nghiệp vừa phải nộp thuế nhập khẩu, vừa phải nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu, do

vậy để giảm bớt khó khăn các doanh nghiệp có đề nghị như sau:

- Mức thuế suất: Đề nghị mức thuế suất thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu là

5%. Với mức thuế suất này, số thu Ngân sách có thể bị ảnh hưởng nhưng tạo điều

kiện cho các mặt hàng trong nước được mở rộng, đa dạng về chủng loại và chất

lượng.

- Thời gian nộp thuế GTGT hàng nhập khẩunhững: Cho phép thời gian nộp thuê

GTGT là 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của của cơ quan hải

quan về số thuế GTGT hàng nhập khẩu.

3. Vấn đề hoàn thuế.

Theo quy định của luật thuế GTGT và các văn bản dưới luật đối với thuế GTGT

đầu vào của TSCĐ được khấu trừ như đối với vật tư hàng hoá khác. Nếu số thuế đầu

vào của TSCĐ lớn được khấu trừ dần trong 3 tháng mà số thuế đầu vào chưa được

khấu trừ hết thì doanh nghiệp lập thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn thuế. Giải pháp

xử lý này đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT đối với hoạt động đầu tư, tiết kiệm

chi phí quản lý, không phải theo dõi khấu trừ thuế, đồng thời giảm gánh nặng cho

NSNN không phải hoàn thuế này. Nếu doanh nghiệp đầu tư TSCĐ với giá trị lớn sẽ

gặp khó khăn rất lớn vì phải đi vay để nộp thuế GTGT đầu vào và trả lãi vay. Như vậy

chi phí của doanh nghiệp tăng, hiệu quả kinh doanh giảm. Để giảm bớt khó khăn

doanh nghiệp xin đề nghị:

- Xét hoàn thuế theo từng tháng đối với số thuế GTGT được hoàn lớn (từ 200

triệu đồng trở lên) và xét hoàn thuế hàng quý có số thuế GTGT được hoàn nhỏ (dưới

200 triệu đồng)

- Để đơn giản trong thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở xin hoàn thuế

giảm bớt khó khăn về vốn, đề nghị cơ quan thuế làm thủ tục hoàn thuế theo số liệu

của cơ sở xin hoàn thuế. Các cơ quan thuế chỉ kiểm tra định kỳ hoặc khi thấy nghi vấn.

Khi kiểm tra, nếu phát hiện số liệu hoàn thuế không chính xác, cơ quan thuế xử phạt

nặng hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp.

Kết luận

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam ngày 1/1/1999 thay thế cho thuế doanh thu là

một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp thu thuế. Việc

ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế

của Việt nam.

Sau hơn 2 năm thực hiện, thuế GTGT đã có những tác động tích cực đối với hoạt

động của các doanh nghiệp như: khuyến khích đâù tư, thúc đẩy phát triển sản xuất

kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu

nền kinh tế; không gây biến động về giá cả và không ảnh hưởng đến kế hoạch thu

ngân sách của Nhà nước; góp phần hoàn thiện công tác quản lý hạch toán kinh doanh

của các doanh nghiệp.

Cần phải khẳng định việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế GTGT ở nước ta là

một cố gắng lớn của Đảng, Chính phủ, đặc biệt nó thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong

công tác tài chính nói chung và trong ngành thuế nói riêng. Song do đây là một vấn đề

còn mới mẻ đối với cả cơ quan thuế cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh -

những đối tượng nộp thuế nên việc nảy sinh những vướng mắc, khó khăn trong quá

trình thực hiện là điều không tránh khỏi. Do đó cần có sự xem xét, nghiên cứu những

hạn chế, vướng mắc đồng thời đưa ra các biện pháp cho việc xử lý, giải quyết những

vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả từ đó phát huy tối đa ưu thế của loại thuế này.

Tài liệu tham khảo

1. Luật thuế GTGT – Bộ tài chính 1998.

Luật thuế GTGT (sửa đổi bổ sung) – Bộ tài chính 2001.

2. Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt nam.- NXB tài chính Hà Nội 1997.

3. Thuế và cải cách thuế ở nước ta – Bộ tài chính- Hà Nội 1990.

4. Thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT.

5. Nghị định số 28/1998/NĐ-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT.

Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT

(sửa đổi bổ sung)

6. Báo cáo thủ tướng chính phủ về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới.

7. Giới thiệu về thuế GTGT của Trung Quốc 6/1997 – Wung Gengseng,

cơ quan Nhà nước về thuế, CHDCND Trung Hoa.

8. Hệ thống thuế Thuỵ điển, Inđônêxia, Hungary – Tổng cục thuế 1992.

9. Các số báo:

Tạp chí thương mại.

Diễn đàn doanh nghiệp.

Thời báo tài chính, thị trường tài chính, thông tin tài chính, tài chính.

Thị trường giá cả.

Thời báo kinh tế

trong các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001.

Mục lục

Lời nói đầu 1

Chương I: THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động

của các doanh nghiệp ........................................................................ 4

i. KHáI QUáT Về THUế. ...................................................................................................4

1. Sự ra đời của và bản chất của thuế. ............................................................... 4

2. Vai trò của thuế................................................................................................ 5

II. thuế giá trị gia tăng. .........................................................................................................6

1. Khái niệm. ........................................................................................................ 6

2. Mục đích. .......................................................................................................... 7

3. Nội dung của thuế GTGT. ............................................................................... 7

4. Điều kiện áp dụng .......................................................................................... 19

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thuế GTGT ............................. 19

III. Thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT. Sự cần thiết

áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam ............................................................................... 21

1. Thuế doanh thu ............................................................................................. 21

2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay .............................. 24

IV. Kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT ở một số nước ................................................ 26

1. Thuế GTGT áp dụng ở một số nước trên thế giới........................................ 26

2. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam .......................................................... 31

chương II: tác động của thuế GTGT tới hoạt động

của các doanh nghiệp ...................................................................... 33

I. Khái quát về viện Nghiên cứu tài chính..................................................................... 33

1. Khái quát về Viện Nghiên cứu Tài chính. .................................................... 33

2. Cơ cấu tổ chức của Viện NCTC ................................................................... 34

3. Viện nctc có một số chức năng, nhiệm vụ chính như sau: ......................... 34

II. Vài nét về quá trình cải cách hệ thống thuế

và tiến trình áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. ........................................................ 35

1. Cuộc cải cách thuế bước I trong các doanh nghiệp. ................................... 35

2. Cuộc cải cách thuế bước II trong các doanh nghiệp. ................................. 37

III. Tình hình thực tế áp dụng thuế GTGT ở các

doanh nghiệp Việt nam. ............................................................................................... 38

1. Công tác tổ chức thực hiện. .......................................................................... 39

2. Kết quả sau hai năm thực hiện thuế GTGT. ................................................ 45

IV. Đánh giá kết quả thực hiện thuế giá trị gia tăng

ở việt nam. ...................................................................................................................... 52

1. Những thuận lợi. ........................................................................................... 52

2. Những khó khăn. ........................................................................................... 55

3. Nguyên nhân. ................................................................................................. 65

Chương III : một số kiến nghị nhằm hoàn thiện

thuế GTGT trong thời gian tới ....................................................... 68

I. Về phía Nhà nước. ........................................................................................................ 68

1. Yêu cầu cơ bản để hoàn thiện thuế GTGT. .................................................. 68

2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy. ...................................................... 69

3. Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. .......................... 73

II. Về phía doanh nghiệp. ................................................................................................. 79

1. Cách lập hoá đơn chứng từ. .......................................................................... 80

2. Thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. .......................................................... 81

3. Vấn đề hoàn thuế. .......................................................................................... 81

Kết luận ......................................................................................................... 83

Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 84

Trung tâm

thông tin và

dịch vụ tài

Thư viện

Phòng

nghiên

cứu

thị

trường

tài

Phòng phân Tích dự báo

Phòng

nghiên

cứu

tài

chính

công

Phòng nghiên cứu Tổng hợp

Phòng nghiên cứu tài

chính quốc tế

Phòng quản lý

khoa học và đào tạo

Phòng tài vụ

quản trị

Tạp chí tài

chính

Viện trưởng

Các phòng chức năng

Các phó viện Hội đồng khoa học

Hệ thống thông tin và dịch vụ

Phân viện NCTC TP.HCM

Các phòng nghiên cứu