TÂM LÝ HỌC TRỊ LIỆU - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/41.TamLyTriLieu.docx · Web...
Transcript of TÂM LÝ HỌC TRỊ LIỆU - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/41.TamLyTriLieu.docx · Web...
TÂM LÝ TRỊ LIỆUTÂM LÝ TRỊ LIỆU
(Ứng dụng trong lâm sàng và tự chữa bệnh)
Tác giả: Nguyễn Công Khanh
Thay lời tựa
ĐÔI ĐIỀU TRĂN TRỞ
Sau khi được đào tạo khá bài bản theo các chương trình Master về
Tâm lý học ứng dụng rồi Doctor về Tâm lý học Lâm sàng tại Australia, về
nước tôi tích cực cộng tác với các viện, các trung tâm nghiên cứu, khoa tâm
lý, các bệnh viện, các cơ sở tư vấn khám chữa bệnh, nhằm cùng các đồng
nghiệp xây dựng và phát triển chuyên ngành Tâm lý học Lâm sàng ở Việt
Nam.
Thấm thía lời chỉ dẫn của cố bác sỹ Nguyễn Khắc Viện (người dành
trọn hơn một thập kỷ cuối đời mình, suy nghĩ tâm huyết để xây dựng nền tảng
cho môn tâm lý học lâm sàng trẻ em ở Việt Nam): “Một người Việt Nam dù có
mấy bằng tiên sĩ tâm lý, xã hội, học ở Mỹ hay ở Pháp về nước cũng phải qua
một thời gian dài tiếp xúc, cọ sát với thực tiễn Việt Nam mới thực sự trở thành
một nhà tâm lý học. Một chuyên gia nước ngoài dù giỏi đến đâu cũng không
thể nắm bắt được nhiều khía cạnh của con người và xã hội Việt Nam… chỉ có
người trong cuộc (tôi hiểu là nhà tâm lý lâm sàng Việt Nam) mới hiểu thấu…
“, tôi chọn cho mình mô hình “dấn thân, trải nghiệm, chủ động chấp nhận thử
thách”, vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy, vừa trực tiếp thực hành thăm khám –
trị liệu tâm lý tại các cơ sở bệnh viện, trường học để có thể trở thành một nhà
tâm lý lâm sàng thực sự có tay nghề.
Cuốn “TÂM LÝ TRỊ LIỆU – ỨNG DỤNG TRONG LÂM SÀNG VÀ TỰ
CHỮA BỆNH” được xem như là kết quả bước đầu của quá trình học hỏi, thực
hành tâm lý lâm sàng. Trong đó cố gắng kết hợp những điều học được từ các
nước tiên tiến với cái vốn tự có phương Đông (bao gồm những hiểu biết về
khí công dưỡng sinh, thiền, yoga, và y lý Đông phương) thực hành trên người
lớn và trẻ em Việt Nam. Dựa trên những thành công bước đầu, chúng tôi biên
soạn thành cuốn sách có “bài bản – kỹ thuật” mang tính công cụ để có thể
phổ biến cho người khác (đây cũng chính là những công cụ cần cho những ai
làm về tâm lý học lâm sàng).
Chúng tôi xem tâm lý liệu pháp là phần đặc biệt quan trọng trong tâm lý
học lâm sàng. Làm chủ được các “kỹ thuật trị liệu” là buổi đầu có cái vốn để
làm tâm lý học lâm sàng thực sự. Để biên soạn cuốn sách này, chúng tôi
không tự biến mình thành tín đồ của trường phái nào, dù đó là Phân tâm hay
Hành vi– nhận thức… Thực tế chúng tôi cho rằng cách tiếp cận “tổng hợp”
biết phối hợp điểm mạnh của các trường phái là hợp lý.
Mục tiêu cuối cùng của cuốn sách này là giới thiệu một cách tiếp cận trị
liệu tâm lý phức hợp, đa diện, đa phương pháp thích hợp trong điều kiện Việt
Nam, kết hợp tính kỹ thuật bài bản của các liệu pháp theo trường phái Phân
tâm. Nhận thức–hành vi của Phương tây với những liệu pháp cổ truyền
Phương Đông như thở Tính khí công, các bài tập Thiền – Dưỡng sinh –
Yoga, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong điều trị các chứng rối nhiễu tâm trí ở
trẻ em Việt Nam.
Để viết cuốn sách này. chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều
của các cơ sở (Khoa Tâm bệnh, Bệnh viện Nhi – Thụy Điển; Bệnh viện Tâm
thần ban ngày Mai Hương; Trường THCS Chương Dương và Trung tâm
Khám chữa bệnh và Tư vấn sức khoẻ số 9 Ngọc Khánh) của các bác sỹ y
khoa, bác sỹ tâm thần (điển hình là TS. BS. Hoàng Cẩm Tú, GS. BS. Đặng
Phương Kiệt, BS. Đỗ Thuỷ Lan, CNTL Nguyễn Hồng Thuỷ) và của các đồng
nghiệp. Vì điều kiện thời gian hạn hẹp, kinh nghiệm trị liệu tâm lý trong lâm
sàng còn ít. chúng tôi mong muốn nhận được sự góp ý của tất cả những ai
quan tâm đến vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 8–2000
Tác giả
PHẦN MỞ ĐẦU. NHU CẦU TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ TRONG XÃ HỘI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Từ những bức thư…
10.5…BMT – Đak Lak
Cô Thanh Tâm kính mến!
Cháu rất buồn khi lại đi quấy rầy cô, nhưng hoàn cảnh cháu không còn
cách nào khác nên cháu đành phải cầu xin một lời khuyên của cô. Xin cô hãy
giúp cháu. Đầu thư không có gì hơn cháu xin kính chúc cô luôn mạnh khoẻ,
bình an, luôn là niềm tin của lớp trẻ như tụi cháu.
Cô Thanh Tâm ơi! Chuyện của cháu sắp nói ra đây hoàn toàn là sự
thật!
Cháu được sinh ra là lớn lên trong một gia đình không ít phức tạp. Năm
nay cháu đang học lớp 11. Nhưng cuộc sống của cháu luôn bị xáo trộn, ám
ánh bởi những đầu óc Nho giáo, bảo thủ. Má cháu thì cứ mãi mãi với giai điệu
“tao rất thông cảm với lớp trẻ chớ không như bà mày” nhưng sau đó lại tuôn
ra những từ (cháu xin lỗi) không lịch sự tí nào, bên cạnh đó lại được sự “hỗ
trợ”, “tiếp sức”, của bà ngoại cháu nên suốt ngày không bao giờ đầu óc cháu
được rảnh rang hay nói khác đi, cuộc đời cháu không hề có tuổi thơ như
những người bạn khác.
Đôi lúc cháu nghĩ “hay mình là con nuôi” và ý nghĩ ấy lúc nào cũng cứ
bám lấy cháu. Chính từ đó, tình cảm của cháu đối với gia đình mất dần, trước
đây cháu vui vẻ bao nhiêu thì giờ càng u sầu bấy nhiêu dưới căn nhà cháu.
Với bạn bè phải nói rằng cháu là một “cây hề” của lớp, hình như (theo lời bạn
bè nhận xét) cháu không bao giờ biết buồn, lúc nào cũng tươi cười. Thế mà
đối với gia đình, về đến nhà là cháu cảm thấy như một nhà tù, mọi thành viên
của gia đình như những tên cai ngục. Chính vì vậy cháu không bao giờ cười
được cả, mặt lúc nào cũng như đưa đám vậy.
Từ một học sinh luôn đạt danh hiệu “tiên tiến, xuất sắc” trong những
năm Cấp I, II thành một học sinh yếu ở cấp III, nhất là năm lớp 11 này. Vì
chuyện gia đình đã chi phối tất cả trí óc cháu. Cháu chẳng phải là thần thánh
gì mà không sai phạm, nhưng “bé lại xé ra to”. Má cháu luôn quan trọng hoá,
thổi to vấn đề lên và lại bắt đầu… “ca vọng cổ”.
Từ ảnh hưởng của gia đình, cháu bỗng trở nên ngang bướng, sống bất
cần đời “sao cũng được”. Chính vì cách sống ấy mà cháu đã có những tính
tình của một con người khác hắn. Gần đây cháu đã “cãi nhau“ với giáo viên
chủ nhiệm lớp và kết quả là bị đình chỉ học tập. Gia đình cháu được dịp giày
vò cháu, tặng cho ôi thôi không biết bao nhiêu từ mà có lẽ chỉ dành cho
những kẻ ăn sương bụi đời du đãng mà thôi…
Cháu buồn chuyện xã hội, chuyện gia đình, cháu bỏ đi chơi Nhưng biết
đi đâu? Chỉ có xuống nhà cô bạn thân và… khóc. Vậy cháu chỉ biết khóc
thầm, buồn cho số phận của mình, bạn cháu an ủi những nỗi buồn chẳng
vơi.. Ba ngày tết trôi qua vô cùng ảm đạm. Bạn bè tới chúc Tết, thấy họ vui
mà cháu phát ghen.
Cuối cùng chỉ có một con đường để giải buồn là… đánh bài. Cháu đã
lao vào chỗ hư hỏng phải không cô? Nhưng hoàn cảnh của cháu, cháu còn
biết phải làm gì? Nói để má cháu và gia đình hiểu ư? Không được!… Má cháu
luôn bảo thủ, độc quyền, cả nhà phải theo má cháu. Má luôn lên án những bà
mẹ khác những chính mình lại mắc phải.
Suốt 4 năm (từ lớp 7) má cháu không góp tiền may cho cháu. Trong khi
đó, với riêng mình, tuy đã lớn tuổi má cháu lại mặc toàn đồ dành cho tuổi trẻ
như áo Pull, quần Disco… Má cháu luôn hứa sẽ “may cho mày cái này, mua
cho mày cái kia…“ nhưng chỉ là hứa suông. Cháu thất vọng về hình tượng
người mẹ ở má. Cô ơi, rồi đây cháu không biết mình sẽ thành gì, sống như
thế nào, một khi cháu đã hoàn toàn mất lòng tin ở con người?…
Cũng như bao cô gái khác cùng trang lứa, cháu có nhiều bạn bè, nhất
là bạn trai. Thú thật với cô cháu không đẹp, còn có duyên ư, có lẽ cũng không
nữa. Vậy mà không giểu vì sao nhiều bạn trai thích chơi với cháu. Cháu quen
rất nhiều bạn trai trong trường, cả ở ngoài xã hội. Nhưng cháu không hề coi ai
là hơn, mọi người đều là bạn. Cháu rất thích sự hồn nhiên chứ không kiêu
cách như một số bạn. Thế nhưng gia đình cháu lại rất khó chịu về chuyện
này. Cấm cháu quan hệ với các bạn, cho là vì quá ham chơi mà học tập giảm
sút… Nhưng nào có ai hiểu cho cháu đâu, cha mẹ chỉ biết nghĩ đi mà không
nghĩ lại.Cháu không thể “êm đềm trướng rủ màn che” được. Với cháu “học
mà không chơi” là “hao mòn tuổi trẻ” mà má cháu lại ra điều kiện “nếu đi học
thì phải học đàng hoàng, học xong về nhà, tuyệt đối không được đi chơi”.
Nhưng cô ơi, cháu lớn rồi. Cháu cũng biết chơi sao thì vừa, vì “chơi mà không
học là phá vỡ tương lai” mà, phải không cô?
Cuối cùng tia hy vọng của cháu cũng dần dần tắt ngấm. Cháu tên
Thanh Hằng mà cuộc sống có tí gì là của ánh trăng đâu! Thật là cuộc sông
đầy vô vị…
Thưa cô, cháu rất cần sự giúp đỡ của cô vì cháu cảm thấy bản thân
cháu không thể khuyên gì được cho mình cả. Hãy giúp cháu nhé, nín thở chờ
thư cô.
(TH. BMT – Đak Lak).
14.3… Hải Phòng
Cô Thanh Tâm kính mến!
Cháu đã suy nghĩ mãi và quyết định viết thư cho cô, mong cô hãy giúp
cháu một lời khuyên. Năm nay cháu 17 tuổi và hình như cháu sắp sửa trở
thành đứa con gái hư hỏng hay sao ấy. Cháu rất khổ tâm, khi cháu là đứa con
hay nói dối bố mẹ.
Năn nay cháu học lớp 12, năm học đầy vất vả. Bô mẹ cháu tạo mọi
điều kiện để cháu học tập, nhưng cháu vẫn chưa thoả mãn. Đi học phải về
đúng giờ, quá 5' – 10' thế nào cũng bị bố mẹ cháu xét hỏi, la mắng.
Tôi thứ 7 và chủ nhật không phải học bài, cháu muốn đi chơi cùng bạn
bè nhưng cháu không bao giờ được phép đi cả, chỉ có ở nhà chơi với em và
xem ti vi. Bạn bè đến chơi bố mẹ cháu không thích, tìm cách đuổi về và cấm
cháu không được rủ bạn bè đến nhà chơi.
Cháu nhớ có lần mẹ cháu gọi bạn gái cháu là “cái con kia” và còn hỏi
cháu: “Cái con ấy nhà nó ở đâu?” Mặc dù bạn ấy không còn có mặt lúc đó,
nhưng cháu rất bất bình về lời nói ấy.
Thế là cháu bảo luôn với mẹ: “Mẹ đừng gọi bạn con như thế. Mặt mẹ
cháu sầm lại, mắng cháu, nói cháu mất dạy, coi bố mẹ không ra gì, coi bạn
hơn cả mẹ…”. Cháu chỉ biết khóc thôi.
Cháu biết rằng bố mẹ cháu muốn cháu dành mọi thời gian cho học tập,
cho việc thi vào đại học. Nhưng cô ơi, cả tuần học hành căng thẳng, cháu
muốn đến với những người bạn của cháu để thoải mái đầu óc. Cháu nhớ bạn
cháu, muốn đi chơi và thế là cháu nói dối bố mẹ cháu, rằng con đi học bù…
Các bạn cháu nhiều người cũng phải nói dối như cậy. Cháu biết nói dối
như thế là điều không tốt, nhưng cháu lại không thể sửa được vì nói thật thì
chẳng bao giờ được phép.
Cô ơi! Sau một vài lần như thế, mẹ cháu biết chuyện và mắng cháu.
Rồi từ đây cháu như “gián điệp”, đi đâu cũng có người theo dõi, kể cả đi chính
đáng. Cháu đi đến đâu các cô, các bác trong cơ quan mẹ cháu nhìn thấy và
nói lại với mẹ cháu. Tự nhiên cháu thấy căm ghét họ vô cùng… và đã nghĩ
cách “trêu tức”. Cháu không muốn nói dối bố mẹ, những người đã sinh ra và
nuôi cháu lớn, nhưng cô khuyên cháu phải làm thế nào?
Có lẽ bố mẹ cháu không tin cháu nữa rồi! Cháu khổ tâm lắm cô ơi!
Cháu không muốn mình mang tiếng là đứa con hư hỏng không biết nghe lời
cha mẹ, nhưng cháu cũng không muốn xa rời bạn bè vì tuổi chúng cháu chỉ
có tình bạn là vui thôi.
Cháu rất mong những bức thư của cô!
(T.H.H, PTTH T.H.Đ. Hải Phòng).
17.11… Gia Lâm, Hà Nội
Gửi các cô, các chú Trung tâm Tư vấn Tâm lý Thanh niên!
Buổi chiều nay, như bao buổi chiều trước, tự dưng cháu thấy một nỗi
buồn mênh mang vô cớ xâm chiếm tâm hồn mà không thể nào cắt nghĩa nổi?
Vì sao cháu lại có nỗi buồn này? Phải chăng vì một nỗi cô đơn? Cháu thấy
đầu óc mình mông lung trống trải nhưng hình như không có ai để thổ lộ tâm
tình…
Không phải chỉ buổi chiều nay, cháu mới buồn thôi đâu, mà đã bao
nhiêu buổi chiều khác, cháu đều ở trong tâm trạng này. Hiện nay cháu đang
học lớp 12 PTTH. Đến 28/11 này, cháu vừa tròn 16 tuổi. Có lẽ thời 16 là cái
tuổi hay suy nghĩ mông lung và hay buồn vẩn vơ phải không các cô các chú.
Trước kia, hồi cháu học lớp 10, cháu rất vô tư hồn nhiên. Thế mà mới đây,
đặc biệt sang lớp 12 này cháu hay lo lắng buồn phiền và cảm thấy cô đơn
kinh khủng.
Cháu không sợ khổ, không sợ vất vả mà chỉ lo lắng cho tương lai của
mình sau này. Trước mắt cháu là kì thi tốt nghiệp PTTH và cháu có ý định thi
khôi D. Cháu rất thích học ngoại ngữ môn tiếng Anh nhưng cháu lại sợ khả
năng học của mình không biết có đáp ứng được yêu cầu thi hay không?
Chắc các cô các chú đều nghĩ rằng ở tuổi cháu chỉ biết vô tư hồn nhiên
nghịch ngợm phải không? Thế mà cháu lại hay có những nỗi buồn vô cớ xâm
chiếm. Có nhiều lúc cháu hay thẫn thờ tâm tưởng đến một điều gì đó thật xa
xôi huyền áo. Cháu muốn quên đi tất cả đê tập trung cho học tập nhưng
không thể được dường như nó cứ bám riết lấy cháu không cho cháu được
thanh thản. Trời ơi, nhiều lúc cháu muốn đi – đi thật xa đến một nơi nào đó để
kiếm tìm những điều mới lạ của cuộc sống. Nhưng có lẽ ở đâu thì nhịp điệu
cuộc sống cũng cứ đều đều tiếp diễn như thế.
Nhiều lúc cháu tự hỏi cuộc đời sẽ là thế ư? Ngày nối ngày trôi qua…
Các cô các chú đừng cho rằng nỗi buồn này xuất phát từ tình yêu đâu nhé.
Cho đến lúc này cháu chưa hề một lần xào xuyên rung động trước một bạn
trai nào cả. Nếu buồn vì điều đó thì lại hoàn toàn khác. Cháu có bố mẹ, anh
em và cháu toại nguyện về tình cảm gia đình nhưng sao cháu vẫn thấy thiếu
vắng một điều gì đó, một nỗi cô đơn đến ứa nước mắt. Các cô, các chú hãy
nói cho cháu biết nỗi buồn đó là cái gì vậy và cháu có thể tìm được phương
thuốc để chữa “căn bệnh” này không?
Vì sao ở cái tuổi 16 con gái hay ngẩn ngơ nghĩ ngợi?
Vì sao khi học đến lớp 12 nhiều bạn hay lo lắng cho tương lai, hay suy
nghĩ về chỗ đứng của mình trong xã hội?
Vì sao một con người được sống trong bầu không khí gia đình và bè
bạn mà vẫn thấy hiu quạnh cô đơn…?
Có phải cái tuổi của cháu luôn là như vậy không các cô các chú?
Xin các cô các chú hãy cho cháu những lời khuyên!
(V. T. M – Lớp 1 2. PTTHYV. Hà Nội)
… đến những ca rối nhiễu tâm trí điển hình trong điều trị lâm sàng:
* Ca thứ nhất:
“Cháu gái D.V.D.H, 13 tuổi, học lớp 8, trường THCS, năm thứ 3 lớp
năng khiếu Nhạc viện Hà Nội, vào khoa Tâm bệnh, viện Nhi ngày 5–1–1999
với hội chứng ám ảnh nghi thức, trầm cảm (nghi rối loạn vận động ngoại
tháp– ý kiên của BS phòng khám). Cháu H là đứa trẻ không mong muốn,
ngoài kế hoạch, bị đe doạ phải phá thai. Tuy nhiên thai đủ tháng, đẻ bình
thường.
Sự phát triển của trẻ có trở ngại: là một cô bé hay nhút nhát, hay lo sợ,
kém ăn uống, khó ngủ, khó tính, bị chàm ở mặt và ở chân (đã chữa nhiều nơi
vẫn chưa khỏi), từ nhỏ đã khó thích nghi khi đến nhà trẻ mẫu giáo, sợ người
lạ. Nhưng H là đứa trẻ hiền lành, thông minh, nhạy cảm, thích âm nhạc. Gia
đình của trẻ không hoà thuận, trẻ hay lo âu hốt hoảng mỗi khi bố mẹ cãi cọ,
trẻ rất sợ bố mẹ li dị.
– Năm 12 tuổi, trẻ đi thi đàn ORGAN quốc tế được giải 3, hiện đang
tích cực chuẩn bị để đi thi nữa (mong đạt giải nhất), Nhưng lo sẽ không đạt
kết quả.
– Tháng 4 – 1998, nghe tin anh trai họ (trước đó có quan hệ thân với
đối chủ) bị bạn đâm chết, tuy không chứng kiến nhưng từ đó sinh lo hãi, luôn
nghĩ gia đình, bố mẹ, anh chị và bản thân cũng sẽ bị như vậy.
– Từ tháng 6 – 1998, trẻ hay đau đầu (vùng thái dương), mỗi khi ngồi
vào bàn để tập đàn, luôn hồi họp lo sợ không sao đánh đàn được, phải làm
một động tác gì đấy như khua tay mấy vòng để trấn an rồi mới đánh đàn
được, hoặc tay sờ vào bậu cửa vài lần. Thường có cảm giác đầy ứ hơi từ
trong bụng, phải bành cổ thở hắt ra. Khi thở ra ngoài, sợ “hơi độc” làm nhiễm
bẩn không khí nên phải thở vào ti vi, vào thành tủ. Làm việc gì cũng phải bắt
đầu từ trái sang phải theo một trình tự nhất định. Trạng thái lo hãi kéo dài.
– Tháng 8–1998 bố mẹ đưa đi khám, phát hiện bướu cổ 1A – điều trị
Lerothyrocin (2 tháng), trẻ không đỡ, thêm biểu hiện đờ đẫn, run chân tay,
nên gia đình dừng thuốc.
– Tháng 9–1998, vào năm học mới, trẻ học kém hơn, chữ viết xấu (chữ
viết đè lên nhau) văn viết lủng củng. Bệnh nặng hơn, cô giáo cho nghỉ lớp
trưởng, thêm mặc cảm bất tài (vẫn lo hãi không đạt thi đàn, lo hãi bố mẹ li dị”,
vẫn bị ám ảnh về hơi thở độc). Các vận động nghi thức tiếp tục tăng lên (trẻ
luôn có cảm giác có ai đó bắt buộc phải làm như vậy, trẻ muốn chống lại cũng
không được). Gia đình cho trẻ đi khám lại, bác sỹ chẩn đoán HC Gilles de la
Tourette, hoặc hội chứng ngoại tháp: khó thở, hơi cứng hàm, nuốt khó… Trẻ
phải nghỉ học, tiếp tục điều trị thuốc (từ tháng 10 – 12 /1998) nhưng bệnh tăng
lên (đau đầu, run chân tay, thường gồng co cứng toàn thân, đau tức vùng
ngực rất khó thở…).
– Sau đó trẻ được đưa vào Viện Nhi, khoa Tâm bệnh với chẩn đoán:
“Nhiễu tâm ám ảnh – nghi thức trội, trầm nhược”.
* Ca thứ hai:
“Cháu N.A.T sinh ngày 8–4–1985 là học sinh lớp 8, được mẹ đưa đến
bệnh viện Nhi Thụy Điển ngày 9–4–1999 với chứng bệnh ám sợ lẩn tránh xã
hội, rối loạn thần kinh thực vật. Cháu đã đi khám chữa nhiều nơi cả đông tây
y đều không khỏi và bệnh ngày càng nặng hơn.
Triệu chứng biểu hiện ra ngoài trong lần tiếp xúc đầu tiên là: mặt luôn
cúi, không nhìn thẳng, mắt trái nháy giật liên tục (khó chịu với ánh sáng), khó
nói (thấy nghẹn ở cô), đau đầu, nóng khắp đầu (đặc biệt phía sau đầu), tức
ngực khó thở. Cháu chỉ thích ngồi, nằm một mình trong phòng tối, không thích
tiếp xúc với ai, rất khó đi ngoài (cảm giác có một bối rối ở trong ruột phía
trong hậu môn). Tình trạng sức khoẻ nói chung suy kiệt, trầm cảm, thỉnh
thoảng có cơn cáu gắt hoặc nói nhảm bất thường, cháu từ chối ăn vì sợ ăn
vào bị nặng hơn, dốt đi.
Trước khi bị bệnh:
Cháu N.A.T là con cả trong gia đình bố làm y sỹ quân y, mẹ là cán bộ ở
một trung tâm nghiên cứu khoa học, trước khi bị bệnh cháu là con ngoan, rất
đảm đang trong công việc gia đình, ở trường là học sinh khá, cháu không có
nhũng biểu hiện gì đặc biệt về hành vi.
Bố mẹ cháu lấy nhau tự nguyện, khi mang thai cháu, mẹ hay bực bội vì
ở chung phòng với 2 người phụ nữ khác. Cháu có lịch sử sinh khó (phải dùng
giác hút nhưng không bị ngạt và hay ốm đau quặt quẹo. Vào lúc 2 tuổi cháu bị
viêm phế quản đi tiêm và bị teo cơ một bên chân từ đó (những vẫn đi lại
được). Từ tháng 7–1998 cháu bị con mèo nhà hàng xóm cắn vào ngón tay,
trước đó cháu thấy con mèo này ăn một con cóc, cháu rất sợ. Khoảng 1
tháng sau con mèo bị ốm không đi được và ít lâu sau con mèo chết. Từ sau
khi bị cắn cháu luôn lo sợ mèo truyền bệnh cho mình (cháu lo sợ nhưng chỉ
nói cho bố mẹ biết, khi con mèo chết).
Kể từ đó cháu thấy rất khó đi ngoài, hay vào nhà vệ sinh, mỗi lần ngồi 1
– 2 tiếng vẫn không đi được. Cháu có cảm giác có một khối rối, tắc sâu phía
trong hậu môn. Cháu đòi mẹ cho đi khám soi, chiếu, chụp nhưng không phát
hiện có điều gì khác thường (cháu bộc lộ đã đôi lần cho ngón tay vào trong
hậu môn và dùng vòi nhựa chọc). Cùng thời gian này cháu dần dần cảm thấy
đau đầu, đau nửa đầu, rồi toàn đầu, thường thấy nóng ở sau đầu rồi lan ra
khắp đầu; thường xuyên có cảm giác tức ngực nghẹt thở, khó nói (để nói một
câu gì đó có khi phải mất 5 - 7 phút mới bật ra được). Cháu cũng dần dần xa
lánh bạn bè, tránh mọi quan hệ xã hội (mỗi khi có ai đến nhà cháu thụt vào
buồng). Cảm giác lo âu xuất hiện thường xuyên, cháu tưởng tượng ra mặt
mình đen và mọc mụn. Trên lớp, lúc cô gọi hỏi bài thì cháu ấp úng không nói
ra được (cháu cho biết vì sợ nói sai, vì cảm thấy có gì nghẹn không bật ra
được). Từ đó cháu luôn cúi và nghiêng đầu một bên, mắt nháy liên tục và sợ
ánh sáng…”.
* Ca thứ ba: “Cháu N.V.B – nam, 11 tuổi, là học sinh lớp 6B trường
THCS Chương Dương, cô giáo chủ nhiệm lớp báo cáo, B là học sinh cá biệt,
bất thường, không chịu học, thường xuyên bị điểm 1,2 và bị ghi tên vào sổ
đầu bài nhiều lần trong tuần, nhưng khi phê bình chỉ cười, không xấu hổ. B
thường xuyên không làm chủ được hành động của mình. Trong lớp B hay
cười, nói tự do hay mơ màng ngủ gật, không học bài, không làm bài tập chép
bài không đầy đủ, thường xuyên quên sách vở hay bút, hay đánh mất đồ
dùng học tập… Nhưng B vẫn thích đến lớp học, không trốn lớp hay bỏ tiết, B
cũng không có bạn thân trong lớp. Cô giáo đã làm hết cách” mà trẻ vẫn không
tiến bộ…
Hoàn cảnh gia đình:
B là con một trong gia đình, bố làm nghề lái xe, “khi có mặt ở nhà, bố là
người dữ đòn (làm trẻ sợ). Mẹ làm nghề bán hàng ở chợ, khá bận bịu với
công việc buôn bán làm ăn, cũng ít có thời gian quan tâm đến trẻ, nhưng rất
chiều trẻ. Bố mẹ cho biết trẻ đẻ non một tháng, lúc nhỏ có vẻ hơi chậm, có lúc
dường như hơi ngẩn…
Đánh giá trí tuệ bằng trắc nghiệm:
Chúng tôi dùng bộ test: WICS – III để đánh giá trí tuệ cho trẻ. Lúc đầu
trẻ háo hức thích làm, sau khi làm được 30 phút, trẻ đòi bỏ, phải động viên trẻ
mới chịu làm tiếp. Chỉ số IQ của trẻ không có gì đặc biệt, phần trắc nghiệm
hành động (Performance test) có IQ: 88, phần trắc nghiệm bằng lời (Verbal
test) có IQ: 92, nhưng riêng tiểu trắc nghiệm mã hoá vận động (Code) có số
điểm rất thấp (chỉ tương đương với trẻ 8 tuổi)…”
* Hồ sơ một vụ tự sát: Bức thư tuyệt mệnh
3–4–1995. Thế là tôi quyết định chọn cái chết cho mình, đó cũng là một
giải pháp cuối cùng để giải thoát chính mình để sang thế giới bên kia. Tất cả
những quá khứ và tương lại sẽ vứt bỏ hết, chỉ còn lại cái chết là tốt nhất.
Vĩnh biệt cuộc đời đau khổ – Tôi chịu quá nhiều mất mát rồi. Bé đã sớm
phải chứng kiến cảnh cha mẹ mỗi người một đường. Tôi trơ trọi đứng giữa –
Nhìn mà tuyệt vọng.
Tôi xin viết vài dòng ngắn ngủi này. Cái chết của tôi chắc phần nào nhẹ
bớt đi một gánh nặng. Mà đáng ra tôi không nên sinh ra và lớn lên ở xã hội
này. Nhưng tôi vẫn phải tồn tại. Tôi tồn tại mà tâm hồn tôi đã chết. Tôi chỉ
mong muốn một điều:
Hãy để tôi được chết
Thanh thản, nhẹ nhàng như bao người đã chọn cho mình một hướng
đi. Và đừng cứu tôi – Nếu tôi có sống đi chăng nữa cũng chỉ là cái gai di động
trước mắt mọi người. Và hồn đã chết rồi chỉ còn thể xác. Và mọi người lại
trách móc. Tôi đần độn, tôi đần độn…, những cái gì đã làm cho tôi đần độn
như vậy, cái gì hả? Có phải cuộc sống này đã làm tôi mất mát lớn như vậy?
Tôi chỉ mong muốn cho mình một cuộc đời hạnh phúc, đầm ấm, sung sướng.
Mà cái ước mơ nhỏ nhoi đó cũng không có được. Thôi tôi dừng bút tại đây.
Tôi mong rằng mọi người đều hạnh phúc.
Vĩnh biệt Q. T.
Vĩnh biệt xã hội, ngôi nhà thế giới này
Mong rằng kiếp sau gặp lại
Cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn phải không?
Theo lời kể của thân nhân:
Sau 16h30 cùng ngày (sách, vở cặp còn để trên bàn), mẹ gọi con
không thấy trả lời, vội mở chăn ra thì thấy chân tay lạnh toát nước tiểu ướt
đẫm quần áo, không thở, mắt cứng đờ vội mang đi bệnh viện nhưng không
cứu được.
Được biết, bữa trưa hôm đó (3–4–1995), nạn nhân ăn cơm với bà
ngoại (vốn ít quan tâm đến cháu), nhưng ăn ít. Sau đó về buồng riêng (có lẽ
uống “thuốc diệt chuột Trung Quốc).
Lá thư kể trên được tìm thấy trên mặt bàn, cạnh giường nằm. chắc là
được viết ra ngay trước lúc có hành vi tự sát.
Q T. là một thiếu nữ tuổi 16, không thi vào được lớp 8, mới xin vào học
một trường trung cấp tài chính do một người chị họ của mẹ đang làm ở ngành
này xin cho. Bố mẹ ly dị từ lúc được một năm tuổi.
Mẹ là công nhân, học hết lớp 7, tự nguyện kết hôn với người chồng,
hơn 7–8 tuổi, vốn là một cán bộ phiên dịch trung cấp tiếng Nga, đã có lần đi
theo một đoàn cán bộ sang Nga làm phiên dịch, bị đuổi về nước vì có quan
hệ bất chính với một người con gái Nga. Trở về nước không có việc làm, bố
mẹ ở quê là nông dân nghèo. Tuy nghèo, nhưng vẫn cố làm ra vẻ sang trọng:
mượn quần áo mới. giày mới.Tình cờ một lần nói chuyện với người Nga trên
đường phố, được vợ (chưa cưới) chứng kiến; vả lại bảnh trai. có sức hấp
dẫn… rồi hai người kết hôn. Sau khi kết hôn, hai người chỉ thuê được một
căn nhà rất tồi tàn. Cảnh nghèo túng không thể che giấu được, người vợ vỡ
mộng và quyết định ly dị chồng khi đứa con vừa tròn một tuổi.
Từ khi cha mẹ ly dị, Q.T ở với mẹ và ông bà ngoại. Mẹ ở vậy nuôi con
nhưng vẫn có nhu cầu gần gũi với nhiều người đàn ông khác, thường tự
nguyện “đi lại” với một người đàn ông, ngay cạnh nhà, là một kỹ sư đã bỏ vợ,
sống độc thân, có lần đánh ghen với một người phụ nữ khác là “bồ” của
người đàn ông này.
Mẹ ít có thì giờ và ít để tâm chăm sóc con, lại hay mắng “Sao mày đần
thế, sao mày hãm thế, không có bạn bè gì cả (ý nói bạn trai)… “, chỉ có ông
ngoại quan tâm, nhưng ông đã chết cách đó hai năm.
Một tháng trước đây, Q.T đã rủ một bạn gái đi mua thuốc diệt chuột
Trung Quốc, nhưng bạn ngăn lại (lời bạn kể).
Lời bàn của nhà tư vấn tâm lý:
Lá thư có lẽ đã phản ánh khá trung thực tâm trạng cô gái. Nỗi tuyệt
vọng bắt nguồn trước hết từ cuộc tan vỡ hôn nhân của hai bố mẹ. Từ khi ly
dị, bố Q.T vào ở hẳn Sài Gòn không một lần gặp lại con: cuộc chia ly là vĩnh
viễn (thậm chí khi nhận tin con chết cũng không ra thăm). Càng lớn lên, Q.T
càng cảm thấy đau khổ vì gia đình tan vỡ. “… Bé đã sớm phải chứng kiên
cảnh cha mẹ mỗi người một đường. Tôi trơ trọi đứng giữa, nhìn mà tuyệt
vọng”.
Trong tâm thức người Việt Nam, không có cha, hay mất cha là một tổn
thất rất lớn: thiếu một chỗ dựa, một sự nâng đỡ “con không cha như nhà
không nóc”, thiếu một tình thương và một lòng tin.
Tuy sống với mẹ, nhưng Q.T lại không được hưởng tình thương yêu
chăm sóc của mẹ. Dường như đối tượng đầu tư cảm xúc của người mẹ này
không phải là đứa con côi cút đáng thương mà là những người đàn ông đủ
loại nhằm đáp ứng một nhu cầu tình dục. không thể kiềm chế. Nguồn lực
nâng đỡ duy nhất còn lại là ông ngoại, nhưng tình thương yêu cuối cùng này
cũng không còn nữa. “…Tôi trơ trọi đứng giữa, nhìn mà tuyệt vọng”.
Song, một tác nhân nữa càng làm cho stress gia tăng là sự mắng nhiếc
của người mẹ: “Sao mày đần thế, sao mày hãm thế”. giống nhừ những trái
bom làm sập đổ hoàn toàn lòng tự tin (self–esteem) vốn rất mong manh vì đã
không có tình yêu thương nào. Lòng tự trọng đã bị thương tổn nặng; những
lời mắng nhiếc hàng ngày của người mẹ đã tạo ra một mặc cảm tội lỗi: “… và
đừng cứu tôi. Nếu tôi có sống đi chăng nữa cũng chỉ là cái gai di động trước
mắt mọi người…”
Q.T đã hình thành một ý tưởng tự sát từ lâu, ít ra là một tháng trước
(hôm rủ bạn đi mua thuốc bả chuột). Song, điều bất hạnh là hành vi này đã
không được phát giác và cảnh giác.
Rõ ràng sự tan vỡ gia đình, tình yêu thương bị tước đoạt, sự mất lòng
tin và lòng tự trọng đã tạo ra một stress mãn tính và dẫn tới hành vi tự sát: đó
là một bằng chứng của ứng phó tiêu cực (negative coping), tìm đến cái chết,
một hành vi tự huỷ hoại, để trốn thoát (Trích tài liệu “Stress & đời sống”, GS
Đặng Phương Kiệt, 1997).
… nhu cầu tư vấn và trị liệu tâm lý
Xã hội hiện đại càng phát triển, càng phát sinh ra nhiều mối nguy hiểm
tiềm năng cho sức khoẻ của con người, đặc biệt là sức khoẻ tâm trí. Đó là
môi trường ngày càng bị ô nhiễm, không gian thoáng sạch ngày càng bị thu
hẹp, thói quen sống huỷ hoại sức khoẻ, stress do các nguyên nhân sinh–tâm
lý và xã hội… đang trở thành những tác nhân kích thích làm nảy sinh và duy
trì các dạng mức khác nhau của bệnh tâm trí.
Bệnh tâm trí còn gọi là bệnh tâm thần, hiểu theo đúng nghĩa, bao gồm
một loạt các dạng thái khác nhau. từ những rối nhiễu tâm lý như lo âu, trầm
cảm, ám ảnh, hung tính… đến những rối loạn tâm thần như hoang tưởng, tâm
thần phân liệt, động kinh.
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy xã hội càng
phát triển, con người càng mắc nhiều các chứng rối nhiễu tâm trí. Theo thống
kê, từ 15–20% dân số thế giới hiện đang mắc một hay nhiều chứng rối nhiễu
tâm thần.
Ở Mỹ, theo số liệu của các tác giả Zimbardo & Weber (1997): Mrazek &
Haggerty (1994), năm 1978 có khoảng 10–15% dân số Mỹ mắc ít nhất một
chứng bệnh nào đó về tâm trí: năm 1991 có khoảng 20% dân số mắc rối
nhiễu tâm trí nếu tính từng năm, và khoảng 32% nếu tính cả cuộc đời của
từng cá nhân (trong đó trẻ em và thanh niên chiếm gần 2/3). Theo số liệu của
Carson (1996) hiện có trên 56 triệu người Mỹ mắc ít nhất một triệu chứng rối
nhiễu tâm trí đáp ứng tiêu chuẩn DSM–IV.
Ở Australia (Úc), theo D. Leach (1996) từ 10%–25% dân số mắc rối
nhiễu tâm trí, khoảng 20–25% trẻ em Úc có rối nhiễu về hành vi và khó khăn
học đường.
Còn ở Việt Nam, tỷ lệ nhưng người mắc các chứng bệnh tâm trí là bao
nhiêu? Hiện chưa có những nghiên cứu điều tra trên phạm vi cả nước, nhưng
theo một số nghiên cứu mang tính cục bộ (bệnh viện tâm thần trung ương) ở
một số xã, một số tỉnh thì tỷ lệ này là từ l5–20%. Cũng theo các nghiên cứu
này, khoảng 1,5% dân số mắc các chứng loạn thần nặng như tâm thần phân
liệt, động kinh… Như vậy, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là sức khoẻ
tinh thần để phòng tránh các chứng bệnh tâm trí là nỗi lo của toàn xã hội.
Thực tiễn công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam đã và
đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trên các bình diện kinh tế, văn hoá và xã
hội. Những biến đổi xã hội này không thể không gây xáo động tâm tư, do vậy
ảnh hưởng mạnh đến đời sống tâm trí của mỗi cá nhân. Chẳng hạn theo số
liệu của bộ phận tư vấn tâm lý–tình cảm–xã hội 1080, ngành bưu điện, mỗi
ngày trung bình có khoảng 100 cuộc gọi, trong 3 năm (1997–1999) đã có gần
80.000 cuộc gọi nhờ tư vấn qua điện thoại. Tại trung tâm khám chữa bệnh và
tư vấn sức khoẻ số 9 Ngọc Khánh, chỉ tính riêng hai năm 97–98 đã có gần
200 ca lâm sàng với những rối nhiễu tâm lý từ ám sợ, lo âu, trầm cảm đến
hoang tưởng, động kinh… đến nhờ tư vấn và tư liệu tâm lý.
Nhu cầu tư vấn và trị liệu những rối nhiễu tâm trí ở trẻ em lại càng lớn
và ngày càng tăng lên. Một nghiên cứu thử nghiệm mới đây của Hội Tâm lý
học Hà Nội về rối nhiễu hành vi ở lứa tuổi học sinh PTTH (trên 1266 hs. ở 27
lớp, thuộc bốn trường PTTH khu vực Hà Nội), phát hiện thấy có khoảng gần
10% học sinh có ít nhất một biểu hiện rối nhiễu hành vi (theo hệ thống phân
loại của Hội tâm thần học Mỹ, 1994). Một nghiên cứu khác mới nhất (tháng
4/2000) của chúng tôi cùng nhóm sinh viên Khoa Tâm lý ĐHKHXH&NV về rối
nhiễu lo âu và kỹ năng thích ứng xã hội ở lứa tuổi học sinh THCS (trên 503 hs
thuộc 3 trường THCS khu vực Hà Nội) cho thấy có ít nhất 17,74%– 18,81%
hs có biểu hiện rối nhiễu lo âu và 17,65 – 19,21% hs có thiếu hụt kỹ năng
thích ứng xã hội (có nhận thức và hành vi kém thích nghi) trên tổng số hs
được điều tra.
Như vậy nếu lấy một con số dự báo khiêm tốn, trung bình có khoảng
15% trẻ em có khó khăn học đường hoặc có rối nhiễu hành vi thì đã có hàng
triệu trẻ em cần sự giúp đỡ của các bác sỹ tâm lý. Tại sao vậy? Trẻ em hiện
nay phải chịu sức ép nặng nề trong học tập, một bên là của bố mẹ nôn nóng
muốn cho con học sớm, đọc nhiều… bên kia là của các cơ quan giáo dục
ngày càng dồn vào chương trình học rất nhiều môn, nhiều kiến thức mới…
Trong lúc đó, những nhu cầu tâm lý khác của trẻ không được đáp ứng… ép
học, kìm hãm nhu cầu… từ đó dễ sinh ra rối nhiễu tâm trí.
Dưới góc độ nghiên cứu chẩn đoán trị liệu, theo báo cáo thống kê phân
loại các rối nhiễu tâm trí của trẻ em và thiếu niên qua 352 hồ sơ của bác sĩ
Phạm Văn Đoàn thuộc Trung tâm Nghiên cứu tâm lý trẻ em (NT) tính từ tháng
1/1989 đến tháng 10/1995 cho biết có những nhóm rối nhiễu tâm trí cơ bản
sau đây:
– Loạn tâm: có 24 trường hợp, chiếm 6,8%, trong đó chủ yếu là tâm
thần phân liệt ở tuổi tiền đậy thì và dậy thì.
– Nhiễu tâm: có 95 trường hợp, chiếm 27%, chủ yếu là nhiễu tâm tiến
triển có biểu hiện hysteria và ám sợ trội.
– Bệnh lý về nhân cách và các rối nhiễu tiến triển ngoài loạn tâm và
nhiễu tâm có 14 trường hợp, chiếm 4%, trong đó chủ yếu là trái nết, dị tính.
– Các rối nhiễu phản ứng: có 5 trường hợp.
– Các suy giảm tâm trí: có 44 trường hợp chiếm 12.5%, bao gồm chậm
khôn nhẹ và vừa.
– Các rối nhiễu chức năng công cụ và luyện tập: có 96 trường hợp
chiếm 27,3%, trong đó chủ yếu là TIC (máy giật cơ) đơn độc và rối nhiễu về
ngôn ngữ, hành vi học đường.
– Các rối nhiễu có biểu hiện thực thể và rối nhiễu ửng xử: có 106
trường hợp, chiếm 30% chủ yếu là đái dầm.
Theo kết, quả nghiên cứu chẩn đoán điều trị trực tiếp của chúng tôi
phối hợp cùng với khoa Tâm bệnh, Bệnh viện Nhi Thụy Điển và Trung tâm
Khám chữa bệnh và Tư vấn sức khoẻ số 9 Ngọc Khánh và Trường THCS
Chương Dương trong 10 tháng, tính từ tháng 1 đến tháng 10 năm 1999, có
64 ca, đến thăm khám về tâm lý, trong đó có 35 trường hợp là trẻ em và thiếu
niên (dưới 16 tuổi) gồm 20 nữ và 15 nam. Rối nhiễu tâm trí của nhóm trẻ này
chủ yếu là: nhiễu tâm (gồm lo âu, ám ảnh nghi thức, ám sợ, trầm nhược…),
rối nhiễu các chức năng công cụ (gồm TIC, nói lắp, hiếu động, hung bạo, kém
học…). rối nhiễu có biểu hiện thực thể hoặc rối nhiễu ứng xử (đau bụng, đau
cơ thể, ngất, mệt mỏi chóng mặt, chán ăn tâm thần, đái dầm, đau đầu.)
* * *
Như vậy nhu cầu về điều trị các rối nhiễu tâm trí ở trẻ em ngày càng gia
tăng trong xã hội Việt Nam. Trong khi đó, đội ngũ những người làm tâm lý lâm
sàng hiện tại còn rất ít ỏi, đặc biệt tay nghề thực hành trị liệu của đội ngũ này
còn rất nhiều hạn chế, do chưa được huấn luyện đàn tạo một cách bài bản.
Do vậy cuốn sách chuyên khảo này mong muốn cung cấp những kiến thức,
những công cụ mang tính hệ thống, có bài bản kỹ thuật, giúp cho việc tư vấn
và trị liệu tâm lý trong điều trị lâm sàng có hiệu quả hơn. Cuốn sách cũng
hướng đến mục tiêu chiến lược là giúp thân chủ (người bệnh gia đình thân
chủ, biết được những “nguyên nhân”. hiểu “cơ chế” phát sinh, duy trì rối
nhiễu, học cách kiểm soát, phát triển khả năng điều chỉnh, tự trị liệu, tự chữa
bệnh và phòng ngừa khả năng mắc lại các rối nhiễu tâm trí.
Chúng tôi rất mong nhận được sự cổ vũ, chỉ dẫn, góp ý nhiệt tình, chân
thành của các nhà chuyên môn, của bạn đọc để bổ sung và hoàn thiện trong
lần tái bản sau.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội – 2000, TS Nguyễn Công Khanh
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÂM LÝ HỌC VÀ SINH LÝ HỌC LỨA TUỔI,
VIỆN KHGD, 101 TRẦN HƯNG ĐẠO, HÀ NỘI
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỊ LIỆU TÂM LÝTrong số những phương pháp điều trị người bệnh đặc biệt là những
người mắc các chứng tâm bệnh hay bệnh tâm thể, liệu pháp tâm lý có một
sức hấp dẫn đặc biệt. Càng ngày các chuyên gia y học, tâm thần học và tâm
lý học càng nhất trí cho rằng liệu pháp tâm lý đóng một vai trò đáng kể. Nhiều
khi đặc biệt quan trọng trong việc điều trị bệnh. Bởi vì bất kỳ một loại bệnh
nào dù đó là thực thể hay tâm thể đều có liên quan đến các quá trình sinh–
tâm lý. Nói cách khác, những yếu tố tâm lý là một thành tố ảnh hưởng đáng
kể đến quá trình phát sinh, duy trì và phục hồi bệnh lý.
1. Trị liệu tâm lý là gì?Trị liệu tâm lý hay tâm lý liệu pháp (Psychotherapy) khác biệt với trị liệu
y sinh học (Biomedical Therapy), mặc dù chúng có chung nguồn gốc là trị liệu
hay điều trị (Therapy) một thuật ngữ chung nhất được dùng để chỉ tất cả
những hình thức chữa trị một chứng bệnh hay một rối nhiễu bất kỳ). Trị liệu
tâm lý cũng khác biệt với các kỹ thuật điều chỉnh hành vi khác như phẫu thuật
tâm lý (Psychosurgery) hay tâm dược trị liệu (Psychodrug therapy).
Nếu sử dụng mô hình máy tính để mô phỏng hoạt động của não bộ
chúng ta, có thể nói rằng những vấn đề của tâm trí hoặc có thể xảy ra trong
phần cứng (thành phần, cấu trúc) hoặc ở phần mềm (các chương trình). Hai
hướng điều trị chủ yếu đối với các chứng rối nhiễu tâm lý (Psychological
disorders) nhằm vào phần cứng hoặc phần mềm.
– Liệu pháp y sinh học nhằm trực tiếp vào việc thay đổi phần cứng, tức là tạo những ảnh hưởng làm thay đổi các quá trình sinh lý như
tăng cường hay hạn chế các quá trình dẫn truyền thần kinh hay các quá trình
sinh hoá của hệ nội tiết, các quá trình trao đổi chất ở tế bào… Các liệu pháp
điều trị y sinh học nhằm thay đổi các hoạt động của não bộ với sự can thiệp
của thuốc (hoá chất) hoặc vật lý. Chỉ có các bác sỹ tâm thần hay các chuyên
gia y học (bác sỹ) mới có quyền kê đơn cho thuốc, điều trị bằng liệu pháp y
sinh học.
– Liệu pháp tâm lý nhằm thay đổi phần mềm, tức là thay đổi xúc
cảm, cảm giác, nhận thức – hành vi, những yếu tố đang duy trì trạng thái tâm
lý bất ổn của cá nhân. Đó là quá trình tương tác qua lại giữa nhà trị liệu (với
tư cách người thầy có kỹ năng, kinh nghiệm được huấn luyện) và thân chủ (là
chủ thể đang có những vướng mắc không tự giải quyết được). Trong đó, nhà
trị liệu lắng nghe, thấu hiểu, nhạy cảm với những vấn đề của thân chủ thông
qua mối quan hệ đồng cảm và bằng kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, giúp
tháo gỡ, giải toả những vướng mắc trói buộc về cơ thể, xúc cảm tình cảm, tư
tưởng nhận thức do những stress, nếp nghĩ, thói quen tập nhiễm tạo ra. Các
liệu pháp tâm lý bao giờ cũng liên quan tới việc sử dụng một hệ thống những
biện pháp, những kỹ thuật” tác động, điều chỉnh tiếp cận theo hướng động
thái tâm lý. nhận thức–hành vi, hiện tượng học hay hoạt động liên cá nhân…
để đạt được những hiệu quả nào đó lên một chứng bệnh hoặc một rối nhiễu
tâm trí. Tuy nhiên có những ràng buộc về mặt pháp lý và nghề nghiệp liên
quan tới việc thực hành các kỹ thuật trị liệu tâm lý. Như vậy, hiểu theo nghĩa
hẹp, chính xác hơn, liệu pháp tâm lý chính là những biện pháp, kỹ thuật trị
liệu nào đó đã được chấp nhận và được thực hiện bởi những người có
chuyên môn hoặc đã qua những lớp đào tạo, huấn luyện với những ràng
buộc đạo đức, nghề nghiệp – pháp lý.
2. Tính lịch sử và văn hoá trong quan niệm và cách điều trị các chứng bệnh tâm trí
Ở những nền văn hoá khác nhau, việc điều trị các chứng bệnh rối nhiễu
tâm lý và rối loạn tâm thần (gọi chung là rối nhiễu hay rối loạn tâm trí) được
xem xét trong phạm vi rộng hơn, bao hàm cả các giá trị tôn giáo và xã hội.
Lịch sử chữa trị các chứng tâm bệnh đã chứng kiến khung cảnh đối xử
thiếu tình người đối với các bệnh nhân có những rối loạn tâm trí.
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, con người luôn luôn sợ những
rối loạn tâm tư, cho đó là do “ma làm. quỷ nhập”.
Giữa thế kỷ XV, ở Đức, thuật ngữ MAD (người điên) được quy ghép
cho quỷ thần (quỉ thần đã lấy mất lý trí của những người này). Theo toà án
giáo hội, người có rối loạn tâm trí sẽ bị hành hạ. Quan niệm và thái độ sai lầm
này đã lan ra khắp Châu Au. Thậm chí, thời kỳ phục hưng nở rộ những tài
năng về nghệ thuật và trí tuệ nhưng nỗi lo sợ những người có những rối loạn
tâm trí vẫn tăng lên. Nhà thờ Thiên Chúa giáo ở ROMA đã phát động chiến
dịch “tiễu trừ quỉ”. Những người bị rối loạn tâm trí bị nhốt, bị đối xử như
những con vật, bị hành hạ đau đớn cho đến chết hoặc bị truy bức như những
nhân chứng của ma quỉ.
Vào năm 1692, ở thị trấn Massachusetts, có một số cô gái và những
phụ nữ trẻ trải nghiệm những cơn co giật, ngất và buồn nôn. Những người
này có cảm giác đau tức, khó thở, cảm giác như bị ai cáu véo, cảm giác đau
buốt như bị ai cắn. Một số có cảm giác như bay trong không khí. Những triệu
chứng kỳ lạ này bị coi là do quỉ thần ám hoặc do các thầy phù thuỷ sai khiến,
kết quả là hơn hai mươi người đã bị hành hình.
Mãi tới cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nhận thức rối loạn tâm trí như
là một chứng bệnh tâm thần mới xuất hiện ở Châu Âu. Chẳng hạn vào năm
1801, một bác sỹ người Pháp tên là Philippe Pinel đã viết: “Khác xa với
những người phạm tội, họ xứng đáng bị trừng phạt. Người bị rối loạn tâm trí
là người bệnh, họ có trạng thái đau khổ của con người. Họ nên được điều trị
bằng phương pháp đơn giản nhất để phục hồi lý trí cho họ”. Năm 1818, Reie–
một bác sỹ. một nhà giải phẫu học–đã viết cuốn “Cuồng tưởng và phương
pháp tâm lý trong điều trị những sang chấn tâm lý”, trong đó chủ trương sử
dụng liệu pháp tâm lý như là một hướng điều trị tích cực.
Ở Hoa Kỳ, những người bị rối loạn tâm trí bị hạn chế về quyền được
bảo vệ, quyền được an toàn trước cộng đồng. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19,
khi tâm lý học được xem như là ngành học chiếm được niềm tin và sự kính
trọng thì trị liệu tâm lý được coi là một chiến lược chữa trị quan trọng. Các
chứng rối lọan tâm trí được xem là những chứng bệnh có nguồn gốc tâm lý
và xã hội có thể được điều trị bằng vệ sinh tâm lý như các bệnh lây nhiễm đã
được điều trị bằng vệ sinh thân thể.
Tuy nhiên càng ngày xã hội Phương Tây hiện đại càng xem các chứng
rối loạn tâm trí như là hậu quả của những ứng xử cá nhân do những kiểu thất
bại nào đó trong các mối quan hệ giữa cá nhân với gia đình, cộng đồng hay
xã hội. Do vậy việc chữa trị muốn có hiệu quả phải tính đến các yếu tố tâm lý
này và cố gắng tìm kiếm, phát triển những liệu pháp tâm lý đặc hiệu.
Trong nhiều nền văn hoá khác, việc điều trị các chứng bệnh tâm lý liên
quan đến tôn giáo, phép phù thuỷ, ma thuật, bùa chú và các nghi thức được
thực hiện khá huyền bí bởi các thầy lang hoặc thầy cúng. Một số người đã
thừa nhận rằng có một sức mạnh thần bí đặc biệt, có thể giúp biến đổi hoàn
toàn những trạng thái rối loạn của người bệnh. Các nghi lễ chữa bệnh dân
gian đã sử dụng yếu tố tượng trưng, thần bí và nghi thức, truyền niềm tin và ý
nghĩa cảm xúc đặc biệt vào quá trình điều trị. Do đó làm tăng tính chịu ám thị
và có thể có tác dụng nào đó ảnh hưởng tới các tác nhân (từ bên trong hay
bên ngoài) đang duy trì bệnh.
3. Nhu cầu tìm kiếm, phát triển các trị liệu tâm lý– Tại sao người ta tìm đến điều trị: Có nhiều lý do vì sao người này
cần tìm đến điều trị và tại sao người khác không tìm đến. Phần lớn con người
ta bước vào điều trị khi hành vi hàng ngày của họ làm đảo lộn các hoạt động
bình thường của cá nhân, làm đảo lộn các tiêu chuẩn bình thường của xã hội
hoặc làm đảo lộn các cảm giác vốn có của họ về sự thích ứng đến mức độ
không chịu đựng được. Họ cảm nhận thấy có sự bất thường, hoặc mất khả
năng tự kiểm soát. Thường thì sau những cố gắng không có hiệu quả để giải
quyết những vấn đề của mình, họ bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ (có thể từ lời
khuyên của bạn bè, gia đình hoặc đồng nghiệp…). Sau nữa họ đi đến các bác
sỹ và chỉ một số rất ít chủ động tìm gặp các chuyên gia tư vấn, tâm thần hay
trị liệu tâm lý
– Tại sao nhiều người không tìm đến điều trị: có thể vì họ không
nhận ra sự bất thường của chính họ. Thường thì chỉ những người thân xung
quanh họ mới nhận thấy. Vì vậy, họ không có nhu cầu điều trị. Có một số
người biết mình bất thường nhưng không dám tìm đến các nhà tư vấn trị liệu
tâm lý vì sợ “dư luận xung quanh lên án’’ hoặc chính họ có định kiến sai lầm,
không thích bộc lộ cho các nhà tư vấn tâm thần hay tâm lý biết. Nhưng lý do
chủ yếu không đến các cơ sở điều trị có thể là do những vấn đề tâm lý của
chính họ. Những người mắc chứng ám sợ khoảng trống gặp khó khăn, thậm
chí không thể ra khỏi nhà để đến các cơ sở điều trị. Những người bị hoang
tưởng không tin vào các thầy thuốc tâm thần. Những người bị trầm nhược có
thể do nhút nhát không dám đến phòng khám tâm thần… Thường thì họ dễ
tìm đến một bác sỹ y khoa hơn là một bác sỹ tâm thần (hoặc bác sỹ tâm lý).
– Có không ít người băn khoăn khó tin điều trị bằng tâm lý có thể khỏi bệnh. Bởi vì thực tế có những người đã chạy chữa rất nhiều nơi, uống
đủ các loại thuốc tây, tàu vẫn không khỏi bệnh. Vậy họ không tin vào những
liệu pháp tâm lý có thể chữa khỏi bệnh là điều dễ hiểu. Thật ra các liệu pháp
tâm lý có thể giúp đỡ rất nhiều trong việc giải quyết những vấn đề có liên
quan đến bệnh lý vốn đã kéo dài, ảnh hưởng nặng nề tới đời sống và đôi khi
nó là cách điều trị duy nhất có hiệu quả với một chứng tâm bệnh nào đó ở
một người nào đó.
4. Phân biệt tính bất thưòng – những dấu hiệu của tâm bệnh lýTrong cuộc sống, đôi khi ta lo lắng thái quá, một thoáng nghi ngờ năng
lực của bản thân hay một lúc nào đó, ta buồn chán, thất vọng, muốn xa lánh
mọi người là chuyện thường xảy ra trong đời sống thường nhật. Nhưng nếu
như cảm giác trên đây thường xuyên xảy ra và có nguy cơ ảnh hưởng hay đe
doạ các chức năng sinh hoạt bình thường của một cá nhân thì được xem là
những dấu hiệu tâm bệnh lý.
– Bản chất của tâm bệnh lý là những rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm thần không kiểm soát được.
Tâm bệnh lý liên quan đến những rối nhiễu về xúc cảm nhận thức hay
hành vi dẫn một người đến sự chán nản tuyệt vọng, không mong muốn hoặc
không có năng lực đạt được những mục tiêu quan trọng. Tâm bệnh lý có thể
phát sinh một cách từ từ, ngấm ngầm phát triển và bằng những con đường
riêng, nó có mặt trong nhiều tình huống của muôn mặt đời thườg. Lúc đầu nó
làm giảm các trạng thái khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần, sau đó nó làm rối
loạn hay phá huỷ các chức năng kiểm soát đời sống bình thường của thân
chủ và gia đình họ, rồi gây cảm giác khó chịu, đe doạ làm mất an toàn cuộc
sống của những người xung quanh.
Theo tài liệu hướng dẫn phân loại chẩn đoán các rối nhiễu tâm thần
của Hội Tâm thần học Mỹ – DSM–IV (Diagnostic and Statistical Mannal for
Mental Disorders. 1994), mỗi loại rối nhiễu tâm thần (mental disorders) được
khái niệm hoá như là một nhóm những triệu chứng bất thường về tâm lý
(hoặc mẫu hành vi ứng xử bất thường có ý nghĩa về mặt lâm sàng, chúng xảy
ra ở một cá nhân và liên quan đến những stress tiêu cực hoặc liên quan đến
việc làm mất năng lực của cá nhân (tức là làm hỏng một hay một số các chức
năng duy trì cuộc sống cân bằng của cá nhân đó), hoặc làm tăng đáng kể sự
nguy hiểm cho cá nhân qua việc phải chịu đựng những cảm giác tiêu cực
(như ám ảnh về cái chết, sự đau khổ, sự mất năng lực) hoặc sự mất mát
đáng kể sự tự do của cá nhân (nhưng những triệu chứng này không phải là
một sự đáp ứng được người ta chấp nhận về mặt văn hoá hoặc được người
ta mong đợi, thường xuyên xảy ra đối với một sự kiện cụ thể, chẳng hạn cái
chết của người thân). Bất kể điều gì là nguyên nhân của những triệu chứng,
thì sự rối nhiễu hiện có phải được xem là sự biểu hiện của sự suy thoái về
chức năng ở các góc độ, sinh lý - tâm lý (nhận thức–hành vi) xảy ra ở cá
nhân đó. Chúng ta không nên xem những hành vi bất tuân thủ, hành vi lệch
chuẩn (ví dụ như chính trị, tôn giáo, tính dục) hoặc những xung đột giữa cá
nhân và xã hội là những rối nhiễu tâm thần, trừ phi những hành vi này là triệu
chứng của sự suy thoái chức năng ở một cá nhân như đã nêu ở trên.
Tâm bệnh lý một khi phát sinh, thường tạo ra gánh nặng tài chính, do
mất năng lực sản xuất và quá trình chữa trị thường kéo dài, tốn kém. Vậy làm
thế nào để sớm nhận biết khi nào thì một hành vi bình thường chuyển sang
bất thường? Bằng kinh nghiệm dân gian, qua quan sát người ta có thể nhận
ra. Chẳng hạn, một người hay cười nói không đúng lúc đúng chỗ, có những
lời nói hay hành động kỳ cục hoặc luôn thái quá?… Tuy nhiên để xác định
chính xác là không dễ dàng.
– Tâm bệnh lý là những rối nhiễu tâm lý hay những rối loạn tâm thần có nhiều dạng mức khác nhau, nên hiểu đó là một liên thể từ trạng thái nhẹ cho đến trạng thái nặng.
Theo các chuyên gia trị liệu tâm lý thì có 6 chỉ báo sau đây phân biệt
tính bất thường hay đó là những dấu hiệu để nhận biết tâm bệnh lý:
1. Buồn chán: Có cảm giác buồn chán, đau khổ, thất vọng hoặc lo hãi
khó dứt bỏ.
2. Tính kém thích nghi: Hành động theo những cách làm ảnh hưởng
xấu đến việc đạt mục đích, đến sự bình an của cá nhân cũng như của gia
đình, xã hội.
3. Tính khó dự đoán: Hành động hoặc nói năng theo những cách khó
đoán trước, kỳ cục lập dị hoặc làm người khác khó hiểu từ tình huống này
sang tình huống khác. Thân chủ dường như trải nghiệm thường xuyên sự
mất kiểm soát bản thân.
4. Tính vô lý hay phi lý: Nói năng hay hành động theo cách mà người
khác đánh giá là phi lý, không thể hiểu được.
5. Tính phi thông lệ và hiếm thấy: Hành động theo những cách rất kỳ
cục hiếm thấy về mặt thống kê và vi phạm các chuẩn mực hay tiêu chuẩn về
cái gì được chấp nhận về mặt đạo đức hoặc được mong muốn.
Luôn gây cảm giác khó chịu cho những người xung quanh: Tạo ra cảm
giác khó chịu ở người khác bằng cách làm cho họ cảm thấy bị đe doạ, bị khổ
lây hoặc không thể hợp tác được.
Đánh giá một người bị rối nhiễu tâm lý ở mức tâm bệnh lý là không dễ
gàng. Bởi vì không phải tất cả những chỉ báo này về tính bất thường (dấu
hiệu của tâm bệnh lý) xuất hiện đồng thời, rõ ràng đối với những người quan
sát. Hơn nữa, nếu một chỉ báo trên đây xuất hiện rõ ràng cũng chưa đủ để kết
luận một cá nhân bị tâm bệnh. Các nhà tâm lý lâm sàng thường tin tưởng hơn
nếu ít nhất có hai dấu hiệu trên xuất hiện rõ ràng ở người bệnh khi chuẩn
đoán về tâm bệnh. Tuy nhiên để phán xét mức độ nặng nhẹ của một chứng
tâm bệnh nào đó, người ta nên xuất phát từ quan điểm chung về sức khoẻ
tâm thần. Sức khoẻ tâm thần của một người không nên hiểu đơn giản là tốt
hay xấu, mà tốt nhất nên đánh giá, hiện người đó đang ớ điểm nào trên một
thang đánh giá từ trạng thái tâm thần tốt nhất đến trạng thái tâm thần xấu
nhất. Để được gọi là khoẻ mạnh, một người không chỉ vô bệnh tật mà phải
luôn cảm thấy thoải mái, dễ chịu cả về thể chất, tâm lý và xã hội.
5. Những cơ chế duy trì tâm bệnh lýTại sao tâm bệnh lý lại phát sinh và bằng cách nào chúng được duy trì?
Mỗi loại tâm bệnh cụ thể có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng các
chuyên gia trong lĩng vực trị liệu tâm lý có thể khái quát hoá thành một số cơ
chế phát bệnh và duy trì trạng thái tâm bệnh như sau:
Các tình huống, các sự kiện trong cuộc sống thường tích tụ stress ở
mỗi cá nhân và có xu hướng thực thể hóa thành bệnh lý Những sự kiện kích
thích gây stress, một khi vượt quá khả năng ứng phó của thân chủ hoặc được
thân chủ nhận diện, khẳng dịnh như là ‘‘sự đe dọa” sẽ gây ra những tình cảm
tiêu cực: lo âu sợ hãi, buồn chán…Những cảm giác khó chịu này nếu kéo dài
sẽ làm đảo lộn các chức năng hoạt động bình thường của thân chủ, do đó
buộc thân chủ phải tăng cường sự chú ý đến thân thể, trở nên quá cảnh giác
và quá nhạy cảm với những vấn đề sinh lý của cơ thể mà lẽ ra lúc bình
thường họ luôn bỏ qua. Họ có nhu cầu kiểm tra hành vi luôn luôn và tìm kiếm
sự an toàn này giúp đỡ từ các chuyên gia y học. Khi họ càng bận tâm với
những thay đổi của cơ thể, họ càng cảm thấy có nhiều những những ‘‘phản
ứng bất thường của cơ thể’’. Điều này có thể được thân chủ tập hợp rồi suy
diễn, tưởng tượng thành những dấu hiệu hay triệu chứng của một căn bệnh
trầm trọng. Do váy, càng làm thân chủ cảm thấy bị đe doạ và làm họ càng lo
lắng khiếp sợ. Những nhân tố tâm–sinh lý tiêu cực này trực tiếp ảnh hưởng
lên các quá trình thần kinh–miễn dịch làm thay đổi trạng thái miễn dịch, ảnh
hưởng xấu đến các hoạt động thần kinh–nội tiết, làm ngưng hoặc tiết quá
nhiều một số chất nào đó. Vì vậy làm rối loạn chức năng hoạt động bình
thường của một cơ quan, chẳng hạn hệ tim mạch hay hô hấp hoặc làm rối
loạn toàn cơ thể mà hậu quả tiếp theo là những tổn thương thực thể sẽ hình
thành hoặc trầm trọng thêm. Lo hãi, kích thích nhịp thở, tăng sự thông khí làm
cho C02 bị thải quá nhiều, do đó độ kiềm trong huyết tăng lên. Điều này lại
làm tăng sự lo hãi. Đây là vòng luẩn quẩn nuôi dưỡng lo hãi kéo dài, duy trì
điều kiện thuận lợi cho các chứng bệnh. Do vậy muốn khỏi bệnh phải học
cách điều hoà cảm xúc để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.
Theo các chuyên gia tâm–sinh lý, các đáp ứng cảm xúc tiêu cực của cơ
thể như căng thẳng, lo lắng, sợ hãi là những đáp ứng phức tạp, chẳng bao
gồm các thành phần: (1) ứng xử, (2) tâm lý, (3) sinh lý. Những căng thẳng về
tâm lý bao giờ cũng đi liền với những phản ứng về sinh lý như tăng nhịp thở,
huyết áp tăng, nhịp tim tăng, thân nhiệt tăng, đau cơ bắp, toát mồ hôi, run
chân tay, nhức đầu… đây là những nhân tố tạo ra hay thúc đẩy tâm bệnh lý.
Ban tam voi nhung thay đoi bat thuong cua co the
Kiem tra hanh vi va tim kiem
su an toan
Tang cuong su chu y đen co
Cam giac nhAy cam ve sinh ly
co the
Lo lang – so hai
Suy đoan, dien giai cac cam giac cua co the
hoac tuong tuong, tin rang co nhung dau hieu cua mot can benh tram
trong
Su đe doa đuoc than chu y thuc
CO CHE DUY TRI BENH TAM THETAC NHAN KICH THICH GAY STRESS
(cac su kien, cac tinh huong benh thuc the…)
Nghiên cứu trên những căn bệnh nhiễm khuẩn, truyền nhiễm, người ta
thấy rằng có những con đường mà qua đó các stress về tâm–sinh lý có thể
dẫn đến khả năng dễ mắc các chứng tật truyền nhiễm. Vì những stress tâm
sinh lý: (1) làm rối loạn các quá trình trao đổi chất, làm thay đổi các quá trình
sinh hoá, dẫn đến các tác nhân gây bệnh như (vi khuẩn, vi trùng, vi rút) có
nhiều cơ hội thâm nhập gây bệnh hay truyền bệnh; (2) khởi động hay thúc
đẩy một tác nhân gây bệnh đã có trong cơ thể (vốn trước đó nằm im do bị
kiềm chế, kiểm soát thì nay có điều kiện sinh sôi hay hoạt động trở lại gây
bệnh; (3) giúp duy trì một quá trình bệnh lý đang diễn ra, làm chậm lại quá
trình khỏi bệnh.
STRESS VÀ CƠ CHẾ PHÁT SINH BỆNH
6. Mục tiêu, nhiệm vụ và các mối quan hệ trong trị liệu tâm lýMục tiêu của trị liệu tâm lý là gì?
Mục tiêu của trị liệu tâm lý là một phức hợp những yêu cầu, những đòi
hỏi từ việc làm giảm triệu chứng (dẫn đến giảm tính bất thường, khôi phục lại
các chức năng tâm lý bình thường vốn có) cho đến việc điều chỉnh thay đổi
những thói quen, những thuộc tính của nhân cách nhằm loại trừ không chỉ
triệu chứng mà còn nhằm ngăn chặn khả năng mắc lại trong tương lai.
Thân chủ (hay người bệnh) tìm gặp bác sỹ tâm lý nhờ chữa một triệu
chứng nào đó (chẳng hạn, mất ngủ hay lo âu). Như vậy yêu cầu tối thiểu là
làm giảm hay xoá bỏ triệu chứng, nhưng lo âu, mất ngủ có nhiều nguyên
nhân, muốn loại bỏ những rối nhiễu này nhiều khi cần đến những thay đổi sâu
sắc về thói quen, cách sống, tức là những cơ cấu và cơ chế tâm lý đã hình
thành trước đó gây ra triệu chứng… Như vậy mục tiêu của trị liệu là một tổ
hợp những yêu cầu tới các mức độ khác nhau, có thể chia thành các nhóm
sau đây:
– Thuyên giảm triệu chứng.
– Điều chỉnh xây dựng lại những mối quan hệ nhân cách bị rối nhiễu.
Thuc day cac tac nhan gay benh tiem an
Phat benh
Cac tac nhan gay benh co nhieu co hoi
xam nhap
Thay đoi
mien dich
Đap ung “thich nghi” (thuc hanh thoi quen
co hai suc khoe
Su kien, tinh
huong gay stress
Stress tieu cuc
He than kinh noi tiet
He than kinh TW
– Phát triển các kỹ năng ứng phó giải quyết vấn đề nhằm tạo khả năng
thích nghi tốt nhất trong môi trường trẻ đang sống.
Việc đánh giá hiệu quả của trị liệu cũng nên dựa vào những tiêu chuẩn
này
Nhiệm vụ của trị liệu tâm lý:
Quá trình can thiệp trị liệu tâm lý liên quan đến bốn nhiệm vụ sau đây:
– Thăm khám, hỏi chuyện để xác định bệnh nguyên: tìm hiểu bản
chất rối nhiễu, nguyên nhân, nguồn gốc, hoàn cảnh phát sinh những rối nhiễu
hay rối loạn tâm trí này. Dựa trên những biểu hiện về triệu chứng, xây dựng
một hay nhiều giả thuyết về nguồn gốc có thể có của bệnh lý. Sau đó truy tìm
các căn nguyên cụ thể– những yếu tố đã và đang duy trì trạng thái rối nhiễu.
– Chẩn đoán– đánh giá phân loại: dựa theo những tiêu chuẩn được
quốc tế qui định như (DSM–IV hoặc ICD–IO) để đánh giá, chẩn đoán và phân
loại các rối nhiễu tâm lý hay các rối loạn tâm thần. Cần xác định cái gì bị rối
nhiễu hay rối loạn, bản chất của nó, mức độ nặng nhẹ…
– Tiên lượng: đánh giá hiện trạng, đánh giá sự tiến triển, hậu quả của
các rối nhiễu, từ đó sẽ cân nhắc, xác định mức độ cần thiết hay không cần
thiết điều trị bằng các liệu pháp tâm lý.
– Điều trị: xây dựng chương trình can thiệp – điều trị chuyên biệt. Dự
kiến các liệu pháp thích hợp, tiên đoán các kết, quả điều trị, tiến hành điều
chỉnh sau những tuần trị liệu đầu tiên chưa có kết quả, lôi kéo các thành viên
trong gia đình người bệnh vào quá trình trị liệu. Trong trị liệu nên coi sự phối
hợp giữa các bác sỹ y khoa, các bác sỹ tâm thần và các bác sỹ tâm lý là tối
cần thiết. Bối cảnh điều trị được thiết lập dựa trên tính đa dạng của các hoàn
cảnh khác nhau: ở bệnh viện hay ở nhà, nội trú hay ngoại trú, tại nơi xảy ra
các rối nhiễu trường học hay công sở. Quá trình điều trị trên diễn ra trong
điều kiện tự nhiên nhưng có kiểm soát.
Tuy nhiên một câu hỏi được đặt ra là khi gặp những rối nhiễu tâm lý
hay rối loạn tâm trí, ai là người có khả năng thực hiện các trị liệu tâm lý? Phải
chăng rối nhiễu thì do các chuyên gia tâm lý còn rối loạn thì do các chuyên gia
tâm thần?
Khi xuất hiện rối nhiễu tâm lý, phần lớn người ta tìm đến các nhà tư vấn
không chuyên mà thường do các mối quan hệ quen biết, hoặc nhiều người
tìm đến bố mẹ, thầy cô đồng nghiệp, cha cố hoặc các bác sỹ. Chỉ có một số
rất ít người tìm đến các chuyên gia trị liệu tâm thần hay tâm lý. Thường thì khi
tìm đến các nhà trị liệu chuyên nghiệp, các vấn đề tâm trí hoặc đã tồn tại dai
dẳng hoặc đã trở nên nguy kịch (chẳng hạn từ rối nhiễu tâm lý đã chuyển
thành rối loạn tâm thần, hoặc từ thương tổn về tâm lý đã thực thể hoá thành
bệnh tâm thể).
Quan hệ “lâm sàng chủ thể” trong trị liệu tâm lý và vai trò khác nhau của các nhà trị liệu chuyên nghiệp
Trong tư liệu tâm lý, mối quan hệ giữa nhà trị liệu (thầy điều trị hay bác
sỹ tâm lý) và người có rối nhiễu (người bệnh hay thân chủ) là mối quan hệ
lâm sàng trên chủ thể, tức là xem thân chủ là một chủ thể trong tính đơn nhất,
phát sinh rốí nhiễu trong điều kiện lịch sử, tình huống và đang tiến triển. Vì
vậy việc xây dựng được mối quan hệ cởi mở, chia sẻ tin cậy và có hiểu biết
cùng chủ động tham gia tích cực vào quá trình trị liệu là yếu tố cơ bản bảo
đảm sự thành công của quá trình điều trị.
Nhà tâm lý trị liệu không làm việc đơn lẻ mà thường phối hợp với các
chuyên gia y học (bác sỹ y khoa), bác sỹ tâm thần thành một ê kíp điều trị.
Tuy nhiên vai trò của mỗi thành viên trong ê kíp này là khác nhau.
Mặc dù mục tiêu của trị liệu có thể giống nhau nhưng vai trò của các
nhà trị liệu chuyên nghiệp có những điểm khác nhau:
– Các nhà tư vấn thường là các nhà tâm lý chuyên nghiệp, họ có thể
đưa ra những lời khuyên về các lĩnh vực: định hướng nghề nghiệp, giáo dục
con cái, xung đột gia đình, những vấn đề về học tập, lạm dụng thuốc… những
chuyên gia này thường làm việc ở các văn phòng tư vấn, các trung tâm
nghiên cứu…
– Các bác sỹ tâm thần là những người được đào tạo tại các trường đại
học y khoa, họ đi sâu vào chuyên khoa tâm thần trong những năm cuối của
khoá học, có một số bác sỹ tâm thần được đào tạo chuyên biệt sau đại học
với các chuyên đề về rối loạn cảm xúc, rối loạn tâm trí… Tuy nhiên sự đào tạo
của các bác sỹ tâm thần gắn liền nhiều hơn với cơ sở y sinh học của các vấn
đề tâm lý và họ là nhà trị liệu duy nhất có quyền kê đơn thuốc hoặc tiến hành
các liệu pháp y sinh học.
– Các nhà phân tâm học là những nhà trị liệu có bằng cấp bác sỹ hoặc
tiến sỹ. Nhà phân tâm học thường hoàn thành chương trình đào tạo chuyên
sâu sau đại học theo trường phái phân tâm, họ có những hiểu biết và kỹ thuật
điều trị các rối nhiễu tâm trí theo cách tiếp cận phân tâm.
– Các nhà tâm lý học lâm sàng lấy bằng cử nhân tâm lý, sau đó đi sâu
vào phân ngành Tâm lý học lâm sàng. Họ có kiến thức chuyên sâu về đánh
giá, chẩn đoán và điều trị những rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm trí. Họ lấy
bằng thạc sỹ và qua khoá thực hành trị liệu tâm lý tại bệnh viện. Nhiều người
đã đạt trình độ tiến sỹ (D.Psych), họ thường làm việc với các chuyên gia tâm
thần tại các bệnh viện hay các trung tâm tư vấn, khám chữa bệnh. Tuy nhiên
những nhà tâm lý học lâm sàng có những hiểu biết chuyên sâu hơn về tâm lý
học, các kỹ năng đánh giá và nghiên cứu thường rộng hơn các nhà tâm thần
học. Các kỹ năng trị liệu tâm lý cũng được đào tạo chuyên hơn các nhà tâm
thần học (các nhà tâm lý lâm sàng có cái nhìn chủ thể – tức là đi sâu xem xét
các cấu trúc, cơ chế tâm lý đằng sau những triệu chứng). Tuy nhiên càng
ngày công việc của nhà tâm lý học lâm sàng và tâm thần học càng giống
nhau hơn, họ thường cần đến nhau trong một chương trình can thiệp phối
hợp để nâng cao hiệu quả điều trị.
Thực tế chuyên ngành Tâm lý học lâm sàng ở Việt Nam vẫn còn đang
ở giai đoạn phôi thai. Hiện tại chúng ta vẫn chưa có những chương trình đào
tạo cử nhân hay thạc sỹ tâm lý lâm sàng. Vì vậy hầu hết các chương trình
tâm lý liệu pháp đều do các bác sỹ y khoa hay tâm thần đảm nhiệm và cũng
mới chỉ thực hiện đơn lẻ, chưa thành hệ thống bài bản.
7. Đánh giá kết quả trị liệuTrong tâm lý học lâm sàng có hai khuynh hướng tiếp cận rối nhiễu:
không sự dụng công cụ (tay trần) và có sử dụng công cụ (dùng test đánh giá):
– Những nhà tâm lý trị liệu theo phương pháp thứ nhất không dùng trắc
nghiêm để chẩn đoán đánh giá mà chủ yếu dùng kinh nghiệm lâm sàng để
đánh giá, dùng lời nói như là phương tiện duy nhất thực hiện nhiệm vụ trị liệu.
Nhóm này thiên về sử dụng các tình huống trò chuyện lâm sàng nhằm tiếp
cận thân chủ trong tính toàn bộ, tính riêng biệt.. duy nhất của cá nhân. Nhà trị
liệu tiếp cận với thực tế ý thức của người bệnh, lập những cam kết, sử dụng
các hình thức trung gian hoá để bộc lộ hay chuyển tải ý đồ của nhà trị liệu (trò
chơi, tranh vẽ...) và lắng nghe sự phàn nàn về nỗi khổ của người bệnh. Sau
đó giúp đỡ họ tìm kiếm những giải pháp riêng để thoát khỏi nỗi khổ.
– Những người chủ trương trị liệu lâm sàng có công cụ không phủ nhận
quan điểm của nhóm trị liệu tay trần. Nhưng họ có khuynh hướng muốn
‘‘khách quan hoá” những kết quả đánh giá, sử dụng trắc nghiệm (tests) như là
công cụ hỗ trợ cho quá trình chẩn đoán phân loại rối nhiễu và đánh giá kết
quả trị liệu. Những nhóm trắc nghiệm sau đây thường được các chuyên gia
dùng nhiều nhất trong quá trình chẩn đoán và đánh giá kết quả trị liệu là:
+ Trắc nghiệm đánh giá trí tuệ trẻ em của Wechsler: WISC–III.
+ Trắc nghiệm đánh giá trí tuệ người lớn của Wechsler: WAIS–R.
+ Trắc nghiệm đánh giá trí nhớ của Wechsler: WMS–R.
+ Trắc nghiệm đánh giá trí nhớ nhận lại: RMT.
+ Thang đánh giá mức độ lo hãi của Spielberger: STAI.
+ Thang đo trầm cảm của Beck: BDI –II.
+ Các trắc nghiệm phát hiện những rối nhiễu hành vi của Collner:
Conners' Scales.
+ Trắc nghiệm đánh giá kỹ năng thích ứng xã hội của Gresham: SSRS.
+ Trắc nghiệm 16 chỉ báo (nhân tố) về nhân cách của Cattell: 16 PF.
+ Trắc nghiệm đánh giá toàn bộ nhân cách của Morey: PAI.
+ Trắc nghiệm phóng chiếu Rôsarch.
+ Trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn Raven (một số trắc nghiệm trên đã
được Việt hoá–xem phần V).
8. Những khuynh hướng tiếp cận chính trong trị liệu tâm lýCó nhiều hướng tiếp cận khác nhau trong trị liệu tâm lý: tiếp cận trị liệu
hệ thống, tiếp cận cấu trúc–chức năng, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân văn
hiện– hiện sinh, tiếp cận động thái tâm lý và tiếp cận nhận thức–hành vi…
Tuy nhiên chúng tôi tập trung làm rõ ba khuynh hướng tiếp cận chính trong trị
liệu tâm lý là: tiếp cận động thái tâm lý, tiếp cận nhân văn hiện– hiện sinh và
tiếp cận nhận thức–hành vi. Dặc biệt trình bày sâu hơn cách tiếp cận nhận
thức–hành vi mới vì cách tiếp cận này dễ ứng dụng, thời gian trị liệu ngắn và
hiệu quả khá rõ ràng.
Trị liệu tâm lý theo hướng tiếp cận động thái tâm lý
Khuynh hướng này xem rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm thần như là
những triệu chứng bề ngoài của những sang chấn bên trong và xung đột
mang tính vô thức, tố bẩm không giải quyết được từ thời thơ ấu. Việc điều trị
bằng liệu pháp tâm động được phổ biến nhất là liệu pháp phân tâm
(psychoanalysis) còn gọi là “trị liệu bằng trò chuyện” (Verbal therapy). Qua trò
chuyện, nhà trị liệu giúp thân chủ thấu hiểu mối liên quan giữa chứng bệnh
(triệu chứng bộc lộ ra bên ngoài) và những xung đột không giải quyết được bị
che đậy bên trong (trạng thái vô thức) có từ tuổi ấu thơ hoặc quá khứ. Khi
những xung đột bên trong được giải toả, rối nhiễu sẽ hết.
Trị liệu tâm lý theo hướng tiếp cận nhân văn hiện sinh
Cách tiếp cận này xem hành vi của con người, bất kể hành vi kém thích
nghi hay hành vi thích đều phản ánh những cố gắng của cá nhân ở mức tự
thực hiện (self–actualization) trong một thế giới được nhận biết theo cách
riêng nhất của cá nhân..Mỗi cá nhân tồn tại với tư cách “con người tổng thể”
(whole person), tham gia vào quá trình phát triển, biến đổi liên tục và đang trở
thành chính nó. Sở dĩ một cá nhân nào đó mắc những rối nhiễu hay có những
hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm những mẫu ứng xử sai lệch. Do
vậy, mục tiêu chủ yếu của cách tiếp cận này không phải là chữa trị cho thân
chủ, hoặc là tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ…, mà cái chính là
khuyến khích sự tự thực hiện hoá những tiềm năng của thân chủ, xem họ là
một chủ thể có hiểu biết, không phải là người bệnh, họ phải được hiểu, được
chấp nhận để nhà trị liệu có thể cung cấp những loại hình giúp đỡ tốt hơn.
Đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh ở thân
chủ.
Trị liệu tâm lý theo hướng tiếp cận nhận thức hành vi
Cách tiếp cận này xem những rối nhiễu tâm lý là do những tác nhân
hiện có (do điều kiện môi trường, do nhận thức cá nhân, do những mẫu ứng
xử tập nhiễm mà có) đang cản trở, làm thay đổi các chức năng bình thường
của cá nhân đó. Vì vậy trọng tâm chính của trị liệu hành vi nhằm nhận diện
những nhân tố đang duy trì hành vi bệnh, và tìm cách loại bỏ chúng. Thường
thì các kích thích ban đầu tạo tiền đề cho hành vi xuất hiện và hậu quả sau
khi hành vi đã xảy ra là những điều kiện duy trì hành vi rối nhiễu. Khi những
điều kiện duy trì bệnh lý được loại bỏ, người bệnh sẽ trở lại cuộc sống bình
thường (tức khỏi bệnh). Theo các nhà trị liệu, nhận thức–hành vi ở những
người có rối nhiễu tâm trí hay có những nhận thức sai lệch, những niềm tin
không hợp lý, thiếu hụt những kỹ năng ứng phó giải quyết vấn đề, vì vậy phát
hiện những sai lệch về nhận thức, những thiếu hụt về kỹ năng, tìm cách điều
chỉnh, huấn luyện là yếu tố quyết định.
PHẦN II. TRỊ LIỆU PHÂN TÂMTrường phái phân tâm khá thịnh hành ở nửa đầu thế kỷ XX tuy nhiên
sau chiến tranh thế giới II, nó đã thu hẹp phạm vi ảnh hưởng. hiện nay trường
phái này chỉ còn phổ biến ở một số nước Châu âu. đặc biệt là ở Pháp.
1. Liệu pháp phân tâm là gì?Liệu pháp phân tâm (Psychoanalytic therapy) bắt nguồn từ lý thuyết
phân tâm do nhà tâm thần học người áo Sigmund Freud đề xuất cuối thế kỷ
XIX. Đó là phương pháp điều trị bằng đàm thoại–trò chuyện, đi sâu vào các
mối quan hệ nhằm khám phá động cơ và những xung đột vô thức trong các
chủ thể bị nhiễu tâm, lo âu do dồn nén.
Mô hình phân tâm xem những vấn đề của người bệnh phát sinh do
những căng thẳng tâm lý giữa những ham muốn vô thức hướng tới những
hành động nào đó và những điều ép buộc của hoàn cảnh sống của cá nhân
trong quá khứ dồn nén lại. S. Freud đã nhiều lần khẳng định rằng người ta
mắc bệnh là do những xung đột giữa những yêu cầu của cuộc sống bản năng
đối sự chống cự xuất hiện bên trong con người chống lại yêu cầu đó.
Mục tiêu chủ yếu của liệu pháp phân tâm là nhằm ‘‘bộc lộ vô thức”.
Nhiệm vụ trọng tâm của nhà trị liệu là hiểu được bằng cách nào bệnh nhân đã
sử dụng quá trình dồn nén để giải quyết chế ngự xung đột. Biết lắng nghe
người bệnh để phát hiện nguyên nhân gì– dẫn đến sự mất hài hoà.
Các triệu chứng được xem là những bức thông điệp từ vô thức. nơi có
những lệch lạc. Nhiệm vụ của nhà phân tâm học là giúp bệnh nhân chuyển
những ý nghĩ bị dồn nén từ bình diện vô thức vào ý thức để đạt được sự thấu
hiểu bên trong mối liên quan giữa triệu chứng hiện tại và những xung đột bị
dồn nén trước đó. Trị liệu được diễn ra trong suốt quá trình trò chuyện bộc lộ
vô thức và bệnh nhân dần dần hồi phục khi họ được giải thoát khỏi sự dồn
nén đã được thiết lập từ tuổi ấu thơ. Vì mục tiêu trọng tâm của nhà trị liệu
phân tâm là hướng bệnh nhân tới sự hiểu rõ mối liên hệ giữa triệu chứng hiện
tại và nguồn gốc quá khứ nên liệu pháp phân tâm thường được gọi là liệu
pháp thấu hiểu hay biện pháp giác ngộ.
Mục tiêu của phân tâm học chứa đựng nhiều tham vọng nó không chỉ
nhằm loại trừ tức thời các triệu chứng tâm bệnh mà còn nhằm xây dựng lại
toàn bộ nhân cách. Trường phái phân tâm cổ điển cố gắng giúp người bệnh
tái thiết lập ký ức bị dồn nén lâu ngày, từ từ trải nghiệm lại những cảm giác
căng thẳng hay đau đớn hướng người bệnh đi tới một giải pháp có hiệu quả.
Đây là loại liệu pháp tâm lý chiếm nhiều thời gian nhất, ít nhất cũng vài năm
(mỗi tuần từ 3–5 buổi), kỹ thuật này cũng đòi hỏi bệnh nhân nói năng lưu loát,
có động cơ rõ rệt, nhằm duy trì trị liệu và sẵn sàng chịu phí tổn.
2. Một số kỹ thuật cơ bản trong trị liệu phân tâmNhà phân tâm học sử dụng một số kỹ thuật chuyển xung đột bị dồn nén
từ vô thức sang ý thức và giúp bệnh nhân giải quyết xung đột đó. Một số kỹ
thuật cơ bản nhà phân tâm học thường sử dụng là: liên tưởng tự do, phân
tích sư chống đối, phân tích giấc mơ, phân tích chuyển dịch và chuyển dịch
ngược.
a. Liên tưởng tự do (Free association)
Kỹ thuật cơ bản đầu tiên thường sử dụng trong phân tâm nhằm khám
phá vô thức và giải phóng điều bị dồn nén được gọi là liên tưởng tự do. Bệnh
nhân ngồi (hoặc nằm) trong tư thể thoải mái. toàn thân thư giãn để ý nghĩ của
mình xuất hiện tự do và họ kể lại những suy nghĩ vừa diễn ra, kể lại những
mong muốn và những cảm giác về thể chất, hoặc hình ảnh tâm trí khi những
điều đó hiện về. Bệnh nhân được khuyến khích thổ lộ mọi ý nghĩ hoặc cảm
giác không e ngại động chạm đến những chuyện riêng tư, dù đó là chuyện
đau khổ hay có vẻ không quan trọng. Ví dụ, bệnh nhân có thể nói: “Điều này
rất tốt để tôi thư giãn… tôi hy vọng mình không rơi vào giấc ngủ… tôi cảm
thấy cô đơn… có cái gì giống như nỗi đau bên trong…). Một nhận xét này có
thể dẫn tới một nhận xét khác hoặc ý nghĩ của bệnh nhân có vẻ lởn vởn, lộn
xộn, nhưng những liên tưởng tự do này là toàn bộ đầu mối quan trọng cho
công việc của nhà trị liệu.
S. Freud khẳng định liên tưởng tự do là hiện tượng “tiền định’’ không
phải ngẫu nhiên. Công việc của nhà phân tâm là kiên trì lắng nghe tất cả
những điều bệnh nhân bộc lộ rồi lần theo những liên tưởng này tìm đến cội
nguồn của chúng. Nhà trị liệu phải nhạy cảm để có thể nhận diện ra những
uẩn khúc tâm lý đáng kể được che dấu dưới các cảm xúc hay lời nói, cử chỉ.
Bệnh nhân được khuyến khích biểu lộ những cảm giác mạnh (thông
thường hướng tới những người có quyền lực) bị dồn nén vì sợ bị phạt hoặc
sợ bị trả thù. Bất cứ một sự bộc lộ hay giải thoát xúc cảm nào trong quá trình
này hay quá trình khác đều được xem như là sự xả trừ (Catharsis) hay giải
toả. Cách điều trị này khích lệ thân chủ dám đương đầu và trò chuyện cởi mở
về những cảm xúc bị dồn nén mạnh để thiết lập lại cảm xúc lành mạnh, nhờ
đó có thể khỏi bệnh.
b. Sự chống đối (Resistance)
Thỉnh thoảng trong quá trình liên tưởng tự do, bệnh nhân sẽ bộc lộ sự
chống đối. Ví dụ bệnh nhân không thể hoặc không sẵn sàng để thảo luận một
ý nghĩ, mong muốn hoặc những trải nghiệm nào đó. Sự chống đối ngăn cản
không cho những xung đột bị dồn nén trong vô thức quay trở lại ý thức. Điều
này thường liên quan đến cảm giác khoái cảm về tình đục của cá nhân hoặc
liên quan tới cảm giác thù địch phẫn uất với bố mẹ. Bệnh nhân có thể biểu thị
sự chống đối bằng nhiều cách, chẳng hạn bệnh nhân có thể đến trễ hoặc
quên buổi điều trị. Có khi điều bị dồn nén xuất hiện trong quá trình điều trị thì
bệnh nhân có thể phàn nàn rằng điều này không quan trọng, vô lý, không
thích hợp hoặc không thoải mái để bàn luận. Nhà tâm lý cần nhạy cảm với
những vấn đề chống đối, mỗi khi bệnh nhân biểu lộ sự chống đối thì nhà trị
liệu cần tập trung chú ý đặc biệt vào những vấn đề đã kích thích sự chống
đối. Như vậy nhà trị liệu phải coi những chủ đề mà bệnh nhân không muốn
thảo luận có tầm quan trọng đặc biệt. Mục tiêu của nhà trị liệu là phá vỡ sự
chống đối và giúp bệnh nhân đối mặt với những ý nghĩ, mong muốn và kinh
nghiệm đau khổ này, phá vỡ sự chống đối là một quá trình khó khăn và lâu
dài nhưng rất quan trọng để những vướng mắc bị dồn nén được ý thức nhận
biết và tại đó những vướng mắc này có thể được giải quyết.
c. Giải mộng (Dream analysis)
Sigmund Freud chính thức biến việc phân tích giấc mơ thành một liệu
pháp quan trọng của phân tâm học khi ông cho xuất bản cuốn sách “Diễn giải
giấc mơ” (1900).. Theo cách nhìn của Freud. giấc mơ có các chức năng chính
là bảo vệ giấc ngủ và dùng làm nguồn thoả mãn mong muốn. Giấc mơ bảo vệ
giấc ngủ bằng cách làm giảm nhẹ căng thẳng trí óc do những tác động lúc
ban ngày gây ra và giải toả stress bằng cách cho phép người nằm mơ hành
động theo những ham muốn vô thức.
Theo các nhà trị liệu phân tâm, giấc mơ là nguồn gốc quan trọng chứa
đựng thông tin về những động cơ vô thức của bệnh nhân. Khi con người ngủ,
các siêu thức (Supperego) có vẻ yếu đi trong việc kiểm duyệt những xung đột
không thể chấp nhận được có nguồn gốc trong vô thức. Vì vậy những động
cơ không thể bộc lộ được trong khi thức lại có thể biểu hiện trong giấc mơ.
Các nhà trị liệu có thể sử dụng phương pháp phân tích giấc mơ để hiểu và xử
lý những vấn đề của người bệnh. Cũng theo các nhà phân tâm học, một vài
động cơ không thể chấp nhận được bởi chính ý thức, chúng không thể được
bộc lộ một cách công khai, thậm chí cả trong giấc mơ, do vậy theo cơ chế tự
vệ, nhiều mong muốn, xung đột phải thể hiện dưới hình thức trá hình “hoặc
“tượng trưng”.
Theo quan điểm phân tâm, các giấc mơ có hai hình thức về nội dung:
nội dung bộc lộ rõ rệt (có thể chiêm nghiệm được) và nội dung tiềm ẩn (mang
tính che dấu). Nội dung rõ rệt là điều mà ta nhớ lại khi thức, nội dung tiềm ẩn
bao gồm những động cơ hiện tại đang tìm kiếm sự bộc lộ nhưng chúng làm ta
quá đau khổ hoặc không thể chấp nhận được, hoặc ta không muốn thừa nhận
chúng. Nhà trị liệu cố gắng làm bộc lộ những động cơ bị che dấu này bằng
cách sử dụng kỹ thuật giải mộng, kỹ thuật trị liệu này xem xét đánh giá nội
dung của giấc mơ của một người nhằm phát hiện những động cơ vô thức,
tượng trưng hay trá hình và ý nghĩ của những mong muốn và những trải
nghiệm quan trọng trong cuộc sống.
d. Chuyển dịch và chuyển dịch ngược (Transference &
Countertransference)
Trong quá trình điều trị theo phương pháp phân tâm, bệnh nhân luôn
luôn xuất hiện những phản ứng xúc cảm đối với nhà trị liệu. Nhà trị liệu
thường được đồng nhất với người nào đó là trung tâm của những xung đột
xúc cảm trong quá khứ (người đó thường là cha mẹ hoặc người tình). Phản
ứng xúc cảm này là sự chuyển dịch, chuyển dịch tích cực xảy ra khi cảm giác
liên hệ mật thiết với nhà trị liệu là những tình cảm yêu thương và sự kính
phục.
Chuyển dịch tiêu cực xảy ra khi bệnh nhân có những tình cảm như thù
địch hoặc đố kỵ hướng đến nhà trị liệu. Nhiều trường hợp thái độ của bệnh
nhân là hai chiều lẫn lộn, cả những tình cảm tích cực và tiêu cực.
Công việc của nhà trị liệu phân tâm trong khi điều chỉnh chuyển dịch là
rất khó khăn và có thể nguy hiểm do tính dễ bị tổn thương về xúc cảm của
người bệnh. Tuy nhiên đây lại là phần công việc quyết định của nhà trị liệu:
nhà trị liệu giúp bệnh nhân “phiên dịch” những tình cảm chuyển dịch hiện có
bằng cách tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của chúng ở những trải nghiệm thời
thơ ấu.
Chuyển dịch ngược liên quan đến cái gì xảy ra khi nhà trị liệu thích hay
không thích bệnh nhân. Thông qua chuyển dịch ngược, nhà trị liệu phát hiện
những động cơ vô thức của mình. Do những cảm xúc của tương tác qua lại
trong trị liệu và tính dễ bị tổn thương của người bệnh, nhà trị liệu phải cảnh
giác để không bước qua ranh giới giữa công việc của nhà chuyên môn và
những vấn đề riêng tư, cá nhân của người bệnh. Đạo đức nghề nghiệp đòi
hỏi nhà trị liệu không được can thiệp quá sâu vào những vấn đề riêng tư của
người bệnh. Mặc dù vậy một số nhà trị liệu đã vi phạm những qui định về mối
quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân.
3. Các trị liệu phân tâm sau S. FreudMột số người kế tục S. Freud đã giữ gìn những “ý tưởng’’ cơ bản nền
tảng trong quan niệm của Freud: nhưng cải biên một số nguyên tắc và kỹ
thuật trị liệu của ông.
Liệu pháp phân tâm cổ điển nhấn mạnh tầm quan trọng của ba nhân tố
sau:
– Tính vô thức trong động cơ và xung đột.
– Tiềm năng của sự phát triển thời thơ ấu.
– Tính năng động trong nhân cách của từng cá nhân.
Ngược lại, trường phái cải biên nhấn mạnh các nhân tố khác:
– Tầm quan trọng của môi trường xã hội hiện tại.
– Ảnh hưởng tiếp tục của những kinh nghiệm sống sau thời kỳ thơ ấu.
– Vai trò của những quan hệ xã hội và quan hệ liên cá nhân.
– Tầm quan trọng của ý thức tự điều chỉnh của cá nhân.
Để hiểu được những quan niệm mới này của phân tâm, chúng ta có thể
xem xét hệ thống cái tôi của Sullivan (Sullivans Selt–system). Sullivan đã
nhấn mạnh đến yếu tố xã hội của đời sống của bệnh nhân và vai trò của nó
trong việc hình thành sự rối loạn tâm trí. Sullivan cảm thấy rằng học thuyết và
phương pháp trị liệu của S.Freud có những thiếu hụt vì nó không thừa nhận
tầm quan trọng của các mối quan hệ xã hội hoặc những nhu cầu của bệnh
nhân về sự chấp nhận, kính trọng và tình yêu. Do vậy ông để tâm nghiên cứu,
tìm cách hiểu nhân cách của người bệnh qua những mẫu ứng xử: “Cái gì
người đó làm với người khác”. “Cái gì người đó nói với người khác” và “Cái gì
người đó tin ở người khác”. Từ những bằng chứng thu thập được ông khẳng
định những rối nhiễu tâm trí không chỉ liên quan đến những chấn thương nội
tâm mà còn liên quan đến các mối liên hệ liên cá nhân bị rối nhiễu, thậm chí
liên quan đến những áp lực mạnh mẽ của xã hội. Đứa trẻ có nhu cầu được an
toàn và được những người khác đối xử bằng sự chăm sóc và yêu thương. Sự
lo âu và các chứng bệnh tâm thần khác xuất hiện có thể do không có sự an
toàn trong quan hệ với bố mẹ và những người thân khác.
Theo cách nhìn của Sullivan, mỗi cá nhân xây dựng hệ thống tự điều
chỉnh để chế ngự lo âu xuống mức có thể chịu đựng được. Theo ông, mỗi cá
nhân có thể vượt qua những vấn đề (rối nhiễu) của họ khi hiểu biết những
quan hệ liên cá nhân của họ theo những cách thức phù hợp với cách nhìn
của người liên đới.
Hệ thống cái tôi của Sullivan xuất phát từ quan niệm ứng xử trong quan
hệ liên cá nhân của đứa trẻ và chúng được phán xét như là “tốt”, “xấu”,
những cái “được phép” và “không được phép”. Trị liệu dựa trên quan điểm
liên cá nhân liên quan đến việc quan sát những cảm nhận của bệnh nhân về
thái độ của nhà trị liệu. Cuộc trò chuyện–trị liệu được xem như là bối cảnh xã
hội, trong đó những tình cảm, những thái độ của bệnh nhân và nhà trị liệu ảnh
hưởng lẫn nhau.
Một đại diện khác của trường phái phân tâm cải biên là Karen Horney.
Horney đã mở rộng học thuyết của S. Freud, bà nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của môi trường và bối cảnh văn hoá, nơi những hành vi rối nhiễu tâm trí
bộc lộ. Bà không xem nhân cách chỉ được quyết định duy nhất bởi những
kinh nghiệm từ thời thơ ấu và yếu tố bản năng. Bà tin rằng nhân cách liên
quan đến những ứng phó hợp lý và sự phát triển tiếp tục để đối phó với
những nỗi sợ hãi và các xung đột hiện tại, Bà đã chỉ ra ba mẫu ứng xử không
thích nghi: đồng nhất với người khác, công kích người khác và né tránh người
khác. Mỗi một mẫu nhiễu tâm đều dựa trên quan điểm cho rằng sự kém thích
nghi của cá nhân dẫn đến những ứng xử không hài hoà. lặp đi lặp lại – ứng
xử bất thường hay bệnh lý.
Các đại biểu khác của trường phái Phân tâm cải biên là H.Huq–
Helmuth, A.Freud (con gái S.Freud), M.Klein và Wilmicots. những người tiến
hành các nghiên cứu trên trẻ em. Chẳng hạn, H.Huq–Helmuth và A.Freud
nhấn mạnh đến môi trường xã hội và các quan hệ liên cá nhân, cả hai đều
cho rằng nhà trị liệu cần chủ động thay đổi mối quan hệ của trẻ (Huq–
Helmuth là người đầu tiên tổ chức tư vấn giáo dục nhằm làm giảm mối quan
hệ căng thẳng giữa bố mẹ và con cái), đồng thời tích cực chỉ đạo điều khiển
đứa trẻ, giúp nó ý thức được những “khuyết tật” của mình để mong muốn loại
bỏ chúng.
PHẦN III. TRỊ LIỆU NHÂN VĂN – HIỆN SINHTrường phái nhân văn – hiện sinh phát triển từ giữa thế kỷ XX cùng lúc
ở cả Mỹ và Châu Âu. Sự phát triển của trường phái này như là một lực lượng
thứ ba trong tâm lý học nhằm chống lại hai trường phái nổi trội đã giữ quan
điểm cực đoan về bản chất con người: lý thuyết Phân tâm học cổ điển và lý
thuyết Hành vi cổ điển. Hiện nay trường phái này khá thịnh hành ở Châu Âu
với những cách tiếp cận tư liệu có hiệu quả, rất được ưa thích như trị liệu tập
trung vào cá nhân, trị liệu nhóm, trị liệu tập trung vào các quan hệ liên cá
nhân, trị liệu gia đình, trị liệu hệ thống, trị liệu gestalt…
1. Trị liệu nhân văn – hiện sinh là gì?Trường phái nhân văn – hiện sinh cho rằng nhiều người tìm kiếm trị liệu
vì họ có cảm giác bất an, không hài lòng, cáu giận vô cớ hoặc luôn thất bại
trong việc đạt được những điều họ cảm thấy nên làm và cảm thấy có thể làm
được. Nguyên nhân của điều này là do họ thiếu vắng những mối quan hệ tình
người, có ý nghĩa hoặc thiếu vắng những lý tưởng, mục tiêu quan trọng để
phấn đấu. Những người đề xướng chủ nghĩa nhân văn – hiện sinh đã phát
triển một kiểu trị liệu ‘‘tự giúp mình” để ứng phó với những vấn để nan giải
trong cuộc sống có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người.
Một trong những nhà tâm lý trị liệu đầu tiên của Mỹ khởi xướng quan
niệm này là Rollo May (1950). Những nguyên tắc và phương pháp điều trị nổi
tiếng của May được xây dựng để chống lại cảm giác trống rỗng, trơ trẽn
(cynicism), loạn cương (anomie) và cảm giác chán ghét xã hội (social
alienation) bằng cách nhấn mạnh vào giá trị nhân bản của con người như:
tình yêu sự sáng tạo, ý chí tự do.
Hạt nhân cơ bản của các liệu pháp nhân văn – hiện sinh là khái niệm
con người tổng thể: mỗi cá nhân tồn tại với tư cách con người tổng thể tham
gia vào quá trình phát triển biến đổi liên tục và đang trở thành chính nó. Mặc
dù có những giới hạn của yếu tố di truyền và môi trường, con người vẫn luôn
có sự tự do lựa chọn: ‘‘Ta sẽ trở thành người như thế nào?” bằng cách thiết
lập những giá trị riêng cho mình và tìm cách hiện thực hoá chúng thông qua
những quyết định của chính bản thân. Cùng với sự tự do lựa chọn, chúng ta
còn có gánh nặng của trách nhiệm, vì khi người ta không nhận thức đầy đủ về
toàn bộ mục tiêu, cách thức và hậu quả của hành động thì dễ cảm thấy lo âu,
thất vọng. Mỗi người cũng dễ mặc cảm và đau khổ về tội lỗi đã bỏ qua những
cơ hội để thực hiện toàn bộ tiềm năng của mình.
Các liệu pháp nhân văn – hiện sinh được phát triển để giúp thân chủ
xác định tính tự do của riêng họ, giúp họ đánh giá lại những kinh nghiệm và
nhận ra sự phong phú về khả năng của bản thân, nuôi dưỡng tính độc lập,
lòng tự tin và phát hiện những cách thức để thực hiện đầy đủ nhất những tiềm
năng của chính mình.
2. Những kiểu trị liệu nhân văn hiện sinh điển hìnha. Trị liệu tập trung vào cá nhân (hay trị liệu hướng vào thân chủ):
Lý thuyết Phân tâm của S.Freud hình thành dựa trên những quan sát
của ông trên những bệnh nhân có rối loạn tâm thần. Những ý kiến phê phán
học thuyết này cho rằng liệu những kết luật rút ra từ những quan sát này có
thể áp dụng cho những rối nhiễu tâm trí ở mức nhẹ?
Một câu hỏi khác là liệu có hợp lý khi nhà trị liệu – nhà phân tâm được
tham khảo với tư cách là chuyên gia, lại ít có những hiểu biết về điều kiện
phát sinh và duy trì rối nhiễu của người bệnh. Trong khi chính thân chủ mới là
người biết rõ nhất những vấn đề vướng mắc, những trải nghiệm bất thường
của họ. Điều này thúc đẩy nhà trị liệu nhân văn Carl Rogers phát triển cách
tiếp cận trị liệu mới, nhấn mạnh đến các giá trị nhân văn và nhấn mạnh đến
sự trải nghiệm có ý thức của từng cá nhân.
Cách tiếp cận của Rogers giả thiết rằng mỗi người đều sở hữu những
tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có
khuynh hướng tự hiện thực hoá những tiềm năng của mình. Sở dĩ một cá
nhân nào đó phát triển những hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm
những mẫu ứng xử sai lệch. Do vậy, mục tiêu chủ yếu của cách tiếp cận này
không phải là chữa trị cho thân chủ, hoặc là tìm kiếm những nguyên nhân từ
quá khứ… mà cái chính là khuyến khích sự tự thực hiện hoá những tiềm
năng của thân chủ, tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh
ở thân chủ. Ở đây thân chủ được xem như là một chủ thể có hiểu biết, không
phải là người bệnh, họ phải được hiểu, được chấp nhận để nhà trị liệu có thể
cung cấp những loại hình giúp đỡ tốt hơn.
Nhiệm vụ của nhà trị liệu theo trường phái này là tạo ra một môi trường
thuận lợi cho phép thân chủ học cách hành động để đạt đến sự tự khuyến
khích và tự hiện thực hoá, nhiệm vụ chính của nhà trị liệu là giúp thân chủ dỡ
bỏ những “rào cản tâm lý” đang hạn chế sự bày tỏ khuynh hướng tích cực
vẫn có và giúp thân chủ làm sáng tỏ, hiểu rõ bản thân và chấp nhận tình cảm
riêng của mình. Điều này được thực hiện trong bầu không khí của sự quan
tâm tích cực vô điều kiện, cho nhận không phê phán, tôn trọng thân chủ, sự
giúp đỡ không áp đặt, không kèm theo sự đánh giá về năng lực. Nhà trị liệu
cho phép những tình cảm riêng và ý nghĩ riêng của mình được rọi vào người
bệnh. Thêm vào đó. duy trì sự chân thành, đồng thời nhà trị liệu cố gắng trải
nghiệm tình cảm của người bệnh. Sự đồng cảm hoàn toàn này đòi hỏi nhà trị
liệu giúp đỡ, chăm sóc thân chủ như là một cá nhân có giá trị, có năng lực
không bị phán xét, không bị đánh giá nhưng lại được giúp đỡ, tạo điều kiện
để phát hiện ra cái bản sắc cá nhân của chính họ.
Những nhà trị liệu theo cách tiếp cận hướng vào cá nhân là những
người biết lắng nghe kiên trì, nhiệt tình để sau đó sẽ giúp đỡ thân chủ tìm
kiếm sự hiểu biết bản thân, tự chấp nhận mình. Theo các nhà trị liệu này, mỗi
con người đều có tiềm năng để tự lái mình trở về với trạng thái khoẻ mạnh về
mặt tâm trí một khi họ được tự do thiết lập những mối quan hệ công khai với
người khác và khi họ chấp nhận chính mình. Chính cách nhìn lạc quan và tập
trung vào mối quan hệ nhân văn giữa nhà trị liệu với tư cách là chuyên gia
chăm dưỡng và thân chủ như là một chủ thể đã mang lại hiệu quả lớn cho
cách trị liệu này.
b. Trị liệu Gestalt
Trị liệu Gestalt được một số nhà tâm lý học Đức khởi xướng, là một hệ
thống trị liệu nhấn mạnh đến tính thống nhất giữa yếu tố cơ thể (sinh lý) và
yếu tố tâm lý để tạo ra con người với tư cách là một chính thể. Mục tiêu chủ
yếu của nó là tự biết mình. Nhà trị liệu có thể giúp thân chủ đạt được điều này
bằng một vài cách sau đây: bằng cách bày tỏ tình cảm khó xử trong tình
huống nhóm, bằng cách tập trung nhận thức để hiểu rằng: bằng cách nào
những mối bận tâm không kết thúc từ quá khứ lại được chuyển vào những
quan hệ mới, bằng cách chấp nhận những nhiệm vụ của đời sống chưa hoàn
thành phải được kết thúc cho sự phát triển tiếp tục của mỗi cá nhân.
Fritz Perls người khởi xướng trị liệu Gestalt đã đề nghị những người
muốn được trị liệu tham gia tâm kịch, tức là đóng vai những người hâm mộ
quan tâm đến những xung đột và những tình cảm mạnh mẽ của mình, đồng
thời tái tạo lại những giấc mơ của họ mà vốn chúng được xem như là những
phần được “ép lại’’ của nhân cách người đó.
Trong thực hành, các nhà trị liệu Gestalt mượn phương pháp nội quan
(quan sát nội tâm) của thiền để dạy người ta cách tập trung vào những trải
nghiệm thực tại giúp thân chủ hiểu biết về những cảm xúc, tình cảm, thái độ,
hành động của mình xuất hiện và trào dâng như thế nào. Trị liệu Gestalt đã
sử đụng tính nghịch lý để giúp người ta nhận ra rằng: “thay đổi có thể chỉ xảy
ra khi chúng ta chấp nhận chúng ta là ai vào lúc này, và sự nhận biết này tự
nó đã là sự chữa trị”. Thay cho việc phiên dịch (nhận diện), sự không hài lòng
như là xung đột mà nó đang làm mình đau khổ, bất hạnh, có thể xem đó chỉ là
chút căng thẳng rồi nó sẽ hết (điều này làm giảm sự bất hạnh). Đây chính là
bước đầu tiên dẫn đến sự tự thay đổi.
Một kỹ thuật trị liệu Gestalt cụ thể được nhiều người áp dụng là bài tập
chiếc ghế trống. Ta hãy bắt đầu bài tập này bằng cách:
1) Hãy tưởng tượng ra một ai đó rất quan trọng đối với mình. Đó là
người mà ta cần phải có mối quan hệ qua lại (bất kể điều này có thật hay
không), người đó đang ngồi ở cái ghế trước mặt ta.
2) Hãy tưởng tượng ta đang nghĩ hoặc muốn nói chuyện với người đó
và hãy nói to với chiếc ghế (tức là nói chuyện với người đó) nhấn mạnh
những tình cảm mà ta cần bày tỏ hoặc những ý nghĩ mà trước đó vì những lý
do nào đó ta chưa dám nói ra.
3) Sau đó hãy tưởng tượng sự đáp lại của người đó, ta lắng nghe điều
này trong sự tưởng tượng và hãy trả lời (nói to) một cách thẳng thắn mạnh
dạn như ta nghĩ.
Mặc dầu đây chỉ là một bài tập đóng vai tưởng tượng, nhưng mỗi người
thử nghiệm có thể ngạc nhiên với chính mình, ngạc nhiên với những lời đã
thốt ra và ngạc nhiên với những tình cảm mà mình “thừa nhận”. Bài tập này
có thể giúp ta hiểu rõ cái gì mình cảm nhận vào lúc này và bằng cách nào
những trải nghiệm cá nhân này chi phối cuộc sống của bản thân.
c. Trị liệu nhóm
Trị liệu nhân văn – hiện sinh thường sử dụng bối cảnh nhóm để cung
cấp cho thân chủ những mô hình nhập vai, sự ủng hộ xã hội như là những
bằng chứng để họ thấy họ không đơn độc (vì nhiều người cùng hoàn cảnh
như họ).
Một số những lợi ích thực sự của trị liệu nhóm được nhiều nhà nghiên
cứu thừa nhận là: những tình cảm gắn bó, sự chấp nhận, những cơ hội để
hiểu người khác, những cơ hội để quan sát bắt chước và được “ân thưởng
củng cố” (cổ vũ) về mặt xã hội, cơ hội cho việc trải nghiệm những vấn đề nan
giải chung của mọi người… Những cơ hội này cho phép mỗi cá nhân trong
bối cảnh nhóm sống lại những quan hệ, những cảm xúc tiêu cực, nhận diện
lại nó và điều chỉnh.
Theo Zimbardo, ở Mỹ có khoảng 15 triệu người gia nhập các nhóm tự
quản (khoảng 500.000 nhóm). Hoạt động của những nhóm này là hoàn toàn
tự do, tự nguyện, không có sự áp đặt. Các nhóm này tạo cơ hội cho sự gặp
gỡ trao đổi giữa những người có cùng vấn đề khó khăn. Chính cơ hội gặp gỡ
của nhóm có thể giúp giải quyết tốt những loại khó khăn vướng mắc sau đây:
– Những vấn đề nghiện hút.
– Những rối nhiễu tâm thể.
– Những rối nhiễu tâm lý.
– Những khủng hoảng lứa tuổi và khủng hoảng khác.
– Stress và những chấn thương tâm thần.
Chẳng hạn dựa trên kinh nghiệm ứng phó thành công của một ai đó
trong nhóm với vấn đề nghiện rượu, nghiện ma tuý… mà nhóm có thể giúp
các thành viên khác tự thiết kế cho mình một lộ trình từ bỏ rượu hay từ bỏ cờ
bạc gồm những bước sau đây:
Bước thứ nhất bắt đầu bằng việc giúp cá nhân nhận ra rằng một người
sử dụng quá nhiều rượu sẽ trở nên bất lực. Bước thứ hai có thể là một sự
tuyên bố nhằm đặt lòng tin vào một sức mạnh nào đó làm động lực cần thiết
cho sự từ bỏ rượu (chẳng hạn rượu làm hỏng gan…). Những bước tiếp theo
có thể giúp tăng cường lòng tin. hoặc đặt ra những mục tiêu giúp đỡ cụ thể.
Trong chương trình giúp đỡ gồm nhiều bước này, mỗi thành viên được nhóm
động viên khích lệ và giúp đỡ để họ tự chấp nhận sự giúp đỡ từng bước một,
đi đến sự từ bỏ rượu hoàn toàn (nhưng sự giúp đỡ của nhóm không theo
cách ra lệnh hay áp đặt)
Các kỹ thuật trị liệu nhóm cung cấp sự ủng hộ, sự chấp nhận xã hội
(nhiều cá nhân vì có rối nhiễu mà họ bị cô lập khỏi mọi sự giúp đỡ, chia xẻ
của gia đình, người thân, bạn bè). Tuy nhiên, nhiều khi những vấn đề ta cần
đến sự giúp đỡ của các nhà tư vấn trị liệu lại là những thiếu hụt hay vướng
mắc trong các quan hệ liên cá nhân. Đây là lý do để các nhà trị liệu nhân văn
– hiện sinh phát triển các kỹ thuật trị liệu nhằm vào các mối quan hệ liên cá
nhân.
d. Trị liệu nhằm vào các mối quan hệ liên cá nhân
Mỗi người chúng ta không thể sống thiếu sự có mặt của người khác, vì
chúng ta là một phần không thể cắt bỏ của những mối quan hệ thân mật, hay
quan hệ tương tác với người khác. Nhưng nhiều khi những mối quan hệ liên
cá nhân không thuận lợi có thể gây cho ta những rối nhiễu. Do vậy, các nhà
trị liệu nhân văn – hiện sinh đã đưa ra những chiến lược được tính toán khéo
léo cho việc giải quyết những căng thẳng và xung đột bằng cách học các kỹ
năng giao tiếp ứng xử xã hội, học cách thích ứng, thoả hiệp, đồng cảm để
hoà nhập với người khác.
Các nhà trị liệu hôn nhân và gia đình tìm cách hiểu những mẫu giao
tiếp điển hình của các cặp vợ chồng và sau đó tìm cách cải thiện chất lượng
của sự tương tác qua lại này bằng cách gặp từng người, rồi gặp cả hai phía
để trao đổi, đôi khi bằng quay vi deo, ghi âm bằng catsette để cho họ cùng
xem lại. Nhà trị liệu có thể giúp cả hai hiểu những cách thức, bằng cách nào
(cả lời nói và cử chỉ, thái độ) mà mỗi người đã sử dụng để tìm cách giành ưu
thế, khống chế hay gây ra thương tổn tâm lý ở người kia. Từng bên sẽ được
tư vấn bằng cách nào có thể khuyến khích những hành vi đáng mong muốn
và làm giảm những hành vi không mong đợi. Mỗi bên cũng được hướng dẫn
các kỹ năng biết lắng nghe để giúp bên kia bày tỏ tình cảm quan điểm. Trị liệu
tập trung không phải vào các nhân cách mà chủ yếu vào các quan hệ cụ thể
đang bị rối nhiễu, vào các mẫu giao tiếp gây hiểu lầm tạo ra xung đột.
Theo các nhà trị liệu, những mẫu giao tiếp xung đột này không phải là
sản phẩm của bản tính không thể thay đổi mà thực chất là sản phẩm của quá
trình tập nhiễm. Do vậy, việc cung cấp và huấn luyện cho thân chủ những
mẫu ứng xử mới thích hợp hơn là cách giải toả những vướng mắc trong các
quan hệ. Tuy nhiên, vai trò của nhà trị liệu là làm sao để cả hai phía phải cùng
có mong muốn làm một sự thay đổi nào đó trong cách họ nghĩ và cách họ
hành động, đồng thời họ phải nhận lấy trách nhiệm cho phần của họ trong
việc tạo ra các quan hệ không lành mạnh này. Giải pháp lý tưởng là cả hai
phía cùng nhau tổ chức lại toàn bộ các mối quan hệ và sẽ không thể thay đổi
nếu mỗi người đều có tư tưởng chán nản, rã đám.
e. Trị liệu gia đình
Nếu như một đối tượng có triệu chứng bất thường, cảm thấy đau khổ
và tự nguyện tìm gặp nhà tư vấn hay trị liệu tâm lý thì đó là một chỉ định tốt
cho trị liệu cá nhân. Nhưng nếu một đối tượng có triệu chứng bất thường
nhưng không cảm thấy đau khổ mà lại do các thành viên khác trong gia đình
phát hiện và đưa đến nhà trị liệu tâm lý nhờ giúp đỡ thì đó là một chỉ định tốt
cho trị liệu gia đình, vì các thành viên trong gia đình đã sẵn sàng nhận lấy
trách nhiệm cùng giúp đỡ đối tượng.
Thông thường thân chủ càng tỏ ra ít tự nguyện (chẳng hạn trẻ em) thì
định hướng trị liệu càng phải dựa vào bối cảnh nhóm, trong đó gia đình là một
nhóm đặc biệt. Theo cách tiếp cận trị liệu gia đình mang tính hệ thống thì gia
đình được xem như là một hệ thống. Hệ thống này có gì đó trục trặc đã tạo ra
những sự phiền toái đau khổ cho cá nhân. Nhà trị liệu cần phải tập trung vào
cái cách mà gia đình này tổ chức các mối tương tác hiện tại để hiểu cấu trúc
của nó: thứ bậc quyền lực, các kênh giao tiếp, bầu không khí tâm lý… và ai
kêu ca, ai nhận lỗi cho mỗi vấn đề trục trặc. Nhà trị liệu cần gặp gỡ trao đổi
với từng thành viên trong gia đình để giúp họ nhận ra những vấn đề và những
mẫu ứng xử kém thích nghi đang tạo ra những khó khăn cho một hoặc nhiều
thành viên khác trong gia đình.
Trị liệu gia đình có thể làm giảm căng thẳng trong gia đình và cải thiện
chức năng của các thành viên bằng cách tạo ra một không gian làm trung
gian để thiết lập những cuộc đối thoại bình đẳng, giúp mỗi người nhận ra
những điểm tích cực cũng như tiêu cực trong các quan hệ của họ. Viginia
Satir (1967), một trong những người đề xướng đổi mới phương pháp tiếp cận
trị liệu gia đình nhận thấy rằng nhà trị liệu tâm lý gia đình cùng lúc đóng rất
nhiều vai trò: hành động như người “phiên dịch”, như người làm sáng tỏ các
mối tương tác qua lại không thuận lợi như là nhà trung gian hoà giải… Tuy
nhiên, nhà trị liệu chủ yếu tập trung làm thay đổi những không gian tâm lý
giữa các thành viên trong gia đình và những động thái liên cá nhân để mọi
người cùng hành động như là một thể thống nhất hơn là tìm cách thay đổi
những giá trị bên trong các cá nhân kém thích nghi.
Nhà trị liệu cũng cần tập trung vào tình huống hơn là các khía cạnh
khuynh hướng của một vấn đề xảy ra trong gia đình. Chẳng hạn nhà trị liệu
giúp mọi người hiểu rằng: làm thế nào sự không thống nhất, sự xung đột giữa
bố mẹ phát triển thành sự rối nhiễu ở trẻ hơn là tìm cách dán nhãn (đổ lỗi)
cho ai đó là nguyên nhân gây ra sự rối nhiễu này. Mục tiêu của một buổi trị
liệu gia đình không phải là một buổi để mọi người xả nỗi bực tức phàn nàn,
trách cứ lẫn nhau, mà là tìm cách phát triển các khả năng hợp tác để cùng
giải quyết vấn đề (tức là hợp tác thế nào để trị liệu rối nhiễu cho trẻ). Nhà tư
vấn và trị liệu gia đình cũng giống như nhà tư vấn cho một tổ chức, cố gắng
giúp gia đình (từng thành viên của gia đình) tổ chức lại các chức năng, điều
chỉnh lại các mối quan hệ để nó đáp ứng tốt hơn cho những nhu cầu và đòi
hỏi của các thành viên.
PHẦN IV. TRỊ LIỆU HÀNH VITrị liệu hành vi có nguồn gốc từ lâu đời, nhưng có lịch sử ngắn ngủi.
Lịch sử loài người đã áp dụng các nguyên tắc hành vi để thay đổi hành vi từ
hàng ngàn năm trước đây. Ví dụ, cha mẹ thưởng cho trẻ khi chúng hoàn
thành tốt các công việc ở nhà. Tuy nhiên sử dụng một cách có hệ thống các
nguyên tắc và phương pháp của trị liệu hành vi để loại bỏ một chứng rối nhiễu
tâm trí thì mới chỉ xuất hiện cách đây 50–60 năm.
1. Tóm tắt lịch sử phát triển của trị liệu hành viNhững công trình nghiên cứu sớm nhất
Nhà sinh lý học Nga Ivan Paplov là cha đẻ của học thuyết Điều kiện
hoá kinh điển. Điều kiện hoá kinh điển là một hình thức của học tập, trong đó
một kích thích trung gian (kích thích không tạo ra một đáp ứng. Ví dụ đèn
sáng, chuông kêu không gây ra phản xạ tiết nước bọt ở con chó) đi cặp đôi
với một kích thích có điều kiện (kích thích có tạo ra một đáp ứng, ví dụ thức
ăn tạo ra phản xạ tiết nước bọt ở con chó). Sau một thời gian tập luyện, chỉ
mình kích thích trung gian cũng xảy ra một đáp ứng (đèn bật sáng thì con chó
tiết nước bọt mà không cần đưa thức ăn đến).
Dựa trên kết quả nghiên cứu ở động vật, Paplov đã đề xuất các nguyên
tắc điều trị những rối loạn tâm trí ở người.
Tuy nhiên ứng dụng thành công nhưng nghiên cứu của Paplov vào trị
liệu những rối loạn tâm trí cho con người là nhà tâm lý học thực nghiệm
người Mỹ John B. Watson thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hopking. Ông là
cha đẻ của Chủ nghĩa Hành vi cổ điển. Trường phái Hành vi cổ điển này nhấn
mạnh đến những hành vi được nghiên cứu một cách khách quan (tức là
những kích thích, đáp ứng, củng cố được quan sát một cách trực tiếp). Chủ
nghĩa Hành vi cổ điển bác bỏ các khái niệm tinh thần như ý thức, suy nghĩ,
tưởng tưởng…
Năm 1924, Mary Cover Jones, một học trò của Watson đã thành công
trong việc điều trị chứng ám sợ thỏ ở một dứa trẻ 3 tuổi tên là Peter. Chương
trình trị liệu này gồm hai bước cơ bản. Thứ nhất, Peter được quan sát những
trẻ khác đang chơi vui vẻ với một con thỏ, mục đích của bước này giúp Peter
nhận ra rằng những con thỏ này thực sự không đáng sợ. Bước sau đó là
Peter được tiếp cận dần với con thỏ khi cậu bé hết sợ. Trong khi Peter ăn một
loại thực phẩm ưa thích thì Jones đặt một cái lồng trong đó nhốt một con thỏ
vào phòng của Peter. Chiếc lồng này được đặt ở vị trí đủ xa để không làm
Peter lo lắng. Dần dần qua một vài ngày Jones đưa con thỏ ra khỏi lồng đến
gần cho Peter. Kết quả sau một số buổi, Peter đã có thể bế con thỏ và chơi
đùa với con thỏ. Đây được coi là một thực nghiệm kinh điển về trị liệu hành vi.
Tuy nhiên phải 30 năm sau trị liệu hành vi mới trở thành một khuynh hướng
phát triển độc lập.
Trị liệu hành vi phát triển như là một hướng tiếp cận điều trị tách biệt với phân tâm
Trị liệu phân tâm do S.Freud khởi xướng thịnh hành nửa đầu thế kỷ XX.
Trị liệu phân tâm liên quan đến một loạt các buổi trị liệu sử dụng kỹ thuật liên
tưởng tự do, chuyển dịch để bộc lộ vô thức. Mục tiêu của trị liệu phân tâm là
giúp thân chủ thấu hiểu vấn đề của họ. Giác ngộ được xem là chìa khoá để
thay đổi. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới thứ II, ở Mỹ người ta bắt đầu
nghi ngờ về tính hiệu quả của trị liệu phân tâm, người ta bắt đầu cảm thấy
hướng điều trị này không thích hợp cho các thương phế binh bị chứng rối
nhiễu tâm thần sau chiến tranh. Lý do để phê phán là độ dài của quá trình trị
liệu từ vài năm đến cả chục năm và tính hiệu quả thấp, không rõ rệt trong việc
loại bỏ triệu chứng và ngăn chặn tái phát.
H. Eysenck (1952) đã tiến hành một công trình nghiên cứu nhằm điều
tra tính hiệu quả của trị liệu theo phương pháp phân tâm. Ông đã tiến hành
nghiên cứu các hồ sơ bệnh án ở bệnh viện và công ty bảo hiểm. Dựa trên kết
quả điều tra của Eysenck đã kết luận rằng những người được điều trị bằng
phương pháp phân tâm không có hiệu quả rõ rệt so với những người không
được điều trị bằng phương pháp này. Sau này các nhà nghiên cứu khác xem
xét lại thấy rằng nhận định này là thái quá, tuy nhiên nó có giá trị kích thích
các nhà trị liệu tìm kiếm một hướng trị liệu mới có hiệu quả hơn.
Sự ra đời của trị liệu hành vi hiện đại
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, trị liệu hành vi cùng lúc được phát
triển ở Mỹ, Nam Phi, Canađa và Anh. Cùng thời gian Paplov tìm ra lý thuyết
điều kiện hoá cổ điển thì một nhà tâm lý học Mỹ là E. Thorndike ở Trường Đại
học Columbia nghiên cứu và tìm ra lý thuyết Điều kiện hoá thao tác. Điều kiện
hoá thao tác liên quan đến sự tăng hoặc giảm hành vi nào đó bằng cách thay
đổi một cách có hệ thống hậu quả của hành vi đó.
B.F. Skinner là nhà tâm lý học Mỹ ở đại học Harvard, nghiên cứu điều
kiện hoá thao tác trên chim bồ câu và chuột (ông là nhà tâm lý học hành vi
theo trường phái cổ điển của Watson và Thorndike). Ông đã suy nghĩ đến
việc sử dụng các nguyên tắc học theo kiểu điều kiện hoá thao tác này để điều
trị rối nhiễu tâm trí ở con người. Tuy nhiên phải đến học trò của ông là O.
Lindsley đã tiến hành một loạt các nghiên cứu để xác định tính khả thi của
việc sử dụng lý thuyết điều kiện hoá thao tác vào điều trị các bệnh nhân tâm
thần người lớn. Ông dạy cho bệnh nhân tâm thần học được những nhiệm vụ
đơn giản khi họ được nhận những phần thưởng có ý nghĩa.
Các thực nghiệm của Lindsley tuy chưa phải là các kỹ thuật trị liệu hành
vi chính thống dùng cho bệnh nhân tâm thần nhưng nó là tiền đề để phát triển
các kỹ thuật trị liệu dựa vào cơ chế điều kiện hoá thao tác. Ông cũng là người
đầu tiên dùng thuật ngữ trị liệu hành vi (Behavior therapy) để mô tả việc sử
dụng một cách có hệ thống các thủ tục tập nhiễm để thay đổi những rối nhiễu
tâm trí ở bệnh nhân tâm thần.
Cuối những năm 50, một nhà tâm lý học Canada. T. Ayllon làm thực
nghiệm có tính kinh điển chứng minh tính hiệu quả của các nguyên tắc điều
kiện hoá trong việc biến đổi những hành vi rối loạn nặng ở các bệnh nhân tâm
thần bệnh viện Saskatchewan (Canada). Ông sử dụng liệu pháp củng cố
(Reinforcement therapy) để thay đổi những hành vi không thích nghí. Nghiên
cứu này của ông là bằng chứng có giá trị bác bỏ những phản đối của những
ai chống lại liệu pháp củng cố.
Theo phân tâm, những rối nhiễu tâm lý là kết quả của những xung đột
vô thức, muốn trị liệu thành công phải đi sâu vào nguồn gốc những xưng đột
này. Nghiên cứu của Ayllon đã gián tiếp thách thức những người theo trường
phái phân tâm về nguồn gốc của những rối loạn tâm trí (ông đã dạy một bệnh
nhân tâm thần nặng, 54 tuổi, ôm giữ một cái bàn chải ở tư thế đứng thẳng tại
chỗ bằng cách sử dụng liệu pháp học – thưởng củng cố).
Vào năm 1961, Ayllon cùng với Azrin (học trò của Skinner) phát triển
phương pháp trị liệu Thưởng quy đổi (Token economy), liệu pháp này sử
dụng cách thưởng cho bệnh nhân điểm hoặc đồ vật để khuyến khích họ thực
hiện một hành vi nào đó mà ta muốn. Những phiếu điểm được qui đổi ra
những phần thưởng vật chất hoặc tinh thần như cho phép tham gia vào các
hoạt động ưa thích. Sau thành công bằng liệu pháp củng cố, họ nhận ra rằng
cần phát triển những kỹ thuật trị liệu phức hợp để điều trị những rối nhiễu tâm
lý phức tạp. Khi Ayllon và Azrill tiến hành nghiên cứu phát triển liệu pháp
Thưởng quy đổi họ đã bị những đồng nghiệp theo trường phái trị liệu truyền
thống phản đối, thậm chí họ chỉ được cung cấp những bệnh nhân nặng và
những bệnh nhân này được xem là “vô phương” hoặc không thể trị liệu bằng
phương pháp truyền thống. Tuy nhiên đây lại là điều kiện tốt để xác định tính
hiệu quả ưu việt của liệu pháp mới và họ đã thành công. Hiện nay liệu pháp
Thưởng quy đổi là một trong những liệu pháp trị liệu hành vi có hiệu quả nhất
trong điều trị những rối nhiễu tâm trí.
Nhà tâm thần học người Nam Phi J. Wolpe không hài lòng với phương
pháp điều trị của phân tâm, ông đã phát triển một số liệu pháp điều trị mới đó
là liệu pháp Giải mẫn cảm có hệ thống, huấn luyện kỹ năng xã hội và thư giãn
căng chùng cơ để loại bỏ những ám sợ. Wolpe đã sử dụng lý thuyết Điều kiện
hoá thao tác và các tri thức của sinh lý học thần kinh để phát triển kỹ thuật trị
liệu của mình. Các nghiên cứu của ông có ảnh hưởng lớn đến trị liệu hành vi
và ông được xem là một trong những người sáng lập trị liệu hành vi. Eysenck
H. là người khởi xướng phương pháp trị liệu hành vi ở Anh.
Sự phát triển của trị liệu hành vi như là một hướng điều trị được chấp nhận rộng rãi
Trong khi trị liệu hành vi đưa ra được những bằng chứng về tính hiệu
quả để có thể được chấp nhận như là một hướng tiếp cận mới trong điều trị
các chứng tâm bệnh lý thì vào những năm 60, một nhà tâm lý học Mỹ nổi
tiếng là A. Bandura ở đại học Stanford đã phát triển lý thuyết Tập nhiễm xã
hội (Social learlling theory). Lý thuyết này bao hàm không chỉ các nguyên tắc
điều kiện hoá kinh điển, điều kiện hoá thao tác mà còn cả các nguyên tắc học
qua quan sát (Observational learning).
Nguyên tắc học qua quan sát cho thấy rằng mọi người có thể học cách
thay đổi hành vi của mình qua quan sát những hành vi của người khác.
Lý thuyết Tập nhiễm xã hội của Bandura nhấn mạnh vai trò của nhận
thức (tư duy, tưởng tượng, niềm tin, mong muốn…). Theo lý thuyết này, nhận
thức có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc điều chỉnh các chức năng tâm lý
làm thay đổi (tăng hay giảm) một hành vi nào đó. Vì vậy nó rất quan trọng
trong việc điều trị những rối nhiễu tâm lý.
Về mặt lý thuyết, việc thừa nhận nhận thức có một vai trò chính thống
trong trị liệu hành vi là “bác bỏ” chủ nghĩa hành vi cổ điển của Watson. Bởi vì
nhận thức là những khái niệm tinh thần không trực tiếp quan sát được). Sở dĩ
chủ nghĩa hành vi cổ điển đã được các nhà trị liệu chấp nhận vì nó chống lại
quan điểm của phân tâm, nhấn mạnh vào vô thức cái không thể trực tiếp
quan sát được. Tuy nhiên cho đến lúc này, hầu hết các nhà trị liệu hành vi tin
rằng nếu chỉ xem xét những hành vi biểu hiện ra bên ngoài, bỏ qua những gì
diễn ra ở bên trong là một cách tiếp cận quá hạn hẹp, khiếm khuyết. Họ thừa
nhận rằng con người nghĩ, hy vọng, dự định, tưởng tượng… tất cả các quá
trình nhận thức này rõ ràng có ảnh hưởng đến hành động.
Dựa trên những công trình nghiên cứu độc lập, A. Beck (Đại học
Pensylvania) đã phát triển phương pháp trị liệu Nhận thức (Cognitive
therapy), còn A. Ellis (Đại học New york) đã phát triển phương pháp trị liệu
Xúc cảm hợp lý (Rational emotional therapy). Cả hai liệu pháp nhận thức
hành vi này đều nhằm biến đổi những niềm tin và ý nghĩa không hợp lý của
những người đang chịu các chứng bệnh tâm thần, chẳng hạn như trầm
nhược, lo âu, ám sợ…, và chúng được xem là liệu pháp cơ bản của trị liệu
hành vi hiện đại.
Cùng thời gian này, Meichenbaum ở Đại học Waterloo (Canada) đã
phát triển những chương trình trị liệu nhận thức hành vi tích hợp trong một
chương trình điều trị trọn gói như “tự hướng dẫn” (Self instructional training)
và “huấn luyện phòng ngừa stress” (Stress innoculation training). Những
chương trình trị liệu tâm lý trọn gói này có khả năng điều trị một loạt các
chứng rối nhiễu tâm lý, chẳng hạn như gây gổ, xung tính, lo âu, ám ảnh… và
cả những rối loạn tâm trí nặng như tâm thần phân liệt, hoang tưởng.
Meichenbaum cũng là một trong những người đầu tiên áp dụng liệu pháp
nhận thức– hành vi điều trị các chứng tâm bệnh lý cho trẻ em.
Cũng vào những năm 60, trị liệu hành vi được giới chuyên môn thừa
nhận và dần dần nổi lên như là một khuynh hướng được ưu tiên chọn lựa khi
điều trị một số chứng rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm thần.
Vai trò nổi bật của trị liệu hành vi (ở Mỹ, Canada, Anh và Úc)
Vào những năm 70, trị liệu hành vi nổi lên như là một xu hướng điều trị
chủ yếu có hiệu quả nhất của tâm lý học lâm sàng. Nó có ảnh hưởng to lớn
đến tâm thần học, giáo dục học và các ngành thuộc lĩnh vực khác. Các kỹ
thuật và các nguyên tắc của trị liệu hành vi cũng được chấp nhận rộng rãi và
thích nghi hoá để tăng cường các chức năng hàng ngày của con người ở các
lĩnh vực khác như kinh doanh, công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, sinh thái học,
nghệ thuật…
Đến những năm 80, trị liệu Nhận thức–hành vi đã giành được những vị
trí quan trọng trong sự phát triển của mình. Thứ nhất, trị liệu Nhận thức–hành
vi nổi lên như là một lực lượng chính, chiếm ưu thế hơn hẳn đối với các loại
trị liệu khác. Thứ hai, nó bắt đầu có những đóng góp rất đáng kể không chỉ
cho công tác điều trị và ngăn cản các chứng bệnh tâm thần, mà còn giúp giải
quyết những vấn đề khác của y học (như phục hồi các chứng bệnh thực thể,
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng) và của xã hội. Trị liệu Nhận thức–hành vi thực
tế đã tạo được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. Về mặt hiệu quả nó đạt tới
điểm thuyết phục được cả những ai nghi ngờ, và hơn thế nữa các nhà trị liệu
Nhận thức–hành vi đã bắt đầu xem xét kỹ lưỡng từng phương pháp trị liệu cụ
thể và ảnh hưởng của những phương pháp này lên bệnh nhân và lên toàn bộ
lĩnh vực trị liệu tâm lý.
2. Bản chất của trị liệu hành vi và những hiểu lầmTrị liệu hành vi là gì?
Có một sự hiểu lầm cho rằng tất cả các kỹ thuật trị liệu nhằm biến đổi
hành vi đều là trị liệu hành vi. Thực ra một số trị liệu nhằm biến đổi hành vi
nhưng không phải là trị liệu hành vi. Ví dụ như trị liệu bằng sốc điện, phẫu
thuật tâm lý, trị liệu bằng tân dược.
Mục tiêu của trị liệu hành vi là giúp người bệnh giải quyết được những
vấn đề rối nhiễu tâm lý của họ (mục tiêu này là chung của trị liệu tâm lý).
Những rối nhiễu tâm trí có nhiều dạng mức dưới các tên gọi khác nhau: bệnh
tâm thần, tâm bệnh lý rối loạn cảm xúc, hành vi kém thích nghi, hành vi bất
thường… Những rối nhiễu tâm lý cụ thể là lo âu, buồn chán, trầm cảm, những
vướng mắc trong quan hệ liên cá nhân, những khó khăn trong quan hệ tình
dục… Vì vậy xác định trị liệu hành vi là gì là một điều không dễ dàng.
Thay cho việc tìm ra một định nghĩa chung về trị liệu hành vi, người ta
cố tìm những đặc trưng của trị liệu hành vi để chúng có thể đại diện cho cách
tiếp cận của trị liệu hành vi với những vấn đề rối nhiễu tâm trí:
a. Tính khoa học:
Đặc trưng đầu tiên của trị liệu hành vi là cách tiếp cận khoa học để hiểu
và tìm cách làm giảm những vấn đề của người bệnh. Phương pháp khoa học
mà trị liệu hành vi sử dụng liên quan đến việc tập hợp một cách có hệ thống
các số liệu thực nghiệm, sử dụng các phương pháp mà các nhà nghiên cứu
khác có thể lặp lại, kết luận rút ra từ kết quả thực nghiệm hơn là từ mong
muốn hoặc niềm tin của cá nhân hoặc suy đoán thiếu căn cứ. Tính khoa học
thể hiện ở việc xác định rõ mục tiêu trị liệu đánh giá chính xác bệnh trạng,
nguyên nhân bệnh và có những kỹ thuật trị liệu hợp lý. Tính khoa học còn thể
hiện ở các phép đo để lượng hoá trong suốt quá trình trị liệu. Tính khoa học
cũng thể hiện ở các phương pháp nó nghiên cứu được sử dụng để đánh giá
tính hiệu quả của các kỹ thuật trị liệu.
b. Tập trung vào hiện tại
Trị liệu hành vi chú trọng vào những nguyên nhân, điều kiện hiện tại
đang duy trì hành vi không thích nghi hơn là những nguyên nhân, điều kiện
của quá khứ. Nó tập trung đánh giá những hành vi hiện tại, các yếu tố tâm lý,
các tác nhân của môi trường để xác định nhân tố nào đang duy trì trạng thái
rối nhiễu.
Mô hình hành vi giả thiết rằng những rối nhiễu tâm lý nào đó xảy ra là
do những điều kiện hiện tại đang duy trì nó, vì vậy các kỹ thuật đánh giá, điều
trị chủ yếu nhằm vào môi trường, các nhân tố hiện tại chứ không nhằm vào
quá khứ. Các liệu pháp nhằm trực tiếp vào những hành vi không thích nghi để
trị liệu – biến đổi điều chỉnh chúng (ví dụ một đứa trẻ mút tay, trị liệu hành vi
không để ý đến lý do tại sao nó mút tay mà chủ yếu quan tâm đến những điều
kiện nào làm trẻ giảm và khỏi mút tay). Điều này có vẻ mâu thuẫn với quan
niệm của phân tâm vì trường phái này cho rằng rối nhiễu là do những xung
đột quá khứ không được giải toả.
c. Tính hành động:
Trong trị liệu hành vị, thân chủ (bệnh nhân) được lôi kéo vào những
hành động cụ thể để làm giảm những vấn đề của họ. Tức là bệnh nhân được
hướng dẫn làm một số những hành động nào đó để kiểm soát những khó
khăn của họ (trị liệu bằng hành động) hơn là bằng lời nói.
Trong trị liệu phân tâm, các cuộc trò chuyện giữa bệnh nhân và nhà trị
liệu là phương thức chủ yếu qua đó các kỹ thuật trị liệu được thực hiện.
Ngược lại trong trị liệu hành vi, trò chuyện giữa bệnh nhân và nhà trị liệu chủ
yếu là trao đổi thông tin, còn các kỹ thuật trị liệu chủ yếu thực hiện thông qua
hành động của bệnh nhân. Chẳng hạn bệnh nhân trong thời gian trị liệu được
yêu cầu phải theo dõi thống kê những hành vi nào đó của họ trong cuộc sống,
phải học và thực hành các kỹ năng ứng phó hoặc phải đóng các vai khác
nhau trong các tình huống trị liệu… Những công việc được giao thực hiện ở
nhà cũng là một phần của quá trình trị liệu.
d. Diễn ra trong đời sống thực
Trị liệu hành vi thường ít ra là một phần nếu không nói là tất cả trong
môi trường tự nhiên (môi trường sống thực của người bệnh) nhưng có kiểm
soát. Lý do là những vướng mắc, khó khăn hay rối nhiễu của người bệnh phải
được trị liệu ở nơi nó xảy ra, chứ không phải tại văn phòng của nhà tư vấn.
Trị liệu hành vi thực chất là quá trình giáo dục, trong đó người bệnh học
các kỹ năng tự điều chỉnh, phát triển các cách thức ứng xử mới. Việc học này
tốt nhất nên được tiến hành ở môi trường sống thực của người bệnh.
e. Sử dụng cách tiếp cận tổng hợp
Xây dựng chương trình “trị liệu trọn gói” phối hợp nhiều liệu pháp cụ thể
để tăng tính hiệu quả của điều trị. Ít nhất là phải kết hợp hai kỹ thuật trị liệu
trong một chương trình điều trị cho một rối nhiễu nào đó của người bệnh. Sự
kết hợp nhiều liệu pháp khác nhau trong một chương trình điều trị tổng hợp
sẽ nâng cao tính hiệu quả của trị liệu. Nguyên tắc phối hợp này cũng giống
như điều trị những vấn đê của y học hiện đại, chẳng hạn như vừa dùng thuốc,
vừa sử dụng chế độ ăn kiêng vừa tập luyện để chữa bệnh tim mạch.
f. Xây dựng mối quan hệ hợp tác, hiểu biết trong quá trình trị liệu
Trị liệu hành vi đòi hỏi sự hợp tác giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Bệnh
nhân phải là người chủ động tham gia có hiểu biết vào quá trình trị liệu.
Chẳng hạn ở giai đoạn đầu của quá trình trị liệu, nhà trị liệu tìm hiểu, chẩn
đoán, đánh giá và chủ động thảo luận kế hoạch điều trị rối nhiễu với bệnh
nhân. Khi những liệu pháp tâm lý cụ thể nào đó được chọn (chỉ chọn những
liệu pháp phù hợp, không quá khó với bệnh nhân) nhà trị liệu phải giải thích rõ
mục đích, yêu cầu, cách thức và giúp họ hiểu làm thế nào để thực hiện những
liệu pháp này có hiệu quả. Trong quá trình trị liệu, nhà trị liệu và người bệnh
cùng chia sẻ những hiểu biết để người bệnh là người có hiểu biết, được
thông tin về thực trạng bệnh, những tiến triển dự kiến trong quá trình điều trị.
Bệnh nhân trong chương trình trị liệu hành vi thường được huấn luyện
các kỹ năng để họ có thể biến quá trình trị liệu thành tự trị liệu hoặc bắt đầu
hay tiếp tục một chương trình tự điều trị tại gia và biết tự đánh giá kết quả
điều trị. Cách tiếp cậu điều trị mang tính tự hướng dẫn, tự kiểm soát này có
hai điều lợi: thân chủ biết cách giải quyết các vấn đề của họ để họ có thể đối
phó với những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai mà không cần sự có mặt của
nhà trị liệu. Thân chủ được trang bị “công cụ“ để thay đổi hành vi của họ thì
họ cũng có thể tự duy trì sự thay đổi này và cảm thấy tự tin hơn.
Những hiểu lầm về bản chất của trị liệu hành vi:
– Phải chăng trị liệu hành vi mang bản chất cơ học?
Các nhà trị liệu hành vi có khuynh hướng sử dụng một hệ thống thuật
ngữ mang tính cơ học, khái quát hoá hành vi theo công thức: kích thích, đáp
ứng và củng cố. Phải chăng nhà trị liệu hành vi có “trái tim lạnh” và đối xử với
người bệnh như là đối với con vật. Những phê phán này ở góc độ nào đó
đúng với chủ nghĩa hành vi cổ hển, còn chủ nghĩa hành vi hiện đại khuyến
khích xây dựng một mối quan hệ chia sẻ, hiểu biết, trung thực thẳng thắn,
đồng cảm và tin cậy giữa nhà trị liệu và người bệnh.
– Qui gán tính hời hợt, bề mặt cho trị liệu hành vi
Một số người phê phán cho rằng trị liệu hành vi chỉ giới hạn chú ý hoàn
toàn vào các sự kiện, hành động bên ngoài mà bỏ qua các quá trình bên
trong. Điều này đúng với những người theo trường phái hành vi cổ điển.
Chủ nghĩa hành vi hiện đại từ những năm 60 khi Bandura đề xướng lý
thuyết học – tập nhiễm xã hội đã xem các quá trình nhận thức có vai trò đặc
biệt quan trọng. Những liệu pháp điều chỉnh nhận thức được Beck và Ellis
phát triển đều xem những kiểu nhận thức không hợp lý là mục tiêu của trị liệu.
Như vậy các nhà trị liệu hành vi hiện đại không bỏ qua các quá trình nhận
thức, không lảng tránh sử dụng các khái niệm suy luận, không xem nhẹ đời
sống nội tâm của người bệnh.
– Qui gán bản chất phi lịch sử cho trị liệu hành vi
Vì các nhà trị liệu hành vi thường nhấn mạnh vai trò của các nhân tố
hiện tại đang duy trì hành vi rối nhiễu, do vậy họ thường bị hiểu lầm là bỏ qua
những sự kiện có ý nghĩa trong quá khứ của người bệnh.
Hoàn toàn ngược lại, nhiều nhà trị liệu hành vi dựa trên giả thuyết cho
rằng những kinh nghiệm học được trong quá khứ là rất có ý nghĩa trong việc
xác định cách thức hành động của người đó trong hiện tại. Trong khi thừa
nhận tầm quan trọng của quá khứ, nhà trị liệu hành vi tập trung khám phá
những điều kiện hiện tại đang duy trì hành vi rối nhiễu và huấn luyện những
kỹ năng mới hay cung cấp những kinh nghiệm mới cho người bệnh để họ biết
cách kiểm soát rối nhiễu.
3. Mô hình trị liệu hành viMuốn hiểu được bản chất của trị liệu nhận thức – hành vi phải hiểu
được mô hình hành vi quan niệm như thế nào về con người. Trị liệu hành vi
không phải là phép cộng của những kỹ thuật trị liệu cụ thể mà là một chiến
lược tiếp cận tổng hợp dựa trên mô hình lý thuyết.
Làm thế nào mà chúng ta có thể xác định được một người cụ thể, anh
hay chị ta là người như thế nào?
Theo mô hình hành vi, mỗi người được xác định bởi một tập hợp
những hành vi của người đó. Ví dụ, hãy nghĩ về một người nào đó mà bạn
biết rõ, mô tả tóm tắt về người đó để những ai không biết có thể hiểu được
người đó là ai và là người như thế nào. Khi trả lời câu hỏi này, phần lớn ta
nhận được câu trả lời mô tả những nét tính cách hơn là hành vi của người đó.
Chẳng hạn: “Chị ấy là người tốt, sống có trách nhiệm, vui tính, hay giúp đỡ
mọi người”. Mỗi ý trả lời này mô tả một nét tính cách hay thuộc tính của nhân
cách. Những nét tính cách này thường tồn tại trong đầu thông qua quan sát
hành vi trước đó và nhiều khi không thật chính xác do bị sai lạc trong quá
trình khái quát hoá. Hơn nữa khi mô tả rằng chị ấy là người tốt: sống có trách
nhiệm… nhưng không nói trong trường hợp nào (không phải với ai chị ấy
cũng tốt và trong mọi trường hợp chị ấy đều là người tốt và có trách nhiệm).
Các nhà hành vi quan niệm rằng “bất kỳ cái gì một người làm là hành
vi, còn cái gì một người có là một nét tính cách”. Các nhà trị liệu hành vi
thường tập trung nghiên cứu đánh giá hành vi của người bệnh, những bệnh
nhân đến gặp các nhà trị liệu thường mô tả họ và những rối nhiễu tâm lý của
họ dưới dạng nét tính cách. Chẳng hạn, “trước đây tôi là ngươi vui tính, thích
giao tiếp… nhưng gần đây tôi cảm thấy mệt mỏi, buồn chán, hay lo lắng mất
khả năng tập trung…”. Vì vậy nhiệm vụ của nhà trị liệu là phải chuyển những
nét tính cách này thành hành vi. Điều này liên quan đến việc nhận dạng
những hành vi cụ thể nào đó minh hoạ rõ nhất cho thuộc tính vừa kể ra.
Hành vi có hai phạm trù: Hành vi biểu hiện ra bên ngoài (overt
behavior) và hành vi diễn ra bên trong (convert behavior). Hành vi bộc lộ ra
bên ngoài là những hành động mà người khác có thể quan sát trực tiếp được
ví dụ: ăn, chơi, nói, cười, viết). Hành vi diễn ra bên trong đầu là những gì
chúng ta làm mà người khác không thể quan sát trực tiếp được (Ví dụ: suy
nghĩ, tưởng tượng, ghi nhớ suy đoán, tình cảm…), nhưng có thể nhận biết
thông qua suy luận. Chủ nghĩa hành vi cổ điển chỉ quan tâm đến hành vi bộc
lộ ra bên ngoài bỏ qua những gì diễn ra bên trong đầu thuộc bình diện nhận
thức. Tuy nhiên chủ nghĩa hành vi hiện đại coi trọng cả hai phạm trù này.
Các nhà trị liệu hành vi đã sử dụng mô hình A B C (Viết tắt của các từ
Anticedents, Behaviors, Consequences) để mô tả quá trình liên tiếp, hiện thời
của những tác nhân kích thích thúc đẩy hành vi xuất hiện và hậu quả sau khi
hành vi được trình diễn
A: Tác nhân kích thích ban đầu là những sự kiện xảy ra hoặc có mặt
trước khi hành vi (B) diễn ra, chúng tạo ra những điều kiện cần và đủ cho
hành vi xảy ra.
C: Hậu quả là những sự kiện xảy ra sau và như là kết quả của việc
thực hiện hành vi. Hậu quả có thể xảy ra ngay hoặc một thời gian sau mới
xảy ra và ảnh hưởng đến những khả năng xuất hiện lại của hành vi này trong
Dan đen
Hau qua mong đoi
Xac đinh lieu hanh vi co xay ra lai hay khong
Xac đinh lieu hanh vi đuoc thuc hien
hay khong
Tao đieu kien can va đu
CBA
tương lai. Mặc dù có rất nhiều sự kiện xảy ra trước và theo sau mỗi hành vi,
nhưng chỉ có một số rất ít có ảnh hưởng đáng kể trực tiếp như là những nhân
tố đang duy trì sự có mặt của hành vi. Hơn nữa tác nhân kích thích khởi đầu
và hậu quả duy trì sự có mặt của hành vi theo những cách khác nhau. Hậu
quả thực tế của một hành vi có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, liệu
hành vi đó có xảy ra nữa hay không? Hậu quả mong muốn cũng có thể là kích
thích khởi động ảnh hưởng đến việc liệu một người sẽ “cam kết” thực hiện
hành vi vào lúc đó. Dự đoán về hậu quả có thể có cũng là một nhân tố xác
định liệu những điều kiện cần và đủ này là đúng cho việc thực hiện hành vi.
Tác nhân kích thích
ban đầu
Hành vi Hậu quả
– Stress xúc cảm
Chán ăn
Không thèm ăn
Mệt mỏi sút cân
– Làm việc quá sức Lo lắng về sức khoẻ
– Rối loạn tiêu hoá Sợ cơm, sợ mùi thức ăn
– Thực phẩm mất vệ sinh Bị ép ăn
– Thực phẩm không hợp khẩu vị Chỉ ăn nhẹ, ăn đồ dễ tiêu
Mục tiêu của trị liệu hành vi là can thiệp tích cực để làm giảm hay loại
bỏ những rối nhiễu bằng cách thay đổi những điều kiện duy trì hành vi rối
nhiễu. Tức là tìm cách loại bỏ tác nhân kích thích và điều chỉnh hậu quả (để
nó không đóng vai trò là cái củng cố cho hành vi sẽ xảy ra trong tương lai).
Để làm được điều này, chiến lược can thiệp hành vi phải thực hiện các bước
sau đây:
– Bước 1: Nhận diện những điều kiện đang duy trì hành vi rối nhiễu: theo mô hình hành vi thì các điều kiện duy trì hành vi luôn có mặt vào
thời điểm hiện tại. Nhà trị liệu nên phân biệt giữa những điều kiện hiện tại
đang duy trì hành vi rối nhiễu và những điều kiện có nguồn gốc nảy sinh trong
quá khứ. Mô hình hành vi cho rằng sự ảnh hưởng của những sự kiện quá
khứ lên hành vi rối nhiễu hiện tại là gián tiếp thông qua vai trò của thói quen,
giá trị, trí nhớ, kinh nghiệm, biểu tượng và xúc cảm… Chẳng hạn, một đứa trẻ
học được cách nổi khùng như là một đáp ứng được củng cố (sau mỗi lần trẻ
đòi, nếu bị cấm chỉ cần nổi khùng lên là được mẹ thoả mãn). Tuy nhiên, sự
xuất hiện lại những cơn khùng ở tuổi trưởng thành chỉ xảy ra khi hoàn cảnh
tạo thuận lợi (điều kiện đủ).
– Bước 2: Xác định các nguồn cung cấp những điều kiện duy trì hành vi rối nhiễu: Có hai nguồn chính:
Từ môi trường: gồm tất cả những ảnh hưởng bên ngoài lên hành vi (bối
cảnh hành vi xảy ra, các nhân tố xã hội…).
Từ cá nhân: gồm những quá trình nhận thức xúc cảm, những phản ứng
sinh lý…
– Bước 3: Xác định vai trò của các nhân tố
Theo Bandura, cha đẻ của lý thuyết học - tập nhiễm xã hội, thì môi
trường hành vi bên trong (nhận thức và xúc cảm) và hành vi bên ngoài có ảnh
hưởng chi phối lẫn nhau.
Chúng ta hành động như thế nào, không chỉ quyết định bởi các nhân tố
môi trường (bản chất của tình huống và sự kiện) mà còn do những nhân tố
bên trong (nhận thức, xúc cảm…). Chúng ta có thể thay đổi hoặc tạo ra
những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta, cái chính là ta hiểu cái
gì đang ảnh hưởng, đang duy trì hành vi rối nhiễu của ta và tìm cách kiểm
soát nó.
4. Qui trình tiến hành một ca trị liệu hành viĐể tiến hành một ca trị liệu đòi hỏi nhà trị liệu phải thực hiện một qui
trình gồm các bước sau đây:
a. Tiếp xúc – phỏng vấn khai thác thông tin
Trước khi có cuộc tiếp xúc đầu tiên với nhà trị liệu thân chủ cần được
các chuyên gia y học thăm khám lâm sàng để đánh giá về tình trạng sức
khoẻ, xác định liệu những vấn đề của thân chủ có liên quan đến những
thương tổn thực thể nào đó.
Khi bắt đầu cuộc tiếp xúc phỏng vấn, nhà trị liệu cần quan sát thái độ
tâm trạng và hành vi của người bệnh. Một tâm trạng lo sợ một thái độ im lặng,
không hợp tác hay ngầm chống đối… báo hiệu những khó khăn bước đầu
của quá trình thăm khám và chữa trị. Nhà tư liệu cần phải chủ động tạo ra
bầu không khí cởi mở thân thiện và đồng cảm để gây lòng tin, qua đó có thể
bắt đầu quá trình phỏng vấn khai thác thông tin liên quan đến những vấn đề
rối nhiễu.
Lắng nghe chăm chú người bệnh kể về bản thân họ, quá trình phát
bệnh là yêu cầu tối quan trọng với nhà trị liệu. Các câu hỏi phỏng vấn khai
thác thông tin chỉ nên tiến hành sau khi đã lắng nghe kiên trì những gì người
bệnh kể.
2. Nhận diện bản chất rối nhiễu
Nhận diện bản chất của rối nhiễu là cụ thể hoá những mô tả triệu
chứng bệnh lý dưới dạng nét tính cách thành một tập hợp những hành vi bất
thường có thể lượng hoá được (kém thích nghi) để có thể phân loại đánh giá
mức độ bệnh lý (tần xuất,cường độ, thời gian…).
Phát hiện các nhân tố hiện tại đang ảnh hưởng hay duy trì rối nhiễu,
liên quan đến môi trường như: gia đình. nhà trường, các yếu tố xã hội, nơi
làm việc, các vấn đề cá nhân. Tìm hiểu các sự kiện xảy ra trước đó liên quan
đến rối nhiễu như những vấn đề tâm lý, thực thể, ảnh hưởng của các loại
thuốc… Đồng thời nhận diện những ảnh hưởng do hậu quả của rối nhiễu gây
ra (xem những hậu quả này có đóng vai trò cái củng cố hay không?). Ngoài ra
cũng cần tìm hiểu ảnh hưởng của các rối nhiễu khác, các chứng bệnh khác
có liên quan.
3. Đánh giá toàn diện nhân cách
Thu thập thông tin từ gia đình, từ người bệnh để có thể đánh giá sơ bộ
những đặc tính của cơ thể, thái độ, năng lực, hứng thú sở thích để định
hướng cho quá trình trị liệu.
d. Chọn lựa mục tiêu cần điều chỉnh
Người bệnh thường kể rất nhiều những vấn đề của họ (ví dụ bệnh nhân
phàn nàn rằng họ mất ngủ, đau đầu, căng thẳng thần kinh, mất khả năng tập
trung chú ý…), nhưng nhà trị liệu cần phải thu hẹp phạm vi và chỉ tập trung
vào 1–2 vấn đề của người bệnh. Tại sao vậy?
Bởi vì thường người bệnh dễ tập trung vào một vấn đề và thực hiện
một nhiệm vụ cũng dễ hơn. Nếu trị liệu cho một vấn đề có chuyển biến tốt,
người bệnh sẽ tin tưởng mà theo đuổi chương trình điều trị. Hơn nữa, các
vấn đề rối nhiễu thường liên quan với nhau, tập trung làm giảm một số rối
nhiễu có thể dẫn đến giảm các rối nhiễu khác.
Nhà trị liệu cần giúp người bệnh xác định những hành vi nào cần loại
bỏ, hành vi nào cần tăng cường. Những hành vi cần tăng cường là những
hành vi lẽ ra họ phải có, nhưng vì những lý do nào đó, những hành vi này bị
ngăn cản. Những hành vi cần loại bỏ là những hành vi không thích nghi.
Thường thì mọi người hay áp dụng chiến lược trừng phạt để làm giảm
những hành vi không thích nghi và chiến lược khen thưởng để củng cố hành
vi thích nghi, tuy nhiên không phải lúc nào cũng thành công. Thông thường
việc tăng cường hành vi thích nghi là phần đặc biệt quan trọng của chương
trình trị liệu (những chương trình trị liệu tốt là phải cung cấp huấn luyện
những kinh nghiệm, kỹ năng mới) vì sự tăng này mà hành vi kém thích nghi
tự giảm đi.
d. Xác định những điều kiện cần điều chỉnh
Ngược với những gì người ta thường nghĩ, trị liệu hành vi không trực
tiếp thay đổi triệu chứng hoặc hành vi không thích nghi. Trị liệu hành vi về bản
chất là quá trình nhận diện và thay đổi những điều kiện đang duy trì hành vi
không thích nghi. Đó là loại bỏ các tác nhân kích thích (A) và thay đổi hậu quả
(C) của hành vi không thích nghi (B). Một số những điều kiện duy trì hành vi
không thích nghi nhưng không thể thay đổi được, vì vậy không nên được
chọn là điều kiện cần thay đổi, điều chỉnh. Ví dụ, một đứa trẻ mắc chứng trầm
cảm, lo âu do điều kiện gia đình bố mẹ ly dị… đây là điều kiện không thể thay
đổi được.
f. Trị liệu khởi đầu
Cần thiết lập những số liệu ban đầu (baseline) về một hành vi không
thích nghi (ví dụ, người bệnh kêu đau đầu, thỉnh thoảng chóng mặt choáng
ngất, thì tuần đầu tiên trước khi trị liệu chính thức phải đánh giá được: đau
đầu thế nào, đau bao lần trong một ngày, vào thời điểm nào, đau bao lâu,
trạng thái ngất thế nào…).
Công việc tiếp theo là chọn lựa, phối hợp một nhóm liệu pháp thích hợp
cho người bệnh, dự kiến chương trình trị liệu sẽ gồm những nội dung huấn
luyện nào…Sau tuần trị liệu đầu tiên cần thu thập thông tin, đánh giá sơ bộ
kết quả để xác định những liệu pháp thích hợp hướng ưu tiên cho trĩ liệu. Gia
đình người bệnh cũng cần được lôi kéo tham gia vào quá trình trị liệu (theo
dõi, đánh giá,thông tin phản hồi).
g. Xác định hướng ưu tiên cho trị liệu
Khẳng định những liệu pháp thích hợp, thiết lập mối quan hệ đồng cảm
tin cậy, chia xẻ hiểu biết với người bệnh. Xác định những công việc cụ thể sẽ
được làm trong từng buổi trị liệu rồi những yêu cầu người bệnh phải thực hiện
sau buổi trị liệu. Tiếp tục đánh giá sự tiến bộ, điều chỉnh kịp thời những sai
sót.
h. Đánh giá kết quả, kết thúc trị liệu
Đánh giá kết quả trước khi kết thúc chương trình trị liệu là điều bắt
buộc đối với nhà trị liệu. Chuẩn bị cho người bệnh, gia đình họ tâm thế và
những kỹ năng cần thiết để có thể tiếp tục tự trị liệu mà không cần sự có mặt
của nhà trị liệu.
Kết quả điều trị chỉ thực sự có ý nghĩa khi những thay đổi hành vi phải
được duy trì và phải diễn ra trong đời sống hàng ngày của người bệnh. Hơn
thế nữa, người bệnh phải có khả năng ứng phó với những biên thể của rối
nhiễu trong tương lai.
Nhà trị liệu cần phải viết một báo cáo về kết quả trị liệu và kế hoạch
theo dõi tiếp tục sau trị liệu.
PHẦN V. TRẮC NGHIỆMTrong chẩn đoán lâm sàng và trị liệu tâm lý có hai khuynh hướng tiếp
cận rối nhiễu: đánh giá rối nhiễu, kết quả trị liệu không sử dụng công cụ (tay
trần) và có sử dụng công cụ (dùng trắc nghiệm đánh giá). Tuy nhiên ngày
càng có nhiều nhà tâm lý học lâm sàng đi theo khuynh hướng có sử dụng
công cụ trong những nghiên cứu đánh giá, chẩn đoán và điều trị lâm sàng.
Tuy nhiên công việc chẩn đoán lâm sàng tâm lý đòi hỏi phải có những
công cụ đáng tin cậy có độ hiệu lực cao. Việc sử dụng những bộ trắc nghiệm
dịch từ nước ngoài, không qua quá trình thích nghi hoá – chuẩn hoá lại trên
mẫu đại diện của Việt Nam (Vietnalnese Norms) nhằm xác định lại độ tin cậy,
độ hiệu lực, những lỗi của trắc nghiệm… là điều rất nguy hiểm (bởi vì tất cả
những trắc nghiệm bằng lời đều có bản chất văn hoá, sẽ không thích hợp nếu
dùng cho đối tượng ở các nền văn hoá khác mà không qua thích nghi và
chuẩn hoá lại). Công việc thích nghi hoá trắc nghiệm không phải chỉ là dịch
nghĩa, dịch bản hướng dẫn sử dụng (mallual), mà cái chính là phải biết được
xuất xứ, các tiêu chuẩn thiết kế, mục tiêu đo đạc, các thông số kỹ thuật, các
mẫu dùng để chuẩn hoá… Tức là phải hiểu “nguồn gốc” trắc nghiệm này xuất
phát từ đâu, được thiết kế để đo cái gì, dựa trên mô hình lý thuyết nào, gồm
những miền đo nào, dựa trên những nguyên tắc hay phương pháp nào để
thiết kế và xây dựng cácitem… đã áp dụng kỹ thuật chọn mẫu nào, sử dụng
những nhóm mẫu nào để chuẩn hoá, sử dụng những kỹ thuật nào để phân
tích…từ đó tìm cách chuyển ngữ tương đương, xác định lại các thông sô kỹ
thuật…; đưa ra những cảnh báo thận trọng khi chẩn đoán. Do vậy công việc
thích nghi hay chuẩn hoá trắc nghiệm nhất thiết phải do các nhà tâm lý
chuyên sâu hoặc các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về lý
thuyết cũng như kỹ thuật thiết kế xây dựng trắc nghiệm đảm nhiệm.
Tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc thích nghi và chuẩn hoá trắc nghiệm,
chúng tôi đã thích nghi một số trắc nghiệm dưới đây. Những trắc nghiệm này
là những công cụ quan trọng được ưa dùng trong chuẩn đoán trị liệu lâm
sàng và đang được sử dụng ở Mỹ, Anh, Úc. Những trắc nghiệm này đã được
chuẩn hoá, có độ tín cậy và ứng nghiệm cao, đã được nhiều nước chọn để
thích nghi hoá:
– Trắc nghiệm đánh giá trầm cảm của Beck. A.(lần bổ sung sửa chửa
thứ hai (Beck Depression Inventory 2nd Edition. (BDI– II). 1996).
– Trắc nghiệm đánh giá trầm cảm của William M. Reynolds, đánh giá
trầm cảm ở lứa tuổi vị thành niên: Reynolds Adolescent Despession Scale
(1986).
– Trắc nghiệm trạng thái và nét lo âu của Spielberger (State–Trait
Anxiety Inventory – Form Y1 và Y2 (STAI), 1983).
– Trắc nghiệm đánh giá kỹ năng xã hội của Gresham (Social Skills
Rating System (Gresham & Elliott), 1990).
Vì những trắc nghiệm này đang trong quá trình Việt hoá thích nghi và
chuẩn hoá lại trên các nhóm mẫu khác nhau của Việt Nam (Viếtnamese
Norms), nên chúng tôi chưa thể cung cấp các thông số về độ tin cậy, độ hiệu
lực, cách tính điểm, cách phân loại… Vì vậy hãy thận trọng khi sử dụng và xin
hãy liên hệ với chúng tôi trước khi sử dụng chính thức những trắc nghiệm này
như là những công cụ chẩn đoán.
Địa chi liên hệ: TS. Nguyên Công Khanh, Trung tâm Nghiên cứu Tâm
sinh lý học lứa tuổi, Viện KHGD, 101 Trần Hưng Đạo, Hà Nội.
I. THANG ĐO TRẦM CẢM CỦA BECK – IIBeck Depllession Inventory 2nd Edition–1996 (BDI–II)
Người dịch: TS. Nguyễn Công khanh
Tên: ……………………………………….……
Giới tính: …………………………………………
Học vấn: …………………………………………
Tình trạng hôn nhân: ……………………………
Nghề nghiệp: ……………………………………
Tuổi: …………………………………………..…
Hướng dẫn: Trắc nghiệm tâm lý này gồm 21 nhóm đề mục (câu hỏi–trả
lời). Xin bạn hãy đọc kỹ từng nhóm đề mục và hãy chọn ra một câu mô tả
đúng nhất trạng thái tâm thần của bạn lúc này hoặc trong khoảng thời gian 2
tuần trở lại đây. Bạn hãy khoanh tròn vào chữ số đứng trước câu đó. Nếu
trong một nhóm có vài câu có thể đúng với bạn, xin hãy chọn câu có chữ số
lớn nhất. Chú ý bạn chỉ được phép chọn 1 ở mỗi nhóm đề mục kể cả ở nhóm
16 và nhóm 18.
1. Buồn rầu:
0– Tôi không cảm thấy buồn
1– Nhiều lúc tôi cảm thấy buồn
2– Tôi có cảm giác buồn suốt ngày
3– Tôi buồn chán và bất hạnh đến mức không thể chịu đựng được
2. Bi quan:
0– Tôi không cảm thấy thất vọng về tương lai của mình
1– Tôi cảm thấy thất vọng hơn trước về tương lai của mình
2– Tôi không mong chờ những việc tốt đẹp sẽ đến với tôi
3– Tôi cảm thấy tương lai của mình là tuyệt vọng và chỉ có tồi tệ hơn
thôi
3. Mặc cảm thất bại:
0– Tôi không cảm thấy mình là kẻ thất bại
1– Tôi thất bại nhiều hơn mức bình thường
2– Nhìn lại quá khứ, tôi là người gặp quá nhiều thất bại
3– Tôi cảm thấy mình là kẻ thất bại hoàn toàn
4. Mất cảm giác vui vẻ, thích thú:
0– Tôi luôn cảm thấy vui vẻ khi mình làm những gì mình thích
1– Tôi không cảm thấy thích thú nhiều như trước đây
2– Tôi còn lại rất ít cảm giác thích thú từ những thứ mà trước đó tôi rất
thích
3– Tôi hoàn toàn mất hết sự thích thú từ những thứ mà trước đó tôi rất
thích
5. Cảm giác tội lỗi:
0– Tôi không cảm thấy mình là người có tội
1– Tôi có mặc cảm tội tôi với nhiều thứ mình đã làm và sẽ làm
2– Tôi luôn luôn cảm thấy mình là người có lỗi
3– Mọi lúc mọi nơi tôi đều cảm thấy mình là người có lỗi
6. Mặc cảm bị trừng phạt:
0– Tôi không có cảm giác mình là người bị trừng phạt
1– Tôi cảm thấy mình có thể bị trừng phạt
2– Tôi thấp thỏm chờ đợi bị trừng phạt
3– Tôi cảm thấy mình đang bị trừng phạt
7. Thất vọng về mình:
0– Tôi cảm thấy không có gì thay đổi so với trước đây
1– Tôi cảm thấy thiếu tự tin vào bản thân
2– Tôi cảm thấy thất vọng về bản thân mình
3– Tôi cảm thấy mình thật đáng ghét
8. Buộc tội bản thân:
0– Tôi không phê phán hay buộc tội mình quá mức
1– Tôi bắt đầu phê phán mình nhiều hơn mức bình thường
2– Tôi tự phê phán mình mỗi khi có lỗi
3– Mỗi khi có điều không tốt lành xảy ra, tôi đều buộc tội mình
9. Ý nghĩ tự sát.
0– Tôi không hề có ý nghĩ tự sát
1– Tôi có ý nghĩ tự sát nhưng chưa có ý định hành động
2– Tôi muốn và có ý định tự tử
3– Tôi sẽ tự sát nếu có cơ hội
10. Muốn khóc, tủi thân:
0– Tôi không khóc nhiều hơn mức bình thường
1– Tôi hay khóc hơn trước đây
2– Một sự việc nhỏ cũng làm tôi khóc
3 – Tôi cảm thấy muốn khóc và không thể nào cầm được nước mắt
11. Cảm giác bối rối, không yên tâm:
0– Tôi không có cảm giác bất an hoặc bối rối
1– Tôi cảm thấy hơi bất an và hơi bối rối hơn bình thường
2– Tôi cảm thấy bất an và bối rối, khó ngồi yên một chỗ
3– Tôi cảm thấy quá bất an và bối rối, đến nỗi phải đi lại hoặc làm một
cái gì đó
12. Mất hết hứng thú:
0– Tôi không mất hứng thú tiếp xúc với người khác, tôi thích hoạt động
1– Tôi không thích thú tiếp xúc với người khác, với đồ vật như trước
đây
2– Tôi mất gần hết hứng thú với người khác hoặc đồ vật
3– Rất khó khăn để tôi hứng thú bất cứ điều gì
13. Không có khả năng quyết định:
0– Khả năng ra quyết định của tôi vẫn bình thường
1– Tôi nhận thấy mình có khó khăn hơn trước khi ra quyết định
2– Tính quyết đoán của tôi kém hơn rất nhiều so với trước đây
3– Bất cứ khi nào phải ra quyết định tôi đều gặp khó khăn phiền toái
14. Cảm giác vô giá trị, vô dụng:
0– Tôi không cảm thấy mình là đồ vô dụng
1– Tôi không còn xem mình là người có ích, hữu dụng như trước đây
2– Tôi cảm thấy mình vô dụng hơn nhiều người khác
3– Tôi cảm thấy mình hoàn toàn là đồ bỏ đi
15. Mất nghị lực, bất lực:
0– Tôi vẫn là người có nghị lực như trước đây
1– Tôi ít có nghị lực hơn trước đây
2– Tôi không có nghị lực để làm nhiều thứ
3– Tôi không có đủ sinh lực để làm bất cứ điều gì
16. Ngủ thất thường, thay đổi:
0– Tôi ngủ vẫn bình thường
1– a) Tôi ngủ nhiều hơn trước
b) Tôi ít ngủ hơn trước
2– a) Tôi ngủ nhiều hơn trước rất nhiều
b) Tôi ít ngủ hớn trước rất nhiều
3– a) Tôi ngủ hầu như suốt ngày
b) Tôi thức dậy từ lúc 1–2 giờ sáng và không thể nào ngủ tiếp được
17. Cáu bẳn, bực tức:
0– Tôi không khó chịu, cáu gắt hơn mức bình thường
1– Tôi cảm thấy khó chịu, cáu gắt hơn trước
2– Tôi luôn cảm thấy bực tức, cáu gắt nhiều hơn trước
3– Lúc nào tôi cũng cảm thấy bực tức, cáu bẳn
18. Mất cảm giác ngon miệng thèm ăn:
0– Không có gì thay đổi về cảm giác ngon miệng, thèm ăn của tôi
1– a) Cảm giác ngon miệng của tôi có giảm hơn mức bình thường
b) Cảm giác ngon miệng của tôi tăng hơn mức bình thường
2– a) Cảm giác ngon miệng của tôi giảm nhiều so với trước
b) Cảm giác ngon miệng của tôi tăng nhiều so với trước
3– a) Tôi hoàn toàn không có cảm giác thèm ăn, không có cảm giác
ngon miệng
b) Tôi cảm thấy lúc nào cũng thèm ăn
19. Khó tập trung chú ý:
0– Tôi có khả năng tập trung tốt như trước đây
1– Tôi khó có thể tập trung được như trước đây
2– Rất khó cho tôi khi phải tập trung chú ý trong một thời gian dài
3– Tôi nhận thấy mình không thể tập trung chú ý vào bất cứ điều gì
20. Mệt mỏi:
0– Tôi không cảm thấy mệt mỏi
1– Tôi hay có cảm giác mệt mỏi hơn trước
2– Tôi mệt mỏi đến nỗi không muốn làm nhiều thứ mà trước đó tôi vẫn
làm
3– Tôi quá mệt mỏi đến nỗi không muốn làm bất cứ điều gì
21. Mất hứng thú trong sinh hoạt tình dục:
0– Tôi không nhận thấy có gì thay đổi trong hứng thú tình dục của mình
1– Tôi ít có hứng thú sinh hoạt tình dục hơn trước đây
2– Hứng thú sinh hoạt tình dục của tôi hiện giờ giảm rất nhiều
3– Tôi hoàn toàn mất hứng thú tình dục.
II. TRẮC NGHIỆM TỰ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TRẦM CẢM(Dành cho học sinh 10 – 20 tuổi)
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Họ và tên: …………………………………………
Nam / nữ: …………………………………………
Tuổi: …………………………………………….…
Ngày: ……………………………………………..
Hướng dẫn: Dưới đây là một loạt những biểu hiện thường thấy của
triệu chứng trầm cảm. Xin bạn hãy đọc kỹ từng câu, sau đó khoanh tròn vào
một chữ số thích hợp (từ 0 đến 3) biểu thị đúng nhất trạng thái tâm thần của
bạn (không có câu trả lời đúng hoặc sai).
Số thứ tự
Những biểu hiệnHầu như
không
Thi thoảng
Khá thường xuyên
Rất thường xuyên
1 Tôi cảm thấy mình hạnh phúc 0 1 2 3
2Tôi cảm thấy lo lắng về chuyện trường
học0 1 2 3
3 Tôi cảm thấy mình cô đơn 0 1 2 3
4 Tôi cảm thấy cha mẹ tôi không thích tôi 0 1 2 3
5 Tôi cảm thấy mình là người quan trọng 0 1 2 3
6Tôi muốn xa lánh, trốn chạy khỏi mọi
người0 1 2 3
7 Tôi cảm thấy buồn chán 0 1 2 3
8 Tôi cảm thấy muốn khóc 0 1 2 3
9Tôi có cảm giác không ai quan tâm đến
tôi0 1 2 3
10Tôi thích cười đùa với các bạn học sinh
khác0 1 2 3
11 Tôi có cảm giác cơ thể rệu rã, ốm yếu 0 1 2 3
12 Tôi có cảm giác minh đang được yêu 0 1 2 3
13Tôi cảm thấy mình giống như kẻ bỏ
chạy0 1 2 3
14 Tôi cảm thấy mình đang làm khổ mình 0 1 2 3
15Tôi cảm thấy những học sinh khác
không thích tôi0 1 2 3
16 Tôi cảm thấy bực bội 0 1 2 3
17Tôi cảm thấy cuộc sống bất công với
tôi0 1 2 3
18 Tôi cảm thấy mệt mỏi 0 1 2 3
19 Tôi cảm thấy minh là kẻ tồi tệ 0 1 2 3
20 Tôi cảm thấy mình là kẻ vô tích sự 0 1 2 3
21 Tôi cảm thấy minh là kẻ đáng thương 0 1 2 3
22 Tôi thấy phát điên lên về mọi thứ 0 1 2 3
23Tôi thích trò chuyện với các học sinh
khác0 1 2 3
24 Tôi trằn trọc khó ngủ 0 1 2 3
25 Tôi thấy thích vui đùa 0 1 2 3
26 Tôi cảm thấy lo lắng 0 1 2 3
27 Tôi có cảm giác như bị đau dạ dày 0 1 2 3
28 Tôi cảm thấy cuộc sống tẻ nhạt, vô vị 0 1 2 3
29 Tôi thấy thèm ăn 0 1 2 3
30 Tôi thất vọng không muốn làm gì cả 0 1 2 3
III. TRẮC NGHIỆM ĐÁNH GIÁ LO ÂU CỦA BECK(Beck Anxiety inventery)
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Họ và tên: …………………………………………
Tuổi: ……………………………………….………
Nam / nữ: …………………………………………
Văn hóa: …………………………….……………
Ngày: …………………………………..…………
Hướng dẫn: Dưới đây là một loạt những biểu hiện thường thấy của
triệu chứng lo âu. Xin bạn hãy đọc kỹ từng câu, sau đó khoanh tròn vào một
chữ số thích hợp (từ 0 đến 3) biểu thị đúng nhất trạng thái tâm thần của bạn
ngày hôm nay hoặc trong khoảng thời gian một tuần trở lại đây.
Số
thứ
tự
Những biểu hiệnKhông
có
Thi
thoảng
Khá
thường
xuyên
Rất
thường
xuyên
1Tôi có cảm giác tê hoặc râm ran khắp
người0 1 2 3
2 Tôi cảm thấy nóng ruột gan 0 1 2 3
3Tôi có cảm giác lảo đảo, chân đi không
vững0 1 2 3
4 Tôi cảm thấy cơ thể căng cứng, không thể 0 1 2 3
thư giãn
5 Tôi lo sợ một điều gì đó rất xấu sắp xảy ra 0 1 2 3
6 Tôi có cảm giác hoa mắt, chóng mặt 0 1 2 3
7 Tim của tôi đập mạnh 0 1 2 3
8 Tôi có cảm giác cơ thể mất thăng bằng 0 1 2 3
9 Tôi cảm thấy khiếp sợ 0 1 2 3
10 Tôi cảm thấy đầu mình căng ra 0 1 2 3
11 Tôi có cảm giác tức ngực, nghẹt thở 0 1 2 3
12 Hai tay tôi run run 0 1 2 3
13 Tôi có cảm giác run sợ 0 1 2 3
14Tôi lo sợ mất khả năng tự kiểm soát bản
thân0 1 2 3
15 Tôi thấy khó thở 0 1 2 3
16 Tôi thấy rất sợ chết 0 1 2 3
17 Tôi có cảm giác hoảng sợ 0 1 2 3
18 Tôi có cảm giác đầy bụng, khó tiêu 0 1 2 3
19 Tôi cảm thấy muốn xỉu đi (kiệt sức) 0 1 2 3
20 Tôi thấy mặt mình nóng phừng phừng 0 1 2 3
21 Tôi thấy toát mồ hôi (không phải do nóng) 0 1 2 3
IV. THANG TỰ ĐÁNG GIÁ MỨC ĐỘ LO HÃIState–Trait Anxiety Inventory – Form Y1 (STAI–Y1)*
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Họ và tên: …………………………………………
Tuổi: ………………………………….……………
Nam / nữ: …………………………………………
Văn hóa: …………………………….……………
Ngày: ……………………………..………………
Hướng dẫn: Dưới đây là 20 câu hỏi – mệnh đề được dùng để mô tả
trạng thái tâm lý của bạn. Xin bạn hãy đọc kỹ từng câu, sau đó khoanh tròn
vào một số thích hợp (từ 1 đến 4) biểu thị trạng thái tình cảm của bạn vào lúc
này. Không có câu trả lời đúng hoặc sai. Không sử dụng quá nhiều thời gian
để suy nghĩ về một câu hỏi. Hãy trả lời bằng chính những ý nghĩ đến trong óc
mình đầu tiên.
STT Trạng thái xúc cảm, tinh cảmMức độ
không cóMột chút
Tương đối
Rất nhiều
1 Tôi cảm thấy bình tĩnh 1 2 3 4
2 Tôi cảm thấy an toàn 1 2 3 4
3 Tôi đang căng thẳng 1 2 3 4
4 Tôi cảm thấy mệt mỏi và lo âu 1 2 3 4
5 Tôi cảm thấy thư thái 1 2 3 4
6 Tôi cảm thấy bực tức 1 2 3 4
7 Tôi đang lo lắng về những bất hạnh rủi ro 1 2 3 4
8 Tôi cảm thấy hài lòng 1 2 3 4
9 Tôi cảm thấy sợ hãi 1 2 3 4
10 Tôi cảm thấy dễ chịu thoải mái 1 2 3 4
11 Tôi cảm thấy tự tin 1 2 3 4
12 Tôi cảm thấy thần kinh bị kích thích 1 2 3 4
13 Tôi cảm thấy bồn chồn 1 2 3 4
14Tôi cảm thấy phân vân, không thể quyết
định được1 2 3 4
15 Tôi cảm thấy thần kinh thư giãn 1 2 3 4
16 Tỏi cảm thấy thoả mãn 1 2 3 4
17 Tôi cảm thấy lo lắng 1 2 3 4
18 Tôi cảm thấy tư duy bị nhầm lẫn, lộn xộn 1 2 3 4
19 Tôi cảm thấy vững tâm 1 2 3 4
20 Tôi cảm thấy vui mừng 1 2 3 4
V. THANG TỰ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ LO HÃIState–Trait Anxiety Inventory – Form Y2 (STAI–Y2)*
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Họ và tên: …………………………………………
Nam / nữ: ……………………………….…………
Văn hóa: ………………………………..…………
Tuổi: ………………………………………………
Hướng dẫn: Dưới đây là 20 câu hỏi–mệnh đề được dùng để mô tả
trạng thái tâm lý tình cảm của bạn. Xin bạn hãy đọc kỹ từng câu, sau đó
khoanh tròn vào một mức độ thích hợp (từ 1 đến 4) biểu thị cảm giác chung
nhất của bạn. Không có câu trả lời đúng hoặc sai. Không sử dụng quá nhiều
thời gian để suy nghĩ về một câu hỏi. Hãy trả lời bằng những ý nghĩ, cảm
nhận đến đầu tiên trong óc mình.
STT Trạng thái xúc cảm, tình cảmHầu như
không
Thỉnh thoảng
Luôn luôn
Hầu như mọi lúc
21 Tôi cảm thấy vui mừng 1 2 3 4
22 Tôi cảm thấy bối rối, không yên 1 2 3 4
23 Tôi cảm thấy hài lòng với chính mình 1 2 3 4
24Tôi cảm thấy mình không được hạnh
phúc như mọi người1 2 3 4
25 Tôi cảm thấy mình là kẻ thất bại 1 2 3 4
26 Tôi cảm thấy thảnh thơi, bình an 1 2 3 4
27Tôi cảm thấy bình tĩnh, có khả năng tập
trung1 2 3 4
28Tôi cảm thấy khó khăn chồng chất
không thể khắc phục được1 2 3 4
29Tôi lo lắng quá nhiều vào những vấn đề
không quan trọng1 2 3 4
30 Tôi là người hạnh phúc 1 2 3 4
31 Tôi có những ý nghĩ vẫn vơ trong đầu 1 2 3 4
32 Tôi cảm thấy mất tự tin 1 2 3 4
33 Tôi cảm thấy an toàn 1 2 3 4
34 Tôi ra quyết định dễ dàng 1 2 3 4
35 Tôi không đủ khả năng, không đủ tự tin 1 2 3 4
36 Tôi cảm thấy vừa lòng, thoả mãn 1 2 3 4
37Những ý nghĩ vớ vẩn hay thoảng qua
làm tôi khó chịu1 2 3 4
38Tôi không thể nào loại bỏ được những ý
nghĩ thất vọng ra khỏi đầu1 2 3 4
39 Tôi là người điềm tĩnh, vững tâm 1 2 3 4
40
Tôi cảm thấy căng thẳng, đầu óc bấn
loạn khi có chuyện phải quan tâm suy
nghĩ
1 2 3 4
THANG TỰ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ LO HÃI
State–Trait Anxiety Inventory – Form C1 (STAI–C1)
(Dùng cho trẻ em 7 – 14 tuổi)
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Tên: …………………………………….………
Tuổi: ………………………………….…………
Giới: …………………………………….………
Ngày làm test: …………………………………
Hướng dẫn: Dưới đây là 20 câu hỏi mô tả trạng thái xúc cảm, tâm lý
của trẻ cùng tuổi của bạn. Xin hãy đọc kỹ từng câu sau đó quyết định liệu
từng trạng thái này đúng hay không với bạn vào lúc này. Xin hãy khoanh tròn
vào một mức độ thích hợp: (a.b.c). Không có câu trả lời đúng hoặc sai, không
sử dụng quá nhiều thời gian vào một câu hỏi.
1– Tôi cảm thấy: a– Rất bình tĩnh b– Bình tĩnh c– Mất bình tĩnh
2– Tôi cảm thấy: a– Rất bực bội b– Bực bội c– Không bực bội
3– Tôi cảm thấy: a– Rất vui mừng b– Vui mừng c– Không vui
4– Tôi cảm thấy: a– Rất căng thảng b– Căng thẳng c– Không căng thẳng
5– Tôi cảm thấy: a– Rất thanh thản b– Thanh thản c– Không thanh thản
6– Tôi cảm thấy: a– Rất bồn chồn b– Bồn chồn c– Không bồn chồn
7– Tôi cảm thấy: a– Rất sợ hãi b– Sợ hãi c– Không sợ hãi
8– Tôi cảm thấy: a– Rất thư giãn b– Thư giãn c– Không thư giãn
9– Tôi cảm thấy: a– Rất lo lắng b– Lo lắng c– Không lo lắng
10– Tôi cảm thấy: a– Rất hài lòng b– Hài lòng c– Không hài lòng
11– Tôi cảm thấy: a– Rất hốt hoảng b– Hốt hoảng c– Không hốt hoảng
12– Tôi cảm thấy: a– Rất hạnh phúc b– Hạnh phúc c– Không hạnh phúc
13– Tôi cảm thấy: a– Rất tự tin b– Tự tin c– Không tự tin
14– Tôi cảm thấy: a– Rất thoải mái dễ
chịu
b– Thoải mái dễ
chịu
c– Không thoải mái
15– Tôi cảm thấy: a– Rất khó chịu b– Khó chịu c– Không khó chịu
16– Tôi cảm thấy: a– Rất buồn chán b– Buồn chán c– Không buồn chán
17– Tôi cảm thấy: a– Rất thú vị b– Thú vị c– Không thú vị
18– Tôi cảm thấy: a– Rất ghê sợ b– Ghê sợ c– Không ghê sợ
19– Tôi cảm thấy: a– Rất lẫn lộn b– Lẫn lộn c– Không lẫn lộn
20– Tôi cảm thấy: a– Rất vui nhộn b– Vui nhộn c– Không vui nhộn
VI. THANG TỰ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ LO HÃIState–Trait Anxiety Inventory – Form C1 (STAI–C1)
(dùng cho trẻ em 7–14 tuổi)
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Họ và tên: ………………………………….……………
Tuổi: …………………………………….………………
Giới tính: …………………………………..……………
Ngày đánh giá: …………………………………………
Hướng dẫn: Dưới đây là 20 câu hỏi mô tả trạng thái xúc cảm. tâm lý
của trẻ cùng lứa tuổi với bạn. Xin hãy đọc kỹ từng câu sau đó hãy quyết định
liệu nó là không đúng, thi thoảng đúng hay luôn luôn đúng với mình bằng
cách khoanh tròn 1 chữ số: 0 (không đúng), 1 (thi thoảng đúng), hoặc 2 (luôn
luôn đúng). Không có câu trả lời đúng hoặc sai, không sử dụng quá nhiều thời
gian cho một câu hỏi.
STT Câu hỏiKhông đúng
Thi thoảng đúng
Luôn luôn đúng
1 Tôi lo lắng mỗi khi mình mắc lỗi 0 1 2
2 Tôi cảm thấy muốn khóc 0 1 2
3 Tôi cảm thấy mình bất hạnh 0 1 2
4Tôi cảm thấy khó khăn khi phác thảo kế
hoạch trong đầu0 1 2
5Tôi cảm thấy bối rối khi gặp khó khăn trở
ngại0 1 2
6 Tôi lo lắng quá nhiều 0 1 2
7 Ở nhà tôi hay cáu giận 0 1 2
8 Tôi là đứa hay e thẹn, hay xấu hổ 0 1 2
9 Tôi cảm thấy khó chịu, bứt rứt 0 1 2
10Những ý nghĩ vẩn vơ hay có trong đầu
làm tôi khó chịu0 1 2
11 Tôi lo lắng về chuyện trường học 0 1 2
12Tôi lúng túng, bối rối khi quyết định cái gì
phải làm0 1 2
13 Tôi nhận thấy tim mình đập nhanh 0 1 2
14 Tôi âm thầm lo sợ 0 1 2
15 Tôi lo lẳng về cha mẹ mình 0 1 2
16 Tay của tôi ra nhiều mồ hôi 0 1 2
17Tôi lo lắng về những điều xấu có thể xảy
ra với tôi0 1 2
18 Tôi khó ngủ về ban đêm 0 1 2
19 Tôi có cảm giác khó tiêu, đầy bụng 0 1 2
20Tôi lo lắng liệu người khác có nghĩ xấu về
tôi0 1 2
VII. THANG ĐÁNH GIÁ CÁC KỸ NĂNG XÃ HỘISocial Skills Rating System (Gresham & Elliott, 1990)
(Dùng cho học sinh 10 – 20 tuổi)
Người dịch: TS. Nguyễn Công Khanh
Tên: …………………………………………………….
Tuổi: …………………………………………………….
Giới tính: ………………………………………..………
Ngày đánh giá: …………………………………………
Dưới đây là những hành vi mà một người ở lứa tuổi bạn có thể làm. Xin
hãy đọc kỹ từng câu, nghĩ xem mình có làm thường xuyên không và ở mức
độ nào?
a) Đánh giá mức độ quan trọng:
– Không quan trọng khoanh số 0
– Quan trọng khoanh số 1
– Rất quan trọng khoanh số 2
b) Đánh giá mức độ thực hiện:
– Chưa bao giờ khoanh số 0
– Đôi khi khoanh số 1
– Thường xuyên khoanh số 2
STT Câu hỏiMức độ quan
trọngMức độ thực
hiện
1 Tôi kết bạn dễ dàng 0 1 2 0 1 2
2 Tôi khen người khác khi họ làm một việc tốt 0 1 2 0 1 2
3Khi bị đứa trẻ khác đánh hoặc trêu, tôi mách
người lớn0 1 2 0 1 2
4 Tôi là người tự tin trong các cuộc hẹn hò 0 1 2 0 1 2
5Tôi cố gắng hiểu bạn mình khi họ bực tức, nổi
cáu hoặc buồn chán0 1 2 0 1 2
6 Tôi lắng nghe người lớn khi họ đang nói với tôi 0 1 2 0 1 2
7 Tôi bỏ qua khi các bạn trêu chọc tôi 0 1 2 0 1 2
8 Khi có khó khăn tôi nhờ bạn bè giúp đỡ 0 1 2 0 1 2
9 Khi dùng đồ đạc của người khác tôi xin phép 0 1 2 0 1 2
10Khi có bất đồng với người lớn tôi không có
tranh cãi hoặc gây sự với họ0 1 2 0 1 2
11 Tôi tránh không a dua tham gia vào những việc 0 1 2 0 1 2
có thể gây ra sự tức giận ở người lớn
12Tôi thông cảm với người khác khi họ gặp điều
chẳng lành0 1 2 0 1 2
13 Tôi hoàn thành bài tập ở nhà đúng hẹn 0 1 2 0 1 2
14 Tôi giữ bàn học của mình gọn gàng, ngăn nắp 0 1 2 0 1 2
15Tôi tự nguyện làm những việc vặt ở trong nhà
giúp bố mẹ0 1 2 0 1 2
16Ở trường tôi tích cực, năng nổ tham gia các
hoạt động xã hội0 1 2 0 1 2
17 Tôi hoàn thành công việc ở lớp đúng giờ 0 1 2 0 1 2
18Khi có sự bất đồng với bố mẹ hoặc thầy cô
giáo, tôi thoả hiệp với họ0 1 2 0 1 2
19Tôi bỏ qua không để ý đến những học sinh làm
hề trong lớp0 1 2 0 1 2
20 Tôi chủ động hẹn hò với người tôi thích 0 1 2 0 1 2
21 Tôi lắng nghe bạn mình tâm sự khi họ có rắc rối 0 1 2 0 1 2
22Tôi giải quyết những xung đột với cha mẹ một
cách bình tĩnh0 1 2 0 1 2
23 Tôi biết khen những người bạn khác giới 0 1 2 0 1 2
24Tôi hỏi chuyện người khác khi họ làm tốt một
điều gì đó0 1 2 0 1 2
25Tôi mỉm cười, vẫy chào, hoặc gật đầu chào mọi
người0 1 2 0 1 2
26Tôi bắt đầu một cuộc trò chuyện với bạn khác
giới một cách tự nhiên0 1 2 0 1 2
27Tôi chấp nhận sự trừng phạt của người lớn mà
không nổi khùng0 1 2 0 1 2
28 Nếu tôi thích ai, tôi nói hoặc biểu lộ để họ biết 0 1 2 0 1 2
29 Tôi bênh vực bạn mình khi họ bị đối xử không 0 1 2 0 1 2
công bằng
30Tôi mời người khác tham gia vào các hoạt động
xã hội0 1 2 0 1 2
31Tôi sử dụng thời gian rỗi của mình một cách có
hiệu quả nhất0 1 2 0 1 2
32Tôi kiềm chế được mình khi người ta nổi cáu
với tôi0 1 2 0 1 2
33Tôi để ý đến những người bạn khác giới mà
không cảm thấy bối rối, xấu hổ0 1 2 0 1 2
34 Tôi nghe bố mẹ trách mắng mà không giận dữ 0 1 2 0 1 2
35 Tôi chấp hành những chỉ dẫn của thầy giáo 0 1 2 0 1 2
36Tôi nói năng nhẹ nhàng trong các cuộc thảo
luận trong lớp0 1 2 0 1 2
37Tôi chủ động đề nghị các bạn làm một điều gì
đó cho mình0 1 2 0 1 2
38Tôi chủ động đối thoại với các thành viên khác
trong lớp0 1 2 0 1 2
39
Tôi nói: “Sự việc nên kết thúc ở đây” khi các
bạn trong lớp có sự tranh luận hoặc cãi cọ quá
đáng
0 1 2 0 1 2
PHẦN VI. NHỮNG LIỆU PHÁP TÂM LÝ CƠ BẢNLịch sử loài người đã biết áp dụng các phương pháp tâm lý để kiểm
soát xúc cảm, hành vi từ hàng ngàn năm trước đây. Ví dụ, các phương pháp
Tĩnh khí công Dưỡng sinh, Thiền, Yoga… của người Phương Đông đề ra ba
nguyên lý cơ bản: điều tức, điều tâm, điều thân trong tập luyện các môn phái
này. Tuy nhiên việc sử dụng một cách có hệ thống các nguyên tắc và phương
pháp tâm lý để loại bỏ một chứng bệnh rối nhiễu tâm trí thì chỉ có Tâm lý học
lâm sàng mới đi sâu nghiên cứu, và chuyên ngành này mới chỉ xuất hiện cách
đây hơn 100 năm.
Đến nay, Tâm lý học lâm sàng đã phát triển được trên 100 liệu pháp
khác nhau dùng cho việc điều trị các chứng rối nhiễu tâm lý và rối loạn tâm
thần. Có giá trị nhất trong số các liệu pháp này là các nhóm liệu pháp: thư
giãn, thở bụng, giải mẫn cảm có hệ thống, điều chỉnh nhận thức, thưởng củng
cố, thưởng quy đổi trò chơi phân vai, tâm kịch, ứng phó giải quyết vấn đề, trị
liệu nhóm - gia đình…
Tuy nhiên để trả lời câu hỏi nên sử dụng liệu pháp nào là thích hợp cho
từng loại rối nhiễu tâm trí trên từng ca lâm sàng cụ thể là điều không dễ dàng.
Quyết định dùng nhóm liệu pháp nào cho từng ca trị liệu lâm sàng cụ thể là
tuỳ thuộc vào tay nghề, kinh nghiệm điều trị lâm sàng của chính nhà trị liệu,
tùy thuộc vào kiểu rối nhiễu. bản chất của rối nhiễu, hoàn cảnh, sự đồng ý của
thân chủ và kết quả trị liệu khởi đầu.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số nhóm kỹ thuật trị liệu tâm lý cơ
bản. Trên cơ sở những hiểu biết và kinh nghiệm thực hành trị liệu của bản
thân và đồng nghiệp, chúng tôi lần lượt giới thiệu khoảng 20 nhóm liệu pháp
tâm lý mà chúng không thuần tuý thuộc về một trường phái duy nhất nào.
I. LIỆU PHÁP THƯ GIÃNThư giãn được xem là một trong những phương pháp thường dùng và
rất có hiệu quả trong việc điều trị các chứng bệnh tâm trí. Đó là quá trình làm
giảm mềm cơ bắp, giúp cho thần kinh, tâm trí được thư thái, qua đó làm giảm
những cảm xúc tiêu cực hoặc chứng bệnh tâm thần (căng thẳng thần kinh, lo
âu, ám sợ, trầm nhược, đau đầu…) do các nhân tố Stress gây ra. Các chuyên
gia tâm thần, các nhà trị liệu tâm lý đều cho rằng thư giãn làm giảm chuyển
hoá cơ bản, tiết kiêm nặng lượng, khiển máu về tim dễ hơn và nhiều hơn.
Thư giãn giúp tập trung tư tưởng, ức chế vỏ não, ngắt bỏ những kích thích
bên ngoài giúp tinh thần hết căng thẳng, làm chủ được giác quan và cảm
giác. Thư giãn giúp dập tắt dần những phản xạ được điều kiện hoá có hại cho
cơ thể.
Thực hành thư giãn có lẽ đã xuất hiện ở Phựơng Đông cách nay vài
nghìn năm đi liền với phép luyện khí công, thiền, yôga. Tuy nhiên với tư cách
là một kỹ thuật cơ bản của trị liệu tâm lý, được các nhà trị liệu sử dụng một
cách có bài bản trong điều trị tâm bệnh lý thì chỉ mới tồn tại vài chục năm nay.
Hiện tại có nhiều kỹ thuật thư giãn khác nhau được dùng trong trị liệu
tâm lý. Tuy nhiên các kỹ thuật này chủ yếu được phát triển từ hai phương
pháp: Thư giãn động, căng – chùng cơ (Progressive Muscle Relaxation) do
Edmund Jacobson (1938), một bác sỹ tâm thần người Mỹ đề xướng hoặc thư
giãn tĩnh – dựa vào tưởng tượng (Autogenies: imagery based relaxation) do
Johannes Schultz (1932), một bác sỹ tâm thần người Đức đề xuất
1. Phương pháp thư giãn động, căng – chùng cơ
Phương pháp thư giãn động của Jacbson còn gọi là phương pháp thư
giãn căng–chùng cơ. Phương pháp này dựa trên giả thuyết cho rằng căng và
giãn mềm cơ có liên quan đến các pha hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh
giao cảm và đối giao cảm, rằng một cá nhân không thể cùng một lúc vừa
căng vừa thả lỏng một nhóm cơ nào đó.
Khi cơ thể ở trạng thái bị kích động, bị đe doạ, sợ hãi, giận dữ hoặc
phấn khích, thì hệ thần kinh giao cảm tự tăng cường khả năng hoạt động,
đưa cơ thể vào trạng thái “báo động”, sẵn sàng đáp ứng. Lúc này máu từ khu
trung tâm được huy động để cung cấp năng lượng cho các nhóm cơ, nhịp tim
tăng, huyết áp tăng, trương lực cơ tăng đáng kể, nhịp thở tăng, mồ hôi tiết ra
nhiều hơn. Tuy nhiên, hoạt động của pha giao cảm ngày càng phụ thuộc đáng
kể vào kiểu stress. Thường thì một nhóm (hoặc nhiều nhóm) cơ nào đó sẽ
tăng trương lực. Sự căng cứng này phụ thuộc vào mối tương tác giữa nhân tố
gây stress và sự trải nghiệm, cách thức một cá nhân đối phó với stress
(chẳng hạn đối với người này căng cơ ở lưng, với người khác căng cơ ở cổ
hoặc ở trán). Sức căng thay đổi từ nhẹ đến nặng tuỳ thuộc vào mức độ
nghiêm trọng của tác nhân gây stress.
Ngược lại, khi ta ở vào trạng thái yên lặng, tĩnh tâm, tâm trạng hài lòng
hoặc ngủ: thì hệ thần kinh đối giao cảm được kiểm soát. Nhịp tim giảm, huyết
áp giảm xuống mức bình thường, nhịp thở chậm lại và dễ hơn, máu trở về
khu trung tâm của cơ thể để lấy dinh dưỡng, trao đổi năng lượng. Trương lực
cơ giảm đáng kể, mọi người có cảm giác nặng ở cơ hoặc cơ được thả lỏng.
Đây là quá trình xây dựng và khôi phục.
Hoạt động của các quá trình giao cảm và đối giao cảm đối lập nhau, về
mặt cơ chế, hai hệ thống này có khả năng hạn chế lẫn nhau. Khi một hệ
thống tăng cường hoạt động thì lập tức hệ thống kia giảm hoạt động. Cả hai
hệ thống này không thể hoạt động tối đa ở cùng một thời điểm. Do vậy không
thể vừa căng trương lực một nhóm cơ lại vừa chùng nhóm cơ đó tại cùng một
thời điểm. Jacobson nhận ra điều này và tuyên bố rằng ta có thể kiểm soát
trực tiếp sự cân bằng ở hệ thần kinh tự điều chỉnh. Điều này thách thức lý
thuyết khoa học hiện có, khi nhiều nhà khoa học cho rằng hệ thần kinh tự điều
chỉnh kiểm soát gần như toàn bộ các chức năng sống còn của cơ thể (ví dụ:
kiểm soát nhịp tim. nhịp thở. thân nhiệt…) là hệ thống tự chủ. Vì theo họ các
quá trình này vẫn tiếp diễn cả khi ngủ và thức, và về mặt hình thức thì logic
này được chấp nhận. Nhưng thực chất thì không phải hoàn toàn như vậy.
Bằng chứng là các nhà thực hành thiền, yoga có thể hạ nhịp tim, hạ thấp
nhiệt độ cơ thể, có thể thay đổi sóng não, chứng tỏ họ có năng lực tốt, kiểm
soát trực tiếp hoạt động của hệ thần kinh tự chủ, mặc dù cơ chế giải thích vẫn
chưa thật rõ ràng.
Vấn đề cần được làm sáng tỏ là cái gì nên được làm với lý thuyết về hệ
thần kinh không chủ định. Những công trình nghiên cứu sau đó đã khẳng định
rằng những đáp ứng của cơ thể (thuộc sự kiểm soát của hệ thần kinh không
tự chủ) có thể được kiểm soát, điều khiển một cách có chủ định. Trong những
nghiên cứu của mình. Jacobson đã thành công đặt 2 pha căng – chùng cơ
vào một chương trình huấn luyện thư giãn. Như vậy theo Jacobson, thư giãn
là một phương pháp hành vi có chủ tâm nhằm kiểm soát và thay đổi mối quan
hệ giữa 2 pha hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh tự chủ.
Trong công trình nghiên cứu của mình (Smith (1988) khẳng định có 3
quá trình nhận thức liên quan đến luyện tập thư giãn:
1. Tập trung: Năng lực duy trì chú ý vào một kích thích đơn nhất trong
một khoảng thời gian nhất định.
2. Thụ động: Năng lực dừng các hoạt động có mục đích, thói quen
phân tích để đưa cơ thể vào trạng thái tĩnh lặng trong một khoảng thời gian
nhất định.
3. Thụ cảm: Năng lực chấp nhận và chịu đựng những trải nghiệm gây
khó chịu hoặc không biết chắc chắn.
Việc học kỹ thuật thư giãn đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định.
Trước hết đòi hỏi phải thay đổi cấu trúc nhận thức bằng nhiều cách. Ví dụ
nhận thức cho rằng: Cần phải trở thành một người có giá trị, có ích cho gia
đình xã hội, cách nghĩ này hối thúc chủ thể phải hoạt động liên tục, kiếm tiền,
tham gia vào các hoạt động xã hội. Không hoạt động coi như là không đắc
dụng: thậm chí bị coi là lười biếng. Những ai theo cách nhìn này đã tự thổi
phồng giá trị của những hoạt động trực tiếp dẫn đến việc đạt mục đích mà
đánh giá thấp hoặc phớt lờ những hoạt động gián tiếp như tĩnh tâm để khôi
phục năng lượng, khai triển trí sáng tạo. Những ai đã thực hành thư gian mới
thấy rõ giá trị của các quá trình tập trung thụ động và tự cảm nhận có giá trị
như thế nào đối với việc phục hồi chức năng hoạt động của hệ thần kinh.
Cũng có không ít người không tin vào tính hiệu quả của việc luyện tập thư
giãn hoặc không đủ kiên trì để thực hành kỹ thuật hàng ngày.
Thực hành thư giãn giúp chúng ta có năng lực kiểm soát các trạng thái
xúc cảm, nhờ đó có thể đương đầu có hiệu quả với các rối nhiễu tâm lý. Một
người thực hành thư giãn thường xuyên có thể biết và phân biệt được sự
khác nhau giữa trạng thái thư giãn và trạng thái căng thẳng cả ở góc độ nhận
thức lẫn góc độ cảm nhận. Những cấu trúc nhận thức sai lệch được nhận
thức lại, được điều chỉnh. Một loạt những niềm tin về bản thân, về giá trị của
tính chủ động đối lập với tính thụ động cũng thay đổi.
Kỹ thuật thư giãn hai pha căng và chùng cơ là một kỹ thuật dễ thực
hành, không đòi hỏi cao như các kỹ thuật thiền, tĩnh khí công.
Điều kiện để tập luyện:
– Nơi tập phải thông thoáng, tách biệt khỏi các kích thích gây mất tập
trung chú ý.
– Không để chuông điện thoại ở chỗ tập.
– Không bật tivi, băng cassette, đài.
– Kiên trì tập 2–3 lần /ngày, mỗi lần 30–40 phút.
– Nếu muốn, ta có thể mở nhạc nhẹ lúc tập.
Tạo một tâm trạng thích hợp cho việc tập luyện:
– Duy trì sự chú ý thụ động: Học thư giãn đòi hỏi ta phải cân bằng giữa
chú ý và im lặng. Chú ý thụ động là cần thiết để học cách nhận biết khi nào sự
căng thẳng đang có mặt. Bởi vì căng trương lực cơ là hệ thống “đèn đỏ” của
cơ thể, báo động cho chúng ta biết rằng stress đang có mặt.
– Không cố gắng làm cho thư giãn nhanh xảy ra: Thư giãn không giống
như chạy, chạy nhanh để mau đến đích. Ngược lại, thư giãn là một kỹ thuật
đòi hỏi sự tinh tế đạt được bằng yên lặng, tĩnh tâm. Ta không nên chế ngự
bằng ép buộc, dùng sức mạnh của ý chí.
– Không vội vã: Thư giãn không giống như các thao tác công việc làm
nhanh để sớm kết thúc để nghỉ ngơi. Luyện tập thư giãn đòi hỏi sự thư thả,
thảnh thơi giống như nằm trên bãi biển, trên boong tàu nghe tiếng sóng vỗ.
nhìn những con hải âu đùa giỡn…
– Tự nhận biết, tự quan sát: Trong những tuần đầu tiên thực hành thư
giãn, ta hãy ưu tiên cho sự nhận biết sự khác nhau giữa 2 trạng thái căng và
thả lỏng cơ. Tập trung vào sự nhận biết, quan sát nội tâm, điều này giúp ta
phát triển tính nhạy cảm đối với những dấu hiệu căng thẳng.
– Không lo lắng sợ hãi khi bắt gặp các cảm giác lạ: Khi thực hành thư
giãn, ở một số người có thể xuất hiện cảm giác như mất kiểm soát, lo lắng
hoặc ảo giác. Nhìn chung những ảo giác này qua nhanh, khi người thực hành
được cảnh báo trước và bản thân họ trải nghiệm những cái lợi của phương
pháp thư giãn. Họ có thể dễ dàng thoát ra khỏi quá trình thư giãn, dừng các
cảm giác lạ lại bằng cách chủ động “rùng mình” hoặc bấm mạnh vào đầu
ngón chân cái.
Quá trình thư giãn:
– Các bài tập thư giãn diễn ra xung quanh việc tập luyện căng – chùng
16 nhóm cơ sau:
1. Cánh tay phải.
2. Cánh tay trái
3. Bàn tay phải
4. Bàn tay trái
5. Cơ vai, vai phải, vai trái
6. Cơ cổ
7. Cơ trán, mắt, da đầu
8. Nhóm cơ miệng, răng, lưỡi
9. Nhóm cơ vùng ngực
10. Nhóm cơ vùng dạ dày, bụng
11. Nhóm cơ lưng
12. Nhóm cơ mông
13. Đùi phải
14. Đùi trái
15. Chân và cổ chân phải
16. Chân và cổ chân trái
Người tập có thể thư giãn 16 nhóm cơ theo trình tự, tập từ cánh tay
đến chân hoặc chọn một nhóm cơ bất kỳ tập trước cũng được. Thời gian
căng–chùng của 1 nhóm cơ khoảng 30 giây (10 giây căng cơ 20 giây trùng
cơ) lặp lại khoảng 3 lần với 1 nhóm cơ. Mỗi buổi tập kéo dài 30–60 phút.
Người tập nên tự theo dõi, quan sát những phản ứng căng thẳng của
cơ thể không chỉ trong khi tập mà cả khi không tập, ghi vào một cuốn sổ nhỏ
những dấu hiệu như: Căng cơ xảy ra khi nào, kéo dài bao lâu, tình huống gây
stress. những người có liên quan… Thói quen này giúp người tập nhạy cảm
với các tác nhân bên trong, bên ngoài gây stress.
– Có thể giảm 16 nhóm cơ xuống còn 8 nhóm, rồi 4 nhóm: Sau khi
quen với việc thư giãn 16 nhóm cơ, người tập có thể cùng một lúc thư giãn
nhiều nhóm cơ. 16 nhóm cơ được phối hợp lại chỉ còn 8 nhóm rồi 4 nhóm:
Thư giãn với 8 nhóm cơ:
1. Hai cánh tay
2. Hai bàn tay
3. Vai, cổ
4. Trán, vùng đầu
5. Ngực, dạ dày, bụng
6. Lưng, mông
7. Đùi
8. Chân
Thư giãn với 4 nhóm cơ:
1. Cánh tay, bàn tay
2. Vai, cổ, đầu
3. Ngực, dạ dày, lưng, mông
4. Đùi, chân
Học cách phân biệt các mức độ căng – chùng cơ:
Người tập khi đã quen với thư giãn, biết được sự khác nhau giữa 2 pha
căng–chùng cơ, họ được yêu cầu giảm cường độ căng cứng khi thực hành
căng cơ nhưng vẫn giữ nguyên thời gian giữ nguyên chu kỳ căng–chùng cơ.
Để giúp cho người tập dễ nhận biết. họ được yêu cầu tưởng tượng ra một
thang đo gồm 100 điểm, mức độ căng thẳng – căng trương lực cơ cao nhất là
100 điểm.
Người tập hãy tưởng tượng mức căng cơ của mình lúc đầu là 90–100
điểm, sau đó giảm xuống 75 điểm rồi 50 điểm và cuối cùng giảm xuống chỉ
còn 25 điểm. Cố gắng tưởng tượng ra mức căng cơ chỉ còn có 25% so với lúc
đầu. Mục đích của việc giảm cường độ của pha căng cứng là để tăng mức độ
nhạy cảm của cơ thể, do đó có thể cảm nhận được sự căng thẳng bất kỳ khi
nào nó vừa có mặt và bất kỳ ở đâu khi nó vừa xảy ra. Cách luyện tập này
tăng khả năng cảm nhận được những căng thẳng tinh tế nhất. Đồng thời sẽ
giúp cho ta có năng lực đưa cơ thể vào trạng thái thư giãn hoàn toàn một
cách nhanh nhất.
Tóm lại phương pháp thư giãn động bao gồm 5 giai đoạn sau:
1. Thư giãn lần lượt 16 nhóm cơ.
2. Giảm từ 16 nhóm cơ xuống còn 8 nhóm cơ qua 1–2 tuần tập luyện,
khi bạn có thể thư giãn nhanh và sâu như trước đó.
3. Giảm mức độ căng cơ có chủ ý xuống còn 75% mức ban dầu.
4. Giảm từ 8 nhóm cơ xuống còn 4 nhóm cơ sau 1–2 toàn tập luyện.
5. Giảm mức độ căng cơ chủ ý xuống còn 50% mức ban đầu.
6. Giảm mức độ căng cơ chủ ý xuống còn 20% mức ban đầu.
– Thư giãn kết hợp với thở sâu quán tưởng (dùng tâm ý để tưởng
tượng) bằng lời:
Hầu hết các nhà trị liệu hướng dẫn các bài tập thư giãn đểu sử dụng sự
quán tưởng bằng lời. Ví dụ thở ra thì nói “thư giãn”, ‘‘buông lỏng”. Sử dụng lời
để quán tưởng thư giãn còn gọi là sự mã hoá tâm thức, một phản xạ có điều
kiện nhằm tạo ra một đáp ứng tự động. Thư giãn là đáp ứng mà chúng ta
muốn kiểm soát, từ này khi ta nhủ thầm, là một tín hiệu gây ra một đáp ứng
của cơ thể – các cơ buông lỏng, thư giãn.
Trẻ em từ 6 tuổi trở lên có thể tập thư giãn động được, tuy nhiên bác sỹ
trị liệu cần biết cách ‘‘chế biến” các động tác thành các trò chơi, thi đấu: thi
uốn dẻo, tập đi cầu thăng bằng, tập đứng một chân, tập chui qua “ống
cống‘‘…
2. Thư giãn tĩnh dựa vào tưởng tượng
Phương pháp trị liệu này nhấn mạnh đến tưởng tượng và tự ám thị
(suggestiolls), giống như phương pháp thiền của Á Đông. Khi thư giãn, người
tập đồng thời quán tưởng những cảnh như dạo chơi trên bãi biển thanh bình
lúc sáng sớm mặt trời mọc hoặc nghe tiếng sóng vỗ nhè nhẹ, hoặc tiếng kêu
của đàn chim hải âu. Cũng có thể quán tưởng đang ở trên một mỏm núi cao
phóng tầm mắt vào khoảng không tuyệt đẹp. mênh mông rộng lớn phía trước,
trong khi nghe tiếng gió thì thầm qua những hàng cây. Cũng có thể tưởng
tượng ra một khuôn mặt của bạn bè, người thân hoặc người yêu…
Tất cả các kỹ thuật tưởng tượng đều nhằm kiểm soát tâm trí và cơ thể.
Thư giãn sâu bằng quán tưởng có thể sinh ra sóng Alpha, một loại sóng não
có bước sóng thấp (12 đến 14 Hz). Loại sóng Alpha này thường xuyên xuất
hiện khi ta vừa ngủ hoặc sắp tỉnh giấc. Theo Joe Kamiya, người đi tiên phong
trong lĩnh vực nghiên cứu sóng não qua phương pháp mạch phản hồi sinh
học (biofeedback) đã chỉ ra rằng mọi người có thể học cách kiểm soát nhịp
Alpha bằng phương pháp thư giãn tĩnh qua thông tin phản hồi sinh học.
Liệu pháp thư giãn tĩnh là một phương pháp kiểm soát stress có hiệu
quả do một bác sỹ tâm thần người Đức – Johannes Schultz đề xướng (1932).
Theo Schultz và các cộng sự, thư giãn tĩnh là phương pháp luyện tập nhằm
đạt tới sự cân bằng tâm sinh lý bên trong của cơ thể, bằng phương pháp này,
người tập có thể đạt đến ngưỡng cửa của sự vô thức.
Khác với kỹ thuật thư giãn động nhằm nhận ra sự khác nhau giữa trạng
thái căng cơ và thả lỏng cơ, mục tiêu của thư giãn tĩnh là phát triển một mối
liên hệ giữa một ý nghĩ thông qua tưởng tượng và quán tưởng bằng lời tự với
trạng thái thư giãn mong muốn. Trong lúc thư giãn tĩnh tập chung chú ý vào
tư thế của cơ thể tưởng tượng (tự ám thị), trạng thái tâm thần mong muốn, thì
toàn bộ cơ thể được đưa vào trạng thái yên lặng thụ động.
Chuẩn bị các điều kiện cho việc luyện tập thư giãn tĩnh
Luyện tập thư giãn tĩnh đòi hỏi có sự tập trung tâm tư cao của người
tập:
1. Tuân thủ những chỉ dẫn, có động cơ tập luyện.
2. Có khả năng duy trì sự tự kiểm soát, tự hướng dẫn.
3. Biết sử dụng và duy trì đúng tư thế cơ thể khi tập.
4. Giảm các kích thích bên ngoài và tập trung có chủ định vào trạng thái
tâm thần, thể chất bên trong.
5. Sử dụng cách tiếp cận đều đều, lặp đi lặp lại với các cảm giác khác
nhau.
6. Tập trung vào các quá trình thực thể để ý thức định hướng vào bên
trong.
Mỗi người học cách thư giãn tĩnh phải được chuẩn bị sẵn sàng chấp
nhận trạng thái tỉnh thức, thay thế trạng thái tâm thần hiện tại. Biết duy trì sự
tập trung thụ động trong luyện tập là rất quan trọng cho việc luyện tập thành
công phương pháp thư giãn tĩnh. Trong khi tập có thể xuất hiện các cảm giác
lạ. Khi cảm giác ngoại lai xảy ra, không cố gắng chống đỡ mà để các cảm
giác này tự qua như là một phần của quá trình luyện tập trải nghiệm của sự
tiến bộ.
Các kiểu cơ thể khi tập thư giãn tĩnh:
Tập thư giãn tĩnh có thể chọn các tư thế nằm, ngồi hoặc đứng. Tư thế
nằm lưng áp sát sàn nhà, đầu kê gối mỏng, hai tay đặt xuôi sát bên hông,
không nằm trên giường tập để tránh cảm giác ngủ gật khi tập. Tư thế ngồi
trên ghế có tựa hoặc không tựa lưng nhưng đầu, cổ, lưng phải là một đường
thẳng vuông góc với mặt ghế, tay thả lỏng tự nhiên trên đùi, tốt nhất nên ngồi
với tư thế kiết già (phật ngồi toà sen) hoặc bán kiết già.
Các bài cơ bản luyện tập thư giãn tĩnh:
1. Cánh tay và chân nặng: Chọn một tư thế thoải mái nhất, nằm, ngồi
hoặc đứng, nhắm mắt tưởng tượng cánh tay và chân nặng. Tập trung đầu
tiên vào cánh tay thuận nhắc thầm: “Tay phải nặng lên”, làm 3–6 lần, mỗi lần
30–60 giây. Khi kết thúc lắc vai hoặc lắc đầu, đây chính là sự xả bỏ toàn thân
để ra khỏi trạng thái đờ đẫn, rồi từ từ mở mắt. Sau đó đổi tay trái, lặp lại quá
trình này. Chuyển qua chân phải rồi chân trái cũng làm như vậy. Cuối cùng
thư giãn với cả 2 tay, cả 2 chân dùng các mật lệnh sau:
“Cả 2 tay tôi nặng lên”
“Cả 2 chân tôi nặng lênh
“Cả chân lẫn tay tôi đều nặng lên”
2. Cánh tay và chân ấm: Trong giai đoạn này của bài tập thư giãn tĩnh,
người tập cần tập trung vào cảm giác nóng ấm, rồi tưởng tượng cảm giác
nóng ấm từ từ lan khắp cơ thể, quá trình tập cũng bắt đầu từ tay thuận như
sau:
“Tay phải tôi ấm lên”
“Tay trái tôi ấm lên”
“Chân phải tôi ấm lên”
“Chân trái tôi ấm lên”
“Cả hai tay tôi ấm lên”
“Cả hai chân tôi ấm lên”
“Cả hai tay và hai chân tôi ấm lên”
Người tập có thể tưởng tượng cảnh đang nằm phơi mình trên bãi biển
dưới ánh nắng ấm của mặt trời hoặc đang nằm trong bồn nước ấm.
Với từng bài tập, người tập phải kiên trì thư giãn, tưởng tượng đến tận
khi trải nghiệm sự dễ chịu thoải mái của những cảm giác nóng ấm, nặng. Sau
mỗi pha tưởng tượng nên sử dụng kỹ thuật “xả bỏ’’ (tập trung vào hơi thở,
điều hoà hô hấp. hoặc kéo dài hơi thở, hoặc thoát khỏi các cảm giác tê nặng
bằng xoa xát) trước khi bất đầu pha mới. Giai đoạn luyện tập này kéo dài
khoảng 3– 4 tuần. Mỗi ngày tập 2– 4 lần, mỗi lần kéo dài từ 10 - 40 phút.
3. Cảm giác nóng và ấm ở vùng tim: Giai đoạn này, các bài tập luyện
cảm giác nặng, nóng, ấm được tập trung vào vùng tim:
“Nhịp đập tim tôi chậm đều”
“Tim tôi nặng và ấm”
“Cảm giác nặng và ấm lan toả khắp vùng tim”.
Người tập có thể đặt tay mình lên vùng tim để cảm nhận những thay
đổi đang xảy ra. Cũng giống như các giai đoạn trước người tập thường xuyên
sử dụng phép xả giữa các lần tập, sau khi kết thúc một pha, một giai đoạn
của bài tập.
4. Quán tưởng hơi thở, điều hoà hô hấp: Giai đoạn này tập trung vào
hơi thở, điều hoà hô hấp. Điều hoà hô hấp có ảnh hưởng đáng kể đến qua
trình tĩnh tâm, làm “sạch” bộ não. Rất nhiều người đã sử dụng bài tập này
như là phương tiện để tăng cường thư giãn cơ, định tâm, thanh lọc cảm xúc,
loại bỏ những ý nghĩ vẩn vơ trong đầu.
Quá trình này bắt đầu như sau: chọn một tư thế thích hợp, thoải mái
giãn mềm tất cả các cơ, sau đó tập trung vào hơi thở, cảm nhận:
“Tôi biết tôi đang thở”
“Hơi thở của tôi thật bình thản, thư giãn”.
5. Cảm giác ấm vùng bụng, đặc biệt vùng tùng mặt trời (vùng ức, giữa
ngực và bụng): Trong giai đoạn này, người tập cần tập trung thư giãn khoang
bụng, đặc biệt vùng thượng vị, bụng trên (dưới tim, trên dạ dày), cảm giác
vùng này ấm lên:
“Vùng ức của tôi ấm lên”
“Vùng bụng trên của tôi ấm lên”.
Điều quan trọng không phải là tạo cảm giác ấm trên bề mặt của da mà
là cảm giác ấm sâu bên trong khoang bụng. Tự làm ấm khoang bụng có ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động của hệ thần kinh đối giao cảm, làm máu đổ về
vùng trung tâm nhiều hơn và làm giảm trương lực cơ.
6. Cảm giác mát lạnh vùng trán: Giai đoạn cuối cùng của các bài tập
thư giãn tĩnh là tập trung làm mát vùng trán. Chọn một tư thế thoải mái, thả
lỏng tất cả các cơ, sau đó dùng mật lệnh:
“Vùng trán của tôi mát lạnh”
“Cảm giác mát lạnh lan khắp vùng trán”
Đối với các vùng khác, thư giãn đi đôi với quán tưởng cảm giác nặng,
ấm, nhưng riêng vùng trán là cảm giác mát lạnh và tập sau cùng, giai đoạn
này kéo dài 10–20 phút.
Đối với một số bài tập trên đây, trong vài tuần đầu tập luyện, bạn có thể
không cảm nhận được các cảm giác nặng, ấm thực sự nhưng càng về sau
kiên trì tập bạn sẽ thấy rõ hơn các cảm giác nóng ấm, nặng, mát lạnh.
3. Luyện tập thư giãn tĩnh nâng cao
Sau khi đã trải qua giai đoạn luyện tập cơ bản của phương pháp thư
giãn tĩnh, người tập có thể bước vào luyện thư giãn tĩnh nâng cao. Trong giai
đoạn này gồm chủ yếu các bài tập về tưởng tượng hình dung. Theo Schultz
và Luthe, mục đích của các bài tập này là nắm bắt và lưu giữ các hình ảnh
tưởng tượng đủ dài để có được những ảnh hưởng có hiệu quả lên hoạt động
của hệ thần kinh tự chủ khôi phục, tăng cường hoặc kiềm chế một chức năng
nào đó.
1. Bài tập thư giãn tưởng tượng nhìn vào trán:
Trước hết ta chọn cho mình một tư thế thoải mái (có thể nằm, đứng
hoặc ngồi), thả lỏng tất cả các cơ, sau đó xoay cầu mắt, tập trung nhìn vào
trán rồi điểm nhìn được chuyển sâu vào trong, ra phía sau đầu. Tập trung
nhìn vào trán rồi phía sau đầu (đối diện với vùng trán), trong trạng thái toàn
thân thư giãn thường làm thay đổi sóng não, sóng Alpha tăng lên. Bài tập này
cũng làm tăng khả năng nhập định–định tâm, cắt bỏ ý nghĩ vơ vẩn ám ảnh.
2. Bài tập thư giãn bằng tưởng tượng với màu sắc:
Bài tập này đòi hỏi người tập chọn cho mình một màu ưa thích (ví dụ
màu xanh hoặc màu vàng) và nhắm mắt tưởng tượng “nhìn thấy màu đó, sau
khi đưa cơ thể vào trạng thái thư giãn, người tập tưởng tượng ra màu mình
mong muốn, màu đó xuất phát từ một điểm rồi lan toả và bao trùm khắp tâm
trí, tập bài này thành công sẽ giúp người tập có thể bước vào luyện các bài
tập phức tạp hơn.
Các nhà thực hành trị liệu bằng phương pháp này đã phát hiện ra rằng,
các màu sắc khác có ảnh hưởng khác nhau lên tâm trí. Ví dụ, màu tím, màu
đỏ kích thích cảm giác ấm, nóng. Ngược lại, màu xanh lá cây, xanh da trời
thường gây cảm giác lạnh, mát. Màu đỏ kích thích sự tuần hoàn máu có hiệu
quả chữa các chứng bệnh thiếu máu và tê liệt, ngoài ra còn tăng cường sự
thèm ăn cho bệnh nhân, đồng thời có thể hồi phục huyết áp trở lại bình
thường với người bị huyết áp thấp. Màu da cam có thể làm cho những người
bị suy nhược thần kinh phấn chấn lên, có thể chữa các bệnh về phổi, họng và
tỳ. Màu vàng có thể chữa các chứng đau các chùm dây thần kinh cơ da và
thái dương.
Màu sắc có thể làm thay đổi tâm trạng, có thể chuyển từ trạng thái xúc
cảm uỷ mị, trầm cảm sang trạng thái phấn khởi vui vẻ hoặc từ trạng thái căng
thẳng sang trạng thái thư giãn. Do vậy thư giãn với màu sắc làm dịu sự căng
thẳng, phục hồi sức làm việc của não và có thể chữa các căn bệnh khó ngủ,
khó kiểm soát tâm trí. Tuy nhiên ảnh hưởng của màu sắc lên các trạng thái
tâm thần của não phụ thuộc vào năng lực tưởng tượng–định tâm của từng cá
nhân.
Các nhà thực hành tư liệu đã thành công trong việc huấn luyện một số
bài tập tưởng tượng màu sắc sau đây cho những người bị các stress làm cho
tâm trí lúc nào cũng căng thẳng, đầu nặng u đặc, đau cơ thể hoặc mất khả
năng tập trung chú ý.
Bài tập quán tưởng màu tương phản:
Người tập tưởng tượng đang nhìn thấy những đám mây màu sáng
trắng trên nền trời xanh. Sau đó những đám mây màu sáng này chuyển động
thay đổi hình dạng, lúc thu nhỏ, lúc phóng to ra, bao trùm khắp cơ thể, rồi
thay đổi khoảng cách lúc gần, lúc xa. Mục đích của phương pháp này là tập
cho não có khả năng tập trung, có khả năng giải phóng những hình ảnh
tưởng tượng nhằm thanh lọc các trạng thái tâm thần bất định, những ám ảnh
“không mời mà đến”
Bài tập nhìn màu - liên tưởng:
Người tập chọn cho mình một tư thế ngồi thư giãn, tập trung nhìn vào
một tờ giấy màu đặt trước mặt khoảng 1–2 phút, rồi từ từ nhắm mắt để cho
đầu óc mình suy nghĩ về màu sắc đó, liên tưởng đến cái gì đó có liên quan
đến màu trước mặt. Ví dụ ta chọn màu xanh nước biển thì hãy nghĩ đến mặt
biển xanh. Khi dòng ký ức hiện về, ta hãy từ từ đắm chìm trong nó một cách
nhẹ nhàng, tưởng chừng như ta đang lặn sâu trong dòng nước xanh mát đó.
Bài tập này giúp thanh lọc những xúc cảm tiêu cực (buồn chán, lo âu, thất
vọng), khôi phục năng lượng tâm thần (dương thần khi), giải toả những kìm
nén vô thức, cân bằng hoạt động của hệ thần kinh thực vật.
Bài tập quán tưởng các đồ vật:
Người tập chọn một đồ vật để quán tưởng tương phản với khoảng
trống màu đen. Nên chọn những vật có hình khối tương đối đơn giản, ví dụ 1
bình hoa hoặc 1 hình biểu tượng âm dương hoặc 1 bức tượng. Tập trung
nhìn vào vật thể đó trong trạng thái toàn thân thư giãn sau đó nhắm mắt để
đầu óc tập trung quán tưởng hình khối đó tăng khả năng tập trung loại bỏ các
kích thích gây stress. Bài tập này cũng giúp khôi phục và phát triển khả năng
định tâm. tập trung chú ý và khả năng tri giác hình ảnh.
3. Chuyên tâm vào những ý nghĩ trừu tượng:
Bài tập này đòi hỏi ta tập trung tâm trí vào một khái niệm hoặc ý tưởng
trừu tượng nào đó, chẳng hạn tình yêu, sự thật hoặc tự do. Mục đích của bài
tập này là đạt được một hình tượng tinh thần về một ý tưởng và chuyển nó
vào một biểu tượng cụ thể, bằng cách này người tập học được cách ngắt bỏ
những ý nghĩ vẩn vơ, định tâm để khai triển tuệ giác.
4. Chuyên tâm vào một trạng thái xúc cảm đang thức tỉnh
Bài tập tổng hợp này đòi hỏi ta tập trung vào một cảnh tượng nào đó để
thức tỉnh một trạng thái xúc cảm. Ví dụ người tập tưởng tượng mình đang
đứng trên một ngọn núi phóng tầm mắt vào khoảng không bao la để thức tỉnh
các trạng thái xúc cảm dễ chịu. sảng khoái, hài lòng, sự mê ly. Mục đích của
bài tập này là khám phá các pha chuyển dịch giữa các trạng thái xúc cảm
đang thức tỉnh một cách vô thức, đưa chúng vào trạng thái có ý thức nhằm
kiểm soát chúng. Các nhà trị liệu đã phát hiện ra khả năng khắc chế lẫn nhau
của các trạng thái xúc cảm, ví dụ tạo xúc cảm sợ hãi có thể khắc chế sự giận
dữ, thịnh nộ hoặc vui mừng, phấn khích có thể xua đuổi được trầm cảm…
Tóm lại các bài tập thư giãn bằng tưởng tượng cung cấp những
phương tiện tự nhận biết, tự điều chỉnh, tự học cách kiểm soát xúc cảm và
kiểm soát các trạng thái bất ổn của cơ thể. Thông qua khả năng thư giãn
quán tưởng đạt được sự cân bằng của hệ giao cảm và phó giao cảm. Tuy
nhiên những bài tập thư giãn tĩnh chỉ thích hợp với trẻ lớn (trên 10 tuổi), bác
sỹ trị liệu cũng phải biết cắt may cho phù hợp với từng cá nhân, mỗi lần tập
không nên kéo dài quá 20 phút và phải cảnh báo trước các cảm giác lạ có thể
có để người tập không bị ngợp.
II. LIỆU PHÁP THỞ - TĨNH CÔNG DƯỠNG SINHLuyện thở được xem là phương pháp cổ xưa nhất, được người Á Đông
thường dùng để loại bỏ tạp niệm, thanh lọc tâm trí, dưỡng sinh chữa bệnh.
Và đây cũng là phương pháp loại bỏ các rối nhiễu tâm thể rất có hiệu quả.
Luyện thở bảng – tĩnh công dưỡng sinh có những yêu cầu cơ bản sau:
– Thư giãn toàn thân: Chọn một tư thế thật thoải mái (đứng. ngồi hoặc
nằm) mắt nhắm, miệng ngậm. lưng thẳng, bụng lỏng. yên lặng tuyệt đối.
không vọng động.
– Kiểm soát hơi thở: Thở êm nhẹ, thoải mái chủ yếu bằng cơ hoành,
thở đều tự nhiên như dòng nước êm trôi. Có thể chọn một trong ba cách thở:
thở 2 thì gồm hít vào và thở ra; thở 3 thì gồm hít vào, nén hơi (ngừng thở) và
thở ra; thở 4 thì gồm hít vào nén hơi, thở ra và ngừng thở. Bắt đầu luyện thở
thường tập thở 2 thì và 3 thì, khi đã thuần thục mới luyện thở 4 thì.
– Tập trung quán tưởng: Là điều khiển hơi thở để tụ khí vào một
huyệt, một cơ quan hoặc một vùng của cơ thể nhằm tập trung kiểm soát cảm
giác tại vùng đó (cảm giác tê, ấm, nặng, căng tức, lan toả…).
Ba yêu cầu trên có quan hệ mật thiết với nhau theo kiểu nhân quả: có
tập trung tư tưởng mới kiểm soát được hơi thở, có thư giãn yến lặng mới thở
được êm nhẹ, có yên lặng mới tập trung được tư tưởng, có thở êm nhẹ mới
thư giãn thật sự. Tác dụng của phương pháp luyện thở cũng nhằm kiểm soát
sự cân bằng hoạt động của hệ thần kinh thực vật.
Luyện thở 2 thì
Phép luyện thở này gắn với phép thở tự nhiên chỉ gồm 2 thì hít vào và
thở ra, nhưng điểm khác cơ bản với cách thở thông thường là thở bằng bụng,
tập trung quán tưởng kiểm soát hơi thở. Mục đích là chú tâm vào quá trình
thở thanh lọc cảm xúc và ý nghĩ. Đồng thời luyện thở sâu, đều, chậm để
thanh lọc nhiệt độc trong hệ phế. vị và đưa khí thường, chân nhiệt xuống
được tới Đan điền (vùng bụng – dưới rốn).
– Cách tập: Chọn một tư thế thích hợp thoải mái (đứng, nằm, ngồi đều
được) thả lỏng tất cả các cơ, bế ngũ quan, điều hoà hô hấp, ổn đính nhịp tim,
tập trung theo đường thở, từ từ hít sâu vào bụng dưới (Đan điền) sau đó từ từ
thở ra bằng miệng.
Khi hít vào nên hơi cố một một chút so với mức bình thường (không
nên cố gắng quá) còn khi thở ra thì thở từ từ, chậm lại một chút. Thời gian
đầu khi hít vào thì phình cơ bụng để tăng lượng khí và thở ra thì xẹp xuống.
Sau đó nên để bình thường và cuối cùng là hơi ép thành bụng để tụ khí, nhiệt
vào Đan điền. Luyện phép thở này có thể kết hợp với các động tác tay: khi
đưa tay lên thì thở ra. khi hạ tay xuống thì hít vào, hoặc khi đưa tay ra thì thở
ra, khi thu tay về thì hít vào.
Khi thở đã tương đối thành thục thì lúc hít vào quán tưởng khí theo
mạch Nhâm (đường chính giữa đỉnh đầu đi qua sống mũi, qua ngực, bụng và
rốn) cùng chiều từ trên xuống, khi thở ra thì quán tưởng theo mạch Đốc
(đường chính giữa từ hậu môn đi dọc cột sống, cổ, tới đỉnh đầu) và cùng
chiều từ dưới lên.
Người tập có thể luyện thở bất kỳ thời gian nào, bất kỳ ở đâu nếu thấy
tiện lợi mỗi lần ít nhất 10 lượt thở nếu có chứng bệnh ở tâm phế thì chú trọng
thì hít vào nhiều hơn, các chứng bệnh ở tỳ, can, thận thì chú trọng vào thì thở
ra nhiều hơn.
Luyện thở 3 thì
Thở 3 thì là phép thở luyện nội lực gồm thì hít vào, thì nén khí và thì thở
ra. Mục đích của phép thở 3 thì là nâng cao hiệu xuất của sự thở, nén nhiệt
tại Đan điền để đốt tinh thành khí, giúp vận hành chân khí ở mạch Nhâm –
Đốc. Cách thở này giúp lập lại sự cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh
giao cảm và đối giao cảm, vì vậy làm giảm stress của cơ thể…
– Cách tập: Chọn một tư thế thích hợp thoải mái, tốt nhất là tư thế ngồi
kiết già hoặc bán kiết già, bế ngũ quan, điều hoà hô hấp, ổn định nhịp tim
(cảm giác tim đập chậm đều) tập trung vào hơi thở, từ từ hít vào, khí đi từ mũi
xuống theo trục trung tâm (mạch Nhâm) xuống bụng dưới sau đó ngưng thở,
nén khí lại ở Đan điền. Cuối cùng từ từ thở ra bằng mũi hoặc miệng. Khí hít
vào đến bụng nên nén thành bụng lại để nén khí tại Đan điền. Đối với người
mới tập thì tỷ lệ thời gian của các pha là 1 – 1- 1 sau tăng lên 1: 2: 1 hoặc 1:
4: 1, tức là pha nén sẽ kéo dài hơn tuỳ theo thể trạng của người tập. Tỷ lệ này
cũng có thể thay đổi tuỳ thuộc vào trạng thái bệnh lý, chẳng hạn có bệnh ở
tâm, phế thì kéo dài pha hít vào, có bệnh ở tỳ, vị thì nén lại lâu hơn sẽ có lợi
cho việc thanh độc, có bệnh ở can thận thì kéo dài pha thở ra.
Khi hít vào tập trung tâm trí quán tưởng hơi thở đi xuống theo mạch
Nhâm (đường trung tâm trước bụng), khi nén lại tập trung chú ý tại Đan điền,
khi thở ra quán tưởng khí đi lên theo mạch Đốc (đường cột sống) có thể luyện
tập phép thở này vào bất kỳ thời gian nào trong ngày (nhưng tránh tập ngay
sau bữa ăn), mỗi lần tập ít nhất thở 10–15 lần.
Luyện thở 4 thì
Thở 4 thì là phép thở luyện nội lực gồm thì hít vào, thì nén khí, thì thở
ra và thì ngừng thở. Mục đích của phép thở bốn thì là nâng cao hiệu suất của
quá trình hô hấp, trao đổi chất và đào thải chất độc: kích thích Đan điền khí,
phối hợp đồng bộ khí thở với chân khí giúp vận hành chân khí trong mạch
Nhâm – Đốc.
– Cách tập: Chọn một tư thế thích hợp thoải mái (tốt nhất là tư thế ngồi
kiết già hoặc bán kiết già. ngồi thẳng lưng không tựa) giãn mềm tất cả các cơ,
tâm buông xả, bế ngũ quan điều hoà hô hấp, ổn định nhịp tim. Tập trung kiểm
soát hơi thở, từ từ hít vào theo đường trung tâm (mạch Nhâm), ngưng thở
nén khí ở bụng dưới (Đan điền) sau đó từ từ thở ra bằng mũi. Cuối cùng khi
thở ra hết, thì ngưng thở một lúc rồi điều hoà hô hấp trở lại. Theo sách tĩnh
khí công của Hoàng Vũ Thăng (l997), thì cuối cùng – ngưng thở rất quan
trong vì nó vừa có ý nghĩa kích thích nâng cao hoạt động của phế, vị, vừa có
ý nghĩa để chân khí hồi về đồng bộ với sự hô hấp tiếp theo.
Khi ngưng thở nén khí nên buông lỏng toàn thân. Tập trong quán ý vào
Đan điền. không nên cố nén quá, để kích thích hoạt động của phủ tạng ở mức
vừa phải để không gây biến loạn bấtt lợi (ho sặc sụa). Tỷ lệ thời gian của thì
ngưng nén lâu hơn, còn lại 3 thì kia như nhau, tuy nhiên còn phụ thuộc vào
thể trạng, trạng thái bệnh lý như sau:
– Có bệnh ở tâm, phế. Tăng hít vào giảm nén. giảm ngưng
– Có bệnh ở tỳ, vị: Tăng nén giảm thở ra
– Có bệnh ở can, thận: Tăng thở ra, tăng thời gian ngưng. giảm hít vào,
giảm nén.
Hiệu quả của phép thở này phụ thuộc đáng kể vào quá trình kiểm soát
tâm ý, tức là táp trung quán tưởng, khi hít vào, quán tưởng khí đưa khí xuống
bụng dưới theo mạch Nhâm khi nén lại quán tưởng tâm ý vào Đan điền: “Đaln
điền sinh khí” “vùng bụng dưới ấm lên, căng ra’’. Khi thở ra quán tưởng “xả
khí’’ theo mạch Đốc. Khi thở ra hết, ngưng lại quán tưởng “thu tụ’’ ở Đan điền.
Luyện thở 4 thì kép
Phép thở 4 thì kép giống như thở bốn thì nhưng ở pha thứ nhất – thì
thở vào, được ngắt làm 2 lần. Lần đầu hít vào ngực, ngưng thở hít tiếp lần
nữa thẳng xuống bụng dưới. Mục đích của phép thở này cũng giống như thở
4 thì đã nói ở trên, ngoại trừ kích thích chân hoả (ở tâm), giáng hoả xuống
Đan điền để “đốt tinh thành khí’’, cân bằng âm dương, cân bằng thuỷ hoả
trong cơ thể. Nói cách khác, phép thở này tốt cho việc điều tiết hoạt động của
tim và thận, tạo ra sự giao hoà trong hoạt động của 2 bộ tâm và thận. Tuy
nhiên, người chưa thuần thục các phép mở trên chưa nên tập phép thở này vì
nó đòi hỏi ở mức cao hơn sự sẵn sàng của cơ thể, thuần thục hơn của quá
trình tập trung tâm ý để điều khiển kiểm soát hơi thở và mức độ nhạy khi điều
chỉnh tỷ lệ thời gian giữa các thì, sao cho phù hợp với thể tạng.
– Cách tập: Chọn một tư thế thích hợp thoải mái, thư giãn toàn thân bế
ngũ quan, buông xả mọi tạp niệm điều hoà hơi thở, ổn định nhịp tim. Chú tâm
vào đường thở, từ từ hít vào ngực, chậm đều, khi vừa đủ, ngưng thở: cố hít
tiếp lần nữa thẳng xuống bụng dưới (không cố gắng quá). Sau đó nén chặt lại
ở bụng dưới, rồi từ từ thở ra bằng mũi, khi thở ra hết thì ngưng lại một lúc rồi
điều hoà hô hấp trở lại.
Cái khó của phép thở này là kết hợp hai lần hít trong thì thở vào, ban
đầu hít (khoảng 50%) vào ngực và tâm ý được tập trung quán tưởng vào
vùng tim, liền theo đó hít tiếp hơi thứ hai (khoảng 50%) thẳng xuống bụng
dưới quán tưởng đang thở vào vùng Đan điền. Không nên hít nhiều ở lần
đầu, ít ở lần tiếp theo để tránh biến loạn bất lợi (do tức thở). Khi nén hơi,
quán tưởng: “Đan điền sinh khí”, khi thở ra quán tưởng “xả khí theo mạch Đốc
(từ dưới lên theo cột sống) khi ngưng thở thì quán tưởng tập trung vào vùng
huyệt ấn đường (giữa hai lông mày).
Luyện thở khí ở Đan điền
Luyện khí ở Đan điển (còn gọi là Đan điền công) là phương pháp luyện
thở 4 thì phát sinh chân khí ở Đân điền. Đây là phép thở dưỡng sinh rất tốt
cho quá trình kiểm soát loại bỏ stress.
Quan niệm của khí công, y học cổ truyền cho rằng chân khí phát sinh ở
Đan điền (bể thận–bụng dưới) là thành phần cơ bản của quá trình sống tinh –
khí – thần. Chân khí sinh ra ở Đan điền vận hành theo kinh mạch đi tới tất cả
các cơ quan nội tạng để biến vi hoạt dụng làm năng lượng cho toàn bộ quá
trình sống của cơ thể.
Nội khí trong cơ thể có thể do bẩm sinh không hoàn thiện(có thể hao
tổn trong quá trình sống, có thể do thời khí biến động, do hoàn cảnh chi phối
nên hư yếu, rối loạn mà sinh bệnh. Vì vậy rất cần phải đưa ngoại khí vào để
hỗ trợ, sự khai thông, cân bằng giữa nội khí và ngoại khí là đảm bảo mối
quan hệ giữa con người với thiên – địa (thiên–địa–nhân hợp nhất).
Nguyên tắc cơ bản của phép luyện khí ở Đan điền là: “hạ tâm hoả, góp
tấn phong”, “luyện tinh thành khí, luyện khí hoá thần”. Hơi thở đi qua vùng tim,
đưa được nhiệt tâm hoả xuống Đan điền, tại đây nội khí và ngoại khí được
nhiệt tâm hoả chưng cất, từ nguyên khí thành chân khí nhờ phân âm dương
ở mạch Nhâm–đốc theo nguyên tắc “Nhâm giáng, Đốc thăng” đi tới phủ tạng
và theo kinh mạch lan ra toàn cơ thể.
Quá trình luyện khí chính là quá trình Nhập–khai–thu–tụ– Hành Xả
/phát, với các bước tập luyện cụ thể như sau:
Chọn tư thế thoải mái, tốt nhất là ngồi tư thế kiết già hoặc bán kiết già,
thư giãn toàn thân, tâm trí buông xả, bế ngũ quan, ổn định nhịp tim, điều hoà
hơi thở. Tập trung vào huyệt Bách hội hoặc ấn đường (giai đoạn–nhập ngoại
khí và khai thông các vị trí huyệt tiếp nhận giao lưu). Hít thở từ từ, quán
tưởng khí theo mạch Nhâm đi xuống Đan điền (giai đoạn thu ngoại khí vào
Đan điền). Nén hơi tại Đan điền, quán tưởng “Đan điền sinh khí” (giai đoạn tụ
khí hơi tại Đan điền kích chưng chân khí). Thở ra từ từ, chậm, đều, đồng thời
quán tưởng khí theo mạch Đốc đi lên Bách hội (giai đoạn hành khí–đưa khi từ
Đan điền lên mạch Đốc), ngưng thở quán tưởng xả khí ở Bách hội hay ấn
đường (giai đoạn xả khí hư–khí bệnh).
Luyện thở thanh khí và xả khí vùng bệnh
Luyện thanh khí và xả khí bệnh còn gọi là thanh khí công đây là bài tập
luyện khí để thanh lọc nội khí trong cơ thể, loại bỏ khí hư do bệnh lý sinh ra
và cũng chính là loại bỏ các nguyên nhân gây rối nhiễu tâm thể.
Khi chúng ta mắc bệnh, dù do bất kỳ nguyên nhân nào và bất kỳ ở
trạng thái nào, thì vùng bệnh cũng tồn tại khí hư bệnh lý. Vì vậy rất cần phải
đưa chân khí vào vùng bệnh để thanh lọc xả bỏ khí hư, phục hồi chức năng
bình thường của vùng đó.
Tuy nhiên vùng bệnh có thể là vùng đau cấp thời hay mãn tính và có
thể có nhiều vùng bệnh, người tập bài này nên chọn vùng có biểu hiện bệnh
lý rõ nhất, vùng đau nhất luyện trước, sau đó luyện lần lượt các vùng khác.
Điều quan trọng nhất là người tập phải tụ khí được vào vùng bệnh, quán
tưởng cảm giác căng, nặng, tê hoặc nóng lên, hoặc đau nhức ở vùng đó, sau
đó xả khí (quán tưởng cái cảm giác đau, tức, tê, nóng theo ra được đường xả
và vị trí xả).
Đường xả khí và vị trí xả khí được phân thành các khu vực sau:
– Xả khí ở Bách hội: cho các chứng bệnh ở cột sống, thần kinh: từ dưới
cột sống đi lên theo mạch Đốc tới Bách hội.
– Xả khí ở lòng bàn chân: cho các chứng bệnh ở dưới lưng, bụng dưới,
tỳ, can, thận. Khí từ các vùng trên được quán tưởng dần xuống theo mặt
trong của chân xuống lòng bàn chân và xả ở huyệt Dũng tuyền.
– Xả khí ở lòng bàn tay: cho các chứng bệnh ở tay, lưng trên, vai,
ngực, tâm, phế, quán tưởng dẫn khí từ vùng bệnh theo mặt trong của tay ra
lòng bàn tay và xả ở huyệt Lao cung phải và trái (giữa lòng bàn tay).
Cách tập: Ngồi hoặc nằm ở tư thế thoải mái, thư giãn toàn thân tâm trí
buông xả, bế ngũ quan, điều hoà hô hấp và ổn định nhịp tim. Sau đó tập trung
tâm ý vào Bách hội, đọc mật lệnh “Bách hội khai mở” vài lần. Tập trung tâm ý
cao độ để cảm nhận cảm giác tê, nặng, ấm, kiến bò, gió thổi lăn tăn… ở vùng
đó. Đọc tiếp mật lệnh “Bách hội thu khí tự chữa bệnh” vài lần. Từ từ hít vào
quán tưởng khi theo mạch Nhâm xuống bụng dưới, nén chất khí tại Đan điền.
Đọc tiếp mật lệnh “Đan điền sinh khí” sau đó tập trung tâm ý vào vùng bệnh
quán tưởng khí được dồn lên vùng bệnh, đọc các mật lệnh: “Tụ khí chữa
bệnh” “vùng bệnh tức lên, căng ra”, “vùng bệnh nóng lên’’ hoặc “vùng bệnh tê
đi’’: vài lần rồi từ từ thở ra. Khi thở ra quản tưởng dẫn khí hư từ vùng bệnh ra
ví trí xả, tập trung tâm ý vào đó và đọc mật lệnh “khí bệnh xả hết ra ngoài’’ vài
lần, ngưng thở tức thời để tăng hiệu xuất, xả khí. Từ từ điều hoà hô hấp trở
lại, sau đó lặp lại quá trình này khoảng 10–20 lần.
Thời gian luyện táp tốt nhất, vào sáng sớm mới tỉnh dậy và buổi tối
trước khi đi ngủ. Người mới tập luyện, có thể vài tuần đầu sẽ chưa có cảm
giác tê, ấm, nóng, tức rõ rệt, đặc biệt là giai đoạn xả khí bệnh. Khi xả khí mà
các vị trí xả có cảm giác nóng, lạnh, tê, tức và các cảm giác này bớt dần là
đúng.
Liệu pháp này chỉ thích hợp với trẻ lớn tuổi – tuổi vị thanh niên. thanh
niên.
III. LUYỆN CHÁNH NIỆM – CHÚ TÂM(Thiền định tâm – Chánh niệm)
Xã hội càng văn minh con người càng xa rời thiên nhiên và luôn phải
suy nghĩ hoạt động để thoả mãn nhu cầu. Do đó con người thường xuyên ở
trạng thái căng thẳng, tâm trí báo động, bất an. Vậy làm thế nào để thoát khỏi
các trạng thái này?
Luyện chánh niệm chính là phương pháp phát triển sự tập trung tâm ý
vào những gì đang diễn ra và hãy đơn thuần ghi nhận một cách khách quan
mọi diễn biến của chuyển động bên trong cơ thể và không phán xét. Đây là
một loại chú tâm đem lại lợi ích lớn cho sự phát triển sự tỉnh thức, và tỉnh
thức chính là sự thanh lọc để đạt tới một cái tâm quân bình, vì vậy ảnh hưởng
của stress được kiểm soát.
Cách tập: chọn cho mình tư thế thoải mái, tốt nhất là ngồi không dựa
(ngồi ở tư thế kiết già hoặc bán kiết già) hãy chú tâm vào bụng, hơi thở đều,
tự nhiên, không quá ngắn hoặc quá dài, tập trung tâm ý theo dõi sự phồng
xẹp của bụng. Nếu không thấy rõ được chuyển động của bụng, ta có thể đặt
một tay lên bụng để “cảm giác” sự phồng xẹp. Một lúc sau ta sẽ nhận rõ sự
chuyển động vào ra của hơi thở. Ta hãy ghi nhận sự phồng lên khi hít vào và
xẹp xuống khi thở ra. Đây cũng chính là một phương pháp tập thiền rất, có
hiệu quả để phát triển khả năng chú ý, định tâm và tuệ giác.
Trong khi thực tập chú tâm quan sát sự phồng xẹp của bụng, những tư
tưởng khác sẽ phát sinh. Tư tưởng ham muốn, ý nghĩ, tưởng tượng, hình
ảnh… sẽ xuất hiện, ta không nên bỏ qua những phóng tâm hay vọng tưởng
này mà phải ghi nhận tất cả một khi chúng phát sinh. Chẳng hạn, tâm ta đang
tưởng tượng điều gì thì ta phải biết.. mình đang tưởng tượng và ghi nhận
“tưởng tượng–tưởng tượng–tưởng tượng”. Khi có sự suy nghĩ xảy ra hãy đơn
thuần ghi nhận và đừng nhảy vào trong sự suy nghĩ, đừng phân tích sự suy
nghĩ và tìm hiểu lý do tại sao nó đến, chỉ cần chánh niệm – ghi nhận lúc sự
suy nghĩ xảy ra và nên niệm thầm: “Suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ”. Mỗi khi tâm
ta suy nghĩ điều gì hãy cồ gắng ghi nhận kịp thời ngay khi sự suy nghĩ vừa
phát sinh(đừng chậm trễ nhưng chỉ thuần quan sát mà không phán đoán,
không phản ứng, không dính mắc, không than trách, không đồng hoá mình
với những gì xảy ra.
Mỗi khi tâm thấy gì, nghĩ gì chỉ cần chánh niệm ghi nhận cho đến khi
chúng tự biến mất. Sau khi chúng biến mất, ta lại chú tâm vào sự phồng xẹp
của hơi thở. Bằng cách này ta đã tự phát triển một cái tâm buông xả, giải
thoát tâm ra khỏi mọi phiền não trói buộc. Phương pháp này cũng giúp phát
triển khả năng định tâm và khai triển tuệ giác.
Khi cảm thấy tâm bất an và giao động, hãy chánh niệm ghi nhận “bất an
và giao động”. Quan sát tâm xem giao động đến và đi như thế nào. Trong bất
kỳ tình huống nào cũng không đồng hoá mình với sự bất an và giao động.
IV. LIỆU PHÁP CẤU TRÚC LẠI NHẬN THỨC – XÚC CẢMTại sao cùng một sự kiện, cùng một tình huống lại gây ra stress nặng
nề cho người này mà không ảnh hưởng đáng kể đến người khác?
Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đều xác nhận rằng: cách
thức mà mỗi cá nhân đáp ứng lại những kích thích bên trong hay bên ngoài
cơ thể phụ thuộc đáng kể vào khả năng nhận diện và thấu hiểu (phiên dịch)
các kích thích này. Trước một cơn tức ngực khó thở, có người nghĩ tới những
triệu chứng của bệnh tim và nghĩ rằng mình bị đau tim thật, nhưng có người
chỉ cho rằng đó là phản ứng co thắt để điều tiết chức năng hô hấp do hậu quả
của vận động mạnh. Hai cách nhận diện, phiên dịch này có thể dẫn đến các
chiến lược ứng phó khác nhau. Một người vì cho rằng mình bị “bệnh tim”, có
thể sẽ rất lo lắng. Trạng thái tâm lý tiêu cực này sẽ làm tăng triệu chứng…, để
đối phó cần phải đến bác sỹ… và ngay cả khi nhận được kết quả trả lời rằng
tim bình thường thì chưa chắc đã an tâm, vì họ có cơ sở để nghi ngờ “tại sao
mình vẫn còn những cơn tức ngực khó thở”… Cứ theo lô gích này tâm bệnh
sẽ hình thành. Như vậy cái cách thức mà chúng ta nhận thức các tình huống,
các sự kiện trong cuộc sống có ảnh hưởng đáng kể đến hành động và tình
cảm của chúng ta. Những ý nghĩ, niềm tin: mong muốn và cả thái độ đều có
ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của mỗi cá nhân.
Tiến sỹ Albert Ellis (1962) khẳng định rằng hầu hết những rối nhiễu xúc
cảm là do những suy nghĩ không hợp lý, những niềm tin sai lệch hoặc những
mong muốn thái quá không phù hợp gây ra. Nhà tâm thần học người Mỹ
Aaron Beck cũng có chung nhận định này. Theo Ellis và Beck thì có một mối
quan hệ nhân quả giữa thế giới bên ngoài với tư cách là tác nhân kích thích
và hệ thống niềm tin, mong muốn của cánh nhân hoặc nếp nghĩ dùng để
“nhận diện, phiên dịch” trước khi nảy sinh tình cảm và hành vi. Vì vậy theo
các tác giả này, cách ứng phó tốt nhất với các rối nhiễu tâm trí là điều chỉnh
những nhận thức không hợp lý, thay thế chúng bằng những ý nghĩ, niềm tin
mong muốn hợp lý hơn
Liệu pháp Điều chỉnh cấu trúc lại nhận thức (Cogntive restructuring
therapy) chính là quá trình xem xét loại bỏ những niềm tin hoặc những ý nghĩ
không hợp lý dang duy trì trạng thái rối nhiễu. Cả Ellis và Beck đều là cha đẻ
của cách trị liệu này. Họ đã tiến hành các công trình nghiên cứu độc lập nhằm
điều chỉnh những lệch lạc về nhận thức, nhưng họ tiến hành theo những
chiến lược khác nhau. Chiến lược của Eliis là hưởng dẫn trực tiếp, động viên
thuyết phục, còn chiến lược của Beck là thách thức. trắc nghiệm, thử thách
để thân chủ tự kiểm tra những ý nghĩ và niềm tin bất hợp lý đang tồn tại.
1. Liệu pháp điều chỉnh niềm tin xúc cảm của Ellis
Theo lý thuyết của Ellis thì những ý nghĩ hoặc niềm tin không hợp lý
gây ra những phản ứng mang dấu ấn của stress có thể chia thành 5 loại
chung như sau:
a. Kiểu suy nghĩ tuyệt đối hoá: kiểu nhận thức này nhìn sự kiện thiên
lệch ở 2 đối cực, hoặc là tất cả hoặc là không có gì, hoặc toàn màu đen hoặc
toàn màu hồng. Những cách nghĩ điển hình nhất của kiểu này là “Tôi phải
luôn luôn làm tốt và chiếm được sự đồng tình ủng hộ của người khác”, “người
khác nên đối xử tốt với tôi và theo đúng cách mà tôi thích”… Nhưng có phải
lúc nào ta cũng làm tốt.. lúc nào ta cũng nhận được sự đồng tình ủng hộ của
người khác? Thế là thất vọng tràn trề, niềm tin nó vỡ
b. Trầm trọng hoá, quan trọng hóa vấn đề: kiểu này liên quan đến
việc nhìn nhận một thất bại nhỏ, không đáng kể như là một tai hoa, một tổn
thất lớn. Ví dụ, một sinh viên đại học bị một bài kiểm tra điểm kém liền xem đó
như là mình không có khả năng học môn đó.
c. Tự ám thị mình không có khả năng chịu đựng thất bại: những
người có kiểu tư duy này không có khả năng chịu đựng những hoàn cảnh hơi
không thuận lợi. Ví dụ, một người đàn ông sau 10 phút chót gặp bác sỹ đã bỏ
ra khỏi phòng khám và tuyên bố rằng: “Thật là lố bịch (ngu xuẩn) khi mình sử
dụng suốt một ngày để chờ gặp bác sỹ”.
d. Khái quái hoá một cách vội vã, thái quá: chỉ căn cứ vào 1–2 biểu
hiện đã vội vã kết luận khái quát. Ví dụ, một thực tập sinh sau một bài lên lớp
dạy thử đã kết luận rằng mình không có khả năng sư phạm hoặc tin rằng
mình sai lầm khi theo học ngành giáo viên.
e. Cảm giác vô tích sự, vô giá trị của cá nhân: đây là một biến thể
của kiểu khái quát vội vàng. Những người có kiểu nhận thức này thường tin
rằng mình là kẻ vô tích sự hoặc không có khả năng gì. Ví dụ: một quản đốc tự
cho mình là người không có năng lực vì anh ta không hoàn thành đúng hạn
một công việc được giao.
Mục đích của liệu pháp này là điều chỉnh lại những niềm tin không hợp
lý. Sự điều chỉnh này là một quá trình đi qua 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: là nhận diện những ý nghĩ dựa trên những niềm tin
không phù hợp.
– Giai đoạn 2: là tìm bằng chứng phản bác lại những niềm tin phi lý
này.
– Giai đoạn 3: là nảy sinh ý nghĩ mới dựa trên niềm tin hợp lý những
mong muốn thực tế.
Để làm được điều này ta có thể liệt kê các tình huống sự kiện gây
stress, sau đó tìm xem có những ý nghĩ niềm tin nào là thái quá, không hợp
lý, xem mình có mắc những lỗi đã nêu không?
Việc phát hiện ra những ý nghĩ sai lầm dựa trên những niềm tin mong
muốn không hợp lý sẽ giúp ta “nhận thức” lại vấn đề, đánh giá lại tình huống.
Việc thức dậy những xúc cảm – niềm tin hợp lý là những tín hiệu quan trọng
để điều chỉnh hành vi. Ví dụ, một bé gái 8 tuổi rất sợ ma (do bà và chị thường
kể chuyện ma, em lại tò mò thích nghe), sau đó chuyển thành chứng ám sợ
bóng tối. Em tin rằng có ma thật, theo em “các buổi tối ma về và thường hay
bắt trẻ con…”, vì vậy em không bao giờ ở một mình trong phòng, không dám
bước vào các góc tối, không dám ra ngõ một mình…
2. Liệu pháp điều chỉnh nhận thức của Beck
Liệu pháp điều chỉnh nhận thức của Beck cũng dựa trên giả thuyết cho
rằng những rối nhiễu tâm lý được duy trì bởi những nhận thức không phù hợp
và ông cũng chủ động loại bỏ những rối nhiễu này bằng cách điều chỉnh, cấu
trúc lại nhận thức. Tuy nhiên Beck sử dụng các chiến lược loại bỏ những
niềm tin không hợp lý khác với Ellis.
Theo Beck những rối nhiễu tâm lý xảy ra khi người ta nhìn nhận thế
giới này như là nơi rất nguy hiểm, đầy sự đe doạ. Khi điều này xảy ra với ai
đó thì rõ ràng ở người đó có vấn đề (có sai lệch) trong quá trình xử lý thông
tin bình thường. Các quá trình nhận thức, phân tích, hiểu các tình huống hoặc
sự kiện của những người này đã bị cứng nhắc, vị kỷ hoặc lệch hướng. Họ
mất đi khả năng “ngắt bỏ” những ý nghĩ lệch lạc, mất khả năng tập trung, hồi
tưởng hoặc mất khả năng suy luận hợp lý. Vì vậy họ mắc những lỗi có tính hệ
thống trong việc suy luận. Những lỗi này là cơ sở để phát sinh và duy trì một
hay nhiều hình thức rối nhiễu tâm lý cụ thể.
Theo Beck có 6 lỗi chính trong quá trình nhận thức – xử lý thông tin:
– Suy luận tuỳ tiện: rút ra những kết luận khi không có bằng chứng đầy
đủ hoặc khi những bằng chứng còn mâu thuẫn nhau. Ví dụ như tin rằng mình
mất việc là do không có năng lực, mặc dù công ty bị phá sản, người khác
cũng mất việc.
– Khái quát hoá thái quá: rút ra kết luận chung dựa vào một bằng
chứng ngẫu nhiên duy nhất. Ví dụ tin rằng mình sẽ không bao giờ thành công
sau thất bại đầu tiên.
– Chú ý vào chi tiết: tập trung thái quá vào một chi tiết, bỏ qua bối cảnh
chung. Ví dụ, chào một người bạn nhưng người đó không đáp lại và nghĩ
rằng người bạn kia ghét bỏ mình. Thực ra người đó đang mải suy nghĩ, không
nghe thấy tiếng chào.
– Tự vận vào mình: Tự vận vào mình một sự kiện không hề có liên
quan. Ví dụ, bước vào một đám đông bắt gặp họ đang cười liền nghĩ và tin
chắc rằng họ đang cười nhạo mình. Điều này dẫn đến bực tức, khó chịu.
– Suy nghĩ tuyệt đối hoá: Nghĩ về các cực thái quá theo kiểu hoặc là tất
cả hoặc là không có gì, hoặc chỉ toàn màu đen hoặc chỉ toàn màu hồng. Ví dụ
tin rằng mình là kẻ bần cùng sau khi bị mất chiếc ví.
– Quan trọng hoá hoặc coi thường: nhìn một sự việc hoặc là quá quan
trọng hoặc quá coi thường. Ví dụ: nghĩ rằng mình là kẻ dốt văn sau khi được
trả một bài kiểm tra văn với nhiều lỗi chính tả.
Những sai lệch này về nhận thức có nhiều điểm trùng với Ellis. Các
mục tiêu trị liệu nhằm điều chỉnh nhận thức theo Beck là điều chỉnh lại quá
trình nhận thức – xử lý thông tin. Có thể điều chỉnh niềm tin không hợp lý
bằng cách thu thập bằng chứng hoặc bằng một loạt các câu hỏi để phát hiện
những suy luận vô lý hoặc bằng cách thực nghiệm để kiểm định tính logic hợp
lý của những niềm tin đang tồn tại.
Chẳng hạn: để ứng phó với chứng bệnh lo âu, các nhà trị liệu đã sử
dụng những chiến lược ứng phó sau đây nhằm điều chỉnh lại quá trình nhận
thức–xử lý thông tin:
– Đánh giá lại sự kiện, phân tích lại tình huống để tìm những ý nghĩ tự
động (automatic thoughts) và phát hiện những lỗi hoặc tính vô lý của những ý
nghĩ này.
– Thách thức những giả thuyết cơ bản của người bệnh: những tiền đề
sai lệch ban đầu cần được mổ xẻ, phân tích để tìm ra tính bất hợp lý cần phải
điều chỉnh.
– Nhìn sự vật từ quan điểm của người khác: phân tích lại tình huống
hoặc sự kiện từ các góc nhìn khác nhau, đặt mình vào vị trí của người khác
để có cái nhìn hợp lý hơn về bản chất tình huống hay sự kiện: về các giải
pháp thay thế.
– Thức tỉnh những ý nghĩ lạc quan tích cực và thực tế hơn: quán tưởng
dừng những ý nghĩ vẩn vơ, tiêu cực và thay thế chúng bằng những ý nghĩ tích
cực tốt đẹp hơn.
V. LIỆU PHÁP GIẢI MẪN CẢMĐây là một phương pháp quan trọng trong trị liệu tâm lý được Tiến sỹ
Joseph Wolpe (1958) đề xướng. Liệu pháp này được dùng để hoá giải những
rối nhiễu tâm trí kiểu ám sợ, lo hãi, chẳng hạn sợ chuột, sợ rắn, sợ đi học, sợ
nói trước đám đông…và đã được thừa nhận là một trong những phương
pháp hoá giải lo hãi có hiệu quả, dễ sử dụng và dễ thành công.
Lý thuyết ức chế tương hỗ của Wolpe cho rằng hệ thần kinh có các pha
hưng phấn và ức chế luân phiên nhau, rằng tại cùng một thời điểm, hệ thần
kinh không thể vừa thư giãn vừa căng thẳng. Những căng thẳng hình thành
trong những tình huống nào đó được giả thiết, là phản ứng của cơ thể được
điều kiện hoá. Tại sao một số người lại trở nên lo lắng khi đối mặt với những
kích thích không có hại như sợ đi máy bay, sợ rắn không độc, sợ khoảng
trống, sợ tiếp xúc xã hội… Phải chăng lo hãi là do nhưng kiểu điều kiện hoá
nào đó mà những người này đã trải nghiệm từ trước?
Chủ động giãn mềm cơ bắp, đưa cơ thể vào trạng thái thư giãn được
xem là cách có hiệu quả để chống lại những phản ứng của cơ thể đã được
điều kiện hoá. Bằng cách tiếp cận dần dần với những kích thích gây lo sợ,
căng thẳng có thể dẫn đến việc dập tắt dần những lo sợ được điều kiện hoá
này.
Liệu pháp giải mẫn cảm hệ thống bao gồm các bước cơ bản sau:
1– Tưởng tượng ra một loạt các kích thích gây stress xung quanh một
sự kiện gây sợ nào đó và sắp xếp các kích thích gây sợ này theo một trật tự,
từ yếu đến mạnh (có thể dùng thang đo mức độ lo hãi từ 1 – 100 điểm).
2– Đưa cơ thể vào trạng thái thư giãn toàn thân.
3– Trong trạng thái thư giãn, thân chủ tưởng tượng một cách sinh
động, lần lượt những kích thích gây lo âu đã liệt kê từ mức yếu nhất để cơ thể
quen dần. Nếu kích thích được quen dần không gây những cảm giác khó chịu
thì chuyển lên một kích thích mạnh hơn. Nếu thấy xuất hiện cảm giác lo âu –
khó chịu thì dừng lại, tập trung thư giãn để cơ thể tiếp tục thích ứng. Cứ như
vậy tiến dần đến nấc thang gây sợ cao nhất.
Ví dụ, một cô bé 11 tuổi, sợ chuột, bác sỹ trị liệu đã sử dụng kỹ thuật
này để hoá giải chứng ám sợ cho cô. Trước hết yêu cầu cô bé đó tưởng
tượng ra các tình huống gây căng thẳng, lo sợ xung quanh chứng sợ này.
Sau đó xếp chúng vào một thang điểm như sau:
– Sờ vào một con chuột, mức độ căng thẳng, sợ hãi cao nhất: 100
điểm.
– Nhìn gần một con chuột nhốt trong lòng, mức độ càng thẳng, sợ hãi:
80 điểm.
– Nhìn xa một con chuột nhốt trong lồng, mức độ căng thẳng, sợ hãi:
60 điểm.
– Nhìn bức tranh con chuột mức độ căng thẳng, sợ hãi: 40 điểm.
– Nhìn con chuột bằng nhựa mức độ căng thẳng, sợ hãi: 20 điểm.
– Nghe nói chuyện về chuột mức độ căng thẳng, sợ hãi: 10 điểm.
Cô bé này được hướng dẫn kỹ thuật thư giãn, lần lượt thư giãn từng
nhóm cơ rồi thư giãn toàn thân. Khi cơ thể ở vào trạng thái thư giãn, cô bé
này được khuyến khích tưởng tượng ra những hình ảnh gây sợ, tiến tới từng
bậc thang sao cho chuyện từ những liên tưởng trước đây hoặc những hình
ảnh gián tiếp gây stress ở mức thấp đến những hình ảnh trực tiếp gây sợ cao
nhất. Tưởng tượng nhìn thấy bức tranh con chuột, rồi tưởng tượng nhìn thấy
con chuột từ xa. Nếu cơ thể có phản ứng sợ như căng cơ, vã mồ hôi, run
chân tay, nhịp tim, nhịp thở tăng thì dừng lại, tập trung thư giãn đưa cơ thể
trở về trạng thái thoải mái trước khi tiếp tục chuyển sang kích thích gây sợ
cao hơn như tưởng tượng nhìn thấy một con chuột ở gần bị nhốt trong lồng,
rồi tưởng tượng sờ tay vào con chuột… Sau một số buổi tập luyện như vậy
(khoảng 12–15 buổi) trẻ sẽ hết ám sợ chuột.
Một ví dụ khác về một thiếu nữ (16 tuổi) sợ tiếp xúc với người lạ được
hướng dẫn kỹ thuật này đã tự trị liệu khỏi bệnh. Thiếu nữ này ngồi trên một
chiếc ghế, tưởng tượng ra các tình huống gây sợ và với từng tình huống đều
sử đụng thư giãn như là phương tiện để đối phó với sự căng thẳng. Thoạt
đầu:
1– Tưởng tượng nhìn thấy một đám đông đang chờ xe buýt, họ nói
chuyện và phàn nàn về sự chậm trễ này. Thiếu nữ tưởng tượng mình tham
gia vào cuộc trò chuyện đó.
2– Tưởng tượng đang ngồi ở phòng chờ để được gặp bác sỹ và để lấp
khoảng trống cô bắt đầu trò chuyện với một ai đó ở xung quanh cũng đang
chờ đợi.
3– Tưởng tượng đang ngồi ăn trưa ở quán, thì có hai người khách lạ
vào, họ ngồi vào cùng bàn với cô. Họ nói chuyện với nhau về thời tiết, thực
phẩm và mình cũng tham gia vào câu chuyện phiếm đó.
4– Tưởng tượng tham dự một buổi dạ hội đông người và bắt đầu trò
chuyện với những người không quen biết.
5– Tưởng tượng gọi điện thoại cho một người nào đó mà mới chỉ gặp
một lần để trò chuyện, sau đó rủ người đó cùng đi picnic.
Sau mỗi pha tưởng tượng, tự đánh giá xem mức độ căng thẳng còn lại
bao nhiều điểm trên thang đo 100 điểm.
Thí dụ về một bé gái mắc chứng ám sợ trường học:
Cô bé N.T.L 9 tuổi bỏ học vì sợ đến trường. Bé L là học sinh lớp 4 bỏ
trường học đã 3 tuần được đưa đến nhờ điều trị.
Sau kỳ nghỉ hè 8 tuần, bé L vào học lớp 4. Nhưng ngay từ tuần đầu tiên
trẻ đã không muốn học, trẻ thường trốn tiết bỏ lớp. Sang tuần thứ hai trẻ có
mặt rất ít ở lớp mặc dù trẻ vẫn đến trường) rồi bỏ hẩn ở giữa tuần thứ ba.
Không có một biện pháp thưởng, trừng phạt hay đe doạ nào có thể buộc trẻ
phải đến trường.
Lịch sử học tập của đứa trẻ này có một số điểm cần quan tâm: tuổi mẫu
giáo trẻ là cô bé nhút nhát, dè dặt và hay khóc. Ngày đầu tiên đến mẫu giáo
(lúc 4 tuổi) trẻ trèo tường trốn về nhà. Vào lớp 1 trẻ là học trò cá biệt, cô giáo
của trẻ xem nó là đứa bất trị quấy rối lớp. Những khó khăn nghiêm trọng khác
xảy ra khi trẻ vào lớp 2, tại đây trẻ thường hăm doạ các bạn cùng lớp và trở
nên lỳ lợm, trơ lỳ với sự trừng phạt cả về tinh thần lẫn thể xác. Trẻ càng ngày
càng chán đến trường, rồi từ chối không chịu đến trường. Bố mẹ buộc phải
bắt ép trẻ tới trường: một số lần phải “áp giải” (trong tiếng la hét) tới cổng
trường giao cho cô giáo. Vào lớp 3 trẻ chuyển sang một trường dân lập, ở
đây trẻ được một giáo viên nhiệt tình có kinh nghiệm dạy học nên không xảy
ra chuyện gì đáng buồn.
Một số các sự kiện khác gây chấn thương cho trẻ: suýt chết đuối lúc 5
tuổi, vào lớp 3 trẻ bị cơn đau ruột thừa phải mổ cấp cứu sau đó thỉnh thoảng
trẻ bị đau bụng, có lần trẻ thi bị đau bụng phải bỏ thi. Một tuần trước khi vào
lớp 4 trẻ bị cú sốc do chứng kiến cái chết bất ngờ của 1 trẻ gái 12 tuổi là bạn
thân của chị mình. Trẻ lại bị chị mình doạ là lên học lớp 4 rất là khó, phải học
vất vả.
Chẩn đoán – điều trị
Sau cuộc phỏng vấn khai thác thông tin, có bằng chứng cho thấy sự ám
sợ đến trường học của trẻ là cách phản ứng của một đứa trẻ bị hăm doạ,kém
thích nghi mặc dù các thông tin khác tiết lộ các sự kiện làm tổn thương trẻ.
Mục tiêu khởi đầu của trị liệu là giúp trẻ trở lại trường học. Trường học
của cô bé này vào học lúc 7h5' từ nhà đến trường mất 10’. Buổi sáng trẻ thích
dậy muộn, trước lúc đi học trẻ không chịu ăn sáng, không chịu chuẩn bị cặp
sách, quần áo và có vẻ lo lắng khi đồng hồ chỉ 7h kém 15'. Cha mẹ càng động
viên khuyên bảo trẻ càng nhất định không đi, bị ép buộc trẻ khóc và la hét.
Sau khi xác định rõ bản chất rối nhiễu, mục tiêu cần điều chỉnh một loạt
các tình huống liên quan đến việc giúp trẻ trở lại trường đã được thiết kế theo
mức độ khó dần để trẻ tập làm quen và thích nghi lại.
1– Trẻ đi bộ từ nhà đến cổng trường cùng với nhà trị liệu vào ngày nghỉ
(chủ nhật).
2– Trẻ đi bộ từ nhà đến sân trường cùng với nhà trị liệu vào ngày học
nhưng đến trước 30 phút (khi những học sinh khác chưa đến).
3– Trẻ được khuyến khích dừng lại ít phút ở sân trường cùng với nhà
trị liệu.
4– Trẻ được đưa vào lớp ngồi vào bàn cùng nhà trị liệu, sanu khi tan
trường, các học sinh khác đã ra về hết..
5– Trẻ vào lớp chơi đùa cùng nhà trị liệu, vẽ, viết trên bảng khi lớp tan
học.
6– Trẻ vào lớp nói chuyện với giáo viên khi có mặt nhà trị liệu.
7– Trẻ ngồi cả buổi sáng trong lớp cùng với nhà trị liệu.
8– Trẻ vào lớp học còn nhà trị liệu ở phòng giáo viên.
9– Trẻ tự đi bộ đến trường, nhà trị liệu chỉ có mặt ở trường một lúc vào
giờ ra chơi.
10– Trẻ ở trường cả buổi sáng không cần có mặt nhà trị liệu.
Nỗi ám sợ đến trường học của trẻ được chia nhỏ thành 10 tình huống
để luyện tập. Kết quả là 6 tuần sau trẻ đã tự thích nghi. không còn sợ đến
trường nữa.
VI. LIỆU PHÁP TRÀN NGẬP VÀ CHÌM NGẬPLiệu pháp tràn ngập cũng được dùng để hoá giải những rối loạn tâm trí
như lo hãi, ám sợ. Liệu pháp này đối lập với giải cảm ứng có hệ thống. Tại
thời điểm bắt đầu của liệu pháp tràn ngập được thể hiện một kích thích gây
sợ hãi nhất ngay cực trên của bậc thang lo âu, nhưng phải trong một môi
trường an toàn. Thân chủ trong trạng thái thư giãn hoàn toàn, tự tưởng tượng
ra một tình huống gây sợ hãi nhất hoặc nghe một cuốn băng mô tả chi tiết
một tình huống gây sợ hãi nhất, ý nghĩa của phương pháp này là thân chủ
không được phép từ chối né tránh những tình huống kích thích gây sợ hãi,
mà ngược lại đối mặt tiếp cận với những kích thích này. Đây cũng là thời
điểm giúp thân chủ khám phá ra rằng tiếp cận với những kích thích hiện tại
không có những hậu qua âm tính như mình nghĩ trước đây.
Để thực hiện được phương pháp này điều quan trọng là phải mô tả tình
huống gây cực kỳ sợ sệt, liên quan đến sợ hãi của thân chủ. Chẳng hạn như
một con rắn đang bò trên cơ thể họ. Sau đó thân chủ phải cố gắng hình dung
điều đó thật đầy đủ, trải nghiệm điều đó thông qua toàn bộ cảm giác mạnh
đến mức có thể được. Việc tưởng tượng như vậy được xem là nguyên nhân
xuất hiện hoảng sợ tràn ngập cảm giác sợ hãi, vì vậy nó có tên là liệu pháp
tràn ngập (Implosion Therapy). Vì hoàn cảnh xuất hiện lặp đi lặp lại, kích thích
gây sợ này mất dần sức mạnh tạo ra lo âu của nó. Khi lo âu xảy ra không dài
lắm hoặc không xảy ra sẽ làm cho stress giảm xuống hoặc mất đi.
Liệu pháp chìm ngập (Flooding therapy) cũng tương tự như liệu pháp
tràn ngập, ngoại trừ thân chủ đồng ý tiếp xúc trực tiếp với hoàn cảnh có thực.
Trong khi liệu pháp tràn ngập đòi hỏi thân chủ tưởng tượng sinh động tình
huống kích thích gây sợ hãi thì trong chìm ngập, thân chủ trải nghiệm tiếp xúc
với những điều có thực. Ví dụ, người sợ chỗ kín có thể ngồi trong phòng tối
nhỏ, người sợ nước có thể được đặt trong bể nước.
Để thực hiện liệu pháp này, thân chủ được kích thích tưởng tượng,
chẳng hạn nghe một đoạn băng hoặc xem một cuốn phim mô tả chi tiết tình
huống, hoàn cảnh gây sợ (kéo dài 1-2 giờ). Khi hoảng sợ của thân chủ lắng
xuống, họ được đưa đến chứng kiến tận mắt tình huống gây sợ (điều này có
thể không giống như sợ hãi mà họ vừa tưởng tượng). Biện pháp này đã được
những nhà trị liệu xác nhận là có hiệu lực hơn liệu pháp giải mẫn cảm hệ
thống trong điều trị những stress có liên quan đến rối nhiễu tâm lý như ám sợ
khoảng trống, ám sợ ma…
VII. LIỆU PHÁP ỨNG PHÓ – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀNhóm liệu pháp này gồm các chiến lược ứng phó (coping strategies),
các ký năng giải quyết vấn đề (problem solving skills) và huấn luyện phòng
ngừa stress (stress innoculation trainning).
Huấn luyện phòng ngừa Stress:
Phương pháp này được Donald Meichanbaum phác thảo dùng cho
những bệnh nhân của ông đương đầu với stress.
Trong cuộc sống có rất nhiều sự kiện, tình huống gây stress. Tuy nhiên
mỗi cá nhân xử lý giải quyết các sự kiện, tình huống gây stress rất khác nhau
phụ thuộc vào bản chất của sự kiện và năng lực ứng phó của chính cá nhân
đó. Stress tiêu cực hiểu theo nghĩa rộng liên quan tới một loạt các phản ứng
tiêu cực bao gồm: lo lắng, giận dữ, mặc cảm, xung.đột, trầm nhược và các
kiểu đau khổ thể chất khác như đau đầu, mệt mỏi, mát ngủ, viêm loét và căng
thẳng bát an. Những người bị các triệu chứng này thoạt đầu được huấn luyện
các kỹ năng ứng phó, sau đo thực hành sử dụng các kỹ năng này để kiểm
soát các tình huống hoặc sự kiện gây stress. Quá trình này có thể gồm 3 giai
đoạn: cấu trúc lại khái niệm, luyện tập các kỹ năng ứng phó, thực hành trong
các tình huống cụ thể của cuộc sống.
Cấu trúc lại khái niệm:
Đây là pha nhận thức lại vấn đề, thay thế những ý nghĩ không hợp lý,
những niềm tin sai lệch bằng những ý nghĩ niềm tin hợp lý hơn. Bản thân các
sự kiện hay các tình huống tự nó chưa thể gây ra những phản ứng xúc cảm
tiêu cực, chẳng hạn như lo âu, bực mình mà thực ra là các phản ứng tiêu cực
lại bắt nguồn từ sự nhận thực không đầy đủ hoặc thiên lệch về bản chất của
sự kiện hay tình huống. Sử dụng các kỹ thuật cấu trúc lại khái niệm (xét lại
bản chất của vấn đề có đúng như đã nghĩ không), nảy sinh các giải pháp thay
thế (liệu có thể làm gì để giải quyết vấn đề?)… Chẳng hạn, một người bạn
khác giới bỗng nhiên lạnh nhạt, xa lánh hoặc cắt đứt mọi quan hệ với bạn mà
không đưa ra bất kỳ lý do nào, thậm chí còn nói xấu sau lưng bạn. Trong tình
huống này có thể có ý nghĩ “đó là người bạn tồi’’, ta không cần những người
bạn như vậy…” gây stress (thất vọng, bực tức). Nếu những ý nghĩ này được
thay thế bằng những ý nghĩ hợp lý hơn như “đây có thể là sự hiểu lầm hoặc
có lý do nào đó ẩn sau thái độ kỳ lạ này?” làm giảm stress.
Thân chủ nên xem ứng phó như là một quá trình gồm 5 bước:
– Chuẩn bị sẵn sàng chấp nhận tình huống gây stress.
– Tìm cách đương đầu và ứng phó tới tình huống này.
– Sẵn sàng giải quyết hậu quả nếu có.
– Đánh giá hiệu quả thực hiện trong tiệc đương đầu với tình huống.
– Tự thưởng để củng cố khuyến khích nhứng hành vi phù hợp.
Đạt được các kỹ năng ứng phó:
Trong pha này thân chủ học và thực hành các chiến lược ứng phó với
stress. Mặc dầu các kỹ năng cụ thể phụ thuộc vào bản chất của tình huống
gây stress thì vẫn có 4 nhóm kỹ năng chung sau đây được xem là những kỹ
năng cơ bản để đương đầu với stress: Thư giãn với các nhóm cơ khác nhau,
hiệu chỉnh những sai lầm trong nhận thứ, học cách giải quyết vấn đề, tự
khuyến khích củng cố để tăng lòng tự tin. Khi bị stress người ta thường có
phản ứng căng cứng cơ. Nắm được các kỹ thuật thư giãn sẽ giúp giải toả
stress. Mặt khác người ta thường có những nhận thức sai lệch về bản chất
của sự kiện tình huống gây stress, lo sợ không biết làm thế nào để giải quyết
vẩn đề. Vì vậy học các kỹ thuật phân tích nhận thức lại tình hương và học kỹ
năng giải quyết vấn đề sẽ giúp chúng ta đương đầu có hiệu quả hơn với
stress.
Thực hành ứng dụng trong các tình huống đời thường:
Trong pha này liên quan tới việc nảy sinh những thái độ mới (hợp lý
hơn) và khai triển những hành vi ứng phó cụ thể và luyện tập với một số tình
huống gây stress cụ thể. Bằng cách này thân chủ học cách ứng phó có hiệu
quả với stress.
Huấn luyện cách phòng ngừa stress, thực ra là một chương trình can
thiệp phối hợp một số liệu pháp tiếp cận rối nhiễu tâm trí theo kiểu “tiêm
chủng’’ hành vi nhằm đưa thân chủ chủ động tiếp cận với một số tình huống
gây stress, giúp họ khái quát hoá, nhận diện lại vấn đề: hướng dẫn họ các kỹ
năng ứng phó và những kỹ năng này giống như những “kháng thể” trong cơ
chế miễn dịch của cơ thể, có sức đề kháng với stress.
Liệu pháp giải quyết vấn đề
Khi gặp tình huống gây stress, chúng ta hoặc tìm cách lẩn tránh hoặc
chủ động nhanh chóng tìm cách giải quyết. Liệu pháp giải quyết vấn đề
hướng dẫn cho bạn một chiến lược mang tính hệ thống để tiếp cận và xử lý
có hiệu quả những vấn đề khó khăn bạn đang gặp phải và sẽ gặp phải trong
cuộc sống.
Liệu pháp này xem giải quyết vấn đề như là một quá trình ứng xứ gồm
các giai đoạn hoặc các bước. Theo Thomas D'zurilla và Marvin Goldiried,
những người đã khai sinh ra phương pháp này thì quá trình giải quyết vấn đề
có 4 giai đoạn cơ bản sau:
1– Xác định vấn đề.
2– Nảy sinh nhiều nhất các giải pháp có thể.
3– Quyết định chọn giải pháp tốt nhất (tối ưu).
4– Thực hiện giải pháp dã chọn và đánh giá hiệu quả
Các giai đoạn của quá trình giải quyết vấn đề được mô hình hoá như sau:
Ket thucqua trinh
Van đe đa đuoc giai quyet
TiepTuc
Van đe chua giai quyet
Thuc hien giai phap đa chon va đanh gia tinh hieu qua cua
no
Can nhac chon lua giai phap
toi uu
Nay sinh cac giai
phap
Xac đinh van đe
Để áp dụng có hiệu quả liệu pháp này, điều quan trọng là chúng ta phải
hiểu được ba điều kiện tiên quyết sau đây:
1. Những vấn đề khó khăn hay stress là một bộ phận không thể không
có trong đời sống mà mỗi người có thể học cách ứng xử đê đối phó với
chúng.
2. Cần phải nhận diện rõ bản chất của vấn đề khi nó xảy ra để có
những giai pháp hợp lý.
3. Hiệu quả của quá trình giải quyết vấn đề liên quan đến việc cân nhắc
đánh giá các giải pháp khác nhau và quyết định áp dụng giải pháp tốt nhất.
Giai đoạn 1: Xác định vấn đề và tìm ra các mục tiêu phải đạt là điều
kiện tiên quyết để nảy sinh các giải pháp cụ thể ở giai đoạn 2. Thân chủ hãy
đặt câu hỏi “cái gì là bản chất của vấn đề”, “cái gì phải xảy ra để tình huống
có vấn đề được giải quyết,”
Giai đoạn 2: Nảy sinh tất cả các giải pháp có thể. Suy nghĩ đưa ra càng
nhiều giải pháp, thân chủ càng có khả năng cân nhắc đánh giá, lựa chọn
được một giải pháp tốt nhất. Việc liệt kê tất cả các giải pháp có thể và cân
nhắc đánh giá hậu quả của từng giải pháp là cách tốt nhất đi đến chọn được
một giải pháp phù hợp nhất ở giai đoạn sau.
Giai đoạn 3: Ra quyết định. Giai đoạn này đòi hỏi thân chủ tập trung
vào một giải pháp được xem là tốt nhất trong số tất cả các giải pháp có thể,
giải pháp này được phân tích mổ xẻ và chỉ được quyết định chọn sau khi đã
xem xét và cân nhắc kỹ những hậu quả có thể có.
Giai đoạn 4: Thực hiện và đánh giá hiệu quả. Trong giai đoạn này thân
chủ không chỉ thực hiện giải pháp đã chọn mà còn đánh giá hiệu quả giải
pháp đã chọn: “Liệu vấn đề đã được giải quyết sau khi thực hiện giải pháp?”.
Nếu vấn đề vẫn chưa được giải quyết, thân chủ buộc phải quay lại các giai
đoạn trước, quá trình giải quyết vấn đề cứ thế tiếp tục cho đến tận khi vấn đề
được giải quyết hoàn toàn.
VIII. LIỆU PHÁP ỨNG PHÓ THEO KIỂU NHẬN BIẾT – CHẤP NHẬN – ĐIỀU CHỈNH
Khi chúng ta bị những mối lo âu dày vò, những nỗi ám ảnh sợ hãi,
những ý nghĩ vẩn vơ không thể loại bỏ được, chúng ta sẽ ứng phó thế nào?
Cách tốt nhất để loại bỏ những rối nhiễu kiểu này là chấp nhận chúng một
cách đầy đủ.
Bạn có thể sử dụng qui trình AWARE gồm 5 bước sau đây:
Bước 1: Chấp nhận (Accept)
Vui vẻ tiếp nhận cảm giác lo hãi (hay một kiểu stress nào đó) Hãy tự nói
với mình “Tôi sẽ chấp nhận và đương đầu với nó”. Cảm giác khiếp sợ khi
nghĩ đến lo hãi hoặc lo sợ rằng một nỗi ám ảnh nào đó sẽ xuất hiện lại, chỉ
làm tình hình xấu hơn. Cách tốt nhất là vui vẻ, chuẩn bị tâm thế tiếp nhận và
đương đầu.
Thay cho việc tìm cách xua đuổi khống chế, ta hãy để cảm giác lo lắng
đến một cách tự nhiên và quan tâm theo sát nó nhưng không làm cho cảm
giác lo âu này chi phối cái gì ta nghĩ, ta cảm và cái gì ta đang và sẽ hành
động.
Bước 2: Quan sát (Watch)
Theo dõi xem cảm giác lo sợ này đến và đi như thế nào. Cách tốt nhất
là tự tách mình ra khỏi trạng thái lo lắng với tư cách là “một người lính gác
độc lập” đơn thuần là chỉ chú tâm theo dõi xem cái gì đang xảy ra. Để ý xem,
làm thế nào mà mức độ lo hãi tăng lên hay giảm đi. Lúc này ta luôn nhớ rằng
ta không phải là bản thân sự lo lắng. Càng tách mình ra khỏi trạng thái xúc
cảm tâm lý đang trải nghiệm bao nhiêu, bạn càng dễ quan sát và dễ thoát
khỏi lo lắng.
Bước 3: Hành động (Act)
Hành động một cách tự nhiên, coi như sự lo hãi không có mặt. Hãy “giả
vờ” xem tình huống lo lắng đó là bình thường như mọi tình huống khác. Để
làm được điều này, hãy quán tưởng thả lỏng tất cả các cơ, làm cơ thể mềm
ra và mọi hoạt động được quán tưởng chậm lại (hơi thở chậm lại, nhịp tim
chậm lại, những hành vi khác cũng chậm lại) nhưng không dừng lại, không bỏ
chạy, không lảng tránh…
Bước 4: Nhắc lại (Repeat) bước 1, 2, 3
Chú tâm theo dõi mọi diễn biến của cảm giác lo hãi này cho đến tận khi
nó giảm xuống tới mức thoải mái và tiếp tục tự ám thị “hãy chấp nhận, quan
sát và hành động bất chấp mọi sự có mặt của nó”.
Bước 5: Mong muốn (Expect) một điều tốt đẹp nhất sẽ xảy ra
Hãy tự nói với mình rằng cái ta lo lắng hiếm khi xảy ra, rằng cảm giác
tiêu cực này sẽ qua mau thôi. Đừng chán nản khi lát sau cảm giác lo lắng lại
xuất hiện. Thay vào đó, cảm nhận, phát hiện nơi mình những năng lực giải
quyết đương đầu với stress. Hãy nhớ rằng chừng nào ta còn sống thì những
lo lắng– stress còn đến thăm ta. Chấp nhận sự thật này và đưa mình vào vị trí
tốt hơn, để sẵn sàng đương đầu với stress khi nó quay lại.
IX. LIỆU PHÁP TRÒ CHƠITừ ngàn xưa, vui chơi được xem là một phương thức hoạt động chủ
yếu của trẻ em đặc biệt ở lứa tuổi ấu thơ (mẫu giáo, nhi đồng). Thông qua trò
chơi trẻ mô phỏng thế giới, phát triển nhận thức và học cách ứng xử. Càng
ngày các chuyên gia tâm lý càng đi đến một nhận định khái quát rằng trò chơi
là điều kiện quan trọng nhất cho sự phát triển một nhân cách hài hoà ở trẻ, là
phương thức để phát triển trí tưởng tượng, tính tự lập, các thói quen đạo đức
và các kỹ năng ứng xử xã hội thích nghi với mọi người.
Trò chơi như là công cụ chẩn đoán và trị liệu
Liệu pháp trò chơi dựa trên nhu cầu tự nhiên của trẻ về trò chơi và coi
việc tổ chức trò chơi như là một quá trình “tự bộc lộ” để phát hiện, chẩn đoán
hay như là một quá trình học tự điều chỉnh – trị liệu.
Chức năng chẩn đoán của trò chơi thể hiện ở chỗ thông qua trò chơi,
trẻ tự bộc lộ những thiếu hụt, trọng đặc điểm tính cách và quan hệ của trẻ.
Cũng thông qua trò chơi, nỗi lo lắng buồn phiền “vô thức” của người bệnh
được làm sáng tỏ. Đó là một phương pháp thực nghiệm tự nhiên giúp phát
hiện một số triệu chứng, các xu hướng tiềm tàng, tâm thế bảo vệ, những mâu
thuẫn và các phương thức ứng xử không hợp lý. A. Freud và M. Klein là
những người đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích hình tượng trò chơi
mà sau đó họ gọi là liệu pháp trò chơi (Play therapy) từ những năm 20 – 30,
các tác giả này đã quan sát trẻ chơi để sau đó phân tích nhằm hiểu sâu hơn
những xung đột của trẻ. D. Levy (1939) đã sử dụng trò chơi như là những
điều kiện ban đầu để chẩn đoán lập kế hoạch huấn thị.
Chức năng điều trị của trò chơi thể hiện ở chỗ tạo cho người bệnh khả
năng tự biểu thị cảm xúc, giải toả những dồn nén vô thức. Trò chơi tự phát
được xem như là một thành phần chính thức của nhiều chương trình “trị liệu
trọn gói”. Chính trò chơi giúp xoá bỏ sự căng thẳng xuất hiện trong quá trình
trò chuyện, nó là một liệu pháp làm thư giãn, thanh lọc tâm trí, nâng cao hứng
thú của người bệnh với quá trình điều trị. Erikson (1964), một trong những đại
diện nổi tiếng của phân tâm học hiện đại, người có nhiều đóng góp trong việc
phát triển và ứng dụng liệu pháp trò chơi, cho rằng trò chơi tự phát là phương
thức giải quyết những khó khăn trong cuộc sống thông qua việc tạo ra mô
hình hoàn cảnh và tiếp thu kinh nghiệm từ hiện thực qua thử nghiệm các “kế
hoạch”, các giải pháp. Thông qua trò chơi chủ định – trò chơi có hướng dẫn
hay trò chơi phân vai, các xung đột tâm lý bên trong được giải toả, các quá
trình tâm lý được luyện tập và củng cố, nâng cao tính dung nạp stress. Liệu
pháp trò chơi tạo ra tâm trạng vui vẻ, nâng cao bản lĩnh tâm lý của trẻ. Vì vậy
nó được coi là phương tiện tự chữa trị tự nhiên, phù hợp với lứa tuổi trẻ em.
Để trò chơi được sử dụng như một phương tiện chẩn đoán. điều trị và
dạy học, bác sĩ tâm lý cần thực hiện một số các nguyên tắc sau đây:
1– Lựa chọn các chủ đề trò chơi phù hợp với mục đích trị liệu của bác
sĩ và hứng thú của người bệnh.
2– Việc hướng dẫn trò chơi cần phải tổ chức sao cho nó có thể thúc
đẩy tính chủ động, độc lập và sáng tạo của trẻ, sắp xếp trò chơi phù hợp với
từng cá nhân, hướng vào việc học các kỹ năng giải quyết vấn đề, khôi phục
lại các mối quan hệ đã mất.
3– Những trò chơi tự phát và có hướng dẫn (của bác sĩ tâm lý) là hai
giai đoạn bổ sung cho nhau của cùng một quá trình chơi thống nhất.
4– Tỷ lệ tương quan giữa thành phần tự phát và có hướng dẫn phụ
thuộc không chỉ vào lứa tuổi mà cả những đặc điểm lâm sàng và tính cách
của trẻ.
5– Trò chơi phải cuốn hút được xúc cảm, phải có tính ngẫu hứng, do
đó đòi hỏi tính linh hoạt và khả năng làm phong phú trò chơi (bao gồm cả việc
cùng chơi hết mình) của bác sĩ điều trị tâm lý.
6– Bác sĩ tâm lý không bình luận trò chơi (giúp trẻ tự tin và nâng cao
khả năng tự quyết định).
7– Tác động hướng dẫn người bệnh thực hiệu chủ yếu thông qua tích
cách của các nhân vật do người bệnh và bác sĩ tái tạo đối với từng hoàn cảnh
chơi đã được mô hình hoá trên cơ sở ý đồ, mục tiêu trị liệu.
Cách tổ chức trò chơi nhằm mục đích trị liệu
Trò chơi được xem như là dạng hoạt động mong muốn mà không bắt
buộc. Thoạt đầu trẻ được tạo điều kiện để tự chơi hoặc chơi cùng bác sĩ.
Trong phòng chơi chuyên biệt trẻ có thể cùng chơi với bố hoặc mẹ (đặc biệt
với trẻ lứa tuổi nhỏ, nhút nhát). Sau một thời gian trẻ có thể chơi một mình
hoặc có mặt bác sĩ nhưng “đang bận việc riêng”. Trong một số trường hợp trẻ
có khó khăn khi bắt đầu chơi thì bác sĩ có thể sử dụng tranh vẽ, kể chuyện
hoặc giới thiệu cho trẻ các đồ chơi và dần dần lôi cuốn trẻ vào trò chơi.
Không nhất thiết phải chơi liên tục, trò chơi có thể ngừng theo yêu cầu
của người bệnh, song họ phải giải thích tại sao. Thường thường ngừng chơi
gắn liền với mất hứng thu hoặc sợ một điều gì đó.
Khi đứa trẻ bắt đầu chơi một mình thì cảm giác thận trọng và lúng túng
sẽ qua đi, khi đã bị cuốn hút thì đứa trẻ bắt đầu mạnh dạn thể hiện cảm xúc
của mình, biểu thị và nói năng mạnh bạo hơn… Một số trẻ, đặc biệt trẻ ở tuổi
mẫu giáo trong những trò chơi tự phát thường có những nhận xét các nhân
vật.. Do vậy, sự quan sát kín đáo hành vi của trẻ và các lời nhận xét trong khi
chơi có thể cung cấp một lượng thông tin đáng kể về đặc điểm khí chất và
tính cách các mối quan hệ của trẻ (kể cả quan hệ gia đình). Chẳng hạn, trong
trò chơi: “mẹ – con” hay “cô giáo – học sinh”, những trẻ gái đóng làm mẹ hoặc
cô giáo có thể cưỡng ép búp bê ăn, ngủ hoặc quát mắng, trừng phạt và lên
mặt dạy đạo đức. Trong trường hợp này, nhà trị liệu dễ dàng biết được
những mâu thuẫn, những dồn nén trong cuộc sống của trẻ, kể cả những
mong muốn của chúng
Trong trò chơi có nguyên tắc thực tế, bình đẳng trong việc thực hiện
các vai chính, vai phụ của bác sĩ cũng như của bệnh nhân. Bác sĩ cùng tham
gia đóng vai do trẻ quy định nếu đóng vai phụ, bác sĩ hoàn toàn phục tùng vai
chính để vai chính thể hiện những hành vi hay nét tính cách không tốt như
hung dữ, dễ tự ái, sợ hãi, lẩn tránh… sau đó đổi vai. Thông qua các vai, trẻ có
được một cái gương soi giúp nó nhận thức được những nét tính cách chưa
tốt của mình và những phản ứng không thích đáng và nhờ đó giúp chúng tự
điều chính hoặc loại trừ nỗi sợ hãi.
Đối với chứng ám sợ, thường là sợ động vật, thực (sợ chuột, sợ sâu sợ
nhện)…, hoặc sợ những con vật trong truyện cổ tích (chó sói, hổ báo…),
phương pháp dùng trò chơi loại bỏ sợ hãi thường gồm 3 bước: làm sống lại
nỗi sợ hãi, phản ứng lai nỗi sợ đó và củng cố kết quả đạt được.
– Bước 1: Xác định tính chất sợ hãi và các phản ứng của người bệnh.
Thực chất đó là sự tái tạo tình huống gây sợ hãi.
– Bước 2: Tái tạo quá trình giải cảm ứng nỗi sợ hãi bằng cách đóng vai.
Thông qua hành vi của vai mình đóng (vai thỏ), bác sĩ biểu thị nỗi sợ hãi của
người bệnh, còn bệnh nhân thể hiện hình tượng gây sợ hãi (vai chó sói).
Trong trường hợp này trẻ thể hiện tính hung dữ, thường ở mức độ chúng cảm
thấy sợ hãi. Hiệu quả trị liệu phụ thuộc vào mức độ nhập vai sợ hãi, phản ứng
xúc cảm và giải cảm ứng trong ý thức người bệnh.
– Bước 3: Gợi ý cách giải quyết thông qua hành vi tương ứng của vai
do bác sĩ đóng. Sử dụng các mẫu hướng dẫn hành vi bằng cách đổi vai.
Chẳng hạn hình ảnh gây sợ hãi (chó sói) do bác sĩ đóng đã không còn làm trẻ
sợ nữa. Trong nhiều trường hợp trẻ sợ ma, sợ bóng đêm, sợ “ông ngáo ộp”,
sợ đến trường học là do bị hù doạ hoặc sợ cô đơn mà trẻ vốn trước đó đã là
người nhút nhát. Để giải toả nỗi sợ hãi bóng tối có thể cho trẻ chơi trò “ú tim”
hoặc “bịt mắt bắt dê” ở trong phòng tối của bác sĩ, đầu tiên có cả bố mẹ, cả
bác sĩ, sau chỉ còn có bác sĩ và trẻ. Những trẻ nhút nhát sợ bóng tối có thể
được điều trị giải toả bằng trò chơi “mèo đuổi chuột”. Bác sĩ và người bệnh
lần lượt đuổi nhau trốn vào phòng tối. Trong khi bị cuốn hút cảm xúc vào trò
chơi trẻ trở nên bạo dạn, dũng cảm không còn sợ hãi. Một số trẻ có những
cơn ác mộng vào ban đêm do sợ hãi một tác động tấn công bất ngờ cũng có
thể điều trị có hiệu quả bằng trò chơi “trốn tìm”. Đầu tiên cho trẻ trốn vào
phòng bác sĩ không có đèn, sau đó bố, mẹ hoặc người lớn khác lần lượt đeo
mặt nạ vào tìm trẻ rồi các vai được đổi, người lớn lần lượt trốn vào trong
phòng bác sĩ không có đèn, còn trẻ mang mặt nạ “đáng sợ” đi tìm họ trong
trường hợp này nhiều khi trẻ tỏ ra thích thú hơn là lúng túng sợ hãi.
X. LIỆU PHÁP HÌNH VẼ - TRANHHình vẽ – tranh là một phương thức thể hiện quen thuộc của trẻ. Nó
phản ánh nhu cầu nhận thức, giao tiếp ngoài ngôn ngữ là sự khúc xạ thực tại
xung quanh trong ý thức cua trẻ. Đối với trẻ lứa tuổi mẫu giáo, tranh vẽ phản
ánh thực tiễn mang tính hình tượng nhiều hơn là hiện thực vì trẻ mô tả đồ vật,
con người theo cách hiểu của chúng.
Các chuyên gia tâm thần học và tâm lý học lâm sàng cho rằng những
trẻ bị rối nhiễu tâm lý thường cảm nhận và hiểu nhiều hơn điều chúng có thể
biểu thị bằng lời. Nhiều khi những trẻ này cảm nhận được mối quan hệ mâu
thuẫn trong gia đình, sự thiếu ân cần chăm sóc của bố mẹ, nhưng chúng
không thể nói ra được những tình cảm và ý nghĩ này. Do vậy hình vẽ – tranh
của tre được xem là công cụ chẩn đoán và trị liệu.
Chức năng chẩn đoán và trị liệu:
Hình vẽ – tranh vẽ tự do hay có chủ đề của trẻ cho ta những hiển biết
bằng cách nào trẻ tri giác bản thân, cảm nhận các mối quan hệ của mình với
những người xung quanh (trong gia đình, trường học, ngoài xã hội…) và cách
chúng nhận thức về thế giới. Hình vẽ được xem là cầu nối giữa các “ý nghĩ”
hữu cơ và các xung đột nội tâm”. Nhiều nhà phân tâm cho rằng tranh vẽ của
trẻ phản ánh những thiếu hụt của trẻ trong các trong các quan hệ (né tránh
các quan hệ, tránh né phải nói, phải nhìn mặt một người lạ…), những hình vẽ
của trẻ trong buổi tiếp xúc thăm khám ban đầu có giá trị đặc biệt trong việc
chẩn đoán hoặc đánh giá rối nhiễu: Thường qua hình vẽ trẻ “tìm cách thông
báo sự khó ở” của bản thân, hoặc qua hình vẽ trẻ sẽ chỉ cho ta biết những
suy nghĩ, xúc cảm bị dồn nén và cách chúng thoát bỏ những day dứt. Như
vậy, hình vẽ là ngôn ngữ không lời làm cho cái vô hình trở nên “thấy được”,
nói lên được điều không nói ra, làm cho “cái vô thức” được bộc lộ.
Theo nghiên cứu của Zakharov (1982), khi phân tích trên 1000 bức
tranh do trẻ bị các chứng rối nhiễu tâm trí tự vẽ và vẽ theo yêu cầu của bác sĩ.
Ông phát hiện thấy các cháu trai thường vẽ ô tô, tàu thuỷ, các phương tiện
giao thông và sau đó là các cảnh chiến tranh, còn các cháu gái thường vẻ
thiên nhiên, nhà, người, động vật (những đề tài quen thuộc). Nhưng những
hình vẽ theo các chủ đề “đường phố”. “sân chơi”. “ lớp học của em”, vườn
trẻ”… trong đại đa số các trường hợp là những bức vẽ thể hiện một mình (tức
là trẻ chỉ biểu thị bản thân) hoặc vẽ tách mình ra. Điều này tiết lộ những thiếu
hụt trong quan hệ giao tiếp bao gồm cả việc không hội nhập vơi nhóm bạn bè.
Chẳng hạn trong các bức vẽ về đề tài “sân chơi” trẻ thường vẽ bản
thân cùng với một vài bạn, nhưng bản thân lại đứng ở vị trí ngoài rìa nhóm
đó. Còn trong các bức tranh vẽ đề tài “trường học của em” phần lớn trẻ bị rối
nhiễu thể hiện mình đơn độc, ít khi có thầy cô giáo bên cạnh. Bạn cùng lớp
chỉ xuất hiện trong 1/3 tổng số bức tranh. Tất cả những phân tích hình vẽ này
khẳng định rằng trẻ bị rơi nhiễu tâm trí có những vấn đề về giao tiếp cần phải
giải quyết.
Một số gợi ý khi giải mã các hình vẽ:
Các bác sỹ trị liệu tâm lý cho rằng, ở lứa tuổi nhỏ (mẫu giáo, nhi đồng)
trong nhiều trường hợp, tranh vẽ cho phép làm sáng tỏ các kết quả lâm sàng.
Một số các bác sỹ cho rằng những bức vẽ thể hiện sự vận động hỗn loạn,
thiếu sự hài hoá thường biểu thị tính kích thích cao ở những trẻ suy nhược
thần kinh.
Trẻ có tâm trạng lo âu, trầm cảm hay ám ảnh sợ hãi thường thể hiện sự
nghèo nàn màu sắc trong bức vẽ hoặc thiên dùng màu xám, giảm kích thước
hình người, biểu thị không đầy đủ hoặc không có hình người. Những trẻ bị
chững rối loạn phân ly (hysteria) thường có xu hướng phối hợp các màu
mạnh, dùng màu rực rỡ thể hiển hoa, công chúa hoặc vua.
Phân tích những bức tranh vẽ về đề tài gia đình cho thấy trẻ thường vẽ
một số người ở bên cạnh mình, một số tách ram, một số người có kích thước
lớn hơn hoặc bé hơn những người khác hoặc “quên” một ai đó. Thường thì
những điều này tiết lộ những tình càm nào đó liên quan đến vị trí từng thành
viên trong gia đình. Chẳng hạn, ai ở bên trẻ thường là những người gần gủi
với trẻ về cảm xúc trong khi những ai trẻ lạnh nhạt thì hình vẽ đứng cách xa.
Thường thường trẻ bị chứng hysteriac vẽ mình ở trung tâm bức tranh, giữa
bô và mẹ, và chúng vẽ mình cao to hơn bố (lđiều này có thể biểu thị tính tự
kỷ, tính kiêu kỳ – những kiểu cách đặc trưng của chứng bệnh này). Những
trường hợp trẻ “quên” vẽ một người nào đó trong gia đình thường đó là ngừời
ít có ý nghĩa nhất đối với trẻ hoặc em trai (gái) đã gây cho trẻ cảm giác ghen
tỵ.
Các bác sĩ tâm lý thường phát hiện trong các bài tập vẽ cho về nhà
những nhân vật hoặc sự kiện liên tưởng, tưởng tượng gây tác động mạnh và
điều này dường như liên quan đến những thay đổi hoặc sợ “không phải là
mình” do tác động của những biến đổi tâm lý của chủ thể. Vì vậy việc “ra các
bài tập vẽ theo chủ đề hoặc yêu cầu trẻ “biểu thị nỗi sợ hãi qua hình vẽ” có
tác dụng như một yếu tố giải cảm ứng, loại bỏ những căng thẳng dồn nén. Vì
quá trình thực hiện những yêu cầu này, trẻ phải thực hiện một số hành động.
Trẻ phải tự mình nghĩ cách bố cục bức tranh, khắc phục nỗi sợ hãi, kiềm chế
căng thẳng nội tâm, huy động sức tưởng tượng… chính sự không lảng tránh
mà chấp nhận đế vượt qua sự sợ hãi, đã phá vỡ “tính bất khả xâm phạm” của
nó bằng sự biểu thị trên bức vẽ. Như vậy sự giải toả những xung đột hay nỗi
sợ hãi ám ảnh diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tố, trong đó bao gồm cả
vai trò khích lệ cổ vũ (kích thích – củng cố) và ám thị gián tiếp của bác sỹ,
nhờ vậy sẽ cải thiện đáng kể trạng thái bệnh.
XI. LIỆU PHÁP TÂM KỊCHLiệu pháp tâm kịch hay kịch tâm lý (Psychodrallla) xuất hiện vào những
năm 40 của thế kỷ XX do Moreno (1889 – 1974) đề xướng. Thực ra người ta
đã biết đến cơ chế tác động của bi kịch cổ đại từ thời Aristot. Cơ sở tác động
điều trị của liệu pháp này là giải toả các xung đột dồn nén, làm sảng khoái tinh
thần, tạo tâm trạng thư thái vì nó tháo gỡ những vướng mắc về xúc cảm, tình
cảm, tư tưởng, nhận thức và cả cơ thể (do thói quen tập nhiễm…). Nguồn
gốc của giải toả, theo Moreno là “tính tự phát” được hiểu là khả năng thân chủ
phản ứng phù hợp với những tình huống, hoàn cảnh xuất hiện đột ngột.
Thường thường những người bị các chứng rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm
thần có những thiếu hụt nào đó về kỹ năng giao tiếp, ít có khả năng ứng phó
kịp thời phù hợp với hoàn cảnh. Hơn nữa, họ còn bị rối loạn cân bằng giữa
thế giới thực và thế giới tưởng tượng.
Trong kịch tâm lý, kết hợp giữa hiện thực và tưởng tượng, thân chủ
phải diễn xuất (đóng kịch), do vậy họ có thể biểu lộ hết tình cảm (những tâm
tư thầm kín ra với bất kỳ ai, họ phải biết kết hợp, cả lời nói và điệu bộ với
những vận động của cơ thể, họ phải xuất hiện trước người khác. Nhờ vậy họ
giải toả dưới những mặc cảm, những ấm ức dồn nén và có thể “bước ra khỏi”
cái tôi “khép kín” của họ để hòa nhập với người khác.
Theo các chuyên gia trị liệu bằng tâm kịch bao gồm những yếu tố chủ
yếu sau đây: lời nói, điệu bộ, cử chỉ và người cùng diễn. Lời nói không chỉ là
nội dung mà còn là cách phát âm (nói nhỏ hay la hét, giận dữ hay thổn
thức…): Cùng với lời nói là điệu bộ, cử chỉ, sự vận động của thân thể, kể cả
những biến động trong nội tạng (nhịp tim, nhịp thở, trưởng lực cơ…). Nhưng
quan trọng hơn cả là với các chủ thể – bạn cùng diễn, sao cho tất cả cùng
nhập cuộc, cả người diễn và người xem như cùng sống trong một bầu không
khí đồng cảm, cùng bộc lộ hết tâm tư của mình. Chính những buổi tâm kịch
có thể tạo ra những biến đổi tâm lý tác đông đến nhận thức và cách ứng xử
của từng cá nhân trong cả nhóm. Nhờ đó có thể xoá bỏ hay giảm nhẹ một
triệu chứng và dần dần có thể cải tạo tâm tư.
Cách thiết kế và tổ chức một buổi tâm kịch nhằm mục đích trị liệu
Để một buổi tâm kịch có hiệu quả điều trị một chứng bệnh tâm trí nào
đó, bác sỹ – nhà trị liệu tâm lý đóng vai trò chủ xướng, đạo diễn, gợi ý (nhưng
không áp đặt) nhằm hướng đến một mục tiêu trị liệu cụ thể nào đó (ví dụ làm
giảm tính nhút nhát, sợ giao tiếp với đám đông). Thông thường tâm kịch được
tiến hành theo 3 giai đoạn:
1. Khởi động tâm lý: Còn gọi là giai đoạn nhập cuộc (Warming up).
Bác sỹ hay nhà trị liệu đóng vai người hướng dẫn tạo bầu không khí nhập
cuộc như trao đổi tranh luận về chủ đề nội dung, phương pháp, hoặc cùng
nhau chơi chung một trò chơi
2. Hành động: Trong giai đoạn này, một ai đó trong nhóm đứng ra tự
biên tự diễn một cảnh kịch và trong khi diễn, bác sĩ có thể đề nghị một vài
người khác cùng tham gia vào các vai phụ hoặc đề nghị phát triển các tình
tiết, nhờ biết trước thân chủ (người bệnh) do khám hỏi mà các tình tiết được
phát triển có định hướng, phù hợp với người diễn.
3. Cùng trao đổi tranh luận: Sau khi kết thúc diễn xuất, cả nhóm cùng
trao đổi chia sẻ, sao cho mọi người cùng tham gia, cùng biểu lộ xúc cảm. Nếu
không có ai trong nhóm cảm thông chia sẻ với thân chủ (người diễn) thì xem
như buổi tâm kịch không thành công (vì thân chủ vẫn cô đơn, có nồi khổ tâm
mà không biết chia sẻ cùng ai).
Sử dụng thành công phương pháp tâm kịch nhằm mục đích điều chỉnh
người bệnh là không dễ dàng, vì không phải ai cũng có khả năng diễn kịch.
Do vậy tâm kịch nên được tiến hành theo những thủ thuật khác nhau:
– Độc thoại, diễn xuất một mình, có thể đứng trước gương để vừa biểu
diễn vừa tự kiểm tra.
– Tự mình đóng các vai khác nhau. Đóng xong vai này chuyển sang vai
khác.
– Đóng đảo vai, bố mẹ đóng vai con, con đóng vai bố mẹ hoặc trò đóng
vai thầy, thầy đóng vai trò.
– Dùng kịch câm (do người khác diễn) mô tả lại những cách ứng xử
của thân chủ sao cho gây được những phản ứng xúc cảm của thân chủ.
– Tạo ra những tình huống kịch tính đề nghị thân thủ ứng xử như là một
người trong cuộc.
– Có thể tổ chức thành những cuộc thi theo nhóm và xen kẽ với những
trò chơi.
Mục tiêu cuối cùng tủa tâm kịch là giải toả những vướng mắc tạo ra sự
thoải mái trong quan hệ với người khác, thoải mái với chính mình và tạo ra
những hình thức ứng xử mới.
XII. LIỆU PHÁP CỦNG CỐLiệu pháp củng cố có cái gì đó gần giống với sự khen thưởng, động
viên. Cha mẹ thường cho phép con mình đi chơi hoặc xem ti vi sau khi chúng
đã học xong bài hoặc làm xong những việc vặt trong nhà. Thầy giáo thường
động viên những học sinh chịu khó học bằng cách thửởng cho chúng điểm
tốt… Đây cũng chính là những hình thức đơn giản của liệu pháp củng cố. Tuy
nhiên, các nhà tâm lý trị liệu không dừng lại ở đó.
Thuật ngữ củng cố (Reinfocement) liên quan tới việc tăng cường một
hành vi để hành vi này sẽ xuất hiện lại trong tương lai. Nói rõ hơn, củng cố
xuất hiện bất kỳ khi nào những hậu quả của một hành vi làm tăng khả năng
xuất hiện lại của hành vi đó trong tương lai. Chẳng hạn một đứa trẻ đòi một
vật gì đó, người mẹ không cho, trẻ lăn ra khóc – hờn, lúc đó bà mẹ thoả mãn
trẻ. Việc bà mẹ thoả mãn là hậu quả đóng vai trò cái củng cố (Reinforcer), sẽ
duy trì hành vi hờn khóc của đứa trẻ. Lần sau trẻ biết muốn được thoả mãn
phải hờn khóc. Cái củng cố là bất kỳ cái gì (hành động hay đồ vật…) thân chủ
thong muốn, ưa thích. Tuy nhiên. cái củng cố (Reinforcer) khác với phần
thưởng (award). Phần thưởng nhận được sau khi hoàn thành một công việc
gì đó, nhưng không đòi hỏi thân chủ phải thực hiện lại hành vi đó.
Củng cố tích cực và tiêu cực:
Củng cố luôn luôn liên quan đến việc tăng tần suất xuất hiện của một
hành vi nào đó. Sự tăng tần suất xuất hiện của một hành vi nào đó có được
bằng 2 cách:
– Củng cố tích cực: Xảy ra khi một điều gì đó (thường là cái thân chủ
mong muốn) bổ sung vào làm tăng khả năng xuất hiện lại của hành vi.
– Củng cố tiêu cực: Xảy ra khi một cái gì đó (thường là cái thân chủ
mong muốn) được dỡ bỏ hoặc lảng tránh, nhờ đó làm tăng khả năng xuất
hiện lại của hành vi.
Tuy nhiên, củng cố tiêu cực hiếm khi được dùng như là một biện pháp
điều trị. Ngược lại, người ta hay dùng liệu pháp củng cố tích cực như là một
trong những liệu pháp chính làm giảm hành vi rối nhiễu.
Các bước tiến hành:
1. Nhận diện “cái củng cố”: Trước hết bác sỹ trị liệu phải nhận diện
những cái gì có thể trở thành cái có ý nghĩa đối với người bệnh, do vậy nó có
vai trò duy trì hành vi như là cái củng cố. Đó có thể là một thứ đồ vật hay một
loại hoạt động được thân chủ ưa thích hoặc là sự chú ý, lời khen từ người
khác hoặc là những thông tin phản hồi mà thân chủ mong chờ, hoặc phiếu
nhận thưởng… Để biết chính xác, cụ thể cái gì có ý nghĩa với thân chủ, người
ta có thể gợi ý các câu hỏi sau đây:
1– Những gì cái gì bạn hình dùng, thích mua và thích tiêu thụ?
2– Những món quà nào làm bạn thích thú?
3– Những hoạt động nào bạn mong muốn tham gia?
4– Những công việc gì bạn thích làm trong thời gian rỗi?
5– Những điều gì trong công việc làm bạn thích thú?
6– Những lời khen nào làm bạn hài lòng?
2. Sử dụng “cái củng cố” để duy trì và tăng cường một hành vi được
chọn là mục tiêu trị liệu.
Sau khi xác định rõ hành vi cần điều chỉnh (ví dụ tính nhút nhát, thiếu
chủ động và sợ tiếp xúc với đám đông…) và những gì có ý nghĩa như là cai
củng cố (kẹo, bút, hay là những phiếu thưởng bé ngoan…), bác sỹ (hay thầy
cô giáo, cha mẹ) tổ chức môi trường hoạt động để trẻ biểu lộ hành vi cần tăng
cường tính chủ động). Trẻ luôn nhận được những lời động viên khuyến khích
hoặc được thưởng một đồ vật hay một phiếu thưởng bé ngoan (tái củng cố
mỗi khi nó thực hiện hành vi này như biểu lộ tính chủ động, có hành vi dũng
cảm…
3. Tăng cường hành vi thích nghi để làm giảm một hành vi kém thích nghi
Động viên khuyến khích thực hiện một hành vi nào đó mà nhờ vậy làm
giảm hành vi khác (hành vi được chọn làm mục tiêu trị liệu). Chẳng hạn muốn
làm giảm hành vi gây gổ thì cần khuyến khích trẻ chơi hợp tác, chơi công
bằng. Một trẻ hay nói dự do nhiều lần trong lớp được yêu cầu giảm hành vi
kém thích nghi này xuống chỉ còn 2–3 lần trong một buổi (trẻ luôn nhận được
một phần thưởng nào đó hoặc được khen nếu trẻ làm được điều này).
XIII. LIỆU PHÁP THƯỞNG QUY ĐỔILiệu pháp thưởng quy đổi (Tokell economy) thực chất cũng là liệu pháp
củng cố, nhưng nó được thực hiện một cách có hệ thống, có nguyên tắc và
được thoả thuận trước với trẻ. Liệu pháp này cũng nhằm động viên khuyến
khích trẻ thực hiện những hành vi được mong muốn nào đó (do bác sỹ trị liệu
hay thầy giáo, cha mẹ đề ra). Trẻ sẽ nhận được đồ vật ưa thích, phiếu
thưởng hoặc điểm cho những hành vi mong muốn và sẽ bị mất điểm khi thực
hiện những hành vi không mong muốn. Kết thúc một giai đoạn (chẳng hạn
sau một tuần). Những điểm hoặc phiếu thưởng do trẻ nỗ lực kiếm được sẽ
được chuyển đổi thành những thứ thân chủ ưa thích (chuyển thành phần
thưởng vật chất, tinh thần, được phép tham gia vào các hoạt động ưa thích).
Các bước cơ bản:
– Lập danh sách những hành vi mà trẻ được khuyến khích thực hiện.
Sau đó quy định mức thưởng cụ thể cho từng loại với bệnh nhân tâm thần
nặng những hành vi được khuyến khích, có thể là sự tự phục vụ: Tự mặc
quần áo, tự vệ sinh thân thể… còn với những trẻ bị rối nhiễu nhẹ, hành vi
được khuyến khích có thể là những bài tập luyện nào đó.
– Lập danh sách và quy định mức thưởng, điểm thưởng để khuyến
khích trẻ.
– Quy định những điều kiện cụ thể để trẻ biết và bằng cách nào đạt
được những điểm thưởng, phiếu thưởng và khi nào những phiếu thưởng hay
điểm thưởng này được quy đổi ra đồ vật hoặc được phép tham gia các hoạt
động được trẻ ưa thích.
Liệu pháp này nên được bổ sung vào bằng những cam kết mà nội dung
của các cam kết này là những hành vi ta mong muốn ở trẻ (xem ví dụ minh
hoạ: ca kém học. ứng xử bất thường, trang 114).
XIV. LIỆU PHÁP NHÓMLiệu pháp tâm lý có thể thực hiện ở cấp độ cá nhân, hay nhóm và gia
đình. Liệu pháp tâm lý nhóm thích hợp cho những người có những rối nhiễu
tâm lý hay rối loạn tâm thần do những thiếu hụt trong các quan hệ nhóm như
không biết cách tiếp xúc với bạn bè, sợ tiếp xúc đám đông, không hoà mình
được với bạn bè, hay ghen tỵ, hờn dỗi, nhút nhát…
Mục đích của liệu pháp tâm lý nhóm là phục hồi, điều chỉnh những
thuộc tính tâm lý nào đó của nhân cách người bệnh thông qua việc thiết láp
lại các mối quan hệ liên cá nhân. Chỉ có thể đạt được mục đích này trong điều
kiện giải quyết tốt những nhiệm vụ chẩn đoán nhân cách, điều trị và giáo dục
trong nhóm.
Chẩn đoán về mặt nhân cách được thực hiện trong quá trình quan sát
quan hệ qua lại của người bệnh thông qua các hoạt động (trong những hoàn
cảnh khác nhau) của nhóm. Nhiệm vụ của liệu pháp tâm lý nhóm là tạo điều
kiện để loại bỏ hoặc làm thuyên giảm sự căng thẳng cảm xúc, hướng dẫn các
mẫu ứng xử phù hợp: huấn luyện các kỹ năng xử lý các mâu thuẫn nhằm
điều chỉnh những nét tính cách chưa phù hợp. Nhóm vừa là mô hình của các
mối quan hệ trong cuộc sống, đồng thời cho phép các thành viên trong nhóm
tái tạo phù hợp các vấn đề vướng mắc và mâu thuẫn của mình qua đó phát
hiện cách giải quyết tối ưu.
Cách tiến hành:
Liệu pháp tâm lý nhóm là một quá trình gồm 4 giai đoạn liên kết chặt
chẽ với nhau: tập hợp trẻ thành nhóm, kể chuyện, trò chơi và thảo luận.
– Tập hợp trẻ thành nhóm, bắt đầu bằng các hoạt động cùng nhau
(chung sở thích) dưới dạng cùng xem phim, cùng tham quan, cùng vẽ nặn…
tạo nhiều cơ hội để các thành viên trong nhóm trò chuyện. Thông qua trò
chuyện dần dần xuất hiện bầu không khí tin tưởng, thẳng thắn, chân thành,
trẻ bắt đầu có điều kiện để chia xẻ những nguyện vọng và lo lắng của mình.
Hiệu quả điều trị là thông qua sự giãi bày tâm sự, trẻ cởi bỏ được mặc cảm,
căng thẳng, xung đột dồn nén.
– Tổ chức trẻ vào một nhóm và tiến hành trò chơi để điều chỉnh.
Thường thường trẻ có rối nhiễu tâm trí là những đứa khó tiếp xúc, rụt
rè, nhút nhát, thụ động, khó nhập vai và ít có khả năng tự quyết định một vấn
đề nào đó. Do vậy, thoạt đầu nên sử dụng những trò chơi đơn giản để “khởi
động”, trong đó chủ yếu là những trò chơi vận động, truyền đạt cảm xúc như
“mèo đuổi chuột”, “bịt mắt bắt dê”, “rồng rắn”, “tranh ghế”…
Điều quan trọng là trò chơi phải làm sống động cảm xúc của trẻ, cuốn
hút chúng vui chơi hết mình. Sau đó sử dụng các trò chơi phân vai, có hướng
dẫn mang tính phức tạp hơn (nhằm thực hiện các mục tiêu trị liệu).
– Giai đoạn tiếp theo là kể chuyện, những chuyện kể được chuẩn bị
trước và từng người lần lượt kể. Các câu chuyện có thể nói về bất kỳ điều
kiện nào. Cũng có thể thu hẹp thành chuyện kể có chủ đề. Trong nhiều
trường hợp câu chuyện trẻ kể phản ánh nỗi sợ bị tấn công, sợ bị cô đơn, sợ
bị đánh đập (theo đề tài của bác sỹ: “Cháu sợ cái gì nhất?”). Trong một số
trường hợp khác, câu chuyện của trẻ phản ánh những vấn đề quan tâm lo
lắng của trẻ (theo các đề tài: “Cái gì làm cháu lo lắng, cái gì làm cháu khó
chịu, ở đâu người ta mắng mỏ cháu..?”).
– Giai đoạn cuối cùng là thảo luận nhóm: Mục đích của nó là củng cố
kết quả điều trị, mở rộng tầm nhìn và phát triển tự ý thức của trẻ. Đề tài để
thảo luận có thể rất đa dạng. Thường thường bác sĩ trị liệu tâm lý hay sử
dụng những tình huống nảy sinh trước đó (trong lúc cùng chơi: kể truyện…)
làm đề tài thảo luận cho cả nhóm.
XV. LIỆU PHÁP TÂM LÝ GIA ĐÌNHTrước đây tâm lý học lâm sàng trẻ em thường tập trung điều trị những
rối nhiễu tâm lý ở chính đứa trẻ mà ít để ý đến môi trường gia đình. Có
chăng, chỉ là làm tư vấn cho bố mẹ đỡ lo lắng, giúp con kiên trì điều trị.
Ngày nay, đa số các nhà trị liệu tâm lý không còn xem trẻ em như là cá
thể riêng biệt, mà cho rằng những triệu chứng rối nhiễu tâm lý ở trẻ là biểu
hiện của những rối nhiễu quan hệ nào đó hay rối nhiễu của toàn bộ gia đình.
Bởi vì đứa trẻ ấy không phải là một cá thể đơn độc mà nó là một thành viên
của gia đình. Nó có quan hệ thân thích với bố mẹ, ông bà, anh chị em… Do
vậy muốn chữa trị tận gốc các chứng rối nhiễu tâm trí của trẻ, ta cần phải
“chăm chữa” cả bố mẹ và toàn thể gia đình.
Trị liệu gia đình hay liệu pháp gia đình (family therapy) thực chất là một
kiểu đặc biệt của liệu pháp nhóm. Trị liệu gia đình đòi hỏi không chỉ bản thân
trẻ (bị rối nhiễu) được trị liệu, mà các thành viên khác của gia đình, đặc biệt là
bố mẹ cũng phải được trị liệu. Nhà trị liệu cần phải tập trung vào những mối
quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân bị rối nhiễu để tìm cách điều chỉnh, cải
thiện để thay đổi tình trạng của toàn bộ gia đình.
Điều chỉnh các mối quan hệ không thuận lợi trong gia đình thường bao
gồm những phần việc sau đây:
Giúp bố mẹ ý thức được những nguyên nhân, trạng thái rối nhiễu tâm
trí của con trẻ, cải thiện các trạng thái tâm lý tiêu cực của họ và xây dựng lại
các mối quan hệ đồng cảm, yêu thương trong gia đình. Điều này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, giúp loại trừ nguồn gốc thường xuyên gây chấn thương
tâm lý cho trẻ (do những xung đột tâm lý trong gia đình và phương pháp giáo
dục sai lạc).
Các giai đoạn cơ bản của liệu pháp tâm lý gia đình:
Liệu pháp tâm lý gia đình bao gồm các giai đoạn sau đây:
1– Tìm hiểu gia đình: Nhằm phát hiện các yếu tố duy trì trạng thái rối
nhiễu tâm lý của đứa trẻ do các quan hệ giao tiếp không thuận lợi trong gia
đình gây ra. Các bác sĩ trị liệu tâm lý nghiên cứu các mối quan hệ trong gia
đình có trẻ bị rối nhiễu tâm trí có chung nhận xét rằng ở những gia đình này
thường có những đặc điểm sau:
– Bố mẹ không hiểu những đặc điểm phát triển nhân cách của trẻ,
thường kìm hãm các nhu cầu của chúng như nhu cầu được an toàn, được
thừa nhận, được yêu thương, nhu cầu được tự biểu thị cũng như nhu cầu
được trở thành chính mình…
– Mặc cảm ở trẻ: trẻ cảm thấy bị đối xử không công bằng hoặc cảm
nhận bị mọi người trong gia đình, đặc biệt bố mẹ ruồng bỏ, hắt hủi.
– Bố mẹ không tiếp nhận tính cá nhân của trẻ, không tin vào kinh
nghiệm của trẻ, xúc phạm lòng tự trọng của con.
– Những yêu cầu và mong muốn của bố mẹ không tương xứng với nhu
cầu và khả năng của con.
– Thái độ quá nghiêm khắc hay quá nuông chiều con (sự bảo hộ quá
đáng), sự đối xử không nhất quán với trẻ hay sự không thống nhất trong công
tác giáo dục trẻ.
– Tính xúc cảm cao, thái độ lo lắng thái quá hoặc “quyến luyến” thái
quá (tạo ra sự phụ thuộc tình cảm của trẻ đối với bố luyến” thái quá (tạo ra sự
phụ thuộc tình cảm của trẻ đối với bố mẹ).
Các yếu tố bệnh tật, xung đột gia đình, ly dị… cũng gây những chấn
thương tâm lý cho trẻ. Do vậy tìm hiểu, phân tích các sự kiện những quan hệ
mâu thuẫn trong gia đình, hiểu biết quan điểm của từng thành viên về mâu
thuẫn đó là điều rất cần thiết. Nhiều khi bố mẹ đưa trẻ đến thăm khám tâm lý,
nhưng chính họ cũng đang có những vấn đề về tâm lý.
Thường thương cha mẹ hoặc quá lo lắng về trạng thái tâm trí của con
hoặc họ đưa con đến thăm khám tâm lý chỉ do yêu cầu của chuyên môn y tế.
Họ thực sự không hiểu những nguyên nhân thực chất dẫn đến tình trạng rối
nhiễu tâm trí của con. Vì vậy bác sĩ tâm lý cần làm cho họ hiểu được mọi biểu
hiện bệnh lý ở đứa trẻ đều trực tiếp hay gián tiếp bắt nguồn từ những tình
trạng nhất định của gia đình. Hiệu quả của trị liệu phụ thuộc đáng kể vào sự
hợp tác chặt chẽ của bố mẹ với bác sĩ trị liệu. Việc họ tự nguyện thay đổi một
số thái độ, cách ứng xử, nếp sinh hoạt là những nhân tố quan trọng giúp quá
trình trị liệu đạt hiệu quả.
2– Thảo luận với bố mẹ hoặc các thành viên khác trong gia đình về kết quả thăm khám
– Thảo luận về kết quả thăm khám nên được tiến hành trước hoặc
đồng thời với liệu pháp cá nhân cho trẻ. Bác sĩ tâm lý nên kiên nhẫn lắng
nghe bố mẹ của trẻ trình bày quan điểm của họ về nguyên nhân xuất hiện rối
nhiễu. Thường thường bố mẹ trẻ có rối nhiễu, có xu hướng nhìn nhận con
mình một cách tiêu cực. Họ hay tìm thấy nhược điểm của con, hay phàn nàn
về trẻ, gán thêm cho con những vấn đề của chính họ. Nhiệm vụ của bác sĩ
tâm lý là lắng nghe để hiểu các nguyên nhân, những điều kiện đang duy trì rối
nhiễu tâm lý ở trẻ mà không bị lôi cuốn vào các mâu thuẫn gia đình, không
phê phán trẻ, cũng không phê phán bố mẹ. Sau đó bác sĩ tâm lý cần chỉ ra
những mối liên hệ cụ thể giữa tình trạng rối nhiễu của trẻ với những mâu
thuẫn hiện có trong gia đình, bao gồm cả những hoàn cảnh gây chấn thương
tâm lý và tính cách của bố mẹ. Sau cuộc thảo luận, bác sĩ tâm lý nên gợi ý,
hướng dẫn bố mẹ phải làm gì để xoá bỏ những mâu thuẫn đã kéo dài giữa họ
với con cái, và bằng cách nào để xây dựng lại các mối quan hệ.
3– Tiến hành đồng thời các liệu pháp tâm lý với trẻ và bố mẹ:
Bác sĩ tâm lý nên đưa ra thột phác đồ điều trị cho trẻ gồm một nhóm
các liệu pháp tâm lý thích hợp. Đồng thời giúp bố mẹ tìm kiếm cách giải quyết
hợp lý những mâu thuẫn trong gia đình. Tốt nhất là giúp từng thành viên trong
gia đình hình dung mình ở vị trí người khác, để thay đổi nhận thức, thái độ,
thay đổi cách ứng xử (sử dụng tâm kịch trò chơi phân vai…). chấp hành trách
nhiệm “hoà hoãn không xung đột” và tham gia bình đẳng tích cực vào quá
trình điều trị cho trẻ. Bác sĩ tâm lý có thể gặp riêng từng thành viên trong gia
đình để giúp họ hiểu những vấn đề của họ trong nhận thức hành vi ứng xử
đóng vai trò nguyên nhân hay cái củng cố đang duy trì trạng thái rối nhiễu tâm
lý ở đứa trẻ. Việc tháo gỡ, dỡ bỏ những vấn đề này chính là loại bỏ những
điều kiện đang duy trì hành vi rối nhiễu ở trẻ.
PHẦN VII. ỨNG DỤNG TRONG LÂM SÀNG CÁC CA TÂM BỆNH TRẺ EM VÀ NGƯỜI LỚN
Xã hội công nghiệp hoá thường tạo ra nhiều căng thẳng tâm lý, đó là
những stress ảnh hưởng đến đời sống (stress tích cực (eutress) có lợi cho
con người, còn stress tiêu cực (distress) thì có hại) và sức khoẻ tinh thần của
mỗi cá nhân. Tỷ lệ từ 15–20% dân số thế giới hiện mắc bệnh tâm trí ở những
dạng mức khác nhau, và nguy hiểm hơn, xã hội càng phát triển thi tỷ lệ này
càng tăng lên. Theo những công trình nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần - tâm
bệnh lý thì những stress tiêu cực có nguồn gốc từ các nguyên nhân xã hội,
sinh lý và tâm lý là những tác nhân chủ yếu làm nảy sinh và duy trì các dạng
mức khác nhau của bệnh tâm trí.
Tuy nhiên nếu hiểu stress như là trạng thái căng thẳng của cơ thể phản
ứng lại với những kích thích bên trong hoặc bên ngoài cơ thể thì cuộc sống
của mỗi cá nhân không thể không đối mặt với stress. Khi không thể loại bỏ
được stress khỏi đời sống thì mỗi người cần phải học cách kiểm soát ứng
phó với stress.
Nhưng làm thế nào để đối phó thành công với stress?
Cách tốt nhất để ứng phó thành công với stress là hãy chấp nhận
stress như là sự thách thức, qua đó thử trải nghiệm rèn luyện bản lĩnh của cá
nhân. Việc chấp nhận stress một cách đầy đủ sẽ giúp ta có khả năng điều hoà
cảm xúc. Vì bực bội hay khiếp sợ mỗi khi nghĩ đến stress chỉ làm tăng khả
năng rối loạn thần kinh chức năng, còn tự nói với mình tôi sẽ chấp nhận và
đương đầu, là ta bắt đầu quá trình nhận thức lại bản chất tình huống hay sự
kiện gây stress. Nhìn nhận sự trải nghiệm stress chỉ là sự phản ứng của cơ
thể, thực sự không có hại, thực sự không nguy hiểm, sẽ giúp ta đủ bình tĩnh
tìm cách ứng phó hợp lý.
Tuy nhiên về lâu dài cần phải tìm cách loại bỏ các tác nhân gây stress.
Các tình huống, các sự kiện trong cuộc sống có xu hướng tích tụ stress ở mỗi
cá nhân và có xu hướng thực thể hoá thành một chứng bệnh. Điểm khởi đầu
của một chứng bệnh thường xảy ra khi thân chủ đã chịu đựng những hậu quả
tiêu cực của các tác nhân gây stress trường diễn và khi có một tác nhân này
stress khác bổ sung hay cộng hưởng giống như “một giọt nước làm tràn đầy
cốc nước”. Cơ thể phát bệnh giống như một nồi nước sôi, còn các tác nhân
gây stress là những thanh củi đun ở đáy nồi, muốn nước không tiếp tục sôi
phải bớt củi đáy nồi.
Trên thực tế, nhiều ngươi bị stress hành hạ chỉ vì họ không có các kỹ
năng đối phó với stress. Sự thất bại của nhiều người trong việc kiểm soát
stress còn có một nguyên nhân chính khác là họ không sử dụng cách tiếp cận
tổng hợp, tức là không biết cách phối hợp nhiều liệu pháp để đối phó với một
chứng bệnh nào đó, họ không có đủ niềm tin vào các liệu pháp này, chẳng
hạn cho rằng chúng “quá đơn giản” hay “quá rắc rối”. Cũng có thể vì họ không
đủ kiên trì thực hành hàng ngày những liệu pháp này trong một thời gian đủ
dài hoặc chỉ chú ý đến động tác mà ít để ý đến nguyên lý.
Như vậy, để có thể ứng phó có hiệu quả với các rối nhiễu tâm trí, mỗi
người cần có một chiến lược tiếp cận, kiềm chế stress bằng cách quyết tâm
điều chỉnh lối sống toàn diện của cá nhân (để loại bỏ các nguyên nhân gây
stress) và vận dụng các liệu pháp can thiệp ở nhiều tầng – thể chất, tâm lý và
xã hội (để hoá giải các rối nhiễu). Dưới đây, chúng tôi xin lần lượt giới thiệu
những ca điều trị lâm sàng sử dụng phối hợp các liệu pháp tâm lý cơ bản để
điều trị các chứng rối nhiễu tâm trí như chán ăn tâm thần, rối nhiều dạng đau
có thể, rối nhiễu ứng xử, lo hãi, ám sợ, ám ảnh, trầm nhược… đây là những
ca lâm sàng do chúng tôi hướng dẫn, phối hợp hoặc trực tiếp trị liệu thành
công tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Nhi Thụy Điển, tại trường THCS Chương
Dương, và tại Trung tâm Khám chữa bệnh số 9 Ngọc Khánh, Hà Nội.
1. Rối nhiễu dạng đau cơ thể và ứng xử bất thườngLý do thăm khám và chân dung tâm lý
Trẻ gái N.D.L, 8 tuổi, học lớp 2 Trường tiểu học GV - Hà Nội vào viện
Xanh–pôn ngày 7–2- 2000, với lý do đau đầu, đau bụng, cắn móng tay, luôn
cáu gắt và có ý tưởng tự sát.
DL là con thứ đầu trong gia đình có 2 chị em, em gái 1 tuổi. Bố 36 tuổi,
là kỹ sư cầu đường, tốt nghiệp đại học Đường sắt Matxcơva, mẹ 34 tuổi đi
lao động nước ngoài về. Sau khi cưới, mẹ ở nhà làm nội trợ và chăm sóc con
cái, kinh tế gia đình khá giả.
Buổi đầu tiên tiếp xúc, trẻ là một cô bé thông minh nhanh nhẹn, hoạt
bát, cởi mở, dễ tiếp xúc và có phần mạnh dạn. Mẹ đưa con đến bệnh viện với
tâm trạng lo lắng, mẹ cho biết: trẻ thường xuyên cáu gắt với mẹ và lúc nào
cũng đưa tay lên miệng cắn mòn hết móng tay, trong thời gian đến lớp học trẻ
thường kêu đau bụng, thỉnh thoảng buổi tối ngồi học bài trẻ cũng đau, kèm
theo buồn nôn, có khi còn đau đầu. Theo mẹ, trẻ có triệu chứng này từ khi 5
tuổi. Gia đình rất lo lắng, đã đưa trẻ đi khám nhiều lần ở các bệnh viện Nhi
Thụy Điện, Xanh–pôn… nhưng các bác sĩ không tìm thấy nguyên nhân thực
thể của bệnh, Một năm nay tình trạng của trẻ trầm trọng hơn. Trẻ đau thường
xuyên hơn trước, những cơn đau bụng kéo dài và dữ dội hơn trước, tính tình
trẻ thay đổi, hay cáu gắt với mẹ. Mẹ kể có lần trẻ quát cả mẹ chỉ vì mẹ ngủ
quên không gọi trẻ dậy sớm tập thể dục buổi sáng, có lần mẹ quát trẻ, trẻ
quát lại, mẹ tát cho một cái, trẻ nổi khùng định đánh trả lại mẹ. Sau đó, trẻ có
vẻ bực tức nói: “ Chết quách đi cho xong”, “Có lẽ con chết đi thì mẹ thích
lắm”…
DL là đứa trẻ được sinh ra theo mong muốn của bố mẹ, nhưng khi
mang thai trẻ, mẹ rất yếu, thai được 4 tháng mẹ bị ốm phải uống thuốc cảm.
Khi sinh trẻ, các bác sỹ phải can thiệp bằng foocxep. Lúc sơ sinh trẻ nàng 3,1
kg, phát triển tâm vận động bình thường, 4 tháng biết lẫy, trốn bò, 8,5 tháng
biết đi chập chững. Sau đó, trẻ bị ốm, 11 tháng tuổi trẻ bị tim bẩm sinh và phải
mổ tim. Từ đó trẻ không đi được nữa: 14 tháng tuổi mới biết đi trở lại và đồng
thời biết nói. Trẻ đi nhà trẻ lúc được 3 tuổi, đi mẫu giáo lúc 4 tuổi và 6 tuổi thì
vào lớp 1. Trẻ hoà nhập với trường lớp tốt. Tuy nhiên, từ khi vào lớp 1 trẻ
“hay hờn dỗi và làm nũng mẹ hơn trước”. Mẹ rất chiều chuộng trẻ, luôn đáp
ứng đây đủ những nhu cầu của trẻ., quan tâm chăm sóc trẻ chu đáo. Nhưng
cách đây hơn 1 năm mẹ sinh thêm em bé thì sự quan tâm chăm sóc trẻ giảm
so với trước.
Khi trẻ 5 tuổi, bố mẹ cho trẻ ngủ riêng. Từ đó thỉnh thoảng về đêm trẻ
hãy mơ và khóc. Mấy tháng sau xuất hiện hiến tượng cắn móng tay và đau
bụng. Vào thời gian này, trẻ có một người bác rể ở ngay cạnh nhà bị chết. Khi
còn sống, bác rất quí trẻ, trẻ thường gọi bác là bố. Sự kiện này trẻ rất nhớ và
tự kể với nhà trị liệu.
Một năm trước đây mẹ sinh em gái. Trẻ rất yêu em nhưng cũng hay
ganh tỵ với em. Trẻ “không muốn” có đứa em này tồn tại trong gia đình trẻ,
nhưng trẻ lại biết “dấu” tình cảm ghen tỵ đó. Khi thấy mẹ chăm sóc, quan tâm
đến em hơn trẻ thường hậm hực với em và cả với mẹ. Nhưng khi mẹ giải
thích, trẻ tỏ ra như mình không hề ghen ty với em. Mỗi khi mẹ quát em, trẻ có
vẻ rất sung sướng”, nhưng lại tỏ ra quan tâm đến em (theo lời mẹ kể).
Cũng thời gian này, có gia đình một người bạn của bố mẹ đến ở cùng
nhà (vì nhà họ đang xây mới). Gia đình này có 2 vợ chồng và một bé trai 6
tuổi cùng ăn, cùng ở, sinh hoạt chung với gia đình trẻ. DL rất quí hai bác, gọi
hai bác là bố và mẹ, nhưng với cậu con trai của họ, DL rất ghét. DL thường
ghen tỵ với đứa bé này mọi nơi, mọi lúc, không muốn nó có gì hơn mình,
thường quát đánh nếu đứa trẻ này vô tình đụng vào đồ chơi của mình. Mặc
dù vậy, cậu bé kia lại rất quí DL, thích được chơi với chị. Hiện nay gia đình đó
đã chuyển đi.
Về học tập, trẻ là một đứa trẻ thông minh, từ lớp 1 đến lớp 2 đều là học
sinh giỏi. Hiện nay, hầu hết thời gian của trẻ ở trường học. Trẻ có lịch học kín
tuần, một ngày 2 buổi, một buổi học chính khoá, một buổi học thêm. Trẻ chỉ
được nghỉ học thứ 7 và chủ nhật. Nhưng sau mỗi buổi học trẻ có rất nhiều bài
tập về nhà. Buổi tối, trẻ phải làm xong bài tập mới được đi ngủ, vì trẻ sợ “nếu
không làm xong bài tập đến lớp sẽ bị cô giáo phạt”. Thứ bảy, chủ nhật trẻ
thường phải làm nhiều bài tập hơn ngày thường. Trẻ nói, “Cháu rất sợ môn
Tiếng Anh, ở lớp cháu không hiểu gì cả, nên về nhà cháu rất ngại làm bài
tập”.
Ở lớp trẻ chơi thân với một bạn trai, nhưng hay bị bạn này đánh, nhiều
hôm làm trẻ đau phải khóc và về nhà mách mẹ. Các bạn gái thường trêu
chọc, làm trẻ rất buồn.
Về nhà mẹ thường kèm cặp thôi thúc trẻ học, vì theo mẹ nói: trẻ không
tự giác, rất lười học và thích đi chơi. Mẹ là người phụ nữ xinh đẹp, hiền lành,
biết giáo dục con bằng lời nói, khi con sai thường giải thích cho con hiểu,
nhưng cũng hay tâm sự với con mọi chuyện trong gia đình. Từ trước khi chưa
có em, mẹ rất chiều chuộng trẻ, không dám quát mắng trẻ, sợ trẻ khóc vì
thương “từ bé trẻ rất yếu, thường ốm đau…”. Nhưng từ khi có em, mẹ không
chiều chuộng trẻ như trước nữa, nhiều khi cũng quát mắng trẻ (theo lời mẹ
kể).
Mẹ là con thứ 7 trong gia đình có 8 người con ở Hà Nội, ông ngoại là
người gia trưởng, độc đoán giông như bố. Còn bà ngoại hiền thục, chịu
thương, chịu khó. Theo mẹ, mối quan hệ của vợ chồng chị bây giờ như là bản
sao của ông bà ngoại ngày xưa. Sau khi học hết phổ thông trung học, mẹ thi
vào trường Sư phạm Mẫu giáo và trong thời gian này có yêu một người.
Nhưng khi học được một kỳ gia đình xin cho mẹ đi lao động nước ngoài. Do
khủng hoảng tinh thần khi mối tình đầu tan vỡ, mẹ đã quyết định ra đi để rũ
bỏ tất cả những buồn đau. Sang Nga, mẹ làm công nhân, sau hai tháng yêu
một người cùng cơ quan. Nhưng cũng sau 2 tháng, nhận thấy không hề yêu
người đó, mà chỉ do buồn quá nên yêu để khoả lấp chỗ trống”, thực tế vẫn
không sao quên được người yêu cũ, mẹ quyết định chia tay. Mấy tháng sau,
mẹ gặp bố, bố là bạn của một người em họ mẹ. Lần đầu tiên gặp bố, mẹ đã bị
cuốn hút bởi “tài nói chuyện và sự thông minh năng động khác người” của bố.
Theo mẹ: “Bố hơn hẳn những người con trai đã đến với mẹ trước đó”. Những
năm xa nhà, ở nước bạn, bố mẹ có một tình yêu rất đẹp, dù xa nhau đến
1000 km,nhưng bố thường đến thăm mẹ và liên tục viết thư với tình cảm rất
nồng nàn.
Năm 1990, mẹ về nước, sau đó một năm bố học xong về nước. Bố mẹ
cưới nhau và ở riêng một căn hộ tại trung tâm thành phố Hà Nội. Sau khi
cưới, bố yêu cầu mẹ ở nhà làm nội trợ, với lý do: bố không muốn mẹ phải đi
làm vất vả, một mình bố kiếm tiền là đủ. Theo mẹ, bố là thần tượng của mẹ.
Mẹ yêu bố phần nhiều do kính phục, nên đồng ý ở nhà làm nội trợ, chăm sóc
gia đình cho bố yên tâm đi làm. Nhưng sau này, mẹ nhận thấy chồng mình là
một người đàn ông rất độc đoán, gia trưởng, luôn muốn người khác phải
nghe theo ý mình, mẹ rất buồn.
Bố là người Hưng Yên sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con nên
bây giờ bố vẫn có mặc cảm gốc dân quê. Bố là người thành đạt nhất trong gia
đình, luôn luôn tự hào về mình, luôn tự cho mình là giỏi nhất, bố thường cho
rằng: “cái gì mình đã làm đều đúng, điều gì mình nói đều có lý, mọi người
phải phục tùng”. Bố tự cho mình là “tổng thống” trong nhà, bố nói như thế
nào, mọi người phải nghe như thế, phải làm như thế.
Mẹ là một phụ nữ vừa hấp dẫn, vừa thông minh, khôn khéo, trước kia
và bây giờ, mỗi khi đi ra ngoài có rất nhiều người đàn ông để ý nên bố rất hay
ghen và luôn “sợ vợ mình hơn mình ở một điểm nào đó”, luôn “sợ mát vợ”. Bố
chỉ muốn mẹ ở nhà, không muốn mẹ đi làm, mẹ đi đâu cũng phải xin phép,
phải nói rõ đi đâu, trong bao lâu. Theo mẹ, vì công việc bố đi suốt ngày,
thường đến khuya mới trở về nhà, mẹ không biết bố đi những đâu, làm
những gì nhưng mẹ luôn tin tưởng vào tình yêu của bố dành cho mẹ.
Ở nhà, mẹ luôn thấy tù túng, rất muốn được đi làm, và đã hơn một lần
mẹ yêu cầu bố cho mẹ đi làm, bố không đồng ý, mẹ kiên trì thuyết phục và
cuối cùng bố phải đồng ý một cách miễn cưỡng. Tuy nhiên, trong thời gian
ngắn mẹ đi làm, hầu như ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, nhiều lần bố đã
đánh mẹ, quan hệ vợ chồng rất căng thẳng, những cuộc cãi nhau của bố mẹ,
DL thường được chứng kiến, những lúc đó trẻ thường khóc. Cách đây một
năm mẹ có ý định ly dị nhưng bố không đồng ý.
Cuộc sống gia đình luôn trong trạng thái căng thẳng. Bố là người luôn
quan tâm đến mọi việc xảy ra trong nhà, nhưng là để kiểm tra, xét nét, canh
chừng vợ, còn về mặt tình cảm lại tỏ ra thờ ơ với con cái. Thời gian ở nhà rất
ít và hầu như không quan tâm đến con. Có lần DL đau bụng, nôn ra máu,
người mẹ rất lo lắng, gọi bố đưa con đi bệnh viện nhưng người bố vẫn thản
nhiên như không có chuyện gì xảy ra, vẫn không rời khỏi phòng làm việc.
Người mẹ buộc phải nhờ hàng xóm đưa con đi bệnh viện. Bố DL thường nói:
“Để cho nó phát triển bình thường như nó vẫn có, không nên can thiệp và
“bây giờ còn trẻ, khoẻ, phải làm giàu để về già có cái mà hưởng thụ không
cán nhờ đứa nào”. Tuy vậy, bố lại là người cầu toàn luôn muốn con mình phải
giỏi như mình.
Tóm lại, bằng việc tiếp xúc quan sát, hỏi chuyện trẻ và gia đình, chúng
tôi đã nhận thấy các biểu hiện rối nhiễu của trẻ bắt nguồn từ rối nhiều các mối
quan hệ xung quanh trẻ.
Đánh giá bằng trắc nghiệm
Để phục vụ cho việc chẩn đoán và trị liệu, chúng tôi sử dụng một số
trắc nghiệm sau:
– Trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn Raven: chúng tôi đã sử dụng trắc
nghiệm này để đo trí lực cho trẻ và kết quả đạt được như sau:
Percentile = 95 => IQ = 125
– Vẽ tranh tự do và vẽ tranh theo chủ đề:
Vẽ tranh tự do, trẻ đã vẽ một bức tranh có một ngôi nhà, có cây, mây,
mặt trời… bức tranh có bố cục rõ ràng, trẻ ưa dùng màu xám.
Vẽ tranh theo chủ đề, trẻ vẽ về giấc mơ của mình và về gia đình. Trẻ vẽ
rất cẩn thận, tỉ mỉ và vẽ rất lâu. Kích thước của nhân vật trong tranh và xu
hướng dùng màu của trẻ dường như đã bộc lộ một số vấn đề vướng mắc
trong trẻ. Bức tranh vẽ người, theo khoá chấm điểm của Goodenough, trẻ đạt
số điểm là 22, tương đương với chỉ số thông minh vào loại khá giỏi.
– Bậc thang đánh giá lo âu (SAS) – Zung:
Nhận thấy có vấn đề gì đó gây lo âu, sợ hãi cho trẻ, chúng tôi quyết
định sử dụng bậc thang đánh giá lo âu của Zung để đo mức độ rối nhiễu lo âu
ở trẻ. Qua bảng câu hỏi này, chúng tôi nhận thấy ở trẻ có một số biểu hiện
như hoảng sợ, khó chịu, “cảm giác tê cóng và có cảm giác như có kiến bò ở
các đầu ngón tay và chân”… với tổng số điểm là 42 – mức độ lo âu nặng.
Điều đó cho phép ta có cơ sở để tìm hiểu về nguyên nhân của triệu chứng trẻ
cắn móng tay.
– Bảng hỏi Vera (dành cho học sinh 8 – 17 tuổi):
Để tìm hiểu những vấn đề đang tồn tại như là nguyên nhân của rối
nhiễu, chúng tôi đã sử dụng bảng hỏi này. Trong 81 câu hỏi trẻ trả lời: chúng
tôi nhận thấy đáng lưu ý là vấn đề trường học, vấn đề gia đình và vấn đề cá
nhân. Trẻ đánh dấu mức độ “thường xuyên” ở những câu như:
+ Tôi sợ bạn học chế giễu tôi.
+ Tôi sợ thầy cô giáo to tiếng.
+ Tôi sợ không biết thầy cô nhận xét về mình như thế nào.
+ Tôi sợ không biết cái gì có thể đến với cha mẹ tôi.
+ Tôi sợ bố.
+ Tôi sợ mẹ.
+ Tôi có nhiều nỗi buồn
………
Tổng số điểm là: 49 điểm
– Trắc nghiệm EPI và trắc nghiệm “Các câu chuyện bịa đặt”: Để đánh
giá nhân cách và tìm hiểu những vấn đề rối nhiễu của trẻ, ngoài những trắc
nghiệm trên, chúng tôi đã sử dụng trắc nghiệm EPI của Eysenck và trắc
nghiệm “Các câu chuyện bịa đặt” của Louisa Duss.
Trắc nghiệm EPI của Eysenck gồm 57 câu hỏi, để đánh giá loại khí
chất, kiểu thần kinh của đứa trẻ. Trắc nghiệm này cho biết trẻ thuộc loại nhân
cách nào. Đối với DL trắc nghiệm này cho kết quả như sau:
+ Kiểu thần kinh: 16 điểm => không ổn định.
+ Loại khí chất.: 14 điểm => hướng ngoại.
+ Mức kiểm tra: 5 điểm.
Như vậy qua trắc nghiệm này cho ta thấy trẻ có xu hướng nhân cách
hướng ngoại nóng nảy.
Trắc nghiệm “Các câu chuyện bịa đặt” của Duss gồm 10 câu chuyện
đang còn dang dở. Đứa trẻ phải bằng trí tưởng tượng của mình để kết thúc
những câu chuyện đó. Trắc nghiệm này, nhằm tìm hiểu sự độc lập của trẻ đối
với cha mẹ, sự ghen ty của trẻ, nội dung sự lo âu của trẻ, cảm giác bị ức chế,
những nguyện vọng và sợ hãi của trẻ… Qua trắc nghiệm này, ở DL nổi bật
lên một số vấn đề như:
* Câu chuyện sợ hãi: “Có một đứa trẻ nói âm thầm một mình “Ôi? Tôi
sợ quá!”. Vậy nó sợ cái gì?
Trẻ trả lời: “Nó sợ bóng tối”.
* Câu chuyện đám ma: “Có một đám ma đang đi trên đường làng và
nhiều người hỏi “Ai chết đấy?” Người ta trả lời “Đấy là một người trong gia
đình kia”. Vậy ai đó?
Trẻ trả lời: “Là ông ngoại của gia đình ấy”.
* Câu chuyện tin mới: “Một đứa trẻ đi học về (hoặc đi chơi về) mẹ nó
bảo: “Con ngoan học, mẹ có một tin mới muốn nói với con”. Mẹ nó sẽ nói với
nó cái gì?”.
Trẻ trả lời: “ Mẹ nó nói với nó là mẹ nó sẽ đi làm”.
* Câu chuyện chiêm bao, mộng mị: một đứa trẻ sáng sớm thức dậy mệt
mỏi, nó nói: “Ồ, đêm qua tôi chiêm bao thấy điều rất xấu”. Vậy nó thấy cái
gì?”.
Trẻ trả lời: “Nó thấy ma”.
Từ một số thông tin thu được qua một số trắc nghiệm trên cho phép
phác hoạ sơ bộ những vấn đề cơ bản của trẻ, như vấn đề gia đình (sợ bố,
hẫng hụt tình cảm với mẹ, ghen tỵ với em…), vấn đề trường học (sợ môn
học, trẻ mệt mỏi với lượng kiến thức phải tiếp thu mỗi ngày, sợ bạn bè đánh,
sợ bạn chế giễu…), vấn đề cá nhân (sợ bóng tối, sợ ma…).
Chẩn đoán – phân tích
Trường hợp của bé gái DL là một ca phức tạp với sự xuất hiện và tồn
tại của nhiều triệu chứng bệnh như cắn móng tay, cáu gắt, đau đầu, đau
bụng, buồn nôn. Qua quan sát hỏi chuyện và làm một số trắc nghiệm, chúng
tôi đã phát hiện ra được những yếu tố quá khứ đóng vai trò phát sinh rối
nhiễu và những yếu tố hiện tại đang duy trì trạng thái rối nhiễu.
Những yếu tố quá khứ là một số sự kiện quan trọng xảy ra trong tuổi
thơ của trẻ. Đó là lúc trẻ 5 tuổi bố mẹ cho trẻ ngủ riêng. Cùng thời gian này,
người bác họ mà trẻ rất quí và thường gọi là bố, ở ngay cạnh nhà trẻ đã bị
chết. Sự kiện này có thể đã gây cho trẻ một chấn thương tâm lý đáng kể. Có
lẽ chính vì hai sự kiện đó nên trẻ đã xuất hiện một sự lo âu, sợ hãi bằng
chứng là trẻ thường mơ thấy ma và sợ bóng tối. Có thể nói, đó là những nhân
tố quá khứ làm phát sinh ở trẻ một số hành vi rối nhiễu.
Tiếp sau đó, khi trẻ 7 tuổi, mẹ sinh thêm em bé và sự có mặt của một
gia đình lạ với một đứa trẻ lạ trong nhà trẻ. Điều này kích thích một sự “cạnh
tranh” tình yêu thương sự chăm sóc của mẹ đối với trẻ. Trẻ có cảm giác mất
an toàn, nảy sinh sự ghen ty đối với em bé và sự thù ghét đối với trẻ trai ở
cùng nhà. Trong một thời gian dài 7 năm, trẻ là đứa con độc nhất, nó được bố
mẹ chiều chuộng, là trọng tâm của sự chú ý, chăm sóc của gia đình, nên trẻ
có xu hướng phụ thuộc, ích kỷ, thường không muốn chia sẻ và hợp tác với trẻ
khác. Khi có em, trẻ bị đẩy vào một vị trí bị “thách thức”, trẻ cảm thấy ấm ức,
“bất công”, cảm thấy như bị “tước mất” vị trí ưu ái trong gia đình, như bị đẩy
sang một bên. Do đó, nó thể hiện sự ghen ty với em. Trong vô thức trẻ “không
muốn đứa em đó tồn tại”, vì em là đối tượng cạnh tranh tình yêu thương, sự
quan tâm, chăm sóc của bố mẹ.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học gia đình, sự ra đời của đứa
em có thể xuất hiện ở đứa con đầu một sự khủng hoảng về tâm lý. Trong thời
kì khoảng 3 và 7 tuổi, những phản ứng thể hiện sự ghen tỵ đối với em xảy ra
quyết liệt nhất và có thể nảy sinh mặc cảm “giết em”. Nhưng nhiều khi là sự
ghen ty ở dạng ẩn tàng, đứa trẻ phản ứng một cách tượng trưng bằng những
sự thoái lùi về mặt xúc cảm như mút tay, đái dầm tái diễn, khóc nhè, biếng
ăn… Nó được nguỵ trang bằng những tình cảm thực vì thông thường người
lớn hay nói trẻ “ghen với em là xâu”. Lúc này trẻ phải trải nghiệm trong sự
giằng xé bởi những tình cảm mâu thuẫn với nhau, giữa tình yêu thương, thù
ghét và tội lỗi, có thể làm nảy sinh một nỗi sợ hãi. Vì trước đó nó vui mừng
được có em, nhưng khi nó nhận thấy “trung tâm chú ý” của gia đình đã di
chuyển sang em bé và nó không còn “qui tụ được tất cả sự chăm sóc của mẹ”
thì nảy sinh sự “thù ghét”. Những đòi hỏi thông thường của cha mẹ “con là
chị, phải nhường em” chỉ càng làm cho trẻ co lại và cắm chốt một thái độ thù
địch với đứa em. Thái độ này có thể “lan ra” phản ứng tiêu cực với tất cả
những người xung quanh, nhất là khi bố mẹ lại “trút những lời phê phán
không đúng lúc” lên đầu trẻ trong khi trẻ đã bị ngỡ ngàng vì tình cảm “hai
chiều” mà nó không sao thích ứng được. Trường hợp của DL cũng không
ngoại lệ. Trẻ cũng đã trải qua những lúc có tình cảm hai chiều, phải chịu đựng
những lời răn dạy, phê phán của bố mẹ “ghen ty với em là xấu” nên nó đã
ngụy trang bằng hành vi rối nhiễu, đó là cắn móng tay, cáu gắt. Đối với DL
triệu chứng này đã tồn tại trước đó, sự xuất hiện đứa em càng thúc đẩy hành
vi rối nhiễu tiếp tục tái diễn thường xuyên hơn. Tất cả những điều đó giải
thích vì sao từ khi có em. DL thường trái tính, trái nết, hay cáu gắt, cãi mẹ,
không chịu nghe lời mẹ. Khi mẹ bảo phải làm cái này thì DL lại làm cái nọ,
phải gọn gàng, DL lại làm bề bộn.
Ở trường hợp này ta cũng thấy trẻ đã biểu lộ tình cảm “thù địch” đối với
em bằng việc phóng chiếu vào một đứa trẻ khác gần gũi với nó đó là đứa trẻ
trai con của gia đình người bạn đến ở cùng với gia đình trẻ trong suốt một
năm.
Ngoài những sự kiện gây khủng hoảng cho trẻ trong quá khứ như trên,
không thể không quan tâm đến mối quan hệ của bố và mẹ trong thời gian đó.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết ba năm trước người mẹ bị đau dạ dày, mà
theo người mẹ khẳng định, nguyên nhân là do vợ chồng mâu thuẫn và
nguyên nhân của những bất hoà giữa vợ chồng là người vợ đi làm trong khi
người chồng không muốn. Khi đó đứa trẻ 5 tuổi thường xuyên phải chứng
kiến cảnh bố mẹ cãi nhau. Chính sự mất thăng bằng của gia đình như thế này
đã tác động vào đứa trẻ và tạo ra ở nó sự không ổn định về tinh thần.
Những đứa trẻ (nạn nhân của những mối bất hoà sâu sắc giữa bố và
mẹ) thường có những “ăng ten”, cho phép nó cảm nhận đôi khi rất sớm,
những xung đột tình cảm giữa bố mẹ, và điều này thường gây cho nó sự lo
hãi liên miên. Vì với trẻ, mỗi vết rạn nứt giữa bố mẹ đều báo hiệu sự tan vỡ,
mỗi kẽ nứt có nguy cơ trở thành vực thẳm, mối bất hoà theo nó tiên đoán và
nó tin rằng sẽ dẫn đến sự tiêu tan tổ ấm, mà tổ ấm lại là điều kiện tiên quyết
của sự an toàn đối với nó.
Người mẹ luôn ấm ức đối với chồng sau mỗi lần mâu thuẫn, vì người
mẹ cảm thấy như mình bị giam hãm trong bốn bức tường. muốn đi ra ngoài
muốn được giao tiếp rộng rãi nhưng vấp phải sự phản đối, sự “cấm đoán” của
người chồng. Rồi sự đổ vỡ hình mẫu lý tưởng về người chồng mà mình từng
khâm phục, mặc cảm “chọn nhầm chồng” đã làm cho người mẹ trút giận lên
đứa con. Người mẹ thường kể với con về thói xấu, những việc làm sai của
người chồng, mà không nhận thức được hậu quả sẽ đến với đứa con như thế
nào. Người mẹ luôn mong muốn một cách có ý thức rằng “DL sau này sẽ
không lấy phải một người như bố nó”. Lúc này hình ảnh lý tưởng về người
cha, người mẹ mà nó muốn bắt chước bị tan vỡ. Trước đó với nó, bố mẹ là
hoàn hảo. Mọi điều cha mẹ nói đều đúng, mọi việc cha mẹ làm đều tốt, nó tìm
thấy ở bố mẹ những điều kiện cần thiết cho sự đồng nhất hoá cuối cùng của
nó. Nhưng trước tình cảnh người cha cư xử với người mẹ như một người
giúp việc trong nhà, hạ thấp hình tượng người mẹ “xinh đẹp, khôn khéo”
trước mắt nó, người mẹ cũng hạ thấp hình tượng người cha “tài giỏi” mà nó
từng kính phục, trẻ không biết tin ai, không biết ai sai, ai đúng, ai xấu, ai tốt.
Sự đổ vỡ này có nguy cơ tiêu diệt ở nó cả niềm tin về khả năng có một hình
mẫu lý tưởng bằng một sự lên án quá sớm các thần tượng. Điều này giúp ta
hiểu được, vì sao DL thản nhiên nói: “Con không muốn tài giỏi như bố, không
muốn xinh đẹp như mẹ”. Và những nhân vật trong phim mà trẻ quý mến,
muốn mình giống như nhân vật đó, chỉ một thời gian ngắn sau đó trẻ lại băn
khoăn và chuyển sang nhân vật khác.
Theo quan điểm của các nhà phân tâm học thì ở lứa tuổi này, trẻ đang
ở giai đoạn đồng nhất hoá (identication): Nó đã vượt qua giai đoạn mặc cảm
(oedipe) và chuyển sang giai đoạn đồng nhất hóa. Ở giai đoạn này, đứa trẻ
trai chối bỏ ý định coi mẹ là đối tượng tính dục, bố là đối tượng thù địch mà
quay lại đồng nhất với bố, điều này giúp cho nó khẳng định phần nam tính
trong tính cách của nó. Đứa trẻ gái cũng không coi bố là đối tượng tính dục,
mẹ là thù địch mà quay lại đồng nhất hóa với mẹ, để khẳng định phần nữ tính
trong tính cách của mình. Chúng tôi cũng thấy ở DL cũng có biểu hiện của sự
đồng nhất hoá với mẹ (tranh vẽ gia đình – trẻ vẽ mình giống như mẹ). Tuy
nhiên, ở trẻ có sự mâu thuẫn giữa mong muốn giống mẹ và không muốn
giống mẹ, bởi hình mẫu lý tưởng về người mẹ trong trẻ đã ít nhiều bị “sụp đổ”.
Ở đây ta còn thấy trẻ phải đối mặt với một người mẹ cầu toàn, chu đáo
quá mức, bảo vệ con quá mức. Người mẹ mong muốn con hoàn hảo về mọi
mặt, luôn yêu cầu con không được sai phạm, ừng xử như người lớn, không
được làm gì mà mẹ chưa chuẩn y. Người mẹ này đòi hỏi cao ở con, nhưng lại
không ý thức được tính chất bất thường trong tình yêu thương của mình. Lúc
nào người mẹ cũng đòi hỏi con phải có “trật tự tuyệt đối”, điều đó rất khó với
đứa trẻ. Sự đòi hỏi quá chặt chẽ, phải luôn đúng giờ, làm cho trẻ bị tước đi
những sự khám quá lý thú và bất ngờ. Luyện tập thói quen trật tự, vệ sinh
đúng giờ giấc, là việc cần làm nhưng phải từ từ, không áp đặt, nếu không sẽ
cho kết quả ngược mong đợi. Có lẽ, chính sự gò bó trong mong muốn của
người mẹ làm cho trẻ có cảm giác khó chịu, muốn thoát ra khỏi sự kiểm soát
của mẹ nên trẻ thường làm trái với yêu cầu, mong muốn của mẹ, thường “nổi
cáu” khi bị mẹ phê phán…
Nhân cách của người mẹ, cách cư xử với con của người mẹ ảnh
hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Nhưng sự phát triển của đời
sống tâm lý của đứa trẻ không chỉ phụ thuộc vào người mẹ mà còn phụ thuộc
vào nhân cách, cách cư xử của người cha đối với trẻ, cũng như đối với các
thành viên khác trong gia đình.
Bên cạnh một người mẹ “lạm dụng”. DL còn có một người cha uy
quyền đến mức độ độc đoán chuyên chế. Người cha nắm “quyền hành, công
lý” trong gia đình, luôn cho ý kiến của mình là “đúng”. là “tuyệt đối”. Vì người
cha là người có trình độ cao, một người hiểu biết, những quyết định mà ông
ta đưa ra không chỉ con mà cả vợ cũng phải nghe và phải thực hiện. Mặc dù
người cha sử dụng uy quyền một cách thái quá như vậy, nhưng thực ra ở một
khía cạnh nào đó, đứa trẻ lại là nạn nhân của sự thiếu hụt uy quyền của
người cha. Đó là sự vắng mặt giả của người cha. Người cha thường bận quá
nhiều công việc, khi về nhà mệt nhoài nên hay cáu kỉnh, thúc bách con để
khỏi bị quấy nhiễu. Ông thường xuyên vắng mặt ở nhà, lấy cớ mình vắng mặt
vì làm thêm việc để tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho gia đình, bảo đảm
cho tương lai của con cái. Người cha bác bỏ tất cả những gì có thể “quấy
nhiễu” đến những thói quen và gây trở ngại cho công việc của mình. Khi ở
nhà, người cha sa đà vào những việc mình thích mà không hề quan tâm đến
những người thân và vấn đề của họ. Chính vì vậy đã làm cho trẻ rất sợ cha.
Từ đó đứa trẻ không thân thiện, gần gũi với cha và chỉ cần đến cha khi có nhu
cầu về vật chất. Người cha của DL sẵn sàng đáp ứng cho con những nhu cầu
về vật chất. Nhưng cũng như người mẹ, người cha có tính cầu toàn, đòi hỏi
con phải phát triển theo sự mong muốn của mình. Người cha luôn muốn con
mình cái gì cũng phải hơn so với những đứa trẻ khác. Ông có một niềm tin
tuyệt đối vào sự phát triển “tự nhiên” của đứa con gái mình, nên đã bỏ mặc
con với những triệu chứng bệnh của nó, mà chỉ quan tâm đến việc nó phải
học giỏi.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, giữa cha mẹ và con
cái,giữa cha và mẹ, cách giáo dục con cái của họ… là những nguyên nhân
làm phát sinh ở trẻ những rối nhiễu mà cũng là những yếu tố hiện tại đang
duy trì trạng thái rối nhiễu. Ngoài ra, còn một số nhân tố không kém phần
quan trọng, những nhân tố này đã và đang tồn tại, đang tác động vào đứa trẻ,
góp phần làm cho rối nhiễu của trẻ ngày càng nặng thêm. Đó là những tác
động từ vấn đề học hành của trẻ, từ nhà trường, nơi mà phần lớn thời gian
trong một ngày trẻ có mặt ở đó. DL vốn là một học sinh giỏi, nhưng trẻ gặp rất
nhiều trở ngại trong vấn đề học tập. Trẻ phải đối phó với biết bao nhiêu vấn
đề mà như các nhà nghiên cứu thường nói: đứa trẻ luôn bị xâu xé giữa một
bên là những điều hấp dẫn của xã hội, một bên là những kỷ cương chặt chẽ
của nhà trường và khối lượng kiến thức ngày càng nặng trẻ cần phải tiêu hoá.
Đối với đứa trẻ 8 tuổi như DL, với lượng kiên thức mà mỗi ngày phải tiếp thu
như hiện nay là quá nhiều. Trẻ phải học sớm, học chiều, học tối, học chính
khoá rồi lại học thêm, học ở trường rồi lại học ở nhà. Học thêm tất cả các môn
mà không học không được vì đó là xu hướng chung của thời buổi bây giờ
như người ta vẫn nói, vì mong muốn của bố mẹ. Kỳ vọng của cha mẹ đặt vào
đứa con quá lớn và ngay chính bản thân đứa trẻ cũng “ngấm” những tư
tưởng này, “muốn mình giỏi hơn bạn khác”, để đáp ứng sự mong muốn của
bố mẹ, để được thưởng. Nhưng đứa trẻ chỉ chịu đựng được đến một ngưỡng
nhất định. Khi không thể chịu đựng được nữa, trẻ có những phản ứng “chối
bỏ”, “chống đối”, mà trẻ thường thể hiện sự chống đối của mình bằng “ngôn
ngữ của cơ thể”.
Ở trường hợp DL, trẻ bị một sức ép tâm lý quá lớn từ phía bố mẹ với
sự ham muốn của họ. Không chỉ có thế, trẻ còn thường xuyên bị bạn bè chế
giễu, bắt nạt. Tất cả những điều này có thể là lý do mà mỗi buổi sáng, trước
khi đến trường trẻ thường đau bụng, buồn nôn.
Tóm lại, những vấn đề cá nhân, vấn đề gia đình, nhà trường luôn tác
động không ngừng tới đứa trẻ với tính chất tiêu cực hiện đang là điều kiện
duy trì những rối nhiễu vốn được phát sinh từ những stress trong quá khứ.
Việc phân tích tìm hiểu một cách cụ thể rõ ràng từng vấn đề cho phép ta xác
định được mô hình trị liệu cụ thể cho trường hợp này.
Trị liệu
Khi xây dựng quy trình trị liệu tâm lý, bao giờ người trị liệu cũng cần
phải xác định được bản chất rối nhiễu và mục tiêu của trị liệu. Bản chất của
những rối nhiễu ở DL là rối nhiều các quan hệ và kém thích nghi: biểu hiện ra
bên ngoài là những hành vi cắn móng tay, hay cáu gắ, đau bụng trước khi
đến trường, sợ bóng tối, sợ ma. Vì cùng một lúc trẻ có nhiều hành vi rối
nhiễu, cùng một lúc trị liệu tâm lý không thể tác động làm mất đi tất cả những
hành vi kém thích nghi, do vậy chúng tôi chỉ tập trung vào một hoặc hai vấn
đề của người bệnh. Sẽ ít phức tạp hơn, nếu nhà trị liệu trước hết chỉ tập trung
vào giải quyết một vấn đề và người bệnh thực hiện ít nhiệm vụ cũng thấy dễ
hơn. Hơn nữa, nếu trị liệu thành công, một hành vi kém thích nghi được loại
bỏ, thì người bệnh sẽ tin tưởng mà theo đuổi chương trình trị liệu… Mặt khác,
các rối nhiễu thường liên quan với nhau, nên tập trung làm giảm một số rồi
nhiễu có thể dẫn đến giảm các rối nhiễu khác.
Như vậy, với mục tiêu cao nhất của trị liệu này là giúp trẻ trở lại bình
thường, không còn lo lắng, sợ hãi và những hành vi kém thích nghi được thay
thế bằng những hành vi thích nghi. Ở đây, chúng tôi đã xác định mục tiêu
trước mắt của trị liệu là giúp trẻ không còn cắn móng tay, không còn khó chịu,
bức xúc.
Trong trường hợp này, chúng tôi đã sử dụng trị liệu cá nhân, kết hợp
với trị liệu gia đình và trị liệu nhóm.
1. Trị liệu cá nhân:
Đối với DL, khi tiến hành trị liệu cá nhân, chúng tôi sử dụng những liệu
pháp cơ bản của trị liệu hành vi như liệu pháp trị liệu nhận thực: liệu pháp thư
giãn: giải mẫn cảm bằng tưởng tượng và một số liệu pháp khác như liệu pháp
thưởng quy đổi, trò chơi, tranh vẽ…
– Liệu pháp điều chính nhận thức – hành vi bằng trò chơi:
Liệu pháp này do Albert Ellis và Aron Beck thiết lập, trên cơ sở khẳng
định rằng hầu hết những rối nhiễu xúc cảm là do những suy nghĩ không hợp
lý, những niềm tin sai lệch hoặc những mong muốn thái quá không phù hợp
gây ra. Theo họ, cách ứng phó tốt nhất với rối nhiên là điều chỉnh những nhận
thức không phù hợp, thay thế chúng bằng những ý nghĩ, niềm tin, mong muốn
hợp lý hơn.
Đối với DL, do nhận thức sai lầm một số vấn đề như trẻ cho rằng: “Bố
mẹ không còn yêu thương mình nữa mà chỉ yêu thương em”, trẻ nói “chèn ép
cháu”, mẹ “hay quát mắng cháu”, “vì em mà cháu bị đánh”… Để đạt được
lòng tin, chúng tôi tìm mọi cơ hội tiếp xúc, chúng tôi cùng với trẻ chơi, kể
chuyện, tìm cách trò chuyện “loanh quanh” với trẻ mà không phán xét, không
đưa ra lời khuyên. Khi tạo được mối quan hệ cởi mở, thân mật với trẻ, chúng
tôi thử trao đổi, gợi ý để trẻ có dịp nhận dạng, xem xét lại những ý nghĩ sai
lầm đó. Chẳng hạn câu chuyện về một gia đình có 4 người (được tượng
trưng bằng búp bê vải), bố mẹ và hai con gái. Búp bê chị lớn hơn đã học lớp
hai, còn búp bê em đang còn bé. Búp bê bố đi làm, búp bê mẹ ở nhà trông
con và nấu cơm. Một hôm, búp bê mẹ cho búp bê chị đi chợ, ở ngoài chợ búp
bê chị luôn đòi mẹ mua đồ chơi. Trời nắng, lại phải nhanh về nhà để đón em,
búp bê mẹ bực quá quát mắng búp bê chị, búp bê chị khóc và cho rằng mẹ
“ghét mình”. Khi về nhà, búp bê mẹ lại ôm ấp, dỗ dành búp bê em bé mà
không để ý gì đến búp bê chị. Búp bê chị vào trong góc nhà ngồi khóc. Thoạt
đầu đề nghị trẻ đóng vai búp bê chị. Trẻ bộc lộ hết những mong muốn, những
ý nghĩ cũng như tính cách của mình. Sau đó đề nghị trẻ đóng vai búp bê mẹ
(búp bê mẹ có mái tóc ngang vai, buộc nơ, mặc váy hồng, trông rất đẹp). Khi
trẻ đóng vai búp bê mẹ ở chợ, trẻ đã giải thích cho búp bê con (nhà trị liệu
đóng) rằng: “Mẹ không có nhiều tiền mà những đồ chơi này đắt lắm. Nếu mẹ
mua đồ chơi cho con thì hết tiền mua thức ăn, cả nhà mình phải nhịn đó, thôi
để lúc nào mẹ có nhiều tiền, mẹ sẽ mua cho con. Khi ở nhà, mẹ bế em, búp
bê chị khóc (y tá đóng), trẻ (vai búp bê mẹ) đã dỗ dành rằng: “Con là chị phải
ngoan, em bé còn nhỏ chưa đi được thì mẹ phải bế chứ”.
Mục đích của những trò chơi tập đóng vai người mẹ, chị em là đặt trẻ
vào vị trí của người mẹ, người chị và em bé để nhìn nhận lại vấn đề. Qua trò
chuyện, trao đổi dần dần trẻ nhận thức được một điều rằng: “Bố mẹ vẫn còn
yêu thương trẻ, không bỏ rơi, không ghét bỏ trẻ mà chỉ muốn trẻ tốt, ngoan
hơn”. Và trẻ đã nói: “Cháu rất thích được làm chị của em bé, em bé rất đáng
yêu, cháu sẽ dạy cho em tập đi và tập nói”.
Qua các buổi trị liệu bằng trò chơi, chúng tôi thấy trẻ đã nhận thức lại
được vấn đề, trẻ cũng bộc lộ không muốn mẹ quát mắng, mà muốn mẹ dịu
dàng hơn, bằng lời nói nhẹ nhàng khuyên bảo con. Vấn đề còn lại phụ thuộc
vào người mẹ, điều này sẽ được trình bày ở phần trị liệu gia đình.
– Liệu pháp thư giãn:
Thư giãn có nhiều kỹ thuật khác nhau. Nhưng ở đây, chúng tôi sử dụng
kỹ thuật thư giãn tĩnh dựa vào tưởng tượng. Mục tiêu của thư giãn này là phát
triển một mối liên hệ giữa một ý nghĩ thông qua tưởng tượng và quán tưởng
lời nói với trạng thái thư giãn mong muốn.
Do trẻ thường cảm thấy bứt rứt, khó chịu trong người, nhiều lúc không
thể chịu đựng được, nên chúng tôi đã sử dụng liệu pháp này. Đầu tiên, yêu
cầu trẻ ngồi đúng tư thế, tập trung chú ý vào hơi thở, ý nghĩ và tưởng tượng
đến một cái gì đó trẻ thích nhất. Chẳng hạn, một buổi dạo chơi quanh một
vườn hoa, có nhiều hoa đẹp (hoa hồng, hoa cúc…đủ các màu sắc: đỏ, trắng,
tím, vàng…) đua nhau nở và DL với bộ váy màu xanh đang nhảy múa như
một nàng công chúa trong vườn hoa… Sau đó hỏi trẻ về cảm giác của mình
khi tập trung “thư giãn”. Trẻ trả lời thấy “thoải mái, dễ chịu, không có cảm giác
khó chịu, bực tức”. Yêu cầu mẹ giúp trẻ về nhà tự luyện tập.
– Liệu pháp giải mẫn cảm và ứng phó giải quyết vấn đề:
Trẻ thường có những cơn ác mộng gây lo lắng, sợ hãi, mà trong cơn ác
mộng đó, trẻ thường mơ thấy ma. Qua bức tranh vẽ về chủ đề “Cái gì làm
cháu sợ nhất?”, trẻ đã vẽ bức tranh có một con ma. Nhận thấy trẻ có triệu
chứng sợ bóng tối và sợ ma, sợ đến mức khi xem phim “Hoàn Châu cách
cách”, trẻ chỉ muốn giỏi võ như cô ấy, có tính cách như cô ấy để không sợ bất
cứ một cái gì trên đời này và đánh chết con ma ấy. Do đó, chúng tôi đã giúp
trẻ loại bỏ chứng ám sợ này bằng liệu pháp giải mẫn cảm.
Đầu tiên, yêu cầu trẻ ngồi vào tư thế thư giãn, giãn mềm cơ bắp, đưa
cơ thể vào trạng thái thư giãn. Sau đó tưởng tượng ra những kích thích gây
ra stress xung quanh sự kiện gây sợ theo một thứ tự (từ những tình huống,
sự kiện gây sợ hãi ít nhất đến nhiều nhất). Ở mỗii tình huống tưởng tượng,
khi cảm giác sợ xuất hiện, trẻ được yêu cầu tập trung vào hơi thở, nhủ thầm
“thở chậm lại,. tập trung vào vùng tim, nhủ thầm {tim đập chậm lại”. Sau khi
kết thúc một tình huống, chúng tôi thường hỏi trẻ, xem trẻ xử trí, đối phó thế
nào. Chẳng hạn, trong tình huống tưởng tượng “trẻ đang đi vào một khu rừng
rậm, trời tối đen. Trong rừng chỉ có cây và bóng đêm bao trùm. Bỗng trước
mặt trẻ xuất hiện một con ma, đầu tròn, mắt, mũi, mồm đều tròn. Con ma từ
từ tiến lại phía trẻ, nó định bắt trẻ và ăn thịt…”. người trị liệu hỏi: “Trong tình
huống đó cháu sẽ đối phó như thế nào? Cháu có mong muốn ai đến cứu hay
không?” Trẻ trả lời: “Lúc đó cháu chỉ muốn mình có sức mạnh để đánh chết
con ma đó thôi”. Việc sử dụng liệu pháp này, lúc đầu chỉ là để thử xem có phù
hợp không, không ngờ lại cho một kết quả thực. Trẻ đã giảm chứng sợ ma,
không còn mơ thấy ma nữa. Sau đó bỗng nhiên trẻ nói ra với nhà trị liệu rằng:
“Làm gì có ma thật, ma chỉ là cái bóng của mình mà thôi”.
– Liệu pháp hình vẽ – tranh:
Hình vẽ là phương thức thể hiện quen thuộc của trẻ. Nó phản ánh nhu
cầu nhận thức, giao tiếp ngoài ngôn ngữ, là sự khúc xạ thực tại xung quanh
trong ý thức của trẻ. Hình vẽ được xem như là cầu nối giữa các “ý nghĩ” hữu
thức và các “xung đột nội tâm”. Nhiều nhà phân tâm còn cho rằng hình vẽ của
trẻ phản ánh những thiếu hụt trong các quan hệ xã hội của trẻ.
Việc sử dụng hình vẽ vừa có ý nghĩa cho việc chẩn đoán và cả việc trị
liệu rối nhiều ở trẻ. Qua hình vẽ của trẻ ta sẽ biết được những suy nghi, cảm
xúc bị dồn nén và cách chúng thoát khỏi những day dứt. Như vậy, có thể nói
hình vẽ là ngôn ngữ không lời làm cho cái vô hình trở nên “thấy được”, nói lên
được điều không nói ra, làm cho cái vô thức được bộc lộ.
Đối với DL, việc sử dụng hình vẽ rất có hiệu quả, cho phép chúng tôi
biết được những vấn đề có tính chất căn nguyên làm phát sinh rối nhiều mà
bàng lời nói trẻ không thể bộc lộ. Ví dụ như những buổi đầu, trẻ chưa hợp
tác, trẻ luôn từ chối hoặc trả lời có tính chất lảng tránh những vấn đề của gia
đình. Nhưng khi vẽ, những vấn đề đó được bộc lộ hoàn toàn trong bức tranh
về gia đình. Đầu tiên, trẻ vẽ mẹ ở giữa bức tranh, mẹ mặc váy màu đỏ, tóc
ngang vai với hai cái nơ cài đầu trông rất đẹ,. trẻ vẽ mình đứng tách sang một
bên, cũng mặc váy, cũng có nơ cài đầu giống mẹ, thể hiện sự đồng nhất hoá
với mẹ và vẽ bố bên cạnh mẹ, nhưng tách sang một bên, vẽ hoàn toàn bằng
bút chì, tóc và quần tô đen, không thấy tay, mắt trợn tròn, mồm méo, thể hiện
một “ông bố dữ tợn”, không gán gũi với con. Sau đó trẻ vẽ em bé nhỏ xíu
đứng ở giữa mẹ và trẻ, lùi ra đằng sau, em là bé gái nhưng trẻ lại vẽ em
giống như một đứa bé trai (mắt tròn, có 2 lỗ mũi, có quần), điều này thể hiện
sự “ghen tị” đối với em, trong vô thức không muốn đứa em đó tồn tại. Qua
những hình vẽ tranh, dường như trẻ đã bộc lộ những bức xúc, những dồn
nén của mình.
Khi vẽ về chủ đề “Cái gì cháu sợ nhất?”, trẻ đã vẽ một bức tranh về
giấc mơ của mình. Bức tranh này trẻ vẽ hoàn toàn bằng bút chì. Đó là giấc
mơ về con ma, vừa vẽ trẻ vừa kể về giấc mơ của mình. Trẻ vẽ một con ma ở
trung tâm của bức tranh, con ma này có mắt tròn, miệng tròn, mũi tròn, bụng
tròn, tóc và chân cũng được kết hợp bởi những hình tròn nhỏ. Sau đó trẻ vẽ
xung quanh là cỏ cây, trên đầu con ma có mây bao phủ. Trẻ nói: “Đây là ở
trong rừng… Sau khi vẽ xong, trẻ gạch chéo giữa con ma, thể hiện sự sợ hãi
đến mức căm thù và muốn tiêu diệt nó. Khi hỏi: Tại sao cháu gạch như thế”
Trẻ trả lời: “Cháu sẽ giết nó”.
Hỏi: Trong giấc mơ này, cháu đang ở đâu?
Trẻ: Cháu đang đứng trước mặt nó, đang đánh nhau với nó.
Hỏi: Vậy tại sao cô không thấy cháu ở đây? (Chỉ vào bức tranh).
Trẻ: Cháu đứng trước mặt nó, con ma che lấp thì cô thấy làm sao
được…
Trong hai bức tranh khác, vẽ tự do. Bức tranh thứ nhất, vẽ vào ngày
đầu tiên trẻ đến phòng khám là bức tranh về một ngôi nhà đóng cửa, bên
cạnh có cây, ở trên có mây phủ kín và ở dưới là một đường to dài, trẻ tô màu
xám. Nhà đóng cửa, phải chăng thể hiện sự chưa hợp tác của trẻ. Vẽ cây
cũng rất đặc biệt, có 3 phần: gốc, thân và ngọn. Nếu theo cách hiểu của phân
tâm học, phần gốc tượng trưng cho cái ấy, phần thân tượng trưng cho cái tôi
và phần ngọn tượng trưng cho cái siêu tôi, ở đây phần cái ấy rất lớn, cái tôi
cũng rất lớn (thân là một khối màu xám, to và thẳng tắp không chút xù xì)
nhưng phần siêu tôi lại rất mờ nhạt, (ngọn cây nhỏ bé, chỉ có vài cành với vài
lá và hoa quả, lá rất nhỏ và rất ít, không có tán). Việc sử dụng chủ yếu là màu
xám cho thấy trong trẻ đang có một tâm trạng lo âu, sợ hãi.
Bức tranh vẽ hình người là một cô gái có bộ tóc màu vàng, chiếc áo
choàng ngoài màu đỏ tươi, trông sang trọng và quý phái, bức tranh được đề
tên “nàng Bạch Tuyết, phải chăng trẻ có mong ước được xinh đẹp như nàng
Bạch Tuyết? Nhưng điều đáng lưu ý là cảnh trong hai bức tranh vẽ tự do, trẻ
đều vẽ những đám mây phủ kín ở phần trên. Cả bức tranh vẽ nàng Bạch
Tuyết, không có cảnh thiên nhiên, trẻ cũng phủ mây kín trên đầu. Phải chăng
trẻ đang có một điều gì đó bị dồn nén, ấm ức có cái gì đó đang ngăn cản trẻ?
– Liệu pháp thưởng quy đổi:
Liệu pháp này thực chất cũng là liệu pháp củng cố, sử dụng để động
viên khuyến khích trẻ thực hiện những hành vi mà người trị liệu mong muốn.
Trước hết, lập danh sách những hành vi mà ta mong muốn trẻ thực
hiện. Cùng thoả thuận với trẻ về mức thưởng cho từng hành vi mà trẻ thực
hiện tốt, ở đây hành vi mà ta muốn trẻ thực hiện là không cắn móng tay mà
thay bằng việc lấy kéo cắt móng tay. Nếu trong một tuần mà trẻ thực hiện
được sẽ cho điểm mười và đổi lấy một phần thưởng mà trẻ thích. Trẻ chọn
phần thưởng là được ngủ với mẹ. Sau đó tiếp tục khuyến khích trẻ loại bỏ
một số hành vi mà người mẹ thường than phiền như chưa gọn gàng, ngủ dậy
để chăn gối bề bộn, đi học về để cặp sách lung tung không đúng chỗ, thay
quần áo ra cũng vứt lung tung và hay cãi mẹ, cáu gắt với mẹ. Chúng tôi hỏi
trẻ: “Theo cháu như thế nào là một em bé ngoan”. Trẻ trả lời là “phải gọn
gàng, ngăn nắp, vâng lời mẹ, không được cãi mẹ và học giỏi”.
Hỏi: Cháu thấy mình đã ngoan chưa?
Trẻ: Chưa ạ
Hỏi: Vậy cháu có muốn trở thành một cô bé ngoan không?
Trẻ: Có ạ!
Hỏi: cháu có muốn cô cháu mình thoả thuận với nhau rằng nếu cháu
thực hiện tốt những điều mà mẹ mong muốn để trở thành cô bé ngoan cô sẽ
cho cháu thêm một điểm 10 nữa và cô cho cháu nhận một phần thưởng lớn
hơn phần thưởng trước mà cháu thích nhất?
Trẻ: Cháu muốn ạ!
Hỏi: Vậy cháu thích nhất phần thưởng như thế nào?
Trẻ: Cháu muốn được cô đưa đi công viên chơi (cười)…
Từ đó trẻ vui vẻ thực hiện tốt như đã thoả thuận với chúng tôi để được
nhận phần thưởng. Quả nhiên một tuần sau, mẹ trẻ và trẻ cho biết: trẻ không
còn cắn móng tay nữa. Bây giờ trẻ đang cố gắng thực hiện tốt những quy
định để đi chơi cùng cô. Như vậy, qua những câu trả lời ngây thơ và cách
chọn phần thưởng cho thấy trẻ muốn được mọi người quan tâm hơn về tinh
thần, nhất là sự quan tâm chăm sóc của mẹ.
2. Trị liệu gia đình:
Đứa trẻ đã là một thành viên của gia đình, nó sinh ra và lớn lên trong
mối quan hệ với cha mẹ anh chị em trong gia đình. Do đó, nhiều nhà trị liệu
tâm lý cho rằng những triệu chứng rối nhiễu tâm lý ở trẻ em là những biểu
hiện của những rối nhiễu của quan hệ nào đó hay rối nhiễu của toàn bộ gia
đình. Vì vậy, muốn chữa trị tận gốc các chứng rối nhiễu tâm lý của trẻ cần
phải chăm chữa toàn thể gia đình.
Trị liệu gia đình thực chất là một kiểu đặc biệt của trị liệu nhóm. Trị liệu
gia đình đòi hỏi không phải chỉ bản thân trẻ bị rối nhiễu được trị liệu mà các
thành viên khác của gia đình, đặc biệt là bố mẹ cũng phải được trị liệu.
Ở trường hợp này, sau khi đã xác định được một cách chính xác về
những yếu tố hiện tại đang duy trì những rối nhiễu của trẻ, chủ yếu là do sự
tác động của các mối quan hệ của các thành viên trong gia đình, chúng tôi
quyết định sử dụng liệu pháp tâm lý gia đình. Chúng tôi gặp bố mẹ để trò
chuyện.
Tuy nhiên, khi quyết định sử dụng liệu pháp trị liệu gia đình chúng tôi đã
gặp khó khăn. Lúc đầu khá thuận lợi, nhưng sau buổi trị liệu thứ 4, người bố
tỏ ý không muốn cho con tiếp tục trị liệu vì trong suy nghĩ, ông coi “DL là một
đứa trẻ hoàn toàn bình thường”, và vẫn là một người đàn ông có tính sĩ diện
rất lớn, ông sợ bạn bè cười và cho rằng con ông có vấn đề. Vì từ trước đến
nay ông luôn hãnh diện về con mình, luôn muốn con mình phải tài giỏi, xinh
đẹp, khoẻ mạnh hơn con của người khác. Theo ông: “Thầy thuốc thì nhìn đâu
cũng thấy bệnh” và một lý do “ngầm” nữa là ông không hiểu trị liệu tâm lý là gì
hoặc không tin vào trị liệu tâm lý. Khi quá trình trị liệu bị gián đoạn, những rối
nhiễu của trẻ có phần tăng hơn. khiến người mẹ lo lắng, bà đã thuyết phục
chồng và tha thiết mong muốn chúng tôi tiếp tục trị liệu cho DL, bằng cách
mời chúng tôi đền nhà mỗi chiều thứ 7 và đề nghị kiêm gia sư cho trẻ. Trước
sự thỉnh cầu của người mẹ, chúng tôi đồng ý và quá trình trị liệu tiếp tục Cùng
với trị liệu cho trẻ, chúng tôi kết hợp trị liệu cho mẹ, thông qua mẹ “trị liệu” cho
người bố.
Trước hết giúp người mẹ hiểu được những nguyên nhân gây nên
những triệu chứng rối nhiễu của trẻ và duy trì rối nhiễu. Sau đó cùng người
mẹ phân tích từng sự kiện. từng nguyên nhân. Sau vài buổi làm việc với
người mẹ. bà đã hiểu ra chính bà và chồng bà cũng có vấn đè rối nhiễu'. Bà
đã hiểu việc bà phải bỏ việc ở nhà làm nội trợ đã gây cho bà một ức chế quá
lớn. Bà không phù hợp với việc ở trong nhà “suốt ngày, không gặp ai ngoài
hai đứa con gái quấy suốt ngày và một vài người bạn tẻ nhạt làm việc cùng
chồng mà thỉnh thoảng họ đến vì công việc, một người chồng sáng sớm ra đi.
tối trở về”, gần như vô nghĩa với bà. Cũng chính sự uất ức đối với chồng. cảm
giác bị chồng khinh thường dồn nén và lớn dần trong bà. mà bà không biết
trút bỏ vào đâu được ngoài đứa con gái bướng bỉnh. Bà đã nhận thức được
rằng việc bà kể với con mọi chuyện trong gia đình. những ấm ức sau mỗi lần
cãi nhau với chồng. vô tình biến đứa con thành nạn nhân hứng chịu tất cả
những điều không thuận lợi đó.
Đối với con. người mẹ dần dần đã hiểu được phải làm thế nào để giúp
cho nó trở lại bình thường. Bà đã quan tâm đến trẻ hơn. không quát. mắng
trẻ. không làm cho trẻ có cảm giác rằng: mẹ quý e~n hơn trẻ. không kể cho
trẻ bất cứ một chuyện gì về mâu thuẫn vợ chồng. không phê phán chồng
trước mặt con… Mỗi tuần bà đề nghị chồng cùng mẹ con đi chơi một ngày
vào cuối tuần.
Đối với chồng. bà cũng đã nhận thức được, một người phụ nữ xinh
đẹp. thông minh. khôn khéo như bà. có thể tự khẳng định mình ngoài xã hội.
bà đề nghị chồng cho bà đi làm. cho đứa bé đi nhà trẻ và sau này nếu cần
thiết thì trích tiền lương của bà để thuê một người giúp việc nhà. Đề nghị này
lúc đầu gây nên một cơn tức giận cho người chồng. Trước đây bà luôn nghĩ
rằng mình sống phụ thuộc chồng. rằng không thể sống xa anh ấy bà đã từng
nói “nếu bây giờ cho tôi chọn lại. không bao giờ tôi chọn một người như anh
ấy làm chồng. Nhưng bây giờ đã quá muộn… “. Bây giờ lòng tự trọng của bà
đã đủ lớn đế giải thoát cho bà khỏi ý nghĩ rằng bà “không thể sống nếu không
làm vợ anh ta. Cuối cùng người chồng phải nhượng bộ vợ. Hiện tại, người
mẹ của trẻ đang học thêm ngoại ngữ và học lái xe ô tô cuộc sống gia đình đã
“hoà thuận” hơn.
Nhận thấy trong mối quan hệ của trẻ đối với các bạn ở lớp có vấn đề.
chúng tôi đã tìm hiểu và được biết ở lớp trẻ có mâu thuẫn với một số bạn. Trẻ
thường bị các bạn gái chế giễu vì trẻ thường chỉ chơi với các bạn trai. Ở lớp
cũng có một bạn trai hay đánh trẻ, trọc ghẹo cho trẻ khóc. Nhưng tìm hiểu thì
không phải bạn trai đó ghét trẻ mà ngược lại có vẻ quý mến trẻ. phải chăng
“việc chọc ghẹo. cấu véo ở đây là cách bộc lộ tình cảm quý mến” của trẻ con.
Vì điều kiện không cho phép. chúng tôi chỉ giúp trẻ phát triển một số kỹ năng
xã hội và sau đó thông qua người mẹ. tác động đến cô giáo và các bạn cùng
lớp để giúp trẻ thiết lập những mối quan hệ tốt với bạn bè.
Ngoài ra. ở trẻ còn có một. vấn đề khá nghiêm trọng nữa là vấn đề học
tập. Trẻ sợ học môn Tiếng Anh chúng tôi với tư cách gia sư, đã giúp trẻ
không còn cảm giác sợ đến lớp mỗi khi có giờ Tiếng Anh nữa. Nhưng còn
vấn đề lượng kiến thức mà trẻ phải tiếp thu quá nhiều trong mỗi ngày thì
chúng tôi chưa có cách nào giải quyết được” bởi đó là xu hướng chung hiện
nay.
Kết quả trị liệu
Sau 10 buổi trị liệu tâm lý với việc sử dụng phối hợp linh hoạt nhiều
phương pháp khác nhau như: trị liệu cá nhân. trị liệu nhóm. trị liệu gia đình.
Cùng với nhiều kỹ thuật cơ bản của trị liệu tâm lý. chúng tôi đã đạt được một
số kết quả nhất định. Trẻ không còn cắn móng tay(đã ngoan hơn. không còn
cáu gắt với mẹ và đã khỏi hẳn đau bụng. Trẻ “không còn ganh tỵ với em nữa”
mà ngược lại “rất yêu thương em. luôn chăm sóc. chiều chuộng em”. Bằng
chứng là khi mẹ quát em. DL đã bênh vực em và dỗ đành em khi em khóc…
Đạt được kết quả như vậy cho thấy, trị liệu tâm lý có vai trò rất lớn trong
việc chữa trị các chứng rối nhiễu tâm lý ở trẻ em. Hiệu quả có thể thấy được
thông qua từng liệu pháp trị liệu cụ thể Tuy nhiên. kết quả trị liệu không những
phụ thuộc vào kỹ thuật của nhà trị liệu tâm lý mà còn phụ thuộc vào việc hợp
tác giữa nhà trị liệu với trẻ và gia đình trẻ trong quá trình trị liệu. phụ thuộc
vào khả năng và kinh nghiệm của nhà trị liệu.
Ở trường hợp này trẻ và mẹ trẻ hợp tác rất nhiệt tình. sẵn sàng thực
hiện những nhiệm vụ mà nhà trị liệu đề ra. Nhưng trong quá trình trị liệu
chúng tôi gặp trở ngại bởi người bố. Mặc dù vậy. bằng một số kết quả ban
đầu đạt được đã ảnh hưởng đến người bố (như người bố đã đồng ý đưa vợ
con đi chơi vào cuối tuần. đã quan tâm đến con hơn. cho vợ đi học ngoại
ngữ. học nghề…). Điều đó cho thấy trị liệu tâm lý có thể có hiệu quả đối với
cả những người “khó tính nhất”. và chưa tin vào khả năng của trị liệu tâm lý.
Bằng những tiến bộ cụ thể do trị liệu tâm lý đem lại có thể thuyết phục được
gia đình người bệnh.
Như ở trên đã nói. trị liệu tâm lý không chỉ loại bỏ hoặc làm giảm triệu
chứng bệnh mà còn có thể ngăn chặn sự tái diễn của triệu chứng trong tương
lai. Để thực hiện tốt mục tiêu của trị liệu tâm lý, ngăn chặn sự xuất hiện lại của
triệu chứng rối nhiễu khi đứa trẻ trở về sống hoàn toàn trong môi trường cũ.
Ngoài việc tìm cách loại bỏ những điều kiện (trong môi trường xã hội nơi đứa
trẻ sống) đang duy trì rối nhiễu. chúng tôi còn huấn luyện cho trẻ những kỹ
năng thích nghi xã hội. giúp điều chỉnh lại các quan hệ trong gia đình… Và
mặc dù trẻ hết. triệu chứng”. chúng tôi đã kết thúc quá trình trị liệu chính thức.
thì công việc trị liệu này vẫn được tiếp tục một cách gián tiếp. qua việc mỗi
tháng nói chuyện với trẻ và gia đình một lần qua điện thoại. Kết quả trị liệu
được duy trì qua 5 tháng (trẻ không xuất hiện rối nhiễu trở lại).
2. Stress và chứng bệnh chán ăn tâm thầnTừ một bệnh nhân chán ăn tâm thần do stress…
Cháu L.H.B – 14 tuổi. học sinh lớp 8 quê ở Hương Khê. Hà Tĩnh, vào
điều trị tại khoa Tâm thần BV Nhi ngày 10/2/1999 do bị chứng bệnh chán ăn
và trầm cảm.
Bố mẹ cháu đã kể lại rằng trước đây tính tình cháu cởi mở, thích đùa
nghịch. Cháu bị chừng chán ăn khoảng 7 tháng trước đây Lúc đầu. gia đình
thấy trẻ ít nói dần. ít giao tiếp và ăn ít dần. Sau đó cháu không chịu ăn cơm.
rồi bỏ ăn. Gần 3 tháng trước khi vào viện. cháu hầu như không ăn chỉ uống
nước hoặc uống 1 cốc sữa. hoặc ăn chút hoa quả. Cơ thể suy kiệt. đờ dẫn.
xuống cân rất nhanh. Trọng lượng cơ thể từ 32 kg tụt xuống chỉ còn 24 kg.
Gia đình lo sợ đã đưa đi khám tại BV Bạch Mai. rồi BV Xanh–pôn. Tại các BV
này. các BS đã chiếu chụp tim. phổi. làm các xét nghiệm máu điện não.
nhưng không phát hiện rõ bệnh gì.
Trước đây. cháu thường kêu mệt. tức ngực khó thở. không thèm ăn.
sau khi tan học về chỉ thích lên gác nằm một mình. ngủ thiêm thiếp. từ chối
mọi cuộc nói chuyện hay giao tiếp. Một vài lần bố mẹ động viên không được
đã ép ăn thì cháu nôn ra và nói rằng rất sợ mùi cơm. mùi thịt gà và các mùi
thức ăn khác. Trước khi vào viện vài tuần cháu bị sốt.. thêm chứng co giật ở
mặt. co cứng cả tay chân và bị đau buốt đầu.
Cháu B vào viện trong tình trạng sức khoẻ tiều tuỵ. da bọc xương. suy
kiệt toàn thân. Sau 2 tuần điều trị hồi sức tích cực bằng truyền đạm. đường
Glucô và ăn bằng ống xông. các bác sĩ vẫn chưa thực sự tìm ra căn nguyện
của chứng bệnh này. Họ đề nghị thử trị liệu bằng các biện pháp tâm lý.
Tiếp xúc buổi đầu tiên. bệnh nhân ủ rũ không nói. Khi gặng hỏi cháu chỉ
nói vài từ giọng yếu ớt. mắt lờ đờ. không muốn vận động. chỉ ngồi bó ngối.
nhắm mắt gục đầu. Trước đó vài tháng. cháu B đã đến điều trị tại Viện này 2
lần.
Lần 1 kéo dài 3 tuần. sử dụng thuốc chống trầm cảm (tiêm
Cerebrolizin). trị liệu trò chơi tranh vẽ và động viên. khuyến khích ăn. Cháu có
khá hơn: ra viện (cháu ăn được 1 bát cơm/ 1 bữa) tăng 2 kg. Nhưng về nhà đi
học được 3 ngày sau lại bị lại. phải vào viện lần 2. Lần 2 cháu nằm 4 tuần
cũng đỡ hơn. Nhưng về nhà được vài tuần. cháu lại bị lại và lần này vào Viện
cháu ở tình trạng sức khoẻ xấu nhất. Trẻ nằm liệt giường nôn. rung giật cơ
mặt đau ngực khó thở. đặc biệt thường có những cơn co cứng chân tay và
toàn thân rất nhanh. đau đầu triền miên.
Các phương pháp trắc nghiệm (Beck. Zung và STAI). phỏng vấn đã chỉ
ra rằng cháu B có triệu chứng của những rối nhiều tâm lý sau đây: Mức độ
cao của trầm nhược, mức độ đáng kể của lo hãi, mức độ cao của trạng thái
cô đơn,lẫn tránh các cuộc tiếp xúc xã hội và mức độ cao về trạng thái bất an
đau cơ thể.
Điều kiện tiềm ẩn và thời điểm phát sinh bệnh lý:
Cháu B là con cả trong một gia đình hoà thuần. bố mẹ cháu đều là giáo
viên cấp hai (bố là hiệu trưởng). Cháu học giỏi. ham học. chăm học và là lớp
trưởng.
Được vào lớp chọn. rồi tham gia vào đội học sinh giỏi của tỉnh (để có
được thành tích này cháu đã phải cố gắng quá sức). Nhưng cháu thì không
thành công. cháu rất buồn. học sút. cháu hay kêu mệt và từ đó nói ít.. biếng
ăn. Liên tiếp sau đó cháu thôi không làm lớp trưởng và không được học ở lớp
chọn…
Như vậy chứng chán ăn của cháu B là hậu quả của những stress liên
tiếp bắt nguồn tử những thất bại học đường. những mong thuốn thái quá về vị
trí và kết quả học tập (điều kiện phát sinh bệnh lý). Thêm vào đó là một nhân
cách ít từng trải. ít có khả năng chịu đựng thất bại. dễ bị tổn thương về mặt
xúc cảm (điều kiện tiềm ẩn). cũng có thể có cả những biến loạn sinh-tâm lý
tuổi dạy thì (điều kiện cộng hưởng).
Những stress này thoạt đầu gây ra những rối loạn chức năng của hệ
thống tiêu hoá như mất cảm giác đói. không thèm ăn đau tức ngực khó thở
chướng bụng. đầy hơi. khó tiêu. Phản ứng với cảm giác này. cháu biếng ăn
dần và chỉ ăn nhưng thức ăn dễ tiêu như bánh mỳ. sữa. đậu phụ. rồi sau đó
bỏ ăn như là hậu quả tất yếu của stress và trầm cảm kéo dài. Rồi sự mệt mỏi.
buồn chán. mặc cảm tự ty dẫn đến phản ứng từ chối giao tiếp. thích nằm một
mình trên gác. ưu tư trầm cảm đả thương tỳ vị (theo cách hiệu của đông y).
tiếp theo ảnh hưởng đến đến các tạng phủ khác. làm rối loạn chức năng của
các cơ quan này…
Can thiệp tích cực:
Một chương trình trị liệu can thiệp tổng hợp gồm những liệu pháp sau
đây đã được tiến hành trong 8 tuần (mỗi tuần 3 buổi):
1. Điều chỉnh nhận thức: Những cuộc nói chuyện với bệnh nhân và
phỏng vấn gia đình đã tiết lộ rằng cháu B có những nhận thức không phù hợp
như: có những mong muốn thái quá (mong đoạt giải nhất, kỳ thi học sinh giỏi
của tỉnh). Những niềm tin không hợp lý (không thể vào lại đội tuyển học sinh
giỏi. không thể vào học ở lớp chọn nữa…) và sức ép lớn từ phía gia đình liên
quan đến kết quả học tập sút. kém. đến việc biếng ăn uống. Vì vậy liệu pháp
nhận thức được sử dụng là hợp lý. Liệu pháp này tập trung giúp cháu B nhận
dạng những ý nghĩ. niềm tin không hợp lý. thay thế chúng bằng những ý nghĩ
niềm tin hợp lý hơn. nhất là giúp cháu nhận rõ hậu quả tiêu cực của việc bỏ
ăn kéo dài dẫn đến việc làm suy kiệt toàn bộ cơ thể.
2. Luyện tập thư giãn: Cháu B đã được hướng dẫn kỹ thuật thư giãn
từng nhóm cơ. kết hợp với việc kiểm soát hơi thở để loại bỏ dân cảm giác tức
ngực. nghẹt thở. Sau đó là kỹ thuật xoa bóp vùng bụng để phục hồi các chức
năng bình thường của nội tạng. đặc biệt là hệ thống tiêu hoá.
3. Giải mẫn cảm hệ thống: ám sợ mùi cơm. mùi thịt. có phản ứng
muốn nôn với thịt gà là điều kiện để chúng tôi chọn sử dụng liệu pháp giải
mẫn cảm hệ thống. Bắt đầu bằng việc thảo luận với cháu B một loạt các tình
huống gây lo âu. sợ hãi liên quan đến việc ăn uống và sau đó yêu cầu cháu
tưởng tượng trong trạng thái thư giãn lần lượt các tình huống đó. Mỗi khi
cháu có cảm giác lo âu. sợ hãi. cháu giơ tay báo hiệu. và vào lúc đó cháu
được yêu cầu bình tĩnh. Dừng tưởng tượng lại. tập trung vào vùng tim. quán
tưởng tim đập chậm lại. hơi thở chậm lại. toàn thân giàn mềm.
Tiếp theo đó cháu được khuyến khích ăn cơm. Lúc đầu chỉ một chút
sau tăng dần lên và cảm giác muốn nôn được khống chế bằng việc khuyến
khích cháu nhai thật kỹ, tập nuốt: nước bọt trước và sau khi ăn: liệu pháp này
có hiệu quả rõ rệt. Sau 3 tuần điều trị cháu đã ăn được 1 bát (chén) rồi tăng
lên 2 bai, bắt đầu có cảm giác thèm ăn và hoàn toàn mất cảm giác buồn nôn.
4. Huấn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề: Tại sao những lần vào viện
trước. cháu có đỡ những khi về nhà chỉ sau vài ngày cháu đều bị lại? Lý do
chính phải chăng là cháu thiếu kỹ năng giải quyết có hiệu quả với những tình
huống luôn gây stress ở trường? Bắt đầu bằng việc nhận thức rằng các tình
huống gây stress là không thể tránh khỏi. vậy cách tốt. nhất là chấp nhận nó
như là sự thử thách rèn luyện bản tính cá nhân. Cháu được huấn luyện kỹ
năng giải quyết vấn đề qua mô hình lý thuyết và một loạt các tình huống giả
định. Với từng tình huống cụ thể. cháu đều thực tập các bước: xác định đúng
bản chất mà tình huống, nảy sinh các giải pháp có thể; đánh giá hậu qua của
từng giải pháp để chọn giải pháp tối ưu thực hiện trà và đánh giá hiệu quả,
sau đó điều chỉnh. Bằng phương pháp này. cháu được trang bị kỹ năng giải
quyết vấn đề để có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống khó khăn đa
dạng của cuộc sống.
5. Luyện tập các bài tập dưỡng sinh yoga: Cháu B được tập một số
các bài tập dưỡng sinh đặc biệt được rút ra từ các bài tập yoga–khí công
dưỡng sinh. Đó là các bài tập làm mềm dẻo cột sống. làm tăng nhu động của
nội tạng và đặc biệt là các bài tập thở huyệt. thở nội tạng để kiểm soát các
trạng thái xúc cảm không bình thường của cơ thể. Nhờ những bài tập này.
cháu B đã loại bỏ được trạng thái đau đầu sau 4 tuần trị liệu.
Sự thành công của quá trình trị liệu này chính là sự phối hợp các liệu
pháp cùng 'tham gia trị liệu và sự hợp tác rất tốt của bệnh nhân. gia đình (mẹ)
và nhà trị liệu. Cháu tin vào kết quả trị liệu. chăm chỉ và tự giác luyện tập khi
không có mặt nhà tri liệu.
Kết quả:
Tuần đầu tiên trước khi bắt đầu quá trình trị liệu. là một loạt các trắc
nghiệm. quan sát ghi chép đầy đủ thông tin về tình trạng bệnh với tần xuất
cao của những cơn đau đầu. tức ngực. khó thở, co giật tay và mặt. Nhưng chỉ
3 tuần sau khi bắt đầu quá trình trị liệu. các triệu chứng trên đều giảm. Những
cơn tức ngực khó thở giảm ngay trong tuần thứ hai. còn đau đầu và co giật ở
mặt. giảm hẳn ở tuần thứ tư. Sau 7 tuần trị liệu thì hầu như cháu đã khỏi các
triệu chứng trên và cháu đã phục hồi lại khoảng 80%– 90% khả năng ăn uống
bình thường (có cảm giác đói thèm ăn và ăn 2 bát.(chén)/1bứa).
Tuần cuối cùng trước khi ra viện, khám lâm sàng xác nhận cháu tăng
11 kg (cân nặng 36 kg) so với lúc vào viện. các chức năng tâm – sinh lý đã
trở lại bình thường. Các phép đo về trầm cảm. lo âu đều xác nhận cháu giảm
xuống gần như ở mức trẻ bình thường. đặc biệt cháu rất tự tin rằng mình có
thể kiểm soát được các stress ở học đường trong tương lai. Cháu xuất viện
ngày 28/4/1999 trong trạng thái sức khoẻ tốt.
Kết quả theo dõi 2 tháng sau khi kết thúc trị liệu. cháu đôi lúc còn có
biện hiền trầm cảm nhưng nhìn chung đã bình thường. gần giống như trước
khi bị bệnh. Kết. quả theo dõi 7 tháng sau trị liệu cho thấy. cháu hoàn toàn
bình thường và tỏ ra thích nghi tốt. trong môi trường học tập của mình (cháu
đã trở lại học lớp chọn).
Lời bàn: Sự không thành công của những lần điều trị trước là do nặng
về dùng thuốc mà xem nhẹ liệu pháp tâm lý. hoặc không chuẩn bị cho bệnh
nhân có khả năng đương đầu với stress học đường. do vậy khi trở về gia
đình. đi học lại gặp môi trường cũ. bệnh tái phát. Sự thành công của lần điều
trị này là biết phối hợp đồng bộ các nhóm liệu pháp tâm lý khác nhau. biến trị
liệu thành tự trị liệu. huấn luyện cho bệnh nhân kỹ năng tự điều chỉnh. Do vậy
khi trở về gia đình. đi học lại gặp môi trường cũ. bệnh nhân biết cách ứng phó
với stress.
3. Stress và bệnh rối loạn phân ly kèm theo nhược thị (giảm sức nhìn)
Hai cháu B.C.T và L.T.T đều sinh 1985 là học sinh lớp 8 của trường
THCS Thống Nhất. huyện Krôngbuk. tỉnh Đắc Lắc. Đây là 2 em học sinh nằm
trong số 16 em được Bệnh viện Nhi đồng I TP. HCM giới thiệu ra Bệnh viện
Nhi Thuỵ Điển điều trị ngày 3/4/1999. Các em này bị ngộ độc do hít thở phải
một hoá chất dạng bột rải trong lớp, nơi bàn thầy cô giáo ngày 7/12/1998.
Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm TP. HCM cho biết đây là chất
CS (o–chlorobenzilidene malononitrile). một hoá chất sử dụng để chống biểu
tình hoặc chống càn trong chiến tranh. Chất CS có độc tính tương lự như o-
chloroacetophenone. gây cay và chạy nước mắt. nước mũi, rát cổ họng.
nghẹn thở. co giật. ói mửa, ảnh hưởng đến hô hấp là chủ yếu. Nhưng tại
trường và gia đình có tin đồn cho đó là chất độc màu da cam.
Các em này đã được chuyển cấp cứu ngay sau đó. tại bệnh.iệll tỉnh
bằng phương pháp truyền dịch giải độc. Tuy nhiên sau khi ra viện. các em có
triệu chứng rối loạn phân ly: hốt hoảng. la hét. giãy đạp hoặc ngất xỉu đi. Một
số em nhìn mờ. Các em này được chuyển đến Bệnh viện Nhi đồng I TP.HCM
điều trị. nhưng vài tuần sau trở lại lớp học các em lại tái phát các cơn hốt
hoảng la hét và mắt nhìn mờ đi. có em chỉ còn thị lực 1/10. Nhà trường quyết
định cho các em nghỉ học để chữa trị. Nhưng đã gần 5 tháng trôi qua. những
em này vẫn không khỏi các chứng bệnh trến. buộc các em phải ra Hà Nội.
Chẩn đoán
Nhiễm độc chất CS trước đó đã khá lâu (thực chất không đủ mạnh).
khó có thể là những nhân tố đang duy tri trạng thái bệnh lý. Các rối loạn phân
ly này có thể do hậu quả của sự thương tổn tâm lý sau stress cấp (vì các em
này đều đang ở lứa tuổi dậy thì. dễ bị ám thị, xúc cảm không ổn định. và các
em cũng như gia đình đều tin rằng đó là chất độc màu da cam). Bằng chứng
lâm sàng ủng hộ giả thuyết này là các em lên cơn la hét. giằng đạp hoặc ngất
xỉu đi. nhưng cắt còn rất nhanh. chỉ sau 2 – 3 phút khi tiêm Placebo (nước
cất) với lời chỉ định của bác sĩ: “Đó là thuốc đặc trị. được Bộ Y tế hỗ trợ”
Hai cháu B.C.T và L.T.T là hai trường hợp có triệu chứng lâm sàng xấu
nhất trong số 16 cháu được gửi ra điều trị tại Bệnh viện Nhi Thuỵ Điển. Cả hai
cháu:
– Mắt mờ không đọc được sách. kiểm tra thị lực chỉ còn 1/10 và 2/10.
– Thường nhức đầu. tức ngực và thỉnh thoảng lên cơn co giật la hét rồi
ngất xỉu đi…
Cháu B.C.T còn bị nghi có chứng rung giật nhãn cầu.
Cả 2 cháu này được gửi đi bệnh viện mắt trung ương khám xét nghiệm.
Kết quả siêu âm cho biết không có thương tổn gì. Đo kích thước sinh học
nhãn cầu. thấy bình thường. kiểm tra hố mắt. soi các lớp màng sau võng mạc
thấy bình thường. Tuy nhiên kết quả ghi điện võng mạc phát hiện cả hai em
đều có chỉ báo diện võng mạc dưới mức bình thường. Như vậy phải chăng
các đầu mút dây thần kinh cảm quang giảm khả năng tiếp nhận ánh sáng.
Riêng cháu B.C.T có tần số rung giật biên độ thấp. Mặc dù phát hiện thấy
những bằng chứng về sự suy giảm khả năng thụ cảm ánh sáng những vẫn
chưa có phương pháp chữa trị đặc hiệu.
Chúng tôi tiếp nhận các cháu để điều trị bằng các liệu pháp tâm lý.
Theo chúng tôi về cơ chế. để mắt nhìn được rõ. ánh sáng phải đi qua giác
mạc. thủy địch trước. lỗ đồng tử. thể thuỷ tinh (nhân mắt). thuỷ dịch sau và rơi
trên võng mạc. Đồng thời thể thuỷ tinh phải có khả năng điều tiết (thay đổi
hình dạng) để tập trung ảnh của vật thể trên võng mạc. Võng mạc chứa đựng
các tế bào cảm thụ ánh sáng phải gửi được các thông tin hình ảnh qua dây
thần kinh cảm quang về trung khu xử lý trên não. Mắt nhìn mờ. vì vậy có thể
là do những sang chấn tâm lý sau stress cấp gây ức chế chức năng hoạt
động bình thường của thể thuỷ tinh. làm cho nó không có khả năng phồng
xẹp thay đổi hình dạng. nên ảnh rơi ở phía trước và không ổn định trên võng
mạc. Khi đưa cuốn sách cách mắt 20cm, các em không đọc được nhưng đưa
lại gần hơn. cách khoảng 10 em thì các em đọc được lúc mờ lúc rõ và cảm
thấy mỏi tức mắt.
Điều trị:
Từ giả thuyết. chẩn đoán trên đây. chúng tôi lựa chọn một nhóm các
liệu pháp sau đây đưa vào chương trình trị liệu phục hồi tích cực.
1. Luyện tập thư giãn từng nhóm cơ khác nhau để chống các phản xạ
được điều kiện hoá do stress. Sau đó tập trung luyện tập thư giãn vùng mắt.
đặc biệt là cơ vân nhãn để phục hồi khả năng điều tiết của mắt. Các cháu
được hướng dẫn tập trung giãn mềm cơ. xoay cầu mắt, tự làm chảy nước
mắt. Sau đó tưởng tượng màu kết hợp với quán tưởng phồng xẹp thuỷ tinh
thể…
2. Xoa bóp toàn bộ vùng mặt và vùng phản chiếu của mắt ở tại bàn
chân. kết hợp day bấm các huyệt có liên quan đến hoạt động bình thường
của mắt nhằm kích thích phục hồi các chức năng trao đổi nội tiết của mắt.
3. Điều chỉnh điểm rơi vào đúng võng mạc: Dùng một nhóm các chữ
cái. tập trung nhìn vào đó hồi lâu. cố định điểm nhìn rõ nhất. rồi thay đổi
khoảng cách xa dần kết hợp với hiệu chỉnh độ nét. nhàm tăng khả năng điều
tiết cố định ảnh trên võng mạc.
4. Điều chỉnh nhận thức: Giải thích để các em hiểu, tự phá bỏ những
ý nghĩ không hợp lý và niềm tin sai lệch rằng: những rối nhiễu này là do
những độc tố bị nhiễm vẫn còn tồn tại trong cơ thể”. “đó là chất độc màu da
cam rất nguy hiểm”. Sự lo lắng thái quả của gia đình cũng là tác nhân đã ảnh
hưởng tiêu cực đến khả năng tự thoát khỏi những ức chế sau stress.
Kết quả:
Hai buổi đầu tiên luyện thư giãn toàn thân. xoa bóp nội tạng chưa có
tác dụng rõ rệt. Nhưng sau 2 buổi tập trung thư giãn. vùng mắt “xoay đảo cầu
mắt, quán tưởng phồng xếp thuỷ tinh thể đã cho kết quả đáng khích lệ. các
cháu đã nhìn thấy chữ lớn ở khoảng cách 60 – 70cm.
Kết quả là sau 4 buổi tập luyện (mỗi buổi tập kéo dài 120', nghỉ 15’ ở
giữa). các cháu đã có những chuyển biến rất tích cực. Sau buổi thứ 5 thì
L.T.T đã nhìn thấy rõ chữ nhỏ trong sách báo ở cự ly 30 cm rồi 50 cm. Tiếp
tục luyện tập và củng cố sau buổi tập thứ 7, cháu L.T.T có khả năng đọc
được cho trên báo, cách 1.8m – 2m. Khả năng nhìn trở lại gần như bình
thường.
Cháu B.C.T thì cho kết quả chậm hơn, nhưng sau buổi thứ 9 thì cháu
đứng cách 1.5 – 1.6m đã đọc được cho nhỏ trên báo. Các cháu tập thêm 2
buổi nữa và sau đó đi khám lại. kết quả thật đáng vui mừng là thị lực của các
em đã hồi phục hoàn toàn (10/10) sau đúng 2 tuần luyện tập hồi phục tích
cực. Điều đáng ngạc nhiên khác là, các triệu chứng rối loạn phân ly không
xuất hiện trong suốt quá trình tập luyện. Kết quả này đã được chúng tôi báo
cáo tại cuộc họp hội chẩn gồm các giáo sư bác sĩ đầu ngành của Viện Nhi
Thuỵ Điển, Viện Mắt Trung ương và Viện Tâm thần Trung ương sau đó.
Theo dõi kết quả sau trị liệu cho thấy, các cháu trở lại lớp học bình
thường, đến nay đã gần 7 tháng. chúng tôi đã nhận 2 lá thư cám ơn của gia
đình và các cháu, thông báo rằng sức khoẻ các em rất tốt, không có bất kỳ rối
nhiễu tâm trí nào.
Lời bàn:
Trường hợp này giống như các trường hợp bị câm hoặc điếc do những
ức chế tâm lý sau stress. do một pha chấn thương mạnh về thể chất hoặc
tâm thần gây ra (ví dụ: sau một tai nạn hoặc một biến cố đau thương lớn nào
đó). Bệnh nhân có thể bị câm. điếc hoặc suy giảm thị lực hoặc các chứng
bệnh khác trong một khoảng thời gian khá dài, bởi vì họ vẫn bị những ám ảnh
sau stress kiềm chế. Sở dĩ các phương pháp giải thích, luyện tập thư giãn
hoặc bấm huyệt đã áp dụng trước đó nhưng không có hiệu quả là vì tập
không đúng phương pháp, vì chúng được thực hành một cách đơn độc. riêng
rẻ, không phối hợp cùng nhau. Nhưng điều quan trọng nhất là cả nhà trị liệu
và người bệnh không có đủ niềm tin mạnh mẽ vào khả năng trị liệu của chính
các phương pháp mà họ đang luyện tập. Do đó họ không nhất tâm. không tự
giác. không kiên trì luyện tập. Vì vậy không đạt kết quả.
4. Ám sợ lẩn tránh tiếp xúc xã hộiCháu N.A.T sinh ngày 8/4/1985. là học sinh lớp 8, được mẹ đưa đến
bệnh viện ngày 9/4/1999 với chứng bệnh ám sợ lẩn tránh xã hội. rối loạn thần
kinh thực vật. Cháu đã đi khám chữa nhiều nơi. cả đông tây y đều không khỏi
và bệnh ngày càng nặng hơn.
Triệu chúng biểu hiện ra ngoài trong lần tiếp xúc đầu tiên là: mặt luôn
cúi không nhìn thẳng. mắt trái nháy giật liên tục (khó chịu với ánh sáng). khó
nói (thấy nghẹn ở cổ). đau đầu. nóng khắp đầu (đặc biệt phía sau đầu). tức
ngực khó thở. Cháu chỉ thích ngồi. nằm 1 mình trong phòng tối. không thích
tiếp xúc với ai. rất khó đi ngoài (cảm giác có một bối rối ở trong ruột phía
trong hậu môn). Tình trạng sức khoẻ nói chung suy kiệt.. trầm cảm. thỉnh
thoảng có cơn cáu gắt hoặc nói nhảm bất thường. cháu từ chối ăn vì sợ ăn
vào bị nặng hơn. dốt đi.
Trước khi bị bệnh:
Cháu N.A.T là con cả trong gia đình bố làm y sỹ quân y. mẹ là cán bộ ở
một trung tâm nghiên cứu khoa học. trước khi bị bệnh cháu là con ngoan, rất
đảm đang trong công việc gia đình. ở trường là học sinh khá, cháu không có
những biểu hiện gì đặc biệt về hành vi.
Bố mẹ cháu lấy nhau tự nguyện, khi mang thai cháu. mẹ hay bực bội vì
ở chung phòng với 2 người phụ nữ khác. Cháu có lịch sử sinh khó (phải dùng
giác hút nhưng không bị ngạt,) và hay ốm đau quặt quẹo. Vào lúc 2 tuổi. cháu
bị viêm phế quản. đi tiêm và bị teo cơ một bên chân từ đó (những vẫn đi lại
được). Từ tháng 7/1998 cháu bị con mèo nhà hàng xóm cắn vào ngón tay.
trước đó cháu thấy con mèo này ăn một con cóc, chán rất sợ. Khoảng 1
tháng sau con mèo bị ốm không đi được và ít lâu sau con mèo chết. Từ sau
khi bị cắm cháu luôn lo sợ mèo truyền bệnh cho mình (cháu lo sợ nhưng chỉ
nói cho bố mẹ biết khi con mèo đã chết).
Kể từ đó cháu thấy rất khó đi ngoài. hay vào nhà vệ sinh. mỗi lần ngồi 1
– 2 tiếng vẫn không đi được. Cháu có cảm giác có một khối rối, tắc sâu phía
trong hậu môn. Cháu đòi mẹ cho đi khám soi, chiếu. chụp nhưng không phát
hiện có điều gì khác thường (cháu bộc lộ đã đôi lần cho ngón tay vào trong
hậu môn và dùng vòi nhựa chọc). Cùng thời gian này: cháu dần dần cảm thấy
đau đầu, đau nửa đầu, rồi toàn đầu. thường thấy nóng ở sau đầu rồi lan ra
khắp đầu; thường xuyên có cảm giác tức ngực nghẹt thở. khó nói (để nói một
câu gì đó có khi phải mất 5- 7 phút mới bật ra được). Cháu cùng dần dần xa
lánh bạn bè, tránh mọi quan hệ xã hội (mỗi khi có ai đến nhà cháu thụt vào
buồng). Cảm giác lo âu xuất hiện thường xuyên, cháu tưởng tượng ra mặt
mình đen và mọc mụn. Trên lớp. lúc cô gọi hỏi bài thì cháu ấp úng không nói
ra được (cháu cho biết vì sợ nói sai, vì cảm thấy có gì nghẹn không bật ra
được). Từ đó cháu luôn cúi và nghiêng đầu một bên. Mắt nháy liên tục và sợ
ánh sáng.
Chẩn đoán:
Bài đầu từ một sự kiện gây stress (mèo cắn) cháu bắt đầu lo âu và nảy
sinh những ý nghĩ, niềm tin không hợp lý. Stress trường diễn này gây hậu quả
xấu làm rối loạn hệ thần kinh thực vật. biểu hiện ra ngoài thành các chứng
khó thở, đau đầu. khó đi ngoài thân nhiệt bất ổn. Cháu bắt đầu quan tâm hơn
đến trạng thái cơ thể và suy đoán tưởng tượng ra các triệu chứng bệnh. Tiếp
theo là những hành vi phản ứng tiêu cực và nhận thức tiêu cực với “bệnh” (từ
chối giao tiếp) theo vòng luẩn quẩn (xem sơ đồ).
Điều trị:
Chiến lược can thiệp trị liệu thích hợp là: loại bỏ những ý nghĩ không
hợp lý, chỉ tập trung quan sát những cảm giác, hành vi không duy trì trạng thái
bệnh để phá vỡ vòng lẩn quẩn – cơ chế duy trì rối nhiêu tâm thể ở trên, luyện
tập thở tĩnh công dưỡng sinh để khôi phục chức năng của hệ thần kinh thực
vật.
CO CHE DUY TRI BENH TAM THE
Chương trình tự liệu kéo dài trong 12 tuần (mỗi tuần 1 buổi phối hợp
những liệu pháp sau đây:
1– Điều chỉnh nhận thức và hành vi:
Liệu pháp này được sử dụng vì có những bằng chứng cho thấy bệnh
nhân có những ý nghĩ. niềm tin sai lệnh. Bắt đầu từ việc giải thích, bác bỏ ý
Ban tam voi nhung thay đoi hoac nhung phan ung bat thuong cua co the
Tang cuong su chu y đen
cơ the
Kiem tra hanh vi va tim
kiem an toan
Canh giac nhay cam ve sinh ly co the
Lo lang – so haiSuy đoan, dien giai cac cam giac cua co the hoac tuong tuong, tin rang co nhung dau hieu cua mot
can benh tram trong
Su đe doa đuoc than chu y thuc
Tac nhan kich thich gay Stress(cac su kien, tinh huong, benh thuc the…)
định của bệnh nhân chỉ muốn đến khoa tiêu hoá, soi thụt lại hậu môn mà từ
chối khám các bác sĩ tâm thần – tâm lý. Sau đó đưa ra những bằng chứng
loại bỏ ý nghĩ: “cháu có thể bị lây bệnh từ con mèo”. Khuyến khích cháu ăn
nhiều (với các loại thực phẩm dễ tiêu) để tạo phản xạ co bóp dồn đẩy thức ăn
làm thông ruột (do đó loại bỏ cảm giác “khối rối”) và để dễ đi ngoài. Dừng các
hành vi kích thích hậu môn lại. vì vùng này rất gầu với huyệt hội âm (cllakras
số 1). nơi được coi là con hoả xà trong lý thuyết khí công và yôga, một khi bị
kích thích sẻ gây cảm giác hoả chạy khắp người, mất khả năng kiểm soát
thân nhiệt.
2– Thư giãn:
Cháu T tự ám thị mặt mình đen ra, khó nhìn và mọc mụn, sẽ không
hiểu quả nếu chỉ dùng cách giải thích bằng lời rằng điều đó là phi lý. là không
đúng. rằng đó có thể là những biến đổi có liên quan đến tuổi dậy thì… Chúng
tôi đơn thuần chỉ yêu cầu cháu luyện tập thư giãn trước gương. Soi mình vào
gương, thư giãn các cơ trên mặt. Trong tư thế thư giãn. chọn cho mình một
gương mặt tươi tắn nhất. giống nhất với thời kỳ trước khi bị bệnh và giữ rất
lâu khuôn mặt đó (làm đi làm lại nhiều lần), quán tưởng những hồi ức tươi vui
nhất ở trường hay ở nhà mà cháu đã từng có.
3– Luyện thở:
Luyện thở 2 thì và 3 thì. tập trung vào quán tưởng hơi thở phồng. xẹp
hoặc nén tại Đan điền. Luyện thở huyệt (chú tâm vào huyệt ấn đường và
Bách hội) để trải nghiệm và hình thành khả năng kiểm soát các trạng thái xúc
cảm (kiểm soát hệ thần kinh thực vật). Luyện thở nội tạng trước hết thở làm
chậm nhịp tim (đặt tay vào vùng tim(quán tưởng tim đập chậm, nhẹ, đều).
Quán tưởng vùng tim ấm lên. Sau chuyển sang vùng gan, thở thanh khí ở
vùng gan. rồi thận (pha thở ra kéo dài hơn pha hít vào) Mục đích của bài tập
này là thu hoả về tâm và ngăn cản can hoả bốc lên đầu.
4– Loại bỏ những hành vi không thích nghi:
Bằng cách củng cố tăng cường các hành vi thích nghi không duy trì
trạng thái bệnh. Tập cười. đáp nói một mình trước gương để loại bỏ hành vi
lẩn tránh thu mình. Sau đó tập giao tiếp với người thân, tham gia vào các câu
chuyện giao lưu hàng ngày. Chủ động tập nháy mắt. phải (mắt. không giật) và
làm chấm phản xạ giật nháy mắt trái (mắt nháy giật). tiến tới dập tắt phản xạ
máy cơ này.
5– Khuyến khích cháu viết nhật ký:
Ghi nhận các cảm giác khó chịu bất thường cũng như các giải pháp
cháu áp dụng để thoát ra khỏi các cảm giác khó chịu đó.
6– Xoa bóp nội tạng:
Đặc biệt là xoa nắn bụng – bụng trên và bụng dưới. Đặt tay vào vòng
rốn hoặc bụng dưới. trùng gối. rung lắc toàn thân sao cho toàn bộ các cơ
quan nội tạng đều bị chấn động.
Kết quả:
Sau 3 tuần điều trị. Mỗi tuần 1 buổi với nhà trị liệu và tự luyện tập 2/3
lần/ngày vào sáng chiều hoặc tối trước khi đi ngủ. cháu T đã có những tiến bộ
rõ rệt: giảm đau đầu. bớt khó thở và cháu tin rằng “luyện tập theo các bài tập
được chú Kh. chỉ dần có thể khỏi bệnh”. Cháu đã ăn khoẻ trở lại. Tuần thứ 4
có một cuộc cãi nhau với mẹ. các triệu trứng trên tái phát lại và xuất hiện cơn
phát cuồng – nói nhảm. Tuy nhiên buổi trị liệu tiếp theo chúng tôi đã sử dụng
liệu pháp tràn ngập để hoá giải và lập một cam kết với bệnh nhân. Không để
điều này tái phát,. đồng thời hướng dẫn bệnh nhân cách ứng phó nếu điều đó
có nguy cơ xảy ra lại. Người mẹ cũng được hướng dẫn phải làm gì để giúp
bệnh nhân.
Kết quả sau 12 tuần trị liệu tích cực trạng thái sức khoẻ tâm thân của
châu T đã hồi phục đáng kể. khỏi đến 70% – 80%(cháu đã biết cách tự kiểm
soát các hành vi không thích nghi của mình. đã giao tiếp với bạn bè. tham gia
vui vẻ vào các hoạt động xã hội ở trường. Lúc này gia đình cháu xin phép cho
cháu đi nghỉ mát xa (về nông thôn khoảng 1 tháng. Sau một tháng sức khoẻ
của cháu tốt. lên. Từ đó cháu tự tập luyện ở nhà và có những liên hệ với
chúng tôi qua điện thoại. Sau 3 tháng. gia đình thông báo. tinh trạng sức khoẻ
cháu đã trở lại gần như bình thường (so với trước khi bị bềnh).
Kết quả sau 6 tháng. gia đình cho biết cháu đã hoàn toàn bình phục
như trước.
Lời bàn:
Chiến lược sử dụng phối hợp nhiều liệu pháp tỏ ra có hiệu quả nhưng
mấu chốt là sử dụng các liệu pháp này không cứng nhắc mà phải linh hoạt.
“cắt may” cho vừa với từng trường hợp cụ thể Chẳng hạn liệu pháp thư giãn
và tự quan sát điều chỉnh qua gương tỏ ra rất có hiệu quả trong trường hợp
này.
5. Stress và chứng TIC (máy giật cơ)Cháu Đ.H.V – nam. 15 tuổi, học lớp 9 (ham học. học giỏi. đã thi ôlimpic
Tiếng Anh liên trường đoạt. giải 3. quê ở Vĩnh Phúc.
Mẹ đưa đi khám vì cháu bị chóng TIC (máy giật cơ) khó nói.
Cháu bị chứng bệnh này đã vài tháng do một lần cô giáo gọi lên bảng
trả lời. cháu trả lời được mấy câu rồi áp úng. không nói được nửa. các bạn
trong lớp cười (cháu kể lại lúc đó cảm giác không nhớ gì cả thấy tim mình đập
rất nhanh. tức chở. nghẹn ở cổ) Từ đó cháu cảm thấy khó nói. máy giật cơ
mắt. cơ mắt(nhưng cháu không nói cho bố mẹ biết. Khoảng hơn hai tháng
sau bố mẹ mới phát. hiện ra. đưa xuống Khoa Tâm thần. Bềnh viện Nhi Thuỵ
Điển khám.
Hoàn cảnh gia đình:
Bố là sĩ quan quân đội. mẹ là cán bộ văn phòng. cháu V là con lớn
trong gia đình. dưới V là một em trai 8 tuổi. Cuộc sống gia đình không có gì
bất thường.
Thăm khám và chẩn đoán:
Mẹ đưa cháu đến gặp chúng tôi và kể về quá trình bị bệnh của cháu.
Khi chúng tôi quay sang hỏi về bệnh tình của cháu. cháu vừa định nói thì lập
tức xuất. hiện cảm giác nghẹn lấy cổ. máy giật cơ mặt cơ mắt liên tục. hai
cánh mũi phập phồng. tim hồi hộp mạnh khoảng 10-12 phút sau cháu mới nói
được. nhưng chỉ được vài câu TIC lại xuất hiện lại…
Cháu V ham học. chăm học và có những ham muốn về kết quả học tập
(cố gắng học để giữ danh hiệu học sinh giỏi). Đó là những tác nhân gây
stress trường điện. tuy nhiên điểm khởi đầu “bệnh lý” là mọt stress xúc cảm
trong tình huống bị gọi lên bảng. cảm giác lo sợ đột ngột. tim hồi hộp đã dẫn
đến phản ứng của cơ thể co giật đột ngột. Cháu V không có khả năng giải toả
stress này và sự lo sợ hẫng hụt này chuyển thành phản xạ được điều kiện
hoá – máy giật cơ mỗi khi có một kích thích xúc cảm. Như vậy' chứng TIC này
chính là quá trình thực thể hoá một stress về tâm lý và nó ngăn cản chức
năng hoạt động bình thường của các giây âm thanh làm bệnh nhân mất nói.
hồi hộp trong khoảng thời gian ngắn.
Cách điều trị:
Mục tiêu trị liệu nhằm vào việc bỏ chứng TIC và kiểm soát. xúc cảm. Để
đạt mục tiêu này. chúng tôi đã áp dụng một nhóm các liệu pháp sau đây:
1. Tập thư giãn. kiểm soát nhịp tim. hơi thở: thư giãn là liệu pháp tốt
nhất giúp trẻ này ứng phó được với chứng máy giật cơ và hoá giải cơn hồi
hộp”. Trẻ được hưởng dẫn kỹ năng thư giãn. cách thở bằng cơ hoành để điều
hoà cảm xúc mỗi khi xuất hiện cơn TIC. hồi hộp. trẻ đưa tay lên vùng tim.
miệng đọc thầm tim tôi đập chậm lại… chậm nữa. thật điều”, trong khi toàn
thân buông lỏng tất cả các cơ. Bằng cách này trẻ học được cách ứng phó với
xúc cảm gây hồi hộp và tự mình hạ nhịp tim.
2. Dùng liệu pháp tràn ngập và chìm ngập để giải mẫn cảm với chứng
máy cơ. Trẻ được yêu cầu ngồi yên trong tư thế thoải mái. toàn thân thư giãn.
tự tưởng tượng ra cảnh lớp học, cô giáo gọi mình lên bảng trả lời… khi phản
ứng xúc cảm hồi hộp. máy giật cơ xuất. hiện. trẻ giơ tay báo hiệu. Ngay lúc
đó. trẻ được yêu cầu stop dừng tưởng tượng lại. đặt tay lên ngực. tập trung
vào vùng tim, tự ra lệnh thầm tim đập chậm lại… thật chậm. thật đều..
Trẻ cũng được yêu cầu đứng dậy đọc một bài thơ hoặc đoạn văn để
chủ động gây ra sự hồi hộp. Khi hồi hộp. mày giật. cơ đang xảy ra. trẻ chủ
động lập lại cách thư giãn trên.
3. Trẻ được hướng dẫn một số bài tập giúp ngăn cản. làm chậm phản
xạ máy giật cơ. Đó là các bài tập phát. âm kéo dài các âm aaaa…ôôôô… hay
êêêê. “nuốt nước bọt” và “rung lười “rung cuống họng”…
Kết quả:
Sau gần hai tuần điều trị luyện tập tích cực bằng các liệu pháp tâm lý
được mô tả trên đây. cháu V. đã giảm 70%–80% chứng TIC này (giảm cả ở
tần suất. tình huống điều kiện xuất hiện và thời gian tồn tại). Và điều quan
trọng hơn là cháu V đã học được cách đối phó với chứng TIC này. từ đó có
thể chủ động ra khỏi trạng thái máy giật cơ không cần có sự giúp đơ trực tiếp
của bác sĩ tâm lý.
Cháu V ra viện. về trường tiếp tục học tập với những yêu cầu cụ thể
sau trị liệu: về nhà tiếp tục luyện tập thư giãn. Luyện các bài tập làm chậm
chứng TIC Kết quả thông báo bằng điện thoại 3 tháng. sau đó cho biết cháu
đã hoàn toàn khỏi chung TIC – máy giật cơ.
6. Từ một gia đình xung đột đến đứa trẻ bị trầm nhược, ám ảnh nghi thức
Cháu gái D.V.D.H. 13 tuổi. học lớp 8 trường THCS. năm thứ 3 lớp năng
khiếu Nhạc viện Hà Nội. vào Khoa Tâm bệnh. Viện Nhi ngày 5–1–1999 với
hội chứng ám ảnh nghi thức: trầm cảm (nghi rối loạn vận động ngoại tháp– ý
kiến của BS phòng khám). Cháu H là đứa trẻ không mong muốn ngoài kế
hoạch. bị đe doạ phải phá thai. Tuy nhiên thai đủ tháng đẻ bình thường.
Sự phát triển của trẻ có trở ngại: là một cô bé hay nhút nhát hay lo sợ.
kém ăn uống. khó ngủ. khó tính. bị chàm ở mặt. và ở chân (đã chừa nhiều nơi
vẫn chưa khỏi). từ nhỏ đã khó thích nghi khi đến nhà trẻ mẫu giáo sợ người
lạ. Nhưng H là đứa trẻ hiền lành. thông minh nhạy cảm. thích âm nhạc. Gia
đình của trẻ không 'hoà thuận. trẻ hay lo âu hốt. hoảng mỗi khi bố mẹ cãi cọ.
trẻ rất sợ bố mẹ li dị.
– Năm 12 tuổi. trẻ đi thi đàn ORGAN quốc tế được giải 3. hiện đang
tích cực chuẩn bị để đi thi nữa (mong đạt giải nhất). nhưng lo sẽ không đạt
kết quả.
– Tháng 4 – 1998. nghe tin anh trai họ (trước đó có quan hệ thân với
đối chủ) bị bạn đâm chết. tuy không chứng kiến những từ đó sinh lo hãi. luôn
nghĩ gia đình. bố mẹ. anh chị và bản thân cũng sẽ bị như vậy.
– Từ tháng 6 – l998 trẻ hay đau đầu (vùng thái dương). mỗi khi ngồi
vào bàn để tập đàn. luôn hồi hộp lo sợ không sao đánh đàn được phải làm
một động tác gì đấy như khua tay mấy vòng để trấn an rồi mới đánh đàn
được. hoặc tay sờ vào bậu cửa vài lần. Thường có cảm giác đầy ứ hơi từ
trong bụng. phải bành cổ thở hắt ra. Khi thở ra ngoài. sợ hơi độc làm nhiễu
bẩn không khí nên phải thở vào ti vi. vào thành tủ. Làm việc gì cũng phải bắt
đầu từ trái sang phải theo một trình tự nhất định. Trạng thái lo hãi kéo dài.
– Tháng 8/1998 bố mẹ đưa đi khám phát hiện bướu cổ 1A – điều trị
Lerothyrocill (2 tháng). trẻ không đỡ. thêm biểu hiện đờ đẫn, run chân tay.
nên gia đình dừng thuốc.
– Tháng 9/1998. vào năm học mới. trẻ học kém hơn. Chữ viết xấu (chữ
viết đè lên nhau). văn viết lủng củng. Bệnh nặng hơn. cô giáo cho nghi lớp
trưởng. thêm mặc cảm bất tài (vẫn lo hãi không đạt thi đàn). lo hãi bố mẹ li dị.
vẫn bị ám ảnh về. hơi thở độc). Các vận động nghi thức tiếp tục tăng lên (trẻ
luôn có cảm giác có ai đó bắt. buộc phải làm như vậy. trẻ muốn chống lại
cũng không được). Gia đình cho trẻ đi khám lại. bác sy chẩn đoán HC Gilles
de la Tollrette. hoặc hội chứng ngoại tháp: khó thở. hơi cứng hàm. nuốt khó…
Trẻ phải nghỉ học, tiếp tục điều trị thuốc (từ tháng 10 – 12/1998) nhưng bệnh
tăng lên (đau đầu. run chân tay. thường gồng co cứng toàn thân đau tức vùng
ngực. rất khó thở…).
Sau đó trẻ được đưa vào Viện Nhi. khoa Tâm bệnh với chẩn đoán:
nhiễu tâm ám ảnh – nghi thức trội. trầm nhược.
Tìm nguyên nhân:
– Là đứa trẻ không mong muốn. bố năm nay 59 tuổi. đã có một đời vợ.
li dị vì vợ ngoại tình. có hai con. Bố nuôi con trai thứ hai lên 4 tuổi. Sau đây
lấy mẹ (năm nay 49 tuổi), đã sinh một con gái (chị của trẻ). nên không muốn
sinh con nữa. Cơ quan lại có ý kiến về sinh con ngoài kế hoạch. Trước sức
ép của bố và cơ quan. mẹ vẫn cương quyết giữ thai: nhưng tâm trạng buồn
rầu.
Bố thuộc thành phần gia đình trí thức lớp trên (bố là nghị viên thời
Pháp. anh em đều là trí thức). bản thân là kỹ sư. thông minh. nhưng gia
trưởng. hơi cứng nhắc tự trọng cao (xin về hưu non do va chạm với thủ
trưởng). Mẹ mồ côi cha lúc 2 tuổi gia đình sống ở nông thôn. làm kỹ thuật
viên, có khả năng, hiền. có ý chí vươn lên, ít cởi mở. ít bạn bè, thích sạch sẽ,
thích trang điểm…
Xung đột gia đình xảy ra ít lâu sau khi sinh con gái đầu. chung quanh
việc đứa con trai riêng hư. nghịch ngợm. hay ăn cắp vặt Tình trạng con riêng.
con chung. vợ cũ lại hay đến chơi thăm con.
Quan hệ giữa hai gia đình không êm đẹp. Bố coi thường gia đình vợ là
nông dân quê thùa. không môn đăng hộ đối (sự coi thường này ngày càng
bộc lộ công khai dẫn đến coi thường luôn cả vợ)
Năm 49 tuổi. bố xin nghỉ hưu. tâm trạng “thất. thế”. xung khắc giữa vợ
chồng càng tăng lên. từ đó kinh tế vợ chồng “riêng biệt” (vợ không tán thành
việc chồng là một con người đang có năng lực. có sức khoẻ. lại xin về hưu chỉ
vì tự ái).
– Cách đây 4 năm. mẹ bị mổ ruột thừa. bố chăm sóc chu đảo Sau khi
ra viện. sức khoẻ mẹ yếu. lại sẵn có mối bất hoà nên ly thân. không có quan
hệ vợ chồng. vẫn sống chung nhưng căng thẳng. hiếm khi trao đổi với nhau.
Căng thẳng nhất là bữa cơm chiều khi giáp mặt với nhau.
Bố nghiện thuốc lá. nghiện rượu. hay tự biện minh cho mình. Vẫn coi
thường vợ. Việc cãi cọ xảy ra thường xuyên trước mặt con cái. gây tâm trạng
lo âu. suy nghĩ cho các con trước sự đe doạ gia đình bị tan vỡ.
Tình trạng gia đình xung đột kéo dài. người mẹ trong tâm trạng bực bội.
chịu đựng. người bố trong tâm trạng thất thế. Nhịn nhục.
Tiến hành trị liệu:
Tốp điều ta đã đến nhà tìm hiểu tiếp xúc với các thành viên. tiến hành
việc trị liệu gia đình để giảm bớt dần căng thẳng và quy trách nhiệm cho các
thành viên. giúp đỡ trẻ trong việc trị liệu. Và trị liệu gia đình không được tiến
hành thường xuyên vì thời gian bị hạn chế. Tiến hành trị liệu tâm lý cho trẻ
bằng trị liệu hành vi (nhóm trị liệu đã dùng các nhóm liệu pháp: thư giãn. giải
mẫn cảm. điều chỉnh nhận thức. thở dưỡng sinh và các bài táp thiền).
Sau một thời gian (một tháng) điều trị ở bệnh viện. các triệu chứng
bệnh giảm đáng kể (hết khó thở. không còn cảm giác hơi thở độc. giảm đau
đầu. giảm trầm nhược. tình trạng ám ảnh nghi thức giảm nhiều). Gia đình xin
tiến hành điều trị ngoại trú. mỗi tuần trẻ đến viện một lần. Trẻ ra viện với tình
trạng sức khoẻ khả quan. các triệu chứng giảm từ 60–70%, gia đình cho trẻ đi
học trở lại.
Tuy nhiên sau 2 tháng. trẻ lại có biểu hiện trầm cảm. lo âu. tình trạng
ám ảnh nghi thức mới xuất hiện và sau đó có chiều hướng không tốt: trẻ có ý
tưởng tự sát (bệnh nhân ghi nhật, ký). Kíp trị liệu phân vân giữa sự doạ dẫm
và ý tưởng tự sát thực sự. Bác sỹ tâm thần cho thêm thuốc uống chống trầm
cảm để hỗ trợ cho trị liệu tâm lý…
Kết quả sau 10 tháng. trẻ hết ý định tự sát. ám ảnh nghi thức giảm
nhiều (hầu như hết). vẫn tiếp tục đi học. biểu hiện lo âu trầm nhược vẫn còn
dao động (lúc tăng lúc giảm) nhưng ở mức thân chủ có thể “chịu đựng được”.
Lời bàn:
Trẻ gái 13 tuổi đang bước vào tuổi dậy thì. phát sinh những tình cảm
mới. Trẻ vừa phải học lớp 8 phổ thông vừa học năm thứ 3 Nhạc viện Hà Nội,
vừa chuẩn bị thi giải… Từ trong thai đã bị đe doạ phá thai. ra đời những năm
đầu có các biểu hiện như khó ngủ khó ăn uống. khó tính. trầm. Lại sinh sống
trong một môi trường gia đình có nhiều xung đột giữa bố mẹ (con liêng. con
chung. tính cách xung khắc. chồng trong tâm trạng thất thế…) nên trẻ gái này
luôn trong tình trạng bị stress, luôn lo sợ: lo học lo thi không được giải. lo sợ
cho sự yên ấm của gia đình. sợ bố mẹ li dị… Thêm vào đó xảy ra một vài sự
việc như người anh họ bị chết. do bạn đâm. bố mẹ ly thân, trẻ lo hãi tăng lên
sau đó chuyển thành các rối nhiễu cơ thể như cứng cơ. khó nuốt.. đau ngực:
khó thở… Vào viện được tiến hành điều trị với chuẩn đoán “nhiễu tâm ánh
ảnh nghi thức”. Vào viện trẻ được điều trị tích cực phối hợp thuốc và các liệu
pháp tâm lý nên các triệu chứng của rối nhiễu giảm. nhưng các nguyên nhân
gốc vẫn chưa được loại bỏ (tiến hành trị liệu gia đình không thường xuyên) về
nhà gặp lại môi trường cũ dễ tái phát.
Trẻ được khuyến khích tiếp tục đến lớp học, nhưng không đặt mục tiêu
lên lớp mà chú trọng quan hệ đồng cảm bạn bè. cả nhà được giao trách
nhiệm tạo bầu không khí “hoà hoàn không xung đột”. Chị gái được giao trách
nhiệm đặc biệt đóng vai nhà trị liệu tại gia giúp em ra khỏi rối nhiễu.
7. Bệnh con, trị liệu mẹTrong lâm sàng tâm lý. không hiếm trường hợp bố mẹ đưa con đến
khám vì những triệu chứng tâm lý bất thường nào đó, nhưng thực chất người
nẹ hay bố đang có những vấn đề về tâm lý cần phải điều trị hơn là chính đứa
trẻ. Dưới đây chúng tôi xin trình bày một ca lâm sàng điển hình: Xin trị liệu
tâm lý cho con, nhưng chính mẹ mới cần phải trị liêu.
Cháu N.T.L, 20 tháng tuổi được mẹ đưa đến bệnh viện gặp một bác sỹ
nhi khoa vì cháu bé có những tiếng hét “bất thường” Và những hành vi “hung
tính!' như “cắn”. “cấu'. “đánh mẹ”… mỗi khi không được thoả mãn. Bác sĩ Nhi
khoa sau khi khám lâm sàng nhi khoa không phát hiện ra điều gì đáng ngại.
đã đề nghị bà mẹ tạo ra một tình huống kích thích trẻ la hét (giật một đồ chơi
trẻ đang cầm). Sau khi nghe thấy tiếng la hét có vẻ bất thường đó, bác sỹ yêu
cầu làm điện não đồ. Kết quả điện não đồ cho thấy có những sóng nhọn bất
thường. bác sỹ kết luận: “Cháu bé có dấu hiệu động kinh”. Và chỉ định dùng
thuốc (depakine liều nhẹ), nhưng uống vào triệu chứng lại có vẻ tăng lên, vì
vậy gia đình tự động dừng thuốc.
Tìm hiểu nguyên nhân:
Chị N.T.L – 24 tuổi là giáo viên ở một trường đại học, sinh cháu L là
con đầu, chưa có kinh nghiệm nuôi con nhỏ. Trẻ sinh bình thường, ăn khoẻ,
mau lớn. hiếu động, biết đi sớm. Trước 15 tháng tuổi, cảm giác trẻ phát triển
bình thường(nghịch ngợm, tuy nhiên từ tháng 17 trở đi, trẻ hay quấy, hay cáu.
hét, không chịu chơi một mình, ngủ không ngon giấc, hay giật mình, cảm giác
trằn trọc khó ngủ. Mẹ rất buồn phiền lo lắng. Sau khi được bác sỹ “chuẩn
đoán bị động kinh”, mẹ bị cơn sốc quá hoang mang (có ý oán trách bác sỹ
không giữ kín chuyện này) và luôn luôn lo lắng cho tương lai sau này của trẻ.
Gia đình đã đi tham khảo các chuyên gia thần kinh, nhưng các ý kiến
không thống nhất, càng bán tín bán nghi.
Chẩn đoán và tư vấn trị liệu:
Chúng tôi đến tận nhà, quan sát trẻ chơi trong các tình huống khác
nhau, không phát hiện thấy có gì đặc biệt ngoài việc trẻ hay hờn cáu, ném đồ
vật hoặc hét to. Có thể trẻ đang ở giai đoạn học nói. hoạt động với đồ vật. khi
không thoả mãn. trẻ bực tức thể hiệu ra tiếng hét. Người mẹ trẻ do chưa có
kinh nghiệm chăm sóc những trẻ “hiếu động” nên có thể phiên dịch “tiếng hét
to” như là điều bất thường.
Qua trò chuyện, chúng tôi nhận thấy người mẹ trẻ có nhiều tâm tư. hay
lo nghĩ, lại ít hiểu biết về sự phát triển sinh – tâm lý trẻ (thường cho trẻ ăn chế
độ giàu đạm động vật, ăn no về đêm – điều này có thể làm trẻ khó ngủ).
Trước đó, trẻ có trận ốm (sốt cảm), trẻ quấy, mẹ quá lo lắng hốt hoảng hay để
ý đến mọi thay đổi của trẻ. Sau khi trẻ khỏi, mẹ luôn bị ám ảnh trẻ không bình
thường trở lại như trước đây. Việc không cảm nhận được tình cảm âu yếm,
vui cười, đùa nghịch của người mẹ (giống như trước đó) rất có thể dẫn đến
những phản ứng “bất thường” của trẻ như cáu giận, ném đồ vật, đánh lại mẹ
hoặc la hét… Quan trọng hơn nữa, nỗi lo lắng này người mẹ không biết chia
sẻ cùng ai.
Chúng tôi đã tiến hành trị liệu bằng tư vấn qua điện thoại. Bắt đầu bằng
việc lắng nghe người mẹ thổ lộ tâm tư nhiều khi dài hàng giờ qua điện thoại
(người mẹ nhiều lần khóc trong điện thoại). Sau mỗi cuộc nói chuyện tư vấn,
chúng tôi thường gợi ý cách quan sát. giao nhiệm vụ cho người mẹ theo dõi
hành vi của trẻ, xem đó như là bằng chứng để điều chỉnh nhận thức không
hợp lý và thái độ lo lắng thái quá của mẹ.
Những lần thăm khám trẻ trực tiếp tại nhà là cơ hội để cung cấp. huấn
luyện các kiến thức. kỹ năng hiểu biết nhu cầu của trẻ. cùng chơi với trẻ.
Ngoài việc trấn an người mẹ rằng việc kết luận trẻ 20 tháng tuổi bị động kinh
bằng điện não đồ chưa thật sự tin cậy, mà nên tham khảo các chuyên gia
thần kinh, tâm thần. ý kiến của một vài chuyên gia hàng đầu về thần' kinh tâm
thần cũng thống nhất như vậy. điều này làm giảm stress ở người mẹ.
Mục tiêu chúng tôi luôn hướng tới là điều chính thái độ và hành vi của
người mẹ, làm sống lại tình cảm âu yếm, vui đùa của người mẹ trước đó để
thay đổi phản ứng ở đứa trẻ.
Kết quả: sau gần 3 tháng trẻ đã!'giảm hẳn” những hành vi bất thường,
đặc biệt. là đã ngủ yên. ít la hét hơn trước. người mẹ rất phấn khởi.
8. Kém học, ứng xử bất thườngCháu N.V.B – nam. 11 tuổi. là học sinh lớp 6B trường THCS Chương
Dương. cô giáo chủ nhiệm lớp báo cáo. B là học sinh cá biệt. bất thường.
không chịu học. thường xuyên bị điểm 1.2 và bị ghi tên vào sổ đầu bài nhiều
lần trong tuần. nhưng khi phê bình chỉ cười. không xấu hổ. B thường xuyên
không làm chủ được hành động của mình. Trong lớp B hay cười. nói tự do,
hay mơ màng ngủ gật không học bài. không làm bài tập. chép bài không đầy
đủ. thường xuyên quên sách vở hay bút, hay đánh mất đồ dùng học tập…
Nhưng B vần thích đến lớp học. không trốn lớp hay bỏ tiết. B cũng không có
bạn thân trong lớp. Cô giáo đã làm “hết cách” mà trẻ vẫn không tiến bộ.
Hoàn cảnh gia đình:
B là con một trong gia đình. bố làm nghề lái xe, ít khi có mặt ở nhà, bố
là người dữ đòn (làm trẻ sợ). Mẹ làm nghề bán hàng ở chợ, khá bận bịu với
công việc buôn bán làm ăn. cũng ít có thời gian quan tâm đến trẻ, nhưng rất
chiều trẻ. Bố mẹ cho biết trẻ đẻ non một' tháng, lúc nhỏ có vẻ hơi chậm, có
lúc dường như hơi ngẩn.
Tiếp xúc – hỏi chuyện:
Trẻ tỏ ra vui vẻ hay cười. hay thay đổi tâm trạng. dể xúc động. thường
bị động. lúng túng trong các câu trả lời (thường trả lời không biểt) trẻ không
có kế hoạch học tập, không biết học để làm gì thích đến lớp vì ở lớp vui. ở
nhà buồn… thích được điểm cao như các bạn và rất sợ đúp (trẻ rớm nước
mắt khi nói đến vấn đề này) vì sợ bố đánh.
Đánh giá trí tuệ bằng trắc nghiệm:
Chúng lôi dùng bộ test.: WICS – III để đánh giá trí tuệ cho trẻ. Lúc đau
trẻ háo hức thích làm. sau khi làm được 30 phút, trẻ đòi bỏ. phải động viên trẻ
mới chịu làm tiếp. Chi số IQ của trẻ không có gì đặc biệt. phần trắc nghiệm
hành động (Performallce test) có IQ: 88. phần trắc nghiệm bằng lời (Verbal
test.) có IQ 92. những riêng tiểu trắc nghiệm mã hoá vận động (Code) có số
điểm rất thấp (chỉ tương đương với trẻ 8 tuổi).
Quan sát trên lớp, tìm hiểu nguyên nhân:
Chúng tôi dự giờ các tiết toán. văn và tiếng anh trong suốt một tuần và
đã phát hiện ra nhiều điều thú vị liên quan đến kết quả học kém và hành vi bất
thường của trẻ. Trẻ được xếp ngồi bàn cuối cùng. hay ngọ nguậy không yên.
hay cười. nói tự do, ít tập trung chú ý nghe giảng. Không luôn ở tư thế cầm
bút chép bài. mỗi khi cô đọc. các bạn khác chép bài trẻ vẫn còn xoay bút.
xoay sách. trẻ viết rất chậm. chữ rất xấu. thường cô và trẻ khác đã chuyển
sang câu sau. trẻ vẫn chưa viết xong câu trước. nên rất hay hỏi lại. Quan sát
kỹ. chúng tôi thấy trẻ cầm bút sát ngòi. đầu cổ và tay cùng căng cứng khi viết.
do vậy chỉ viết được một vài câu trẻ phải buông bút xoay tay xuýt xoa kêu
mỏi.
Kiểm tra vở sau tiết học cho thấy trẻ chỉ chép được vài lòng, tương
đương khoảng 10%-20% so với các bạn cùng lớp và thường là những câu
chữ không đọc được hoặc vô nghĩa.
Nguyên nhân chính nằm ở cách cầm bút sai thành thói quen từ các lớp
dưới, làm tốc độ viết rất chậm, càng cố căng cứng cơ để “tăng tốc độ thì càng
viết chậm lại. Vì vậy. trẻ phải ngoáy, phải bỏ câu đang viết dở để viết tiếp câu
sau. do vậy thành câu vô nghĩa. khó đọc khó hiểu. Về nhà. trẻ không có vở
học. không đọc sách giáo khoa(không học nên bị điểm kém. Sợ bố kiểm tra
nên trẻ “chủ động” đánh mất vở' thay vở mới… Để chống lại dư luận, trẻ trở
nên trơ lỳ '!cười vui vẻ với điểm l.2”. “nhăn nhở không tự ái” khi bị cô giáo phê
bình. Trẻ không thích học nhưng không dám bỏ học vì sợ bố. thích đến lớp vì
sợ ở nhà một mình buồn.
Kế hoạch dạy học chỉnh trị:
– Sửa lại cách cầm bút (cầm cao lỏng tay. người. cổ không ngụeo…)
tập' chép bài để nắn chữ viết. Đây là công việc không dễ dàng. cần phải có
thời gian và sự trợ giúp đắc lực của bố mẹ. gia sư.
– Lập cam kết gồm 4 điểm sau:
+ Không nói chuyện tự do trong lớp. giảm số lần bị ghi tên trong sổ đầu
bài xuống còn 1 đến 2 lần/ một tuần.
+ Ghi chép bài trên lớp đầy đủ (nếu không chép kịp. mượn vở bạn về
chép lại).
+ Phát biểu miệng hơn 2 lần trong tuần.
+ Điểm kiểm tra miệng đạt từ 5 trở lên.
Dùng biện pháp củng cố. thưởng quy đổi để khuyến khích, giám sát
việc thực hiện cam kết này vào cuối tuần. Sau tuần thứ 2 chúng tôi thêm một
điểm vào bản cam kết: điểm kiểm tra là 15 phút từ 4đ trở lên. Thời gian cam
kết kéo dài 4 tuần.
Kết quả:
Trẻ thực hiện khá tốt trong 2 tuần đầu. Lần đầu tiên, theo cô giáo chủ
nhiệm, trẻ được 5 điểm môn văn và 5 điểm viết 15 phút môn Anh văn, trẻ phát
biểu miệng được 2 lần trong tuần và giảm hẳn nói chuyện. cười tự do (chỉ bị
ghi vào sổ đầu bài 2 lần trong 2 tuần). Tuy nhiên trẻ vẫn không chép bài đầy
đủ. Trẻ không có ai kèm học ở nhà do bố mẹ “không hợp tác” thực hiện các
yêu cầu trị liệu. Chúng tôi đề nghị gia đình cho trẻ tham gia học lớp đặc biệt
một tuần 2 buổi, gia đình không trả lời. Chúng tôi buộc phải kết thúc trị liệu
sau 3 tuần, mặc dù công việc can thiệp – trị liệu đang diễn ra theo chiều
hướng tốt.
Kết quả cuối năm học trẻ lưu ban, bố mẹ tìm đến xin nhờ giúp đỡ lại…
cam kết hợp tác, chúng tôi đã từ chối.
9. Chứng đau đầu, ám ảnh lo âuChứng bệnh đau đầu có rất nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, tỷ lệ người
bị đau đầu do stress rất cao. Tình trạng đau đầu của những bệnh nhân này
không giống như đau đầu ở những người bình thường do bị cảm, do thay đổi
thời tiết. Đau đầu do bị stress trường diễn là những cơn đau đầu thường
xuyên (kinh niên cảm giác đầu nặng, âm u hoặc u đặc. Đó là đau đầu do suy
nhược thần kinh kèm theo mệt mỏi, khó ngủ, tính tình bất thường. Dưới đây
là một ca lâm sàng điển hình:
Anh T.T.T sinh ngày 26/1979 là sinh viên năm thứ 2 Đại học Thương
mạí. tìm đến trung tâm khám chữa bệnh số 9 Ngọc Khánh với chứng bệnh
đau đầu khoảng 3–4 năm nay. Đầu thường xuyên nặng. đau và có cảm. giác
u đặc. trí nhớ giảm sút (cảm thấy rất khó khăn khi phải ghi nhớ một điều gì
đó) và rất. hay suy nghĩ miên man. Đồng thời luôn cảm giác khó chịu khó bứt
rứt vì không loại bỏ được những ý nghĩ “không mời mà đến” này. Màc dù anh
đã đi thăm khám và chữa trị ở một số nơi. Kể cả luyện tập theo phương pháp
nhân điện. chứng bệnh vẫn ngày càng trầm trọng.
Nguyên nhân bệnh:
Những biểu hiện trên đây là triệu chứngg của bệnh suy nhược thần
kinh do ảnh hưởng trường diễn của stress. Bắt đầu là những cuộc chạy đua
đầy căng thẳng của kỳ thi hết cấp. kỳ thi vào đại học. Sau đó là một lối sống
phá hủy sức khỏe ở ký túc xá sinh viên (ăn ngủ không có giờ giấc, rồi những
stress trong quá trình học tập ở đại học) những stress này tích tụ gây ảnh
hưởng trước hết là giấc ngủ, sau đó là những cơn đau đầu không dứt. Bệnh
nhân này bắt đầu lo lắng và để ý đến các trạng thái bất ổn của cơ thể nhưng
càng để ý, càng lo lắng thì chứng bệnh suy nhược này càng phát triển vì cơ
chế tự ám thị (liê tưởng tới một căn bệnh trầm trọng-bệnh tưởng). Vì chính
bệnh nhân không có biện pháp hữu hiệu để làm giảm tress.
Chẩn đoán và điều trị:
Kết quả là test kiểm tra trí nhớ, sử bộ test WMS-R (Wechsler Memory
Scale- Revised). Đã khẳng định rằng T có trí nhớ ở mức trung bình- trung
bình khá. Điều này có vẻ trái với ý nghĩ của T cho rằng “trí nhớ giảm sút”.
“không thể nhớ được một điều gì đó” (thật ra là những cảm xúc căng thẳng
không kiểm soát được đã ngăn cẳn sự tập trung chú ý để ghi nhớ). Quan sát
những biểu hiện căng thẳng trên nét mặt khi hỏi chuyện, vã mồ hôi khi làm
test và thái độ luôn rốt ruột hỏi kết quả trắc nghiệm, chứng tỏ t có một nhân
cách rất nhạy cảm, dễ bị stress. Trạng thái lo lắng thái quá đối với một sự việc
không thật sự quan trọng và những ý nghĩ không hợp lý hay xuất hiện ám ảnh
trong đầu là cơ sở đúng để áp dụng những chiến lược ứng phó dưới đây.
Chương trình trị liệu tâm lý này kéo dài trong 3 tháng,mỗi tuần 1 buổi.
1– Dừng lại không suy nghĩ miên man (stop thinking): Bất kì khi nào
có một ý nghĩ không mời mà đến thì bệnh nhân lập tức nói thầm “hãy dừng
lại”. Sau đó chuyển sang một ý nghĩ vui hơn (chẳng hạn nghĩ về một. bài kiểm
tra đạt điểm tốt, một bộ phim hay tiếp tục tối nay…). Liệu pháp này được lặp
đi lặp lại: lúc đầu có vẻ không hiệu quả nhưng sau một số lần kiên trì tập. Nó
đã giúp T kiểm soát được phần nào những ý nghĩ tự động xuất hiện.
2– Luyện thở, chú tâm và chánh niệm: Thư giãn cơ. tập trung tâm ý
theo dõi hơi thở (bụng phồng lên khi thở vào. xẹp xuống khi thở ra. ngưng
nén ở Đan điền). Chú tâm vào huvệt ấn đường (phía trên sống mũi. Giữa
chân hai lông mày) Hoặc bách hội (giữa đỉnh đầu). quản tưởng các vùng này
ấm nóng. tê nặng đế điều chỉnh cân bằng hoạt động của hệ thần kinh thực
vật. Chánh niệm để tâm buông xả (bất kỳ kì khi nào có ý nghĩ hoặc cảm giác
vọng động. căng thẳng thì hãy nhủ thầm–gọi tên chúng. Đơn thuần chỉ tâm
thức hóa. Nhận biết chúng mà không manh động hay truy xét tại sao. Để
không bị chúng chi phối.
3– Xoa mặt và đếm số: Bệnh nhân được hướng dẫn chọn một tư thế
thích hợp, thả lỏng các cơ, xoa ấm 2 bàn tay, sau đó xoa mặt dọc theo chân
tóc từ trên xuống (100 lần), xoa dọc theo sống mũi từ trên xuống (100 lần),
xoa miệng tự phải qua trái và ngược lại (100 lần), vuốt tóc ngược ra phía sau
(100 lần). Cuối cùng xoa xát 2 tai (50 lần). Trong khi xoa quan tâm theo dõi
động tác và đếm số.
4– Nhận biết – chấp nhận: Bệnh nhân được hướng dẫn tự nói thầm:
“cảm gaics lo âu không có thật hoặc hiếm khi xảy ra”. “Những cảm giác stress
mà cơ thẻ đang cảm nhận là không có hại”, “những cảm giác này không thực
sự nguy hiểm”. Sau đó vui vẻ chấp nhận những cảm giác ám ảnh, lo hãi như
là một cơ hội để thực hành khả năng đối phó với stress. Tiếp tục quan sát
theo dõi xem điều gì xảy ra (không cố gắng loại bỏ hoặc truy xét tại sao mà
chỉ đơn thuần theo dõi). Hành động một cách tự nhiên coi như sự sợ hãi, lo
lắng không có mặt (không để stress chi phối cái gì bạn đang nghĩ, đang hành
động). Mong muốn một điều tốt nhất sẽ xảy ra (quản tưởng mình sẽ đạt được
một điều tốt lành nào đó)
5– Tập nhân nhẩm trong đầu: Tập nhân nhẩm ở trong đầu 2 chữ số,
rồi 3 chữ số mà không được hạ bút. Đây là bài tập luyện trí nhớ, tăng cường
khả năng chú ý, phân phối chú ý cùng một lúc lên nhiều con số và phải ghi
nhớ chúng mà khoongcos sự hạ bút viết, không dùng thuật nhân tắt để thực
hiện phép tính. Điều quan trọng không phải ở kết quả mà ở các thao tác làm
lóe sáng các con số, ghi nhớ tức thời nhiều con số.
Kết quả:
Sau 4 tuần tập luyện, cảm giác đỡ 30% - 40%. Thực chất trạng thái suy
nhược thần kinh. khó tập trung chú ý đã tiến bộ nhiều. Cảm giác đau đầu
nặng đầu hầu như không còn. T thừa nhận sức khoẻ tốt lên. ngay cả khi “trở
giời”, cảm giác nặng đầu, âm u cũng rất ít xuất hiện. Cảm giác trí nhớ lượt
lên”, dễ kiểm soát quá trình ghi nhớ có chủ định (trước đây T cảm thấy khó
khăn khi làm tính nhẩm không hạ bút với 2 con số, còn bây giờ T có thể dễ
dàng làm tính nhẩm với 3 con số khá nhanh). Đặc biệt T đã có thể tự kiểm
soát giấc ngủ, không còn quá lo lắng về chuyện mất ngủ, khó ngủ. Tuy nhiêu
cảm giác lo lắng lưu giữ trong đầu những ý nghĩ vơ vẩn vẫn còn và có vẻ
không giảm bao nhiêu'.
Từ tuần thứ 5, T được luyện tập liệu pháp chú tâm – chánh niệm về liệu
pháp ứng phó Aware gồm 5 bước như nêu ở trên. Khả năng kiểm soát lo lắng
đã tốt lên đáng kể. Bệnh nhân này xin kết thúc chương trình trị liệu sau 10
tuần. Ba tuần sau bệnh nhân gọi điện thoại hỏi. nhờ tư vấn vì có cảm giác
căng đầu trở lại. và báo cáo cảm giác thỉnh thoảng xuất hiện lại cảm giác lo
lắng bất an. Bệnh nhân đã nhận được những lời khuyên kiên trì luyện tập các
liệu pháp đã hướng dẫn và tích cực điều chỉnh chế độ ăn uống. đồng thời
được khuyến nên đổi chế độ thức khuya dậy muộn. sang ngủ sớm, dạy sớm.
Bệnh nhân hứa sẽ tiếp tục liên hệ lại nếu có gì không ổn. Tuy nhiên sau đó 4
tuần. chúng tôi không nhận được thông tin gì. điều này là một tín hiệu tốt:
những ám ảnh lo âu chắc còn có thể xuất hiện trở lại nhưng điều quan trọng
là bệnh nhân đã có khả năng tự đối phó.
Lời bàn:
Kết quả trị liệu thể hiện rất rõ trong 4 tuần đầu tiên. Nhưng một số các
triệu chứng bệnh như cảm giác lo lắng bất an vẫn dai dẳng kéo dài sau nhiều
tuần luyện tập là vì bệnh nhân này tỏ ra nôn nóng. Muốnl khỏi nhanh. Chỉ
thích tập những liệu pháp mới. bỏ không tập những liệu pháp đã hướng dẫn.
khi cảm thấy chúng không có hiệu quả ngay thì bỏ (chỉ khi nhắc mới tập lại).
Bệnh nhân rất tự giác. chăm chỉ tập nhưng bỏ qua những lời khuyên: điều
chỉnh lại thói quen. môi trường sống – điều này có thể làm hạn chế kết quả trị
liệu. Bệnh nhân cần thực hành các biện pháp kiên trì một thời gian dài hạn
nữa. để củng cố kết. quả đạt được và phải ý thức được rằng đừng chán nản
khi ít. lâu sau cảm giác lo hãi lại đến. Thay vào đó cố gắng phát hiện năng lực
giải quyết đương đầu với lo hãi của bản thân đã ở mức độ nào. Hãy chấp
nhận sự thật rằng chừng nào còn sống thì stress còn xuất hiện và cách tốt
nhất là đưa mình vào vị trí tốt hơn để sẵn sàng ứng phó. một khi nó quay lại.
10. Chứng ám sợ AIDSNhững nhân cách nhút nhát. từ nhỏ chỉ biết có học. Ít va chạm xã hội.
hay suy tư. liên tưởng có thể là những type nhân cách dễ bị thương tổn bởi
những tác nhân gây stress khi bước vào một môi trường sống tự lập.
N.A.V sinh ngày 13/3/1975. là sinh viên Đại học Y khoa Hà Nội bác sĩ
nội trú) tự nguyện tìm gặp tôi. xin được điều trị chứng ám sợ bệnh AIDS.
Chứng ám sợ này đã theo anh suốt những năm tháng sinh viên gây cho anh
không ít phiền toái và có lúc làm cho anh có những phản ứng lẩn tránh. ám
sợ nghi thức không thể kiểm soát.
Từ một bản tự thuật:
“Cuộc đời tôi đã có những kỷ niệm đẹp. những giấy phút hạnh phúc
nhưng cũng không ít những kỷ niệm cay đắng… gia đình tôi có 5 người. Tôi là
con út. Trước tôi là hai anh trai. Bố mẹ đểu là giáo viên. bố dạy đại học. còn
mẹ là giáo viên cấp III..: Tôi là một đứa trẻ ham học. nhưng nhút nhát và hay
suy tư… Đôi khi nhìn vào một cành cây khô. tôi liên tưởng nó giống khẩu
súng. và có khẩu súng thì có đánh nhau và có đánh nhau thì… Trong đầu tôi
hay có những liên tưởng như vậy. Nhiều khi liên tục không dứt. Vì thế đối với
mọi người tôi hay cáu giận một cách vô cớ vì những ý nghĩ riêng của mình…
Đến lớp 5 tôi được vào chuyên toán thành phố. thi được giải nhất tỉnh.
sau đó được cử đi học để thi học sinh giỏi toàn quốc. nhưng tôi đã thi không
được giải… Từ đó tôi học súc năm lớp 8 tôi thi trượt chuyên toán tỉnh. tôi rất
đau khổ đã khóc thầm. thậm chí không dám đi học nữa vì xấu hổ… Những
năm cấp III. đó là thời kỳ có những biến động lớn trong cuộc sống gia đình tôi
Bố đi học ở nước ngoài. hai anh đi học đại học xa. mẹ con tôi ở nhà bươn
chải… Rồi kết thúc cấp III. tôi thi trượt ĐH Y khoa Hà Nội. phải ở nhà một
năm. Năm sau thi lại nhưng hỏng Y khoa Hà Hội. chỉ đỗ y khoa Thái Bình. Tôi
cho rằng số mình đã không mấy mắn và chán nản. Những năm học ở ĐH Y
khoa Thái Bình là thột thời kỳ khủng hoảng về tinh thần. Tôi cảm thấy khung
cảnh chật hẹp. tối tăm và bắt đầu lo sợ đủ điều. kể cả những cái rất lặt vặt
cũng làm tôi bận tâm…
Vào năm thứ 3 khi học về bệnh AIDS tôi cảm thấy rất lo sợ. sợ tiếp xúc
với bệnh nhân. sợ tiếp xúc với bạn bè. Có một lần bị viêm kết mạc. thế mà tôi
lo sợ sẽ bị cận thị. bị mù liền đi chữa khắp nơi ai bảo gì cũng làm… Những
nỗi ám ảnh về AIDS không làm sao dứt ra được. tôi sợ đi cắt tóc. đánh răng
chảy máu cũng làm tôi sợ… Về đêm tôi hay nghĩ là làm sao tránh bị AIDS và
cứ vậy đêm này qua đêm khác không làm sao mà giải quyết dứt ra được. Có
một lần chỉ bị nổi cái nốt của bệnh ngoài da thông thường mà tôi lại đinh ninh
là mình bị AIDS… Hốt hoảng đến tột cùng. mất ăn mất ngủ… cũng may mà
sau đó những nốt trên mất đi… Nỗi ám sợ này làm tôi không còn khả năng
tập trung. học táp sút kém và cách cư xử thì đôi lúc không giống với chính
mình… Năm thứ 4 tôi quyết định thi chuyển khoa vì tôi nghĩ chỉ có thay đổi
môi trường mới trở lại cuộc sống bình thường được, nhưng thực tế đã không
diễn ra như vậy… lúc này đây tôi đã hiểu ra rằng tôi đã có một nỗi ám ảnh,
không bình thường như những người khác…”
Tư vấn và trị liệu:
Khác với các bệnh nhân khác. V là một bác sỹ. anh hiểu rõ hơn ai hết
về bệnh. Vì vậy ngay từ buổi đầu tiên chúng tôi có một cuộc nói chuyện chân
tình kéo dài trên 2 tiếng liên quan chủ yếu đến nguyên nhân, bản chất và
những kỹ thuật cụ thể ngắm kiểm soát trạng thái ám sợ (anh rất cảm ơn
chúng tôi về cuộc nói chuyện này vì giúp anh giải toả rất nhiều điều…). Sau
đó chúng tôi cùng thực hành một số kỹ thuật ứng phó với lo âu như: thư giãn,
căng mềm các nhóm cơ, thư giãn tĩnh quán tưởng tâm bình yên. chú tâm vào
hơi thở, vào một số huyệt nhất định. Vì không có điều kiện, anh chỉ thực hành
các liệu pháp này với chúng tôi có 2 buổi. Tôi khuyên anh nên thu xếp thời
gian đến nghe những buổi thuyết trình của tôi về tâm bệnh lý và các liệu pháp
chống lo âu (dành cho các bác sĩ và nhân viên y tá). Anh vui vẻ nhận lời và
tham dự một số buổi (khoảng 5–6 buổi). Cứ sau mỗi buổi chúng tôi có khoảng
15 phút. toạ đàm về những ca tâm bệnh cụ thể và những liệu pháp thích hợp.
Thời gian 7 tuần trôi đi, khi tạm ngưng chương trình tập huấn về tâm
bệnh lý và các liệu pháp trị liệu. anh vui vẻ cho biết tình trạng sức khoẻ tâm
thần của mình giờ đây tốt hơn nhiều.
Chúng tôi không gặp nhau sau đó nhưng vài tháng sau tôi có được
những thông tin khá tốt về tình trạng sức khoẻ của anh.
Đôi điều cần biết:
Chứng ám sợ, lo âu có thể đến “thăm” bất cứ ai. Đó là những vị khách
“lì lợm”, khó chịu nhất luôn luôn “không mời mà đến” và nếu ta “xua đuổi thì
họ nhất định không đi.
Những type nhân cách hay quan trọng hoá vấn đề (hoặc tuyệt đối hóa).
nhút nhát hay suy tư liên tưởng, chỉ biết có học, ít va chạm xã hội, sức chịu
đựng thất bại thấp là những đối tượng dễ bị stress tấn công nhất và dễ bị
thương tổn nhất.
Có nhiều cách để những vị khách hãy ít lai vãng đến ngôi nhà tâm trí
của bạn, nhưng có lẽ hiệu quả nhất là bạn hãy cắm biển “stop” (dừng lại)
“stop thinking” (dừng lại không suy nghĩ miên man) hoặc tiếp mà thờ ơ như là
không tiếp. Tức là cứ để những cảm giác, ý nghĩ đó đến rồi lại đi tuỳ ý, còn ta
chỉ đơn thuần ghi nhận sự có mặt ' của những vị khách đó. mà không bận tâm
bởi họ và hành động suy nghĩ theo cái ta đã định, xem như họ không có
mặt… Và nếu bạn không làm được điều này, xin hãy đến gặp chúng tôi,
nhưng bác sĩ tâm lý lâm sàng có kinh nghiệm sẽ có cách giúp bạn (Địa chỉ:
Trung tâm Khám chữa bệnh và Tư vấn. số 9 Ngọc Khánh – Hà Nội).
Thay lời kết. HIẾN KẾ TỰ PHÒNG BỆNHCác chuyên gia y – sinh – tâm lý học ngày càng thừa nhận rằng xã hội
công nghiệp càng phát triển thì tỷ lệ những người thắc các chứng bệnh do vi
trùng vi rút ngày càng giảm đi. Nhưng những căn bệnh của nền văn minh như
bệnh tim mạch. bệnh béo phì. bệnh đái đường. bệnh ung thư. các chứng
bệnh do hội chứng suy giảm miễn dịch… các chứng bệnh về tâm trí ngày
càng tăng lên.
Những công trình nghiên cứu liên ngành khoa học: y–sinh– tâm lý học
hay tâm lý–thần kinh–nội tiết và miễn dịch học đã thừa nhận rằng: nguyên
nhân chủ yếu gây bệnh không phải là vi trùng nay vi rút sinh bệnh mà là sự
kháng cự (sức để kháng) của cơ thể bị yếu đi bởi thói quen sống huỷ hoại
sức khoẻ và những stress về sinh lý và xúc cảm tâm lý. Vi khuẩn hay vi trùng
chỉ xâm nhập vào giai đoạn cuối cùng. thực hiện luật của tự nhiên đưa mọi cơ
thể sống không còn khả năng tự bảo vệ trở về với cát bụi”.
Thực tế vi khuẩn có mặt ở mọi nơi. ở ngoài môi trường. ở trong cơ thể.
Nó không có hại nếu như cơ thể hay một tổ chức sống nào đó duy trì được
sự đề kháng (sức khoẻ bản năng) của nó. Một khi sự đề kháng bản năng này
bị yếu đi thì vi khuẩn có cơ hội để thâm nhập hoặc sinh sôi ngoài sự kiểm
soát. Các nghiên cứu khoa học cũng chứng minh rằng mọi cơ thể sống đều
có sự cân bằng nội môi. Khi sự cân đối cơ động này bị phá vỡ là sinh bệnh.
Bệnh có thể được các bác sỹ phát hiện ở một bộ phận hay một cơ quan
nào đó của cơ thể. chẳng hạn ở tim, phổi. hay ở dạ dày với những triệu
chứng thực thể như đau, sưng. viêm, loét…, nhưng bệnh cũng có thể không
khu trú ở một bộ phận cơ thể nào (nói đúng hơn là chưa được phát hiện),
không có những dấu hiệu thương tổn thực thể rõ ràng. gọi là bệnh “vô căn”
hay “tâm căn” (có nguồn gốc từ những rối nhiễu tâm lý). Quá trình phát sinh
bệnh lý thường là một quả trình lâu dài và' phức tạp mà nhiều khi ta chỉ chú ý
đến giai đoạn cuối của quá trình này, tức là lúc cơ thể đã phát bệnh.
Thực ra mọi loại bệnh đều có những nguyên nhân cơ bản và cơ chế
phát bệnh cơ bản là giống nhau: Đó là sự rối loạn sức chống đỡ của toàn cơ
thể do sự suy giảm hệ miễn dịch. Đó cũng là những rối nhiễu, mất cân bằng
về trao đổi chất, về các quá trình sinh hoá trong cơ thể do stress về tâm –
sinh lý mà bệnh nhân chịu dựng. Vì những rối loạn hay sự mất cân bằng này
mà cơ thể không còn khả năng tự bảo vệ. để cuối cùng vi trùng hay vi rút xâm
nhập gây bệnh. Do vậy cách duy nhất có hiệu quả đối phó với bệnh là loại bỏ
các nguyên nhân phát sinh và duy trì bệnh, đồng thời giúp khôi phục hệ thống
chống bệnh tự phát của cơ thể hoạt động trở lại. Nghệ thuật y – sinh – tâm lý
học lành bệnh trong tương lai. không chỉ nhằm chữa các chứng bệnh, mà chủ
yếu là tìm cách lập lại thế cân bằng, lập lại sự hài hoà các chức năng khác
nhau vốn có của hệ thống tự bảo trì sức khoẻ của cơ thể.
Cơ thể con người vốn được tự nhiên trang bị một loạt các hệ thống tự
bảo vệ khá hoàn hảo. Trong đó điển hình nhất là hoạt động của hệ miễn dịch.
nó không chỉ bảo vệ cơ thể khỏi sư xâm nhập của các tác nhân gây bệnh (vi
trùng. vi khuẩn…), tấn công các khối u. mà còn tham gia tích cực vào các quá
trình phục hồi sửa chữa các mô tế bào sau một chấn thương. Hệ miễn dịch
được chia thành hai loại: miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch học được (tập
nhiệm). Miễn dịch bẩm sinh liên quan đến sức đề kháng chống lại những tác
nhân gây bệnh xuất hiện từ lúc sơ sinh và nó hoạt động theo “nguyên tắc
chung”. không liên quan đến bản chất của một tác nhân gây bệnh cụ thể (bất
kể đó là vi trùng, vi rút. là tác nhân tâm lý hay vật lý). Chẳng hạn. cấu tạo giải
phẩu của con người có lớp da bảo vệ chống lại sự xâm nhập của rất nhiều
tác nhân gây bệnh (da có khả năng tiết chất nhờn có tính axít làm cho nhiều
loại nấm. vi khuẩn không hoạt động được). Đó còn là cơ chế tiết dịch của các
cơ quan như mắt tiết nước mắt. mũi tiết được mũi trong đó có chứa các chất
diệt khuẩn. Cơ thể lại có thực bào. kẻ chuyện săn lùng ăn các tế bào lạ và
phá huỷ. tiêu diệt các vi sinh vật lạ xâm nhập…
Miễn dịch tập nhiễm là khả năng tự bảo vệ không phải vốn có mà do cơ
thể “học được” trong quá trình sống. nó liên quan đến hai quá trình vừa liên
quan vừa độc lập tương đối là: nhận biết các chất lạ (gọi là các kháng nguyên
sinh ra từ các tế bào sinh kháng thể của cơ thể). phát lệnh phá huỷ chúng.
Đáng kể nhất là các tế bào miễn dịch (lymphocytes) T, B và NK.
Tế bào T sinh ra từ các tế bào trong tuỷ xương và cư trú ở tuyến ức,
nơi chúng trưởng thành. Sau khi trưởng thành, tế bào T theo máu, bạch
huyết. đi khắp cơ thể và chúng thường trú ngụ ở các cơ quan miễn dịch cấp
hai. chẳng hạn như lách hay các hạch bạch huyết. Mỗi tế bào T có những thụ
quan trên bề mặt và chúng hoạt động theo “nguyên tắc chuyên biệt”. tức là chỉ
có khả năng nhận biết và tiêu diệt một loại kháng nguyên duy nhất nào đó.
Tuy nhiên các tế bào T hoạt động theo cơ chế thụ động: cơ thể không có sẵn
một đội quân đông đảo các tế bào T và bản thân nó không tự nhận ra các
kháng nguyên để 'tiêu diệt mà phải nhờ sự giúp đỡ của các đại thực bào.
Chẳng hạn. các đại thực báo tiết ra chất Cytokine như interleukin–l để tích
cực hoá tế bào T. sau đó các chất Cytokine khác như interleukin–2 (được tiết
ra từ các tế bào trợ giúp tế bào T) giúp tạo ra một đội quân đông đảo các tế
bào T trưởng thành, đủ sức tiêu diệt kháng nguyên xâm nhập. Toàn bộ quá
trình này xảy ra trong vài ngày: từ lúc phát hiện kẻ xâm nhập hoặc chất lạ tới
khi tạo được một đội quân đông đảo tế bào T tấn công kẻ xâm nhập. Cuối
cùng là sự phát triển của các tế bào T làm nhiệm vụ ghi nhớ (chúng được giữ
khá lâu ở một số cơ quan làm chức năng miễn dịch) nhờ những tế bào này
mà cơ thể nhanh chóng nhận ra một kháng nguyên nào đó nếu nó xâm nhập
lại.
Như vậy một đáp ứng miễn dịch cụ thể với một tác nhân xâm nhập gây
bệnh nào đó là một quá trình nó diễn ra qua nhiều ngày và đòi hỏi một sự
phối hợp phức tạp giữa nhiều kiểu tế bào, mà các tế bào này phải tác động
qua lại với nhau theo những cách có tính chọn lọc giới hạn, cục bộ hay liên
vùng. Để điều phối được các hoạt động tương tác phức tạp này, các công
trình nghiên cứu gần đây xác nhận rằng có sự liên kết giữa hệ thống miễn
dịch và hệ thần kinh trung ương, và mọi hệ thống tại từng thời điểm có ảnh
hưởng mang tính kiểm soát chế ngự hay tăng cường lẫn nhau (trước đây
người ta quan niệm miễn dịch là một hệ thống đóng kín, bẩm sinh và hoạt
động theo cơ Chế tự động. không chịu sự kiểm soát của hệ thần kinh trung
ương). Để làm được điều này hệ thần kinh trung ương phải nhận biết” thông
tin về các sự kiện đang diễn ra trong cơ thể (ví dụ một tác nhân gây bệnh đã
xâm nhập) và tình trạng hoạt hoá của các quá trình miễn dịch. Còn hệ miễn
dịch phục vụ như là những cơ quan nhận cảm. phát tín hiệu. cung cấp thông
tin đầu vào cho hệ thần kinh trung ương. Và nếu các quá trình thần kinh có
khả năng điều tiết các quá trình miễn dịch thì sẽ có một con đường để các
nhân tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến miễn dịch. Ngược lại nếu các quá trình
miễn dịch làm thay đổi. điều tiết chức năng thần kinh. thì khi đó chúng cũng
sẽ có khả năng ảnh hưởng lên hành vi. xúc cảm và suy nghĩ.
Khi chúng ta vi phạm qui luật cơ bản về sức khoẻ. cơ thể phản ứng
theo cơ chế “phát tín hiệu báo động” và khởi động hệ thống tự điều chỉnh để
tự bảo vệ. Ví dụ khi có viêm loét hoặc bị nhiễm trùng, cơ thể phát sốt. khi thức
khuya có cảm giác buồn ngủ, khi làm việc nhiều thì cơ thể báo mệt… Như vậy
trước khi cơ thể phát bệnh đã có sự báo hiệu mất cân bằng và cơ thể đã có
hoạt động tự điều chỉnh để bảo vệ khôi phục lại sự cân bằng. Điều đáng nói ở
đây là tại sao hệ thống tự bảo vệ lại bị vô hiệu hoá?
Trước khi bị bệnh: cơ thể đã phát những tín hiệu bất thường mà ta vô
tình hay không đủ nhạy cảm để nhận biết… và khi bệnh vừa phát. chúng ta
không nghĩ cách thư giãn, điều tâm, dưỡng sinh (xả khí bệnh) để phục hồi hệ
thống chống bệnh tự phát vốn có của cơ thể mà lại có thói quen cầu cứu các
loại thuốc Tây, Tàu để chữa trị (phải dùng thuốc mạnh, giải phóng thật
nhanh). Thật ra, có đến 80 % các chứng bệnh thông thường không cần tìm
đến bác sỹ xin chữa trị, cũng không cần dùng bất cứ loại thuốc gì mà chỉ cần
tĩnh tâm, thở thư giãn cũng đủ để khỏi bệnh. Lý do là những liệu pháp tâm lý
dưỡng sinh này tuy đơn giản nhưng rất có hiệu quả trong việc khôi phục hệ
thống lành bệnh tự phát vốn có của cơ thể. Ngay cả trong trường hợp những
bệnh nặng, cấp buộc phải đến các bác sỹ chừa trị và phương pháp chữa trị
mang lại hiệu quả thì theo các chuyên gia y–sinh–tâm lý học. thực chất cũng
là vì “cơ chế chống bệnh trong cơ thể đã hoạt động trở lại”.
Thói quen thích dùng thuốc, thích chụp chiếu trong nhiều trường hợp
rất có hại cho cơ thể. Chính thói quen này đã vô hình chung tiếp tay phá huỷ
hệ thống tự bảo trì sức khoẻ của cơ thể. Vì cơ thể dễ “quen thuốc”. liều dùng
càng về sau càng phải cao hơn, cơ thể mệt mỏi vì hệ thống khử độc bài thải
phải làm việc quá sức những hoá chất độc không thải hết tích tụ lại trong cơ
thể (không ai biết hết những tác dụng phụ của thuốc), và đặc biệt là hệ miễn
dịch mất đi cơ hội “thực tập” tập nhiễm những khả năng mới bổ sung vào khả
năng đề kháng bẩm sinh của cơ thể.
Cho đến nay rất ít người để ý đến giai đoạn phục hồi tích cực sau khi
bệnh khỏi” bằng các quá trình xây dựng phục hồi tích cực. tăng cường các
lượng tự khỏi bệnh để hạn chế khả năng tái phát, nhất là các chứng bệnh tâm
thần vốn được xem là “dễ mắc, khó khỏi mà dễ tái phát'. Các chuyên gia trị
liệu cho rằng chiến lược chung điều trị mọi chứng bệnh tâm thần sau khi “cơn
bệnh cấp lui” đều giống nhau về nguyên tắc: đó là loại bỏ các nguyên nhân
duy trì bệnh, giúp cơ thể thải, khử các loại chất độc và khôi phục tích cực
bằng chế độ dinh dưỡng, bằng chế độ tập luyện thanh lọc tâm tư (trong đó
quan trọng nhất là luyện thở dưỡng sinh, thư giãn' và tĩnh tâm).
Chúng ta rất cần s ự q u a n tâm c ủ a nhà nước, của Bộ Y tế về những
vấn đề vệ sinh môi trường, tăng cường khả năng khám chữa của các cơ sở y
tế. Nhưng có lẽ cái cần hơn. là ý thức tự chăm sóc là tự bảo vệ sức khoẻ của
mỗi người. Vì lý,do này, chúng tôi xin giới thiệu 5 nguyên tắc bảo vệ sức khoẻ
tinh thần để mỗi người tham khảo ứng dụng vào quá trình tự kiểm soát bệnh
tật của cá nhân.
1. Tự điều chỉnh thói quen sống
Nguyên tắc chung là nhận diện những thói quen xấu phá hoại sức khoẻ
và tìm cách hạn chế những thói quen này, đồng thời tìm cách học những thói
quen có lợi cho sức khoẻ.
Vậy những thói quen nào là có hại? Mỗi người thường có những thói
quen sống có hại cho sức khoẻ chẳng hạn như:
– Thói quen ít vận động: Một số người có thói quen ngồi nhiều, làm việc
bàn giấy là chính. ít vận động, ít thể dục. ít tham gia thể thao. Các nhà nghiên
cứu cho đây là nguyên nhân chính phát sinh các bệnh về tim mạch. bệnh béo
bụng. bệnh phát phì, bệnh về đường tiêu hoá…
– Thói quen vừa ăn, vừa xem ti vi: Đây là một thói quen rất có hại cho
sức khoẻ. Bởi vì mải xem ti vi: sự nhạy cảm của cơ quan.tiêu hoá đối với thức
ăn giảm đi, làm cho quá trình điều tiết các enzymes phân huỷ thức ăn bị ảnh
hưởng. Khi các men tiêu hoá tiết vào dạ dày bị ảnh hưởng. làm cho quá trình
hấp thụ dinh dưỡng của cơ thể bị kém đi.
– Thói quen ăn nhiều thịt, ít rau xanh: Các chuyên gia dinh dưỡng học
đều cho rằng quá trình tiêu hoá protein động vật khó khăn hơn các protein
thực vật. Quá trình tiêu hoá các loại đạm động vật thường giải phóng nhiều
các chất trung gian và Các chất thải của quá trình trao đổi chất. gây ra hiện
tượng thừa axit, tích tụ axit uric và purines trong mô tế bào, gây ra sự thối rữa
trong ruột. làm phát triển nhiều căn bệnh nguy hiểm. ăn nhiều thịt có thể dẫn
đến mất cân bằng lượng khoáng do có quá nhiều photphorus và quá ít
calcium được tiết ra. Những nghiên cứu ở Anh. Hà Lan. Đan Mạch và Mỹ
cũng phát hiện có mối liên quan giữa thói quen ăn nhiều thịt và các chứng
bệnh loãng xương. tim mạch, (xơ vữa động mạch) và ung thư.
Trong khi rau xanh là nguồn cung cấp chính các chất khoáng. enzymes
và vitamin các loại, những thứ rất cần cho nhu cầu của cơ thể. Các chuyên
gia ở phòng thực nghiệm dinh dưỡng Denver. quân y Mỹ chứng minh rằng
càng ăn nhiều thịt, càng thiến vitamin B6). Vitamin B3 Magnesium. Calcium và
Niacill (các chuyên gia y–sinh học đã phát hiện thấy trong cơ thể của các
bệnh nhân tâm thần. đặc biệt là tâm thần phân liệt thiếu hụt đáng kể chất
Niacin).
– Thói quen uống nhiều bia rượu, uống trước khi ăn (hoặc vừa uống
vừa ăn) làm hại quá trình tiêu hoá. Vì chúng làm ngộ độc gan. thận hoặc buộc
“những nhà máy thải” này phải làm việc quá sức Uống trước khi án, đặc biệt
uống nước ngọt làm loãng dịch vị trong dạ dày. ngừng tiết các loại men tiêu
hoá…
– Thói quen hút thuốc lá: Điều này ai cũng rõ, vì khói thuốc làm thương
tổn các mô tế bào. gây nhiễm độc, là mầm mống cho căn bệnh ung thư… Và
còn rất nhiều thói quen xấu khác đang là các tác nhân phá huỷ sức khoẻ.
Vậy nhưng thói quen nào là có lợi? Trước hết là thói quen vận động:
tập thể dục, dưỡng sinh, bơi, đi bách bộ, chạy, 'chơi thể thao… đều có lợi '
cho sức khoẻ.
Gieo trồng thói quen ăn uống có lơi cho sức khỏe như chỉ ăn khi thật
đói. ăn chậm và ăn trong tâm trạng thu giãn. không nên trộn quá nhiều thức
ăn vào một bữa ăn: nên ăn thực phẩm giàu protein trước (vì nó cần khối
lượng lớn axit hydrocloric) thực hành ăn ít hơn mức bình thường một cách có
hệ thống (đây là bí quyết duy trì sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ).
Điển hình nhất là công trình nghiên cứu của bác sỹ Ooc–ni– xơ thuộc
Đại học Tổng hợp California. Ông cùng đồng đội nghiên cứu cách điều trị
bệnh tim mạch và nhận thấy cả phẫu thuật và thuốc điều không chữa khỏi
bệnh. Với phương pháp phẫu thuật. trung bình sau năm năm, đoạn mạch mới
cấy' vào lại xuất hiện mỡ lại. còn dùng thuốc có trường hợp đoạn mạch được
thông bị tắc lại sau vài tháng. Vì vậy ông nghiên cứu hướng điều trị mới. ông
quan tâm đặc biệt tới mối liên hệ giữa bệnh nhồi máu cơ tim và lối sống của
người bệnh gồm các quan hệ liên cá nhân. chế độ ăn uống. mức độ căng
thẳng thần kinh và thể lực.. Ông đã thu được kết quả tốt đẹp không ngờ bằng
phương pháp điều trị thật đơn giản: thay đổi hẳn lối sống. kiềm chế stress và
tránh ăn mỡ. Những người điều trị theo phương pháp này đều đỡ và hết hẳn
các cơn đau thắt ngực. nhiều người giảm hẳn lượng cholesterol trong máu
mà không cần thuốc. Nhiều bệnh nhân bị bệnh tim nặng thực hành phương
pháp này: chỉ có ăn kiêng, tập thể dục, học cách giao tiếp với mọi người và
tránh các stress mà khỏi bệnh.
2– Hãy học cách ứng phó với stress
Xã hội công nghiệp hoá thường tạo ra nhiều căng thẳng tâm lý, đó là
những stress ảnh hưởng đến đời sống và sức khoẻ tinh thần của mỗi cá
nhân. Theo những công trình nghiên cứu về sức khoẻ tinh thần – tâm bệnh lý
thì những distress (stress tiêu cực) có nguồn gốc từ các nguyên nhân xã hội.
sinh lý và tâm lý. là những tác nhân chủ yếu làm nảy sinh và duy trì các dạng
mức khác nhau của bệnh tâm thần.
Tuy nhiên. nếu hiểu stress như là trạng thái căng thẳng của cơ thể
phản ứng với những kích thích bên trong hoặc bên ngoài cơ thể thì cuộc sống
của mỗi người không thể không đối mặt với stress. Khi không thể loại bỏ
được stress khỏi đời sống thì mỗi người cần phải học cách kiểm soát ứng
phó với stress.
Những lý thuyết về sự kiềm chế, tự điều chỉnh đều thừa nhận rằng:
trước mỗi sự đe doạ, con người vẫn có cuộc sống tốt hơn nên sẵn có một
đáp ứng nào đấy khả dĩ trở thành công cụ ứng phó được với mối đe doạ đó.
Các tình huống. các sự kiện trong cuộc sống thường tích tụ stress ở
mỗi cá nhân và có xu hướng “thực thể hoá” thành bệnh lý theo cơ chế sau
đây:
Giai đoan IVThuc the hoa hay tam the hoa thanh benh ly (Tam the)
Giai đoan IIINhan dien nhom
cac trieu chung nhu la mot benh ly
Giai đoan IINhan dien cac
cam giac nhu la trieu chung
Giai đoan INhay cam voi
nhung cam giac co the
Đao lon cac SH binh thuong
Hanh vi kem thich nghi
Nhan thuc khong hop ly
Tang cuong su chu y
Su kien, tinh huong gay stress
Stress tieu cuc (lo au, tram nhuoc…)
Điểm khởi đầu của một. chứng bệnh thường xảy ra khi có một tác nhân
stress khác bổ sung hay cộng hưởng. giống như “một giọt nước làm tràn cốc
nước đầy”. Cơ thể phát bệnh giống như một nồi nước sôi do các tác nhân
gây stress giống như những thanh củi đã đun trước đó. Muốn nước nguội
phải rút cúi ra khỏi đáy nồi.
Một số người tỏ ra đặc biệt linh hoạt và điềm tĩnh, thành thử dù có bị lôi
cuốn vào stless thì hậu quả của stress lên sức khoẻ tinh thần cũng không
đáng kể. Có nhiều bằng chứng nói rằng bản lĩnh (tâm lý), vữn vàng và có kỹ
năng giải quyết vấn đề là những thứ vũ khí tuỳ thân quan trọng giúp chống lại
bệnh tật liên quan đến stress. Vậy cái gọi là bản lĩnh tâm lý vững vàng đó là
gì?
Có ba yếu tố tạo ra bản lĩnh: tính chủ động, và dân thân và sự chấp
nhận thử thách. Như vậy. Cách tốt nhất để ứng phó với stress là chủ động,
sẵn sàng chấp nhận mỗi sự kiện gây stress như là sự thách thức, qua đó thử
nghiệm rèn luyện bản lĩnh của cá nhân. Đây chính là cách làm “giảm xóc!'
chống lại bệnh tật do stress. Các công trình nghiên cứu theo hướng này
(chẳng hạn của Kosaba. 1982) cho thấy: các sự kiện gây stress trong cuộc
sống đã làm gia tăng bệnh. còn bản lĩnh và sự tập luyện thì làm giảm bệnh.
Khi mà stress càng gia tăng thì sự tập luyện và bản lĩnh càng chứng tỏ giá trị
“giảm xóc của chúng. Thực tế, cho thấy. những ai có bản lĩnh yếu nhất (hay lo
lắng. nhút nhát…) và luyện tập ít nhất thì tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất.
Tại sao vậy? Bởi 'vì việc chấp nhận stress một cách đầy đủ sẽ giúp ta
có khả năng điều hoà cảm xúc. Bởi vì lo lắng hay khiếp sợ mỗi khi nghĩ đến
stress chỉ làm tăng khả năng rối loạn thần kinh chức năng. Còn tự nói với
mình “tôi sẽ chấp nhận và đương đầu là ta bắt đầu quá trình nhận thức lại
bản chất tình huống hay sự kiện gây stress. Nhìn nhận sự trải nghiệm stress
chỉ là sự phản ứng của cơ thể, thực sự không có hại, thực sự không nguy
hiểm sẽ giúp ta đủ bình tĩnh chọn lựa được giải pháp ứng phó hợp lý
Như vậy. một “lộ trình ứng phó có hiệu quả với stress xúc cảm có thể
gồm các bước sau đây:
1. Chấp nhận: Chuẩn bị tâm lý tiếp nhận và đương đầu.
Thay cho việc tìm cách xua đuổi khống chế. bạn hãy để cảm giác lo âu
sợ hãi hay bất an… đến một cách tự nhiên và quan tâm theo sát nó nhưng
không làm cho những cảm giác stress này chi phối cái gì bạn nghĩ. và cái gì
bạn đang hành động.
2. Quan sát nội tâm: Theo dõi xem cảm giác stress xúc cảm tiêu cực
này đến và đi như thế nào. Cách tốt nhất là không đồng nhất mình với các
trạng thái bất an của cơ thể (xem đây chỉ là trạng thái nhất thời. không phải là
toàn bộ nhân cách). đồng thời tự tách mình ra khỏi trạng thái đó với tư cách là
“một người lính gác” đơn thuần là chỉ chú tâm theo dõi xem cái gì đang xảy ra
trong cơ thể. Để ý xem làm thế nào mà mức độ lo hãi tăng lên hay giảm đi.
Lúc này bạn luôn nhớ rằng bản không phải là bản thân sự lo lắng. Càng tách
mình ra khỏi trạng thái xúc cảml tâm lý đang trải nghiệm bao nhiêu, ta càng
dễ quan sát và dễ thoát khỏi lo lắng.
3. Hành động: Hành động một cách tự nhiên. coi như sự lo hãi không
có mặt. Hãy “giả vờ” xem tình huống lo lắng đó là bình thường như mọi tình
huống khác. Để làm được điều này. ta hãy quán tưởng thả lỏng tất cả các cơ.
làm cơ thể mềm ra và mọi hoạt động được quán tưởng chậm lại (hơi thở
chậm lại, nhịp tim chậm lại, những hành vi khác cũng chậm lạp nhưng không
dừng lại không bỏ chạy. không lảng tránh…
4. Nhắc lại bước 1, 2, 3
Chú tâm theo dõi mọi diễn biến của cảm giác stress này cho đến tận khi
nó giảm xuống tới mức thoải thái và tiếp tục tự ám thị “hãy chấp nhận. quan
sát và hành động bất chấp mọi sự có mặt của nó”.
5. Mong muốn (Expect) một điều tót đẹp nhất sẽ xảy ra
Hãy tự nói với mình rằng cái bạn lo lắng hiếm khi xảy ra. rằng cảm giác
stress tiêu cực này sẽ qua mau thôi. Đừng chán nản khi lát sau cảm giác
buồn chán hay lo lắng lại xuất hiện. Thay vào đó cảm nhận phát hiện nơi
mình những năng lực giải quyết đương đầu với stress. Hãy nhớ rằng chừng
nào bạn còn sống thì những lo lắng–stress tiêu cực còn đến thăm bạn. Chấp
nhận sự thật này và đưa mình vào vị trí tốt hơn để sẵn sàng đương đầu khi
nó quay lại.
3. Chủ động tăng cường sức đề kháng của cơ thể
Mỗi người có thể chủ động tăng cường sức đề kháng của cơ thể bằng
cách tăng cường những hiệu biết về các quá trình tâm sinh lý của cơ thể
mình là hành động phù hợp với quy luật sức khỏe để cơ thể có nhiều cơ hội
lành bệnh tự nhiên.
Hiểu biết không chỉ là đọc những kiến thức sách vở mà chủ yếu là khởi
động. thực hành quá trình tự khám phá cơ thể mình (cả tâm và thể) và bảo
dưỡng các chức năng. các quá trình hoạt động của các tạng phủ (cơ quan nội
tạng). Bất kỳ sự hiểu biết. khôn ngoan nào cũng nên khởi đầu bằng sự hiểu
biết về cơ thể mình và kèm theo đó là sự làm chủ cơ thể (những thánh nhân.
các nhà thông thái. hiền triết đều đi theo con đường này).
Các chuyên gia thực hành trị liệu y – sinh – tâm lý học đều thừa nhận
rằng sự cân bằng, hài hòa hay mất cân bằng, mất hài hòa của cơ thể đều
được biểu hiện bằng sự hoạt động đồng đều hay trục trặc cảu nhịp thở và
trương lực cơ bắp. Thông qua khâu trung gian này (điều hoà hơi thở và làm
chủ trương lực cơ bắp) mỗi người có thể phát hiện và điều chỉnh những xáo
trộn. những trục trặc. những cảm giác khó chịu báo hiệu sự mất cân bằng của
toàn bộ hệ thống bất kể nặng hay nhẹ. Sự tập luyện để tự khám phá. tự phát
hiện cũng dẫn đến quá trình tự điều chỉnh và ngược lại tích cực tự điều chỉnh
để tăng cường khả nàng tự phát hiện. tự khám phá. đây chính là cách thức
mỗi cá nhân chủ động tăng cường sức đề kháng của cơ thể mình.
Hành động hợp qui luật sức khoẻ, tức là không làm những gì thái quá
có hại cho sức khoẻ. Chẳng hạn, y lý Đông Phương phát hiện ra rằng điều
hoà cảm xúc giúp ta duy trì sự khoẻ mạnh: những xúc cảm của con người
nếu thái quá sẽ trở thành tác nhân gày bệnh: vui vẻ làm khí hoà hoãn, nếu vui
quá độ sẽ ảnh hưởng đến tâm, buồn rầu làm khí tiêu hao, âu sầu làm khí tắc
nếu buồn rầu quá, âu sầu quá sẽ hại phế, giận hờn làm khí nghịch, giận hờn
quá sẽ tổn thương can, suy nghĩ quá làm khí kết, suy nghĩ quá độ làm tổn
thương tỳ, sợ hãi làm khí hạ, sợ hãi quá đả thương thận, lo lắng làm khí hỗn
loạn, lo lắng quá làm tổn thương tâm.
4. Tự trang bị cho mình một số các liệu pháp tâm lý thích hợp
Tâm lý học ứng dụng, đặc biệt chuyên ngành tâm lý học lâm sàng đã
phát triển được gần 100 liệu pháp khác nhau dùng cho việc điều trị các chứng
rối nhiễu tâm lý và rối loạn tâm thần. Có giá trị nhất trong số các liệu pháp này
là các nhóm liệu pháp: thư giãn, thở bụng, giải mẫn cảm có hệ thống, điều
chỉnh nhận thức, củng cố, thưởng quy đổi, trò chơi phân vai, tam kịch và giải
quyết vấn đề… Mỗi người có thể chọn cho mình những liệu pháp thích hợp,
chẳng hạn như thư giãn, thở tĩnh công dưỡng sinh, xoa bóp – day huyệt, các
bài tập thiền hoặc các thế (asana) của Yoga… nên xem chúng như là những
thứ vũ khí hộ thân.
Các chuyên gia tâm thần, các nhà trị liệu tâm lý đều cho rằng thư giãn
làm giảm chuyển hoá cơ bản, tiết kiệm năng lượng, làm máu về tim dễ hơn và
nhiều hơn. Thư giãn giúp tập trung tư tưởng, ức chế vỏ não, ngắt bỏ những
kích thích bên ngoài làm tinh thần hết căng thẳng, làm chủ được giác quan và
cảm quan. Thư giãn giúp dập tắt dần những phản xạ được điều kiện hoa có
hại cho cơ thể. Đặc biệt là thư giãn tĩnh tỏ ra rất có hiệu quả trong việc cung
cấp những phương tiện tự nhận biết tự điều chỉnh, tự học cách kiểm soát xúc
cảm và kiểm soát các trạng thái bất ổn của cơ thể. Thông qua khả năng thư
giãn quán tưởng đạt được sự cân bằng của hệ giao cảm và phó giao.
5. Phát hiện sớm những vấn đề của sức khoẻ (đặc biệt là sức khoẻ tâm thần) chủ động tìm gặp các nhà chuyên môn.
Bằng cách luyện tập để tăng cường sự nhạy cảm bên trong của cơ thể,
nhờ đó sớm phát hiện những dấu hiệu bất thường và tích cực điều chỉnh kịp
thời. Nên xem các triệu chứng bất thường về tâm lý – thần kinh ở mức không
tự kiểm soát được, như là những dấu hiệu của tâm bệnh lý cần phải điều trị
sớm. Việc phát hiện sớm những rối nhiễu điều trị sớm sẽ có hiệu quả hơn.
Tránh thái độ tiêu cực (giấu giếm, sợ mọi người gọi là tâm thần), chủ động
tìm gặp các nhà tâm lý trị liệu, các bác sĩ tâm thần để có những lời khuyên và
có những hướng điều trị hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢOI. TIẾNG VIỆT:
1– GS. Hoàng Bảo Chân, Lí luận cơ bản y học cổ truyền, NXB Y học
Hà Nội, 1997.
2– BS. Phạm Văn Đoàn và cộng sự, Báo cáo chuyên đề: “Mã hoá–
phân loại rồi nhiễu tâm lý trẻ em và thanh thiên niên Việt Nam“. Trung tâm
nghiên cứu trẻ em (NT), 1996.
3– Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Ngọc Nam và Nguyễn Hồng Ngọc, Ấn
tượng trong phút đầu giao tiếp (tái bản lần thứ 4), NXB Thanh niên, Hà Nội,
1998.
4– Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Ngọc Nam và Nguyễn Hồng Ngọc,
Nghệ thuật ứng xử và sự thành công của mỗi người (tái bản lần thứ 5), NXB
Thanh niên, Hà Nội, 1997.
5– Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Minh Đức, Nghệ thuật hiểu tâm lý
người nhác (tái bản lần thứ 4), NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000.
6– Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Minh Đức, Quanh ta là cuộc sống (Tư
vấn giao tiếp, ứng xử tâm lý tuổi vị thành niên), NXB Thanh niên, 2000.
7– GS. Ngô Gia Hy, Bùi Lam Yêm và Ngô Gia Lương, Khí Công và y
học hiện đại, NXB Đồng Nai, 1995.
8– GS. Đặng Phương Kiệt, Stress và đời sống, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1998.
9– PTS. Nguyễn Văn Nhuận, PGS. Nguyễn Bá Dương và Nguyễn Sinh
Phúc, Tâm lý học y học, NXB Y học, Hà Nội, 1998.
10– Hoàng Vũ Thăng, Tĩnh khí công dưỡng sinh (tài liệu huấn luyện)
1997.
11– BS. Nguyễn Khắc Viện (Chủ biên), Bài giảng tâm lý, tập 3,4,5, NXB
Phụ nữ, Hà Nội, 1992.
12– BS. Nguyễn Khắc Viện, Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam, NXB Y
học Hà Nội, 1997.
13– BS. Nguyễn Khắc Viện (Chủ biên), Bàn về tâm lý gia đình, NXB
Kim Đồng, Hà Nội, 1993.
14– BS. Nguyễn Khắc Viện, Sức khoẻ bệnh tật và tâm lý, NXB Trẻ TP
Hồ Chí Minh, 1996.
15– BS. Nguyễn Khắc Viện (Chủ biên), Từ điển tâm lý học, NXB Thế
giới, Hà Nội, 1995.
16– A.I.Zakhalop, Liệu pháp tâm lý loạn thần kinh chức năng ở trẻ em
và thiếu niên, NXB Min, Maxcơva, 1987.
17– Z.Freud. Nghiên cứu phân tâm học, Người dịch: Vũ Đình Lưu –
NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1969.
II. TIẾNG ANH:
1– Airola, P. (1982), Handbook of natural healing: How to get well,
Health plus publishers, Anzona.
2– Golemall, D. (1996), Imotional intelligence, Blooms bury Publishing
Plc.
3– Gold Fried, M.R & Davison, G.C (1994), Clinical Behavior Therapy,
AWiley – interscience Publication John Wiley & Sons, Inc.
4– Kiecolt–Glaser, J.K & Glaser, R. (1995), Psychoneuroim-munology
and health consequences: data and shared mechanisms, Psychosomatic
medicine, 57, P269-274.
5– Maier, S.F, Watkins, L.R & Fleshner, M. (1995), Psychoneuroim-
munology: The Interface between behavior, Brain, and Immunity, American
Psychologist, 49, P1004–1017.
6– Spiegler, M.D & Guevremont, D.C (1993), Contemporary Behavior
Therapy, 2nd Ed. Brookslcole Publishing Company Pacific Grove, California.
7– Nietzel, M.T Bernstein, D.A. & Milich, B.R (1998), Introduction to
clinical psychology, 8th Ed. Prentice–Hall, London.
8– Kaplan, H.I & Sadock, B.J (1997), Synopsis of Psychiatry 8th Ed.
Baltimore, Maryland 21201– 2436 USA.
MỤC LỤCThay lời tựa: ĐÔI ĐIỀU TRĂN TRỞ
Phần mở đầu: NHU CẦU TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ TRONG XÃ HỘI CNH, HĐH
Phần I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ
1. Trị liệu tâm lý là gì
2. Tính lịch sử và văn hoá trong.quan niệm và cách điều trị các chứng
bệnh tâm trí
3. Nhu cầu tìm kiếm, phát triển các trị liệu tâm lý
4. Phân biệt tính bất thường, những dấu hiệu của tâm bệnh lý
5. Những cơ chế duy trì tâm bệnh lý
6. Mục tiêu, nhiệm vụ, và các mối quan hệ
7. Đánh giá kết quả trị liệu
8. Những khuynh hướng tiếp cận chính trong trị liệu tâm lý.
Phần II: TRỊ LIỆU PHÂN TÂM
1. Liệu pháp phân tâm là gì
2. Một số kỹ thuật cơ bản trong trị liệu phân tâm
3. Các trị liệu phân tâm sau S.Freud
Phần III: TRỊ LIỆU NHÂN VĂN – HIỆN SINH
1. Trị liệu nhân văn hiện sinh là gì
2. Những kiểu trị liệu nhân văn – hiện sinh điển hình
Phần IV: TRỊ LIỆU HÀNH VI
1. Tóm tắt lịch sử phát triển của trị liệu hành vi
2. Bản chất của trị liệu hành vi và những hiểu lầm
3. Mô hình trị liệu hành vi
4. Qui trình tiến hành một ca trị liệu
Phần V: TRẮC NGHIỆM
1. Thang đo trầm cảm của Beck – II
2. Trắc nghiệm tự đánh giá trầm cảm (Dành cho học sinh 10 –12 tuổi)
3. Trắc nghiệm đánh giá lo âu của Beck
4. Thang đo đánh giá mức độ lo hãi
5. Thang tự đánh giá mức độ lo hãi
6. Thang tự đánh giá mức độ lo hãi (Dùng cho trẻ em)
7. Thang đánh giá các kỹ năng xã hội
Phần VI: NHỮNG LIỆU PHÁP TÂM LÝ CƠ BẢN
1. Liệu pháp thư giãn
2. Liệu pháp thở – tĩnh công dưỡng sinh
3. Luyện chánh niệm – chú tâm
4. Liệu pháp cấu trúc lại nhận thức – xúc cảm
5. Liệp pháp giải mẫn cảm
6. Liệu pháp tràn ngập và chìm ngập
7. Liệu pháp ứng phó – giải quyết vấn đề
8. Liệu pháp ứng phó theo kiểu nhận biết – chấp nhận điều chỉnh
9. Liệu pháp trò chơi
10. Liệu pháp hình vẽ - tranh.
11. Liệu pháp tâm kịch
12. Liệu pháp củng cố
13. Liệu pháp thưởng quy đổi
14. Liệu pháp nhóm
15. Liệu pháp tâm lý gia đình.
Phần VII: ỨNG DỤNG TRONG LÂM SÀNG CÁC CA TÂM BỆNH TRẺ EM VÀ NGƯỜI LỚN
1. Rối nhiễu dạng đau cơ thể và ứng xử bất thường
2. Stress và clhứng bệnh chán ăn tâm thần
3. Stress và bệnh rối loạn phân ly kèm theo nhược thị (giảm sức nhìn)
4. Ám ảnh lẩn tránh tiếp xúc xã hội
5. Stress và chứng TIC
6. Từ một gia đình xung đột đến đứa trẻ bị trầm nhược, ám ảnh nghi
thức
7. Bệnh con, trị liệu mẹ
8. Kém học, ứng xử bất thường
9. Chứng đau đầu, ám ảnh lo âu
10. Chứng ám sợ AID
Thay lời kết: HIẾN KẾ TỰ PHÒNG BỆNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
TÂM LÝ TRỊ LIỆU
(Ứng dụng trong lâm sàng và tự chữa bệnh)
Tác giả: Nguyễn Công Khanh
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI – 2000