Tải xuống Chương 3

116
323 ĐNG THÁI VI - VĨ TÌNH TRNG NGHÈO 3.1 CÓ GII HN NÀO CHO SGIA TĂNG TÌNH TRNG PHI CHÍNH THC NAM M? ĐIU TRA SƠ BFrancisco Verdera 1 2 Gii thiu Mc đích ca bài viết này là tìm hiu liu có gii hn nào đối vi sgia tăng vic làm trong khu vc phi chính thc đô th(UIS) Nam M(SA). Bài viết smô tvà phân tích các yếu tquyết định sphát trin ca tình trng phi chính thc đô thti SA ktnăm 1970 khi hin tượng này được nghiên cu, định nghĩa và đo lường cho đến tình hình hin ti trước khi xy ra các cuc khng hong năm 2008-2009. Cn phân tích dài hn để phát hin hình thái gia tăng vic làm phi chính thc ti đô thvà các yếu tgóp phn to nên sgia tăng này. Sau khi nghiên cu này được thc hin, chúng ta sxem xét đánh giá gii hn ca sgia tăng này. Trước nhng năm 1970 dư tha lao động đô thlà do di dân tnông thôn ra đô thkhiến dân sđô thtăng nhanh. Lượng dư tha lao động khng l(không gii hn) này ti các thành phđã khiến vic làm gim cht lượng, trnên không n định hoc phi chính thc, trong lúc đó khu vc đô thvn 1 Các ý kiến đưa ra không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế. 2 Bài viết này được sự hợp tác của William A. Sanchez, người đã xây dựng các chuỗi dữ liệu so sánh, và chuẩn bị đồ thị và bảng biểu. Xin đặc biệt cảm ơn Alex Carbajal đã hỗ trợ thực hiện các ước tính tại mục 7 và 8.

Transcript of Tải xuống Chương 3

Page 1: Tải xuống Chương 3

323ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

3.1

CÓ GIỚI HẠN NÀO CHO SỰ GIA TĂNG TÌNH TRẠNG PHI CHÍNH THỨC Ở NAM MỸ?

ĐIỀU TRA SƠ BỘ

Francisco Verdera1 2

Giới thiệu

Mục đích của bài viết này là tìm hiểu liệu có giới hạn nào đối với sự gia tăng việc làm trong khu vực phi chính thức đô thị (UIS) ở Nam Mỹ (SA). Bài viết sẽ mô tả và phân tích các yếu tố quyết định sự phát triển của tình trạng phi chính thức đô thị tại SA kể từ năm 1970 khi hiện tượng này được nghiên cứu, định nghĩa và đo lường cho đến tình hình hiện tại trước khi xảy ra các cuộc khủng hoảng năm 2008-2009. Cần phân tích dài hạn để phát hiện hình thái gia tăng việc làm phi chính thức tại đô thị và các yếu tố góp phần tạo nên sự gia tăng này. Sau khi nghiên cứu này được thực hiện, chúng ta sẽ xem xét và đánh giá giới hạn của sự gia tăng này.

Trước những năm 1970 dư thừa lao động đô thị là do di dân từ nông thôn ra đô thị khiến dân số đô thị tăng nhanh. Lượng dư thừa lao động khổng lồ (không giới hạn) này tại các thành phố đã khiến việc làm giảm chất lượng, trở nên không ổn định hoặc phi chính thức, trong lúc đó khu vực đô thị vẫn

1 Các ý kiến đưa ra không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế.2 Bài viết này được sự hợp tác của William A. Sanchez, người đã xây dựng các chuỗi dữ liệu so sánh, và chuẩn bị đồ thị và bảng biểu. Xin đặc biệt cảm ơn Alex Carbajal đã hỗ trợ thực hiện các ước tính tại mục 7 và 8.

Page 2: Tải xuống Chương 3

324 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

dựa trên chế độ tự cung tự cấp khác với với việc làm trong khu vực hiện đại hay tư bản chủ nghĩa (Lewis 1954).

Có tương đối ít tài liệu nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử và khái niệm của khu vực phi chính thức đô thị (UIS), ngoài một số trích dẫn lặp đi lặp lại nội dung bài viết của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về Kenya vào năm 1972. Kể từ đó, nhiều cuộc thảo luận đã tập trung hơn vào các định nghĩa khác nhau để đo lường tình trạng phi chính thức, các thay đổi cần thiết để đo lường một cách chính xác hơn quy mô của khu vực này, đòi hỏi cấp bách đề xuất các khuyến nghị về chính sách để giảm rào cản đối với việc chính thức hóa các doanh nghiệp, và cuối cùng để mở rộng phạm vi an sinh xã hội tới người lao động trong UIS.

Tình trạng phi chính thức trong bài viết này được xem như một hiện tượng đô thị quy mô lớn và lâu dài. Hiểu và đối mặt với những thách thức của UIS không phải bằng cách tìm hiểu các thay đổi nhỏ về quy mô vì việc làm đô thị chiếm tỉ lệ rất lớn và là kết quả của một vấn đề cấu trúc chỉ có thể được giải thích bằng phân tích dài hạn. Tương tự như vậy, dự đoán, đo lường và đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề chính thức hóa nhân công trong UIS không thể bị giới hạn hoặc chỉ tập trung vào các khía cạnh sản xuất ngắn hạn, như năng suất thấp của nhân công độc lập và doanh nghiệp nhỏ (MSEs); hoặc các vấn đề chính sách, chẳng hạn như cái gọi là chi phí lao động phi lương (hoặc các lợi ích ngoài lương) hoặc chi phí giao dịch trong quan hệ lao động của các công ty trong một “thị trường tự do”.

Cần có thời gian đủ dài để phân tích hành vi của UIS, điều này có thể được biện minh theo hai cách: nghiên cứu mối quan hệ của UIS đối với tăng trưởng kinh tế và tác động của cú sốc bên ngoài đối với lao động phi chính thức. Để xem xét các giới hạn đối với sự phát triển của tình trạng phi chính thức, chúng tôi sẽ xem xét hai luận cứ này. Sau đây là tóm tắt:

Trước tiên, về quan hệ giữa UIS và tăng trưởng kinh tế, Bourguignon (trong ấn phẩm này) lập luận rằng mức tăng trưởng không đủ để giảm tình trạng phi chính thức: “... tăng trưởng không đủ nhanh để loại bỏ tình trạng phi chính thức... [...], tốc độ tăng trưởng đã rất chậm trong hơn 20 năm qua, vì vậy tình trạng phi chính thức vẫn phổ biến.” Rõ ràng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phi chính thức cần được phân tích.

Hơn nữa, nhu cầu cần xem xét tác động của cú sốc bên ngoài đối với tình trạng phi chính thức ở góc độ dài hạn gợi nhớ tới các lập luận của Boeri và

Page 3: Tải xuống Chương 3

325ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

van Ours (2008: 1-2) khi tiến hành phép so sánh quen thuộc tỉ lệ thất nghiệp (UR) của Hoa Kỳ và châu Âu. Nhìn lại quãng thời gian 50 năm, thay vì một thời gian ngắn hơn, có vẻ như các tỉ lệ thất nghiệp ở châu Âu cao hơn ở Hoa Kỳ do mức độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 1970, chứ không phải do các biện pháp bảo vệ việc làm vốn vẫn thường bị chỉ trích là không hề thay đổi trong 50 năm qua. Trước cuộc khủng hoảng vào những năm 70, bất chấp sự tồn tại của hệ thống an sinh xã hội cứng nhắc, tỉ lệ thất nghiệp của châu Âu lại thấp hơn nhiều so với Mỹ. Do đó an sinh xã hội không phải là nguyên nhân gây ra gia tăng thất nghiệp ở châu Âu mà là hậu quả của cú sốc dầu mỏ tác động tới cấu trúc sản xuất của các nền kinh tế châu Âu. Do không nắm được việc này, một số tác giả gọi giai đoạn sốc dầu mỏ là sự “xơ cứng của châu Âu”, đổ trách nhiệm tăng thất nghiệp lên hệ thống an sinh xã hội. Như thảo luận dưới đây, tại SA tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài đánh dấu giai đoạn trước và sau diễn biến của UIS trong khu vực.

Định nghĩa khái niệm phi chính thức được dùng từ năm 1970 đến nay tập trung vào khía cạnh việc làm trong khu vực phi chính thức thành thị (UIS), có nguồn gốc từ Chương trình PREALC-ILO. Định nghĩa này được ước tính và công bố trong Tổng quan Lao động - ILO về khu vực Mỹ Latin và Caribbean kể từ năm 1990 đến năm 2006. Như đã biết, quy mô của UIS là do sự gia tăng nhân công và người sử dụng lao động trong các công ty có quy mô từ 5 nhân công trở xuống, bao gồm lao động tự do không chuyên nghiệp phi kĩ thuật, nhân công trong gia đình không được trả lương và người phục vụ tại gia đình2.

Bài viết này đề cập tới mười nước SA, nơi chúng tôi có thông tin khá đều đặn trong 38 năm về dân số trong độ tuổi lao động (AAP), dân số hoạt động kinh tế (EAP hoặc lực lượng lao động) và về việc làm đô thị, gồm cả khu vực phi chính thức ở đô thị (UIS). Các quốc gia này là: Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Chile, Ecuador, Paraguay, Peru (chỉ có thành phố Lima), Uruguay và Venezuela. Ba nước còn lại của tiểu lục địa là Guyana, Surinam và Trinidad và Tobago, không được đưa vào nghiên cứu do thiếu thông tin. Chúng tôi đã xây dựng cơ sở dữ liệu hàng năm cho mười nước này từ năm 1970 đến năm 2008.

2 Định nghĩa mới của ILO về việc làm trong khu vực kinh tế không chính thức bao gồm việc làm phi chính thức trong UIS và trong các doanh nghiệp thuộc khu vực chính thức (ILO, 2002).

Page 4: Tải xuống Chương 3

326 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Hầu hết các thông tin trình bày trong bài này được trích từ ECLAC và ILO, và các nguồn chính là các cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc (1950-1980), các ước tính của PREALC trong những năm 1980 và các cuộc điều tra hộ gia đình đô thị trong giai đoạn 1990-2008.

Có thể phần nào hiểu được vì sao chưa có phân tích dài hạn về UIS ở khu vực Mỹ Latin. Các nguyên nhân gồm: 1) thiếu dữ liệu tại nhiều thời điểm về việc làm, dữ liệu chỉ đều đặn từ năm 19903; 2) các định nghĩa về UIS khác nhau giữa các quốc gia và các thay đổi về định nghĩa khái niệm để đo lường4, và 3) áp lực của cuộc tranh luận về chính sách chính thức hóa UIS, theo cách tiếp cận quản lí hoặc chính sách hỗ trợ UIS theo cách tiếp cận sản xuất. Tuy nhiên, trong số các nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận dài hạn, chúng ta có thể thấy các nghiên cứu của Ramos (1984) và của Gasparini và Tornarolli (2007). Trong các nghiên cứu này, do dữ liệu hạn chế nên không đạt được tầm nhìn dài hạn và không phân tích các yếu tố quyết định tới UIS theo nhóm nước.

Bài viết này tìm hiểu quan điểm dựa trên phân tích dài hạn. Cách tiếp cận đề cập mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tình trạng phi chính thức, tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong khu vực, sau cuộc khủng hoảng dầu lửa trên thế giới và điều chỉnh cơ cấu diễn ra sau đó và trong sự mở rộng của UIS những năm 1990.

1. Tăng trưởng việc làm trong khu vực phi chính thức đô thị (UIS), giai đoạn 1970-2008

Mức tăng việc làm trong UIS tại mười quốc gia SA được nghiên cứu trong giai đoạn 1970-2008 là 4,4%, tính theo trọng số trung bình5. Do sự tăng trưởng này tỉ lệ việc làm của UIS trong tổng việc làm đô thị tăng từ 34,9% năm 1970 lên 47,8% năm 2008, tức là tăng 12,9 điểm phần trăm trong 38

3 Trong số bài nghiên cứu về UIS dựa trên dữ liệu được công bố trong Tổng quan về lao động của ILO cho LAC trong giai đoạn 1990-1997, chúng ta có thể thấy các nghiên cứu của Galli và Kucera, 2008; Thomas năm 2002; 2001 Verdera, và Tokman 1999.4 Ví dụ như thay đổi quy mô của các MSEs được coi như thuộc UIS, từ 10 xuống 5 công nhân, từ năm 1997 đến 1998.5 Tất cả giá trị trung bình đều có trọng số.

Page 5: Tải xuống Chương 3

327ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

năm. Một đặc điểm chính của sự phát triển này là sự mở rộng liên tục của UIS từ năm 1991 đến 2003, đây là kết quả của việc điều chỉnh cấu trúc sau cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài năm 1982.

1.1 Các giai đoạn phát triển của UIS trong khu vựcTăng trưởng việc làm tại UIS có ít nhất năm giai đoạn tùy theo thay đổi

về quy mô và đặc điểm của UIS trong từng giai đoạn. Dựa vào đồ thị 1a, chúng ta có thể xác định và mô tả đặc điểm của từng giai đoạn:

Đồ thị 1a và 1bNam Mỹ: Các giai đoạn tăng trưởng của UIS, 1970-2008

32.5 35.0 37.5 40.0 42.5 45.0 47.5 50.0 52.5 55.0

70 72 74 76 78 80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

Tỉ lệ Nam Mỹ: Tỉ lệ phi chính thức đô thị (UIS)

1970 - 2008

Tỉ lệ UIS 2 per. T. Bình di động. (Tỉ lệ UIS) 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100

70 72 74 76 78 80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

%

Nguồn: CEPAL, ILO, các Viện thống kê các nước

Nam Mỹ: Diễn biến của EAP phi chính thức, 1970 - 2008 (%)

EAP phi chính thức

EAP Chính thức

Không có EAP và thất nghiệp

Nguồn: CEPAL, ILO, các Viện thống kê các nước.

i. Giai đoạn đầu tiên, 1970-1974, là giai đoạn “khám phá” về UIS và nhìn nhận mức tăng ban đầu của UIS, từ mức tương đối thấp trong các đo lường đầu tiên. Mức tăng từ 34,9% lên 40,6% việc làm đô thị, tức 5,7 điểm phần trăm;

ii. Giai đoạn thứ hai, 1975-1979, có mức ổn định tạm thời với khoảng 40% việc làm đô thị, ban đầu giảm nhẹ, sau đó gia tăng nhanh chóng;

iii. Giai đoạn thứ ba kéo dài 11 năm, từ 1980 đến 1991, là giai đoạn ổn định sau khi biến động mạnh đến 5 điểm phần trăm trong nửa cuối thập kỉ 1980, từ 37,7% đến 43,6%. Mức tăng gần 6 điểm phần trăm tỉ lệ

Page 6: Tải xuống Chương 3

328 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

UIS có thể là do tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong khu vực;

iv. Giai đoạn thứ tư, cũng 11 năm, từ năm 1992 đến 2003, ghi nhận sự tăng trưởng nhanh và bền vững của UIS, từ 40,7% lên đỉnh 52,6% vào năm 2003, tăng 11,9 điểm phần trăm. Giai đoạn này gồm các giai đoạn sau cuộc điều chỉnh cơ cấu và tăng trưởng được nhắc đến nhiều về xuất khẩu nông nghiệp và khoáng sản;

v. Giai đoạn thứ năm và gần đây, từ năm 2004 đến 2008, lần đầu tiên cho thấy mức giảm đáng kể tỉ lệ UIS, từ 52,6% xuống 47,8%, giảm 4,8 điểm phần trăm. Đây là kết quả của tăng trưởng GIP cao dựa vào sự hồi phục rất quan trọng của xuất khẩu nông sản và khoáng sản. Tác động của cuộc khủng hoảng năm 2008 đối với khu vực, mặc dù không nghiêm trọng ở hầu hết các nước, đã chặn tốc độ giảm UIS.

Tóm lại, chúng ta có thể phân ra hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên, từ 1970 đến 1991, chủ yếu là do yếu tố nhân khẩu quyết định (tăng EAP), và giai đoạn thứ hai, từ năm 1992 đến 2008, do các yếu tố kinh tế tác động. Ví dụ cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài, điều chỉnh cơ cấu và giai đoạn tăng trưởng đáng kể từ năm 2003 đến năm 2008, trước cuộc khủng hoảng gần đây. Cần lưu ý rằng về quy mô dân số có liên quan và với tư cách là một xu hướng, việc làm UIS không bao giờ giảm, ngay cả trong giai đoạn 2003-2008, khi tỉ lệ việc làm này giảm (Đồ thị 1b).

1.2 Tỷ trọng và diễn biến của UIS theo nhóm nướcSự phát triển nêu trên của UIS tại SA trải qua các mức tăng trưởng UIS

liên tiếp và có diễn biến khác nhau tại các quốc gia, các nước này có thể được phân loại thành ba nhóm.

Theo mức tăng UIS cho toàn bộ giai đoạn 1970-2008, ba nhóm nước có thể được xác định (Bảng 1):

i. Các quốc gia có tỉ lệ UIS tương đối thấp, ít hơn 40%: Uruguay và Chile;ii. Các nước có các tỉ lệ UIS trung bình từ 40% đến 50%: Argentina, Brazil

và Venezuela, với mức độ còn tăng, vàiii. Một nửa số nước tại SA có mức tương đối UIS rất cao, hơn 50%:

Paraguay, Bolivia, Peru, Ecuador và Colombia. Hai nước Paraguay, Bolivia có mức phi chính thức cao nhất, với các tỉ lệ UIS trên 60% việc làm đô thị.

Page 7: Tải xuống Chương 3

329ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Về tỷ trọng UIS cần lưu ý một số điểm:i. Các tỷ trọng có độ chênh lớn và tình trạng phi chính thức tồn tại dai

dẳng trong suốt thời gian 38 năm tại các nước SA, từ mức ban đầu 21% của Uruguay vào năm 1970 lên đến 64% của Bolivia vào năm 1990 và 2000;

ii. Mức tăng tương đối thấp của UIS tại Uruguay, tăng từ 21% năm 1970 lên 40% vào năm 2000, và tại Chile, gần như không đổi ở mức dưới 40% từ năm 1970 đến năm 2000, và,

iii. Tỉ lệ rất cao ở Bolivia và Paraguay, hơn 60% vào năm 2000.Những yếu tố nào quyết định mức chênh lệch giữa các nước và sự tồn tại

dai dẳng của tình trạng phi chính thức, như trình bày ở trên tỉ lệ phi chính thức tương đối, hoặc thấp hoặc rất cao giữa các nhóm nước trong khu vực?

Bảng 1: Nam Mỹ: diễn biến thay đổi quy mô UIS của các nước, 1970-2008

Năm ? 30% > 30% và ? 40% > 40% và ? 50% > 50% và ? 60% > 60%

Uruguay (20.7%) Argentina (37.6%) Colombia (43.4%) Bolivia (56.0%)

Brasil (30.3%) Chile (39.9%) Ecuador (45.4%) Paraguay (57.0%)

Perú (33.1%) Venezuela (44.0%)

Chile (25.9%) Brasil (38.0%) Argentina (48.4%) Bolivia (53.7%)

Uruguay (27.0%) Colombia (34.4%) Ecuador (53.0%)

Venezuela (29.3%) Paraguay (57.0%)

Perú (52.0%)

Uruguay (30.7%) Chile (37.8%) Argentina (44.6%) Perú (50.8%) Bolivia (64.0%)

Venezuela (33.0%) Brasil (46.0%)

Colombia (40.0%) Ecuador (49.6%)

Paraguay (48.2%)

Chile (38.9%) Brasil (48.9) Colombia (55.6%) Bolivia (63.7%)

Uruguay (40.4%) Venezuela (47.5) Ecuador (57.2) Paraguay (60.9%)

Argentina (49.9%) Perú (58.8%)

1970

1980

1990

2000 ___

___

___

Nguồn: CEPAL, ILO, các Viện thồng kê các nước.

Câu trả lời đầu tiên, tuy vẫn mang tính mô tả, là hầu hết các nước có tỉ lệ tăng UIS rất cao, trên mức trung bình 4,4% của SA trong cả giai đoạn. Nếu không tính mức giảm UIS trong giai đoạn 2003-2008 thì tốc độ tăng trưởng này sẽ còn lớn hơn (Đồ thị 2).

Sự khác biệt tỉ lệ tăng từ mức thấp nhất của Chile (2,5%) tới vị trí hàng đầu của Peru (Lima) là 5,3%, cao gấp hai lần Chile. Peru cũng có sự khác biệt

Page 8: Tải xuống Chương 3

330 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

lớn nhất về mức tăng các điểm phần trăm. Phần lớn điều này liên quan đến dữ liệu của Vùng thành phố Lima, khiến tỉ lệ cao hơn so với tỉ lệ trung bình tại đô thị của các nước khác. Sự khác biệt lớn về tỉ lệ phần trăm điểm của UIS tại Uruguay là do mức độ xuất phát của nước này thấp hơn, và cuối cùng ngược lại, mức gia tăng UIS chậm tại Bolivia là do mức độ xuất phát của nước này rất cao. Phần tiếp theo sẽ đề cập đến yếu tố quyết định mức tăng UIS, và chúng tôi sẽ tiếp tục bàn về các lí do các nhóm nước có diễn biến UIS khác nhau.

Đồ thị 2: Nam Mỹ: tăng UIS sắp xếp theo quốc gia, 1970-2008

- 3.9 3.3 3.5

4.1 8.3

11.5 12.9

14.7 15.7 16.2

18.5

- 5.0 0.0 5.0 10.0 15.0 20.0 Chile

Bolivia Venezuela

Paraguay Argentina

Ecuador South America

Colombia

Brasil Uruguay

Perú Chênh lệch điểm phần trăm theo quốc gia

1970 - 2008

2.5 3.0

3.2 4.4

4.5 4.7

4.8 4.9

5.1 5.2 5.3

0.0 1.0 2.0 3.0 4.0 5.0 6.0 Chile

Argentina Uruguay

South America Bolivia Brasil

Venezuela Colombia

Paraguay Ecuador

Perú Tăng việc làm UIS, 1970-2008 -

(%)

Nguồn: CEPAL, ILO, các Viện thống kê các nước.

2. Yếu tố quyết định mức tăng lao động phi chính thức

Hiện tại có hai quan điểm chính về lao động phi chính thức. Một mặt, phi chính thức là do năng suất thấp của cơ sở sản xuất nhỏ và của các lao động độc lập. Đây là hai thành phần của UIS (ILO 1972, Portes và Schauff 1992). Mặt khác, phi chính thức là do người sử dụng lao động không thể tuân thủ các quy định pháp luật vốn quá cồng kềnh và tốn kém (De Soto, 1996, Ngân hàng Thế giới, 2007)6 7.

6 Galli y Kucera, 2008, tr.192-193 và ghi chú 3. “Định nghĩa phi chính thức thường nằm trong ranh giới của định nghĩa về năng suất hoặc pháp lí trong thị trường lao động” (2009, Khamis, tr.3).7 Một biến thể của cách tiếp cận pháp lí để giải thích tình trạng phi chính thức là cách tiếp cận của Loayza

Page 9: Tải xuống Chương 3

331ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Có thể mô tả hai quan điểm này là tĩnh hoặc có tầm nhìn ngắn hạn. Các quan điểm này không nhận thấy là việc làm chính thức là một hiện tượng có quy mô lớn, như đã mô tả trong phần trước, có xu hướng gia tăng và tồn tại dai dẳng qua nhiều năm. Vì vậy, để hiểu về tình trạng phi chính thức và sự phát triển của hiện tượng này, cần một cách tiếp cận dài hạn và các chính sách phù hợp.

Căn cứ vào mức độ gia tăng tình trạng phi chính thức trong một thời gian dài và mức tăng UIS khác nhau của các nhóm nước, chúng tôi có thể đưa ra một số giả thuyết về các yếu tố tạo ra, làm tăng và kéo dài UIS tại SA. Chúng ta có thể tách những yếu tố này thành ba nhóm: nhóm nhân khẩu học, kinh tế (vĩ mô và cấu trúc) và hoạt động thị trường lao động.

Luận cứ chính của bài viết này là sự gia tăng và quy mô lớn của UIS tại SA là do sự gia tăng của lực lượng lao động đô thị, thúc đẩy bởi sự gia tăng dân số đô thị và dân số ở độ tuổi lao động (AAP). Điều này là do ảnh hưởng của các giai đoạn liên tiếp của quá trình chuyển đổi nhân khẩu của nhóm các nước và thiếu hấp thụ mức độ gia tăng nhanh của EAP với tư cách là việc làm hưởng lương chính thức do sự trì trệ tương đối của các hoạt động kinh tế. Xu hướng thứ hai trở nên trầm trọng hơn do tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài năm 1982 đối với SA, đợt điều chỉnh cơ cấu tiếp theo sau đó và sự thu hẹp quy mô hoạt động của Nhà nước nhằm thu xếp vốn để thanh toán nợ nước ngoài.

Đối với các lập luận của trường phái cấu trúc và câu hỏi liệu các UIS sẽ dần dần biến mất khi một quốc gia phát triển, Bourguignon (trong ấn phẩm này) đã đưa ra lập luận. Ông cho rằng câu hỏi chính là định nghĩ về động thái của phi chính thức là gì: “Những gì chúng ta mong đợi, trên lí thuyết, tất nhiên là tăng trưởng kinh tế sẽ dần dần loại bỏ khu vực phi chính thức. Đây là điều chúng ta đã thấy ở các nước phát triển... Tại sao tại các nước đang phát triển nơi có mức độ tăng trưởng nhất định nhưng vẫn còn tình trạng phi chính thức tương đối dai dẳng? Đồng thời, dân số đô thị vẫn tăng... Một cách giải thích là cùng lúc diễn ra tăng trưởng, có thay đổi về kĩ thuật, có nghĩa là khu vực chính thức ngày càng tăng sản lượng nhưng lại không tạo được nhiều về việc làm”.

và Rigolini (2006:2): “Về lâu dài, việc làm phi chính thức được xác định bởi các xu hướng trong chi phí tương đối lợi ích và của tình trạng phi chính thức”.

Page 10: Tải xuống Chương 3

332 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Liên quan đến tác động của các cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài, tương tự như các lập luận của Boeri và van Ours (2008), chúng tôi có thể cho rằng không thể hiểu được sự gia tăng của UIS trong những năm 1980 nếu không xem xét tác động của cuộc khủng hoảng và các cuộc suy thoái sau đó đối với việc làm chính thức đô thị.

Lập luận được phát triển theo hai cách. Trước tiên, chúng tôi sẽ so sánh các hình thái của diễn biến và các mức độ của UIS, dựa trên giá trị trung bình của khu vực và của các nhóm nước và sẽ nêu bật sự khác biệt giữa các nước này. Diễn biến của các yếu tố nhân khẩu học, kinh tế và sản xuất sẽ xác định tổng sản phẩm tỉ lệ phi chính thức đô thị và vai trò của khu vực công. Vai trò của các yếu tố này trở nên rõ ràng khi so sánh các quy mô khác nhau của UIS theo các nhóm quốc gia và các hình thái phát triển khác nhau.

Diễn biến và cấu trúc của các yếu tố kinh tế xếp theo nhóm nước được xác định bởi cấu trúc của Tổng sản phẩm quốc nội (GIP) và năng suất của khu vực, hai yếu tố bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng liên tiếp. Trong số các nguyên nhân của tình trạng GIP và năng suất lao động bình quân trì trệ, chúng tôi quan tâm đến:

i. Chuyển nhượng ròng để trả nợ nước ngoài;ii. Tích lũy vốn cố định gộp không đủ;iii. Vai trò của Nhà nước suy giảm, thể hiện qua sự suy giảm chi tiêu và

việc làm công. Một khía cạnh cần xem xét là tỉ trọng rất thấp của chi tiêu công trong lĩnh vực quản lí nhà nước về lao động.

Thứ hai, chúng tôi sẽ kiểm định một tập hợp các mối quan hệ bao gồm các yếu tố quyết định sự gia tăng UIS trong dài hạn, các quan hệ này sẽ xác định giới hạn mức gia tăng có thể đạt được. Chúng tôi đề xuất các yếu tố quyết định mức gia tăng của UIS sau đây (Xem hình 1):

i. Tăng nguồn cung cấp lao động (PEA) trong dài hạn, do tăng dân số đô thị và tăng AAP và tỉ lệ lao động nữ (FAR);

ii. Các yếu tố cơ cấu kinh tế dẫn đến việc suy giảm mức tăng GIP và dẫn đến tăng năng suất lao động trong khu vực chính thức, các thành tố của cầu lao động chính thức trong dài hạn. Giả định rằng chỉ có khu vực hiện đại tạo ra tăng trưởng GIP và năng suất lao động;

iii. Sự ổn định tương đối của tỉ lệ thất nghiệp đô thị và khả năng khu vực chính thức (FS) không hấp thụ được dạng thất nghiệp này hoặc “tăng trưởng không tạo ra việc làm”, dẫn đến sự gia tăng nhanh về việc làm UIS.

Page 11: Tải xuống Chương 3

333ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Sơ đồ 1: Mối quan hệ trong việc xác định quy mô và sự phát triển của các UIS

Các cú sốc: Khủng hoảng nợ, điều chỉnh cơ cấu, và khủng hoảng tài chính

Kết quả thị trường lao động: ▲

Việc làm chính thức phi chính thức ▲

Thât nghiệp ▲

Chênh thu nhập

Cung lao động dài hạn:

EAP ► ▲

UIS

Cầu lao động dài hạn: ▲

GIP và ▲

(GIP/nhân công)

Dấn số: ▲ AAP

Xã hội-kinh tế-

RA nữ

Xu hướng cơ cấu: Giá xuất khẩu Tổng vốn Đầu tư cố định Nợ nước ngoài và Chuyển nhượng ròng

FS Yếu tố Kinh tế:

Các yếu tố dân số

AAP ▲

RA nữ Các yếu tố kinh tế:

Giá xuất khẩu Tổng vốn Đầu tư cố định

Nợ nước ngoài và

Chuyển nhượng ròng

Yếu tố Dân số:

Nguồn: Tác giả.

Sau khi đánh giá sự phù hợp của các mối quan hệ này trong việc giải thích mức tăng việc làm UIS, bài viết sẽ đánh giá xem liệu cũng chính những yếu tố này có thể giới hạn việc mở rộng UIS:

i. Mức tăng EAP sẽ chậm lại do mức tăng AAP và FAR sẽ chậm hơn, tiến qua giai đoạn cuối của quá trình chuyển đổi nhân khẩu, như ở Uruguay và Argentina;

ii. Mức tăng GIP phi nông nghiệp (hoặc thành thị) cao hơn năng suất lao động trong khu vực chính thức sẽ tiếp tục làm tăng việc làm chính thức, với khả năng hấp thụ EAP lớn hơn;

iii. Dư thừa nguồn cung lao động sẽ giảm nếu FS tiếp tục phát triển và việc làm trong UIS có xu hướng giảm.

3. Tầm quan trọng của các xu hướng nhân khẩu

Sự tăng vọt của UIS không thể diễn ra nếu không có sự tăng trưởng dài hạn rất mạnh của lực lượng lao động đô thị ở Nam Phi. Sự tăng trưởng này là do các quy trình sau: 1) việc chuyển từ giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nhân khẩu sang các giai đoạn tiếp theo, 2) tăng mạnh dân số đô thị và

Page 12: Tải xuống Chương 3

334 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

tăng AAP và, 3) tăng lực lượng lao động đô thị, gần như hoàn toàn do tăng AAP đô thị, và ở mức độ thấp hơn cũng do tăng FAR.

3.1 Các quốc gia xếp theo giai đoạn của quá trình chuyển đổi nhân khẩu

Sự gia tăng nhanh chóng việc làm trong UIS diễn ra khi hầu hết các nước SA đang ở giai đoạn đầu và giữa của quá trình chuyển đổi nhân khẩu. Bảng 2 xếp mười nước được nhóm lại theo các giai đoạn của quá trình chuyển đổi trong năm năm đầu tiên của các giai đoạn năm năm từ 1960, 1980 và 2000.

Cần lưu ý rằng các nước có tỉ lệ phi chính thức cao nhất, Bolivia, Colombia, Ecuador, Paraguay và Peru, cho đến trước giai đoạn 1980-1985 vẫn đang ở trong giai đoạn giữa của quá trình chuyển đổi, với mức sinh cao, từ 32 tới 42/1.000 người. Ngược lại, các nước với mức phi chính thức thấp hơn trong cùng giai đoạn năm năm này lại đang bước sang giai đoạn cuối của quá trình chuyển đổi với tỉ lệ sinh thấp hơn (và tăng trưởng tự nhiên thấp hơn), như Argentina, Chile và Uruguay và ở mức độ nào đó, Brazil.

Giống như mức tăng trưởng dân số nhanh vào những năm 1960 và 1980 đã góp phần gia tăng tình trạng phi chính thức ở một số nước, sự gia tăng này sẽ giảm khi các nước này đạt đến giai đoạn giữa và sau của quá trình chuyển đổi. Ngược lại, áp lực dân số ít hơn ở các nước đã đạt tới giai đoạn sau sẽ làm giảm tình trạng phi chính thức đô thị.

Có thể nếu tổng cầu lao động giữ tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của EAP, các quốc gia trong giai đoạn sau của quá trình chuyển đổi sẽ cần thêm nhân công. Nhu cầu này sẽ được đáp ứng, như đã diễn ra trên thực tế, thông qua nguồn lao động nhập cư từ các nước có nguồn dư thừa lao động, đó là tình trạng di cư hiện nay từ Bolivia và Peru tới Argentina và Chile và cho đến đầu năm 1980, từ Colombia, Ecuador và Peru tới Venezuela.

Sự gia tăng đô thị hóa trong khu vực làm giảm tình trạng phi chính thức. Các quốc gia có đông dân cư nông thôn và có tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị có tỉ lệ phi chính thức cao. UIS sẽ tiếp tục tăng do tăng trưởng tự nhiên của AAP và di cư nội bộ.

Page 13: Tải xuống Chương 3

335ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Bảng 2: Nam Mỹ: các giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu xếp theo mức sinh của các nước

Đầu Giữa Sau Hoàn thành

TN: ? 42/1000 TN: trong khoảng 32 và 42/1000 TN: trong khoảng 22 và

32/1000 TN: ? 22/1000

Bolivia (2.2) Chile (2.5) Argentina (1.6) Uruguay (1.2) Brasil (3.0) Paraguay (2.7) Colombia (3.0)Ecuador (2.9) Peru (2.9)Venezuela (3.6)

Bolivia (2.1) Argentina (1.5) Uruguay (0.6) Ecuador (2.7) Brasil (2.3) Paraguay (2.9) Chile (1.6) Peru (2.4) Colombia (2.2)

Venezuela (2.8)

Bolivia (2.0) Argentina (1.0) Colombia (1.6) Brasil (1.3) Ecuador (1.2) Chile (1.1) Paraguay (2.0) Uruguay (0.04) Peru (1.4)Venezuela (1.8)

Các giai đoạn chuyển tiếp dân số

1960 - 1965

1980 - 1985

2000 - 2005

Nguồn: ECLAC, Niên giám thống kê 2009. 1/Các giá trị bên cạnh tên quốc gia ứng với tỉ lệ tăng trưởng trung bình tự nhiên của dân số hàng năm trong thời gian năm năm.

(%). TN: tỉ lệ sinh/1.000.

3.2 Hai nguồn gia tăng lực lượng lao động đô thịHai nguồn tăng EAP là tăng AAP và tỉ lệ hoạt động. Nguồn chính khiến

lực lượng lao động đô thị gia tăng nhanh ở các nước trong khu vực từ năm 1980 tới 2008 là AAP, tham gia vào gần như tất cả mức tăng của EAP trong giai đoạn: 2,9% của 3,0% EAP (trung bình hàng năm cho cả hai chỉ số, Bảng 3). Con số này cho thấy mức tăng trưởng nhanh dân số đô thị trong khu vực.

Page 14: Tải xuống Chương 3

336 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Bảng 3: Nam Mỹ: Các nguồn tăng lực lượng lao động đô thị theo giới tính, 1980-2008* (Tốc độ tăng trưởng tính bằng tỉ lệ phần trăm)

Tổng Nam Nữ

Lực lượng lao động đô thị (EAP) 3,0 2,9 4,3

Dân số ở tuổi lao động đô thị (AAP) 2,9 2,9 2,9

Tỉ lệ hoạt động đô thị:

- Tỉ lệ tăng 0,1 -0,1 1,3

- Chênh lệch điểm % 1,8 -1,3 15,4

Nguồn: ECLAC và ILO. *: Giá tính từ đầu đến cuối kì. Đường trung bình di động trung tâm cho kết quả

tương tự.

Tác động của tỉ lệ hoạt động đô thị (UAR), nguồn thứ hai của tăng EAP, chỉ có ý nghĩa đối với phụ nữ, và kể cả trong trường hợp này tốc độ tăng hoạt động chiếm 30% tổng mức gia tăng EAP nữ tại đô thị từ năm 1980 đến năm 2008. Tỉ lệ tăng là 15,4 điểm phần trăm. Ngược lại, tỉ lệ hoạt động của nam đã giảm nhẹ (-0,1%), giảm 1,3 điểm phần trăm.

Nhóm các nước có tỉ lệ tăng EAP đô thị thấp hơn - dưới mức trung bình khu vực – là các nước có tỉ lệ phi chính thức đô thị thấp hơn và các nước có EAP tăng nhanh nhất thường có tỉ lệ phi chính thức cao hơn.

Uruguay, Argentina và Chile có tốc độ tăng lực lượng lao động đô thị thấp nhất từ năm 1980 đến 2008. Các nguyên nhân chính của tỉ lệ tăng thấp hơn là sự gia tăng của EAP nữ, do gia tăng AAP nữ và cũng có thể, ở một mức độ ít hơn, tăng tỉ lệ hoạt động nữ tại ba quốc gia. Ngược lại, Paraguay, Peru (Lima), Ecuador, Venezuela, Colombia và Bolivia có tỉ lệ EAP đô thị lớn hơn hơn mức trung bình, đạt tỉ lệ tăng trưởng trên 4% mỗi năm tại 50% các nước này. Trong các trường hợp của Ecuador và Peru tăng tỉ lệ hoạt động nữ là một nguồn tăng EAP nữ quan trọng.

Vì vậy, có thể thiết lập một mối quan hệ trực tiếp giữa tăng dân số, AAP và tỉ lệ tăng lao động phi chính thức đô thị tại tất cả các nước (tính theo giá trị trung bình) và theo các nhóm nước, thông qua nghiên cứu tình trạng phi chính thức và diễn biến của tình trạng này. Chúng tôi phải nhấn mạnh sự gia tăng trong PEA nữ đô thị do sự gia tăng đáng kể trong tỉ lệ hoạt động và mức

Page 15: Tải xuống Chương 3

337ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

gia tăng tỉ lệ này trong việc làm phi chính thức. Trong ngắn hạn, tăng AAP đô thị đã làm UIS tăng đáng kể.

4. Diễn biến của các nền kinh tế Nam Mỹ và UIS

4.1 Các giai đoạn chính của diễn biếnCho đến cuối thập kỉ 1970, áp dụng mô hình của Khu vực Mỹ Latin, SA có

tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng khâm phục, thể hiện bởi diễn biến tích cực của GIP. Mặc dù có những biến động rõ rệt, từ năm 1950 đến năm 1979, SA có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 6%, với tổng số 11 năm có tỉ lệ trung bình trên mức này. Chỉ có một năm tăng trưởng âm (Đồ thị 3). Vào giữa những năm 1970 tăng trưởng GIP giảm so với những năm đầu của thập kỉ này, nhưng luôn có tỉ lệ dương và cao, mức thấp nhất là gần 3%, trong năm 1974 và 1977.

Ngược lại, từ 1980 đến 1982, giai đoạn 1988-1989, 1998 và 2001 tăng trưởng trung bình giảm mạnh. Sự sụp giảm đầu tiên là do tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong khu vực và sự sụp giảm thứ hai và thứ ba là do cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, trong đó có tác động nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tín dụng và ngân hàng tại hầu hết các nước trong khu vực. Từ năm 1980 đến 2002, tốc độ tăng trưởng dao động khoảng 3%, với bảy năm tăng trưởng âm, cho đến giai đoạn gần đây khi xuất khẩu nông sản và khai khoáng tăng trưởng trong giai đoạn 2003-2008, thì tốc độ tăng trưởng hàng năm dao động trở lại trong khoảng 6%, trong đó chỉ có hai năm cao hơn mức này.

Tóm lại, sự kiện dẫn đến việc giảm tốc độ tăng trưởng trung bình từ 6% xuống 3% là cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài đầu những năm 19808. Cú sốc đầu tiên được bồi thêm bởi cú sốc thứ hai do điều chỉnh cơ cấu và cải cách cơ

8 Nhiều nước đang phát triển có nhu cầu vay vốn, đã có các khoản nợ nước ngoài lớn trong những năm bảy mươi; đầu thập niên 1980 lãi suất tăng mạnh trên thị trường toàn cầu, nhiều nước đã rơi vào khủng hoảng thanh toán, “khủng hoảng nợ”. Các khoản nợ lớn buộc họ phải thắt chặt ngân sách vì phần lớn các khoản nợ là của chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, sử dụng vốn vay cho các dự án có lợi nhuận thấp hoặc thời gian hoàn vốn lâu. Vào giữa thập kỉ đó hầu hết các nước bắt đầu thực hiện các cơ chế khác nhau để cơ cấu lại các khoản nợ nước ngoài lớn và thanh toán nợ. Xem Stewart (1995) và Thomas (2002).

Page 16: Tải xuống Chương 3

338 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

cấu tự do hóa vào đầu những năm 1990 ở hầu hết các quốc gia. Cuối cùng, tác động thứ ba đến từ cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế cũng như trong các hệ thống ngân hàng quốc gia ở một số nước vào năm 1998.Đồ thị 3

10.0 12.0 14.0 16.0 18.0 20.0 22.0 24.0 26.0

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

% GIP Mỹ Latin: Tổng vốn cố định, 1950 - 2008

( % GIP)

Nam Mỹ Mỹ Latin

Nguồn: ECLAC.

4.2 Mối quan hệ giữa diễn biến của GIP và UISNếu gắn diễn biến của GIP với diễn biến UIS tại SA từ những năm 1970,

được mô tả ở phần đầu của bài viết này (Đồ thị 1), chúng ta có thể thấy mối quan hệ nghịch đảo. Tốc độ tăng GIP trong khu vực giảm từ mức cao vào đầu năm 1970 trong khi UIS liên tục tăng. Các giai đoạn có thể được phân biệt thông qua kết hợp giữa hai lộ trình. Chúng ta hãy xem xét sự kết hợp này.

i. Trong nửa đầu các năm 1970, GIP có tốc độ tăng cao cho đến năm 1974, tuy vậy UIS vẫn tăng 5 điểm phần trăm. Có vẻ như đợt tăng đầu tiên này của UIS là do mức tăng dân số đô thị khá nhanh;

ii. Từ năm 1975 đến 1979, GIP tăng trưởng vẫn ở mức cao, ngoại trừ năm 1977 và quy mô của UIS ổn định ở tỉ lệ 40% việc làm đô thị, chỉ tăng vào năm 1979 lên khoảng 42,5%. Mức tăng nhanh cung lao động chủ yếu được hấp thụ qua các công việc hưởng lương chính thức, qua đó làm tăng mức thất nghiệp và di cư đến các nước SA khác như Venezuela và bên ngoài khu vực;

Page 17: Tải xuống Chương 3

339ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

iii. Từ năm 1980 đến 1985, với cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài năm 1982, GIP có tỉ lệ âm trong giai đoạn 1980-1983, lần đầu tiên kể từ năm 1950. Tỉ lệ UIS tăng đến 43,5% cho đến năm 1984;

iv. Từ 1986 đến 1990, tỉ lệ tăng GIP giảm và âm vào năm 1988 và năm 1989, dẫn đến sự gia tăng UIS đến gần 45% việc làm đô thị. Sự hồi phục tạm thời của tăng trưởng GIP vào năm 1990, trước khi diễn ra đợt điều chỉnh vào đầu những năm 90, dẫn đến giảm tỉ lệ phi chính thức xuống dưới 40%;

v. Từ năm 1991 đến 2003, mặc dù tăng trưởng GDP đạt mức trung bình và cao cho đến năm 1995, UIS tăng từ khoảng 40% đến 47,5% vào năm 1997. Điều chỉnh cơ cấu vào đầu những năm 1990, dẫn đến giảm việc làm trong lĩnh vực sản xuất và trong các cơ quan chính phủ, đã thúc đẩy bước nhảy vọt này. Mức tăng trưởng GDP âm năm 1998 và 2001 đã đẩy UIS tăng từ 47,5% năm 1998 lên đến 52,5% vào năm 2003;

vi. Cuối cùng, với sự tăng trưởng GDP mạnh mẽ trong giai đoạn 2003-2007, tỉ lệ UIS giảm 5 điểm phần trăm từ 52,5 xuống 47,5%, trở lại mức năm 1998, và thậm chí trên mức đỉnh 44% của năm 1990.

Từ năm 1980 đến 1990 xu hướng tăng UIS là do cuộc khủng hoảng năm 1982. Tuy nhiên, diễn biến vừa được mô tả rõ ràng cho thấy xu hướng giảm GIP từ năm 1990 đến 2003 là kết quả của hai giai đoạn GIP có tốc độ tăng trưởng âm trong giai đoạn này, 1988-1989 và 1998-2001. Các giai đoạn này đã củng cố xu hướng đi lên của UIS, tăng hơn 12,5 điểm phần trăm trong 13 năm. Kết luận là có mối quan hệ nghịch đảo giữa sự sụt giảm GIP và tăng UIS, trung bình khoảng một điểm phần trăm mỗi năm.

4.3 Tác động của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài, sự trì trệ của năng suất lao động và tác động của nó lên UIS

Cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài năm 1982 đã làm tăng vọt tỉ lệ nợ trên giá trị trung bình GIP của khu vực (Đồ thị 4). Từ năm 1980 đến năm 1985 tỉ lệ này tăng gấp đôi từ 24% lên 50% GIP, và giảm xuống 30% trong các năm 1995-1997. Với cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước đang phát triển mà khởi đầu là cuộc khủng hoảng châu Á vào cuối những năm 1990, tỉ lệ nợ nước ngoài trên GIP đạt đỉnh 55% vào các năm 2002-2003. Trong bối cảnh chuyển nhượng ròng âm trầm trọng (trừ giai đoạn 1992-1999) thì cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư, tăng trưởng kinh tế và năng suất sản xuất.

Page 18: Tải xuống Chương 3

340 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Đồ thị 4 Đồ thị 5

10.0

20.0

30.0

40.0

50.0

60.0

80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

% GIP Nam Mỹ và Mỹ Latin: Nợ nước ngoài, 1980 - 2008

( % GIP)

Nam Mỹ Mỹ Latin - 90000 - 80000 - 70000 - 60000 - 50000 - 40000 - 30000 - 20000 - 10000

0 10000 20000 30000

80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

Nam Mỹ: Chuyển nhượng ròng, 1980- 2008 (Triệu USD điều chỉnh lạm phát thời điểm năm 2000)

Nam Mỹ

Đa thức (Nam Mỹ)

Nguồn: ECLAC, tính toán của tác giả.

Số lượng lớn dòng tiền chuyển ra nước ngoài đã làm giảm mức tái đầu tư và đầu tư mới. Mức thanh toán nợ nước ngoài cao làm giảm chi tiêu xã hội hiện tại và đầu tư công cho cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, quy mô và năng lực của các quốc gia trong việc quản lí các nền kinh tế cũng bị suy giảm và suy yếu trầm trọng. Đặc biệt điều này đã khuyến khích tình trạng trốn thuế và lao động phi chính thức phát triển.

Mặt khác, diễn biến của tổng vốn cố định (GFCF: đầu tư tư nhân và công) như là một tỉ lệ phần trăm của GIP (hệ số đầu tư/GIP), cho thấy một giai đoạn tăng kéo dài tính trung bình đạt đỉnh 25% tại khu vực trong giai đoạn 1975-1978. Tăng từ mức sàn 16% năm 1965 lên mức trần 25% vào năm 1975-1978 (Đồ thị 6), sau đó giảm xuống còn 16% vào năm 2003. Và cuối cùng, tỉ lệ này phục hồi một phần ở mức 20% năm 2008.

So sánh tiến triển của GFCF với diễn biến của tình trạng phi chính thức kể từ năm 1970 (Đồ thị 1), chúng ta có thể xác định hai giai đoạn chính. Trong khi đầu tư tăng lên, đặc biệt là trong giai đoạn năm 1974 và 1977, tình hình phi chính thức đã không tăng hoặc chỉ tăng nhẹ. Thay vào đó, với cuộc khủng hoảng nợ, hệ số đầu tư trên GIP giảm trong giai đoạn 1984-1985, xuống trên 16%, quay trở lại mức sàn của chu kì dài bắt đầu vào năm 1965. Trước tiên, UIS tăng trong giai đoạn 1982 và 1990 và sau đó tăng tốc, trong khi hệ số đầu tư/GIP dao động quanh mức 18%.

Page 19: Tải xuống Chương 3

341ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Đồ thị 6

10.0 12.0 14.0 16.0 18.0 20.0 22.0 24.0 26.0

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

% GIP Mỹ Latin: Tổng vốn cố định, 1950 - 2008

( % GIP)

Nam Mỹ Mỹ Latin

Nguồn: ECLAC, tính toán của tác giả.

Kết cục diễn biến của các nền kinh tế SA là tình trạng lỗ ròng tài nguyên và hệ số đầu tư trên GIP thấp. Điều này khiến GIP bình quân đầu người và GIP trên đầu nhân công (proxy cho năng suất lao động trung bình) rơi vào trì trệ từ năm 1980 đến trước khi GIP tăng năm 2003 (Đồ thị 7). Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng nợ, vào đầu những năm 1980, cả hai chỉ số cho thấy xu hướng tăng trung bình của khu vực. Sau đó, GIP bình quân đầu người tăng nhẹ và năng suất lao động trung bình giảm đến năm 2003.

Đồ thị 7 và 8 lần lượt cho thấy diễn biến của GIP bình quân đầu người và đầu nhân công trong giai đoạn 1950-1970, tính theo USD được điều chỉnh theo lạm phát, và các chỉ số biến động. Đồ thị 7 cho thấy mức gia tăng đáng kể GIP trên mỗi nhân công trong giai đoạn 1950 và 1980. Giữa các năm 1974 và 1980, sự gia tăng đáng kể GIP trên mỗi nhân công cao hơn mức tăng GIP, và nhờ đó có thể hấp thụ được nhiều việc làm hơn và làm chậm sự gia tăng tỉ lệ UIS.

Sự suy giảm GIP trên mỗi nhân công là kết quả của cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 1980 và xu hướng đi xuống của nó cho đến năm 2003 trước tiên có thể gắn với biến động của tình trạng phi chính thức cho đến năm 1991 - với điều chỉnh cơ cấu - và mức tăng nhanh liên tục cho đến

Page 20: Tải xuống Chương 3

342 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

năm 2003. Cuối cùng, tình trạng phi chính thức đã giảm trong giai đoạn tăng trưởng do bùng nổ xuất khẩu nông và khoáng sản trong giai đoạn 2003-2008.

Trong Đồ thị 8, chúng ta có thể quan sát thấy diễn biến của GIP bình quân đầu người nói chung đi theo xu hướng của chỉ số GIP trên mỗi công nhân, cả khi lên và xuống, nhưng chỉ số của GIP bình quân đầu người ở mức độ cao hơn, đặc biệt là kể từ khi điều chỉnh cơ cấu trong những năm 1990. Điều này có thể được giải thích bởi loại hình tăng trưởng diễn ra sau đợt điều chỉnh, tập trung vào xuất khẩu nguyên liệu thô và mở rộng các dịch vụ công cộng, đô thị công nghệ cao, GIP bình quân đầu người tăng mạnh – kèm theo bất bình đẳng lớn hơn - trong khi việc làm chính thức trong các lĩnh vực hoạt động cho năng suất cao chỉ tăng rất ít.

Đồ thị 7 Đồ thị 8

30 33 36 39 42 45 48 51 54 57

1100 2200 3300 4400 5500 6600 7700 8800 9900

11000

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

Tỉ lệ UIS USD Nam Mỹ : GDP đầu người và đầu lao động, 1950 - 2008

(USD điều chỉnh lạm phát thời điểm năm 2000)

GDP đầu người GDP đầu lao động Tỉ lệ UIS 6 per. T.bình di động (Tỉ lệ UIS)

100 110 120 130 140 150 160 170 180

70 72 74 76 78 80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

Chỉ số

1: USD điều chỉnh lạm phát thời điểm năm 2000) 2: Tỉ lệ UIS

Nam Mỹ: Chỉ số GDP đầu người và đầu lao động1 và IUS2 , 1970 - 2008. Chỉ số (100=1970)

GDP đầu người GDP đầu lao động UIS

Nguồn: ECLAC, tính toán của tác giả.

Mức độ GIP trên mỗi nhân công thấp so với GIP bình quân đầu người, và xu hướng giảm có mối liên hệ với sự gia tăng của tình trạng phi chính thức. Mức lợi nhuận thấp nhất là mức của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và năng lực đầu tư vốn cố định thấp hoặc không tồn tại của các doanh nghiệp này, được bù lại bằng khả năng hấp thụ rất lớn đối với UIS có mức lương thấp.

Đồ thị 9 cho thấy mức độ và những thay đổi trong năng suất lao động

Page 21: Tải xuống Chương 3

343ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

quốc gia (không chỉ năng suất đô thị) của các nhóm nước9. Xem xét đồ thị cho phép chúng ta nhận thấy:

i. Các quốc gia có UIS nhỏ nhất là các nước có năng suất lao động cao nhất, trên mức trung bình khu vực. Đây là trường hợp của Argentina và Uruguay, và Venezuela dù có lúc lên lúc xuống.

ii. Ngược lại, các quốc gia có mức năng suất lao động bình quân thấp hơn và thấp dưới mức trung bình có tỉ lệ UIS cao hơn. Mặc dù năng suất lao động bình quân tăng lên sau điều chỉnh cơ cấu trong những năm 1990, Peru và Colombia thuộc nhóm các quốc gia này, cùng với Bolivia và Paraguay, và Ecuador cho tới năm 2007.

iii. Ở mức độ trung bình của GIP trên mỗi nhân công là Brazil và Chile. Năng suất lao động của Brazil tăng lên bằng mức trung bình khu vực, và của Chile tăng rất mạnh kể từ năm 1989 và đang ở trên mức trung bình khu vực kể từ năm 1992. Trong trường hợp của Chile, diễn biến này có nghĩa là tỉ lệ phi chính thức thấp hơn. Brazil đã không đạt kết quả tương tự, UIS của nước này chỉ ở mức trung bình.

Phần đánh giá ngắn gọn về các nhóm quốc gia cho phép chúng tôi kết luận rằng tỉ lệ UIS có mối quan hệ nghịch đảo với năng suất lao động trung bình.

Đồ thị 9: Diễn biến của GIP trên mỗi nhân công theo nhóm quốc gia

2500 5000 7500

10000 12500 15000 17500 20000 22500 25000

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

USD Các quốc gia có GDP đầu người cao hơn t.bình

1950 – 2008, (USD không đổi năm 2000)

Nam Mỹ Argentina Uruguay Venezuela

2500 5000 7500

10000 12500 15000 17500

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

USD Các quốc gia có GDP đầu người gần t.bình

1950 – 2008, (USD không đổi năm 2000)

Brasil Chile

1000

3500

6000

8500

11000

13500

50 53 56 59 62 65 68 71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07

USD Các quốc gia có GDP đầu người gần t.bình

1950 – 2008, (USD không đổi năm 2000)

Nam Mỹ Bolivia Ecuador

Paraguay Colombia Peru Nam Mỹ

Nguồn: ECLAC, tính toán của tác giả.

9 Lưu ý các quy mô khác nhau phản ánh sự bất bình đẳng trong năng suất lao động khu vực, với mức tối đa 22.500 USD tại Argentina ít hơn 2.000 USD tại Bolivia năm 2007.

Page 22: Tải xuống Chương 3

344 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

4.4 Vai trò của chính phủ: chi tiêu công và việc làm công Năng lực trả nợ nước ngoài của các nền kinh tế và các chính phủ trong

khu vực được thực hiện thông qua việc điều chỉnh cấu trúc tân tự do vào năm 1990. Điều chỉnh này là thành phần chính của kế hoạch điều chỉnh tài chính, ví dụ như giảm mạnh chi tiêu đầu tư công và việc làm công để giải phóng nguồn lực cho việc trả nợ.

Biểu đồ 10 cho thấy sự thay đổi hàng năm theo tỉ lệ phần trăm và tỉ lệ chi tiêu chính phủ nói chung trong GIP từ năm 1950 và 2008, và tỉ lệ việc làm công tại đô thị từ năm 1990 đến năm 2008. Các dữ liệu cho thấy:

i. Một giai đoạn tăng chi tiêu công, cả thay đổi tỉ lệ phần trăm hàng năm và tỉ lệ phần trăm của GIP từ năm 1950 tới năm 1983 tại Khu vực Mỹ Latin và các nước Andean;

ii. Kể từ khi diễn ra cuộc khủng hoảng nợ, chi tiêu công đã giảm, đối với cả Nam Mỹ và Mỹ Latin nói chung cho đến năm 2008;

iii. Một sự phục hồi được ghi nhận tại các nước Andean từ năm 1994 nhưng điều này chỉ là do mức tăng nhanh ở Colombia, sau đó lại giảm do cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998;

iv. Đáng chú ý là trong thời kì thu ngân sách tăng do bùng nổ xuất khẩu, từ năm 2003 đến năm 2008, chi tiêu trong khu vực tiếp tục giảm.

Tiếp theo xu hướng giảm chi tiêu công, việc làm công tại đô thị giảm từ 13% vào năm 1990 xuống hơn 10% vào năm 1998. Tỉ lệ này phục hồi vào năm 1999 lên gần mức độ ban đầu vào năm 1990, và sau đó tiếp tục giảm nhẹ, trừ năm 2002 – chỉ giảm dưới một điểm phần trăm cho đến năm 2008. Hai giai đoạn trong mỗi thập niên trùng hợp với sự gia tăng tình trạng phi chính thức cho đến năm 2002 và giảm sau đó trong giai đoạn 2003-2008.

Page 23: Tải xuống Chương 3

345ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Đồ thị 10

0.0 1.0 2.0 3.0 4.0 5.0 6.0

8 9

10 11 12 13 14

90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08

GGE (%biến th) PE (rate) Nam Mỹ: Diễn biến việc làm công và chi tiêu chung của

Chính phủ, 1990 - 2008

Việc làm công (PE) Chi tiêu chung chính phủ (GGE) 6 8

10 12 14 16 18

50 53 56 59 62 66 69 72 75 78 81 84 87 90 93 96 99 02 05 08

% GIP Nam Mỹ: Diễn biến chi tiêu chung của chính phủ (GGE), % GIP, 1950 - 2008

(USD kh đổi năm 2000)

CAN Nam Mỹ Mỹ La tinh 4 6 8

10 12 14 16 18 20 22

50 53 56 59 62 66 69 72 75 78 81 84 87 90 93 96 99 02 05 08

% GIP Nam Mỹ: Diễn biến chi tiêu chung của chính phủ

(GGE), % GIP, 1950 - 2008 (USD kh đổi năm 2000)

CAN Bolivia Colombia Ecuador Perú

Nguồn: ECLAC, tính toán của tác giả.

Xu hướng giảm chi tiêu công và việc làm công tại đô thị cho đến năm 2000 ảnh hưởng đến tỉ lệ phi chính thức thông qua ít nhất ba kênh. Chi tiêu công thấp hơn có nghĩa là:

i. Giảm việc làm công trực tiếp dẫn đến giảm việc làm chính thức, làm tăng tình trạng phi chính thức một cách gián tiếp;

ii. Tổng cầu nội địa thấp hơn có ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm chính thức, do tiêu dùng chính phủ thấp hơn;

iii. Sự suy yếu của Nhà nước, quy mô và năng lực giảm, làm giảm hiệu quả thi hành pháp luật dẫn đến việc chấp nhận sự gia tăng lao động phi chính thức. Quy mô của UIS có quan hệ nghịch đảo với quy mô và năng lực của Nhà nước.

Một đặc điểm của việc giảm chi tiêu công là mức chi tiêu thấp cho quản lí nhà nước về lao động. Các Bộ Lao động trong khu vực có tỉ lệ ngân sách được phân bổ rất thấp. Biểu đồ 11 cho thấy tỉ lệ chi tiêu của các Lao động và các vấn đề xã hội trong ngân sách công từ năm 2000 đến năm 2010 tại các nước Andean. Cần lưu ý rằng ba nước Bolivia, Ecuador và Colombia - có mức độ thấp hơn 0,5% chi ngân sách trong thời gian này, tiếp theo là Peru với 0,5% trong giai đoạn 2003-2009, giảm tiếp vào năm 2010. Chỉ có Chile là đã tăng gấp ba lần (từ 2% và 3%) ngân sách của Bộ Lao động trong giai đoạn 2005-2008, nhưng giảm xuống 1% năm 2010.

Chiều hướng gia tăng mức độ chi tiêu xã hội đi theo hướng ngược lại ở hầu hết các nước: Colombia và Peru có mức chi tiêu xã hội từ 40 đến 60%, và Ecuador đạt 30% (tăng gấp ba lần trong tám năm). Ở mức cao hơn, chi

Page 24: Tải xuống Chương 3

346 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

tiêu xã hội ở Chile đã giảm từ 70% xuống 55%, tăng lần đầu tiên vào năm 2002 ở Bolivia từ một mức độ tương đối thấp, và một lần nữa tăng từ năm 2004 đến 2008 lên khoảng 30%. Cuộc chiến trực tiếp chống đói nghèo với các chương trình phúc lợi xã hội đã được ưu tiên hơn là việc xúc tiến việc làm chính thức.

Đồ thị 11: Cộng đồng Andean và Chile: các Bộ Lao động và chi tiêu xã hội, 2000-2010*

0.0

0.5

1.0

1.5

2.0

2.5

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

% NS quốc gia Tỉ lệ Ngân sách các Bộ Lao động trong Ngân sách quốc gia

Ngân sách, 2000 - 2010

Bolivia Colombia Ecuador Chile Perú

0 10 20 30 40 50 60 70 80

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

% NS quốc gia Tỉ lệ Chi tiêu xã hội trong Ngân sách quốc gia

Ngân sách, 2000 - 2010

Bolivia Colombia Ecuador Chile Perú

Nguồn: ECLAC.*: Căn cứ vào các ngân sách quốc gia đã chi; Bolivia: Nhà nước đa dân tộc Bolivia.

5. Xu hướng thị trường lao động đô thị trong dài hạn

Cho đến lúc này chúng tôi đã đề cập các xu hướng vĩ mô chủ yếu có vai trò xác định tổng cung lao động (AAP, AR và EAP) và tổng cầu (GIP và năng suất lao động) trong dài hạn. Chúng tôi cần xem xét hình thái diễn biến của

Page 25: Tải xuống Chương 3

347ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

thị trường lao động đô thị và các mối quan hệ của nó với UIS. Các quan hệ này có thể được mô tả trên phương diện cung, bằng cách so sánh diễn biến của AR và UIS, và trên phương diện cầu lao động hoặc mức độ hấp thụ việc làm, bằng cách gắn diễn biến của UIS với diễn biến của tỉ lệ thất nghiệp (UR).

5.1 Mối quan hệ giữa AR và UIS Như đã nêu ở trên, tăng EAP là do mức tăng mạnh của AAP và ở một mức

độ thấp hơn, của AR. Tỉ lệ nữ trong UIS cao hơn được ghi nhận tại các quốc gia SA. Mối quan hệ theo thời gian giữa AR, đặc biệt là đối với phụ nữ, và tỉ lệ UIS trong khu vực là gì? Đồ thị 12 cho thấy sự thay đổi trung bình trong tổng AR đô thị, AR đô thị nữ (từ 1980) và tỉ lệ UIS10.

Đồ thị 12 Đồ thị 13

30 35 40 45 50 55 60 65

70 72 74 76 78 80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

% Nma Mỹ: AR, IR, và AR nữ 1970 - 2008

AR IR AR nữ 3 4.5 6 7.5 9 10.5 12 13.5 15

33.0 35.5 38.0 40.5 43.0 45.5 48.0 50.5 53.0

70 72 74 76 78 80 82 84 86 88 90 92 94 96 98 00 02 04 06 08

UR IR Nam Mỹ: UR và IR, 1970 - 2008

IR UR Tuyến tính (IR) Tuyến tính (UR)

Nguồn: ECLAC, ILO và Cơ quan Thống kê Quốc gia.

Có hai giai đoạn trong mối quan hệ giữa AR và diễn biến của UIS. Từ 1970 đến 1990 cả hai tỉ lệ có xu hướng tăng, AR tăng 5 điểm phần trăm từ năm 1976 đến năm 1990 và ở mức độ thấp hơn, tỉ lệ UIS tăng từ năm 1975 và 1990, từ đỉnh này sang đỉnh khác. Mức tăng EAP (cho tổng AR) được hấp thụ tương đối tốt bởi việc làm chính thức và UR cũng tăng từ năm 1977 đến 1983, như thể hiện trong Đồ thị 13.

10 Không có thông tin về tỉ lệ hoạt động đô thị theo giới tính trước năm 1980.

Page 26: Tải xuống Chương 3

348 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Tuy nhiên, FAR cũng tăng trong giai đoạn 1980 và 1990 và làm mức độ UIS tăng nhẹ trong thập kỉ đó. Một lần nữa, tăng cung lao động nữ được hấp thụ một phần bởi việc làm chính thức, trước điều chỉnh năm 1990, và một phần rơi vào thất nghiệp.

Từ năm 1990, AR ổn định ở mức 60% trong khi tỉ lệ UIS tăng khoảng 13%. Như đã nêu điều này là do AAP tăng. Nhưng cũng do FAR gia tăng đáng kể, làm tăng tỉ lệ việc làm đô thị. Cả FAR và UIS đều tăng lên đáng kể và tăng song song cho đến năm 2003.

5.2 Mối quan hệ giữa tỉ lệ thất nghiệp (UR) và UIS Câu hỏi trọng tâm trong mối quan hệ giữa UR và UIS là lí do tại sao số

lượng lớn lao động dư thừa (trong dài hạn) vẫn còn thất nghiệp nếu người tìm việc có lựa chọn làm thuê hoặc làm việc độc lập trong UIS (Solimano 1988)? Đó có thể là một mối quan hệ nghịch đảo giữa hai tỉ lệ này, mối quan hệ đã được sử dụng rộng rãi trong quan điểm ngắn hạn mang tính chức năng về UIS khi nó xuất hiện như một khái niệm thao tác (operational concept). Vai trò của UIS trong thị trường lao động là ngược lại với chu kì (counter-cyclical), có vai trò như một bộ đệm giúp hấp thụ sự gia tăng thất nghiệp theo chu kì.

Khi xem xét Đồ thị 14 trong toàn bộ giai đoạn 1970-2008, ví dụ như xu hướng dài hạn (tuyến tính), chúng ta thấy có vẻ như mức tăng tỉ lệ UR và UIS (đường vạch rời) diễn ra song song cho đến năm 2003 khi cả hai đã cùng giảm. Xu hướng này thậm chí còn rõ ràng hơn trong giai đoạn năm 1990 và 2002 khi UR tăng từ 6% lên 13,5% và UIS cũng tăng tương tự, trung bình từ 39% đến 53%, tại mười nước SA.

Bằng cách chia thời kì trước năm 1990 thành hai giai đoạn, có thể phân biệt một giai đoạn đầu tiên, giữa các năm 1970 và 1978, trong đó UIS tăng, nhưng UR không tăng. Từ 1980 đến 1990 có vẻ như UIS đã hoàn thành vai trò của cái đệm (mattress) vì trong khi UIS có xu hướng đi lên - với sự dao động mạnh mẽ - thì UR lại giảm từ 8% xuống khoảng 6,5%.

Page 27: Tải xuống Chương 3

349ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

6. Ước tính nhiều chiều về các yếu tố quyết định mức tăng của UIS

Như đã nêu, lập luận của bài viết này là có một mối liên hệ thuận chiều giữa tăng UIS và tăng lực lượng lao động đô thị (EAP), như một hệ quả của tăng AAP và AR, cũng như tốc độ tăng GIP (phi nông nghiệp hoặc đô thị).

Đối với mối quan hệ giữa diễn biến của UIS với năng suất lao động, cần có sự phân biệt. Một mặt, tổng mức độ năng suất lao động có quan hệ nghịch chiều với UIS, cả về quy mô của việc làm phi chính thức và mức đóng góp thấp của nó vào tăng trưởng GIP. Mặt khác, tăng năng suất lao động trong FS trong GIP (phi nông nghiệp hoặc đô thị), theo Sơ đồ 1, đã làm giảm việc làm chính thức và do EAP tăng liên tục, đã làm UIS tăng lên, trừ khi tăng năng suất đi kèm với mức tăng GIP lớn hơn. Bây giờ cần xác minh dấu và cường độ của các mối quan hệ này.

Với mục đích này, chúng tôi tiến hành ước tính các yếu tố quyết định mức tăng tỉ lệ UIS (TUIS) trong dài hạn, với một cơ sở dữ liệu nhiều chiều cho mười quốc gia SA trong giai đoạn 1970-2008. Tổng số gồm 380 bộ dữ liệu cho mười quốc gia, mỗi nước có dữ liệu trong 38 năm.

Biến phụ thuộc là tỉ lệ UIS hoặc UIST = việc làm trong UIS/EAP có việc làm, và các biến độc lập, cho tất cả mười quốc gia trong thay đổi tỉ lệ phần trăm hàng năm cho giai đoạn 1970-2008, là:

i. Tổng dân số đô thị độ tuổi làm việc (app_t). Hệ số được kì vọng sẽ phải dương. Với AAP lớn hơn, sẽ có nhiều EAP hơn và do đó, tăng việc làm trong UIS;

ii. Tổng số tỉ lệ làm việc đô thị (ar). Hệ số được kì vọng sẽ phải dương, cung lao động nhiều hơn sẽ làm tăng UIS;

iii. GIP phi nông nghiệp và phi khai khoáng (thành thị) quốc gia (gip_no_agri). Hệ số được kì vọng sẽ âm, tăng trưởng GIP cao hơn, sẽ dẫn đến nhiều việc làm trong FS hơn và do đó giảm UIS;

iv. Năng suất lao động trong FS (gipnasf). Trong vai trò biến thay thế (proxy), GIP (phi nông nghiệp phi khai khoáng)/Việc làm FS. Hệ số được kì vọng trên UIS sẽ phải dương, nếu năng suất việc làm chính thức cao hơn, nhân công sẽ chuyển sang UIS hoặc sẽ bị thất nghiệp.

Ước tính đã được thực hiện cho cả hai hiệu ứng cố định quốc gia và hiệu ứng ngẫu nhiên và với một độ trễ của biến phụ thuộc. Các hệ số ước tính có

Page 28: Tải xuống Chương 3

350 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

ý nghĩa thống kê (Bảng 4), trừ các hằng số, với dấu và giá trị cao như đã kì vọng trong ba bài kiểm định được thực hiện, bao gồm cả ước tính với độ chậm trễ của biến phụ thuộc (UIS L1)11.

Chúng tôi xác nhận rằng diễn biến của các tỉ lệ phần trăm thay đổi hàng năm trong IUS giữa các năm 1970 và 2008 có quan hệ thuận chiều và chịu tác động lớn bởi các thay đổi tỉ lệ phần trăm hàng năm về năng suất lao động trong khu vực chính thức, trong AR và AAP theo thứ tự này, và có dấu âm đối với những thay đổi tỉ lệ phần trăm trong GIP phi nông nghiệp, nhưng với một hệ số rất thấp cho độ trễ một năm của biến phụ thuộc (UIS L1) trong mô hình Lag.

Bảng 4: Ước tính nhiều chiều với các hiệu ứng cố định (FE), hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) và mô hình Lag (LM)

(Biến phụ thuộc: Tốc độ tăng trưởng hàng năm UIST)

Ước tính FE RE LM

UIS L1 -0,081

[0,0290]

gipnafs 0,995 0,997 0,992

[0,0342] [0,0337] [0,0348]

ar 0,874 0,872 0,852

[0,0748] [0,0739] [0,0773]

aap_t 0,822 0,750 0,887

[0,1709] [0,1214] [0,1880]

gip_no_agri -0,802 -0,808 -0,801

[0,0433] [0,0426] [0,0457]

_cons 0,132 0,387 -0,038

[0,6057] [0,4461] [0,6645]

sigma_u 0,3570 0,0000

sigma_e 3,4812 3,4812

rho 0,0104 0,0000

11 Sử dụng quy trình ước tính đa chiều động Arellano-Bond.

Page 29: Tải xuống Chương 3

351ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Quan sát 380 380 360

Các nước 10 10 10

Số quan sát/nhóm 38 38 36

Số công cụ 320

Giai đoạn 1971-2008 1971-2008 1971-2008

R2 0,7023 0,7026

Corr (u_i, xb) 0,0143

Corr( u_i, x) 0,0000

F (4,366) 216,4400

Prob > F 0,0000

Wald chi2(4), (5) 885,9800 848,6700

Prob > chi2 0,0000 0,0000

Nguồn: Tác giả.Lưu ý: Độ lệch chuẩn được ghi trong ngoặc đơn dưới mỗi hệ số.

7. Kết luận: các giới hạn tăng trưởng UIS

Kết luận đầu tiên của nghiên cứu này là việc làm đô thị phi chính thức (UIS), có mức độ ban đầu ít thay đổi vào những năm 1970, đã trở thành một hiện tượng đạt quy mô rất lớn tại tất cả các quốc gia SA. Không chỉ tồn tại dai dẳng, tỉ lệ của UIS trong việc làm đô thị đã tăng trong 38 năm tồn tại, tỉ lệ này được đo bằng tỉ lệ của việc làm đô thị hoặc là tỉ lệ của AAP.

Thứ hai, các bằng chứng thu thập được cho phép lập luận rằng mức tăng UIS nhanh là do sự gia tăng nhanh cung lao động dài hạn, chủ yếu là do tăng trưởng dân số đô thị và tăng trưởng AR, và tương phản với tốc độ tăng trưởng GIP đô thị. Cũng góp phần tăng UIS là sự gia tăng năng suất lao động của khu vực việc làm chính thức vì điều này hoặc không hấp thụ nhiều việc làm, hoặc làm nhân công mất việc.

Thứ ba, có các bằng chứng về các mối quan hệ, tính trung bình, cho tất cả các nước trong khu vực và sự tương đồng và sự khác biệt giữa các nhóm quốc gia đã được xem xét. Chúng ta có thể quan sát các giai đoạn khác nhau của quá trình chuyển đổi nhân khẩu, các quá trình trực tiếp ảnh hưởng tới các

Page 30: Tải xuống Chương 3

352 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

cấp độ UIS khác nhau. Mức UIS thấp cho các nước ở giai đoạn sau của quá trình chuyển đổi nhân khẩu (Argentina, Uruguay, Chile và Brazil), và mức IUS cao hơn cho các nước ở giai đoạn giữa (Paraguay, Bolivia, Ecuador, Peru, Colombia và Venezuela). Tương tự như vậy, nhóm các nước có năng suất lao động quốc gia cao hơn (Argentina, Chile, Uruguay, Brazil và Venezuela) có một tỉ lệ UIS thấp hơn và các quốc gia có năng suất lao động quốc gia thấp hơn (Bolivia, Paraguay, Ecuador, Peru và Colombia) có tỉ lệ UIS cao hơn.

Thứ tư, bằng chứng đã được trình bày về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài năm 1982 đối với khu vực và tác động của nó, bao gồm việc điều chỉnh cơ cấu trong những năm 1990, và xu hướng trì trệ GIP trong khu vực. Điều này là do luồng nguồn lực ròng chảy ra nước ngoài cao hơn, đầu tư thấp hơn và chi tiêu công ít hơn. Các cú sốc liên tiếp làm gia tăng tốc độ tăng UIS.

Thứ năm, về vai trò của nhà nước, cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài và điều chỉnh cấu trúc làm giảm chi tiêu công và việc làm. Điều này góp phần tăng UIS, một cách trực tiếp và gián tiếp, bằng cách giảm biên chế nhà nước và làm suy yếu khả năng thực thi pháp luật thuế và lao động của các chính phủ.

Thứ sáu, các mối quan hệ giữa UIS và mức AR đang gia tăng có thể xác nhận ảnh hưởng trực tiếp của mức tăng EAP trong UIS. Ngược lại, các mối quan hệ giữa UR và UIS trong dài hạn có dấu dương, do mức tăng EAP nhanh, không giống như mối quan hệ của hai yếu tố này trong ngắn hạn, khi mối quan hệ sẽ bị đảo ngược, do UIS là một bộ đệm để hấp thụ một phần người thất nghiệp trong thời kì suy thoái.

Cuối cùng, mối quan hệ giữa các thay đổi của UIS và các yếu tố quyết định UIS trong dài hạn được ước tính bằng cách áp dụng ba mô hình. Kết quả cho thấy dấu và giá trị cao của các hệ số đúng như dự kiến. Đã xác minh được rằng tăng UIS có quan hệ thuận chiều và phụ thuộc vào sự tăng của AAP, AR và năng suất lao động trong khu vực chính thức, và quan hệ ngược chiều với sự gia tăng của GIP phi nông nghiệp.

Bây giờ chúng ta quay trở lại câu hỏi ban đầu của bài viết này: Có các giới hạn cho mức tăng tình trạng phi chính thức không? Căn cứ và các kết luận và các mối quan hệ được thiết lập trong phần trước, câu trả lời là có. Chúng ta có thể xem xét điều này theo ba cách.

Page 31: Tải xuống Chương 3

353ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

7.1 Xu hướng trung bình cho khu vực đô thịi. Dưới tác động của các yếu tố nhân khẩu, việc tăng UIS sẽ chậm lại nếu

tỉ lệ tăng của AAP và AR, đặc biệt là FAR có xu hướng giảm;ii. Nếu GIP phi nông nghiệp tăng cao hơn mức tăng năng suất lao động,

việc làm chính thức sẽ tăng lên và do đó UIS sẽ có xu hướng giảm;iii. Nếu tăng năng suất lao động trung bình, có nghĩa là có sự gia tăng

tương ứng của UIS, thì năng lực đầu tư UIS sẽ tăng và việc làm chính thức cũng sẽ tăng khiến UIS giảm;

iv. Nếu tỉ lệ tăng năng suất lao động của khu vực chính thức thì giảm lao động sẽ không bị chuyển đến UIS;

v. Nếu tăng chi tiêu công và vai trò của chính phủ được củng cố, trong đó có vai trò của Bộ Lao động, thì có thể mở rộng phạm vi thực hiện các quy định thuế và lao động và an sinh xã hội. Nếu không đi kèm với quá trình cấu trúc đề cập ở trên, sự hiện diện tăng cường của Nhà nước sẽ vấp phải năng lực hạn chế trong việc giảm quy mô của UIS.

7.2 Đối với nhóm các quốc gia, với quy mô lớn và nhỏ của UISi. Nếu có tiến bộ về quá trình chuyển đổi nhân khẩu ở các nước có tỉ lệ

UIS cao hơn, điều này sẽ làm chậm tăng trưởng dân số toàn quốc và đô thị và làm chậm sự gia tăng của AAP đô thị, tiến dần tới mức độ của các nhóm nước có UIS thấp. Đây sẽ là mục tiêu cần đạt được, căn cứ vào tỉ lệ UIS cao, GIP thấp và năng suất lao động thấp hiện nay;

ii. Nếu có thể để đạt được mức tăng trưởng GIP và năng suất lao động tương tự như những quốc gia có UIS thấp hơn, các công ty và người lao động thuộc UIS trong các nước có năng suất quốc gia thấp sẽ có nhiều khả năng được chính thức hóa;

iii. Nếu các quốc gia có mức độ IUS cao hơn thực hiện việc tăng cường năng lực nhà nước, giống như ở các nước có UIS thấp hơn, trong giới hạn nào đó quy mô của UIS sẽ giảm.

7.3 Dự đoán dựa trên ước lượng biến trung bình Để minh hoạ, chúng tôi ước tính một hồi quy ARMA cho UIS trong khu

vực với mức trung bình gia quyền cho mười quốc gia với các các biến độc lập đã từng được sử dụng trong phép hồi quy đa chiều (panel) với một độ trễ của

Page 32: Tải xuống Chương 3

354 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

biến phụ thuộc. Trên cơ sở của các hệ số thu được - để giải thích mức tăng bình quân của UIS - chúng tôi có thể xác định xu hướng tăng trưởng bình quân dự kiến tại mười nước để quan sát diễn biến có thể của các nước này trong dài hạn12.

Một phần của kết quả được thể hiện trong Đồ thị 14 (và bảng), trong đó xuất hiện đầu tiên là các giá trị của các biến điều chỉnh, như một xu hướng đến năm 2008, và từ năm đó như là dự đoán đến năm 2028. Chúng ta có thể suy ra rằng xu hướng đi lên của AAP sẽ chậm lại theo thời gian. Điều này có thể đạt được với các chính sách kế hoạch hóa gia đình đối với việc ra quyết định dựa trên thông tin và để nhấn mạnh xu hướng này. Mặt khác, tăng trưởng GIP phi nông nghiệp sẽ làm tăng việc làm chính thức và sẽ giúp làm giảm xu hướng mở rộng liên tục của UIS. Sẽ cần có các chính sách để đảm bảo tăng trưởng GIP cao liên tục. Tổng hợp của cả hai hiệu ứng và các biến khác không có trong đồ thị, sẽ khiến UIS giảm đáng kể, trong thời gian này các chính sách lâu dài sẽ phát huy tác dụng.

Đồ thị 14

y = 41.12ln(x) - 35.607 y = 12.699ln(x) - 9.3291

y = - 38.18ln(x) + 19.985

- 175 - 150 - 125 - 100

- 75 - 50 - 25

0 25 50 75

100 125 150

71 74 77 80 83 86 89 92 95 98 01 04 07 10 13 16 19 22 25 28

Nam Mỹ: Các biến dài hạn và UIS 1971 – 2008 (lũy kế % biến thiên)

PETT_A SIU_A PIBNAGR_A Log. (PETT_A) Log. (SIU_A) Log. (PIBNAGR_A)

Hồi quy ARMA

Ước tính Hệ số OPG Độ lệch ch. UIS

GIPNASF 1.4152 [0.1082] AR 1.6517 [0.4248] AAP_T 1.0341 [0.6331] GIPNOAGRI -1.1543 [0.0815] CONST 0.2989 [1.8084]

ARMA ar L1 0.3464 [0.2486] /sigma 1.4773 [0.1375]

Mẫu 1971-2008 Log.likelihood -68.8121 Obs. 38 Wald chi2(5) 811.190 Prob>chi2 0.0000

Các hệ số điều chỉnh của mô hình

Nguồn: Tác giả.

12 Các hệ số hồi quy có giá trị cao và có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ đối với AAP và hằng số tại mức 10%.

Page 33: Tải xuống Chương 3

355ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Dựa trên các kết quả này, các cuộc thảo luận về tăng cường chính thức hóa các công ty hoặc người lao động, hoặc giảm UIS, dù thông qua hệ thống thuế có hiệu quả ít hay nhiều, hoặc pháp luật lao động hoặc các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (MSEs) phi chính thức, các thảo luận này sẽ không thu được kết quả tốt.

Một hiện tượng với đặc điểm của tình trạng phi chính thức đô thị tại SA phải được giải quyết như một thách thức dài hạn với các chính sách được thiết kế và thực hiện từ bây giờ, để thay đổi hình thái cấu trúc của hành vi, nhân khẩu học, kinh tế và thị trường lao động và vai trò của Nhà nước của các quốc gia trong khu vực.

Tài liệu tham khảo:

Boeri, T. & J. van Ours, The Economics of Imperfect Labour Markets, Princeton U. Press, 2008.

Bourguignon, F., Interview, International Conference: The informal sector and informal employment, Hanoi, May, 2010, p. 94-98.

Galli, R. and D. Kucera, Labour standards an Informal Employment in Latin America, in Berg, J. and D. Kucera, In Defence of Labour Market Institutions, ILO-Palgrave, 2008.

Gasparini, L. y L. Tornarolli, Labour informality in Latin America and the Caribbean: Patterns and Trends from Household Survey Microdata, U Nacional de La Plata: CEDLAS, 2007.

ILO, Employment, income and equality. A strategy for increasing productive employment in Kenya, Geneva: ILO, 1972.

____, Decent Work and the Informal Economy, Report VI, International Labour Conference, 90th Session, Geneva and ILO, 2002.

____, Oficina Regional para América Latina y El Caribe, Panorama Laboral 2006, Lima: ILO-OR ALC.

Khamis, Melanie, A Note on Informality in the Labour Market, IZA DP No. 4676, December 2009

Lewis, W. Arthur (1954), “Economic Development with Unlimited Supplies of Labour.” Manchester School of Economic and Social Studies, Vol. 22, pp. 139-91.

Page 34: Tải xuống Chương 3

356 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Loayza, N. and Rigolini, J. Informality Trends and Cycles, World Bank, World Bank Policy Research Working Paper, num. 4078, 2006.

Ramos, J., Urbanización y mercado de trabajo, Revista de la CEPAL, Nº 24, Santiago de Chile, diciembre, 1984.

Solimano, A., Enfoques alternativos sobre el mercado del trabajo: una evaluación teórica, Revista de Análisis Económico, Vol. 3, No. 2, p. 159-186, 1988.

Stewart, F., Adjustment and Poverty, Options and Choices, New York: Routledge, 1995.

Thomas, J., Decent Work in the Informal Sector: Latin America, WP on the Informal Economy, Geneva: ILO, 2002.

____, The links between Structural Adjustment and Poverty: Causal or Remedial, WP N° 373, Santiago de Chile: ILO, 1993.

Tokman, Víctor, La informalidad en los años noventa: situación actual y perspectivas, en Carpio, Jorge e Irene Novacorsky, De igual a igual, el desafío del estado ante los nuevos problemas sociales, Buenos Aires: FCE-SIEMPRO-FLACSO, 1999.

Ugarteche, O., La deuda de América Latina: ¿Por qué es impagable?, La Insignia, enero de 2003. http://mx.groups.yahoo.com/group/AHuA/message/4017

Verdera V., F., Informality in Latin America: Recent Trends, Policies and Prospects, ILO, Geneva.

Page 35: Tải xuống Chương 3

357ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

3.2

LAO ĐỘNG PHI CHÍNH THỨC VÀ THU NHẬP KHÔNG ỔN ĐỊNH Ở ARGENTINA

Fernando Groisman

Giới thiệu

Sự tồn tại dai dẳng với mức độ quan trọng của khu vực kinh tế phi chính ở Argentina, ngay cả trong những giai đoạn tăng trưởng kinh tế thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Đa số các nghiên cứu tập trung về giả thuyết phân khúc / tính hai mặt của thị trường lao động. Theo đó, thị trường lao động phi chính thức khác biệt với các phần còn lại của thị trường lao động chung. Trong trường hợp này, những mô hình giải thích mức thu nhập của lao động chính thức và lao động phi chính thức có những dạng thức khác nhau (những sự khác biệt cả về loại hình của các yếu tố giải thích cũng như cách thức thực hiện của các yếu tố này). Các phân tích thực nghiệm củng cố thêm cho giả thuyết này. Các phương trình thu nhập kết hợp biến khu vực chính thức/phi chính thức và các thử nghiệm đánh giá những khác biệt của phương trình thu nhập giữa các khu vực đưa ra những mô hình phân phối thu nhập chi tiết hơn so với những mô hình chỉ sử dụng các biến về vốn con người hoặc chỉ sử dụng một thị trường lao động đồng nhất. Các kết quả trước đây khẳng định giả thuyết về phân khúc thị trường lao động tại đô thị của Argentina: các lao động có các đặc điểm quan sát tương tự cho thấy rằng họ cũng có những khả năng tương tự trong việc chuyển đổi (vào/ra) từ khu vực này sang khu vực

Page 36: Tải xuống Chương 3

358 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

khác và có mức độ thu nhập khác nhau tuỳ thuộc họ làm việc trong khu vực chính thức hay phi chính thức. Tuy nhiên, các câu hỏi khác liên quan đến tính bất ổn định hoặc biến thiên trong thu nhập của việc làm phi chính thức nhìn chung chưa được nghiên cứu nhiều.

Bài viết phân tích mức biến động về thu nhập lao động ở Argentina từ năm 2004 đến 2007. Đồng thời ước tính quy mô của hiện tượng thu nhập không ổn định và đánh giá các yếu tố quyết định hiện tượng này. Bài viết cũng phân tích biến động thu nhập đã ảnh hưởng đến sự không đồng đều trong phân phối thu nhập như thế nào. Một trong những kết quả chính cho thấy tình trạng lao động phi chính thức phổ biến đã gây ra nhiều biến động trong thu nhập bất chấp sự phục hồi kinh tế vĩ mô từ năm 2002.

Thiếu ổn định có thể đi đôi với tính di động nói chung được xem là sự chuyển dịch vị trí tương đối của các cá nhân trong phân phối thu nhập, hoặc thay đổi về khoảng cách thu nhập giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm cá nhân này. Bên cạnh đó, tính di động ảnh hưởng đến bất bình đẳng, đặc biệt là mức độ tập trung thu nhập đo được qua các dữ liệu thu được tại một thời điểm có thể khác với kết quả thu được khi xem xét thu nhập có tính thường xuyên hơn. Tương tự như vậy, sự thay đổi tính di động có thể khiến bất bình đẳng của thu nhập có tính ổn định hơn và thu nhập tại một thời điểm biến động theo các cách khác nhau.

Do mức độ phổ biến của tình trạng thu nhập không ổn định tại Argentina trong hai thập kỉ qua, bài viết này sẽ xem xét một số đặc điểm và ảnh hưởng của tình trạng này trong những năm gần đây.

Các dữ liệu nhiều chiều được sử dụng không dựa trên một cuộc khảo sát tại nhiều thời điểm (longitudinal) cụ thể vì các dữ liệu này là một kết quả của khảo sát hộ gia đình thường xuyên và liên tục và chỉ khảo sát trong một thời gian tương đối ngắn. Dù vậy, khảo sát này cung cấp chứng cứ phù hợp để thảo luận về các đặc điểm và tác động của thu nhập không ổn định. Mặc dù vấn đề có tầm quan trọng như vậy nhưng có ít nghiên cứu về đề tài này.

Bài viết phân tích một số yếu tố chính quyết định sự không ổn định và mức độ không ổn định khác nhau giữa các cá nhân và các nhóm hộ gia đình. Bài viết cũng đánh giá mức độ tác động của những biến động về mức độ không ổn định đối với động thái của phân phối thu nhập. Các phân tích tập trung vào các giai đoạn 2004-2007 sẽ phân biệt hai giai đoạn tương đối đồng

Page 37: Tải xuống Chương 3

359ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

nhất xác định theo một tập hợp các biến kinh tế vĩ mô quan trọng đối với các mục tiêu đề ra. Giai đoạn đầu tiên từ năm 2004-2005 và giai đoạn thứ hai từ năm 2005-2007.

Phần đầu nêu bối cảnh phân tích tính di động ở Argentina, tóm tắt thị trường lao động và hành vi phân phối thu nhập tại Argentina. Phần hai tóm tắt các mục tiêu khác nhau của các nghiên cứu về động thái thu nhập. Phần ba mô tả các phương pháp và nguồn dữ liệu được sử dụng. Phần chính là phần bốn phân tích kết quả liên quan đến tính di động của thu nhập và tình trạng phi chính thức lao động. Các kết luận được trình bày trong phần cuối cùng.

1. Việc làm và bất bình đẳng về thu nhập

Sau cuộc khủng hoảng nghiêm trọng năm 2001 và sự thay đổi của chế độ kinh tế vĩ mô, Argentina đã trải qua một giai đoạn phục hồi kinh tế ổn định và lâu dài. Việc làm và sức mua từ lương tăng đáng kể, tỉ lệ người lao động chính thức tăng và tình trạng người lao động thiếu việc nói chung đã giảm.

Về phương diện phân phối, bằng chứng thực nghiệm về việc cải thiện các chỉ số nghèo đói tuyệt đối là khá rõ ràng. Nghèo đói tuyệt đối giảm hơn 20 điểm phần trăm trong thời kỳ này. Đánh giá các chỉ số khác nhau về bình quân phân phối thu nhập hộ gia đình tính theo đầu người xác nhận bình đẳng được cải thiện đáng kể vào đầu giai đoạn tăng trưởng kinh tế (2002-2003), nhưng điều này sau đó đã giảm dần. Tác động của sự phát triển thị trường lao động đối với bất bình đẳng có thể được đánh giá trực tiếp hơn nếu chỉ phân tích các hộ gia đình có thu nhập chủ yếu từ thị trường lao động (các hộ có người chủ dưới 65 tuổi). Khi phân tích như vậy, phân phối có hình thái giống nhau. Thật vậy, ước tính khoảng tin cậy thống kê của hệ số Gini cho thấy không có sự khác biệt giữa các kết quả thu được năm 2004 và những năm tiếp theo (Xem Bảng 1 và Bảng 2).

Page 38: Tải xuống Chương 3

360 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Bảng 1: Tỉ lệ nghèo ở Argentina, 2003-2006 (tính theo %)

Cá nhân Hộ

Nửa sau năm 2003 48,0 36,5

Nửa đầu năm 2004 44,4 33,5

Nửa sau năm 2004 40,2 29,8

Nửa đầu năm 2005 38,9 28,8

Nửa sau năm 2005 33,8 24,7

Nửa đầu năm 2006 31,4 23,1

Nửa sau năm 2006 26,9 19,2

Nguồn: Điều tra thường xuyên các hộ gia đình (EPH), INDEC, tính toán của tác giả.

Bảng 2: Bất bình đẳng trong thu nhập của các hộ gia đình (tính theo đầu người)

Khoảng tin cậy

Gini Giới hạn dưới Giới hạn trên

Tháng 5 / 2002 0,585 0,580 0,598

Quý II – 2003 0,554 0,545 0,570

Quý III – 2003 0,552 0,536 0,568

Quý IV – 2003 0,539 0,521 0,557

Quý I – 2004 0,522 0,507 0,536

Quý II – 2004 0,518 0,505 0,531

Quý III – 2004 0,515 0,500 0,529

Quý IV – 2004 0,518 0,501 0,536

Quý I – 2005 0,526 0,509 0,543

Quý II – 2005 0,516 0,503 0,529

Quý III – 2005 0,523 0,506 0,540

Quý IV – 2005 0,497 0,487 0,507

Quý I – 2006 0,511 0,497 0,525

Quý II – 2006 0,488 0,476 0,500

Quý III – 2006 0,495 0,484 0,505

Quý IV – 2006 0,492 0,480 0,505

Quý I – 2007 0,501 0,487 0,515

Nguồn: Điều tra thường xuyên các hộ gia đình (EPH), INDEC, tính toán của tác giả.

Page 39: Tải xuống Chương 3

361ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Từ năm 2004 và đặc biệt là từ năm 2005 trở đi, việc làm đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn đối với các thành viên của hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao. Hơn nữa, sự gia tăng mức chênh lệch về việc làm còn cao hơn đối với các thành viên không phải chủ hộ. Giữa thời điểm đầu và cuối thời kỳ này, việc làm trong các hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn thấp có mức tăng lũy tiến là 16%, so với 41% đối với hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao (Xem Bảng 3).

Đối với các thành viên không phải là chủ hộ gia đình, các con số này lần lượt là 18% cho những người có trình độ học vấn thấp và 53% cho trình độ học vấn cao.

Bảng 3: Tăng việc làm giai đoạn 2002-2007

TổngChủ hộ có

trình độ học vấn thấp

Chủ hộ có trình độ học

vấn cao

May-02 100.0 100.0 100.0

II-2003 103.8 97.7 108.1

III-2003 108.9 105.7 112.2

IV-2003 110.9 106.7 115.1

I-2004 111.8 109.2 114.4

II-2004 114.3 108.4 121.1

III-2004 116.9 110.4 124.4

IV-2004 118.1 112.5 124.5

I-2005 115.0 110.9 119.6

II-2005 117.5 109.6 126.7

III-2005 121.7 111.0 134.6

IV-2005 122.7 116.3 130.0

I-2006 121.1 113.6 129.8

II-2006 125.7 116.3 136.7

III-2006 126.2 114.4 140.4

IV-2006 127.6 115.7 141.9

I-2007 127.2 115.6 141.1

Nguồn: tính toán của tác giả.

Page 40: Tải xuống Chương 3

362 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Đồng thời, tỉ lệ thất nghiệp của các thành viên hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn thấp là 12%, trong số này những người không phải chủ hộ có tỉ lệ thất nghiệp là 17%. Trong khi đó, mặc dù tỉ lệ việc làm đã đăng kí của chủ hộ có tăng lên nhưng tăng chậm hơn so với các hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao. Năm 2007, trên 50% hộ gia đình tầng lớp nghèo nhất và không có thành viên có việc làm có đăng kí, đây là chỉ số về mức độ phi chính thức cao trong thị trường lao động.

Tình trạng phi chính thức - hoặc khu vực phi chính thức hoặc nền kinh tế phi chính thức - là một khái niệm được sử dụng để mô tả rõ hơn và phân tích hoạt động của nền kinh tế, đặc biệt trong các thị trường lao động tại các nước chậm phát triển1. Định nghĩa ban đầu2 của Văn phòng Lao động Quốc tế (ILO, 1972) và sự phát triển của định nghĩa này sau đó tại châu Mỹ Latin, quy sự tồn tại của cơ sở sản xuất phi chính thức ở các nước đang phát triển cho sự bất cập của nền kinh tế trong việc tạo ra đủ việc làm cho lực lượng lao động chính thức. Nếu là tại các nền kinh tế phát triển thì tình trạng này sẽ dẫn đến thất nghiệp, tuy nhiên ở các nước chậm phát triển, điều này dẫn đến sự xuất hiện và tồn tại của số lượng lớn việc làm tập trung ở các đơn vị nhỏ, năng suất thấp. Đôi khi, họ là những người làm việc tự do đôi khi họ làm công ăn lương trong các cơ sở nhỏ. Các cơ sở sản xuất này tồn tại bằng cách khai thác một số “khe hở” thị trường do thù lao trả và/hoặc nhận thấp. Theo quan điểm ban đầu này của ILO, các cơ sở phi chính thức có đặc điểm là vốn và lao động không tách bạch rõ ràng và thường được coi như một con đường ngắn để gia nhập thị trường. Tuy nhiên, khái niệm phi chính thức cũng được gắn với các đặc điểm khác và tính đúng đắn của khái niệm này được lí giải theo cách khác, ngay cả ở các nước phát triển. Quan điểm này gắn phi chính thức với việc không tuân thủ các một số quy định về lao động và các quy định khác (chủ yếu là trốn thuế). Rõ ràng là có sự giao thoa giữa các cơ sở được phân loại theo quy định này và theo quan điểm truyền thống của ILO. Cả hai quan điểm đã được Hội nghị các Chuyên gia Thống kê Lao động ít nhiều phản ánh trong các khuyến nghị gần đây về định nghĩa phi chính thức. Các chuyên gia thống kê phân biệt việc làm trong khu vực phi chính thức (ISE) (nói chung là

1 Xem Tokman (2007).2 Xem thêm chi tiết về định nghĩa khái niệm phi chính thức tại phần tóm tắt giới thiệu hoặc Razafi ndrakoto và những người khác tại ấn phẩm này

Page 41: Tải xuống Chương 3

363ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

các cơ sở sản xuất tư nhân năng suất thấp) với việc làm phi chính thức (IE), là những việc làm không được chịu sự điều tiết của pháp luật lao động3, dù làm việc trong khu vực chính thức hay phi chính thức.

Tại Argentina, quy mô của việc làm phi chính thức4 (IE), được xác định ở phần trước, lên tới khoảng 55% số việc làm đô thị vào năm 2005. Lao động hưởng lương không đăng kí chiếm 24%, trong đó 18% là việc làm tự do phi chính thức và gần 8% hành nghề giúp việc tại nhà. Số còn lại bao gồm cả những ngưởi được hưởng theo các chương trình hỗ trợ việc làm. Từ góc độ ISE, việc làm trong lĩnh vực phi chính thức (ISE) chiếm 38% tổng số việc làm, 20% trong số này tập trung tại các cơ sở nhỏ5.

Mặc dù có những khó khăn trong thị trường lao động Argentina trong suốt những năm 1990 và thập kỷ sau đó với tỷ lệ thất nghiệp khoảng 9% năm 1993 tăng lên 16% năm 2003, tỷ lệ lao động trong khu vực phi chính thức vẫn không thay đổi. Giả thuyết rằng khu vực phi chính thức cũng chịu những tác động từ điều chỉnh cơ cấu diễn ra trong giai đoạn này và rằng một phần quan trọng của khu vực này không đáp ứng được các hoạt động đặc thù kiểu “chỗ ẩn náu”. Tuy nhiên, quan sát ghi nhận sự gia tăng rõ rệt của lao động làm công ăn lương phi chính thức. Điều này giả thích đầy đủ cho sự gia tăng về việc làm phi chính thức (dù mức tăng là khiêm tốn so với quy mô của cuộc khủng hoảng). Bộ phận những người lao động hưởng lương phi chính thức (không tính những người phục vụ gia đình và những đối tượng nằm trong chương trình hỗ trợ việc làm) đã tăng từ 29% năm 1993 lên 41% mười năm sau đó (2003).

Trong giai đoạn tăng trưởng bắt đầu từ cuối năm 2002, cả việc làm trong khu vực phi chính thức và việc làm phi chính thức đều giảm trên tổng thể, chủ yếu là giảm trong bộ phận lao động độc lập, trong khi đó thì lao động hưởng lương nhưng không đăng ký vẫn tương đối ổn định (cũng là đối tượng này nếu tính theo mức lương tăng lên thì việc làm được trả lương lại giảm xuống).

3 Xem Hussmanns (2005).4 Người lao động phi chính thức là những người hưởng lương không đăng kí và những người làm nghề tự do không có chuyên môn (non-professionals self-employed). Người hưởng lương được coi là phi chính thức nếu không đăng kí trong hệ thống an sinh xã hội. Nhóm này bao gồm cả những người giúp việc tại gia đình và những người hưởng chế độ hỗ trợ việc làm.5 Xem Beccaria và Groisman (2009), Devicienti và những người khác (2010).

Page 42: Tải xuống Chương 3

364 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

2. Các khía cạnh khác nhau của nghiên cứu động thái thu nhập

Có nhiều nghiên cứu phân tích biến động thu nhập cá nhân và/hoặc hộ gia đình bằng cách sử dụng các dữ liệu đa chiều. Một số nghiên cứu đề cập tới mức độ không ổn định thu nhập, sự biến đổi của mức độ này theo thời gian hoặc mức độ không ổn định khác nhau giữa các nhóm; một số nghiên cứu khác tìm hiểu tác động của sự không ổn định đối với phúc lợi của cá nhân và gia đình. Tuy nhiên, rất nhiều nghiên cứu tập trung vào sự dịch chuyển vị trí tương đối của các cá nhân trong phân phối thu nhập. Các nghiên cứu này phản ánh hai dạng quan tâm: một số tìm hiểu quy mô và đặc điểm của những sự dịch chuyển này và sự biến đổi theo thời gian, trong khi các nghiên cứu khác phân tích tác động của những dịch chuyển này đối với tình trạng bất bình đẳng6.

Nhiều nghiên cứu phân tích quá trình thu nhập cá nhân hoặc hộ gia đình tại nhiều thời điểm để đánh giá sự dịch chuyển vị trí tương đối của các thu nhập này trong phân phối. Thay đổi thứ hạng của các đơn vị nhận thu nhập thường được gọi là tính “di động” của thu nhập. Quá trình thu nhập cũng có thể được theo dõi nhằm phân tích hướng và cường độ thay đổi, dù có hoặc không kèm theo sự thay đổi xếp hạng. Điều này được đề cập tới trong các tài liệu chuyên ngành dưới tên gọi “tính di động tuyệt đối”. Thay đổi thứ hạng hàm ý tính di động nhưng điều ngược lại không đúng. Tính di động tuyệt đối sẽ hàm ý sự di động tùy thuộc, một phần, vào sự bất bình đẳng tồn tại trong phân phối thu nhập hiện tại: khi bất bình đẳng cao, để tạo nên sự thay đổi trong bảng xếp hạng thì mức thay đổi cần thiết về giá trị tuyệt đối của thu nhập sẽ phải lớn hơn so với khi bất bình đẳng thấp.

Tỉ lệ người hoặc hộ gia đình nhận thu nhập có vị trí thay đổi trong phân phối thường được phân tích thông qua các ma trận cho thấy sự dịch chuyển giữa các nhóm (quantiles) của phân phối, giữa hai giai đoạn. Mặc dù đây là phương pháp phổ biến nhất trong các tài liệu chuyên ngành, nó vẫn có một số hạn chế như không phản ánh được những thay đổi diễn ra trong phạm vi các quantiles được chọn. Các cách khác để có được bằng chứng định lượng về tính di động là thông qua các biện pháp kết hợp như các hệ số thông thường

6 Xem Ayala và Sastre (2002).

Page 43: Tải xuống Chương 3

365ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

về tương quan (Pearson) và xếp hạng (Spearman). Tuy nhiên, cần lưu ý là hệ số Pearson không chỉ có thể áp dụng cho sự thay đổi thứ hạng. Khi không cần tính toán sự thay đổi thứ hạng thì thường là có thể sử dụng các phương pháp chuyên dụng để lượng hóa mức thay đổi trong thu nhập.

Một dạng nghiên cứu thứ hai, rất gần với mục đích phân tích tính di động, tìm cách đánh giá tác động của các thay đổi thu nhập cá nhân đối với phân phối thu nhập. Đặc biệt, dạng nghiên cứu này tìm hiểu liệu có tồn tại sự chênh lệch giữa mức độ bất bình đẳng đo được bằng các dữ liệu tại một thời điểm và mức độ bất bình đẳng ứng với thu nhập “thường xuyên”, được biểu hiện bởi thu nhập bình quân từ thu nhập tại nhiều thời điểm; và nếu có thì độ lớn của sự chênh lệch này là bao nhiêu.

Một hướng nghiên cứu khác tập trung đánh giá cường độ bất ổn của thu nhập cá nhân (Burgess và những người khác, 2000) trong chừng mực mà cường độ này làm giảm lợi ích của một lượng cho trước các nguồn lực kinh tế. Đặc biệt, sự biến động làm tăng rủi ro (Arrow, 1970), mặc dù có thể được dự đoán trước, cũng có thể ảnh hưởng tới lợi ích, đặc biệt là ở các nước có thị trường tín dụng kém phát triển. Nếu hai hộ gia đình nhận được cùng một mức thu nhập trung bình vào cuối năm, nhưng nếu một hộ không có thu nhập trong nửa năm, trong khi hộ kia hàng tháng nhận được 1/12 thu nhập của năm thì mức sống của hai hộ này có khả năng rất khác nhau.

Việc phân tích biến động thu nhập trong thời gian ngắn - sẽ được thực hiện trong bài viết này - là một chủ đề chưa được tìm hiểu nhiều, có lẽ vì đây không phải là một hiện tượng quan trọng trong các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, ở các nước như Argentina, nơi lao động không ổn định là một tình trạng phổ biến trong những thập kỉ qua, thì biến đổi thu nhập là đề tài đặc biệt thích hợp. Bài viết không chỉ đánh giá mức độ không ổn định và thay đổi theo thời gian mà còn phân tích sự khác biệt giữa các nhóm cá nhân và hộ gia đình.

3. Dữ liệu và phương pháp được sử dụng

3.1 Dữ liệuCác dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này dựa trên các cơ sở dữ liệu vi

mô của Khảo sát Thường xuyên Hộ gia đình (EPH) do Viện Thống kê và Tổng

Page 44: Tải xuống Chương 3

366 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

điều tra Quốc gia (INDEC) tiến hành. Tính đến tháng Năm năm 2003, các dữ liệu đã được thu thập vào tháng Năm và tháng Mười. Kể từ đó, việc thu thập dữ liệu được thực hiện liên tục hàng tuần, điều này cho phép lập các ước tính theo quý và nửa năm. Số liệu thu thập theo cả hai cách đã được sử dụng cho bài viết này, với một thủ tục nối (standard splicing procedure) thông thường được sử dụng để dữ liệu có thể so sánh được: dữ liệu về quý II năm 2003 đã được điều chỉnh để phản ánh các biến động trong các biến có liên quan trong thời gian từ tháng Năm 2002 tới tháng Năm năm 2003.

Tất cả các dữ liệu được thu thập liên tục cho tới quý đầu tiên của năm 2007 đã được sử dụng. Các đợt dữ liệu gồm bốn quý của năm 2004, 2005 và 2006 và quý đầu tiên của năm 2007 (chỉ có dữ liệu của một quý). Giai đoạn 2004-2007 được lựa chọn do có các đặc điểm phân phối là mức độ tập trung thu nhập tương đối ổn định trong thời gian đó (Xem Bảng 2). Các mẫu EPH bao gồm bốn nhóm luân chuyển, một nhóm vào và một nhóm ra trong các “đợt” thu thập dữ liệu khác nhau được thực hiện mỗi năm. Chỉ có thể quan sát một mẫu nhỏ của toàn bộ mẫu các hộ gia đình trong thời gian tối đa – tức là trong bốn đợt của cuộc điều tra với các hộ giữ nguyên. Chúng tôi sử dụng dữ liệu gộp (pooled data) để tăng số lượng các trường hợp và cải thiện các ước tính (Xem Bảng 4).

Bảng 4: Số hộ gia đình và số cá nhân trong quan sát

Quan sát lần đầu

Quan sát lần hai

Quan sát lần 3

Quan sát lần 4

Hộ gia đình

Cá nhân

Giai đoạn 2004-2005

Quí 1 - 2004 Quí 2 - 2004 Quí 1 - 2005 Quí 2 - 2005 2343 8200

Quí 2 - 2004 Quí 3 - 2004 Quí 2 - 2005 Quí 3 - 2005 2449 8546

Quí 3 - 2004 Quí 4 - 2004 Quí 3 - 2005 Quí 4 - 2005 2451 8472

Quí 4 - 2004 Quí 1 - 2005 Quí 4 - 2005 Quí 1 - 2006 2364 8215

Quí 1 - 2005 Quí 2 - 2005 Quí 1 - 2006 Quí 2 - 2006 2366 8382

Quí 2 - 2005 Quí 3 - 2005 Quí 2 - 2006 Quí 3 - 2006 2453 8540

Giai đoạn 2005-2007

Quí 3 - 2005 Quí 4 - 2005 Quí 3 - 2006 Quí 4 - 2006 2424 8595

Quí 4 - 2005 Quí 1 - 2006 Quí 4 - 2006 Quí 1 - 2007 2325 8175

Nguồn: Điều tra thường xuyên Hộ gia đình được thực hiện tại 31 khu đô thị (EPH), INDEC, tính toán của tác giả.

Page 45: Tải xuống Chương 3

367ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

3.2 Phương phápChúng tôi đo lường biến thiên của các thu nhập hiện tại quan sát được

(của các cá nhân và gia đình) xung quanh giá trị trung bình bằng cách sử dụng hệ số biến thiên (CVh).

( )h

T

t hhth y

yyCV ∑ =

−= 1

2

(1)

m là số lượng thành viên có việc làm trong ít nhất một trong các giai đoạn quan sát T trong gia đình h.

T

yy

T

tht

h

∑== 1

Biến thiên của giá trị trung bình của các hộ gia đình là trung bình của các CVs của các hộ gia đình. Vì tác động của sự không ổn định được giả định là khác nhau tùy vào dạng người nhận thu nhập và gia đình (tác động lớn hơn lên lao động tay nghề thấp và gia đình có thu nhập thấp), các ước tính được bóc tách cho cả hai trường hợp, xác định các nhóm dựa trên các cá nhân và trình độ học vấn chủ hộ.

Đối với tính di động của thu nhập, cường độ của nó ở Argentina và các biến động của nó giữa các giai đoạn đã định được phân tích trên cơ sở dịch chuyển thu nhập hộ gia đình giữa các nhóm quintile nhờ vậy có thể xác định được các quá trình khác nhau. Để khắc phục hạn chế của phương pháp này, bài viết cũng phân tích các hệ số tương quan giữa thu nhập hộ gia đình thu được từ bốn quan sát. Các mối tương quan càng nhỏ, thì sự khác biệt về thu nhập của bản thân các hộ gia đình trong hai giai đoạn càng lớn và do đó, tính di động thu nhập càng cao. Các tương quan Pearson và Spearman (xếp hạng) đã được sử dụng cho mục đích này.

Để định lượng ảnh hưởng của tính di động đối với phân phối thu nhập, chỉ số Shorrocks “điều chỉnh sự bất bình đẳng để phản ánh tính di động” được tính toán7.

7 Xem Shorrocks (1978).

Page 46: Tải xuống Chương 3

368 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

( ) 1)(

)(

1

−=

∑=

T

ttt

T

wI

wIWR

η (2)

trong đó I là chỉ số bất bình đẳng, w là thu nhập bình quân trong T giai đoạn, wt là thu nhập trong giai đoạn t và ηt là yếu tố trọng số được định nghĩa là tỉ trọng thu nhập của các đơn vị trong tổng thu nhập trong thời gian t đối với thu nhập trong tập hợp các giai đoạn T. R tiến tới giá trị tối đa là 0 khi tính di động bằng không và giảm khi ảnh hưởng của di động lên phân phối tăng lên.

4. Kết quả phân tích động

4.1 Lao động và sự không ổn định về thu nhậpHành vi đặc trưng của thị trường lao động Argentina trong thời gian

này vẫn là sự biến động đáng kể của thu nhập hộ gia đình và tỉ lệ ra vào thị trường lao động cao. Thực tế cho thấy các hệ số biến động của số lượng lao động có việc làm và thu nhập lao động cho thấy cả hai yếu tố trên có dao động đáng kể (Xem Bảng 5).

Bảng 5: Hệ số biến thiên của thu nhập thực của hộ và số người đi làm

Tổng Giai đoạn 2004-2005 Giai đoạn 2005-2007

Tất cả các hộTrung bình

Giới hạn dưới

Giới hạn trên

Trung bình

Giới hạn dưới

Giới hạn trên

Trung bình

Giới hạn dưới

Giới hạn trên

Số người đi làm 0.21 0.21 0.22 0.21 0.20 0.23 0.21 0.20 0.22

Thu nhập thực từ lao động 0.34 0.34 0.35 0.34 0.32 0.35 0.34 0.33 0.36

Chủ hộ có trình độ học vấn thấp

Số người đi làm 0.24 0.23 0.24 0.23 0.21 0.25 0.24 0.22 0.25

Thu nhập thực từ lao động 0.37 0.36 0.38 0.36 0.34 0.38 0.38 0.36 0.39

Page 47: Tải xuống Chương 3

369ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Chủ hộ có trình độ học vấn cao

Số người đi làm 0.18 0.16 0.19 0.18 0.16 0.21 0.16 0.14 0.18

Thu nhập thực từ lao động 0.29 0.28 0.30 0.30 0.28 0.33 0.28 0.26 0.30

Nguồn: Điều tra thường xuyên Hộ gia đình (EPH), INDEC, tính toán của tác giả.

Cần lưu ý rằng mức không ổn định bằng không trong một hộ gia đình - hoặc nói cách khác là mức ổn định tuyệt đối – diễn ra khi hệ số biến đổi có giá trị bằng không. Khi chỉ số này lấy giá trị trung bình 0,21 đối với thay đổi về số lượng các thành viên hộ gia đình có việc làm, và 0,34 trong trường hợp thu nhập lao động gia đình trong một khoảng thời gian 15 tháng, điều này cho thấy có biến động đáng kể về số lượng việc làm và dòng thu nhập thực tế. Điều này cũng được chứng minh bởi tỉ lệ 46% hộ gia đình có sự thay đổi về số lượng các thành viên có việc làm trong bốn quan sát.

Quan trọng hơn nữa đối với phân tích phân phối là sự khác biệt đáng kể có thể thấy giữa các hộ gia đình có thu nhập thấp và cao trong phân phối thu nhập. Các hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn thấp có mức không ổn định việc làm và biến động thu nhập trung bình cao hơn khoảng 1/3 so với hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao. Tỉ lệ hộ gia đình có thay đổi về số lượng thành viên có việc làm là 50% cho nhóm thấp và 39% cho nhóm cao.

Mức chênh lệch về tình trạng không ổn định này giữa các nhóm hộ gia đình khác nhau không thu hẹp trong giai đoạn tiến hành phân tích, qua đó phản ánh sự tồn tại dai dẳng của rủi ro không đồng đều về việc làm và thu nhập. Mức chênh lệch về rủi ro thu nhập có thể là do triển vọng việc làm của những người có trình độ học vấn cao đã được cải thiện hơn trong suốt toàn bộ thời gian này, như đã đề cập trong phần trước. Nói cách khác, cơ hội việc làm cho người lao động có trình độ học vấn thấp ít đi có thể cũng dẫn đến tỉ lệ việc làm không ổn định lớn hơn - hầu hết là việc phi chính thức - cho những người lao động này.

Để bổ sung cho việc đánh giá quy mô của hiện tượng không ổn định việc làm, chúng tôi cũng đã nghiên cứu quá trình việc làm của các cá nhân. Phân tích này xác nhận mức độ không ổn định cao vừa đề cập. Thực vậy, nghiên cứu cũng cho thấy 38% những người có việc làm trong ít nhất là một trong bốn quan sát của giai đoạn tiến hành phân tích có quá trình làm việc dở dang

Page 48: Tải xuống Chương 3

370 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

(Xem Bảng 6). Hơn nữa, cứ mười cá nhân thì gần bốn người thất nghiệp trong ít nhất một lần trong bốn quan sát thực hiện trong suốt thời gian 15 tháng.

Bảng 6: Tình trạng bất ổn định trong lao động

(%)

% trong quintile nghèo nhất

trong ít nhất một lần quan

sát

% trong hai

quintile nghèo

nhất trong ít nhất

một lần quan sát

% trình độ học

vấn thấp nhất

% lao động không đăng ký trong ít

nhất một lần quan

sát

% nam giới

% chủ hộ Tuổi

Người đi làm trong các quan sát lần 1, 2, 3 và 4

62.0 13 31 48 36 62 62 40

Người đi làm trong các quan sát lần 2 hoặc 3

2.8 47 67 62 54 34 25 36

Người đi làm trong các quan sát lần 1

4.1 45 68 65 64 39 12 28

Người đi làm trong các quan sát lần 2

5.6 46 68 62 60 33 17 31

Người đi làm trong 2 lần quan sát

2.9 51 69 61 46 30 33 38

Người đi làm trong các quan sát lần 1 và 2

4.7 42 54 54 64 43 16 30

Người đi làm trong các quan sát lần 3 và 4

5.0 53 74 68 67 46 24 33

Người đi làm trong 3 lần quan sát

3.0 51 71 63 58 40 40 38

Người đi làm trong các quan sát lần 1, 2 và 3

4.2 47 52 58 66 52 31 34

Người đi làm trong các quan sát lần 2, 3 và 4

5.6 53 66 66 65 52 41 37

Tổng 100.0

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Vì chúng ta đang đề cập đến một giai đoạn tăng trưởng kinh tế nên một mức độ không ổn định thu nhập nhất định được dự kiến do việc làm được tạo ra. Mặc dù hiệu ứng này không thể tách riêng do đặc điểm của dữ liệu, vẫn có thể ước tính được hiệu ứng này. Một cách trực tiếp là loại ra khỏi các nhóm

Page 49: Tải xuống Chương 3

371ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

lao động được coi là không ổn định, những người lao động chuyển từ thất nghiệp sang có việc làm - và không loại những người di chuyển theo chiều ngược lại. Điều này có nghĩa là giả định rằng những người có việc làm sẽ không bị thất nghiệp. Với điều chỉnh này, 60% người lao động ban đầu được xác định là không ổn định vẫn ở trong tình trạng đó.

Việc làm không ổn định được coi là có liên quan tới vị trí thấp hơn trong phân phối thu nhập, phản ánh tính chất không tự nguyện của tình trạng không ổn định này. Có thể thấy rằng chỉ có 13% người có việc làm trong suốt toàn bộ thời gian này nằm trong nhóm 20% những người nghèo nhất trong phân phối thu nhập hộ gia đình ở một trong bốn quan sát. Tỉ lệ này là trên 40% và thậm chí trên 50% đối với phần lớn quá trình làm việc của những người có công ăn việc làm không ổn định. Nếu chúng ta mở rộng ngưỡng phân tích tới hai nhóm quintile thấp nhất, tỉ lệ thu được là 1/3 cho quá trình làm việc ổn định và 2/3 và cho quá trình không ổn định. Ngoài ra còn có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm liên quan đến chất lượng việc làm tìm được. Trong số những người luôn luôn có việc làm, tỉ lệ người lao động làm việc phi chính thức ít nhất một lần là 36%, trong khi tỉ lệ này dao động trong khoảng 46% và 67% trong số các nhóm có việc làm nhưng không ổn định.

Tình trạng không ổn định lao động có tác động lớn hơn đối với các nhóm lao động có mức độ giáo dục thấp và phổ biến hơn với những người không là chủ hộ như thanh niên và phụ nữ. Các bằng chứng về những người này cho thấy những hạn chế mà các hộ gia đình gặp phải liên quan đến cơ chế để ổn định thu nhập dựa trên việc làm của các thành viên không phải là chủ hộ. Trong mọi trường hợp, tỉ lệ chủ hộ gia đình trung bình chiếm một phần ba số người lao động có quá trình làm việc không ổn định đã nói lên quy mô của hiện tượng này và hậu quả của nó đối với rất nhiều hộ gia đình.

Một cách khác để đánh giá mức độ mà sự không ổn định việc làm gắn với tình trạng thiếu việc làm là thông qua phân tích việc luân chuyển giữa các loại hình nghề nghiệp khác nhau. Phân tích này cho thấy một tình trạng phù hợp với miêu tả về thị trường lao động phân khúc. Bảng 7 tóm tắt ngắn gọn các khả năng chuyển đổi việc làm khác nhau sau 3, 12 và 15 tháng đối với người lao động có việc làm tại một số thời điểm trong giai đoạn nghiên cứu. Như có thể thấy, hầu hết những người không có việc làm

Page 50: Tải xuống Chương 3

372 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

trong quan sát đầu tiên đã không thể tìm được một công việc chính thức - ổn định hoặc công việc được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Trên thực tế, sau 15 tháng, 32% lao động vẫn thất nghiệp và 37% có việc làm bấp bênh. Chỉ có 12% tìm được công việc có thu nhập từ lương và có đăng kí. Tình trạng của những người có việc làm bấp bênh vào đầu giai đoạn cũng tương tự. Mười lăm tháng sau đó, chỉ có 17% tìm được việc làm có đăng kí bảo hiểm xã hội, trong khi 53% vẫn làm việc không có bảo hiểm xã hội. Mặt khác, người lao động có thu nhập không phải từ lương có mức độ thay đổi ít hơn: 63% người lao động có thu nhập không từ lương vẫn còn ở trong tình trạng đó sau 15 tháng, trong khi chỉ có 5,5% tìm được công việc có đăng kí. Ngược lại, 89% người lao động hưởng lương có đăng kí vẫn duy trì tình trạng trong thời kỳ này.

Bảng 7: Chuyển đổi việc làm (các khoảng thời gian khác nhau) (%)

Loại hình ban đầu Loại hình cuối cùngQuan sát lần 2 (3

tháng)Quan sát lần 3

(12 tháng)Quan sát lần 4

(15 tháng)

Không hưởng lương Không hưởng lương 69.1 63.8 63.4

Lao động có đăng ký 2.5 4.7 5.5

Lao động không đăng ký 11.6 14.0 13.1

Chương trình việc làm 1.8 1.1 1.3

Không đi làm 15.0 16.4 16.7

Tổng 100 100 100

Lao động có đăng ký Non-salary 1.3 1.9 2.1

Lao động có đăng ký 92.9 89.9 89.2

Lao động không đăng ký 3.5 4.8 5.4

Chương trình việc làm 0.0 0.0 0.0

Không đi làm 2.3 3.4 3.3

Tổng 100 100 100

Lao động không đăng ký

Không hưởng lương 8.2 9.8 9.8

Lao động có đăng ký 8.1 14.9 16.9

Lao động không đăng ký 63.2 55.9 52.7

Chương trình việc làm 2.0 1.2 1.4

Non-employed 18.5 18.1 19.3

Tổng 100 100 100

Page 51: Tải xuống Chương 3

373ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Chương trình vệc làm Không hưởng lương 4.1 6.1 5.7

Lao động có đăng ký 0.5 1.6 2.2

Lao động không đăng ký 9.0 13.2 15.9

Chương trình việc làm 71.0 54.2 48.3

Không đi làm 15.4 24.9 28.0

Tổng 100 100 100

Không đi làm Không hưởng lương 12.0 14.5 16.5

Lao động có đăng ký 4.4 10.8 11.8

Lao động không đăng ký 23.5 34.9 37.3

Chương trình việc làm 2.6 2.8 2.8

Không đi làm 57.6 37.0 31.6

Tổng 100 100 100

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Một cách khác để đánh giá động thái này là xác định loại nghề nghiệp ban đầu. Bảng 8 cho thấy khoảng 20% người hưởng lương có đăng kí là từ một nghề nghiệp khác chuyển sang, chủ yếu là từ các công việc không đăng kí. Và tỉ lệ chuyển việc cao chuyển từ các nghề không đăng kí sang thất nghiệp.

Bảng 8: Chuyển đổi việc làm (khoảng thời gian 15 tháng)

Loại hình cuối cùng Loại hình đầu tiên % trong loại hình cuối cùng

Không hưởng lương

Không hưởng lương 11.0%

Lao động có đăng ký 0.7%

Lao động không đăng ký 2.2%

Chương trình việc làm 0.3%

Không đi làm 3.5%

Tổng 17.7%

Lao động có đăng ký

Không hưởng lương 0.9%

Lao động có đăng ký 29.8%

Lao động không đăng ký 3.8%

Chương trình việc làm 0.1%

Page 52: Tải xuống Chương 3

374 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Không đi làm 2.5%

Tổng 37.2%

Lao động không đăng ký

Không hưởng lương 2.2%

Lao động có đăng ký 1.8%

Lao động không đăng ký 12.2%

Chương trình việc làm 0.8%

Không đi làm 7.9%

Tổng 25.0%

Chương trình việc làm

Không hưởng lương 0.2%

Lao động có đăng ký 0.0%

Lao động không đăng ký 0.3%

Chương trình việc làm 2.6%

Không đi làm 0.6%

Tổng 3.7%

Không đi làm

Không hưởng lương 2.9%

Lao động có đăng ký 1.1%

Lao động không đăng ký 4.4%

Chương trình việc làm 1.5%

Non-employed 6.6%

Subtotal Không đi làm 16.4%

Tổng 100.0%

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Tóm lại, mặc dù các chỉ số lao động đã cải thiện đáng kể trong giai đoạn phân tích, thị trường lao động Argentina vẫn cho thấy thiếu nhu cầu đối với lao động chất lượng cao. Thực tế là nguồn cung lao động dư thừa luân chuyển giữa thất nghiệp và các công việc ngắn hạn trong các ngành nghề phi chính thức.

4.2 Tính di động và tình trạng bất bình đẳngNhư đã phân tích ở trên, từ năm 2004 tới năm 2007 tình trạng bất bình

đẳng giảm vừa phải trong khi thu nhập biến thiên mạnh. Thông thường, sự

Page 53: Tải xuống Chương 3

375ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

biến thiên thu nhập dẫn đến sự dịch chuyển vị trí tương đối của người lao động và/hoặc khoảng cách giữa các thu nhập của họ. Điều này chủ yếu diễn ra khi phân tích các biến cố lao động như các giai đoạn thất nghiệp, trong nhiều trường hợp đi kèm với việc thiếu thu nhập. Do sự bất bình đẳng – được đo theo cách tĩnh - đã không thể hiện những thay đổi lớn trong giai đoạn phân tích nên chúng tôi quyết định nghiên cứu quy mô của tính di động gắn với các biến động thu nhập.

Nhiều phương pháp được sử dụng để phân tích tính di động của thu nhập. Đầu tiên, chúng tôi phân tích sự chuyển dịch của các hộ gia đình giữa các nhóm quintile thu nhập. Điều này cho phép ước tính sơ bộ về mức độ biến đổi thu nhập dẫn đến thay đổi trong phân phối. Bảng 9 cho thấy hai ma trận dịch chuyển tóm tắt những thay đổi diễn ra giữa các nhóm quintile thu nhập trong khoảng thời gian ba tháng - trong trường hợp đầu tiên - giữa các quan sát 1 và 2 - khoảng thời gian dài hơn là 15 tháng - trong trường hợp thứ hai - giữa quan sát 1 và 4. Việc so sánh hai cấu trúc cho thấy tình trạng khá ít di chuyển, đặc biệt là ở hai cực của phân phối. Trên thực tế, 71% các cá nhân vẫn nằm trong nhóm thấp nhất trong thời gian ngắn, và con số này là 66% trong khoảng thời gian dài. Trong trường hợp của nhóm giàu nhất, tỉ lệ 79% cho giai đoạn ngắn và 76% cho giai đoạn dài. Khi phạm vi được mở rộng tới các nhóm thu nhập thấp thứ hai và nhóm thu nhập cao thứ hai, tỉ lệ đối với giai đoạn dài là khoảng 90%. Điều này có nghĩa rằng sau 15 tháng, hầu hết các hộ gia đình có thu nhập cao hơn/thấp hơn vẫn là những hộ trong quan sát ban đầu.

Bảng 9: Ma trận chuyển đổi

Quan sát lần 1 - 2 Khoảng thời gian 3 tháng)

Quintile thu nhập cuối cùng

Quintile thu nhập lúc đầu 1 2 3 4 5 Total

1 70.6 21.5 6.8 0.8 0.3 100

2 21.3 53.0 19.1 5.7 0.9 100

3 6.2 20.0 51.5 19.4 3.0 100

4 0.7 4.0 19.2 58.6 17.5 100

5 0.6 1.2 3.7 16.0 78.5 100

Page 54: Tải xuống Chương 3

376 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Quan sát lần 1 - 4 khoảng thời gian 15 tháng)

Quintile thu nhập cuối cùng

Quintile thu nhập lúc đầu 1 2 3 4 5 Total

1 65.5 23.1 8.6 2.0 0.8 100

2 25.6 44.4 21.1 7.2 1.7 100

3 6.3 23.8 39.7 25.7 4.4 100

4 1.5 7.1 26.3 47.4 17.8 100

5 0.5 1.4 4.4 18.0 75.6 100

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Tuy nhiên, như đã đề cập, một trong những hạn chế của các ma trận chuyển dịch là chúng không phản ánh các biến động thu nhập diễn ra trong nội bộ các nhóm quintile. Vì vậy, chúng tôi đã phân tích bổ sung thông qua nghiên cứu các giá trị của các hệ số tương quan Pearson và Spearman về phân phối thu nhập hộ gia đình. Bảng 10 trình bày cả hai hệ số phản ánh các khoảng thời gian khác nhau. Mức độ tương quan là cao và phù hợp với bối cảnh của tính di động thấp mô tả ở trên. Không chỉ các biến động về thứ tự thu nhập – được phân tích với hệ số tương quan thứ hạng Spearman - không cao mà các biến động về khoảng cách giữa các thu nhập cũng thấp. Ngoài ra, mức giảm nhẹ mức độ tương quan có thể diễn ra khi mở rộng khoảng thời gian giữa hai phân phối. Tuy nhiên, mức giảm này là rất nhỏ và có ít tính hệ thống trong trường hợp của hệ số Pearson. Tóm lại, có thể kết luận rằng 80% người lao động đã không thay đổi vị trí của họ trong phân phối thu nhập trong một khoảng thời gian 15 tháng.

Bảng 10: Hệ số tương liên về thu nhập từ lao động của các hộ gia đình

Quan sát lần 1 - 2 (khoảng thời gian

3 tháng)

Quan sát lần 2 - 3 (khoảng thời gian

9 tháng)

Quan sát lần 1 - 3 (khoảng thời gian

12 tháng)

Quan sát lần 1 - 4 (khoảng thời gian

15 tháng)

Pearson 0.826 0.809 0.786 0.810

Spearman 0.852 0.828 0.813 0.801

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Page 55: Tải xuống Chương 3

377ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Nhìn chung, kết quả của hai phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu, có tính tới bối cảnh kinh tế tăng trưởng trong những năm này, cho thấy sự năng động của thị trường lao động có tác động hạn chế tới mức di động thu nhập. Điều này là phù hợp với mức độ thay đổi tương đối ít của vị trí của các hộ gia đình trong phân phối thu nhập. Thực tế là các kết quả này có thể được giải thích là do tính chất phân khúc mạnh mẽ giữa các hộ gia đình làm hạn chế các cơ hội của những người có nguồn lực thấp hơn trong việc cải thiện vị trí của họ trong việc phân phối thu nhập, cả vị trí tuyệt đối và tương đối. Như đã nêu trong phần phân tích quá trình lao động, sự bất ổn lao động cao ngụ ý việc người lao động phải làm các công việc có chất lượng và thu nhập thấp. Sau đó, hành vi này chuyển từ cá nhân sang các hộ gia đình vì các hộ thiếu khả năng ổn định thu nhập và/hoặc các thực hiện các cơ chế bù thu nhập.

Trong những năm này, Argentina đã ghi nhận biến đổi đáng kể về thu nhập lao động, thể hiện qua mức phổ biến của tình trạng bất động thu nhập, cả theo xếp hạng và theo khoảng cách. Ngoài ra, như đã trình bày, phân phối thu nhập hiện tại vẫn ổn định. Nhìn chung, cả hai bằng chứng này cho thấy rằng mức độ tập trung của thu nhập “thường xuyên” hơn có hình thái tương tự, và rằng tính di động của thu nhập chỉ có tác dụng không đáng kể đối với tình trạng bất bình đẳng. Để định lượng tác động này, chúng tôi sử dụng biện pháp “điều chỉnh sự bất bình đẳng để phản ánh tính di động” được mô tả trong phần phương pháp. Như đã được nêu ở trên, chúng tôi sử dụng hệ số Gini để phản ánh sự bất bình đẳng.

Mức điều chỉnh sự bất bình đẳng để phản ánh tính di động là khoảng 5% cho toàn bộ nhóm hộ gia đình. Hơn nữa, không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ lớn của điều chỉnh giữa điểm đầu và điểm cuối của thời kỳ phân tích (Xem Bảng 11). Có lẽ việc các điều chỉnh sự bất bình đẳng tĩnh để phản ánh mức di động của thu nhập lấy giá trị nhỏ phản ánh sự ít thay đổi vị trí hộ gia đình đã được đề cập tới trong phân phối thu nhập.

Page 56: Tải xuống Chương 3

378 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Bảng 11: Hệ số Gini về bất bình đẳng trong thu nhập từ lao động của các hộ gia đình

TổngGiai đoạn

2004-2005Giai đoạn

2005-2007

Tất cả các hộ

Hệ số Gini của thu nhập trung bình 0.463 0.452 0.460

Trung bình của hệ số Gini theo chiều ngang 0.488 0.479 0.484

Hệ số R: điều chỉnh sự bất bình đẳng để di động (%)

-5.2% -5.8% -4.8%

Hộ gia đình có chủ hộ dưới 65 tuổi

Hệ số Gini của thu nhập trung bình 0.514 0.509 0.510

Trung bình của hệ số Gini theo chiều ngang 0.539 0.535 0.534

Hệ số R: điều chỉnh sự bất bình đẳng để di động (%)

-4.6% -4.9% -4.5%

Nguồn: Tính toán của tác giả.

5. Kết luận

Sự phục hồi kinh tế của Argentina kéo theo sự tăng trưởng đáng kể của việc làm và tiền lương trong bối cảnh thị trường lao động được cải thiện. Tỉ lệ người lao động đăng kí trong hệ thống bảo hiểm xã hội đã tăng trong khi tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm. Đối với phân tích phân phối, mặc dù nghèo tuyệt đối giảm mạnh nhưng bất bình đẳng vẫn còn ở mức cao sau mức giảm ban đầu đáng kể.

Do đặc điểm này của phân phối, chúng tôi đã tìm hiểu một giai đoạn trong đó phân phối thu nhập có mức ổn định cao hơn, giai đoạn 2004-2007, nhờ đó chúng tôi phát hiện một số yếu tố dường như có tác động đáng kể tới phân phối. Trong các yếu tố này, chúng tôi đã chỉ ra rằng các biến động việc làm có xu hướng có lợi cho cá nhân có trình độ học vấn cao hơn. Nhìn chung, kết quả thu được cho thấy các hộ gia đình với các nguồn lực thấp đã không được hưởng một cách đầy đủ các lợi ích của tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, thành viên các hộ gia đình này có tương đối ít cơ hội việc làm hơn và khi họ có việc thì chất lượng công việc không cao.

Page 57: Tải xuống Chương 3

379ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Các bằng chứng rút ra từ dữ liệu động khẳng định dự đoán này. Trên thực tế, hộ gia đình mà chủ hộ có tay nghề thấp thường đối mặt với mức bất ổn lao động cao hơn và biến động thu nhập lớn hơn - trung bình cao hơn khoảng 1/3- so với các hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn. Hơn nữa, sự chênh lệch về tình trạng không ổn định này giữa các nhóm hộ gia đình khác nhau không thu hẹp trong giai đoạn nghiên cứu, điều này phản ánh sự tồn tại dai dẳng của các mức độ rủi ro khác nhau về việc làm và thu nhập.

Sự bất ổn lao động đi kèm với tình trạng thiếu dịch chuyển thu nhập khá phổ biến. Các kết quả này chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập giữa các hộ gia đình không thay đổi mặc dù có sự phục hồi kinh tế. Nói một cách chính xác hơn, khi quy mô điều chỉnh bất bình đẳng tĩnh để phản ánh tính di động thu nhập là 5% thì vị trí hộ gia đình trong phân phối thu nhập có xu hướng chậm dịch chuyển.

Các kết quả này dường như cho thấy mức độ bất bình đẳng cao tại Argentina là kết quả của những khó khăn liên tục của những người lao động tay nghề thấp trong việc tìm việc làm chính thức.

Tài liệu tham khảo

Arrow, K.J. (1970): Essays in the Theory of Risk Bearing, Amsterdam, North-Holland.

Atkinson, A. (1970): On the measurement of inequality, Journal of Economic Theory, vol. 2, No. 3, Amsterdam, Elsevier.

Ayala, L. y M. Sastre (2002) La medición de la movilidad de ingresos: enfoques e indicadores, Revista de Economía Pública, 162 (3/2002) 101-131, Instituto de Estudios Fiscales.

Beccaria, L. y F. Groisman (2009) Argentina Desigual, Ed. Prometeo, Buenos Aires.

Burgess, S., K. Gardiner and others (2000): Measuring Income Risk, CASE Paper, No. 40, London, Centre for Analysis of Social Exclusion, London School of Economics.

Devicienti, F., Groisman, F. and Poggi, A. (2010) Are Informality and

Page 58: Tải xuống Chương 3

380 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Poverty Dynamically Interrelated? Evidence from Argentina, en Research on Economic Inequality, Vol. 18.

Frenkel, R. y M. Rapetti (2008): Five years of competitive and stable real exchange rate in Argentina, 2002-2007, Internacional Review of Applied Economics, 22:2, 215 - 226.

Groisman, F. (2008) Distributive effects during the expansionary phase in Argentina (2002-2007), Cepal Review 96.

Hussmanns, R (2005) Measuring the informal economy: From employment in the informal sector to informal employment, Working Paper No. 53, ILO, Geneva.

International Labour Office (ILO) (1972) Employment, Incomes and Equality: a strategy for increasing productive employment in Kenya, Geneva.

Shorrocks, A.F. (1978): Income inequality and income mobility, Journal of Economic Theory, vol. 19, No. 2, Amsterdam, Elsevier.

Tokman, V. (2007): Informalidad, inseguridad y cohesión social en América Latina CEPAL - Serie Políticas sociales No 130, Santiago de Chile.

Page 59: Tải xuống Chương 3

381ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

3.3

SỰ DỊCH CHUYỂN LAO ĐỘNG GIỮA KHU VỰC KINH TẾ CHÍNH THỨC VÀ

PHI CHÍNH THỨC TẠI THÁI LAN

Xavier Oudin

Mục đích của bài viết là phân tích diễn biến việc làm phi chính thức ở Thái Lan trong hơn ba thập kỉ tăng trưởng mạnh mẽ và công nghiệp hóa nhanh chóng, ngoại trừ những năm khủng hoảng (1997-1999). Đặc biệt, giải thích một điều có vẻ nghịch lí là việc làm phi chính thức vẫn tồn tại song song với hình thái tăng trưởng dựa trên đầu tư công nghiệp, dịch vụ và sự phát triển của việc làm được trả lương.

Kể từ đầu những năm 1970, GDP bình quân đầu người đã tăng trưởng nhanh chóng: trung bình hàng năm là 4,2% trong các năm 1970-1986 và 8,2% trong các năm 1978-1996. Sự sụt giảm mạnh của GDP trong cuộc khủng hoảng châu Á không kéo dài và tăng trưởng lại tiếp tục từ năm 1999. Từ năm 2000 đến năm 2008, tăng GDP bình quân đầu người đạt 4% mỗi năm1. Trong vòng chưa đầy 40 năm, GDP bình quân đầu người ở Thái Lan đã tăng gấp ba, trong khi dân số tăng gấp đôi.

Trong phần đầu của bài viết, chúng tôi xem xét các thay đổi của thị trường lao động gắn với tăng trưởng kinh tế ở Thái Lan. Sự tăng trưởng này, chủ yếu do xuất khẩu và phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, đã nhanh chóng tạo thêm nhiều việc làm được trả lương và làm giảm số việc làm phụ việc gia

1 Dữ liệu của Ngân hàng Thế giới.

Page 60: Tải xuống Chương 3

382 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

đình trong nông nghiệp. Khu vực phi chính thức (phi nông nghiệp) từng bước được duy trì.

Trong phần thứ hai, chúng tôi nghiên cứu dữ liệu theo thời gian từ các cuộc điều tra do các CELS (Trung tâm Giáo dục và Nghiên cứu Lao động, Đại học Chiang Mai) và IRD thực hiện trong năm 2004 đối với lao động trong các ngành công nghiệp và trong năm 2005 đối với lao động độc lập. Dựa trên các câu hỏi về sự thay đổi việc làm, chúng tôi có thể rõ hơn về sự phát triển hiện tại và nhất là giải thích tại sao khu vực phi chính thức vẫn tồn tại phổ biến tại Thái Lan.

Trong suốt thời kỳ công nghiệp và tăng trưởng giai đoạn 1970-1996, khu vực phi chính thức tồn tại khá phổ biến, mặc dù các doanh nghiệp chính thức thu hút một lượng lớn lao động. Ngoài ra, có vẻ như kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng châu Á, khu vực phi chính thức lại mở rộng thêm. Điều này kéo theo sự suy giảm việc làm nông nghiệp và có thể do mong muốn của người lao động Thái Lan tìm những công việc độc lập.

1. Diễn biến của thị trường lao động trong 40 năm

Phần đầu tiên dựa trên dữ liệu từ các LFS (điều tra lực lượng lao động) thực hiện từ năm 1969, hai lần và sau đó là bốn lần một năm của Cục Thống kê Quốc gia (NSO) Thái Lan. Chúng tôi đã thiết lập các chuỗi thời gian từ các bảng khảo sát được công bố vào tháng Tám hàng năm cho giai đoạn cao điểm của hoạt động nông nghiệp. Các dữ liệu được điều chỉnh để phản ánh các thay đổi về khái niệm và phân loại, và chỉnh sửa để khắc phục các lỗi về đo lường theo thời gian2.

Mặc dù chưa hoàn hảo, cuộc khảo sát cho phép khảo sát bốn thập kỉ thay đổi cơ cấu thị trường lao động.

Bối cảnh của quá trình chuyển đổi nhân khẩuCác thay đổi này diễn ra trong bối cảnh Thái Lan đã trải qua một quá

trình chuyển đổi nhân khẩu học rất nhanh. Mức sinh giảm từ bảy con trên

2 Các chuỗi dữ liệu này tạo nên cơ sở dữ liệu do CELS thiết lập. Tất cả số liệu được nêu trong bài viết này, trừ khi được nêu rõ, được lấy từ Cơ sở dữ liệu của CELS.

Page 61: Tải xuống Chương 3

383ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

một phụ nữ vào năm 1965 xuống hai con vào năm 1995 (kể từ đó mức sinh này xuống thấp hơn tỉ lệ sinh). Điều này dẫn đến thay đổi nhanh chóng trong cơ cấu tuổi của dân số và giảm đáng kể tỉ lệ phụ thuộc3.

Các thay đổi này tác động đến thị trường lao động thông qua việc tăng nguồn cung lao động dồi dào trong một thời gian khi các nhóm tuổi sinh ra trước khi mức sinh giảm gia nhập thị trường lao động. Nghĩa là, cho đến cuối những năm 1980. Sau đó, mức tăng cung lao động chậm lại, đặc biệt là do tuổi tham gia lao động tăng do thời gian học trung bình dài hơn. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng năm 1997 làm giảm tỉ lệ việc làm trong vài năm, đặc biệt đối với phụ nữ.

Sự sụt giảm mức sinh cũng ảnh hưởng đến nhu cầu giáo dục khi tuổi giáo dục bắt buộc tăng từ 4 lên 6 năm vào năm 1982 và 9 vào năm 1990. Số năm đi học bình quân tăng từ 6 vào đầu những năm 1970 lên 12 năm đối với nhóm ra đời vào những năm 1990 và hiện nay đang bắt đầu tham gia thị trường lao động. Tỉ lệ nhóm tuổi học đại học tăng từ 10% năm 1975 lên 47% vào năm 2005 (Cơ sở dữ liệu CELS). Về nguyên tắc nhóm thanh niên đang bước vào thị trường lao động được đào tạo tốt hơn và có tay nghề cao hơn so với thế hệ trước.

Cũng trong thời gian này, lực lượng lao động già đi, trở nên ít linh hoạt và đòi hỏi nhiều hơn. Sự gia tăng tuổi tác tăng tốc vào năm 1990 do tỉ trọng ngày càng tăng của các nhóm tuổi lớn hơn và độ tuổi trung bình gia nhập thị trường lao động cao hơn. Độ tuổi trung vị của lực lượng lao động tăng từ 30 vào năm 1970 lên 39 vào năm 2008. Với số lượng ít hơn và được đào tạo tốt hơn, thanh niên có kỳ vọng khác với những người thuộc thế hệ trước. Họ ít chấp nhận các công việc lặt vặt, yêu cầu cao hơn, mong muốn tiêu chuẩn sống tốt hơn và nhạy cảm hơn với bất bình đẳng. Nhóm người lớn tuổi hơn, cũng là nhóm đông nhất (40 tuổi trở lên hiện chiếm 50% dân số làm việc so với 29% năm 1970) ngại dịch chuyển và có những ràng buộc tài chính đáng kể như thanh toán chi phí nhà ở và giáo dục của con cái.

Sự phát triển của dân số trong độ tuổi lao độngTrong vòng chưa đầy 40 năm, lực lượng này đã tăng gấp đôi, từ 18 triệu

năm 1970 lên 38 triệu năm 2008 (Xem Đồ thị 1). Từ năm 1970 đến cuối năm

3 Tỉ lệ phụ thuộc là tỉ lệ giữa nhóm dân cư dưới 15 tuổi và nhóm từ 65 tuổi trở lên trên nhóm dân cư trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi).

Page 62: Tải xuống Chương 3

384 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

1980, tăng trưởng hàng năm cao hơn 3%, tương đương với 700.000 việc làm mới mỗi năm. Trong những năm 1990, dân số trong độ tuổi lao động không tăng và khi tăng trở lại thì tốc độ chậm hơn vào khoảng 1,3% mỗi năm trong thập kỉ sau (2001-2010).

Trong suốt thời kỳ này, trừ giai đoạn 12 tháng sau cuộc khủng hoảng (tháng Bảy năm 1997), tỉ lệ thất nghiệp là không đáng kể. Tỉ lệ thất nghiệp (1-2%) thậm chí còn thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Cũng có một tỉ lệ nhỏ thất nghiệp theo mùa.

Đồ thị 1: Diễn biến của lực lượng lao động, 1970-2008

24,00022,00020,00018,00016,00012,00010,000

8,0006,0004,0002000

0

1970

1972

1974

1976

1978

1980

1982

1984

1986

1988

1990

1992

1994

1996

1998

2000

2002

2004

2006

2008

*Đơn vị nghìn. Nguồn: Cơ sở dữ liệu CELS; tính toán của tác giả.

Các thay đổi trong nông nghiệpDân số làm việc trong nông nghiệp khá lớn: 79% lực lượng lao động

vào năm 1975 và 63% vào năm 1990. Kể từ đó, tỉ lệ này giảm rất nhanh (42% năm 2008). Cho đến năm 1990, tức là trong thời kì tăng trưởng mạnh mẽ của lực lượng lao động, nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút người lao động. Khi cung lao động giảm, nông nghiệp ngừng thu hút lao động. Như vậy, nông nghiệp chứ không phải là khu vực phi chính thức đã giúp điều tiết sự phát triển của lực lượng lao động4. Đất

4 Các tài liệu nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của khu vực phi chính thức trong việc thu hút lao động dư thừa (Castel và Portes, 1989). Sự năng động của nông nghiệp của Thái Lan và việc nông nghiệp sử dụng một bộ phận quan trọng lao động trong độ tuổi lao động dường như là đặc tính của nước này.

Page 63: Tải xuống Chương 3

385ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

canh tác mở rộng song song với tình trạng mất rừng, điều này khiến quy mô trung bình của các trang trại không đổi (Phélinas, 2002).

Sự sụt giảm số lượng lao động trong nông nghiệp kể từ năm 1991 không xảy ra theo kiểu dịch chuyển hàng loạt nông dân không có đất, mà là do các thế hệ lớn tuổi không có người thay thế. Động thái này chỉ ảnh hưởng đến những người phụ việc trong gia đình, các thể loại lao động khác (người sử dụng lao động, lao động độc lập và nhân viên hưởng lương) tiếp tục tăng. Số lượng các trang trại vẫn tiếp tục tăng (Xem Đồ thị 2). Tuy nhiên, số lượng việc làm trong mỗi trang trại đã giảm và các trang trại trung bình chỉ còn hai vợ chồng, không có con cái phụ việc. Con cái của các nông dân không còn làm việc với cha mẹ của mình mà chuyển ra thành phố để tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Cho đến nay, đối tượng này vẫn cung cấp lực lượng lao động cho công nghiệp và khu vực phi chính thức, nhưng không có sự xua đuổi ở quy mô lớn những nông dân không có đất.

Đồ thị 2: Số người làm nghề nông và quy mô trung bình của các trang trại *

*Số người làm nghề nông là tổng số những người lao động độc lập và những người sử dụng lao động; quy mô trung bình là thương của số người lao động chia cho số trang trại;

Nguồn: Cơ sở dữ liệu CELS; tính toán của tác giả.

Mặc dù chủ nghĩa tư bản nông nghiệp đã phát triển (đặc biệt là trong vùng đồng bằng trung tâm), nông nghiệp Thái Lan vẫn chủ yếu dựa vào nông dân. Số

Page 64: Tải xuống Chương 3

386 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

lượng lao động hưởng lương và số người sử dụng lao động trong nông nghiệp đã tăng đáng kể. Số các trang trại có lao động hưởng lương (số lượng người sử dụng lao động) tăng từ dưới 60.000 năm 1970 lên hơn 300.000 vào năm 1990, con số này dao động từ 300.000 và 400.000 kể từ đó. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm chưa đến 5% số trang trại. Số người làm công hưởng lương trong nông nghiệp, chỉ chiếm 3% lực lượng lao động nông nghiệp (nửa triệu người) vào năm 1970 đã tăng lên 10% vào năm 1990 và 16% trong năm 2008 (2,5 triệu)5.

Điều tiết thị trường lao độngCho đến năm 1990, tất cả các hình thức việc làm góp phần “hấp thụ” lực

lượng trong độ tuổi lao động đang phát triển nhanh. Các công việc hưởng lương được tạo ra nhiều hơn, còn công việc phụ việc gia đình tạo ra ít hơn. Số lượng lao động độc lập tăng ở mức trung bình. Từ năm 1991, số người phụ việc gia đình, đặc biệt là trong nông nghiệp, giảm mạnh. Mức tăng lượng lao động hưởng lương kéo dài cho đến năm 1997. Sau khi giảm mạnh tại thời điểm khủng hoảng, mức gia tăng này tiếp tục cho đến bây giờ, với một tốc độ chậm hơn so với những năm trước khủng hoảng. Năm 2006 có 16 triệu lao động hưởng lương trong đó 3 triệu làm việc trong khu vực công, so với 2 triệu vào năm 1970. Mức gia tăng của những lao động độc lập (tự làm chủ hoặc người sử dụng lao động), mặc dù tăng ít hơn nhưng vẫn tiếp tục và không bị gián đoạn bởi cuộc khủng hoảng.

Đồ thị 3: Diễn biến của tổng số lao động làm việc theo tình trạng, 1969-2008

Nguồn: Cơ sở dữ liệu CELS; tính toán của tác giả.

5 Tuy nhiên số lao động hưởng lương trong nông nghiệp không được thống kê đầy đủ. Đúng vậy, ngày càng có nhiều lao động hưởng lương người nước ngoài (Myanmar, Campuchia, Lào) làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Hoặc các điều tra việc làm tính quá thấp nhóm đối tượng này.

Page 65: Tải xuống Chương 3

387ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Năm 2008, nhân viên hưởng lương chiếm chưa đến một nửa số việc làm. Nhân viên khu vực tư nhân chiếm 35% và khu vực công chiếm 9% dân số lao động. Những lao động độc lập vẫn chiếm 1/3 số việc làm từ hơn ba thập kỉ nay. Tỉ lệ này giảm trong những năm 1980 và lại tăng lên trên mức của năm 1970 một chút. Cuối cùng, số lượng phụ việc gia đình đã giảm từ 12,5 triệu năm 1990 xuống dưới 8 triệu năm 2008. Mức giảm này ứng với mức tăng số việc làm hưởng lương trong cùng kỳ.

Bảng 1: Phân bố dân số trong độ tuổi lao động theo tình trạng, 1970-2008 (%)

1970 1990 2008

Hưởng lương 13,6 29,6 43,6

Người sử dụng lao động và làm việc độc lập 32,9 30,5 34,3

Phụ việc gia đình 53,5 39,9 22,1

Tổng số (nghìn) 17 784 31 531 37 499

Nguồn: Cơ sở dữ liệu CELS; tính toán của tác giả.

Do tăng trưởng kinh tế, nhất là tăng trưởng dựa vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, nhu cầu lao động luôn cao, ngoại trừ từ cuối năm 1997 đến 1999. Tuy nhiên, cung lao động, với sự tham gia của nhóm người sinh ra trước khi mức sinh giảm là rất cao trong hai mươi năm, từ năm 1970 đến 1990. Nhờ việc làm trong gia đình trong các trang trại mà tỉ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức thấp và tỉ lệ làm việc vẫn cao.

Tình hình việc làm phi nông nghiệp và ước tính việc làm trong khu vực phi chính thức

Do không có thống kê về khu vực phi chính thức6 nên cách tiếp cận phù hợp nhất là sử dụng thông tin về tình trạng việc làm do các điều tra về việc làm cung cấp: những người tự làm chủ, người phụ việc gia đình cũng như

6 Có các điều tra về khu vực phi chính thức hoặc về các thể loại việc làm của khu vực phi chính thức (ví dụ làm việc tại nhà), nhưng không thể áp các kết quả này cho các cuộc điều tra việc làm. Từ vài năm nay, các câu hỏi về việc người lao động tham gia bảo hiểm y tế được bổ sung vào bảng hỏi của điều tra việc làm, nhờ đó có thể xác định việc làm phi chính thức (chứ không phải khu vực phi chính thức). Có thể sử dụng được các bảng dữ liệu của năm 2007.

Page 66: Tải xuống Chương 3

388 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

những người sử dụng lao động (hầu hết là giám đốc trong các cơ sở hộ gia đình có một vài lao động) chủ yếu làm việc trong khu vực phi chính thức. Các thể loại khác (lao động khu vực tư nhân, các nhân viên chính phủ) nói chung làm việc trong khu vực chính thức (OECD, 2002).

Nói chung phương pháp này không đạt yêu cầu vì hai lí do: có những người lao động hưởng lương trong khu vực phi chính thức và người lao động độc lập trong khu vực chính thức. Thống kê hiện tại không phân biệt giữa người lao động của doanh nghiệp chính thức với những người lao động của cơ sở phi chính thức. Quy mô của doanh nghiệp có thể được sử dụng như là một biến thay thế (proxy), nhưng thông tin này (được xác định trong các cuộc điều tra việc làm) không được công bố. Bộ Lao động không thường xuyên xuất bản các thống kê về việc làm phân loại theo quy mô của cơ sở. Ví dụ năm 2003, 16% nhân viên thuộc khu vực tư nhân làm việc trong các cơ sở có ít hơn 10 người. Cuối cùng, những người tự làm chủ trong khu vực chính thức (người lao động có đăng kí) chỉ chiếm một phần nhỏ trong số 12 triệu người (năm 2008) lao động tự làm chủ7.

Tháng Tám năm 2008, lực lượng lao động là 38 triệu người, trong đó có một nửa triệu người thất nghiệp. Dân số trong độ tuổi lao động là 37,5 triệu người, trong đó 15,7 triệu (42%) làm việc trong nông nghiệp. Việc làm phi nông nghiệp là 21,8 triệu người.

Biến thiên theo mùa khá lớn, mặc dù khu vực nông nghiệp suy giảm. Lực lượng lao động dao động trong khoảng 2 triệu người một năm và người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp là 3,2 triệu, tức là dao động khoảng 22% giữa mức cao nhất (trong tháng Tám) và mức thấp nhất (trong tháng Hai)8. Lao động phi nông nghiệp dao động khoảng 1,2 triệu người trong thời gian giữa hai tháng này với mức cao nhất vào tháng Hai. Những người làm việc theo mùa vụ trong hoạt động phi nông nghiệp làm gia tăng số lao động phi chính thức vì việc làm của họ không ổn định. Tuy nhiên, họ có thể không làm trong khu vực phi chính thức. Các doanh nghiệp chính thức cũng sử dụng lao động

7 Các nghề nghiệp của các nhóm I và II (nghề tự do và quản lí) trong phân loại nghề nghiệp của ILO chỉ chiếm 0,8% tổng số người lao động độc lập. Trong số này, những người có thể được liệt kê trong khu vực chính thức là một nhóm nhỏ. Tuy nhiên họ đông hơn trong nhóm chủ sử dụng lao động, phần lớn là các nhà quản lí doanh nghiệp nhỏ.8 Tính toán của tác giả. Bình quân từ 2003 tới 2008; các số liệu chưa sửa đổi của NSO (http://web.nso.go.th/en/survey/lfs/lfs2011.htm)

Page 67: Tải xuống Chương 3

389ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

theo mùa. Do chúng tôi sử dụng dữ liệu của các LFS vào tháng Tám hàng năm nên họ được tính vào lao động nông nghiệp.

Số nhân công trong các hoạt động phi nông nghiệp đã tăng từ dưới 2 triệu năm 1975 lên 16,3 triệu năm 2008, trong đó có 3,3 triệu làm việc trong khu vực công. Nhân công ăn lương trong khu vực tư nhân chiếm 10% lao động phi nông nghiệp năm 1970 và tăng lên 34% năm 20089.

Đồ thị 4: Diễn biến của lực lượng lao động phi nông nghiệp theo tình trạng việc làm, 1969-2008 %

1970

1972

1974

... 2008

% phi chính thức

độc lập

phụ việc gia đình

hưởng lương tư nhân

hưởng lương nhà nước

Nguồn: Cơ sở dữ liệu CELS; tính toán của tác giả.

95% số lao động độc lập và người sử dụng lao động và 10% nhân công hưởng lương làm việc trong khu vực phi chính thức (con số ước tính này có vẻ hơi thấp). Khu vực phi nông nghiệp phi chính thức có 8,7 triệu người kể cả người giúp việc gia đình vào năm 2008 tức là chiếm 39% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Đây chỉ là ước tính sơ lược nhưng cũng phản ánh phần nào thực tế là quy mô của khu vực phi chính thức trong nền kinh tế Thái Lan vẫn còn lớn.

Khu vực phi chính thức khá năng động. Số lao động độc lập và giúp việc gia đình trong các hoạt động phi nông nghiệp là dưới 2 triệu vào năm 1975

9 So với dân số trong độ tuổi làm việc phi nông nghiệp, số nhân viên khu vực công không dao động nhiều, giảm từ 17% năm 1975 xuống 15% năm 2008.

Page 68: Tải xuống Chương 3

390 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

và tăng lên gần 8 triệu vào năm 2008. Do khu vực phi chính thức chủ yếu bao gồm hai nhóm lao động này nên sự phát triển của việc làm phi chính thức trong bốn thập kỉ qua cũng đi theo xu hướng tương tự.

Không thể giải thích sự tăng trưởng của khu vực này là do dư cung lao động. Thật vậy, tỉ trọng của khu vực phi chính thức trong việc làm phi nông nghiệp đã suy giảm trong những năm lực lượng lao động tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, mặc dù số lao động hưởng lương và các doanh nghiệp chính thức trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh, việc làm trong khu vực phi chính thức vẫn còn ở mức cao. Khu vực phi chính thức không cung cấp lao động cho khu vực chính thức khi khu vực này thiếu nhân công. Việc làm chính thức được bổ sung từ sự tăng trưởng tự nhiên của lực lượng lao động và sự chuyển dịch lao động từ nông thôn. Khu vực chính thức thường xuyên bị thiếu hụt lao động mặc dù rào cản gia nhập khá thấp: hầu hết thanh niên đều có thể đạt trình độ học vấn bắt buộc (tuy nhiên có một phân khúc của khu vực phi chính thức không được học hành đầy đủ để có thể kiếm được việc làm trong khu vực chính thức).

Tuy nhiên, sau khủng hoảng, tỉ trọng của khu vực phi chính thức đã tăng lên. Khủng hoảng tác động nhiều tới nhóm lao động hưởng lương. Các doanh nghiệp chính thức đã sa thải nhiều lao động và song song với điều này là sự gia tăng các công việc độc lập. Nếu như những thay đổi như vậy trong thị trường lao động thời khủng hoảng không phải là chuyện đáng ngạc nhiên, thì sự gia tăng của việc làm độc lập và việc làm trong khu vực phi chính thức kể cả khi kinh tế phục hồi phản ánh một sự thay đổi sâu sắc trong cấu trúc thị trường lao động.

2. Tính di động của lực lượng lao động và diễn biến công việc

Thông tin kinh tế vĩ mô nêu trên cho biết các thay đổi về cơ cấu trong thị trường lao động nhưng lại không cung cấp thông tin về tính di động của người lao động. Thông tin này thậm chí còn gây hiểu lầm ở một số khía cạnh, bởi vì khi lực lượng lao động tăng nhanh, các thay đổi cấu trúc có thể do sự dịch chuyển của nhiều lao động ra khỏi một nhóm (trong trường hợp này là những

Page 69: Tải xuống Chương 3

391ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

người giúp việc gia đình trong nông nghiệp) và sự gia nhập của lao động vào nhóm khác (người hưởng lương), mà không nhất thiết phải có sự dịch chuyển từ một tình trạng việc làm này sang tình trạng khác. Ngược lại, sự dịch chuyển chéo giữa các tình trạng việc làm xét từ góc độ vĩ mô che lấp sự thay đổi tình trạng việc làm, điều này làm cho tính di động thực có vẻ ít hơn.

Các cuộc điều tra tiểu sửCác dữ liệu sau đây được lấy từ hai cuộc khảo sát do IRD và CELS thực

hiện theo yêu cầu của NRCT (Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Thái Lan) và dưới sự chỉ đạo của tác giả của bài viết này. Cùng một nhóm nghiên cứu (các nhà nghiên cứu, trợ lí và các điều tra viên) đã làm việc từ khâu xây dựng ý tưởng cho đến việc hoàn thành phiên bản cuối cùng của nghiên cứu. Cuộc điều tra lần đầu tiên được tiến hành vào năm 2004 với 1530 nhân công tại 82 công ty thuộc khu vực chính thức (chủ yếu là sản xuất). Các doanh nghiệp chính thức được xác định theo tình trạng pháp lí. Cuộc khảo sát thứ hai được tiến hành vào năm 2005 với 1550 doanh nhân độc lập và 500 nhân viên hưởng lương thuộc khu vực phi chính thức (cơ sở tư nhân hoặc hộ gia đình). Mẫu của cuộc điều tra đầu tiên không có tính đại diện ở cấp quốc gia, còn mẫu của cuộc điều tra thứ hai có tính đại diện ở cấp toàn quốc cho nghành sản xuất và dịch vụ. Các cơ sở thương mại không được khảo sát.

Cả hai cuộc điều tra có mục về tiểu sử bao gồm các câu hỏi về các sự kiện liên quan đến học vấn và việc làm của người được điều tra. Sau khi rời trường học, cuộc sống của họ được chia thành các giai đoạn. Mỗi giai đoạn được khởi tạo khi có thay đổi về địa điểm (tỉnh), nơi làm việc, tình trạng việc làm. Đối với mỗi giai đoạn, các thông tin sau đây được thu thập: tuổi ở thời gian bắt đầu giai đoạn, địa điểm, công việc đã được tìm thấy như thế nào, thu nhập hàng tháng, ngành và quy mô công ty, tình trạng việc làm (hưởng lương, làm việc độc lập, phụ việc gia đình). Các điều tra viên cũng thu thập thông tin về lí do thôi việc và độ dài của thời gian làm việc giữa giai đoạn. Các giai đoạn ngắn hơn sáu tháng không được liệt kê, vì vậy kết quả không phản ánh đầy đủ tính di động.

Đo lường tính di độngTính di động trong thị trường lao động là sự thay đổi liên quan đến việc

làm. Đây có thể là sự thay đổi nghề nghiệp, tình trạng việc làm, thay đổi nơi

Page 70: Tải xuống Chương 3

392 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

làm việc... Chúng tôi chỉ đo lường một số dạng thay đổi: thay đổi nơi làm việc hoặc tình trạng việc làm (thay đổi tình trạng việc làm thường gắn với thay đổi nơi làm việc) và thay đổi địa bàn tỉnh (thay đổi địa điểm hoạt động diễn ra trong cùng tỉnh không được tính).

Từ khi ra trường, mỗi thay đổi việc làm có thể được xác định dựa trên điểm xuất phát và điểm đến. Ví dụ, chuyển từ giai đoạn không làm việc sang giai đoạn làm việc. Trên thực tế, tại Thái Lan, gần như tất cả các dịch chuyển, trừ dịch chuyển đầu tiên từ trường (hoặc từ đại học) sang làm việc, đều xuất phát từ một công việc khác. Thời gian thất nghiệp không kéo dài, và thời gian không hoạt động tương đối ngắn. Trong bối cảnh này, số việc làm, nói chung là tương ứng với số lần đổi việc là chỉ số đầu tiên của tính di động.

Số lượng trung bình việc làm trong toàn bộ cuộc đời là tương đối thấp so với giả định về tính di động cao, đặc biệt là đối với nhân công ngành sản xuất và dịch vụ. Giả định này dựa trên thông tin do các chủ sử dụng lao động hoặc giám đốc nhân sự cung cấp trong quá trình tiến hành các cuộc điều tra về người lao động. Nhiều người phàn nàn về mức độ chuyển việc thường xuyên của các nhân viên và một trong những vấn đề chính mà họ đề cập đến là tỉ lệ đổi việc cao. Chính sách lương và các biện pháp khuyến khích hoàn toàn tập trung vào việc giữ chân người lao động tuy nhiên không thu được nhiều kết quả. Chúng tôi không thu thập được số liệu về số nhân viên bỏ việc trong các cơ sở được khảo sát. Các thông tin này thường được xem là bí mật trong hoạt động kinh doanh.

Từ các số liệu thu được từ cuộc khảo sát về sự dịch chuyển thấp hơn so với dự kiến, cần xem xét lại thông tin cho rằng tính di động của lực lượng lao động ở Thái Lan là cao quá mức. Thông tin này có thể đúng đối với một số loại hình cơ sở (tại các khu công nghiệp xa trung tâm đô thị) hoặc các ngành (khách sạn) nơi có cạnh tranh rất khốc liệt và phổ biến tình trạng tranh giành nhân công.

Con số trung bình việc làm, kể cả việc làm hiện tại, là 2,7 (Xem Bảng 2). Tất nhiên con số này phụ thuộc vào tuổi và độ dài của thời gian đi làm. Mức độ di động cao nhất trong những năm đầu cuộc đời đi làm: trước độ tuổi 28, một lao động có trung bình 2 việc làm, còn khi trên 35 tuổi, con số việc làm trung bình là 3. Thông thường, một người trong độ tuổi 20 trải qua 2 công việc và trong độ tuổi 30 là 3 công việc.

Page 71: Tải xuống Chương 3

393ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Bảng 2: Số công việc theo dạng người lao động

Khu vực Số công việc 1 2 3 4 và + Tổng TB Tuổi trung vị

Chín

h thức Quản lí 33,0 33,5 19,6 13,9 194 2,2 32

Lao động có tay nghề 29,6 28,3 24,4 17,7 537 2,4 31

Lao động không có tay nghề 27,6 34,3 23,0 15,1 688 2,3 33

Phi C

hính

thức Lao động phi chính thức có

đào tạo18,1 29,7 25,9 26,3 764 2,8 34

Lao động phi chính thức không có đào tạo

8,8 32,1 29,7 29,5 1257 3,1 43

Tổng 19,2 31,5 26,1 23,2 3440 2,7 36

Nguồn: Điều tra IRD-CELS, năm 2005, tính toán của tác giả.

Nhà quản lí, công nhân lành nghề và không có tay nghề trong lĩnh vực hiện đại được phân biệt bởi biến trình độ chuyên môn (hoặc trình độ học vấn trong trường hợp không đáp ứng với biến này). Hai dạng lao động thuộc khu vực phi chính thức được phân biệt bởi trình độ học vấn (trên hoặc dưới chín năm học), tương tự như vậy đối với lao động độc lập và nhân công khu vực phi chính thức.

Số lượng trung bình công việc đã làm từ khi ra trường cho đến khi điều tra cung cấp thông tin không đầy đủ vì chỉ liên quan đến một giai đoạn trong cuộc đời đi làm của người được điều tra và không phân biệt những người đã đi làm từ bốn mươi năm với những người vừa mới đi làm. Để đo lường chính xác hơn tính di động, chúng ta có thể thiết lập một chỉ số tổng hợp về tính di động từ việc tính toán tính di động theo thế hệ và theo giai đoạn10.

Chỉ số này được tính vào các thời điểm khác nhau từ năm 1965. Chỉ số cho giai đoạn gần đây vững chắc hơn vì cỡ mẫu lớn hơn. Chỉ số này cho thấy có 3 việc làm trong đời một người lao động trong giai đoạn 2000-2004, giảm so với thập kỉ trước đó. Trong khoảng thời gian 40 năm, chỉ số này nói chung có vẻ khá ổn định (Xem Đồ thị 5).

10 Có thể đọc chỉ số này theo cách tương tự tổng tỉ suất sinh. Cứ mỗi giai đoạn năm năm, chỉ số tổng hợp về tính di động là tổng của các số bình quân số lần thay đổi việc làm trong cuộc đời làm việc (tính toán cho thời gian năm năm). Ví dụ một lao động khu vực phi chính thức từ năm 2000 tới 2004 có số việc làm kì vọng trong cuộc đời làm việc là 4, nếu tính đến tính di động của tất cả các nhóm tuổi trong giai đoạn này. Chỉ số này chỉ là 2,2 trong giai đoạn 1965-1969.

Page 72: Tải xuống Chương 3

394 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Đồ thị 5: Chỉ số tổng hợp về tính di động, 1965-2004

Nguồn: Điều tra IRD-CELS, năm 2005, tính toán của tác giả.

Tuy nhiên, diễn biến của tính di động là khác nhau đối với người lao động khu vực chính thức và người lao động trong khu vực phi chính thức. Đối với người lao động trong khu vực phi chính thức, tính di động dường như tăng mạnh trong thập kỉ vừa qua trong khi đối với nhân công khu vực chính thức, tính di động cao trong những năm 1970 lại giảm xuống. Tuy nhiên, mức độ di động đã tăng trở lại trong những năm tăng trưởng mạnh và trong cuộc khủng hoảng (1990-1999).

Những người lao động trong khu vực phi chính thức có mức độ di động cao nhất, đặc biệt là nhân viên và nhân công học vấn thấp (ít hơn chín năm đi học). Nhóm này có độ tuổi trung bình cao hơn những người khác. Trong khu vực chính thức, nhân công không có tay nghề có mức độ di động cao nhất, còn các nhà quản lí ít di chuyển (hai phần ba có một hoặc hai công việc). Mức độ di động cao ở giai đoạn đầu khi mới đi làm, trong khi đó trong khu vực phi chính thức, mức độ này vẫn kéo dài trong suốt cuộc đời làm việc.

Ngay cả khi có chỉ số tổng hợp về tính di động, hiểu biết của chúng tôi về tính di động vẫn không thật sự đầy đủ. Tính di động chỉ có thể được đo lường đầy đủ khi hết tuổi lao động. Điều này không mang lại nhiều lợi ích cho nghiên cứu thị trường lao động tại thời điểm này. Vì vậy chúng tôi sử dụng các thông tin thời điểm hiện tại, như đã làm đối với mức sinh. Chỉ số này cho phép so sánh giữa các thể loại và theo dõi sự thay đổi theo thời gian.

Page 73: Tải xuống Chương 3

395ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Việc làm trong lĩnh vực nông nghiệpKhoảng hơn một phần tư (27,5%) số người trong mẫu điều tra làm việc

trong lĩnh vực nông nghiệp khi còn trẻ (tuy nhiên có đến 40% sinh ra trong một gia đình nông nghiệp, tỉ lệ này ngang nhau tại hai khu vực). Thông thường, đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa kết thúc học tập (ở tuổi 15) và bắt đầu làm việc bên ngoài trang trại gia đình. Nhóm dân số này, tương ứng với dòng dịch chuyển các lao động phụ việc gia đình trong nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp đã được mô tả trong phần đầu, làm việc cả trong khu vực chính thức và phi chính thức, nhưng chủ yếu là làm việc hưởng lương. Nhóm này tồn tại trong tất cả các thế hệ.

Cùng với trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc trong nông nghiệp, phân biệt rõ hai thể loại lao động của khu vực phi chính thức. Các lao động có học vấn thấp nhất dường như đã từng làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và có gốc gác gia đình nông dân có tỉ lệ cao hơn. Tuy nhiên, một bộ phận thiểu số của khu vực phi chính thức, chủ yếu là các doanh nhân (người sử dụng lao động), có học vấn tương đối cao (19% có học đại học) và có nguồn gốc thành thị.

Bảng 3: Tỉ lệ phần trăm những người lao động đã làm việc trong nông nghiệpxếp theo dạng người lao động và theo thế hệ

35 tuổi và trẻ hơn trên 35 tuổi Tổng

Quản lí 19,0 17,4 18,4

Lao động có tay nghề 31,7 18,8 27,5

Lao động không có tay nghề 27,0 15,0 22,2

Lao động phi chính thức có đào tạo 15,6 17,3 16,4

Lao động phi chính thức không có đào tạo 27,6 43,6 39,3

Tổng 24,6 30,2 27,5

Nguồn: Điều tra IRD-CELS, năm 2005, tính toán của tác giả.

Ở tất cả các thể loại người lao động, đáng chú ý là có một tỉ lệ đáng kể lao động bắt đầu cuộc đời đi làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này phản ánh tính di động xã hội tạo nên bởi sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ.

Page 74: Tải xuống Chương 3

396 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Tham gia thị trường lao độngNhờ các cuộc điều tra tiểu sử, chúng tôi có thể hiểu rõ hơn các động thái

của thị trường lao động và các thay đổi đang diễn ra. Chúng tôi tập trung phân tích động thái của khu vực chính thức và phi chính thức.

Thị trường lao động phi nông nghiệp được bổ sung lao động từ nguồn lao động từ hệ thống giáo dục hoặc những người không làm việc. Sau khi tốt nghiệp và đối với một số người sau một thời gian ngắn tìm việc, họ gia nhập thị trường lao động. Hầu hết sau đó tham gia khu vực chính thức. Hệ thống giáo dục cung cấp nhiều nhân lực cho khu vực chính thức hơn hay nói cách khác, phần lớn (59%) người lao động có việc làm đầu tiên (phi nông nghiệp) trong lĩnh vực chính thức. Một cách logic, những người làm việc ngay sau khi tốt nghiệp thường có thời gian đi học trung bình dài hơn và vì vậy kể cả trong khu vực chính thức và phi chính thức, họ được đào tạo tốt hơn.

Một số người, đặc biệt là những người có thời gian đi học không dài hơn thời gian đi học tối thiểu theo luật định, nếu họ xuất thân là con nhà nông, thì đều có việc làm đầu tiên trong các trang trại gia đình. Số người đã có thời gian làm việc trong nông nghiệp trước khi có việc làm đầu tiên trong các lĩnh vực công nghiệp hoặc dịch vụ được phân bố đều ở cả khu vực chính thức và phi chính thức. Vì vậy không thể nói rằng di cư từ nông thôn cung cấp nhiều lao động cho khu vực này hơn khu vực khác. Kết quả này không làm chúng tôi ngạc nhiên. Chúng ta biết rằng con em nông dân đã cung cấp nhiều lao động cho các ngành công nghiệp mới xuất hiện nhưng cũng có nhiều người, đặc biệt là những người ít học, đã làm việc phi chính thức.

Dòng dịch chuyển (một lao động ứng với một dòng) trên thị trường lao động có thể được chia như sau:

Có đào tạo hoặc không làm việc chuyển sang khu vực chính thức 42,9%

Có đào tạo hoặc không làm việc chuyển sang khu vực phi chính thức 29,5%

Nông nghiệp chuyển sang khu vực chính thức 13,3%

Nông nghiệp chuyển sang khu vực phi chính thức 14,3%

Dòng dịch chuyển bên trong thị trường lao độngSau công việc đầu tiên trong các khu vực chính thức hoặc phi chính

thức, người lao động có thể thay đổi công việc (thay đổi tình trạng việc làm

Page 75: Tải xuống Chương 3

397ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

hoặc nơi làm việc). Có 6021 dòng dịch chuyển loại này. Chúng tôi không tính những người không bao giờ thay đổi công việc (chiếm gần 1/5) (chúng tôi cũng không tính các giai đoạn không làm việc, trở lại trường để học, và khi thay đổi vị trí trong cùng nơi làm việc, số trường hợp này không nhiều). Các dòng dịch chuyển này được chia thành hai loại: những người chuyển dịch trong khu vực và giữa các khu vực.

Sơ đồ dưới đây minh họa các dòng dịch chuyển.

Đồ thị 6: Dịch chuyển giữa các tình trạng việc làm và giữa các khu vực (thị trường lao động phi nông nghiệp)

Nôn

g ng

hiệp

Độ dày của mũi tên là tỉ lệ thuận với số dòng dịch chuyển. Các dòng dịch chuyển bên trong các thể loại không được hiển thị.

Nguồn: Điều tra CELS-IRD, tính toán của tác giả.

Các dòng dịch chuyển trong từng khu vực (không được hiển thị trong sơ đồ bên trên) lớn hơn các dòng dịch chuyển giữa các khu vực. Các dòng dịch chuyển trong từng khu vực chiếm 3/4 (một nửa trong từng khu vực), các dòng dịch chuyển giữa các khu vực chiếm 1/4 số chuyển dịch giữa các việc làm. Con số này dường như khá quan trọng. Việc một phần tư số nhân công trong

Page 76: Tải xuống Chương 3

398 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

mẫu đã chuyển việc giữa khu vực chính thức và phi chính thức là một thông tin rất quan trọng. Nó đi ngược lại quan điểm đóng khung về khu vực chính thức thường được mô tả trong các lí thuyết nhị nguyên.

Sự chuyển dịch của nhân công khu vực chính thức chủ yếu diễn ra bên trong khu vực. Nhân công hưởng lương dễ dàng đổi việc nhưng vẫn ở lại trong môi trường tương tự. Các lí do được đưa ra trong cuộc phỏng vấn thường là mong muốn hoàn thiện kinh nghiệm và cải thiện điều kiện làm việc. Trong một thị trường việc làm rất năng động và thường xuyên thiếu lao động, thay đổi công ty là khá dễ dàng. Lưu ý rằng đây là nhóm đối tượng trẻ và do đó các chỉ số về tính di động, ước tính trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, là không hoàn chỉnh.

Sự dịch chuyển trong khu vực phi chính thức chủ yếu là do nhân viên và người phụ việc gia đình chuyển sang làm việc độc lập. Nhiều người tự làm chủ đã từng làm việc trong một cơ sở phi chính thức trước khi chuyển ra làm riêng. Các nhân công phi chính thức cũng thường đổi việc, tương tự như các nhân công khu vực chính thức.

Việc dịch chuyển từ khu vực chính thức sang khu vực phi chính thức gần như gấp đôi dòng dịch chuyển theo chiều ngược lại. Gần một nửa (46%) số doanh nhân khu vực phi chính thức đã từng làm việc trong một doanh nghiệp chính thức trước đó (4% trong khu vực công). Các doanh nhân từng làm việc trong khu vực chính thức chủ yếu hoạt động trong các ngành nghề về kim loại, sửa chữa điện tử, giặt ủi, in ấn và khách sạn, thường là các hoạt động đòi hỏi vốn khá lớn. Họ ít hoạt động trong ngành thủ công mỹ nghệ hoặc may mặc nơi có đến hơn một phần ba số doanh nhân đã từng là nhân viên hưởng lương trong khu vực chính thức.

Tính trung bình, các doanh nhân khu vực phi chính thức được đào tạo tốt hơn các nhân công tự làm chủ khác (55% có chín năm học hoặc nhiều hơn). Nhiều người được đào tạo trong các trường trung học kĩ thuật, đây là mức tay nghề bắt buộc đối với các công nhân lành nghề thuộc thế hệ trẻ trong khu vực chính thức. Vì vậy, đây là nhóm doanh nhân phi chính thức năng động và có tay nghề cao và họ cũng có một số kiến thức về các công cụ quản lí (55% tự quản lí sổ sách).

Sự dịch chuyển từ khu vực chính thức, tư nhân hoặc công, sang các tình trạng người sử dụng lao động hoặc tự làm chủ trong khu vực phi chính thức

Page 77: Tải xuống Chương 3

399ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

diễn ra nhiều hơn ở các thế hệ lớn tuổi. 92,4% các sự dịch chuyển này thuộc về các thế hệ từ 35 tuổi trở lên.

Có thể cho rằng sự dịch chuyển từ tình trạng người hưởng lương sang tình trạng người làm việc độc lập hầu như là không đảo ngược. Có rất ít trường hợp quay trở lại khu vực chính thức. Nói chung, rất ít nhân viên hiện đang làm trong khu vực chính thức (2,6%) đã từng tự làm chủ trước đó, trong khi tình hình ngược lại là phổ biến.

Dòng dịch chuyển từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức chủ yếu là do nhân công phi chính thức (và trong một chừng mực ít hơn là những người phụ việc gia đình). Gần 1/5 nhân viên trong khu vực chính thức đã từng là nhân viên trong một cơ sở phi chính thức trong quá khứ11. Các nhân viên hiện tại của các cơ sở phi chính thức cũng đã thường làm việc trong khu vực chính thức (gần 40%). Nếu loại trừ một số ít nhân viên trong khu vực phi chính là những người ít có cơ hội làm việc trong khu vực chính thức do trình độ học vấn thấp, dường như nhóm đối tượng này không quan tâm đến loại hình (chính thức hoặc phi chính thức) của cơ sở nơi họ làm việc.

Nghiên cứu về sự dịch chuyển cho thấy một thông tin thú vị về thị trường lao động ở Thái Lan. Sự chuyển dịch qua lại giữa khu vực chính thức và phi chính thức là phổ biến. Từ đó xuất hiện một số dạng định hướng nghề nghiệp theo mô hình bắt đầu đi làm với tư cách là nhân viên trong một công ty và kết thúc với tư cách người tự làm chủ. Tuy nhiên, các số liệu khảo sát chỉ cho phép đưa ra các giả thuyết. Vì không có thông tin về toàn bộ quá trình làm việc của người lao động nên không thể đưa ra phân loại quá trình làm việc. Tuy nhiên, nghiên cứu về lí do thay đổi công việc và đặc biệt là nguyện vọng của người lao động mang lại các thông tin bổ sung.

Lí do thay đổi công việcTính di động thường là do tự nguyện. Khi giải thích sự thay đổi công việc,

chỉ có 13,5% người lao động dẫn ra các tình huống bị động (sa thải, khủng hoảng...). Sự không hài lòng về công việc là lí do mà nhiều nhân viên khu vực chính thức đưa ra, nhưng có ít người tự làm chủ đưa ra lí do này (Xem Bảng 3).

11 Do không thể xác định được tính chính thức hoặc phi chính thức của các doanh nghiệp trong quá khứ, chúng tôi dựa vào quy mô của doanh nghiệp: được coi là việc làm hưởng lương phi chính thức là các công việc trong các doanh nghiệp có dưới mười nhân viên.

Page 78: Tải xuống Chương 3

400 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Đối với tất cả các thể loại người lao động, lí do chính để thay đổi công việc là mong muốn cải thiện điều kiện làm việc. Hơn một nửa số người lao động độc lập mong muốn lập công ty riêng của mình. Điều này cũng có thể có nghĩa là họ quay trở về quê. Đối với phụ nữ, việc rời khỏi nhà máy thường diễn ra khi sinh lần đầu. Trong mọi trường hợp, thay đổi công việc là để cải thiện điều kiện làm việc và đôi khi thay đổi cuộc sống. Sự cải thiện này có thể thông qua việc tự lập công ty riêng.

Đối với nhân viên khu vực chính thức, thay đổi công việc đôi khi là cách để nâng cao tay nghề vì cơ hội đào tạo hoặc thăng tiến nghề nghiệp hiếm khi có ở hầu hết các công ty. Đây cũng là một cách để cải thiện tiền lương.

Bảng 3: Lí do thay đổi của công việc gần đây *

Nhân viên khu vực

chính thức

Lao động độc lập

Nhân viên phi chính

thứcTổng

Lí do cá nhân hoặc gia đình (kết hôn, thai nghén, nuôi con, chuyển nhà...)

11,0 26,6 26,6 20,6 587

Muốn tìm việc tốt hơn (nâng cao chuyên môn, lương cao hơn, tự lập doanh nghiệp...)

42,3 52,7 45,4 47,9 1361

Không hài lòng (quá vất vả, trục trặc trong công việc, vấn đề sức khỏe, lương thấp, không có bảo hiểm)

28,1 7,2 15,7 16,2 461

Sa thải vì lí do kinh tế, hết hợp đồng, khủng hoảng... 16,2 12,2 10,6 13,5 384

Khác 2,5 1,3 1,7 1,8 51

* Trước công việc hiện tại, điều này chỉ liên quan đến những người đã có kinh nghiệm làm việc khác (ngoại trừ trong nông nghiệp) trước đó, tương đương với 70% nhân viên khu vực chính thức, 90% lao động tự làm chủ và 77% nhân viên trong khu vực phi chính thức.

Nguồn: Điều tra CELS-IRD, tính toán của tác giả.

Các cách thức này sở dĩ có thể dùng được tất nhiên là do nhu cầu cao về lao động và không có thất nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chính thức cần lao động lẽ ra sẽ có thể thu hút lao động từ khu vực phi chính thức khi mời chào công việc ổn định hơn, trả lương cao hơn (về nguyên tắc) và các khoản trợ cấp xã hội. Trên thực tế điều này không diễn ra vì các lợi ích này không được đảm bảo và điều kiện làm việc không tốt như vậy. Thu nhập bình

Page 79: Tải xuống Chương 3

401ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

quân của lao động độc lập ngang mức thu nhập của công nhân không có tay nghề trong khu vực chính thức. Ngay cả khi các công ty có chính sách có lợi cho người lao động, thì họ vẫn phải sống xa quê (đặc biệt là trong các khu công nghiệp) và khó hài hòa cuộc sống gia đình với công việc.

Cơ hội nghề nghiệpNhóm người hưởng lương trong mẫu là giới trẻ. 2/3 số nhân viên khu vực

chính thức có độ tuổi dưới 35. Họ đang ở giai đoạn đầu tiên của quá trình làm việc và có nhiều khả năng tìm các công việc mới.

Nhiều câu hỏi giống nhau về quan điểm về tương lai và triển vọng việc làm đã được đặt trong cả hai cuộc điều tra. Kết quả cho thấy khuynh hướng tự làm chủ là khá mạnh (Xem Bảng 4).

Bảng 4: Nếu bạn bỏ công việc của bạn, bạn mong muốn sẽ làm gì?

Nhân viên khu vực chính

thức

Lao động độc lập

Nhân viên phi chính thức

Tổng

Làm trong doanh nghiệp của gia đình 71,5 63,6 69,1 67,7

Chăm sóc con cái và gia đình 2,6 2,0 1,6 2,2

Có việc làm tương tự 4,2 1,6 4,2 3,0

Có việc mới và hoàn thiện kĩ năng 4,9 0,6 2,7 2,7

Có việc phù hợp với tay nghề 8,0 3,6 8,0 6,1

Có lương cao hơn 1,9 0,5 3,1 1,4

Không muốn bỏ việc 7,0 28,1 11,3 16,9

Tổng 1505 1546 450 3501

Nguồn: Điều tra CELS-IRD; tính toán của tác giả.

Công việc lí tưởng được nêu ra chủ yếu là sở hữu sản nghiệp gia đình. Vừa có điều kiện sống tốt, làm gần nhà và không bị giờ giấc gò bó hoặc bị sếp quản lí là những mong muốn của đa số người Thái Lan. Mong ước này được tất cả các thể loại người lao động trong mẫu chia sẻ. Đa số cán bộ quản lí cũng như công nhân không có tay nghề trong khu vực chính thức và người lao động trong khu vực phi chính thức muốn tự lập công ty của mình. Nguyện

Page 80: Tải xuống Chương 3

402 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

vọng này là của chung của tất cả các thế hệ, kể cả phụ nữ và nam giới. Đối với nhiều nhân viên doanh nghiệp chính thức, công việc được trả lương chỉ là tạm thời (thường là công việc đầu tiên khi ra trường) trước khi họ tự làm chủ. Một trong những dạng định hướng nghề nghiệp phổ biến nhất là làm từ 1 đến 3 công việc trong các công ty lớn, thường là xa nhà, sau đó quay về cơ sở sản xuất của gia đình. Trong một số trường hợp, đặc biệt là trong ngành may mặc, các mối liên kết có thể duy trì ngay cả với những người chủ ban đầu thông qua các hợp đồng gia công thuê.

Sự già đi của lực lượng lao động và các thay đổi về đặc tính có liên quan, như đã đề cập trong phần đầu tiên, có thể góp phần giải thích lí do vì sao các nhân viên khu vực chính thức ít gắn bó với công việc và doanh nghiệp của họ; quan hệ công việc vẫn còn nhiều tầng nấc và tiền lương thì thấp; nhìn chung không có văn hóa công sở thực sự, trừ một vài phân đoạn của khu vực chính thức (ví dụ doanh nghiệp nhà nước).

Lao động tự làm chủ không hề có mong muốn trở thành nhân viên. Câu hỏi được nêu ra rõ ràng cho tất cả người lao động độc lập (Xem Đồ thị 4). Câu trả lời cũng rõ ràng: gần như 9/10 người không muốn làm nhân viên trong công ty, ngay cả với một mức lương là 10.000 baht (gấp hai lần rưỡi mức lương tối thiểu) và bất kể mức thu nhập của họ (63% thu nhập từ 5.000 đến 10.000 baht mỗi tháng và 15,5% trên 10.000 baht).

Đồ thị 4: Bạn có chấp nhận một công việc với mức lương là 5000 hoặc 10.000 baht mỗi tháng không?

Nguồn: điều tra CELS-IRD; tính toán của tác giả.

Page 81: Tải xuống Chương 3

403ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Kết luận

Trong suốt bốn thập kỉ tăng trưởng kinh tế nhanh ở Thái Lan, ngoại trừ cuộc khủng hoảng năm 1997, thị trường lao động đã thay đổi đáng kể. Sự tăng trưởng nhanh của việc làm hưởng lương (diễn ra sau khi có nhiều đầu tư vào khu vực chính thức) được tạo ra chủ yếu là do sự gia tăng lực lượng lao động cho đến năm 1990, sau đó là do giảm số lượng nhân công phụ việc gia đình trong nông nghiệp. Khu vực phi chính thức ở đô thị tiếp tục phát triển trong thời kỳ này.

Khu vực này đã dường như không vận hành như “phòng chờ” cho nhân công mong muốn chuyển sang doanh nghiệp chính thức. Ngược lại, khu vực này tiếp tục phát triển do người lao động thường xuyên chuyển từ khu vực chính thức sang làm lao động độc lập trong khu vực phi chính thức. Điều này cũng cho thấy rằng hai khu vực này có sự liên thông.

Sự tồn tại của một khu vực phi chính thức năng động là do văn hóa làm công ăn lương chưa phát triển mạnh và do lao động Thái Lan có xu hướng về một lối sống dựa trên sự độc lập, gần gũi gia đình và sự gắn bó với quê hương. Sẽ khó có thể hiểu được vì sao khu vực phi chính vẫn tồn tại ngay cả khi hoàn cảnh kinh tế thuận lợi cho sự phát triển của việc làm hưởng lương nếu không hiểu các khía cạnh văn hóa này.

Tài liệu tham khảo

Bosch, M. et W. Maloney (2008), “Cyclical Movements in Unemployment and Informality in Developing Countries”, Policy Research Working Paper, No. 4648, Banque mondiale, Washington, D.C.

Castells, M. et A. Portes (1989),“World Underneath: The Origins, Dynamics, and Effects of the Informal Economy”, in PORTES, A. (Ed), The Informal Economy: Studies in Advanced and Less Developed Countries, John Hopkins University Press, Baltimore.

Ministère Du Travail (2003), Labour Statistics Yearbook 2003, ministère du Travail, department de l’Emploi, Bangkok.

NSO (2002), Report on the Labour Force Survey, The National Statistical Office, Bangkok.

Page 82: Tải xuống Chương 3

404 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

OCDE (2002), Measuring the Non-Observed Economy, A Handbook, OCDE, FMI, ILO, Paris.

OUDIN, X. (2008), “Surveys on the Labour Force in Thailand. Characteristics of the Labour Force”, CELS Working Paper, No. 5.

Phélinas, P. (2002), “Sustainability of Rice Production in Thailand”, Nova Biomedical.

Schmid, G et B. Gazier (2002), The New Dynamics of Full Employment. Social Integration Trough Transitional Labor Markets, Edward Elgar, North Hampton.

Page 83: Tải xuống Chương 3

405ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

3.4

ĐỘNG THÁI CỦA CÁC CƠ SỞ PHI CHÍNH THỨC NHỎ VÀ TÌNH TRẠNG

NGHÈO ĐÓI Ở PERU: MỘT CÁCH TIẾP CẬN DỮ LIỆU ĐA CHIỀU

Javier Herrera, Nancy Hidalgo

Mục đích của bài viết này không chỉ nghiên cứu tình trạng nghèo đói từ quan điểm thuần túy xã hội - nhân khẩu học gắn với cái nghèo mà còn mở rộng câu hỏi người nghèo là ai nhưng không trả lời được vì sao họ nghèo. Tìm hiểu mức độ nghèo và người nghèo là ai rõ ràng có thể phục vụ cho việc đánh giá tính hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo và giúp các chính sách này nhắm trúng người nghèo hơn, đồng thời hướng các chính sách này theo hướng tái phân phối thu nhập và chứ không phải theo hướng tăng năng suất.

Các nghiên cứu về đói nghèo hoặc các nghiên cứu về thị trường lao động thường được thực hiện theo các cách tiếp cận tĩnh và không có liên kết với nhau. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa nghèo đói và thị trường lao động vẫn hiện diện đâu đó trong các thảo luận về tác động của tăng trưởng đối với tạo việc làm có chất lượng và trong các chính sách xóa đói nghèo có trọng tâm cải thiện việc tiếp cận tín dụng cho các cơ sở quy mô nhỏ hoặc tăng năng suất lao động của cơ sở thông qua đào tạo nghề. Ngoài mục đích xây dựng chính sách, việc xem xét các mối quan hệ giữa thị trường lao động và nghèo đói cũng là cần thiết từ góc độ các yếu tố quyết định sự hình thành thu nhập hộ gia đình.

Thật vậy, nguồn thu nhập chính của hộ gia đình gồm thu nhập từ lao động, đặc biệt là đối với các hộ gia đình nghèo nhất (trung bình gần 70%).

Page 84: Tải xuống Chương 3

406 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Tại Peru, người lao động trong khu vực phi chính thức đô thị cũng là nhóm người lao động nghèo đô thị có số lượng đông nhất (trong giai đoạn 2002-2010, trung bình chiếm 66% người lao động sống trong các hộ gia đình nghèo đô thị). Hai phần ba (65%) số người lao động đô thị làm trong các cơ sở sản xuất thuộc khu vực phi chính thức (UPI) và tỉ lệ đói nghèo của những người lao động này cao gấp ba lần so với người lao động khu vực chính thức. Ngoài ra gần 3/4 trường hợp bất bình đẳng về thu nhập bắt nguồn từ thu nhập từ lao động và một phần ba phương sai của thu nhập là do các đặc điểm không đồng nhất của các cơ sở sản xuất (Herrera, 2008).

Những điều này khiến chúng ta phải xem xét các liên kết giữa động thái của tình trạng nghèo và động thái của các cơ sở siêu nhỏ. Mặc dù các UPI tạo thành một phân khúc riêng biệt và có một số đặc điểm chung (quy mô nhỏ, ít vốn, năng suất thấp, tập trung trong lĩnh vực dịch vụ) khác với các doanh nghiệp chính thức, nhưng các UPI tương đối không đồng nhất, không chỉ về mặt thu nhập mà còn về khả năng tồn tại và phát triển. Vì lí do này, ngoài các đặc điểm cá nhân của các hộ gia đình và người lao động (yếu tố cung), cần phân tích một trong số các yếu tố quyết định thị trường lao động thu nhập, đó là các đặc điểm chính của các cơ sở sản xuất (UP), nơi người lao động tiến hành hoạt động sản xuất (yếu tố cầu). Làm như vậy có thể giúp hướng các chính sách xóa đói nghèo theo hướng tăng năng suất, qua đó đảm bảo tính bền vững của chính sách cao hơn so với các chính sách chỉ tập trung vào tái phân phối thu nhập.

Bài viết tìm hiểu các mối liên hệ giữa thị trường lao động và động thái của nghèo đói, tập trung vào động thái của các cơ sở sản xuât quy mô nhỏ. Trong phần 1, chúng tôi xem xét các nghiên cứu chính về mối quan hệ giữa các đặc điểm của người lao động và đặc điểm của các cơ sở sản xuất. Phần 2 mô tả các đặc điểm chính của cuộc khảo sát quốc gia về hộ gia đình ở Peru (ENAHO), nhấn mạnh việc gắn kết giữa dữ liệu hộ gia đình, cá nhân với các dữ liệu về các cơ sở sản xuất và việc xây dựng panel gồm các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất. Phần 3 trình bày các đặc điểm chính của UPI. Phần 4 bàn về động thái của các cơ sở sản xuât quy mô nhỏ thuộc UPI nằm trong panel. Thảo luận tập trung vào quá trình thành lập, hoạt động và giải thể của các cơ sở sản xuât quy mô nhỏ trong suốt giai đoạn tăng trưởng của thập kỉ qua. Ban đầu chúng tôi kiểm tra các dạng thức thay đổi việc làm của tất cả các cá

Page 85: Tải xuống Chương 3

407ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

nhân trong đó tập trung vào những người lao động khu vực phi chính thức. Bước thứ hai, từ góc độ mô tả dữ liệu, chúng tôi sẽ xem xét các đặc điểm chính của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ (toàn bộ các cơ sở, các cơ sở tồn tại và giải thể hoặc mới được thành lập). Cuối cùng, chúng tôi xem xét mối liên hệ giữa động thái và năng suất của cơ sở sản xuất quy mô nhỏ và tình trạng nghèo đói hộ gia đình. Đây là các kết quả sơ bộ tạo nền móng cho các nghiên cứu trong tương lai. Những yếu tố nào có tương quan với các dạng tình huống này? Các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ nào có nhiều khả năng sống sót, giải thể? Các hướng chính sách có thể sẽ được đúc rút từ phân tích này nhằm hỗ trợ các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ. Các kết luận chính và những hệ lụy đối với chính sách giảm nghèo thông qua khuyến khích sản xuất được trình bầy trong phần cuối.

1. Các nghiên cứu về động thái của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ và tình trạng nghèo đói

Nhu cầu tìm hiểu đồng thời các đặc điểm của các cơ sở sản xuất và các đặc điểm của người lao động chỉ được các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm đến trong những năm gần đây. Nhu cầu này xuất phát từ thực tế là người lao động có đặc điểm cá nhân tương tự, nhưng làm việc trong các cơ sở sản xuất có các đặc điểm khác nhau, thì có mức thu nhập khác nhau (Abowd & Kramarz 1999, Mortensen 2003). Đối với các nước đang phát triển, đề tài này đã được đề cập một cách gián tiếp thông qua các chiến lược đa dạng hóa của các hộ gia đình nông thôn hướng tới các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp (Lanjouw, 2008).

Các nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố quyết định tiền lương ở các nước đang phát triển trong thời gian dài đã không giải thích được một cách thỏa đáng tại sao người lao động có các đặc điểm tương tự (trình độ chuyên môn, kinh nghiệm…) lại có mức lương khác nhau (Xem Mortensen 2003). Để giải thích hiện tượng này các nghiên cứu đã đồng thời xem xét các yếu tố liên quan đến cung và cầu lao động và đặc biệt đặc điểm của các công ty. Theo Hamermesh (2008:664), “Một trong những diễn biến thú vị nhất trong

Page 86: Tải xuống Chương 3

408 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

nghiên cứu kinh tế lao động trong thập kỉ qua, là có thể đồng thời nghiên cứu cả cung lẫn cầu của thị trường lao động”. Đối với Hamermesh, một vấn đề rất quan trọng trong các phương trình thu nhập là: mức độ quan trọng tương đối của các đặc điểm của các cơ sở so với mức độ quan trọng tương đối của người lao động là như thế nào. Điều này có vai trò quan trọng đối với các chính sách công bởi vì hai yếu tố này dẫn đến các loại can thiệp khác nhau. Người ta nhanh chóng nhận thấy rằng quy mô của của các cơ sở có tương quan chặt chẽ với mức lương cao hơn. Oi và Idson (1999) tổng kết ba giả thuyết giải thích về tương quan này: 1) người lao động có năng suất cao nhất tìm đến làm việc cho những người chủ khéo léo nhất để giảm thiểu tổng số tiền lương và các chi phí quản lí; 2) các cơ sở lớn trả lương cao hơn để giữ chân họ; 3) các cơ sở lớn sử dụng chính sách tiền lương linh hoạt để chia sẻ lợi nhuận. Các tác giả này ủng hộ giả thuyết rằng mức lương cao hơn có mối quan hệ với năng suất cao hơn. Quy mô cơ sở, một yếu tố liên quan chặt chẽ với năng suất, được một số nghiên cứu thực nghiệm coi là yếu tố quyết định chính của sự bất bình đẳng về lương.

Brown và Medoff (1989) nhận thấy ở Mỹ có một mối tương quan tỉ lệ thuận giữa quy mô cơ sở và tiền lương của người lao động. Các khác biệt tiền lương này vẫn tồn tại ngay cả khi loại trừ tác động của các đặc điểm có thể quan sát được của cả người lao động và cơ sở. Groshen (1991) cũng đặt câu hỏi về nguyên nhân khiến phân bố tiền lương không đồng đều đối với người lao động trong cùng một ngành nghề tại Bắc Mỹ thông qua xem xét sự khác biệt về nghề nghiệp và cơ sở (quy mô, sự hiện diện của công đoàn, ngành, % lao động nữ…) và thấy rằng các đặc điểm của cơ sở chiếm gần một nửa các yếu tố gây ra sự chênh lệch tiền lương.

Brunello và Colussi (1998) xem xét trường hợp của Italia, khá gần bối cảnh của các nước đang phát triển từ góc độ tỉ trọng tương đối của các cơ sở vừa và nhỏ. Các tác giả ước tính phương trình thu nhập Mince bằng cách coi việc phân bổ người lao động trong các cơ sở có quy mô khác nhau là có tính nội sinh rõ ràng. Các tác giả thấy rằng sự khác biệt liên quan đến quy mô cơ sở không khác số không, nhưng kết quả này lại nhạy cảm với các giả định cơ bản về phân phối người lao động trong các cơ sở. Theo các tác giả, sự chênh lệch tiền lương là do các đặc điểm cá nhân quan sát thấy ở người lao động và do các hiệu ứng lựa chọn.

Page 87: Tải xuống Chương 3

409ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Khu vực kinh tế phi chính thức thường được coi là một khu vực vật lộn để sinh tồn, một nơi trú ẩn trong thời gian khủng hoảng và bước đệm chờ tìm việc trong khu vực chính thức (nơi mà tiền lương cao hơn giá của họ tại điểm cân bằng). Một quan điểm khác mô tả khu vực phi chính thức như một khu vực năng động, nơi mà các doanh nhân quy mô nhỏ thể hiện bản lĩnh tinh thần tư bản chủ nghĩa (de Soto, 1986). Thu nhập của các doanh nhân phi chính thức ngay cả khi tính trung bình là tương đối thấp, cũng phân bố không đều và có một phân khúc khá gần nếu không nói là cao hơn những người lao động hưởng lương trong khu vực chính thức. Có hai quan điểm trái ngược giải thích lí do người ta “lựa chọn” trở thành doanh nhân phi chính thức. Đối với một số tác giả, đây là sự lựa chọn liên quan đến lợi ích dự kiến (không chỉ là tiền tệ), trong khi đối với những người khác, đây lại là do thiếu trình độ cần thiết để làm việc trong hệ thống hưởng lương. Theo Cunningham và Maloney (2001), có thể dung hòa hai quan điểm trái ngược này nếu chúng ta công nhận rằng có sự không đồng nhất đáng kể trong khu vực phi chính thức.

Rất ít nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa thu nhập của người lao động và đặc điểm cơ sở sản xuất. Nghiên cứu của Funkhouser (1998) sử dụng một mẫu nhỏ các cơ sở sản xuất ở Guatemala (dữ liệu về 256 cơ sở quy mô lớn do Bộ Lao động tổng hợp). Các kết quả hồi quy cho thấy rằng một nửa sự phân tán tiền lương có liên quan đến tính không đồng nhất quan sát được của các cơ sở và khoảng 15% liên quan đến hiệu ứng cố định cơ sở. Sử dụng một mẫu đại diện cho các cơ sở nhỏ, Cunningham và Maloney (2001) cho thấy rằng tại Mexico, tình trạng không đồng nhất rất cao của các cơ sở nhỏ không phải do sự phân khúc của thị trường lao động mà là sự khác biệt cố hữu của khu vực có đông cơ sở quy mô nhỏ. Sự chênh lệch mà người ta nhận thấy về quy mô, về thời gian tồn tại và mức độ chính thức là do sự phân bố không đồng đều về vốn con người và vật chất chứ không phải do thị trường lao động có cấu trúc hai phân khúc.

Phương pháp phân tích các yếu tố và cụm áp dụng cho các dữ liệu của cuộc khảo sát cơ sở quy mô nhỏ của Mexico cho thấy rằng đúng là có trường hợp người lao động không thể tìm được việc làm nên chấp nhận làm cho các cơ sở quy mô nhỏ. Nhưng các tác giả nhấn mạnh, các trường hợp này chỉ là thiểu số còn đại đa số thì tự nguyện lựa chọn loại hình làm việc này bởi mong muốn độc lập và hy vọng thu nhập cao hơn. Đặc điểm cá nhân của những

Page 88: Tải xuống Chương 3

410 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

người rời bỏ khu vực UPI cho thấy đây là những doanh nhân đã thất bại, những người đã tự nguyện lựa chọn các cơ sở quy mô siêu nhỏ. Các tác giả kết luận rằng không có mối quan hệ chặt chẽ giữa cường độ vốn, quy mô và hiệu quả sử dụng vốn con người (Cunningham và Maloney, như trên).

Đối với Tokman (1989), người lao động thuộc khu vực phi chính thức là những người không đủ trình độ để được nhận vào làm những công việc được trả lương vốn đã khan hiếm do thiếu đầu tư sản xuất. Ngược lại, theo de Soto (1986), các doanh nhân nhỏ trong khu vực phi chính thức có thể phát triển và quản lí các công ty lớn hơn. Các quy định về pháp luật và gánh nặng chi phí hành chính là một rào cản lớn đối với sự phát triển của họ.

Trong khi không có nhà nghiên cứu nào nghi ngờ sự tồn tại của một bộ phận các cơ sở quy mô nhỏ ở các nước đang phát triển có khả năng tăng trưởng đạt tới quy mô lớn hơn, thì lại có rất ít nghiên cứu xem xét các yếu tố kinh tế vi mô có tính quyết định tới quá trình "vượt vũ môn" này. Các nghiên cứu ít ỏi hiện tại cho các kết quả mâu thuẫn nhau và rất nhạy cảm đối với các phương pháp nghiên cứu được sử dụng. Vì vậy, Mel, McKenzie và Woodruff (2008), dựa trên dữ liệu mảng của các cuộc điều tra hộ gia đình ở Sri Lanka, cho thấy khoảng 2/3 đến 3/4 người lao động độc lập có đặc điểm giống người làm công ăn lương nhiều hơn là các ông chủ của các công ty lớn. Các tác giả kết luận tiếp cận tín dụng không phải là hạn chế duy nhất đối với sự tăng trưởng của các cơ sở quy mô nhỏ. Ñopo và Valenzuela (2007) sử dụng dữ liệu mảng của điều tra CASEN với các hộ gia đình tại Chile trong việc phân tích hệ quả của việc chuyển từ người lao động hưởng lương thành các doanh nhân. Sử dụng các kĩ thuật ghép cặp để tạo hiện tượng “phản thực”, các tác giả thấy lợi ích dương và có ý nghĩa thống kê còn trong trường hợp chuyển đổi ngược chiều thì thu nhập giảm.

2. Cuộc khảo sát ENAHO: điều tra sử dụng panel ghép cặp hộ gia đình, cá nhân và các cơ sở sản xuất

Để đồng thời xem xét các động thái của đói nghèo và cơ sở quy mô nhỏ không chỉ cần có các dữ liệu mảng mà còn cần thông tin về các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất của hộ gia đình đó. Các dữ liệu ghép cặp (cơ sở sản xuất

Page 89: Tải xuống Chương 3

411ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

và hộ gia đình) thường không có sẵn ở các nước đang phát triển. Theo hiểu biết của chúng tôi, phương pháp áp dụng tại các nước phát triển chưa được áp dụng cho các nước đang phát triển. Do cơ sở dữ liệu hành chính không đầy đủ và do quy mô của khu vực UPI lớn nên không xây dựng được cơ sở dữ liệu ghép cặp giữa dữ liệu công ty với dữ liệu cung lao động. Các cuộc điều tra hỗn hợp 1-2-3 cho phép đồng thời nghiên cứu các đặc điểm hộ gia đình và đặc điểm của UPI. Hiện nay, các Viện thống kê quốc gia tại hơn 30 quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, khu vực Mỹ Latin đã xây dựng các cuộc điều tra 1-2-3 (Nordman và Roubaud, 2010). Tại Peru, các cuộc điều tra quốc gia về hộ gia đình (ENAHO) từ năm 2001 đã đưa vào một mô-đun gọi là “nhà sản xuất độc lập” dựa trên cuộc điều tra 1-2-3 do DIAL xây dựng nhằm thu thập thông tin về đặc điểm của các cơ sở sản xuất nhỏ và người lao động độc lập được xác định trong mục việc làm, cả trong công việc chính và làm thêm (Herrera và những người khác, 2004). Vì vậy điều tra ENAHO có tính “hỗn hợp” thu thập thông tin về đặc điểm của cả UPI và của hộ gia đình. Đối với mỗi cơ sở sản xuất của hộ gia đình, người ta thu thập dữ liệu về mức độ phi chính thức, loại hình cơ sở vật chất, tiếp cận với các dịch vụ cơ bản, thâm niên, loại hoạt động, tiêu thụ trung gian (theo nơi mua hàng), doanh số bán hàng, điểm giao hàng, đặc điểm của lực lượng lao động. Mô-đun này khi tái dựng lại các đặc điểm của nhà sản xuất độc lập cho phép đo lường chắc chắn và chính xác hơn về thu nhập hỗn hợp. Một đặc thù quan trọng của cuộc khảo sát này là nó có một mẫu phụ panel gồm theo các hộ gia đình, cá nhân và UPI. Trong ENAHO, mô-đun nhà sản xuất độc lập áp dụng cho tất cả các ông chủ của UPI ngay tức thời, không có độ trễ. Điều này cho phép thu được mẫu đủ lớn về UPI, qua đó cho phép hình dung chi tiết về UPI. Ví dụ, năm 2009, mẫu gồm 21.753 hộ gia đình, 96.440 cá nhân và 15.541 UPI (Hình 1).

Ngoài mô-đun nhà sản xuất độc lập, ENAHO còn có các mục về đặc điểm nhà ở (vật liệu, tiếp cận dịch vụ, chi tiêu hộ gia đình, các chương trình xã hội…) và các mục khác liên quan đến cá nhân (giáo dục, y tế, công việc, quản trị, dân chủ và tham nhũng) (Xem Hình 1). Từ đầu những năm 2000 đã có cải tiến: tăng cỡ mẫu để đảm bảo tính đại diện cho đơn vị hành chính vào năm 2001, chuyển sang khảo sát liên tục hàng tháng trong năm 2003, cải thiện bảng câu hỏi trong năm 2004, làm mới mẫu trong năm 2007; thay đổi panel thay vì cố định từ năm 2007.

Page 90: Tải xuống Chương 3

412 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Hình 1: Cấu trúc điều tra ENAHO 2009 và cỡ mẫu

Tất cả các hộ

Giám đốc UPI và lao động độc lập

-không đăng ký -không kế toán

14 tuổi hoặc hơn

ENAHO 2009

TỔNG SỐ MẪU

• Hộ= 21,753 • Cá nhân= 96,440

----------- PANEL

• Hộ= 6,926 • Cá nhân= 33,275

Phỏng vấn chủ

hộ hoặc vợ/chồng

MODULE VIỆC LÀM

Định nghĩa lao động theo tiêu chí BIT

Tính đến Việc làm chính Việc làm thêm

TỔNG SỐ MẪU

Lao động =: 46,516 ----------- PANEL

Lao động = 14,780

Phỏng vấn trực tiếp cá nhân 14 tuổi

hoặc hơn

Giai đoạn 1

Phỏng vấn

trực tiếp giám đốc UPI

ĐƠN VỊ SẢN XUẤT UPI

Đặc điểm của

UPI TỔNG SỐ MẪU

15,541 ----------- PANEL 4,868

Giai đoạn 2 Giai đoạn 3

MODULE CHI TIÊU

Định nghĩa lao động theo tiêu chí BIT

Tính đến Việc làm chính Việc làm thêm

TỔNG SỐ MẪU

Lao động =: 46,516 ----------- PANEL

Hộ =6,926

Phỏng vấn chủ

hộ hoặc vợ/chồng

Nguồn: ENAHO, 2009, tính toán của tác giả.

Do đặc thù liên quan đến mùa vụ nông nghiệp và thiên tai, các hộ gia đình nông thôn không được đưa vào trong mẫu. Do đó, mẫu chỉ có các UPI phi nông nghiệp đô thị. Trong định nghĩa về UPI và việc làm trong khu vực phi chính thức, chúng tôi theo các khuyến nghị của Hội nghị lần thứ 15 của các nhà thống kê lao động và phiên bản mới nhất của Hệ thống Tài khoản Quốc gia 2008 (ILO, năm 1993, SNA, 2008). Trong giai đoạn 1 (mục việc làm được áp dụng cho tất cả những người từ 14 tuổi trở lên), các câu hỏi về loại nghề nghiệp (người sử dụng lao động hoặc ông chủ, người lao động tự làm chủ, công nhân hoặc nhân viên, người lao động làm việc tại gia đình không được trả lương, người giúp việc nhà) và câu hỏi về sổ sách, kế toán công ty nơi họ làm việc qua đó xác định được các chủ UPI và người lao động độc lập

Page 91: Tải xuống Chương 3

413ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

để áp dụng mô-đun với UPI. Câu hỏi chi tiết hơn về đăng kí kinh doanh và kế toán được đề cập trong mô-đun chuyên biệt này. Tiêu chí xác định tương tự được áp dụng cho người lao động có việc làm thêm. Khoảng 15% có việc làm thêm và một tỉ lệ đáng kể (trung bình 60% trong giai đoạn 2002-2010) làm việc trong UPI. Bỏ qua việc làm thêm sẽ dẫn đến đánh giá thấp khu vực phi chính thức về phương diện việc làm và giá trị gia tăng. Như vậy chúng tôi xây dựng một panel gồm 103.840 hộ gia đình trong giai đoạn 2002-2010 bao gồm các hộ gia đình có chung ít nhất một cá nhân trong hai năm. Panel này tạo cơ sở cho việc phân tích động, trình bày trong phần 4 và 5 của bài viết này.

3. Đặc điểm của khu vực phi chính thức ở Peru

Trong phần này chúng tôi xem xét đặc điểm của các cơ sở sản xuất và của người lao động trong khu vực phi chính thức và diễn biến của họ theo thời gian. Quy mô nhỏ (đo bằng số lượng người lao động) của UPI có lẽ là điểm nổi bật nhất đến mức từ lâu đặc điểm này được sử dụng như là một “dấu hiệu” của khu vực kinh tế phi chính thức. Quy mô trung bình của UPI đô thị vẫn không đổi trong suốt toàn bộ giai đoạn 2004-2010 (trung bình 1,6 lao động/UPI) có tăng nhẹ (so với 1,5 trong thời kỳ 2002-2003). Thú vị hơn, người lao động được trả lương trong năm 2010 chiếm 13% tổng số lao động của UPI và tỉ lệ này ổn định trong suốt giai đoạn phân tích. Quy mô của UPI có vẻ lớn hơn trong ngành công nghiệp (trung bình 1,8 trong các năm 2002-2008) và trong thương mại (1,6) và dịch vụ (1,4). Các UPI có các hoạt động hỗn hợp (nhiều hơn một ngành) có quy mô cao hơn đáng kể (2,3). Trung bình trong giai đoạn 2002-2010, thương mại chiếm gần một nửa số người lao động của các UPI trong khi 1/3 làm trong lĩnh vực dịch vụ và 17,9% trong ngành công nghiệp.

Các tính năng nổi bật khác của UPI là tính không đồng nhất. Một số UPI có đặc điểm gần với các công ty chính thức trong khi các UPI khác thì phải “chạy ăn từng bữa”. Các UPI không có địa điểm hoạt động chiếm hơn một nửa, gần 1/5 hoạt động tại nhà không có phòng riêng và 1/4 làm việc tại địa điểm

Page 92: Tải xuống Chương 3

414 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

cố định dành riêng để làm việc. Số lượng các UPI không địa điểm làm việc tỏ ra khá ổn định trong nhiều năm mặc dù có tăng nhẹ. Ngoài dịch vụ cung cấp điện, hiện chiếm 2/3 số UPI, trong nhóm các UPI đô thị thì số UPI mức độ sử dụng các dịch vụ công khác là rất thấp. Trong năm 2010, chưa đến một phần ba (28,1%) sử dụng dịch vụ nước sạch, chỉ có 14,7% dùng dịch vụ thoát nước và chỉ có 7,1% có điện thoại. Mức độ sử dụng các dịch vụ công thấp phản ánh các điều kiện làm việc bấp bênh và là một yếu tố tác động tiêu cực đến năng suất của UPI. Các UPI không có cải thiện đáng kể nào trong giai đoạn kinh tế vĩ mô tăng trưởng cao. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, các dịch vụ này (và chi phí) được dùng chung với các hộ gia đình và chia sẻ với ngân sách gia đình. Trong năm 2010, chỉ có 25% số UPI không dùng chung nước uống, tỉ lệ không dùng chung là 35,9% với nước thải, 19,3% với điện và 42,7% với điện thoại. Một lần nữa, tỉ lệ này rất ổn định trong suốt thời gian phân tích.

Các UPI có thâm niên tương đối thấp và đây cũng là dấu hiệu của tình trạng dễ mất ổn định. Thâm niên trung bình của một IPU là 6 năm rưỡi trong năm 2010. Con số thống kê này có độ phân tán rộng, nếu nhìn vào chênh lệch giữa số trung bình này và số trung vị (4 năm). Giai đoạn tăng trưởng dường như đã mang tới hiện tượng “trẻ hóa” UPI: thâm niên trung bình giảm gần một năm trong giai đoạn 2004 và 2010 (từ 7,3 xuống 6,5 năm và một nửa số UPI có thâm niên 3 năm thay vì 4 năm). Chỉ có 1/5 số UPI vượt qua ngưỡng 10 năm tồn tại, một phần ba mới thành lập chưa quá một năm hoặc ít hơn và 1/4 được thành lập từ 5 đến 10 năm. Nếu phân tích thâm niên của UPI sâu hơn sẽ thấy các hộ gia đình không nghèo luôn có thâm niên cao hơn các hộ gia đình nghèo. Nhưng mức chênh lệch không cao.

Phần lớn (trung bình 86% trong giai đoạn 2004-2010) người lao động nghèo đô thị có một công việc chính trong khu vực phi chính thức. Tương tự như vậy, tỉ lệ nghèo của người lao động trong khu vực phi chính thức cao hơn ba lần so với cho người lao động khu vực chính thức (56,3% so với 17,6%). Hai thực tế này cho thấy sự cần thiết phân tích đồng thời tình trạng nghèo và phi chính thức. Tuy nhiên, còn có đặc điểm khác của khu vực phi chính thức: tính không đồng nhất trong phân phối thu nhập, gắn chặt với chênh lệch về năng suất.

Tỉ lệ người lao động nghèo trong khu vực phi chính thức trong ngành thương mại tính trung bình là 62,4%, cao hơn gần 10 điểm so với ngành công nghiệp và dịch vụ (tương ứng là 52,9 % và 53,6%). Diễn biến tỉ lệ nghèo của

Page 93: Tải xuống Chương 3

415ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

người lao động khu vực phi chính thức thay đổi theo ngành: giảm mạnh mẽ trong ngành công nghiệp và dịch vụ trong khi đối với thương mại, do dễ xin việc hơn, nên mức giảm tương đối khiêm tốn (Xem Bảng 2). Diễn biến không đều này diễn ra trong giai đoạn tăng trưởng đã góp phần làm tăng tính không đồng nhất của khu vực kinh tế phi chính thức.

Bảng 1. Tỉ lệ nghèo của người lao động trong khu vực phi chính thức/chính thức đô thị và theo ngành (%)

Khu vực phi chính thứcKhu vực

chính thứcTổng số đô thịCông

nghiệpThương mại Dịch vụ Tổng

2004 58,2 66,4 57,3 60,6 22,4 48,3

2005 59,6 65,3 61,3 62,4 25,2 50,1

2006 56,5 63,8 55,4 58,5 20,2 45,4

2007 54,4 61,4 54,7 56,8 16,0 42,5

2008 52,1 60,8 50,8 54,3 16,1 40,5

2009 47,5 60,2 51,2 53,1 14,7 39,1

2010 45,8 59,6 47,3 50,7 12,8 37,1

Trung bình2004-2010

52,9 62,4 53,6 56,3 17,6 42,9

Nguồn: ENAHO 2004-2010 (series cũ), INEI; tính toán của tác giả.Lưu ý: Người lao động có lao động thu nhập thấp hơn thu nhập cần thiết để mua

giỏ tiêu dùng được sử dụng để xác định chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo bằng giá trị của giỏ tiêu dùng chia cho mức trung bình lương của người đi làm trong mỗi hộ gia đình. Người lao động không có thu nhập (người giúp việc gia đình) không được đưa vào tính toán.

Hình 2 cho thấy sự thay đổi tỷ số thu nhập trung bình và trung vị của người lao động khu vực phi chính thức so với chuẩn nghèo1. Có nhiều điều đáng lưu ý. Đầu tiên, trái với quan niệm phổ biến về một khu vực phi chính thức không thể tạo ra thu nhập cao hơn mức nghèo đói, chúng ta thấy rằng tính trung bình thu nhập lao động cao hơn chuẩn (cá nhân) nghèo 31% trong

1 Giá trị ngưỡng nghèo (chi phí giỏ tiêu dùng cơ bản) của hộ chia cho số trung bình những người có thu nhập/hộ.

Page 94: Tải xuống Chương 3

416 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

giai đoạn 2004-2010. Mức chênh lệch giữa các giá trị trung bình và trung vị cũng phản ánh tính không đồng nhất trong từng ngành. Sự tương phản giữa “thương mại” và các ngành khác phản ánh năng suất thấp trong ngành này.

Ngoài sự khác biệt theo ngành, thu nhập của người lao động khu vực phi chính thức khác nhau tùy theo tình trạng việc làm. Trong giai đoạn 2004-2010, chủ các UPI có mức thu nhập trung bình cao hơn 3,5 lần mức chuẩn nghèo trong khi đó người lao động độc lập thu nhập chỉ vượt chuẩn nghèo 29%. Tình hình của người lao động phụ thuộc trong khu vực phi chính thức là thuận lợi hơn một chút (trung bình 28% trên mức nghèo trong giai đoạn 2004-2010), nhưng có sự tương phản lớn giữa các nhân viên quản lí và công nhân (thu nhập lần lượt cao hơn 41% và 20% mức nghèo đói).

Hình 2. Tỷ số thu nhập lao động/ngưỡng nghèo của lao động khu vực UPI đô thị

Trung bình Trung vị

1

1.2

1.4

1.6

1.8

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

công nghiệp thương mại dịch vụ

0.50.60.70.80.9

11.11.2

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

công nghiệp thương mại dịch vụ

Nguồn: ENAHO 2004-2010, INEI; tính toán của tác giả.

Đường cong mật độ Kernel của giá trị gia tăng trên 1 giờ của tất cả các lao động có thu nhập trong khu vực phi chính thức trong năm 2009 được tính toán cho các ngành khác nhau. Chênh lệch về năng suất nhìn thấy rõ ràng khi phân tích mức độ phân tán và mức chênh lệch các giá trị trung bình. Khi quan sát thấy mức độ tập trung nhiều của năng suất ở phần dưới của phân phối, người ta thấy có tỷ lệ lớn các UPI có năng suất thấp trong các ngành thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, tất cả các ngành đều có mức

Page 95: Tải xuống Chương 3

417ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

độ phân tán lớn trong phân bố năng suất, qua đó xác nhận tính không đồng nhất của UPI.

Hình 3: Tính không đồng nhất về năng suất của các cơ sở sản xuất cá thể quy mô siêu nhỏ, 2009

0

.05

.1

.15

.2 Mật độ

0 5 10 15 20 25 30

Công nghiệp

Soles trả theo giờ làm việc

0 .05 .1 .15 .2

Mật độ

0 5 10 15 20 25 30

Thương mại

0

.05

.1

.15 Mật độ

0 5 10 15 20 25 30

Dịch vụ

0

.05

.1

.15

.2 Mật độ

0 5 10 15 20 25 30

Tổng

Soles trả theo giờ làm việc

Soles trả theo giờ làm việc

Soles trả theo giờ làm việc

Nguồn: 2009 ENAHO, INEI, tính toán của tác giả.

Khi kiểm tra cấu trúc trung bình (2006-2010) của thu nhập của hộ gia đình đô thị Peru (Bảng 2) có thể xác nhận rằng, cho đến nay thu nhập lao động là nguồn thu nhập chính của họ (64,6% tổng số). Trong khi việc làm chính thức chiếm chưa đến 40% tổng số nhưng nó lại chiếm hơn một nửa (56,9%) thu nhập lao động (trừ thu nhập nông nghiệp). Vì vậy chênh lệch thu nhập giữa khu vực chính thức và phi chính thức là đáng kể. Hộ gia đình nghèo có cơ cấu thu nhập khác với các hộ gia đình không nghèo. Tỉ trọng thu nhập từ khu vực phi chính thức là cao hơn nhiều: Các hộ nghèo có 72,5% so với 41% (trừ thu nhập nông nghiệp). Thu nhập của khu vực nông lâm thủy hải sản (nông nghiệp, đánh cá…) chiếm 11,9% tổng thu nhập của các hộ gia đình này (so với 5,4% của các hộ nghèo), qua đó làm gia tăng tính dễ bị tổn thương do thu nhập trong các ngành này dao động nhiều hơn so với ngành công nghiệp hoặc dịch vụ. Trong việc tái phân phối thu nhập thì vai trò của

Page 96: Tải xuống Chương 3

418 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

tư nhân và nhà nước để giảm khoảng cách giữa hộ nghèo và không nghèo đều giảm dần. Tỉ trọng của các khoản thu nhập tái phân phối trong tổng thu nhập ở các hộ gia đình nghèo và không nghèo gần như giống nhau (lần lượt là 10,6% và 10,7%). Việc phân tích bóc tách tình trạng bất bình đẳng thu nhập bằng cách sử dụng các phương pháp do Shorrocks2 cũng cho thấy rằng thu nhập từ lao động là nguồn chính tạo ra bất bình đẳng thu nhập, chiếm hơn một nửa (66%) tổng số bất bình đẳng. Cần lưu ý rằng thu nhập từ khu vực chính thức tạo ra 3/4 tình trạng bất bình đẳng liên quan đến việc làm và rằng sự đóng góp của khu vực kinh tế phi chính thức (10,6%) thấp hơn tỉ trọng doanh thu của khu vực này trong tổng doanh thu. Tuy nhiên, như sẽ thảo luận dưới đây, có sự không đồng nhất đáng kể trong khu vực phi chính thức và điều này tác động đến động thái của tình trạng nghèo. Các khoản thu nhập tái phân phối qua kênh nhà nước làm tăng sự bất bình đẳng thu nhập 8,4 điểm trong khi các khoản thu nhập tái phân phối qua kênh tư nhân tăng chỉ làm tăng 3,6 điểm.

Bảng 2. Cấu trúc thu thập hộ đô thị theo nguồn thu nhập, giá trị trung bình 2006-2010

Cấu trúc theo nguồn thu nhập Bóc tách bất bình đẳng

(Shorrocks)Tổng số hộ Hộ nghèo Hộ không nghèo

Thu nhập lao động 64,6% 61,0% 58,7% 66,0

- khu vực chính thức 33,5% 16,8% 34,6% 55,4

- khu vực phi chính thức 25,3% 44,2% 24,0% 10,6

- khu vực nông nghiệp 5,8% 11,9% 5,4% 7,5

Thu nhập tái phân phối tư nhân 10,7% 10,6% 10,7% 3,6

Thu nhập tái phân phối nhà nước 9,1% 6,3% 9,3% 8,4

2 Sau khi chọn chỉ số entropie tổng hợp làm chỉ số bất bình đẳng (chính là hệ số biến thiên bình phương), việc triển khai số học sẽ có kết quả chính xác. Tổng số bất bình đẳng được biểu diễn bằng tổng các bất bình đẳng của từng nguồn thu nhập. Quy tắc triển khai như sau: sf = rf * [m(nguồn f )/m(tổng thu nhập)]*[CV(nguồn f )/CV(tổng thu nhập, trong đó rf là hệ số tương quan giữa nguồn thu nhập f và tổng thu nhập Y; CV là hệ số biến thiên và m là giá trị trung bình của nguồn f. Tổng của các Đóng góp tương đối bằng 1. Nguồn f sẽ có đóng góp dương nếu làm tăng bất bình đẳng và âm trong trường hợp ngược lại (Shorrocks, 1982).

Page 97: Tải xuống Chương 3

419ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Lãi tiền gửi 3,3% 0,9% 3,5% 6,7

Tiền thuê nhà 10,4% 7,7% 10,6% 6,7

Các khoản khác 1,9% 1,7% 1,9% 1,3

Tổng 100,0% 100,0% 100,0% 100,0

Nguồn: ENAHO 2006-2010, INEI, tính toán của tác giả.

Fields (2008) đề xuất một phương pháp khác để bóc tách bất bình đẳng thu nhập dựa trên phân tích hồi quy các yếu tố quyết định khác nhau của thu nhập3. Áp dụng phương pháp bóc tách này vào các dữ liệu khảo sát người lao động ENAHO năm 2002 về khu vực phi chính thức đô thị, chúng tôi đã chỉ ra rằng gần 1/3 (30%) phương sai của thu nhập lao động của người lao động Peru trong khu vực phi chính thức được giải thích bởi phương trình thu nhập là có liên quan đến các đặc điểm của UPI, 34% các đặc điểm cá nhân, 27% đặc điểm hộ gia đình và 9% còn lại các đặc điểm của khu phố mà người lao động cư trú (Herrera, 2008). Những kết quả này xác nhận tầm quan trọng của các đặc điểm của các cơ sở sản xuất đối với việc tìm hiểu các yếu tố quyết định bất bình đẳng về thu nhập chính, vốn là các nguồn thu nhập chính của hộ gia đình và đây chính là chìa khóa để tìm hiểu mối liên hệ giữa nghèo đói và thị trường lao động.

Tính không đồng nhất trong phân phối thu nhập của người lao động khu vực phi chính thức với sự hiện diện của một phân khúc quy mô lớn có thu nhập thấp, phân khúc trung lưu có mức thu nhập xung quanh ngưỡng nghèo và một số ít có thu nhập cao cũng được biểu hiện thông qua các nguyên nhân khác nhau khiến chủ các cơ sở sản xuất và người lao động độc lập quyết định tự tạo ra công ăn việc làm cho bản thân. Các kết quả liên quan đến nguyên nhân tình trạng phi chính thức ở Peru củng cố quan điểm về một khu vực chính thức được chấp nhận miễn cưỡng vì không có lựa chọn xin việc được hưởng lương và một UPI được lựa chọn tự nguyện vì được kỳ vọng có thu nhập cao hơn. 56% (năm 2010) lao động làm việc trong khu vực phi chính thức vì họ không tìm được việc làm hưởng lương. Các kết quả cũng

3 Cách tiếp cận này chỉ rõ mức đóng góp của từng yếu tố, cô lập hiệu ứng của các yếu tố khác có thể tác động đến bất bình đẳng. Sau khi chạy hàm hồi quy, mức đóng góp của từng yếu tố được tính như sau: s= COV[a; X; Y]/ s (y) = a * X * r [X, y] trong đó y là log của thu nhập, a là vector của các hệ số (= a, b); r là hệ số tương quan (Fields, 2008).

Page 98: Tải xuống Chương 3

420 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

xác nhận sự tồn tại của một phân khúc khá lớn đã tự quyết định thành lập UPI vì theo những người được phỏng vấn, họ hy vọng có thu nhập cao hơn (28,3% năm 2010) hoặc bởi họ muốn làm việc độc lập và không bị ràng buộc bởi mối quan hệ công việc bó buộc ở Peru (12,5%) hoặc do truyền thống gia đình (3,2%).

Những người lao động trong khu vực phi chính thức có khác những người lao động trong khu vực chính thức không? Trình độ học vấn là một trong những yếu tố khác biệt rõ ràng giữa người lao động khu vực phi chính thức và người lao động trong khu vực chính thức. Gần một phần tư (24,7%) người lao động khu vực phi chính thức không học cao hơn mức tiểu học, trong khi chỉ có 4,7% trường hợp này trong khu vực chính thức. Hơn 60% người lao động chính thức có trình độ đại học, cao gấp đôi khu vực phi chính thức (23,8%). Điều này phù hợp với nhận thức về khu vực chính thức như là một khu vực việc làm có chất lượng “có số lượng hạn chế” và chỉ dành cho những người có trình độ. Không thấy có sự khác biệt về độ tuổi trung bình, loại hộ gia đình (mở rộng hoặc không mở rộng), quy mô hộ gia đình, số người có thu nhập, hoặc số giờ làm việc hàng tuần, tình trạng sở hữu nhà. Có nhiều khác biệt liên quan đến giới tính (tỉ lệ phụ nữ trong khu vực phi chính thức cao), tình trạng hôn nhân của chủ hộ (sống chung nhiều hơn là kết hôn), thành phần hộ gia đình (tỉ lệ trẻ nhỏ tuổi cao hơn). Khác biệt còn ở số lượng tài sản của hộ gia đình (xe hơi, ti-vi, tủ lạnh), mức độ sử dụng các dịch vụ công (nước, thoát nước, điện thoại).

4. Động thái của cơ sở sản xuất quy mô nhỏ

Động thái kinh tế vĩ môTừ đầu những năm 2000, Peru có một giai đoạn tăng trưởng liên tục, và

tốc độ tăng trưởng gia tăng trong giai đoạn 2004-2010 (trung bình 5,6% tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người hàng năm). Sự tăng trưởng này đi kèm với mức giảm đáng kể đói nghèo, đặc biệt là ở khu vực thành thị (từ 37,1% xuống 19,1% trong cùng thời kỳ). Tại thành thị, tỉ lệ thất nghiệp chỉ bắt đầu giảm đáng kể từ năm 2006 khi tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm vượt

Page 99: Tải xuống Chương 3

421ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

quá 6%. Việc giảm tổng tỉ lệ thất nghiệp (công khai và ẩn4) trong cùng giai đoạn cũng đáng kể (từ 13,2% xuống 7,7%).

Một số tác giả nhấn mạnh các hành vi ngược chu kỳ của khu vực phi chính thức là gia tăng số người lao động trong thời gian khủng hoảng và giảm trong thời kỳ tăng trưởng. Trong trường hợp của Peru, thực tế này dường như đúng trừ một điểm khác: tỉ trọng việc làm khu vực phi chính thức giảm khi tăng trưởng vượt quá một ngưỡng nhất định (khoảng 4%). Tỉ trọng này đã giảm từ 69% năm 2004 xuống 62,3% năm 2010 (Hình 4)5. Ngược lại, từ năm 2004 đến 2010, tỉ trọng của người lao động khu vực tư nhân chính thức đã tăng lên đáng kể (từ 17,3% đến 22,5%) trong khi cấu trúc việc làm trong khu vực phi chính thức đã thay đổi. Như vậy, trong khi số người lao động độc lập chỉ tăng 12% giữa các năm 2004 và 2010, số lượng người sử dụng lao động và công nhân làm việc trong khu vực phi chính thức đã tăng lần lượt là 25,4% và 33,2%. Giai đoạn tăng trưởng mạnh dường như đã tạo ra tính không đồng nhất lớn hơn của khu vực kinh tế phi chính thức, phân khúc cao (cơ sở sản xuất có nhân viên hưởng lương) tăng trưởng nhanh hơn các phân khúc thấp (gồm người làm độc lập và các cơ sở không có nhân viên hưởng lương).

4 Thất nghiệp "ẩn" gồm những người không làm việc ít nhất là một giờ trong tuần tham chiếu; họ có thể làm việc nhưng không tìm việc vì họ cho rằng "không có việc làm". Thất nghiệp "công khai" gồm những người trong hoàn cảnh tương tự chỉ khác là họ tích cực tìm việc.5 Diễn biến này khá chắc chắn cho dù khu vực phi chính thức được định nghĩa thế nào.

Page 100: Tải xuống Chương 3

422 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Hình 4. Diễn biến kinh tế vĩ mô, nghèo đói, thất nghiệp và việc làm trong khu vực phi chính thức 2002-2010

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI; tính toán của tác giả.

Động thái kinh tế vi mô Hai quan điểm trái ngược nhau về động thái của khu vực kinh tế phi chính

thức thường xuất hiện trong các cuộc tranh luận. Một mặt, giống như Tokman (1989), một số tác giả coi quy mô của việc làm trong khu vực phi chính thức là kết quả của sự phân khúc của thị trường lao động, khiến người lao động có tay nghề thấp không tìm được việc hưởng lương. Mặt khác, theo phân tích của de Soto (1986), các tác giả khác quan niệm rằng doanh nhân nhỏ có khả năng tăng trưởng và phát triển. Các rào cản đối với sự phát triển này chủ yếu là do các quy định pháp luật cản trở việc thành lập công ty (“chi phí của tình trạng chính thức”) và các đặc điểm “cứng nhắc” khác về thể chế của thị trường lao động. Thêm vào đó là chi phí cơ hội thấp cho việc tham gia khu vực phi chính thức, điều này dẫn đến số lượng lớn các cơ sở có năng suất rất thấp, triển vọng tăng trưởng khiêm tốn và tỉ lệ giải thể cao (Fajnzylber và Maloney, 2007).

Bảng 3 trình bày giá trị trung bình trong giai đoạn 2002-2010 của các lần chuyển việc làm hàng năm. Đầu tiên, chúng tôi thấy rằng tình trạng thất nghiệp chỉ là tạm thời vì chỉ 20% số người vẫn ở trong tình trạng thất nghiệp từ năm này qua năm khác. Hầu hết trong số họ (34%) chuyển sang trạng thái không hoạt động (gồm một tỉ lệ khoảng 40% người lao động chán nản). Gần 1/3 (31,7%) chuyển sang hệ thống làm việc hưởng lương, điều này xác nhận giả thuyết về tình trạng thất nghiệp chờ đợi (hoặc “xa xỉ”) cho phép có

Page 101: Tải xuống Chương 3

423ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

thời gian để điều chỉnh trình độ và/hoặc mong đợi của người lao động. Chỉ có 14,6% thoát khỏi thất nghiệp để trở thành doanh nhân nhỏ. Người không hoạt động và người thất nghiệp rời khỏi tình trạng của họ chiếm 15,3% tổng số doanh nhân, trong khi người lao động hưởng lương trở thành doanh nhân nhỏ chiếm 19,8%. Làm việc hưởng lương dường như là cách quan trọng nhất để trở thành doanh nhân nhỏ, trong khi với một tỉ lệ tương đối nhỏ hơn, làm việc độc lập là một lối thoát khỏi tình trạng thất nghiệp hoặc không hoạt động. Quan điểm cho rằng khu vực phi chính thức của các cơ sở quy mô nhỏ chỉ là một nơi “trú ẩn” cho những người thất nghiệp và không hoạt động chỉ đúng một phần. Việc trở thành doanh nhân sau khi làm việc hưởng lương cho phép người lao động tích lũy vốn ban đầu cũng như kinh nghiệm và trình độ. Đây là những yếu tố có thể giúp hạn chế thất bại. Cuối cùng, chỉ một phần tư số doanh nhân quản lí hai UPI cùng thời điểm là còn hoạt động sau một năm và một nửa chỉ còn giữ một UPI duy nhất và 22,8% hoàn toàn chấm dứt hoạt động trên vai trò doanh nhân.

Bảng 3. Chuyển vị trí làm việc cá nhân, giá trị trung bình 2002-2010 (%)

Có 2 UPI Có 1 UPI Hưởng lương

Thất nghiệp

Không hoạt động

Tổng Tổng

Có 2 UPI 24,8 52,5 13,3 1,7 7,8 100 1,9

Có 1 UPI 4,5 62,4 19,0 3,8 10,3 100 23,2

Hưởng lương

0,7 14,1 68,9 5,5 10,8 100 35,2

Thất nghiệp

1,0 13,6 31,7 19,8 34,0 100 7,3

Không hoạt động

0,5 8,6 15,8 8,6 66,5 100 32,3

Tổng 2,0 24,2 36,4 7,1 30,3 100 100

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI; tính toán của tác giả.Ghi chú: thiếu dữ liệu của các năm 2007/2006 do kế hoạch điều tra mới sẽ tiến

hành đổi mới thành phần các đáp viên.

Bảng 4 cho thấy diễn biến tỉ lệ thành lập, giải thể và tồn tại, được tính dựa trên panel 2002-2010.Trước hết tỉ lệ giải thể là rất cao vì tính trung

Page 102: Tải xuống Chương 3

424 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

bình, 1/3 (35,4%) UPI đóng cửa trong các năm này. Tuy nhiên, tỉ lệ thành lập cao hơn một chút (trung bình 38%) bù lại cho tỉ lệ giải thể. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế liên tục, tỉ lệ thành lập luôn cao hơn tỉ lệ giải thể. Tuy nhiên, một điểm uốn, dường như xuất hiện giữa các năm 2004/2005, tức là khi tăng trưởng tăng tốc: tỉ lệ giải thể giảm hơn 4 điểm (từ 39,5% xuống 35,2%). Cũng trong cùng giai đoạn tăng trưởng rất mạnh này, tỉ lệ thành lập UPI giảm từ các năm 2007/2008, tức là các cơ hội tìm được việc làm được trả lương cao hơn đang gia tăng. Sự tăng trưởng mạnh mẽ và liên tục dường như có một hiệu ứng kép: một mặt nó làm tăng cơ hội tồn tại của các UPI và mặt khác nó làm giảm số lượng các cơ sở nhỏ thành lập vì có nhiều công việc hưởng lương hơn. Ngoài ra, mặc dù có số lượng tương đối thấp (8%) nhưng các doanh nhân phi chính thức sở hữu hai UPI lại có tỉ lệ đóng cửa cao hơn nhiều (49,1%) so với những người chỉ quản lí một UPI (33,1%).

Đại đa số những người đóng cửa UPI vẫn còn làm việc (63,8%) trong khi những người rút khỏi thị trường lao động chiếm 26%. Chỉ có 10,2% trở thành người thất nghiệp công khai hoặc thất nghiệp ẩn (người thất nghiệp “chán nản”). Tỉ lệ những người lao động duy trì được hoạt động của UPI của họ (53%) và tạo được thu nhập lao động trên ngưỡng nghèo cao hơn những người lao động đã bỏ hoặc thành lập một (hoặc hai) UPI (trung bình lần lượt là 44,6 và 43,9% trong giai đoạn 2002-2010). 19% những người thành lập một UPI không tạo ra đủ số giờ làm việc (tình trạng không đủ việc làm “công khai”) trong ngành kinh doanh chính của họ. Điều này phản ánh sự thiếu thốn các phương tiện sản xuất.

Bảng 4. Diễn biến của tỉ lệ giải thể, thành lập, và sống sót của UPI, 2002-2010 (%)

Trung bình 2002/2010

2003/2002

2004/2003

2005/2004

2006/2005

2008/2007

2009/2008

2010/2009

Tỉ lệ giải thể 35,4% 31,0% 34,8% 39,5% 37,9% 35,9% 36,1% 35,2%

Tỉ lệ thành lập 38,0% 40,8% 37,9% 40,7% 40,4% 36,9% 37,3% 36,8%

Tỉ lệ sống sót 64,6% 69,0% 65,2% 60,5% 62,1% 64,1% 63,9% 64,8%

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI, tính toán của tác giả.Lưu ý: Thiếu dữ liệu trong các năm 2007/2006 do kế hoạch khảo sát mới tiến

hành đổi mới danh sách panel.

Page 103: Tải xuống Chương 3

425ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

5. Tác động của động thái của khu vực kinh tế phi chính thức đối với động thái của nghèo đói

Trong phần này, chúng tôi phân tích chi tiết động thái của các cơ sở quy mô nhỏ thông qua hai câu hỏi chính sẽ được thảo luận lần lượt:

- Thứ nhất, các yếu tố liên quan đến việc thành lập, giải thể hoặc tồn tại của các cơ sở quy mô nhỏ là gì? Để trả lời câu hỏi này sẽ cần so sánh các đặc điểm cá nhân của doanh nhân nhỏ tùy theo việc UPI của họ được thành lập trong năm điều tra, đã đóng cửa hoặc vẫn tồn tại.

- Thứ hai, mối quan hệ giữa các động thái của các cơ sở quy mô nhỏ và của nghèo đói là gì, đây là vấn đề mà vẫn còn rất ít nhà kinh tế nghiên cứu do thiếu dữ liệu mảng để phân tích đầy đủ các mối tương quan giữa hai biến này.

Chân dung doanh nhân nhỏ từ góc độ bối cảnh giải thể, thành lập và tồn tại của UPI

Các doanh nhân nhỏ thất bại có đặc điểm gì khác những người vẫn duy trì cơ sở quy mô nhỏ? Những người sáng lập có có đặc điểm riêng gì không? và các cơ sở này có những đặc điểm cụ thể gì? Để trả lời câu hỏi này chúng ta so sánh ba loại cơ sở nhỏ trên phương diện đặc điểm cá nhân, gia đình và cơ sở sản xuất của họ (Bảng 5). Cột đầu tiên cho thấy các đặc điểm trung bình của doanh nhân nhỏ là những người bị mất ít nhất một UPI trong khi cột 2 và 3 cho thấy mức độ ý nghĩa thống kê của các khác biệt so với các khác biệt của doanh nhân vi mô có UPI tồn tại trong hai giai đoạn.

Chân dung cá nhân điển hình của các doanh nhân và các UPI thất bại (so với những UPI sống sót) là: đây thường là những phụ nữ trẻ, những người sống trong các gia đình đông người và nhiều thế hệ, tức là các cá nhân sống trong tình trạng bấp bênh hơn, kiếm thêm thu nhập cho hộ gia đình. Họ cũng có ít kinh nghiệm hơn (6,2 năm so với 8,9 năm của những người có UPI còn tồn tại). Nghịch lí là các doanh nhân nhỏ này có trình độ học vấn cao hơn một chút, trong đó những người có trình độ đại học chiếm tỉ lệ cao). Vốn con người của hộ gia đình (được đo bằng tổng số lũy kế các năm học so với tổng tiềm năng có thể đạt được ở độ tuổi của các thành viên) cũng cao hơn vốn của các hộ gia đình vẫn duy trì được UPI trong hai giai đoạn liên tiếp. Các kết quả này

Page 104: Tải xuống Chương 3

426 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

có thể là do đây là những người có kiến thức và trình độ tốt nhất và cũng là những người có thể dễ dàng “thoát khỏi” khu vực phi chính thức, hoặc bằng cách “chọn” thất nghiệp để đợi chờ cơ hội việc làm tốt hơn trong khu vực chính thức. Cuối cùng, một tỉ lệ cao hơn của những người sống ở các thành phố và thị trấn, những nơi mang đến triển vọng di chuyển việc làm lớn hơn.

Bảng 5. Chân dung cá nhân của người lao động trong khu vực phi chính đô thị theo nhân khẩu của UPI

Chân dung

Mất UPI(s) Thành lập UPI(s)Sống sót

Tổng Ý nghĩa thống kê Tổng Ý nghĩa thống kê

(1) (2/1) (3/1) (2) (3/2) (3)

Tuổi 40,0 *** +++ 38,6 *** 43,6

Giới tính

Nam 47,1 +++ 46,6 *** 51,8

Nữ 52,9 +++ 53,4 *** 48,2

Tình trạng gia đình

Có gia đình 37,1 +++ 36,4 *** 43,1

Sống chung không kết hôn 22,5 +++ 22,7 *** 25,6

Khác 40,4 +++ 41,0 *** 31,3

Trình độ học vấn

Các năm học 10,0 +++ 10,1 *** 9,4

Tiểu học 24,0 +++ 22,7 *** 29,7

Trung học 44,4 46,1 44,4

Cao đẳng 15,0 + 15,9 *** 13,5

Đại học 16,6 +++ 15,3 *** 12,3

Ngành 1/

Sản xuất 17,5 *** 21,0 *** 16,7

Thương mại 31,7 *** +++ 25,8 *** 38,4

Dịch vụ 50,8 * +++ 53,2 *** 44,9

Số năm kinh nghiệm 6,2 *** +++ 5,2 *** 8,9

Thu nhập việc làm (trung bình tháng) 793 *** ++ 951 932

Đặc điểm của hộ Tỉ lệ nghèo 22,7 22,8 22,1

Page 105: Tải xuống Chương 3

427ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Vốn con người 20,2 ** +++ 22,1 *** 17,2

Quy mô hộ 5,0 +++ 5,0 *** 4,8

Quy mô địa phương

Hơn 100,000 nhà 53,0 +++ 53,3 *** 49,2

Từ 20,001 đến 100,000 nhà 21,5 + 21,4 * 23,0

Từ 10,001 đến 20,000 nhà 5,0 ++ 5,2 ** 6,2

Từ 4,001 đến 10,000 nhà 8,3 7,8 8,5

401 đến 4,000 nhà 12,2 12,3 13,2

Dạng hộ

Nhiều thế hệ 31,5 ++ 31,7 ** 29,0

Hai thế hệ 53,9 +++ 55,0 ** 58,0

Sử dụng các dịch vụ công

Nước 91,4 90,6 91,9

Nước thải 81,3 80,9 82,9

Điện 98,6 98,6 98,1

Internet 15,5 14,7 13,0

Điện thoại cố định 25,1 24,2 25,4

Đặc điểm của các UPIs

Số giờ trung bình làm việc hàng tuần 47,6 49,1 50,3

Số trung bình nhân viên 1,7 1,7 1,7

Thu nhập (trung bình hàng tháng) 2/ 566,0 776,8 663,9

Thu nhập (trung bình hàng tháng) 3/ 62,6 ++ 84,8 87,1

Giá trị gia tăng (trung bình hàng tháng) 354,3 ** +++ 475,3 507,7

Nơi làm việc

Không có phòng làm việc 52,6 *** +++ 38,3 *** 48,6

Thâm niên 6,1 ** +++ 7,1 *** 9,0

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI, tính toán của tác giả.Ghi chú: 1 / loại trừ hoạt động khai thác mỏ và nông nghiệp 2 / trung bình chỉ gồm người lao động hưởng lương. 3 / trung bình gồm cả người lao động có thu nhập và người lao động

không có thu nhập.

Page 106: Tải xuống Chương 3

428 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Không thấy có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê nào liên quan đến tỉ lệ nghèo ở cấp hộ gia đình, cũng như việc sử dụng các dịch vụ công. Đối với các đặc điểm của UPI và như dự kiến, UPI tồn tại có năng suất cao hơn. Như vậy, giá trị gia tăng trên mỗi giờ làm việc của UPI tồn tại cao hơn 27% giá trị gia tăng của các cơ sở nhỏ đã chấm dứt hoạt động. Nhưng lợi nhuận của các cơ sở là quan trọng nhất vì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quy mô (số lượng lao động). Dạng cơ sở vật chất liên quan chặt chẽ với sự tồn tại và thành lập của UPI. Hơn một nửa số doanh nhân nhỏ giải thể UPI không có phòng làm việc. Chỉ có 38,3% số người tạo ra một UPI và 48,6% các UPI tồn tại qua hai giai đoạn liên tiếp là nằm trong tình huống này.

Nếu chân dung điển hình của doanh nhân nhỏ giải thể cơ sở và các doanh nhân còn tồn tại là khá khác nhau, thì các doanh nhân nhỏ giải thể cơ sở giống những người thành lập UPI. Các yếu tố duy nhất khác biệt dường như là ngành hoạt động (có nhiều UPI đóng cửa từng hoạt động trong ngành thương mại), vốn con người và năng suất lao động (thấp ở các UPI thất bại). Một cách logic, sự so sánh chân dung của những người thành lập UPI với những người còn tồn tại thường dẫn đến sự tương phản giống như khi so sánh giữa những người đóng cửa cơ sở và những người còn duy trì được. Có một vài ngoại lệ đáng chú ý trong ngành hoạt động (trong công nghiệp và dịch vụ) và không có sự khác biệt về năng suất theo giờ.

Động thái của các cơ sở quy mô nhỏ và của tình trạng nghèo đóiTrong bảng 6, tình trạng nghèo đi được so sánh chéo với diễn biến

khác nhau của các cá nhân trong mối quan hệ với UPI của họ. Tình trạng nghèo được xem xét ở cấp độ cá nhân chứ không phải ở cấp độ hộ gia đình. Một người lao động được coi là nghèo tại thời điểm t nếu thu nhập của họ kiếm được thấp hơn chi phí của giỏ tiêu dùng tính cho hộ gia đình và số người có thu nhập. So với những người duy trì được UPI, các cá nhân đóng cửa UPI chiếm đa số những người rơi vào tình trạng nghèo. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các cá nhân thành lập và những người giải thể UPI, bất kể việc họ rơi vào tình trạng nghèo như thế nào.

Page 107: Tải xuống Chương 3

429ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Bảng 6. Quá trình nghèo đi và động thái của doanh nhân nhỏ (%)

Chuyển nghèo Giải thể Thành lập Sống sót Tổng

Không nghèo- Không nghèo 45,2 45,9 44,0 44,8

nghèo – không nghèo 19,2 20,6 20,9 20,4

Không nghèo - nghèo 20,4** 18,6 17,8 18,6

Nghèo- nghèo 15,2* 14,9*** 17,4 16,2

Tổng 100 100 100 100

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI, Tính toán của tác giả.Lưu ý: quá trình chuyển nghèo dựa vào thu nhập lao động của các cá nhân.

Có ít nghiên cứu về động thái của nghèo đói ở các nước đang phát triển6 và càng ít nghiên cứu phân tích đồng thời động thái của cơ sở có quy mô nhỏ và sự nghèo đói. Có một ngoại lệ là nghiên cứu của Devicienti, Groisman và Poggi (2009) sử dụng các panel hộ gia đình từ cuộc Điều tra Thường xuyên về Việc làm Argentina (EPA) do Viện Thống kê thực hiện trong giai đoạn 1996-2003. Các tác giả ước tính một mô hình probit hai biến động với hiệu ứng ngẫu nhiên xem xét đồng thời các nguy cơ đói nghèo và khả năng tìm được việc làm trong khu vực phi chính thức. Người lao động làm việc trong các cơ sở sản xuất nhỏ có nhiều khả năng sống trong nghèo đói hoặc làm việc trong khu vực phi chính thức. Các cơ sở có quy mô nhỏ có đặc điểm là năng suất thấp và tỉ lệ phi chính thức cao. Để tiếp tục nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất xem xét mối tương quan giữa quá trình chuyển đổi nghèo có tính đến động thái của các cơ sở có quy mô nhỏ tại Peru.

Phát hiện trong khuôn khổ hai biến của bảng 5 được xác nhận ở mức độ nào trong một khuôn khổ đa biến khi ước tính mô hình logit đa thức giải thích quá trình chuyển đổi của nghèo đói theo các đặc điểm của cá nhân, hộ gia đình và cơ sở sản xuất của họ? Chúng tôi không cố gắng thiết lập liên kết nhân quả giữa các động thái của đói nghèo và của các cơ sở có quy mô nhỏ (chúng ta cũng có thể dễ dàng cảm nhận rằng quan hệ nhân quả có hai chiều, và hai hiện tượng này có tác động qua lại). Mục tiêu ở đây khiêm tốn hơn, tức

6 Xem Herrara và Roubaud (2007) tổng kết về những nghiên cứu này.

Page 108: Tải xuống Chương 3

430 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

là chỉ kiểm tra xem tương quan này có còn tồn tại hay không sau khi tính đến các biến khác cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi nghèo. Chúng tôi chỉ phân tích người lao động đô thị.

Biến phụ thuộc là một biến định tính với bốn dạng thức, tương ứng với từng quá trình chuyển đổi nghèo có thể có: không nghèo-không nghèo, nghèo-không nghèo, không nghèo-nghèo, nghèo-nghèo. Do xác suất của cả bốn trường hợp bằng 1, nên ước tính mô hình logit đa thức có thứ tự là phương thức phù hợp nhất và một dạng thức dùng có thể dùng làm tham chiếu cho các dạng khác. Chúng tôi chọn dạng thức không nghèo-không nghèo để dễ đọc kết quả liên quan đến việc bị rơi vào nghèo đói và sống thường xuyên trong cảnh nghèo đói và dạng thức nghèo-nghèo làm tham chiếu cho việc “thoát nghèo”. Các hệ số ước tính được thể hiện dưới hình thức “odd ratios” (có giá trị không phụ thuộc vào giá trị của các biến giải thích). Giá trị nhỏ hơn 1 cho thấy tác động tiêu cực của (1-β)% xác suất nằm trong một dạng thức so với dạng thức tham chiếu. Trong số các biến “giải thích”, chúng tôi lựa chọn các biến liên quan đến đặc điểm cá nhân (giới tính, tuổi tác, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn), hộ gia đình (quy mô và mức độ sử dụng các dịch vụ công), cơ sở sản xuất (quy mô, nghành, loại cơ sở vật chất, tài sản) và các biến địa lí (quy mô thành phố). Ước tính giới hạn cho người lao động trong khu vực phi chính thức đô thị.

Kết quả được trình bày trong Bảng 7 cho thấy rằng những người giải thể UPI có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo là 42% cao hơn so với những người duy trì hoạt động của UPI. Tỉ lệ giải thể của UPI cũng có tỉ lệ thuận với tỉ lệ cao hơn nguy cơ không thoát khỏi nghèo đói (23% có nguy cơ cao hơn với những người có UPI còn tồn tại). Cuối cùng, người đã giải thể UPI gặp nhiều khó khăn để thoát nghèo hơn so với những người duy trì được UPI (khả năng thoát nghèo ít hơn 16%). Những kết quả này có ý nghĩa thống kê. Với những người thành lập UPI, cơ hội thoát nghèo cao hơn 25% so với những người vẫn còn sống trong cảnh nghèo. Họ cũng có ít nguy cơ (-21%) sống trong cảnh nghèo đói trong hai giai đoạn liên tiếp hoặc rơi vào đói nghèo (-14%) hơn so với người không nghèo. Tuy nhiên, các kết quả này không chắc chắn về mặt thống kê.

Đàn ông có cơ hội cao gấp hai lần phụ nữ (+2,12), cá nhân trong các hộ gia đình hạt nhân (-26%) và gia đình lớn hơn (-6% cho từng thành viên) trong việc thoát khỏi đói nghèo. Không có sự khác biệt đáng kể theo độ tuổi cho các

Page 109: Tải xuống Chương 3

431ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

cá nhân dưới 65 tuổi. Giáo dục mang lại lợi ích, kể cả trong khu vực phi chính thức. Các cơ hội thoát nghèo tăng mạnh cùng với mức tăng trình độ giáo dục (+1,35, +1,94, +2,30 so với giáo dục tiểu học).

Quy mô của UPI tương quan chặt chẽ với các cơ hội thoát nghèo: quy mô càng nhỏ thì càng có ít có cơ hội thoát nghèo. Không có phòng làm việc khiến cơ hội thoát khỏi đói nghèo giảm (-6%), còn có phòng làm việc thì làm tăng cơ hội này 3%. Hai kết quả này không có ý nghĩa thống kê. Người lao động phi chính thức trong lĩnh vực “thương mại” có ít cơ hội thoát nghèo (-18%). Quy mô của thành phố cũng quan trọng: thành phố lớn (hơn 100.000 nhà) tốt hơn thị trấn nhỏ (+59% cơ hội thoát khỏi đói nghèo).

Có một số trùng hợp của các yếu tố liên quan đến việc rơi vào hoặc thoát ra khỏi tình trạng nghèo: đàn ông gặp ít nguy cơ hơn phụ nữ (-52%), tương tự như vậy người lao động trong độ “tuổi vàng” (25-44) (-50%). Ngoài ra, người lao động càng có trình độ học vấn cao, thì càng ít nguy cơ bị đói nghèo. Điều này cũng đúng cho cư dân của thành phố lớn và người lao động trong các cơ sở có quy mô lớn hơn. Những người làm việc trong lĩnh vực “thương mại” có nguy cơ cao hơn (27%) về việc làm không thuận lợi.

Bảng 7. Các dạng thức chuyển đổi nghèo đói và động thái thành lập, giải thể và tồn tại của UPI, 2002-2010

BIẾN

Chuyển đổi nghèo đói

Nghèo-không nghèo

(tham chiếu nghèo-nghèo)

Nghèo-nghèo(tham chiếu

Không nghèo-không nghèo)

Không nghèo-nghèo(tham chiếu Không

nghèo-không nghèo)

Nam (tham chiếu. Nữ) 2,12*** 0,49*** 0,48***

Nhóm tuổi (tham chiếu. 65 và nhiều hơn)

13-24 tuổi 2,14*** 0,42*** 0,81

25-44 tuổi 1,80*** 0,51*** 0,51***

45-64 tuổi 2,10*** 0,38*** 0,49***

Tình trạng gia đình (tham chiếu độc thân)

Có gia đình 1,12 0,83** 1,07

Page 110: Tải xuống Chương 3

432 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Chung sống không kết hôn 0,99 1,07 1,16

Trình độ học vấn (tham chiếu không có, tiểu học)

Trung học 1,35*** 0,60*** 0,83**

Cao đẳng 1,94*** 0,33*** 0,57***

Đại học 2,30*** 0,25*** 0,40***

Đặc điểm hộ

Quy mô hộ 0,94*** 1,17*** 1,11***

Dạng hộ (tham chiếu kép, một thành viên, không có chủ chốt)

Hộ mở rộng 0,83 1,86*** 1,61***

Hộ hạt nhân 0,74** 1,79*** 1,48***

Sử dụng dịch vụ công (1=có; 0=không)

Nước 0,81 1,21 1,11

Nước thải 1,15 1,00 1,17

Điện 1,15 0,86 0,78

Điện thoại cố định 1,65*** 0,43*** 0,69**

Quy mô địa phương (tham chiếu thành phố có hơn 100,000 nhà)

Hơn 100000 nhà 1,59*** 0,47*** 0,76***

20001 đến 100000 nhà 1,16 0,83** 1,09

10001 đến 20000 nhà 1,31** 0,63*** 0,91

Lập, giải thể UPI (tham chiếu UPI sống sót)

Giải thể UPI 0,84* 1,23** 1,42***

Lập UPI 1,25 0,79 0,86

Quy mô l’UPI (tham chiếu 5 và hơn)

Một lao động 0,23*** 3,49*** 2,57***

Hai lao động 0,37*** 2,68*** 1,97***

Ba lao động 0,44*** 2,12*** 1,73***

Bốn lao động 0,53** 1,96*** 1,27

Không có phòng làm việc 0,94 1,15 1,05

Có phòng mà việc của UPI 1,03 1,03 1,08

Ngành (tham chiếu Dịch vụ) ù

Sản xuất 0,95 1,16 1,06

Thương mại 0,82** 1,45*** 1,27***

Page 111: Tải xuống Chương 3

433ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

Hằng số 1,42 0,30*** 0,29***

Số quan sát 7,211 7,211 7,211

Nguồn: ENAHO 2002-2010, INEI, tính toán của tác giả.

Không tìm thấy yếu tố đặc thù liên quan đến việc sống liên tục trong nghèo đói. Các biến có ảnh hưởng đến dạng thức chuyển đổi không có lợi cũng có tác động theo cùng một hướng. Như vậy, làm việc trong lĩnh vực “thương mại” khiến nguy cơ không thoát khỏi nghèo đói tăng (+45% nguy cơ cao hơn so với người không nghèo) cũng như quy mô nhỏ hơn của UPI. Những người có các đặc điểm như có trình độ học vấn cao hơn, sống trong thành phố lớn, ở độ tuổi sung mãn, là đàn ông và đã lập gia đình, có ít rủi ro sống dưới ngưỡng nghèo khổ trong hai giai đoạn liên tiếp so với những người khác.

Kết luận

Các thông tin về hộ gia đình, đặc điểm cá nhân về xã hội-nhân khẩu học và về thị trường lao động, và các cơ sở quy mô nhỏ phi chính thức thu thập được trong 10 năm điều tra đã được sử dụng để đánh giá tầm quan trọng của khu vực phi chính thức, các đặc điểm chính và các động thái vĩ mô của khu vực này. Chúng tôi cũng xem xét các quá trình chuyển việc làm và diễn biến của các doanh nhân nhỏ trong một giai đoạn ngắn (dữ liệu mảng trong hai năm liên tiếp). Chúng tôi nhận thấy gần 9/10 lao động nghèo thành thị làm việc trong khu vực phi chính thức và gần 6/10 người lao động khu vực phi chính thức là những người lao động nghèo. Hai hiện tượng này lí giải vì sao cần đồng thời phân tích đói nghèo và phi chính thức. Ngoài các đặc điểm cá nhân và hộ gia đình thường được xem xét (vốn con người, quy mô và dạng hộ gia đình…) thì có không nhiều nghiên cứu đề cập đến tác động của UPI và đặc điểm nhân khẩu của chúng đối với các dạng thức chuyển đổi tình trạng nghèo.

Giai đoạn nghiên cứu có đặc điểm là có tăng trưởng kinh tế vĩ mô nhanh, giảm đáng kể nghèo đói và thất nghiệp. Tỉ lệ người lao động đô thị phi chính thức giảm vừa phải, khẳng định giả thuyết về hành vi ngược chu

Page 112: Tải xuống Chương 3

434 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

kỳ thường thấy trong thời gian suy thoái. Các đặc điểm của các UPI tại Peru khá gần với các nơi khác (Roubaud và Torelli, 2012): quy mô nhỏ, tương đối trẻ, thiếu phòng làm việc cố định, phổ biến trong ngành thương mại, ít sử dụng các dịch vụ công. Quan trọng hơn, UPI có đặc trưng là tính không đồng nhất. Bên cạnh các UPI có các đặc điểm gần với doanh nghiệp chính thức còn có các cơ sở chạy ăn từng bữa. Các doanh nhân nhỏ là ai? Các kết quả liên quan đến nguyên nhân của phi chính thức tại Peru củng cố quan điểm về khu vực phi chính thức được lựa chọn miễn cưỡng do không tìm được việc làm hưởng lương và một khu vực phi chính thức được lựa chọn tự nguyện vì hy vọng mang lại thu nhập cao hơn. 56% người được hỏi trong năm 2010 nói rằng họ làm việc trong khu vực phi chính thức vì không tìm được việc làm hưởng lương, trong khi 44% còn lại tự nguyện làm trong khu vực này để có được thu nhập cao hơn, để được độc lập hoặc kế nghiệp gia đình. Khi xem xét các dạng thức thay đổi việc làm thì có 1 vài điểm khác biệt: 57% ông chủ mới của các UPI đã từng là những người lao động hưởng lương và 43% còn lại là người thất nghiệp hoặc không hoạt động.

Tỉ lệ giải thể rất cao các UPI tại Peru (hơn 1/3 UPI giải thể hàng năm) làm giảm bớt sự lạc quan về các doanh nhân nhỏ như một kênh tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Tỉ lệ thành lập cũng rất cao (38%). Do tầm quan trọng của thu nhập từ lao động trong tổng thu nhập và tầm quan trọng của việc làm trong khu vực phi chính thức, động thái của cơ sở quy mô nhỏ gắn bó mật thiết với nghèo đói. Thật vậy, trong số những kết quả đáng chú ý nhất mà chúng ta quan sát thấy vai trò của động thái của cơ sở quy mô nhỏ (thành lập, tồn tại và giải thể UPI) trong các dạng thức chuyển đổi cá nhân liên quan đến nghèo đói. Các mô hình kinh tế lượng ủng hộ giả thuyết rằng người lao động giải thể UPI có nguy cơ đói nghèo cao hơn: họ có nguy cơ rơi vào nghèo đói cao hơn 42% so với các cá nhân còn duy trì UPI và còn có nguy cơ tiếp tục sống trong cảnh nghèo đói cao hơn (23%).

Chính sách công thường nêu lên những khía cạnh tích cực của động thái của các cơ sở quy mô nhỏ và tìm cách khuyến khích việc mở rộng và phát triển của các cơ sở này trong khuôn khổ chính sách chống đói nghèo. Tỉ lệ giải thể tương đối cao của các cơ sở quy mô nhỏ liên quan đến việc mất phương tiện sản xuất của hộ gia đình, làm cho họ dễ bị tổn thương với đói nghèo. Chính sách công phải tính đến tầm quan trọng và tác động của việc giải thể

Page 113: Tải xuống Chương 3

435ĐỘNG THÁI VI MÔ - VĨ MÔ VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO

của các cơ sở quy mô siêu nhỏ. Các đặc điểm của các cơ sở sản xuất và các ngành đóng một vai trò quyết định trong sự khác biệt về năng suất, thu nhập và tình trạng nghèo của hộ gia đình. Động thái của cơ sở quy mô nhỏ có vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu các động thái của đói nghèo và các chính sách giảm nghèo cũng nên chú ý đến các yếu tố liên quan đến nguy cơ giải thể nhằm làm giảm tính dễ tổn thương của các hộ gia đình.

Tài liệu tham khảo

Abowd, J. & F. Kramarz & D. Margolis (1999): "High-Wage Workers and High-Wage Firms", Econometrica 67, 2, pp.251-333.

Brown, C. & J. Medoff (1989): "The employer size–wage effect", Journal Political Economy, Vol. 97 nº5, pp.1027–1059.

Brunello, G., Colussi, A. (1998): “The employer size–wage effect- evidence from Italy”, Labour Economics (5), pp.217-230.

Bureau International du Travail (1993): “Quinzième Conférence Internationale des Statisticiens du Travail (Genève, 19-28 janvier 1993)”, Rapport de la conférence, doc. CIST/15/D.6 (rév.1), Genève.

Cunnigham W. and Maloney, W. (2001): “Heterogeneity among Mexico Microenterprises: An application of Factor and Cluster Analysis”, Economic Development and Cultural Change, Vol. 50 n°1, pp.131-156.

Demenet A., Nguyễn Thị Thu Huyền, Razafindrakoto M., Roubaud F. (2010): Dynamics of the informal sector in Hanoi and Ho Chi Minh City 2007-2009, GSO-IRD, UKaid, World Bank, December (disponible sur le site: http://www.worldbank.org/en/country/vietnam/research, référence DT N°6174 du 1/12/2010).

Devicienti F, Groisman, F., Poggi, A. (2009): "Informality and poverty: Are these processes dynamically interrelated? Evidence from Argentina," Working Papers 146, ECINEQ, Society for the Study of Economic Inequality.

Fajnzylber, P., Maloney W. (2007): “Microfirm dynamics and informality”, in Perry et al. Informality: Exit or Exclusion?, World Bank, pp.133-156.

Fajnzylber, P., Maloney W., Montes, G. (2006): “Micro-firms dynamics in Less Developed Countries-How similar are they to those in the Industrialized

Page 114: Tải xuống Chương 3

436 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

World-Evidence from Mexico”, World Bank Economic Review (6), pp.1-31Fields, G. (2008): “Accounting for income inequality and its change: a

new method, with application to the distribution of earnings in the United States”, Research in Labor Economics, vol. 22 pp.1-38.

Funkhouser, E. (1998): “The importance of firm wage differentials in explaining hourly earnings variation in the large-scale sector of Guatemala”, Journal of Development Economics, (55), pp.115-131.

Groshen, E. (1991): "Sources of Intra-Industry Wage Dispersion: How Much do Employers Matter?", Quarterly Journal of Economics, 106, pp. 869-884.

Hamermesh D. (2008): “Fun with matched firm-employee data- Progress and road maps”, Labour Economics (11), pp.663-673.

Herrera, J., Roubaud, F., Suarez, A. (eds.) (2004): El sector informal en Colombia y en los demás países andinos, DANE, Bogotá.

Herrera J., Roubaud, F. (2007): “Urban poverty dynamics in Peru and Madagascar”, International Planning Studies, 75(1), 2007, pp.70-95.

Herrera, J. (2008): “Análisis de la pobreza en el Perú desde la perspectiva de las unidades de producción”, Pobreza Urbana. Realidades y Desafíos, PROPOLI, Lima. pp.38-58.

Lanjouw, P. (2008): “Does the Rural Non-farm Economy Contribute to Poverty Reduction?. In Transforming the Rural Non-farm Economy: Opportunities and Threats in the Developing World, S. Haggblade, P. Hazell, & T. Reardon (eds), John Hopkins University Press, Baltimore.

de Mel S., D. McKenzie et C. Woodruff (2008): “Who are the micro-entreprise owners? Evidence from Sri Lanka on Tokman v. de Soto”, Policy Research Paper N°4635, World bank.

Mortensen, D. (2003): Wage Dispersion: Why Are Similar Workers Paid Differently?, MIT Press.

Ñopo, H., Valenzuela, P. (2007): “Becoming an Entrepreneur”, IZA Discussion Paper n°2716.

Nordman C. J., Roubaud F. (2010): “Une approche originale en économie du développement: 20 ans d'efforts pour mesurer et analyser l'économie informelle dans les pays en développement”, Dialogue, No 31, Novembre, pp.2-9.

European Commission, IMF, OECD, United Nations, World Bank (2009): System of National Accounts 2008.

Page 115: Tải xuống Chương 3

437CHÍNH SÁCH

Oi, W., Idson, T. (1999): “Firm size and wages”, in O. Ashenfelter & D. Card (ed.), Handbook of Labor Economics, Elsevier, edition 1, volume 3, number 3, pp.2165-2214.

Roubaud F., Torelli C. (2012), “L’emploi, le chômage et les conditions d’activité sur les marchés du travail urbains en Afrique : principaux faits stylisés”, in De Vreyer P., Roubaud F., Les marchés du travail urbains en Afrique Sub-saharienne, Editions IRD et AFD, Paris/Marseille. (à paraître).

Shorrocks, A.F. (1982): “Inequality Decomposition by Factor Components” Econometrica, 50, 193-212.

de Soto, H. (1986): El Otro Sendero: la revolución informal. Ed. El Barranco, Lima.

Tokman, V. E. (1989): “Policies for a Heterogeneous Informal Sector in Latin America,” World Development, July, pp.1067–1076.

Vijverberg W., and J. Haughton (2002): “Household Enterprises in Vietnam: Survival, Growth, and Living Standards, World Bank Policy Research Working Paper 2773, Washington D.C: World Bank, February.

Vijverberg, W. et al. (2006): “Non-Farm Household Enterprises in Vietnam. A Research Project using Data from VHLSS 2004, VHLSS 2002 and AHBS 2003”.

Page 116: Tải xuống Chương 3

438 KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN