SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI - … · Web viewIV.ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP...
Transcript of SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI - … · Web viewIV.ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP...
SangKienKinhNghiem.orgTổng Hợp Hơn 1000 Sáng Kiến Kinh Nghiệm Chuẩn
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: TRƯỜNG THPT KIỆM TÂN
Mã số:……………………….
TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM
TỰ SỰ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
CỦA HỌC SINH
Người thực hiện: ĐINH THỊ THÚY VUI
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
Có đính kèm:
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2011- 2012
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui1
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên : ĐINH THỊ THÚY VUI
2. Ngày tháng năm sinh : 03 – 08 – 1985
3. Nam, Nữ : Nữ
4. Địa chỉ : 90/T – Gia Tân III – Thống Nhất – Đồng Nai
5. Điện thoại : ĐTDĐ 0907 016 909
6. Fax (Email) : [email protected]
7. Chức vụ : Giáo viên.
8. Đơn vị công tác : Trường THPT Kiệm Tân-Thống Nhất-Đồng Nai.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
1. Học vị : Cử nhân Ngữ văn
2. Năm nhận bằng : 2008.
3. Chuyên ngành đào tạo : Ngữ văn.
III. KINH NGHIỆM GIÁO DỤC
1. Lĩnh vực chuyên môn: giảng dạy môn Ngữ văn.
2. Số năm giảng dạy kinh nghiệm 4 năm.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui2
M C L CỤ Ụ TRANGA.PHẦN MỞ ĐẦU 3I.ĐẶT VẤN ĐỀ 3II.MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH 4III.GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI 4IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5B.PHẦN NỘI DUNG 5I.CƠ SỞ LÍ LUẬN 5II.CƠ SỞ THỰC TIỄN6III.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT 71.Về phía giáo viên 72. Về phía học sinh 8IV.ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC 8V. PHÁT HUY PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ - TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 91.Khái niệm vấn đề và giải quyết vấn đề 92.Cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề. 10VI.PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VỚI VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM TỰ SỰ 121.Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp nêu vấn đề 122.Một số cách thức vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự 133.Nhận xét 21VII.VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VÀO VIỆC THIẾT KẾ GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (Nguyễn Minh Châu) 21C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ38I.TÍNH HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 38II.KẾT LUẬN 39D.TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui3
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ ĐỂ PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục mang một vị trí quan trọng trong việc xây dựng một xã hôi
phát triển vì vậy việc đổi mới phương pháp giáo dục để không ngừng nâng
cao đổi mới về mọi mặt.
Những năm gần đây, ngành giáo dục đã trải qua sự thay đổi quan trọng.
Từ đó nhiều phương pháp giáo dục cũng phải đổi mới. Chương trình giáo dục
phổ thông hiện hành đã nêu rõ: “phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự
giác, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng học sinh phương pháp
tự học khả năng hợp tác rèn luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn”. Tài liệu
hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK môn Ngữ Văn lớp 12 đã giới thiệu
một số phương pháp dạy học theo định hướng tích cực như: thuyết trình, vấn
đáp, đàm thoại, phát hiện và giải quyết vấn đề………
Ngữ Văn là một trong những môn học chính trong nhà trường, được coi
là một môn nghệ thuật mang tính khoa học. Đó là một loại hình nghệ thuật
phản ánh chân thực cuộc sống bằng hình tượng thông qua ngôn ngữ, góp phần
bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, hình thành kĩ năng giao tiếp,
ứng xử làm phong phú tâm hồn và vẻ đẹp nhân cách. Những năm qua, ngành
giáo dục đã chỉ đạo việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các
môn học trong đó có môn Ngữ Văn. Giảng dạy môn Ngữ Văn nói chung
không chỉ đơn thuần dạy cho học sinh biết về cái hay cái đẹp của tác phẩm,
mà còn giúp cho học sinh hiểu, cảm thụ sâu sắc hơn, cũng như biết cách khám
phá, phát hiện ra những cái hay cái đẹp trong tác phẩm văn chương. Vì vậy,
việc đổi mới dạy học bắt đầu từ việc thay đổi phương pháp giảng dạy nhằm
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui4
nâng cao năng lực tự học cho học sinh để các em cảm nhận được cái hay, cái
đẹp, biết yêu thương chia sẻ với chính cuộc đời từ trong mỗi trang sách là
điều hết sức cần thiết.
Việc dạy học theo định hướng tích cực đã được giáo viên giảng dạy vận
dụng vào thực tế. Tuy nhiên việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tổ chức giờ đọc hiểu văn bản
tác phẩm tự sự vẫn còn nhiều hạn chế.
Bản thân tôi là giáo viên đứng lớp, luôn đặt ra câu hỏi làm sao để nâng
cao chất lượng của giờ đọc hiểu văn bản, làm sao để học sinh hứng thú hơn
với các tác phẩm tự sự và việc vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực, đặc
biệt là phương pháp nêu vấn đề như thế nào cho phù hợp để phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh , vừa phù hợp với nội dung bài dạy, với từng
đối tượng học sinh.
Vậy việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề như thế nào để phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh trong việc học bộ môn Ngữ Văn nói
chung và việc học tác phẩm tự sự nói riêng?
II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN
ĐỀ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
Từ thực tiễn giảng dạy, tôi đã mạnh dạn “vận dụng phương pháp nêu
vấn đề để phát huy tính tích cực của học sinh trong việc giảng dạy tác
phẩm tự sự” với mục đích nâng cao hiệu quả dạy học văn và rèn luyện một
số kỹ năng cảm thụ, tiếp nhận văn bản văn học cho học sinh thông qua việc
phát hiện và giải quyết vấn đề trong tác phẩm tự sự.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
- Phương pháp nêu vấn đề có thể vận dụng vào việc giảng dạy tác phẩm tự sự
cũng như trữ tình. Nhưng trong phạm vi tìm hiểu và thực tế giảng dạy.
Chuyên đề sáng kiến giới hạn trong việc “vận dụng phương pháp nêu vấn đề
trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự” trong chương trình Ngữ Văn 12 để phát
huy tính tính cực chủ động của học sinh trong việc học tác phẩm tự sự nói
riêng và học bộ môn Ngữ Văn nói chung.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui5
- Do nội dung khuôn khổ của sáng kiến, bản thân tôi không đi sâu vào việc
trình bày chi tiết lí thuyết về phương pháp nêu vấn đề, mà chuyên đề đi vào
nội dung cụ thể của một số tác phẩm, một số cách thức vận dụng phương
pháp nêu vấn đề - câu hỏi nêu vấn đề sao cho hiệu quả trong một số tác phẩm
cụ thể, nhằm mục đích phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong
việc học môn Ngữ Văn. Qua đó hình thành cho các em biết nhận thức vấn đề,
giải quyết vấn đề từ trong những tác phẩm tự sự, hình thành kỹ năng đọc hiểu
văn bản văn học theo đặc trưng thể loại cho các em học sinh, góp phần nâng
cao chất lượng trong việc dạy học tác phẩm tự sự.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thực hiện đề tài: từ việc thực hiện tìm hiểu đặc điểm chung về
phương pháp dạy học nêu vấn đề, giáo viên áp dụng vào một số tác phẩm tự
sự cụ thể trong chương trình Ngữ Văn 12 cơ bản.Từ đó thiết kế bài dạy và kết
quả áp dụng đề tài tại các lớp mà giáo viên phụ trách.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy học nêu vấn đề là một phương thức dạy học trong đó giáo viên nêu
lên nghi vấn để hướng sự suy nghĩ tích cực của học sinh nhằm tạo nên tính
huống có vấn đề. Phương pháp nêu vấn đề có tác dụng gợi nên suy nghĩ, tập
trung chú ý và đánh giá phản hồi và tổ chức học tập.
Dạy học nêu vấn đề không phải lấy phương thức truyền thụ làm chính
mà là tổ chức hướng dẫn để học sinh tìm tòi phát hiện. Khi đó học sinh là
chủ thể nhận thức, nhằm phát huy được tính năng động và sáng tạo của học
sinh. Phương pháp dạy học nêu vấn đề còn tạo ra tình huống có vấn đề. Để
tạo ra tình huống vấn đề, nhất thiết phải có những câu hỏi nêu vấn đề. Từ đó
kích thích học sinh tích cực chủ động vận dụng những hiểu biết có sẵn vào
họat động tư duy nhận biết tác phẩm.
Đặt học sinh vào hệ thông câu hỏi có vấn đề trong giờ dạy môn Ngữ
Văn giúp học sinh hình thành thói quen tư duy và phát huy được khả năng
sáng tạo của học sinh. Nhà lí luận dạy học La-Léc-ne nhận định: “Họat động
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui6
sáng tạo chỉ nảy sinh khi nào giải quyết được vấn đề, khi nào phải đương đầu
với tình huống có vấn đề”.
Như vậy việc đặt ra tình huống có vấn đề và câu hỏi nêu vấn đề là cách
thức để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ dạy
văn, giúp học sinh không chỉ chiếm lĩnh được tri thức nội dung cần đạt mà
còn hình thành kĩ năng chiếm lĩnh tri thức mới. Vì vậy việc dạy học nêu vấn
đề và hệ thống câu hỏi nêu vấn đề thích ứng với yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa họat động của học sinh.
Dạy học nêu vấn đề còn đáp ứng được yêu cầu cải tiến một giờ dạy văn
của Vụ giáo dục phổ thông “Trong giờ giảng văn, giáo viên phải nêu những
vấn đề, dẫn dắt học sinh phát hiện được những cái hay, cái đẹp. Giáo viên
uốn nắn hướng dẫn để các em làm được việc này, không làm thay”. Nhà văn
M.Gróoki đã từng nhận xét “Tác phẩm văn học nào cũng là tác phẩm có vấn
đề”. Thực tế giảng dạy văn cho thấy “vấn đề” chính là điều mà tác giả phản
ánh, lí giải trong tác phẩm.
V. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Việc giảng dạy môn Ngữ Văn là giúp học sinh tìm hiểu về cái hay, cái
đẹp của một tác phẩm văn chương. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật,
là một sản phẩm của nhà văn, được lựa chọn để đưa đến với người đọc là giáo
viên và học sinh. Vì vậy mỗi ý kiến của người đọc học sinh đưa ra về tác
phẩm đều đáng quý và đáng trân trọng. Để phát huy tính tích cực của học
sinh trong giờ học tác phẩm tự sự, giáo viên không nên phủ định những vấn
đề học sinh đưa ra mà cần định hướng cho học sinh cách suy nghĩ nhận xét
đúng đắn với mỗi tác phẩm văn chương. Giáo viên đóng vai trò hướng dẫn
học sinh tìm hiểu vào tác phẩm, tự khám phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của tác
phẩm. Giáo viên bằng những câu hỏi đặt vấn đề, câu hỏi gợi mở, câu hỏi định
hướng khám phá, tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh tự cảm nhận về tác
phẩm, tự nhận định về giá trị đích thực của tác phẩm.Việc dạy văn, mà đặc
biệt là việc phân tích tác phẩm văn học, để tạo sự hấp dẫn và hứng thú với học
sinh nhất định phải là việc biến học sinh thành người trong cuộc - để các em
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui7
tự phát huy năng lực tư duy của mình, tự khám phá ra những giá trị đích thực
của tác phẩm.
Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới nội dung dạy học, vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm trung tâm
cũng được đặt ra. Bản chất của sự đổi mới đó là chuyển từ phương pháp
thông báo tái hiện sang việc tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức, học tập
của học sinh nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của
họ, để họ tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng. Để thực hiện điều đó cần phối hợp
các xu hướng: tích cực hoá, cá biệt hoá, phân hoá hoạt động nhận thức - học
tập của học sinh. Việc dạy học để phát huy tính tích cực của học sinh, đã và
đang được thực hiện. Tuy nhiên khó khăn nhất là việc vận dụng vào thực tế
giảng dạy sao cho hiệu quả. Một trong những phương pháp quan trọng trong
việc giảng dạy môn Ngữ Văn chính là việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề
và sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để nâng cao và phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh khi cảm thụ tác phẩm văn học ,vốn là ngôn ngữ hàm ẩn, đa
nghĩa, đa thanh, vì thế dễ tạo ra những tình huống tiếp nhận khác nhau của
học sinh.
III.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ
TRONG GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT
1. Về phía giáo viên
- Khi nêu vấn đề, một số câu hỏi chưa định hướng đúng vào những vấn đề
trung tâm cốt lõi của tác phẩm. Câu hỏi không có chủ định từ trước, bộc phát
tức thời, chưa định hướng được trong việc tìm hiểu tác phẩm văn học, tản
mạn, giữa các câu hỏi chưa có sự hỗ trợ liên kết với nhau, không có tính hệ
thống và bao quát những vấn để tác giả đặt ra trong tác phẩm, hay những câu
hỏi chỉ nhằm tái hiện kiến thức trong tác phẩm vì vậy chưa thể phát huy được
tính tích cực chủ động của học sinh, chưa tạo được tình huống có vấn đề để
học sinh nhận thức, bởi vậy chưa tạo được sự chủ động trong việc tiếp cận tác
phẩm văn chương.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui8
- Các câu hỏi nêu vấn đề chưa mang tính hệ thống, rời rạc không liên kết kiến
thức trong bài dạy. Có những câu hỏi nêu vấn đề vụn vặt chưa tạo được sự
hứng thú cho học sinh.
- Một trong những nguyên nhân khiến một giờ học văn nhàm chán, học sinh
không hứng thú là do câu hỏi chưa gây được sự tò mò đối với học sinh, chưa
hướng vào vấn đề chính mà chỉ đi tản mạn vào một số vấn đề nhỏ, tất cả
những yếu tố đó làm giảm sự chủ động và tích cực của việc học văn trong nhà
trường phổ thông hiện nay.
+ Loại câu hỏi thiên về tái hiện kiến thức, ít có câu hỏi có khả năng luyện trí
thông minh và tư duy sáng tạo của học sinh
+ Một số câu hỏi nêu vấn đề ở mức độ khó nhưng chưa có sự gợi ý chi tiết
+ Khi sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên chỉ hỏi mà chưa tổ chức cho học
sinh giải quyết vấn đề
2. Về phía học sinh
Trường THPT Kiệm Tân đa số học sinh có tỉ lệ đầu vào chưa cao, ý
thức trong học tập chưa tốt. Khả năng tự học còn nhiều hạn chế
+ Các em còn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức. Học sinh chỉ tái hiện
kiến thức một cách thụ động, chưa biết cách trả lời, hay thậm chí còn lúng
túng trong những câu hỏi khó, chưa biết cách vận dụng vào sáng tạo trong các
tình huống của bài học
+ Học sinh vẫn còn dừng lại ở mức độ nghe và ghi chép, chưa tham gia vào
việc xây dựng bài. Khả năng khái quát , khả năng cảm nhận tác phẩm văn học
của học sinh còn nhiều hạn chế.
+ Học sinh lười xây dựng bài, chưa có ý thức tham gia vào các hoạt động dạy
và học. Như thế giờ văn của thầy và trò sẽ trở nên mệt mỏi dẫn đến kết quả
học tập bộ môn Ngữ Văn chưa đạt hiệu quả cao.
IV. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
9
nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Đặc điểm của phương pháp dạy
học tích cực:
+ Dạy học thông qua tổ chức hoạt động học tập của học sinh.
+ Dạy học chú trọng phương pháp tự học.
+ Tăng cường học tập cá thể, phối hợp học tập hợp tác.
+ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Hiện nay giáo dục chú trọng vào phát triển năng lực của học sinh chứ
không đơn thuần là truyền thụ kiến thức. Mà muốn phát triển năng lực của
học sinh thì trước hết học sinh phải thích môn học đó. Muốn vậy thì giờ học
phải thu hút được học sinh tham gia.
Mỗi phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm riêng. Cần phải sử dụng
kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để có thể phát huy những ưu điểm và
hạn chế nhược điểm đó. Mặt khác, trong một bài dạy không thể chỉ dùng một
phương pháp duy nhất là có thể phát huy tính tích cực của học sinh. Nhưng
kết hợp nhiều phương pháp mà không hợp lý sẽ không đạt được kết quả mong
muốn. Sử dụng nhiều phương pháp không chỉ làm bài học hay hơn, học sinh
thích thú học hơn mà còn phát triển nhận thức, kỹ năng của học sinh. Trong
quá trình giảng dạy, GV cần dựa vào nội dung, yêu cầu, thời gian, trình độ
nhận thức của đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để sử dụng các hình thức giảng
dạy thích ứng.
V. PHÁT HUY PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG
DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ - TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
1. Khái niệm vấn đề và giải quyết vấn đề
Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng
chưa có quy luật sẵn cũng như những tri trức, kỹ năng sẵn có chưa đủ giải
quyết mà còn khó khăn, cản trở cần vượt qua. Dạy học giải quyết vấn đề dựa
trên cơ sở lý thuyết nhận thức. Theo quan điểm của tâm lý học nhận thức, giải
quyết vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy và
nhận thức của con người, tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn
đề. Dạy học giải quyết vấn đề là một quan điểm dạy học nhằm phát triển năng
lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Học sinh được GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
10
đặt trong một tình huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề đó giúp
học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức.
Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề là phương pháp dựa
trên quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng
tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo nên
một chuỗi những tình huống vấn đề và điều khiển học sinh giải quyết những
vấn đề đó. Vì vậy mà nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ
sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới
quan khoa học cho học sinh. Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong
những PPDH mà ở đó GV là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều
khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải
quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm đạt
được mục tiêu dạy học.
2. Cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề.
2.1 Nhận biết vấn đề: trong bước này cần phân tích tình huống đặt ra, nhằm
nhận biết được vấn đề. Trong dạy học đó là cần đặt học sinh vào tình huống
có vấn đề. Vấn đề cần được trình bày rõ ràng.
2.2 Tìm các phương án giải quyết: Nhiệm vụ của bước này là tìm các
phương án khác nhau để giải quyết vấn đề. Để tìm các phương án giải quyết
vấn đề cần so sánh, liên hệ với những cách giải quyết vấn đề tương tự đã biết
cũng như tìm các phương án giải quyết mới. Các phương án giải quyết đã tìm
ra được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lý ở giai đoạn tiếp theo.
2.3 Quyết định phương án giải quyết: Các phương án giải quyết đã được
tìm ra cần được phân tích, so sánh và đánh giá xem có thực hiện được việc
giải quyết vấn đề hay không. Nếu có nhiều phương án có thể giải quyết thì
cần so sánh để xác định phương án tối ưu. Nếu các phương án đã đề xuất
chưa giải quyết được vấn đề thì cần trở lại giai đoạn tìm kiếm phương án giải
quyết mới.
2.4 Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt
và giải quyết vấn đề thường như sau:
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thứcGVTH: Đinh Thị Thúy Vui
11
+ Tạo tình huống có vấn đề;
+ Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
+ Phát hiện vấn đề cần giải quyết
- Giải quyết vấn đề đặt ra
+ Đề xuất cách giải quyết;
+ Lập kế hoạch giải quyết;
+ Thực hiện kế hoạch giải quyết.
- Kết luận:
+ Thảo luận kết quả và đánh giá;
+ Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
+ Phát biểu kết luận;
+ Đề xuất vấn đề mới.
2.5 Các mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề
Các mức
Đặt vấn đề
Nêu giả thuyết
Lập kế hoạch
Giải quyết vấn đề
Kết luận, đánh giá
1 GV GV GV HS GV
2 GV GV HS HS GV + HS
3 GV + HS HS HS HS GV + HS
4 HS HS HS HS GV + HS
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa
nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát
triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
2.6 Những yêu cầu chính đối với câu hỏi nêu vấn đề trong giờ dạy Ngữ
Văn
- Câu hỏi nêu vấn đề phải tạo ra tình huống có vấn đề - kích thích sự tích cực
nhận thức của học sinh
- Câu hỏi nêu vấn đề phải có sự sáng tạo
- Câu hỏi nêu vấn đề phải có tính hệ thống
- Câu hỏi nêu vấn đề phải bám sát vào văn bản nghệ thuật
- Câu hỏi nêu vấn đề phải căn cứ vào đạc điểm tâm lý tiếp nhận của học sinh
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui12
- Câu hỏi nêu vấn đề phải có mối tương quan giữa các phương pháp khác
trong một giờ dạy văn
VI. PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VỚI VIỆC XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU TÁC
PHẨM TỰ SỰ
1. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp nêu vấn đề
- Câu hỏi nêu vấn đề phải được đặt ra từ vấn đề của tác phẩm. Để đặt
được câu hỏi phát hiện trúng vấn đề cần triển khai. Giáo viên phải tìm hiểu
thật thấu đáo tác phẩm và chỉ có hiểu tác phẩm. Giáo viên mới có thể phát
hiện được những chi tiết có khả năng trở thành vấn đề và đó là những vấn đề
thích đáng nhất. Ở tác phẩm văn xuôi, vấn đề hay tình huống tiếp nhận
thường là những nội dung khái quát về tư tưởng, chủ đề, ý nghĩa tác phẩm
hay nghệ thuật của tác phẩm…………
- Giáo viên phải hiểu được đối tượng học sinh mình giảng dạy , hiểu được
khả năng tư duy và nhận thức của các em để từ đó vận dụng phương pháp nêu
vấn đề cho phù hợp. Thực tế tâm lý lứa tuổi của học sinh THPT thích tìm tòi
khám phá những tri thức mới, thích tham gia giải thích cái mới theo quan
điểm riêng. Hoc sinh lứa tuổi này đã biết suy luận đánh giá trên cơ sở phân
tích các dữ liệu học tập. Một số học sinh thường sa vào diễn đạt lan man mà
không nêu lên được những nội dung sâu sắc của tác phẩm. Vì vậy khi giáo
viên hiểu đối tượng từng lớp mình giảng dạy, giáo viên sẽ đặt ra được những
câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Giáo viên tôn trọng những cảm thụ suy nghĩ của học sinh. Tạo điều kiện
cho học sinh nói lên suy nghĩ của mình do tác phẩm gợi ra chứ không phải chỉ
nói lặp lại theo ý của người khác. Giáo viên nên xem học sinh là chủ thể tích
cực trong họat động cảm thụ tác phẩm. Mục đích lớn nhất của giờ giảng văn
sẽ là “dạy suy nghĩ, dạy tìm tòi” và dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh tự mình cảm nhận và chiếm lĩnh tác phẩm.
- Để phương pháp nêu vấn đề và giảng dạy nêu vấn đề thành công, điều
cần thiết là giáo viên tạo không khí học tập hứng thú, tạo mối quan hệ
thân thiện giữa thầy và trò. Với mục đích là học sinh có thể mạnh dạn trao GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
13
đổi với lớp với giáo viên về những điều mà học sinh suy nghĩ cảm nhận. Như
thế giáo viên sẽ đóng vai trò làm cầu nối giữa học sinh với tác phẩm văn học.
Giáo viên không áp đặt gò ép học sinh, không chê bai mà khơi gợi dẫn dắt
học sinh để học sinh có cơ hội thể hiện suy nghĩa của mình.
- Thực tế việc vận dụng phương pháp giảng dạy nêu vấn đề trong tác
phẩm luôn là những câu hỏi khó vì nó chứa đựng những nội dung quan
trọng của tác phẩm. Để trả lời được câu hỏi, học sinh phải tổng hợp được
nhiều nguồn kiến thức. Vì vậy trước khi triển khai ở trên lớp cần có hệ thống
câu hỏi phụ để học sinh chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống câu hỏi hướng
dẫn học bài trong sách giáo khoa. Từ những câu hỏi cụ thể đó, giúp học sinh
có thể tìm hiểu những kiến thức có liên quan đến câu hỏi nêu vấn đề, tránh
việc học sinh bị động lúng túng.
2. Một số cách thức vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng
dạy tác phẩm tự sự
2.1 Tình huống và tính cách nhân vật trong tác phẩm tự sự tạo điều kiện
cho việc xây dựng tính nêu vấn đề của câu hỏi giảng văn giúp học sinh
khám phá vai trò của tình huống còn kích thích tâm lý học sinh, giúp các em
tự đặt mình vào giải quyết một tình huống mới. Cốt truyện, nhân vật và
phương thức kể chuyện là ba yếu tố tạo nên đặc trưng của tác phẩm tự sự.
Nói đến cốt truyện là nói đến nhân vật, không thể không nói đến vai trò của
tình huống, tính cách. Để tính cách vận động và phát triển, nhà văn đặt tính
cách nhân vật trong tình huống bởi qua tình huống nhân vật sẽ được thử
thách, từ đó nhân vật bộc lộ lên những tính cách của mình.
Trên thực tế, khi phân tích một truyện ngắn, nhiều bài phân tích không
đề cập đến tình huống hoặc không nhận thức được vai trò của tình huống đối
với tính cách, vì vậy nhiều tình huống có giá trị đã bị bỏ qua. Nếu như hỏi học
sinh tình huống Tràng nhặt được vợ có tác động gì đến tâm trạng bà cụ Tứ thì
không thiếu học sinh sẽ lúng lúng trong việc trả lời. Vì vậy khi giảng dạy tác
phẩm, giáo viên cần chú ý vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ giảng văn,
để học sinh có thể tiếp nhận tác phẩm .Tình huống của tác phẩm trở thành vấn
đề tiếp nhận của học sinh.GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
14
VD: Khi đặt câu hỏi nêu ra tình huống trong truyện ngắn Vợ Nhặt (Kim Lân),
học sinh sẽ thấy được vẻ đẹp của nhân vật Tràng, từ đó cũng thấy được phẩm
chất nhân hậu, niềm tin ý thức hướng tới tương lai của bà cụ Tứ. Học sinh sẽ
thấy tác dụng và vai trò của tình huống truyện. Từ đó giáo viên có thể triển
khai câu hỏi nêu vấn đề:
+ Việc Kim Lân tạo dựng một tình huống như vậy có những ý nghĩa gì? Tại
sao giữa nạn đói năm 1945, ranh giới mong manh giữa cái chết và sự sống,
Tràng lại dám “nhặt” vợ? Việc Tràng nhặt vợ như thế có ý nghĩ như thế nào?
Qua tình huống đó, nhà văn gửi gắm ý nghĩa gì?
Từ cách nêu vấn đề như trên, giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu ý
nghĩa của tình huống truyện. Bên cạnh đó, câu hỏi còn kích thích tâm lí học
sinh, gợi ra cho các em những thắc mắc và học sinh vận dụng sự hiểu biết của
mình để giải quyết một vấn đề mới.
Tình huống độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) được gửi gắm
ngay từ cách đặt tên truyện. Một chuyện vốn rất nghiêm túc, vốn được xem là
một trong những công việc trọng đại nhất của đời một con người mà lại diễn
ra như một trò đùa. Một người nghèo túng, lại xấu trai, từ thuở cha sinh mẹ đẻ
đến giờ chưa từng được một người con gái nào thèm để ý đến thế mà bỗng
dưng được một người phụ nữ theo về nhà làm vợ hẳn hoi. Càng lạ hơn nữa là
Tràng nhặt vợ về giữa những ngày đói kém, giữa khi cái chết vì đói đang rập
rình đe dọa. Kim Lân đã đem đến cho người đọc một câu chuyện nên vợ nên
chồng quả là xưa nay chưa từng có. Chính cái đói và chỉ vì cái đói mà người
phụ nữ nọ đành “theo không” Tràng về chứ đâu phải vì yêu hay vì nghĩa. Với
câu chuyện này và với một số chi tiết nghệ thuật đầy ám ảnh, truyện ngắn
“Vợ nhặt” đã tái hiện sinh động những ngày tháng đói khổ trong lịch sử dân
tộc. Chúng ta nhận ra rằng những con người nghèo khổ trong hoàn cảnh ấy
tìm đến nhau, cưu mang nhau như một lẽ tự nhiên. Họ đã cư xử đúng với đạo
lí, tình thương ngàn đời của người Việt. Viết “Vợ nhặt” Kim Lân đã khẳng
định được rằng trong cái đói người ta càng khát khao sự sống, những người
dân lao động, dù trong hoàn cảnh đói khổ đến mấy, vẫn sẵn lòng che chở,
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui15
đùm bọc nhau, vẫn biết vui với cái gì mình đang có và cứ lấp lánh niềm tin
vào tương lai.
Đặt ra câu hỏi nêu vấn đề là một biện pháp để dẫn dắt học sinh suy
ngẫm, từ đó học sinh sẽ phát hiện được vấn đề sâu sa của tác phẩm. Tình
huống hàm chứa được ý đồ nghệ thuật của các nhà văn và từ đó nó trở thành
vấn đề tiếp nhận của học sinh. Bởi vậy khi gặp phải những tình huống lạ,
phần lớn học sinh chưa phát hiện được ý đồ nghệ thuật của tình huống
truyện. Học sinh thường trình bày lan man vì chưa thực sự nhận thức được.
Từ thực tế đó,để giúp học sinh tìm tòi và khám phá về tác phẩm, giáo viên có
thể sử dụng những câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản là việc làm
cần thiết.
2.2 Kết cấu và nghệ thuật sử dụng chi tiết tác phẩm tự sự là một khía
cạnh để giáo viên nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản
Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác
phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của
tác phẩm trên cơ sở khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định
Kết cấu làm nhiệm vụ sắp xếp các sự kiện, nhân vật, tình tiết, chi tiết các lớp
cảnh, chương hồi một cách lôgíc để cốt truyện bộc lộ được nội dung ý nghĩa
tác phẩm, thể hiện ý nghĩa tư tưởng của tác giả
VD 1: Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” để định hướng cho học sinh phát
hiện tư tưởng và chủ đề của tác phẩm từ hình thức nghệ thuật. Giáo viên
có thể đặt ra câu hỏi nêu vấn đề:
+ Mở đầu truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là
hình ảnh rừng xà nu, kết thúc tác phẩm là hình ảnh rừng xa nu nối tiếp trải dài
đến tận chân trời? Vậy theo em hình ảnh đó lặp lại cuối tác phẩm có ý nghĩa
gì?
+ Hình ảnh cánh rừng xà nu trải ra hút tầm mắt chạy tít đến tận chân trời xuất
hiện ở đầu và cuối tác phẩm gợi cho anh (chị) ấn tượng gì?
+ Từ những chi tiết vừa phân tích em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả
hình tượng cây xà nu của Nguyễn Trung Thành?
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui16
Câu hỏi trên nhằm mục đích định hướng tiếp nhận cho học sinh, giúp
học sinh phát hiện được hình thức nghệ thuật lặp chi tiết của tác phẩm. Bằng
cách hỏi như thế học sinh từ việc tìm hiểu ý nghĩa tượng trưng của hình tượng
rừng xà nu. Câu hỏi đó cũng giúp học sinh tìm tòi phát hiện, phát huy được
tính chủ động và khả năng sáng tạo qua họat động tiếp nhận. Từ việc gợi nhắc
cho học sinh tìm hiểu hình thức nghệ thuật bằng câu hỏi nêu vấn đề. Học sinh
sẽ nhận biết được rằng, hình tượng rừng xà nu được tái hiện cuối tác phẩm
không chỉ là biểu tượng con người ở làng Xôman hẻo lánh mà là biểu tượng
của cả Tây Nguyên, của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ, tuy chịu nhiều đau thương nhưng vẫn vươn lên mạnh
mẽ bằng ý chí nghị lực kiên cường. Nhà văn miêu tả hình tượng rừng xà nu
được nói đến như một con người cụ thể. Cây xà nu, nhựa xà nu liên hệ thân
thiết với con người. “Rừng xà nu” với hình ảnh một tấm ngực đang ưỡn ra để
che chở cho dân làng vì vậy mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang
chiến đấu để bảo vệ quê hương đất nước trong những năm chống Mĩ
VD 2: Khi dạy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) giáo viên có thể
triển khai phương pháp nêu vấn đề với những câu hỏi nêu vấn đề để học
sinh tìm hiểu kết cấu của tác phẩm:
+ Em có nhận xét gì về cách giới thiệu nhân vật Mị?
+ Cách giới thiệu trên đạt hiệu quả nghệ thuật gì?
Từ sự gợi nhắc của giáo viên, học sinh thảo luận trả lời. HS sẽ nhận
biết được cách vào truyện gợi nên ấn tượng với những đối nghịch:
+ Một cô gái lẻ loi âm thầm gần như lẫn vào các đồ vật vô tri trong khung
cảnh tấp nập của nhà thống lý PáTra.
+ Cô gái ấy là con dâu trong một gia đình quyền thế giàu có “nhiều nương,
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhưng sao lúc nào cũng cúi mặt nhẫn nhục và
lúc nào mặt cũng “buồn rười rượi”. Tư thế “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với
nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô hồn “lúc nào cũng vậy”.
Từ cách đặt câu hỏi trên. Học sinh sẽ phần nào hiểu được cách phác
hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô tri,
không cảm giác. Từ cách giới thiệu đó như hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
17
éo le của nhân vật. Nhà văn đã chọn cách dẫn dắt khéo léo điểm nhìn từ xa,
bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu
thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ… cô
ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra). Đây là thủ pháp tạo tình huống có vấn
đề từ trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lỗi dẫn người đọc
cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
Trong tác phẩm văn xuôi, hình thức lạ hóa kết cấu, lặp chi tiết như một
điểm sáng nghệ thuật độc đáo có tính hiệu quả cao. Từ những biện pháp
nghệ thuật này học sinh có thể nắm bắt được tư tưởng và chủ đề của tác
phẩm. Nhưng trong quá trình giảng dạy, phần lớn học sinh chưa chú ý đến
kết cấu và những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Phần nhiều do các em
còn hạn chế về trình độ nhận thức, vốn sống, năng lực; các em chỉ có thể
nắm được nội dung cốt truyện mà chưa thể phát hiện được các hình thức
nghệ thuật của tác phẩm. Từ cơ sở đó giáo viên có thể sử dụng câu hỏi nêu
vấn đề vào những hình thức nghệ thuật, để định hướng tiếp nhận cho học
sinh, khơi gợi được hứng thú cho học sinh khi giảng dạy tác phẩm tự sự
2.3 Điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự
Trong tác phẩm tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm
nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa
là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật
câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là cách kể, phương thức kể, là tình
huống diễn ngôn. Như thế, điểm nhìn trần thuật có mối quan hệ mật thiết với
cấu trúc nghệ thuật, giọng điệu của tác phẩm, với cách cảm thụ thế giới, thái
độ của nhà văn. Nếu kể ở ngôi thứ nhất, tác giả hoặc vai trần thuật xưng tôi,
còn kể ở ngôi thứ ba xưng “hắn”, “nó”. Trong ngôi thứ nhất, tác giả và vai
trần thuật là nhân vật chính, trực tiếp tham gia vào các sự kiện hoặc kể lại câu
chuyện của mình. Ở ngôi thứ ba, người kể giấu mặt, đứng ngoài câu truyện
nhưng lại biết tất cả câu chuyện, biết những nỗi niềm sâu kín của nhân vật.
Trong thể tự sự, có nhiều ngôi kể, lời kể mà còn có nhiều cách kể: có
khi tác giả tách ra khỏi nhân vật để kể về nhân vật hay để vai trần thuật hoặc
nhân vật cùng tham gia kể; khi tác giả hòa vào nhân vật, kể bằng ngôn ngữ GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
18
của nhân vật…Cách tác giả không tham gia kể mà để cho vai kể và nhân vật
kể lại câu chuyện là một hình thức nghệ thuật nhằm thu hẹp lại lời kể, mở
rộng tính khách quan và tăng tính thuyết phục của đối tượng được miêu tả.
Lắm khi, nhà văn “trao bút” cho nhân vật, để nhân vật tự kể, tự nói về mình.
Ở đây, nội dung nghệ thuật không chỉ được truyền đạt duy nhất từ người kể
chuyện mà còn bởi các nhân vật khác, bằng cả những tiếng nói bên trong
mang nhận thức, tình cảm của nhân vật.
VD 1: Trong truyện “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) thể hiện nghệ thuật trần
thuật uyển chuyển linh họat mang phong cách truyền thống nhưng cũng đầy
sáng tạo. Nhà văn vẫn tuân theo lối trần thuật sự kiện theo trình tự thời gian,
tạo nên một dòng chảy liền mạch nhưng có lúc đan xen các hồi ức một cách
tự nhiên, có lúc pha trộn giữa quá khứ và hiện tại. Có những đoạn nhà văn Tô
Hoài không kể mà để cho nhân vật tự ý thức. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui sướng ….Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”.
Lời nhà văn hay lời nhân vật? Không thể phân định rạch ròi. Tô Hoài
không đứng bên ngoài mà tả, mà kể nữa, lại nhập thân vào Mị, thổn thức cùng
Mị ở thời khắc ấy để từ trong đó viết ra. Như thế nhà văn đã trao ngòi bút của
mình để cho nhân vật tự viết ra những dòng tâm tư là một biện pháp để khai
thác chiều sâu nội tâm tính cách đồng thời giảm bớt phần miêu tả, nhận xét,
đánh giá từ người trần thuật. Ngoài ra hình thức để nhân vật tự bộc lộ còn mở
rộng ý nghĩa khách quan cho tác phẩm.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm từ chính câu hỏi
về điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật.
VD 2: Trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã
không đóng vai người kể chuyện mà dựng lại lịch sử bi hùng của làng Xô
Man. Nếu làm thế, giữa người kể và câu chuyện được kể sẽ có một khoảng
cách. Nhà văn đã trao quyền kể cho nhân vật cụ Mết – một già làng, một
người trong cuộc. Cụ Mết là người từng chứng kiến bao biến cố trọng đại của
làng Xô Man, là người phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa bất khuất đầu tiên
của làng. Hơn nữa, chính cụ là người trực tiếp trừng trị thằng Dục ác ôn. Có
thể xem cụ Mết là cây xà nu cổ thụ vững chãi của đất rừng Tây Nguyên. Cụ GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
19
Mết như chiếc gạch nối giữa truyền thống bất khuất tự ngàn xưa với hiện tại
đau thương, hùng tráng. Chỉ con người như thế mới đủ uy tín, uy quyền dựng
lại lịch sử quê hương và răn dạy con cháu. Việc chọn cụ Mết làm nhân vật
người kể chuyện đã tạo nên giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt
cho thiên truyện. Giọng nói của cụ trầm ấm, vang vọng như tiếng nói của núi
rừng. Từ khía cạnh đó. Giáo viên cần nêu vấn đề để hỏi học sinh:
+ Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhà
văn đã trao quyền cho nhân vật nào để kể về cuộc đời của Tnú- cuộc đời bi
tráng gắn liền với trang sử vẻ vang của dân làng?
+ Từ điểm nhìn trần thuật đó, câu chuyện đã đem lại ấn tượng gì và có tác
dụng như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề?
Với cách thức như trên, học sinh sẽ nhận biết được giọng điệu trần
thuật của tác phẩm. Từ giọng điệu trần thuật này, người kể chuyện đã tạo nên
giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt cho thiên truyện
VD 3: Trong truyện “Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi), nhà
văn chủ yếu dùng thủ pháp hồi tưởng của chính người trong cuộc, đã trao
quyền trần thuật cho nhân vật Việt.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch
hồi ức của Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên
tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và
thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cài của những câu chuyện
kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng
nhiều chiều. Tạo tình huống này, chọn điểm nhìn trần thuật này, Nguyễn Thi
có thể tổ chức kết cấu tác phẩm khá thoải mái, linh hoạt theo ý đồ của mình.
Câu chuyện không cần kể, cần nhớ theo trình tự thời gian. Những hồi tưởng
của Việt cứ đứt nối, tưởng chừng rời rạc, nhưng kì thực lại được chọn lọc, sắp
xếp theo ý đồ của nhà văn. Từ cách trần thuật đó giáo viên vận dụng câu
hỏi nêu vấn đề từ chính lời kể, cách kể (phương thức trần thuật)
Giáo viên hỏi học sinh: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”
được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào? Hãy nêu tác dụng của
cách trần thuật đó đối với kết cấu truyện và khắc họa tính cách nhân vật?GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
20
GV có thể gợi ý:
- Có ba phương thức trần thuật trong nghệ thuật viết truyện:
+ Phương thức thứ nhất: Nhân vật truyện là đối tượng thuật, kể nên thuộc
ngôi thứ ba.
+ Phương thức thứ hai: Nhân vật tự kể chuyện mình nên thuộc ngôi thứ nhất.
+ Phương thức thứ ba: Người trần thuật thuộc ngôi thứ ba nhưng lời kể lại
phỏng theo quan điểm, ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật
HS thảo luận trả lời.
Gv định hướng: Truyện “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật theo
phương thức thứ ba. Nghĩa là của người trần thuật tự giấu mình nhưng cách
nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật. Truyện được trần thuật chủ
yếu qua dòng hồi tưởng miên man đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng
thương nằm ở chiến trường. Nhà văn phải thành thạo tâm lí và ngôn ngữ nhân
vật mới có thể trần thuật theo phương thức này.
GV đặt câu hỏi nêu vân đề: Cách trần thuật này đem lại tác dụng gì
cho tác phẩm? Tại sao nhà văn lại không chọn cách trần thuật - kể lại câu
chuyện mà lại trao ngòi bút cho nhân vật- phỏng theo quan điểm và ngôn
ngữ cho nhân vật.
Từ sự phát hiện và so sánh hai cách kể học sinh sẽ nhận ra được nét
riêng trong nghệ thuật trần thuật. Qua đó học sinh thấy được bút pháp
nghiêm ngặt, năng lực phân tích tâm lí, diễn tả tâm lí sắc sảo, tinh tế của
Nguyễn Thi. Bằng những câu hỏi trên giúp học sinh khám phá hình thức trần
thuật của tác phẩm. Giáo viên có thể đặt ra những câu hỏi giả thiết (nếu tác
giả kể lại hay chọn một phương thức khác thì tác phẩm sẽ trở nên như thế
nào?)
Thông qua những cách kể trên, ta thấy cách kể trong tác phẩm tự sự là
hình thức nghệ thuật mang lại giá trị nhiều mặt cho tác phẩm.Trong thực tế
giảng dạy phần lớn các em chưa nhận thức được giá trị của các thủ pháp
nghệ thuật đó. Học sinh chỉ chú trọng đến từ ngữ, hình ảnh và các nghệ
thuật quen thuộc, còn lời kể, cách kể, chỉ phân tích qua loa hời hợt. Vì vậy
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui21
việc đặt câu hỏi nêu ra phương thức kể chuyện là một biện pháp tích cực để
học sinh tự mình tiếp cận tác phẩm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
3. Nhận xét
- Trong thực tiễn dạy học, bất kỳ một giờ dạy nào cũng có sự phối hợp, kết
hợp một vài phương pháp. Hơn nữa, bản thân các phương pháp dạy học đều
thâm nhập vào nhau để thể hiện tác động giữa giáo viên và học sinh. Giáo
viên không chỉ sử dụng một phương pháp dạy học mà còn phải kết hợp với
các phương pháp dạy học khác.
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề sử dụng trong sự phối hợp đa dạng các
phương pháp khác như diễn giảng, đọc diễn cảm, trực quan…… Các câu hỏi
nêu vấn đề được đặt trong một hệ thống và thống nhất với mục tiêu bài học.
Trong quá trình học sinh tư duy đôi khi giáo viên phải dẫn dắt gợi ý cho học
sinh suy nghĩ tìm tòi để nhận ra những điều cần làm sáng tỏ.
- Việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong thực tế giảng dạy, hình thức
diễn đạt hay nội dung câu trả lời có thể khác đi vì vậy giáo viên phải chú ý
lắng nghe và phân tích câu trả lời của học sinh để có hành động cho phù hợp.
Câu hỏi được nêu ra ở từng mức độ hướng tới số đông học sinh.
- Giáo viên sử dụng linh họat các hình thức tổ chức cho học sinh nắm bắt vấn
đề như: thảo luận nhóm, thuyết trình, đóng vai.........Đối với giờ dạy học vận
dung theo phương pháp nêu vấn đề không khí lớp học nhẹ nhàng thoải mái.
Câu hỏi đa dạng theo từng mức độ khiến học sinh hào hứng trước vấn đề đưa
ra, như thế mục tiêu và kiến thức của bài học học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn rất
nhiều.
VI. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VÀO VIỆC THIẾT
KẾ GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI
XA” (Nguyễn Minh Châu)
Vận dụng cấu trúc tình huống có vấn đề để hướng dẫn học sinh tìm
hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Cấu trúc của tình huống có
vấn đề được biểu hiện qua hai họat động: tạo lập bối cảnh vấn đề chính là đưa
ra những điều mới chưa được biết (họat động nêu vấn đề của giáo viên) và
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui22
quá trình tích cực tư duy để nhận thức khám phá sáng tạo cái mới (họat động
giải quyết vấn đề của học sinh)
- Họat động nêu vấn đề của giáo viên (có khi học sinh nêu vấn đề)
+ Giáo viên tổ chức, xây dựng và tạo ra những giả thiết, những dữ kiện và yêu
cầu giải pháp để người đọc đi tìm lời giải. Nghĩa là giáo viên làm xuất hiện
bên trong ý thức của học sinh một mâu thuẫn, một nhu cầu muốn giải quyết
mâu thuẫn
+ Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học
sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên
đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Học sinh thực hiện cách giải quyết
vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh
giá.
+ Nêu vấn đề được cụ thể qua những câu hỏi. Các câu hỏi nêu vấn đề phải
được đặt trong một hệ thống và thống nhất với mục tiêu cần đạt
+ Câu hỏi nêu vấn đề có nhiều mức độ: yêu cầu học sinh tái hiện, yêu cầu học
sinh phải tư duy, yêu cầu học sinh vận dụng nhiều năng lực khác nhau để giải
quyết vấn đề.
- Họat động giải quyết vấn đề của học sinh:
+ HS thể hiện sự chủ động tích cực của mình
+ HS thông qua việc đối thọai với giáo viên, đối thoại với nhau (khi thảo luận
nhóm, khi thuyết trình) mà học sinh có sự nhận thức sâu sắc về bài học.
+ Học sinh nhận xét câu trả lời của bạn mình và đưa ra ý kiến cũng như cách
hiểu vấn đề khác nhau
- Để vận dụng phương pháp nêu vấn đề đạt hiệu quả cao, học sinh phải tổng
hợp được nhiều nguồn kiến thức. Vì vậy trước khi triển khai ở trên lớp cần có
hệ thống câu hỏi phụ để giúp học sinh bước đầu tìm hiểu về truyện
“Chiếc thuyền ngoài xa” để học sinh chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống
câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa.
Thiết kế giáo án:
Tiết: 70 – 71
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XAGVTH: Đinh Thị Thúy Vui
23
(Nguyễn Minh Châu)
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh:
- Hiểu được quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ
thuật, về cách nhìn đời và nhìn người trong cuộc sống;
- Thấy được những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm và bắt đầu nhận diện
được một số đặc trưng cơ bản của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975.
1/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
- Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật: phải
nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện; nghệ thuật chân chính
luôn gắn liền với cuộc đời, vì cuộc đời.
- Tình huống truyện độc đáo, mang ý nghĩa khám phá phát hiện về đời sống.
Điểm nhìn nghệ thuật đa chiều. Lời văn giản dị mà sâu sắc.
2/ TRỌNG TÂM KĨ NĂNG: Đọc hiểu truyện ngắn hiện đại.
B/ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Sách giáo khoa Ngữ Văn 12- HKII; sách giáo viên Ngữ Văn 12 HKII;
sách tham khảo, bảng phụ, tranh ảnh ……..
C/ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Giáo viên tổ chức giờ học bằng cách sử dụng phương pháp nêu vấn đề
phối kết hợp với các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học khác
như: đọc diễn cảm, thảo luận nhóm, thuyết trình …
D. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY:
1. Ổn định lớp - kiểm tra sĩ số:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Tính cách nhân vật Việt được Nguyễn Thi miêu tả qua những chi tiết nào?
- Nêu ý nghĩa văn bản của truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”
3. Nội dung bài mới:
a. Đặt vấn đề: Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn luôn đi tìm
hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người, cả trong thời chiến và cả
cuộc sống đời thường. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm
phong cách tự sự triết lí. Đến với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn GVTH: Đinh Thị Thúy Vui
24
Minh Châu đem đến cho người đọc cách nhìn nhận về cuộc sống và con
người từ những phát hiện về nghệ thuật, về hiện thực đời sống. Chúng ta hãy
cùng tìm hiểu?
b. Triển khai bài dạy:
Hoạt động thầy và trò Nội dung kiến thứcHoạt động 1: Tổ chức đọc hiểu tiểu dẫn.
GV yêu cầu học sinh:
Đọc mục tiểu dẫn và tóm tắt những nét chính về
tác giả và tác phẩm.
Học sinh làm việc cá nhân và trình bày trước
lớp?
GV định hướng.
HS chuẩn bị ở nhà. Tóm tắt truyện trên lớp.
Gv hỏi học sinh:
Câu chuyện ấy đã thể hiện đề tài và cảm hứng
sáng tác của Nguyễn Minh Châu như thế nào?
Học sinh thảo luận. Trình bày trước lớp.
GV định hướng diễn giảng thêm, giúp học sinh
nhận thức vấn đề: chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu
cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của
nhà văn…………
I.Tìm hiểu chung
1/Tác giả
- Nguyễn Minh Châu
(1930-1989)
- Ông "thuộc trong những
nhà văn mở đường tinh
anh và tài năng nhất của
văn học ta hiện nay"
-Trước 1975, Nguyễn
Minh Châu là ngòi bút sử
thi có thiên hướng trữ tình
lãng mạn.
- Từ sau thập kỉ 80, đi sâu
khám phá sự thật đời sống
ở bình diện đạo đức thế sự
và triết lí nhân sinh, khám
phá con người trong cuộc
mưu sinh, trong hành trình
nhọc nhằn tìm kiếm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân
cách.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui25
GV tổ chức cho học sinh đọc văn bản
Giọng đọc diễn cảm
Trên cơ sở học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà. HS
tóm tắt cốt truyện tại lớp và chia bố cục ?
Hs trả lời.
Gv định hướng:
+ Đoạn 1: Hai phát hiện của người nghệ sĩ
+ Đoạn 2: Câu chuyện của người đàn bà làng
chài tại tòa án huyện
2/ Tác phẩm
a/Xuất xứ
-Viết năm 1983 in trong
tập truyện cùng tên 1987
b/ Đánh giá chung
“Chiếc thuyền ngoài xa”
tiêu biểu cho xu hướng
chung của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới:
hướng nội, khai thác sâu
sắc số phận cá nhân và
thân phận con người trong
cuộc sống đời thường.
II/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
GV nêu vấn đề: Anh chị hiểu như thế nào về
tình huống truyện?.
GV yêu cầu học sinh nhắc lại khái niệm tình
huống truyện đã học ở bài Vợ Nhặt …để bắt vào
tìm hiểu tình huống trong truyện “Chiếc thuyền
ngoài xa”
HS trả lời.
GV diễn giảng và bổ sung kiến thức: Tình huống
truyện là cái hoàn cảnh sảy ra câu chuyện, hoàn
cảnh cho nhân vật họat động, gồm các yếu tố
không gian và thời gian…..nhằm bộc lộ tính cách
nhân vật, thúc đẩy câu chuyện phát triển. Có ba
loại tình huống:
+ Tình huống hành động
+ Tình huống tâm trạng
+ Tình huống nhận thức
1/ Tình huống truyện
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui26
GV nêu vấn đề: Từ khái niệm về tình huống
truyện và căn cứ vào chi tiết trong truyện. Anh
chị hãy phân tích tình huống truyện trong truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu?
GV gợi ý:
+ Thuộc loại tình huống nào trong ba khái niệm
trên?
+ Có những chi tiết nào tạo nên tình huống?
+ Từ tình huống đó, các nhân vật được khắc họa
như thế nào?
+ Hiệu quả của tình huống đó trong việc bộc lộ
tính cách nhân vật, phát triển cốt truyện?
+ Chủ đề tác phẩm được thể hiện như thế nào
qua tình huống truyện?
GV tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề bằng
hình thức thảo luận nhóm.
Hs thảo luận trả lời: Tình huống truyện trong
“Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc
phát hiện của Phùng ………
Gv định hướng: Truyện được trần thuật theo
quá trình tự nhận thức, cũng có thể gọi là quá
trình giác ngộ về hiện thực và con người của hai
nhân vật đầy thiện ý nhưng chủ quan, đại diện
cho công lí và nghệ thuật. Truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một
“tình huống nhận thức mà hai nhân vật Phùng và
Đẩu đã trải qua”………………….
GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu những biểu hiện
cụ thể của tình huống truyện
a/ Phát hiện thứ nhất
đầy thơ mộng của người
nghệ sĩ.
- Đó là cảnh thuyền và
biển vào lúc bình minh-
một cảnh đắt trời cho “đẹp
như bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ”
- Người nghệ sĩ cảm thấy
rung động “bối rối trong
trái tim như cái gì bóp thắt
vào”
=>khám phá thấy cái chân
lí của sự hoàn thiện
- Anh đã cảm nhận cái đẹp
toàn bích, hài hoà, lãng
mạn của cuộc đời, thấy
tâm hồn mình được thanh
lọc và anh nghĩ, cái đẹp
chính là cái thiện.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui27
+ Nhóm 1: Phát hiện thứ nhất
+ Nhóm 2: Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh chứa đựng nhiều nghịch lí? Nghịch lí
đó là gì?
+Nhóm 3: So sánh thái độ của Phùng khi chứng
kiến hai phát hiện. Hãy hóa thân vào nhân vật
Phùng để nói lên cảm xúc của người nghệ sĩ khi
chứng kiến cảnh bạo hành?
+ Nhóm 4: Ý nghĩa hai phát hiện
*Câu hỏi gợi ý thảo luận cho từng nhóm cụ
thể:
+ Nhóm 1: Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh, là phát hiện đầy thơ
mộng. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp
của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mù
sương mà người nghệ sĩ chụp được?
+ Nhóm 2: Khi chiếc thuyền tiến vào bờ, cảnh
tượng nào diễn ra? Nhận xét về cảnh tượng đó?
+ Nhóm 3: Cảm xúc của Phùng khi phát hiện ra
vẻ đẹp của chiếc thuyền lưới vó vào lúc bình
minh và hành động thái độ khi chứng kiến cảnh
người đàn ông đánh đập người đàn bà?
+ Nhóm 4: Qua hai phát hiện, nhà văn gửi gắm ý
nghĩa gì? (Về cách nhìn cuộc đời, về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.)
Hs thảo luận làm việc.
Cử đại diện trình bày.
Yêu cầu các nhóm khác bổ sung.
b/ Phát hiện thứ hai về
hiện thực cuộc sống.
- Khi chiếc thuyền vào bờ,
Anh chứng kiến cảnh
người chồng đánh vợ
=>Phùng không ngờ sau
cảnh đẹp như mơ là bao
ngang trái, nghịch lý của
đời thường.
=>Hình ảnh xấu xí, sù sì,
trần trụi, thô mộc, gai góc
của đời sống, đối lập với
vẻ lãng mạn của khung
cảnh thiên nhiên trong bức
ảnh nghệ thuật.
=> Phát hiện về một hiện
thực gồ ghề, gai góc,
ngang trái, phức tạp,
không dễ lí giải, đối lập
với vẻ đẹp bình yên của
tác phẩm nhiếp ảnh.
- Thái độ của người nghệ
sĩ: “kinh ngạc đến mức,
trong mấy phút đầu…vứt
chiếc máy ảnh xuống đất,
chạy nhào tới”.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui28
GV định hướng: Đời sống con người vốn bề bộn,
phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn,
toàn màu hồng mà đa chiều, phân tranh nhiều
mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng
ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực
mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng ngoài biển
khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu
sắc, suy tư hơn nữa về cuộc sống và con người.
Học sinh cử đại diện trình bày.
Gv định hướng:
+ Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình
huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ
khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách,
tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm
và cả trong cuộc đời nhân vật. Qua tình huống
này người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện
ra chân lí nghệ thuật mà còn khám phá ra nhiều
điều bí ẩn của cuộc sống và con người. Anh đã
hiểu hơn về cuộc sống của con người lao động,
về bản thân, về chánh án Đẩu.
+ Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái
nhìn toàn diện về cuộc sống, cần có một cái nhìn
đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất
thật về cuộc sống và con người. Người nghệ sĩ
cần có một khoảng cách nhất định để khám phá
và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât
nhưng cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra
những sự thật của cuộc sống.
+ Ý nghĩa:
- Cuộc đời không đơn
giản một chiều mà chứa
đựng nhiều nghịch lí.
Cuộc sống luôn tồn tại
những mặt đối lập, những
mâu thuẫn.
- Không nên đánh giá con
người, sự vật ở dáng vẻ bề
ngoài, phải phát hiện ra
bản chất thực đằng sau vẻ
ngoài đẹp đẽ ấn tượng,
phải có cái nhìn sâu sắc
hơn.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui29
GV chuyển ý: Tại tòa án huyện, câu chuyện về
cuộc đời của người đàn bà tại tòa án huyện đã
giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ”
ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc
đời. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh
Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn
nữa để phát hiện tính cách con người, vẻ đẹp
cuộc đời.
2/ Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện.
GV nêu vấn đề cho học sinh thuyết trình theo hệ
thống câu hỏi đã chuẩn bị sẵn ở nhà:
+ Người đàn bà làng chài được khắc họa qua chi
tiết nào, trong hoàn cảnh cụ thể nào?
+ Từ ngoại hình hé mở số phận của người đàn
bà? Cách ứng xử của người đàn bà như thế nào
khi bị chồng đánh? Động thái của người đàn bà
trước hành vi của Phác nói lên điều gì về tính
cách của chị?
+ Điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha
thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với
người chồng hung bạo kia?
+ Qua câu chuyện mà người đàn bà tự kể, cho
thấy được điều gì về tính cách và phẩm chất của
chị
+ Nhận xét khái quát về tình cách và phẩm chất
của người đàn bà làng chài? Từ nhân vật này tác
giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì?
GV tổ chức cho học sinh thuyết trình. GV chia
nhóm thảo luận. Nhóm khác phản biện.Trong
a/ Người đàn bà làng
chài
- Số phận: bất hạnh
- Câu chuyện cuộc đời
người đàn bà làng chài:
câu chuyện về sự thực
cuộc đời
- Lí do bà không bỏ gã
đàn ông vũ phu:
+ Chị hiểu cơ cực của của
cuộc sống mưu sinh trên
biển không có người đàn
ông “Cần có người đàn
ông làm chỗ dựa, để chèo
chống khi phong ba bão
táp, cùng nuôi dạy các
con”
+ Tự nhận lỗi về mình “lỗi
là do đám đàn bà đẻ
nhiều”
+ Yêu thương con tha
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui30
quá trình trao đổi học sinh có thể có những thắc
mắc.
VD: Tại sao người đàn bà lại cam chịu chấp
nhận người đàn ông đánh “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”
……………….
GV lấy đó làm tình huống và từ đó đặt ra những
câu hỏi nêu vấn đề để học sinh bàn luận để đi
đến nhận thức theo mục tiêu cần đạt.
Hs trình bày những ý cơ bản.
GV khái quát: Qua câu chuyện của người đàn bà
làng chài, nhà văn thể hiện cái nhìn nhân hậu của
mình. Đằng sau câu chuyện buồn của người đàn
bà là vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng bao dung và
đức hi sinh của người phụ nữ. Đó là hạt ngọc ẩn
giấu trong đời thường mà Nguyễn Minh Châu
trân trọng…..
GV có thể nêu vấn đề để khắc sâu nhận thức
của học sinh:
+ Chúng ta đã hiểu vì sao bà không thể bỏ lão
đàn ông vũ phu (vì tình thương, lòng nhân hậu,
cam chịu….)
+ Đặt giả thiết nếu là em trong trường hợp đó,
em sẽ giải quyết như thế nào? Từ cách giải quyết
của bản thân? Em có nhận xét gì về thái độ cam
chịu nhẫn nhục của người đàn bà? (đúng /sai)
Hs thảo luận trả lời để khắc sâu kiến thức.
HS có nhiều cách hiểu từ việc đặt giả thuyết trên.
Gv khái quát.(diễn giảng)
thiết "người đàn bà trên
thuyền phải sống cho con
chứ không thể sống cho
mình" và “vui nhất là khi
chúng nó được ăn no”.
+Trong mắt người đàn bà,
người đàn ông vũ phu kia
chính là nạn nhân của
hoàn cảnh, đáng cảm
thông chia sẻ
+ Bà luôn biết chắt chiu
những khoảnh khắc đầm
ấm hạnh phúc.
=>Người đàn bà làng chài
ẩn sau vẻ xấu xí thô kệch
là tấm lòng yêu thương
bao la, nhân hậu, bao
dung, đức hi sinh vô bờ
bến của người mẹ.
=>Qua câu chuyện của
người đàn bà làng chài, ta
càng thấy rõ, không thể dễ
dãi đơn giản trong việc
nhìn nhận mọi sự việc
hiện tượng.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui31
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về chánh án Đẩu:
+ Đẩu mời người đàn bà đến tòa án huyện nhằm
mục đích gì?
+ Đẩu có thái độ như thế nào trước và sau khi
nghe câu chuyện của người đàn bà?
+ Thử đặt mình là chánh án Đẩu khi chứng kiến
cảnh bạo hành nơi gia đình người đàn bà- em sẽ
khuyên người đàn bà điều gì?
+ Vậy khi nghe xong câu chuyện của người đàn
bà, nhà văn miêu tả “trông Đẩu rất nghiêm nghị
và đầy suy nghĩ”. Anh chị thử phán đoán, Đẩu
đang suy nghĩ điều gì và đã nhận ra điều gì khi
nghe câu chuyện của người đàn bà?
Hs thảo luận trả lời theo từng nhóm nhỏ.
GV định hướng và khắc sâu kiến thức.
GV hỏi học sinh:
Từ đó em nhận thấy Đẩu là con người như thế
nào? Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu là gì?
Hs trả lời.
GV định hướng và diễn giảng: Người đàn bà đau
khổ đã từ chối việc li hôn theo lời khuyên của
Đẩu. Anh từng không hiểu "thế nào là nỗi vất vả
của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có
đàn ông", không hiểu cái lí của sự cam chịu ở
những con người sống trong vòng vây của đói
nghèo và lạc hậu, cũng không hiểu sự đan cài rối
rắm giữa tình thương và hành động tàn nhẫn,
giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình...
Việc nghe chuyện của người đàn bà thuyền chài
b/ Chánh án Đẩu
- Khuyên người đàn bà
“chị không sống nổi với
người đàn ông vũ phu ấy
đâu”→giải pháp tốt nhất
cho người đàn bà.
- Khi nghe câu chuyện của
người đàn bà, trong đầu có
“một cái gì vừa mới vỡ
ra”, “lúc này trông Đẩu
rất nghiêm nghị và đầy
suy nghĩ”
=> Vị chánh án hiểu ra
rằng cuộc đời người đàn
bà không hề đơn giản và
giải pháp bỏ chồng là
không ổn. Đẩu hiểu ra
cuộc sống nhọc nhằn khó
khăn lam lũ khiến họ phải
chấp nhận những nghịch
cảnh
=>Đẩu cũng nhận thức
được chính mình, để từ bỏ
cái nhìn đơn giản về cuộc
sống và con người
→ Đẩu là người tốt, sẵn
sàng bảo vệ công lí nhưng
chưa thấu hiểu bản chất
sâu xa uẩn khuất của cuộc
đời.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui32
đã khơi lên trong anh cuộc đối thoại gay gắt giữa
thói quen suy nghĩ một chiều và thái độ chấp
nhận tính phức tạp muôn thuở của cuộc sống.
Cuối cùng "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị
Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Rồi
Đẩu có đưa ra được giải pháp mới nào không để
giải quyết "sự vụ" của gia đình thuyền chài ấy?
Hs trả lời.
GV khái quát: Lòng tốt thì đáng quý nhưng chưa
đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng phải đi sâu vào
đời sống. Không thể có cách nghĩ giản đơn dễ dãi
trong cái nhìn về đời sống vì cuộc đời thì đa đoan
và con người thì đa sự, luôn luôn có những
nghịch lí. Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu: con
người cần phải từ bỏ lối nghĩ đơn giản dễ dãi, để
nhìn thấu cái phức tạp của hiện thực cuộc
đời…….
GV dẫn dắt học sinh:
Từ phát hiện cảnh thuyền và biển vào lúc bình
minh. Cảm nhận của Phùng như thế nào? Em hãy
so sánh thái độ và cảm xúc của Phùng khi chứng
kiến người đàn ông đánh đập người đàn bà làng
chài. Phùng đã có hành động nào?
Hs trả lời.
Gv định hướng.
GV khái quát qua câu hỏi:
Khi nghe câu chuyện của người đàn bà làng chài.
Phùng đã có sự nhận thức như thế nào? Tác giả
gửi đến thông điệp gì từ nhận thức của Phùng?
c/ Nhận thức của Phùng
+ Hiểu về người đàn bà
làng chài và hiểu vì sao bà
cam chịu nhẫn nhục sống
với người chồng vũ phu.
+ Hiểu về người đàn ông
lúc còn trẻ cục tính nhưng
hiền lành không bao giờ
đánh vợ. Do cuộc sống
khó khăn, giải tỏa những
khổ cực lên người đàn bà.
Cần cảm thông, chia sẻ
nhưng cũng phải lên án tố
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui33
Hs thảo luận trả lời.
Gv định hướng: Câu chuyện của người đàn bà ở
tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lý trong
cái tưởng như nghịch lý ở gia đình thuyền chài.
Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính
mình…….
cáo.
+ Phùng như thấy chiếc
thuyền nghệ thuật thì ở
ngoài xa, còn sự thật cuộc
đời lại ở rất gần.
+ Hiểu về chánh án Đẩu…
*Tiểu kết: Qua câu
chuyện của người đàn bà,
ta càng thấy rõ: Không thể
dễ dãi, đơn giản trong
việc nhìn nhận mọi sự vật,
hiện tượng của cuộc sống,
không thể có cái nhìn một
chiều, phiến diện với con
người và cuộc sống.
GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái quát về
hình ảnh người đàn ông.
+ Em có nhận xét như thế nào về người đàn ông?
+ Người đàn ông hàng chài xuất hiện như thế
nào? Ngoại hình, hành vi?
+ Tính cách của người đàn ông được khắc họa
qua những điểm nhìn nào?
GV gợi ý: Cách nhìn nhận người đàn ông vũ phu
của người đàn bà có gì khác so với cách nhìn
nhận của Phùng và Đẩu?
HS trình bày sự cảm nhận của mình
GV định hướng:
+ Đẩu và Phùng đều cho rằng người đàn ông này
là thủ phạm gây ra bao đau khổ cho vợ con, cần
d/ Người đàn ông
- Ông vừa là nạn nhân vừa
là thủ phạm…Do cuộc
sống mưu sinh khó khăn,
ông trút những khó khăn
bằng cách đánh đập người
đàn bà…………
- Ông là người trụ cột
trong gia đình nhưng
không thể lo cho gia đình
cuộc sống ấm no, gánh
nặng trên vai mỗi ngày
một nhiều, công việc làm
ăn càng ngày càng khó….
=>Cách giải tỏa của ông
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui34
lên án. Thái độ đối với lão đàn ông là cần phản
đối, lên án.
+ Trong khi đó người đàn bà nhìn nhận người
chồng của mình một cách toàn diện hơn. Người
đàn bà hàng chài lại cho rằng người đàn ông có
hoàn cảnh, đáng cảm thông, và chia sẻ. Có lẽ cứ
khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ như để giải
tỏa uất ức. Trong đời vẫn có những kẻ như thế.
Nói như nhà văn Nam Cao “chúng tự cho mình
cái quyền được hành hạ người khác để giải tỏa
những bực dọc trong lòng”.
-Trong quá trình đàm thoại, học sinh có thể
đưa ra ý kiến:
+ Tại sao người đàn ông không dùng cách nào
khác để giải quyết bi kịch của mình mà trút nỗi
bực dọc vào việc đánh vợ một cách tàn nhẫn?
GV dùng chính tình huống này để hỏi lại học
sinh: Nếu là người đàn ông anh chị sẽ hành xử
và cư xử như thế nào?
GV đặt tình huống giả định: Nếu người chồng
vũ phu ấy được sống trong môi trường khác
thuận lợi và tốt đẹp hơn thì liệu người chồng ấy
sẽ hành động ra sao?
HS nêu lên suy nghĩ và cảm nhận riêng.
HS có thể trả lời từ những vấn đề giả định:
Nếu cuộc sống của người đàn ông không nghèo
khó, không bị những lo toan về cuộc sống bủa
vây, thì có lẽ người đàn ông ấy không phải là
một người chồng tha hóa về nhân cách và đạo
đức. Ông sẽ trở thành một con người đúng nghĩa,
là tiêu cực, đáng bị lên án
nhưng cũng cần được cảm
thông chia sẻ.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui35
sống đúng với phẩm chất và tính cách của chính
mình
( Phần này tùy thuộc vào khả năng nắm bắt của
học sinh mà giáo viên có cách dẫn ý phù hợp)
GV định hướng .
+ GV nêu vấn đề: Từ sự khác biệt trong hai
điểm nhìn, đặc biệt là cách nhìn nhận của người
đàn bà hàng chài giúp ta hiểu rõ thêm điều gì?
Thông điệp tác giả gửi tới người đọc từ hình ảnh
người đàn ông?
HS nêu lên suy nghĩ của mình.
GV định hướng.
=>Tác giả đặt ra vấn đề là
không thể nhìn đời, nhìn
người một phía, phải tìm
hiểu những nguyên nhân
sâu sa dẫn đến hành vi của
con người và làm sao cải
thiện cái phần người trong
những kẻ thô bạo ấy.
Gv hướng dẫn học sinh nhận thức vấn đề bằng hệ
thống câu hỏi:
+ Nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với Bố?
+ Hãy hóa thân vào nhân vật để thấy được cảm
xúc và suy nghĩ của Phác khi thấy mẹ bị bố đánh
đập?
+ Suy nghĩ của anh chị về nạn bạo hành gia
đình?
Hs tiến hành thảo luận, thuyết trình. Nhóm khác
phản biện
Gv định hướng.
GV chuyển ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Tấm
ảnh trong bộ lịch năm ấy.
GV nêu vấn đề: Khi nhìn lại bức ảnh được chọn,
nghệ sĩ Phùng đã nhìn thấy gì sau bức ảnh đó? Ý
nghĩa biểu tượng của hình ảnh ấy và phát biểu tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn? Những hình ảnh
e/ Nhân vật Phác
- Phác đáng mến ở tình
thương đối với mẹ, đáng
trách ở hành vi đối với bố,
nhưng cũng rất thương
cảm khi Phác phải chịu
cảnh bạo hành gia đình.
- Qua nhân vật Phác, nhà
văn bày tỏ nỗi lo âu đầy
trách nhiệm về tương lai
của trẻ em trong nạn bạo
hành gia đình
3/ Tấm ảnh được chọn
trong bộ lịch năm ấy:
+ Tấm ảnh “hiện lên cái
màu hồng của ánh sương
mai” → đó chính là chất
thơ, là vẻ đẹp lãng mạn
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui36
ấy có ý nghĩa tượng trưng như thế nào? Từ đó tác
giả khái quát lên điều gì?
Hs suy nghĩ trả lời.
GV có thể dùng phiếu học tập yêu cầu học sinh
khái quát (theo từng nhóm học tập)
GV định hướng.
của cuộc đời, là biểu
tượng của nghệ thuật
+ Khi nhìn lâu hơn “bao
giờ anh cũng thấy người
đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh”→ hiện thân
cho những lam lũ, khốn
khó và cũng là sự thật trần
trụi của cuộc đời.
+ Ý nghĩa:
- Đừng vì nghệ thuật mà
quên cuộc đời vì nghệ
thuật chân chính luôn
hướng tới cuộc đời. Nghệ
thuật chính là cuộc đời và
phải vì cuộc đời.
- Trước khi là một nghệ sĩ
biết rung động trước cái
đẹp, hãy là một con người
sẵn sàng khám phá để thấu
hiểu, biết yêu ghét vui
buồn trước mọi lẽ đời
thường tình, biết hành
động để có một cuộc sống
xứng đáng với con người.
III/Tổng kết1/ Nghệ thuật
GV hướng dẫn học sinh khái quát phần tổng kết.
Anh chị có nhận xét như thế nào về nghệ thuật
xây dựng cốt truyện? Trong truyện, tác giả đã
chọn người kể chuyện là nhân vật Phùng, xưng
- Tình huống truyện độc
đáo mang ý nghĩa khám
phá và phát hiện về đời
sống
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui37
“tôi”. Có ý kiến cho rằng tác giả nên là người kể
chuyện thì ý nghĩa câu chuyện sẽ hay hơn. Ý
kiến của anh chị như thế nào?
Hs trình bày.
GV vừa kiểm tra kiến thức của học sinh, vừa
khái quát giúp học sinh hiểu chính xác nội dung
bài học.
Từ những phân tích ở trên. Anh chị hãy phát biểu
ý nghĩa tác phẩm?
Hs phát biểu.
Gv định hướng
GV hướng dẫn học sinh hiểu thêm về giá trị hiện
thực và nhân đạo của tác phẩm
+ Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu
tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia
đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả
dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc
đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người
còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của
cách mạng, của cộng đồng
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác
giả với những số phận đau khổ tủi nhục của
những người lao động vô danh đông đảo trong xã
hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn
tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
- Tác giả lựa chọn ngôi kể,
điểm nhìn thích hợp nên
câu chuyện trở nên gần
gũi, khách quan, chân
thực, có sức thuyết phục
hơn.
- Ngôn ngữ của nhân vật
sinh động, phù hợp với
tính cách, lời văn giản dị
mà sâu sắc, đa nghĩa.
- Nhan đề mang tính biểu
tượng.
2/ Ý nghĩa văn bản
- Thể hiện những chiêm
nghiệm sâu sắc của nhà
văn về nghệ thuật và cuộc
đời: nghệ thuật chân chính
phải luôn gắn với cuộc
đời, vì cuộc đời.
- Người nghệ sĩ cần phải
nhìn nhận cuộc sống và
con người một cách toàn
diện.
- Tác phẩm cũng rung lên
hồi chuông báo động về
tình trạng bạo lực gia đình
và hậu quả khôn lường
của nó.
Hướng dẫn tự học:
1/ Nhân vật nào để lại cho em ấn tượng sâu sắc
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui38
nhất?
2/ Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”
4. Củng cố: Cần nắm vững những nội dung kiến thức cơ bản đã nêu thành đề
mục trong phần đọc - hiểu văn bản.
5. Dặn dò:
+ Viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận sâu sắc nhất về một nhân vật trong
tác phẩm.
+ Tìm đọc tác phẩm "Bức tranh" của Nguyễn Minh Châu và tìm hiểu quan
niệm nghệ thuật của nhà văn qua hai tác phẩm.
+ Tiết sau học Tiếng Việt.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
I. TÍNH HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Quá trình ứng dụng đề tài vào dạy học trong năm học 2011 – 2012 cho các
lớp: 12S2; 12S4; 12S6 đạt một số hiệu quả sau:
Đáp ứng được phương pháp dạy học tích cực.
Tạo được hứng thú, phản ứng nhanh nhạy cho học sinh hiểu rõ, hiểu
sâu, hiểu đúng về tác phẩm tự sự
Học sinh hứng thú trong quá trình học tập. Nhận thức được vấn đề theo
từng mức độ. Khắc sâu kiến thức kĩ năng bài học qua việc giáo viên sử dụng
phương pháp nêu vấn đề, với những câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với năng lực
của học sinh.
Giáo viên phát huy tích cực vai trò của mình như: là người hướng dẫn
học sinh nắm bắt tác phẩm
Từ những hiệu quả của đề tài mang lại, bản thân tôi đạt một số kết quả
trong năm học 2011 – 2012 như sau:
- Thống kê kết quả làm bài thi học kì II trong hai đợt thi kiểm tra chung
của toàn trường. Có thể nói rằng, cách thực hiện như trên đã phần nào cải
thiện được chất lượng học tập của học sinh.
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui39
Năm học 2011-2012HỌC KÌ II
Lớp 12S2
Lớp 12S4
Lớp 12S6
Toàn trường
KIỂM TRA GIỮA KÌ II
> 5 25 30 30Tỉ
lệ(%)59,5 73,2 66,6 42,4
< 5 17 11 15Tỉ
lệ(%)40,6 26,8 34 57,6
KIỂM TRA HỌC KÌ II
> 5 28 31 32Tỉ
lệ(%)66,6 75,6 71,1 37,9
< 5 10 10 13Tỉ
lệ(%)33,4 24,4 28,9 62,1
VII. KẾT LUẬN
Phương pháp nêu vấn đề có ưu thế trong việc giảng văn giúp học sinh
bộc lộ vai trò chủ động tích cực, tự mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
tham gia vào quá trình cảm thụ tác phẩm văn học. Như vậy càng thấy rõ hơn
tầm quan trọng cũng như vai trò hướng dẫn của người thầy trong giờ giảng
văn, giúp học sinh tích cực chủ động trong việc học. Để làm được việc này
đòi hỏi kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Phương pháp này đã xây dựng cho
các em khả năng tự học, đánh thức tư duy nghiên cứu độc lập, tạo dựng khả
năng liên kết nhóm, sự tự tin và kĩ năng thuyết trình vấn đề……
Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu. Để có thể dạy - học văn
một cách hiệu quả cần phải áp dụng đồng bộ các phương pháp khác nhau.
Thật không dễ dàng để có một phương pháp nào toàn vẹn, thỏa mãn được tất
cả các học sinh, các yêu cầu dạy và học môn Ngữ Văn. Điều quan trọng là
giáo viên phải biết lựa chọn, kết hợp các phương pháp để phát huy những thế
mạnh của từng phương pháp để đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy.
Tuy nhiên việc định hướng, gợi mở và tôn trọng những tìm tòi sáng tạo
của học sinh là cách thức hữu hiệu nhất tạo ra cho các em niềm say mê với
thế giới văn chương phong phú, nhiều màu sắc. Muốn được như vậy, người
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui40
thầy phải có “nghệ thuật đổi chỗ”. Thầy “đổi chỗ” vào vị trí của học sinh,
đọc tác phẩm với con mắt của học trò, suy nghĩ và cảm xúc bằng cảm xúc của
học trò...Từ đó tiên liệu trước những chi tiết khó hiểu, nhàm chán mà học sinh
vướng mắc và vận dụng phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Người thầy sẽ
tìm ra cách thuyết phục học sinh cái hay, cái đẹp của tác phẩm từ những câu
hỏi nêu vấn đề. Và quan trọng hơn, trên cơ sở đó, giáo viên sẽ hình thành
trong nhận thức của học sinh một phương pháp luận cảm nhận, đánh giá khoa
học khi đứng trước bất cứ một tác phẩm văn học nào. Điều đó cũng có nghĩa
là, dạy cho học sinh biết cách “câu cá” thay vì đưa “con cá”.
Tôi đưa ra chuyên đề này cũng chỉ mang tính chất chủ quan từ kinh
nghiệm và cách nhìn nhận đánh giá của bản thân và rất mong nhận được sự
góp ý của bạn bè, đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui41
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngữ Văn 12 (tập 1, 2) NXBGD
2. Sách giáo viên Ngữ Văn 12 Nâng cao (tập 1,2)
3. Sách giáo viên Ngữ Văn 12 (tập 1, 2) NXBGD
4. Phan Trọng Luận -Thiết kế bài học Ngữ Văn 12 NXBGD
5. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn 12,
NXBGD
6. Phan Thiều dịch , Phương pháp luận dạy học văn học ( NXBGD)
7. Phan Trọng Luận –Nguyễn Than Hùng (1988) Phương pháp dạy học
văn tập 1 NXBGD
8. Nguyễn Kì (1995) Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm
trung tâm NXBGDHN
9. Lê Nguyên Long (1998) Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu
quả , XNBGD
10.Vũ Nho (1999) Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn ở trường
THCS , NXB GD
11.Nguyễn Thị Ngân (2001) Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở trường
THPT
12.Carl Rogers, Phương pháp dạy và học hiệu quả, NXB Trẻ, 2001.
13.Nguyễn Viết Chữ (2003)Vấn đề câu hỏi trong dạy học văn
14.Bộ Giáo dục và đào tạo (2006) Tài liệu đổi mới về phương pháp dạy
học môn Ngữ Văn
15.Nguyễn Viết Chữ (2006) Phương pháp dạy học tác phẩm theo đặc
trưng loại thể NXBĐHSP
16.Hồ Ngọc Đại (2007) Tâm lí học dạy học NXBGD
GVTH: Đinh Thị Thúy Vui42