QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG … nghiep 4.0... · quyết đối...

18
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC DƯỚI TÁC ĐỘNG CA CÁCH MNG CÔNG NGHIP 4.0 VÀ TDO HÓA THƯƠNG MẠI: KINH NGHIM QUC TVÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH ĐỐI VI HI PHÒNG TS. Lê Xuân Sang Phó Viện trưởng Vin Kinh tế Vit Nam Email: [email protected] 1. Li mđầu Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng đang trong quá trình cải cách, phát triển và tái cơ cấu, dưới những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình tự do hóa kinh tế (thương mại, đầu tư, tài chính), Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN4), vốn đang diễn ra với gia tốc ngày càng cao, có tác động sâu rộng đến kinh tế, xã hội và từng cá nhân; do đó, đang và sẽ tạo ra những cơ hội không dễ năm bắt và và thách thức không dễ giải quyết đối với quản lý nhà nước trong thế kỷ thứ 21, nhất là đối với nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi như Việt Nam. Bài viết này phân tích, gii thiu nhng vấn đề vtác động ca CMCN4, cùng vi quá trình tdo hóa kinh tế đối vi quản lý nhà nước, cung cp nhng kinh nghim, vấn đề cn gii quyết tkinh nghim ca mt snước (Phn 2). Phn này gii thiếu các vấn đề thc tiễn trong QLNN đối vi nhn dạng các tác động đối với lao động tay nghthp và trung bình, ng phó với tác động ca CMCN.4 (trương hợp Grab và Uber) và Sdng thành quca CMCN 4.0 trong qun lý nhà nước, hành chính công. Phn kế tiếp đánh giá khái lược thc trng phát trin khoa hc - công nghvà các nn tng phát trin khác Vit Nam và Hải Phòng; qua đó, Phn cuối đưa ra các định hướng chính sách chyếu đối vi Hi Phòng. 2. Các vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý Nhà nước dưới tác động ca CMCN 4.0 và tdo hóa thương mại Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN4) hiện đang diễn ra với gia tốc ngày càng cao, có tác động sâu rộng đến kinh tế, xã hội và từng cá nhân; do đó, đang và sẽ tạo ra những cơ hội không dễ năm bắt và và thách thức không dễ giải quyết đối với quản lý nhà nước trong thế kỷ thứ 21, nhất là đối với nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi như Việt Nam.

Transcript of QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG … nghiep 4.0... · quyết đối...

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG

NGHIỆP 4.0 VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH ĐỐI VỚI HẢI PHÒNG

TS. Lê Xuân Sang

Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

Email: [email protected]

1. Lời mở đầu

Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng đang trong quá trình cải cách,

phát triển và tái cơ cấu, dưới những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng

với quá trình tự do hóa kinh tế (thương mại, đầu tư, tài chính), Cách mạng Công

nghiệp lần thứ 4 (CMCN4), vốn đang diễn ra với gia tốc ngày càng cao, có tác

động sâu rộng đến kinh tế, xã hội và từng cá nhân; do đó, đang và sẽ tạo ra những

cơ hội không dễ năm bắt và và thách thức không dễ giải quyết đối với quản lý nhà

nước trong thế kỷ thứ 21, nhất là đối với nước đang phát triển ở trình độ thấp và

đang chuyển đổi như Việt Nam.

Bài viết này phân tích, giới thiệu những vấn đề về tác động của CMCN4,

cùng với quá trình tự do hóa kinh tế đối với quản lý nhà nước, cung cấp những

kinh nghiệm, vấn đề cần giải quyết từ kinh nghiệm của một số nước (Phần 2). Phần

này giới thiếu các vấn đề thực tiễn trong QLNN đối với nhận dạng các tác động đối

với lao động tay nghề thấp và trung bình, ứng phó với tác động của CMCN.4

(trương hợp Grab và Uber) và Sử dụng thành quả của CMCN 4.0 trong quản lý nhà

nước, hành chính công. Phần kế tiếp đánh giá khái lược thực trạng phát triển khoa

học - công nghệ và các nền tảng phát triển khác ở Việt Nam và Hải Phòng; qua đó,

Phần cuối đưa ra các định hướng chính sách chủ yếu đối với Hải Phòng.

2. Các vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý Nhà nước dưới tác động

của CMCN 4.0 và tự do hóa thương mại

Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN4) hiện đang diễn ra với gia

tốc ngày càng cao, có tác động sâu rộng đến kinh tế, xã hội và từng cá nhân; do đó,

đang và sẽ tạo ra những cơ hội không dễ năm bắt và và thách thức không dễ giải

quyết đối với quản lý nhà nước trong thế kỷ thứ 21, nhất là đối với nước đang phát

triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi như Việt Nam.

Đến nay, chưa thể đánh giá đầy đủ những thay đổi sẽ diễn ra và khó có ai

khẳng dịnh chắc chắn những gì sẽ xảy ra. Ngay cả những nước có nền công nghệ

tiên tiến và có những bước tiến dài về phát triển công nghệ đã xây dựng chương

trình hành động cụ thể để thực hiện CMCN 4.0 như Mỹ, Đức, Nhật, Hàn Quốc,

Trung Quốc cũng thừa nhận đang phải đối mặt với nhiều loại hình thách thức nhiều

mặt.

Sự phát triển nhanh chóng, khó lường của công nghệ trong bối cảnh mới đặt

ra vai trò, nhiệm vụ cao hơn, tinh xảo hơn để xây dựng khung pháp lý đón bắt cơ

hội và giảm thiểu tác động tiêu cực. Các lĩnh vực cốt yếu sau Nhà nước cần phải

đóng vai trò chủ động, dẫn dắt trong dự báo, chủ động ứng phó hữu hiệu.

2.1. Nhận dạng các tác động đối với lao động tay nghề thấp và trung bình

Hiện nay, có 2 xu thế chủ đạo về tác động của người máy và trí tuệ nhân tạo

đối với lao động tay nghề thấp và trung bình. Hầu hết các ý kiên cho rằng,

CMCN4, thông qua người máy sẽ đe dọa mất việc làm ở cấp độ khác nhau trên thế

giới (Hình 1). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã dự báo 86% lao động trong

ngành dệt may và da giày của Việt Nam sẽ có nguy cơ mất việc.

Hình 1: Rủi ro mất việc làm bởi tự động hóa ở các nước trên thé giới

Xu hướng phát triển người máy tại các nước phát triển, nhất là những nước

ký kết FTA bậc cao với Việt Nam. Tại Liên minh châu Âu, số người máy đã tăng

hơn 2 lần trong giai đoạn 2010-2015, rieng giai đoạn 2017-19 dự kiến tăng trung

bình 13%/năm. 2/3 nước EU có mức robot/vạn LĐ trên mức trung bình thế giới.

Công nghiệp robot và trí tuệ nhân tạo (AI) đe dọa lao động tay nghề thấp và trung

bình tại các nước thu nhập thấp và trung bình kể cả việc DN FDI rút Robot về

nước lẫn việc đặt Robot ở tại thị trường đầu tư (để né xuất xứ CO) cũng như né

pháp lý điều chỉnh hoạt động người máy (hiện đang soạn thảo).

Hình 2: Eu: Số lượng robot/1 vạn lao động trong ngành công nghiệp chế biến (CNCB)

Nguồn: World Robotics Report 2016

Tuy nhiên, không nên quá lâu ngại (nhất là trong ngành dệt may) về vấn đề

mất việc làm nhanh chóng. Vấn đề cơ bản là giá thành Robot và tính hữu dụng/lĩnh

vực hoạt động của Robot so với con người như thê nào. Bên cạnh đó, công việc

dịch vụ đòi hỏi đam mê, đòi hỏi tình cảm do đó, trong một số trường hợp, người

máy + AI khó có thể làm tốt hơn và rẻ hơn so với con người. Cho đến nay vẫn

chưa thực sự ngã ngũ người máy là “vị cứu tinh hay ác quỷ” đối với người lao

động, cũng như có nên đánh thuế người máy hay không (EU đã từ chối); cũng

chưa xuất hiện làn sóng rút ồ ạt đầu tư nước ngoài về các nước phát triển như một

số dự đoán, có thể sẽ có những quyết định riêng lẻ trong tương lai.

Ngoài ra có lập luận cho rằng, việc mất việc còn đã được đặt ra trong các

cuộc cách mạng trước song thực tế không quá lo ngại như từng có.

Trong bối cảnh nguy cơ mất việc làm, áp lực nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực là rất lớn, đòi hỏi Nhà nước phải có chiến lược căn cơ, tâm nhìn dài hạn.

Nhà nước phải thuyết phục, tạo điều kiện, khuyến khích người lao động từ thành

thị đến nông thôn học tập suốt đời, sẵn sàng học một nghề mới, hợp tác với những

cộng sự đến từ nước khác. Hệ thống giáo dục sẽ phải phát triển để thực hiện nhiệm

vụ khó khăn này..Nếu không đạt được đồng thuận xã hội, tạo việc làm mới cho

những lao động mất việc vì người máy, xung đột xã hội sẽ khó tránh khỏi như đã

diễn ra việc công nhân mất việc tấn công người máy.

2.2. Ứng phó với tác động của CMCN.4: Trường hợp Grab và Uber

UBER và Grab là điển hình của tác động CMCN4 đối với nhiều quốc gia

đương đại, đã, đang và sẽ chịu khiếu kiện tại nhièu nước chủ yếu liên quan đến vấn

đề pháp lý. Nhìn chung, trong khi tại nhiều nước, loại hình dịch vụ này (nhất là

UBER) là được phép thì tại nhiều nước khác các hãng này đang bị khiếu kiện, buộc

ngững hoạt động, thậm chí ở cùng một nước (ví dụ, Hoa Kỳ, Ấn Độ) (Hình 2).

Bản chất của vấn đề sự lách luật của UBER (giữa công ty công nghệ với

dịch vụ vận chuyển), qua đó có thế mạnh cạnh tranh. Điều này vấp phải sự phản

đối từ các hãng taxi truyền thống, các cơ quan quản lý Nhà nước do có liên quan

tới các vấn đề giấy phép vận tải, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm sức khỏe cho

khách hàng và cạnh tranh, giám sát doanh thu, sự bình đẳng kinh doanh giữa các

loại hình doanh nghiệp,... dẫn đến loại hình này bị hạn chế, cấm ở nhiều nước.

Hình 2: Bản đồ hoạt động toàn cầu của UBER: Được phép và cấm

Đôi khi, UBER bị cấm một số địa phương, thời điểm do những nguyên nhân

không liên quan đến kinh tế, ví dụ do cáo buộc hiếp dâm (Ân Độ) hoặc mâu thuần

dân sự (ném trứng và bột mỳ, Bỉ), hoặc mâu thuẫn cá nhân các quan chức (Israen).

Hình 3: Các hình thức hạn chế hoạt động đối với UBER

Ngoài cách thức cấm hoàn toàn động, chính quyền địa phương tại các nước

còn sử dụng các công cụ quản lý như cấm khuyến mại (discount) (Đức và Pháp, ví

dụ, tại Pháp đối với UberPOP và UberX ), hoặc trì hoãn ban hành văn bản pháp

quy chuyên biệt cho UBER (Hàn Quốc), hoặc đơn giản là phản hồi từ các phản

ứng quá mạnh từ chính quyền các cấp (ví dụ, Panama City Beach, Florida, Mỹ).

Lưu ý là một số quốc gia cho phép, song các doanh nghiệp địa phương cạnh

tranh (có thể với sự ủng hộ của chính quyền) đã cạnh tranh đủ mạnh và mua lại,

hoặc đánh bật Uber (ví dụ, ở Nga (sáp nhập bới công ty Yandex. Taxi (công ty mẹ

là công tìm kiếm lớn nhất của Nga) và ở TQ (công ty Didi Chuxing ).

2.3. Sử dụng thành quả của CMCN 4.0 trong quản lý nhà nước hành

chính công

Cách hoạch định chính sách truyền thống trong thời đại mới sẽ chịu áp lực

thay đổi lớn do sự thay đổi nhanh, ngày càng mang tính phức tạp, đa chiều và

xuyên biên giới. Điều này đòi hỏi quản lý nhà nước phải có khung quản lý nhà

nước, hoạch định chính sách linh hoạt hơn nhiều.

Chức năng, phương pháp, hình thức hoạt động của nhà nước đã sẽ phải thay

đổi theo hướng thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự sáng tạo và đổi mới nhanh chóng

thay vì muốn ổn định, kiểm soát xã hội theo những cách thức, tiêu chí đã lỗi thời

và thiếu hiệu quả lẫn hiệu lực.

Nhà nước trong bối cảnh mới cần nâng cao chất lượng dự báo kinh tế - xã

hội, kết hợp giữa dự báo tiến bộ KH&CN với những quyết định đầu tư kinh tế -xã

hội, khắc phục cách quyết định theo “nhóm lợi ích tiêu cực” hay mang tính tùy

hứng, quyết định tại chỗ, thiếu căn cứ khoa học và kinh tế - kỹ thuật. Cần có quy

chế nghiêm ngặt về chế độ phản biện độc lập, trách nhiệm cá nhân của người phản

biện và giám sát, tránh cách làm man tính hình thức.

Những yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước đòi hỏi công cụ làm mới, đó đó ứng

dụng ngay chính thành tựu của CMVN4 trong hoạt động hoạch định và thực thi

chính sách. Trung Quốc đã bắt đầu ứng dụng những công cụ như big data, internet

vạn vật và trí tuệ nhân tạo trong đánh giá chính sách công và giám sát hành chính

công. Tiềm năng sử dụng các công cụ này trong phân tích, dự báo là không nhỏ.

Hy vọng rằng, CMCN 4 sẽ đẩy nhanh tiến trình cải cách nhà nước theo hướng nhà

nước kiến tạo, liêm khiết, sáng suốt, trọng dụng nhân tài và thúc đẩy KH&CN.

2.4. Sử dụng các công cụ chính sách để thúc đẩy tác động của cách mạng

vào phát triển công nghệ trong nước

Đối với những nước có những nền tảng để phát triển công nghệ thấp như

Việt Nam, dưới tác động mạnh mẽ của CMVN4, thì việc phát triển các cơ sở ươm

tạo/ vươn ươm công nghệ là rất cần thiết và là giải pháp cuối cùng. Lý do là khi

các nguồn lực (tài lực, nhân lực) và điều kiện cần cho phát triển công nghệ, đổi

mới sáng tạo và thương mại hóa sản phẩm (các liên kết, thị trường vốn và văn hóa

kinh doanh) trong nền kinh tế chưa hình thành đủ mạnh thì không thể phát triển

công nghệ thành công, nhất là công nghệ nguồn.

Do đó, việc phát triển các vườn ươm một cách chuyên nghiệp, kiên định với

tư duy không định kiến, tính tới điều kiện trong nước, địa phương là cần thiết.

Chính cá các vừờn ươm sẽ là nơi kết nối 3 nhà, cập nhật các công nghệ mới, kết

nối các nguồn lực, là nơi test hiệu quả hoạch định chính sách và nung nấu tinh thần

khởi nghiệp, phát triển thị trường vốn tốt nhất (xem thêm Hình 4).

Hình 4: Quy trình, cách thức và nội dung ươm tạo công nghệ của một cơ sở ươm tạo công

nghệ điển hình

Nguồn: Lê Xuân Sang (2015).

3. Thực trạng công nghệ, các nhân tố phát triển công nghệ của Việt

Nam và Hải Phòng và một số gợi suy chính sách

3.1. Việt Nam đang ở đâu trong các con sóng cách mạng công nghệ và

làng công nghệ thế giới

Nhìn chung, Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng thường bị lạc lối,

không dứt được đúng các con sóng cách mạng công nghệ. Do trình độ yếu kém, đi

sau nên Việt Nam luôn là người thụ hưởng? hay là “người tiêu dùng vĩ đại” thay vì

trở thành một “nhà cung ứng”. Sau khi bỏ lỡ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ

hai trong thời kỳ Pháp thuộc, sang tới thời kỳ thế giới chuẩn bị cho cách mạng

công nghiệp lần thứ ba thì Việt Nam đang trong giai đoạn chiến tranh và không đủ

khả năng chuẩn bị để trở thành nhà cung ứng. Vì thế, khi Việt Nam đang nỗ lực

đổi mới kinh tế xã hội thì cách mạng công nghiệp lần thứ ba trên thế giới đã đạt tới

giai đoạn “trưởng thành”, và chúng ta buộc phải trở thành người tiêu dùng.

Đối với cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, Việt nam có nguy

cơ lớn lại lỡ nhịp, nhận con sóng đổ vào đầu thay vì cưỡi sóng (Hình 5).

Hình 5: Vị thế Việt Nam giữa 4 con sóng cách mạng công nghiệp

Nguồn: Thu Quỳnh (2017) dựa trên Nguyễn Thế trung (2015)

Hiện dáng dấp của tác động CMCN 4 có thể thấy qua ứng dụng

UBER/Grab, cắt CNC, một số cánh tay rô bớt phẩu thuật, một số máy in 3 D nhập

khẩu (làm tượng hay hình khối 3 D), may quần áo cá nhân,… và các máy bay

không người lái. Thành tựu mà tự Việt Nam phát triển được trong in 3 D (do đại

học bách khoa thử nghiệm) là chiếc giày nhưa thô số và máy bay không người lái

(thụ hưởng nhiều từ chuyển giao công nghệ quân sự của Nga). Lưu ý là khi Dày

nhựa là sản phẩm in 3D của ViỆT Nam thì Trung Quốc đã ứng dụng in 3D trong

xây dựng nhà, Nga đã chuẩn bị cho ra in 3 D nội tạng (gan, tim).

Trình độ công nghệ thấp là hệ lụy của các yếu tố nền tảng cho phát triển

công nghệ yếu kém như nhân lực. Chất lượng vốn nhân lực (HCI) còn thấp và

chậm cải thiện. Riêng chất lượng vốn nhân lực từ 24-54 t rất thấp (70/130 nước);

tuy nhiên, số từ 15-24 của Việt Nam năm 2016 xếp hạng 31/130 nước được khảo

sát. Lao động không tay nghề có tỷ trọng cao tuy đã dần cải thiện (Hình 6).

Hình 6: Trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật Việt Nam

Nguồn: VIE (2015) và tổng hợp của tác giả

Một nguyên nhân của trình độ nhân lực, công nghệ thấp là do chất lượng các

thể chế hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ và cạnh tranh còn yếu kém, không có

dấu hiệu cải thiện (Bảng 1). Xuất phát điểm thấp, hệ thống giáo dục kém phát triển

là những nguyên nhân cơ bản liên quan trực tiếp tới phát triển công nghệ yếu kém

hiện nay.

Bảng 1 : Xếp hạng chất lượng thể chế hỗ trợ doanh nghiệp của Việt Nam

Nguồn: Tập hợp của Tác giả (2017),

Ngoài ra, các nhân tố hỗ trợ cạnh tranh và phát triển thị trường công nghệ và

sức cạnh tranh quốc gia yếu kém, chậm cải thiện (tuy có nhiều nỗ lực của CP mới

gần đây) cũng là các nhân tố chủ yếu, dai dẳng khiến công nghệ và đổi mới công

nghệ - đổi mới sáng tạo chậm phát triển.

Đối với Hải Phòng nói riêng:

Hải Phòng là một tỉnh phía Bắc, có Hải cảng quan trọng ở Bắc Trung Bộ.

So với các tỉnh khác, trình độ phát triển công nghệ, kinh tế xã hội vào dạng top

10-20, nhìn chung vào dạng trung bình khá. Hệ thống doanh nghiệp công nghệ,

công nghiệp chế biến cũng trong vị thế tương tự. Hệ thống đại học, trung học

chuyên nghiệp cũng chưa thực sự phát triển.

Hình 7: Các trụ cột, thể chế ảnh hưởng tới sức cạnh tranh quốc gia và phát triển công nghệ

Nguồn: WEF (2016).

Công nghệ thông tin Hải Phòng, một nền tảng trọng yếu cho phát triển kinh

tế, xã hội và công nghệ, quản lý nhà nước, cũng phát triển với mức trung bình

khá, xếp thứ 13 theo Chỉ số Sẵn sàng về công nghệ thông tin ICT Index (Bảng 2),

Các chỉ số khác liên quan đến năng lực ứng dụng CNTT, cung ứng dịch vụ và phát

triển kinh doanh cũng vào top 10 - 20 (xem Phụ lục 2 đến Phụ lục 6).

Bảng 2. Xếp hạng chung ICT Index của các tỉnh, TP, 2014-2016

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017.

Tuy nhiên, Hải phòng có ưu thế nhất định về hạ tầng nhân lực của các cơ

quan quản lý nhà nước (xếp thứ 5 toàn quốc).

Bảng 2. Xếp hạng hạ tầng nhân lực các cơ quan quản lý nhà nước

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017

Các nền tảng khác cho ứng dụng, phát triển công nghệ của Hải Phòng cũng

không nổi bật. Hải phòng là 1 trong 10 địa phương có sàn giao dịch công nghệ và

thiết bị. Theo Chiến lược phát triển khoa học và Công nghệ của Hải Phòng đến

năm 2010, Hải Phòng sẽ thí điểm phát triển hệ thống ươm tạo công nghệ. Tuy

nhiên các quy định cụ thể vẫn chưa được xây dựng cụ thể.

3.2. Một số gợi ý chính sách phát triển khoa học - công nghệ đối với Hải

Phòng

Sự phát triển khoa học - công nghệ của một quốc gia tùy thuộc vào các yếu

tố quan trọng khác, từ hệ thống giáo dục, chính sách ngành, chính sách đổi mới

sáng tạo quốc gia, chính sách phát triển doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn và

phát triển thị trường và tự do hóa kinh tế. Ngoài ra, yếu tố bản sắc văn hóa, xã hội,

và vị trí địa kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển khoa học công

nghệ và đổi mới sáng tạo.

Đối với một địa phương như Hải Phòng, dư địa tự xây dựng cho mình một

hệ thống thể chế phát triển khoa học công nghệ riêng là không nhiều, song không

hẳn là không có, thông qua hệ thống khuyến khích đổi mới sáng tạo phù hợp. Các

dư địa có thể phát triển đó là nâng cấp hệ thống giáo dục trên địa bàn và phát triển

hệ thống ươm tạo công nghệ, và hệ thống liên kết doanh nghiệp (thông qua sắp xếp

lại hệ thống khu công nghiệp, cụm công nghiệp).

Đổi mới, nâng cấp hệ thống giáo dục trên địa bàn là một trọng tâm để thu

hút, nâng cao chất lượng nhân lực. Vấn đề tự chủ, hệ thống khuyến khích, cải thiện

quản lý nội bộ hay mở thêm trường đặc thù,… có thể là những vấn đề đáng quan

tâm.

Việc phát triển cac vườn ươm công nghệ cần được nghiên cứu bài bản,

chuyên sâu, học hỏi kinh nghiệm phát triển của 12 vườn ươm toàn quốc còn tồn tại

ngày nay (xem thêm Phụ lục 1) và những thông lệ quốc tế tốt, tính đến điều kiện

Việt Nam/Hải Phòng và các tiến bộ công nghệ và xu hướng phát triển. Vấn đề

quan trọng không kém là cơ chế quản lý của Thành phố, quản trị vươn ươm, vị trí

đặt, chính sách ươm tạo và thu hút các bên có lợi ích liên quan.

Việc phát triển các cụm liên kết ngành (industrial cluster) cần gắn với thực

trạng phát triển, quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chính sách

công nghiệp hỗ trợ và các mạng lưới trong nước, khu vực. Cơ chế chính sách tài

chính, thu hút thủ lĩnh để phát triển cũng quan trọng không kém.

Để thực hiện tốt các định hướng trên, đòi hỏi Lãnh đạo Hải Phòng, quyết

tâm thực hiện và tầm nhìn có lộ trình quy hoạch, thu hút, tính đến cục diện trong

nước và khu vực, thực trạng của các MNC và mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị hiện

hành, trong đó tính đến các cơ hội, rào cản từ hình thành Đặc Khu kinh tế Vân

Đồn cũng như các nhân tố ảnh hưởng kinh tế từ Trung Quốc. Tất nhiên, quyết tâm

chính trị cao nhất của Thành phố là xây dựng Chính quyền Thành phố kiến tạo,

phát triển trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ./.

Tài liệu tham khảo

Thu Quỳnh (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Ưu tiên cải cách thể chế và đổi

mới giáo dục”, Tạp chí Tia Sáng, số ra 04/07/2017

Martina Larkin (2017) “How Can Public Institutions Master the Fourth Industrial

Revolution?, Head of Europe and Euroasia, Executive Committee, World Economic

Forum.

World Economic Forum (2015), Global Competitiveness Report 2015, Geneva, 2015

Bộ Thông tin Truyền Thông (2017), Vietnam ICT Index 2016, Hà Nội, 2017

Phụ lục

Phụ lục 1 : Một số mô hình Vườn ươm tại Việt Nam mà Hải Phòng có

thể tham khảo

A. Cần Thơ

1. Trung tâm ươm tạo Doanh nghiệp công nghệ, thuộc Đại học Cần Thơ

(CTBI-CTU)

Được thành lập ngày 26/12/2012, là một tổ chức nhà nước, hoạt động phi lợi

nhuận, do trương Đại học Cần Thơ quản lý, cung cấp dịch vụ và cơ sở vật chất cần

thiết để hỗ trợ việc khởi nghiệp từ giai đoạn hình thành ý tưởng, tới phát triển sản

phẩm cho đến khi thành lập doanh nghiệp và phát triển thành doanh nghiệp (thành

công).

Trung tâm ươm tạo DNCN sẽ đong vai trò cầu nối cho các mối liên kết giữa

doanh nghiệp và Trương Đại học – Viện nghiên cứu – các đơn vị cung cấp dịch vụ

cho doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý nhà nước, giúp doanh nghiệp vượt qua

những kho khăn khi nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới. Trung tâm cũng giúp

cho Trường Đại học – Viện nghiên cứu định hướng nghiên cứu ứng dụng và

thương mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học và tạo lập các yếu tố cho hoạt

động của thị trương công nghệ (bao gồm sản phẩm công nghệ, phía cung, phía cầu,

các phía trung gian, tư vấn, thông tin KH-CN)

2. Vườn ươm Công nghệ Công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc (Gọi tắt là

KVIP – Korea Viet Nam Incubator Park)

Đây là Dự án Hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc

với tổng vốn đầu tư 21,13 triệu USD (trong đó Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ bằng

nguồn vốn ODA không hoàn lại là 17,7 triệu USD và nguồn vốn đối ứng của Việt

Nam là 3,4 triệu USD). Mục tiêu của Dự án là hỗ trợ nghiên cứu phát triển các

ngành có lợi thế cạnh tranh của thành phố Cần Thơ nói riêng và Đồng Bằng Sông

Cửu Long (ĐBSCL) nói chung.

Mục tiêu của KVIP:

1. Thu hút các nguồn lực khoa học công nghệ trong và nước ngoài, tạo động

lực thúc đẩy phát triển công nghệ đối với các ngành mục tiêu là chế biến nông,

thủy sản và cơ khí chế tạo máy nông nghiệp. Gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Thúc đẩy

đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ và phát

triển thị trường nhằm thương mại hóa sản phẩm sau ươm tạo.

2. Hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ góp phần quan

trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng

hoá, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh của Cần Thơ và Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu

Long.

B. Đà Nẵng

1. Vườn ươm khởi nghiệp và sáng tạo CIT – Lotus Hub” - Trường CĐ

Công nghệ thông tin – Đại học Đà Nẵng

CIT – Lotus Hub trong khuôn khổ chương trình Đối tác Đổi mới Sáng tạo

(IPP) – một dự án ODA đồng tài trợ bởi Chính phủ Việt Nam và Phần Lan (Quỹ

Lotus Fund) và tài trợ từ các trường cao đẳng, đại học, cộng đồng doanh nghiệp

công nghệ thông tin & truyền thông (CNTT&TT). Vườn ươm đầu tiên được quỹ

Lotus Fund đầu tư tại Việt Nam. Qũy Lotus Fund lựa chọn các dự án khả thi nhất

từ Vườn ươm để hỗ trợ kỹ thuật, tài chính để giúp các em biến các ý tưởng thành

sản phẩm có ích và thương mại hóa sản phẩm ra thị trường. “Vườn ươm khởi

nghiệp và sáng tạo CIT – Lotus Hub” hình thành nhằm ươm tạo các dự án khởi

nghiệp và sáng tạo được lựa chọn từ chương trình PISI – CIT 2015, tạo điều kiện

thuận lợi hỗ trợ cho tất cả học sinh-sinh viên và các bạn trẻ ở khu vực miền Trung

– Tây Nguyên trải nghiệm về khởi nghiệp và sáng tạo ngay khi còn ngồi trên ghế

nhà trường. .

2. Vườn ươm Doanh nghiệp thành phố Đà Nẵng được thành lập với tên

gọi Công ty TNHH Đầu tư và hỗ trợ khởi nghiệp Đà Nẵng (DNES), vốn điều lệ

ban đầu 30 tỷ đồng, hoạt động theo mô hình công tư kết hợp với sự góp vốn từ

nguồn ngân sách nhà nước và vốn từ các tập đoàn, doanh nghiệp, doanh nhân.

Chức năng chính của Vườn ươm là thực hiện ươm tạo các ý tưởng, các đề án đáp

ứng điều kiện quy định thông qua hình thức xét tuyển, hỗ trợ mặt bằng hoạt động,

cung cấp cho các nhóm dự án thông tin về lĩnh vực chuyên môn; thực hiện tư vấn

và đào tạo các dịch vụ về khởi nghiệp, quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính từ

các chuyên gia có kinh nghiệm, từ các doanh nhân đã thành đạt; thực hiện đầu tư

các dự án khởi nghiệp bao gồm dự án đầu tư ngắn hạn và dài hạn, kêu gọi liên kết

các quỹ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào các dự án ươm

tạo có tính khả thi cao.

c) TP. Hồ Chí Minh

1. Trung tâm ươm tạo Doanh nghiệp công nghệ, Trường Đại học Nông

lâm TP.HCM và của thành phố Hồ Chí Minh

Được thành lập từ tháng 9/2007 với mục đích phát triển và thương mại hoá

tất cả các ý tưởng công nghệ thành tất cả các Doanh nghiệp lớn mạnh đóng góp

cho sự phát triển Kinh tế- xã hội, cũng như sự phát triển đào tạo, nghiên cứu khoa

học của trường nhà.

CTBI-NLU ươm ưu tiên tạo tất cả các doanh nghiệp công nghệ thuộc các

lĩnh vực là thế mạnh đào tạo và cứu nghiên của Trường như Nông nghiệp, Công

nghệ sinh học, Chế biến nông sản thực phẩm và Cơ khí-tự động hóa phục vụ tất cả

lĩnh vực trên.

2. Vườn Ươm Doanh Nghiệp Phần Mềm Quang Trung

Thành lập năm 2005 và đi vào hoạt động từ năm 2008 (được sự hỗ trợ của

Cộng đồng Châu Âu (EU) và Chính phủ Việt Nam), Công ty TNHH Ươm tạo

Doanh nghiệp Phần mềm Quang Trung (gọi tắt là QTSC Incubator) mang trên

mình sứ mệnh xây dựng một trung tâm ươm tạo chất lượng cao nhằm hỗ trợ và

nuôi dưỡng các doanh nghiệp phần mềm, công nghệ thông tin vượt qua những khó

khăn, rủi ro, thách thức trong giai đoạn đầu khởi nghiệp. QTSC Incubator đồng

thời góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần mềm thành ngành công

nghiệp mũi nhọn phát triển bền vững và tăng trưởng cao về kinh tế, tạo ra nhiều

việc làm mới, xây dựng thương hiệu CNTT quốc gia, đồng thời phát huy tiềm năng

và trí tuệ của người Việt Nam, đặc biệt là tiềm năng và trí tuệ của thế hệ trẻ Việt

Nam. Ngoài ra, QTSC Incubator còn tích cực khuyến khích hình thành phát triển

các doanh nghiệp phần mềm, công nghệ thông tin trong phạm vi thành phố HCM,

góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm thành ngành công nghiệp mũi

nhọn phát triển bền vững và tăng trưởng cao về kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới,

xây dựng thương hiệu CNTT quốc gia.

4) Hà Nội

1) Vườn ươm doanh nghiệp chế biến và đóng gói thực phẩm Hà Nội (HBI)

HBI là một dự án thuộc “Chương trình hỗ trợ khu vực tư nhân Việt Nam” do

EU tài trợ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Văn bản số 1432/CP-HTQT

ngày 30/09/2004 và Hiệp định tài trợ được Chính phủ Việt Nam và Uỷ ban Châu

Âu ký kết ngày 07/10/2004. Vườn ươm chính thức khai trương vào ngày

25/11/2007, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp trẻ trong

ngành chế biến và đóng gói thực phẩm.

Mục tiêu của Vườn ươm

Tạo ra một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như

các doanh nghiệp mới khởi nghiệp, gồm:

- Trang thiết bị hỗ trợ các doanh nghiệp trẻ vượt qua khó khăn trong những

năm đầu kinh doanh.

- Nhà xưởng, kỹ thuật, tư vấn, mạng lưới và dịch vụ văn phòng.

- Thời gian ươm tạo: 2 đến 3 năm

Nguồn: Tổng hợp của tác giả.

Phụ lục 2. Xếp hạng ứng dụng CNTT của các tỉnh, TP

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017

Phụ lục 3. Các địa phương dẫn đầu về chỉ số sản xuất – kinh doanh

CNTT

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017

Phụ lục 4. Các địa phương dẫn đầu về chỉ số dịch vụ CNTT

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017

Phụ lục 5. Các địa phương dẫn đầu về chỉ số kinh doanh CNTT

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017

Phụ lục 6: Số lượng doanh nghiệp CNTT tại các địa phƣơng năm 2015

Nguồn: Báo cáo ICT Index 2017