QUAN NIỆM VỀ THƠ CỦA XUÂN...
Transcript of QUAN NIỆM VỀ THƠ CỦA XUÂN...
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN VĂN KHÁNH
QUAN NIỆM VỀ THƠ CỦA XUÂN DIỆU
Chuyên ngành : Lý luân văn học
Mã số : 5.04.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2003
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN VĂN KHÁNH
QUAN NIỆM VỀ THƠ CỦA XUÂN DIỆU
Chuyên ngành : Lý luân văn học
Mã số : 5.04.01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. LÝ HOÀI THU
HÀ NỘI - 2003
LỜI CẢM ƠN
Bản khoá luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lý Hoài Thu. Nhân dịp này, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn
chân thành sâu sắc nhất đối với sự quan tâm giúp đỡ, sự chỉ bảo tận tình mà cô đã dành cho em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin chân thành cảm ơn những ý kiến quí báu của thầy giáo phản biện GS.TS. Trần Đăng Xuyền, TS. Nguyễn Đăng Điệp và các Giáo sư,
Tiến sĩ trong tổ bộ môn Lý luận văn học và Khoa Văn học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
Một lần nữa, bằng tình cảm chân thành sâu sắc nhất của mình, cho phép
em bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo đã hết lòng dạy dỗ em trong suốt hai năm qua. Cảm ơn các bạn đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ cho tôi hoàn thành tốt khoá học và bản luận văn này.
Nguyễn Văn Khánh
A. MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
1.1. Thơ là một thể loại văn học ra đời từ rất sớm và có vô số quan niệm
về thơ. Có người nói : “thơ là muối của cuộc đời”, và cao hơn, thơ chính là
“máu của cuộc đời”. Lê Quí Đôn quan niệm : “Thơ khởi phát tự trong lòng
người ta”. I.W.Goethe xem thơ là hành động tự giải toả của mỗi người. Với Tố
Hữu, thơ là “tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn”. Nhà thơ Sóng Hồng coi thơ
là “tình cảm và lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật” để có
khả năng “thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Platon xem “thơ là
tặng phẩm của thần linh”v.v...và v.v... Dù thơ là gì đi nữa thì vẫn phải là kết
tinh và thăng hoa của mồ hôi và nước mắt cuộc đời. Có thể nói có bao nhiêu
nhà thơ, người đọc thơ thì có bấy nhiêu cách hình dung “định nghĩa” và quan
niệm về thơ khác nhau. Lãnh địa tinh thần này, mang trong mình những quan
niệm riêng tiềm ẩn đầy sức ám gợi không dễ gì thấu hiểu nắm bắt. Chính điều
đó khiến thơ ca trở thành một loại hình nghệ thuật được sự quan tâm hàng đầu
của các nhà nghiên cứu. Nói đến thơ là nói đến một hệ thống mở, một dòng
chảy dào dạt luôn vận động biến đổi không ngừng mà sự luận bàn là một hành
trình không có hồi kết.
1.2. Xuân D Đình Thi có ngôn ngữ tự nhiêà một nhà thơ lớn, một “hiện
tượng nghệ thuật điển hình” là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, người
góp phần làm nên “một thời đại trong thi ca”, đồng thời cũng là “người tái tạo
nguồn sinh lực cho Thơ mới những năm 36 - 39 và đẩy trào lưu thơ ca này vào
thời cực thịnh”. Sau cách mạng, hồn thơ Xuân Diệu rộng mở như muốn ôm
trùm cả cuộc đời mới. Hai trường ca “Ngọn quốc kì” và “Hội nghị non sông”
chứng tỏ ông đã bước đúng giữa đại lộ thơ ca cách mạng. Bên cạnh thơ chính
trị, thơ chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới, con người mới, mảng thơ tình
yêu đã làm cho tên tuổi Xuân Diệu thành bất tử. Đến nay, ông vẫn là nhà thơ
tình số một, nhà thơ tình “kiệt xuất” chưa ai vượt qua được.
Mảng thơ dịch và giới thiệu tinh hoa thơ ca thế giới cũng chứa đựng
không ít tài thơ và quan niệm về thơ của ông.
Không chỉ dừng lại ở đó, Xuân Diệu còn là “nhà nghiên cứu phê bình lỗi
lạc”(Mai Quốc Liên), “một đại gia”(Hà Xuân Trường), “một viện nghiên cứu
”(Chế Lan Viên) trong việc nghiên cứu phê bình thơ. Bởi vậy, có thể nói, hơn
ai hết, Xuân Diệu là một trong những người có tư cách được xem là một
nhà thơ có cả một hệ thống quan niệm về thơ và nghề thơ đầy đủ nhất. Nó
không chỉ được phát biểu, trình bày bằng một hệ thống lý luận rất phong
phú mà còn được bày tỏ sinh động qua thực tiễn sáng tác thơ và nghiên
cứu phê bình thơ.
1.3. Theo dòng lịch sử, mỗi tác giả và tác phẩm văn chương luôn chịu sự
thử thách, chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và phần nhiều đã rơi vào quên
lãng. Nhưng “dường như ngược lại với quy luật ấy, những tác giả và tác phẩm
tiêu biểu lại không ngừng được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử”. Đó là kết
luận mang tầm khái quát cao của giáo sư Hà Minh Đức đối với các thi hào, thi
bá trong văn học Việt Nam. Bên cạnh những : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Hồ Chí Minh, Tố Hữu... Xuân Diệu cũng là một trường hợp tiêu
biểu cho việc “không ngừng được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử”. Trong
những năm gần đây, nhiều luận án tiến sĩ về Xuân Diệu được bảo vệ thành
công, nhưng những gì trong di sản nghệ thuật Xuân Diệu để lại vẫn là những
chân trời mới đầy hấp dẫn và có sức lôi cuốn đặc biệt.
1.4. Với tư cách là một tác gia văn học lớn, nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình đã đi sâu tìm hiểu các phương diện khác nhau của các giá trị trong thơ và
phê bình thơ của Xuân Diệu. Nhưng vấn đề “Quan niệm của Xuân Diệu về thơ”
thì chưa thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu trọng tâm của bất kỳ một công
trình khoa học nào. Bởi vậy, luận văn chọn đề tài : “Quan niệm về thơ của
Xuân Diệu” nhằm cố gắng hệ thống, phân tích và trình bầy những đóng góp
trong quan niệm về thơ của Xuân Diệu trên các phương diện chính: quan niệm
về đặc trưng, bản chất của thơ, nhà thơ, qui trình sáng tạo thơ, chất lượng thơ...
từ đó đưa ra những lý giải quan niệm về thơ đó là gì? Nó ảnh hưởng, chi phối
đến thực tiễn sáng tác : cả thơ và phê bình thơ của bản thân nhà thơ nói riêng
cũng như vai trò, tác động và ý nghĩa của quan niệm ấy trong sự vận động và
phát triển của thơ ca dân tộc nói chung ra sao? Qua đó, phần nào giúp người
đọc có một nhận thức toàn diện hơn về một tác gia văn học lớn của dân tộc
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, gần trọn thế kỷ XX “một thế kỷ bùng nổ, một
thế kỷ nhảy vọt trong tiến trình phát triển tuần tự của toàn nhân loại” đặng giúp
chúng ta có thể bước vào một thời kỳ văn học mới với bản lĩnh và những thành
tựu xứng đáng hơn. Bởi vì, nói như Jiri Wolker : “Qua nhà thơ, người ta thấy
tầm cỡ thời đại mà ông ta sống.”
2. Lịch sử vấn đề.
Xuân Diệu là một tác gia văn học lớn. Ông luôn được sự quan tâm của
đông đảo giới nghiên cứu, phê bình. Ở những vấn đề và dưới những góc độ,
những phương pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học đã đi sâu và làm
sáng tỏ nhiều điều lý thú. Nhưng vấn đề, quan niệm về thơ của Xuân Diệu lại
chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề thường chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp
hay một mức độ vừa phải nếu không muốn nói là lướt qua. Hoặc cũng có khi
các tác giả trình bày quan niệm về thơ cho cả một trào lưu, một giai đoạn
nhưng lại chưa đi sâu vào từng tác giả cụ thể và coi đó là một đối tượng nghiên
cứu có tính hệ thống; cũng cần phải thấy rằng quan niệm về thơ của mỗi tác giả
luôn bị chi phối bởi quan điểm nghệ thuật của các khuynh hướng, trào lưu văn
học mà tác giả đó chịu ảnh hưởng cũng như của từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Hơn nữa phần lớn các nhà nghiên cứu mới chỉ đề cập tới quan niệm về thơ của
Xuân Diệu trên các “văn bản lộ thiên” tức là các phát ngôn trực tiếp của tác giả
mà chưa chú trọng đúng mức đến “văn bản chìm”, ẩn chứa trong chính thực tiễn
sáng tác của nhà thơ. Dầu vậy, luận văn luôn tiếp thu, kế thừa những kết qủa
của những người đi trước, coi đó là những gợi ý, những điểm tựa quan trọng
làm nên tính hệ thống của vấn đề quan niệm về thơ của Xuân Diệu.
2.1. Tình hình nghiên cứu quan niệm về thơ của Xuân Diệu trước cách
mạng tháng Tám.
Mặc dầu ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn, Xuân Diệu đã lọt vào
“mắt xanh” của những người tên tuổi và có uy tín trong giới văn nghệ sĩ, nhưng
nhìn chung các bài viết mới chỉ đánh giá cao vị trí hàng đầu của Xuân Diệu đối
với phong trào Thơ mới ở góc độ những cách tân, sáng tạo đặc sắc về cả “hồn”
và “xác” trong thơ, chưa đề cập tới quan niệm về thơ của Xuân Diệu.
Thế Lữ, người đi tiên phong của phong trào Thơ mới, trong bài viết đầu
tiên giới thiệu Xuân Diệu năm 1937, tuy có những nhận xét xác đáng biểu hiện
sự trân trọng đối với một tài năng nhưng cũng chỉ ở góc độ ngợi ca cái đặc
điểm riêng trong thơ Xuân Diệu khác với Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Huy
Cận... Thế Lữ viết : “Thơ của ông không phải là “văn chương” nữa, đó là lời
nói, là tiếng reo vui hay năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là những tình ý
rạo rực biến lẫn trong những thanh âm. Xuân Diệu, nhà thi sĩ của tuổi xuân,
của lòng yêu và ánh sáng”. Năm 1938, trong lời tựa tập Thơ thơ, Thế Lữ vẫn
tiếp tục dành những lời nồng nhiệt ngợi ca Xuân Diệu nhưng cũng chỉ về
những đặc điểm của hồn thơ Xuân Diệu : “Thơ thơ là cụm đầu mùa chàng tặng
cho nhân gian. Và từ đây, chúng ta có Xuân Diệu. Loài người hãy hiểu con
người ấy”(47.T12).
Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam (1942), người tổng kết “Một thời
đại trong thi ca”, người định vị các chuẩn mực giá trị cũng như tầm quan trọng
của nó trong tiến trình vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, tuy đã nói nên
được cái “thần” của hồn thơ Xuân Diệu nhưng cũng chưa đề cập đến quan niệm
về thơ của ông khi cho rằng: thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng
có. Khi vui cũng như khi buồn ông đều nồng nàn tha thiết. Sau đó Hoài Thanh
đi đến một nhận định khái quát, đề cao đúng vị trí xứng đáng của nhà thơ:
“Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ mới, nên những người lòng trẻ mới
thích đọc Xuân Diệu mà đã thích thì phải mê... Với một nhà thơ còn gì quí hơn
cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ”(29.T33, 37). Mặc dù vậy, qua Thi nhân
Việt Nam, Hoài Thanh đã khai mở nhiều vấn đề quan trọng cho việc tìm hiểu
quan niệm về thơ nói chung và của Xuân Diệu nói riêng.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn Việt Nam hiện đại (1941) có nêu cảm
giác chung của người trí thức lúc bấy giờ về thơ Xuân Diệu. Họ đã từng “phải
chặc lưỡi mà kêu: Thơ đâu lại có thứ thơ quái gở như thế !”. Nó ngây ngô quá,
“Tây” quá nhất là về âm điệu. Theo Vũ Ngọc Phan: dù là thơ mới hay cũ, đã là
thơ hay phải đảm bảo hai điều: ý nghĩa và âm điệu. ý nghĩa phải khoái hoạt,
hùng hồn, thú vị phát ra bởi những tư tưởng thâm trầm, còn âm điệu du dương
là nhờ ở cú pháp phân minh, chữ dùng tề chỉnh và quán xuyến. Đồng thời ông
cũng bênh vực Xuân Diệu và cho rằng không thể dùng hai chữ “ngô nghê”
được. Bởi vì “nếu ngũ quan bị kích thích, thi nhân chứa chan tình cảm mà phát
ra lời thơ, thì trong trí tưởng tượng, những cái vô hình cũng có thể hoá ra hữu
hìmh : Thơ cũng có thể ví như những thỏi nước đá mát lạnh và cảm đến não
con người ta, nhạc có thể ví như một thứ rượu mùi, tuy ngọt, tuy đậm đà, thơm
tho, mà có thể làm cho người ta say tuý luý”(48.T49). Và cuối cùng Vũ Ngọc
Phan kết luận : “Xuân Diệu thật là một người có tâm hồn thi sĩ”. Rằng Xuân
Diệu quan niệm về quá trình sáng tạo thơ phải luôn “với sự nồng nàn, tha thiết”
bằng nhịp đập của trái tim chứ không phải là một tay “thợ thơ” chỉ chăm chăm
chú ý vào kĩ thuật, chú ý đến “xác” mà không chú ý đến “hồn”.
2.2. Tình hình nghiên cứu quan niệm về thơ của Xuân Diệu
sau cách mạng tháng Tám.
Nguyễn Văn Long trong Từ điển Văn học, T.II, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, mục Xuân Diệu có đề cập ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn và tượng
trưng Pháp đến phong cách thơ Xuân Diệu. Nguyễn Văn Long cho rằng: Do chi
phối bởi quan niệm về bản chất, chức năng và quy luật tự biểu hiện, đặc biệt
quan niệm về “cái tôi” bản thể trong mỗi nhà thơ và mỗi tác phẩm thơ mà trong
thơ, Xuân Diệu đã “kêu gọi tuổi trẻ tận hưởng hạnh phúc trần thế, nhằm tìm
một lối thoát khỏi thực tại đen tối. Sự đòi hỏi hưởng thụ ấy trước hết và lớn
nhất ở tình yêu, được nhà thơ nói lên một cách khát khao, rạo rực đến vô tận
bằng mọi giác quan cảm xúc nhạy bén, nhưng luôn luôn cảm thấy mong manh,
không thoả mãn, và do đó lúc nào cũng hốt hoảng, vội vàng lo sợ mọi cảm giác
sẽ tan biến, tuổi trẻ và tình yêu sẽ phai tàn”(98.TII,T605).
Giáo sư Hà Minh Đức trong “Những chặng đường thơ Xuân Diệu” in
trong Xuân Diệu về tác giả, tác phẩm phần thơ trước cách mạng sau khi phân
tích, thẩm bình đặc điểm kỳ diệu, tinh vi trong sáng tạo hình tượng, cảm xúc
thơ đã đi đến kết luận : “Xuân Diệu là nhà thơ của cuộc đời mới. Từ cách cảm
nghĩ cho đến những rung động trong thơ đều mang màu sắc hiện đại”
(47.T169) và chính Xuân Diệu đã đưa “Thơ mới lên ngôi trên thi đàn với khuôn
mặt trẻ trung, tươi thắm và hẫp dẫn chưa từng có”. Sang phần thơ sau cách
mạng ngoài việc phân tích những đóng góp lớn lao của Xuân Diệu trong việc
hoà mình quần chúng, vào hiện thực vĩ đại của dân tộc, phản ánh không khí sôi
nổi cuộc sống mới, con người mới, giáo sư đi đến kết luận : “trong nhiều thập
kỷ phát triển của những chặng đường thơ cách mạng, Xuân Diệu đã chín lại
với thực tế mới và nguồn thơ đã lại tỏ ra dào dạt, sung sức”(47.T191).
Theo tác giả Lý Hoài Thu, trong “Thơ Xuân Diệu trước cách mạng
tháng Tám - 1945”, Xuân Diệu có một quan niệm rất rõ nét và đặc biệt nhạy
cảm với phạm trù “Không gian, thời gian”, điều mà ông gọi chung là “kích
thước của toàn vũ trụ”. Điều thú vị hơn, là từ quan niệm đó ông đòi hỏi người
cầm bút phải có “rất nhiều không gian ở trong hồn” và “rất nhiều thời gian ở
trong tâm trí”. Cũng trong chuyên luận này, tác giả Lý Hoài Thu đã chỉ rõ :
“Xuân Diệu là người có hệ thống quan niệm tương đối hoàn chỉnh về mục
đích vai trò của sáng tạo nghệ thuật, mặc dầu có lúc ông đã tự mâu thuẫn
giữa những lời tuyên ngôn với quá trình sáng tác” (51.T20). Tác giả còn đưa ra
một luận điểm có sức thuyết phục là : việc khẳng định quan niệm về sự tồn tại
của cá nhân, của “cái tôi” nghệ sĩ đã quyết định và chi phối đến hệ thống quan
niệm nghệ thuật của chính nhà thơ. Tác giả đã phân tích, lý giải và chứng minh
cụ thể không chỉ ở lý luận mà còn trong cả thực tiễn sáng tác. Chẳng hạn khi
tác giả cho rằng : ngoài “Lời đưa duyên” cho tập “Thơ Thơ” Xuân Diệu còn có
hai bài thơ, mà theo tác giả, trực tiếp bộc lộ quan điểm sáng tác của Xuân Diệu.
Đó là hai bài : “ Cảm xúc” và “ Lời thơ vào tập gửi hương”.
Trên nền tảng của chủ nghĩa lãng mạn, cùng với “ Cây đàn muôn điệu”
của Thế Lữ, có thể coi hai bài thơ trên là những lời tuyên ngôn của Xuân Diệu
nói riêng và phong trào Thơ mới nói chung. Ở đây Xuân Diệu cũng mộng mơ,
cũng tôn thờ cái đẹp nhưng đằm thắm say sưa hơn với cuộc đời trong bổn phận
thi sĩ của mình: Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Xuân Diệu luôn muốn đem lòng mình “ ràng rịt với muôn xuân”, muốn
thắt chặt với cuộc đời bởi “ trăm tình yêu mến”. Cũng có lúc ông tự ví mình như
con chim mang tiếng hót đắm say, khác biệt dâng hiến cho đời :
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hót chơi
Trong chuyên luận, tác giả khẳng định những câu thơ trên có thể coi là
sự phát ngôn đầy đủ cho quan điểm “ nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đồng thời nó
nằm trong hệ thống quan niệm về thơ và nghệ thuật nói chung của Xuân Diệu .
Sau đó tác giả đi đến kết luận : “cùng với một số tác phẩm văn xuôi như : Phấn
thông vàng, Người lệ ngọc, Chú lái khờ... Xuân Diệu là một trong số rất ít ỏi
các nhà thơ lãng mạn 32 - 45 đã bộc lộ rõ rệt những quan niệm sáng tác của
mình bằng thơ” . Những luận điểm trên đã gợi mở cho chúng tôi rất nhiều trong
quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Gần đây nhất trong luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà, Hà
Nội 2002 với đề tài Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình thơ trong đó có một
tiểu mục bàn tới quan niệm về thơ của Xuân Diệu còn hầu hết luận án đề cập
tới thành tựu cũng như một số nét phong cách nghiên cứu phê bình thơ. Công
trình thứ hai của tác giả Trần Thị Sâm, Hà Nội - 2002 có đề cập khá sâu sắc, hệ
thống và có sức thuyết phục về những chuyển biến trong quan niệm về thơ đầu
thế kỷ XX - 1945. Nhưng đây lại là quan niệm về thơ trong một giai đoạn lịch
sử cụ thể tuy có đề cập tới một số nhà thơ như Tản Đà, Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
một số nhóm: “Xuân thu nhã tập”, phong trào Thơ mới... nhưng lại không bàn
tới quan niệm về thơ của Xuân Diệu hoặc có nói tới cũng chỉ là lướt qua hay lại
dưới những bình diện khác.
Ngoài ra còn vô số các bài viết về Xuân Diệu dưới các góc độ khác nhau
như :“Con đường sáng tạo của một nhà thơ” của Hoàng trung Thông; “Nhà thơ
lãng mạn tiêu biểu nhất” Lê Đình Kỵ; “Xuân Diệu nói về hai tập thơ “Thơ thơ”
và “Gửi hương cho gió” của Hà Minh Đức, “Xuân Diệu: chưa ai cảm thông hết
nỗi cô độc của tôi” của Vương trí Nhàn; “Cái tôi” độc đáo, tích cực của Xuân
Diệu trong phong trào Thơ mới” của Lê Quang Hưng; “Xuân Diệu nỗi ám ảnh
của thời gian” của Đỗ Lai Thuý, “Nỗi buồn và sự cô đơn trong thơ Xuân Diệu”
của Lý Hoài Thu, “Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Xuân Diệu”
của Nguyễn Thị Hồng Nam... Trong mỗi bài viết, các tác giả đều đề cập tới các
vấn đề khác nhau về tác giả, tác phẩm, hay một số vấn đề về nghệ thuật... rất
công phu, sâu sắc, nhiều giá trị nhưng tựu chung vẫn xoay quanh sự ghi nhận
ngợi ca những đóng góp lớn lao của Xuân Diệu trong cuộc sống, trong sáng tác
để làm nên những giá trị tinh thần trường cửu. Tất nhiên tuy chưa đi sâu vào
vấn đề lý luận: quan niệm về thơ của Xuân Diệu nhưng nếu đặt trong mối quan
hệ biện chứng giữa Con người - Cuộc đời - Tác phẩm thì chính bản thân những
bài viết đã ẩn chứa vấn đề : quan niệm về thơ. Bởi vì chính thực tiễn cuộc sống
đã làm nẩy sinh và gieo mầm cho những quan niệm của mỗi nhà thơ. Và đến
lượt mình, quan niệm về cuộc sống ắt hẳn sẽ ảnh hưởng và chi phối đến quan
niệm về thơ của chính tác giả đó. Cho nên dù không đề cập tới một cách trực
tiếp nhưng các bài viết đã cung cấp cho chúng tôi những tiền đề cần thiết.
Nếu như Huy Cận, người bạn lớn trong đời và trong thơ, ước mong như
người nông dân “được gieo hết hạt khi kết thúc cuộc đời” thì điều ấy Xuân Diệu
đã làm được. Ông đã hiến dâng cho cuộc đời tất cả những gì có thể, vẫn là ông
hoàng của thơ tình, nhà thơ tiên phong của cách mạng với tinh thần: “Phần tinh
hoa của người nghệ sĩ mà cũng là phần sống của cuộc đời là ở tác phẩm ”.
Với thực tế trên, chúng tôi nhận thấy : cho đến nay chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu quan niệm về thơ của Xuân Diệu với tư cách là một đề
tài độc lập. Vì vậy, thông qua luận văn chúng tôi mong muốn có một cái nhìn
hệ thống cùng một số ý kiến riêng, đóng góp vào sự nghiên cứu chung trên cơ
sở học hỏi, kế thừa kết quả bấy lâu của giới nghiên cứu.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Về lý luận : Muốn sáng tạo thơ, hiểu thơ cần phải có một hệ thống quan
niệm đúng đắn về thơ : quan niệm về đặc trưng, bản chất thơ, về nhà thơ, qui
trình sáng tạo thơ, chất lượng thơ... Hệ thống quan niệm đó sẽ ảnh hưởng và chi
phối đến quá trình sáng tác thơ, phê bình thơ của bản thân Xuân Diệu nói riêng
và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Qua việc hệ thống và phân tích những quan niệm về thơ của Xuân Diệu,
chúng tôi cố gắng chỉ ra những đóng góp từ đó tự nó trả lời và đóng vai trò cơ
sở, nền tảng dẫn đến thành công trên nhiều lĩnh vực trong đó đặc biệt là phê
bình thơ cổ điển. Nếu xem xét quan niệm về thơ của Xuân Diệu như một chỉnh
thể nghệ thuật khi đặt trong mối quan hệ đa chiều của một tác gia văn học lớn ở
cấp độ loại hình học tác giả, sẽ giúp cho tác giả đó được nghiên cứu sâu sắc,
toàn diện hơn. Đó là những đóng góp về mặt lý luận.
Về thực tiễn : Luận văn góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu tác
giả Xuân Diệu và có thể làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng cùng những người đang quan tâm đến về đề tài này.
4. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Nhiệm vụ :
Luận văn đề cập tới một số vấn đề cơ bản thuộc quan niệm về thơ của
Xuân Diệu trên cơ sở thực tiễn sáng tác thơ, phê bình thơ và những đóng góp
của ông cùng ảnh hưởng của nó đối với nền thơ Việt Nam thế kỷ XX .
Theo chúng tôi, một tác gia văn học lớn là tinh hoa của dân tộc, của một
thời và của muôn đời. Với suy nghĩ như thế, luận văn còn đặt nhiệm vụ làm
sáng tỏ thêm những quan điểm về bản chất, chức năng của thơ nhằm đi đến
mục đích : Kế thừa và phát huy những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về
thơ tiến tới xây dựng một nền thơ ca “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, vừa
truyền thống, vừa hiện đại và mang đậm tính nhân văn.
4.2. Đối tượng nghiên cứu.
Là tất cả các ý kiến tiêu biểu thể hiện quan niệm về thơ của Xuân Diệu,
cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn sáng tác. Tất nhiên, đối tượng chính vẫn là
ý kiến bộc lộ trực tiếp quan niệm về thơ của Xuân Diệu. Cụ thể hơn, luận văn
sẽ khảo sát ba mảng chính :
+ Để có cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu quan niệm về thơ của Xuân
Diệu, chúng tôi trình bày sơ bộ thơ và những quan niệm cơ bản về thơ từ trước
đến nay.
+ Trong hệ thống quan niệm về thơ của Xuân Diệu, chúng tôi sẽ đề cập
tới những quan niệm của Xuân Diệu về đặc trưng, bản chất thơ, về nhà thơ, về
quá trình sáng tạo thơ, về chất lượng thơ... Vì quan niệm về thơ lại được bộc lộ
khá rõ nét trong nghiên cứu phê bình thơ, trong khi đó Xuân Diệu lại có một
mảng nghiên cứu phê bình vô cùng phong phú cho nên chúng tôi khảo sát cả
những quan niệm về phê bình thơ của Xuân Diệu coi đó như một hệ thống quan
niệm mang tính chỉnh thể không thể tách rời với thơ.
+ Sau hai phần mang tính lý luận, luận văn trình bày quan niệm và
những đánh giá của Xuân Diệu về thơ thông qua công tác nghiên cứu phê bình
thơ cổ điển của Xuân Diệu. Đây được coi là thực tiễn sáng tác sinh động, đặc
sắc, hệ quả tất yếu của những quan niệm đúng đắn về thơ.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, chúng tôi nghiên cứu hầu hết các tác phẩm
của Xuân Diệu, trong đó tập trung hơn vào Xuân Diệu toàn tập - tập III, “Công
việc làm thơ” và bộ sách hai tập : “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”. Quan niệm
về thơ nói chung và quan niệm về thơ của Xuân Diệu nói riêng là một vấn đề
mới, khó. Đây là lĩnh vực rộng lớn và phức tạp mà luận văn không thể khảo sát
hết các yếu tố thuộc nội hàm của quan niệm về thơ. Giải trình điều đó, cũng có
nghĩa là chúng tôi tự ý thức rằng: trong luận văn không tránh khỏi những điều
còn phiến diện, cần được tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu từ nhiều phía, nhiều công
trình.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu là tính tất yếu của một
công trình khoa học. ở đây chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh lịch sử (đồng đại và lịch đại), phương pháp phân tích chứng
minh... Để thực hiện nhiệm vụ và tăng thêm độ tin cậy của đề tài nghiên cứu,
luận văn còn vận dụng các phương pháp liên ngành như : Văn học sử, phê bình
văn học, lý thuyết tiếp nhận văn học, thi pháp học...
Đồng thời trong quá trình tiến hành nghiên cứu, chúng tôi cố gắng kết
hợp một cách nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn sáng tác để làm sáng tỏ
các quan niệm về thơ của Xuân Diệu, một nhà thơ, trong số rất ít có cả một hệ
thống quan niệm về thơ và hệ thống quan niệm đó ảnh hưởng chi phối không ít
tới đời sống thơ ca hiện đại.
6. Cái mới của luận văn.
Đây là luận văn đầu tiên tìm hiểu một cách có hệ thống và quy mô vấn
đề quan niệm về thơ của Xuân Diệu (không xem đây là kết luận ổn định vì
chưa bao quát hết tư liệu). Ngoài ra luận văn cũng giúp người đọc hình dung
được khá trọn vẹn chân dung của một tác gia văn học lớn thông qua quan niệm
về thơ của chính nhà thơ ở cả góc độ lý luận và thực tiễn sáng tác.
Qua việc hệ thống, phân tích, đánh giá những đóng góp trong quan niệm
nghệ thuật về thơ của Xuân Diệu, luận văn có thể giúp người đọc có một cái
nhìn đúng đắn, khoa học hơn về loại hình tác giả văn học trong tổng thể các
mối quan hệ về văn hoá, xã hội, quan điểm nghệ thuật... từ đó rút ra những kinh
nghiệm quý báu cho học tập, sáng tác và nghiên cứu phê bình tránh những “tổn
thất” và những “đường vòng” ấu trĩ không cần thiết, đặng vươn tới một nền văn
học tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
7. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 1... trang chia ra 3
chương như sau.
Chương thứ nhất : Thơ và những quan niệm cơ bản về thơ. (27tr)
Chương thứ hai : Quan niệm của Xuân Diệu về đặc trưng thơ.(48tr)
Chương thứ ba : Quan niệm và những đánh giá của Xuân Diệu về thơ .
(64tr)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT Tên tác giả Tên tác phẩm NXB Năm
1 - Bùi Công Hùng Tiếp cận nghệ thuật thơ ca Văn hoá - TTin 2000
2 - Bùi Duy Tân Khảo và luận một số TG,TPVHTĐVN,T1,2 GD,ĐHQG 99, 01
3 - Bùi Văn Cường Nguyễn Khuyến và giai thoại HVHHNNinh 1987
4 - Bùi Văn Nguyên Thơ quốc âm Nguyễn Trãi Giáo dục 1994
5 - Bùi Việt Thắng Sống với văn học cùng thời Báo VN Tết 6,7,7/99
6 - Bùi Việt Thắng Đôi điều về hiện trạng PB văn chương VNQĐ 3/1999
7 - Bùi Viết Thắng Đọc luận chiến văn chương VNQĐ 5/96
8 - Chàng Văn Nói chuyện văn thơ Văn học 1960
9 - Chế Lan Viên Ngoại vi thơ Thuận hóa 1987
10 - Chế Lan Viên Tuyển tập Chế Lan Viên - T1 Văn học 1985
11 - Chế Lan Viên Thơ Hàn Mặc Tử Văn học 1991
12 - Dương Tú Anh Phong cách thơ Nguyễn Duy LVThsĩ
ĐHTH
2002
13 - Đỗ Đức Hiểu Thi pháp hiện đại Hội nhà văn 2000
14 - Đỗ Văn Bằng Quan niệm “VDTĐạo” trong VH TĐVN LVĐHTHợp 1985
15 - Đinh Gia Khánh Ca dao Việt Nam Đồng Tháp 1995
16 - G.N Pospelor Dẫn luận nghiên cứu văn học Giáo dục 1985
17 - Hữu Nhuận Xuân Diệu con người và tác phẩm TPMới 1987
18 - Hà Minh Đức Thời gian và trang sách Văn học 1987
19 - Hà Minh Đức Nhà văn nói về tác phẩm Văn học 1994
20 - Hà Minh Đức Đi hết một mùa thu Văn học 1999
21 - Hà Minh Đức Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại KHXH 1968
22 - Hà Minh Đức Nguyễn Bính thi sĩ đồng quê Văn học 2002
23 - Hà Minh Đức Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam HĐ Giáo dục 1974
24 - Hà Minh Đức (C.biên) Lí luận văn học Giáo dục 1997 ̀
25 - Hồ Chí Minh Văn hóa Nghệ thuật cũng là một MT Văn học 1981
26 - Hồ Xuân Hương Thơ Hồ Xuân Hương (LHNguyên TC) Văn học 1989
27 - Hg H Yên - Ng Lộc Văn học Việt Nam Giáo dục 1962
28 - Hoài Thanh Hoài Thanh toàn tập - T1+2+3+4 Văn học 1999
29 - Hoài Thanh Thi nhân Việt Nam Văn học 1998
30 - Hoàng Ngọc Hiến Văn học và học văn CĐSP
TPHCM
1990
31 - Hoàng Tiến Tựu Bình giảng ca dao Giáo dục 1992
32 - Hoàng Trinh Tuyển tập văn học Hội nhà văn 1998
33 - Hoàng Trinh Đối thoại văn học Hà Nội 1986
34 - Huy Cận Tuyển tập Huy Cận - T1,2 Văn học 1986
35 - Huy Cận, T .K. Thành Huy Cận đời và thơ Văn học 1999
36 - Ilia Êrenbua Công việc của nhà văn TPM,HNV 1985
37 - J.P.Sartre Văn học là gì HNV 1999
38 - Khánh Chi Thơ Khánh Chi (Xuân Diệu giới thiệu) Văn học 1980
39 - Lại Nguyên Ân Văn học và phê bình TPM 1984
40 - Lại Nguyên Ân Sống với văn học cùng thời Văn học 1998
41 - Lê Đình Kỵ Thơ với Xuân Diệu -Hoài Thanh -CLV Cửu long 1988
42 - Lê Đình Kỵ Hiểu đúng đắn Truyện Kiều HVNĐTháp 1986
43 - Lê Đức Niệm Diện mạo thơ Đường VHTT 1998
44 - Lê Chí Quế Văn học dân gian Việt Nam ĐHQG 2001
45 - Lê Q Trọng, TB.Hưng Thai nghén Tác phẩm Hội NV 1995
46 - Lê Trí Viễn Đặc diểm văn học Việt Nam ĐH&THCN 1987
47 - Lưu Khánh Thơ Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm Giáo dục 1999
48 - Lưu Khánh Thơ Xuân Diệu TP văn chương và LĐNT Giáo dục 1999
49 - Lưu Quang Vũ Thơ và đời Văn học 1997
50 - Lưu Trọng Lư Tuyển tập Lưu Trọng Lư Văn học 1987
51 - Lý Hoài Thu Thơ Xuân Diệu trước CM Tám - 1945 Giáo dục 1998
52 - Mã Giang Lân Thơ văn Nguyễn Khuyến Giáo dục 1993
53 - Mã Giang Lân Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam Giáo dục 2001
54 - Mã Giang Lân Xuân Diệu - NHà thơ Việt Nam hiện đại KHXH 1984
55 - Mã Giang Lân Tìm hiểu thơ VHTT 2000
56 - M.B.Khrapchenkô Cá tính sáng tạo của nhà văn&sự PTVH TPM 1978
57 - Ng Thị Minh Nguyệt Đề tài thiên nhiên trong Thơ Mới LVThsĩ
ĐHTH
1999
58 - Ng Thị Thuý Hằng Tiêu chí thể loại trong so sánh T.Kiều... LV
ThsĩĐHTH
2003
59 - Ng Đình Chú (CB) Văn lớp XI NXBGD 1999
60 - Nguyễn Đức Quyền Bình giảng thơ trong trường PTTH Giáo dục 1997
61 - Nguyễn Bá Thành Thơ Chế Lan Viên với PC suy tưởng Giáo dục 1999
62 - Nguyễn Bá Thành Tư duy thơ và tư duy thơ HĐ Việt Nam Văn học 1996
63 - Nguyễn Đăng Mạnh Nhà văn - Tư tưởng - Phong cách Văn học 1983
64 - Nguyễn Du Truyện Kiều (LGT của Hoài Thanh) Văn học 1984
65 - Nguyễn Hữu Sơn Về một hiện tượng phê bình H.phòng 1998
66 - Nguyễn Lai Ngôn ngữ với sáng tạo và tiệp nhậnVH Giáo dục 1998
67 - Nguyễn Lộc Thơ Hồ Xuân Hương tuyển và bình ĐHTH Hà Nội 1996
68 - Nguyễn Nghiệp Mấy suy nghĩ - một tấm lòng(PB - TL ) Văn học 1978
69 - Nguyễn Phan Cảnh Ngôn ngữ thơ VHTT 2001
70 - Nguyễn Quang Bích Thơ văn Nguyễn Quang Bích Văn học 1973
71 - Nguyễn Sĩ Cẩn Mấy vấn đề phương pháp dạy VHCổ Giáo dục 1984
72 - Nguyễn Thanh Hà Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình LATS
ĐHSPHN
2002
73 - Nguyễn Thanh Hà Thơ hay Theo QN của Xuân Diệu TCNCGDục 4/2000
74 - Nguyễn Thanh Hà Thế nào là câu thơ hay NGGDục III/99
75 - Nguyễn Thanh Hà QN của Xuân Diệu về tiêu chuẩn PB TCKHĐHQG 1998
76 - Nguyễn Thanh Tú Tính HĐ của Lí luận PB văn học -T.97 VN QĐ 4/97
77 - Nguyễn Văn Hạnh Thơ Tố Hữu tiếng nói đồng ý,ĐT,Đchí Thuận Hoá 1985
78 - Nguyễn Văn Khánh Những đóng góp của Xuân Diệu ... KLTNCử nhân 2000
79 - Nhiều tác giả Lịch sử văn học Việt Nam Tập V Giáo dục 1987
80 - Nhiều tác giả Phong cách học Giáo dục 1984
81 - Nhiều tác giả Tác phẩm chọn lọc Văn học 1995
82 - Nhiều tác giả Văn học cuộc sống nhà văn KHXH 1987
83 - Nhiều tác giả Chuyện làng văn Việt Nam và thế giới Giáo dục 1989
84 - Nhiều tác giả Văn học Việt Nam ĐH&THCN 1979
85 - Nhiều tác giả Thơ kháng chiến TPM 1986
86 - Nhiều tác giả Việt Nam học - Kỷ yếu HThảo QTế Lần I Thế giới 2000
87 - Nhiều tác giả Thơ Việt Nam hiện đại KHXH 1984
88 - Nhiều tác giả Thơ văn cách mạng 30-45 Văn học 1980
89 - Nhiều tác giả Tác phẩm văn học Tạp chí HNV 9,10/87
90 - Nhiều tác giả Ôn thi văn học TrườngĐHTH 1989
91 - Nhiều tác giả Các nhà văn nói về văn - T.1 TPM 1985
92 - Nhiều tác giả Các nhà văn nói về văn -T.2 TPM 1986
93 - Nhiều tác giả Công việc viết văn Tr v.văn Ng
Du
1985
94 - Nhiều tác giả Nhà thơ Việt Nam hiện đại KHXH 1984
95 - Nhiều tác giả Văn học cuộc sống nhà văn KHXH 1978
96 - Nhiều tác giả Thơ văn Cách mạng 1930 - 1945 Văn học 1980
97 - Nhiều tác giả 40 năm Văn học TPM 1986
98 - Nhiều tác giả Từ điển Văn học - T1 + 2 KHXH 1983
99 - Nhiều tác giả Tác phẩm chọn lọc 3 Văn học 1995
100 - Nhiều tác giả Văn học nước ngoài HNV 3/1996
101 - Phương Lựu Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam Giáo dục 1985
102 - Phạm đan Quế Truyện Kiều đối chiếu Hải phòng 1999
103 - Ph. C.Đệ - Hà M Đức Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 ĐH&THCN 1979
104 - Phan Cự Đệ Phong trào Thơ Mới KHXH 1982
105 - Phan Cự Đệ Tác phẩm và chân dung Văn học 1984
106 - Phan Cự Dệ Văn học Lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 Văn học 2002
107 - Phan Quỳnh Nga Thơ, nhà thơ, nghề thơ trong QNTMH VNQĐ 3/99
108 - Phạn Thị Miến Những đg về mặt LLPBcủa HThanh... LVThsĩĐHTH 2001
109 - Phượng Lựu Loại hình hóa Phê bình văn học T.105 VNQĐ 5/98
110 - Phong Lê Hồ Chí Minh và VHVNHĐ KHXH 1986
111 - Raxun Gamatốp Đagatxtan của tôi Cầu vồng 1984
112 - Tô Hoài Những gương mặt, Chân dung VH TPM,HNV 1988
113 - Tố Hữu Trăm bài thơ Tố Hữu Văn học 1987
114 - Thiếu Mai Hái giữa đôi bờ NXB lao động 1994
115 - Tế Hanh Tuyển tập Tế Hanh Hà Nội 1987
116 - Tế Hanh Bài ca sự sống TPM 1985
117 - Trương Chính Tuyển tập Trương Chính - T1 + 2 Văn học 1997
118 - Trần Đăng Khoa Chân dung và đối thoại Thanh niên 1999
119 - Trần Đình Sử Thi pháp học hiện đại BộGD, Vụ GV 1983
120 - Trần Đình Sử Thi pháp thơ Tố Hữu TPM, Hnhà
văn
1987
121 - Trần Cư Đôi điều ảnh hưởng thơ Pháp trong thơ XD VNQĐ 3/99
122 - Trần Mạnh Hảo Thơ phản thơ Văn học 1998
123 - Trần Ngọc Vương Loại hình học tác giả văn học ... ĐHQG 1999
124 - Trần Ngọc Vương Văn học VN dòng riêng giữa nguồn chung Giáo dục 1998
125 - Trần Thị Sâm Những ch. biến tr QNvề thơ đầu TKXX. LATS
ViệnVH
2002
126 - Trần Tuấn Khải Thơ văn á Nam...(Xuân Diệu giới thiệu) Văn học 1984
127 - Trịnh Bá Dĩnh,NHSơn Tạp chí Trí tân Hội nhà văn 1997
128 - Văn Phác Mấy vấn đề cấp bách về VHNT Văn hoá 1985
129 - Vương Trí Nhàn Một số nhà văn hôm nay với Hà Nội Hà Nội 1986
130 - Vương Trí Nhàn Bước đầu đến với Văn học TPM 1986
131 - Vũ Ngọc Khánh Bí quyết giỏi văn Giáo dục 1999
132 - Vũ Ngọc Phan Những năm tháng ấy Văn học 1987
133 - Vũ Thị Thu Hương Xuân Diệu với thơ Việt Nam Hiện đại LVThS ĐHTH 2001
134 - Vũ Tiến Quỳnh Nguyễn Du (PB - BLVH) TH K.Hòa 1992
135 - Xuân Diệu Xuân Diệu toàn tập Tập 2, 3, 4 Văn học 2001
136 - Xuân Diệu Những bước đường tư tưởng của tôi Văn hoá 1958
137 - Xuân Diệu Những nhà thơ Bungiri Văn học ,Sviat 1985
138 - Xuân Diệu Phê bình giới thiệu thơ Văn học 1961