PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI RỪNG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ...
Transcript of PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI RỪNG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ...
63
PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI RỪNG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ-XÃ HỘI: THỰC TIỄN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Võ Thanh Sơn
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Phùng Tửu Bôi
Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam
Tóm tắt
Sự phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ trên thế giới đã đem lại sự phồn thịnh cho xã hội loài
người, nhưng cũng làm suy thoái nhanh chóng hệ sinh thái và các dịch vụ của chúng, đồng
thời thải ra một lượng lớn khí nhà kính, góp phần quan trọng vào sự biến đổi khí hậu.
Trong xu thế toàn cầu, đảm bảo phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, phục
hồi các hệ sinh thái tự nhiên là một yêu cầu cấp bách và nhiều ví dụ trên thế giới đã chứng
minh hiệu quả môi trường và kinh tế-xã hội của những nỗ lực này khi mà đa dạng sinh học
và hệ sinh thái vẫn đang cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho loài người, tương đương với
giá trị GDP của cả thế giới làm ra trong 1 năm. Vì vậy, báo cáo này tập trung làm rõ khái
niệm và hình thức phục hồi hệ sinh thái trên thế giới, những lợi ích của nó đem lại, đồng
thời, tổng quan đánh giá thực tiễn phục hồi hệ sinh thái rừng ở Việt Nam, gắn với sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời gian qua, làm cơ sở cho thực hiện phát triển
bền vững trong thời gian tới.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Đánh giá Hệ sinh thái thiên niên kỷ (Millennium Ecosystem Assessment, 2005), trong hơn
50 năm qua, con người đã làm thay đổi hệ sinh thái nhanh chóng và mạnh mẽ để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về thực phẩm, nước ngọt, gỗ, sợi và nhiên liệu, đã tạo ra sự phồn thịnh về
kinh tế của xã hội loài người, nhưng đồng thời cũng làm suy giảm các hệ sinh thái (HST) và các
dịch vụ của chúng trên Trái đất. Cũng theo đánh giá gần đây của UNEP (UNEP, 2012), áp lực
lên đa dạng sinh học (ĐDSH) toàn cầu tiếp tục gia tăng, làm ĐDSH, các HST và các dịch vụ của
chúng đều bị giảm sút nghiêm trọng. Những lợi ích con người có được từ ĐDSH đang có nguy
cơ giảm sút. Suy thoái các HST vẫn tiếp tục, mức độ sử dụng, tiêu thụ không bền vững và sự bất
bình đẳng trong chia sẻ lợi ích từ ĐDSH đe dọa thành tựu đã đạt được trong những thập kỷ gần
đây. Liên quan đến HST rừng, mặc dù trong thời gian gần đây, tốc độ mất rừng ở quy mô toàn
cầu có giảm so với trước, nhưng vẫn ở mức cao, tương đương với 13 triệu ha/năm trong thập kỷ
2000-2010 so với 16 triệu ha/năm trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước (FAO, 2010), đặc biệt là ở
những vùng nhiệt đới, nơi chứa đựng những HST hết sức đa dạng và phong phú.
Sự phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ trong hàng trăm năm qua đã thải ra một lượng lớn khí nhà
kính, góp phần quan trọng vào sự biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu (IPCC, 2007). Sự suy giảm
nhanh chóng diện tích rừng cũng làm giảm những bể chứa cacbon tại các khu rừng nhiệt đới,
64
đồng thời sự suy thoái rừng cũng góp phần làm tăng các chất khí nhà kính thông qua quá trình
chuyển đổi sử dụng đất.
Một vấn đề đặt ra là phải thúc đẩy quá trình phục hồi các HST ở quy mô toàn cầu, cũng như theo
quy mô khu vực và quốc gia, một mặt để giải quyết vấn đề môi trường, kìm hãm suy thoái
ĐDSH, giảm nhẹ BĐKH và mặt khác thúc đẩy lợi ích kinh tế-xã hội. Theo nghiên cứu của
Chương trình phát triển về Môi trường của Liên Hợp Quốc (Nellemann và Corcoran, 2010),
ĐDSH và các HST cung cấp những dịch vụ thiết yếu cho loài người, ước tính trong khoảng 72
nghìn tỷ USD hàng năm, khi thu nhập cả thế giới là 58 nghìn tỷ USD vào năm 2008, nhưng hiện
nay, hơn 60% dịch vụ HST và ĐDSH đang bị suy thoái, làm tổn hại đến tính bền vững, phúc lợi,
sức khỏe và an ninh của nhân loại.
Trong xu thế toàn cầu đó, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Trong hơn 50 qua, Việt Nam
đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng diện tích rừng, từ khoảng 70% từ đầu thế kỷ XX
(Thomas, 1999), xuống khoảng 43% vào giữa thế kỷ và xuống khoảng 28% vào giữa những năm
90 của thế kỷ trước (Bộ NN&PTNT, 2006). Nhờ những nỗ lực rất lớn của Chính phủ thông qua
nhiều chương trình dài hạn, độ che rừng của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng, đạt 39,5% vào
năm 2010 (Bộ NN&PTNT, 2011). Tuy nhiên, diện tích rừng có tính ĐDSH cao còn lại không
nhiều, tập trung chủ yếu trong các khu bảo tồn, vườn quốc gia (Bộ NN&PTNT, 2007). Trong các
loại rừng, rừng giàu chiếm 5%, rừng trung bình chiếm 15%, còn 80% diện tích rừng còn lại, chủ
yếu là rừng tái sinh hoặc rừng trồng mới, mang ít giá trị ĐDSH cũng như dịch vụ HST (Bộ
NN&PTNT, 2005).
Việc phục hồi HST rừng luôn được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, và được đề cập trong
các chiến lược phát triển và bảo vệ môi trường của Việt Nam, đặc biệt là trong “Định hướng
Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam” (CHXHCN Việt Nam, 2004), trong “Chiến lược
Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012), trong “Chiến lược quốc gia về Tăng
trưởng xanh” (2012) và trong “Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030” (2012), và góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển bền vững (PTBV) cũng như
ứng phó với BĐKH Việt Nam (CHXHCN Việt Nam, 2012).
Báo cáo đề cập tổng quan phân tích đánh giá thực tiễn phục hồi HST nói chung, hệ sinh thái
rừng nói riêng ở trên thế giới và ở Việt Nam, gắn với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và
rút ra những bài học cho Việt Nam trong thời gian tới.
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁCH TIẾP CẬN
Báo cáo dựa trên cách tiếp cận dựa HST (Pirot và nnk., 2000; Shepherd, 2004) và cách tiếp cận
trong Đánh giá Hệ sinh thái thiên niên kỷ (Millennium Ecosystem Assessment, 2005), nhằm làm
rõ mối tác động tương hỗ giữa phục hồi HST và phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong đảm bảo
phúc lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Báo cáo áp dụng các phương pháp tổng quan thực tiễn phục hồi HST trên thế giới, đặc biệt làm
rõ từ khái niệm, nguyên tắc, nội dung các bước thực hiện phục hồi HST cũng như những bài học
kinh nghiệm được rút ra.
Báo cáo áp dụng phương pháp tổng quan, đánh giá thể chế chính sách liên quan đến công tác
phục hồi HST ở Việt Nam cũng như đánh giá những chương trình trồng rừng và phục hồi rừng
65
của Việt Nam từ trước đến nay, bao gồm cả công tác phục hồi rừng tại những vùng đất bị tác
động của chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh.
3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI
3.1. Một số khái niệm và hình thức phục hồi hệ sinh thái rừng trên thế giới
Phục hồi sinh thái là quá trình hỗ trợ sự phục hồi của một HST đã bị suy thoái, hư hại, hoặc bị
phá hủy (Society of Ecological Restoration, 2010). Thực tiễn phục hồi sinh thái bao gồm các
hoạt động như kiểm soát xói mòn, tái trồng rừng, sử dụng các loài bản địa, loại bỏ các loài ngoại
lai và cỏ dại, tái phủ xanh khu vực bị tác động, trồng các loài bản địa, cũng như cải thiện môi
trường sống và phạm vi đối với các loài chính. "Phục hồi sinh thái" là thuật ngữ chỉ việc ứng
dụng trên thực tiễn chuyên ngành “Sinh thái học phục hồi” (Restoration Ecology).
Phục hồi rừng cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong cải thiện sinh kế và sức khỏe con người.
Những lợi ích này bao gồm nâng cao năng lực thích ứng, góp phần đảm bảo an ninh lương thực
và cải thiện sinh kế của người dân phụ thuộc vào HST rừng, trao quyền cho cộng đồng
(ITTO/IUCN, 2009).
Các hình thức phục hồi HST rừng bao gồm: (i) cải tạo (Reclamation); (ii) phục hồi chức năng
(Rehabilitation); và (iii) phục hồi (Restoration) (Nellemann và Corcoran, 2010; Lamb và
Gilmour, 2003).
Cải tạo nhằm mục đích phục hồi năng suất (nhưng ít tính ĐDSH ban đầu) tại một vùng bị suy
thoái. Theo thời gian, chức năng bảo vệ và nhiều dịch vụ HST ban đầu có thể được tái lập. Cải
tạo thường được thực hiện bằng các loài ngoại lai, nhưng cũng có thể bằng các loài bản địa
(Nellemann và Corcoran, 2010).
Phục hồi chức năng có mục đích tái lập lại chức năng, nhưng không nhất thiết tất cả các loài
động thực vật được cho là từng đã có mặt tại vùng đó (vì lý do kinh tế hoặc điều kiện sinh thái,
môi trường sống mới cũng có thể bao gồm các loài ban đầu không có mặt trong vùng). Theo thời
gian, chức năng bảo vệ và nhiều dịch vụ HST ban đầu có thể được tái lập (Nellemann và
Corcoran, 2010).
Phục hồi (toàn phần) là tái lập lại thành phần, cấu trúc, năng suất và ĐDSH các loài đặc trưng
cho khu vực đã bị suy thoái, tổn thương hoặc bị phá hủy. Theo thời gian, các quá trình và chức
năng sinh thái của môi trường sống dần được khôi phục gần như môi trường sống ban đầu
(Mudappa và Raman, 2010).
Tuy nhiên, trong thực tiễn, khái niệm trồng rừng mới (Afforestation) và tái trồng rừng
(Reforestation) hay được sử dụng. Trong đó, trồng rừng mới được hiểu như là trồng tạo rừng trên
các vùng đất trước đây chưa từng có rừng, hay trồng cây rừng trên những vùng đất không có
rừng, trong khi đó, tái trồng rừng là trồng rừng trên vùng đất mà trước đó đã từng có rừng, nhưng
đã được chuyển đổi sang một số dạng sử dụng đất khác (ITTO, 2002), hay nói cách khác, trồng
cây rừng và các cây dưới tán rừng tại địa điểm vừa bị phá hủy lớp che phủ của rừng tự nhiên.
Hai khái niệm này thường nằm trong hình thức phục hồi chức năng HST đã được trình bày ở
trên.
66
Bảng 3.1. Sự khác nhau giữa rừng nguyên sinh bị suy thoái và rừng thứ sinh
Rừng nguyên sinh bị suy thoái Rừng thứ sinh Đất rừng bị thoái
hóa
Mức độ tác
động
Cường độ từ nhẹ đến trung bình
bởi tác động có nguồn gốc tự
nhiên
Cường độ mạnh,
do chặt trắng tới
90% độ che phủ
rừng ban đầu
Cường độ hủy diệt
liên tục loại bỏ hoàn
toàn cây rừng, mất
lớp đất màu và làm
cho vi khí hậu bị
thay đổi
Nguyên nhân
thông thường
(do con
người hoặc
tự nhiên)
+ Khai thác gỗ quá mức
+ Khai thác quá mức lâm sản
ngoài gỗ
+ Tác động hủy diện của tự nhiên
như cháy rừng, bão
+ Chăn thả quá mức
+ Chặt trắng, đốt
và sau đó để hoang
hóa
+ Tác động thảm
họa quy mô lớn
của tự nhiên: cháy,
lũ lụt, bão, trượt lở
đất
+ Sử dụng đất quá
mức, cháy liên tục,
chăn thả hoặc quản
lý sinh thái kém trên
thổ nhưỡng nhạy
cảm
+ Xói mòn đất
Quá trình
phát triển
thảm thực
vật
+ Thay đổi tương đối nhỏ trong
động lực sinh trưởng và tái tạo,
ngoại trừ những nơi chăn thả quá
mức ngăn cản tái sinh tự nhiên
+ Những cây thường bị tổn
thương (tán, vỏ) hoặc có thể mất
khả năng tái sinh
+ Phục hồi chủ yếu thông qua tái
sinh theo chu trình tự sinh
+ Thay đổi thành phần loài do
khai thác gỗ quá mức
+ Thay đổi diễn thế bị hạn chế tới
những vùng bị tác động mạnh mẽ
hơn
+ Các chuỗi diễn
thế xảy ra sau khi
bị tác động. Cấu
trúc, thành phần
các loài thực vật
thay đổi từ với loài
chiếm ưu thế trong
diễn thế sớm cho
đến muộn
+ Bắt đầu quá trình
sinh trưởng mạnh
mẽ, với tốc độ
đồng hóa cacbon
và tổng hợp sinh
khối cao
+ Phát triển diễn thế
rất chậm chạp sau
khi chấm dứt tác
động
+ Quá trình này dẫn
đến thay đổi từ thảm
rừng thành đất đồng
cỏ hoặc cây bụi,
hoặc, trong một số
trường hợp cực
đoan, thành đất
trống
Đặc điểm + Cấu trúc của rừng không bị tổn
thương đáng kể
+ Đối với rừng bị chăn thả quá
mức, thảm thực vật dưới tán rừng
nghèo nàn và thiếu vắng các cây
con của tầng trên
+ Tái sinh các loài cây ưa sáng
sau khi bị tác động thường giống
như những loài cây ban đầu
Rừng tái sinh khác
với rừng nguyên
sinh về thành phần
loài. Các loài đều
là loài ưa sáng
mạnh
Thảm thực vật rừng
không có, một vài
cụm cây tiên phong
hoặc cây bụi có thể
xuất hiện
Nguồn: ITTO, 2002.
67
Nguồn: Lamb và nnk., 2005.
Hình 3.1. Các cách phục hồi hệ sinh thái và mối liên hệ với lợi ích kinh tế/phát triển
kinh tế-xã hội (chú thích xem trong bài)
Hình 3.1 chỉ ra các cách khác nhau nhằm phục hồi HST và nâng cao giá trị kinh tế. Nói chung,
rất khó để xây dựng phương pháp phục hồi tại một nơi nào đó, vừa tối ưu hóa lợi ích kinh tế và
nâng cao sinh kế, lại vừa cải thiện giá trị ĐDSH (như ở phần phía trên bên phải). Trồng rừng
chuyên canh truyền thống bằng các loài nhập nội (mũi tên 1) chỉ tạo ra lợi ích tài chính, trong khi
phục hồi với mục đích nâng cao tối đa giá trị ĐDSH (mũi tên 2) thì đem lại lợi ích kinh tế hạn
chế, nhất là trong ngắn hạn. Bảo vệ tái sinh tự nhiên (mũi tên 3) có thể cải thiện cả giá trị ĐDSH
và sinh kế, tuy nhiên, lợi ích kinh tế thu được phụ thuộc vào mật độ của các loài có giá trị kinh tế
hay giá trị xã hội. Những mục đích này cũng có thể thực hiện được bằng cách làm giàu rừng thứ
sinh bởi những loài có giá trị kinh tế (mũi tên 4). Phục hồi HST ở những nơi mà tỷ lệ đói nghèo
cao thì phải quan tâm đồng thời đến cả 2 mục đích. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ưu tiên
trước tiên trong công tác trồng rừng là đảm bảo lợi ích kinh tế (mũi tên 5), sau đó dần dần
chuyển qua mục đích nâng cao giá trị ĐDSH (chuyển đến mũi tên 6 và sau đó là mũi tên 7 bằng
cách trồng nhiều loài cây, đặc biệt là các loài bản địa).
Tùy thuộc vào tình trạng suy thoái của HST rừng, một loạt các phương pháp quản lý ít nhất có
thể phục hồi một phần mức độ giá trị ĐDSH và của các dịch vụ HST trong khoảng thời gian phù
hợp (năm) và đầu tư tài chính (vốn, cơ sở hạ tầng, và lao động). Kết quả của các phương pháp
phục hồi cụ thể là: (i) phục hồi độ phì của đất nông nghiệp, lâm nghiệp; (ii) sản xuất gỗ và lâm
sản ngoài gỗ; và (iii) phục hồi ĐDSH và các dịch vụ HST (Nellemann và Corcoran, 2010).
68
Nguồn: Nellemann và Corcoran, 2010.
Hình 3.2. Các mức thang của sự phục hồi hệ sinh thái
Bảng 3.2. Một số thuật ngữ phục hồi rừng
Thuật ngữ rừng trồng theo Poulsen và nnk. (2002) Thuật ngữ do Lamb và Gilmour
(2003) đề xuất
Trồng rừng công nghiệp (Industrial plantations) Cải tạo (Reclamation)
Trồng rừng trang trại/rừng vườn nhà (Home and farm
plantations)
Cải tạo (Reclamation)/Phục hồi chức
năng (Rehabilitation)
Rừng thứ sinh được quản lý kết hợp hoặc không kết
hợp với trồng xen (Managed secondary forests with or
without planting)
Phục hồi chức năng (Rehabilitation)
Tái sinh rừng tự nhiên có định hướng hoặc kết hợp
trồng xen cho mục đích phục hồi rừng (Planting or
assisted natural regeneration for forest restoration
purposes)
Phục hồi (Restoration)
Bảo tồn rừng tự nhiên bị suy thoái hoặc rừng thứ sinh
(Protection of degraded natural forest or secondary
forest)
Phục hồi (Restoration)
Nguồn: De Jong và nnk., 2006.
69
3.2. Những mục đích chính cho công tác phục hồi hệ sinh thái
Căn cứ vào mục đích thực hiện, phục hồi HSTcó thể chia thành các nhóm sau: (i) bảo tồn
ĐDSH; (ii) đảm bảo nguồn nước cấp; (iii) đảm bảo an ninh lương thực; (iv) đảm bảo sức khỏe và
quản lý nước thải; (v) giảm nhẹ BĐKH; (vi) ngăn ngừa và giảm nhẹ thiên tai; và (vii) lợi ích
kinh tế của phục hồi HST chính là thông qua kinh tế xanh (Nellemann và Corcoran, 2010).
3.2.1. Phục hồi hệ sinh thái nhằm bảo tồn đa dạng sinh học
Bảo tồn ĐDSH có vai trò đặc biệt quan trong duy trì các dịch vụ HST mà con người phụ thuộc vì
sự phát triển của chính mình (Millennium Ecosystem Assessment, 2005). Nhiều nghiên cứu chỉ
ra rằng, mất môi trường sống là nguyên nhân trực tiếp làm mất mát các loài, vì vậy cơ chế để trả
lại giá trị đa dạng loài là phục hồi HST hoặc môi trường sống (SER Science and Policy Working
Group, 2010). Hơn nữa, phục hồi không nhất thiết phải đạt tới giá trị nguyên sơ của ĐDSH và
dịch vụ HST như trong các HST nguyên sinh (Benayas và nnk., 2009) và cũng có rất nhiều ví dụ
thuyết phục về các chương trình phục hồi sinh thái đã trả lại ĐDSH, bao gồm sự phục hồi của
các loài và các HST bị đe dọa (Lindenmayer và nnk., 2010).
3.2.2. Phục hồi hệ sinh thái nhằm đảm bảo nguồn nước
Rừng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước thế giới. Hiện nay, 75% nguồn nước
ngọt có thể sử dụng được trên thế giới đều từ các lưu vực có rừng bao phủ (Fischlin và nnk.,
2007). Rừng cũng rất quan trọng để điều tiết dòng chảy và ngăn chặn lũ quét trong những trận
mưa lớn ở vùng núi (UNEP, 2004; Nellemann và Corcoran, 2010). Điều này là rất quan trọng
đảm bảo nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, như lưu giữ nước trong các vùng đất ngập nước
và khu rừng xung quanh những vùng hay bị hạn hán hoặc lũ lụt (Bruijnzeel, 2004; UNEP, 2009;
ICIMOD, 2009). Rừng cũng có một chức năng quan trọng trong việc điều hòa khí hậu thông qua
tác động đến thời tiết và lượng mưa, cũng như trong việc lưu trữ nước mưa và lọc nước (UNEP-
WCMC, 2004).
3.2.3. Phục hồi hệ sinh thái nhằm đảm bảo sức khỏe và quản lý nước thải
Hơn một nửa nước ô nhiễm hữu cơ và lượng nước thải ban đầu diễn ra bên ngoài các thành phố,
phần lớn là kết quả của việc mất các vùng đất ngập nước, tăng xói mòn và nước chảy bề mặt khi
mất các thảm thực vật tự nhiên dọc theo cánh đồng, các dòng suối, làng mạc và vùng đất dốc, do
hoạt động như phá rừng, chăn thả quá mức và thâm canh hoặc sản xuất nông nghiệp không bền
vững. Phục hồi các vùng đất ngập nước sẽ giúp lọc một số loại nước thải và đây có thể là một
giải pháp rất hữu hiệu đối với những thách thức quản lý nước thải (Ko và nnk., 2004). Vùng đất
ngập nước có rừng bao phủ xử lý nước thải có một tỷ lệ lợi ích-chi phí cao hơn 6-22 lần so với
lọc cát truyền thống (Ko và nnk., 2004).
3.2.4. Phục hồi hệ sinh thái để đảm bảo an ninh lương thực
Theo dự báo, sự giảm sút liên tục các dịch vụ HST ở mức độ như hiện nay do suy thoái đất đai,
giảm lượng nước tưới cho nông nghiệp, cạn kiệt chất dinh dưỡng, thụ phấn giảm sút và kiểm
soát dịch hại tự nhiên thấp có thể gây đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất lương thực thế giới và
làm suy giảm sản xuất lên đến 25% vào năm 2050 (UNEP, 2009). Chỉ riêng việc giảm khả năng
thụ phấn cho cây trồng, ước tính làm giảm khoảng 9,5% giá trị sản lượng nông nghiệp toàn cầu
được sử dụng cho tiêu dùng trong năm 2005 (Brown và Paxton, 2009; Gallai và nnk., 2009.).
70
Phục hồi các HST và đảo ngược tình trạng suy thoái đất có tầm quan trọng rất lớn, đặc biệt đối
với những khu vực nghèo đói phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên để có năng suất, an ninh
lương thực và y tế (Lal, 2009; UNEP, 2009).
3.2.5. Phục hồi hệ sinh thái để giảm nhẹ biến đổi khí hậu
Tất cả các vật chất sống (sinh khối) – từ cỏ, cây gỗ, sinh vật thủy sinh và cả vật chất không sống
- đều lưu trữ cacbon. Những bể chứa sinh khối cacbon đó thường được gọi là "cacbon màu xanh
lá cây". Theo dự tính, thảm thực vật trên cạn và đất trên thế giới lưu giữ 2.261 tỷ tấn cacbon
(Gigatonnes) (IPCC, 2007). Khoảng một nửa trữ lượng cacbon trên đất liền thuộc về rừng. Các
đại dương và thảm thực vật ven biển cũng lưu trữ một lượng lớn cacbon (thường được gọi là
"cacbon màu xanh da trời"), ước tính vào khoảng 38.334 tỷ tấn cacbon (IPCC, 2007).
3.2.6. Phục hồi hệ sinh thái để phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai
Các HST đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế, giảm nhẹ và phòng tránh hiểm họa
do biến đổi khí hậu và thiên tai chính trên toàn thế giới. Do vậy, nếu các hệ sinh thái bị phá hủy
hoặc bị suy thoái thì nguy cơ hiểm họa sẽ tăng lên: mỗi năm, 270 triệu người trên thế giới, 85%
trong số họ sống ở châu Á, phải đối mặt với thiên tai và khoảng 124.000 người chết do nguyên
nhân trực tiếp hoặc gián tiếp.
3.2.7. Lợi ích kinh tế của phục hồi hệ sinh thái chính là thông qua kinh tế xanh
Kết quả đánh giá của 89 dự án phục hồi HST lớn trên toàn thế giới đã rút ra kết luận rằng, phục
hồi sinh thái làm tăng giá trị ĐDSH và dịch vụ HST tương ứng là 44% và 25% (Benayas và nnk.,
2009). Sự gia tăng trong các dịch vụ HST và ĐDSH có mối liên quan chặt chẽ. Trong một cuộc
khảo sát của các nhà quản lý ở Mỹ trong tổng số 317 dự án phục hồi các dòng sông có gần hai
phần ba tin tưởng rằng, các dự án đã hoàn toàn thành công. Đồng thời, một loạt các điều tra cho
thấy, mức độ sẵn sàng chi trả và hỗ trợ rất cao cho công tác phục hồi, tăng lên đến 78% số người
được phỏng vấn. Qua đó cho thấy nhận thức cao và rủi ro thấp cho các khoản đầu tư theo thông
tin phản hồi của công chúng (Sodhi và nnk., 2010).
4.3. Một số nguyên tắc và đặc điểm phục hồi hệ sinh thái rừng
Sự phục hồi, quản lý và tái sinh rừng bị suy thoái và rừng thứ sinh là những thách thức quan
trọng trong ngành lâm nghiệp nhiệt đới. Với hầu hết các khu rừng nguyên sinh đã biến mất ở
nhiều nước nhiệt đới, rừng bị suy thoái và rừng thứ sinh đã trở thành một phần quan trọng của
nhiều cảnh quan nông thôn và tầm quan trọng của chúng trong việc cung cấp hàng hóa và dịch
vụ đang phát triển nhanh chóng. Các bên liên quan, vì thế, đang cố gắng chấp nhận được một sự
cân bằng giữa các tiêu chí cơ bản của PTBV: (i) sản sinh ra hàng hóa và dịch vụ bền vững về
mặt sinh thái và kinh tế; (ii) sự hài lòng của xã hội và sự thịnh vượng của con người, đặc biệt là
đối với những người sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng; và (iii) đảm bảo chất lượng môi
trường cao nhất ở tất cả các cấp: địa phương, quốc gia và toàn cầu.
Với mục đích thúc đẩy nhanh hơn nữa việc phục hồi các khu rừng nhiệt đới bị suy thoái, Tổ chức
Rừng Nhiệt đới Quốc tế (International Tropical Timber Organization) đã đưa ra Cẩm nang về
Tái tạo, quản lý và phục hồi chức năng rừng nhiệt đới bị suy thoái và rừng thứ sinh (ITTO, 2002)
để hỗ trợ các nước nhiệt đới. Tài liệu này đã đúc kết công tác phục hồi rừng nhiệt trên thế giới và
71
đưa ra 49 nguyên tắc quản lý và phục hồi kèm theo những khuyến cáo thực hiện. Những nguyên
tắc này được chia thành 8 nhóm liên quan đến những lĩnh vực cũng như mục đích sau: (i) đạt
được cam kết quản lý và phục hồi cảnh quan rừng bị suy thoái và rừng thứ sinh; (ii) xây dựng và
thực hiện chính sách hỗ trợ và các khuôn khổ pháp lý phù hợp; (iii) trao quyền cho người dân địa
phương và đảm bảo chia sẻ công bằng chi phí và lợi ích; (iv) sử dụng phương pháp tiếp cận tích
hợp để lập kế hoạch, đánh giá và quản lý tài nguyên; (v) thực hiện cách tiếp cận thích ứng và
toàn diện để quản lý rừng, nhấn mạnh các giá trị môi trường và xã hội; (vi) thúc đẩy hiệu quả
kinh tế và khả năng tài chính; (vii) bảo đảm sự tham gia giám sát và đánh giá như là một cơ sở
cho việc quản lý thích ứng; và (viii) sử dụng kiến thức lâm sinh và sinh thái phù hợp và áp dụng
thực tiễn quản lý hiệu quả (ITTO, 2002).
Đúc kết những kinh nghiệm trong bảo tồn và phục hồi các HST, Cơ quan Quản lý các Vườn
quốc gia Canađa (Parks Canada Agency, 2011) đã đưa ra những nguyên tắc và hướng dẫn phục
hồi sinh thái một cách chi tiết, nhằm giúp các vườn quốc gia và các khu bảo tồn duy trì được tính
toàn vẹn sinh thái, trong khi vẫn đảm bảo những dịch vụ của chúng. Những nguyên tắc và hướng
dẫn này tập trung vào việc phục hồi các di sản thiên nhiên, bao gồm cả ĐDSH và chức năng
HST. Những nguyên tắc và hướng dẫn phục hồi sinh thái bao gồm: (i) cải thiện nội dung chiến
lược quản lý khu vực tự nhiên, như loại bỏ các động thái và nhiễu loạn tự nhiên, kiểm soát các
loài sinh vật xâm lấn có hại, quản lý quần thể siêu phong phú; (ii) cải thiện những tác động tương
hỗ hữu sinh, như tái tạo lại các quần xã bản địa hoặc môi trường sống, tái nhập các loài cho mục
đích phục hồi chức năng; (iii) cải thiện những hạn chế về điều kiện vô sinh, như địa hình, thủy
văn, chất lượng đất và nước; và (iv) cải thiện cảnh quan đất liền và cảnh quan biển.
4.3. Thực tiễn phục hồi hệ sinh thái gắn với phát triển kinh tế-xã hội
Việc bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên nói chung, ĐDSH và các HST nói riêng đã là
những nội dung và nguyên tắc được thông qua trong Chương trình Nghị sự 21 từ năm 1992 tại
Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Môi trường và phát triển tại Rio de Jainero (UN,
1992), được khẳng định trong Chương trình Hành động Phát triển bền vững tại Hội nghị Thượng
đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững tại Jonhannesburg năm 2002 (UN, 2002) và mới
đây lại được thể hiện trong Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc Rio+20 vào
tháng 6/2012 tại Rio de Jainero “Tương lai chúng ta mong muốn” (UN, 2012) về phát triển nền
kinh tế xanh gắn với bảo vệ và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và các HST và trong báo
cáo tổng kết gần đây nhất của UNEP (2012) “Viễn cảnh môi trường toàn cầu 5 (Geo 5) - Môi
trường cho tương lai chúng ta mong muốn”.
Vì vậy, phục hồi HST bị suy thoái là cách thức hữu hiệu để phục hồi những dịch vụ của chúng
bằng những cách tiếp cận khác nhau, trong đó, cách tiếp cận dựa trên HST cho quản lý là một
trong những cách thức thực hiện hữu hiệu nhất (UNEP, 2012). Những nghiên cứu toàn cầu về
phục hồi và bảo tồn dịch vụ HST chỉ ra rằng, bảo tồn và phục hồi là hình thức đầu tư chi phí
thấp, lợi nhuận cao để duy trì dịch vụ HST. Nghiên cứu đánh giá hàng ngàn dự án phục hồi HST
trên thế giới, từ vùng sa mạc, rừng mưa nhiệt đới đến HST thủy vực và ven biển của UNEP
(Nellemann và Corcora, 2010) chỉ ra rằng, công tác phục hồi HST không những có thể thực hiện
được, mà còn được chứng tỏ là hình thức đầu tư có lợi nhuận cao trên khía cạnh tiền tiết kiệm xã
hội, thực hiện mục đích to lớn để xóa bỏ đói nghèo và đạt được sự bền vững. Cũng cần nhấn
72
mạnh lại rằng, lợi ích mà con người thu được từ những dịch vụ HST trên toàn cầu ước tính
khoảng 72 nghìn tỷ USD, tương đương với GDP của thế giới trong một năm (Nellemann và
Corcora, 2010). Vì vậy, đầu tư cho công tác phục hồi HST chính là để đảm bảo cuộc sống bền
vững cho các thế hệ mai sau của chúng ta.
Từ những nghiên cứu của mình, Nellemann và Corcora (2010) đã đưa ra 11 khuyến nghị để phục
hồi có hiệu quả hệ sinh thái như sau: (i) ưu tiên bảo tồn các điểm nóng ĐDSH và dịch vụ HST,
ngay cả khi một phần đã bị suy thoái, nhằm khẩn trương ngăn chặn để không suy thoái hơn nữa
và triển khai kế hoạch khôi phục; (ii) đảm bảo rằng đầu tư vào phục hồi phải được kết hợp với
quản lý HST lâu dài trong cả vùng được phục hồi và khu vực xung quanh, để đảm bảo quá trình
phục hồi dần dần; (iii) dự án cơ sở hạ tầng gây thiệt hại cho một HST phải chi trả kinh phí để
phục hồi lại HST đó đạt mức tương tự như ở những nơi khác trong một quốc gia; (iv) áp dụng
phương pháp tiếp cận đa ngành cùng các bên liên quan để thực hiện việc đầu tư cho phục hồi
HST đảm bảo thành công; (v) đảm bảo rằng các dự án phục hồi HST đã tính đến điều kiện thế
giới đang thay đổi (như BĐKH, áp lực sử dụng đất đai, toàn cầu hóa…); (vi) công tác phục hồi
cần được thực hiện theo các cấp độ, từ việc tăng cường phục hồi ở những điểm nóng, sau đó đến
khu vực với quy mô lớn hơn, cường độ cao hơn nhằm khắc phục những biến đổi về suy thoái đất
đai; (vii) phải đảm bảo rằng việc phục hồi HST được thực hiện bằng những kiến thức khoa học
và kinh nghiệm thực tiễn được cập nhật đầy đủ; (viii) áp dụng phục hồi HST như một lựa chọn
chính sách tích cực để giải quyết đồng bộ những thách thức về sức khỏe, cung cấp nước, quản lý
chất lượng nước và nước thải, bằng cách cải thiện lưu vực sông và vùng đất ngập nước; (ix) áp
dụng phục hồi HST như một lựa chọn chính sách tích cực để phòng chống và giảm nhẹ thiên tai
do lũ lụt, sóng thần, bão hoặc hạn hán; (x) tăng cường sử dụng việc phục hồi HST như là một
biện pháp cho việc thu giữ cacbon, thích ứng và giảm nhẹ BĐKH; (xi) cải thiện tình hình an ninh
lương thực thông qua việc phục hồi HST.
5. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI RỪNG Ở VIỆT NAM
5.1. Phục hồi hệ sinh thái rừng trong hệ thống luật pháp và chiến lược
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng để định hướng cho công tác bảo
vệ môi trường, bảo tồn ĐDSH, trong đó bao gồm công tác phục hồi HST rừng, gắn với phát triển
kinh tế-xã hội và nhiều các văn bản luật, văn bản dưới luật để triển khai thực hiện trên thực tế.
Phục hồi HST và phát triển rừng đã được thể hiện trong các văn bản luật như Luật Bảo vệ môi
trường (ban hành năm 1993, sửa đổi 2005), Luật Đa dạng sinh học (2009), Luật Bảo vệ và phát
triển rừng (ban hành năm 1991, sửa đổi năm 2005), đồng thời được đề cập trong các chiến lược
phát triển như Định hướng chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam (2004), Chiến lược Phát
triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012), Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh
(2012), trong chiến lược phát triển ngành như Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 (2012), Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn
2006-2020 (2007). Những văn bản pháp lý này là cơ sở quan trọng trong việc chỉ đạo và triển
khai thực hiện công tác bảo tồn ĐDSH và phục hồi HST.
73
5.2. Những chương trình trồng rừng, phục hồi và phát triển rừng
5.2.1. Hoạt động trồng rừng thời kỳ kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Chính phủ đã có một số chính sách liên
quan đến quản lý, sử dụng rừng và có những khuyến cáo trồng rừng ở những nơi không phù hợp
cho sản xuất nông nghiệp, nhưng số liệu trồng rừng không được ghi nhận (Bộ NN&PTNT,
2006). Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1955-1975), đáng kể nhất là phong trào “Tết trồng
cây” bắt đầu từ mùa xuân năm 1960, và từ đó hoạt động trồng rừng bắt đầu được triển khai thực
hiện. Tổng diện tích trồng rừng ở các tỉnh phía Bắc trong giai đoạn này là 219.000 ha, nhưng
nhìn chung trong thời kỳ này, mục tiêu trồng rừng không rõ ràng, kỹ thuật còn yếu kém, tỷ lệ
thành rừng thấp, chất lượng rừng kém (Bộ NN&PTNT, 2006).
5.2.2. Hoạt động trồng rừng thời kỳ đầu sau hòa bình (1976-1985)
Mười năm đầu sau khi đất nước thống nhất, cả nước đã trồng được 1.054.281 ha rừng, với diện
tích rừng trồng hàng năm ngày càng lớn, có năm đạt 160.000 ha (Bộ NN&PTNT, 2006). Việc
trồng rừng tuy có quy hoạch và có mục tiêu tương đối rõ ràng, song chủ yếu là để phủ xanh đất
trống đồi núi trọc, kỹ thuật trồng rừng chưa được cải thiện nhiều. Các chính sách còn mang nặng
tính bao cấp, vốn chủ yếu do Nhà nước cấp, đơn giá đầu tư thấp, không gắn được trách nhiệm
người trồng rừng với kết quả trồng rừng.
5.2.3. Hoạt động trồng rừng thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Với những lý do khác nhau mà công tác trồng rừng ở Việt Nam chỉ mới được chú trọng từ thời
kỳ đổi mới (năm 1986) và những thành tựu đạt được qua các giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn 1986-1990: Trong giai đoạn này, nước ta đã bước đầu có những đổi mới về đường
lối kinh tế có tác động đến trồng rừng, nên nhận thức của người trồng rừng đã có nhiều thay đổi,
đã xác định rõ hơn mục tiêu trồng rừng công nghiệp, về đầu tư và thâm canh, song những chuyển
biến đó tác động đến thực tế sản xuất chưa nhiều.
Phương thức trồng rừng thâm canh đã được thực hiện thông qua Chương trình hợp tác Việt Nam
- Thuỵ Điển ở vùng trung tâm Bắc Bộ và một số nơi trồng gỗ trụ mỏ, gỗ nguyên liệu giấy và các
loài cây mọc nhanh có năng suất cao được chú ý gây trồng. Diện tích rừng đã trồng trong giai
đoạn này là 629.118 ha, với hơn 2 tỷ cây phân tán (Bộ NN&PTNT, 2006).
+ Giai đoạn 1991-1997: Tiến trình đổi mới mạnh mẽ và mở rộng quan hệ quốc tế, cũng như sự
thúc ép về nhu cầu lâm sản, bảo vệ môi trường, chống thiên tai lũ lụt đã buộc mọi người phải
quan tâm đến trồng rừng và phục hồi rừng. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ, cũng như những
quan điểm mới về trồng rừng đã được du nhập vào nước ta. Đặc biệt từ 1993, Nhà nước có
Chương trình 327 đầu tư trồng rừng, bảo vệ rừng, khoanh nuôi rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
Trong 4 năm thực hiện Chương trình 327 (1993-1997), Nhà nước đã đầu tư 2.287 tỷ đồng, riêng
năm 1998 là 320 tỷ đồng. Diện tích rừng trồng trong giai đoạn này đạt 1.242.000 ha.
+ Giai đoạn 1998 - đến nay (2010): Giai đoạn 1998-2010 là thời gian hoạt động trồng rừng
mạnh nhất và có hiệu quả nhất. Diện tích rừng của Việt Nam đã tăng lên liên tục nhờ trồng rừng
và những nỗ lực phục hồi rừng tự nhiên, bình quân mỗi năm tăng khoảng 282.600 ha, trong đó
rừng tự nhiên tăng 148.900 ha/năm, rừng trồng tăng 133.700 ha/năm (Bộ NN&PTNT, 2010).
74
Bảng 5.2. Tổng hợp một số chương trình trồng rừng lớn trong giai đoạn 1975-2010
TT Tên chương
trình Mục đích
Địa bàn
triển khai Kết quả chính
1 327 (1993-
1997)
Phủ xanh đất trống đồi
núi trọc
Toàn quốc Trồng mới 543.000 ha;
khoanh nuôi tái sinh 409.000
ha
2 661/5 triệu ha
rừng (1998-
2010)
Trồng 2 triệu ha rừng
phòng hộ, rừng đặc
dụng (khoanh nuôi, tái
sinh và trồng mới); 3
triệu ha rừng sản xuất,
đưa độ che phủ 43%
năm 2010
Toàn quốc + Trồng mới 2,44 triệu ha
(0,898 triệu ha rừng phòng hộ
và đặc dụng và 1,553 triệu ha
rừng sản xuất)
+ Khoanh nuôi tái sinh thành
rừng 0,9 triệu ha
+ Độ che phủ của rừng: 39,5%
(2010)
3 Dự án PAM
(1977-2000)
Trồng 460.000 ha rừng
thông qua hỗ trợ lương
thực
140 huyện
trong 23
tỉnh
Tổng cộng: trồng 448.660 ha
rừng, trong đó 127.000 ha
rừng (1977-1981), 270.660 ha
(1986-1997) và 51.000 ha
(1997-2000)
4 Dự án KFW
của Đức
(1996-2007)
Trồng rừng và phục hồi
rừng
11 tỉnh 95.700 ha (kế hoạch)
Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2006, 2010; Chính phủ, 2011.
Đánh giá chung, từ trước đến năm 1995, diện tích rừng trồng không bù đắp được diện tích rừng
mất đi, nên diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam bị suy giảm một cách nhanh chóng, từ 14,3
triệu ha năm 1945 (độ che phủ 43%), đến 1995 chỉ còn 8,25 triệu ha rừng tự nhiên và 1,05 triệu
ha rừng trồng (độ che phủ 28%) và chất lượng rừng còn lại giảm sút, ĐDSH bị suy thoái, nhiều
loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng và năng lực phòng hộ của rừng cũng bị hạn chế, trong
khi thiên tai bão lụt ngày càng nghiêm trọng. Từ sau năm 1995 đến nay, nhờ nhiều các chương
trình trồng rừng, đặc biệt là Chương trình 661/5 triệu ha rừng nên cho đến nay, độ che phủ của
rừng đạt 39,5%.
Chỉ tính riêng trong khuôn khổ Chương trình 661/5 triệu ha rừng trong giai đoạn 1998-2010,
2,45 triệu ha rừng được trồng mới (trong đó 0,898 triệu ha rừng phòng hộ và đặc dụng và 1,553
triệu ha rừng sản xuất) và 0,9 triệu ha được khoanh nuôi tái rừng thành rừng (Chính phủ, 2011).
Các loài cây chính được trồng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng bao gồm các loài cây bản địa
như Thông nhựa, Thông đuôi ngựa, Thông Caribê, Muồng đen, Huỷnh, Chò chỉ, Giổi, Lát hoa,
Sao đen, Dầu rái, Vên vên…, còn cây phụ trợ chủ yếu là Keo các loại; trồng rừng phòng hộ ven
biển bao gồm Phi lao, Keo lưỡi liềm, Keo chịu hạn; trồng rừng ngập mặn bao gồm Tràm, Đước,
Bần chua, Vẹt, Dù, Sú; các loài được trồng trong rừng sản xuất chủ yếu là Keo và Bạch đàn. Đối
với rừng phòng hộ, cơ cấu loài cây bao gồm 40% cây phòng hộ giữ lâu dài và 60% cây phù trợ
mọc nhanh (Chính phủ, 2011). Như vậy, đại bộ phận các chương trình trồng rừng của Việt Nam
75
là trồng cây đơn loài, có trồng xen một số cây bản địa trong rừng phòng hộ và rừng đặc dụng,
còn trong dùng sản xuất, chủ yếu trồng keo và bạch đàn, phục vụ mục đích kinh tế làm đồ gỗ gia
dụng và nguyên liệu giấy.
Như vậy, nhìn một cách khái quát, các chương trình trồng rừng quy mô lớn ở Việt Nam mới đạt
được mục đích tạo được độ che phủ của cây rừng và mức thang đầu tiên trong phục hồi HST
(xem Hình 3.2) là phục hồi một số chức năng của HST và tạo ra sản phẩm có tính thương mại,
phục vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
5.3. Khía cạnh kinh tế của hệ sinh thái rừng
Hệ sinh thái rừng ở Việt Nam có giá trị to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo
Đánh giá Hệ sinh thái thiên niên kỷ (Millennium Ecosystem Assessment, 2005), HST cung cấp
cho loài người 4 dịch vụ: cung cấp, điều tiết, văn hóa và hỗ trợ. Tuy nhiên, trong điều kiện của
Việt Nam, những giá trị của các dịch vụ này chưa được xem xét đầy đủ và chỉ phản ánh một
phần giá trị kinh tế của các HST trong các số liệu thống kê.
Dịch vụ cung cấp bao gồm các sản phẩm con người thu được từ các HST như lương thực, nhiên
liệu, sợi, nước ngọt, nguồn gen (Millennium Ecosystem Assessment, 2005). Những lợi ích cụ thể
này được được ghi nhận trong số liệu thống kê liên quan đến khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ như
mây, tre, nứa. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của ngành lâm nghiệp ước tính khoảng 1% GDP
của cả nước, tương đương với khoảng từ 1-1,5 tỷ USD (Bộ NN&PTNT, 2010). Tốc độ tăng
trưởng ngành lâm nghiệp là 0,8%/năm trong giai đoạn 2000-2005 (Bộ NN&PTNT, 2006) và
2,8% giai đoạn 2006-2010 (Bộ NN&PTNT, 2010). Giá trị sản xuất lâm nghiệp bao gồm giá trị
trồng mới, nuôi dưỡng, chăm sóc, tu bổ, khoanh nuôi, cải tạo rừng (gọi tắt là trồng rừng); giá trị
lâm sản khai thác, giá trị cây và hạt giống (gọi tắt là khai thác); giá trị các hoạt động bảo vệ rừng
và các hoạt động dịch vụ lâm nghiệp khác (gọi tắt là dịch vụ).
Nếu tính cả giá trị của ngành nuôi trồng thủy sản, được HST rừng ngập mặn và đất ngập nước
cung cấp dịch vụ, thì tổng giá trị của 2 ngành này ước tính từ 4-5% GDP của cả nước (Bộ
NN&PTNT, 2006, 2010).
Trong dịch vụ cung cấp của HST rừng, sản phẩm của gỗ và lâm sản ngoài gỗ là có giá trị lớn
nhất. Để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, hàng năm Việt Nam khai
thác từ 2,53 triệu m3 gỗ trong giai đoạn 2000-2005 (Bộ NN&PTNT, 2005) và 3,36 triệu m3 gỗ
giai đoạn 2006-2010 (Bộ NN&PTNT, 2010) trong đó hơn 90% là từ rừng trồng (Bộ NN&PTNT,
2010). Giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến gỗ đã tăng 4,5 lần trong thời kỳ 2000-2005, đạt
tổng giá trị gần 4 tỷ USD (giá thực tế), còn trong 5 năm (2005-2009), kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa lâm nghiệp là 11,2 tỷ USD, tương đương 2,24 tỷ USD hàng năm (Bộ NN&PTNT, 2010).
Dịch vụ điều tiết là lợi ích con người thu được từ chức năng điều tiết của HST, bao gồm duy trì
chất lượng không khí, điều tiết khí hậu, kiểm soát lũ lụt, hạn chế xói mòn, trượt lở đất, cũng như
lọc nước. Tuy độ che phủ của rừng đã đạt gần 40%, tương đương thời Pháp, nhưng chất lượng
rừng vẫn là vấn đề lớn, nên dịch vụ điều tiết dường như chưa phát huy tác dụng đầy đủ, nên tình
trạng lũ ống, lũ quét ngày càng tăng, đặc biệt là những vùng đất dốc và có độ che phủ thấp. Gần
đây, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng một lộ trình về chính sách chi trả dịch vụ môi trường
rừng, bao gồm những bước nghiên cứu thực tiễn, tổng kết đánh giá, đến việc lồng ghép và xây
76
dựng chính sách và đã ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về Chính sách Chi trả dịch vụ
rừng để áp dụng cho toàn quốc từ 01/01/2011. Sơ bộ tính đến hết năm 2010, các nhà máy thủy
điện, công ty cấp nước và công ty du lịch đã phải chi trả hơn 430 tỷ đồng cho người dân địa
phương bảo vệ rừng trên địa bàn 2 tỉnh triển khai thí điểm (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2012).
Dịch vụ văn hóa là những lợi ích phi vật chất mà con người thu được thông qua sự làm giàu về
tinh thần, phát triển nhận thức, suy nghĩ, sáng tạo và trải nghiệm mỹ thuật. Trong điều kiện của
Việt Nam, rừng là nơi sinh sống, thực hiện, duy trì văn hóa truyền thống của các dân tộc ít
người. Rừng mất đi, ĐDSH bị suy thoái, các loài động thực vật tuyệt chủng, cũng đồng nghĩa với
việc nhiều văn hóa truyền thống có thể bị mai một (ví dụ như trường hợp voi Tây Nguyên cũng
là một thách thức cho duy trì văn hóa các dân tộc Tây Nguyên). Dịch vụ này của HST rừng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong duy trì bản sắc dân tộc Việt Nam trong xu thế hội nhập ngày
càng mạnh mẽ.
Dịch vụ hỗ trợ của HST là những dạng dịch vụ cung cấp những hoạt động cần thiết cho các dịch
vụ khác, như sản xuất ôxy, bồi tụ đất đai, hỗ trợ chu trình dinh dưỡng. Chương trình “Giảm phát
thải do mất rừng và suy thoái rừng và bảo tồn đa dạng sinh học – REDD+” đang được triển khai
thực hiện ở Việt Nam, nhằm nỗ lực xây dựng thị trường cacbon và sự chi trả từ các nước phát
triển, bao gồm: (i) giam phat thai tư mât rưng; (ii) giam phat thai tư suy thoai rưng; (iii) bao tôn
cac bê chưa cacbon rưng; (iv) quan ly rưng bên vưng; và (v) gia tăng lương cacbon trong cac bê
chưa cacbon rưng (Chương trình UN-REDD Việt Nam, 2011). Thực hiện thành công những
chương trình này có thể giúp Việt Nam tiếp cận đến những nguồn lực tài chính lớn trên thế giới,
tương đương hàng trăm tỷ USD trên thị trường mua bán cacbon quy mô toàn cầu hàng năm
(Hamilton và nnk., 2010).
5.4. Một số ví dụ về phục hồi hệ sinh thái rừng ở Việt Nam
5.4.1. Phục hồi hệ sinh thái rừng ở Mã Đà
Trước chiến tranh, vùng Mã Đà thuộc tỉnh Đồng Nai là rừng nhiệt đới rừng rậm rạp, bốn mùa
xanh tươi trên diện tích 114.470 ha, còn vùng đất không có cây cối rộng khoảng 37.000 ha.
Trong thời gian chiến tranh, hơn 1,6 triệu gallon chất diệt cỏ đã trút xuống khu vực này, phá hủy
hơn một nửa diện tích rừng ở Mã Đà và phần rừng còn lại chỉ thuộc loại chất lượng trung bình
hoặc thấp. Vùng đất không có cây cối với cỏ hoang lan tràn đã tăng lên suýt soát 99.000 ha (US-
Vietnam Dialogue Group on Agent Orange/Dioxin, 2012).
Sau chiến tranh, các nhà khoa học và nhân dân địa phương đã nỗ lực rất lớn để phục hồi những
HST rừng giàu có một thời này, đặc biệt là cố gắng đưa những giống cây bản địa trở lại trồng tại
các khu vực thuộc rừng Mã Đà của tỉnh Đồng Nai vốn dĩ bị triệt phá nặng nề. Tuy nhiên, những
nỗ lực đầu tiên tái trồng rừng Mã Đà bằng các loài cây gỗ bản địa có chất lượng cao đều thất bại,
vì cây giống không thể sống sót được trong điều kiện đất đai cằn cỗi và khô hạn, khi điều kiện vi
khí hậu đã thay đổi. Sau nhiều lần thất bại, các nhà khoa học và nhân dân địa phương đã rút ra
bài học bằng cách trồng các loài cây mọc nhanh, chịu được điều kiện khắc nghiệt để tạo bóng
như cây Keo (Acacia) và Bạch đàn (Eucalyptus) (Võ Quý và Lê Thạc Cán, 1994; Võ Quý và
nnk, 2004). Sau vài ba năm, khi Keo đã phát triển tốt, tạo được môi trường vi khí hậu phù hợp,
người dân bắt đầu trồng xen các giống cây bản địa như Dầu (Dipterocapus), Sao (Hopea
odorata) , Quế vào đó. Dần dần, rừng trong khu vực Mã Đà được phục hồi, chim chóc và các
77
động vật đã trở lại vùng rừng này và điều đó lại hỗ trợ qua quá trình tái sinh rừng tự nhiên. Mặc
dù tốn kém và mất nhiều lao động, việc phục hồi rừng ở Mã Đà đã trở thành một ưu tiên của
chính quyền trung ương và địa phương, nhằm bảo vệ các vùng đầu nguồn của hồ chứa nước
cung cấp nước ngọt cho 10 triệu dân, giảm tác động của công nghiệp hóa ở khu vực Thành phố
Hồ Chí Minh mở rộng và góp phần khôi phục ĐDSH và bảo tồn HST rừng ở vùng hạ lưu sông
Đồng Nai.
5.4.2. Phục hồi rừng bảo vệ môi trường trên vùng khắc nghiệt có nguy cơ sa mạc hóa: Kinh
nghiệm trồng rừng tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
Ninh Thuân và Bình Thuận là 2 tỉnh thuôc cưc Nam vung duyên hải Nam Trung Bô, với diện
tích tự nhiên là 1.134.000 ha, nằm dọc theo bờ biển có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, mùa khô
kéo dài, nguồn nước khan hiếm. Tỉnh Bình Thuận với diện tích đất cát ven biển trên 100.000 ha,
trải trên gần 200 km bờ biển của tỉnh, trong đó, tại hai huyện Tuy Phong và Bắc Bình, đất cát
hoang hóa ven biển, đồi cát di động đã chiếm trên 35.000 ha và phân bố trên chiều dài gần 50 km
bờ biển (Tổng cục Lâm nghiệp, 2012). Vào mùa khô hàng năm, thường xảy ra những cơn bão cát
dữ dội, đe dọa chôn vùi làng mạc, ruộng đồng, đường giao thông trên phạm vi rộng hàng chục
ngàn hecta, tạo nên nạn hoang mạc hóa vùng nội địa bên trong. Chính vì vậy, các dải rừng phòng
hộ ven biển, chủ yếu là rừng phi lao, cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với môi trường của
các tỉnh miền Trung, có tác dụng giảm thiểu những thiệt hại do hiện tượng cát bay, cát nhảy,
sóng, bão đối với sản xuất nông nghiệp, cũng như với các làng chài tại các vùng ven biển. Trong
đất liền, ở Ninh Thuận và Bình Thuận, có rừng Khộp phân bố trên vùng đồi núi thấp và chạy dài
tới vùng đất bằng ven biển rất cằn cỗi, phát triển trên những vùng đất xám bạc màu, đất cát,
nghèo dinh dưỡng, nhiều đá nổi.
Phục hồi rừng Khộp và môi trường là một việc làm rất cần thiết, nhưng rất khó khăn. Cùng với
việc bảo vệ rừng, trong nhiều năm, địa phương đã có nhiều mô hình sản xuất hợp lý trên vùng
khô hạn, góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế nguy cơ hoang mạc hóa, với một số loài cây bản
địa, cây nhập nội phù hợp trồng và có khả năng nhân rộng diện tích rừng phòng hộ trong điều
kiện đất cát ven biển của tỉnh vùng kho hạn là loài cây Phi lao, cây Keo chịu hạn, Xoan chịu hạn
(Cóc hành ), cây Trôm, cùng với một số loài cây bản địa khác.
Cây Trôm (Sterculia foetida) là loại cây bản địa đã từng mọc nhiều trong rừng ở khu vực Ninh
Thuận, Bình Thuận và phía Nam tỉnh Khánh Hòa. Là loại cây có khả năng chịu hạn ở mức độ
trung bình, cây trồng sau 5 năm sẽ cho thu hoạch. Sản phẩm thu hoạch của cây Trôm là nhựa mủ
làm nguyên liệu chế biến nước uống. Cây Cóc hành có tên khoa học là Azadirachta indica A.
Juss là một loài cây thường xanh, vừa có giá trị môi trường vừa có hiệu quả kinh tế về nhiều mặt
và đồng thời là loài cây có giá trị cao trong việc trồng rừng phòng hộ, cải tạo đất, mọc tốt trên
vùng cát có nguy cơ hoang mạc, sa mạc hóa (cho đến nay vẫn chưa có loài cây nào thay thế
được), để ngăn chặn hiểm họa thoái hóa đất ở vùng nóng hạn Tuy Phong – Bình Thuận. Hai loài
cây này có ý nghĩa rất lớn vì phù hợp với điều kiện khắc nghiệt của địa phương và cũng là loài
cây quan trọng trong việc phục hồi các HST rừng Khộp ở đây (Tổng cục Lâm nghiệp, 2012).
5.4.3. Phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Cần Giờ
Năm 2000, rừng ngập mặn Cần Giờ được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ Sinh quyển Thiên
nhiên Thế giới đầu tiên ở Việt Nam. Đó là phần thưởng lớn cho nỗ lực tái sinh lại rừng ngập mặn
78
Cần Giờ, vốn đã bị phá trắng gần như toàn bộ do chất độc khai quang của Mỹ và nạn phá rừng
sau chiến tranh.
Sau 30 năm, rừng sinh thái ngập mặn Cần Giờ đã bắt đầu hình thành và phát triển theo hướng
bền vững với diện tích rừng đã phủ xanh hơn 31 nghìn ha, trong đó có gần 20 nghìn ha rừng
trồng, hơn 11 nghìn ha được khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và các loại rừng khác, trong đó có hơn
20.000 ha được trồng theo chương trình của nhà nước (Lê Xuân Tuấn và nnk., 2008). Quá trình
phục hồi thành công hệ thực vật rừng ngập mặn đã góp phần tạo ra môi trường sống cho các loài
động vật trên cạn, dưới nước phát triển về chủng loài lẫn số lượng. Rừng ngập mặn Cần Giờ với
hệ thống sông rạch chằng chịt, các bãi bồi, ao đầm, rừng – đầm nhận nước từ sông Sài Gòn,
Đồng Nai – giàu chất dinh dưỡng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài thủy
sinh vật có nguồn gốc biển, nước lợ theo thủy triều vào rừng sinh sống. Thành phần các loài thủy
sinh vật ở rừng Cần Giờ rất phong phú, có trên 130 loài Tảo; trên 100 loài Động vật không
xương sống; trên 120 loài Cá nước lợ, nước mặn; 9 loài Lưỡng thê; 31 loài Bò sát; trên 150 loài
Chim thuộc 47 họ, 17 bộ (trong đó có 51 loài Chim nước và 79 loài không phải là chim nước)
sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau; Thú có 19 loài, thuộc 13 họ, 7 bộ (Viện Sinh học Nhiệt
đới, 2007).
Hiện nay, Cần Giờ với hơn 30 ngàn ha rừng ngập mặn được trồng mới, nhiều loài cây rừng được
trồng và thu hút được nhiều các loài động vật trở về sinh sống. Đây có thể nói là một điển hình
phục hồi HST rừng ngập mặn ven biển, nhằm nâng cao tính ĐDSH và ứng phó với BĐKH.
6. KẾT LUẬN
Sự phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ trên thế giới đã làm HST rừng bị giảm đi nhanh chóng và
ĐDSH bị suy thoái trầm trọng. Trong xu thế toàn cầu thúc đẩy PTBV và ứng phó với BĐKH,
phục hồi các HST tự nhiên là một yêu cầu cấp bách trên thế giới và nhiều ví dụ trên thế giới đã
chứng minh hiệu quả môi trường và phát triển kinh tế-xã hội của những nỗ lực phục hồi này.
Việc phục hồi HST nói chung và HST rừng nói riêng, một trong những ưu tiên hàng đầu trong
các chính sách phát triển toàn cầu trong các tổ chức lớn trên thế giới, đặc biệt là tổ chức của Liên
Hợp Quốc.
Việt Nam trải qua một thời gian dài chiến tranh và sau đó nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát
triển kinh tế-xã hội và những thành quả phát triển đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tuy
nhiên, mặt trái của nó là môi trường bị ô nhiễm, ĐDSH bị thất thoát và HST rừng bị suy thoái.
Nhận thức được giá trị của rừng trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, cũng như
trong việc ứng phó với thiên tai trong thời gian trước kia và ứng phó với BĐKH trong thời gian
ngày nay, nhiều chương trình trồng rừng rộng lớn, liên tục đã được thực hiện và đã góp phần
quan trọng để nâng cao độ che phủ rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên, chất lượng rừng còn thấp,
ĐDSH vẫn tiếp tục bị suy thoái và những dịch vụ do HST cung cấp chưa được đầy đủ, đã đặt đất
nước ta trước những thách thức mới.
Tuy nỗ lực trồng rừng là rất lớn, nay độ che phủ của rừng là khá cao, nhưng đó mới là bước đầu
tiên trong việc phục hồi HST rừng và những khu rừng này chỉ đáp ứng được những chức năng cơ
bản của rừng, tạo ra được sản phẩm nâng cao thu nhập cho người dân, chứ chưa đáp ứng đầy đủ
các chức năng dịch vụ của HST rừng theo đúng nghĩa của chúng. Một số điển hình phục hồi
79
HST như tại Mã Đà, các tỉnh ven biển miền Trung hay tại Cần Giờ cũng là những kinh nghiệm
quý báu cho công việc sắp tới.
Để tiếp tục thúc đẩy tiến trình PTBV, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn ĐDSH và
ứng phó với BĐKH, trong thời gian tới, một mặt cần tiếp tục phủ xanh những vùng đất bị suy
thoái và mặt khác cần khuyến khích những giải pháp phục hồi HST rừng, đặc biệt là trồng rừng
với các loài bản địa, để tăng giá trị ĐDSH và đồng thời đẩy mạnh công tác bảo tồn trong hệ
thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benayas J.M.R. et al., 2009. Enhancement of Biodiversity and Ecosystem Services by
Ecological Restoration: A Meta-analysis. Science, 325: pp. 121-124.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2012. Việt Nam: Một số điển hình phát triển bền vững. Báo cáo tại
Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (Rio+20): 53 tr.
3. Bộ NN&PTNT, 2005. Hệ thống thông tin giám sát ngành lâm nghiệp (FOMIS).
4. Bộ NN&PTNT, 2006. Cẩm nang ngành lâm nghiệp. Chương trình Hỗ trợ ngành lâm nghiệp
và đối tác.
5. Bộ NN&PTNT, 2007. Chiến lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
6. Bộ NN&PTNT, 2010. Báo cáo tiến độ 2006-2010. Hệ thống thông tin giám sát ngành lâm
nghiệp (FOMIS). Đối tác Hỗ trợ ngành Lâm nghiệp. Hà Nội, 12/2010.
7. Bộ NN&PTNT, 2011. Diện tích rừng toàn quốc tính đến 31/12/2010, kèm theo Quyết định
1828/QĐ-BNN-TCLN, ngày 11/8/2011.
8. Brown M.J.F. and R.J. Paxton, 2009. The Conservation of Bees: A Global Perspective.
Apidologie, 40: pp. 410-416.
9. Bruijnzeel L.A., 2004. Hydrological Functions of Tropical Forests: Not Seeing Soil for
Trees? Agriculture Ecosystems and Environment, 104: pp. 185-228.
10. Chính phủ, 2011. Báo cáo tổng kết thực hiện Dự án ”Trồng mới 5 triệu ha rừng” và Kế
hoạch Bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2011-2020. Công văn số 243/BC-CP ngày
26/10/2011. 34 tr.
11. CHXHCN Việt Nam, 2004. Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam
(Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Hà Nội, tháng 8 năm 2004. 137 tr.
12. CHXHCN Việt Nam, 2012. Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam. Báo cáo quốc gia
tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (Rio+20). 87 tr.
13. Chương trình UN-REDD Việt Nam, 2011. Sẵn sàng thực thi REDD+. Các tờ rơi theo các
chủ đề.
14. De Jong W., Do Dinh Sam and Trieu Van Hung, 2006. Forest Rehabilitation in Vietnam:
Histories, Realities and Future. CIFOR, Bogor, Indonesia: 76 p.
80
15. FAO, 2010. Global Forest Resources Assessment 2010. Main Report. FAO Forestry Paper
No.163. Food and Agricultural Organisation of the United Nations, Rome: 378 p.
16. Fischlin A. et al., 2007. Ecosystems, Their Properties, Goods and Services. In: Parry M.L.,
O.F. Canziani, J.P. Palutikof, P.J. van der Linden and C.E. Hanson (Eds.). Climate Change
2007: Impacts, Adaptation and Vulnerability. Contribution of Working Group II to the
Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel of Climate Change (IPCC).
Cambridge University Press, Cambridge, UK: pp. 211-272.
17. Gallai N. et al., 2009. Economic Valuastion of the Vulnerability of World Agriculture
Confronted with Pollinator Decline. Ecological Economics, 68: pp. 810-821.
18. Hamilton K., S. Milo, P.S. Molly and M. Thomas, 2010. Building Bridges: State of the
Voluntary Carbon Markets 2010. A Report by Ecosystem Marketplace & Bloomberg New
Energy Finance. 108 p.
19. ICIMOD, 2009. Local Responses to Too Much and Too Little Water in the Greater
Himalayan Region. International Center for Integrated Mountain Development, Kathmandu,
Nepal.
20. IPCC, 2007. Climate Change 2007: Synthesis Report. Contribution of Working Groups I, II,
and III to the Fourth Assessment. Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change
(IPCC), Geneva, Switzerland.
21. ITTO, 2002. ITTO Guidelines for the Restoration, Management and rehabilitation of
Degraded and Secondary Tropical Forests.
22. ITTO/IUCN, 2009. Guidelines for the Conservation and Sustainable Use of Biodiversity in
Tropical Timber Production Forests. 120 p.
23. Ko J.Y. et al., 2004. A Comparative Evaluation of Money-based and Energy-based Cost-
benefit Analyes of Tertiary Municipal Wastewater Treatment Using Forested Wetlands
Versus Sand Filatration in Louisiana. Ecological Economics, 49: pp. 331-347.
24. Lal R., 2009. Soils and Food Sufficiency: A review. Agronomy and Sustainable
Development, 1: pp. 113-133.
25. Lamb D. and D. Gilmour, 2003. Rehabilitation and Restoration of Degraded Forests. IUCN,
Gland, Switzerland and Cambridge, UK and WWF, Gland, Switzerland. x + 110 p.
26. Lamb D., P.D. Erskine and J.A. Parrotta, 2005. Restoration of Degraded Tropical Forest
Landscape. Science, New Series, Vol.310, No.5754 (Dec. 9, 2005): pp. 1628-1632
(American Association for the Advancement of Science).
27. Lindenmayer D.B., W. Steffen, A.A. Burbidge, L. Hughes, R.L. Kitching, W. Musgrave,
S.M. Stafford and P.A. Werner, 2010. Conservation Strategies in Response to Rapid
Climate Change: Australia as a Case Study. Biological Conservation, Vol.143, Issue 7, July
2010: pp. 1587-1593.
28. Millennium Ecosystem Assessment (MEA), 2005. Ecosystem and Human Wel-being.
Biodiversity Synthesis. 86 p.
81
29. Mudappa D. and T.R.S. Raman, 2010. Rainforest Restoration: A Guide to Principles and
Practice. Nature Conservation Foundation, Mysore, India: 41 p.
30. Nellemann C. and E. Corcoran (Eds.), 2010. Dead Planet, Living Planet – Biodiversity and
Ecosystem Restoration for Sustainable Development. A Rapid Response Assessment.
United Nations Environment Programme (UNEP): 109 p.
31. Parks Canada Agency, 2011. Principles and Guidelines for Ecological Restoration in
Canada's Protected Natural Areas. 99 p.
32. Pirot J.Y., P.J. Meynell and D. Elder (Eds.), 2000. Ecosystem Management: Lessons from
Around the World. A Guide for Development and Conservation and Conservation
Practionners. IUCN, Grand, Switzerland and Cambrigde, UK: 129 p.
33. Poulsen J. et al., 2002. Typology of Planted Forests. CIFOR Info brief. Http://cifor.
cgiar.org.
34. Vo Quy and Le Thac Can, 1994. Conservation of Forest Resources and the Greater
Biodiversity of Vietnam. Asian Journal of Environmental Management, Vol.2, No.2, Nov
1994: pp. 55-60.
35. Võ Quý, Phan Nguyên Hồng, Phùng Tửu Bôi và Đặng Huy Huỳnh, 2004. Hậu quả lâu dài
của chiến tranh hóa học đối với môi trường, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học ở Việt
Nam. Trong: Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường. Kỷ yếu hội nghị khoa học
về tài nguyên và môi trường 2003-2004. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội: tr. 83-100.
36. Shepherd G., 2004. The Ecosystem Approach: Five Steps to Implementation. IUCN, Grand,
Switzerland and Cambrigde, UK: 30 p.
37. Society of Ecological Restoration, Science and Policy Working Group, 2010. CBD
Information Note for SBSTTA 14, www.ser.org & Tucson: Society for Ecological
Restoration International.
38. Sodhi N.S., T.M. Lee, C.H. Sekercioglu, E.L. Webb, D.M. Prawiradilaga, D.J. Lohman,
N.E. Pierce, A.C. Diesmos, M. Rao and P.R. Ehrlich, 2010. Local People Value
Environmental Services Provided by Forested Parks. Biodiversity and Conservation, 19: pp.
1175-1188.
39. Thomas F., 1999. Histoire du Régime et des Services Forestiers Français en Indochine de
1862 à 1945. Sociologie des Sciences et des Pratiques Scientifiques Coloniales en Forêts
Tropicales. Editions The Gioi, Hanoi: 312 p.
40. Tổng cục Lâm nghiệp, 2012. Chiến lược tài chính lồng ghép chống sa mạc hóa ở 2 tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận. Hà Nội.
41. Lê Xuân Tuấn, Phan Nguyên Hồng và Trương Quang Học, 2008. Những vấn đề ven biển và
phục hồi rừng ngập mặn ở Việt Nam. Trong: Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ
ba: tr. 678-692.
42. UN, 1992. Agenda 21. Report of the United Nations Conference on Environment and
Development. Rio de Janeiro, 3-14 June 1992. 351 p.
82
43. UN, 2002. Plan of Implementation of the World Summit on Sustainable Development.
Johannesburg 26 August – 4 September 2002. 62 p.
44. UN, 2012. The Future We Want. Outcome of the United Nations Conference on Sustainable
Development. Rio de Janeiro, Brazil, 20-22 June 2012. 53 p.
45. UNEP, 2009. The Environmental Food Crisis: Can We Feed the Commonwealth Without a
Green Economy. The Commonwealth Ministers Reference Book 2009.
46. UNEP, 2012. Global Environment Outlook 5 (Geo 5): Environment for the Future We
Want. 525 p.
47. UNEP-WCMC, 2004. The Cloud Forest Agenda Report. Http://www.unep-wcmc.org.
48. US-Vietnam Dialogue Group on Agent Orange/Dioxin, 2012. Declaration and Plan of
Action 2010-2019. Adressing the Legacy of Agent Orange in Vietnam. Second Year Report.
The Aspen Institute. Washington and Hanoi: 28 p.
49. Viện Sinh học Nhiệt đới, 2007. Khu Dự trữ Sinh quyển Rừng ngập mặn Cần Giờ. Trong:
Kỷ yếu Hội nghị khoa học và công nghệ, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ: tr. 657-
659.
Summary
RESTORING AGROECOSYSTEMS ASSOCIATED WITH SOCIO-ECONOMIC
DEVELOPMENT: THE REALITY OF THE WORLD AND VIET NAM
Vo Thanh Son
Centre for Natural Resources and Environmental Studies, VNU, Hanoi
Phung Tuu Boi
Vietnam Association of Scientific and Technical Forestry
Socio-economic development has strongly brought about prosperity to human society, but has
caused the rapid degradation of ecosystems and their services, and given off a large amount of
greenhouse gases, contributing significantly to climate change. In the Global trends, ensuring
sustainable development, coping with climate change and restoring natural ecosystems are an
urgent requirement. And many examples around the world have proven that these efforts have
brought environmental and socio-economic efficiency as biodiversity and ecosystems have been
still providing essential services for human beings, equivalent to the value of the world's GDP in
a year. This report focuses on clarifying the concept and forms of the world's ecosystem
restoration, as well as, the benefits they provide. At the same time, the overview assessment of
forest ecosystem restoration practiced in Vietnam is mentioned. They are the bases for
sustainable development in the future.