Phong Tục Nghi Lễ Văn Hóa Xưa Và Nay...
Transcript of Phong Tục Nghi Lễ Văn Hóa Xưa Và Nay...
fPHONG TỤC NGHI LỄ VĂN HÓA XƯA VÀ NAY
PHONG TỤC NGHI LỄ VĂN HÓA XƯA VÀ NAY
HÔN NHÂN – CHÚC THỌ - CHÚC MỪNG – TANG LỄ
Tác giả: VƯƠNG TÚ TRUNG
Người dịch: N. TRI THỨC VIỆT
LỜI TỰA
Các lễ tục truyền thống và hiện đại Trung Quốc rất đa dạng và phong
phú. Theo tiến trình lịch sử, các lễ tục này tùy theo từng vùng miền, thời điểm
mà có sự biến đổi đáng kể. Không những thế, nó còn du nhập sang các nước
láng giềng tạo nên sự giao thoa lễ tục của nhiều nền văn hóa khác nhau.
Trong quyển sách này, chúng tôi sưu tầm và tổng hợp một cách chi tiết
và theo trình tự về các lễ tục truyền thống và hiện đại của Trung Quốc thuộc 4
lĩnh vực là hôn nhân, chúc thọ, chúc mừng và tang lễ. Bên cạnh đó, sách còn
hướng dẫn độc giả viết các bức thư chúc mừng và chia buồn trong các
trường hợp đặc biệt, cách viết thiệp cưới, thiệp mừng tân gia, thiệp mừng thọ
hay các bảng cáo phó cho tang lễ; và sưu tầm một lượng lớn câu đối đặc sắc
được người Trung Quốc thường dùng để viết lên các bức trướng trong những
dịp lễ.
Quyển sách chắc chắn sẽ là một tài liệu tham khảo giá trị cho các bạn
sinh viên ngành Đông Phương học, Trung Quốc học và những ai quan tâm
đến các lễ tục truyền thống và hiện đại Trung Quốc về hôn nhân, chúc mừng,
chúc thọ, tang lễ.
Phần 1. PHONG TỤC LỄ NGHI HÔN NHÂN
I. LỄ TỤC HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG
1. Nạp thái
Trong lễ tục hôn nhân truyền thống, “nạp thái” có ý nghĩa là “thu nạp
những sính lễ mà nhà trai mang đến để thưa chuyện với nhà gái”, là lễ đầu
tiên trong trình tự “lục lễ”. Nhà trai nhờ người mai mối sang nhà gái đặt vấn
đề hôn sự. Ngày nay gọi là “dạm hỏi”. Ngày xưa hôn nhân phải có người mai
mối. Khi đến tuổi lập gia đình, cha mẹ nhà trai thông thường nhờ người tìm
nhà tốt lành dạm hỏi để cưới vợ cho con.
Điều kiện kết hôn là “môn đăng hộ đối” mà chúng ta thường nghe thấy.
Trong điều kiện này, ngoài địa vị xã hội, còn phải xem xét về điều kiện kinh tế,
thế hệ gia đình, nghề nghiệp, điều kiện bản thân v.v…
Nạp thái là bước đầu tiên của hôn nhân, nhưng cũng cần phải có lễ vật.
Thời xưa dùng chim nhạn nên lễ này cũng được gọi là “điện nhạn”. Lễ nạp
thái dùng chim nhạn là vì: “Chim nhạn biểu trưng cho sự thuận theo thời tiết
âm dương và hàm ý người vợ sẽ theo đạo nghĩa của người chồng.” Ngoài ra
chim nhạn là chim mùa, mùa đông bay đến trú ở phương nam, mùa hè sinh
sống ở phương bắc, đến đi đều có qui luật. Nạp thái dùng chim nhạn, trên
thực tế có nghĩa là nói cho nhà gái biết “trai lớn cưới vợ, gái lớn gả chồng”,
nên giống như chim nhạn đến lúc thích hợp tìm nơi ở mới. Lễ vật nạp thái
phong phú đa dạng, có hơn 50 loại. Ví dụ như lễ vật nạp thái của thời Hán có
uyên ương, cửu tử bồ (hoặc mực), song thạch, tơ ngũ sắc, tơ trường mệnh,
dây cói, mền bông, quyển bá, thóc, a giao, can tất, cá, hươu v.v… Những lễ
vật này đều có kèm lời văn ca ngợi, đề cập đến ý nghĩa tượng trưng của
những lễ phẩm này. Trong tục lệ dân gian, phân chia lễ phẩm tượng trưng
này làm bốn loại, loại thứ nhất biểu thị kiết tường, giống như lấy chữ dương
đại biểu cho “tường”, chữ lộc đại biểu cho “lộc”; loại thứ hai là vật chúc lành
phu thê hòa hợp, gắn bó như keo sơn, như đôi chim uyên ương; loại thứ ba
tượng trưng cho nam giới làm chủ trong mối quan hệ vợ chồng, lấy chim nhạn
tượng trưng cho sự thuận theo thời tiết âm dương và mang ý nghĩa người vợ
sẽ theo đạo của người chồng, lấy bồ vi ví như sự dịu dàng của người vợ, lấy
quyển bá ví như sự phục tùng của người vợ; loại thứ tư là biểu thị cho đức
tính hiền dịu, chịu thương chịu khó, hiếu thuận của cô dâu mới. Về sau,
những lễ vật ngày càng đơn giản.
2. Vấn danh
Nạp thái đã xong, cũng chính là nhà gái đồng ý nhận lễ vật, tiếp đó là
bước thứ hai của nghi thức hôn lễ - vấn danh, nhà trai sẽ mời người mai mối
tới nhà gái tìm hiểu tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô gái, để xem kiết
hung lành dữ. Ông bà thời xưa khá coi trọng quan niệm tín ngưỡng, có ngũ
hành tương sinh tương khắc, lại có cầm tinh tương hợp tương xung, chỉ một
yếu tố không hợp, chuyện hôn nhân xem như chẳng có hy vọng thành công.
Vấn danh còn bao gồm cả việc cô gái đó do ai sinh ra, là con ruột hay chỉ là
con nuôi, là con của vợ cả hay vợ lẻ. Vấn danh cũng mang theo lễ vật, lễ vật
thời xưa cũng là chim nhạn, tục lệ này có thể tiến hành cùng với nghi thức
nạp thái nên dần dần nó đã biến mất theo thời gian. Có nơi sau khi vấn danh
xong, nhà trai nhà gái hai bên trao đổi “canh thiếp”, cũng chính là thông báo
tình hình của hai nhà cho nhau biết.
Canh thiếp chính là ghi “tám chữ” vào một tấm giấy đỏ, rộng khoảng
một tấc, dài khoảng tám tấc, trong đó viết giờ, ngày, tháng, năm sinh của cô
gái và chàng trai, “tám chữ” được ghi trên đó, theo tập quán phải là số chẵn
mới được. Giả như xuất hiện một số lẻ thì có thể tùy tiện tăng giảm một chữ
số không quan trọng để tạo thành số chẵn. Nam nữ hai nhà sau khi nhận
được tám chữ này, thì lập tức thắp hương cúng bái thần phật tổ tiên ngay
gian nhà chính trong ba ngày.
Giả như trong ba ngày đó, trong nhà có xảy ra cãi vã, mất trộm, hư
hỏng đồ đạt và những sự cố không ngờ đến, thì đều bị cho rằng điềm xấu, do
dó hôn sự không nên bàn tới nữa. Trái lại nếu như trong ba ngày đó, hai nhà
nam nữ đều không xảy ra bất cứ sự cố gì, thì chính là biểu thị sự phù hộ độ trì
của thần phật và tổ tiên, là điềm đại kiết, hôn sự có thể tiếp tục tiến tới. Lúc
này nam nữ hai bên đều mời thầy bốc quẻ xem bói giải “tám chữ”, xem nam
nữ tướng tính như thế nào, nếu tướng tính tốt việc hôn sự sẽ tiếp tục tiến
hành, nếu không thì miễn bàn đến. Giả như tất cả đều rất thuận lợi, thì
chuyện hôn nhân của hai nhà này mới có thể bước sang vấn đề chính, cũng
chính là bắt đầu bàn luận đến tiền bạc và vật phẩm dùng trong hôn lễ, của hồi
môn và các việc khác.
3. Nạp cát
Sau vấn danh đến bước thứ ba là nạp cát. Giữa vấn danh và nạp cát,
có một nghi lễ không hề đơn giản đó là hợp hôn, đây cũng được xem là một
nội dung của nạp cát. Hôn nhân truyền thống Trung Quốc không chỉ căn cứ
vào “lệnh của cha mẹ, lời nói của bà mai”, mà còn căn cứ vào “ánh sáng của
trời, thần”. Công việc sau vấn danh, chính là thông qua trăm hình vạn trạng
phương thức để khảo sát xem hai bên có thể kết hôn được hay không. Hoạt
động này chính là hợp hôn, đời sau gọi là “giải tám chữ”. Hôn nhân có thể
thành công hay không đều dựa vào yếu tố này. Nếu ở những phương diện
khác đều tương hợp nhưng tám chữ không tốt, thì hôn sự cũng phải dừng
chân tại đây, không có cách nào tiếp tục tiến hành.
Cái gọi là “tám chữ” có liên quan mật thiết đến lịch pháp truyền thống
Trung Quốc. Người xưa lấy can chi kỉ niên, kỉ thời, thiên can, địa chi tương
phối tổ thành 60 nhóm tên và lần lượt theo thứ tự ứng với giờ, ngày, tháng,
năm nhất định. Giờ, ngày, tháng, năm sinh của mỗi người đều do bốn nhóm
can chi biểu thị, tổng cộng có tám chữ, chính là “tám chữ giờ ngày tháng năm
sinh”. Ngoài ra, người xưa vì để tiện cho việc ghi nhớ, lại dùng 12 con vật kết
hợp với mười hai chi, hình thành nên mười hai cầm tinh, đó là tí (chuột), sửu
(trâu), dần (cọp), thố (thỏ - ở Việt Nam là tuổi Mẹo (mèo), thìn (rồng), tị (rắn),
ngọ (ngựa), mùi (dê), thân (khỉ), dậu (gà), tuất (chó), hợi (heo). Vì thế vừa
nhìn tám chữ liền biết cầm tinh của một người, hôn sự có thể tiếp tục tiến
hành hay không là phải xem cầm tinh có hợp hay không. Liên quan đến vấn
đề này, dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu ca dao tục ngữ, tương hợp có
“Thỏ xanh chó vàng xưa nay hiếm, ngựa đỏ dê vàng thọ mệnh trường, chuột
đen trâu vàng lưỡng hưng vượng, trâu xanh chó đen hỉ dương dương, rồng
gà càng trường cửu “Rắn và thỏ, tất giàu có”; tương khắc có “ngựa trắng sợ
trâu xanh, dê chuột sớm chia tay, rắn cọp như dao đâm, rồng thỏ nước mắt
chảy, gà vàng sợ chó ngọc, heo dê không kề vai”, v.v… Nếu thu thập những
câu nói dân gian ở các nơi khác nhau lại sẽ phát hiện ra hàng trăm mâu
thuẫn.
Ngoài việc giải tám chữ và cầm tinh ra, còn có âm dương ngũ hành.
Ngũ hành là chỉ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, vận mệnh của mỗi người đều tương
quan đến các yếu tố này. Ngũ hành cũng có hai mối liên quan tương khắc
tương sung, cũng có thể căn cứ vào tám chữ để tính ra, từ đó luận ra kiết
hung của hôn nhân.
Sau nạp cát, “việc hôn nhân đã định”, tấm thiếp mà hai bên trao đổi
cũng giống như giấy chứng nhận kết hôn ngày nay. Từ đó về sau, nam nữ hai
bên đều chịu ước thúc của luân lí xã hội, việc chấm dứt hôn nhân không
được tùy tiện, mà phải thông qua sự hiệp thương của hai bên hoặc sự hòa
giải của người ngoài. Đồng thời, bên nhà trai mỗi năm tết đến đều phải tặng
lễ cho bên nhà gái, có nơi gọi là “Xuyết tiết”, hơn nữa bốn mùa đều phải tặng
quần áo cô gái chính vì ý nghĩa đặc biệt của lễ nạp cát. Tấm thiếp rất được
xem trọng, nhiều nơi còn gọi là “thiếp rồng phượng”.
4. Nạp chưng
Nạp chưng là sau khi hai bên nam nữ đã kí hôn, nhà trai tặng lễ vật cho
nhà gái, cũng chính là tặng của hồi môn, làm lễ ăn hỏi mà người đời sau
thường gọi. Chỉ sau khi hoàn thành nghi thức này thì nhà trai mới có thể sang
nhà gái.
Nạp chưng là nghi thức quan trọng nhất trong hôn nhân Trung Quốc,
cũng là nghi thức đặc sắc nhất. Vì thế, hôn nhân truyền thống Trung Quốc
cũng gọi là “hôn nhân mua bán”.
Nạp chưng thời xưa tương đương với việc đem sính lễ ngày nay. Thời
gian tặng lễ, theo lệ thường được định vào ngày trước khi chính thức đón
dâu.
Người phương bắc Trung Quốc gọi nạp chưng là “đón đại lễ”, cũng gọi
là “hoàn sính”, “đại sính”. Đây là tiêu chí quan trọng bước vào giai đoạn hôn
nhân, cũng là nghi thức đặc sắc nhất và quan trọng nhất trong tập tục hôn
nhân Trung Quốc. Khi nhà trai sang nhà gái tặng lễ, phải chọn ngày chẵn tốt
lành, do người mai mối (đa số là nữ giới) cùng cha mẹ và họ hàng (chủ yếu là
cô ruột) của nhà trai, mang theo sính lễ đến xem mắt. Dùng chỉ vàng may hai
chữ “sinh canh” vào lụa đỏ, sính lễ mang theo bao gồm hoa vàng (đa phần là
trâm), vòng vàng 1 cặp, nhẫn vàng (một chiếc là vàng, một chiếc là đồng) 1
cặp, thịt heo, rượu hỉ, thịt dê, cao tử, 2 thước 4 tấc lụa đỏ, lụa sa đen, nến
bốn cặp, pháo, nhang lễ 2 cặp, bông tai 1 cặp, hoa gừng (bánh hoa gạo
đường), bánh lễ v.v… Sính lễ được bày trên một chiếc hộp lớn do hai người
khiêng, sau đó chiếu theo trình tự người thổi kèn đánh trống đi trước, theo
sau là bà mai, suốt đường đi cứ thổi thổi đánh đánh cho đến khi đến nhà gái.
Thiếp lễ là tấm giấy ghi danh sách lễ vật và bảng trình tự nghi thức.
Nhưng văn pháp phải cầu kì, như gà vịt thì viết “Đức cầm tứ dực, gia phù tứ
chưởng”, chuối thì viết “liên chiêu quí tử”, vòng vàng thì viết “vòng vàng thành
đôi”, nến thì viết “hỉ chúc song huy” v.v…
Bảng ghi sính lễ dùng giấy đỏ gấp thành 12 gấp. Nếu là nhà trai tặng
cho nhà gái, trên mặt phải viết hai chữ “đoan túc”; nếu là nhà gái tặng cho nhà
trai, trên mặt phải viết hai chữ “túc phụ”, nội dung là câu kiết tường trong “Lễ
Kí”.
“Hôn thư” tương tự như giấy chứng nhận kết hôn ngày nay, nhà trai
trao cho nhà gái gọi là “càn thư”, nhà gái trao cho nhà trai gọi là “khôn thư”.
“Long nhãn khô”, “thịt gà”, “thịt vịt” trong sính lễ, là tượng trưng cho
phúc khí của nhà trai, nếu nhà gái tiếp nhận thì có nghĩa là lấy đi phúc khí của
nhà trai, cho nên chiếu theo lệ thường đều phải hoàn trả lại. “Long nhãn khô”
tượng trưng cho đôi mắt của con rể, nên phải hoàn trả lại đủ. Còn đối với thịt
heo, nhà gái có thể nhận, nhưng theo phong tục, phải mang giò heo hoàn trả
lại, vì nó có nghĩa là “thịt phải đưa người ăn, xương không đưa người gặm”,
nếu nhà gái nhận giò heo này, nghĩa là nhà gái không tỏ ra lễ mạo đối với nhà
trai. Còn những sính lễ khác đều nhận bình thường.
Nhà gái sau khi nhận sính lễ (nhưng chỉ nhận một phần trong đó), còn
cộng thêm mười hai loại lễ vật khác, hoàn trả lại cho nhà trai đáp lễ. Sau đó
nhà gái hầu trà nhà trai, cuối cùng nhà trai mới tiếp nhận sự thết đãi của nhà
gái. Nhà trai tiếp nhận sự thết đãi nồng hậu này, phải đến mỗi bàn dâng bạc
tạ lễ.
Nhà trai và nhà gái lúc này đều phải thân hữu chi giao, biểu thị hai bên
đã kết thành xui gia một nhà. Nhà trai cũng đem hôn thư cúng bái trước thần
phật và tổ tiên, báo cáo đã cùng nhà gái kết thành thông gia.
Nếu nhà gái dự tính khi kết hôn của hồi môn phải nhiều, thì họ có thể
không cần khách khí nhận toàn bộ sính lễ của nhà trai, chỉ lấy ra một phần
nhỏ làm hồi lễ; trái lại nếu nhà gái dự tính sau này của hồi môn không nhiều,
thì chỉ tiếp nhận một phần nhỏ sính lễ của nhà trai, đa phần đều hoàn trả lại
với danh nghĩa tạ lễ. Cho nên có thể thấy, nếu nhà gái tiếp nhận sính lễ bao
nhiêu, thì của hồi môn tương lai sẽ bấy nhiêu.
5. Thỉnh kì
Sau khi nạp chưng kết thúc, hôn sự trên cơ bản đã hoàn tất, sau đó là
sắp xếp việc đón dâu, nhưng trước hết cần phải chuẩn bị thỉnh kì. Thỉnh kì là
sau khi nhà trai chọn được ngày lành tháng tốt để hợp hôn, người mai mối có
trách nhiệm thông báo cho nhà gái biết, xem nhà gái có chấp thuận không,
tương đương với “cáo kì”, “hạ nhật”, “tống nhật”, “thám thoại” của đời sau.
Thời xưa sính lễ của thỉnh kì là dùng chim nhạn, đời sau dùng đủ loại lễ
phẩm. Trong nghi thức thỉnh kì, đại thể cũng giống như vấn danh, chủ yếu là
lựa chọn ngày lành tháng tốt để đón dâu, hợp hôn cho tốt đẹp, và người đón
dâu, đưa dâu thích hợp. Sự lựa chọn chính cũng vẫn là tám chữ và cầm tinh.
Đầu tiên phải chọn ngày lành tháng tốt, dân gian thông thường chọn song
nguyệt song nhật, như ngày 2 tháng 2, ngày 8 tháng 4, ngày 6 tháng 6 v.v…
Nhưng tháng cưới gả nhất định không thể phạm vào tuổi kị của hai bên nam
nữ, nếu không sẽ “phạm tháng”; tháng thích hợp nên là “tháng giêng tháng
bảy nghênh gà thỏ” v.v… vì đó là “tháng luận hôn sự”, có thể cưới gả. Ngày
giờ đón dâu, đưa dâu cũng không thể kị tuổi. Thỉnh kì vào thời xưa dường
như chỉ tiến hành bằng miệng, đời sau tiến hành bằng miệng hay thư đều có,
đặc biệt với những thế tộc đại gia hoặc nhà khá giả, đa số đều tiến hành bằng
hình thức thư, cũng chính là hôn thư.
Sau khi hai nhà trai gái đều thuận ý ngày giờ kết hôn, nhà trai liền
chuẩn bị lễ vật đến đón dâu. Nghi thức hôn lễ xưa kia không phải chỉ một
ngày là xong, có lúc phải kéo dài đến hai ba ngày. Thời cận đại hôn lễ phần
lớn đều tiến hành trong ba ngày; ngày trước khi cử hành đại lễ, nhà gái phái
người đến “trải phòng” hoặc “mừng tổ ấm”; ngày giữa là ngày đón dâu, sau
khi nghênh đón tân nương phải làm lễ bái đường; ngày sau đó là hồi môn. Có
nơi hôn lễ cử hành trong hai ngày, có khi chỉ cần một ngày thứ hai là đủ.
Trong ngày lễ chính, từ đón dâu đến động phòng, nghi thức lễ tục trong đó có
đến mấy mươi loại.
Trước khi người đón dâu tới, còn phải chuẩn bị rất nhiều, thông thường
bao gồm những nội dung sau:
Xe lông mặt - dựa theo phong tục thời xưa, phụ nữ trừ phi kết hôn,
tuyệt đối không thể xe lông mặt. Chỉ có đêm trước khi kết hôn, cũng chính là
trước khi “mang búi tóc trên đầu”, mới có thể bắt đầu “xe lông mặt” lần đầu
tiên trong đời. Công việc là do một người phụ nữ có kinh nghiệm “xe lông
mặt”, tay cầm một sợi chỉ mảnh gút hai đầu lại tạo thành vòng tròn, hai tay
luồn vào vòng tròn xoắn lại, áp sát vào vùng mặt của cô gái, sau đó dùng tay
một căng một chùng, liền có thể lấy đi những sợi lông tơ trên mặt, giúp cho
vùng mặt sạch sẽ tươi tắn. Người phụ trách việc xe lông mặt phải là “người
hợp mạng”, cũng có thể là cha mẹ anh chị em của cô gái. Sau khi việc “xe
lông mặt” hoàn tất, còn phải tặng quà tạ lễ cho người hợp mạng, tiếp đó là
“mang búi tóc”.
Mang búi tóc - chính là ngày hoàng đạo mà hai nhà trai gái đã lựa chọn,
lần lượt tiến hành trong nhà của mỗi bên. Nhà trai lập một “cây ngũ thăng” để
tân lang ngồi trên đó, đối mặt với linh vị của thần phật và tổ tiên. Lúc này nhờ
“người hợp mạng” ở phía sau chải tóc cho tân lang ba lần, sau đó lại giúp tân
lang mặc lễ phục, đội mũ lễ, cúng bái thiên cung, tam giới công, Bồ tát Quan
Âm và tổ tiên, nguyện cầu sau khi kết hôn con cháu đầy đàn, hưng vượng
vạn đời.
Bên nhà gái cũng với cách làm tương tự đồng thời tiến hành đội mũ lễ
lên tóc búi cho tân nương, tục gọi là “phủ khăn hồng che mặt”. Nhà gái phải
đặt một chiết ghế tre bên dưới lư hương thiên công ở giữa gian nhà chính,
sau đó bảo tân nương ngồi lên chiếc ghế đó hướng mặt ra ngoài, điều này
tượng trưng cho cô gái khi xuất giá sẽ rời khỏi nhà cha mẹ đẻ, cho nên
hướng ngồi mới hoàn toàn trái ngược với chàng trai. Nhà gái nhờ một “người
hợp mạng” từ phía sau chải đầu cho tân nương, lại cài một cây trâm tượng
trưng cho người con gái đã thành niên.
Nghi thức chải đầu cài trâm xong xuôi, sau đó người hợp mạng giúp cô
dâu mặc lễ phục, phủ “khăn lụa hồng”, hướng về tam giới công và thần phật
tổ tiên cúng bái, sau đó kính dâng cha mẹ một chung trà, sau khi cha mẹ
uống xong, cũng phải cúng bái thiên công và các thần phật.
Nhà trai phải khẩn trương bố trí tân phòng, chọn một buổi sáng tốt lành
mới được phép sắp xếp giường nằm cho tân lang và tân nương, nguyện cầu
thần phật phù hộ bình an, cho nên được gọi là “giường an lành”. Tất cả
những vật phẩm khác đều phải mua mới, trong phòng ngoài phòng đều phải
quét dọn sạch sẽ, trước cửa phòng dán câu đối, trên mí cửa còn phải treo
một dải vải dài thêu những câu chữ kiết tường. Nhà gái cũng phải trang
hoàng nhà cửa cho mới, chuẩn bị chiêu đãi thân hữu đến chúc mừng và tân
lang đến đón dâu.
Bàn ăn chị em (tiệc chia tay cùng với chị em) - con gái xuất giá, rời khỏi
vòng tay yêu thương của cha mẹ, từ đây sẽ phải li biệt anh chị em, đến một
nơi khác sống trọn một đời.
Cho nên ngày xuất giá, giữa anh chị em vô cùng quyến luyến nhau, đặc
biệt là khi tổ chức tiệc chia tay, gọi là “bàn ăn chị em”. Khi dùng tiệc, anh chị
em đều chúc những lời tốt lành, chúc hôn nhân mĩ mãn. Sau khi tiệc chia tay
kết thúc, tân nương phải vào phòng trang điểm, bắt đầu lần trang điểm quan
trọng nhất trong đời, sau đó mặc lễ phục, trùm khăn che mặt, trở về khuê
phòng, đợi nhà trai đến đón dâu.
Nến hoa - nến hoa là lễ vật dùng khi hợp cẩn. Thông thường cưới vợ
thì tiến hành ở nhà trai, chọn người ở rể thì tiến hành ở nhà gái. Ngày kết
hôn, nến hoa được bày ỏ phòng nội. Tân nương bước vào cửa là được khách
mời nghênh đón tới lễ đường, cũng gọi là “hoa đường”. Cùng với tân lang
hướng vào trong bắt đầu lễ bái, hướng về đối phương giao bái. Sau khi lễ kết
thúc, có người đưa tân lang tân nương vào động phòng. Uống trà giao bôi (đa
phần trà giao bôi là táo đỏ với đường phèn), chữ táo cùng âm vận với chữ
sớm, có ý nghĩa là sớm sanh quí tử. Sau khi hợp cẩn, thường có lễ tiết báo
cáo với tổ tiên và ra mắt cha mẹ chồng, cũng có lúc sau khi tiệc tàn tân lang
tân nương kính trà mời khách, gọi là uống “trà tân nhân”.
Đưa dâu - khi cô gái sắp kết hôn, nhà trai gọi là cưới vợ, nhà gái gọi là
xuất giá. Trước khi xuất giá, tân nương tắm gội, trang điểm. Khi xuất giá, tân
nương làm lễ báo cáo tổ tiên và từ biệt cha mẹ. Con gái xuất giá thông
thường do anh chị em đưa tiễn, nam nữ mỗi bên hai người, gọi là cao binh
nam, cao binh nữ, hay tống cửu. Nhà trai tạ lễ cho cao binh rất hậu.
II. LỄ NGHI HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG
1. Đón dâu
Trình tự đầu tiên của việc đón dâu thời xưa là tân lang nghênh đón tân
nương. Việc đón dâu thời xưa vào lúc hoàng hôn là nghĩa gốc của từ “hôn”
trong hôn nhân. Tân lang nhận lệnh của cha mẹ đi đón dâu, khi đến nhà gái,
người nhà gái phải ra cửa nghênh tiếp, tân lang bước vào cửa phải dâng lễ
phẩm chim nhạn, phong tục này gọi là “điện nhạn”, là nghi thức khá quan
trọng trong hôn nhân truyền thống; sau đó, tân lang cung kính đón tân nương
lên xe, trở về nhà mình. Tổ chức đón dâu của đời sau phức tạp hơn nhiều.
Đội ngũ đón dâu luôn luôn phải xinh đẹp, có đến hơn mấy mươi người. Tân
nương thời nhà Hán ngồi xe mui hoặc xe diu, nhà Đường dùng xe có hình vẽ
màn che, tới nhà Tống sau này mới lưu hành kiệu hoa mà mọi người thường
biết tới. Trong đội ngũ đón dâu, cũng bao gồm đội nhạc kèn trống v.v… Hôn
lễ thời nhà Thanh, đa phần đều mô phỏng theo đế vương Nghĩa Trượng,
trong đội ngũ đón dâu có rất nhiều phu kiệu cầm tấm biển gỗ và thắp đèn bên
trên ghi là “mở đường”, “xin tránh đường”, còn mang cái trượng, phủ việt
v.v…, tân lang đội mũ quan, tân nương đội mũ phượng áo choàng. Vì hôn
nhân là việc đại sự, tuy cách làm có hơi vượt quá nghi thức, nhưng thông
thường quan phủ không ra tay can thiệp.
Kiệu hoa đón dâu phải có người áp kiệu. Thời xưa ở Bắc Kinh đón dâu
là do phụ nữ áp kiệu. Bà áp kiệu ở hỷ phòng thắp hương cúng tế trời đất,
dùng kiếng nhỏ để chiếu kiệu hoa, dùng nhang chi lan xông kiệu hoa, bên
trong kiệu hoa lại rắc những loại “hỉ quả” là long nhãn, vải, táo, hạt dẻ, đậu
phộng, sau đó lại ngồi xếp bằng trong kiệu hoa áp kiệu. Có nơi áp kiệu không
dùng bà áp kiệu, mà dùng đồng tử cha mẹ song toàn, có ý nghĩa là đôi phu
phụ mới cưới hòa hợp tới già, sớm sinh quí tử. Thói quen sớm sanh quí tử
của hôn lễ này, còn có “hoa quế” Phúc Kiến, đồng thời còn nghênh đón hai
đứa bé đeo hoa hồng, biểu thị ý nguyện cầu mong sớm có quí tử.
Khi đội ngũ đón dâu đến nhà gái thì hàng loạt tập tục lễ nghi cũng bắt
đầu. Nhà gái sau khi nghe tin nhà trai đến, tuyệt đối không lập tức ra cửa
nghênh đón, mà phải đóng chặt cửa hoặc chặn đội đón dâu lại, nghi thức này
gọi là chặn cửa. Lúc này, phải có sự dối đáp lễ nghĩa một cách khéo léo, ví dụ
như người bên đón dâu sẽ la lên “mở cửa, mở cửa, làm lỡ giờ tốt mất!”. Nhà
gái nghe thế bắt buộc phải hướng ra ngoài hét lớn, yêu cầu thổi đánh khúc
nhạc chúc mừng; hoặc do người đón dâu hát bài hát chặn cửa. Chặn cửa tới
một thời gian nhất định, bên đón dâu mới có thể bước vào.
Sau khi bước vào ngoài việc chào hỏi nhà gái, bên đón dâu phải dâng
tặng lễ phẩm, những lễ phẩm này vì theo thời gian và từng khu vực nên tồn
tại những khác biệt rất lớn, nhưng đều có ý nghĩa kiết tường hỉ khánh. Nhà
gái cũng phải thết tiệc đãi đội đón dâu, nhưng đây chỉ hoàn toàn mang tính lễ
tiết mà thôi.
Thời xưa có những nơi, khi tân lang tới nhà gái thì nhà gái mới bắt đầu
làm tóc và trang điểm cô dâu. Lúc này, bên đón dâu dẫn đầu là tân lang và
bên tân nương đồng thời cùng trang điểm. Trang điểm xong, tân nương được
bà đón dâu dìu lên kiệu, hoặc do huynh trưởng bế lên kiệu. Lúc từ biệt, tân
nương có thể òa khóc, điều này không phạm vào đại kị, tân nương trên kiệu
khóc, mọi người trái lại cho rằng đây là đại kiết đại lợi. Nghe nói, tân nương
khóc càng lớn, thì nhà cha mẹ chồng càng phát tài. Trong hôn lễ của nhiều
dân tộc thiểu số tồn tại tục “khóc trong ngày cưới”. Có những nơi, kiệu đón
dâu sau khi rời khỏi nhà gái, người nhà gái phải tạt một thùng nước, biểu thị
con gái như nước đã đổ đi.
Trên đường trở về nhà trai, đội đón dâu phải đi con đường khác, vì thế
có khi phải đi đường vòng, gọi là “không đi đường cũ”. Nếu trên đường đi gặp
phải chùa miếu, giếng nước, đền thờ, mộ phần, hòn đá to, cây to v.v…, đều
phải phủ che kiệu hoa để tránh tà ma. Nếu gặp phải một đội đón dâu khác,
các kiệu phu phải tỉ thí kĩ nghệ, ra sức giữ vững kiệu hoa, có nơi tân lang hai
bên phải đổi vòng hoa trước ngực.
Nếu gặp phải đám ma, đội đón dâu đều phải nói: “Hôm nay kiết tường,
gặp phải tài lộc!”. Có những dân tộc thiểu số trên đường đón dâu phải ăn “tiệc
rượu cỏ tranh”, khoản đãi đội ngũ đưa dâu và họ hàng nhà gái.
2. Bái đường
Khi đội ngũ đón dâu trở về nhà trai, cũng tuyệt đối không thể lập tức
bước vào cổng, mà để kiệu hoa bên ngoài cửa, tục xưng điều này là “tính
kiên nhẫn”, thể nghiệm xem tính cách của cô dâu kiên nhẫn, dịu dàng đến
đâu. Sau khi kiệu hỉ bước vào cửa, lại có rất nhiều tục lệ khác nữa. Tuy
những tục lệ này tuyệt đối không nhất định toàn bộ phải tồn tại ở cùng một
nơi, nhưng chúng là có thật; đồng thời không chỉ tộc Hán mà dân tộc thiểu số
cũng có. Ở đây xin lược thuật như sau:
Rải đậu ngũ cốc. Sau khi khiêng kiệu hoa vào, rải ngũ cốc, đậu, cỏ
v.v… ngụ ý trừ tà. Đây là một tục lệ khá xưa, nhà Tống sau này khá lưu hành,
ngụ ý để tránh “tam sát” (thần dê xanh, thần gà đen, thần ngưu xanh), tam sát
chỉ mổ thức ăn, không nguy hại đến tân nương. Còn cô dâu hiện đại khi
xuống kiệu (xe) thì rải hoa hồng hay kim tuyến, có lẽ là bắt nguồn từ nghi thức
này.
Kiệu hoa vào đến trong sân, tân nương phải bước chầm chậm qua lò
than đang cháy đã chuẩn bị sẵn, ngụ ý là đốt tiêu những điều không kiết
tường, ngày sau tất cả mọi việc sẽ suôn sẻ hưng vượng.
Sau khi xuống kiệu, tân nương phải hướng về kiệu hoa vái tạ tượng
trưng ba lần, cũng có ý nghĩa trừ tà.
Tân nương từ trong kiệu bước ra, lại có lễ tục chuyển chỗ ngồi. Chỗ
ngồi chính là một tấm thảm đỏ trải dưới đất. Tập tục này tồn tại phổ biến vào
nhà Đường. Trong “Xuân Thâm Giá Nữ Gia” của thi nhân đời Đường Bạch
Cư Dị có viết: “Hà xứ xuân thâm hảo, xuân thâm giá nữ gia. Thanh y chuyển
chiên nhục, gấm tú nhất điều tà.” Từ trong lời thơ biết được lúc đó vật lót là
một cái áo lông. Đến nhà Tống, khi kiệu hoa vào cửa lớn, cũng là “truyền tịch
dĩ nhân, phục lệnh phù địa”, ngụ ý của tục lệ này là đời này nối tiếp đời kia.
Bút kí “Bất bất đới biên”. Quyển nhị của nhà Thanh có viết: “Kim Hàng tục
dùng bao gạo làm thảm, tên là “truyền túi”, lại viết “túi túi tương truyền, đời đời
tiếp nối”. Trong “Phong tục tập quán Trung Hoa” của Hồ Phác An ngày nay
cũng thuật lại phong tục chuyển chỗ ngồi của vùng Chiết Giang: “Tân nương
bước vào cửa, vải bố trải dưới đất, lệnh bước lên trên, gọi là truyền túi, cũng
có nghĩa là đời đời tiếp nối.”
Sau khi hạ kiệu, một số nơi có phong tục bước qua yên ngựa. Tân lang
phải ngồi trên yên ngựa, chữ “yên trong yên ngựa có cách đọc giống chữ “an”
trong bình an, ý nghĩa của phong tục này chính là chúc phúc cho tân lang tân
nương bình an.
Trước khi tân nương bước vào phòng hoa chúc, còn có một nghi thức
nữa, đó chính là bái đường. Bái đường khá lưu hành ở nhà Đường, tục gọi là
“bái trời đất”, thông thường là tam bái: “Nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường,
thứ ba là phu thê giao bái”. Phong tục bái đường khá phức tạp. Miền đông,
vùng tây bắc Trung Hoa có những nơi gọi là “bái nhân”, người nhận lễ bái
chính là những khách mời đem tiền lễ đến chúc phúc, ví dụ như cô, dì, cậu,
chú v.v… Chỉ cần thứ bậc lớn hơn tân lang hoặc cùng thứ bậc mà tuổi tác lớn
hơn, thì tân lang đều phải “bái lễ”, khách đều phải nhận bái. Khi bái nhân,
người điều khiển chương trình đọc tên danh mục lễ vật đã đặt ra từ trước, từ
tên lễ vật sẽ tìm được ra người tặng lễ, tiếp đó, người điều khiển hôn lễ đọc
lên “tiền lễ của ông X là Y đồng”, tân lang tân nương liền cúi người hành lễ.
Khi khách mời đông, nghi thức này phải tiến hành đến một hai tiếng đồng hồ.
Sau bái đường là mở tiệc đãi khách. Trong hôn lễ yến tiệc là quan trọng
cho nên rất cầu kì, ví dụ như sắp xếp chỗ ngồi, cách bài trí món ăn, kính
rượu, chúc rượu v.v…, một số dân tộc thiểu số còn hát lớn bài hát yến tiệc
tạo nên bầu không khí vui vẻ, thân thiện.
3. Động phòng hoa chúc
Sau khi tân lang tân nương vào phòng hoa chúc, cũng có hàng loạt
phong tục. Ví dụ như: tọa trướng, cũng gọi là “tọa phúc”, đó là tân lang tân
nương hai người ngồi trên giường hoặc ngồi trên băng ghế, tân lang lấy tà áo
trái của mình phủ lên tà áo phải của tân nương, biểu thị người nam có quyền
lực hơn người nữ.
Táp trướng. Tục lệ này là chỉ sau khi tân nhân bước vào phòng hoa
chúc, lúc này bạn bè thân của tân nhân tay cầm mâm quả tung các loại quả hỉ
vào lòng tân nương, ném vào giường hợp hoan, thậm chí ném vào mỗi góc
của phòng hoa chúc, vừa tung vừa đọc những lời chúc phúc cho đôi vợ
chồng mới cưới. Những loại quả hỉ dùng để tung vào người cô dâu, mỗi địa
phương, mỗi thời điểm đều không giống nhau, nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn
tương đồng, đều biểu thị ước muốn con cháu đầy đàn. Quả hỉ thường là táo,
hạt dẻ, đậu phộng v.v…, tận dụng hài âm để biểu thị “sớm sinh quí tử”.
Phong tục ăn bánh “há cảo con cháu”. Bánh há cảo con cháu của Bắc
Kinh thời xưa là do nhà gái làm rồi mang đến cho nhà trai nấu chín; đồng thời
nhà trai phải làm mì trường thọ. Khi ăn bánh há cảo con cháu, theo lệ thường
phải có một đám trẻ con ở ngoài cửa sổ hỏi “Có sinh hay không?”, bà đón dâu
hoặc tân lang trả lời “Sinh!”, hoặc là lập tức đem bánh há cảo nửa sống nửa
chín, để tân nương tự mình nói “Sinh”, biểu thị điềm tốt sớm sinh con.
Hôn lễ thời xưa có phong tục đồng lao hợp cẩn. “Đồng lao” là chỉ sau
khi tân nhân bước vào phòng hoa chúc thì cùng nhau ăn thịt những con vật
cúng tế, còn “hợp cẩn” là cùng nhau uống rượu, cẩn là một loại cốc rượu
được làm từ quả hồ lô, khi có chuyện cưới hỏi, người ta sẽ chọn ra quả hồ lô
thích hợp, tách ra thành hai cái gáo. Sau khi uống xong lại ghép hai cái gáo
vào với nhau như hình dạng quả hồ lô ban đầu, vì thế mới có tên là hợp cẩn.
Nhà Đường dùng li rượu, gọi là “song bôi”. Nhà Tống lấy chỉ màu cột hai li
rượu lại với nhau, đối ẩm mỗi người một li, gọi là “giao bôi”, uống xong, ném li
xuống đất, một ngửa một úp, tượng trưng âm dương điều hòa, đại kiết đại lợi.
Đồng lao, hợp cẩn phát triển thành cơm đoàn viên, uống rượu giao bôi của
đời sau. Rượu giao bôi cũng gọi là rượu giao tâm, rượu hợp hoan, rượu hợp
hôn v.v… Giống như hợp cẩn của tục lệ thời xưa, uống rượu giao bôi có ý
nghĩa chúc phúc cho tân nhân hòa hợp. Phương thức là dùng một sợi dây đỏ
cột hai chân li lại với nhau, phu thê cùng nhau nâng li; có nơi chỉ uống nửa li
rượu, sau đó đổi li cho nhau rồi mới uống cạn. Giống như hợp cẩn, thời xưa
là uống trà hợp hoan. Khi uống trà, tân lang tân nương phải ngồi trên băng
ghế, tân lang dùng chân trái đặt lên chân phải của tân nương, tân nương
cũng làm giống như vậy, tay trái của tân lang cùng tay phải của tân nương đặt
lên vai nhau, hai người dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ của tay kia làm
thành hình chữ nhật, cầm li trà lên uống. Đồng lao là chỉ hai vợ chồng mới
cưới cùng ăn một phần thịt con vật cúng tế. Thịt con vật dùng để cúng tế, đa
phần là nguyên con bò, heo, dê. Thời xưa đồng lao tiến hành ở phòng mới,
tân lang quay mặt về hướng đông, tân nương quay mặt về hướng tây, cùng
ăn thịt những con vật này, biểu thị từ nay về sau trở thành người một nhà một
họ. Đời sau cơm đoàn viên cơ bản giống với phong tục đồng lao. Ở Bắc Kinh,
ăn cơm đoàn viên là để tân lang, tân nương ngồi ở vị trí đầu, bà đón dâu và
bà đưa dâu cùng ngồi dự, ăn bánh màn thầu biểu thị “mãn phúc”, ăn bánh trôi
biểu thị “đoàn viên”, “sum họp một nhà”, ăn thịt tứ hỉ biểu thị “vui vẻ hạnh
phúc”.
Cùng với đồng lao, hợp cẩn, lễ tục thành hôn còn có “kết tóc”. Kết tóc
tức là buộc tóc, về sau gọi người vợ đầu là kết tóc phu thê. Vợ chồng mới kết
hôn thường cắt tóc của mình, bện làm một và xem đó là tín vật tượng trưng
cho tình cảm vợ chồng.
“Khuấy đảo phòng cưới”, tập tục này xuất hiện từ rất lâu đời, thời nhà
Hán đã rất thịnh hành. Ngày nay, tục “khuấy đảo phòng cưới” không chỉ tồn
tại trong những hôn lễ kiểu xưa ở nông thôn, mà ngay cả những hôn lễ của
người thành thị cũng không hiếm thấy. Khuấy đảo phòng cưới ngoài việc tạo
một niềm vui ngắn, còn có ý nghĩa khác, khuấy đảo phòng cưới ồn ào sôi nổi
sẽ xóa tan cảm giác tĩnh lặng, gia tăng bầu không khí vui vẻ của hôn lễ, vì thế
có những nơi gọi là “phòng ấm”. Thời xưa việc kết hợp nam nữ đa phần đều
do người mối lái, nam nữ tuyệt đối không hề quen biết nhau, náo động phòng
có thể khiến họ mất đi cảm giác xa lạ, khiến bạn bè thân hữu quen biết nhau,
bạn bè khách khứa ngồi đầy nhà, biểu thị sự hưng vượng phát đạt, gia tăng
tình cảm giữa bạn bè, xóm làng.
4. Lễ nghi sau hôn nhân
Lễ nghi sau hôn nhân không được xem nhẹ, tục lệ nổi bật trong đó là
có thể quen biết được với gia đình hai bên sui gia. Các tục lệ trong hôn lễ
truyền thống có thành phụ (công nhận cô dâu là thành viên chính thức trong
gia đình nhà trai), thành tế, nhận biết lớn nhỏ, lễ lại mặt, thử chuyện bếp núc
v.v…
Thành hôn chỉ là hoàn thành việc kết hợp nam nữ, cho nên ngoài nghi
thức “thành vợ”, “thành chồng” ra, còn phải cử hành lễ “thành phụ”, “thành tế”.
Vào thời nhà Chu, ngày hôm sau của lễ thành hôn, khi trời còn chưa sáng, cô
dâu phải thức dậy tắm rửa sạch sẽ, dùng sọt trúc đựng táo, vải, gừng, quế,
thịt khô làm vật phẩm bái kiến cha mẹ chồng. Khi trời sáng hẳn cô dâu bắt
đầu tổ chức lễ bái kiến ở sảnh đường, cha mẹ chồng bước vào bái đường
trước, cô dâu tay cầm vật phẩm cùng chú rể vào sau. Đầu tiên cô dâu đặt vật
phẩm cúng bái tổ tiên, sau đó bái kiến cha mẹ chồng, bố chồng sẽ nói vài lời
chúc phúc, mẹ chồng sẽ đỡ cô dâu dậy và tặng cho cô dâu một chiếc trâm cài
tóc biểu thị việc thừa nhận cô dâu là thành viên chính thức trong gia đình.
Nếu cha mẹ chồng đã qua đời thì người chồng phải có trách nhiệm đưa vợ tới
trước mộ chí của song thân để tiến hành lễ bái đường. Người xưa xem trọng
“thành phụ” hơn “thành vợ” vì mặc dù hôn lễ đã cử hành nhưng chưa tiến
hành lễ bái kiến cha mẹ chồng thì cô dâu vẫn chưa được công nhận là thành
viên chính thức trong gia đình. Từ thời nhà Tống trở đi, con dâu ba ngày phải
bái kiến cha mẹ chồng và khách khứa đến thăm. Vào thời nhà Đường, sau
ngày thành hôn cô dâu phải bái kiến cha mẹ chồng, người bề trên cao tuổi và
thành viên trong gia đình, gọi là “bái khách”. Đời sau cũng có tổ chức lễ bái
kiến cha mẹ chồng ngay trong đêm hôm đó, nhưng ngày hôm sau vẫn phải
dâng trà. Thời xưa tục lệ này ở Bắc Kinh gọi là “bái tam đại”, tục xưng là
“nhận biết lớn nhỏ”, để tân nương nhận biết và ghi nhớ ba đời lớn nhỏ bên
nhà chồng. Trước tiên phải bái lạy tổ tiên, sau đó lại thủ lễ ba lạy đối với bậc
trưởng bối như cha mẹ chồng v.v… đối với người cùng thứ bậc chỉ là vái
chào, duy chỉ có chị chồng mới khấu đầu, gọi là “lễ cao kiến”. Các bậc trưởng
bối nhận lễ có thể cho cô dâu mới ngọc quí, trâm cài, vải vóc, đồ trang điểm
v.v… Ngày thứ ba sau khi kết hôn tân lang dắt tân nương cùng lên mộ tổ đốt
giấy cúng bái.
Hôn lễ lấy nhà trai làm trọng, nhưng nhà gái cũng được chúc mừng vui
vẻ. Sự tồn tại của “lễ lại mặt” và lễ “thành tế” đã chứng minh điều này. Lễ lại
mặt cũng chính là ngày thứ hai hoặc thứ ba của hôn lễ, tân lang tân nương
trở về nhà gái, gia đình nhà gái phải tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn để chiêu
đãi hai người. Vào thời nhà Tống, con rể trong ngày thứ hai phải đến nhà cha
mẹ vợ để làm lễ “phục diện bái môn”, nếu không thì sẽ tiến hành cùng với lễ
lại mặt. Theo lệ, vào ngày này bạn bè thân hữu của nhà gái phải trêu chọc tân
lang, tăng thêm không khí vui vẻ náo nhiệt. Tân lang cũng giống như tân
nương nhận biết hết những người lớn nhỏ trong gia đình, đây cũng gọi là bái
tôn trưởng.
Thử tài làm bếp cũng là một tục lễ xưa nay đều có, ngày đầu tiên sau
đêm tân hôn, tân nương phải xuống bếp làm cơm dâng lên cha mẹ chồng.
Tục lệ này đời sau chỉ mang tính tượng trưng, nhưng biểu hiện một cách rõ
ràng rằng vị trí và vai trò của nam nữ trong xã hội truyền thống rất khác xa
nhau.
5. Tục tín lễ nghi hôn nhân
Lễ, tục không thể phân chia được. Có thể nói rằng, lễ tục truyền thống
Trung Quốc vô cùng đặc sắc. Nhiều lễ tiết và lễ tục đều dựa vào nguồn gốc
của tục tín. Ở đây giới thiệu một cách đơn giản tục tín nhân tế, tục tín đạo cụ
và tục tín y phục trong hôn lễ.
“Đạo cụ” trong hôn lễ có rất nhiều, trong đó mục lớn nhất chính là nhà
hỉ và hỉ phòng. Nhà hỉ là một ngôi nhà tạm rất lớn được dựng nên để tiếp đãi
khách mời trong hôn lễ, cũng gọi là “nhà rượu”. Đây là một chuyện vui, cho
nên nhà hỉ phải dựng cho cầu kì, trang hoàng đẹp một chút để lan tỏa bầu
không khí vui vẻ. Ví dụ như khung cửa sổ phải sơn màu đỏ, bốn góc cửa sổ
phải vẽ hình con dơi màu sắc sặc sỡ tượng trưng cho “phúc”, ngay giữa nhà
trai vẽ chữ song hỉ màu đỏ thật lớn; ngay giữa nhà gái chỉ vẽ một chữ hỉ mà
thôi. Khung cửa lớn dán câu đổi hỉ, ví dụ như “Dị viết càn khôn định hỉ, thi vân
chung cổ lạc chi”, “Xuy sênh kham dẫn phượng, phan quế hỉ thừa long”; bức
hoành thì viết “Thiên tác chi hợp”, “Long phượng trình tường”.
Hỉ phòng cũng chính là phòng hoa chúc, là nơi ở của vợ chồng mới
cưới. Thông thường phòng hoa chúc quay mặt về hướng đông, dân gian nói
cưới con dâu về ở nhà phía đông là “chăm chỉ thật thà”. Theo lệ cửa phòng
hoa chúc phải dán câu đối hỉ, trên cửa sổ phải dán chữ song hỉ, trên góc trần
nhà phải dán mấy chữ hỉ. Trên bàn phải đặt những vật tượng trưng cho lời
chúc phúc sớm sanh quí tử, sanh nhiều con như táo, đậu phộng, lựu, long
nhãn v.v… Tục lệ ở Sơn Đông, giường hôn nhân phải đặt dựa vào bức tường
kiên cố, ngụ ý “có chỗ dựa vững chắc”.
Ngoài nhà hỉ, phòng hỉ ra, hôn lễ truyền thống còn có rất nhiều đạo cụ
nhỏ khác:
Đòn cân. Đây là vật dùng để gạt tấm khăn hồng che mặt tân nương.
Chữ cân có hài âm giống với chữ “xưng”, ngụ ý là “xưng tâm như ý”.
Cung tên. Có ba mũi tên buộc lông vũ, một cái đặt trên kiệu hoa, một
cái nằm trong cái đấu trên hương án trong vườn của nhà trai, một cái do hai
người cầm lấy, áp kiệu hoa mà đi.
Dân tộc Mãn ở Bắc Kinh xưa khi cử hành hôn lễ, tân lang phải lắp tên
vào cung hướng về tân nương chưa vén khăn hồng giả bắn ba lần. Nghe nói,
tục lệ này là để trừ tà ma.
Yên ngựa. Đa phần được tổ chức bên nhà trai, khi kiệu hoa tới, tân
nhân từ kiệu hoa bước ra, phải bước qua yên ngựa (có nơi còn cưỡi ngựa), ý
nghĩa của nghi lễ này là cầu bình an.
Đấu. Đặt trong vườn hoặc trên hương án nhà trai, bên trong đựng ngũ
cốc, giấy đỏ, hoặc cung tên, đòn cân, đậy kín nắp lại, biểu thị ý nghĩa “lương
thực đầy kho”.
Gương. Hoặc dùng để trang sức kiệu hoa, hoặc do tân nương rút từ
trong người ra, hoặc bỏ vào đấu, ý nghĩa là chiếu yêu trừ tà.
Y phục của hôn lễ cũng rất đỗi cầu kì. Hôn lễ truyền thống được cử
hành vào lúc hoàng hôn, tân lang mặc áo dài, tân nương đội mũ khoác áo
choàng. Mũ tân nương đội có hình phượng hoàng làm bằng bạc hoặc những
chất liệu khác tạo nét kiều diễm; áo choàng màu đỏ, mặc vào vừa có tác dụng
bảo vệ, vừa là phục sức trang trí. Thông thường mà nói, tân nương mặc xiêm
y màu đỏ, đi giày thêu hoa cũng màu đỏ nhạt, bên trên thêu những hình kiết
tường như đôi uyên ương, hoa mai, hoa sen v.v… Tấm khăn che mặt cũng là
trang sức chủ yếu của tân nương trong hôn lễ truyền thống. Nguyên hình của
nó là mạng che mặt thời cổ. Từ Lục Triều tới Tùy Đường, tân nương dùng
quạt che mặt, vì thế mà sau đồng lao và hợp cẩn có tục lệ “khước phiến” là
tân lang sẽ lấy vật che mặt của tân nương, giống như “vén khăn che mặt” của
đời sau. Khăn che mặt còn được gọi là “khăn đỏ trùm đầu”, “khăn trùm đầu”,
“khăn đỏ che mặt” v.v…, là một tấm vải đỏ trùm lên đầu của tân nương. Khăn
đỏ được trùm lên từ lúc tân nương rời khuê phòng cho đến khi bước vào
động phòng bên nhà trai, sau đó mới do tân lang dùng đòn cân gạt tấm khăn
bỏ đi. Theo nghiên cứu, có thể nhận thấy dấu tích còn sót lại của nó trong tục
lệ hôn nhân cổ đại, hoặc chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian. Hôn lễ
thượng cổ được cử hành vào lúc hoàng hôn, hơn nữa còn có tập tục cướp
hôn, có lẽ khăn che mặt chính là dùng để che mặt tân nương sau khi cướp
hôn. Ngoài ra, có những nơi khi xuất giá, tân nương luôn luôn phải bôi màu
đen xám trên mặt, trang điểm vô cùng xấu xí, để tránh trên đường bị tà ma
cướp đi, có lẽ tục lệ dùng khăn che mặt là vì thế.
Ngoài y phục ra, vấn đề chăn mền cũng rất cầu kì, hoa văn đa phần lựa
chọn rồng phượng song hỉ, chim uyên ương v.v…, gam màu được chọn là
màu đỏ.
Khi tổ chức hôn lễ, đối với người điều khiển hôn lễ phải có yêu cầu đặc
biệt. Người đón dâu của Bắc Kinh xưa phải là “người toàn phúc”, nghĩa là trên
có chồng, dưới có con trai gái đầy đủ, cầm tinh không thể tương khắc với tân
lang, tân nương. Ngoài ra những điều cấm kị khác cũng khá nhiều, ví dụ như
phụ nữ mang thai không được tham gia v.v…
Quan hệ nhân tế trong tục lệ khuấy đảo phòng cưới cũng có biểu hiện
vô cùng nổi bật. Tục ngữ nói: “Tân hôn tam nhật vô đại tiểu”, có nghĩa là tân
hôn chưa quá ba ngày đều có thể tìm tân nương trêu chọc, đùa giỡn. Lúc
này, giữa anh rể và cậu (em vợ), dì (em gái vợ), giữa dâu trưởng và chú em
chồng, cô em chồng, các mối quan hệ này đều có thể đùa giỡn mắng la,
nhưng không nổi giận, nóng nảy. Sau những ngày đặc biệt này, quan hệ nhân
tế và cuộc sống hai bên thông gia lại trở về bình thường.
6. Trở về nhà cô dâu
Cái gọi là “làm khách”, chính là lần đầu tiên trở về nhà mẹ đẻ sau khi
kết hôn. Thời gian trở về nhà mẹ đẻ sớm nhất chính là vào ngày thứ ba sau
hôn nhân, trễ nhất là tháng thứ 4 hoặc tháng thứ 6, phổ biến nhất là khoảng 1
tháng. Trước khi trở về nhà mẹ đẻ, là do em trai hoặc em gái của nhà gái tới
đón, cùng chị và anh rể trở về nhà mẹ đẻ thăm viếng, vì thế đặc biệt gọi là
“song nhân phản”.
Lúc này tân lang phải mang theo lễ vật, thông thường là trái cây, bánh
lễ hoặc bánh gạo nếp bên ngoài có trét một lớp đường hoặc mè. Khi trở về lại
nhà chồng, nhà gái thường bảo cô dâu mang “bánh gạo” (dùng cơm gạo nếp
cộng thêm đường cát, trên mặt còn gắn hoa chuối cảnh) và “đào” (bánh hình
trái đào) về nhà cha mẹ chồng để đáp lễ.
Đối với nhà gái, do đây là lần đầu tiên đón tiếp con rể, cho nên muốn
giới thiệu con rể cho toàn gia tộc mình biết mặt, sau khi hàn huyên tâm sự sẽ
thết tiệc rượu khoản đãi.
Ngày con rể đến nhà vợ, phải lần lượt tặng bao lì xì cho ông bà ngoại
vợ, cha mẹ vợ, anh em trai vợ, chị em gái vợ, lớp con cháu v.v…, số tiền
trong đó tùy theo mỗi vai vế mà phân chia khác nhau.
Cô dâu về nhà cha mẹ đẻ “làm khách”, nếu nhà cha mẹ cách không xa
mấy thì khởi hành vào buổi sáng, đến nhà cha mẹ đẻ ăn cơm trưa, cố gắng
vào buổi tối hôm đó phải trở về nhà cha mẹ chồng; vì dân gian có câu nói mê
tín: “Ám ám mô sinh tra bộ” (trời tối quay về, có hy vọng sinh con trai). Nhưng
cũng có những cô dâu lưu lại nhà cha mẹ đẻ mấy ngày liền, khi trở về là do
em trai hoặc em gái của chú rể đến đón. Khi cô dâu trở về nhà cha mẹ chồng,
còn phải mang theo “gà dẫn đường”, ngoài ra còn phải tặng những thổ sản
của nhà gái, trong đó bao gồm hai cây mía và quýt còn cả lá đầy đủ, chuối và
những trái cây khác v.v…
Cô dâu từ nhà cha mẹ đẻ trở về nhà chồng mang theo “gà dẫn đường”
phải là một cặp gà con một trống một mái chưa lớn, khoảng 2,3 tháng tuổi,
sau khi mang về nhà tuyệt đối không thể giết ăn thịt, phải nuôi cho đến khi
lớn, sau khi đẻ trứng phải tiếp tục nuôi thành gà con. Mía thì có thể ăn được,
nhưng phải lưu lại một phần để tiếp tục trồng, tượng trưng sau này con cháu
đầy đàn.
III. LỄ TỤC HÔN NHÂN HIỆN ĐẠI
1. Nghị hôn
Nghị hôn trong quan niệm ngày nay là nam nữ bình đẳng, yêu đương
tự do, hôn nhân tự chủ, điều này cũng khiến cho hôn nhân hiện đại và hôn
nhân truyền thống có sự khác biệt.
“Nghị hôn” chính là quá trình xác lập động cơ, tiêu chuẩn lựa chọn đối
tượng, cũng là bước đầu xác định đối tượng yêu đương. Để xây dựng một
cuộc hôn nhân mĩ mãn, nghị hôn có tác dụng làm nền tảng. Nghị hôn ngày
nay có những xu hướng như sau:
Thứ nhất, phương thức lựa chọn đối tượng ngày càng đa dạng phong
phú. Hai bên nam nữ ngoài việc thông qua sự quen biết của mình, còn được
người khác hoặc do trung tâm mai mối hôn nhân giới thiệu. Cùng với sự phát
triển của tin học và khoa học kĩ thuật hiện đại, người tìm được đối tượng yêu
đương càng ngày càng nhiều.
Thứ hai, ngày nay con người đã nhận thức được điều then chốt trong
yêu đương tự do chính là phải lựa chọn đối tượng như ý. Có người đã qui
nạp thành “mười điều tương đồng” để lựa chọn người yêu cho tốt: thứ nhất là
cùng chung chí hướng, thứ hai là sở thích giống nhau, thứ ba là tuổi tác xấp
xỉ nhau, thứ tư là văn hóa tương đồng, thứ năm là tình cảm hợp nhau, thứ
sáu là ý hợp tâm đầu, thứ bảy là tính cách giống nhau, thứ tám là ngôn ngữ
tương thông, thứ chín là đối xử bình đẳng, thứ mười là có việc quan trọng
phải bàn bạc với nhau. Tóm lại điều kiện cơ bản của hai bên phải tương
đương với nhau, đại khái phải là “môn đăng hộ đối”. Có thể nói mười điều
tương đồng này là cụ thể hóa động cơ hôn nhân của người hiện đại.
Thứ ba, lúc nghị hôn đã có kiến thức sinh con một cách khoa học. Từ
thời thượng cổ đã tồn tại qui định người cùng họ không được kết hôn, để
tránh việc sinh con đời sau suy yếu, dị hình hoặc không sinh con được. Đến
thời kì cận đại, do nhóm người cùng họ ở Trung Quốc quá đông, những
người cùng họ ở những vùng khác nhau tuyệt đối không phải là họ hàng, cho
nên qui định “cùng họ không được kết hôn” này đã được thay thế bởi qui định
“họ hàng không thể kết hôn” một cách khoa học. Chỉ cần không phải là họ
hàng với nhau, cùng họ vẫn có thể kết hôn.
2. Đính hôn
Sau nghị hôn, đôi nam nữ phải thông qua yêu đương tìm hiểu một thời
gian, tình cảm càng thêm sâu đậm, quyết định cuối cùng là hoàn toàn muốn
kết hợp với nhau. Lúc này, thông thường đều làm lễ đính hôn (cũng gọi là
dạm hỏi).
Chức năng của đính hôn là dùng phương thức lễ tục để xác định lại rõ
ràng mối quan hệ giữa hai bên, được sự thừa nhận và ủng hộ của xã hội.
Nam nữ hễ đã đính hôn, thì hai bên đối với mối quan hệ này phải có trách
nhiệm đạo đức, gánh vác nhất định, chấm dứt hôn ước không phải là một
việc tùy tiện. Nếu phát sinh thay đổi, cần phải thông qua sự hiệp thương của
hai bên và hòa giải của người ngoài. Hiệp thương hòa giải không thành thì
phải hủy bỏ hôn ước, thông thường phải tuyên bố công khai, hoặc đăng báo
nói rõ. Nếu không sẽ bị xem là một hành vi không đạo đức.
Ở thành thị, thói quen mua bán hôn nhân đã mất, quan niệm nam nữ
bình đẳng đã trở nên phổ biến. Vì thế việc đính hôn ở thành thị đã không cần
sính lễ gì nữa. Thường thấy nhất là tổ chức một buổi tiệc. Qui mô của buổi
tiệc có thể lớn hoặc nhỏ, đối với người tham gia, ít nhất có thể là hai bên đại
gia đình, nhiều hơn một chút là bạn bè thân hữu. Yến tiệc kiểu này thông
thường được tổ chức ở nhà hàng, mục đích của buổi tiệc không ngoài việc
cha mẹ hai bên muốn thông báo thông tin đính hôn của con cái họ. Có không
ít người tổ chức lễ đính hôn theo phương tây, vô cùng đơn giản, đến giờ tốt
nhà trai tặng cho nhà gái một chiếc nhẫn đính hôn vừa để làm kỉ niệm vừa để
chúc mừng. Có người làm nhẫn bằng đá quí, và dựa vào tháng sinh của cô
gái để chọn lựa: tháng 1 đá thạch lựu, tháng 2 thủy tinh trong suốt màu tím,
tháng 3 đá lam ngọc hoặc hồng ngọc, tháng 4 kim cương, tháng 5 đá xanh
ngọc, tháng 6 trân châu, tháng 7 hồng ngọc, tháng 8 mã não hoặc đá ô liu,
tháng 9 là lam ngọc, tháng mười là đá opal, tháng 11 là hoàng ngọc, tháng 12
là đá lục tùng hoặc đá thiên thanh. Cùng với điều kiện sống ngày càng nâng
cao, nhẫn kim cương cũng ngày càng được nhiều người lựa chọn. Nhẫn đính
hôn do người nam đích thân đeo vào ngón áp út bên tay trái của người nữ,
tượng trưng cho tình cảm không thể phá vỡ và nghĩa vụ trách nhiệm giữa hai
người.
Bắt đầu từ ngày đính hôn, cách xưng hô đối với cha mẹ đối phương
cũng thay đổi. Bất kể lúc trước xưng hô như thế nào, bây giờ đều gọi là cha,
mẹ.
Ở nông thôn, tổ chức một buổi tiệc nhỏ thông báo cho họ hàng bạn bè
là hình thức đính hôn thường thấy. Cha mẹ anh chị em của nhà gái qua nhà
trai thăm viếng, sau đó nếu hai bên không có ý kiến gì thì nhà trai sẽ làm lễ
đính hôn, mời cha mẹ anh chị em và họ hàng của nhà gái đến dự.
Tặng lễ vật ở nông thôn là nội dung quan trọng của lễ đính hôn. Phong
tục tặng lễ vật bắt nguồn từ hôn nhân truyền thống, nhà trai lấy phương thức
“đặt lễ hỏi” để xác định mối quan hệ hôn nhân của hai bên nam nữ.
Ở nông thôn ngày nay có một số thanh niên nam nữ không theo phong
tục, không tổ chức lễ đính hôn, mà quen nhau một thời gian thì tới cơ quan
địa phương làm giấy đăng kí kết hôn, có được giấy chứng nhận kết hôn hợp
pháp, sau đó mới tổ chức lễ cưới. Còn những người từ những vùng đất này
đến những vùng đất khác làm thuê, có người không làm lễ đính hôn cũng
không tổ chức lễ cưới, mà sau khi sinh con mới quay trở về quê nhà, làm
chung một buổi tiệc cưới và tiệc chào đời của đứa con, gọi là “tiệc song hỉ”
(tục xưng là lưỡng hỉ nhất tuế).
Trong tuyệt đại đa số gia đình, nếu nam nữ hai bên đã đính hôn thì
chuẩn bị tổ chức lễ cưới.
3. Đăng kí kết hôn
Trung Quốc có “luật hôn nhân”. Qui định của pháp luật về phương diện
này là trước khi chính thức tổ chức kết hôn phải hoàn thành xong thủ tục
đăng kí, dựa theo những hồ sơ có liên quan mà pháp luật qui định, những
hạng mục dưới đây là những việc mà người chuẩn bị kết hôn và cha mẹ phải
chấp hành nghiêm chỉnh.
Đầu tiên, phải là cuộc hôn nhân mà hai bên nam nữ hoàn toàn tự
nguyện, không hề có bất cứ nhân tố mua bán nào.
Thứ hai, trùng hôn là hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, người nam phải đủ 22 tuổi, người nữ phải đủ 20 tuổi.
Thứ tư, người cùng chung huyết thống và có huyết thống trong ba đời
không được kết hôn.
Thứ 5, căn cứ vào qui định của “luật hôn nhân”, tất cả những người
mắc bệnh phong hủi chưa trị liệu dứt hoặc những chứng bệnh khác mà bác sĩ
cho rằng không nên kết hôn (như bệnh mang tính di truyền nghiêm trọng,
bệnh đường tình dục, bệnh tâm thần v.v…), đều nghiêm cấm kết hôn.
Thứ 6, trước khi kết hôn, phải mang những giấy tờ có liên quan đến cơ
quan thẩm quyền đăng kí kết hôn. Nếu kết hôn với người nước ngoài, thủ tục
đăng kí phải dựa theo hồ sơ có liên quan mà nhà nước đã ban bố (công dân
Trung Quốc kết hôn với người nước ngoài phải làm theo những qui định của
đăng kí kết hôn), sau khi đăng kí sẽ được cấp giấy chứng nhận kết hôn, hai
bên nam nữ đương sự mỗi bên giữ một bản. Nam nữ chính thức được cấp
giấy kết hôn mới là vợ chồng hợp pháp, mới có thể được sự bảo vệ của pháp
luật.
Ở nông thôn ngày nay còn có những người cho rằng đã đính hôn, đã tổ
chức lễ cưới thì có thể được xem là chính thức kết hôn, quan niệm này hoàn
toàn sai lầm. Đính hôn, uống rượu mừng chỉ là lễ tục dân gian, tính ổn định
của hôn nhân tuyệt đối không được pháp luật bảo vệ.
4. Chọn ngày kết hôn
Chọn ngày kết hôn là bàn bạc định ra ngày làm lễ cưới. Hoạt động này,
thông thường do cha mẹ bên nhà trai ra mặt, đến chào hỏi thăm viếng nhà
gái, tục xưng là “cầu thân”, trên thực tế là do cha mẹ hai bên cùng nhau bàn
bạc chọn ra ngày kết hôn và ngày trao của hồi môn.
Do chịu ảnh hưởng của lễ tục kết hôn truyền thống, cho nên có người lí
giải chọn ngày là “ngày lành hoàng đạo” hoặc “gặp hai không gặp một” v.v…
Đây đều là không có khoa học. Thông thường, chọn ngày kết hôn là phải suy
nghĩ về những phương diện sau:
(1) Xem ngày kinh nguyệt của người nữ. Kết hôn trong thời kì kinh
nguyệt sẽ làm nhiễm khuẩn âm đạo khi giao hợp. Tốt nhất là chọn ngày kết
hôn trong một tuần trước khi kinh nguyệt tháng sau tới, vì thời kì này an toàn,
có thể tránh việc mang thai trong tháng kết hôn, có lợi cho việc sinh sản.
(2) Xem thời tiết. Thông thường mà nói, kết hôn trong ngày nghỉ hoặc
vào mùa nhà nông nghỉ ngơi là khá thích hợp. Lúc này hai bên nam nữ đều
có thời gian và sức lực để chuẩn bị lo việc hôn sự, như kiểm tra sức khỏe,
làm thủ tục đăng kí kết hôn, sắp xếp tân phòng v.v…, đồng thời cũng lo việc
mời bạn bè họ hàng đến tham dự hôn lễ.
(3) Xem công việc chuẩn bị cho hôn sự đã ổn thỏa chưa, như tân
phòng đã sắp xếp xong xuôi chưa, quần áo và đồ dùng hàng ngày đã chuẩn
bị đầy đủ chưa, bạn bè thân thiết đều có thể tham dự không v.v…
(4) Xem xét công việc có quá nhiều hoặc quá nặng nề không, thời kì kết
hôn tốt nhất nên chọn trong khoảng thời gian công việc khá nhẹ nhàng, giúp
cho việc tổ chức hôn lễ thoải mái, thậm chí có thể có một chuyến du lịch
hưởng tuần trăng mật ngắn ngày.
(5) Hôn lễ thông thường chọn vào ngày nghỉ hoặc tổ chức trước ngày
nghỉ một ngày, hôn lễ và ngày nghỉ kết hợp với nhau, có thể có thời gian rộng
rãi, hơn nữa bạn bè tham dự hôn lễ đầy đủ hơn.
(6) Ngày kết hôn thông thường nên chọn vào mùa xuân. Mùa xuân, sức
sống mạnh mẽ; mùa thu, tâm tình thoải mái, đều là thời tốt nhất cho việc kết
hôn.
5. Của hồi môn
Ý nghĩa của hồi môn truyền thống chính là những lễ vật mà gia đình
nhà gái chuẩn bị cho con gái của mình trước khi xuất giá. Ngày nay của hồi
môn thông thường là do gia đình hai bên cùng nhau mua sắm và chuẩn bị
những đồ dùng cần thiết cho cô dâu. Những vật phẩm mà gia đình hai bên
tặng cho cô dâu bao gồm hai loại: thứ nhất là những vật dụng hàng ngày cần
thiết cho nhà mới như đồ điện, chăn màng, thứ hai là vật kỉ niệm biểu thị sự
chúc mừng như đồ thủ công mỹ nghệ hoặc đồ trang trí. Ngày nay những nhà
chỉ sinh một con đang gia tăng, những bậc cha mẹ giàu có nên lễ phẩm tặng
cho con gái cũng có giá trị hơn, như nhà, tiền, vàng v.v… Có những vùng
nông thôn còn lưu giữ phong tục truyền thống “báo ngày” (còn gọi là “quá
ngày”). “Báo ngày” chính là thông báo cho nhà gái biết ngày tổ chức hôn lễ.
Nhà gái sau khi có được “báo ngày”, liền khẩn trương chuẩn bị của hồi môn
tặng cho con gái, thông thường nhà gái sẽ lấy tiền mừng lễ hỏi mà nhà trai
tặng, hoặc tự gia đình thêm vào một ít nữa, đem tặng cho con gái làm của hồi
môn như mua tivi màu, máy giặt, tủ lạnh, xe máy, bếp gas và những vật dụng
hàng ngày khác. Nhưng điều này phải căn cứ vào tình hình kinh tế gia đình,
không nên “bất đắc dĩ mà làm”. Bây giờ của hồi môn là do nhà trai mang tới
trước ngày kết hôn, tránh ngày kết hôn quá bận rộn.
Ở nông thôn ngày nay còn tồn tại những phong tục tặng của hồi môn có
ý nghĩa truyền thống. Xin giới thiệu một vài nét.
Triều Khang Hy có phong tục dùng vạn niên thanh làm của hồi môn.
Vạn niên thanh là thực vật bốn mùa tươi tốt, hơn nữa sức sống lại rất mạnh
mẽ, bất luận được trồng ở vùng đất nào đều rất dễ dàng bén rễ sinh trưởng.
Tân nương tự tay chọn một cây vạn niên thanh còn rễ khỏe mạnh, dùng vải
đỏ bao lại, làm của hồi môn tặng cho nhà trai, để biểu thị tân nương nguyện
giống như vạn niên thanh, đến nhà chồng bất luận gặp phải khó khăn như thế
nào vẫn không than vãn, mãi không kêu ca, biểu thị tâm tình chung thủy,
không thay đổi. Ngày thứ ba sau lễ cưới, vạn niên thanh do tân lang tự tay
trồng xuống đất, biểu thị phu thê đồng tâm, chúc phúc hôn nhân mĩ mãn, vạn
niên trường thanh.
Tằm hương Hải Ninh Chiết Giang cũng là của hồi môn không thể thiếu,
đó là hai mẫu đất trồng dâu và giống tằm, chiếu tằm, đôi sọt. Mọi người mượn
hài âm của “dâu” và “song” để chúc phúc “thành đôi phú quí”.
Những người dân làm muối ven biển ở Phụng Hiền, Thượng Hải có
một loại của hồi môn đặc biệt đó là “nia kim chỉ”. Đây là một vật dụng làm
bằng tre, đáy nong, hình tròn, giống như chậu rửa mặt cỡ trung, sơn màu đỏ,
chế tác tinh xảo, vô cùng xinh xắn. Tục lệ qui định là cha mẹ đem kéo, kim,
chỉ, thước v.v... đặt vào trong nia, trên nia dán chữ song hỉ màu đỏ lớn.
Nhưng nó phải đợi đến ngày thứ hai của hôn lễ, do chị dâu của tân nương
đem thẳng tới tân phòng, lúc đó mới bắt đầu nghi thức giao nia. Khi giao nia
chị dâu nói: “Chăm chỉ là cây hái ra tiền”. Tân nương nhận nia nói: “Tiết kiệm
là chậu đựng bảo quí.” Sau đó cùng uống rượu trao nia, vô cùng náo nhiệt.
Người Khách Gia ở Quảng Đông và ở nước ngoài vẫn còn giữ phong
tục “của hồi môn rau cải”. Những loại rau cải được dùng làm của hồi môn
thông thường đều có hài âm là kiết tường. Ví dụ, chữ “cần” trong rau cần
cùng hài âm với chữ “cần” trong cần kiệm, hy vọng người con gái sau khi đến
nhà cha mẹ chồng, có thể chịu khổ, cần cù chăm chỉ,- cần kiệm mà sống; chữ
“toán” trong củ tỏi có hài âm giống với chữ “toán” trong tính toán, biểu thị con
gái sau khi thành gia phải biết tính toán tỉ mỉ, quán xuyến việc nhà; chữ “cửu”
trong lá hẹ cùng hài âm với chử “cửu” trong trường cửu, chúc nguyện đôi trai
gái mới cưới yêu thương nhau, bền vững lâu dài; chữ “thông” trong hành lá
có hài âm giống với chữ “thông” trong thông minh, chúc nguyện đôi trai gái
mới cưới sớm sinh một đứa cháu ngoại trai thông minh. Có những nơi còn lấy
hài âm của chữ “khố” và chữ “phú”. Vùng Ninh Ba Chiết Giang có câu tục ngữ
“nhược yếu phú, tiên tác khố”, nghĩa là trong của hồi môn của tân nương, cái
không thể thiếu là một chiếc quần do tân nương tự tay may cho bậc trưởng
bối của nhà chồng (bây giờ cũng có thể mua). Chiếc quần nếu may tốt, biểu
thị cô gái tôn trọng trưởng bối, khéo léo. Hơn nữa, hài âm của chữ “khố” và
chữ “khổ”, biểu thị sau khi kết hôn những ngày đầu sẽ khổ cực vất vả về sau
mới ngọt ngào, suôn sẻ, càng ngày càng tốt. Căn cứ vào qui định nơi đó, cô
gái khi may quần phải may nhanh, phát ra những âm thanh “phú, phú, phú”,
biểu thị có được lợi ích. Muối là mặn, hài âm giống chữ mặn là chữ “hiền”, có
nơi trong chén bát, nồi niêu của hồi môn đều bỏ vào một ít muối, cũng có nơi
cho vào một chút trấu vỏ (lúa mì), nghĩa là “vợ hiền con phú”.
6. Ngày trao của hồi môn
Là ngày trước ngày kết hôn nhà gái đem của hồi môn qua nhà trai để
tiện trang trí tân phòng. Công việc trao của hồi môn này do nhà trai tổ chức.
Khi đem của hồi môn đến nhà trai, trên xe chở dán chữ “song hỉ”, trên vật
phẩm cũng có dán giấy cắt chữ kiết tường màu đỏ. Khi đem của hồi môn qua
nhà trai, đôi lúc còn có vật lễ là pháo. Bây giờ có nơi còn có cách làm mới,
vào ngày kết hôn tân nương đến nhà trai, đồng thời trao của hồi môn.
7. Xác định người chủ sự hôn lễ
Người chủ sự của hôn lễ thành thị, việc quan trọng nhất là phải xác
định những người sau đây: người chủ hôn, thông thường là do bậc trưởng
bối đức cao vọng trọng, đơn vị lãnh đạo hoặc cha mẹ đảm trách; người chính
hôn, thông thường là người giới thiệu hai tân nhân hoặc bạn bè thân hữu
đảm trách, cũng có nơi chỉ có người chủ hôn hoặc người chính hôn mà thôi.
Người điều khiển nghi thức hôn lễ, chính là người quan trọng nhất trong quá
trình hôn lễ, phải tìm người có đầu óc linh hoạt, văn hóa cao, ăn nói khéo léo,
khả năng ứng biến tốt, có thể do bạn bè hoặc đồng nghiệp có kinh nghiệm
đảm trách. Có nhà còn mời người chuyên nghiệp phụ trách việc này để có thể
chủ trì hôn lễ một cách hoạt bát, cởi mở và vui vẻ.
Phù dâu thông thường là chị em hoặc bạn bè thân xấp xỉ tuổi với cô
dâu, chú rể; thông thường chọn anh em hoặc bạn bè thân nhất làm phù rể.
Họ phải là người chưa từng kết hôn. Nhưng trong hôn lễ đương thời cũng có
thể mời bạn bè thân đã kết hôn đảm trách công việc này. Nhiệm vụ chủ yếu
của phù dâu và phù rể là giúp đỡ cô dâu và chú rể.
Người tiếp tân thông thường mời người trong họ hàng khoảng 8 - 14
tuổi phụ trách công việc hướng dẫn hoặc tiếp đón khách đến tham dự hôn lễ.
Người tiếp tân là xuất phát từ phương tây, căn cứ theo thời xưa có tục cướp
hôn. Người xưa luôn có những bạn bè thân mạnh mẽ to cao giúp đỡ, phù rể
chính là bắt nguồn từ tục cướp hôn thời xưa mà có. Còn phù dâu ở thời cổ
đại là họ hàng nữ bên nhà gái, vốn đến để giúp cô dâu chống lại việc cướp
hôn, sau đó trở thành phù dâu ngày nay.
Ngoài nhiệm vụ hướng dẫn hoặc tiếp đón, còn mời họ hàng khá lớn
tuổi hoặc bạn bè phụ trách việc tiếp đãi hoặc những việc khác. Để gia tăng
thêm bầu không khí vui vẻ, trong lễ trao nhẫn còn có một hay hai đứa bé nam
cầm nhẫn và sai bảo. Ngoài ra, còn có người phụ trách đăng kí lễ vật và phát
vật kỉ niệm; thợ chụp ảnh hoặc quay phim; người phụ trách đội nhạc hoặc
thiết bị âm thanh; người phụ trách trà và rượu; tài xế xe hơi, v.v…
Ở nông thôn, người chủ sự trong hôn lễ đa phần lấy truyền thống làm
chủ đạo không giống như ở thành thị, nhà gái chủ yếu xác định phù dâu và
người tiễn cô dâu, nhà trai chủ yếu xác định người đón cô dâu. Yến tiệc là
phần rất quan trọng trong hôn lễ ở nông thôn, là hợp nhất nghi thức hôn lễ và
yến tiệc chúc mừng, người chủ trì nghi thức “bái đường” thông thường phải
mời người chủ trì làm việc tốt trong gia tộc hoặc thôn làng có uy tín đạo đức,
ngoài ra, bất kể là nhà trai hay nhà gái đều mời người thay thế chủ nhà tiếp
đãi khách trong yến tiệc.
Người chủ sự trong hôn lễ thông thường được chọn từ những bạn bè
thân thiết. Cô dâu, chú rể vừa tuyên bố đính hôn, liền bắt đầu liên lạc với họ,
như vậy nếu có người từ chối thì cũng còn dư nhiều thời gian để tìm người
thay thế. Mời người phục vụ thông thường là trực tiếp hoặc gọi điện thoại
thông báo.
8. Lễ nghi hôn lễ
Hôn lễ, chủ yếu là chỉ nghi thức được tổ chức để xác lập mối quan hệ
hôn nhân. Hôn nhân có ý nghĩa và sự ước thúc trên mặt pháp luật. Nhưng
hôn lễ chung qui là một tập tục truyền thống lịch sử lưu truyền lại, cho đến
ngày nay mọi người cũng đều xem trọng nghi thức chúc mừng hôn lễ này,
cho rằng nó là tiêu chí quan trọng cho việc kết hôn. Từ phương diện này mà
nói, tổ chức hôn lễ thích đáng là điều hợp tình hợp lí.
Hình thức và qui mô của hôn lễ chịu sự ảnh hưởng và ước thúc bởi
trình độ phát triển cuộc sống văn hóa và cuộc sống vật chất xã hội. Nói một
cách cụ thể, hôn lễ đều có liên quan đến các nhân tố như dân tộc, tôn giáo tín
ngưỡng, tố chất văn hóa, đạo đức, trách nhiệm xã hội, phong tục tập quán,
hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp cá nhân, thu nhập kinh tế…
Nghi thức hôn lễ nên lành mạnh, trang nhã, tạo ra bầu không khí vui vẻ
và náo nhiệt, đem đến cho mọi người cảm giác hoan hỉ vô hạn. Thực chất là
trong bầu không khí nghiêm trang, hạnh phúc, vui vẻ này mục đích là tuyên
bố với bạn bè xác lập mối quan hệ hôn nhân.
Nghi thức hôn lễ hiện đại dần dần có xu hướng đơn giản, sinh động,
hoạt bát, hình thức càng đa dạng hóa, nhưng tập tục truyền thống vẫn có sự
ảnh hưởng nhất định, đa phần đều có mấy hình thức sau.
(1) Hôn lễ gia đình: hôn lễ gia đình là hình thức được các đôi nam nữ
phổ biến lựa chọn, họ có thể tự chọn ngày kết hôn, sắp xếp nội dung, phương
thức, tiến trình và địa điểm của hôn lễ, không chịu sự chế ước của ngoại giới,
là hình thức khá tự do.
* Công việc chuẩn bị
1. Dọn dẹp nhà cửa, bố trí tân phòng. Ở cửa lớn, phòng ngủ, phòng
khách và hành lang đều treo đèn kết hoa, dán câu đối.
2. Xác định danh sách khách mời, gửi thiệp mời. Bất kể hôn lễ cử hành
ở đâu, cha mẹ hai bên và bản thân cô dâu chú rể đều nên mời bạn bè thân
của mỗi cá nhân tham dự.
3. Đặt mua kẹo, bánh, thuốc, rượu, nước và những thứ cần thiết khác.
4. Bàn ghế chuẩn bị đầy đủ. Muốn chuẩn bị yến tiệc hôn lễ gia đình,
còn phải chuẩn bị bếp núc, đầu bếp và nồi niêu xoong chảo, chén bát muỗng
đũa và đặt mua thức ăn, định ra thực đơn.
5. Trong họ hàng, bạn bè chọn ra người chủ hôn, người quản lí, người
phục vụ và người chụp ảnh. Đặc biệt quản lí phải là người có đầu óc nhanh
nhẹn, có kinh nghiệm phong phú, hơn nữa có thể tùy cơ ứng biến, ăn nói
khéo léo, ứng xử nhạy bén đảm nhiệm.
6. Xác định trình tự nghi thức hôn lễ, chuẩn bị tốt máy chụp hình và
phim.
7. Cô dâu và chú rể phải chuẩn bị tốt y phục, đồ trang sức, hoa đỏ, thẻ
ghi, lời phát biểu và tâm lí ứng phó với những tình huống phát sinh, các trò
chơi khăm có thể xuất hiện.
8. Cha mẹ hai bên cũng phải chuẩn bị lễ vật tặng cho cô dâu chú rể và
tâm lí về những mặt khác.
* Trình tự nghi thức hôn lễ
Bố trí tân phòng không phải là việc dễ dàng, luôn tốn rất nhiều nhân lực
và vật lực, sau khi bố trí tân phòng xong xuôi, phải chú ý bảo vệ tân phòng
cho thật hoàn chỉnh. Thông thường tân phòng khá nhỏ, mà khách tham dự
hôn lễ lại quá đông (đặc biệt là trẻ con), vì thế hôn lễ không tổ chức ở tân
phòng mà là ở sảnh đường. Hôn lễ gia đình có thể không cần người điều
khiển chương trình, người chủ hôn chủ trì cũng được, đợi khách đã đến đông
đủ, buổi lễ kết hôn sẽ bắt đầu.
1. Tân lang tân nương vào chỗ (trước ngực cài bông hoa màu đỏ và
thẻ ghi), phát lên khúc nhạc vui vẻ;
2. Tân lang tân nương hướng về khách mời kính thuốc, đường và trà,
các loại quà tặng;
3. Tân lang tân nương phát biểu, biểu thị sự hoan nghênh và cảm tạ
đến các khách mời;
4. Người chủ hôn sẽ biểu thị sự chúc phúc và động viên tân lang tân
nương;
5. Khách mời chúc mừng;
6. Phát biểu tự do;
7. Tân lang tân nương giản thuật về quá trình yêu đương của mình;
8. Tân lang tân nương dâng hoa, cúi chào hai bên cha mẹ;
9. Hai bên cha mẹ tặng lễ vật cho tân lang tân nương;
10. Hôn lễ kết thúc, đưa tân lang tân nương vào động phòng, hoặc bắt
đầu yến tiệc hôn lễ.
* Nghi thức yến tiệc hôn lễ
Yến tiệc hôn lễ cũng gọi là uống rượu hỉ, là một yến tiệc được tổ chức
long trọng để đáp tạ khách mời. Nếu nói hôn lễ sẽ đưa hoạt động kết hôn lên
cao trào, vậy yến tiệc hôn lễ tất sẽ là đỉnh cao của cao trào.
Yến tiệc hôn lễ dân gian nghi thức rất nhiều mà lại cầu kì, từ lúc ngồi
vào bàn tiệc cho đến lúc dọn thức ăn lên, từ lúc dọn thức ăn cho tới khi nhập
tiệc, cách bố trí bàn tiệc, cách bài trí món ăn v.v…, mỗi nơi đều có những
cách riêng.
Lễ tiết của tân lang tân nương trong yến tiệc hôn lễ có chu toàn hay
không, ở góc độ nhất định nào đó nó quyết định cho cả hôn lễ có thuận lợi, có
kết thúc một cách viên mãn và thành công hay không, những yếu tố đó đều
quyết định ấn tượng của khách mời đối với tân lang tân nương.
1. Bất luận là tổ chức yến tiệc hôn lễ trong nhà hay nhà hàng, khi đến
giờ đón khách, tân lang tân nương đều phải đứng ở bên ngoài cửa đón tiếp
khách để biểu thị sự cảm tạ đối với khách mời đã đến dự (tuy nhà khá xa,
công việc bận rộn hoặc sức khỏe không tốt mà vẫn đến dự và đối với những
khách mời là bậc trưởng bối, có thể nói mấy câu thăm hỏi), cho đến khi từng
người khách ngồi vào bàn tiệc.
2. Theo quan niệm truyền thống là “thứ tự lão ấu”, yến tiệc bắt đầu đầu
tiên phải do một người “dẫn khách” (người chuyên môn phụ trách việc tiếp đãi
khách, người sắp xếp chỗ ngồi) phụ trách việc đón khách mời và sắp xếp chỗ
ngồi. Sắp xếp bàn tiệc phải có chủ có thứ, cách ngồi cụ thể các nơi không hề
giống nhau. Chỗ ngồi chính thông thường dành cho những nhân vật quan
trọng như trưởng bối của tân lang hoặc tân nương, người mai mối, lãnh đạo
v.v… Kế đến là họ hàng ngang bậc và khách mời thông thường của tân lang
và tân nương. Tiếp đó là đồng nghiệp, bạn bè, láng giềng v.v…, tốt nhất nên
sắp xếp những người cùng giới, tuổi tác tương đồng, quen biết nhau vào
chung một bàn. Như vậy sẽ tăng thêm bầu không khí vui vẻ.
Sau khi khách đã ổn định chỗ ngồi, không phải lập tức khai tiệc, mà
việc đầu tiên là bắt đầu nghi thức “trà lễ”. Tân nương dưới sự giúp đỡ của em
chồng, rót trà hỉ cho khách (là trà đường đỏ), gọi là rót trà thực ra là để nhận
thân. Em chồng cũng giới thiệu cách xưng hô của những khách mới với chị
dâu của mình, liền sau đó tân nương sẽ mời họ dùng trà, người khách đứng
dậy, nhận li trà, sau khi uống xong, lấy bao lì xì đã chuẩn bị trước bỏ vào
chiếc li, tân nương nhận bao lì xì, lại mời trà một vị khách khác. Lễ trà kết
thúc, yến tiệc mới chính thức bắt dầu.
3. Những món ăn trên bàn tiệc phần lớn dọn lên cho mọi người cùng
dùng, nhưng có một số món ăn dọn lên chỉ có thể xem mà không thể dùng,
gọi là “thức ăn xem”. “Thức ăn xem” là một con cá chép hoặc cá mè trắng,
đuôi cá dán một tờ giấy đỏ nhỏ. Trong yến tiệc hôn lễ dân gian, có những
món ăn sẽ gửi cho khách mang về nhà dùng. Thức ăn này gọi là “thức ăn
chia sẻ”. Thức ăn chia sẻ thông thường là món ăn chế biến không có nước,
thường được làm thành dạng miếng hay dạng tròn, tiện cho việc mang về.
Cách làm này tồn tại phổ biến ở nông thôn.
4. Tân lang tân nương không được ăn nhiều, uống nhiều. Trong yến
tiệc hôn lễ, tân lang tân nương nên chăm sóc khách mời nhiều hơn, khiến cho
bạn bè ăn uống no say, vui vẻ hứng khởi, hài lòng mà trở về. Không nên chỉ
lo cho mình, thậm chí uống rượu quá độ, say xỉn ngay tại buổi tiệc, như vậy
thì quá thất lễ. Nhưng nếu ngay cả một chút rượu cũng không uống, một chút
thức ăn cũng không ăn, hiện rõ sự gượng ép, căng thẳng, cũng không nên.
Đối với kính rượu của khách, cho dù tửu lượng có hạn, cũng phải nhấp môi
một chút, ít nhất cũng phải nâng li rượu tỏ ý cảm ơn, và nói rõ lí do không thể
uống nhiều của mình.
5. Yến tiệc hôn lễ tiến hành theo một trình tự nhất định (thông thường
phần nhiều khi sắp kết thúc), tân lang tân nương phải dựa theo chủ thứ, lần
lượt đến mỗi vị khách kính rượu. Khi kính rượu phải tự tay rót đầy li và dùng
hai tay mời khách, nhưng cũng không nên nhất nhất cưỡng cầu khách phải
một hơi cạn li rượu. Đợi sau khi khách đặt li rượu xuống, tân lang tân nương
đều phải nói “cảm ơn”, và lại rót đầy li rượu mời người tiếp theo, cứ như thế
kính rượu từng người một.
6. Yến tiệc hôn lễ kết thúc, khi khách ra về, tân lang tân nương phải
đứng ở trước cửa, bắt tay tạm biệt từng người và nói những câu như “Cảm
ơn đã tới dự”, “Đi thong thả”…
* Khuấy đảo phòng cưới
Đôi tân nhân bước vào tân phòng, có nghĩa là bắt đầu cuộc sống hôn
nhân. Vào buổi tối ngày tổ chức hôn lễ, sẽ có tập tục khuấy đảo phòng cưới.
Tập tục “không náo không phát, càng náo càng phát”, có ý nghĩa bầu không
khí tân hôn vui vẻ, gửi đến lời chúc kiết tường, hưng vượng phát đạt sau hôn
nhân.
Khuấy đảo phòng cưới ở thành thị đương thời đã có xu hướng văn
minh. Khách mời cùng tân nhân vui đùa náo nhiệt, dựa vào tính cách, hứng
thú, sở trường của tân lang và tân nương, hoặc bảo tân nhân trước mặt bạn
bè thân hữu kể lại quá trình yêu đương của mình, ca hát, hoặc kể câu
chuyện, trêu đùa, yêu cầu tân lang và tân nương tham gia trò chơi, ví dụ như
hai bên cùng nhau ăn một quả táo, từ lớn tới nhỏ, cho đến khi môi chạm môi
v.v… Những tiết mục khuấy đảo phòng cưới khá lành mạnh này sẽ làm cho
bầu không khí buổi lễ càng thêm vui vẻ, náo nhiệt, lại có thể khiến cho tân
lang tân nương hồi tưởng lại quá trình yêu đương ngọt ngào của mình.
Khuấy đảo phòng cưới ở nông thôn ngày nay vẫn còn kế thừa tập tục
truyền thống tốt đẹp. Ví dụ như đề nghị tân lang tân nương đồng thời ngậm
một quả trái cây có cột chỉ đỏ ở trên, đề nghị tân lang há miệng lè lưỡi ăn hạt
dưa trên môi tân nương để lấy cớ cho tân lang hôn tân nương trước mặt mọi
người v.v… “Khuấy đảo phòng cưới” ở Nhất Đới Lạc Xuyên Thiểm Bắc, chủ
yếu là do mẹ chồng chỉ huy đôi vợ chồng mới cưới biểu diễn các tiết mục mà
không cho phép người ngoài xen vào. Có một tiết mục gọi là “ném đào”: mẹ
chồng đặt hai trái đào ở giữa giường, sau đó tân lang tân nương gặm quả
đào. Ném đi, hai người tốt nhất cùng ném quả đào mới là kiết tường, tiếng nói
địa phương gọi đào là “ngật đán”, việc cãi vã nhau cũng gọi là “ngật đán”. Đôi
vợ chồng cùng ném “ngật đán” có nghĩa là sau hôn nhân sẽ không có việc cãi
vã nhau nữa. Biểu diễn tiết mục trong tân phòng thường đem đến cho người
xem những tràn cười sảng khoái, vô cùng náo nhiệt. Khuấy đảo phòng cưới ở
Tô Bắc, có tập tục dùng đũa để đâm qua giấy dán chấn song cửa sổ: tìm một
đứa bé trai nhỏ, do cha mẹ bế, vừa dùng cây đũa đỏ đâm xuyên qua giấy
chắn song cửa, vừa nói: “Ta là một cậu bé, tay cầm đũa đỏ, đứng dưới bậc
cửa sổ, đâm vào giấy chắn cửa sổ của nhà người. Vừa đâm vừa chọc, sanh
con trai học đến đại học; vừa đâm vừa xuyên, sanh con trai làm quan lớn. Một
đôi đũa một cái lỗ, sanh con trai càng ích lợi; đũa đâm giấy chắn cửa sổ cười
ha ha, nuôi con trai thành nhà khoa học.”
Trong quá trình hôn lễ, khách mời có thể ồn ào náo nhiệt, tự do ăn kẹo,
hút thuốc, uống trà. Nếu làm yến tiệc hôn lễ, lễ kết hôn nên tổ chức trước buổi
tiệc. Người phụ trách hay thợ chụp ảnh, nên nắm bắt những cảnh vui vẻ trong
cả hôn lễ, mà vai chính là đôi tân nhân để làm kỉ niệm cho đôi vợ chồng mới
cưới.
(2) Đám cưới tập thể: Đám cưới tập thể chính là một hình thức hôn lễ
mà nhiều đôi thanh niên cùng tổ chức. Người chủ trì đám cưới tập thể có thể
là một hoặc nhiều đơn vị cùng liên kết lại tổ chức hôn lễ. Cũng có những đám
cưới tập thể mà cơ quan chính phủ cấp thành phố, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã tổ chức. Người tham gia lấy tinh thần tự nguyện làm nguyên tắc, không
miễn cưỡng. Đơn vị tổ chức thống nhất phát thiệp mời, cũng có thể dùng hình
thức dán thông báo cho công nhân viên chức của đơn vị tự do tham gia.
* Công việc chuẩn bị
Đơn vị tổ chức phải chuẩn bị tốt những công việc cho đám cưới tập thể
sau đây:
1. Bố trí lễ đường của hôn lễ phải căn cứ vào số lượng người tham gia
để lựa chọn một sảnh đường lớn nhỏ thích hợp mà lại thoáng mát, sạch sẽ.
Bố trí lễ đường phải hiện rõ sự trang trọng, thân thiện, ấm áp, trang nhã. Có
thể giăng ngang một tấm vải, dán câu đối, còn phải treo đèn kết hoa, băng
rôn, đồ trang trí rực rỡ màu sắc, để tăng thêm bầu không khí sôi nổi vui vẻ
của hôn lễ;
2. Chuẩn bị trước kẹo mừng, thuốc thơm và trà nước để chiêu đãi
khách mời, còn phải chuẩn bị quà kỉ niệm cho tân lang và tân nương;
3. Xác định thời gian và trình tự của nghi thức hôn lễ, dùng chữ ngay
ngắn viết lên trên giấy đỏ lớn, sau đó dán lên vách lễ đường tổ chức hôn lễ;
4. Xác định người chúc mừng các đôi cô dâu chú rễ (người lãnh đạo
đơn vị hoặc tổ chức, đại biểu khách mời, cha mẹ của các tân nhân) và người
đáp tạ (đại biểu tân nhân một người), lần lượt chuẩn bị tốt lời chúc mừng và
lời cảm tạ (không nên quá dài, mỗi người phát biểu không vượt qua năm phút
là được);
5. Xác định người điều khiển chương trình (1 người hoặc 1 nam và 1
nữ);
6. Chuẩn bị trước hoa đỏ và thẻ ghi để đeo cho tân nhân;
7. Chuẩn bị tốt dải màu và giấy màu cùng với người rải giấy màu;
8. Mời thợ chụp hình giỏi và chuẩn bị tốt máy chụp và phim;
9. Mời một nhóm nhạc công;
10. Xác định người phục vụ.
* Trình tự nghi thức hôn lễ
1. Người điều khiển hôn lễ tuyên bố nghi thức bắt đầu;
2. Tấu nhạc;
3. Mời các đôi tân nhân tham gia đám cưới tập thể, rắc giấy màu;
4. Tân nhân mời lãnh đạo và khách đến tham dự đám cưới tập thể hút
thuốc, uống trà, ăn kẹo hỉ;
5. Mời người lãnh đạo đọc lời chúc mừng;
6. Mời đại diện khách đọc lời chúc mừng;
7. Mời đại diện hai bên cha mẹ đọc lời chúc mừng;
8. Mời đại diện vợ chồng mới cưới đọc lời đáp tạ;
9. Phát biểu tự do;
10. Biểu diễn những tiết mục văn nghệ nhỏ;
11. Toàn thể tân nhân cúi chào quí lãnh đạo, khách mời, cha mẹ và
người phục vụ;
12. Tặng quà kỉ niệm cho tân lang tân nương;
13. Vui vê đưa tân nhân vào động phòng, hôn lễ kết thúc.
(3) Kết hôn du lịch: kết hôn du lịch là hình thức kết hôn mà thanh niên
nam nữ sau khi đăng kí kết hôn lựa chọn. Kết hôn du lịch đã phá vỡ sự trói
buộc của hôn lễ truyền thống bao đời nay của Trung Quốc, không tổ chức bất
kì nghi thức nào. Tân nhân xin nghỉ phép ở công ty, tạm biệt bạn bè thân, trên
thực tế chính là tuyên bố với mọi người rằng: chúng tôi đã kết hôn. Hình thức
kết hôn này vừa không nhận lễ, vừa không mời khách, vì thế đã tiết kiệm
nhân lực, vật lực và tài lực rất lớn. Trên tinh thần tránh phải mệt nhọc vất vả,
tâm lí khỏi phải chịu áp lực nhận tình trả tình, kinh tế cũng giảm nhẹ được sự
gánh vác. Và điều càng khó có được chính là mượn cơ hội tốt này dể di du
lịch, mở rộng tầm mắt.
(4) Hôn lễ vũ hội: hôn lễ vũ hội là buổi lễ kết hôn lấy khiêu vũ làm hình
thức chúc mừng chủ yếu. Khi cử hành hôn lễ, mọi người sẽ khiêu vũ trên sàn
nhảy, nếu không khiêu vũ thì có thể đánh trống giúp vui hoặc nói chuyện vui.
Đặc điểm của hôn lễ vũ hội là vô cùng náo nhiệt, không khí thân mật, lành
mạnh văn minh, hoạt bát vui vẻ, tình cảm hài hòa, hơn nữa lại khá tiết kiệm.
Đối với các hình thức khác, hôn lễ vũ hội là long trọng nhất, khó quên
nhất trong cuộc đời đôi tân nhân, người tổ chức không thể xem nhẹ việc này
mà phải cẩn thận chăm chút, tỉ mỉ chu đáo, đặc biệt là không thể qua loa trong
nghi thức. Công việc chuẩn bị cụ thể bao gồm những phương diện sau:
Đầu tiên, phải tìm kiếm người chủ trì biết khiêu vũ. Hôn lễ vũ hội không
thể do tân nhân hoặc cha mẹ trưởng bối hai bên tân nhân chủ trì được; người
thích hợp nhất để lựa chọn chính là bạn bè có mối quan hệ thân thiết, hoặc là
người lãnh đạo đơn vị, người giới thiệu của tân nhân. Người chủ trì hôn lễ vũ
hội phải nhạy bén, thông minh, khí chất cao nhã và có sở trường về giao tế,
khéo ăn nói. Có người chủ trì hôn lễ thích hợp, là tiền đề thành công của hôn
lễ vũ hội.
Kế đó là bố trí sàn nhảy. Có thể căn cứ vào số lượng khách tham gia
để lựa chọn lễ đường, câu lạc bộ hoặc phòng hội nghị lớn nhỏ thích hợp
v.v… Chú ý không thể bài trí vũ hội quá hẹp, nhưng cũng không nên quá
trống trải, có thể thuê luôn cả sàn nhảy hoặc sân bãi lộ thiên cử hành. Bất
luận tìm được sân bãi hay thuê sàn nhảy, thì việc bố trí phải long trọng, rực
rỡ, nổi bật lên màu sắc vui vẻ. Theo tục lệ dân gian Trung Quốc, phải lấy màu
đỏ ấm áp mạnh mẽ làm gam màu chủ đạo. Có ba đồ vật không thể thiếu: chữ
song hỉ màu đỏ lớn, lụa đỏ lớn và dải băng lụa đỏ hoặc hoa tươi (tốt nhất là
có một lẵng hoa thật lớn), cộng với vòng hoa giấy màu. Đèn của hôn lễ vũ hội
nên sáng hơn vũ hội thông thường một chút, để tiện cho việc khách mời giao
tế qua lại với nhau.
Sau đó nữa là chọn vũ khúc hay. Vũ khúc trong hôn lễ vũ hội nên chọn
những khúc nhạc đặc sắc làm nổi bật không khí buổi lễ. Chủ yếu nên chọn
những vũ khúc nhẹ nhàng, như slow ba bước, slow bốn bước, tango, waltz
v.v…, cũng có thể chọn vũ khúc nhanh hơn ba bước, bốn bước một chút.
Không nên nhảy những điệu như disco, rumba v.v… có tốc độ, động tác bước
nhảy kích động.
Điều còn phải chú ý là làm tốt việc tiếp đãi. Do sàn vũ hội lớn, người
đông, vì thế người chủ trì khi chiêu đãi nên đặc biệt lưu tâm. Đầu tiên phải
chuẩn bị ghế ngồi đầy đủ, đặc biệt là chỗ ngồi cho những vị lãnh đạo, trưởng
bối, và bạn bè. Kế đó phải chuẩn bị kẹo hỉ, trái cây, bánh ngọt, nước uống,
một ít rượu khai vị. Nếu người đến tham dự thuộc tầng lớp tri thức cao, có thể
dùng rượu cocktail để chiêu đãi, thức ăn chiêu đãi tập trung vào một chỗ, để
tiện cho mọi người dùng. Thứ ba phải chú ý chiêu đãi dàn nhạc và ca sĩ, tuy
có trả thù lao, nhưng họ cũng là khách mời đặc biệt của vũ hội, trình độ diễn
tấu diễn ca của họ phát huy như thế nào cũng là nhân tố quan trọng góp phần
thành công của vũ hội. Thứ tư là phải quan tâm nhiều hơn đến những khách
mời không có sở trường khiêu vũ để tránh họ có cảm giác lạc lõng.
Vợ chồng mới cưới và cha mẹ hai bên, nên ở trước cửa phòng nhảy
đón tiếp khách mời, sau khi vũ hội kết thúc cũng nên đứng trước cửa để cảm
ơn và tiễn khách ra về.
9. Lễ nghi cô dâu chú rể trong hôn lễ
Tân lang tân nương là nhân vật chính trong hôn lễ, là tiêu điểm chú ý
của các khách mời, vì thế phải chuẩn bị lễ nghi thích đáng, thông thường nên
chú ý mấy điểm sau:
Dáng vẻ, cách ăn mặc: trong lễ kết hôn, tân lang tân nương phải chú ý
nhất đến dáng vẻ, cách ăn mặc của mình, có thể trang điểm phù hợp để dung
nhan thêm phần rạng rỡ. Tân lang thông thường mặc tây phục thắt cra-vát,
tân nương mặc trang phục cưới của cô dâu, và kèm theo những vật trang sức
như dây chuyền, bông tai, nhưng không nên đeo nhiều để tránh quá cầu kì.
Tiếp đãi quan khách: tân lang tân nương tay cầm hoa tươi đứng song
đôi trước cửa để đón tiếp khách mời, không thể đi ra đi vào; khi khách đến
nên biểu thị sự vui vẻ và cảm tạ nhiệt tình, giới thiệu với bậc trưởng bối trong
nhà hoặc với những khách mời khác, sau đó dựa vào thứ bậc mà sắp xếp
chỗ ngồi. Khi mời thuốc mời trà phải dùng hai tay và mồi lửa cho bậc trưởng
bối hoặc những khách mời cùng thứ bậc hút thuốc.
Cách ăn nói: khi trò chuyện với trưởng bối phải chân thành khiêm tốn,
không thể cao giọng; khi trò chuyện với những người cùng thứ bậc phải nhiệt
tình lễ phép, nhún nhường; không thể cười một tràng dài lớn tiếng, hoặc trầm
mặc không cười nói; đối với vãn bối nên nhiệt tình thân thiết.
Cách ngồi, đi đứng: phải ngồi ngay ngắn đường hoàng, khi trò chuyện
phải thẳng người, toàn thân không nên lắc lư hoặc quay tới quay lui; khi đi
không nên chậm rãi như đang tản bộ, cũng không nên chạy qua chạy lại hoặc
đi quá nhanh, phải chú ý đến phong thái.
Cùng nhau phối hợp: tân lang và tân nương trong hôn lễ phải như hình
với bóng, tốt nhất không nên phân chia đơn độc hành động, hơn nữa phải
phối hợp với nhau. Ví dụ như nên cùng nhau giới thiệu với đối phương các
bậc trưởng bối hoặc họ hàng thân thích, bạn bè cùng bậc của mỗi bên; khi đi
tân lang tân nương không nên cách nhau quá xa, nhưng cũng không nên quá
thân mật; nếu như có khách quấy rối, nên cùng giải vây cho đối phương; khi
ngồi, nên để tân nương ngồi trước; khi tiễn khách, nên cùng tạm biệt khách
v.v…
10. Thăm hỏi
Ở thành thị hiện nay, ngày thứ hai sau khi tân nhân động phòng hoa
chúc, hai vợ chồng trước tiên phải đến nhà cha mẹ vợ. Tân lang đến để bái tạ
cha vợ, mẹ vợ; tân nương biểu thị tấm lòng không quên cha mẹ của mình khi
xuất giá. Sau đó lại đến nhà họ hàng bạn bè hai bên thăm hỏi, để nhận biết
lớn nhỏ và quen biết nhau.
Lễ tục thăm hỏi họ hàng bạn bè này bắt nguồn từ tục “lễ lại mặt”. Khi
xưa, tân nương từ nhà cha mẹ đẻ đến nhà cha mẹ chồng, tục xưng là “tiến
môn (vào cửa)”, từ nhà cha mẹ chồng trở về nhà cha mẹ đẻ, tục xương là “lễ
lại mặt”, cổ đại gọi là “qui ninh”, “bái môn”, “làm lễ bái môn” v.v… “Lễ lại mặt”
chính là ba ngày, bảy ngày hoặc chín ngày sau khi kết hôn, tân lang cùng tân
nương trở về nhà cha mẹ vợ. Vợ chồng mới kết hôn cùng nhau trở về, có
nghĩa là thành đôi thành cặp kiết tường.
Lễ lại mặt ở nông thôn vẫn được truyền thừa, ngày nay nhà cha vợ
phải thết tiệc đãi khách. Trong buổi tiệc, tân nương dẫn tân lang bái kiến với
họ hàng bạn bè, nhận biết bắt đầu từ người cao tuổi nhất. Người được bái
kiến hoặc gật đầu, hoặc đỡ tân lang, hoặc trả nửa lễ, có nơi còn thưởng bao
lì xì cho tân lang.
Lễ lại mặt ở nông thôn vẫn còn giữ lại lễ tục truyền thống hài âm hoặc
lấy vật tượng trưng chúc phúc. Như vùng đông bắc ngày nay vẫn còn giữ lại
tập tục “thông tửu” (hành rượu). Ngày trở về nhà, phải tặng lễ vật cho nhà cha
mẹ đẻ, ví dụ như trọng tâm của lễ vật có hai bình rượu. Nhà gái giữ rượu lại,
còn bình không thì đổ đầy nước, và cắm vào đó một cây hành to; lại giao cho
tân nương đem về nhà. “Thông” (hành) gần giống hài âm với “sung” (đầy đủ);
“tửu” (rượu) giống hài âm với “cửu” lâu dài”, cho nên, tổ hợp của hành rượu,
chính là có ý nghĩa chúc phúc “giàu có trọn đời”.
11. Đãi khách
Tổ chức hôn lễ cho một đôi tân nhân, phải tốn nhiều tinh thần lẫn vật
chất của họ hàng và bạn bè. Cho nên sau khi kết hôn, tân nhân và người nhà
tân nhân sẽ có kế hoạch mở tiệc cảm tạ thích đáng, điều này phản ánh tập
tục trọng lễ nghĩa của họ.
Nếu tân nhân thông qua người mai mối mà quen biết nhau, tìm hiểu và
kết hôn, đương nhiên phải cảm tạ đầu tiên nên là người mai mối, kế đến là họ
hàng thân hữu đã có những giúp đỡ trong quá trình yêu đương, tổ chức hôn
lễ và cử hành hôn lễ của tân nhân. Thứ ba là cảm tạ những người đã tặng
quà kết hôn nhưng vì một lí do nào đó mà không thể đến dự hôn lễ được.
Đối với việc cảm tạ những người kể trên, thông thường tân nhân đến
thăm gia đình họ, biểu thị lễ tiết và thành ý của mình, khi đi có thể mang theo
một lễ vật nào đó. Vấn đề tặng lễ vật là dựa vào tình hình khác nhau mà định.
Ở thành thị, nếu là người mai mối hoặc bạn bè thân thiết, đồng thời khi tặng
lễ vật còn có thể tặng thêm một tấm hình của tân nhân sau khi kết hôn. Phù
dâu và phù rể đã làm tốt nhiệm vụ của mình, quà kỉ niệm của họ cũng tinh tế
hơn một chút.
IV. LỄ NGHI TẶNG LỄ VẬT
Người Trung Quốc xưa nay xem trọng giao tình, tặng quà cho nhau là
biểu hiện của tình cảm. Xã hội ngày nay tuy không đề xướng mời khách tặng
quà, đặc biệt là những đơn vị trung gian hoặc cá nhân có mối quan hệ không
thân thiết, tặng tiền và tặng quà sang trọng, phô trương, nên kiên quyết phản
đối.
Điểm chính của việc tặng quà là phải thích hợp. Ví dụ như bạn của bạn
là một người có mối quan hệ rộng, kinh tế khá giả, bạn dự định sẽ tặng người
ấy một trăm đồng, chi bằng tiết kiệm năm mươi đồng mua cho người ấy một
bức trướng chúc mừng hoặc một bức tranh treo tường thì thích hợp hơn. Trái
lại, nếu người nhận quà không giàu có, hơn nữa sống rất tiết kiệm thì nên
tặng quà tiền khá hơn một chút.
Tặng quà phải “thích hợp”. Nghĩa là trước khi tặng phải xem xét cá tính,
trình độ, thói quen, phong tục, tình hình kinh tế của người nhận quà v.v… để
lựa chọn ra một món quà thích hợp, như vậy mới không thất lễ.
1. Tặng câu đối mừng cưới, bức trướng chúc mừng
Kết hôn tặng câu đối, bức trướng chúc mừng là tao nhã nhất. Chỉ cần
nói tên người nhận và người tặng quà, mối quan hệ của hai người, và nói rõ
chúc mừng về việc gì là được. Nếu có thể tự tay viết lời chúc mừng, đương
nhiên là sẽ có ý nghĩa hơn.
2. Thư chúc mừng, điện chúc mừng
Họ hàng bạn bè ở xa kết hôn, tuy không đến tham dự được, nhưng
cũng có thể thông qua hình thức gửi thư, gửi điện chúc mừng, vô cùng tiện
lợi. Gửi thư qua đường bưu điện cũng có thể kèm theo quà.
3. Phiếu quà tặng
Ngày nay có đơn vị dùng phiếu nhận quà để tặng, vừa rất hợp lí vừa có
thể để cho người nhận tự do lựa chọn những thứ mà họ cần.
4. Bó hoa, lẵng hoa chúc mừng
Tặng bó hoa, lẵng hoa là thích hợp cho hôn lễ hiện đại nhưng khuyết
điểm của nó là không có giá trị thực dụng, phải chọn đối tượng thích hợp.
Người Trung Quốc thường chú trọng đến lợi ích thực tế.
5. Tặng vật dụng
Hình thức tặng quà này thích hợp cho bạn bè, người thân, tri kỉ. Trước
khi mua, tốt nhất nên biết người nhận cần vật gì, thông báo trước để tránh
mua món quà trùng hợp, điều này không hề được xem là thất lễ.
6. Tặng hiện kim
Tặng hiện kim, người tặng quà có được sự thuận tiện mà người nhận
cũng có được lợi ích thực tế. Tiền mừng bất luận nhiều hay ít, trên thói quen
phải là số chẵn. Từ góc độ lợi ích thực tế, ít nhất cũng không khiến người
nhận quà chịu thiệt, tặng quà uống rượu mừng, mọi người đều vui vẻ náo
nhiệt. Mấy năm gần đây phong trào này khá phổ biến, dẫn đến sự lãng phí,
không nên đề xướng. Tóm lại, hai bên vừa phải tiết kiệm, vừa phải xem đến
lễ độ, không được miễn cưỡng ra vẻ sang trọng mới tốt.
V. LỄ NGHI THỂ VĂN HÔN NHÂN
1. Thiệp mời
Thiệp mời cũng gọi là thiếp mời, là thư thông báo gửi để mời khách.
Gửi thiệp là để biểu thị sự tôn kính đối với khách mời, cũng tỏ rõ thái độ trân
trọng của người mời, cho nên kiểu dáng và cách trang trí của thiệp mời phải
mĩ quan, trang nhã, tinh tế, khiến cho người nhận thấy được sự nhiệt tình và
thành ý của người gửi. Ngày nay hình thức thiệp mời thông dụng có hai loại là
thiệp đôi và thiệp đơn: thiệp đôi là một tấm gấp thành hai, sau đó gấp đôi
thành hình chữ nhật; thiệp đơn là dùng một tấm giấy hình chữ nhật làm thành.
Bất luận là thiệp đôi hay thiệp đơn, kiểu viết chữ hay kiểu sắp chữ cũng chỉ có
hai loại đó là chữ ngang hay chữ dọc.
Trên thiệp mời có những yêu cầu chủ yếu sau:
(1) Thiệp đôi trên bì thư nên viết rõ hai chữ “thiệp mời”, thông thường
có thể làm gia công, như chọn các nhà thư pháp nổi tiếng, chữ mạ vàng hoặc
trang trí hình ảnh v.v… Có những thiệp đơn, hai chữ “thiệp mời” viết trên đầu
dòng thứ nhất, thể chữ khá ngay ngắn.
(2) Bất luận là thiệp đơn hay thiệp đôi, lời văn và cấu trúc đều giống
nhau. Bên góc trái trên cùng của thiệp viết tên tuổi hoặc tên đơn vị nhận.
Cũng có thiệp đặt tên tuổi người nhận hoặc tên công ty vào hàng cuối cùng,
nhưng cũng phải viết vào bên trái.
(3) Viết rõ nội dung cho người nhận biết. Nếu tham dự lễ liên hoan, yến
tiệc, nên ghi rõ địa điểm, thời gian cụ thể chiêu đãi. Nếu là những hoạt động
khác, ví dụ như mời xem phim hay các chương trình biểu diễn, trên thiệp mời
nên ghi rõ hoặc kèm theo vé vào cổng.
(4) Phần dưới nên viết là “Kính mời”, “Trân trọng kính mời” v.v…, người
xưa gọi là “Cụ lễ”.
(5) Phần dưới cùng bên tay phải nên ghi rõ đơn vị hoặc tên người gửi
và thời gian gửi thiệp.
2. Thiệp cưới
Thiệp cưới là thiệp chuyên mời họ hàng bạn bè đến tham dự lễ cưới,
tiệc cưới. Thiệp cưới là một loại thiệp được vận hành rộng rãi nhất trong xã
hội, đa số đều do cha mẹ của tân nhân gửi di. Cách hành văn khá cầu kì, lời
nói trịnh trọng, hơn nữa phải căn cứ vào mối quan hệ khác nhau giữa người
mời và người được mời mà chọn dùng ngôn từ khác nhau.
Ví dụ 1: Thiệp cưới nhà trai mời khách:
Ví dụ 2: Thiệp cưới nhà gái mời khách:
Xã hội hiện đại còn nổi lên hiện tượng thiệp cưới “danh thiếp”. Khi nam
nữ cử hành hôn lễ, phổ biến dùng thiệp cưới danh thiếp loại nhỏ, màu đỏ tinh
xảo, một mặt in lớn tên của khách mời, và kèm theo còn có những hình tượng
trưng ý hợp tâm đầu, bách niên giai lão, vĩnh kết đồng tâm; một mặt in tên
của chủ nhân, tên đôi nam nữ kết hôn, ngày kết hôn, địa điểm và thời gian dự
tiệc, trên tấm thiệp còn tỏa ra một mùi hương thơm nhẹ. Nó vừa là thiệp mời
khách đến dự tiệc cưới, vừa có thể là một món quà kỉ niệm gửi họ hàng bạn
bè.
Thiệp cưới kiểu bỏ túi này tinh xảo thực dụng, thể chữ ngay ngắn đẹp
mắt, giống như thiệp cưới kiểu gấp lại. Nếu trên mặt có in một lời chúc phúc
nhỏ, còn có thể lưu lại cho họ hàng bạn bè và tân lang tân nương một hồi ức
đẹp đẽ.
3. Lời chúc mừng hôn nhân
Lời chúc mừng hôn nhân là những câu chúc ngắn gọn, đơn giản, biểu
thị lời chúc mừng đến tân lang tân nương, vừa có thể viết trên quà chúc
mừng, vừa có thể viết trên dải màu, thiệp, danh thiếp hoặc trên giấy. Đầu tiên
viết tên người được tặng, sau đó viết lời chúc mừng. Lời chúc mừng có thể là
câu ngắn, câu đối, cũng có thể là những lời của mình tự nghĩ ra, những lời
thường dùng là những câu thơ hoặc cách ngôn của người khác. Cuối cùng
ghi tên của người tặng và ngày tháng. Nội dung chúc mừng phải đơn giản,
sâu sắc.
(1) Ví dụ lời chúc hôn lễ
Ví dụ 1:
Ông XXX:
Ông XXX:
Tân Hôn Chí Hỉ
XX chúc mừng
Ngày X tháng X năm X
Ví dụ 2:
Ông XXX:
Bà XXX:
Hạnh Phúc Trọn Đời
Răng Long Đầu Bạc
XX chúc mừng
Ngày X tháng X năm X
(2) Lời chúc thường dùng
Mĩ mãn nhân duyên
Trăm năm hạnh phúc
Răng long đầu bạc
Sớm sinh quí tử
Con đàn cháu đống
Nên duyên cầm sắc
Kết thành giai ngẫu
4. Bức trướng chúc mừng hôn nhân
Trong phần nhiều lễ nghĩa dân gian, tặng bức trướng chúc mừng hôn
nhân là hình thức cổ xưa được dùng nhiều nhất. Bức trướng bắt nguồn từ
một tấm gỗ có lời chúc mừng, về sau là tấm vải và lụa làm thành bức trướng.
Bức trướng chúc mừng có thể viết ngang, cũng có thể viết dọc. Bức trướng
viết dọc thường viết phần trên bên phải, ghi tên ở phần dưới bên trái, chính
giữa là lời chúc, ngày tháng năm viết lời chúc sẽ viết dọc ở bên trái của tên.
Những lời ghi trong bức trướng nội dung đều là để chúc mừng, ca ngợi,
tán thưởng những việc vui vẻ. Bức trướng dùng chữ đơn giản, ngắn gọn, có
khi chỉ dùng một chữ, ví dụ như chữ “Song hỉ”, nhưng thường thấy nhiều nhất
là loại bốn chữ, như “Bách niên hảo hợp”, “Giai ngẫu thiên thành” v.v…
Những lời trong bức trướng đa phần là câu từ hàm chứa ý nghĩa kiết tường,
chúc phúc, vì thế khi dùng từ nên xác đáng thích hợp, tuyệt đối không dùng
những câu từ biếm trích.
(1) Những lời chúc thường dùng cho hôn lễ
Tài tử giai nhân
Tâm đầu ý hợp
Bách niên giai lão
Trăm năm hòa hảo
Bách niên giai ngẫu
Tình chàng ý thiếp
Tình sâu nghĩa nặng
Tương kính như tân
Gia đình hạnh phúc
Loan phượng hòa minh
Nhân duyên mỹ mãn
Nên duyên cầm sắc
Tình thâm như hải
Phúc lộc uyên ương
(2) Những lời chúc thường dùng cho tục huyền
Gương vỡ lại lành
Uyên ương duyên mới
(3) Những lời chúc thường dùng cho việc gả con gái
Con gái vu qui
Thiên tác chi hợp
Bách niên cầm sắc
Tình chàng ý thiếp
5. Thơ chúc mừng hôn nhân
(1) Thơ chúc mừng hôn nhân
Vân cẩm tằng tằng ngũ sắc tươi
Ỷ duyên bản thị tam sinh định
Xuân noãn hoa gian giao cảnh điểu
La vi trướng lí đồng tâm kết
(Mây gấm hàng hàng lớp lớp tỏa nhiều màu sắc
Lương duyên tốt đẹp đã được định sẵn từ ba kiếp trước
Chim đậu trên cành hoa trong xuân ấm
Sau bức màn the bằng lụa thơm đôi tim hòa hợp)
Chính thị thời lai noãn nhật hồng
Hạnh lâm lữ hỉ du song điểu
Quân vũ tu văn tài học bị
Tân hôn ân ái hà vi lạc
(Đúng lúc mặt trời hồng lên cao ấm áp
Đôi chim vui vẻ bay đến chúc mừng hạnh phúc
Văn ôn võ luyện tài năng học vấn sẵn sàng
Đêm tân hôn ân ái mặn nồng)
Quan thư thi vịnh lạc đào nhiên
Cẩm trướng hương nồng tình truy quyển
Tước bình trung mục lang tài tuấn
Cầm sắt hòa minh gia mĩ mãn
(Quân tử kết đôi vợ chồng ngâm thơ vui vẻ
Màn gấm hương nồng quyến luyến không rời
Trong bình phong lang quân tài ba anh tuấn
Vợ chồng hòa hợp gia đình mỹ mãn)
(2) Bài thơ dành cho tục huyền
Bồn cổ trang ca ức cựu tình
Lí Trần giai ngẫu thiên liên phối
Cẩn tửu giao bôi xuân sắc diễm
Tao đàn hỉ khánh huyền âm tục
(Đánh vào bồn mà hát nhớ tình xưa
Hai nhà Lí Trần kết duyên trời cho
Rượu hợp cẩn giao bôi xuân sắc tươi đẹp
Vườn thơ vui vẻ tiếng đàn tiếp tục)
Tân lang bất quý nhất thư sinh
Tần phổ lương duyên túc đế thành
Động phòng hoa chúc diệp quang minh
Kích bát thôi thi thục nữ nghênh
(Tân lang không hổ thẹn là thư sinh
Lương duyên Tần Tấn sớm kết thành
Động phòng hoa chúc đêm rực rỡ
Gõ chén giục thơ nghênh thục nữ)
(3) Bài thơ chúc mừng gả con gái
Tam sinh hữu ước đế lương duyên
Bạch thủ minh tâm thiết thạch kiên
Xuân phong hóa vũ kiến cung kiền
Tranh thông nhi ông giá nữ thiên
(Mối lương duyên ba đời đã định
Lời thề sắt đá đến bạc đầu
Gió xuân hóa mưa chúc mừng duyên bền chặt
Cha thay con đọc bài văn xuất giá)
(4) Bài thơ chúc mừng đám cưới bạc
Tam sinh thạch thượng đế lương duyên
Tử hiếu phu từ hoan ý mãn
Xuân quang điểm xuyết tao nhân bút
Nghĩ đãi kim hôn thiêm lục tái
(Trên hòn đá ghi lời hẹn ước lương duyên ba kiếp
Con hiếu cha hiền vui vẻ hòa thuận
Ánh nắng mùa xuân điểm xuyết nét bút của nhà thơ
Đợi đến đám cưới vàng thêm sáu năm nữa)
An an hảo hảo quá niên niên
Sự nghiệp thành công phước lộc toàn
Do khoa bảo vụ lạn trung thiên
Kiến tính minh tâm lĩnh ngộ thiền
(Tốt đẹp bình an năm năm trôi qua
Sự nghiệp thành công phúc lộc đầy nhà
Quí báu tốt đẹp xán lạn cả trời
Nhìn rõ tâm người giác ngộ)
(5) Câu thơ chúc mừng đám cưới vàng
Ngũ thập niên tiền hỉ đế hôn
Uyên minh vĩnh chứng ái tình đôn
Đức vọng sùng long giáp nhất thôn
Đình xa vấn tự khách đăng môn
(Năm mươi năm trước chúc mừng hôn li
Uyên ương tình cảm mãi mãi ấm nồng
Đức cao vọng trọng nhất trong thôn
Dừng xe hỏi chữ khách đến nhà)
(6) Bài thơ chúc mừng đám cưới kim cương
Thịnh điển đường hoàng toàn thạch hôn
Gia thường ôn noãn ứng đa phúc
Giá cảnh kham thường tâm thượng nguyện
Tam thiên lí lộ đô du biến
(Đám cưới kim cương long trọng đàng hoàng
Gia đình hòa thuận ấm áp nhiều phúc lộc
Từ khổ đến sướng lòng thường cầu nguyện
Ba ngàn dặm đường chu du khắp nơi)
6. Câu đối chúc mừng hôn nhân
Câu đối chúc mừng hôn nhân, tục xưng là câu đối hỉ, là câu đối chuyên
dùng cho hôn lễ. Trong ngày đại hỉ hôn nhân, ở cửa lớn, cửa phòng, phòng
khách thậm chí là cửa nhà bếp đều dán câu đối, làm tăng thêm bầu không khí
vui vẻ.
Nội dung của câu đối chúc mừng hôn nhân đa số dùng những lời kiết
tường chúc phúc cho đôi vợ chồng mới cưới, nó không chỉ phản ánh ước mơ
của đôi vợ chồng mới cưới đối với cuộc sống tương lai, mà còn biểu thị lời
chúc nguyện tốt đẹp của bạn bè thân dành cho họ. Nó tượng trưng cho sự
kiết tường và cũng thắp sáng bầu không khí tươi vui của ngày hôn lễ.
Dưới đây tuyển chọn một số câu đối chúc mừng hôn lễ để tham khảo:
(1) Câu đối kết hôn thường dùng
Cầm sắc hài hòa gia đình lạc
Hôn nhân tự chủ hạnh phúc đa
(Vợ chồng hòa hợp gia đình vui vẻ
Hôn nhân tự nguyện nhiều hạnh phúc)
Đồng tâm đồng đức mĩ mãn phu thê
Khắc cần khắc kiệm hạnh phúc gia đình
(Đồng tâm đồng đức vợ chồng hòa hợp
Cần kiệm giữ vững hạnh phúc gia đình)
Bách niên giai ngẫu kim triều hợp
Lưỡng tính lương duyên thử nhật thành
(Hôm nay kết trăm năm giai ngẫu
Lương duyên hai họ từ nay kết chặt)
Lưỡng tính liên nhân thành đại lễ
Bách niên giai lão lạc trường xuân
(Hai họ kết duyên cử hành đại lễ
Trăm năm bạc tóc vui xuân mãi mãi)
(2) Câu đối chúc mừng hôn nhân bốn mùa
1. Câu đối chúc mừng hôn nhân mùa xuân
Hoa chúc huy liên nguyên dạ nguyệt
Phong tiêu xuy triệt ngọc đường xuân
(Hoa nến rực rỡ trong đêm Nguyên Tiêu
Gió xuân thổi xào xạc khắp nhà)
Điệp sấn xuân quang hân kết bạn
Nhân phùng thịnh thế hỉ thành thân
(Ánh nắng xuân bướm hân hoan kết bạn
Người gặp mặt mãi mãi vui vẻ kết lương duyên)
2. Câu đối chúc mừng hôn nhân mùa hè
Mĩ mãn nhân duyên thiên tác hợp
Thanh hòa thời tiết nhật sơ trường
(Nhân duyên mĩ mãn trời tác hợp
Buổi đầu hòa hợp kéo dài mãi mãi)
Thái liên quân tử tân cầu ngẫu
Tuyết ngẫu giai nhân qui hữu tài
(Hái sen quân tử cầu tìm vợ
Giai nhân rửa ngó sen muốn tìm người tài ba)
3. Câu đối chúc mừng hôn nhân mùa thu
Thu sắc bình phân giai tiết dạ
Nguyệt hoa thường chiếu mĩ nhân trang
(Sắc thu lan tỏa tiết trời đêm trong lành
Ánh sáng trăng soi sáng mĩ nhân trang điểm)
Hạo nguyệt thanh quang thiêm thụy khí
Trung thu giai tiết khánh tân hôn
(Trăng sáng vằng vặc không khí trong lành
Tiết trời trung thu chúc mừng tân hôn)
4. Câu đối chúc mừng hôn nhân mùa đông
Tính đế hoa khai liên lí chi
Tân phôi tửu tiến hợp hoan bôi
(Vợ chồng ân ái quấn quýt bên nhau
Nâng chén rượu trai gái sum vầy)
Chung tình giai ngẫu đồng tâm kết
Ngạo tuyết mai hoa trước ý khai
(Chung tình vợ chồng đôi tim kết chặt
Hoa mai trước tuyết nở rộ)
(3) Câu đối hôn nhân chuyên dùng
1. Câu đối dùng trong động phòng
Nhất thụ hảo hoa khai tính đế
Lưỡng danh tân tú kết đồng tâm
(Cây nở hoa vợ chồng ân ái
Hai họ tốt đẹp gắn kết đôi tim)
Mộng viên hoa hảo kiêm lưỡng dạ
Hà úy vân chưng noãn động phòng
(Vuông tròn đôi lứa đêm vui vẻ
Mây trắng bồng bềnh ấm áp phòng hoa chúc)
Hoa chúc quang trung sơn minh hải thệ
Động phòng thâm xứ ý hợp tình nồng
(Trong ánh nến thề non hẹn biển
Phòng hoa chúc hòa hợp tình nồng)
2. Câu đối khi gả con gái
Hồng diệp đề thi hân tặng giá
Thanh mai chử tửu khánh vu qui
(Lá thắm đề thơ vui vẻ trao tặng con gái xuất giá
Rượu nấu quả mơ xanh chúc mừng vu qui)
Thử khứ phu gia nghi kiệm cẩn
Mộ vong từ mẫu cửu cù lao
(Về nhà chồng chăm chỉ cần kiệm
Không quên công lao mẹ hiền sinh đẻ nuôi nấng khó nhọc)
3. Câu đối thường dùng khi chọn rể
Đắc chuế hiền lang tức thị tự
Sinh lai hảo nữ thắng vu nam
(Có được rể hiền như là con ruột
Từ xưa đến nay sinh con gái hơn là sinh con trai)
Kết thái trương đăng nghênh quí tế
Khai diên cử chúc yến gia tân
(Giăng đèn kết hoa đón rể quí
Mở yến tiệc chúc mừng khách quí)
4. Câu đối thường dùng trong phục hôn
Vô nại đương niên hoa lạc khứ
Hữu duyên kim nhật phượng qui lai
(Bất đắc dĩ năm nay hoa rụng mất
Ngày nay lương duyên lại quay về)
Uyển thượng mai hoa khai nhị độ
Phường trung cầm sắt vận trùng hài
(Hoa mai trong vườn nở hai lần
Phòng trong vợ chồng lại hòa hợp như xưa)
5. Câu đối dùng trong tái hôn
Tái tục nhân duyên xuân ích lệ
Trùng điệu cầm sắt vận vưu hài
(Nhân duyên tiếp tục mùa xuân càng tươi đẹp
Vợ chồng hòa hợp)
Thiên lí nhân duyên nhất tịch hội
Bán sinh giai ngẫu bách niên thân
(Nhân duyên ngàn dặm đêm hòa hợp
Tình vợ chồng trăm năm gần gũi gắn bó)
6. Câu đối chúc mừng hôn nhân lớn tuổi
Tịch dương tình canh hảo
Huyên thảo vãn lai hương
(Vào tuổi xế chiều tình cảm càng mặn nồng
Cỏ huyên tối trời tỏa hương thơm)
Bạch đầu phương ngẫu đồng tâm bạn
Đấu thất trùng ôn phục lịch thiên
(Bạc đầu giai ngẫu kết đôi tim
Túp lều son nồng ấm như xưa)
7. Bức hoành
Bách niên hảo hợp
Loan phượng hòa minh
Động phòng hoa chúc
Bạch đầu giai lão
Giai ngẫu lương duyên
Bách niên giai ngẫu
VI. CÁCH GỌI KỈ NIỆM TRÒN NĂM NGÀY CƯỚI
1 năm, gọi là đám cưới giấy, so sánh sự kết hợp lúc đầu mỏng như
giấy.
2 năm, gọi là đám cưới bông, giống như lá cây dương rung rinh trong
gió.
3 năm, gọi là đám cưới da, có nghĩa là hôn nhân đến thời điểm này có
tính bền chắc.
4 năm, gọi là đám cưới tơ, có nơi còn gọi là đám cưới lụa, có nghĩa là
lúc nào cũng quấn quít nhau.
5 năm, gọi là đám cưới gỗ, tình cảm vững chắc.
6 năm, gọi là đám cưới sắt, tình cảm phu thê vững bền như sắt.
7 năm, gọi là đám cưới đồng, tình cảm bền chắc, dẻo dai hơn sắt,
không dễ bị gỉ.
8 năm, gọi là đám cưới đồ gốm, như đồ gốm kiên cố xinh đẹp.
9 năm, gọi là đám cưới liễu, giống như liễu rũ, gió thổi mưa sa cũng
không gãy.
10 năm, gọi là đám cưới thiếc, thiếc dẻo dai bền chắc, không thể phá
hỏng.
11 năm, gọi là đám cưới thép, không thể bị gỉ, bền chắc hơn sắt.
12 năm, gọi là đám cưới xích, giống như sợi xích, kết nối chặt chẽ.
13 năm, đám cưới đường diềm hoa, không những dẻo dai, bền bỉ, mà
còn rất đẹp.
14 năm, đám cưới ngà voi, thời gian càng lâu dài, càng đẹp hơn.
15 năm, đám cưới thủy tinh, trong suốt và tươi sáng rực rỡ.
20 năm, đám cưới sứ, sáng bóng rực rỡ, nhưng không được làm nó rơi
bể.
25 năm, đám cưới bạc, đã có giá trị vĩnh hằng, là lễ kỉ niệm lớn thứ
nhất sau lễ cưới.
30 năm, đám cưới trân châu, giống như hồn quốc trân châu xinh đẹp và
quí báu, khiến người người ngưỡng mộ.
35 năm, đám cưới san hô, đỏ tươi và quí báu, càng có thanh sắc.
40 năm, đám cưới hồng ngọc, tiếng thơm khó kiếm.
45 năm, đám cưới lam ngọc, quí báu hơn cả hồng ngọc.
50 năm, đám cưới vàng, là lễ kỉ niệm lớn thứ hai của đôi vợ chồng,
thông thường đều đã có con cháu đầy đàn, tổ chức lễ kỉ niệm này càng lớn
hơn nhiều so với đám cưới bạc.
55 năm, đám cưới phỉ thúy, như ngọc phỉ thúy, giá trị vô cùng.
60 năm, đám cưới kim cương, đây có thể nói là một lễ kỉ niệm ngày
cưới vô giá hiếm có trong đời người, là lễ kỉ niệm long trọng nhất của đôi vợ
chồng.
Phần 2. PHONG TỤC LỄ NGHI CHÚC THỌ
Chúc thọ chính là phong tục nghi lễ nguyện chúc người già diên niên
trường thọ, là một buổi lễ sinh nhật mang sắc thái kiết tường “hỉ lạc” của
người già, cũng gọi là chúc thọ, khánh thọ, mừng thọ v.v… Tuổi tác càng cao,
nghi lễ chúc thọ càng long trọng để biểu hiện lòng kính trọng đối với người
già, cũng biểu thị sự trân trọng, ca ngợi và cầu nguyện của con người đối với
sinh mạng của mình. Hoạt động chúc thọ có lịch sử lâu dài, người Trung
Quốc từ lâu đã hình thành một lễ tục chúc thọ hoàn chỉnh, nếu bỏ đi sự phô
trương lãng phí, thì trên ý nghĩa, phong tục này là một đóa hoa kết thành từ
văn minh tinh thần của con người, là thành quả văn hóa đáng được chúng ta
trân trọng.
So sánh lễ mừng thọ ngày nay và lễ chúc thọ truyền thống có mấy điểm
khác biệt. Thứ nhất là các nghi lễ phức tạp đã được đơn giản hóa, thứ hai là
hấp thu một chút lễ tục phương tây, thứ ba là tạo ra những lễ tục mới, như
không chỉ chúc người già trường thọ, mà còn chúc người già xem trọng giá trị
và chất lượng cuộc sống, luôn có tinh thần tiến thủ, phát huy nhiệt tình.
Những lễ tục mới này, giúp cho lễ chúc thọ truyền thống càng đa dạng.
I. NỀN TẢNG CHÚC THỌ
Nền tảng của nghi lễ mừng thọ bắt nguồn từ quan niệm tín ngưỡng khá
độc đáo của truyền thống Trung Quốc. Thời cổ đại Trung Quốc, “ngũ phúc”
chính là năm loại hình lí tưởng của cuộc sống. Theo cách nói của dân gian thì
đó là phúc, lộc, thọ, hỉ, tài. Trong “Thượng Thư, Hồng Phạm” nói: “Ngũ phúc,
thứ nhất là thọ, thứ hai là phúc, thứ ba là khương ninh, thứ tư là đức, thứ năm
là khảo chung mệnh”, không chỉ chữ thọ đứng ở vị trí đầu tiên, hơn nữa cũng
có liên quan đến những phúc khác như khương ninh (sức khỏe), khảo chung
mệnh. Người xưa giải thích, khảo chung mệnh là “phải sống tốt cho đến tuổi
già”, đều có mối quan hệ nhất định đối với chữ thọ này. Có thể thấy rằng,
trong cuộc sống của con người chữ thọ là vô cùng quan trọng.
Chính dựa vào quan niệm trên, người xưa và người nay đều xem trọng
sự trường thọ. Trong tư liệu văn hiến cổ đại, những ghi chép về phương diện
này nhiều đến nỗi không sao đếm được. Mọi người không chỉ tìm kiếm con
đường trường thọ bằng trăm phương ngàn kế ở tất cả các lĩnh vực trong cuộc
sống hiện thực, mà còn sáng tạo ra sự trường thọ trong tín ngưỡng, lễ nghi.
Đầu tiên, con người sáng tạo ra lễ nghi chúc phúc, chúc mừng trường thọ - lễ
mừng thọ. Kế đến, mọi người dựa vào quan điểm giá trị xã hội để tăng thêm ý
nghĩa đặc biệt cho những lễ tục này, ví dụ như nhặt được đầu Phật thì sẽ
trường thọ, người làm dao sẽ bị giảm thọ … từ đó mà hướng đến lợi ích tạo
phúc lành, tránh xa hiểm họa. Kế đó, mọi người còn sáng tạo ra nhân vật kiết
tường như Thọ tinh, thông thường được thấy trong lễ mừng thọ; dùng rất
nhiều kiểu chữ để viết chữ thọ, tạo thành “bách thọ đồ”; lựa chọn và định ra
rất nhiều vật tượng trưng cho trường thọ, đưa vào thi ca, hình họa, mượn đó
để gửi gắm ước muốn trường thọ của mình. Tất cả những điều này, cấu
thành một bức tranh phong phú về phong tục chúc thọ truyền thống Trung
Quốc, mà trong đó lễ chúc thọ là nổi bật nhất.
II. TÊN GỌI NGÀY CHÚC THỌ
Lễ sinh nhật hàng năm thông thường người Trung Quốc gọi là “tản
sinh” hoặc “tiểu sinh”, thường không chúc thọ. Chữ “thọ” không những có
hàm nghĩa năm sống lâu dài, mà còn mang ý nghĩa tôn kính đối với những
người cao tuổi. Thông thường vào ngày lễ sinh nhật từ 50 tuổi trở lên, mới có
thể gọi là “thọ”.
Trong văn hóa chúc thọ từ thời xa xưa, đối với ngày sinh nhật của nam
nữ ở những độ tuổi khác nhau đã hình thành những cách xưng hô chuyên
biệt, hơn nữa ngày nay trong cách nói và những hoạt động chúc thọ cũng có
sự khác biệt.
Đầu tiên là đối với lễ chúc thọ của nam giới và nữ giới có cách gọi khác
nhau, nam giới gọi là “xuân thọ”, nữ giới gọi là “huyên thọ”. Cách gọi này bắt
nguồn từ một đoạn điển tịch quan trọng của Trung Quốc trong “Trang Tử Tiêu
Dao Du”: “Thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế
vi thu.” Điểm tích này vốn chỉ cây xuân có tuổi thọ rất cao, người đời sau đem
cây xuân làm cách xưng hô của người nam trường thọ. Lại từ trong ghi chép
của “Luận Ngữ, Lí Thị”: Con của Khổng Tử là Bá Ngư “vội vã bước qua sân
đình” tiếp thu những lời giáo huấn của cha, người đời sau lấy chữ “xuân” và
chữ “đình” hợp lại với nhau, lấy lễ chúc thọ cho cha gọi là “xuân thọ”. Từ đó
được truyền bá rộng rãi, tất cả lễ chúc thọ cho nam giới đều gọi là “xuân thọ”.
Huyên chính là cỏ huyên, nụ hoa của cỏ huyên là rau kim trâm, ngày nay
chúng ta thường gọi là rau hoàng hoa. Do trong “Kinh Thi Vệ Phong Bá Hề”
có câu thơ “Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối”, mà theo học giả đời Hán
giải thích câu thơ này là: “Huyên thảo lệnh vong ưu; bối bắc đường dã” chính
là nói, huyên thảo là một loại cỏ quên ưu sầu, nếu trồng loại cỏ này nơi mẫu
thân sinh sống sẽ khiến người quên đi phiền não. Cho nên từ đó về sau mọi
người thường gọi mẫu thân là “huyên đường”, hoặc giản xưng là “huyên”. Đối
với cha mẹ hợp xưng là “xuân huyên”. Cũng chính từ nguyên nhân này nên
vào ngày lễ chúc thọ cho mẹ thì gọi là “huyên thọ”. Từ đó được phổ biến rộng
rãi, tất cả lễ chúc thọ cho nữ giới đều có thể gọi là “huyên thọ”.
Đối với cách xưng hô lễ chúc thọ ở những độ tuổi khác nhau, ví dụ đại
thọ năm mươi tuổi trở lên, 50 tuổi gọi là “tri mệnh” hoặc “năm tri mệnh”, 60
tuổi gọi là "nhĩ thuận” hoặc “năm nhĩ thuận”. Những cách xưng hô này bắt
nguồn từ lời nói của Khổng Tử trong “Luận Ngữ. Vi Chính”: “Ngô thập ngũ nhi
chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh,
lục thập nhi nhĩ thuận”. 60 tuổi cũng gọi là “hoa giáp” hoặc “năm hoa giáp”.
Đây là vì thời xưa dùng can chi ghi niên đại, chính là dùng mười thiên can -
giáp, ất, bính, linh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quí và mười hai địa chi - sửu,
dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi tiến hành sắp xếp, tổ hợp
thành tên niên hiệu như giáp tí, bính dần, đinh mão … Cách sắp xếp can chi
đan xen vào nhau, sắp xếp tuần hoàn thì có 60 đơn vị, gọi là “hoa giáp” Sau
này, 60 tuổi cũng được gọi là “hoa giáp” hoặc "năm hoa giáp”. 70 tuổi gọi là
“cổ hi” hoặc “năm cổ hi”. Cách xưng hô này bắt nguồn từ câu thơ trong “Khúc
Giang” của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ: “Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
nhân sinh thất thập cổ lai hi.” Người đời sau 70 tuổi đều có thể gọi là “người
cổ hi”. Đối với người 70, 80, 90, người xưa gọi là “mạo” hoặc “điệt”, cũng gọi
là "mạo điệt” hay “năm mạo điệt”, trong đó tám mươi tám tuổi gọi là thọ “mễ”.
Trăm tuổi gọi là “kì di”, chữ này bắt nguồn từ “Lễ Kí. Khúc Lễ Thượng”: “Bách
niên viết kì di”. Kì là kì vọng, di là dưỡng, chính là nói, con muốn sống đến
100 tuổi, đó là tuổi thọ cao nhất mà con người kì vọng, người già đến tuổi
này, ở các phương diện đều do con người bảo dưỡng. Người sau lấy "kì di"
làm tên gọi cho lễ mừng thọ người trăm tuổi, ngoài cách xưng hô của lễ chúc
thọ, còn có mấy cách sau: 77 tuổi gọi là “hỉ thọ”, vì hành thư của chữ hỉ, gần
giống với ba chữ bảy mươi bảy; 88 tuổi gọi là “mễ thọ”, vì tách đôi chữ mễ ra,
hai điểm ở trên rất giống chữ bát (số 8), ở giữa là chữ thập, bên dưới lại một
chữ bát nữa, hợp lại là tám mươi tám; 108 tuổi gọi là “trà” thọ.
III. NGHI THỨC CHÚC THỌ
Tiệc sinh nhật là một buổi tiệc được tổ chức vào ngày sinh nhật của
mỗi năm, trong suốt cuộc đời được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng những buổi
tiệc sinh nhật ở những độ tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm khác nhau.
Tuy trọng tâm của buổi lễ này đều là chúc phúc, chúc mừng sức khỏe trường
thọ, nhưng khi thông thường không gọi là lễ chúc thọ, mà là “tiệc sinh nhật”.
Mọi người cho rằng, trẻ con, thanh niên mà chúc thọ là không nên, như thế sẽ
bị giảm thọ. Chỉ đến một độ tuổi nhất định thì mới có thể tổ chức lễ chúc thọ.
Nhưng nếu cha mẹ còn tại thế, cho dù tuổi đã qua năm mươi cũng không thể
“mừng thọ”, vì “tôn kính không dám gọi là cao tuổi”.
Tiệc sinh nhật đối với nhi đồng, thiếu niên và thanh thiếu niên, là một
việc đáng để chúc mừng, cha mẹ và những người trong gia đình đều gửi lời
chúc mừng, chúc phúc tới nhân vật chính. Nghi thức này tuy không long trọng
như những đại lễ khác, nhưng cũng đánh dấu rõ ràng bước trưởng thành của
thanh thiếu niên. Lúc này, mọi người hồi tưởng lại quá khứ, mơ ước đến
tương lai, luôn mong nhân vật chính có được sự tự tin và trí tuệ. Trong xã hội
truyền thống, sinh nhật của trẻ con luôn được tổ chức tại nhà. Ở Sơn Đông
tục xưng sinh nhật trẻ con là “tiệc sinh nhật”, tiệc gia đình vào buổi trưa phải
ăn mì, gọi là ăn “canh trường mệnh”. Sinh nhật kị uống “nước cơm”, “cháo
dính”, tục nói là khi uống phải sẽ bị “một năm hồ đồ”. Ngoài ra, trẻ con vào
ngày tổ chức sinh nhật không được đánh nhau, la mắng nhau, nếu không sẽ
đoản mệnh. Con em nhà thế gia đại tộc khi tổ chức sinh nhật cũng nhận quà
chúc mừng.
Lễ chúc thọ cũng được gọi là “tiệc sinh nhật”, ngoài ra còn có thể gọi là
“làm lễ thọ”, “mừng thọ”, “chúc thọ”, “khánh thọ” v.v… Vào độ tuổi đặc biệt lại
có cách gọi đặc biệt, như “khánh bát thập”, “hạ lục thập”, “thọ cổ hi” v.v…
Nam nữ làm chúc thọ cũng có cách xưng hô khác nhau, ví dụ như nam gọi là
xuân thọ, nữ gọi là huyên thọ, vì thời cổ ở Trung Quốc lấy chữ xuân huyên để
gọi cha mẹ, xuân huyên trong “xuân huyên tính thọ, lan quế tề lao” là có ý
nghĩa này.
Chúc thọ thông thường từ 40 tuổi trở lên mới bắt đầu tổ chức, thậm chí
là trễ hơn, ở mỗi nơi có phong tục khác nhau, không có độ tuổi thống nhất. Ở
vùng Sơn Đông Thái An, từ 66 tuổi mới bắt đầu chúc thọ, gia tộc Tương Tây
Thổ bắt đầu 50 tuổi làm lễ chúc thọ. Có nơi bất luận là ở độ tuổi nào, chỉ cần
thêm một đứa cháu nội là có thể làm lễ chúc thọ. Nhưng có một qui luật thống
nhất đó là: càng làm càng lớn, càng long trọng, tuổi thọ số chẵn (tục gọi là
tròn số) long trọng hơn số lẻ. Cổ ngữ nói: “Nhân phùng thất thập cổ lai hi”, vì
thế lễ chúc thọ từ sau độ tuổi này rất long trọng, “đại thọ 80” luôn là lễ thọ rất
lớn. Ngoài tuổi thọ tròn mười hay tròn năm ra, những tuổi thọ số lẻ khác thông
thường không làm lễ chúc thọ; muốn làm, qui mô cũng khá nhỏ.
Lễ thọ truyền thống có một lễ tiết. Đầu tiên phải thiết lập thọ đường, bày
nến chúc thọ, treo trướng mừng thọ, treo đèn kết hoa. Ngày sinh nhật đến,
chính giữa thọ đường thiết lập chỗ cho lão Thọ tinh, người chủ trì điều khiển
chương trình, họ hàng, bạn bè, con cháu đều đến tham dự. Thứ bậc khác
nhau cách hành lễ cũng khác nhau. Cùng thứ bậc thì chỉ vái chào, hàng con
cháu thì lạy bốn lạy. Có nơi không bài trí ông Thọ tinh, khách mời chỉ đến thọ
đường lễ bái, còn hàng lớp con cháu thì tề tập trước lễ đường trả lễ. Đương
nhiên nhà bình thường không thiết lập thọ đường, chỉ thiết lập thọ án. Thời
Bắc Kinh xưa khi đến lễ chúc thọ, đa phần đều đến sạp bán nến thơm thỉnh
thần mã của “bổn mệnh diên niên Thọ tinh quân” được in màu trên bản khắc
gỗ, đặt trên thọ án rồi bày đào mừng thọ, mì mừng thọ, thắp đôi nến đỏ …
Tiệc mừng thọ là khâu quan trọng của lễ thọ, khi làm lễ mừng thọ, gia
chủ luôn mở đại tiệc, thết đãi khách mời. Những món ăn trong tiệc mừng thọ
không chú trọng đến sơn hào hải vị, nhưng món không thể thiếu là mì, tục
xưng là “mì trường thọ”. Khách đến chúc thọ đều đem theo quà mừng thọ
như đào mừng thọ, bánh mừng thọ, mì mừng thọ, nến mừng thọ, bình phong
mừng thọ, bức trướng mừng thọ, câu đối mừng thọ, tranh mừng thọ, lụa màu
mừng thọ, dù vạn niên v.v… Trong những lễ phẩm này đều có thể kèm theo
vật điểm xuyết, hình vẽ nho nhỏ là tượng trưng cho sự trường thọ v.v… Ngoài
ra, lễ vật ở mỗi nơi đều có nét đặc sắc và ý nghĩa riêng. Ở Dịch Huyện Sơn
Đông, con gái khi xuất giá trở về nhà cha mẹ đẻ chúc thọ, nhất định phải làm
bánh màn thầu xếp chồng lên nhau (5 cái), ngoài ra còn thêm một cái cúng
cho Thọ tinh (thần). Ở Tằm Hương Chiết Giang, Hải Ninh đều phải tặng cho
người già áo lụa, quần lụa, giày lụa dệt bằng tơ tằm chúc phúc cho người già
sống lâu trường thọ.
Nghi thức mừng thọ của dân tộc thiểu số cũng rất thịnh hành, hơn nữa
ở mỗi nơi đều có nét độc đáo khác nhau. Ví dụ như tộc Choang khi lễ thọ
được cử hành các con cháu đều dùng thịt lợn, thịt gà để tế tổ tiên, có nơi còn
phải niệm kinh thỉnh sư công. Sau khi cử hành lễ, mọi người còn phải vây
quanh người già hát “bài ca mừng thọ”. Lễ mừng thọ ở gia tộc Thổ có liên
quan rất lớn đến tuổi tác của Thọ tinh. Khi 60 tuổi, lễ thọ thông thường được
tổ chức khá long trọng, họ hàng bạn bè đến chúc thọ đều mang quà. Những
lễ phẩm này ngoài thức ăn thông thường ra, còn phải có mì và cá, mì được
gọi là “mì thọ”, cá tượng trưng cho “trăm năm có dư”; ngoài ra còn tặng bức
trướng, bức hoành, câu đối mừng thọ, tranh ảnh hoặc đồ gốm có in hình
phước lộc thọ.
IV. THƯ CHÚC THỌ
Nhiều nghi thức của lễ mừng thọ được kiến lập trên nền tảng tín
ngưỡng dân gian, để thêm hiểu rõ những tục tín này thì việc lí giải nghi thức
chúc thọ có tác dụng vô cùng quan trọng. Tục tín liên quan đến chúc thọ có
rất nhiều. Ví dụ như một số nơi sinh nhật lần thứ mười của trẻ là do bên nhà
bà ngoại làm, gọi là “ái tử thọ”; sinh nhật lần thứ 20 tuổi thì do nhà vợ làm.
“Làm chín chứ không làm mười” có nghĩa là vào năm khi tuổi mụ là mười, số
tuổi thực là chín thì làm lễ thọ. Có nơi “trai không làm mười, gái không làm
chín”, mười, chín cùng hài âm với chữ trộm cắp và đàn đúm nên không được
làm. 40 tuổi không làm, vì hài âm của số bốn giống hài âm của chữ tử.
Làm minh thọ (lễ thọ âm phủ) cũng gọi là âm thọ (lễ thọ cho người cõi
dưới), là chỉ sau khi tổ tiên mất đi, hễ mỗi mười năm, con cháu thiết lập tượng
thần hoặc thần vị trong linh đường, đối trước hành lễ, thiết đàn trai tăng, niệm
kinh cầu nguyện, biểu thị sự hiếu thảo nhớ thương của con cháu. Tại lễ minh
thọ, họ hàng bạn bè có tặng quà giấy cũng đăng đường bái chúc.
Con người tin rằng hành thiện tích đức sẽ sống trường thọ. Giúp đỡ
người nghèo, cứu tế lương thực, tu cầu làm đường đều là hành thiện, có thể
tích đức. Nhưng để làm được điều này tuyệt đối không phải dễ, vì thế đã sản
sinh ra những hành vi mang tính tượng trưng có thể tích thọ, tăng thọ, ví dụ
như đọc kinh niệm Phật, thắp hương cầu nguyện, thăm viếng cảnh chùa,
phóng sinh, sao chép kinh v.v… Dân tộc Choang có tổ chức lễ “thêm thọ” -
thời xưa có không ít vùng khi con người sống đến năm mươi, sáu mươi tuổi
đều có thùng gạo thọ, mỗi ngày đều bỏ vào thùng mấy lon gạo, biểu thị việc
sống lâu trường thọ. Mỗi năm đến lễ ăn mừng vụ mùa, các nam nữ đều chọn
ra những hạt gạo trắng, to, cho vào trong thùng “thêm thọ”, cũng gọi là
“dưỡng cang”. Gạo trong thùng ngày thường không thể dùng, chỉ khi mừng
thọ thì mới có thể lấy một ít để nấu cơm, kính dâng cho người già, biểu thị
con cái nguyện chúc cho ông bà, cha mẹ khỏe mạnh sống lâu trường thọ.
Tín ngưỡng dân gian cho rằng thọ mệnh tại thiên, thọ số hữu định,
muốn sống nhiều năm thì có thể sống nhiều năm. Vì thế, thọ số giống như
một của cải cá nhân có thể cho mượn, chuyển nhượng. Lễ tục “mượn thọ” là
nền tảng của tín niệm này. Khi có một người nào đó mắc bệnh điều trị đã lâu
nhưng không qua khỏi, thì mọi người đều cho rằng người này thọ đã đến, chỉ
có thể mượn thọ để cầu nguyện kéo dài tuổi thọ. Người cho mượn thọ phần
nhiều là do con cái hoặc họ hàng bạn bè của người bệnh, hơn nữa phải tự
giác tự nguyện, nếu không sẽ không thể linh nghiệm. Khi mượn thọ, người
cho mượn thọ phải tắm gội sạch sẽ, thành tâm khấn nguyện, cầu ông trời cho
phép mượn thọ. Nếu người bệnh chuyển nguy thành an một cách ngoài sức
tưởng tượng, mọi người cho rằng ông trời đã đồng ý cho mượn thọ, vì thế
phải thắp hương hứa nguyện, đáp tạ ơn trời. Giả như người bệnh nhất mạng
qui thiên, người cho mượn thọ sẽ thắp hương cầu nguyện, xóa bỏ lời nguyện
trước, để tránh phán quan diêm la của âm ti địa phủ sai sót ngẫu nhiên, đem
số thọ cho người khác mượn.
Ngoài mượn thọ còn có cách nói là bổ thọ, “thêm lương bổ thọ” của dân
tộc Mao Nam. Người Mao Nam cho rằng ăn “gạo bách gia” có thể bổ sung
sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Nghi thức này là xin gạo để bổ sung tuổi thọ, do
người già đích thân đến cửa hàng gạo xin gạo. Thông thường cửa hàng gạo
đều đồng ý cho người già vốc một vốc gạo, đồng thời người già cũng để lại
mấy đồng tiền lẻ. Xin mấy mươi cửa hàng gạo như thế, có thể có được ba
bốn ký gạo, sau đó dùng số gạo này nấu cho người già ăn. Nếu sau khi ăn
hết số gạo đã xin mà có tác dụng, thì phải làm tiệc rượu mời họ hàng bạn bè
đến tổ chức nghi thức “thêm lương bổ thọ”. Nghi thức thêm lương bổ thọ là
do con cái đứng ra tổ chức. Sau khi chọn ngày lành để tổ chức tiệc rượu, họ
hàng bạn bè đến dự mang theo mấy ký gạo, còn cắt một chữ thọ lớn màu đỏ
dán trên tấm vải lam hoặc vải đen hình vuông, xưng là “thọ bình” làm lễ vật
chúc thọ. Gia chủ đem số gạo mà khách mang đến cho vào một cái sọt, sau
đó sư công đến trước thần điện, tay cầm cái tán, gõ có tiết tấu, miệng hát
“khúc lục mã” và “mười hai tháng thêm lương thêm lộc” v.v… Rồi lấy gạo
trong sọt nấu cho người già ăn “bổ sung tuổi thọ”. Sau đó, treo bình phong
chúc thọ ở dưới điện thờ, khách mời cùng nhau nhập tiệc. Giữa tiệc, khách
đến chúc thọ chúc những lời tốt lành, chúc người già sống lâu trường thọ, sư
công còn hát “bài ca chúc thọ”. “Thêm lương bổ thọ” thông thường vào tiết
trùng dương ngày 9 tháng 9, một đời người chỉ tổ chức một lần. Điều không
giống nhau giữa “thêm lương bổ thọ” và mượn thọ của Tộc Mao Nam là
người sau cho rằng thọ số tại trời, người trước cho rằng tuổi thọ là do con
người, nhưng điểm giống nhau là nguyện vọng sống lâu trăm tuổi của con
người đều có thể thông qua những nghi thức này để thỏa mãn.
V. NGHI LỄ CHÚC THỌ
1. Lễ tục chúc thọ dân gian
Dân gian Trung Quốc có thói quen lấy một trăm tuổi là thượng thọ, 80
tuổi là trung thọ, 60 tuổi là hạ thọ. Bắt đầu từ 60 tuổi, theo phong tục của các
nơi mỗi khi số tuổi gặp 5, gặp 10, gặp 9 đều tổ chức chúc thọ.
Lễ chúc thọ, thông thường không thể tự mình chúc mừng mình mà là
do con cháu, họ hàng, bà con tổ chức.
Sau khi con cái hoặc bạn bè quyết định làm lễ chúc thọ “Thọ tinh”, nếu
khá cầu kì thì nên gửi thiệp mời trước cho họ hàng bạn bè thân. Thiệp mời
phải ngay ngắn, nho nhã, dùng từ phải trang trọng đạt ý. Nội dung chủ yếu nói
rõ: chúc thọ cho ai, ngày chúc thọ, địa điểm. Khá phổ biến là chỉ mời miệng.
Sau khi bạn bè nhận được thiệp mời, thông thường đều phải chuẩn bị quà
chúc thọ. Phạm vi quà chúc thọ rất rộng nhưng thường thấy nhất là bánh
chúc thọ, đào mừng thọ (nếu không đúng mùa, cũng có thể dùng bột để làm
bánh hình trái đào), mì mừng thọ, câu đối chúc thọ, bức trướng chúc thọ.
Nhưng tuyệt đối không chuẩn bị toàn bộ, chỉ chuẩn bị một hai loại là được.
Người chủ trì buổi lễ chúc thọ phải chuẩn bị trước “thọ đường”. Chính
giữa thọ đường dùng giấy hoặc lụa cắt dán chữ “thọ” lớn màu đỏ; có nơi treo
một bức thư pháp viết chữ “bách thọ”. Hai bên treo câu đối chúc thọ. Dựa
theo phong tục cũ, hoạt động chúc thọ đã bắt đầu vào đêm trước lễ mừng
thọ. Quà mừng thọ của họ hàng bạn bè đều được đem đến trước; vào tối
hôm đó, con gái và con rể tổ chức tiệc mừng thọ “Thọ tinh” và khoản đãi
khách mời. Dân gian Trung Quốc gọi là “noãn thọ”. Ngày hôm sau mới là
ngày chính thức của buổi lễ chúc thọ. Tiệc tàn, khi khách nói lời chào tạm
biệt, chủ nhân cũng phải tặng lại một ít quà kỉ niệm thích hợp.
Ở trên là hoạt động chúc thọ kiểu xưa. Thời gian tổ chức dài, nghi thức
phức tạp, lãng phí tiền của và hao phí tinh lực, hơn nữa mang đậm không khí
lễ giáo phong kiến. Ngày nay không cần thiết phải rập khuôn như trước nữa.
Thông thường chỉ cần vào ngày chúc thọ, họ hàng bạn bè tụ tập đầy đủ, tặng
quà chúc thọ để biểu thị chúc mừng, chủ nhân cũng chỉ cần thết tiệc đãi
khách, chủ khách đều cảm thấy vui vẻ là được.
2. Vật kiết tường chúc thọ
(1) Đào mừng thọ
Khi chúc thọ, mọi người vui vẻ dâng đào mừng thọ, bánh mừng thọ
hoặc dùng bột làm bánh hình trái đào mừng thọ. Khi chúc thọ, thường treo vật
kiết tường có hình đào mừng thọ. Mọi người tin rằng, đào mừng thọ sẽ giúp
người già trường thọ, tươi trẻ.
Theo truyền thuyết, đào là một loại quả tiên của Vương Mẫu nương
nương, cành cây vươn dài đến ba ngàn vạn dặm, ba ngàn năm mới ra hoa,
ba ngàn năm mới kết quả. Vì thế đào tượng trưng cho trường thọ, ý nghĩa
này cũng được mở rộng cho hạt đào và hoa đào. Đào phối hợp với linh chi,
gọi là “tiên thọ”. Đào phối hợp với con dơi, gọi là “phúc thọ”.
Một cách nói khác là Tôn Tẫn vào năm 18 tuổi rời khỏi quê nhà nước
Tề, vượt ngàn dặm đường đến núi Vân Mộng bái thầy Quỉ Cốc học binh
pháp, một chuyến đi là mười hai năm. Vào mùng 5 tháng 5 của năm thứ nhất,
Tôn Tẫn bỗng nhiên nhớ ra hôm nay là ngày sinh nhật lần thứ tám mươi của
lão mẫu, thế là trình sư phụ xin nghỉ mấy hôm để về thăm mẫu thân. Quỉ Cốc
liền hái một trái đào đưa cho Tôn Tẫn nói: “Đào này thầy không dễ gì tặng cho
người khác, con ra ngoài học tập chưa thể báo hiếu cha mẹ, nay thầy tặng
con quả đào này khi trở về nhà trao cho lệnh đường thượng thọ.” Tôn Tẫn tạ
biệt sư phụ rồi vội vàng lên đường.
Khi Tôn Tẫn về đến nhà, vội vàng lấy trái đào mà sư phụ đã hái tặng
cho mẹ nói: “Hôm nay khi con xin phép thầy trở về thăm nhà, thầy đã hái cho
con một trái đào hiếu kính dâng mẹ.” Mẹ ông nhận trái đào, cắn một miếng,
rồi tấm tắc khen: “Trái đào này còn ngọt hơn mật ong và đường phèn nữa”.
Đào còn chưa ăn hết, dung nhan của người mẹ đã thay đổi, đầu tóc bạc trắng
lúc trước nay biến thành đen, đôi mắt nhìn không rõ nay đã trở nên tinh anh,
răng đã rụng hết nay mọc lại như xưa, những nếp nhăn trên mặt nay cũng
không còn thấy nữa, đi đứng cũng không cần phải chống gậy. Cả nhà đều vui
mừng khôn xiết.
Mọi người nghe nói mẹ của Tôn Tẫn khi ăn đào liền trở nên tươi trẻ
như vậy, cũng muốn mẹ của mình trường thọ khỏe mạnh, đều học theo Tôn
Tẫn, đến ngày sinh nhật mẹ thì dâng đào chúc thọ. Nhưng đào tươi phải có
theo mùa, thế là vào những mùa không có đào tươi thì mọi người dùng bột mì
làm thành bánh hình trái đào dâng lên cha mẹ chúc thọ. Từ đó có thể thấy
rằng, đào chúc thọ trên thực tế là vật kiết tường của người già.
Liên quan đến đào chúc thọ còn có một cách nói khác, trong “Thần Dị
Kinh” của “Thái Bình Ngự Lãm” mượn danh Đông Phương Sóc viết: “Đông
Bắc có một cây, cao năm mươi trượng, lá dài tám thước, quả bốn năm thước,
tên gọi là đào. Hạt ba thước hai. Ăn vào có thể tăng tuổi thọ cho người.” Thế
là mọi người xem đào như vật kiết tường chúc thọ.
Bất kể là cách nói nào, trên thực tế đào đã trở thành vật kiết tường
chúc thọ.
(2) Động, thực vật như hạc, rùa, tùng v.v…
Hạc được xem là một loại chim có lông vũ dài, dân gian cũng gọi là
“chim nhất phẩm”, chỉ đứng sau phượng hoàng. Truyền thuyết hạc thọ là vô
hạn, cũng giống như rùa được xem là vua của trường thọ. Vì rùa sống lâu
nên cũng được xem là vật tượng trưng cho sự trường thọ. Cây tùng suốt đời
tươi xanh, là thực vật có sức sống mạnh mẽ chịu được phong ba bão táp, tuổi
thọ của cây rất dài, có thể đến ngàn năm, dân gian cũng thường xem cây
tùng là tượng trưng cho sự trường thọ.
Những vật kiết tường này thường phối hợp với nhau để làm đại diện
cho sự trường thọ. Tùng hạt kết hợp với nhau gọi là “tùng hạc trường thọ”,
“hạc thọ tùng linh”, “tùng hạc diên niên”, “tùng hạc hà linh”. Hạc và rùa được
vẽ cùng với nhau, gọi là “qui linh hạc thọ”, “qui hạc tề linh”, “qui hạc diên
niên”. Nếu vẽ các vị thần tiên ngước nhìn Thọ tinh cưỡi hạc, gọi là “quần tiên
hiến thọ”; vẽ hạc, nai và cây ngô đồng gọi là “lục hợp đồng xuân”; còn vẽ hạc
đứng bên nham thạch thì gọi là “nhất phẩm đương triều”.
Chúng ta dễ dàng thấy được ba loại động, thực vật kể trên trong hình
Thọ tinh hoặc trong hình vẽ có liên quan đến trường thọ. Chúng đại biểu cho
sự trường thọ.
Hồ lô là tượng trưng cho ý nghĩa nhiều con cháu. Thời Trung Quốc xa
xưa, con người đã có sự sùng bái đối với hồ lô. Vật và hình vẽ chúc thọ
thường vẽ là hình hồ lô lớn gieo hạt, sinh tiểu hồ lô, hàm ý “con cháu đầy
đàn”, hình vẽ hồ lô leo dây rất dài tượng trưng cho sự “vạn đại trường cửu”.
Mèo (miêu) và bướm (điệp), ý nghĩa kiết tường này đến từ hài âm. Hài
âm của miêu và mạo giống nhau, hài âm của điệp và điệt giống nhau. Cho
nên trên bức tranh một con mèo, một con bướm, phối hợp với nhau tượng
trưng cho một loại sơn thạch trường thọ, sẽ trở thành bức tranh “thọ đăng
mạo điệt”.
Rùa, từ xa xưa người Trung Quốc đã sùng bái rùa, sau đó đem rùa sát
nhập với rồng, phượng, lân là một trong “tứ linh”, có vị trí rất cao. Gần đây có
rất nhiều bài báo liên quan đến rùa ngàn tuổi. Rùa quả thật có đặc điểm
trường thọ cho nên thời xưa thường lấy rùa làm vật chúc phúc, được lưu
truyền cho đến ngày nay.
Hươu, trong rất nhiều truyền thuyết thần thoại thời cổ, được xem là tiên
thọ trường sinh, trong “Bão Phác Tử” nói: “Hươu thọ ngàn năm, khi tròn năm
trăm tuổi sẽ chuyển sang sắc trắng.” Nhung hưu là sản phẩm đại bổ trị hao
tổn khí sắc, thịt hươu cũng có công hiệu giúp trường thọ. Hơn nữa hài âm
của chữ “lộc (con hươu)” giống với hài âm của chữ “lộc (bổng lộc)”, có ý
thăng quan tiến chức, cũng là kiết tường.
Bát tiên khánh thọ, đến từ tín ngưỡng Đạo gia, lấy ý thần tiên chúc thọ
có thể khiến cho con người trường sinh bất lão.
Các vật kiết tường chúc thọ kể trên khi chúc thọ có thể sử dụng độc
lập, nhưng nhiều nhất vẫn là kết hợp với nhau, làm tăng thêm ngụ ý và mĩ
cảm của vật biểu thị ý nghĩa kiết tường.
(3) Hình ngũ thụy
Hình ngũ thụy tượng trưng cho trường thọ, người xưa thường vẽ hình
này để chúc thọ khấn phúc cầu bình an. Ngũ thụy ở đây là chỉ: cây xuân,
huyên thảo, chi lan, bàn thạch và trúc.
Cây xuân tượng trưng cho tuổi thọ cao, trong sách Trang Tử có ghi
chép, thời thượng cổ có cây xuân lớn, lấy tám ngàn tuổi làm mùa xuân, lấy
tám ngàn tuổi làm mùa thu. Sau đó mọi người đem cây xuân làm vật tượng
trưng cho trường thọ.
Huyên thảo còn gọi là cỏ vong ưu, nghe nói có thể khiến người quên
hết mọi ưu phiền.
Chi lan là loại thực vật được trồng trong nhà, ví rằng con cháu là được
giáo dưỡng nghiêm túc, không phải hạng người lang thang.
Bàn thạch là một tảng đá lớn vừa rộng vừa dày, sừng sững đứng yên.
Trong thơ của người xưa có câu: “Quân đương vi bàn tử, thiếp đương vi bồ
vi, bồ vi nhẫn như ti, bàn thạch vô chuyển di”. Người đời sau dùng bàn thạch
để biểu thị cho sự vững chắc. Bàn thạch thật sự bền cứng, trường cửu,
không thể bị phá hoại, có nhã hiệu là “thọ thạch”, cũng được xem là vật tượng
trưng cho sự trường thọ.
Trúc tượng trưng cho bình an, người xưa lấy miếng trúc làm giấy viết
thư về cho nhà, nói rằng bên ngoài tất cả đều tốt đẹp, nên được gọi là “trúc
báo bình an”, người đời sau trên giấy viết thư thường in cành trúc hoặc lá trúc
để tượng trưng cho sự “bình an”.
Khi mùa xuân đến, nếu trong nhà có treo một “bức ngũ thụy”, tượng
trưng cho một năm mới trường thọ vô ưu, con cháu đầy dàn, gia cơ vững
chắc, trăm sự bình an. Vì thế, dân gian Trung Quốc đã lấy “bức ngũ thụy”
xem là một vật kiết tường trong gia đình của mình, để gia đình mình được
phù hộ che chở. Ngày nay, mỗi khi xuân về, không ít nhà vẫn còn treo “bức
ngũ thụy”, để cầu xin kiết lợi.
(4) Vật kiết tường chữ “thọ”
Thọ vốn là một chữ Hán bình thường, nhưng do quan niệm trường thọ
của mọi người khiến nó đặc biệt hơn những chữ khác, chữ thọ còn biến hóa
đa dạng, cũng được mọi người nghệ thuật hóa, biến thành vật kiết tường
trường thọ. Theo thống kê, chữ thọ có 300 kiểu vẽ, bao gồm hình vẽ biểu ý
chữ đơn (ví dụ như nét chữ dài gọi là trường thọ, nét chữ tròn gọi là viên thọ)
và hình vẽ biểu ý nhiều chữ, như “hình bạch thọ”, “hình song bạch thọ”, “ngũ
phúc bỗng thọ” v.v… Hình vẽ của chữ thọ này được ứng dụng rộng rãi trong
đời sống thường ngày, trong vật dụng gia đình, kiến trúc, vật đựng cũng
thường vẽ chữ “thọ”. Người bước qua một tuổi mới thường mặc áo có chữ
thọ, trong phòng có sơn chữ thọ, có nhà trên bức tường ở cửa vườn còn vẽ
chữ thọ hoặc hình lưu kim bách thọ v.v… Những điều này đã phản ánh khát
vọng tốt đẹp theo đuổi khỏe mạnh trường thọ của dân tộc Trung Hoa, hy vọng
dùng chữ “thọ” kiết tường này để phù hộ che chở cho mình.
Trong quan niệm của người Trung Quốc, đứng thứ nhất trong ngũ phúc
là thọ. Người xưa cho rằng người còn thì tất cả còn, vì thế họ theo đuổi cuộc
sống trường cửu, chữ thọ được đưa vào văn chương cũng rất tự nhiên.
Trong “Từ Nguyên” chữ “thọ” có bảy mục, ngoài mục thứ nhất ra thì những
mục còn lại đều có liên quan đến thọ mệnh. Trong Hán ngữ, những từ ghép
với chữ thọ rất nhiều, như thọ nguyên, thọ an, thọ khải, thọ khang, thọ lạc
v.v… Rất nhiều sự việc cũng được gắn với chữ thọ, như cúc gọi là thọ cúc,
đào được gọi là thọ đào, sao tuổi thọ được xem là Thọ tinh, rượu chúc thọ
được gọi là thọ tửu. Còn có chữ chuyên dùng để chúc thọ như tùng bách vạn
cổ trường thanh, qui hạc thọ hữu ngàn năm, linh chi thực khả diên niên, sơn
tra, cẩu khởi, hoa cúc v.v…
(5) Những vật kiết tường trường thọ khác
Bức trướng mừng thọ: dùng vải lụa đề chữ làm quà chúc thọ, thông
thường dùng lụa lớn màu đỏ. Chữ trên bức trướng mừng thọ thông thường là
ngắn gọn, như chỉ có một chữ “thọ”, hoặc “thọ tỉ nam sơn”. Chữ thường được
dùng giấy màu vàng cắt dán vào, cũng có khi lồng vào tấm kính, gọi là “bình
phong mừng thọ”.
Câu đối mừng thọ: là câu đối dùng để chúc thọ. Thông thường viết câu
có hàm nghĩa kiết tường bình an, trường thọ bất lão v.v…
Hoa hồng: hoa hồng bốn mùa đều nở rộ, gọi là hoa bốn mùa hoặc hoa
trường xuân, vì thế hoa hồng cũng có ý nghĩa trường thọ. Hoa hồng phối hợp
với bình hoa, gọi là “bốn mùa bình an”.
3. Lễ tục mừng thọ truyền thống
Mừng thọ là một việc quan trọng. Theo tục lệ cũ, mỗi người tuyệt đối
không phải sinh ra là có thể đủ tư cách để mừng thọ, cho nên lần mừng thọ
đầu tiên phải thận trọng. Nhiều nơi, lần mừng thọ đầu tiên này đều do cha mẹ
đẻ đến làm giúp. Ở miền tây Tứ Xuyên, việc này gọi là “khai thọ”; ở Phúc
Kiến, Chiết Giang gọi là “thọ con rể”. Nghĩa là lần sinh nhật đầu tiên sau khi
con rể kết hôn (Tứ Xuyên) hoặc sinh nhật tuổi 30 của con rể (Phúc Kiến,
Chiết Giang), cha mẹ vợ đem lễ phẩm đến nhà con rể chúc thọ. Lễ phẩm
mang theo là một đôi cá vàng, 5 ký thịt heo, hai bình rượu gạo, 5 ký bột mì,
hai bộ quần áo và long nhãn, táo, quýt v.v… Những lễ phẩm này đều có ý
nghĩa khác nhau: cá tượng trưng “phú quí mãn đường”, rượu gạo tượng
trưng “gạo đầy trong kho”, mì tượng trưng “sống lâu trăm tuổi”, quần áo
tượng trưng cho con gái “có chỗ dựa, che chở, bảo vệ”, long nhãn và táo ngụ
ý “sớm sinh quí tử", quýt tượng trưng “đại kiết đại lợi”, v.v… Sau khi nhận lễ
phẩm, con rể phải đem mì trường thọ và trái cây, bánh hồi kính lại cha mẹ vợ,
kính chúc họ khỏe mạnh trường thọ. Ở Tứ Xuyên, con rể rót rượu, cắt thịt,
mua thức ăn để khoản đãi cha mẹ vợ.
Sau đây là một số lễ tục mừng thọ truyền thống.
(1) Thọ 60 (thọ hoa giáp)
Người cổ đại Trung Quốc lấy cách sắp xếp của thiên can (giáp, ất,
bính, đinh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quí) địa chi (tí, sửu, dần, mão, thin, tị,
ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) tổ hợp lại để tính ngày và năm, từ đó sắp xếp
thành giáp tí, ất sửu… Tròn 60 tuổi là một vòng, người xưa gọi là sáu mươi
giáp tí, sau đó mọi người lấy “giáp tí” hoặc “hoa giáp” để gọi tuổi 60. Vì mọi
người cho rằng, sống tròn một giáp tí, tương đương với việc hoàn tất một chu
kì hoàn chỉnh của trời đất, cho nên Hán tộc dân gian đặc biệt xem trọng lễ
chúc thọ hoa giáp, nghi lễ càng long trọng hơn so với những lễ chúc thọ bình
thường khác.
Tộc Triều Tiên ở vùng đông bắc, lễ thọ sinh nhật lần thứ 60 gọi là “tiệc
hoàn giáp”, ý nghĩa là sau khi sống 60 mươi năm là bằng với khi mình quay
trở lại lúc mới chào đời, từ đó bắc đầu một chu kì sống thứ hai của mình, cho
nên tổ chức thọ tiệc hoàn giáp đặc biệt long trọng. Sau khi tiệc mừng thọ kết
thúc, chủ nhân và khách mời cùng nhau ca hát nhảy múa, cùng chúc cho
người già mạnh khỏe trường thọ.
(2) Thọ 66
Là một phong tục mừng thọ cho người già khi tròn 66 tuổi, được lưu
hành ở các tỉnh hạ nguồn Trường Giang. Khi cha mẹ tròn 66 tuổi, con gái đã
xuất giá phải làm lễ mừng thọ cho cha mẹ đẻ của mình. Vào ngày này, người
con gái lấy thịt lợn cắt thành 66 miếng nhỏ, hình như hạt đậu nành, tục xưng
là “thịt đậu nành”, sau khi kho, múc lên trên bát cơm lớn, cùng với đôi đũa cho
vào trong một cái giỏ, phía trên phủ một tấm vải đỏ, do con gái con rể dâng
lên cha ruột (cha vợ) hoặc mẹ ruột (mẹ vợ) thưởng thức. Thịt nhiều, ngụ ý
người già đa phúc đa thọ; trong âm thanh pháo nổ cha mẹ vui mừng thưởng
thức bữa ăn. Ở vùng Giang Nam có ngạn ngữ “66, trong nhà gái ăn cơm thịt”,
chính là để chỉ tập tục này.
(3) Thọ cổ hi
Thọ cổ hi đặc biệt chỉ lễ thọ của người 70 tuổi, vì trong “Khúc Giang”
của Đỗ Phủ có câu thơ “Tửu trái tầm thường hành xứ hữu, nhân sinh thất
thập cổ lai hi”, cho nên mọi người mới đến tuổi 70 gọi là năm cổ hi, làm lễ
mừng thọ vào lần sinh nhật thứ 70 gọi là thọ cổ hi.
(4) Thọ quá đại
Từ khi bắt đầu sinh nhật lần thứ 60 thì những lễ thọ được tổ chức khi
tròn mười như 60, 70, 80 đều gọi là “thọ quá đại”, đồng thời cũng đặc biệt chỉ
lễ mừng thọ được tổ chức vào sinh nhật lần thứ 80 của người già, cho nên
cũng gọi là “khánh bát thập”, đây là phong tục mừng thọ được lưu hành rộng
rãi trên đại đa số các tỉnh thành Trung Quốc. Con người sống đến 80 tuổi, sẽ
được mọi người gọi là lão Thọ tinh, 80 tuổi làm sinh nhật gọi là đại khánh, mỗi
lần như thế con cái, họ hàng, bạn bè đều đến chúc thọ, tặng bức trướng
mừng thọ, nến mừng thọ, đào mừng thọ, mì mừng thọ, câu đối mừng thọ
v.v…, đồng thời còn thiết lập thọ đường, treo đèn kết hoa, nhận lễ bái của vãn
bối và lời chúc mừng của họ hàng bạn bè. Kết thúc buổi lễ, mọi người cùng
nhau thưởng thức yến tiệc.
(5) Quá cửu
Nhiều nơi lưu hành một tục “làm chín không làm mười”, vì dân gian cho
rằng: “mười (thập)” có nghĩa là “đầy (mãn)”, “đầy” là “tràn”, “đầy” có nghĩa là
kết thúc, cho nên rất nhiều nơi không mừng thọ khi tròn mười, mà trước năm
tròn mười một thì làm lễ mừng thọ. Nhưng rất nhiều nơi ở Trung Quốc lại lưu
hành cách nói gọi là năm gặp chín là năm xấu, cho nên vào năm sinh nhật
của người già gặp số 9, thông thường đều làm lễ mừng thọ trước đó, và làm
đại khánh, gọi là “quá cửu (qua số chín)”. Ví dụ như ở vùng Giang Tô, mỗi khi
mừng thọ thì ở chính điện treo bức trướng mừng thọ, thắp nến mừng thọ,
thiết lập vị trí bái lễ, người được mừng thọ tiếp nhận lời chúc phúc và bái lạy
của con cháu; giữa trưa thì ăn mì mừng thọ, tối thì thết tiệc họ hàng bạn bè.
Sau khi tiệc tàn, chủ nhân tặng quà cho họ hàng bạn bè, đồng thời còn tặng
một đôi bát cơm, gọi là “bát mừng thọ”, dân gian cho rằng như vậy người
được nhận mới có thể chia được ánh sáng cùng với lão Thọ tinh, có phúc
diên niên trường thọ.
Những năm gọi là “minh cửu” là 59 tuổi, 69 tuổi, 79 tuổi, trong những
năm này phải cấm kị, có nơi còn phải kị năm gọi là “âm cửu”, là năm bội số
của chín, như 63, 72, 81 v.v… Khi lễ mừng thọ rơi vào năm “minh cửu” và
“âm cửu”, không những phải làm lễ mừng thọ sớm một năm mà còn phải có
cách hóa giải khác. Cách dân gian thường dùng là mặc quần áo màu đỏ, trẻ
con mặc bên ngoài, người lớn mặt bên trong, còn phải buộc dải lưng đỏ. Hồi
thứ 87 trong “Hồng Lâu Mộng” cũng nhắc đến phong tục này. Uyên Ương nói:
“Bà vì năm tới là 81 tuổi, là âm cửu, nên bỏ công đức của chín ngày đêm,
phát tâm viết ba ngàn sáu trăm năm mươi lẻ một bộ Kinh Kim Cang.”
4. Nghi thức mừng thọ truyền thống
Trung Quốc là một nước nông nghiệp và có mật độ dân số đông, lương
thực luôn là vấn đề trọng tâm mà Trung Quốc phải chú ý đến, trong lão bách
tính cũng có một câu ngạn ngữ “Dân xem gạo như trời”, vì thế văn hóa ẩm
thực Trung Quốc vô cùng phát triển. Văn hóa thọ yến chính là sản vật được
kết hợp từ văn hóa trường thọ và văn hóa ẩm thực. Yến thọ không những là
một bộ phận quan trọng để tổ thành lễ mừng thọ, những món ăn trong yến thọ
cũng đều mang đậm sắc thái cầu thọ.
(1) Thọ tửu
Khi chúc thọ thức uống phổ biến nhất là rượu, trong “Kinh Thi” tất cả
các nơi đề cập đến chúc thọ, hầu như toàn bộ đều không tách khỏi rượu. Vì
hài âm của “rượu (tửu)” giống hài âm của “lâu dài (cửu)”, “chúc rượu” cũng có
nghĩa là chúc “lâu dài”, cho nên trong tục lễ sau này dùng “nâng chén”, “xưng
thương” để thay cho cách xưng hô chúc thọ. “Thương” là một tên gọi vật
đựng rượu thời cổ, “xưng thương” chính là chúc rượu.
Rượu mừng thọ ở các nơi có nét đặc trưng riêng, thời cổ thường dùng
rượu tiêu hoặc rượu tiêu bá, rượu thù du; trong câu thơ của Hàng Đình Kiên
người Tống ghi: “Dục tướng hà vật hiến thọ tửu, thiên thường thiên thu quế
nhất chi”, có thể thấy rằng người xưa cũng có dùng rượu hoa quế để chúc
thọ, vì cho rằng cây quế giữa tháng là cây tiên bất tử, dùng rượu hoa quế
chúc thọ có ý nghĩa chúc phúc người trường sinh bất lão. Như ngày nay vùng
trung nguyên đa phần dùng rượu trúc diệp thanh, cổ tĩnh công, trạng nguyên
hồng v.v…, vùng đông bắc lấy rượu nhân sâm làm thượng phẩm chúc tửu.
Tất cả rượu trong yến thọ không phân chủng loại, đều gọi là thọ tửu, khi uống
trước tiên phải kính dâng lên Thọ tinh, sau đó khách mới bắt đầu uống.
(2) Mì thọ
Bất cứ ở đâu, là người nghèo giàu hay sang hèn, là nam phụ lão ấu,
chỉ cần tổ chức sinh nhật hoặc làm lễ mừng thọ, thì luôn ăn một loại mì, mì
này gọi là “mì trường thọ”; người tặng quà thọ cũng thường tặng mì. Nghe nói
tục lệ này bắt nguồn từ câu thơ của Đông Phương Sóc thời Hán: Bành Tổ
thời xưa vì sao có thể sống đến 800 tuổi? Chính là vì khuôn mặt dài của ông.
Trong thực phẩm Trung Quốc, chỉ có món mì là dài; sinh nhật ăn mì, biểu thị ý
nghĩa diên niên trường thọ. Mì mừng thọ mỗi sợi phải dài khoảng 1 mét, mỗi
phần một trăm sợi trở lên, sắp trên đĩa thành hình tháp, phủ lên trên hoa giấy
xanh đỏ, chuẩn bị hai phần kính dâng Thọ tinh. Khi chúc thọ phải đem mì thọ
đặt trên thọ án. Trong thọ yến phải lấy món mì thọ làm chủ.
4. Hình thức mừng thọ hiện đại
Hình thức mừng thọ ngày nay có thể chia làm ba loại:
(1) Kiểu truyền thống
Lễ tiết truyền thống của lễ chúc thọ vẫn còn được truyền thừa khá
nhiều, nhưng cũng lược bớt những lễ tục phức tạp của kiểu cũ. Ngày xưa,
mừng thọ gọi là “noãn thọ”. Trong ngày này, thứ nhất con gái và con rể của
Thọ tinh mang lễ vật trở về nhà gái, cùng Thọ tinh và người nhà dùng tiệc tối.
Thứ hai là trong nhà bố trí sẵn thọ đường, sắp xếp bày biện quà mừng thọ
của con cái, họ hàng và bạn bè. Ngày mừng thọ vào hôm sau trong nhà thết
tiệc khoản đãi họ hàng bạn bè, thông thường phải tiến hành lễ khấu bái của
thời xưa truyền lại. Hình thức này phần nhiều lưu hành ở vùng nông thôn,
những nơi xa xôi hẻo lánh. Ở thành thị phần nhiều tổ chức tiệc mừng thọ ở
nhà hàng, quán ăn. Ở nơi bố trí thọ đường, nghi thức mừng thọ và rượu
mừng cùng đồng thời tiến hành. Trình tự nghi thức có thể nhiều hay ít, thông
thường là kết hợp với xưa và nay, phương Đông và phương Tây.
(2) Kiểu hội nghị
Hình thức này chủ yếu tổ chức mừng thọ cho những người già 80 tuổi
trở lên, có những cống hiến cho xã hội, đức cao vọng trọng, hoặc là những
người đã về hưu. Thông thường do cán bộ lão thành phụ trách, lễ chúc thọ
được tiến hành với hình thức hội nghị, trong phòng hội nghị treo những bức
hoành, câu đối chúc thọ, trang trí cầu kì thọ đường, treo bình phong. Nghi
thức chủ yếu do đơn vị lãnh đạo phụ trách, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp
và những thành tích của Thọ tinh, chúc người già trường thọ. Sau đó cử đại
biểu có liên quan đọc lời chúc thọ. Có đơn vị còn tặng cho Thọ tinh lễ phẩm.
(3) Kiểu song quan
Đây là hình thức chúc thọ được giới văn hóa học thuật khởi xướng
trong những năm gần đây kết hợp với những việc khác. Kiểu này lại phân làm
hai loại, thứ nhất là kết hợp lễ chúc thọ với những kỉ niệm thời trẻ khi làm
việc, như “mừng thọ 90 tuổi và tròn 70 năm công tác trong ngành giáo dục”
v.v… Hoạt động này vừa chúc thọ, vừa để kỉ niệm sự nghiệp của người đó,
nhắc lại những thành tích của Thọ tinh để khích lệ, cổ vũ lớp người đi sau.
Hoạt động này thông thường là do đơn vị hoặc đoàn thể có liên quan tổ chức,
lấy phương thức từ lễ kỉ niệm cho đến thảo luận học thuật, ngoài bạn bè thân
hữu ra, còn có đồng nghiệp, số người khá đông. Hội nghị thông thường do
lãnh đạo đơn vị hoặc đoàn thể chủ trì, đơn vị hoặc khách mời có liên quan
làm công việc báo cáo chính, những khách mời khác cũng phát biểu cảm
tưởng, đại biểu chúc thọ. Trịnh trọng giới thiệu tường tận những thành tích sự
nghiệp của người được mừng thọ. Trường hợp này, những nhân vật chủ yếu
và khách mời quan trọng của hội nghị sẽ được giới thiệu với mọi người.
5. Trình tự lễ tục mừng thọ hiện đại
(1) Kế hoạch lễ mừng thọ
Phần lớn lễ mừng thọ đều do con cái hoặc cấp dưới tổ chức. Những
người có thành tựu sự nghiệp là do đơn vị, đoàn thể hoặc cấp dưới, học sinh,
học trò v.v… tổ chức. Người chủ trì lễ thọ phải là người hiểu được truyền
thống tập tục mừng thọ.
Đầu tiên, sắp xếp thời gian lễ thọ. Trong dân gian, thông thường 50 tuổi
mới tổ chức lễ thọ. Lễ thọ thường được tổ chức vào lần sinh nhật tròn mười
và phải long trọng hơn nhiều đối với những lúc bình thường. Thời xưa lễ thọ
phân ra làm thượng, trung, hạ, 100 tuổi gọi là thượng thọ, 80 tuổi gọi là trung
thọ, 60 tuổi gọi là hạ thọ. Còn có một loại khác, 120 tuổi gọi là thượng thọ,
100 tuổi là trung thọ, 80 tuổi là hạ thọ. Thời xưa làm lễ thọ còn có điều kiện,
thứ nhất là có cháu, thứ hai là cha mẹ đã qua đời. Lễ tục này ngày nay ở một
số vùng nông thôn vẫn còn lưu truyền.
Thứ hai, rất nhiều nơi có tập tục “nam làm trên, nữ làm tròn”. Nam làm
“trên” chính là “làm chín không làm mười”, ví dụ lễ thọ 50 tuổi thì làm lễ mừng
thọ vào lần sinh nhật thứ 49, lễ thọ 60 tuổi thì làm lễ mừng thọ vào lần sinh
nhật thứ 59. Nữ thì ngược lại, phải làm “tròn”, chỉ cần tròn 50 tuổi, 60 tuổi thì
mới làm sinh nhật. Tập tục này cũng gọi là “nam không làm mười, nữ không
làm chín”. Nó bắt nguồn từ quan niệm âm dương của Trung Quốc. Trong
quan niệm âm dương, người xưa xem số lẻ là dương, số chẵn là âm. Nam là
dương, số dương lớn nhất là chín, mỗi khi gặp năm có số chín là tổ chức lễ
mừng thọ. Nữ là âm, cho nên lễ mừng thọ của nữ giới nằm vào năm tròn
mười số chẵn. Cách sắp xếp cũng không giống nhau, có nơi xem số dương
lớn nhất là số tám, lễ mừng thọ cho nữ giới vào năm gặp số tám. Vùng
Quảng Châu kị “nữ làm tròn số, nam làm mùng một”. Chính là nói, nữ không
thể làm lễ mừng thọ ở tuổi 50, 60, 70, nam không thể làm lễ mừng thọ ở tuổi
51, 61, 71. Nếu vi phạm, sẽ bị cho rằng không đại kiết đại lợi.
Thứ ba, ngày cụ thể mừng thọ có thể thay đổi, chính là nói không nhất
định phải ngay ngày sinh nhật. Nhưng chẳng qua chỉ là theo tập tục truyền
thống, nếu muốn thay đổi ngày, chỉ có thể làm trước, chứ không dời ngày lại.
Cho nên muốn thay đổi ngày làm lễ mừng thọ, thì phải dựa vào những
nguyên nhân sau: thứ nhất, nếu Thọ tinh không được khỏe mạnh, cần phải
suy nghĩ đến vấn đề sức khỏe của Thọ tinh. Thứ hai, nếu có thể kết hợp hoạt
động chúc thọ cùng với sự nghiệp, công việc của Thọ tinh, vừa là đại thọ tròn
bao nhiêu năm tuổi, vừa là sự nghiệp tròn bao nhiêu năm, như vậy càng có ý
nghĩa, Thọ tinh cũng sẽ càng vui vẻ.
Thứ tư, số tuổi càng cao, lễ thọ càng long trọng. Đây là vì tuổi càng
cao, càng được người tôn kính; tuổi càng cao, con cháu càng nhiều; tuổi càng
cao, ngày sống càng còn ít.
Chuẩn bị tổ chức lễ thọ chủ yếu gồm ba công việc chính: đó là phát
thiệp mời, bố trí thọ đường, chuẩn bị thọ tiệc.
(2) Phát thiệp mời
Ngày nay khi làm lễ mừng thọ, thông thường việc đầu tiên là người nhà
của Thọ tinh phát thiệp mời đỏ, thông báo ngày mừng thọ, mời họ hàng bạn
bè đến chúc mừng. Ngày nay trên thị trường có in bán rất nhiều thiếp mời với
mẫu mã phong phú đa dạng đẹp mắt, chỉ cần điền thông tin vào ô trống là
được.
Thiệp mời trễ nhất là trước nửa tháng. Cũng có khi không gửi thiệp
mời, dùng thư hay mời bằng miệng cũng được. Họ hàng thân thích qua lại
thường xuyên thông thường không gửi thiệp mời.
Ở nông thôn thường không gửi thiệp mời, chỉ cần mời miệng, đến ngày
mừng thọ người chúc thọ mang quà tới là được.
Lễ thọ phổ biến là chỉ mời con cháu và họ hàng bạn bè thân của Thọ
tinh, chứ không mời khách rộng rãi.
(3) Bố trí thọ đường
Thọ đường là nơi chúc thọ người già. Trong nhà tổ chức thọ tiệc, thông
thường thọ đường được thiết đặt ở phòng khách. Nếu thọ tiệc được đãi ở
quán xá, nhà hàng, thì thọ đường sẽ được thiết đặt ở đó.
Chữ “thọ” được trang trí nổi bật nhất trong thọ đường. Trăm ngàn năm
trước, tổ tiên người Trung Quốc đã có cách tổ chức thọ đường, đặc biệt họ
đã phát huy đầy đủ nghệ thuật thư pháp truyền thống, lấy chữ thọ phồn thể
biến hóa thành nhiều cách viết, rất nhiều cách viết không còn là thư pháp nữa
mà trở thành hình vẽ nghệ thuật, thậm chí là một kí hiệu kiết tường.
Thành thị ngày nay thường treo bức hoành ngang ở thọ đường, trên
bức tường chính diện thọ đường treo một chữ thọ hoặc hình bách thọ rất lớn.
Ở nông thôn còn dán chữ thọ hơi nhỏ ở cửa lớn, cửa hông, trên những vật
dụng và thực phẩm có liên quan khác dán chữ thọ nhỏ hơn, ở cửa sổ cũng
dán chữ thọ biến thể.
Ở nông thôn những nhà giàu có, ngoài treo chữ “thọ” còn treo những
hình thọ như bát tiên khánh thọ, ngũ phúc bổng thọ, bàn đào hiến thọ, lộc hạc
đồng xuân. Nam và nữ có sự khác biệt, nếu chúc thọ nam giới thì treo hình
nam cực tiên ông, song long hiến thọ; nếu chúc thọ nữ giới thì treo hình dao
trì vương mẫu, ma cô hiến thọ. Những hình chúc thọ cỡ lớn treo ở trên tường
này thông thường đều được bồi tranh và gắn trục treo cầu kì, sau khi bồi
tranh và gắn trục treo gọi là bức trướng mừng thọ. Có nơi ở chính giữa thọ
đường còn treo dải màu.
Dưới bức tường chính diện của thọ đường, thông thường còn bày lễ án
(là một chiếc bàn vuông), những vật bày lên trên phải dựa vào tình hình khác
nhau, bày đào tươi hoặc bột chế tác thành hình trái đào chúc thọ, bánh mừng
thọ, mì mừng thọ, hoa tươi mừng thọ và các loại trái cây. Ở nông thôn rất
xem trọng việc thắp nến chúc thọ cỡ lớn màu đỏ. Nến chúc thọ thông thường
là màu đỏ, dài khoảng một thước, nặng khoảng một cân, trên mặt nến mạ
vàng những chữ kiết tường như chữ “thọ” hoặc “phúc như đông hải”, “thọ tỉ
nam sơn” v.v… Khi chúc thọ thì gắn nến lên bàn hương án ở thọ đường, khi
bắt đầu lễ thọ thì thắp nến, vừa có ý nghĩa chúc mừng, vừa tăng thêm bầu
không khí vui vẻ.
Hai bên thọ đường và bức trướng chúc thọ, phải treo hoặc dán câu đối
chuyên dùng cho việc chúc thọ.
Câu đối chúc thọ có thể do Thọ tinh tự biên soạn, cũng có thể do người
nhà Thọ tinh chuẩn bị, nhưng đa số là họ hàng bạn bè thân tặng.
Ở nhà hàng, quán ăn, bên dưới thọ đường là bàn tiệc. Ở nông thôn, hai
bên thọ đường, chủ yếu là sắp xếp ghế ngồi cho khách mời, có nơi ở một bên
hoặc một góc đặt một chiếc bàn khá lớn, chuyên dùng để bài trí những món
quà mừng thọ của khách mang tặng.
Cách bài trí thọ đường đơn giản là tốt nhất, treo một chữ “thọ” lớn, dán
mấy câu đối, trang trí một vật kiết tường chúc thọ là được.
(4) Trình tự lễ mừng thọ
Trình tự lễ mừng thọ ở thành thị và nông thôn có chút khác biệt, chúng
tôi lần lượt giới thiệu như sau.
Ở thành thị ngày nay nếu tổ chức tiệc mừng thọ ở nhà hàng hoặc quán
ăn, sẽ mời người chủ trì chương trình chuyên nghiệp, đội nhạc diễn tấu, ít
nhất cũng phải mời được một người có năng lực chủ trì nghi thức, và điều
khiển chương trình. Ở cửa ra vào sẽ có một hay hai người con cháu của Thọ
tinh chào đón khách mời, cũng có nơi người nhà của Thọ tinh sẽ đứng trước
cửa để nhận lễ mừng thọ. Trình tự nghi thức hoàn chỉnh là:
Thứ nhất, tuyên bố bắt đầu nghi thức chúc thọ người nào, bao nhiêu
tuổi;
Thứ hai, mời Thọ tinh an vị. Thông thường là do người nhỏ tuổi nhất
hoặc là một người trong hàng lớp con cháu mà được Thọ tinh yêu thương
nhất đến bên cạnh đỡ Thọ tinh ngồi vào chiếc ghế trước lễ án, chính giữa thọ
đường;
Thứ ba, tấu nhạc, đồng ca bài “Chúc sinh nhật vui vẻ”;
Thứ tư, các con cháu của Thọ tinh dâng hoa, hành lễ Thọ tinh;
Thứ năm, nếu trong hàng khách mời có nhân vật khá quan trọng mà
mọi người chưa biết, thì người điều khiển chương trình sẽ giới thiệu vị khách
đó với mọi người. Nếu khách đến chúc thọ mang tặng quá nhiều thư chúc
mừng, câu đối mừng thọ, thơ mừng thọ v.v…, người điều khiển chương trình
có thể chọn ra một vài tấm tiêu biểu để đọc cho mọi người nghe.
Thứ sáu, người chủ trì giới thiệu sơ lược về cuộc đời và những đóng
góp của Thọ tinh đối với xã hội, gia đình biểu thị lòng cảm tạ đối với khách
mời.
Thứ bảy, chúc Thọ tinh những lời kiết tường, trình tự như sau: đầu tiên
là con cháu của Thọ tinh, kế đến là họ hàng thân thuộc, cuối cùng là bạn bè,
đồng nghiệp v.v… Những lời chúc thọ thường không dài, nhưng vì thận trọng
nên được viết ra giấy trước. Có nơi khi chúc thọ, vãn bối phải cúi người hành
lễ ba cái, những có thể linh hoạt, còn chỉ một lễ.
Thứ tám, đại diện của nhà Thọ tinh cảm tạ lời chúc. Thời xưa trong
trường hợp này, bản thân Thọ tinh sẽ không chính thức đáp tạ, cách làm này
gọi là “tránh thọ”, biểu thị mình không muốn mọi người vất vả chúc thọ cho
mình. Ngày nay cũng có Thọ tinh đáp lễ, nói lên những cảm nhận của mình
về cuộc sống, và lòng cảm ơn đến tất cả mọi người.
Thứ chín, ca sĩ múa hát hoặc tiến cử người biểu diễn văn nghệ trong
hàng khách mời cho đến khi tiệc tàn. Phương thức này vừa truyền thống vừa
hiện đại, khá đơn giản, tiện lợi, văn minh.
Có lễ thọ còn sắp xếp những nghi thức khác, như Thọ tinh thắp nến,
thổi nến v.v…
Ở thành thị nghi thức chúc thọ khá đơn giản, do người chủ trì kể
chuyện hoặc do người phụ trách đơn vị dẫn chương trình.
Ở nông thôn vẫn còn lưu hành nghi thức chúc thọ truyền thống. Nghi
thức chúc thọ thường được tổ chức ở phòng khách của gia đình, người điều
khiển chương trình là do anh em hoặc con trưởng của Thọ tinh, nhưng cũng
có thể mời người có năng lực chủ trì trong hàng lớp con cháu đảm nhiệm. Có
thôn còn do tổ chức hội người cao tuổi tổ chức đa số là lời chúc thọ ca ngợi
những thành tích và cống hiến của Thọ tinh trong những năm qua. Trong lễ
mừng thọ phải thắp nến thọ, sắp xếp đệm bái, đầu tiên vẫn là con cháu cúng
tế thần linh và tổ tiên, sau đó dùng nghi thức “bái thọ” là Thọ tinh tiếp nhận
khấu bái của lớp con cháu. Khi bái thọ, Thọ tinh ngồi phía trên, họ hàng bạn
bè ngồi ở hai bên. Ví dụ như khách mời bái thọ Thọ tinh, con cháu của Thọ
tinh sẽ bái lạy để trả lễ. Có nhà tổ chức lễ mừng thọ, còn diễn kịch hoặc chiếu
phim, ca hát để biểu thị sự chúc mừng. Ở Phúc Châu, Chiết Giang khi diễn
kịch, phải diễn bát tiên, màn giáo đầu do hề ra chào mừng, chúc mừng lễ thọ,
chủ nhà phải lì xì bao đỏ, thuốc thơm, bánh cho nghệ nhân.
(5) Tiệc mừng thọ
Tiệc mừng thọ là yếu tố quan trọng của lễ chúc thọ truyền thống. Thông
thường, sau khi nghi thức chúc thọ kết thúc là mời dùng tiệc mừng thọ.
Tiệc mừng thọ cũng không có khác biệt gì nhiều so với những lễ tiệc
thông thường, nhưng có những nội dung không thể thiếu.
Đầu tiên là chỗ ngồi trong buổi tiệc. Ngày nay ở thành thị, việc sắp xếp
chỗ ngồi không cầu kì mà lại tinh tế, thọ tinh là nhân vật chính, đương nhiên
sẽ ngồi ở trên, kế đến là họ hàng gần và khách quí, những chỗ còn lại dành
cho người khác. Ở nông thôn vẫn cầu kì việc sắp xếp chỗ ngồi, thông thường
là sắp xếp chỗ ngồi theo trật tự lớn nhỏ.
Thứ hai, trong tiệc mừng thọ phải ăn mì trường thọ để biểu thị ước
muốn sống lâu. Ăn mì trường thọ là truyền thống chúc thọ của Trung Quốc đã
có hơn trăm ngàn năm nay. Món mì của Trung Quốc là mì dài nhất, tục xưng
là mì trường thọ. Có nơi mì mừng thọ được ăn vào buổi trưa buổi tối, hoặc có
nơi chỉ ăn vào buổi trưa.
Thứ ba, đầu bếp phải biết chế biến và trang trí những món ăn có ngụ ý
kiết tường, như “tùng hạc diên niên”. Có nơi còn rất cầu kì về phương diện số
món ăn, loại món ăn, tên món ăn v.v… Đặc điểm món ăn dùng để chúc thọ
như sau:
Số món ăn phải trùng với “số 9”, tổng số món ăn phải là 9 hoặc là bội
số của 9. Vì số 9 trong dãy số là số dương lớn nhất, hơn nữa hài âm của số 9
trùng với hài âm của chữ cửu (lâu dài), có ngụ ý “thiên trường địa cửu”, là con
số kiết tường, mượn nó để so sánh với người già có tuổi thọ cao, chúc
nguyện người già sống lâu trăm tuổi. Không ít tên món ăn của lễ chúc thọ đều
có ẩn ý là ba, sáu, chín, như ba đầu thú tươi (tiên), vịt quay đút lò (sáu), gà xé
hẹ vàng (chín), đại hội la hán (18), bánh thọ trùng dương (mùng 9 tháng 9)
v.v… “3” và “6” đều có liên quan đến “9”, 3 + 6 = 9, 3 X 6 = 18, còn 18 lại là
bội số của 9. Tên món ăn đa phần đều dùng những câu chuyện dân gian
hoặc truyền thuyết thần thoại đặt tên, để tăng thêm bầu không khí vui vẻ, như
song long bão trụ, dao trì phó hội, ma cô hiến thọ, bát tiên quá hải, lộc hạc
đồng xuân, Thọ tinh la hán, phúc như đông hải, thọ tỉ nam sơn v.v… Trên tiệc
mừng thọ ngày nay vẫn thường thấy đào mừng thọ, loại đào mừng thọ này đa
số đều có nhân củ cải đường, vô cùng thơm ngon.
Thứ tư, trong tiệc mừng thọ, đầu tiên phải kính rượu mừng thọ và chúc
sức khỏe Thọ tinh, sau đó khách mời cùng uống. Người chủ trì hoặc người
điều khiển chương trình còn phải sắp xếp trình tự, luân phiên chúc rượu Thọ
tinh, và nói vài câu chúc mừng mà Thọ tinh thích nghe, khiến Thọ tinh vui vẻ.
Rượu dùng trong tiệc mừng thọ gọi là “thọ tửu”. “Rượu” có hài âm giống với
chữ “cửu”, có nghĩa là rượu chúc người trường thọ. Trong thơ Hoàng Đình
Kiên thời Tống có viết: “Dục tướng hà vật hiến thọ tửu, thiên thượng thiên thu
quế nhất chi.” Vì vậy rượu hoa quế được dùng để làm thọ tửu. Ở trung
nguyên và phương Bắc rất nhiều nơi lấy trúc diệp thanh, cổ tĩnh cung tửu,
trạng nguyên hồng làm thọ tửu. Còn vùng đông bắc, rượu nhân sâm là
thượng phẩm để làm rượu chúc thọ.
Thứ năm, căn cứ vào tình trạng sức khỏe và sở thích ăn uống của Thọ
tinh để chuẩn bị cho Thọ tinh những món ăn hợp khẩu vị.
Thứ sáu, khi tiệc tàn, chủ nhà phải tặng quà đáp lễ cho những khách
mời tham dự tiệc mừng thọ. Có nơi tặng bao lì xì có chữ số kiết tường, có nơi
tặng kẹo và thuốc, văn nhân còn tặng sách mình viết, có nơi còn tặng li trà có
khắc chữ kỉ niệm.
Ngày nay, bất luận là khi chúc thọ hay mở tiệc mừng thọ, rất nhiều gia
chủ tổ chức tiệc mừng thọ đều mời thợ chụp hình hoặc quay phim để làm kỉ
niệm. Tiệc thọ ngày nay chỉ nên làm vài bàn, không nên phô trương lãng phí.
VI. LỄ NGHI CỦA NGƯỜI CHÚC THỌ
Tham gia hoạt động chúc thọ, không giống như những thăm hỏi hoặc
yến tiệc thông thường. Đây là hoạt động mang tính nghi lễ trong xã hội, nên
khi tham gia phải làm tốt công việc chuẩn bị.
1. Tặng lễ vật chúc thọ
Tham gia hoạt động chúc thọ của người khác, chúc thọ cho trưởng bối,
thầy giáo, bạn bè, đều phải tặng lễ vật, đây là lễ tục đã có trăm ngàn năm
trước, ngày nay cũng không ngoại lệ.
Lễ vật chúc thọ của thành thị ngày nay chủ yếu có ba loại.
Thứ nhất tặng bao lì xì (hiện kim).
Thứ hai là tặng vật phẩm. Mọi người lựa chọn vật phẩm chúc thọ cầu
kỳ vừa làm nổi bật chủ đề chúc thọ, vừa chú ý đến văn hóa, như có người đặt
mua thư họa hoặc những sản phẩm nghệ thuật khác tặng thọ tinh. Gần mấy
năm nay, thành phố Thượng Hải nổi lên phong trào đeo ngọc tân phong, một
số người tặng những vật phụ kiện nhỏ do ngọc chế tác thành, hoặc đa phần
lấy hình ảnh có vật kiết tường làm chính như Thọ tinh, con dơi, rồng, hổ hoặc
chữ phước lộc thọ, hình ảnh cầm tinh 12 con giáp, ngoài ra còn có hình
tượng Phật như Quan Âm, Như Lai, Phật Di Lặc, dùng đeo để nguyện cầu
bình an kiết tường. Rất nhiều người dựa vào nhu cầu và sở thích của Thọ
tinh mà tặng lễ vật. Gần hai năm nay, con cái hay tặng cho Thọ tinh thẻ khám
sức khỏe. Đối với người già thích câu cá thì tặng một bộ dụng cụ câu cá.
Ngoài lễ vật chúc mừng, có người còn tặng cho Thọ tinh những vật dụng cần
thiết trong đời sống. Khi tặng những lễ vật chúc thọ, nên dùng giấy, lụa màu
đỏ gói lại, bên ngoài còn viết lời chúc mừng, như “thọ tỉ nam sơn”, “nhân thọ
niên phong”, “sống lâu trăm tuổi”, “phúc cao thọ vĩnh”. Họ hàng bạn bè cũng
tặng y phục. Khi tặng quần áo, theo tập tục truyền thống của rất nhiều nơi là
phải tặng quần áo lụa, ngụ ý là trường thọ diên niên như tơ tằm.
Thứ ba là tặng lễ phẩm chúc mừng. Có người tặng cho Thọ tinh lẵng
hoa, để tăng thêm không khí của buổi lễ chúc thọ. Hoa tươi là hoa thọ hoặc
vạn niên thanh, hoa thọ tượng trưng cho “khỏe mạnh trường thọ”, vạn niên
thanh tượng trưng cho “vĩnh bảo thanh xuân”. Số cây hoa thường là “9”, vì 9
là “số dương”, tượng trưng cho thiên trường địa cửu. Có người gửi “thiệp
chúc thọ”, gửi gắm tình cảm của mình trong đó. Có học sinh tận dụng ngày
nghỉ, tự mình thiết kế thiệp chúc mừng. Học sinh có năng khiếu vẽ còn có thể
phối hợp với hình vẽ, nếu không có thể mô phỏng cắt dán các tác phẩm mĩ
thuật và phối hợp với những lời chúc mừng. Những thiệp chúc mừng chứa
đầy tình cảm này đều khiến cho Thọ tinh rất thích thú, vui vẻ, hạnh phúc.
Họ hàng bạn bè ở những nơi xa, không đến tham dự được thì có thể
gọi điện thoại chúc phúc, hoặc phát điện báo, viết lời chúc mừng, nhờ bưu
điện gửi tặng hoa tươi, biểu thị chúc mừng. Ngày nay internet ngày càng phổ
biến, có thể dùng “thiệp chúc thọ điện tử” cho người ở nơi xa. Những thiệp
điện tử độc đáo sáng tạo càng có thể đem đến cho Thọ tinh niềm vui bất ngờ.
Ở nông thôn ngày nay, người tặng hiện kim trong lễ mừng thọ khá
nhiều. Nhưng bên cạnh đó vẫn tặng lễ phẩm truyền thống như đào mừng thọ,
mì mừng thọ, nến mừng thọ, bánh mừng thọ v.v…
2. Lời nói
Ngày mừng thọ được xem là ngày đại kiết đại lợi, vì thế lời nói phải có
tính chúc mừng, ca ngợi. Không chỉ đối với Thọ tinh, mà đối với họ hàng và
khách mời cũng như vậy. Tất cả những đề tài có thể dẫn đến tranh luận đều
không nên bàn tới giữa hoạt động chúc thọ hoặc khi đang yến tiệc. Cho dù lúc
trước đã từng phát sinh chuyện không vui với người đó, khi gặp mặt cũng nên
khoan dung độ lượng, gác chuyện cũ sang một bên. Trong yến tiệc nên tiết
chế, chừng mực, không nên uống nhiều rượu để tránh thất ý hoặc thiếu sót.
Nếu có dắt theo con trẻ, cũng không nên để chúng khóc la, làm ồn, tốt nhất là
tránh mang theo trẻ con đến dự yến tiệc mừng thọ.
3. Trang phục
Trang phục tham gia lễ chúc thọ nên là màu tươi sáng vui vẻ, hàm
chứa ý nghĩa chúc mừng như màu đỏ, vàng v.v… không nên mặc quần áo
màu đen, màu trắng, hoặc phối hợp màu đen trắng.
4. Hành lễ
Tổ chức nghi lễ chúc thọ, lúc trước thông thường cùng bậc thì khoanh
tay chào; là con cháu thì cúi chào; có nơi thì quì bái lễ. Ngày nay, cùng bậc
đổi lại chỉ là bắt tay; hoặc con cháu cũng chỉ cúi chào. Nếu Thọ tinh tư tưởng
thủ cựu, mong muốn hành lễ với nghi thức truyền thống nhưng mình lại cảm
thấy không vui thì có thể tìm cớ lảng tránh, không nên từ chối ngay sẽ dẫn
đến việc không vui.
5. Hồi lễ
Khi hoạt động chúc thọ kết thúc, chủ nhà phải tặng một số quà lễ thích
đáng cho khách mời, tục gọi là “kính phúc”, người chúc thọ không nên từ chối
nhận lấy.
VII. DỤNG PHẨM CHÚC THỌ
1. Bức trướng chúc thọ
Bức trướng chúc thọ là một lễ vật chúc thọ của Trung Quốc được lưu
hành vô cùng rộng rãi, sau này đã trở thành vật trang trí cần thiết khi bố trí thọ
đường. Những lời chúc mừng kiết tường được viết lên một tấm vải lớn, biểu
thị lời chúc trường thọ. Màu sắc của tấm vải thường là màu đỏ hoặc màu
vàng, cỡ như bức họa lớn treo trong phòng khách.
2. Bình phong chúc thọ
Là bức thư họa treo dọc dùng làm lễ vật chúc thọ, phía trên đề những
lời chúc mừng tốt đẹp hoặc vẽ hình Bát tiên, Thọ tinh. Bình phong chúc thọ có
hai loại, một loại là hai bức, sáu bức hoặc tám bức, liên kết thành một nhóm,
dùng để treo trên tường; loại khác là bình phong để bàn hoặc đồ trang trí bàn
(dưới có đế hoặc giá, trên đặt bức đồ họa lồng trong khung kính, phiến đá
cẩm thạch hoặc đồ chạm khắc) được điêu khắc hoặc khảm nạm, dùng để bài
trí trên bàn dài.
3. Hình bách thọ
Hình bách thọ là hình thức lễ phẩm chuyên dùng để chúc thọ, vừa có
thể dùng làm bức trướng, cũng có thể dùng làm bình phong. Hình thức cơ
bản là: trong nét chữ Hán của chữ “thọ” lớn, vẽ đầy một trăm chữ “thọ” nhỏ
với thể chữ khác nhau, thời Minh đã có tập tục này. Trong “Dũng Tràng Tiểu
Phẩm” của Chu Quốc Trinh thời Minh, có một vị ngự sử họ Trương, “Trong
nhà có giấu một bức chữ thọ lớn là vật lưu truyền của thủy tổ. Chữ cao bốn
thước bảy tấc, màu đen kiểu khải thư; bên trong nét chữ Hán đều có một trăm
chữ thọ nhỏ với cách viết khác nhau”. Lúc đầu viết chữ thọ đều dùng mực
hoặc chu thư, thời Thanh đã có người dùng nhũ để viết. Đến thời kì cận đại,
có người dùng tiền xu để ghép thành chữ thọ, đây là một thói xấu khoe
khoang sự giàu có, dần dần đã làm mất đi ý nghĩa vốn có của việc chúc thọ.
4. Nến chúc thọ
Nến mừng thọ là một loại nến chuyên dùng trong lễ thọ, thường là màu
đỏ, dài khoảng 30cm, nặng khoảng 0,5 ký, trên mặt nến cho in chữ “thọ” màu
vàng hoặc những lời chúc kiết tường như “phúc như đông hải”, “thọ tỉ nam
sơn”. Khi tổ chức lễ thọ thì cắm trên giá nến đặt ở bàn hương án ở thọ
đường, số lượng nến chúc thọ tùy vào mỗi nơi mỗi khác nhau; khi lễ thọ bắt
đầu thì cắm nến mừng thọ, vừa có ý nghĩa chúc mừng, vừa tăng thêm bầu
không khí vui vẻ.
5. Hình Phước Lộc Thọ
“Phước Lộc Thọ” là vật mang đậm khái niệm “ngũ phúc” truyền thống,
là đặc trưng cho sự hướng tới cơ bản và chủ yếu của xã hội thế tục. Vì thế,
lấy biểu hiện “Phước Lộc Thọ” làm đề tài cho bức tranh, đã trở thành vật
phẩm thường thấy nhất trong lễ chúc thọ. Rất nhiều khách đến tham dự cũng
tặng bức tranh này. Bức tranh thường dùng là một hình tượng lão Thọ tinh
hòa nhã dễ gần, chống gậy dắt hươu, trên đầu gậy có treo một bình hồ lô và
một quả đào tiên, cũng có thể tay cầm quả đào tiên, bên cạnh có mấy con dơi
nhảy múa. Dơi, hươu (hoặc hồ lô), Thọ tinh và đào tiên, lần lượt ngụ ý phước,
lộc, thọ. Lại có hình phước lộc thọ ở phía sau Thọ tinh còn vẽ thêm một tiểu
đồng ngẩng đầu nhìn con dơi đang bay, đây gọi là “Kiều phán phúc âm”, thể
hiện đầy đủ khát vọng của con người đối với hạnh phúc trường thọ.
6. Hình phú quí thượng thọ
Đây là bức hình kiết tường chúc thọ được lưu hành rộng rãi ở miền
đông và miền bắc Trung Quốc, thường dùng để chúc thọ người già 70 hoặc
80 tuổi. Trong bức tranh thường có một cây hoa mẫu đơn nở rộ, mấy con
bướm sặc sỡ đang lượn vòng quanh hoa mẫu đơn; bên cạnh hoa còn có mấy
chú mèo mở to mắt nhìn đàn bướm vui đùa, và chồm người lên bắt lấy. Mạo,
điệt là chỉ tuổi tác cụ thể, trong thư tịch cổ đại không thống nhất với nhau, đại
thể là từ 70 tuổi đến 90 tuổi, cho nên sau này lấy mạo, điệt làm đại xưng cho
trường thọ. Hài âm của chữ mao (con mèo) giống với chữ mạo, chữ điệp (con
bướm) trùng với chữ điệt. Hoa mẫu đơn màu sắc diễm lệ, từ xưa đến nay
được tượng trưng cho đại phú đại quí. Ba thứ trên kết hợp với nhau, nêu bật
ý nghĩa “phú quí mạo điệt”. Bức tranh lấy mèo bướm làm chủ đề chính còn có
bức “Thọ cư mạo điệt”, do đá thọ và mèo, bướm tổ thành.
7. Hình con cháu đầy đàn
Đây là bức tranh chúc thọ được lưu hành rộng rãi ở phía bắc và Hoa
Đông Trung Quốc, có thể điêu khắc hoặc vẽ, thường dùng để chúc thọ lão bà.
Hình vẽ trong bức tranh thường là hình tròn, phía trên là hồ lô lớn, hai bên là
hồ lô nhỏ, những hồ lô có cùng cuống dây, chính giữa có mấy lá hồ lô. Hồ lô
có cuống dây rất dài, dân gian thường dùng nó tượng trưng cho “vạn đời
trường cửu”; trong bức tranh bên dưới hồ lô lớn, lại sinh ra tiểu hồ lô, ngụ ý
“con cháu bất đoạn”. Ý nghĩa của bức tranh là chúc phúc “con cháu đầy đàn”.
8. Hình Bát Đoàn
Là hình vẽ kiết tường vẽ trên thọ khí, lưu hành ở vùng Thanh Hải. Ở hai
mặt thọ khí vẽ bốn hình tròn lớn, trong hình tròn hoặc vẽ cỏ hoa, hoặc viết
chữ “thọ” theo thể chữ triện, xung quanh chữ thọ còn vẽ năm con phượng
hoàng hoặc con dơi, tượng trưng cho “ngũ phúc bổng thọ”.
9. Hình rồng phượng
Cũng là một hình vẽ trên thọ khí. Bên trái thọ khí vẽ một con rồng màu
đỏ đang bay lượn, bên phải vẽ một con phượng hoàng đang dang cánh nhảy
múa. Người vẽ hình rồng phượng trên thọ khí phải là người có công danh
hoặc có đóng góp công lao to lớn cho xã hội, nếu không không thể vẽ hình
này.
10. Hình tùng hạc trường thọ
Tùng, hạc từ xưa đến nay người Trung Quốc đều cho là vật trường thọ.
Đạo giáo Hán Ngụy hưng khởi, nói rằng nhựa mủ, kí sinh và phục linh của
cây tùng là tiên dược có thể trị bệnh, giúp người trường sinh bất tử; cây tùng
suốt mùa đông không hề tàn lụi, vẫn sinh trưởng khỏe mạnh, sống lâu, thế là
cây tùng đã trở thành vật kiết tường trường thọ phổ biến. Trên thực tế thọ
mệnh của hạc trắng chỉ khoảng 50 năm, loài hạc có mào ở Uganda tuổi thọ
cao nhất cũng chỉ có thể sống 120 năm, nhưng trong quan niệm của cổ nhân
Trung Quốc, hạc đã trở thành con vật tượng trưng cho tiên nhân. Tùng và hạc
vốn không tương cập, con hạc trắng dường như hoàn toàn không thể đứng
dưới hoặc đậu trên cây tùng, nhưng với khát vọng mong cầu trường thọ, con
người đã táo bạo đột phá hạn chế của tự nhiên, đem cây tùng và hạc gộp lại
với nhau, tượng trưng cho trường thọ.
Trong tranh, thông thường vẽ một cây tùng xanh vươn nhánh dài, trên
cây hoặc bên cạnh cây vẽ một con hạc trắng xinh đẹp, bối cảnh là mây trắng,
núi xa, mặt trời; tựa đề bức tranh thông thường là “tùng hạc diên niên” hoặc
“tùng hạc hà linh”.
Trong dân gian dùng hình vẽ để biểu thị cầu thọ kiết tường còn rất
nhiều, chúng có thể được ứng dụng trên trang phục, vật dụng gia đình, tranh
ảnh, điêu khắc hoặc các công nghệ phẩm, ví dụ như:
Trường xuân bạch thọ - một ông lão tóc bạc đứng giữa tảng đá và hoa
hồng, hoa hồng tượng trưng cho “tứ quí trường xuân”.
Vạn đại trường xuân - thêu chữ “vạn” và xung quanh là những đóa hoa
hồng.
Quần tiên củng thọ - bên cạnh hòn đá thọ, vẽ những đóa hoa dục tiên
và thủy tiên bay bay trong gió.
Phú quí bạch đầu - tổ hợp hình ông lão tóc bạc và hoa mẫu đơn.
Bạch đầu đồng xuân - do hai ông lão tóc bạc đứng trên cây ngô đồng,
thường dùng để chúc phúc cho tân lang tân nương hoặc đôi vợ chồng già.
Phước lộc song toàn - tổ hợp hình dơi hoa và hươu.
Bách lĩnh thực lộc - hoa mai và con hươu dưới cây tùng.
Tứ thế đồng đường - mấy con sư tử, biểu thị chúc phúc mấy thế hệ
đồng đường.
Phước thọ song toàn - một con dơi, hai trái đào thọ và hai xâu tiền cổ,
chữ “tiền” hài âm giống với chữ “toàn”.
Phú quí vô cực - tổ hợp hoa quế và hoa đào (cũng có thể là hoa mẫu
đơn).
Xuân huyên tính thọ - tổ hợp vạn niên thanh và linh chi (ngụ ý “như ý”),
cộng thêm quả hồng, ngụ ý “vạn sự như ý”.
Thiên địa trường xuân - tổ hợp thiên trúc, hoa trường xuân hoặc bí đỏ.
Tuế hàn tam hữu - ví với tùng, trúc, mai chịu được cái lạnh, bền bỉ hoặc
chúc phúc người già trường thọ và có khí tiết, cũng dùng để ca ngợi tình bằng
hữu.
Ngũ thụy trình tường - tổ hợp tùng, trúc, cỏ huyên, lan và đá thọ.
Chi tiên chúc thọ - tổ hợp linh chi, thủy tiên, trúc, đá thọ, bốn vật toàn
dùng hài âm.
VIII. LỄ NGHI VĂN THỂ CHÚC THỌ
1. Thiệp mừng thọ
Thiệp mừng thọ là thiệp chuyên dùng để mời họ hàng bạn bè đến tham
dự lễ chúc thọ của ông cha mình. Trong dân gian, thông thường bậc trưởng
thượng từ 50 tuổi trở lên, đến sinh nhật tròn mười là tổ chức lễ thọ. Khi tổ
chức lễ thọ, phải sử dụng thiệp mừng thọ để mời khách. Thiệp mừng thọ và
những thiệp chúc mừng khác không giống nhau, thông thường đều là do con
cháu hoặc họ hàng bạn bè kí tên chứ không do Thọ tinh kí tên. Cách thức và
cách viết của thiếp mời ngoài yêu cầu của thiệp mời, còn dùng từ ngữ cố
định, như cha thì gọi là “gia nghiêm”, mẹ thì gọi là “gia từ”, con trai thì gọi là
“huyền hồ”, con gái thì gọi là “thiết thuế”. Con tự xưng là “thừa khánh tử”, bà
ngoại thì tự xưng là “trùng khánh tử”. Thiệp mời chúc thọ có kiểu chữ viết
ngang cũng có kiểu viết đứng. Ví dụ:
(1) Vì thiệp là do con cháu kí tên, nên chúc thọ cho cha dùng “gia
nghiêm” hoặc “gia phu”; chúc thọ cho mẹ dùng “gia từ” hoặc “gia mẫu”, nếu
chúc mừng song thọ thì dùng “gia nghiêm từ”. Nếu nhà đông anh em, có thể
do con trai trưởng hoặc cử một người đại diện uy tín nhất trong số anh em đại
biểu kí tên, nếu có mấy đời cùng ở trong nhà thì chỉ dùng “con cháu kính
mời”, không cần phải thêm tên tất cả mọi người.
(2) Thiệp mời là do họ hàng bạn bè - những người có địa vị trong xã hội
kí tên, bên dưới là ghi tên bạn bè đại diện.
Thiệp mời mừng thọ cha mẹ:
Kính mời tham dự lễ mừng thọ lần thứ 60 của gia nghiêm (gia từ)
chúng tôi vào ngày X tháng X
XXX kính chào
Ngày X tháng X
Yến tiệc được tổ chức tại XX
Thiệp mời mừng thọ cha mẹ:
Kính mời tham dự lễ mừng thọ của gia nghiêm (gia từ) chúng tôi vào
ngày X tháng X
XXX kính chào
Ngày X tháng X
Yến tiệc được tổ chức tại XX
Thiệp mời song thọ:
Kính mời tham dự lễ song thọ vào ngày X tháng X
Kính mời
XXX Ngọc Tứ
XXX kính chào ngày X tháng X
Yến tiệc được tổ chức tại XX
Thiệp mừng thọ thông dụng:
Kính mời tham dự lễ mừng thọ của XXX vào ngày X tháng X
Kính mời
XXX Kính mong đến dự
XXX kính chào ngày X tháng X
Yến tiệc được tổ chức tại XX
2. Bức trướng chúc thọ
Bức trướng chúc thọ là lễ phẩm chúc thọ dùng lụa đề chữ, cũng gọi là
bức trướng lễ. Thông thường ở cả một dải lụa đỏ, cắt chữ giấy dán lên,
thường gọi là “thọ cũng có loại lồng vào trong tấm kính, thường gọi là “thọ
bình”.
Bức trướng chúc thọ có hai loại là kiểu thẳng đứng và kiểu ngang, bất
luận kiểu đứng hay ngang, đều phải là chữ nhật. Viết bức trướng chúc thọ,
nên suy nghĩ các yếu tố như địa vị, tuổi tác, nghề nghiệp của người được
mừng thọ, những lời chúc thường dùng đa phần đều mang tính ca ngợi và
chúc phúc. Bức trướng mừng thọ dùng từ đơn giản, có một chữ như chữ
“thọ”; có bốn chữ như “thọ tỉ nam sơn” v.v… thông thường hay dùng bốn chữ.
Bức trướng chúc thọ đề từ là bốn chữ, trong bốn chữ nhất định phải có
qui luật thanh bằng trắc. Đại khái khi bắt đầu là một thanh bằng, thì bắt buộc
khi kết thúc phải là thanh trắc và ngược lại. Đây chính là “bình khởi trắc thu,
trắc khởi bình thu”.
Ví dụ 1:
Kính chúc mừng lễ thọ 80 của ông XX
Nam Cực Tinh Huy
Cháu rể XXX khấu đầu kính chúc
Ví dụ 2:
Kính chúc lễ mừng thọ lần thứ 80 của nhạc phụ XX
Hoa Giáp Trùng Tân
Con rể XXX kính chúc
Ví dụ 3:
Kính mừng thọ 82 tuổi của lão thái quân X
Huyên Thọ Bát Thiên Bát Tuần Y Thủy
Phạm Phúc Cửu Ngũ Cửu Trù Nãi Toàn
Nhân phu đệ XXX kính chúc
(1) Những lời chúc thường dùng trong bức trướng chúc thọ
Nam cực thọ ông
Toàn phúc toàn thọ
Sống lâu trăm tuổi
Phúc thọ vô lượng
Thọ tỉ nam sơn
Đức cao vọng trọng
Thọ đồng tùng bách
(2) Lời chúc song thọ thông dụng trong bức trướng
Nhân nguyệt đồng viên
Thần tiên quyến thuộc
Thiên thượng song tinh
Song tinh lãng chiếu
Bách niên giai lão
(3) Lời chúc thọ trong bức trướng dành cho cụ ông
Đại xuân bất lão
Như nam sơn thọ
Đa phúc đa thọ
Thọ sơn phúc hải
Phước như đông hải
Thọ tỉ nam sơn
(4) Lời chúc trong bức trướng chúc thọ dành cho cụ bà
Tùng hạc hạ linh
Kim huyên bất lão
Xuân nồng huyên ốc
Từ vân ấm nồng
3. Câu đối chúc thọ
Câu đối chúc thọ phải phân biệt rõ đối tượng, xác lập chủ ý, chọn câu
từ thích đáng, khí thế, lưu loát. Đối với người phải chừng mực, đối với sự việc
nên chủ động, vừa xem đã hiểu rõ ý nghĩa. Câu đối chúc thọ bao gồm rất
nhiều ý nghĩa, đa phần dùng văn ngôn và thành ngữ, điển cố, danh từ riêng.
Nhưng khi dùng thành ngữ, điển cố, danh từ riêng, phải chọn những câu từ
hiểu rõ ý nghĩa, như chúc thọ 60 tuổi dùng “hoa giáp”, chúc thọ 70 tuổi dùng
“cổ hi”. Nếu dùng hai chữ “nam cực” để chúc thọ cụ bà, dùng hai chữ “bảo vụ”
chúc thọ cụ ông, tất sẽ gây ra sự buồn cười.
(1) Câu đối chúc thọ thường dùng
Câu đối bốn chữ
Danh cao bắc đẩu
Thọ tỉ nam sơn
Như tùng như hạc
Đa thọ đa phúc
Phúc như đông hải
Thọ tỉ nam sơn
Phúc lộc hoan hỉ
Trường sinh vô cực
Câu đối năm chữ
Dao trì xuân bất lão
Thọ vực nhật phương trường
(Dao trì mùa xuân mãi không già
Vùng đất thọ ngày mãi kéo dài)
Thọ danh cao Bắc Đẩu
Phúc khí tỉ nam sơn
(Thọ cao như sao Bắc Đẩu
Vận phúc như núi nam)
Tiên hạc thiên niên thọ
Thương tùng vạn cổ xuân
(Hạc tiên thọ ngàn năm
Tùng xanh vạn năm mãi còn xuân)
Câu đối sáu chữ
Nãi vũ nãi văn nãi thọ
Như mai như trúc như tùng
(Quả là võ là văn là thọ
Giống như mai như trúc như tùng)
Tiếu chỉ nam sơn tác tùng
Hỉ khuynh bắc hải vi tôn
(Mỉm cười chỉ núi nam ca ngợi
Vui vẻ hướng biển bắc tôn sùng)
Câu đối bảy chữ
Phúc như đông hải trường lưu thủy
Thọ tỉ nam sơn bất lão tùng
(Phúc như biển Đông nước chảy dài
Thọ như núi Nam Sơn không già)
Phúc tinh cao chiếu mãn đình khánh
Thọ đản sinh huy hợp gia hoan
(Phúc tinh trên cao chiếu sáng chúc mừng gia viên
Ngày mừng thọ soi sáng cả nhà vui vẻ)
Phúc như trường giang cửu vạn lí
Thọ tỉ trường thành tam thiên niên
(Phúc như sông Trường Giang dài chín vạn dặm
Thọ như trường thành ba ngàn năm)
Câu đối tám chữ
Hồng đăng cao chiếu phúc khánh trường lạc
Bạo trúc liên thanh thọ chúc bình an
(Đèn hồng soi chiếu trên cao niềm vui lâu dài
Trúc nổ liên hồi chúc thọ bình an)
Đại đức nhân ông đa phúc đa thọ
Nam sơn tùng bách dũ lão dũ kiên
(Người đức độ sống lâu nhiều phúc
Tùng bách ở núi nam càng lớn càng vững chắc)
(2) Câu đối chúc thọ cụ ông
Câu đối chúc thọ 50 tuổi
Bán bách quang âm thân canh kiện
Kỉ phiên phong vụ sơn dũ thanh
(Thời gian năm mươi năm thân thể càng khỏe mạnh
Mấy lần mưa gió núi càng xanh)
Câu đối chúc thọ cụ ông 60 tuổi
Nhất gia hoan lạc khánh trường thọ
Lục tuần bình khang yến bàn đào
(Cả nhà vui vẻ chúc mừng trường thọ
Sáu mươi tuổi khỏe mạnh an lành mở tiệc chúc mừng)
Giáp tử trùng tân như sơn như phụ
Xuân thu bất lão đại đức đại niên
(Một vòng hoa giáp mới như đồi như núi
Thời gian trôi qua không già tuổi cao đức trọng)
Câu đối chúc thọ cụ ông 70 tuổi
Tam thiên tuế nguyệt xuân thường tại
Thất thập phong thần cổ sở hi
(Ba ngàn năm qua xuân vẫn mãi
Bảy mươi minh mẫn xưa nay hiếm)
Đồng nhan hạc phát thọ tinh thể
Tùng như bách thái cổ hi niên
(Dung mạo như trẻ em, tóc trắng như chim hạc, tuổi thọ như sao trời
Tuổi cao mà tư thái như tùng bách)
Câu đối chúc thọ cụ ông 80 tuổi
Bàn đào dĩ kết tam thiên tuế
Thượng thọ hoàn kì nhị thập xuân
(Nhập tiệc bàn đào thọ ba ngàn tuổi
Mở thượng thọ trở lại tuổi đôi mươi)
Tác thu canh hoằng xuân bất lão
Tứ thời kiện vượng phúc vô cùng
(Dù tuổi cao nhưng sức sống tràn đầy
Bốn mùa khỏe mạnh phúc đức vô cùng)
Câu đối chúc thọ cụ ông 90 tuổi
Tam thiên mĩ cảnh thiêm trù toán
Cửu thập phong quang lạc hữu dư
(Ba ngàn cảnh đẹp thêm lo nghĩ
Không bằng chín mươi cảnh đẹp lòng vui vẻ hân hoan)
Câu đối chúc thọ cụ ông 100 tuổi
Tùng bách bất tàn tứ quí thúy
Sơn thụ nan lão bách tuế nhân
(Tùng bách không bao giờ tàn, bốn mùa xanh tươi mãi
Núi non cây cối không già, người sống lâu trăm tuổi)
Gia trung tảo nhưỡng thiên niên tửu
Thịnh thế trường ca bách tuế nhân
(Trong nhà sớm ngâm rượu ngàn năm
Thời hưng thịnh ca ngợi người trăm tuổi)
(3) Câu đối chúc thọ cụ bà
Câu đối chúc thọ cụ bà 50 tuổi
Bàn đào bổng nhật tam thiên tuế
Huyên thụ sâm thiên ngũ thập vi
(Tiệc bàn đào ba ngàn năm mới gặp
Cây huyên cao chọc trời đến năm mươi ôm)
Câu đối chúc thọ cụ bà 60 tuổi
Bát nguyệt thu cao ngưỡng tiên quế
Lục tuần nhân kiện tỉ kiều tùng
(Tháng tám mùa thu ngẩng nhìn cung trăng
Người sáu mươi tuổi mạnh khỏe như cây tùng)
Đào thục chính phùng hoa giáp mậu
Lan khai kỉ duyệt phúc thọ thiêm
(Quả đào chín như gặp tuổi sáu mươi tốt đẹp
Hoa lan nở như được thêm phúc thọ)
Câu đối chúc thọ cụ bà 70 tuổi
Niên quá thất tuần xứng kiện phụ
Trù thiêm tam thập hưởng kì di
(Tuổi quá bảy mươi tuổi gọi là mạnh khỏe
Tính thêm ba mươi năm nữa là hưởng thọ trăm tuổi)
Kim quế sinh huy lão ích kiện
Huyên thảo trường sinh khánh cổ hi
(Quế vàng tỏa sáng người già thêm khỏe mạnh
Cỏ huyên xanh tươi mãi vui mừng tuổi bảy mươi)
Câu đối chúc thọ cụ bà 80 tuổi
Thọ quá cổ hi đa thập tái
Dự chúc kì di cận niệm niên
(Thọ ngoài bảy mươi tuổi cộng thêm mười tuổi nữa
Chỉ cách hai mươi năm nữa là thượng thọ trăm tuổi)
Câu đối chúc thọ cụ bà 90 tuổi
Bàn đào quả thục tam thiên tuế
Từ trúc trù thiêm cửu thập xuân
(Bàn đào quả chín ba ngàn tuổi
Trúc hiền tính thêm chín mươi xuân)
Câu đối chúc thọ cụ bà 100 tuổi
Nhân lão thân kiện vãn niên lạc
Bách thúy tùng thương bách tuế hồng
(Người già khỏe mạnh tuổi già vui tươi
Cây bách tùng xanh tươi trăm tuổi vui vẻ)
(4) Câu đối chúc thọ theo từng tháng
Tháng 1
Nhân như thiên thượng chu tinh tụ
Xuân đáo diên tiến bách tửu hương
(Người nhiều như tinh tú trên trời
Xuân đến trước cây bách rượu tỏa hương)
Tháng 2
Hạnh uyển phong hòa, trường xuân bất lão
Xuân đình nhật vĩnh, thượng thọ vô cương
(Vườn hạnh gió mát, tuổi xuân không già
Cha mẹ sống mãi, thượng thọ vô cương)
Tháng 3
Đào lí tranh xuân hỉ song thọ
Xuân huyên tính mậu khán tề mi
(Đào lí tranh với mùa xuân chúc mừng song thọ
Cha mẹ cùng tôn trọng nhau)
Tháng 4
Tường vi hương tống thanh hòa nguyệt
Thược dược tường khai phú quí hoa
(Mùi hương hoa tường vi tiễn trăng thanh
Thược dược nở hoa phú quí)
Tháng 5
Kim tiết cận thiên trung, hoa khai như ý
Thần tiên lai hải ngoại, quả hiến trường sinh
(Tiết trời đến gần, hoa khai như ý
Thần tiên đến bên ngoài, quả tặng trường sinh)
Tháng 6
Bắc cực củng tinh, tường khai cao thọ
Nam phong tống noãn, khúc tấu trường sinh
(Chòm sao Bắc Đẩu tụ hội, báo điềm lành kéo dài tuổi thọ
Gió nam thổi hơi ấm, hát khúc trường sinh)
Tháng 7
Tây vọng dao trì giáng vương mẫu
Nam cực lão nhân ứng thọ xương
(Hướng trời tây điện Dao Trì Vương Mẫu xuất hiện
Nam cực tiên ông cất bài chúc thọ)
Tháng 8
Thượng thọ trường sinh, trung thu lệnh tiết
Lương tiêu bất dạ, minh nguyệt tiến thân
(Thượng thọ sống lâu, tiết trung thu
Đêm nguyên tiêu, trăng sáng trước người)
Tháng 9
Đông hải trù thiêm đồng khánh chúc
Nam sơn tùng hiến phú đăng lâm
(Biển đông cùng chúc mừng Núi nam cùng đề thơ)
Tháng 10
Bạch phát chu nhan, nghi đăng thượng thọ
Phong y túc thực, lạc hưởng vãn thu
(Tóc bạc da hồng, làm lễ thượng thọ
No ấm, vui vẻ hưởng tuổi già)
Tháng 11
Vân bổng thái loan, tây uyển tuyết thụy
Nhật huy kim phượng, nam sơn tùng thanh
(Mây bao quanh điện Thái Loan, vường tây tuyết lành rơi
Mặt trời rọi sáng chim phượng vàng, núi nam cây tùng xanh)
Tháng 12
Thanh sơn hữu tuyết tồn tùng tính
Bích lạc vô vân xưng hạc tâm
(Núi xanh phải có tuyết rơi
Trời xanh phải có chim hạc)
Phần 3. PHONG TỤC LỄ NGHI CHÚC MỪNG
I. THIỆP CHÚC MỪNG
Thiệp chúc mừng là thiệp được dùng phổ biến trong các buổi lễ chúc
thọ, đầy tháng, tân gia, khai trương,… Tùy theo từng loại, lại bao gồm những
tên và kiểu dáng khác nhau.
1. Thiệp mời đầy tháng
Ngày xưa, đầy tháng là chỉ bà mẹ đã mang thai đủ mười tháng. Ngày
nay “đầy tháng” được xem là con trẻ mới sinh ra vừa tròn một tháng. Thiệp
mời đầy tháng là thiệp được dùng để chúc mừng con trẻ tròn một tháng tuổi.
Đa phần là gửi cho họ hàng, bạn bè thân thiết.
2. Thiệp mời tân gia
Tân gia là chỉ dời chỗ ở đến địa chỉ mới, chúc mừng người dời đến nơi
ở mới gọi là kiều thiên, trong “Kinh Thi. Tiểu Nhã. Phạt Mộc” có ghi: “Phạt
mộc đinh đinh, điểu đề anh anh; xuất từ u cốc, thiên vu kiều mộc.” Kiều mộc
là cây cao, chính là nói con chim từ hang tối chuyển lên cây cao, có ý nghĩa
thắng lợi. Thiệp mời tân gia chính là thiệp thông báo dời chuyển đến nơi ở
mới, thông thường gửi cho họ hàng bạn bè, cũng có khi đăng lên mục tin
nhắn trên báo.
3. Thiệp mời khai trương
Khai trương vốn có ý nghĩa là triển khai, sau này đối với tất cả những
việc mở cửa kinh doanh buôn bán đều gọi là khai trương. Khai trương chính
là một việc vui vẻ, nên thông báo cho họ hàng bạn bè, đồng nghiệp và những
người có liên quan. Thiệp mời khai trương, có thể gửi hoặc đăng trên mục tin
nhắn.
4. Thiệp mời khai mạc
Khai mạc chính là mở màn sân khấu cho buổi diễn kịch, khi bắt đầu
diễn người ta sẽ kéo màn lên. Thế là là khi bắt đầu sự việc gì, đều gọi là khai
mạc, cũng gọi là mở màn. Ngoài ra, cách nói khai mạc là chỉ khai mạc cho tất
cả hoạt động, khai mạc hội triển lãm v.v… Thiệp mời khai mạc, cũng có hai
loại, một là gửi, hai là đăng trên mục tin nhắn trên báo.
5. Thiệp mời yến tiệc
Yến tiệc là nơi ăn uống tụ hội bạn bè. Nguyên nhân mở yến tiệc là cưới
hỏi, chúc thọ, đầy tháng, khai trương, khai mạc v.v… Thiệp mời yến tiệc ở
đây thường là thiệp mời bạn bè tham gia yến tiệc.
6. Thiệp mời tiệc rượu
Tiệc rượu là cách gọi tắt của tiệc rượu cocktail, là phương thức mới để
chiêu đãi khách. Dùng các loại rượu và đá pha chế thành, khách tự lấy tự
uống, cụng li trò chuyện vui vẻ, vừa tự do vừa tiết kiệm, thích hợp với số
lượng khách đông. Thiệp mời tiệc rượu là thiệp mời khách tham dự buổi tiệc
rượu cocktail.
7. Thiệp mời tiệc trà
Tiệc trà là lấy phương thức dùng trà bánh chiêu đãi khách. Có thể vì tiết
kiệm, hoặc để bàn bạc công việc làm ăn, dùng trà bánh chiêu đãi khách, gọi
là tiệc trà. Thông báo bằng thiệp cho khách tham dự tiệc trà chính là thiệp mời
tiệc trà.
8. Thiệp mời đưa tiễn
Thiệp mời đưa tiễn chính là thiệp mời họ hàng bạn bè đến dự lễ cưới
hỏi, hoặc lễ tang, và thiệp cảm ơn của người thọ lễ sau khi nhận lễ. Thiệp mời
đưa tiễn vì nguyên nhân và đối tượng đưa tiễn không giống nhau mà có nhiều
loại danh xưng, cách thức và cách dùng từ khác nhau. Ngày nay phần nhiều
đã không dùng thiệp nữa, cho dù là cần thiết, cũng chỉ chọn hình thức thư từ
hoặc mẫu tin nhắn trên báo.
II. LỄ NGHI CHÚC MỪNG KHAI NGHIỆP
1. Hoạt động chúc mừng
Công ty và cửa hàng khai trương, đa phần đều tổ chức hoạt động chúc
mừng khá long trọng, để mở rộng ảnh hưởng và nâng cao thương hiệu của
công ty và cửa hàng, hoạt động chúc mừng này đều mượn sự giúp đỡ của
phương tiện truyền thông như truyền hình, báo chí, thậm chí có công ty còn
gửi quảng cáo đăng trên các báo, công bố thời gian, địa điểm khai trương và
các chương trình khuyến mãi…, Trong hoạt động chúc mừng, còn tổ chức
nghi thức cắt băng khánh thành khá long trọng. Nghi thức tổ chức cắt băng
khánh thành, thông thường phải chuẩn bị những công việc sau:
(1) Làm tốt hoạt động tuyên truyền, chúc mừng, dựa vào qui mô lớn
nhỏ và tài lực của công ty mà lựa chọn những phương thức khác nhau, có thể
quảng cáo hoặc gửi thông báo khai trương, lấy thể văn đơn giản, thông báo
thời gian, địa điểm, phạm vi kinh doanh và tôn chỉ phục vụ. Nội dung thông
báo khai trương phải rõ ràng, cách dùng từ phải thỏa đáng, không được lấy
lòng quần chúng, chỉ hào nhoáng bên ngoài, nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy
tín của cửa hàng. Nếu là một cơ sở hoặc công ty lớn tổ chức hoạt động chúc
mừng khai trương, thông thường trước đó mấy ngày đều liên tục đăng trên cả
một trang hoặc nửa trang báo quảng cáo để mở rộng sự ảnh hưởng.
(2) Làm tốt công việc sắp xếp hoạt động chúc mừng. Ở nơi tổ chức
hoạt động chúc mừng, có thể sắp xếp một nhân viên đeo băng lụa cúi chào
quan khách. Hoạt động chúc mừng nên có không khí sôi nổi. Thông thường
nên treo biểu trưng hội nghị chúc mừng khai trương của cơ sở (công ty) XX,
hai bên hội trường có thể bố trí những lẵng hoa, chậu hoa của khách mời gửi
tặng, xung quanh treo dải màu. Khoảng không trên đầu nên treo những quả
khí cầu quảng cáo to, còn có thể mời đội nhạc đến diễn tấu những khúc nhạc
vui vẻ. Nên sắp xếp chỗ ngồi cho khách mời một cách trật tự, mời người chụp
hình và người quay phim v.v…
2. Trình tự nghi thức
Thời gian hoạt động chúc mừng khai trương thông thường không dài,
quá trình cũng chặt chẽ và ngắn gọn. Vì nếu thời gian quá dài, nội dung phức
tạp sẽ khiến cho khách mời chán nản, không vui vẻ. Thông thường trình tự
buổi lễ chúc mừng có những hạng mục dưới đây, đương nhiên phải nhìn tình
hình cụ thể để có thể tăng hoặc giảm.
1. Đón khách. Nhân viên tiếp tân sẽ đứng trước cửa hội trường tiếp
khách, hướng dẫn khách đến chỗ ngồi.
2. Bắt đầu buổi lễ. Người chủ trì tuyên bố lễ khai trương chính thức bắt
đầu. Toàn thể quan khách đứng dậy, nhạc quốc ca, tuyên bố danh sách
khách mời quan trọng.
3. Lời chúc mừng. Do lãnh đạo cấp trên và đại biểu quan khách đọc lời
chúc mừng, chủ yếu biểu đạt lời chúc đối với đơn vị khai trương. Đối với
những khách mời gửi điện hoặc thư chúc mừng v.v… không nhất thiết phải
tuyên đọc từng người một, nhưng đối với đơn vị hoặc cá nhân nổi tiếng đều
phải nên công bố.
4. Lời đáp tạ. Do đơn vị phụ trách người đến cảm tạ. Nội dung chủ yếu
là biểu thị lòng cảm tạ đối với khách mời và các đơn vị chúc mừng, giới thiệu
ngắn gọn điểm đặc sắc và mục tiêu kinh doanh của đơn vị.
5. Khai mạc. Do người phụ trách đơn vị và một vị lãnh đạo thượng cấp
đến mở tấm vải đỏ hoặc lụa đỏ che phủ bảng hiệu, tuyên bố xí nghiệp chính
thức khai trương.
6. Tham quan. Nếu cần thiết, nên có người hướng dẫn khách tham
quan, giới thiệu công việc chủ yếu của đơn vị, sản phẩm đặc sắc và sách
lược kinh doanh v.v…
7. Đón tiếp khách hàng. Kết thúc buổi lễ, cửa hàng đã chính thức mở
cửa kinh doanh. Ban lãnh đạo đứng trước cửa để tiễn quan khách. Có cửa
hàng chuẩn bị những túi hàng, ở trên in dòng chữ chúc mừng lễ khai trương,
tặng cho khách tham quan làm kỉ niệm; có buổi lễ chọn ra những người tiêu
dùng đại biểu để tham gia tọa đàm, khiêm tốn lắng nghe ý kiến của họ, kéo
gần khoảng cách của người tiêu dùng và nhà kinh doanh. Ngày nay, rất nhiều
cửa hàng còn có chương trình khuyến mãi giảm giá ba ngày gọi là “khai
trương khuyến mãi”; thông thường giảm giá 10%, mục đích vẫn là thu hút
khách tham quan.
Còn có buổi lễ thết tiệc đãi khách. Thương gia khai nghiệp, có nơi kị ăn
mì, cho rằng kinh doanh không suôn sẻ, còn ăn bánh màn thầu có dùng men
nổi để biểu thị phát tài.
3. Trình tự cắt băng khánh thành
Trong hoạt động chúc mừng khai nghiệp, nghi thức cắt băng khánh
thành là một nội dung quan trọng không thể thiếu. Nghi thức này được tiến
hành long trọng, sôi nổi nên cần một đội ngũ làm việc nhanh nhạy, vừa phân
công xác đáng, vừa phải hợp tác ăn ý. Công việc chuẩn bị phải tỉ mỉ chu đáo.
Người cắt băng khánh thành thông thường do khách mời, lãnh đạo cấp
trên, hoặc một người nổi tiếng trong một lĩnh vực nào đó đảm nhiệm.
Người cắt băng khánh thành phải chú ý đến dáng vẻ, vì hình tượng của
người này có liên quan trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động chúc mừng.
Người cắt băng khánh thành ăn mặc phải chỉnh tề, sạch sẽ và gọn gàng, đem
đến cho mọi người một ấn tượng tốt, lịch thiệp và văn minh.
Hình thức và tuần tự các bước hoạt động cắt băng khánh thành như
sau:
(1) Mời khách an vị
Nếu không sắp xếp theo số ghế, có thể nhắc nhở khách mời ổn định
chỗ ngồi. Người ngồi ở vị trí chủ tịch, tốt nhất là trước chỗ ngồi đặt bảng tên
họ, nhân viên tiếp tân hướng dẫn họ vào chỗ.
(2) Tuyên bố nghi thức cắt băng khánh thành bắt đầu
Người chủ trì sau khi tuyên bố nghi thức cắt băng khánh thành bắt đầu
thì nên vỗ tay để biểu thị sự đồng ý. Nếu cần thiết, nên giới thiệu với những
người tham gia hội nghị, những vị lãnh đạo, người phụ trách và người nổi
tiếng tham gia, đồng thời biểu thị sự cảm ơn đối với họ.
(3) Sắp xếp diễn văn đơn giản, ngắn gọn
Người đại diện phát biểu thông thường là người phụ trách sắp xếp hội
triển lãm. Nội dung phát biểu là gịới thiệu tôn chỉ kinh doanh hoặc ý nghĩa mới
của việc thành lập. Đồng thời, cũng có thể sắp xếp nhân viên của ngành có
liên quan đảm nhận việc phát biểu chúc mừng.
(4) Tiến hành cắt băng khánh thành
Khi tiến hành cắt băng khánh thành, người chủ thông thường phải đi
theo sau người cắt băng khánh thành khoảng cách khoảng 1 - 2m. Đợi sau
khi cắt băng xong, chuyển người hướng về mọi người xung quanh vỗ tay biểu
thị chúc mừng.
Khi cắt băng khánh thành, người cắt băng phải chú ý giữ cho mình một
tư thái điềm tĩnh, không căng thẳng. Khi đi tới dải băng bước đi phải khoan
thai, vẻ mặt luôn tươi cười, toàn tầm chuyên chú. Lúc này nếu liếc dọc liếc
ngang hoặc hỏi người này gọi người kia, như vậy là biểu hiện của sự thất lễ.
Trước dải băng khánh thành, thần thái người cắt băng nên biểu lộ sự trang
trọng. Khi nhân viên đem đến chiếc khay nhỏ đựng chiếc kéo dùng để cắt
băng, có thể nở một nụ cười để biểu thị cảm ơn. Sau đó, tập trung tinh thần
cắt một lần đứt dải băng. Sau khi cắt xong, nên xoay người hướng về mọi
người xung quanh vỗ tay chúc mừng và cùng chủ nhân trò chuyện, bắt tay
biểu thị chúc mừng. Nhưng thời gian không nên quá dài, không nên nói thao
thao bất tuyệt hoặc cười đùa, như vậy là không hợp với lễ nghi.
(5) Dẫn khách tham quan
Sau khi cắt băng khánh thành, người chủ sẽ dẫn khách mời tham quan
công ty hoặc cửa hàng. Sau đó, còn có thể tặng quà kỉ niệm cho khách mời,
hoặc thết tiệc đãi khách.
4. Hình thức thể văn
(1) Thiệp mời khai trương
Chủ nhân khi khai trương cửa hàng, để mời bạn bè và những đối tác
tham dự luôn luôn phải gửi thiệp mời. Thiệp mời loại này thông thường khá
tinh tế đẹp mắt, biểu thị ý trang trọng. Lời văn yêu cầu phải đơn giản ngắn
gọn. Thiệp mời nên gửi trước ngày khai trương, để tiện cho người nhận sớm
sắp xếp công việc đến tham dự. Cần thiết, có thể chú thích “xin hồi âm báo
tin”, đề nghị người nhận thiệp thông báo cho chủ nhân biết là có thể nhận lời
mời này hay không.
Ví dụ 1:
Bố cáo thành lập công ty XXX
Công ty chúng tôi đã được sự cho phép của XXX hợp chuẩn thành lập
vào lúc giờ ngày XX tháng XX năm xxxx. Kính mời ông XXX đến tham dự
buổi lễ. Kính chúc đồng nghiệp sức khỏe.
Sự có mặt của ông (bà) là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
XXX kính mời
Địa chỉ: số XX đường XX thành phố XX
Điện thoại: XXXXXXXX
Ví dụ 2:
Tổ chức lễ thành lập công ty vào ngày X tháng X, kính mời tham dự.
Thư ký tổng giám đốc công ty XXX.
XXX kính mời
Địa chỉ: công ty số X đường XX
Thời gian: X giờ sáng
Ví dụ 3:
Thiệp mời
Trân trọng kính mời tham dự lễ chúc mừng khai trương xxxx được tổ
chức ở X vào lúc X giờ ngày X tháng X.
Kính mời
Hân hạnh đón tiếp
Kính chào xxxx
Ví dụ 4:
Thiệp mời
Ông Lí Tính:
Quán rượu Khang Lạc tổ chức lễ khai trương vào sáng ngày 6 tháng 9,
kính mời tham dự.
Giám đốc Lâm Khang Lạc kính mời
Địa chỉ: số 828 đường Tả Hải
(2) Bức trướng chúc mừng khai nghiệp
Bức trướng chúc mừng cửa hàng khai trương, thông thường phải bao
gồm đặc điểm kinh doanh của cửa hàng, ngoại trừ những lời chúc tốt đẹp
thường dùng, tốt nhất là phải phù hợp với đặc điểm của cửa hàng, thường là
câu bốn chữ, yêu cầu phải đặc biệt và giàu tính biểu hiện. Vì bức trướng chúc
mừng thông thường được treo ở giữa cửa hàng, nên phải thu hút sự chú ý
khiến cho người xem không thể quên, từ đó đem đến cho cửa hàng khí sắc
vui vẻ, và có thể tìm kiếm đối tác làm ăn. Bức trướng khai trương thẩm mĩ
viện có thể viết “Biệt khai sinh diện”; bức trướng chúc mừng khách sạn có thể
viết “Tân chí như qui”; bức trướng khai trương phòng khám có thể viết “Diệu
thủ hồi xuân” hoặc “Hoa Đà tái thế”, v.v…
1. Bức trướng chúc mừng thường dùng những câu chúc như:
Khai nghiệp đại kiết
Kiết khánh mãn doanh
Vạn sự như ý
Vạn thương vân tập
2. Câu đối chúc mừng khai nghiệp
1. Câu đối chúc mừng thường dùng
Doanh dư đắc lợi
Phong phú đa tài
(Kinh doanh đắc lợi
Của cải phong phú)
Kiết tường khai nghiệp
Đại phúc khải nguyên
(Khai trương kiết tường
Bắt đầu phúc lớn)
Vạn thương vân tập
Hưng nghiệp nhật tân
(Vạn cửa hàng đều đến
Ngày mới sự nghiệp hưng vượng)
Sinh ý như xuân ý
Tài nguyên tự thủy nguyên
(Kinh doanh như vẻ xuân
Tài sản như nguồn nước)
3. Câu đối chúc mừng các ngành nghề
[Bách hóa]
Lưỡng sương cẩm tú tạng bách hóa
Nhất điếm xuân phong noãn vạn gia
(Hai bên rực rỡ cửa hàng bách hóa
Một cửa hàng gió xuân ấm áp vạn nhà)
[Dệt]
Kinh luân sự nghiệp tòng châm hạ
Cẩm tú văn chương tại nã trung
(Sự nghiệp tơ lụa dưới cây kim
Văn chương rực rỡ trong tay nắm)
[Giày nón]
Nhân hữu nam nữ lão ấu
Quán phân xuân hạ thu đông
(Người có nam nữ già trẻ
Nón phân xuân hạ thu đông)
[Mỹ phẩm]
Tuyết hoa tư nhuận trạch
Hương thủy dật tô phương
(Bông tuyết thêm mềm mại
Nước hoa càng thơm hương)
[Châu báu, trang sức]
Thành thực kinh thương thương đại triển
Văn minh đãi khách khách thường lâm
(Thành thực kinh doanh buôn bán cửa hàng đại phát triển
Văn minh đãi khách khách thường lui tới)
[Đồng hồ]
Thiên thu sự nghiệp thiên thu chí
Nhất thốn quang âm nhất thốn kim
(Sự nghiệp mãi mãi phát triển
Một giây thời gian một tấc vàng)
[Đèn]
Mãn thất như bạch trú
Lưu quang đẩu nguyệt huy
(Khắp nhà như ban ngày
Lấp lánh ánh sáng trăng)
[Mắt kính]
Giang sơn trừng nhất sắc
Nhật nguyệt hoán trùng quang
(Núi sông trong veo một sắc màu
Nhật nguyệt đổi lấy ánh quang minh)
[Kẹo, thực phẩm]
Thường lai giai thích khẩu
Thực hậu tự thanh tâm
(Nếm thử đều hợp vị
Sau khi ăn lòng dạ thảnh thơi)
[Quán rượu]
Cử bôi yêu nguyệt
Bả trản thành thi
(Nâng li mời trăng
Nâng chén thành thơ)
Cử bôi ca thịnh thế
Đối tửu thoại phong niên
(Nâng li ca hát thời bình an
Đối rượu nói chuyện năm no ấm)
[Đồ gốm]
Vũ quá thiên thanh thiên cổ sắc
Hoa lưu thủy thái tứ thời xuân
(Trải qua mưa gió trời xanh ngàn năm tươi đẹp
Hoa, nước màu bốn mùa đều xanh tươi)
4. Vật dụng văn phòng
[Cửa hàng chuyên bán văn phòng phẩm]
Huy hào liệt cẩm tú
Lạc chỉ như vân yên
(Vung bút thêm rực rỡ
Hạ giấy như mây khói)
Vân yên lạc bút quang hoa diệu
Giao tất hòa hương khí vị hanh
(Mây khói hạ bút ánh sáng huyền diệu
Keo sơn cùng không khí trong lành thơm hương)
[Cửa hàng thư họa]
Dục tri thiên cổ sự
Tu độc ngũ xa thư
(Muốn biết ngàn việc xưa
Phải đọc năm xe thư)
[Cửa hàng kinh doanh nhạc cụ]
Hòa thanh minh thịnh thế
Nhã lạc khánh thăng bình
(Thời thanh bình hát khúc hòa bình
Nhã nhạc chúc mừng thời thanh bình)
5. Ngành nghề phục vụ
[Khách sạn, nhà trọ]
Tiến môn câu thị khách
Đáo thử tức vi gia
(Bước vào cửa là khách
Đến đây tức là nhà)
Nghênh bát diện xuân phong nhập viện
Tiếp tứ phương binh khách qui gia
(Đón tám hướng gió xuân thổi đến
Tiếp bốn phương khách quí vãng lai)
[Cửa hàng ăn uống]
Phanh chử tam tiên mĩ
Điều hòa ngũ vị hương
(Nấu nướng ba hương vị thơm ngon
Nêm nếm thêm ngũ vị hương)
Mĩ tửu chiêu lai hào khách ẩm
Giai hào cụ bị chúng tân thường
(Rượu ngon hoan nghênh khách thưởng thức
Thức ăn ngon đầy đủ cho khách thưởng thức)
[Quán trà]
Khách chí tâm thường nhiệt
Nhân tẩu trà bất lượng
(Khách đến phục vụ nhiệt tình
Khách đi trà không nguội)
6. Tiệm may, cửa hàng thời trang
Tiễn lục tài hồng trang xuân sắc
Đào hoa tú đóa mĩ nghi dung
(Cắt vải xanh đỏ thêm xanh tươi
Hoa đào thêu thùa thêm vẻ đẹp)
7. Y tế
Thân thể nhược da đoán luyện tiện hảo
Dược phẩm tinh thiếu phục dụng vi giai
(Thân thể suy yếu siêng năng luyện tập thể dục là tốt
Thuốc ít uống là tốt)
III. LỄ NGHI MỪNG XÂY NHÀ
Yêu cầu sinh hoạt cơ bản của cuộc sống không ngoài bốn loại hình ăn,
mặc, ở, đi lại, trong đó vấn đế “ở” vô cùng quan trọng. Có câu nói “an cư thì
mới lập nghiệp”, vì thế, xây dựng chỗ ở từ trước đến nay luôn là việc đại sự,
từ chọn địa điểm, vật liệu, ngày khởi công động thổ, lên xà, hoàn công… mỗi
công đoạn đều xem là đáng chúc mừng.
1. Xem phong thủy
Xem nhà, chính là chọn địa chỉ nơi ở. Ngày nay ở các làng quê khi xây
nhà, còn có người mời thầy phong thủy đến xem nơi ở, cũng gọi là xem
phong thủy.
Tập quán xem nhà là thuộc về thuật phong thủy. Thuật phong thủy có
từ thời kì xã hội nguyên thủy xây dựng xóm làng. Từ khảo cổ có thể biết được
rằng, người nguyên thủy đã biết xây dựng nhà cửa quanh các con sông, suối,
đây là nơi gần nguồn nước có lợi cho việc sinh hoạt. Hướng cửa luôn luôn
hướng về phía đông hoặc phía nam để tránh gió và đón ánh nắng mặt trời.
Ngoài ra, gần nơi ở luôn luôn có hào rãnh, tường gỗ bảo vệ. Người nguyên
thủy sinh sống ở những môi trường khác nhau nên tiêu chuẩn để chọn nơi ở
cũng khác nhau. Như vùng tây bắc Trung Quốc, điều kiện chọn nơi ở là “hồ
ao, hướng mặt trời, hang”; vùng đông nam, tiêu chuẩn lựa chọn của mọi
người chính là “gió lặng, gò đất, hang”. Đây đều là những nơi cư trú an toàn,
thích hợp.
Nhưng sau này dưới sự dẫn dắt của tôn giáo và tư tưởng mê tín,
“phong thủy” nguyên sơ đã bị học thuyết duy tâm thay đổi, cho đến khi nội
dung phức tạp của phong thủy trên tổng thể đã thuộc về phạm trù của thuật
mê tín. Mê tín là chỉ dùng một loại lí luận có sắc thái mê tín trong thuật phong
thủy để nhận biết mối quan hệ giữa môi trường và con người, đem vận mệnh
tương lai của con người, họa phúc của con cháu sau này liên hệ với môi
trường một cách không thích đáng; trên thao tác này, chọn dùng cũng là thủ
đoạn của thần bí hóa. Nếu coi địa thời, phải tiến hành xem quẻ, phải đem lễ
vật cúng tế cho thổ địa công công v.v… Vì thế, điều này cũng khiến cho thuật
phong thủy bước vào phạm trù lễ tục.
Nhưng lí luận phong thủy truyền thống ngàn năm nay cũng đã kế thừa
được sự chú trọng thực tiễn, ở đây xin giới thiệu một số nguyên tắc thông
thường nhất về phương diện phong thủy có ý nghĩa khoa học vẫn được lưu
truyền trong dân gian.
(1) Nguyên tắc hệ thống chỉnh thể. Mới đầu trong bát quái kinh dịch thời
xa xưa đã thể hiện sự tập trung tư tưởng triết học của hệ thống chỉnh thể, tư
tưởng này cũng được học thuyết phong thủy vận dụng. Học thuyết phong
thủy đầy đủ tính chỉnh thể chú ý đến hoàn cảnh.
(2) Nguyên tắc sát núi liền sông. Sát núi liền sông là một trong những
nguyên tắc cơ bản nhất của học thuyết phong thủy. Hình thức sát núi của
những sơn thôn chủ yếu là “đất bao nhà”, ba mặt đều có núi bao quanh, trong
nóng có mát, cửa hướng về phía nam, nhà ẩn trong lùm cây. Nguyên tắc sát
núi liền sông cũng là địa hình núi mà dân gian thường nói phải lựa chọn “Trái
là thanh long, phải là bạch hổ, phía trước là châu hạc, phía sau là huyền vũ”,
địa hình núi, có bạch hổ ngẩng đầu, có thanh long cao vạn trượng. “Huyền
vũ” đại biểu cho phía sau là núi cao, “thanh long”, “bạch hổ” đại biểu cho hai
bên trái phải phải có núi, “chu hạc” đại biểu cho sông ngòi. Khu vực có nước
là nguồn cho vạn vật sinh sôi là sự cần thiết quan trọng cho sinh mạng con
người, cho nên xem trọng việc liền sông.
(3) Nguyên tắc lưng quay về bắc mặt quay về nam. Đây là nguyên tắc
“lập hướng” trong thuật phong thủy, “lập hướng” là hướng để xây dựng nhà
cửa. Lập hướng nhấn mạnh lưng quay về bắc mặt quay về nam, có thể khiến
cho vật xây hứng được đầy ánh sáng mặt trời chiếu vào, đồng thời lại có thể
tránh gió bắc vào mùa đông lạnh lẽo. Dân gian có ngạn ngữ “nhà lưng quay
về bắc mặt quay về nam, sống tốt hưởng phúc”, “nhà quay về hướng nam,
người hướng về ánh mặt trời”, “lưng quay về bắc mặt quay về nam, đông ấm
hạ mát” v.v… có thể thấy rằng dân gian đối với nguyên tắc này là vô cùng
xem trọng.
(4) Nguyên tắc kiểm nghiệm địa chất. Thời xưa khi có thầy phong thủy
xem đất đai đích thân đến hiện trường, dùng tay nghiền đất, dùng miệng nếm
thử đất, thậm chí còn đào một cái giếng đất để thăm dò lớp đất và nguồn
nước, dán tai vào đất để lắng nghe hướng và tiếng nước chảy, trên thực tế là
dựa vào kinh nghiệm để tiến hành kiểm tra đất. Lí luận phong thủy gọi những
ngôi nhà được dựng trên những vùng đất mà hoàn cảnh tự nhiên cấm kị là
“hung trạch”, đây là nhà mà bất cứ người nào vào đó ở đều sẽ sinh bệnh.
Dân gian gọi đó là “nhà ma” hoặc “nhà bệnh” v.v… Ngày nay dựa vào sự
nghiên cứu và phân tích khoa học, đã chứng minh do những nguyên nhân
sau tạo thành: thứ nhất là trong thổ nhưỡng có hàm chứa nguyên tố vi lượng
như kẽm, môlypđen, sêlen, flo v.v…, dưới tác dụng của quang hợp phản xạ
vào không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người; thứ hai
những vùng đất ẩm ướt và hôi thối là vùng đất nuôi dưỡng vi khuẩn, là nguồn
gốc gây ra các loại bệnh như viêm khớp, bệnh tim tính phong thấp, bệnh
ngoài da v.v…; thứ ba là ảnh hưởng của từ trường địa cầu. Địa cầu là tinh
cầu được bao quanh bởi từ trường, con người không cảm giác được sự tồn
tại của nó, nhưng lúc nào nó cũng phát sinh tác dụng đối với con người. Từ
trường mạnh có thể trị bệnh, cũng có thể làm tổn thương con người, thậm chí
có thể dẫn đến choáng đầu, buồn ngủ hoặc thần kinh suy yếu; thứ tư là ảnh
hưởng của sóng có hại. Nếu sống ở nơi cách 3m dưới mặt đất có mạch nước
ngầm, hai dòng chảy đan xen nhau, hang hốc, hoặc có kết cấu đất phức tạp,
đều có thể phóng xạ ra sóng trường chấn, tia bức xạ phức tạp hoặc hạt tử
lưu, dẫn đến các triệu chứng đau đầu, choáng váng, nội phân tiết không đều
v.v… Theo nguyên tắc kiểm nghiệm địa chất thời xưa nói, không nên động
thổ trên đất “thái tuế”. Theo nghiên cứu, “đất thái tuế”, địa chất học gọi là đất
bành nhuận (tục gọi là đất nở). Đặc điểm lớn nhất chính là gặp nước thì phình
to ra; sau khi hấp thu đầy nước, đất có thể phình to ra gấp hai lần. Sau khi
thoát nước ra hết, thể đất sẽ co lại như hình dạng ban đầu. Dựng nhà trên đất
này sẽ không được vững chắc. Cho dù là những vật liệu xây được cắm sâu
trong đất nở, thì nhà cũng sẽ bị nứt. Thầy phong thủy ở nông thôn cũng xem
đất màu đỏ, hắc sa, cát sỏi đá dăm là “tử thổ”, vì dòng nước chảy ra từ trong
thổ nhưỡng này đều khiến cho người buồn nôn, không thể dựng nhà trên
những vùng đất này.
(5) Nguyên tắc phân tích chất nước. Phân tích chất nước thời xưa gọi
là “biện thủy”. Vì chất nước có tốt xấu, ở những vùng đất khác nhau thì nước
hàm chứa nguyên tố vi lượng và hợp chất khác nhau, có những chất có thể
gây bệnh, có những chất có thể trị bệnh, cho nên phải phân biệt chất nước.
Làm thế nào để phân biệt chất nước? Người xưa đã tích lũy rất nhiều kinh
nghiệm phong phú. Từ trước “Quản Tử Địa Viên” đã cho rằng: tính đất quyết
định tính nước, từ màu sắc của nước có thể phán đoán ra chất lượng của
nước, nước trắng là ngọt, nước vàng là hôi thối, nước đen là đắng. Ngày nay
đã có sự kiểm nghiệm hóa học, vừa có thể hóa nghiệm ra loại nước khoáng
có ích hay có hại cho cơ thể con người.
(6) Thương nghiệp lựa chọn địa điểm cầu kì, phải hướng về ánh mặt
trời, thuận đường, thuận mắt, số lượng người đi qua con đường này phải
đông.
(7) Xem trọng lập hướng cửa. Cửa lớn, chính là cửa giữa. Nó là tiêu
chí quan trọng để phân cách giữa trong và ngoài, là bức bình phong và cửa
đầu tiên khi bước vào nhà, cho nên thầy phong thủy từ trước đến nay đều
xem trọng lập hướng của cửa lớn. Dân gian thông thường dựng hướng cửa
về 3 hướng đó là hướng nam, đông nam và đông, tục gọi là “tam kiết
phương”, hướng đông nam là hướng tốt nhất, tục xưng là “cửa thanh long”.
Đối chiếu với vị trí cửa truyền thống của dân cư, đa phần tương hợp với cách
nói này.
“Phong thủy” trên thực tế là học cách lựa chọn môi trường, vẫn là yêu
cầu cần thiết của kiến trúc hiện đại. Chúng tôi cho rằng, phong thủy học là
một ngành có giá trị học thuật và thực dụng quan trọng, đây cũng là ứng dụng
đầu để nghiên cứu dân tục học.
2. Nghi thức đặt móng
Nghi thức đặt móng khi xây văn phòng kinh doanh và xây nhà không
giống nhau. Nghi thức đặt móng bao gồm trình tự sau đây:
(1) Lựa chọn ngày tốt, đa số đều chọn ngày thống nhất đất nước, ngày
quốc khánh hoặc những ngày có ý nghĩa kỉ niệm.
(2) Bố trí hoàn cảnh. Ở nơi thi công treo bức hoành ngang (cũng có thể
là kiểu đứng, tùy theo hoàn cảnh mà định) bằng vải đỏ, trên tấm vải viết hoặc
dán những chữ “chúc mừng lễ đặt móng X”. Xung quanh có thể cắm những lá
cờ màu sắc, hoặc treo một vài khí cầu nhỏ.
(3) Kế hoạch mời khách, đại biểu đơn vị thi công và các đơn vị anh em
đến tham dự nghi thức đặt móng, lãnh đạo đơn vị đọc lời chúc mừng.
(4) Lãnh đạo và quan khách đều cầm xẻng xúc đất, tiêu biểu cho việc
đặt móng.
(5) Chụp hình lưu niệm.
Nghi thức đặt móng đến đây là kết thúc. Sau đó, có thể sắp xếp buổi
tọa đàm và yến tiệc.
Cá nhân xây nhà thông thường gọi “đặt móng” là “động công” hoặc
“động thổ”. Đa số tộc Hán ở nông thôn vẫn còn giữ nghi thức đặt móng khi
xây nhà, thông thường trên nền nhà đặt một hòn đá đặt móng màu xanh, trên
đó viết năm chữ lớn “Thái sơn thạch cảm đương”, ngụ ý là có thể trấn giữ ma
quỉ, ngăn ngừa tai họa. Truyền thuyết có liên quan đến “thạch cảm đương” rất
nhiều, thứ nhất là Nữ Oa đã giúp Hoàng Đế đánh bại thần đá của Xi Vưu tạo
ra, thứ hai là tên thụy “Thạch tướng quân” hóa thân của Khương Tử Nha, thứ
ba là lực sĩ Áp Nha của Phổ Tổ thời Ngũ Đại, dân gian truyền rằng anh là một
anh hùng dũng cảm thần kì. Kì thực, khảo sát nguồn gốc của “Thái sơn thạch
cảm đương”, đây là phong tục còn sót lại của sự sùng bái đối với núi, đá thời
nguyên thủy. “Cảm đương” có ý nghĩa là “thiên hạ vô địch”, chính là chỉ đất
vững chắc như đá. Thời thượng cổ cũng có dân tộc họ Thạch, có thể từ
những người thợ đá của thời đại đồ đá chuyển hóa ra. “Thạch cảm đương” là
sự sùng bái đá, biến thành “vật trấn tà”. Còn trước chữ “thạch cảm đương”
cộng thêm chữ “thái sơn”, đây là truyền thuyết thời cổ đại khi hoàng đế phong
thần cho Thái sơn, sau này những đế vương ở các thời đại khác cũng phong
thần cho Thái sơn, tôn sùng Thái sơn chí tôn mà ra. Dân gian sùng bái Thái
sơn đứng đầu là ngũ nhạc, gọi nó là “thiên hạ đệ nhất sơn”. Vì thế, đá Thái
sơn, không giống như đá bình thường, có thần lực kì lạ như trấn tà, thắng lợi,
thêm phúc v.v… Phong tục tín ngưỡng của dân tộc Hán đối với “Thái sơn
thạch cảm đương” được lưu truyền lại như thế. Ngày nay có một số nơi chỉ
dán câu đối ở nơi động công để biểu thị chúc mừng.
3. Nghi thức lên cột nhà
Ngày nay xây nhà cơ quan phần nhiều là kết cấu bê tông cốt thép,
chẳng có “cột” gì cả cho nên cũng chẳng có ngày “lên cột nhà”, nhưng lại có
ngày “đóng mái”. Ngày đóng mái là ngày hoàn thành nhiệm vụ thi công khung
của công trình (đổ khuôn đúc xi măng) vô cùng náo nhiệt, nếu “đóng mái”
xong trước thời hạn, đơn vị xây dựng còn có phần thưởng nhất định cho nhân
viên thi công. Ngày nay, đa số tại hiện trường thi công đều treo biểu ngữ lớn
màu đỏ để chúc mừng, mời tiệc công nhân.
Ở nông thôn, xây nhà đa số chọn kết vật liệu là gỗ, vì thế rất xem trọng
ngày “lên cột nhà”. Vào ngày này, cũng phải treo câu đối lớn màu đỏ và
chuẩn bị trước bánh trôi màu đỏ để tặng cho bạn bè láng giềng. Có nơi còn
thết tiệc đãi bạn bè và kiến trúc sư.
4. Rượu đãi công
Rượu đãi công là cách gọi chung của tiệc thết đãi thợ và người làm
giúp. Tục này lưu hành ở rất nhiều nơi của Trung Quốc. Dân gian dựng nhà,
người làm thứ nhất là thợ, thứ hai là người làm giúp. Chủ nhà chiêu đãi rất
hậu đối với họ, một ngày ba bữa cơm, mỗi bữa ăn đều có thức ăn ngon, trong
đó còn phải có rượu khai công, rượu lên cột nhà, rượu viên công. Thông
thường phí dụng rất nhiều, dân gian có ngạn ngữ “không có rượu ủ ba năm,
không thể dùng thợ”. Ngày nay có một số nhà tuy việc xây nhà giao cho thầu
công trình, ngày thường không lo việc cơm nước, nhưng vẫn phải mời rượu
đãi công.
Rượu khai công là ngày động công, chủ nhà thết tiệc đãi khách.
Rượu lên cột nhà rất được dân gian xem trọng. Có một số nơi lấy việc
lên cột nhà làm tiêu chí hoàn công nhà mới, rượu lên cột nhà cũng gọi là
rượu viên công. Có một số nơi vào buổi trưa hoặc buổi tối ngày lên cột nhà
thì thết tiệc, trong nhà mới bày “rượu lên cột nhà”. Chủ nhà ngoài việc tặng
bao lì xì cho ông thầu còn phải nói lời cảm ơn đến thợ, người làm giúp và các
khách mời, ngoài ra còn tặng thuốc thơm, cau trầu, kẹo v.v… (thời xưa là
“bánh lên cột nhà”), đồng thời còn phải tặng những món quà nhỏ cho láng
giềng. Khi các khách mời trở về, chủ nhà còn phải lấy những lễ vật mà họ
mang đến chúc mừng, trích ra một phần để hoàn tặng lại họ, không thể lấy
hết.
Rượu viên công là rượu hoàn công nhà mới (viên có ý nghĩa là “hoàn”)
dùng để uống chúc mừng sau khi hoàn công. Qui mô của rượu viên công phải
lớn hơn rượu đãi công, mời người đã giúp đỡ trong việc xây nhà để biểu thị
lòng cảm ơn. Có nơi vào ngày rượu viên công, còn phải mời bạn bè chưa
từng đến giúp lần nào để chúc mừng nhà mới xây; nếu không phải là người
có địa vị, thông thường không nên mời thiệp, chỉ gọi điện thoại hoặc đến mời
trực tiếp là được. Khu vực Ôn Châu vào ngày dời đến nhà mới thì bày rượu
viên công, xây bếp lò mới phải chia bánh trôi, buổi tối bày “rượu viên công”,
cũng gọi là “rượu xây nhà”, mời thợ xây nhà và bạn bè đến chung vui.
5. Lễ trồng cây mừng nhà mới
Ở Trung Quốc từ cổ chí kim đều xem trọng cảnh quan xung quanh nhà
mình. Nó cũng có thể là bình phong chắn gió tốt, bảo vệ thôn trang, làm đẹp
khung cảnh, gọi là “cây phong thủy”. Có một số nơi cây phong thủy được xem
là “cây thần” bảo vệ.
Thông thường, mọi người định ra cách làm thích hợp với từng nơi, có
nơi trồng xung quanh nhà những loại cây cỏ có tuổi thọ lâu năm, tượng trưng
cho sự khỏe mạnh trường thọ như cây tùng, bách, mai, hoa hồng, cây du,
hoa anh đào, sơn trà, đỗ quyên v.v…, vừa có thể chặn gió chống lạnh, có ích
cho sức khỏe cơ thể, vừa tạo cảnh quan tươi đẹp, có thể gọi là nhất cử đa
tiện. Có nơi trồng nhiều cây chương, cây phong, ngân hạnh v.v…, luôn luôn
cùng với khe suối, ao hồ, đình hóng gió, cầu v.v… hợp thành một thể.
Nơi nào trồng cây gì cũng đều có qui củ. Đặc tính của cây cối hoa cỏ
không giống nhau. Cây mận thích ánh sáng mặt trời, kị trồng ở phía bắc của
nhà; cây mơ sợ úng, ở phía đông nhà không nên trồng; cây du sinh trưởng
nhanh, nhánh lá nhiều, trồng ở sau nhà có lợi cho việc chặn gió, chống lạnh,
hấp thu khí độc cực mạnh, khói bụi, trồng ở sau nhà có đủ khả năng làm
trong sạch hóa không khí bảo vệ môi trường.
6. Lễ tục chúc mừng người xây nhà
Dựa theo lễ chế truyền thống và nghi lễ xưa ước định, khi gặp việc tốt
như xây nhà đặt móng, lên cột nhà, đóng mái và chuyển đến nơi ở mới thì họ
hàng bạn bè, hàng xóm láng giềng đều đến chúc mừng và biểu đạt tình cảm
“có vui cùng hưởng”. Trên thực chất nó là nguyên tắc giáo dục của lễ và hòa
của người xưa, theo đuổi cảnh giới tư tưởng “nhân ái là tốt đẹp”. “Nhân ái” là
trong xóm làng có lễ tục nhân hậu. Không chỉ trong gia đình, gia tộc đều cha
hiền con thảo, anh em thuận hòa; mà giữa làng xóm cũng nên hòa mục tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Khi hàng xóm giúp đỡ lên cột nhà, dời chuyển đến nơi
ở mới chính là và thời cơ tốt nhất để biểu đạt tình cảm. Lễ tục này ngày nay
vẫn còn được lưu truyền rộng khắp, chủ yếu biểu hiện mấy điểm như sau:
Thứ nhất ở một số nơi, ngày nay vẫn còn lưu giữ phong tục tốt đẹp một
khi xây nhà mới, làng xóm bạn bè đều đến giúp đỡ. Sự giúp đỡ là tình
nguyện, chủ nhân cũng không cần trả tiền công, bất luận ai xây nhà, cho dù
lúc trước có xảy ra những chuyện không vui vẻ, nếu không đi giúp một tay,
cũng cảm thấy áy náy không yên lòng. Vì sự giúp đỡ này mà trong lòng mọi
người đều vui vẻ, biểu hiện tình cảm thân thiết của nhân dân lao động.
Thứ hai, họ hàng bạn bè tặng khoản tiền lớn giúp đỡ. Đối với một gia
đình, phí xây nhà thường rất nhiều, thông thường tiền bạc xây nhà là vấn đề
rất căng thẳng, lúc này họ hàng bạn bè đều sẽ tặng khoản tiền lớn giúp đỡ,
người có nhiều thì tặng nhiều, có ít tặng ít.
Thứ ba là tặng lễ vật. Ở nông thôn vào ngày khai công và ngày lên cột
nhà, họ hàng xóm giềng đều đến tặng lễ vật chúc mừng. Những lễ vật tặng
đều là thức ăn cần thiết để chiêu đãi thợ và người làm giúp, có nơi gọi là
“dâng điểm tâm”. Thức ăn vì những vùng khác nhau mà có nhiều loại khác
nhau, như gạo, mì, rượu, gà, thịt, cá, rau cải v.v…, cũng có nơi tặng bao lì xì
(tiền). Lên cột nhà là lễ nghi quan trọng khi xây nhà. Khi tặng lễ vật phải
nghiên cứu những vật có ngụ ý kiết tường, như bánh Định Thăng, bánh màn
thầu Hưng Long v.v… đều có hàm ý hưng vượng long thịnh, từng bước lên
cao. Có nơi còn tặng hai cây mía, đây là chúc nguyện chủ nhà sau khi xây
nhà mới sống một cuộc sống ngọt ngào giống như từng khúc mía.
Thứ tư là tặng lễ phẩm chúc mừng, thông thường là câu đối, bức
trướng chúc mừng. Người chủ trì lên cột nhà phải ở giữa chính diện treo bức
trướng chúc mừng, ở hai bên cột nhà dán hai câu đối.
Thứ năm là tham dự nghi thức chúc mừng, như là nghi thức đặt móng,
lên cột nhà, họ hàng làng xóm đều đến tham dự dể tăng thêm bầu không khí
chúc mừng.
Đương nhiên, cùng với sự tiến bộ của thời đại và sự phát triển của xã
hội, những lễ tục trên đây hoặc nhiều hoặc ít vì thời gian, khu vực mà có sự
thay đổi.
7. Lễ nghi văn thể xây nhà
(1) Phương thức điêu khắc của đá đặt móng
Những kiến trúc cao tầng, thông thường đều có đá đặt móng. Đá đặt
móng phần nhiều được đặt ở phía dưới bức tường chính diện của công trình.
Đá đặt móng trên đó khắc hai chữ lớn “Đặt móng”, hai bên trái phải hoặc trên
dưới đều có khắc tên đơn vị và ngày tháng.
* Phương thức khắc đá đặt móng có ba loại:
1. Phần giữa của đá đặt móng khắc hai chữ lớn “Đặt móng”, phía trên
hoặc bên phải khắc tên đơn vị hoặc công trình,- bên dưới hoặc bên trái khắc
ngày đặt móng hoặc ngày thi công, như:
Đập
Thập
Tam
Lăng
Đặt
Móng
Ngày
11
Tháng
9
Năm
2008
2. Trên đá đặt móng khắc tên đơn vị xây dựng, phần giữa khắc tên
công trình, phần dưới khắc tên đơn vị thi công hoặc ngày thi công. Ví dụ:
Công ty TNHH XX
Long Tổ Đại Hạ
Công ty kiến trúc XXX xây dựng
Ngày X tháng X năm X
3. Có nơi ở phần giữa của đá đặt móng chỉ khắc tên công trình, bên
phải phía dưới khắc đơn thi công và ngày tháng năm động công, đá đặt móng
kiểu này khắc phần giữa chính diện với công trình, để thu hút người xem như:
Viện khoa học kĩ thuật XX
Công ty kiến trúc XX xây dựng
Tháng 2 năm 2008
Ở nông thôn khi xây nhà, phần nhiều trên nền tường đặt một viên đá
đặt móng màu xanh, ở trên khắc năm chữ lớn “Thái sơn thạch cảm đương”.
(2) Thiệp mời tân gia
Nhà mới xây xong, vui vẻ dọn đến, thết tiệc chúc mừng, gọi là tiệc tân
gia. Thiệp mời tân gia ngoài những yêu cầu phù hợp thông thường của thiệp
mời, nội dung trong đó phải nói rõ địa điểm nhà mới và nơi đãi tiệc. Hình thức
có hai loại là ngang và dọc. Kiểu ngang như sau:
Thiệp mời tân gia:
Thiệp mời
Ông XX:
Trân trọng kính mời đến dự lễ mừng tân gia ở số 4 phường Thanh Bình
đường Tân Hoa vào lúc X giờ sáng ngày 20 tháng này.
XX kính mời
Ngày X tháng X
Thiệp mời tân gia:
Thiệp mời
Ông XX:
Trân trọng kính mời đến dự lễ mừng tân gia vào 11 giờ sáng ngày 27
tháng 9 tại phòng số 204 nhà 12 thôn Quang Vinh
XXX kính mời
(3) Câu đối thường dùng cho việc xây nhà
1. Câu đối đặt móng động công
Phúc lâm kiết dệ
Xuân mãn hoa đường
(Phúc đến an lành
Xuân tràn ngập cửa)
Hoa khai phú quí nhân khai nhãn
Nhật thượng trung thiên ốc thượng lương
(Hoa nở phú quí người mở rộng tầm mắt
Mặt trời lên cao trong ngày lên cột nhà)
Giang sơn tụ tú qui tân dư
Minh nhật quang huy ánh cẩm đường
(Sông núi tụ họp nơi nhà mới
Ánh sáng mặt trăng mặt trời soi sáng rực rỡ ngôi nhà)
2. Câu đối dán cửa
Nhật lệ tân cư noãn
Phong hòa giáp đệ an
(Ngày tươi đẹp ấm áp ngôi nhà mới
Gió hài hòa đem đến bình an)
Môn nghênh xuân hạ thu đông phúc
Hộ nạp đông tây nam bắc tường
(Cửa đón phúc xuân hạ thu đông
Nhà tiếp cát tường đông tây nam bắc)
Tân ốc tạo tựu thiên ban hỉ
Mãn thất hòa mục bách sự hưng
(Nhà mới tạo nên ngàn sự vui
Nhà tràn đầy hòa thuận trăm việc vui vẻ)
Tam dương nhật chiếu bình an trạch
Ngũ phúc tinh lâm kiết khánh môn
(Ba ánh nắng mặt trời chiếu sáng bình an cả nhà
Sao ngũ phúc đến chúc mừng nhà mới)
3. Câu đối dán lên cột nhà
Kiên thiên niên trụ
Giá vạn đại lương
(Cột ngàn năm vững chắc
Xà vạn đời kiên cố)
Sáng nghiệp toàn bằng lao động thủ
Kiến phường tận thị đống lương tài
(Phát triển sự nghiệp hoàn toàn dựa vào sức lao động của đôi tay
Xây dựng nhà cửa đều dựa vào nguyên liệu làm cột nhà)
Kiết tinh cao chiếu
Phúc địa trình tường
(Sao an lành trên cao soi chiếu
Đất phúc lành hiện rõ kiết tường)
4. Câu đối mừng tân gia
Tân cư nghênh bách phúc
Nhân trạch tập thiên tường
(Nhà mới đón trăm phúc
Nhà hiền tập trung ngàn kiết tường)
Phong hòa tân cư noãn
Nhật lệ giáp đệ an
(Gió xuân ấm nhà mới
Ngày tươi đẹp an lành)
5. Bức hoành phi mừng tân gia
Kiết tinh tại hộ
Hưng cư an kiết
Tứ quí bình an
Bình an như ý
Khai môn đại kiết
Kiết tinh cao chiếu
IV. LỄ TỤC CHÚC MỪNG DỌN ĐẾN NHÀ MỚI
1. Lễ tục dọn đến nhà mới
Dọn chỗ ở, dân gian cũng gọi là dọn nhà, là chỉ quá trình từ chỗ ở cũ
dời đến nơi ở mới. Lễ tục dọn nhà mỗi nơi đều có, là một việc vô cùng vui vẻ,
nhưng cũng tồn tại những khác biệt mang tính địa phương.
Dọn nhà phải chọn ngày lành tháng tốt. Khi dọn nhà, do chủ nhân phải
dọn hết đồ đạc ở nơi ở cũ, nên nhờ một người vận chuyển giúp. Ở nông thôn
vùng Ôn Châu, dọn đến nhà mới phải chọn lựa thời gian, đốt pháo, và chuẩn
bị gạo một gánh, hạt ngũ cốc năm bao, thảo tịch, bàn tính, cân v.v… Do cả
gia đình dựa theo trình tự mà gánh đi, thành đội rảo quanh nhà một vòng. Có
nơi còn mang cả heo, dắt trâu cùng tham dự nghi thức, biểu thị sau khi dọn
đến nơi ở mới, mọi người sẽ an khang hưng vượng. Ở vùng Thiên Tích
Quảng Đông, khi dọn nhà vẫn phải tổ chức nghi thức truyền thống, có sáu lễ
vật phải chuẩn bị trước: thứ nhất là gạo, dùng vật dựng đầy đến tám phần;
thứ hai là lợi (tiền), đặt lên trên hũ gạo, biểu thị vừa có tiền vừa có lương
thực; thứ ba là nước; thứ tư là bát đũa, cho vào thùng nước; thứ năm là bếp
lò; thứ sáu là cái sảy, quét một quét, để trừ đi những vật ô uế, ngoài quét dọn
nhà mới ra, còn có nghĩa quét dọn cả những nguồn nước dơ bẩn. Còn có
người đem đến mô hình bằng đất sét của ngôi nhà cũ, nói rằng có thể thích
ứng với thủy thổ nơi ở mới. Khi dọn nhà phải chú ý “quá hỏa”, tức là đem lửa
từ nơi ở cũ đến nơi ở mới.
Ở thị trấn Hồ Nam, vào ngày này, chủ nhà phải chuẩn bị mời bạn bè
thân giúp đỡ, tiến hành nghi thức, bắt đầu là dùng chậu lửa hoặc bếp lửa từ
nơi ở cũ mang lửa đến nơi ở mới, nếu là buổi tối, phải có người thắp lửa từ
nơi ở cũ chuyển sang nơi ở mới, không được để lửa bị tắt dọc đường. Ngoài
ra, khi lập bếp lò, dân gian cũng có nghi thức chúc mừng tương ứng và
những nghi thức đặc thù để biểu hiện tình cảm chúc mừng giữa hai bên.
Dân gian kị phụ nữ mang thai đến tham dự việc dọn nhà, nói rằng sợ
động đến thần thai, thực tế là để bảo vệ phụ nữ mang thai. Hơn nữa khi dọn
nhà không nên tức giận, không thể nói những lời không kiết tường, không
thhể đánh vỡ các vật như chén bát, gương, điều này là cầu một điềm lành
bình an kiết tường.
Bày tiệc chúc mừng là trọng điểm của lễ tục dọn nhà. Ở thành thị, yến
tiệc chúc mừng dọn nhà thông thường được chiêu đãi ở nhà hàng. Yến tiệc
chúc mừng ở nông thôn thông thường được tổ chức ở nhà mới. Có những
nơi khi bày yến tiệc là để dành cho những thợ xây nhà, gọi là “rượu tạ thầy”.
Trên bàn tiệc “rượu tạ có thợ mộc, thợ sắt, thợ đá, thợ gốm, thợ xếp gạch,
thợ sơn v.v…, ngồi ở vị trí tôn trọng nhất là thợ đá.
2. Lễ tục chúc mừng người dọn đến nhà mới
(1) Tặng lễ vật chúc mừng
Có người dọn đến nơi ở mới thì họ hàng bạn bè và những người có
liên quan đều phải biểu thị sự chúc mừng. Lễ tục quan trọng của việc chúc
mừng là tặng quà. Ngày nay tặng quà chúc mừng giữa thành thị và nông thôn
có rất nhiều khác biệt.
Ở thành thị, nếu khi dọn nhà không tổ chức yến tiệc, lần đầu tiên khi
bạn bè bước vào nhà mới theo thói quen là phải đem lễ vật đến. Nếu nhận
được thiệp mời dự tiệc, đều sẽ đến chúc mừng và tặng quà trước. Quà
thường là tiền mừng được bỏ vào bao lì xì, và ghi tên người tặng trên đó.
Cũng có người liên hệ với chủ nhân, tặng những vật dụng gia đình mà chủ
nhà chưa đặt mua. Có người lựa chọn những lễ vật tùy theo tình hình của
nhà mới, như dọn đến một ngôi nhà rộng hơn hay nhỏ hơn, là nhà mới hay
nhà cũ, đây có phải là ngôi nhà đầu tiên của chủ nhân không, v.v… Vì để biểu
thị sự long trọng, trên lễ vật tặng thường viết tên và những lời chúc mừng.
Nếu quà tặng không phải là một, còn phải kèm theo danh sách tên món quà,
số lượng và kí tên. Vì bạn bè dời đến nơi ở mới tặng chậu cảnh, hoa tươi có
ý nghĩa tượng trưng là lễ tục chúc mừng trong những năm gần đây, thông
thường tặng những cây cối có tuổi thọ lâu năm như vạn niên thanh, cây bách,
cây dương lá to nhỏ v.v…, để chúc “tứ quí thường thanh”, “thanh khiết bình
an”; số cành hoa thường “8” là tốt nhất, ngụ ý tân cư tân phát”.
Người xưa nói: bà con xa không bằng láng giềng gần. Đối với những
người mới dọn về nhà mới, có những người hàng xóm làm một buổi tiệc
nguội với những món ăn như bánh mì sandwich, trái cây, nước lạnh để biểu
thị sự hoan nghênh của mình đối với láng giềng mới. Có người còn tặng cho
thùng thư mới, vòng cửa, biển số nhà hoặc thùng rác, có người còn tặng cho
những vật dụng cần thiết như móc treo đồ, bóng đèn, keo dán, dây điện, giấy
vệ sinh, bút và giấy v.v… Cũng có người tặng vật mài dao, nến, miếng chùi
chân, đồ chơi, dụng cụ làm vườn, kéo, dù, một bộ tách trà, chuông cửa, dụng
cụ nhà tắm, chăn mền, sách nấu ăn… ở nông thôn, khi đến uống rượu mừng
dọn đến nơi ở mới, họ hàng bạn bè cũng phải tặng một món quà. Món quà
lớn nhỏ thông thường tùy theo mối quan hệ với chủ nhân mà định. Ngoài tặng
tiền mừng, cũng tặng vật dụng gia đình như đồ điện gia dụng, chăn nệm,
chén bát, bàn ghế, sô pha v.v…, cũng có người tặng câu đối, bức hoành chúc
mừng, bình phong, bức tranh, pháo v.v… Trước khi chọn mua lễ vật, nhiều
người tìm hiểu sở thích và nhu cầu của chủ nhân, sao cho món quà có thể
khiến chủ nhân yêu thích mà sử dụng, không trở thành những món quà thừa.
Lễ vật thông thường là được tặng sớm hơn một chút, khiến cho chủ nhân có
thể bố trí trong nhà mới.
Bất luận là thành thị hay nông thôn, có những người biết được họ hàng
hoặc bạn bè chuyển đến nơi ở mới, nhưng vì quá xa hoặc những nguyên
nhân nào đó mà không thể đến dự, thông thường sẽ gửi điện để chúc mừng.
Bức thư chúc mừng có thể dài có thể ngắn, không câu nệ hình thức, tránh
việc gửi thư quá trễ hạn.
(2) Câu đối chúc mừng, bức hoành chúc mừng
Mọi người chúc mừng người khác chuyển đến nơi ở mới, thường vận
dụng hình thức câu đối để biểu thị ý chúc mừng. Ở nông thôn Trung Quốc khi
lên cột nhà xây nhà mới, họ hàng bạn bè đều đến chúc mừng, ngoài việc tặng
quà, có người còn tặng câu đối chúc mừng. Khi nhà xây xong hoặc dọn đến
nơi ở mới, chủ nhân thích ở cửa lớn, phòng khách, thư phòng đều dán câu
đối; trong đó không thể thiếu câu đối chúc mừng do họ hàng bạn bè gửi tặng.
Dưới đây là những câu đối chúc mừng nhà mới.
3. Lễ tục văn thể chúc mừng dọn đến nhà mới
(1) Câu đối chúc mừng dọn đến nơi ở mới
Kiết tinh cao chiếu phúc an địa
Thịnh thế túc thành hòa mục gia
(Sao an lành trên cao chiếu nơi phúc an lành
Thời hòa bình tạo nên gia đình hòa thuận)
Tam dương nhật chiếu bình an địa
Ngũ phúc tinh lâm kiết khánh gia
(Ba ánh mặt trời chiếu nơi bình an
Sao ngũ phúc kiết tường chúc mừng nhà mới)
Hoa khai ốc hậu chi chi diễm
Điểu xướng môn tiền trận trận hoan
(Hoa nở sau nhà từng đóa từng đóa xinh đẹp
Chim hót trước cửa từng hồi từng hồi vui vẻ)
(2) Phân loại câu đối chuyển nhà mới
1. Câu đối chuyển nhà mùa xuân
Phúc lâm kiết địa
Xuân mãn hoa đường
(Phúc đến nơi an lành
Mùa xuân tràn ngập khắp nhà)
Yến hạ tân hi
Oanh ca dương xuân
(Chim yến chúc mừng việc mới vui vẻ
Chim oanh ca hát ánh mặt trời mùa xuân)
Tân xuân thiên tân trạch
Phúc địa khải phúc môn
(Mùa xuân mới chuyển đến nơi ở mới
Nơi phúc lành bắt đầu nhà an lành)
2. Câu đối chuyển nhà mùa hạ
Thiên tường vân tập
Bách lộc tính trăn
(Ngàn điều kiết tường đều tập trung lại
Trăm cái phúc lộc đều đến đây)
Môn đối thanh sơn thiên cổ tú
Hộ nghênh lục thủy vạn niên tân
(Cửa đối diện núi xanh ngàn năm xinh đẹp
Nhà đối diện nước biếc vạn năm xanh tươi)
3. Câu đối chuyển nhà mùa thu
Môn hàm tử khí
Thất nhiễm thu hương
(Cửa tràn ngập khí trời tím
Nhà lan tỏa hương thu)
Cúc khai ngũ phúc trạch
Sương nhiễm nhất diệp thu
(Hoa nở nhà ngũ phúc
Sương tỏa chiếc lá thu)
Cư chi an tứ thời kiết khánh
Bình vi phúc bát tiết khang ninh
(Nhà bình an tứ thời kiết tường
Bình an là phúc tám tiết khỏe mạnh)
4. Câu đối chuyển nhà vào mùa đông
Môn đình đa hỉ khí
Gia thất trú tảo xuân
(Gia đình tràn ngập không khí vui vẻ
Cả nhà như ở trong mùa xuân)
Yến lai thiên lí noãn
Mai phóng nhất môn xuân
(Yến đến ngàn dặm ấm áp
Mai nở một nhà xuân)
(2). Bức hoành ngang
1). Bức hoành chúc mừng chuyển chỗ mới
Hợp gia hoan khánh
An cư lạc nghiệp
Tân cư đại kiết
Hỉ khí doanh môn
Xuân quang mãn thất
2). Bức hoành treo ở cửa lớn nhà mới
Vĩnh lạc
Khang ninh
Cảnh thịnh
Tích hiền
Phúc khánh hiên
Vĩnh phúc cư
(3) Bức trướng chúc mừng chuyển nhà mới
Chúc mừng họ hàng, bạn bè xây nhà mới hoặc chuyển đến nơi ở mới,
cũng có thể tặng bức trướng chúc mừng hoặc bức bình phong lồng kính, đặc
biệt bức bình phong lồng kính có thể treo ở phòng khách nhà mới để trang trí
càng thích hợp hơn. Bức trướng chúc mừng và bức bình phong lồng kính có
hai loại là kiểu ngang và kiểu thẳng đứng, trong nội dung ngoài việc viết ra,
trên bức trướng đều phải có đề từ, còn bình phong lồng kính thì không nhất
định phải có. Có loại bình phong lồng kính ở bốn góc còn vẽ hình hoa chim,
chính giữa ghi lời chúc mừng, chỉ cần chọn mua thích hợp là được, có loại
chính giữa không có lời chúc mừng, đây là tấm bình phong dựa theo đối
tượng chúc mừng khác nhau và tự mình viết lời chúc vào.
Bức trướng chúc mừng bạn bè tân gia:
Chúc mừng tân gia anh Ngụy Tân Dân
Kim Ngọc Mãn Đường
Em Trương Khanh Hoa
Kính chúc
Những từ thường dùng trong bức trướng hoặc bình phong lồng kính
chúc mừng (cũng có thể là bức hoành câu đối chuyển nhà mới).
Gia hòa nhân lạc
Vạn sự như ý
Kiết tinh củng chiếu
Mãn viện xuân quang
Phần 4. PHONG TỤC LỄ NGHI ĐÁM TANG
I. LỄ TỤC ĐÁM TANG TRUYỀN THỐNG
Thời xưa khi làm lễ tang phải theo trình tự báo tang, cáo tổ, nhập quan,
lễ truy điệu, động quan, đưa tang v.v… Còn có tập tục làm “đàn tràng”, đốt
“linh ốc”, hát “dạ ca” mình mặc áo sô, tay chống gậy, vừa quì vừa bái v.v…
Câu đối (câu đối viếng người chết) dùng giấy trắng viết, ba chữ lớn “Làm đại
sự" dán ở trước cửa, cho nên làm lễ tang tục xưng là “Bạch hỉ sự”. Tổ chức
bạch hỉ sự, họ hàng làng xóm tự giác đến giúp đỡ, tục xưng là “bình quân chủ
nghĩa”, ngạn ngữ viết “Người chết mở nồi cơm, không mời tự mình đến”.
Ngày nay phong tục tập quán lễ tục tổ chức đám tang thay đổi rất lớn, thường
là hỏa tán. Nhưng bất luận là thổ táng hay là hỏa táng, lễ tang cũng đã đơn
giản đi rất nhiều, ở nông thôn tục thổ táng, hỏa táng rất ít.
Dưới đây xin được giới thiệu một cách đơn giản việc tổ chức tang lễ.
1. Lễ tục đám tang
(1) Lâm chung
Chuyển giường: khi người bệnh lâm nguy sẽ được chuyển từ giường
mình thường nằm trong phòng đến một chiếc giường tạm đã được chuẩn bị
đặt ở giữa nhà, gọi là “chuyển giường”. Tất cả nam nữ đã có con cháu mà
chết, đều gọi là thọ chung. Theo lễ tục xưa, nam giới được đặt ở giữa nhà
chính, nữ giới được đặt ở trong phòng. Nam được đặt ở mé phải của gian
chính, nữ được đặt ở mé trái. Tục chuyển dời đến giữa nhà là cho rằng người
chết có thể chết một cách an định ở nơi tốt nhất trong gia đình. Tục tin rằng
người chết trên giường ngủ, âm hồn sẽ bị kéo ở trên giường, không thể siêu
thoát. Vì thế, người vị thành niên chết yểu, tuy không được dời ra gian nhà
chính, cũng được dời đến nơi trước chiếc giường. Trong nhà có trưởng bối,
cũng không được dời ra giữa gian nhà chính mà phải dời đến gian nhà bên.
Người được chuyển giường, đều biết sắp lìa khỏi nhân thế, gọi người nhà
đến trăn trối, phân chia tài sản, người trong gia đình chuẩn bị lo việc hậu sự.
Lập lụa hồn: người sau khi chết, trên thân được phủ lên một tấm “mền
nước” (là một chiếc mền vải trắng chính giữa đính một miếng lụa đỏ), lấy giấy
tiền vàng bạc hoặc hòn đá làm gối nằm, bên cạnh chân người chết cúng
“cơm cước vĩ” (một chén cơm, trên chén cơm đặt một trứng vịt và cắm một
đôi đũa), đốt giấy tiền vàng bạc và thắp hương, ngụ ý để làm thức ăn, lộ phí
và soi sáng đường đi. Ngoài ra dùng giấy dày hoặc vải trắng, trên đó viết họ
tên người chết, ngày tháng năm từ trần, làm bài vị “lụa hồn” tạm thời, cúng ở
một góc của gian nhà chính, đốt nến thắp hương, gọi là “lập lụa hồn”.
(2) Mở đường hồn
Khi người thân hấp hối hoặc sau khi chết, lập tức mời thầy đến đọc
kinh “mở đường hồn”. “Phướn đám ma” do thầy tăng làm ra, nam thì màu
xanh lục, nữ thì màu vàng, là tấm vải trắng dài khoảng ba bốn thước, trên đó
viết danh tánh của người chết, ngày tháng năm sinh và mất, lại lấy một nhánh
trúc treo lên, khi lễ tang do tang chủ cầm cờ phướn, làm tiêu chí dẫn đầu, khi
trừ linh thì thiêu đốt.
Xin nước: sau khi người chết, người nhà mặc đồ tang, đi đến bờ sông
“xin nước”. Khi múc nước lấy một đồng xu ném xuống sông, ngụ ý là mua
nước. Sau khi mang nước về nhà, dùng cành trúc gắp tấm vải trắng nhúng
vào, “người tốt số” có cha mẹ song toàn lấy nước này lau tắm người chết,
hoặc chỉ làm tượng trưng.
Phủ áo: tiếp đó chải đầu và mặc áo cho người chết, gọi là “trương
xuyên”, cái lược đã sử dụng thì bẻ gãy, một mảnh bỏ trên dường, một mảnh
để lại trong quan tài. Mặc thọ y cho người chết, thời xưa dựa vào địa vị sang
hèn mà mặc ba lớp, năm lớp hay bảy lớp v.v… Thọ y là do con cháu tặng
trong lễ chúc thọ của người chết khi còn sống, thọ y của người nữ là “áo màu
trắng, váy màu trắng” mặc khi xuất giá. Thọ y của nam phải dùng hai chiếc
quần, nữ dùng ba chiếc váy. Nội y mặc cho người chết tục gọi là “thiếp nhục
lăng”, bằng lụa mềm, tổng cộng có ba chiếc quần lót và vớ, do con gái phụ
trách công việc này. Trước khi trương xuyên có tục “phủ áo”, dùng để chỉ tang
chủ chọn nghi thức mặc thọ y. Thông thường ở gian nhà chính hoặc ở cửa
đặt một vật đựng hình bẹt đan bằng tre, bên trong đặt một chiếc ghế dựa
thấp, tang chủ mặc quần áo đội nón mang giày dép, đứng trên chiếc ghế, tay
cầm dây thừng giơ hai tay ra hai bên, sau đó do một người cùng bậc khác,
lấy từng cái thọ y mặc vào tay tang chủ, tang chủ dùng dây thừng cột chặt lại,
cuối cùng bỏ tay ra thành toàn bộ. Lại làm trạng thái giống cái cân, miệng
niệm những câu kiết tường của thọ y.
Trừu thọ: sau nghi thức phủ áo, còn có tục trừu thọ, là thọ chủ và người
nhà cùng ăn mì (mì thọ) nấu bằng đường đen hoặc đường đỏ. Đường vốn
dùng cho việc tốt lành, việc tang lễ trái lại cũng dùng đường, mượn danh
nghĩa này để lấy hung hóa kiết. Sở dĩ gọi là trừu thọ vì dân gian cho rằng tuổi
của người chết có thể cộng vào tuổi thọ của con cháu, là một điềm lành.
Khốc lộ đầu: sau khi người chết đi, toàn gia đình họ hàng người thân
vây xung quanh người chết khóc than thương tiếc. Khi người chưa chết
nghiêm cấm khóc trước mặt họ, để tránh sự kích động ngoài ý muốn. Con gái
đã xuất giá, nhận được tin báo tang, lập tức trở về nhà. Trên đường đi khóc
than thương tiếc gọi là “khốc lộ đầu”, khi được người thân tiếp đón vào nhà,
thấy sự tang thương gào khóc thảm thiết, không khí càng thêm thê lương.
Báo ngoại tổ: mẹ mất, báo tang cho ngoại tổ gọi là “báo ngoại tổ”. Lúc
này vì có đeo vải trắng, nên cũng gọi là “báo bạch”. Ngoại tổ cho đến tang gia,
con cháu quì xuống đón tiếp, xưng: “tiếp ngoại tổ”. Lúc này, ngoại tổ đến
trước người con của mình đã sinh ra kiểm tra tỉ mỉ, thỉnh thoảng cho rằng con
cái còn nhiều thiếu sót, nên có lời trách mắng, thuận tay cầm gậy đánh, không
hề dung thứ, đủ thấy quyền hạn của ngoại tổ đối với tang gia lớn như thế nào.
Ngoại tổ không đến tang gia, có thể nhờ họ hàng bên ngoại khác. Mẹ chết,
con cái tiếp cậu, mợ xưng là “an ngoại gia”, hoặc “an ngoại khách”. Lúc này,
trước cửa tang gia bài trí một cái bàn, mặt sau của tấm khăn trải bàn cột lại,
trên bàn tuy đặt nến, lư hương, nhưng lại không thắp, hiếu nam đợi quì mà
tiếp. Ngoại gia về chịu tang thì mở một góc của khăn trải bàn, rồi bước vào
tang gia. Nếu không có ngoại tổ, phải do cậu mợ đến hành sự. Đợi ngoại gia
sau khi bước vào tang gia xong, mới có thể làm lễ nhập quan.
Canh giữ thi thể: thời gian sau khi chết cho đến khi nhập quan, tang
chủ phải đợi toàn bộ người nhà đến bên cạnh hầu hạ người chết, gọi là “canh
giữ thi thể”, để biểu thị lòng hiếu thảo. Sau khi nhập quan, họ hàng bà con
ngủ bên cạnh quan tài, gọi là “khốn quan tài”.
Mai táng: người chết chưa khâm liệm cho đến khi bạn bè đến viếng và
chia buồn, gọi là “mai táng (lấy âm)”. Trong đám tang chỉ hạn chế thắp hai cây
hương. Những lễ vật mà bạn bè đem đến cúng, gọi là “dâng kính lễ”, đa phần
là câu đối viếng người chết, túi thơm, nến bạc lớn, cao tử phong (là dùng giấy
trắng bao nến trắng, giấy tiền vàng bạc, bánh, hương v.v…), để làm điếu
tang.
Mua cỗ ván thọ: khi mua quan tài tránh nói là mua quan tài, mà gọi là
“mua đại thổ (nhà cao)”, “mua cỗ ván thọ” để có sự kiết tường. Trên đường
vận chuyển quan tài, khi qua cầu và ngã tư, phải rải giấy tiền vàng bạc và một
tấm vải đỏ, gọi là “rải giấy”, khi làm lễ tang cũng phải rải giấy. Sau khi đưa
quan tài về nhà thì đốt giấy tiền vàng bạc “nhận quan tài”, kính đặt trong nhà.
Vi khố tiền: sau khi nhận quan tài thì làm nghi thức “vi khố tiền”. Khố
tiền còn gọi là “khố tùy thân”, là tiền âm phủ, do họ hàng người thân đốt, khố
tiền và khố quan, khố sử được làm bằng giấy. Tro của khố tiền đốt xong thì
chôn bên mộ. “Vi khố tiền” phải đốt nhiều, để nhờ người chết chuyển cho
những người họ hàng đã chết trước đó, gọi là “kí khố”.
Để tang: tang gia trên cột cửa treo tấm giấy trắng “đeo tang”, cha chết
thì dán xéo bên trái, mẹ chết thì dán xéo bên phải. Ngoài cửa còn dán “cáo
phó”, ghi rõ danh tánh người mất và ngày tháng năm mất, năm sinh.
(3) Nhập quan
Nhập quan là chỉ sau khi đặt người chết ở gian chính từ một đến hai
ngày thì mời đạo sĩ lựa chọn thời khắc tốt lành, đem thi thể đặt vào quan tài.
Từ sinh: trước khi nhập quan, phải chuẩn bị 12 bát thức ăn cúng tế
người chết, gọi là “từ sinh”. Ngoài ra đối với người chết còn biểu thị lễ cáo
biệt. Sau khi cúng thức ăn xong, đạo sĩ gắp thức ăn cho vào bát, miệng niệm
câu kiết tường.
Giữ lại tiền sau khi chết: trước khi nhập quan có tục “giữ lại tiền sau khi
chết”. Tục cho rằng người sau khi chết đi có tiền gửi cho con cháu là điềm
lành. Khi nhập quan trước tiên phải bỏ vào trong cổ tay áo của người chết
120 đồng tiền, sau đó lấy cho vào vật đựng. Lại lấy số tiền đó chia cho con
cháu, cột trên tay mỗi người. Khi người chết “phân chia tiền” hoặc “phân chia
vật” đều có ý nghĩa giống nhau. Phân chia di vật như trang sức, quần áo, tiền
bạc v.v…, con cháu đều vô cùng trân trọng.
Cắt lụa: trong tục lệ đám tang có tục “cắt lụa”, là một dải lụa dài một
đầu cột trên thân người chết, một đầu kia do bà con họ hàng mỗi người cầm
một đoạn, khi thầy niệm câu kiết tường thì sẽ cắt đứt một đoạn lụa, sau đó
mỗi người cho khúc lụa ấy vào giấy bạc gói lại đem đốt. Dân gian cho rằng
như vậy là có thể đoạn tuyệt với linh hồn người chết, để tránh sau này linh
hồn còn vương vấn quấy nhiễu.
Tẩy tịnh: trong đám tang, đạo sĩ lấy một cái chậu đổ dầu mè đen vào,
mỗi người trong tang gia dùng đầu ngón tay chấm nước này quét trên chỗ
lông mày, gọi là “tẩy tịnh” tức rửa sạch. Nhập quan, phát tang, khi làm công
đức đều có tục lệ này.
Thu điểu: khi nhập quan, mời đạo sĩ đến cúng tế, tục gọi là “thu điểu”.
Sau khi thu điểu mới chính thức đóng quan tài. Trước khi di chuyển thi thể
vào quan tài, đầu tiên ở đáy và hai bên quan tài đều rải đầy giấy tiền vàng
bạc. Sau khi nhập quan, trên quan tài phủ “mền nước”, lại phủ lên “phướn
phủ thân”.
Các quan: vì để chọn được ngày lành tháng tốt làm lễ an táng nên
nhiều khi phải trì hoãn rất lâu, việc này gọi là “các quan” hoặc “đình quan”.
Sau khi khâm liệm người chết, trên quan tài phải quét dầu nhiều lần để tránh
ẩm ướt rò rỉ, việc này gọi là “đả thông”. Phong tục các quan, ngày xưa rất phổ
biến, nhưng bây giờ lại hiếm thấy.
(4) Chịu tang
Chịu tang là chỉ bà con họ hàng của người chết mặc áo tang, gọi là
“chịu tang”. Họ hàng của người chết phải cởi bỏ mũ dép, xõa tóc, đi chân
không. Phụ nữ thì cởi bỏ những vật trang sức trên người, không được mặt
quần áo sặc sỡ. Đàn ông thì không mang giày da, không mặt đồ thêu hoa.
Nam nữ mỗi người phải mặc hiếu phục (đồ tang), đội mũ gai. Hiếu tử chịu
tang cấm cắt tóc, phụ nữ không được động phòng, cấm tụ họp bạn bè, mở
tiệc ăn uống v.v… Phong tục chịu tang này, đặc biệt rất nghiêm khắc trước
khi khâm liệm, về sau cho đến “trừ linh” vẫn tuân thủ, lấy nó để làm tiêu chuẩn
hiếu đạo.
Trang phục của hiếu tang như sau:
Gai: vải gai, con trai con gái, con dâu, cháu trưởng nam.
Gai: vải cỏ huyên, cháu nội, cháu ngoại.
Nhạt: vải nhạt, chắt trai (con của cháu nội) và những người cùng bậc.
Vàng: vải vàng, huyền tôn (cháu 5 đời) và những người cùng bậc.
Đỏ: vải đỏ, cháu trai họ gần và con trai. Lễ tang buột vải đỏ cho con
cháu năm đời, hàm chứa ý vinh dự.
Trắng: vải trắng, họ hàng cùng bậc với người chết. Người không có
quan hệ thân thiết thì chỉ lấy vải trắng kèm trên áo, người chính thức mặc áo
vải trắng và đội mũ trắng.
Hiếu mão: người lớn đội “thảo cô” (vải tang quấn thành dạng giống dây
thừng), trẻ con thì đội “bao” (vải tang gấp thành dạng mũ). Hiếu hài (giày):
nam dùng giày cỏ, nữ dùng giày vải, may bằng vải tang.
Mặc trang phục chịu tang, phân ra thứ bậc khác nhau, nam phân làm
bốn màu trắng, xanh dương, xanh ngọc, vàng, lấy chỉ nhung may thành
miếng ngọc bội nhỏ, nam đeo ở cổ tay trái, nữ cài ở tóc. Đợi đến sau khi “trừ
linh” thì mới đổi màu sắc, từ “hiếu nhân bậc lớn” đổi cho “hiếu nhân bậc nhỏ”,
điều này gọi là “hoán hiếu”. Để tang cha mẹ, thời xưa có một trăm ngày phải
mặc áo tang mà không được đem cất, không được cắt tóc. Đợi đến khi qua
một trăm ngày, mới bắt đầu cắt tóc. Dùng sợi vải gai buộc ở cổ tay, đến thất
tuần thì chuyển sang sợi vải trắng, buộc cho đến khi “xả tang” một trăm ngày.
Con gái đã lấy chồng, phương thức chịu tang phần nhiều là lấy tiền của người
chết phân chia cho mình gửi lên bàn linh cho người nhà, khi trở về cho đến
lúc cúng tế thì bắt đầu đeo.
Ma đăng: đèn dùng trong đám tang gọi là “ma đăng”, có các loại sau
đây:
Đại môn đăng: hình tròn chữ xanh đế trắng, hai mặt trước sau viết hai
chữ “đại môn” thể chữ Tống. Treo ở chính giữa cửa lớn.
Cam đăng: chữ xanh đế trắng hình quả cam. Nam thì viết “Hương Ẩm
Đại Tân”, nữ thì viết “Nhụ Nhân”, treo ở hai bên đại môn đăng.
Hiếu đăng: chữ xanh đế trắng hình chóp, mặt trước viết “Kỉ Đại Đại Phu
(mẹ)”. Mặt sau viết tên. Nhìn số đời người chết, lấy giấy trắng đỏ lam và vải
gai, gấp lại theo số đời đốt đi. Người chết sẽ được cộng thêm một đời, nếu
người không có cháu thì gọi là ba đời, người có cháu được gọi là bốn đời.
Đèn này treo sau cam đăng. Khi đưa đám, con cháu cầm đi theo hai bên.
Hồng đăng - không có chữ đế đỏ cỡ nhỏ, còn gọi là “hồng đăng tiểu
hiếu”. Khi đưa đám, họ hàng mỗi người cầm một chiếc.
Ma đăng - vì dùng trúc thay thế, cũng gọi là thác đăng. Lại dùng đèn đỏ
tượng trưng cho cầu kiết tường, đặt trước lam đăng, nhưng đặt sau hồng
đăng, có ý nghĩa lấy hung hóa kiết.
2. Lễ tục an táng
(1) Mai táng
Thời xưa dân gian mai táng đa phần chọn thổ táng, lễ mai táng do thầy
chọn ngày định ra ngày giờ để cử hành.
Xuất sơn: là đưa đám, nghi thức như sau:
Chuyển quan - di chuyển quan tài ra ngoài cửa.
Khởi quan tài - hoặc gọi là “khởi xa đầu”, chuẩn bị các con vật cúng tế
quì bái. Ngoài ra còn có lễ sinh chủ trì lễ nghi, đọc tế văn. Khi tế văn đọc đến
câu cuối “hỡi ôi thương thay, thượng hưởng”, người phúng điếu tế văn phải
ba quì chín bái, tang chủ phải ở sau “tùy bái”.
Phong đăng - lấy nắp quan tài đậy lên quan tài, bốn góc đóng bốn cây
đinh dài. Khi đóng đinh, đạo sĩ niệm đọc câu kiết tường như sau:
Nhất điểm đông phương giáp ất mộc, tử tôn đại đại cư phước lộc.
Nhị điểm nam phương bính đinh hỏa, tử tôn đại đại phát gia hỏa.
Tam điểm tây phương khang tân kim, tử tôn đại đại phả vạn kim.
Tứ điểm bắc phương nhiệm quí thủy, tử tôn đại đại đại phú quí.
Ngủ điểm trung ương mậu kỉ thổ, tử tôn thọ nguyên như bành tổ.
Toàn quan - do đạo sĩ hướng dẫn, hiếu nam hiếu nữ đi xung quanh
quan tài ba lần.
Giảo quan - buộc quan tài, đậy nắp quan tài.
Khóc quan tài: khi đưa đám, phụ nữ tang gia mặc tang phục dựa vào
quan tài mà khóc, tục xưng là “khóc quan tài”.
Viếng tế: khi “khởi quan tài”, ngoại tổ, con rể đều cúng thịt rượu “viếng
tế”. Đối với điều này, tang gia phải đáp lễ với phí dụng cao hơn nhiều.
Động quan: sau viếng tế là “động quan”, được tiến hành như sau:
Thảo long - cây lúa cột như hình rồng, đốt một đầu cho khói bay lên.
Minh kì - lá cờ trắng viết tên người chết.
Hiếu đăng - lên đèn, người đời thứ ba quấn vải gai, người đời thứ tư
quấn vải màu vàng nhạt, người đời thứ năm quấn vải đỏ. Lấy số đời thực tế
cộng thêm một đời biểu thị số đời hiếu đăng, còn trên đèn viết những chữ
như “Đại Phu X Đời”, “Đại Mẫu X Đời”, do vợ con cháu làm ra.
Kiết đăng - trên đó viết khởi nguồn của họ như Dĩnh Thuận, Nam Trần,
Đại Nguyên v.v…, hoặc giả là chữ “Bách Tử Thiên Tôn” v.v…
Phóng sinh - phóng sinh rùa cá, sau này còn có bồ câu, mang đến
nghĩa địa phóng sinh.
Cờ phướn - do con rể cháu rể làm ra để viếng tế, như vòng hoa, lầu
các nghệ thuật v.v…, đa phần sắp xếp theo câu chuyện như nhị thập tứ hiếu,
Tam Tạng thỉnh kinh v.v…
Đình hương - kiệu đình, đặt lư hương.
Đình tượng - đặt di ảnh của người chết.
Kiệu hồn - đặt hương án, trong án sắp đặt bài vị, lụa hồn, và đặt vào
năm hạt ngũ cốc, đồng xu, đinh sắt v.v…, để tượng trưng cho ngũ cốc hưng
thịnh, của cải quí báu, con cháu sống trong sung sướng.
Kiệu giấy - đặt bên cạnh người chết, làm bằng giấy, do con cháu
khiêng.
Thổi kèn đánh trống - đội nhạc lớn nhỏ, nhạc tây v.v…
Linh cữu - hiếu nam đi bên cạnh quan tài, trên đường đi gào khóc thảm
thiết, quan tài thông thường là từ 8 đến 16 người khiêng, có khi 32 đến 64
người, thuê người hoặc do họ hàng bạn bè, anh em kết nghĩa khiêng đi.
Họ hàng - do một người phụ nữ dẫn đầu, dùng một đoạn vải dài dẫn đi,
người đi sau cầm đoạn vải này, trên đường khóc thương thảm thiết.
Đạo tăng, kim đồng ngọc nữ là chỉ nam nữ cải trang thành thiên sứ
theo chân người chết bay về trời.
Người viếng là người đi theo đưa đám. Lúc này trên đầu họ hàng đều
chít “khăn trắng”, bạn bè ở cổ tay trái cột vải trắng đưa tiễn. Đưa tiễn đến một
đoạn ngắn, tang chủ làm lễ “tạ bộ”, cảm ơn những người đã đưa tiễn.
Tế lễ dọc đường: trên đường đưa đám có tục “tế lễ dọc đường”. Những
bà con họ hàng hoặc người chịu thâm ân của người chết, vì để đáp tạ ân đức
lúc sinh tiền, nên trên đường đưa đám tổ chức hương án cúng tế. Đối với tục
này vẫn do tang chủ lấy vải trắng kim phẩm làm đáp lễ.
Hạ huyệt: khi mai táng, đầu tiên đặt quan tài trước huyệt mộ, bà con
bạn bè khóc than, sau đó đạo tăng đọc kinh, trên quan tài khoét một lỗ khí gọi
là “phóng xuyên”, để tiện cho thi thể trong quan tài tương thông với thổ khí
dưới dất.
Điểm chủ: sau khi hạ huyệt có tục “điểm chủ”, ngụ ý cầu cho con cháu
vận may tốt lành. Đa phần là do học giả quan nhân gọi là “quan điểm chủ”,
trước “thần chủ” (linh bài) đánh một dấu màu đỏ, sau đó trên vết đỏ chấm một
chấm mực. Bút đỏ dùng xong ném về hướng mặt trời, còn bút đen thì giữ lại.
Phản chủ: sau khi hạ huyệt, đạo tăng lấy năm hạt ngũ cốc trong một cái
chậu lớn rải xuống đất mộ, cúng tế năm hạt ngũ cốc này, tượng trưng cho
đông con đông cháu. Sau đó lại lấy một nắm đất mộ cho vào trong chậu,
trong nắm đất có cả năm hạt ngũ cốc khi nãy. Trưởng tôn đem “kiệu hồn” trở
về, gọi là “phản chủ”. Lúc này, trưởng tôn cởi bỏ tang phục mà thay bằng áo
dài màu vàng nhạt, biểu thị “phản chủ” là việc tốt.
Lập linh vị: sau khi “phản chủ” trở về nhà thì thiết lập linh vị ở nhà bên.
Cũng có “cửa hàng dán giấy” giả lập hiếu đường, tục gọi là “kết ảnh đàn”. Bối
cảnh của đàn là bàn thần, mặt chính dán giấy trắng, bốn bên giấy trắng là
hình con dơi cắt bằng giấy màu xanh dương, chính giữa dán hình tròn. Trước
đàn chính giữa là hình nộm (tượng bằng giấy phỏng chế theo hình người
chết), lụa hồn (viết tên, ngày tháng năm sinh người mất, đặt trước hình nộm),
hai bên đặt mỗi hình giấy người hầu nam nữ, tượng giấy kim đồng ngọc nữ,
phướn trướng, dưới bàn đặt những dụng cụ cúng tế như lư hương, nến. Sau
đàn bày một bàn phóng linh, trên bàn đặt đèn dầu, dưới bàn đặt một chiếc
ghế tre, trên ghế đặt quần áo giày vớ của người chết. Ánh đàn đến tuần cúng
thất khi “trừ linh” mới dẹp bỏ.
Cơm hiếu: phụ nữ tang gia từ khi khâm liệm đến lúc trừ linh, mỗi ngày
sáng tối hai lần đều khóc trước linh cữu, tục xưng là “gọi dậy”, dùng tiếng
khóc để gọi người mất thức dậy; đồng thời cúng tế “cơm hiếu” cho đến ngày
trừ linh. Duy chỉ khi gặp ngày thứ bảy thì không cúng, vì đây là ngày thuộc về
quỉ. Còn có nơi vì đến ngày trừ linh thời gian quá lâu, cho nên sau khi “ngũ
tuần” đổi thành “kí phạn”, ngày thường lấy cơm mới cúng cho bàn linh, để
thay thế cho hai lần mỗi ngày cúng cơm hiếu.
Tuần sơn: sau đám tang một hai ngày, tang chủ mặt hiếu phục đến
trước mộ cúng bái, gọi là “tuần sơn” hoặc “tuần khôi”, đồng thời sau khi bái tạ
đất còn cử hành lễ “hoàn phần” (phần mộ hoàn thành). Từ đó trước sau lễ
thanh minh mười ngày, đều đi tảo mộ.
(2) Làm tuần
Sau khi mai táng, trừ mỗi ngày sớm tối đều cúng “cơm hiếu” ra, thì cứ
cách bảy ngày phải cúng một lần, gọi là “làm tuần”. Mỗi tuần đều tiến hành
cúng tế như sau:
Đầu tuần: ngày thứ bảy sau khi mai táng gọi là “đầu tuần”, hoặc “đầu
thất”. Dân gian cho rằng cho đến ngày này, vong linh người chết sẽ quay về
nhà khóc than. Vì thế, trước khi vong hồn quay về, mỗi ngày sau 12 giờ đêm,
con cháu bắt đầu khóc than. Khi chính ngọ, mời đạo tăng đến trước linh tiền
đọc kinh “cầu siêu”. Đạo tăng cử hành pháp sám, tang gia lập pháp đàn (lập
vào những tuần lớn như nhất, tam, ngũ, thất tuần). Trong đàn buộc Tam bảo
Phật, bên trái phải buộc hình mười tám tầng địa ngục, họ hàng tang gia đều
cùng tăng cúng tế. Thất hai, tư, sáu là thất nhỏ, cúng tế cũng nhỏ.
Tam tuần: gọi là tuần con gái hoặc con trai. Con gái xuất giá ngày đó
phải quay trở về nhà cúng tế, cho nên mới có cách gọi này. Nhà trung lưu trở
lên tổ chức “làm công đức”, là con gái đã xuất giá và con rể chuẩn bị vật cúng
tế đầy đủ đến nhà gái cúng tế. Nghi thức này như sau: đầu tiên do đạo tăng
đọc kinh, sau đó con rể đến cúng tế và đọc văn tế, nghi thức rất long trọng.
Vào đêm đó, tang gia thết tiệc tạ ơn. Làm công đức trong một ngày đêm,
cũng có khi làm hai ba ngày. Đến tuần cúng lớn như ngũ tuần, thất tuần, cũng
làm công đức.
Sau khi làm công đức, có khi còn “chơi nhạc”, giống như biểu diễn kĩ
nghệ. Khi làm công đức, trước linh tiền đạo sĩ cử hành hai tiết mục “Đánh
rồng luyện biến” và “Mục Liên cứu mẹ”. Vở đầu tiên xuất hiện một hành giả
trên đường tìm nơi an táng tốt lành cho mẹ mình thì bỗng gặp phải hổ dữ, hổ
và người đánh nhau dữ dội, cuối cùng hổ vì hiếu ân mà cảm động, tha mạng
cho hành giả. Vở sau diễn Mục Liên lập pháp cứu được mẫu thân thoát khỏi
lao hình ở địa ngục. Hai vở diễn đều ca ngợi lòng hiếu thảo.
Ngũ tuần: do cháu gái và chắt gái cúng tế, vì thế gọi là “tuần cháu gái”.
Thất tuần: tuần cuối cùng, tục xưng là “làm ngày cuối”. Thất cuối cùng
ngoài cúng tế “làm công đức” ra, vào đêm đó còn có tục “đốt linh thố”. Linh
thố là chỉ những vật dụng làm bằng giấy trúc, sau đó đem đốt cúng cho người
chết dùng để làm nơi cư trú ở âm phủ. Những vật dụng làm bằng giấy của
tang gia còn có “núi nhị thập tứ hiếu” là câu chuyện về nhị thập tứ hiếu, treo
trước cửa lớn. Hai bên cửa lớn còn có giấy tiền vàng bạc do con gái xuất giá
tặng làm vật trang sức để đáp tạ thâm ân của người chết.
Cúng tế có khi làm đến mười một tuần, tục gọi là “người chết sắp quá
ngày”, vì thế một tuần rút gọn là bảy ngày, sau sơ tuần lại lấy 6 ngày làm một
tuần, do đó thất tuần vốn là bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, thói quen làm
tuần bốn mươi ba ngày. Duy chỉ có người thượng thọ mới dựa theo bốn mươi
chín ngày để làm cuối tuần. Dân gian lại gọi là “người chết không có ngày
nhuận”, kỉ niệm tròn một năm, đều lấy ngày thực bao gồm cả tháng nhuận để
làm giỗ.
Trừ linh: thuộc về tuần cuối cùng hoặc “làm trăm ngày”, khi “làm phong
niên” thì dọn bàn linh “trừ linh”. Tục xưa, ngày trừ linh phụ nữ tang gia phải
mặc áo có màu sắc nhã nhặn, sau khi đến chùa miếu hành hương, mới được
phép về nhà thăm cha mẹ ông bà, gọi là “hành viên”. Trong đám tang, trên
cửa bên phải của tang gia đều treo một tấm vải đỏ, biểu thị gia đình an khang.
Hoán hiếu: đeo tang đến khi “làm một trăm ngày” hoặc sau khi “thôi linh
(trừ linh)” an vị thì do “hiếu nhân bậc trên” đổi cho “hiếu nhân bậc dưới” gọi là
“hoán hiếu”, còn “làm phong niên” (kỉ niệm tròn một năm) là sau khi “hợp lư”
(hợp tự với bài vị tổ tiên) thì bắt đầu “xả tang”. Ngày chịu tang, tang gia không
làm bánh chưng, mà là do họ hàng bà con mang tặng.
3. Lễ táng trăm hình ngàn vẻ
Đối với sự sắp xếp xương cốt người chết, cách làm truyền thống Trung
Quốc là nhập thổ vi an (chôn vào đất là an lành).
Cho dù ngày nay phổ biến việc hỏa táng, mọi người cũng phải đem hũ
cốt của người chết đến một nơi phong cảnh hữu tình, chôn xuống đất, xây mộ
lập bia, tưởng nhớ đời đời.
Thời xưa, sau khi người chết đi không nhất định phải chôn cất. Sách
“Mạnh Tử” nói: “Thượng thế thường không táng người chết. Người chết,
thường được ném ở hang hốc. Ngày qua ngày, bị hồ li ăn thịt, ruồi nhặng bâu
quanh” cảnh tượng trông càng thê thảm, thế là con người mới hình thành thói
quen “xây đắp mộ mà chôn cất người chết". Từ những tư liệu cổ còn lưu giữ
đến ngày nay thấy rằng, đầu và giữa thời kì đồ đá cũ Trung Quốc, bất kể là
người Nguyên Mô, người Lam Điền, người Bắc Kinh hoặc người Đinh Thôn,
đều không có thói quen chôn cất người chết. Nhưng đến cuối thời kì đồ đá cũ,
quan niệm chôn cất người chết mới xuất hiện. Khảo cổ phát hiện, xương hóa
thạch ở Sơn Đỉnh Động vùng Chu Khẩu Điểm Bắc Kinh, gồm hài cốt của ba
người, một ông cụ già, một phụ nữ trung niên và một cô gái trẻ. Trên xương
cốt của những người này và xung quanh đó, đều có vết tích của bột sắt màu
đỏ, những vật tùy táng gồm có công cụ sản xuất được làm từ đá, thạch chu
và răng thú khoét lỗ v.v…, vật phẩm trang trí dùng bột sắt quét iên thành màu
đỏ. Người Sơn Đỉnh Động cách một vạn bảy ngàn năm nay có ý thức chôn
cất người chết, không chỉ phản ánh tình máu mủ giữa các thành viên trong thị
tộc, mà còn phản ánh quan niệm về linh hồn của con người lúc bấy giờ, tin
rằng sự tồn tại của linh hồn và di thể được an trí một cách thỏa đáng là hai
phương diện của một vấn đề. Từ chết mà không táng cho đến mai táng là một
sự tiến bộ văn minh của loài người.
Phương thức chôn cất ban đầu là vô cùng đơn giản. Dựa theo sự ghi
chép của “Hoài Nam Tử trong Yếu Lược”, thời vua Vũ, “Tử lăng giả táng lăng,
tử trạch giả táng trạch, cố tiết tài bạc táng nhàn phục sinh yên”, ý nói người
chết ở nơi đâu sẽ chôn ở nơi đó. Vì thế trong “Lễ Kí”, Khổng Tử nói: “Ngũ văn
chi, cổ dã mộ nhi bất phần.” Sau khi mai táng, ngay cả mộ cũng không có.
Cho dù thời kì văn hóa Ngưỡng Thiều đã cách nay sáu, bảy ngàn năm,
nhưng mai táng so với trước đã cầu kì hơn, đã xuất hiện khu mộ tập thể, mộ
đơn, mộ đôi và mộ cải táng. Phương hướng mộ táng, ở khu vực trung nguyên
trên cơ bản đều là đầu hướng về phía tây, theo đó cho rằng có ba loại nhận
thức dưới đây: thứ nhất, khi người chết linh hồn sẽ trở về quê nhà, cho nên
đầu sẽ hướng về quê nhà; thứ hai, hướng tây là thế giới ma quỉ đặc thù, con
người sau khi chết phải đến đó sinh sống; thứ ba, việc sinh tử của con người
giống như mặt trời mọc ở phía đông và lặn về phía tây, con người chết như
mặt trời lặn. Cho dù đã có những nhận thức như thế, nhưng trong “Kinh Dịch.
Hệ Từ Truyện” nói: “Cổ kỉ táng giả, nguyên y chi dĩ tân, táng chi trung dã, bất
phong bất thụ.” Cùng với sự sản sinh và cường hóa mê tín hồn quỉ, mọi
người đều tin rằng linh hồn bất diệt, trong một thế giới khác chúng cũng sinh
hoạt như chúng ta, thế là đã sáng tạo cách nghĩ bảo vệ thi thể không bị tổn
hại, lấy lòng hồn quỉ. Như vậy, thi thể sẽ được cất giữ ở đâu? Điều này có
quan hệ mật thiết với hoàn cảnh tự nhiên sinh sống của con người, phương
thức sinh sản, thói quen sinh hoạt, tôn giáo tín ngưỡng mỗi dân tộc đều biểu
hiện phương thức tang ma chôn cất không giống nhau.
Huyền táng: trong dân tộc thiểu số ở tỉnh Phúc Kiến, Vân Nam, Tứ
Xuyên, Quí Châu v.v… đã từng rất phổ biến việc huyền táng, nơi đó tục xứng
là “treo trên mõm núi đá”. Trên vách đá cheo leo, người ta khoét hang chống
cọc, đặt quan tài trên đó hoặc đặt quan tài trên mõm đá, hang đá, khe núi,
cách mặt đất thấp nhất khoảng hơn 20m, cao nhất đạt đến 100m. Huyền táng
là tục lệ mai táng của một số dân tộc phương nam cổ đại Trung Quốc, trong
đó niên đại huyền táng ở Phúc Kiến là lâu đời nhất, khoảng trước thời Hạ,
cách nay đã hơn ba ngàn năm. Do khoảng cách thời gian quá xa nên việc lưu
truyền huyền táng cho đến nay đã không còn thấy nhiều, chỉ trên vách núi Vũ
Di cao hàng ngàn mét mới có thể thấy được những vết tích còn sót lại. Ở đập
Củng Huyền Ma Đường tỉnh Tứ Xuyên là nơi tập trung nhất, lưu lại di tích
huyền táng nhiều nhất và xuất hiện huyền táng sớm nhất toàn Trung Quốc.
Quan tài treo được phân bố rải rác trên vách núi cheo leo là tư liệu quan trọng
của việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc. Việc sản sinh và hình thành
lễ chế tang ma chôn cất này đồng hành với tín ngưỡng linh hồn của người
huyền táng, sùng bái tổ tiên, và có mối quan hệ mật thiết với tôn giáo nguyên
thủy. Trong ý nghĩ của người làm huyền táng, vì để bảo quản người chết cho
tốt, khiến thân thể họ không bị xâm phạm, nên phải huyền táng họ trên vách
đá phía dưới là sóng, giúp cho người chết có thể tiếp tục phát huy trí tuệ và
uy quyền của mình, bảo vệ và giám sát con cháu của họ. Huyền táng chính là
được kiến lập trên quan niệm sùng bái tổ tiên và linh hồn bất diệt.
Thổ táng: tục lệ an táng phổ biến nhất của dân tộc Hán chính là thổ
táng, đây là vì đất đai trung nguyên phì nhiêu màu mỡ, nhân dân bao thế hệ
đều làm nông là chính, mọi người xem đất đai như sinh mạng mình, vì thế từ
xưa đến nay có cách nói “có đất là sống, không đất là chết”. Bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời là thói quen lao động cơ bản nhất của họ, sinh mạng cũng
từ trong đất mà ra, sau đó lại quay trở về với đất, quan niệm này của dân tộc
Hán có từ rất lâu dời. Thời Hán sùng bái màu vàng, trong lịch sử các hoàng
đế cũng chọn màu vàng làm màu hiển quí, vì đó là màu của đất. Trong âm
dương ngũ hành, thổ đứng ở vị trí chính giữa trong ngũ hành, là một cơ sở ổn
định nhất, tin cậy nhất. Vì thế, sau khi người chết, chôn trong đất là cách làm
tốt nhất giúp cho linh hồn có được sự an nghỉ. Thổ táng phù hợp với thói
quen sinh hoạt và luân lí tình cảm của dân tộc Hán. Ngoài ra, trong chế độ
phong kiến, thổ táng cũng là hình thức tang ma có điều kiện để biểu hiện sự
khác biệt về giai cấp và đẳng cấp nhất. Vì chỉ có thổ táng, mới cần phải kiến
tạo một vật tượng trưng cho quyền thế và địa vị của người chết khi còn sống
được duy trì một cách lâu dài như ngôi mộ hùng vĩ, các loại bia mộ, người
bằng đá, thú bằng đá, cột điêu khắc và những kiến trúc phụ khác; mới có thể
thường xuyên trước mộ tiến hành những hoạt động mang tính tượng trưng,
vừa biểu thị tình cảm thương tiếc của người sống đối với người chết, vừa có
thể và thỏa mãn sự cần thiết của tông pháp chính trị. Vì thế, trong tục lệ đám
tang truyền thống Trung Quốc, thổ táng đã dần ảnh hưởng sâu sắc đối với
con người, cho dù ngày nay phổ biến hỏa táng, nhưng mọi người vẫn lấy hũ
cốt chôn xuống đất, chính là một ví dụ điển hình.
Hỏa táng: Ở niên đại bốn mươi thế kỉ hai mươi, di chỉ tiền sử của con
người ở núi Tự Bích huyện Lâm Thao tỉnh Cam Túc đã khai quật được một
bình gốm lớn màu xám đựng tro cốt con người. Nhưng tập tục hỏa táng rất
khó dung hòa với lí luận quan niệm truyền thống. Tục hỏa táng tự nhiên là kết
quả ảnh hưởng lâu dài của văn hóa ngoại lai (đầu tiên là văn hóa Phật giáo),
trưởng thành chậm chạp trong xã hội cổ đại và luôn luôn gặp phải sự cấm kị.
Quan niệm nho gia truyền thống luôn chủ trương thổ táng, cho rằng tóc da cơ
thể của mình là do cha mẹ sinh ra, không được hủy hoại. Trong mắt của kẻ
bảo vệ đạo truyền thống, hỏa táng không những phạm vào hiếu đạo, hơn nữa
là đại nghịch bất đạo. Thời Hán xem việc thiêu hủy thi thể là việc nhục nhã
nhất, như quân nước Yên tấn công nước Tề vừa thích chữ lên mặt, vừa đào
mồ người nước Tề, phóng hỏa đốt thi thể người chết, người nước Tề “nhìn
thấy đều khóc thương thảm thiết, muốn xuất chiến, giận dữ ngút trời” (“Sử Kí.
Điền Đơn Liệt Truyện”). Tống thái tổ Triệu Khuông Dẫn có chiếu thư cấm hỏa
táng. Thời Minh có luật xử phạt hỏa táng người. “Đại Minh Luật. Lễ Luật” có
ghi: “Theo di ngôn của tôn trưởng, nếu đem thi thể hỏa táng và ném xuống
sông thì đánh một trăm trượng”. “Hình Luật. Đạo Tặc” thì ghi: “Con, cháu
thiêu hủy ông bà, cha mẹ và người giúp việc thiêu hủy thi thể gia trưởng sẽ bị
chém.” Thiêu hủy ở đây, bao gồm cả hỏa táng. Pháp luật đời Thanh không
những lưu giữ những qui định này của đời Minh, mà còn thêm một điều:
người của dân tộc Mãn không được phép hỏa thiêu. Trăm ngàn năm trước,
mặc dù đã ban bố lệnh cấm, nhưng hình thức hỏa táng vẫn được ngấm ngầm
lưu hành trong dân gian. Thời Hán sau này, khi Phật pháp được truyền bá
sang, việc hỏa táng thịnh hành đối với tăng lữ Ấn Độ cũng theo đó mà xâm
nhập vào. Theo giáo qui, hòa thượng, tăng nhân chết là phải hỏa táng. Sau
đó tập tục này cũng xâm nhập vào dân gian. Lật lại những trang sách sử, hỏa
táng hợp pháp và không hợp pháp, cho dù dưới sự nghiêm ngặt của triều
đình, vẫn liên tục diễn ra không ngừng, điều này đương nhiên không phải
chứng minh thế lực Phật giáo là to lớn, cũng không phải tự viện tổ chức lễ
hỏa táng thay thế thế tục để kiếm lợi, mà là vì nguyên nhân kinh tế. Hỏa táng
tiết kiệm được một khoản tiền, không chiếm đất nhiều, rất được những người
lao động nghèo khổ không có đất đai, không đủ cơm ăn áo mặc lựa chọn.
Người Tống dựa vào quyển mười lăm “Mộng Lương Lục” của Từ Mục ghi
rằng, một người gọi là Thái Nhữ Bạt, sau khi mẹ chết do không có đất mai
táng mà hỏa thiêu. Hỏa táng của dân gian vô cùng đơn giản, không giống như
đại hòa thượng được xây một tháp cốt tro. Cốt xương của họ hoặc rải xuống
sông, hoặc rải trên ruộng hoang, hoặc gửi ở tự viện, được mai táng trong hũ
sành, hộp gỗ, cũng không có nấm mộ.
II. TRÌNH TỰ LỄ TANG TRUYỀN THỐNG
Mai táng có thể nói là một nghi thức phức tạp nhất trong nghi thức lễ
tang. Nghi thức của nó khá nhiều, mà những lễ thức khác không thể sánh
bằng, đồng thời nghi lễ này cũng là trang nghiêm nhất, long trọng nhất. Rất
nhiều phương diện nổi bật trong văn hóa truyền thống Trung Quốc như hiếu
đạo, tông pháp chế v.v…, đều thể hiện trong lễ tục này. Chính vì như thế,
hàng loạt nghi thức qui củ trong nghi lễ tang ma chôn cất truyền thống Trung
Quốc hiện rõ sự thân tình, giàu tình cảm con người, đồng thời cũng rất lạnh
lùng và nghiêm ngặt. Đương nhiên, chúng ta phải xem xét một cách biện
chứng với tang lễ truyền thống, lấy cái tinh hoa, bỏ cái cặn bã.
Trung Quốc rộng lớn có dân số đông đúc, vì thế nghi thức tang lễ ở mỗi
nơi cũng không hoàn toàn tương đồng, dưới đây xin tổng hợp nghi thức tang
lễ ở các nơi như sau:
1. Sơ chung
Tập tục dân gian Trung Quốc cho rằng, tất cả mọi người sống trên 50
tuổi thì gọi là thọ, bệnh mà chết đều gọi là thọ chung, xưng là “hỉ tang”, cũng
chính là "bạch hỉ sự” mà mọi người thường nói. Đối với loại hình tử vong bình
thường này, người nhà sớm có chuẩn bị, con cháu đều phải trông coi vào
ngày trước khi người lâm chung, gọi là “chăm sóc hầu hạ người thân bậc trên
khi lâm chung”. Lúc này, người nhà về phương diện tâm lí, vật chất đều sớm
có sự chuẩn bị. Giờ phút hấp hối, nam nữ trong nhà đều khóc than thương
tiếc. Tiếp đó thi thể người chết được khiêng để trên một chiếc giường đặt ở
gian nhà chính, gọi là “hạ tháp” xưa gọi là “tiểu liệm”, nằm trên linh sàng, theo
tục lệ thì làm túi thơm, ngoài túi thơm ra tạm thời không thiết lập linh vị để tiện
nhập liệm. Lúc này, đầu thi thể nằm hướng ra ngoài, ở chân đặt một cái bát
canh có chứa dầu sở bỏ tim đèn vào thắp làm đèn, gọi là “Phật đăng”. Cách
làm “sơ chung” trên, biểu thị lòng hiếu thảo của con cháu, không muốn vội
vàng rời xa người chết. Thi thể được an trí ở linh sàng gọi là “chính tẩm”. Sau
chính tẩm, một mặt báo tang đến họ hàng bạn bè, một mặt người trông nhà
bàn bạc lo các việc tang lễ.
Tiếp đến là lễ “phục”, cũng chính là chiêu hồn. Thông thường thân nhân
người chết lên mái nhà hoặc dốc cao, hướng về tổ tiên phát nguyện kêu gọi
người chết. Nghi lễ này biểu thị bà con thân thuộc hy vọng linh hồn người
chết quay trở về, sau đó còn phải kiểm tra hơi thở mũi, mạch đập của người
chết. Tiếp đó là “sơ khốc”.
Sơ khốc là khóc tự nhiên khi xác nhận rằng người thân chắc chắn đã từ
trần. Tập tục này không chỉ tồn tại ở tộc Hán, mà rất nhiều dân tộc thiểu số
khác đều có.
Đại bộ phận Trung Quốc đều có tập tục cho người chết ngậm một vật
trong miệng, thông thường ngậm tiền xu, nếu nhà giàu có đôi khi cũng ngậm
ngọc ngà châu báu. Tục lệ cổ xưa này gọi là “ngậm cơm”. Một số nơi còn bỏ
một ít bánh vào trong tay áo của người chết (tục xưng là “bánh đánh chó”),
tiền giấy (tục xưng “tiền mãi lộ”), bánh là để cho chó cản đường đến âm phủ
ăn, tiền là cho quỉ cản đường. Tục lệ còn nói rằng trên đường đến âm phủ,
người chết còn phải vượt qua sông, qua cầu nên đều cần dùng tiền. Người
tộc Nạp Tây ở Tây Nam, sau khi tắt thở, hiếu tử bỏ vào miệng người chết
“hàm khẩu”, hàm khẩu chính là một bao lì xì nhỏ, bên trong chứa gạo, lá trà
nhuyễn và vụn bạc, chia làm ba bao nhỏ, bao thứ nhất để làm phí qua sông,
bao thứ hai cho hai đại tướng giữ cửa điện diêm vương, bao thứ ba mang
cho tổ tiên.
2. Khâm liệm (nhập quan)
Khâm liệm là chỉ việc thay quần áo cho người chết, đặt người chết vào
quan tài. Theo lễ tục xưa khâm liệm chia làm đại liệm và tiểu liệm. Ba ngày
tiểu liệm, năm ngày đại liệm, hoặc ngày hôm sau là tiểu liệm, ba ngày đại
liệm, tương ứng với cách gọi “tam nguyệt nhi táng”. Sau này thông thường
thời gian càng rút ngắn lại, thời gian khâm liệm cũng gần với thời gian chết,
đại đa số khi lâm chung đã mặc thọ y, ngày hôm sau là khâm liệm nhập quan.
Sự phân chia tiểu liệm và đại liệm là cái trước mặc thọ y, cái sau khâm
liệm nhập quan. Theo lễ tục xưa tiểu liệm tuyệt đối không phải là khi lâm
chung, sau này đa phần là lúc người chết hấp hối thì mặc thọ y, vì sau khi
chết thi thể thường đông cứng rất khó khăn khi mặc áo. Mặt khác theo tục tín
dân gian cho rằng, không kịp mặt áo đã tắt thở là “thân thể đã đi mất rồi”, bà
con thân thích sẽ cảm thấy vô cùng hổ thẹn.
Thọ y là “thay quần áo cho người chết”, “thay áo” là quần áo đã may
sẵn khi đang sống, thông thường lựa chọn vào đầu năm có tháng nhuận thì
làm thọ y. Thời xưa mọi người chủ yếu may áo bông, váy quần bông, áo dài
bông, bất luận là thời tiết nào đều phải mặc áo bông. Giày vải may hình hoa
sen, biểu thị chân bước lên đài sen để đắc thành chính quả. Tuyệt đối không
dùng chất liệu bằng da, tục nói rằng người chết nếu mặc áo da, giày da hoặc
đế giày bằng da, kiếp sau sẽ chuyển thân làm súc sinh. Nội y không được
đính khuy, chỉ may dây buộc, vì “khuy” cùng hài âm với “nữu tử”, sợ phạm
vào kị húy bất lợi cho con cháu. Chất liệu áo cũng không thể dùng tơ, vì tơ
cùng hài âm với “đoạn” (đoạn tuyệt, cắt đứt).
Thi thể khâm liệm xong phải đặt trong nhà. Nếu trên người chết không
có người trưởng thì đặt ở giữa nhà chính, nếu không chỉ có thể đặt bên cạnh.
Trước linh sàng phải đặt hương án tạm thời, trên đó đặt “trường minh đăng”
để chiếu sáng cõi âm cho người chết; đặt một chén “đảo đầu phạn”, trên đó
cắm ba cây cao lương, ở ngọn cây buộc một quả cầu bổng, gọi là “cây đánh
chó”. Để phòng việc “xác chết (trước khi liệm) bật dậy”, phải dùng dây gai
buộc hai chân người chết lại. Ngoài ra, còn phải ngăn ngừa mèo chó vào
trong phòng này. Đến đây, tiểu liệm cũng đã kết thúc.
Đại liệm cũng gọi là “nhập mộc”. Khi đại liệm, con cháu của người chết
đều phải ở bên cạnh. Trong quan tài trải đầy đủ những thứ cần thiết, khá cầu
kì. Sau khi người chết đặt vào trong quan tài, còn phải bỏ vào rất nhiều vật
tùy táng nhỏ. Sau khi di vật đã đặt vào xong xuôi, tiếp đó còn có lễ tục “khai
quang”, “vãn tóc”.
Khai quang là chỉ con trai trưởng lau chùi hai má cho người chết, bà
con bạn bè nhìn mặt người chết lần cuối cùng. Khi lau chùi, dùng đũa gắp
miếng bông ẩm mà lau vùng mắt, tai, miệng, cuối cùng là lau mặt người chết,
dùng một chiếc gương nhỏ chiếu vào, rồi quay người ném vỡ gương. Lúc
này, toàn thể hiếu tử sau khi nhìn mặt người chết lần cuối, phải khóc lớn, biểu
thị lời từ biệt cuối cùng.
Sau khi khai quang phải đậy nắp quan tài, gọi là vãn phát. Thông
thường khi đóng nắp quan tài, hiếu tử phải la lên “người thân tránh đinh” để
tránh tổn thương đến linh hồn người chết. Hiếu tử hiếu phụ đem tóc quấn trên
cây đinh, đó là vãn tóc. Ý nghĩa đại khái là “tóc da thân thể là của cha mẹ,
phải trả cho cha mẹ”, đem xuống u minh, để liên hệ qua tâm tính.
Trong rất nhiều lễ tục tang ma của dân tộc thiểu số, trước khi khâm
liệm người chết thông thường phải xử lí một số việc, nổi bật nhất là tắm gội.
Người tộc Mao Nan sau khi chết, các hiếu tử phải đến giếng nước hoặc sông
suối, ném một hai đồng tiền xuống để mua một bát nước to về tắm gội cho
người chết, sau đó cho gạo cỏ vào quậy đều, dùng vải trắng chấm nước, nam
trái nữ phải lau từ trên xuống dưới một cách tượng trưng. Lễ tục của dân tộc
Choang cũng tương đồng. Sau khi người thân tắt thở, hiếu nam phải do sư
công hoặc đạo công dẫn đến bên bờ sông, sư công niệm kinh, còn hiếu nam
ném mấy đồng xu xuống sông, dùng bình gốm nhỏ để múc nước, về nhà nấu
sôi, cho vào trong nước hạt bưởi, lá cam, tự mình tắm gội cho thi thể người
chết. Có nơi còn cạo tóc cho người chết nam, người chết nữ thì chải đầu, lấy
nước lá cam tắm gội toàn thân, sau đó vuốt khép mí mắt lại. Có nơi tắm rửa
thi thể chỉ là một nghi thức, các hiếu tử dùng lá bưởi chấm nước rắc lên mặt
người chết là được.
Đại liệm thông thường tiến hành sau khi mặc đồ tang, lúc này họ hàng
bạn bè cơ bản đã đến đông đủ, ý nghĩa từ biệt sinh tử hiện ra vô cùng rõ nét.
Lễ tục này cũng đã làm rõ rất nhiều mối quan hệ nhân tế như mối quan hệ
giữa người chết và trưởng tử, người chết với hiếu tử, người chết và “nhân
chủ”, nếu những mối quan hệ này không làm rõ thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn
tranh chấp mang tính lễ nghi, đó chính là “náo tang”.
Lễ tục náo tang cơ bản ở mối quan hệ xã hội đặc định là giữa người
chết với người giám hộ. Dân gian gọi người giám hộ là “nhân chủ”. Nếu con
trai tộc trưởng của tộc này, đã kết hôn với con gái của bậc cha anh, thì mối
quan hệ này ngày thường không rõ ràng, chỉ trong lễ tang mới biểu hiện vô
cùng rõ nét. Sau khi người chết, phải báo tang cho nhân chủ, mời nhân chủ
đến, bàn bạc những việc có liên quan đến tang ma. Chỉ khi nhân chủ đến, hỏi
rõ nguyên nhân tử vong và qui cách tang lễ, cảm thấy rằng không có gì khuất
tất ở đây, việc tổ chức tang ma cũng khá hợp lí, mới cho phép khâm liệm và
nhập quan. Giả sử chưa được nhân chủ cho phép mà đã khâm liệm, chôn cất
thì nhân chủ có quyền yêu cầu tang gia mở quan tài, quật mộ, nhưng việc này
thông thường ít khi xảy ra.
3. Báo tang
Báo tang là thông báo tin tử, thời gian tổ chức lễ tang và an táng cho họ
hàng và bạn bè biết. Khiêu tiền sau sơ chung, báo tang sau tiểu liệm, đều có
thể được tính vào nội dung này.
Giống như khi người mới sinh ra, trong nhà đều treo những dấu hiệu
chào đời của một sự sống mới; người sau khi chết cũng vậy, trước cửa tang
gia phải treo dấu hiệu, gọi là “khiêu tiền”. Tiền chính là cờ phướn bằng giấy,
có nơi gọi là “thông thiên chỉ”; có nơi vì số giấy phải tương ứng với số tuổi của
người chết, cho nên gọi là “tuế số chỉ”. Vị trí treo ở cửa sân, nam tả nữ hữu.
Ở tộc Dư huyện Kiền Đức Chiết Giang, người sau khi chết phải “cửa dựng cờ
phướn, trên đó ghi danh tánh người chết”. Người dân tộc Mãn sau khi chết
không treo tiền giấy, mà treo cờ phướn đỏ trước cửa (dân tộc Mãn người chết
giàu có thì cờ trắng, nghèo hèn thì cờ đỏ) gọi là “đan”, dùng cây gỗ treo lên
cao, ban ngày treo lên, ban đêm đem đặt bên cạnh quan tài. Tộc Mãn thời
cận đại đa số dùng vải đỏ chế thành, toàn chiều dài hơn 4m, các đầu dùng vải
đen trang trí.
Sau khi tiểu liệm, tang gia phải thông báo tin tử cho họ hàng bạn bè, để
tiện cho họ kịp thời đến trước khi đại liệm. Hình thức báo tang bằng miệng,
bản cáo phó, đời sau còn thông báo tin buồn đăng trên báo. Dân gian thông
thường lấy việc thông báo bằng miệng là chính, do hiếu tử đích thân đến báo
tang đối với bà con họ hàng và những người có mối quan hệ đặc biệt; còn đối
với những người ở xa, thông báo bằng miệng là được. Hiếu tử đến báo tang
phải mặc hiếu phục, hoặc đội hiếu mão, ngang hông phải buộc đai hiếu (sợi
gai). Đến nhà người khác, hiếu tử không thể bước vào nhà mà phải có người
ra tiếp, khi gặp người bất luận là già hay trẻ, hiếu tử đều phải khấu đầu. Tục
báo tang của tộc Mao Nam có hai lần, lần thứ nhất là trong tay hiếu nam thắp
cây hương, mang theo một ít tiền giấy, một cân rượu, ba cân đậu nành, đến
nhà cậu báo tang, ở nhà cậu hiếu tử phải ăn một bữa cơm chay, đây gọi là
“báo tang chay”. Lần thứ hai là vào sáng sớm ngày đưa tang, hiếu tử phải giết
mổ bò, đầu tiên cắt cân thịt, lấy trong nội tạng mỗi thứ một ít (nếu giết bò, lấy
một chén máu bò, một đoạn ruột bò dồi bột), ngoài ra còn thêm một cân rượu,
mang theo hương giấy, cũng giống như lần thứ nhất hiếu tử đến nhà cậu báo
tang, mục đích là để nói rõ cho cậu biết thời gian đưa tang và mời cậu đến
sớm để chủ trì nghi thức lễ tang, đây gọi là “báo tang mặn”. Tộc Choang ở
huyện Đại Tân Quảng Tây, sau khi người chết lập tức đốt pháo, gọi là “thời
báo”, cũng chính là báo tang. Ngoài ra, còn có tục đưa “thư báo tang”. Trên
thư báo tang viết “thương tiếc báo tin ông (bà) thọ chung chính tẩm (nam viết
là chính tẩm, nữ viết trung tẩm). Chọn ngày X giờ X đại liệm. Cáo phó.” Bên
dưới viết phủ đệ và người báo tang. Danh tánh người nhận báo tang đều
dùng giấy đỏ viết, dán ở đầu thư báo. Báo tang đơn giản hơn là báo tang và
cáo phó hợp hai thành một lần báo tang.
Báo tin buồn chính thức cũng gọi là cáo phó, cáo tang, phó cáo v.v…
Đây là lễ tục thông thường được các nhà thế gia đại tộc tiến hành, bách tính
nghèo khổ chỉ báo miệng một lần. Báo tin buồn thông thường là lấy hình thức
thư từ, có kiểu văn từ cố định, đại thể như sau: “Con bất hiếu XX nghiệp
chướng nặng nề, nhưng thân mình lại bình an vô sự, tai họa lại rơi vào XX,
húy XX, mất tại nhà thuộc xã X, quận X vào giờ X ngày X tháng X năm X, con
bất hiếu XX luôn bên cạnh, đích thân nhìn thấy khâm liệm, tuân theo lễ mặc
áo tang.” Cuối cùng viết những chữ (chữ đỏ) như “gửi cho: họ hàng, bạn bè,
trường học, quê nhà”, phần kết viết “thương tiếc báo tin”. Bên dưới viết trình
tự tang lễ, kế đến là danh sách con cháu.
Bất luận là họ hàng hay là bạn bè thân thiết, sau khi nhận được cáo
phó, đều phải lập tức đến tang gia thăm viếng chia buồn.
4. Lễ thành phục
Thành phục chính là mặc đồ tang, đeo đồ tang. Thời xưa mặc đồ tang
và đeo đồ tang phải tuân thủ nghiêm khắc những lễ chế có liên quan, không
được phép có sự sai sót nào.
Cơ bản nhất của thành phục là “lễ”, tức là chế độ ngũ phục truyền
thống. “Ngũ phục” là hình thức tang phục được định hình cơ bản dưới thời
Chu Tần Trung Quốc. Thực tế, hình thức này không chỉ thấy ở các tang lễ mà
còn là tiêu chí của mối quan hệ họ hàng gần xa, nó cũng có mối quan hệ với
qui chế nghi lễ hoặc quyền lợi thực tế, quan hệ nghĩa vụ. Đối với tang lễ, tang
phục qui định mối quan hệ nào thì phải mặc tang phục ấy, và mặc như thế
nào, thời gian bao lâu; và khi nhìn thấy tang phục này, người ta cũng có thể
biết được người mặc tang phục có mối quan hệ như thế nào với người chết,
và với những người khác.
Ngũ phục không chỉ nói rõ mối quan hệ trong nội bộ gia đình, mà còn
ước định quyền lợi nghĩa vụ giữa những người này. Giả sử mối quan hệ của
người chết là cha và con trai hoặc cha và con gái (chưa lập gia đình), thì
thuộc “trảm suy” của ngũ phục, đó chính là hiếu phục làm bằng vải gai thô
nhất chưa viền mép vải. Thời gian dể tang trảm suy là ba năm, đồng thời
cũng có quyền lợi kế thừa tài sản của người mất. Giả như người chết là cô đã
lấy chồng, thì thuộc tang phục “đại công”, mặc hiếu phục làm bằng vải gai có
viền mép vải. Đương nhiên theo qui định của nghi lễ, những thành viên trong
gia tộc có mối quan hệ khác nhau sẽ có thái độ tương ứng. Ví dụ như mối
quan hệ dì, cậu đều thuộc hạng ty ma phục, nhưng tục ngữ lại có cách nói “cô
cậu ruột không thân cũng thân, dì họ chỉ khá thân”, nói rõ người thứ hai lại có
sự khác biệt nhất định.
Người có mối quan hệ như thế nào thì mặc hiếu phục như thế ấy, còn
“phân chia” hiếu phục cũng có lễ tiết nhất định. Mối quan hệ thông thường thì
chỉ cần gia chủ đưa là được, còn mối quan hệ đặc biệt như nhân chủ, họ
hàng bốn đời v.v…, thì lại do hiếu tử quì khấu bái dâng lên. Trong lễ tiết này,
tác dụng quyết định không phải là mối quan hệ bà con xa gần, mà chính là tôn
ti. Nếu những lễ tiết này không làm được, làm sai thì có thể xảy ra tranh cãi.
Hiếu phục “trảm suy” là mối quan hệ giữa cha và con trai, cha và con
gái (chưa lập gia đình). Hiếu phục từ đầu đến chân là màu trắng, không viền
mép vải, không buộc dây gai, gọi là “người mặc áo sô, tay chống gậy”. Nếu
song thân vẫn còn một người tại thế thì chỗ gót giày không dùng vải trắng.
Những hiếu phục này đều có cách may riêng. Cháu, chắt trai ngoài hiếu phục
ra còn có những tiêu chí đặc biệt, như đầu vai hiếu phục của cháu nội trai,
cháu nội gái có dính miếng vải đỏ, chắt trai thì đính hai miếng; nếu người mất
là ông bà ngoại thì đính vải xanh.
Tóm lại về mặt ý nghĩa, lễ nghĩa thành phục không chỉ để các hiếu tử
mặc hiếu phục và xác định rõ mối quan hệ, hơn nữa nó ảnh hưởng đến lễ tục
tang ma chôn cất sau này.
5. Viếng và chia buồn
Viếng và chia buồn là nội dung khá quan trọng trong lễ tục tang ma. Vì
mối quan hệ với người chết xa gần thân sơ khác nhau, nên các loại nghi lễ,
phương thức viếng và chia buồn cũng có nhiều khác biệt.
Con cái không ở trong nhà hoặc những người khác sau khi nhận được
cáo phó, phải kịp thời bôn tang (nhanh chóng trở về nhà chịu tang), viếng. Bà
con thân thích thuộc về hiếu phục trảm suy có tình cảm sâu sắc, nên lễ tục
cũng yêu cầu vô cùng thân thiết. Con cái sau khi nhận được tin tức, đầu tiên
phải khóc thương thảm thiết, sau đó hỏi rõ nguyên nhân cái chết, bất chấp tất
cả mà chạy về chịu tang. Khi về đến nhà, phải “hướng về quê nhà mà khóc”,
con gái đã đi lấy chồng càng phải khóc than thảm thiết trên đường trở về nhà.
Sau khi đến nhà, đầu tiên phải quì lạy trước linh cữu, khóc than thương tiếc,
cho đến khi mọi người khuyên can an ủi mới dừng lại. Thành viên trong dòng
tộc khá thân thiết tuy không giống như con cái, nhưng cũng phải biểu hiện sự
thương tiếc đau buồn.
Họ hàng bạn bè đến viếng và chia buồn, hiếu tử phải nghênh đón, tiếp
đãi. Ở Bắc Kinh trong những năm gần đây khi họ hàng bạn bè đến viếng, vừa
mới bước vào cửa đội nhạc phải cử nhạc. Người đến viếng đầu tiên phải
hành bốn lễ bái ở nguyệt đài, các hiếu tử giữ linh cữu sau khi trả lễ, đến trước
linh cữu khóc than thương tiếc. Ở một số nơi, nếu không còn họ hàng thân
thích hoặc con trưởng của người chết, thì chỉ đốt mấy tờ tiền giấy là được,
tuyệt đối không khóc than.
Thân hữu đến viếng, đại đa số đều mang theo lễ phẩm hoặc tiền phúng
viếng. Tiền phúng viếng đựng trong phong thư màu vàng hoặc xanh có kí tên.
Chính giữa viết “phúng điếu X đồng”, “kính điếu X đồng”. Lễ phẩm có bức
hoành phi, câu đối viếng, bức trướng viếng, nến thơm, giấy tiền vàng bạc, đồ
tùy táng v.v… Bức trướng viếng bất luận bằng chất liệu gì, phải là màu nhã
như màu xanh, xám, xanh ngọc, trắng v.v…, bên trên điểm xuyết chỉ sáng
màu trắng, viết “Anh minh thiên cổ”, “Điển hình thượng tại” v.v… Có nơi cũng
tặng bàn tế, trên bàn trải mảnh lụa trắng lớn, trên đó viết “XXX lão đại nhân
(đại phu nhân) thượng hưởng”. Ở vùng phía bắc Tần Phổ và vùng phía tây
Nội Mông Cổ khi viếng tang thường mang theo bánh màn thầu (có nơi gọi là
“điểm tâm”), họ hàng thân thích thường mang một phần, tổng cộng 12 cái,
những người khác ở xa hơn một chút thì mang nửa phần. Bánh màn thầu
càng lớn càng biểu thị tấm lòng thành, sự hiếu kính của mình.
Lễ viếng cũng là lễ tục khá xa xưa. Tác dụng của lễ phẩm này lại phân
ra hai loại, là sự viếng thăm chia buồn đối với người chết hoặc sự an ủi, trợ
giúp (về vật chất) đối với người sống, cái trước gọi là “tặng”, cái sau gọi là
“phụ”. Câu đối, bức hoành phi viếng kể trên, đại khái thuộc về cái trước, bức
trướng viếng, bàn tế thuộc về cái sau.
6. Tiếp tam
Tiếp tam cũng gọi là “nghênh tam”, “tông tam”. Truyền thuyết dân gian
thời xưa cho rằng, người chết đã ba ngày linh hồn của họ mới chính thức đến
âm tào địa phủ, hoặc linh hồn của họ sẽ bị thần, Phật hoặc sứ giả kim đồng
ngọc nữ của thần, Phật đến dắt đi. Mọi người đều hy vọng rằng thân nhân
sau khi chết đi sẽ được lên trời, nhưng muốn được như thế thì lúc sinh tiền
phải làm nhiều công đức, nếu không sẽ không được như nguyện. Nhưng tục
lệ nhân gian lại cho rằng, khi người chết qua đời ba ngày linh hồn mới rời khỏi
vì thế đã mời chúng tăng đến niệm kinh cầu nguyện hoặc cho ma đói ăn cầu
độ ác quỉ, đều có thể trừ tội tích đức, được lên trời. Vì tiếp tam là khiến cho
Phật Di Lặc tiếp dẫn vong linh đến thế giới tây phương cực lạc, cho nên gọi là
“nghênh tam”, “tiếp tam”. Đối với con cái của người chết, đây là tiễn thân
nhân đến trời tây, cho nên gọi là “tống tam”.
Muốn tiễn người chết lên đến trời tây phải cần xe ngựa. Loại xe ngựa
này làm bằng giấy, nhưng có nơi cũng rất cầu kì, ngoài ra còn phải có rương.
Tống tam thông thường là sau trời tối, chúng tăng phải niệm kinh lễ Phật,
đánh trống nổi nhạc, đồng thời cũng phải có một số nghi thức, sau đó đem xe
ngựa ra cửa tiễn về trời tây, đến một nơi thích hợp gần đó đốt đi.
Cho ma đói ăn là lễ tục nổi bật nhất trong tiếp tam. Ma đói cũng là quỉ
đói, chúng đang phải chịu khổ ở địa ngục, muốn cứu giúp quỉ đói thoát khỏi
khổ nạn, chỉ có cúng đường Tam bảo “Phật, pháp, tăng”. Tục cho ma đói ăn
trong tang lễ, chính là được xây dựng trên cơ sở tín ngưỡng này. Từ những
tôn giáo khác nhau, ma đói có “ma đói Du Già” của Phật giáo là phổ biến
nhất; loại khác là “ma đói Thiết Quán” của Đạo giáo, “ma đói thập phương”
của đạo sĩ. Ở Bắc Kinh thời xưa, việc cho ma đói ăn lấy việc tăng chúng ca
xướng là chính, chỉ lấy pháp khí như chuông, khánh, trống, cá gỗ, chuông
nhỏ tấu nhạc, gọi là “âm nhạc ma đói”, tục xưng “âm nhạc Phật sự”.
Long trọng, phô trương hơn ma đói thông thường chính là “ma đói
truyền đăng”. Ý nghĩa của ma đói này là “lấy đèn độ vong”, dâng cúng tượng
Phật chính là thắp đèn.
Ngoài việc cho ma đói ăn ra, lễ tục có liên quan đến tăng, đạo trong lễ
nghi tang ma còn có đạo tràng. Dụng ý làm đạo tràng và cho ma đói ăn là
thống nhất, mục đích đều thông qua phương thức này để giúp người chết
giảm hết tội lỗi, tiễn họ về trời. Vì thế, hoạt động này cũng được gọi là “siêu
tiến”, “luyện độ”. Thời xưa thường có tăng nhân, đạo sĩ cùng làm đạo tràng.
Hoạt động tang lễ làm công đức, siêu tiến luyện độ của tôn giáo có ý
nghĩa khá quan trọng, một số dân tộc thiểu số cũng tồn tại phổ biến. Làm
công đức của tộc Dư là phương thức con cháu báo đáp ân dưỡng dục của
cha mẹ, lúc này phải treo hình tổ, tế lễ tổ tiên, ca “bài ca công đức” suốt đêm.
Nghi lễ phải do bốn vị (hoặc sáu vị) thầy tế tiến hành, họ mặc những trang
phục có hình dạng kì dị, quỳ ở linh đường người chết hoặc trung đường đọc
lời tế và ca múa. Ở một số nơi có dân tộc Choang sinh sống, trong quá trình
tang lễ cũng phải ca bài ca ngợi công đức lúc sinh tiền của người chết.
Làm công đức kể trên chỉ có người trong tôn giáo mới tham gia được
(như sư công, thầy tế v.v…). ngoài ra cũng có những lễ tục tương đồng với
tộc Hán như làm đạo tràng, cho ma đói ăn. Làm trai giới của tộc Mao Nam
cũng như thế, qui tắc lễ nghĩa cũng không ngoài lập đạo tràng, niệm kinh sám
hối. Còn dân tộc thiểu số ở Tây Nam trong lễ tục tang lễ, đặc sắc nhất là hoạt
động ca múa.
7. Thành chủ
Thành chủ cũng gọi là điểm chủ hay đề chủ, là nghi lễ khá quan trọng
trong tang lễ. Cái gọi là “chủ”, cũng chính là thần chủ, bài vị vì được làm từ
mảnh gỗ cho nên cũng gọi là “mộc chủ”. Thông thường trên bài vị viết “Hiện
khảo công húy X phủ quân XX chi vị”, dấu chấm trên chữ chủ phải mời người
điểm lên, cho nên cũng gọi là điểm chủ, cả nghi lễ đó cũng gọi là thành chủ.
Sau đó còn có “quán thần điểm chủ”, trước tiên không được viết nét sổ của
chữ “thần” và dấu chấm của chữ “chủ”, đợi tới giờ lành thì mới điểm lên.
Điểm chủ phải chọn ngày lành để cử hành nghi thức. Điểm chủ vốn do
bạn bè sinh tiền của người chết đến làm, sau này thông thường người nhà
mời thầy tăng đến điểm chủ, nhà làm quan hoặc phú hộ giàu có thì mời
những người nổi tiếng trong xã hội đến điểm chủ. Người được mời đến điểm
chủ xưng là “quan điểm chủ”, “quan đề chủ”, “quan hồng đề”. Ngoài ra, còn
phải có hai vị “quan bồi chủ”, cũng gọi “quan tương đề”. Đồng thời phải có
người điều khiển chủ trì nghi thức, gọi là “đại tán”, tục xưng là “đả tán”. Trước
khi điểm chủ đầu tiên phải tả chủ.
Trong tang lễ, điểm chủ là hỉ sự, cho nên các hiếu tử đều cởi bỏ hiếu
phục, đổi thành “kiết phục”. Khi gần tới giờ điểm chủ, tang gia và họ hàng bạn
bè, người điều khiển nghi lễ đều phải ra nửa đường đón tiếp quan điểm chủ,
quan tương đề; đến trước cửa, hiếu tử phải làm đại lễ ba bái chín khấu đầu.
Sau đó, quan điểm chủ, quan tương đề vào chỗ, hiếu tử phải làm đại lễ, bắt
đầu điểm chủ.
Trên bàn điểm chủ đặt hai nghiên mực, một cái dùng để mài mực, một
cái dùng để mài bột thần sa (màu đỏ). Trên bàn còn đặt một chuồng gà trong
đó một con gà trống màu trắng. Quan tương đề sau khi mài mực và bột thần
sa xong thì chấm bút son đưa cho quan đề chủ, quan đề chủ mặt hướng về
phía đông, hấp thu “sinh khí”, một hơi thở ra trên cây bút, đầu tiên trên chữ
Vương của thần chủ chấm một điểm, sau đó dùng bút đen chấm một chấm,
dùng kim vàng đâm vào mào gà, dùng cây bút mới thứ ba chấm máu lại điểm
thêm một lần nữa. Như thế ba lần mới tính là điểm xong. Khi điểm chủ, với lễ
tục cầu kì còn có những nghi thức khác. Ví dụ như mời “quan giảng kinh”,
“quan đọc sách” đọc một đoạn “Mạnh Ý Tử Vấn Hiếu” của “Luận Ngữ”, đọc
một đoạn “Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao …” của “Kinh Thi”.
Đề chủ hoàn tất, hiếu tử hành lễ ba bái chín khấu để bái tạ rồi tay cầm
mộc chủ đặt trước linh cữu, xưng “an sinh”. Sau đó, quan đề chủ, quan tương
chủ cùng đứng dậy, quan đề chủ hướng về thần chủ đọc lời chia buồn, xưng
là “tán chủ”, “vinh chủ”. Nội dung lời chia buồn là ca ngợi tán dương những
công lao thành tích khi người chết còn sinh tiền. Thông thường là nội dung đó
được viết trước trên giấy đỏ, và tuyên đọc ngay tại đó; sau khi đọc xong, phải
đặt trong mộc chủ. Đến lúc này, nghi thức điểm chủ đã kết thúc. Các hiếu tử
theo lệ phải cởi bỏ kiết phục, mặc lại hiếu phục như ban đầu.
Thành chủ tuy chỉ là một nghi thức trong tang lễ, nhưng nó và những lễ
tế sau lễ tang cùng với tôn pháp gia tộc cũng có mối quan hệ. Ví dụ như tế lễ
ở chùa miếu, chính là lấy thần chủ làm đối tượng. Theo truyền thuyết thế gia
vọng tộc đa phần đều thiết lập từ đường, những vật phúng tế trong đó chính
là bài vị của tổ tiên, bài vị của họ hàng trong ba đời, năm đời, đây đều là
thông qua nghi thức thành chủ này để xác lập. Nghi thức này là mối quan hệ
tông pháp rõ ràng, có liên quan đến đại sự “thận chung truy viễn”, nên khá
long trọng. “Thanh Thông Lễ. Hung Lễ. Quan Viên Táng Lễ” có ghi: “Trong
tang lễ, chọn một người học rộng trong họ hàng làm đề chủ”, có thể thấy rằng
đề chủ là qui tắc chung của tang lễ thời Thanh; “Ngô Học Lục. Táng Lễ Môn
Tam” cũng nói: “Trước ngày đưa đám một hai ngày làm lễ đề chủ”.
8. Động quan
Động quan, hạ huyệt là nghi thức cuối cùng trong tang lễ.
Dựa theo tục lệ cổ xưa, người chết ba tháng mới mai táng, thời gian
quá dài, thi thể không dễ bảo tồn, người sống cũng hết sức khổ nhọc. Vì thế,
thời xưa có lễ tục gọi là “khát táng”, “huyết táng”, tức là trong bảy ngày không
được phép mai táng. Sau này thời gian cho đến khi động quan không giống
như vậy, đều có liên quan đến địa vị xã hội, tình hình kinh tế, thời tiết, mùa
màng mà định. Ngày động quan cũng phải mời thầy âm dương đến coi ngày,
gọi là “khai ương bảng”. Trên ương bảng ngoài việc ghi ngày giờ an táng, còn
phải ghi ngày cử hành nghi thức đại liệm, thành chủ v.v…
Trước khi động quan, phải từ linh (vái chào vĩnh biệt trước linh cữu).
Bước này đầu tiên phải gói “hộp đựng thức ăn”, chính là những thức ăn trong
lần cúng tế cuối cùng đựng trong chiếc bình gốm, khi động quan do con dâu
lớn ôm giữ, cuối cùng chôn trước đầu quan tài. Tiếp đó là “tảo tài”, hiếu tử
ném mấy đồng tiền lên quan tài, sau đó dùng một cây chổi bằng hoa lăng tiêu
mới cùng một cái hót rác quét bụi đất phủ trên quan tài xuống, sau đó đổ bên
dưới chiếu trải giường sưởi, gọi là “tảo tài khởi quan”, lấy ý nghĩa “sảo tài
khởi quan”. Cuối cùng, mọi người khóc phát tang rồi đóng đinh quan tài.
Thời khắc động quan đã đến, đội ngũ đưa tang phải chuẩn bị xong tất
cả mọi thứ. Thông thường con trai trưởng cầm phướn đi trước, con trai thứ
ôm linh bài, các hiếu tử kế tiếp đều cầm “gậy khốc tang” quấn bông bạch chỉ,
con dâu trưởng ôm hộp đựng thức ăn. Đợi sau khi tất cả đã chuẩn bị xong, thì
đến giờ động quan. Cùng với việc khiêng quan tài còn có hai nghi thức. Thứ
nhất là đem tháo mở chiếc gối mà lúc sinh tiền người chết thường dùng, vỏ
kiều mạch bên trong và cái gối cùng đem đốt đi. Một nghi thức khác là “suất
bồn”, là ném vở chậu dùng để đốt giấy trước linh cữu. Cái chậu này gọi là
“chậu âm dương”, tục xưng là “tang bồn tử”, cũng gọi “bồn kiết tường”. Suất
bồn nên là trưởng tử hoặc trưởng tôn của người chết, cũng là người đầu tiên
trong trình tự kế thừa di sản. Nếu không có con cháu, thì do người khác đến
suất bồn, nghi lễ này muốn đem mối quan hệ giữa người suất bồn với người
chết kéo gần thêm một chút, xác lập mối quan hệ kế thừa di sản. Suất bồn
yêu cầu một lần phải ném vỡ chậu âm dương, càng nát càng tốt. Tục nói rằng
chậu này là cái nồi của người chết, ném phải vỡ nát mới có thể đem xuống
âm gian. Cái chậu vừa ném, như là một âm thanh hiệu lệnh, phu đòn đám ma
nhanh chóng khiêng đi, người ném chậu cầm phướn hồn, đi theo quan tài.
Liên quan đến việc động quan, tang gia giàu nghèo cũng có nét khác
biệt, có nơi đoàn đưa tang chạy dài đến mấy kilômét, có nơi dài chưa tới hai
mươi ba mươi mét. Thông thường đều phải bao gồm trống nhạc, tùng hoạt,
chỉ hoạt, vòng hoa, câu đối viếng, nghi trượng, tăng đạo, họ hàng, bà con bạn
bè, quan tài và xe kiệu đưa tang. Nghi lễ này ở Hán tộc thời Thanh đều cử
hành khi đưa tang, thứ tự có thể thấy:
(1) Đánh chiêng mở đường, đi phía trước;
(2) Một đôi “vua dẫn đường”; một con “quỉ mở đường” bằng giấy dán,
mỗi cái cao hai trượng, thân mặc áo giáp, đầu như cái đấu, đội nón, khuôn
mặt dữ tợn, dưới chân có bánh xe gỗ, có thể đẩy đi;
(3) Cờ phướn là một loại phướn dài, chính giữa dùng lụa đỏ chữ vàng
viết về quan hàm, những việc mà khi còn sinh tiền người chết hay làm;
(4) Tràng hương, ống tràng, bốn đôi, tám đôi, mười hai đôi không giống
nhau;
(5) Nghi trượng vàng là quả dưa vàng kiểu nằm, dưa vàng kiểu đứng,
búa vàng, bàn đạp vàng (ở hai bên yên ngựa), nắm tay vàng, bàn tay vàng,
lính vàng v.v…
(6) Các lá cờ lớn có hình dạng khác nhau như thanh đạo, hổ bay, rồng
bay, phượng bay, gấu bay, báo bay, cá bay, rùa bay, gậy trắng, rèm, chiêng
v.v…, tổng cộng mười một đôi;
(7) Nghi trượng ngũ đường bán hoặc tam đường bán;
(8) Bốn người khiêng đình ảnh, trong đó đặt di ảnh của người chết;
(9) Bốn người khiêng cầu hồn, bên trong cúng bài vị người chết;
(10) Giữa đình ảnh, cầu hồn dùng ba chiếc lọng bằng lụa hoa đỏ, xưng
là “tọa tán”;
(11) Quan cổ đại nhạc một đội;
(12) Chiêng trống chín cái, hai người khiêng một cái trống nhỏ, bốn
người thổi sáo, một người đánh chiêng nhỏ, một người tay đánh trống da chỉ
huy;
(13) Phiên (lạt ma), đạo (đạo sĩ), thiền (hòa thượng);
(14) Hiếu tử, hiếu tôn;
(15) Cờ lớn;
(16) “Hậu ủng” là lấy giáo mác, búa rìu, nghi trượng dùng dải vải vàng
buộc lại thành một bó, do người khiêng;
(17) Xe ngựa, kiệu đưa đám.
Theo tang lễ truyền thống, trên đường đưa tang còn có một vài nghi
thức nữa ví dụ như rải tiền giấy, bày bàn trà, tế lộ. Tục rải tiền giấy bắt nguồn
từ cuối đời Thanh. Tiền giấy là dùng giấy trắng mà cắt thành tiền “đồng”, khi
đưa đám do người đi trước hiếu tử mà rải. Khi cầm cờ, tế lộ và đi qua ngã tư,
dọc con sông, qua cầu, giếng, chùa miếu, cửa thành và hạ huyệt, đều phải
giương giấy tiền cao lên.
Ở Bắc Kinh thời xưa có người chuyên rải tiền, đơn giản hơn một chút
thì nhờ người làm giúp “ngoại túy” - thời xưa bất luận là lễ đưa đám lớn hay
nhỏ, đều thuê một người ôm cái giỏ đựng giấy tiền vàng bạc, trong tay cầm
hương hỏa, gặp ngã tư, giếng, chùa miếu v.v… thì đốt giấy làm “ngoại túy”.
Bàn trà và lều lộ tế đa phần là do bạn bè của người chết tạo dựng, biểu
thị sự thương tiếc và an ủi. Bàn trà có nước uống cho hiếu tử và họ hàng bà
con, thông thường phải biết ngày đưa tang và con đường đi đưa tang của
tang gia mà bày bàn trà, bình trà, chén trà, khay trà. Đợi khi linh cữu gần đến
thì sẽ dâng lên cho hiếu tử, hiếu tử bất luận uống hay không uống đều phải
quì khấu tạ, còn tế lộ là chỉ trên đường mà đội đưa đám đi qua bày bàn hoặc
lều tế, điện tế vong linh.
Sau khi đến đất mộ, đầu tiên phải chỉnh lí mộ phần, đem những vật tùy
táng như bình đựng thức ăn, trường minh đăng đặt trong khám thờ trên vách
mộ, xóa đi dấu chân, sau đó từ từ hạ quan tài xuống, thầy âm dương dùng la
bàn xem xét phương hướng chính xác rồi lấp đất chôn. Lấp đất đầu tiên do
hiếu tử tiến hành, họ xếp thành một hàng, dọc theo bên mộ, dùng tay hốt một
nắm đất rải vào huyệt mộ, tục xưng lầ “viên phần”, tiếp đó mới lấp đất chôn.
Sau khi lấp đất, phải tạo thành nấm mồ, sau dó dùng gậy khiêng linh cữu đắp
mộ thành hình tròn. Cửa mộ quay về hướng nam, sau đó mọi người cúng tế
mộ phần, tiền giấy đều đốt trước cửa mộ, những tế phẩm mang đến đều đặt
ở đây. Có phong tục ở một vài nơi là lập mộ bia, trên đó viết tên, thân phận
người chết v.v… Phướn dẫn hồn cũng phải đặt ở trong mộ, tiếp đó lấy những
vật dụng được làm từ giấy đem theo đến mộ đốt đi, những vật dụng này cũng
gọi là “minh khí”, tục xưng là “xả hỏa”, “chỉ hóa”. Nó là biến dị của hiện vật tùy
táng thời thượng cổ, được lưu hành từ thời Tống như mâm chén đĩa, quần áo
giày mũ, chăn mền chiếu gối, bàn ghế giường tủ, xe ngựa, yên ngựa và thư
đồng tì nữ, nhà cửa, cũng có những vật tượng trưng trong trí tưởng tượng
như bồn tụ ngọc, cây dao tiền v.v… Vật tùy táng là những vật cùng chôn theo
thi thể người chết, những vật dụng được chế bằng giấy sau khi hạ huyệt sẽ
đem đốt cho người chết đem đi. Tục lễ này dân tộc Mãn gọi là “sao phạn”.
Thanh Thái Tông triều Thanh đã từng qui định: “Từ thạc thân vương trở
xuống, ngưu lục chương kinh trở lên, chỉ cho phép đốt hạ y, xuân thu y, đông
y mỗi thứ ba cái; thường dân chỉ cho phép đốt mỗi thứ một cái”. Vì thế, thông
thường thường dân chỉ đốt vỏ kiều mạch trong gối, ngũ cốc và những phẩm
cúng tế bằng giấy.
9. Chịu tang
Cơ sở chịu tang là hiếu và thân tình, các hiếu tử trong khoảng thời gian
sau khi người thân mất phải tiết chế rất nhiều về phương diện sinh hoạt để
biểu thị sự thương tiếc, tưởng nhớ đối với người mất. Quan niệm truyền
thống là: con trẻ sau khi sinh ba năm không rời khỏi mẹ, lúc nào cũng được
sự che chở, chăm sóc của người cha, vì thế sau khi cha mẹ qua đời, con cái
phải để tang ba năm.
Sau khi đưa đám cho đến thời kì mãn tang ba năm, chia làm nhiều lễ
tiết nhỏ. Theo lễ tục xưa, sau khi chôn cất xong xuôi lại có những lễ tiết như
phản khốc, ngu li, túy khốc. “Phản khốc” là chỉ sự thương tiếc sau khi đã chôn
cất. “Ngu lễ” là lễ an hồn, phải tiến hành ba lần. Sau ba lần ngu lễ thì làm lễ
“túy khốc”, là cúng tế, khóc phát tang linh vị, sau đó sớm tối có thể không
khóc nữa. Ngày túy khốc là ngày nghênh đón thần chủ mới vào từ đường,
kèm theo bên cạnh là tổ khảo hoặc tổ tỉ, kết thúc lễ, thần chủ mới được đặt
trở về chỗ cũ. Sau lễ tang mười ba tháng, mười lăm tháng thì cử hành lễ “tiểu
tường”, “đại tường”.
Để tang ba năm là yêu cầu của hiếu tử đối với hiếu phục trảm suy. Chịu
tang cũng gọi là “đinh ưu”, “đinh gian”, hay “thủ hiếu”, là thể hiện tốt nhất lòng
hiếu thảo đối với cha mẹ, cũng là sự khảo nghiệm đối với con cái xem có hiếu
thuận hay không. Theo lễ tục xưa, trong ba năm chịu tang hiếu tử không thể
ra ngoài làm quan hay dự tiệc, cũng không thể ở trong nhà, mà phải đến
trước mộ của cha mẹ dựng một cái lều nhỏ, “nằm ngủ đệm cỏ” là ngủ ở
giường cỏ, gối đầu bằng đất, hơn nữa ăn uống đạm bạc, không ăn thịt, không
uống rượu, không động phòng, không nghe nhạc, không tắm rửa, không cắt
tóc, không thay áo. Thời gian chịu tang mà ra làm quan, không chỉ chức quan
làm không thành mà còn chịu người đời mai mỉa, xã hội lên án; người phạm
lễ sẽ tự cảm thấy cắn rứt, giày vò.
Nhưng khi chịu tang cũng có một số quyền lợi, được qui định rõ ràng
trong “Lễ Kí. Khúc Lễ” nói: “Lễ chịu tang, đầu bị thương có thể gội đầu, người
bị thương có thể tắm rửa, có bệnh có thể uống rượu ăn thịt để bệnh không tái
lại”. Cũng dựa vào tình hình mà chia ra hai loại, thứ nhất, nếu có bệnh tật thì
có thể tùy tiện một chút, không cần phải câu nệ lễ tiết; thứ hai nếu tuổi già thì
cũng không cần câu nệ lễ tiết, hiếu tử bảy mươi tuổi thậm chí chỉ cần quấn
gai đeo tang, có thể uống rượu ăn thịt, cũng không cần đến bên mộ cha mẹ
dựng lều nằm giường cỏ. Ngoài ra nếu đất nước gặp phải chiến tranh, gia lễ
phục tùng theo quốc sự, hiếu tử có thể không chịu tang, ra sức cứu nguy đất
nước.
Thời gian chịu tang của người Mao Nam là ba năm, lễ tục này được
truyền từ thời Chu Tần. Trên thực tế, thời gian chịu tang của người Mao Nam
giống như tộc Hán, rút ngắn chỉ còn có bốn tháng. Trong thời gian này, các
hiếu tử không được phép mặc quần áo mới, không được cắt tóc, gội đầu,
chải đầu, cấm động phòng, không thể tổ chức hôn sự. Sau khi mãn tang, phải
tìm thầy chọn ngày “xả tang”. Ngày xả tang, gia chủ phải giết gà, luộc trứng,
trước linh vị người chết thắp hương đốt nến cúng tế, mời cậu đến giúp cắt tóc
gội đầu. Từ đó, thời gian chịu tang đã kết thúc.
Thời gian chịu tang phải tuân theo mọi điều cấm kị, đây là lễ tiết rất phổ
biến ở các dân tộc. Ví dụ như trong thời gian chịu tang của hiếu tử dân tộc
Choang thì tuyệt đối cấm động phòng, không ngồi ghế cao, không được đi
chợ, không cắt tóc, không tham gia ca múa hội hè, ngăn cấm tất cả những
hoạt động xã giao, hơn nữa mỗi bữa cơm trước hết phải cúng tế vong linh.
Trong thời gian chịu tang của tộc Đạt Oát Nhĩ thì hiếu tử không được cắt tóc,
không cạo râu, không đi khỏi nhà, không nhận lễ khấu đầu, không cắt móng
tay, con gái không được phép đeo trang sức, bông tai, vòng tay v.v…, không
được tranh cãi với người khác, không được cử hành hôn lễ, không được nằm
ngủ trên giường có lò sưởi bên dưới, vợ chồng không được động phòng.
Ngoài ra, câu đối xuân không được dùng giấy đỏ mà dùng giấy xanh, năm
mới phải túc trực bên mộ không được phép ra ngoài chúc tết. Người tộc Mãn
trong thời gian chịu tang ngoài việc phải tuân thủ rất nhiều cấm kị ra, trong
vấn đề phục sức cũng có rất nhiều lễ tiết. Thời sơ Thanh, hiếu phục của tộc
Mãn có tục “con trai tháo mũ cắt tóc, con gái cởi bỏ trang sức cắt tóc”, sau đó
thành tập tục của cung đình. Trong dân gian, con trai hông phải buộc đai vải
trắng, nữ trùm đầu. Nếu một người già mất đi, hông phải buộc vải trắng, đầu
phải trùm khăn một bên dài một bên ngắn, hai người cùng mất thì dài ngắn
như nhau, cháu nội trai đeo khăn tang còn mang thêm một dải màu đỏ, chắt
trai thì thêm hai dải, xưng “hoa hiếu”. Con dâu không về nhà chồng đeo tang
cho cha mẹ chồng, bên trong hiếu phục trắng còn mặc thêm hiếu phục đỏ.
Phụ nữ trong thời gian chịu tang, trên mặt giày phủ một miếng vải màu xám
nhạt. Loại phục trang này phải mặc trong thời gian chịu tang, trang phục của
người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn đều giống nhau, mang đậm ý nghĩa lễ
tục.
III. LỄ NGHI LỄ TANG HIỆN ĐẠI
Cùng với sự tiến bộ của xã hội, trình độ văn hóa của mọi người được
nâng cao, nghi thức tang lễ kiểu xưa ngày càng ít người làm theo. Hỏa táng
thi thể hoặc hiến xác cho bệnh viện ngày càng phổ biến. Tang lễ kiểu mới đã
dần trở nên thịnh hành.
1. Trình tự lo liệu tang lễ
(1) Một người khi xác định đã tử vong, họ hàng bạn bè nên lập tức điện
thoại thông báo cho nhà tang lễ đưa xe chuyên dụng chuyển thi thể đến nhà
xác. Khi khởi hành, nên có một người thân của người chết cùng đi. Sau khi
đến nhà tang lễ thì làm thủ tục theo qui định và chuyển người chết vào nhà
xác.
(2) Kịp thời bàn bạc với mọi người lo việc hậu sự, tốt nhất là nhờ những
người thân hữu có kinh nghiệm giúp đỡ, phân công làm tổng quản, tài vụ (lo
các khoản chi tiêu), bố trí, phục vụ và những việc tạp vụ khác.
(3) Cùng với nhà tang lễ bàn bạc lo việc tang ma chôn cất. Thông
thường nhân viên nhà tang lễ sẽ hỏi những việc như sau: thời gian tổ chức lễ
điếu, chọn nghi thức tang lễ như thế nào, gia tế hay lễ tưởng niệm v.v…
(4) Bố trí linh đường. Bố trí linh đường lấy sự trang nghiêm cung kính
làm nguyên tắc, trên bức tường phía sau có treo “hoa bài”, có hai loại là
nguyên hoa và nửa hoa, đại khái là lấy màu xanh lá cây đậm làm đế, buộc lên
đó một bông hoa vàng. Chính giữa hoa bài đặt bàn linh, chính giữa sau bàn
linh đặt một di ảnh 24 tấc Anh có buộc hoa vàng (lồng kính có viền đen), trên
bàn linh thông thường đặt hoa tươi (hoa cúc vàng trắng là chính), trái cây,
thức ăn, chính giữa đặt linh vị, hai bên đặt một đôi nến thơm to, ngoài ra còn
có lư hương v.v…, nếu có người viếng lẵng hoa thì có thể bài trí hai bên bàn
linh. Câu đối viếng hiếu gia (câu đối viếng cha hoặc mẹ và con cái của người
chết v.v…) treo trên hoa bài sau hai bên di ảnh, những người khác viếng câu
đối, bức trướng có thể lần lượt treo hai bên linh đường. Vòng hoa, lẵng hoa
xếp ở hai bên lối ra vào. Trong linh đường hai bên trái phải bài trí bàn dài,
trên đó có thuốc thơm, trà nước, và đặt những chiếc ghế quanh đó, để người
đến viếng ngồi. Gian nhỏ hai bên trái phải hoặc trên mặt đất hai bên ngoài linh
đường đặt bàn dài, một bên là nơi nhận lễ, một bên là nơi kí tên.
(5) Thông báo tin buồn. Là thông báo cho họ hàng bạn bè thời gian địa
điểm người chết để họ đến viếng, có thể thông báo bằng miệng, cũng có thể
gửi thông báo hoặc đăng báo.
(6) Nơi nhận lễ; nơi kí tên nên chú ý mọi việc. Ở các nơi lễ vật viếng tế
tang lễ không ngoài năm vòng hoa, lẵng hoa, câu đối viếng, bức trướng
viếng, tiền cúng. Nên chuẩn bị lễ phẩm và thiệp tạ ơn, một mặt ghi tên và số
lượng lễ phẩm, một mặt viết thiệp tạ ơn cho những khách tặng lễ. Đáp lễ nhớ
phải ghi rõ ràng, có thể tham khảo để báo đáp. Nơi kí tên, thông thường là kí
tên để viếng người chết, và tiện tay lấy một đóa hoa trắng để cài.
(7) Chú ý những việc khi đưa tang. Người tham gia đưa tang phải ước
tính, bất luận họ hàng nhiều hay ít, phải chuẩn bị đủ xe để người đưa đám
ngồi. Nếu đưa tang vào buổi trưa, phải chuẩn bị thức ăn và nước uống.
2. Nghi thức lễ truy điệu
Truy điệu là hình thức chủ yếu trong tang lễ kiểu mới, nó có thể gửi
gắm sự thương tiếc, biểu đạt niềm tiếc nhớ của mọi người đối với người chết.
Lễ truy điệu thông thường được sắp xếp ở linh đường, cũng có thể tìm ở hội
trường khác. Hội trường bố trí phải trang nghiêm, chính giữa treo di ảnh của
người chết, khi đã hỏa táng thì đặt hũ cốt trên bàn linh đường, che bằng tấm
vải đỏ. Chưa hỏa táng thì chính giữa đặt di thể, xung quanh đặt vòng hoa
tùng bách, hai bên tường treo câu đối viếng, bức trướng viếng. Chính giữa
bức tường treo bức trướng ngang viết “Lễ truy điệu đồng chí XXX”, giấy trắng
chữ đen. Nếu từ biệt di thể thì trên bức trướng ngang viết “Tạm biệt di thể
đồng chí XXX.” Sau khi bố trí hội trường xong, có thể sắp xếp người tham gia
truy điệu đứng thành đội, họ hàng người chết đứng bên trái, chủ yếu họ hàng
thân thích đứng trước, những người khác đứng ở giữa, hướng về di ảnh và di
thể, phân chia sắp xếp trật tự. Người chủ trì lễ truy điệu đứng ở trước bên
trái, một nửa hướng về họ hàng thân thuộc của người chết, một nửa hướng
về những người khác. Lễ truy điệu chính thức bắt đầu, gồm những nghi thức
sau:
(1) Bắt đầu lễ truy điệu đồng chí XXX.
(2) Trỗi nhạc thương tiếc.
(3) Toàn thể dứng dậy, thành kính hướng về di ảnh (di thể) đồng chí
XXX, một lạy, hai lạy, ba lạy.
(4) Kính dâng vòng hoa.
(5) Đọc lời chia buồn đồng chí XXX.
(6) Đại biểu XXX nói lời thương tiếc.
(7) Tuyên đọc điện viếng, thư viếng.
(8) Gia tộc nói lời thương tiếc.
(9) Cử nhạc tạm biệt di thể đồng chí XXX.
(10) Kết thúc.
3. Nghi thức đặt hài cốt
Nghi thức đặt hũ cốt, thông thường được tiến hành ở mộ.
Trên mộ lập bia mộ. Chính giữa bia mộ thường khắc danh tánh người
chết, người lập bia và thời gian lập bia. Mặt sau của bia không viết gì cả.
Họ hàng bạn bè của người chết đứng nghiêm trang trước huyệt mộ, do
người thừa tự (con cái của người chết) tay cầm hũ cốt nhẹ nhàng đặt vào
trong mộ. Sau đó đóng nắp huyệt lại. Sau khi đóng huyệt, người thân trước
mộ bia dâng vòng hoa, trái cây tươi, và hành lễ.
Nếu hũ cốt sắp xếp đặt tại nhà tang lễ hoặc nơi hỏa táng, nghi thức có
thể đơn giản hơn, chỉ là trước hũ cốt, bài trí vòng hoa nhỏ và trái cây tổ chức
cúng tế, và hành lễ là xong.
4. Lễ nghi an ủi thân nhân người chết
Trong cuộc sống sự việc khiến ta tiếc thương nhất là cuộc chia tay sinh
li tử biệt. Sinh li tuy khó, nhưng còn hy vọng có cơ hội gặp lại nhau, còn một
khi tử biệt là mãi mãi. Đặc biệt trong xã hội phong kiến, ba bất hạnh lớn nhất
trong đời người là: ấu thơ mất cha hoặc mẹ, trung niên mất vợ hoặc chồng,
tuổi già mất con ruột hoặc con rể, sẽ càng khiến cho người ta đứt từng đoạn
ruột. Vì thế, an ủi người thân của người chết là vô cùng cần thiết.
An ủi thân nhân của người chết là biểu hiện sự cảm thông, chia sẻ,
thông thường phải chú ý đến các phương diện dưới đây:
(1) Hiểu rõ tình hình sức khỏe của thân nhân người chết. Vì bi thương
quá độ và phải phụng dưỡng hầu hạ liên tục trước khi người thân lâm chung
mà mệt mỏi (đặc biệt là bệnh lâu không khỏi), sẽ khiến cho thể lực của thân
nhân người chết giảm sút, thậm chí vì quá đau buồn mà sinh bệnh. Nếu vốn
mắc phải những bệnh nặng mãn tính, càng nên khuyên đừng bi ai đau buồn
quá mà không tốt cho sức khỏe. Ngoài ra, có thể tìm những người bạn tâm
giao cùng nhau khuyên bảo, ra sức thay đổi đề tài trò chuyện, phân tán sức
chú ý. Đối với việc đưa đám hoặc ở hiện trường hỏa táng đặc biệt sẽ dẫn đến
sự bi thương của thân nhân, nếu thân nhân của người chết cơ thể đa bệnh
hoặc tuổi già, thì khuyên họ không nên đến hiện trường, để tránh sự bi
thương quá độ mà xảy ra những việc ngoài ý muốn.
(2) Hiểu rõ sự thương nhớ của thân nhân người chết, hoặc là gia đình
khó khăn, hoặc giáo dục con cái, hoặc công việc không thuận tiện. Đối với
những điều này, phải có sự khuyên giải tốt. Nếu cần thiết có thể thông qua tổ
chức, bạn bè, thầy cô hoặc anh em giải quyết, để giúp cho họ hàng giảm bớt
suy nghĩ, lo lắng và đau buồn.
(3) Nên nói đến những chuyện vui vẻ. Ví dụ như người thân tuy đã mất,
nhưng con cái cũng đã thành tài, học hành tiến bộ, công việc suôn sẻ, nên đề
cập nhiều tình hình của con cái, giúp cho cha mẹ nhìn thấy được hy vọng.
Nếu có thể khiến cho con cái cùng nhau an ủi, thì hiệu quả sẽ càng tốt.
(4) Nếu thân nhân của người chết vì quá đau buồn mà đối với việc tổ
chức hoặc tiếp đãi trong tang lễ có điều gì thiếu sót hoặc không chu đáo, đều
nên rộng lòng tha thứ. Bên cạnh đó, còn phải tích cực phối hợp với người nhà
xử lí tốt mọi việc, tuyệt đối không tỏ ra khó chịu hoặc bất mãn, điều này sẽ
khiến cho thân nhân người chết càng tổn thương và đau buồn.
5. Lễ viếng
Thết tiệc viếng tang là tiệc rượu giao tế vô cùng quan trọng. Vì người
người đều biết, “cứu trợ đúng lúc” còn quí báu hơn là “thêm hoa cho gấm”,
cho nên khi bạn bè có tang ma, chúng ta đều nên quan tâm giúp đỡ. Tục lệ
Trung Quốc xưa, việc tang càng phải long trọng hơn hĩ sự, vì thế quan tâm
đến việc tang sự của bạn bè, đây là đạo lý rất được xem trọng, cũng là hoạt
động tinh thần được sùng bái.
(1) Xem tình hình lễ viếng
Tổ chức tang lễ không gửi thiệp mời, thông thường là đăng cáo phó
trên báo hoặc dán cáo phó ở một số nơi, không thông báo cụ thể cho từng
người. Thông thường, thân nhân người chết luôn hoan nghênh người đến
viếng càng đông càng tốt. Cho nên, nếu biết được tin bạn bè qua đời, hoặc
nhà bạn bè có tang ma đều nên đến viếng.
Đặc biệt khi bạn bè, thầy cô, trưởng bối mất đi hoặc gia đình họ có tang
ma, không đến viếng thăm là thất lễ.
(2) Phương thức lễ viếng
Phương thức tốt nhất, đơn giản nhất của lễ viếng là tham dự lễ truy
điệu của người chết. Tham dự lễ truy điệu, thông thường là viếng vòng hoa
để biểu thị sự thương tiếc. Có thể viếng một mình, còn có thể lấy danh nghĩa
của một gia đình hoặc một đơn vị mà viếng. Lễ truy điệu rất nghiêm trang,
người tham dự nên có tâm tình đau buồn trầm mặc và vẻ mặt thương tiếc,
chú ý tuân theo mỗi một nghi thức của lễ truy điệu. Thích ứng với không khí
của buổi lễ, người tham dự lễ truy điệu trang phục không được lòe loẹt mà
phải giản dị, nhã nhặn, cử chỉ thái độ trò chuyện phải trầm mặc một chút.
Hình thức thứ hai của lễ viếng là đến nhà người chết an ủi thân nhân
họ. Phương thức này thông thường là do biết khá muộn, hoặc vì bận việc gì
đó mà không tham dự được lễ truy điệu. Hình thức viếng này như sau: đầu
tiên, an ủi thân nhân, nói rõ nguyên nhân và xin lỗi khi không thể tham dự lễ
truy điệu được, biểu thị sự thương tiếc đối với người chết, khuyên thân nhân
đừng quá đau buồn. Sau đó, có thể đứng trước di ảnh người chết mặc niệm 1
- 2 phút. Lúc này, thái độ phải tự nhiên, nét mặt phải chân thành, trang phục
phải giản dị, cử chỉ lời nói phải chừng mực thích đáng, khiến cho thân nhân
người chết thấy được tình cảm chân thành của bạn mà tinh thần được an ủi.
Phương thức thứ ba là thư viếng. Có thể do nguyên nhân nào đó mà
không thể thực hiện được hai phương thức trên như người chết ở xa, hoặc
người viếng không thuận tiện. Lúc này có thể dùng thư viếng, thư chia buồn.
(3) Phúng điếu bằng tiền, vật
Lễ viếng thông thường là vòng hoa hoặc hoa tươi, không cần phải đi
tiền. Nhưng một số người có mối quan hệ khá thân thiết với người mất hoặc
với tang gia, là họ hàng thân thích, hoặc cuộc sống tang gia khá khó khăn,
cũng có thể phúng điếu bằng tiền. Thông thường phúng điếu tiền cho vào
phong thư trắng, bên ngoài viết “phúng điếu” tục xưng “bao trắng”, đi bao
nhiêu tiền thì xem tình hình mà định. Người phúng điếu vật thông thường là
tặng vải, màu sắc nền nã, nhã nhặn. Câu đối viếng được làm bằng vải, lời
viếng dùng giấy viết sẵn chữ, lại dùng kim ghim ghim lên vải thành câu đối
viếng, sau khi tang lễ xong xuôi thì vẫn còn là một tấm vải tốt.
(4) Giúp đỡ thân nhân người chết
Giúp đỡ thân nhân người chết là biểu đạt ý kính trọng đối với người
chết, phương thức quan tâm đối với người chết là được hoan nghênh nhất.
Thứ nhất là giúp tang gia tổ chức tang sự. Trong nhà có người chết, người
thân luôn luôn đau buồn thương tiếc, rối loạn thiếu sót, lúc này rất cần có
người đứng ra tổ chức tang sự. Nếu bạn có mối quan hệ thân thiết với tang
gia mà lại có nhiều thời gian rảnh, tốt nhất là nên giúp đỡ tang gia lo liệu trong
ngoài, bất kể việc to việc nhỏ đều rất cần thiết. Ngoài ra, sau khi tang ma
xong xuôi, nên tiếp tục quan tâm đến đời sống tinh thần của thân nhân người
chết, an ủi họ làm việc, sống tốt, mỗi khi lễ tết nên thường xuyên thăm hỏi.
Nếu họ có cuộc sống khó khăn, nên giúp đỡ tiền bạc. Ngàn vàng khó mua
nhân tình, quan tâm đối với người sống, cũng là sự thương nhớ đối với người
chết.
6. Nghi thức cúng tế
Cúng tế đối với người đã chết và mộ người chết, thông thường có thể
phân làm hai loại là: cúng tế ở nhà và tảo mộ cúng tế.
Cúng tế ở nhà, thông thường được tổ chức vào ngày sinh hoặc ngày
giỗ của cha mẹ, ông bà. Nhưng chẳng qua cũng chỉ là trước di ảnh của người
chết, thắp ba cây hương và cúng ba chung rượu, hoặc lấy một lẵng hoa màu
nhạt làm đồ cúng chay, để biểu thị sự tưởng nhớ đối với người chết.
Quét dọn, cúng tế mộ phần, thông thường được tổ chức vào tiết Thanh
Minh, tiết Trung Nguyên, năm mới. Quét dọn cúng tế mộ tổ tiên truyền thống
có những hạng mục sau:
(1) Thắp ba cây hương, cúi đầu tưởng nhớ. Bày một ít trái cây hoặc
thức ăn mà lúc còn sống người chết rất thích làm vật cúng tế, đây là phương
thức để mọi người gửi gắm niềm thương nhớ. Cúng tế trước mộ, trước kia tất
cả con cháu đều phải quỳ mà làm đại lễ, ngày nay chỉ cần cúi người vái ba
lần.
(2) Tu sửa lăng mộ. Thông thường là bồi đất cho phần mộ và đường
vào mộ. Do mỗi năm lượng mưa đổ xuống, sẽ khiến cho đường vào mộ và
mộ phần bị lở, nhân dịp cúng tế, có thể tiến hành tu sửa và nâng cao mộ
phần. Bên ngoài mộ có thể lấy một ít cỏ đắp xung quanh, sau khi cỏ bò lan
khắp mộ có thể giảm thiểu lượng đất chảy mất, còn có thể trồng cây để tưởng
nhớ.
Ngày nay, ở nông thôn có rất nhiều nơi đã san bằng mộ làm ruộng,
thực hiện hỏa táng, xương cốt gửi vào nhà tang lễ; có nơi còn gửi nghĩa địa
công cộng. Vì thế, nghi thức quét dọn cúng tế cũng đã đổi mới, không còn
phức tạp giống như hình thức truyền thống nữa.
Nghi thức quét dọn cúng tế mộ người chết, có thể dâng vòng hoa hoặc
một bó hoa tươi. Nếu thương tiếc mộ phần, sau khi cúi người hành lễ hoặc
cúng tế xong thì quét dọn vệ sinh xung quanh mộ, xương cốt gửi vào nhà
tang lễ có thể dâng cúng vòng hoa cỡ nhỏ tinh xảo hoặc bó hoa bằng nhựa.
Sau đó, quét phủi bụi bám trên hũ cốt, nhìn di ảnh, cúi người hành lễ, và cúi
đầu mặc niệm, gửi gắm sự thương tiếc của bản thân.
7. Nghi thức cúng tế mộ tổ tiên
Mỗi khi đến tiết Thanh Minh hoặc ngày giỗ, khi quét dọn mộ người chết,
nên chú ý những nghi thức sau.
(1) Đứng nghiêm trang mặc niệm. Khi số người tham dự khá đông cũng
có thể trỗi nhạc thương tiếc.
(2) Người chủ tế vào chỗ, họ hàng bạn bè vào chỗ cũ.
(3) Người chủ tế đến trước mộ dâng hoa, quả, cầm hoa dâng hoa,
bưng quả dâng quả, người chủ tế cúi người hành một lễ.
(4) Nếu có điều kiện, còn có thể đọc văn tế. Văn tế là những lời thương
tiếc tưởng nhớ do người chủ tế đọc trong hoạt động tảo mộ Thanh Minh và
ngày giỗ. Văn tế không hạn chế về mặt thời gian, nó có thể đọc để tưởng nhớ
người đã mất nhiều năm trước. Cách viết văn tế giống như viết thư, nhưng
đối tượng xưng hô của nó lại là người chết. Kì thực, thể văn tế là cho người
sống nghe, vì muốn người sống tiếp tục kế thừa tuyền thống tốt đẹp của cha
ông, tiếp tục tiến bước trên con đường mà cha ông ta chưa đi hết.
(5) Người chủ tế cùng mọi người dự lễ hướng về mộ người chết tế, một
lễ, ba lễ.
IV. NGHI LỄ VĂN THỂ TANG LỄ
1. Cáo phó
Cáo phó hay còn gọi là thông báo tin buồn, là văn thư dùng để báo việc
tang ma. Thông thường do thân nhân người chết hoặc ủy viên tổ chức tang lễ
gửi phát. Thông báo cáo phó nên thực hiện trước khi cáo biệt người chết,
khiến cho họ hàng bạn bè người chết kịp thời chuẩn bị những thứ cần thiết,
như vòng hoa, câu đối viếng v.v…
Cách gửi phát cáo phó có rất nhiều, có thể thông qua phương tiện
truyền thông đại chúng như đài truyền hình, báo chí hoặc đài phát thanh.
(1) Cáo phó kiểu thông thường
Đây là kiểu thường thấy nhất, nội dung chủ yếu bao gồm năm phương
diện sau đây:
1. Ở giữa hàng đầu tiên viết hai chữ “Cáo phó”, hoặc thêm tên của
người chết như: Cáo phó XXX. Thể chữ chính văn kiểu hơi lớn.
2. Viết rõ tên tuổi, thân phận của người chết, nguyên nhân từ trần,
ngày, giờ, tuổi thọ khi qua đời. Tuổi lúc chết cũng có nơi viết là hưởng thọ, ý
nghĩa là hưởng được bao nhiêu năm sinh sống. Tuổi lúc chết là chỉ số năm
người chết đã sống được là bao nhiêu. Hưởng thọ, thông thường dùng cho
người trên mình hoặc người già mà mình kính trọng.
3. Giới thiệu tóm tắt những việc quan trọng mà người chết đã làm khi
còn sống, tuyệt đối không giống như viết sơ yếu lí lịch.
4. Thông báo thời gian, địa điểm viếng và lễ truy điệu.
5. Ghi rõ tên cá nhân, đoàn thể, và thời gian gửi cáo phó.
Ví dụ:
Cáo phó
Đồng chí XXX nguyên là sở trưởng sở XXX tỉnh XX, vì bệnh tình
nghiêm trọng đã từ trần vào lúc 3 giờ 43 phút chiều ngày X tháng X năm XX,
hưởng thọ 78 tuổi. Linh cữu sẽ được hỏa táng tại XXX vào 10 giờ sáng ngày
X tháng X năm xxxx, thể theo di nguyện của đồng chí xxxx, tất cả nghi thức
đều được tiến hành đơn giản. Kính báo.
Sở XXX tỉnh XXX
Ngày X tháng X năm XXX
Ngôn từ trong cáo phó phải chuẩn xác, đơn giản, nghiêm túc, trân
trọng, thể hiện sự thương tiếc đối với người chết.
Lời lẽ trong bản cáo phó hiện đại so với lời lẽ trong bản cáo phó xưa có
sự khác biệt nhất định, đặc biệt là về thể văn. Đây là vì ngôn từ trong thư hiện
đại yêu cầu phải duy trì sự nhất trí đối với khẩu ngữ, lời văn phải viết rõ như
lời nói, sao cho người vừa xem đã hiểu. Có những nghi thức kiểu mới như
“năm điều cần thực hiện, bốn cái đẹp phải giữ”; có những nghi thức lạc hậu,
đã bị đào thải. Như “tiên khảo” (cha đã chết), “tiên tỉ” (mẹ đã chết) và “húy”
v.v…, trong Hán ngữ ngày nay đã không còn thấy nhiều. Chữ “khảo”, “tỉ” đã
sớm được thay thế bởi từ “cha”, “mẹ”. Chữ “húy” càng mang màu sắc phong
kiến. Trong xã hội phong kiến, hạ thần không thể trực tiếp xưng hô tên của
vua, như vậy là phạm thượng. Con gái cũng không thể trực tiếp xưng hô tên
của trưởng bối, nếu không sẽ được xem là đại nghịch bất hiếu. “Húy” chính là
ý nghĩa của “kị húy”, trước tên của cha mẹ thêm chữ “húy”, việc này mang
màu sắc đậm lễ giáo phong kiến, ngày nay sớm đã bị xóa bỏ.
(2) Cáo phó kiểu thông báo
Cáo phó hình thức này long trọng hơn, nghiêm trang hơn kiểu cáo phó
thông thường. Loại cáo phó này luôn luôn dựa vào nghề nghiệp, địa vị của
người chết, do đảng và nhà nước hoặc cơ quan, đoàn thể thứ tự các cấp
nhất định v.v… quyết định gửi phát, về mặt nội dung trên cơ bản thì không có
gì khác so với cáo phó kiểu thông thường, nhưng kết cấu sắp xếp có chút
khác biệt để hiện rõ tính chất nghiêm trang long trọng. Cách viết cáo phó kiểu
này như sau:
1. Thông báo tin tức từ trần
1) Viết rõ tên đơn vị gửi “thông báo” và hai chữ “thông báo”, điều không
giống với “cáo phó” là trước “thông báo” thì thêm tên đơn vị gửi, còn sau “cáo
phó” thì thêm tên người mất.
2) Ghi rõ nghề nghiệp, danh tánh của người chết, nguyên nhân, thời
gian, địa điểm từ trần và tuổi khi mất.
3) Có những đánh giá sơ lược đối với người chết và lời bày tỏ thương
tiếc.
4) Ghi rõ thời gian thông báo.
Thông báo trên tuy không phải do ban tổ chức tang lễ gửi phát, nhưng
lại là thành phần tổ thành không thể thiếu trong cáo phó.
2. Trọng tâm của cáo phó:
1) Luôn luôn dùng thể chữ to viết rõ thông báo của ban tổ chức lễ tang
đồng chí “XXX”.
2) Sắp xếp đối với tang sự và yêu cầu cụ thể.
3) Ghi thời gian thông báo.
3. Thông báo danh sách ban tổ chức tang lễ
Ba văn bản trên cùng gửi một lúc.
(3) Kiểu tin tức trên báo
Hình thức này thường là một bản tin tức được thông báo trên báo chí.
Nội dung và hình thức đều rất đơn giản.
Trong ba hình thức trên, thường thấy nhất và phổ biến nhất là hình
thức đầu tiên. Điều nên chú ý là tất cả cáo phó đều dùng giấy trắng, viết mực
đen.
2. Gửi điện, thư chia buồn
Điện chia buồn là điện báo gửi cho thân nhân người chết để biểu thị sự
thương tiếc người chết, an ủi người sống. Gửi điện chia buồn chủ yếu là vì
không thể đích thân tới thăm viếng được. Có hai hình thức: thứ nhất lãnh đạo
cơ quan, đoàn thể gửi điện chia buồn; thứ hai là cá nhân gửi điện chia buồn.
Nội dung điện chia buồn đầu tiên là nỗi niềm thương nhớ đối với người chết;
tiếp đó là nhận xét đối với người chết (nội dung này có thể được lược bỏ);
cuối cùng, biểu thị sự an ủi đối với thân nhân người chết, khuyên họ đừng
quá đau buồn.
Gửi điện chia buồn, tình cảm phải chân thật, cả bức điện phải bao trùm
sự thương tiếc, đánh giá nhận xét đối với người chết, lời văn phải ngắn gọn
dễ hiểu.
Nếu lấy danh nghĩa cá nhân gửi điện chia buồn, cách xưng hô giữa họ
và người nhận điện cùng với người chết nên phân biệt rõ ràng, không được
dùng sai.
Những người có mối quan hệ rất sâu đậm với người chết, sau khi
nhanh chóng gọi điện thoại, gửi điện chia buồn, lại viết một bức thư khá dài,
đây gọi là thư chia buồn. Cách thức thư chia buồn ngày nay chia làm bốn
phần là mở đầu, chính văn, kết luận và kí tên.
(1) Mở đầu. Tên xưng hô đơn vị nhận thư chia buồn hoặc thân nhân
của người chết. Viết ở dòng đầu tiên, ô đầu tiên tên xưng hô cộng thêm mạo
danh. Nếu có mối quan hệ thân thiết với thân nhân người chết, thì sau tên họ
còn thêm cách xưng hô thích đáng như “đồng chí”, “tiên sinh”, “phu nhân”.
(2) Chính văn. ở một dòng khác, cách vào hai ô, có thể phân đoạn,
cũng có thể không phân đoạn, nội dung như sau:
1. Biểu thị sự thương tiếc vô hạn khi nhận được tin dữ.
2. Lược thuật những cảm nhận về đạo đức tốt đẹp, tình cảm và thành
tích trong công việc của người chết lúc còn sinh tiền.
3. Biểu thị quyết tâm hóa bi thương thành sức mạnh.
4. Kết luận. Biểu thị sự thăm hỏi chân thành đến thân nhân người chết.
(3) Kí tên. Một dòng khác, bên dưới góc phải viết tên họ người gửi điện
(hoặc tên cơ quan đơn vị), kí tên ở hàng dưới và viết ngày, tháng, năm gửi
thư.
3. Lời điếu
Lời điếu ngày nay chia làm hai loại: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Lời điếu
nghĩa rộng là chỉ lời văn mang tính chia buồn, biểu thị niềm tưởng nhớ,
thương tiếc và kính trọng đối với người chết; lời điếu nghĩa hẹp chuyên chỉ
thể văn chia buồn bày tỏ sự kính trọng và thương tiếc đối với người chết
được tuyên đọc trong lễ truy điệu. Nhưng bất luận lời điếu là nghĩa rộng hay
nghĩa hẹp đều có đặc trưng cơ bản giống nhau là khẳng định cống hiến của
người chết đối với xã hội, chân thành biểu đạt niềm thương nhớ và kính trọng
của người sống, dùng lời nói chân thành không đưa đẩy và thể hiện nội dung
tích cực hóa đau thương thành sức mạnh.
Dựa theo cách dùng của lời điếu có thể phân ra làm hai loại lớn: thể
tuyên đọc và thể viết thư. Lấy biểu hiện thủ pháp để phân loại, bất luận lời
điếu thuộc thể nào, trên cách viết đều không ngoài ba loại lớn đó là kiểu tự
thuật, kiểu nghị luận và kiểu trữ tình. Còn lời điếu thể tuyên đọc phần nhiều
dùng hai loại trước, đặc biệt lời điếu kiểu trần thuật là thường thấy nhất.
Lời điếu kiểu trần thuật, lấy việc kể lại sự nghiệp của người chết lúc còn
sống làm chính, và kết hợp thích đáng với thể văn trữ tình hoặc nghị luận.
4. Bức trướng phúng viếng
Bức trướng phúng viếng chính là lễ vật phúng điếu, cũng gọi là bức
trướng lễ. Bức trướng lễ thông thường được làm bằng cả tấm vải, hoặc bằng
giấy có gắn trục hai đầu. Vì để tiện treo, bức trướng thông thường dùng khổ
thẳng, chữ viết thẳng, cũng có khi viết ngang.
Đề từ của bức trướng viếng không câu nệ hình thức, không hạn chế
chữ viết, cũng có khi chỉ viết một chữ “điện”, nhưng thông thường dùng bốn
chữ là nhiều nhất. Trong bức trướng viếng có thể dùng từ ngữ cố định, cũng
có thể dùng câu từ tự mình soạn ra. Nhưng nên chú ý, “bức trướng viếng”
thuộc về lễ vật dùng để phúng điếu, dùng từ nên có ý khen ngợi, chia buồn.
Bức trướng viếng chỉ treo ở linh đường vào ngày đưa đám, thông
thường dùng vải trắng 7 thước để viết chữ. Nếu chọn phương thức viết đứng,
thì phải viết từ phải sang trái và chia thành ba phần để viết; nếu dùng phương
thức viết ngang, thì viết từ trên xuống dưới cũng chia làm ba phần để viết.
Viết thẳng từ phải sang trái chia làm ba phần, cách thức như sau:
Phần thứ nhất: mặt hướng về bên tay phải của bức trướng (hoặc trên
đầu bức trướng), đầu bức trướng chủ yếu viết họ tên người chết cộng thêm
cách xưng hô ca ngợi.
Phần thứ hai: chính giữa viết từ viếng tế, khoảng cách giữa các chữ
phải giống nhau, như viết câu đối viếng, hai bên đối xứng nhau, cũng có thể
không cần phần này, trực tiếp viết phần ba.
Phần thứ ba: mặt hướng về bên tay trái của bức viếng (hoặc phần bên
dưới) ở cuối viết họ tên người tặng bức trướng viếng cộng với cách xưng hô
thân phận và lời điếu, nếu người tặng bức trướng viếng cùng họ với thân
nhân người chết, người tặng có thể chỉ kí tên, không ghi họ.
Ví dụ bức trướng viếng kiểu ngang:
Viếng anh hùng liệt sĩ:
Anh hùng tổ quốc
XXX toàn thể kính viếng
Viếng đồng chí
Đồng chí XXX
XXX kính viếng
(1) Bức trướng viếng thông dụng
Danh lưu hậu thế
Đức cao vọng trọng
Thanh liêm chính trực
Lưu phương bách thế
(2) Viếng cụ ông
Chí đức lưu huy
Ngũ phúc toàn qui
Phúc thọ toàn qui
(3) Viếng nam giới trung niên
Đức nghiệp lưu phương
Thiên hạ vĩnh niên
Công huân bất hủ
Anh linh vĩnh tồn
Khiết khí trường tồn
(4) Viếng cụ bà
Nữ sử lưu phương
Từ phạm vĩnh tồn
Giá hạc tây qui
Phương dung vĩnh tồn
Ý đức lưu phương
(5) Viếng tang nữ giới trung niên
Trang đài nguyệt lãnh
Ý đức trường lưu
Vĩnh hoài hiền mẫu
5. Vòng hoa phúng viếng
Hình thức dùng vòng hoa viếng người chết để biểu thị sự thương tiếc là
khá thường thấy trong xã hội ngày nay. Tặng vòng hoa thông thường phải
viết hai tờ viếng. Tờ viếng là một tấm giấy dài màu trắng. Tờ viếng bên phải
thông thường viết “Vô cùng thương tiếc đồng chí XXX”, “Vĩnh biệt động chí
XX” v.v…, dùng kiểu viết thẳng. Tờ viếng bên trái, viết rõ tên đơn vị, đoàn thể
hoặc cá nhân tặng vòng hoa, như “XX kính viếng”. Đối với cha mẹ thông
thường dùng “Thương khóc” hoặc “Khóc viếng”, đối với vợ chồng có thể dùng
hình thức viết thẳng “Vẫn lệ” (lau nước mắt). Giữa vòng hoa có thể viết một
chữ “Điện” hoặc chữ “Điệu” lớn.
6. Di chúc
Di chúc là hành vi pháp luật của người lập di chúc dựa theo qui định
luật kế thừa, xử lí tài sản cá nhân hoặc những sự việc khác, phát sinh hiệu
lực sau khi người lập di chúc qua đời. Di chúc cũng có thể được xem là một
thể văn ứng dụng dùng trong tổ chức tang lễ.
Di chúc có thể tự viết, cũng có thể nhờ người khác viết. Di chúc tự viết
là do người lập di chúc tự tay viết, kí tên, ghi rõ ngày, tháng, năm. Di chúc
nhờ người khác viết phải có hai người trở lên làm nhân chứng, một người
trong đó viết di chúc, ghi rõ ngày, tháng, năm, và người viết thay, người làm
chứng và người lập di chúc cùng kí tên. Công chứng di chúc là do người lập
di chúc giải quyết thông qua cơ quan công chứng.
Di chúc nên bao gồm bốn phần sau đây:
1. Danh xưng, là “Di chúc XX”.
2. Tình hình cơ bản của người lập di chúc như tên họ, giới tính, tuổi tác,
quê quán, địa chỉ.
3. Nội dung của bản di chúc, đây là phần chủ thể của bản di chúc, bao
gồm: nguyên nhân chủ quan khách quan của việc lập di chúc, như: “vì tuổi già
nhiều bệnh tật”, “lâm trọng bệnh”, “vì con cái quá đông cần phải sắp xếp việc
kế thừa thỏa đáng”, “vì không có con cái, do hàng xóm hoặc họ hàng chăm
sóc” v.v…; Tài sản cụ thể, tên những vật dụng cần phải xử lí trong bản di
chúc nên liệt kê rõ ra, đây là nội dung quan trọng của bản di chúc. Phần sau
bản di chúc phải ghi rõ do ai kế thừa, hoặc tặng cho nhà nước, tập thể, người
ngoài và những yêu cầu khác.
4. Chữ kí của người lập di chúc, người làm chứng, người viết thay di
chúc v.v…, và ghi rõ ngày, tháng, năm.
Di chúc dùng phương thức biểu đạt rõ ràng, nên dựa theo yêu cầu bản
thân của di chúc nói rõ tầng thứ. Về trình tự kết cấu, đầu tiên nên nói rõ tại
sao phải lập di chúc, xử lí tài sản như thế nào, sau đó nói rõ những yêu cầu
khác. Đối với việc xử lí tài sản, nên sắp xếp trình tự trước sau, luận thứ thích
đáng. Nội dung phải được gọt giũa kĩ càng, thiếu một dấu chấm cũng không
thể, dư một câu cũng không nên. Chữ viết phải rõ ràng dễ đọc.
Hai ví dụ dưới đây, một là di chúc của một người nhiều con, một là di
chúc của một người không con, có thể cùng tham khảo.
DI CHÚC TRƯƠNG QUỐC PHÚ
Tôi đã bảy mươi lăm tuổi, mắc bệnh xơ gan đã nhiều năm nay, gần đây
càng cảm tháy cơ thể suy yếu, sợ rằng một khi đã qua đời, gia đình sẽ xảy ra
tranh chấp tài sản thừa kế, nay có ý mời em trai vợ là Lí Dân Cường, em rể là
Vương Nhân Phụ làm chứng, và ủy thác cho luật sư Trịnh Văn Bân là cố vấn
pháp luật tỉnh Phúc Châu lập di chúc, gửi lại cho gia đình tôi, mỗi người phải
tuân thủ, không được tranh chấp.
Tôi nguyên quán ở thôn Thủy Khẩu làng Thành Bắc huyện Hàm Đan
tỉnh Hà Bắc, có tài sản là ba ngôi nhà và một số vật dụng gia đình, ở thành
phố Phúc Châu có một sổ tiết kiệm là hai mươi ngàn nhân dân tệ. Bản thân
tôi không vướng nợ, và cũng không tranh chấp tài sản với người khác. Nay
lập di chúc như sau:
Thứ nhất, vợ sau của tôi Tôn Ngọc Muội, hiện nay sáu mươi tám tuổi,
không có con cái chung, khẩn thiết mong muốn con trai con gái của tôi ra sức
phụng dưỡng. Tôn Ngọc Muội kết hôn với tôi đã hai mươi năm, hàng ngày lo
lắng, quan tâm đến tôi rất chu đáo; trong những lúc tôi bệnh, đặc biệt chăm
sóc cho tôi từng tí một, khiến tôi cảm thấy được an ủi rất nhiều. Tôi muốn rút
năm ngàn đồng từ tài khoản trong ngân hàng, và cùng với tài sản vật dụng
trong nhà ở thành phố Phúc Châu, cho bà ấy kế thừa. Sau khi Tôn Ngọc Muội
trăm tuổi, di sản này nếu như lúc còn sống chưa sử dụng thì con trai con gái
tôi được quyền kế thừa hai phần tài sản bằng nhau.
Thứ hai, con trai cả của tôi là Trương Lập Chính đang ở quê làm nông,
tất cả nhà cửa, tài sản ở quê của tôi đều giao cho con cả tôi thừa kế.
Thứ ba, con gái tôi Trương Lập Bình, góa chồng, lại không có nghề
nghiệp, luôn sống bên cạnh tôi, tôi thấy tình cảnh đáng thương muốn rút năm
ngàn đồng trong tài khoản cho con gái tôi kế thừa.
Thứ tư, con trai thứ hai của tôi là Trương Lập Nhân, con trai thứ ba là
Trương Lập lễ đều là cán bộ nhà nước, tích cực làm việc cho đảng, vì tổ quốc
ra sức cống hiến. Tôi muốn rút sáu ngàn đồng trong tài khoản, cho Lập Nhàn,
Lập Lễ mỗi đứa kế thừa hai phần bằng nhau.
Thứ năm, con trai út của tôi Trương Lập Minh, thân nhiều bệnh tật, tôi
muốn rút bốn ngàn đồng trong tài khoản cho con trai út của tôi kế thừa.
Thứ sáu, di chúc trên tổng cộng sáu phần (đã đối chiếu nội dung tương
đồng, chữ viết không sai).
Người lập di chúc Trương Quốc Phú
(kí tên đóng dấu)
Người làm chứng Lí Dân Cường
(kí tên đóng dấu)
Vương Nhân Phụ
(kí tên đóng dấu)
Người được ủy thác viết di chúc, luật sư cố vấn pháp luật thành phố
Phúc Châu Trịnh Văn Bân
Ngày X tháng X năm xxxx
Di chúc Tôn Trung
Người lập di chúc Tôn Trung, nam, tám mươi lăm tuổi, người huyện
Mân Thanh tỉnh Phúc Kiến, hiện sống ở số mười lăm đường Đông Đại thành
phố Phúc Châu.
Tôi vì tuổi già nhiều bệnh tật, gần đây bệnh càng thêm nặng, do bản
thân không có con cái, tất cả sự quan tâm chăm sóc trong cuộc sống hàng
ngày đều do hàng xóm Thẩm Thạch Quân lo liệu, cho nên sau khi tôi mất đi,
muốn tất cả nhũng tài sản trong nhà, bao gồm một cái giường, một cái bàn,
hai cái ghế, ba cái rương, những vật dụng lặt vặt khác, và sổ tiết kiệm (một
ngàn nhân dân tệ), hiện kim là ba trăm đồng, đều giao cho Thẩm Thạch
Quân. Việc hậu sự của tôi đều do Thẩm Thạch Quân lo liệu, những người
khác không được can thiệp. Đặc biệt lập di chúc làm chứng.
Người lập di chúc Tôn Trung
Người làm chứng Triệu Minh Nghĩa
Lí Cương Chỉnh
Ngày X tháng X năm X
7. Văn tự mộ bia
Mộ bia thật sự bắt nguồn từ thời Tần Hán. Nó vốn là một cột đá dựng
đứng khi hạ huyệt, sau này có người còn khắc chữ trên đó. Bia phần nhiều có
hình chữ nhật, hình thức của văn tự mộ bia thông thường bao gồm tên họ,
quê quán, gia thế, lịch sử, việc làm công đức hoặc sáng tác văn chương, thời
gian tạ thế, sau đó là tháng X năm X nơi X hạ huyệt, cuối cùng chữ khắc ghi
nhớ công ơn.
Mộ bia thời xưa có hai loại, loại thứ nhất là bia đề tên. Mặt chính diện
của mộ bia này ghi rõ tên họ của người chết, người lập bia và thời gian lập
bia, mặt sau của bia không khắc bài văn bia. Loại thứ hai là mặt sau mộ bia
khắc bài văn bia. Bài văn bia thông thường bao gồm tên họ, quê quán, gia
thế, lịch sử, công việc, tháng năm tạ thế, giờ nơi hạ huyệt, cuối cùng là chữ
khắc ghi nhớ công ơn, phần nhiều là văn vần, đa số con cháu của người chết
thường nhờ người khác viết.
Cách thức khắc chữ trên mộ bia, thông thường là từ phải qua trái phân
làm bốn đoạn. Đoạn thứ nhất viết ngày tháng năm sinh năm mất; đoạn thứ
hai là đề bia, viết họ tên người chết; đoạn thứ ba viết người lập bia; đoạn thứ
tư viết thời gian lập bia. Bài văn bia thường khắc hàng thẳng, ví dụ:
Về thể chữ mộ bia, trong bốn đoạn thì đoạn đề bia là lớn nhất, thông
thường là 5cm X 3cm, thể chữ ở ba đoạn còn lại lớn nhỏ như nhau, thông
thường là 2cm X 2.5cm.
Cách dùng từ của bài văn bia trong bốn đoạn trên có rất nhiều biến
hóa. Dùng từ trong đoạn thứ nhất, thông thường như ví dụ trên. Nếu đã quên
ngày tháng năm sinh của người chết thì lần lượt dùng một từ “kiết” thay thế.
Viết là:
Sinh
vào
ngày
kiết
tháng
kiết
năm
kiết
Mất
vào
ngày
x
tháng
x
năm
x
Có nơi bia là hợp khắc tên cha mẹ, vì thế trong đoạn đầu của bài văn
bia hợp ngày, tháng, năm sinh mất của cha mẹ. Thông thường theo thứ tự
hành văn, là cha trước và mẹ sau.
Sinh
vào
Mất
vào
ngày
xx
tháng
xx
năm
xx
(Cha)
(Mẹ)
ngày
xx
tháng
xx
năm
xx
(Cha)
(Mẹ)
Cách dùng từ trong đoạn hai của bài văn bia: chữ đầu tiên thường dùng
là “cố”, cách dùng từ dưới đây có quan hệ rất lớn với thân phận người chết.
Dùng từ trên bài văn bia đối với cha mẹ và người già đã chết, thường dùng
những từ an lành như “hi thọ”, “điệt thọ”, “mãn thọ”, “kì thọ”, “mạo thọ”, “ngải
thọ” v.v… Ngoài ra, khi cha mất còn dùng từ “hiển khảo”, “công”, “thái công”,
“đại nhân”, “phủ quân”, mẹ mất còn dùng “hiển tỉ”, “mẫu”, “thái phu nhân”, “lão
thái”, “lão thái nhũ nhân” v.v… Cách viết thường thấy khi cha mất là:
Cố
X
Phu
X
X
X
Chi
Mộ
Cố
X (họ)
Công
X
X (tên)
Chi
Mộ
Cố
Hiển
Khảo
Mạo
Thọ
X (họ)
Công
X (tên)
Chi
Mộ
8. Câu đối mộ bia
Nhất sinh tâm tính hậu
Bách thế tử tôn hiền
(Một đời đức tính phúc hậu
Trăm đời con cháu hiền thảo)
9. Bức hoành phi mộ bia
Thiên thu giai mộ
Đức âm vĩnh hưởng
Công đức vĩnh chiêu
Nguyên vĩnh lưu trường
10. Tấm trục cuộn viếng tế
(1) Viếng họ hàng của thầy dạy nghề
Viếng vợ của thầy dạy nghề xưng là sư mẫu X mẫu X thái X nhũ nhân,
tự xưng là môn hạ sinh; nếu thầy dạy nghề cũng là bà con thông gia với bậc
trên, xưng là nhân bá (bác) lão phu tử phu nhân, tự xưng là thụ nghiệp quyến
vãn (con cháu theo học nghề), nếu là cháu trai vợ thì xưng là thụ nghiệp nội
điệt (cháu trai vợ theo học nghề), cùng bậc xưng là thụ nghiệp nhân đệ (em
họ của vợ theo học nghề)…
Viếng cha của thầy dạy nghề xưng là thái lão tử phu nhân, tự xưng là
vãn sinh;
Viếng mẹ của thầy dạy nghề xưng là sư thái mẫu lão nhũ nhân, tự
xứng là môn hạ vãn sinh;
Viếng bác chú ruột của thầy dạy nghề xưng là thái lão bá (thúc) phu tử,
vợ thì xưng là sư bá (thúc) mẫu, tự xưng là thế tái diệt;
Viếng anh em ruột thịt của thầy dạy nghề xưng là lão bá (thúc) phu tử,
vợ thì xưng là sư bá (thúc) mẫu, tự xưng là ngu thế điệt;
Viếng cha của môn sinh xưng là nhân huynh X hiệu X đại nhân, tự
xưng thế ngu đệ;
Viếng mẹ của học trò xưng là tôn huynh tẩu X mẫu X thị nhũ nhân, tự
xưng thế thị sinh.
(2) Viếng ông ngoại
Ngoại tổ X công lão đại nhân Linh tọa
Ngoại tổ mẫu X mẫu X lão nhũ nhân Quyên trần
Phụng mệnh ngu ngoại tử X đốn thủ bái vãn
(3) Viếng dượng
Cô trượng X công X đại nhân Quyên quán
Ngu nội điệt đốn thủ bái vãn
Cô mẫu X mẫu X nhũ nhân
Ngu mạch điệt đốn thủ bái vãn
Viếng anh rể xưng thư trượng, tự xưng ngu nội đệ (em trai vợ)
Viếng em rể xưng muội sảnh, tự xưng ngu nội huynh (anh trai vợ)
Viếng dượng xưng khâm huynh, tự xưng ngu khâm đệ (em rể đồng
hao)
Viếng dượng xưng di trượng đại nhân, vợ xưng là di mẫu (dì), tự xưng
là ngu di điệt (cháu trai)
(4) Viếng ông bà của vợ
Nhạc tổ X công X lão đại nhân, vợ xưng là nhạc tổ mẫu (ông ngoại của
vợ)
Ngu tôn tế (cháu rể trai) XX bái điện Viếng nhạc bá, thúc tổ (ông bác,
ông chú) và bá thúc tổ mẫu (bà bác bà thím), tự xưng là ngu điệt tôn tế (cháu
rể trai)
Viếng cha vợ (mẹ vợ) X công (mẫu) X nhũ đại nhân
Ngu tử tế (con rể) X suất nam X tuân thủ bái điện
Viếng cha mẹ của nhạc bá (thúc), tự xưng ngu điệt tế
Viếng anh của vợ xưng là anh vợ, tự xưng là như đệ
Viếng họ hàng xưng là thân gia X đại nhân tự xưng nhân ngu đệ, vợ thì
xưng là thân mẫu, tự xưng là nhân ngu đệ
Viếng họ hàng của cha xưng thái thân ông đại nhân, vợ thì xưng là thái
thân mẫu, tự xưng là nhân ngu điệt
Viếng canh tổ xưng là thái lão bá, vợ thì xưng là thái lão bá mẫu, tự
xưng là canh tái diệt
Viếng canh phu xưng là canh bá, mẫu thì xưng là canh bá mẫu, tự
xưng canh ngu điệt
Viếng bạn học xưng nhân huynh, tự xưng thạc đệ
Cách xưng ở trên là khi viếng họ hàng thân thích thì chọn dùng, cùng
với tiến bộ của thời đại, có rất nhiều tập tục truyền thống đã thay đổi. Khi vận
dụng nên thay đổi để phù hợp với địa điểm và thời gian.
11. Câu đối phúng viếng
Câu đối viếng là biến thể của ca viếng thời cổ. Ca viếng là âm nhạc của
tang gia thời xưa. Người xưa khi tham dự đưa tang, đều đi chầm chầm trước
xe tang, đó gọi là “vãn (viếng)”. Người sau lấy ca viếng này thay bằng câu đối
để tưởng nhớ người chết, treo ở màn trướng tang lễ.
(1) Câu đối viếng thường dùng
Giang hà đại địa tồn trung cốt
Ai lệ bi ca điệu anh linh
(Sông nước khắp nơi đều là hài cốt
Đau thương rơi lệ hát điếu linh hồn)
Anh linh dĩ tác bồng lai khách
Đức phạm do huân hậu lai nhân
(Linh hồn đã làm khách ở cõi bồng lai
Chuẩn mực đạo đức làm gương cho đời sau)
Đào hoa lưu thủy diểu nhiên khứ
Minh nguyệt thanh phong tự tại du
(Hoa đào nước chảy trầm lặng
Trăng sáng gió mát phiêu du tự tại)
(2) Câu đối dùng trong lễ tang nam giới
Đức truyền bách thế
Danh cảnh thiên thu
(Đức truyền vạn đời
Tên lưu muôn thưở)
Danh lưu thiên cổ
Quang khởi hậu nhân
(Tên tuổi truyền ngàn đời
Soi sáng cả đời sau)
Thanh bạch lỗi lạc
Chính đại quang minh
(3) Câu đối thường dùng trong lễ tang nữ giới
Xuân vũ lê hoa thiên cổ hận
Thu phong ngô diệp nhất thiên sầu
(Mùa xuân, mưa, hoa lê ngàn năm tiếc thương
Mùa thu, gió, lá ngô đồng một ngày sầu)
Thân tự lan phương tòng thử tự
Tâm như khốc nguyệt kỉ thời qui
(Thân như hoa lan thơm ra đi từ đây
Lòng như vầng trăng sáng luôn quay về)
(4) Câu đối linh đường
1. Câu đối thông dụng
Khốc linh tâm dục toái
Đàn lệ nhãn tướng khô
(Khóc thương lòng đau như cắt
Khóc hết nước mắt lệ đã khô)
Nhân sinh như đại mộng
Thiên đạo bản vô tri
(Kiếp người như giấc mộng
Đạo trời mấy ai hay)
Hồn qui thiên thượng phong vân ám
Danh tại nhân gian thảo mộc hương
(Linh hồn đã về với mây gió trời
Tên tuổi vẫn như cỏ thơm lưu truyền trên nhân gian)
2. Phu vong linh đường
Kế thừa di chí
Khắc tụng tiên phân
(Kế thừa lời di huấn
Ca ngợi tiếng thơm của người đi trước)
3. Mẫu vong linh đường
Bắc đường phong lãnh
Nam quốc thiên hàn
(Nhà bắc gió lạnh lẽo
Nước nam trời băng giá)
Nan vong thục đức
Vĩnh ký từ ân
(Không quên đức trọng
Mãi nhớ hiền từ)
(5) Câu đối viếng trưởng bối
1. Câu đối viếng ông bà cố
Lệ khuynh thái hậu
Thống đoàn hoàng tuyền
(Khóc thương thái hậu
Đau buồn ở hoàng tuyền)
Hoa ngưng lệ ngấn
Thủy phóng bi thanh
(Hoa cất tiếng khóc
Nước chảy bi ai)
2. Câu đối viếng ông nội
Di dung ngụ di chí, tử tôn thừa chí
Ai lạc kí ai tư, thân hữu vĩnh tư
(Nhớ khuôn mặt kế thừa lời di huấn, con cháu làm theo lời dạy
Trong tiếng ca bi thương chứa đựng niềm thương nhớ, thân hữu bạn
bè mãi tiếc thương)
3. Câu đối viếng bà nội
Bão tôn tích nhật ân như
Hiếu phục kim giảng thống triệt
(Ngày xưa bồng cháu yêu thương
Ngày nay hiếu phục khóc thương)
4. Câu đối viếng ông ngoại
Truyền ngạc hao bi ca động địa
Kế di chí thiết thệ chấn thiên
(Lời bi ai rung động đất trời
Lời di huấn kế thừa nhớ mãi)
Tích nhật giáo ngôn do tại nhĩ
Đương niên đức trạch vĩnh nan vong
(Ngày xưa bên tai luôn nhớ lời dạy bảo
Ngày nay công đức mãi không quên)
5. Câu đối viếng bà ngoại
Mĩ đức thường tề thiên địa vĩnh
Giá phong cữu bạn sơn hà tồn
(Đức độ mãi lan truyền trong trời đất
Phong cách tốt còn mãi với sông núi)
6. Câu đối viếng cha vợ
Bán tử vô y hà sở lại
Đông sàng hữu lệ kỉ thời can
(Con rể giờ biết dựa vào đâu
Mắt rơi lệ biết khi nào khô)
7. Câu đối viếng mẹ vợ
Thê lương sanh quán từ vân ảm
Phiêu miễu tiên hương dạ nguyệt hàn
(Thê lương mây ảm đạm
Phiêu diêu miền tiên cảnh đêm trăng lạnh lẽo)
8. Câu đối viếng bác trai
Thọ chung đức vọng vĩnh do tại
Nhân khứ chủy âm hựu trường tồn
(Tuổi thọ lâm chung đức độ mãi trường tồn
Người ra đi thanh danh còn mãi mãi)
9. Câu đối viếng bác gái
Khổ vũ thê phong vấn qui hà xứ
Gia ngôn ý huấn thống tưởng đương niên
(Mưa gió đau buồn hỏi quay về đâu đó
Gia ngôn di huấn nhớ mãi không quên)
10. Câu đối viếng chú
Nhất thế tân cần phạm thức hương lí
Chung sinh tiết kiệm trạch lưu thôn lân
(Một đời vất vả chuẩn mực trong làng
Cuối đời cần kiệm lưu mãi trong thôn)
11. Câu đối viếng thím
Cần kiệm trì gia bán sinh tối lân thúc mẫu khổ
Báo thù vô địa lục thân đô vi tỉ nhi bi
(Cần kiệm xây dựng gia đình nửa đời vất vả nhất là thím
Công lao nhớ mãi người thân vô cùng đau buồn)
12. Câu đối viếng cha
Thọ chung chính tẩm
Hạc giá tây thiên
(Già chết tại nhà
Hạc đưa về tây thiên)
Giáo hối vĩnh kí
Phong phạm trường tồn
(Lời dạy mãi nhớ về
Chuẩn mực lưu truyền mãi)
13. Câu đối viếng mẹ
Tư mẫu khổ hận âm dung diểu
Thống nhi nan thù dưỡng dục ân
(Nhớ tiếng cười và dung nhan của mẹ
Con đau buồn khó báo đáp từ ân)
(6) Câu đối viếng đồng bối
1. Câu đối viếng đồng bối
Hoa vi xuân hàn khấp
Ô nhân trường đoạn ai
(Hoa làm mùa xuân lạnh lẽo khóc thương
Đau buồn như đứt từng đoạn ruột)
Sinh tiền kí đắc tam đông noãn
Vong hậu tư lượng lục nguyệt hàn
(Khi còn sống ba đông cũng ấm
Mất đi rồi tháng sáu vẫn giá băng)
2. Câu đối viếng vợ
Thảm thính thu phong bi lạc diệp
Sầu khán dạ nguyệt chiếu không phường
(Nghe gió thu bi ai lá rụng
Nhìn đêm sầu trăng chiếu phòng không)
3. Câu đối viếng anh trai
Tòng kim tử hậu phân nhân quỷ
Đán nguyện sinh lai tái đệ huynh
(Từ khi mất đi phận làm người, quỉ
Nhưng nguyện kiếp sau lại làm anh em)
Huấn đệ tác nhân nhất sinh tân khổ kim do tại
Trì thân thiệp thế thập phân trung hậu cổ lai hi
(Dạy em làm người một đời vất vả như vẫn còn đây
Giữ thân trải nghiệm vô cùng trung hậu xưa nay hiếm)
4. Câu đối viếng chị dâu
Hồi tưởng ấu niên thời nhiễu tất tương y như
Nan liệu kim nhật bệnh thương tâm hà dĩ úy
(Nhớ thời thơ ấy luôn vây quanh dựa dẫm
Nay đau buồn tìm an ủi nơi đâu)
5. Câu đối viếng chị
Trinh tĩnh u nhàn thư muội hành trung thôi độc quán
Thê lương tịch mịch đỗ quyên thanh lí ám thương thần
(Thùy mị dịu dàng chị nhường em cái nón
Buồn tĩnh mịch chim đỗ quyên cất giọng thê lương)
6. Câu đối viếng em trai
Trúc kính tiêu điều bình sinh tráng chí tam canh mộng
Vân sơn thiều đệ vạn lí tây phong nhất nhạn ai
(Vườn trúc tiêu điều, lúc còn sinh tiền giấc mộng canh ba chí nam nhi
Hiền đệ xa xôi vạn dặm đau buồn khóc thương)
7. Câu đối viếng em gái
Nhân tiễn lục gia cô vạn sự bổ phùng năng ái đệ
Ngã nghi trương huyền muội nhất thời vinh tú bất lưu xuân
(Người người hâm mộ con gái nhà họ Lục có thể làm mọi chuyện may
vá, yêu thương em
Em xinh đẹp tươi tắn nhất thời chẳng còn xuân)
8. Câu đối viếng em dâu
Thiên sinh đồng mệnh điểu trung đạo phân phi hóa kim hậu
Di tiên hồn bất phản nhẫn khán ngã đệ điệu vong thi
(Trời sinh đều là loài chim nhưng phân chia đường bay khác nhau
Linh hồn phiêu diêu nơi tiên cảnh không quay về, đau buồn ta đề thơ
thương tiếc)
9. Câu đối viếng anh, em vợ
Khí nghị lãnh thuần sẩm nhẫn sứ suy vĩnh bi bắc hải
Ân cần minh tích khốn bất kham nhi bối động tây châu
(Không khí lạnh lẽo thương tiếc mãi
Ân đức siêng năng con cháu khóc thương)
10. Câu đối viếng bạn học
Vạn quyển thi thư ngã hoàn độc Nhất thời phong nguyệt hướng thùy
đàm (Vạn quyển sách thơ tôi vẫn đọc Cảnh gió trăng này trò chuyện cùng ai)
11. Câu đối viếng bạn
Sinh tiền bất ti bất hàng
Tử hậu khả khấp khả ngâm
(Lúc sinh tiền không tự ti không cao ngạo
Sau khi mất có thể khóc có thể than)
Bi tai kim nhật thành vĩnh biệt
Thống hề hà thời tái tương phùng
(Bi ai ngày nay đành vĩnh biệt
Thương tiếc ngày nao mới tương phùng)
(7) Câu đối viếng vãn bối
1. Câu đối viếng con trai
Vãng sự tận thành không cử mục vô phi trường đoạn xứ
Lữ du chung bất phản thương tâm tối thị thụy tình thời
(Việc đã rồi chỉ biết đứng nhìn đứt từng đoạn ruột
Phiều diêu không trở về thương tâm nhất là khi tỉnh dậy)
2. Câu đối viếng con gái
Tiểu nữ tảo tử ngã hậu tử vọng nhữ đẳng đãi
Lão nương vị tống nhĩ tiên tống giáo ngô nại hà
(Con gái nhỏ mất sớm hơn ta nhìn từ xa chờ đợi
Ta chưa đi con đã đi trước đến cầu nại hà)
3. Câu đối viếng con rể
Vân khí sơ hà thi đề đồng diệp đình tiền lục khoái tế tiễn thừa long phó
phấn phương hân quang phổ điện
Thiên đài vĩnh biệt lệ nhiễm đào hoa động khẩu hồng tiên nhân trường
khóa phượng xuy tiêu chung bất phản tần lầu
(Sống lập kỳ công, mất lưu danh thiên cổ, chốn cửu tuyền yên lòng
nhắm mắt
Trên kính cha mẹ, dưới yêu thương con cái, gánh vác cả nhà)
MỤC LỤC
Lời tựa
Phần 1. PHONG TỤC LỄ NGHI HÔN NHÂN
I. Lễ tục hôn nhân truyền thống
II. Lễ nghi hôn nhân truyền thống
III. Lễ tục hôn nhân hiện đại
IV. Lễ nghi tặng lễ vật
V. Lễ nghi thể văn hôn nhân
VI. Cách gọi kỉ niệm tròn năm ngày cưới
Phần 2. PHONG TỤC LỄ NGHI CHÚC THỌ
I. Nền tảng chúc thọ
II. Tên gọi ngày chúc thọ
III. Nghi thức chúc thọ
IV. Thư chúc thọ
V. Nghi lễ chúc thọ
VI. Lễ nghi của người chúc thọ
VII. Dụng phẩm chúc thọ
VIII. Lễ nghi văn thể chúc thọ
Phần 3. PHONG TỤC LỄ NGHI CHÚC MỪNG
I. Thiệp chúc mừng
II. Lễ nghi chúc mừng khai nghiệp
III. Lễ nghi mừng xây nhà
IV. Lễ tục chúc mừng dọn đến nhà mới
Phần 4. PHONG TỤC LỄ NGHI ĐÁM TANG
I. Lệ tục đám tang truyền thống
II. Trình tự lễ tang truyền thống
III. Lễ nghi lễ tang hiện đại
IV. Lễ nghi văn thể tang lễ
---//---
PHONG TỤC NGHI LỄ VĂN HÓA XƯA VÀ NAY
HÔN NHÂN – CHÚC THỌ - CHÚC MỪNG – TANG LỄ
Tác giả: VƯƠNG TÚ TRUNG
Người dịch: N. TRI THỨC VIỆT
NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI
Số 4 – Tống Duy Tân, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
ĐT: (04) 8286766 – 8252916 - Fax: (04)8257063
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN KHẮC OÁNH
Biên tập: HOÀNG CHÂU MINH
Trình bày: NGỌC TÚ
Vẽ bìa: Hs. QUỐC ÂN
Sửa bản in: NGỌC TIẾN
CÔNG TY CỔ PHẦN VĂN HÓA VĂN LANG - NS. VĂN LANG
40-42 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM
ĐT: 8.242157 - 8.233022 | Fax: 84.8.235079
In 1.000 cuốn khổ 13 x 19cm tại Cty CP Văn Hóa Văn Lang. Số đăng ký
KHXB 1149-2008/CXB/21VHXH-138/HN. Quyết định xuất bản số: 796/QĐ -
HN cấp ngày 29/12/2008. In xong và nộp lưu chiểu quý 1 năm 2009.