Phần A: MỞ ĐẦU · Web viewVì vậy yêu cầu các em mạnh dạn nêu những suy nghĩ,...
Transcript of Phần A: MỞ ĐẦU · Web viewVì vậy yêu cầu các em mạnh dạn nêu những suy nghĩ,...
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
Phần A: MỞ ĐẦU *************************
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Thế kỉ XXI đã và sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ. Do đó không quá khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm đến ngoại
ngữ, tin học và các môn khoa học tự nhiên như một sự bảo đảm cho tương lai. Điều đó
đã dẫn đến một thực trạng đáng buồn là một bộ phận học sinh coi nhẹ môn Ngữ văn và
một số môn xã hội nhân văn nói chung, dẫn đến thiếu đầu tư, yếu kém về năng lực cảm
thụ...Từ năm học 2006-2007, tôi được nhà trường phân công dạy môn Ngữ văn khối lớp
9. Trong những năm học này, mặc dù tôi đã rất cố gắng trong công tác giảng dạy, tìm
nhiều biện pháp để đưa chất lượng dạy học ngày càng được nâng cao, song hiệu quả
mang lại vẫn chưa đạt như mong muốn. Qua từng tiết dạy vẫn còn nhiều em chưa hào
hứng, đặc biệt qua các bài kiểm tra, bài thi có thể nhận thấy nhiều học sinh học theo kiểu
đối phó, học vẹt, lạm dụng tài liệu tham khảo, không chú ý đến khả năng diễn đạt, dùng
câu, từ thiếu sự sáng tạo…Kết quả điểm môn ngữ văn những lớp tôi được phân công đạt
không cao.Cuối năm học chỉ đạt 75% trung bình trở lên, còn 25% nữa là yếu kém. Trong
khi đó chỉ tiêu nhà trường bàn giao từ đầu năm là phải đạt 85% trở lên.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã quyết tâm tìm ra những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng học yếu môn Ngữ văn của học sinh, để có những giải pháp phù hợp nâng cao
chất lượng bộ môn. Sau đây là 5 nhóm giải pháp tôi đã áp dụng kể từ năm học 2009-
2010:
- Giải pháp khắc phục tình trạng học sinh không chịu tiếp xúc tác phẩm và đọc
sai.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 1
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Giải pháp khắc phục tình trạng học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến
thức
- Giải pháp khắc phục tình trạng học sinh thụ động trong giờ học
- Giải pháp khắc phục tình trạng học sinh chưa xem trọng văn hóa đọc
- Giải pháp khắc phục tình trạng học sinh thiếu năng lực cảm thụ.
Có thể nói đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã chắc lọc, chiêm nghiệm,
là tâm huyết của những ngày tháng đứng trên bục giảng, vì vậy nó có ý nghĩa vô cùng
lớn và bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực. Trong từng tiết dạy học sinh học hứng
thú hơn, kết quả bài làm cũng cao hơn. Tôi vô cùng phấn khởi và muốn đem những kinh
nghiệm của bản thân nhân ra diện rộng cho bạn bè đồng nghiệp cùng tham khảo. Đó
chính là lí do mà tôi lựa chọn và viết đề tài “Một số biện pháp khắc phục tình trạng học
sinh học yếu môn Ngữ văn”.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài này, tôi đã áp dụng thực nghiệm trên các lớp 9 mà tôi đã được phân
công giảng dạy tại trường THCS Thị trấn Phù Mỹ trong hai năm học 2009-2010 và
2010- 2011. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là triển khai các giải pháp thiên về
đổi mới phương pháp dạy học trên đối tượng học sinh. Nhưng không chỉ đơn thuần là
những giải pháp mang tính lí luận mà là những giải pháp bắt nguồn từ thực tiễn giảng
dạy, được soi chiếu bởi những tư tưởng tiến bộ và sự thôi thúc giải quyết những vấn đề
nội tại của thực tiễn.
II. Phương pháp tiến hành:
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm
giải pháp của đề tài:
*Cơ sở lí luận
M. Go - rơ - ki từng nói“Văn học là nhân học”, văn học có vai trò quan trọng
trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.Văn học là nghệ thuật của
cuộc sống, là quà tặng tinh thần của con người, có khả năng khơi nguồn sáng tạo mãnh
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 2
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
liệt cho con người và tiếp tục làm phong phú cho tâm hồn bao thế hệ. Ngữ văn là môn
học chính yếu trong nhà trường phổ thông nhằm trau dồi kiến thức cũng như rèn luyện
kĩ năng nói, viết cho học sinh. Ngoài ra, môn Ngữ văn còn góp phần hình thành nhân
cách đạo đức và nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc trong mỗi học sinh. Nó cung cấp
những kiến thức về văn học, tiếng Việt, tập làm văn...Rèn luyện năng lực tư duy cho học
sinh theo hướng rèn luyện nhận thức, lí giải và tự đề ra được những quyết định, nhằm
giải quyết có hiệu quả các tình huống có vấn đề trong học tập và đời sống. Giúp các em
học tập tốt các bộ môn khác, tiếp thu kiến thức ở các lĩnh vực đời sống khác để học sinh
trở thành những người có năng lực thực hành.
* Cơ sở thực tiễn
- Về phía học sinh: Thực tế hiện nay số lượng học sinh học yếu môn Ngữ văn
không phải là nhỏ. Cụ thể: khả năng nói, nghe, đọc, viết nhiều em còn chưa thật thành
thạo, khả năng diễn đạt rất yếu, viết câu không đúng ngữ pháp, chưa biết cách dùng từ,
dựng đoạn, đặc biệt là tạo lập văn bản...
- Về phía giáo viên: Vấn đề này được các nhà trường và các tổ chuyên môn đặc
biệt quan tâm tìm mọi biện pháp để tháo gỡ những khó khăn về phương pháp giảng dạy
theo hướng đổi mới để giảm thiểu tối đa tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp.
Xuất phát từ thực tế chung trong quá trình giảng dạy của thực trạng học sinh học
yếu môn ngữ văn nói chung, ở trường Trung học cơ sở nói riêng, với 9 năm trực tiếp
đứng lớp giảng dạy, tôi xin mạnh dạn trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp một số kinh
nghiệm, giải pháp của bản thân đã áp dụng với mong muốn góp phần khắc phục tình
trạng học sinh học yếu môn văn trong trường phổ thông để từng bước nâng cao chất
lượng của việc dạy và học bộ môn ngữ văn trong tình hình hiện nay.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp :
Khi đi vào nghiên cứu vấn đề này, mỗi người có một hướng tiếp cận riêng.
Trong khuôn khổ phạm vi đề tài này tôi đã sử dụng chủ yếu một số phương pháp sau:
1. Phương pháp thực hiện bài tetx:
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 3
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Tôi tiến hành lập ra các phiếu trắc nghiệm với những thông tin cần thiết, phát
cho học sinh để các em tự ghi .
- Sau đó dựa vào những thông tin các em trao đổi trên phiếu, tôi phân loại
nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu kém môn Ngữ văn.
2. Phương pháp tìm kiếm giải pháp:
- Tìm đọc những tài liệu liên quan đến tâm sinh lí học sinh THCS, kĩ năng
sống của học sinh THCS, đổi mới phương pháp dạy học...
- Lựa chọn giải pháp áp dụng cho từng đối tượng để khắc phục triệt để những
yếu kém của học sinh.
3. Phương pháp thực nghiệm:
- Đưa những giải pháp được chọn lựa vào áp dụng thực nghiệm trên một số
lớp
- Thống kê, phân tích, tổng hợp để có sự đánh giá chính xác, khách quan hiệu
quả khi áp dụng các giải pháp.
- Điều chỉnh kịp thời những điểm còn vướng khi áp dụng và triển khai ra diện
rộng.
4. Phương pháp tổng hợp
- Sau khi đã có kết quả thực nghiệm, tổng hợp lại vấn đề để viết thành sáng kiến
kinh nghiệm.
* Thời gian nghiên cứu:
- Hè năm học 2008-2009: tìm kiếm thông tin, xác định nguyên nhân, xây dựng
giải pháp.
- Đầu năm học 2009 -2010 áp dụng giải pháp trên một số lớp thực nghiệm.
- Từ năm học 2010-2011 áp dụng trên toàn khối 9
- Tháng 9/2011 đăng ký đề tài; tháng 12/2011 xây dựng đề cương; tháng 2/2012
viết thô sáng kiến; tháng 4/1012 hoàn thiện công trình.
Phần B. NỘI DUNGSKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 4
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
***************************
I.Mục tiêu:
Mục tiêu mà đề tài đặt ra là nhằm giải quyết những khó khăn còn vướng mắc
trong quá trình học Ngữ văn của học sinh, nhất là học sinh yếu, kém. Bằng những giải
pháp vừa mang tính lí luận vùa mang tính thực tiễn, tôi muốn giúp các em học sinh củng
cố kiến thức cơ bản, bổ trợ những kiến thức bị hỏng, có thói quen độc lập suy nghĩ, ý
thức tự giác trong việc học tập của bản thân, khắc phục những hạn chế còn tồn tại để
vươn lên trong học tập, biết viết văn, làm văn, cảm nhận văn học và hướng đến những
giá trị chân - thiện - mỹ do văn chương mang lại.
II. Mô tả giải pháp của đề tài:
1. Thuyết minh tính mới:
Như chúng ta đã biết, muốn giải quyết triệt để một vấn đề gì cũng cần tìm ra
nguyên nhân của nó. Và việc muốn khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Ngữ văn
cũng không là một ngoại lệ. Chính vì vậy, khi có ý định làm đề tài này việc đầu tiên tôi
phải đi tìm là nguyên nhân vì sao có nhiều học sinh học yếu môn Ngữ văn. Sau đây là
một số nguyên nhân cơ bản mà tôi đã tổng hợp được:
- Đối với học sinh yếu kém hầu như các em không chịu đọc tác phẩm, không
tiếp cận tác phẩm,.không soạn bài hoặc chép đối phó trước khi đến lớp, có em đọc chưa
đúng với yêu cầu: phát âm sai, đọc không đúng với ngữ điệu, đọc thêm hoặc bớt từ...
- Phần lớn các em học yếu là do các em thiếu năng lực cảm thụ, không hề có
sự rung động trước các hình tượng văn học, trước cái hay, cái đẹp của văn chương.
- Do một bộ phận không nhỏ học sinh lười suy nghĩ, học vẹt, không có khả
năng vận dụng kiến thức, không rèn từ, rèn câu, rèn viết mà chỉ học thuộc lòng văn mẫu,
bài mẫu và sao chép một cách rập khuôn máy móc theo một bài mẫu hoặc dàn ý có sẵn.
Khả năng viết bài, tạo lập văn bản giống như việc làm bài của các môn khoa học lịch sử,
địa lí.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 5
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Kiến thức xã hội và đời sống thực tế, khả năng cảm nhận cuộc sống thực
tiễn của học sinh còn nghèo nàn, chủ yếu các em tranh thủ những lúc rảnh rổi để chơi
game hoặc xem tivi... Điều đó đã tác động không nhỏ đến thực trạng tâm lí học tập và
cảm thụ văn học của học sinh, khiến các em không có hứng thú học môn này.
- Một bộ phận học sinh ham chơi, lười biếng, chưa ham thích học tập. Trong
giờ học, các em còn thụ động,chưa mạnh dạn trao đổi, hỏi han do chưa hiểu sâu, chưa
nắm được kiến thức, thiếu tự tin, thiếu sự tư duy trước những câu hỏi, những vấn đề mà
giáo viên đặt ra mà chủ yếu trông chờ vào bài giảng của thầy cô.
- Một thực trạng cũng khá phổ biến hiện nay là văn hóa đọc đang bị lấn sân
trước các phương tiện nghe nhìn, học sinh chưa có phong trào đọc sách, chưa có thói
quen đọc sách, đọc tài liệu tham khảo hoặc đọc không đúng hướng. Theo một điều tra
gần đây cho thấy lớp trẻ mất dần thói quen đọc sách, 70% thanh thiếu niên thích nghe
nhạc, xem phim hơn là đọc sách. Số thanh thiếu niên yêu sách chiếm khoảng 57% nhưng
trong số đó chủ yếu là thích đọc truyện tranh. Đặc biệt đối với bộ môn ngữ văn thì việc
tìm tòi tài liệu, đọc sách tham khảo là rất cần thiết. Điều đó cũng làm ảnh hưởng tới
việc cảm thụ văn học của các em.
- Do tâm lí chung của một bộ phận học sinh và phụ huynh bị ảnh hưởng bởi xu
thế phát triển của nền kinh tế hiện đại nên chỉ hướng con cái của mình vào việc học một
số môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ , tin học... để có lợi cho công việc, cho việc chọn
nghề sau này mà ít hoặc không chú trọng đến môn Ngữ văn. Theo số liệu thống chung
cho thấy có đến 63% học sinh không thích học môn văn.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu lớn nhất tồn tại trong những học sinh
yếu kém.Với mong muốn từng bước nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn cần phải có những giải pháp mới thiết thực và
hiệu quả để giải quyết vấn đề này.
Trước những thực trạng và nguyên nhân trên, qua nhiều năm giảng dạy ở khối
lớp 9, tôi thật sự trăn trở, lo lắng về chất lượng của bộ môn – đặc biệt là chất lượng thi
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 6
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
tuyển sinh vào lớp 10 hệ A công lập. Vì vậy, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc
phục và nâng cao chất lượng học văn của học sinh. Tính mới của đề tài được thể hiện
qua từng thực trạng:
* Đối với thực trạng học sinh không chịu tiếp xúc tác phẩm và đọc sai:
- Sau mỗi giờ học, trong phần: “Dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học tiếp
theo” đối với phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên thường bỏ qua khâu này khi
thời gian tiết học đã hết, hoặc làm nhưng chỉ nói sơ qua. Nhưng theo tôi, đây là một khâu
quan trọng trong tiến trình của một tiết dạy. Giáo viên nên dành một khoảng thời gian
cần thiết để yêu cầu học sinh chuẩn bị bài mới của tiết học tiếp theo đó bằng cách: tóm
tắt ngắn gọn tác phẩm, nội dung cốt truyện hoặc phát hiện những hình ảnh đẹp trong thơ
văn cho các em nắm bắt để tạo được sự chú ý. Từ đó các em có thể về nhà tự giác đọc
tác phẩm. Mặt khác, giáo viên cần phải hướng cho các em đọc cái gì? Đọc như thế nào?
Cần chú ý điều gì trong tác phẩm đó?...Có như vậy các em mới phần nào cảm nhận nội
dung, nghệ thuật tác phẩm một cách dễ dàng hơn.
- Đối với thực trạng đọc sai, giáo viên cần đọc mẫu, uốn nắn cách đọc cho học
sinh. Hướng dẫn các em phát âm chuẩn, chính xác; sử dụng từ ngữ toàn dân, đọc chậm
rãi và đúng ngữ điệu. Đối với thực trạng này, muốn khắc phục được thì vai trò của người
giáo viên là vô cùng quan trọng. Bởi tác phẩm văn học không phải là những con chữ hồn
nhiên trên trang giấy mà muốn cảm nhận được chúng ta phải tiếp cận tác phẩm. Giáo sư
Lê Trí Viễn đã từng nói “Nói nhập thân vào nhân vật, chẳng qua cũng là nói một khía
cạnh của việc bản thân mình phải sống trong bài thơ mà thôi, sống như nhà thơ đã sống
để dựng dậy các cảm xúc đang ngủ yên trong chữ nghĩa”.Và để thực hiện được
việc“dựng dậy các cảm xúc đang ngủ yên trong chữ nghĩa” thì phải đọc. Trước hết giáo
viên phải đọc đúng và đọc hay, phải có giọng đọc truyền cảm. Bởi phương pháp đọc
trong dạy học ngữ văn là vô cùng quan trọng, nó như một khúc nhạc dạo đầu để dẫn dắt
học sinh đi vào thế giới của tác phẩm một cách dễ dàng, phù hợp với quy luật cảm thụ
văn học, để đưa các em tiếp cận với tác phẩm và bước đầu giúp các em cảm nhận cái
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 7
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
hay, cái đẹp của tác phẩm. Đọc văn chính là đọc cho sáng tỏ từng ý nghĩa, tình cảm, thái
độ, tâm trạng mà nhà văn định gửi gắm cho người nghe, người đọc. Tùy theo yêu cầu,
giáo viên có thể cho các em đọc một đoạn, đọc cả bài, đọc để minh chứng cho lời giảng,
đọc ở đầu giờ hoặc cuối giờ ...Người giáo viên đọc hay sẽ tác động lớn đối với các em,
kích thích được trí tưởng tượng, tái hiện hình ảnh hay duy trì cảm xúc.... Hơn nữa để
khắc phục thực trạng này giáo viên cần phải có thời gian và lòng kiên nhẫn. Khi các em
đọc sai phải tận tình uốn nắn, tuyệt đối không la mắng các em sẽ sợ sệt và giáo viên cũng
mất hứng thú trong giờ giảng văn.
Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh đọc đoạn văn sau đây giáo viên cần hướng dẫn:
Đoạn văn:
“Chúng nó đánh cháu...vì...cháu...cháu... không có bố... không có bố.
- Sao thế - bác ta mỉm cười bảo- ai mà chẳng có bố.
- Em bé nói tiếp một cách khó khăn, giữa những tiếng nấc buồn tủi:
- Cháu...cháu không có bố.
- Bác công nhân bỗng nghiêm lại; bác nhận ra thằng bé con nhà chị Blăng- sốt,
và tuy mới đến vùng này, bác cũng đã mong manh biết chuyện của chị.
- Thôi nào- bác nói - đừng buồn nữa , cháu ơi, và về nhà mẹ cháu với bác đi.
Người ta sẽ cho cháu... một ông bố”
( Trích “ Bố của Xi- mông “– G. Đơ Mô-pa-xăng)
Khi đọc đoạn văn này các em phải thể hiện được trước hết giọng đọc phải rõ
ràng, mạch lạc. Ngoài ra còn phải thể hiện được diễn biến tâm trạng đau đớn, buồn
tủi,chán chường,tuyệt vọng của Xi – mông vì biết mình sinh ra trên cõi đời mà không có
bố. Tâm trạng ấy được thể hiện qua những tiếng nấc không nói nên lời “Cháu...”, lời nói
bị ngập ngừng đứt quãng thể hiện qua những dấu chấm lửng (...) hoặc sự lặp đi lặp của
điệp khúc “không có bố”. Thể hiện được sự ôn tồn, tấm lòng vị tha đầy yêu thương của
bác Phi- líp qua câu nói động viên Xi- mông... “ Thôi nào- bác nói - đừng buồn nữa ,
cháu ơi, và về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu... một ông bố”. Đối với
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 8
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
những học sinh yếu, giáo viên cần tăng cường rèn cho các em đọc, luyện cho các em đọc
những đoạn phân vai và hướng dẫn, uốn nắn cho các em nhiều hơn.
Ngoài ra, khi áp dụng phương pháp dạy học mới, giáo viên có thể cho các em
nghe giọng đọc mẫu từ các sản phẩm băng đĩa của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc đọc
minh họa những tác phẩm truyện, thơ... để tạo được sự hứng thú cho các em.
* Đối với thực trạng học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức
- Giáo viên rèn luyện, uốn nắn giúp các em khắc phục những hạn chế của bản
thân từng em. Tăng cường rèn luyện cho các em cách dùng từ, đặt câu, diễn đạt và dần
dần đưa mức độ yêu cầu lên cao hơn. Mức độ bài tập từ dễ, khả năng nhận biết rồi sau đó
nâng dần lên khả năng thông hiểu, vận dụng.
Ví dụ sau khi dạy xong kiến thức lí thuyết về Liên kết câu và liên kết đoạn văn,
giáo viên có thể cho một đoạn văn ngắn và dễ yêu cầu các em phân tích các biểu hiện
liên kết. Giáo viên hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ từng biểu hiện, chẳng hạn đâu là liên kết nội
dung, đâu là liên kết hình thức... Sau đó yêu cầu học sinh làm bài tập. Hoàn thành bài
tập này, đấy là cơ sở để giáo viên đưa ra bài tập cao hơn ( bài tập vận dụng) bằng cách:
“Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu , có nội dung tự chọn, trong đó có thể
hiện sự liên kết câu”. Từ đó giáo viên tiếp tục hướng dẫn các em viết đúng câu, đúng
ngữ pháp, đúng bố cục của một đoạn văn... và cứ thế rèn luyện dần dần.
- Phân tích cho các em hiểu rằng cùng một câu thơ, một hình ảnh thơ có thể cảm
nhận bằng nhiều cách khác nhau tùy theo cảm xúc và khả năng cảm nhận của từng em.
Chẳng hạn như hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính
Hữu có thể cảm nhận bằng nhiều cách miễn sao đúng được nội dung và tinh thần của
văn bản:
Cách 1: Đây là một hình ảnh vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa
biểu tượng. Nghĩa tả thực: những người lính ôm súng chiến đấu nơi rừng sâu, đêm khuya
vầng trăng xuống treo lơ lửng nơi đầu súng. Nghĩa biểu tượng: Súng tượng trưng cho
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 9
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
chiến tranh khốc liệt, trăng tượng trưng cho hòa bình. Khi ôm súng chiến đấu, người lính
mơ về hòa bình.
Cách 2: Đầu súng trăng treo là một hình ảnh vừa thực, vừa mơ, vừa xa lại vừa
gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình, vừa chiến sĩ, vừa thi sĩ. Đây là
hình ảnh đẹp, tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí
vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây cảm xúc bất
ngờ, thú vị cho người đọc. Hình ảnh ấy đã nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích
lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của những người lính.
Cách 3: ...Về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu
súng. Vầng trăng là biểu tượng của đất nước đẹp, thanh bình. Súng mang ý nghĩa của
cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. Đầu súng trăng treo là một hình ảnh thơ mộng, nói lên
trong chiến đấu gian khổ hi sinh, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn
bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình...
- Cần dành thời gian cho việc chữa lỗi dùng từ, lỗi diễn đạt một cách cụ thể và
tỉ mỉ.Giáo viên chỉ cho các em chỗ viết sai, viết chưa hay và cách sửa lại cho hay và cho
đúng. Công việc này được tiến hành nhiều nhất là trong các tiết trả bài kiểm tra.
- Việc ra đề kiểm tra, đề thi phải phù hợp với yêu cầu và chuẩn kiến thức, chú ý
kết hợp những dạng đề thông thường và đề mở để tránh lối học vẹt, học thuộc lòng. Đặc
biệt việc ra đề kiểm tra theo hướng đề mở là một điểm mới, điểm quan trọng trong giai
đoạn hiện nay đối với bộ môn ngữ văn.
Ví dụ: Trong sách Ngữ văn 9, ở kiểu bài nghị luận xã hội, các em lại được tiếp
xúc với các đề mở như: Đạo lí :Uống nước nhớ nguồn; Đức tính khiêm nhường; Có chí
thì nên; Đức tính trung thực; Tinh thần tự học; Hút thuốc có hại; Lòng biết ơn thầy, cô
giáo...
Thời gian qua, dạng đề “mở” đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các tiết kiểm
tra môn Ngữ văn ở các cấp học, nhất là bậc THCS và THPT. Đặc biệt, đề thi “mở” đã
“góp mặt” trong những kỳ thi quan trọng như: Thi tuyển vào lớp 10, Thi tốt nghiệp
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 10
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
THPT. Bên cạnh việc phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, một
ưu điểm khác cần được nói đến của dạng đề “mở” là có thể phân hoá được học lực của
học sinh. Cùng với các dạng đề nghị luận văn học, những đề văn nghị luận xã hội theo
hướng “mở” sẽ tạo cho học sinh cơ hội được bày tỏ nhận thức, suy nghĩ của mình đối với
những vấn đề khác nhau của xã hội. Từ đó, góp phần hình thành kỹ năng sống, kỹ năng
ứng xử phù hợp đối với những vấn đề đặt ra trong cuộc sống thường nhật. Cũng là cách
để “kéo” văn chương về gần hơn với cuộc sống. Điều cần lưu ý là, đáp án đối với dạng
đề “mở” cũng cần được soạn theo hướng “mở”. Nghĩa là, không nên ràng buộc người
viết vào một số ý nào có sẵn, cho trước mà chỉ cần định hướng về cách giải quyết. Chất
lượng của bài viết cũng không nên quá câu nệ vào dung lượng ngắn, dài. Điều quan trọng
là học sinh phải xác định đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày và thể hiện nó một cách rõ
ràng, minh bạch, logic, có chủ kiến, có sức thuyết phục. Giáo viên khi chấm thi cũng
phải thật sự “vững tay” để không bỏ qua những suy nghĩ độc đáo, sáng tạo của học sinh
(có thể không có trong đáp án) thể hiện trong bài viết.
* Đối với thực trạng học sinh thụ động trong giờ học:
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề này nhưng bản chất là do các em thiếu
tư duy suy nghĩ trong giờ học, lười học, thờ ơ trước những câu hỏi, những vấn đề đặt ra
của thầy cô, không chịu khó.... Để khắc phục tình trạng này giáo viên cần vận dụng
phương pháp kể chuyện, có thể kể những câu chuyện liên quan đến nội dung bài học,
phần đang học để tạo sự lôi cuốn cho các em đối với bài học. Ví dụ khi dạy văn bản
“Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” của G. Mác- két, giáo viên có thể kể những câu
chuyện về chiến tranh và hậu quả của chiến tranh cho các em nghe để tạo sự lôi cuốn hơn
cho các em vào nội dung bài học. Hoặc khi dạy “Các phương châm hội thoại” cứ mỗi
phương châm , giáo viên lại minh họa bằng một câu chuyện.
Ví dụ: Dạy phương châm về lượng lại kể chuyện “Giấu đầu hở đuôi”. Câu
chuyện như sau : “Một ông nọ sai người hầu đi mua thịt chó nhưng dặn không được nói
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 11
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
cho ai biết. Người hầu xăm xăm đi mua. Gần về đến nhà thì gặp khách. Khách thấy anh
ta cầm cái gói, mới hỏi:
- Chú cầm gói gì trong tay đấy?
Người hầu nhớ lời chủ dặn, không dám nói thật nhưng lại giơ cao cái gói và đố:
- Ông đoán đi...Ông mà đoán đúng thì tôi xin biếu ông cả gói thịt chó này!”
( Theo Tuyển tập văn học dân gian Việt
Nam)
Qua câu chuyện trên, giáo viên giúp các em vừa cảm thấy vui, hài hước vừa
nhận biết được chuyện có tuân thủ phương châm hội thoại hay không.Và khi nhớ đến
câu chuyện, các em sẽ nhớ đến nội dung bài học.
Vận dụng phương pháp kể chuyện vào bài giảng không phải là việc làm mới
nhưng nó cũng đem lại những hiệu quả nhất định trong tiết dạy.
- Ngoài ra giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, các kĩ thuật
dạy học mới trong các tiết dạy của mình một cách phù hợp để làm tăng hiệu quả giảng
dạy.Trong các tiết dạy của mình, tôi luôn cố gắng cụ thể nội dung của tiết học bằng sơ đồ
để học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, nhất là đối với học sinh yếu. Bởi các em nhìn vào
sơ đồ sẽ dễ nắm ý, dễ nhớ và mau thuộc bài hơn so với cách ghi bình thường. Ví dụ khi
dạy “ Sự phát triển của từ vựng” giáo viên có thể cung cấp sơ đồ sau:
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 12
Sự phát triển của từ vựng
Phát triển nghĩa Phát triển số lượng
Phươngthứcẩn dụ
Phươngthứcẩn dụ
Tạo từ ngữ mới
Mượn từ
Phương thức ghép
Phương thức láy
GốcHán
GốcChâuÂu
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
Giáo viên có thể cụ thể nội dung bài học bằng sơ đồ không chỉ phần tiếng Việt mà cả
phần dạy văn bản, phần dạy phương pháp tập làm văn...
Hoặc khi phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong văn bản
”Làng” của Kim Lân cũng có thể cụ thể bằng sơ đồ: (Ghi chú : đây chỉ là một ví dụ có
tính chất tượng trưng)
- Đặc biệt trong năm học 2011-2012, việc dạy học và hệ thống kiến thức bằng
sơ đồ tư duy được ứng dụng rộng rãi đã mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác giảng
dạy. Dạy học theo phương pháp này nhằm phát huy tối đa tính sáng tạo của người học,
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 13
Tình yêu làng , yêu nước của ông Hai
Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc
Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc
Khi nghe được tin cải chính
...............
...............
...............
...............
...............
...............
...............
...............
...............
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
giúp các em dễ nhớ, dễ nhìn, dễ thuộc,dễ ghi. Rèn luyện xác định chủ đề và phát triển ý
chính, ý phụ một cách lôgic thông qua hệ thống hình ảnh, màu sắc, các cụm từ diễn
đạt...Giúp các em sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn, nhìn thấy bức tranh
tổng thể và phát triển nhận thức tư duy của các em.
Ví dụ khi dạy xong tiết 117- văn bản : Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
có thể vẽ sơ đồ tư duy như sau:
Hoặc sau khi dạy xong một đơn vị kiến thức nào đó trong bài học, từng phần của bài
học cũng có thể vẽ sơ đồ tư duy:
Ví dụ khi dạy tiết 118- văn bản: Viếng lăng Bác của Viễn Phương, xong khổ thơ
thứ nhất có thể vẽ:
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 14
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
Ví dụ như khi dạy xong tiết 120 tập làm văn 9 bài : Nghị luận về một tác phẩm
truyện hoặc đoạn trích, có thể cho học cụ thể hóa nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy:
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 15
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Hướng dẫn phương pháp học trên lớp: học sinh phải biết phối hợp nhịp nhàng
các kĩ năng cùng một lúc: mắt nhìn, tai nghe, tay viết, tham gia xây dựng bài; kết hợp
nghe giảng với quan sát sách giáo khoa. Đối với phân môn tiếng Việt, yêu cầu phải nắm
được khái niệm và những kiến thức trọng tâm để vận dụng làm bài tập. Đối với phần văn
bản: Thơ phải học thuộc lòng; truyện phải tóm tắt được cốt truyện. Ngoài ra phải nắm
được những nét cơ bản về tác giả, tác phẩm, nội dung chính và đặc sắc nghệ thuật. Đối
với phân môn tập làm văn phải nắm được phương pháp cơ bản nhất của từng kiểu bài và
cách làm kiểu bài đó.
- Hướng dẫn cách viết bài tập làm văn phải rõ ràng bố cục ba phần, đoạn văn cân
đối mạch lạc, viết đúng ngữ pháp và chuẩn chính tả. Để viết được một bài tập làm văn
tương đối đảm bảo về nội dung và hình thức cần phải:
Ví dụ: Muốn làm được một bài văn nghị luận văn học (nghị luận về một bài thơ)
chẳng hạn, thì trước hết về cơ bản các em phải nắm được những kiến thức về tác giả,
hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, nội dung của bài thơ, những nét đặc sắc nghệ thuật.... Để
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 16
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
nắm được kiến thức phải thông qua việc tìm hiểu nội dung phần đọc hiểu trong những
giờ giảng văn. Vì vậy tất cả các kĩ năng học và làm văn phải liên quan mật thiết với nhau.
Nắm được những yêu cầu ấy mới chỉ là bước đầu. Sau đó mới tiến hành xây dựng dàn ý.
Giáo viên cần rèn cho học sinh lập được dàn ý cơ bản và kĩ năng này phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục trong những giờ làm văn.
Ví dụ khi cho đề bài: “Những cảm nhận của em về bài thơ “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy” thì điều đầu tiên học sinh phải nắm được là những luận điểm chính cần
thể hiện trong bài văn là gì? Đó là:
+Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ
+ Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại
+ Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng
Từ những luận điểm chính ấy, các em phải tạo lập thành những đoạn văn tương ứng với
nội dung luận điểm dựa vào mạch cảm xúc của bài thơ và các hình ảnh thơ, các câu
thơ...
- Việc viết mở bài và kết bài cũng rất quan trọng, đôi khi chúng ta nghĩ rằng đấy là
điều đơn giản, các em sẽ làm được. Nhưng đối với những học sinh học yếu, giáo viên
nên rèn cho các em công thức viết mở bài trực tiếp theo ba bước đó là: Giới thiệu nét cơ
bản nhất về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và nội dung tác phẩm. Chú ý rèn các em viết
đúng và tạo thành thói quen để hình thành được những bước khởi đầu tốt đẹp tiếp theo.
- Ví dụ mở bài trực tiếp: Nguyễn Duy là một nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Mĩ. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ hay của ông, viết vào 1978 tại
thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ tâm tình với chính
mình, với mọi người về lẽ sống chung thủy, nghĩa tình.
Còn đối với kết bài, có thể hướng dẫn một phương pháp chung đó là : Khẳng định
lại nội dung và liên hệ, suy ngẫm.
- Ví dụ kết bài nên yêu cầu viết ngắn gọn : Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật
mình” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, với những kỉ niệm nghĩa tình của
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 17
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
một thời đã qua. Nó gợi trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách
làm người và sự ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Sau nhiều lần rèn các em viết đúng, giáo viên có kế hoạch nhận xét sửa chữa và
động viên kịp thời thì các em sẽ tiến bộ hơn.
Mặt khác, giáo viên cần nhấn mạnh : để viết một bài văn tốt em cần chú ý các
điểm sau:
Nắm chắc phương pháp để viết bài văn theo trình tự nào. Bên cạnh đó, em cần suy
nghĩ tìm tòi, huy động những kiến thức đã học liên quan đến nội dung đề bài yêu cầu.
Hơn thế nữa, sự suy nghĩ, sáng tạo của cá nhân là rất quan trọng. Không nên lệ thuộc bài
văn mẫu một cách rập khuôn máy móc. Bởi vì quá trình tiếp nhận văn học là em tiếp
nhận những tri thức, cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Cho nên khi các em diễn đạt thì
ngoài yếu tố câu cú, ngữ pháp, lời văn phải trong sáng còn yêu cầu là thể hiện tình cảm
của người viết. Bởi giáo viên luôn trân trọng và đánh giá cao vai trò sáng tạo trong tiếp
nhận của học sinh. Vì vậy yêu cầu các em mạnh dạn nêu những suy nghĩ, ý kiến, những
cảm nhận của cá nhân mình, có thể những ý kiến đó chưa hay, chưa đúng nhưng sẽ được
thầy cô giáo dạy văn định hướng và từ đó các em lại tiếp tục bày tỏ ý kiến cá nhân trên
cơ sở định hướng thẩm mỹ của thầy cô. Hướng dẫn các em nên dựa trên những định
hướng về nội dung, về kiểu bài, để có những sáng tạo nho nhỏ của chính mình, và mình
trân trọng những sáng tạo của riêng mình. Lâu dần các em sẽ viết văn tốt, tự tin, và đến
với môn văn một cách nhẹ nhàng, thoải mái, thú vị hơn.
. - Trong giờ dạy trên lớp giáo viên giao câu hỏi, bài tập dễ, vừa sức để các em có thể
thực hiện được. Khi giao bài tập về nhà cần lưu ý đến đối tượng học yếu này. Qua các
giờ trả bài kiểm tra, giáo viên hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá bài của mình. Từ đó,
các em tự biết rút kinh nghiệm những thiếu sót trong bài làm của mình để tự sửa
chữa,khắc phục.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 18
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Giáo viên bộ môn phải có sự theo dõi thường xuyên sự tiến bộ của học sinh qua
từng bài kiểm tra. Đối với học sinh yếu kém đặc biệt quan tâm hơn, hướng dẫn tỉ mỉ, cụ
thể, tận tụy động viên các em, tạo cho các em có nề nếp học tập .
- Cách giới thiệu bài của giáo viên cần tạo được lôi cuốn, hấp dẫn cho các em.
Người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo và linh hoạt trong cách vào bài. Giáo viên phải
luôn biến đổi mô típ vào bài để tránh sự nhàm chán, bằng cách có thể hát một câu hát,
đọc một đoạn thơ có nội dung liên quan đến tác phẩm hoặc nêu một thực trạng khá gần
gũi, thiết thực để tạo hứng thú cho các em để hướng các em vào bài giảng.
- Thực hiện việc kiểm tra ở lớp bằng cách thường xuyên kiểm tra bài cũ bằng những
câu hỏi vừa sức với từng đối tượng học sinh, ghi điểm hợp lí để động viên kịp thời; kiểm
tra bằng nhiều hình thức khác nhau có thể kiểm tra miệng, có thể kiểm tra bằng giấy, có
thể kiểm tra đầu tiết cũng có thể kiểm tra cuối tiết học... Giao bài tập phù hợp với những
đối tượng học sinh này, rèn kĩ năng tóm tắt tác phẩm cho học sinh. Đây là một kĩ năng
tương đối khó đối với những học sinh yếu bởi nó liên quan đến nhiều kĩ năng khác như:
Đọc, thâu tóm nội dung kiến thức cơ bản, sắp xếp ý và khả năng diễn đạt... Vì vậy yêu
cầu các em phải đọc thật nhiều lần và đọc kĩ văn bản, rút ra được những ý chính từ đó
mới có thể tóm tắt được
- Luôn tạo cho tiết học một không khí vui vẻ, sôi nổi, tạo hứng thú cho học sinh tiếp
thu bài. Đây cũng là một yếu tố quan trọng tạo cho không khí lớp học thoải mái để các
em tiếp thu bài dễ dàng và bớt đi sự căng thẳng.
* Đối với thực trạng học sinh chưa có văn hóa đọc nói chung:
- Thứ nhất, chúng ta cần thừa nhận rằng sự cạnh tranh và thay thế của các loại
hình giải trí là chuyện bình thường trong lịch sử. Chúng ta vừa mới chứng kiến sự thoái
trào của loại hình sân khấu để nhường chỗ cho sự lên ngôi của vô tuyến truyền hình. Thế
mạnh của tivi, internet... là có hình ảnh động, nhiều màu sắc, âm thanh. Chúng là sự tổng
hợp tuyệt vời từ các loại hình nghệ thuật khác, vừa mang tính kịp thời, vừa thiết
thực...Trong khi đọc một cuốn sách văn chỉ thấy hiện lên những con chữ khô khan, trừu
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 19
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
tượng. Nhiều học sinh có thể không đọc sách văn học nhưng có thể ngồi say sưa quên giờ
giấc bên cạnh tivi, internet...Chính vì vậy việc dạy văn trong nhà trường muốn tạo được
sự lôi cuốn học sinh cần phải trang bị những thiết bị nghe nhìn hiện đại, bài học được
minh họa bởi âm thanh, hình ảnh sinh động.
- Người giáo viên dạy văn cần khuyến khích, động viên các em trong việc đọc
sách, phải giúp cho các em hiểu rằng mỗi tác phẩm là một đóa hoa đẹp, mỗi bông hoa
đẹp có một màu sắc riêng để làm đẹp thêm cho cuộc sống, tâm hồn của con người. Để
làm được điều này thì biện pháp mà người giáo viên có thể làm là đưa ra những đề thi,
đề kiểm tra tổng hợp, đề mở để kích thích học sinh đọc thật nhiều sách báo.
- Vấn đề thời gian cũng có tầm quan trọng trong việc đọc sách. Nhà trường hiện
nay có quá nhiều môn học và chương trình ngoại khóa nên học sinh không còn nhiều thời
gian để đầu tư cho việc đọc sách văn học. Để giải quyết tình trạng này, giáo viên không
nên yêu cầu học sinh đọc nhiều mà tùy vào trình độ và thi hiếu của mình học sinh có thể
chọn và đọc những tác phẩm mình thích trên cơ sở đã gợi ý sẵn. Ngoài ra, mỗi em còn
phải trang bị phương pháp khai thác thông tin trên mạng, ở thư viện hoặc cả ngoài
đời...Bởi một người tài giỏi không phải cái gì cũng biết, mà là người biết cách khai thác
thành công mọi thứ khi mình cần.
- Hơn nữa hiện nay các loại hình giải trí rất đa dạng cho nên túi tiền cũng phải
phân phát cho nhiều thứ mà giá sách lại quá cao. Để khắc phục tình trạng trên cũng cần
phải phát triển hệ thống thư viện của trường học nhằm tạo điều kiện cho học sinh không
tốn tiền mua sách mà vẫn có sách để đọc.
* Đối với thực trạng học sinh thiếu năng lực cảm thụ:
+ Với các phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại như hiện nay, giáo viên cần
sử dụng triệt để những hình ảnh, âm thanh bằng cách áp dụng các phương tiện dạy học
tích cực (đèn chiếu, giáo án điện tử), sử dụng các phương tiện dạy học trực quan để các
em dễ dàng nắm bắt kiến thức. Đây cũng là một điểm mới so với phương pháp dạy học
truyền thống. Nhưng để làm tốt vấn đề này, người giáo viên cần chịu khó và dành nhiều
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 20
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
thời gian sưu tầm, chuẩn bị tư liệu cho tiết dạy. Tuy nhiên, cần tránh việc lạm dụng sẽ
làm mất đi sự cảm nhận cái hay, cái đẹp của văn chương. Chẳng hạn như khi dạy bài thơ
“ Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh Hải, với việc vận dụng các phương tiện dạy học như
hình ảnh, âm thanh ... giáo viên có thể dùng âm nhạc để minh họa tác phẩm thơ ca. Nếu
không thể hát được, giáo viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin bằng cách cho học
sinh nghe giai điệu trong trẻo, du dương của bài thơ này khi được phổ nhạc thành bài hát.
Việc ứng dụng công cụ nghe nhìn cũng phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu tiểu sử tác giả,
tác phẩm, giúp các em tiếp cận những yếu tố ngoài văn bản để làm phong phú kiến thức
của mình một cách dễ dàng hơn, từ đó sẽ gúp các em cảm thấy thích thú hơn, lôi cuốn
hơn và việc cảm nhận cũng dễ dàng hơn.
+ Trong giờ giảng, giáo viên cần chọn và phân tích, giảng bình những từ ngữ,
hình ảnh then chốt để học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, để
tạo sự rung cảm cho tâm hồn các em, giúp các em thực sự lôi cuốn vào bài giảng. Chẳng
hạn như khi dạy đoạn trích “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ( Sách Ngữ văn
9- Tập 1), giáo viên có thể làm cho các em rơi nước mắt và thực sự xúc động trước tình
phụ tử thiêng liêng sâu nặng của cha con ông Sáu và bé Thu khi bé Thu cất tiếng gọi
“ba....a...a...” thiêng liêng sau tám năm trời xa cách. Đó là tiếng gọi đầu tiên và cũng là
tiếng gọi cuối cùng nghe thật xót xa. Giáo viên có thể dẫn dắt ngược dòng thời gian để
đưa các em về sống với những năm tháng hào hùng lịch sử, của những năm tháng chiến
tranh chống Mĩ và những nỗi đau thương mất mát trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh
mà hàng triệu em bé trên đất nước Việt Nam phải gánh chịu....Các em có thể phần nào
cảm nhận được nỗi đau thương, bất hạnh do chiến tranh gây ra đối với họ, biết ngưỡng
mộ, khâm phục hơn những em bé như Thu... ...
+ Tập cho các em có một thói quen quan sát và cảm nhận bằng khả năng quan
sát thực tế. Chẳng hạn như ra đề văn thuyết minh về hoa mai, thì khâu đầu tiên các em
phải biết được hoa mai có đặc điểm cấu tạo, đặc điểm sinh học, công dụng,... như thế
nào.Việc quan sát và tìm hiểu thực tế cũng nhằm giúp các em cảm thụ được tốt hơn, giúp
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 21
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
các em có hứng thú hơn trong việc học tập. Hoặc để kích thích tư duy và sự quan sát
thực tế của học sinh, giáo viên có thể cung cấp cho các em những đoạn văn hay vào
những thời điểm thích hợp nhất. Đây cũng là một điểm mới theo tôi rất cần thiết để khơi
dậy những cảm xúc văn chương, làm sống lại những rung động trong lòng các em.
Ví dụ như đoạn trích sau: ”Đã bao giờ bạn ngắm nhìn cảnh mặt trời lên.
Không khí ban mai dịu ngọt, trong trẻo, ngắm những giọt sương be bé , xinh xinh... Mỗi
ngày trôi qua tôi lại thấy nó mới lại đến say mê. Sương đúng là điều kì dịu của cuộc
sống... Sương là hình thức ngưng tụ của hơi nước trong không khí đã bão hòa thành
những hạt li ti...Còn riêng bản thân mình, tôi luôn cho rằng sương được mẹ thiên nhiên
tạo ra. Sau khi từ giã cuộc sống, sương sẽ trở về với mẹ đất. Mẹ thiên nhiên không muốn
cây cối, vạn vật đơn độc nên cho sương xuống làm bạn vào mỗi sớm mai.
Sương mai trong suốt như pha lê vậy! Những giọt long lanh, bé xíu dường như
vô hình, mà cứ mỗi buổi sáng mai vẫn treo đầy ngọ cỏ, đậu trên những nụ hoa...Sương
mang một vẻ đẹp thật dung dị, mộc mạc không sặc sỡ sắc màu, mà trong vắt, tròn trĩnh,
đôi lúc chỉ một chút gió nhẹ lay động khiến sương tinh nghịch lượn qua lượn lại trên một
phiến lá rộng. Giọt sương là những gì thuần khiết nhất của ban mai đọng lại, nó thanh
sạch gợi lên trong tôi tinh thần minh mẫn, lạc quan, yêu đời khiến cuộc sống nhẹ nhàng
hơn, mở ra một ngày mới với bao trong lành, tươi sáng. Tôi yêu những giọt sương sớm
mai không chỉ vì vẻ đẹp của nó mà còn vì sương đánh thức tôi, thắp lên trong tôi những
khoảnh khắc, suy nghĩ về cuộc sống. Sương mang đến cho tôi cảm giác thư thái, êm đềm
cảm thấy cuộc đời bỗng dưng đáng sống biết bao!
Có chú ý quan sát mới thấy hết vẻ đẹp của những giọt sương. Những khoảnh
khắc như thế thật quý giá. Nhưng dường như không bao giờ sương còn mãi. Muôn vàn
tia nắng ấm áp của mặt trời sẽ bừng lên, những giọt sương sẽ tan biến vào hư vô để tôi
không kịp lưu luyến. Song chính sương đã gợi cho tôi liên tưởng đến những giá trị bình
thường giản dị của cuộc sống- Những giá trị bị bỏ quên, bởi nó cũng tựa như những giọt
sương bé nhỏ, mong manh, không phô trương mà lặng lẽ điểm tô cho cuộc đời này...”
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 22
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
( Tạp chí Văn học tuổi trẻ).
Đoạn văn trên sẽ giúp các em có cảm nhận tinh tế hơn về cuộc sống , về những
gì quen thuộc nhưng đôi khi ta lại vô tình lãng quên, nhằm khơi dậy trong các em tình
yêu cuộc sống, yêu văn chương và giúp các em hiểu rằng văn học không phải là những
điều xa vời mà nó rất gần gũi với cuộc sống, là tấm gương phản ánh cuộc sống nên nó rất
thiết thực với mỗi chúng ta.
Thực trạng thiếu năng lực cảm thụ là một thực trạng mà cách khắc phục không
hề đơn giản bởi ngữ văn thuộc về bộ môn năng khiếu, thể hiện năng lực cảm nhận văn
chương, cảm nhận cuộc sống. Giáo viên có thể tập cho các em cảm thụ dần bằng nhiều
cách như đã trình bày ở trên.
2. Khả năng áp dụng:
- Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả:
- Áp dụng thử nghiệm ở các lớp 9A4, 9A5 năm học 2009- 2010. Năm sau tôi
áp dụng trên 3 lớp 9A4, 9A5, 9A6.
- Trong quá trình áp dụng những giải pháp trên đã mang lại hiệu quả tích cực:
học sinh hứng thú hơn trong từng tiết học, kết quả bài làm tốt hơn, tỉ lệ học sinh vào lớp
10 hệ A công lập năm sau cao hơn năm trước.
- Có khả năng thay thế giải pháp hiện có:
So với phương pháp dạy học trước đây, sau khi áp dụng những biện pháp này
bản thân tôi nhận thấy đã đem lại một số hiệu quả như mong muốn. Trước đây, trong
giờ giảng văn, thầy hoạt động nhiều, thiên về phương pháp giảng bình và thuyết trình,
còn học sinh chỉ ngồi nghe rất thụ động. Dạy học theo phương pháp mới - lấy học sinh
làm trung tâm, các em được quan sát, được nghe, được tự mình khám phá và cảm nhận
cái hay, cái đẹp của văn chương. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người định hướng, hướng
dẫn cho các em lĩnh hội kiến thức.Chẳng hạn như trước đây, trong một giờ giảng văn,
phần đọc văn bản học sinh chỉ được nghe giọng đọc của thầy của bạn. Ngày nay, với sự
phát triển của công nghệ thông tin, trong giờ giảng học sinh có thể nghe giọng đọc mẫu
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 23
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
từ các nghệ sĩ hoặc phát thanh viên; nếu là thơ được phổ nhạc các em sẽ cảm nhận bài
thơ đó bằng âm nhạc... Nếu áp dụng thành công những biện pháp này trong giảng dạy
chắc chắn sẽ cải thiện được chất lượng học văn của học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là những kinh nghiệm thực tế của bản thân đúc kết từ thực tế giảng
dạy, với mong muốn được góp một số kinh nghiệm chia sẻ cùng với đồng nghiệp để
từng bước khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn ngữ văn, phấn đấu vươn lên
trong học tập, để có thể từng bước góp phần giúp các em rộng mở cánh cửa tương lai
của các em đến với những chân trời tri thức mới mẻ hơn.
- Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành: Kinh nghiệm này đã được áp
dụng trong thực tế giảng dạy của bản thân trong nhiều năm qua và thực tế cho thấy kết
quả giảng dạy từng bước được nâng lên đáng kể. Chất lượng thi vào 10 hệ A các lớp tôi
phụ trách đạt kết quả cao.Từ đó, tôi đã chia sẻ với đồng nghiệp trong nhóm bộ môn của
nhà trường. Trong thời gian tới, nhóm bộ môn Ngữ văn của trường sẽ áp dụng các biện
pháp này cho các khối lớp còn lại để đáp ứng yêu cầu dạy học văn trong giai đoạn hiện
nay, góp phần đưa môn ngữ văn trở về với vị trí xứng đáng của nó.
3. Lợi ích kinh tế- xã hội:
- Lợi ích có thể đạt đến trong quá trình giáo dục, công tác
Ở cấp độ vĩ mô, mục tiêu dạy học ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu
giáo dục nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Đi vào cụ thể, môn
học Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau:
1. Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn
ngữ và văn học - trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam - phù hợp với trình độ phát
triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
2. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận
văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học,
năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 24
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
3. “Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh
thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc và nhân loại"[3, tr. 39].
Mục tiêu dạy học Ngữ văn cũng được cụ thể hóa ở từng cấp học, lớp học,
phân môn... Chính vì thế, chương trình được tạo dựng theo hai trục tích hợp: “Đọc văn
và Làm văn" (Đỗ Ngọc Thống) [8, tr.10]. Phân môn Văn học có chức năng cung cấp một
hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về văn học Việt Nam và thế giới, thông qua
việc phân tích tác phẩm văn chương mà bồi dưỡng cho học sinh những giá trị chân -
thiện - mỹ. Học sinh không chỉ được rèn luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm
nghệ thuật, mà còn biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Phân môn Làm văn có
chức năng rèn luyện kỹ năng viết văn bản. Ban đầu các đề thi chỉ yêu cầu làm nghị luận
văn học, càng về sau, nghị luận xã hội càng được chú trọng. Hiện nay, trong các đề thi
Ngữ văn tuyển sinh vào THPT và tuyển sinh Đại học có câu nghị luận xã hội (3 điểm),
bàn về một vấn đề tư tưởng đạo lý hoặc một vấn đề thuộc sự việc, hiện tượng đời sống xã
hội. Nghĩa là việc dạy học Ngữ văn ngày càng xích lại gần đời sống. Còn chức năng của
phân môn Tiếng Việt là: "Thứ nhất, hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực sử
dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ với bốn kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói, qua đó mà rèn
luyện tư duy. Thứ hai, giúp các em có những hiểu biết nhất định (tối thiểu ?) về hệ thống
tri thức tiếng Việt và ngôn ngữ để sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, có ý thức.
Thứ ba, giúp học sinh biết yêu quý tiếng Việt, có ý thức giữ gìn, bảo vệ và phát triển
tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm ..." (Đỗ Ngọc
Thống) [7, tr. 60].
Học văn làm thế giới nội tâm phong phú: đi sâu vào những thế giới tâm trạng,
cùng buồn, cùng vui, cùng yêu, cùng ghét với nhà văn, nhà thơ, người học sinh sẽ biết
suy nghĩ nhiều hơn để trưởng thành.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 25
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
Học văn làm suy nghĩ thêm sâu sắc: trong văn học sẽ luôn thấp thoáng bóng hình
của một tư tưởng sống, học văn rèn giũa lại nhân cách lại, dạo đức con người, chuẩn bị
bước vào xã hội. Văn học dạy ta cách sống sao cho có ích, sống ngẩng cao đầu, dạy ta
biết cách chấp nhận và giải quyết khó khăn.
Học văn là tìm về trong lịch sử: Những bài văn, bài thơ luôn là nơi phó thác một
tâm sự của người viết, các thế hệ cha anh, nhưng cũng là nơi gửi gắm một tâm tư chung
của toàn dân tộc. Trong văn chương sẽ đọng lại những dáng hình lịch sử. Trên con đường
4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ta sẽ tìm được những nét chung và riêng: Nhớ
về công lao các thế hệ trước, hiểu được những trăn trở và suy tư của họ, nhìn vào thời đại
ngày hôm nay, ta sẽ biết mình nên, và cần làm gì.
Ở cấp độ vi mô, giúp học sinh hiểu được bài, làm bài một cách tự tin trong các
kì thi. Môn ngữ văn là môn thi có ảnh hưởng lớn đến kết quả chung của kì thi tuyển sinh
vào lớp 10 công lập (đối với cấp THCS). Khi đỗ vào hệ A các em sẽ có điều kiện học
tập, môi trường học tập tốt hơn. Cánh cửa vào các trường đại học, cao đẳng sẽ rộng mở
hơn, tương lai của các em sẽ sáng sủa hơn.
Về mặt kinh tế, khi các em thi đậu và học hệ A sẽ tiết kiệm được một số chi phí
đáng kể cho gia đình vì mức học phí của hệ công lập thấp hơn so với hệ bán công. Đây
chính là lợi ích thiết thực nhất mà đề tài áp dụng thành công mang lại.
Mặt khác, nếu học tốt bộ môn ngữ văn sẽ giúp ích cho các em rất nhiều trong công
việc sau này như việc quản lí, điều hành, có kĩ năng nói tốt trước đám đông, vững vàng
trong việc sửa chữa, tạo lập, soạn thảo văn bản...
Qua hơn hai năm thực hiện các biện pháp này, chất lượng đào tạo từ trung bình trở
lên của học sinh từng bước được nâng lên. Một số học sinh từ chỗ học yếu đã vươn lên
trung bình, các em đã có sự tiến bộ rõ rệt trong học tập. Những lớp tôi giảng dạy các em
đã có hứng thú học văn, yêu thích môn ngữ văn hơn. Nhận thức của các em về môn ngữ
văn có thay đổi. Các em cần cù chịu khó hơn trong việc học tập bộ môn. Chất lượng của
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 26
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
môn học qua việc đánh giá được nâng lên rõ rệt. Nhiều em đã tự giác học tập, tự rèn
luyện, mạnh dạn trao đổi với cô giáo những điều còn vướng mắc hoặc hiểu chưa sâu.
Nói tóm lại, mục tiêu học tập môn Ngữ văn trong thời đại mới không phải là học
"biết để chơi" mà là "biết để làm". Môn Ngữ văn không chỉ là môn "bồi dưỡng tâm hồn"
mà quan trọng hơn là môn "công cụ" để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kỹ
năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống và công việc. Quá trình dạy Ngữ văn phải
hướng tới lợi ích của người học. Và chỉ khi nào người học hứng thú và thấy được lợi ích
thiết thực của môn học thì mục tiêu dạy học Ngữ văn của các nhà giáo dục vạch ra mới
đạt hiệu quả như mong muốn.
- Tính năng kĩ thuật, chất lượng, hiệu quả sử dụng:
- Rất nhiều kĩ năng mới được hình thành ở học sinh qua việc vân dụng những
phương pháp dạy học nói trên: kĩ năng thảo luận nhóm, kĩ năng cụ thể hóa nội dung bài
học bằng sơ đồ, kĩ năng nói trước đám đông, kĩ năng sống...Từ đó học sinh hiểu bài sâu,
nhớ và lưu giữ mãi những hình ảnh về tiết học, về thầy cô, bạn bè...giúp các em có được
những kiến thức cơ bản và không bị hụt hẫng khi học các lớp trên.Ngoài ra thay đổi
phương pháp dạy học còn giúp các em thay đổi trạng thái về tinh thần, tránh mệt mỏi
trong giờ học, có cảm hứng nhiều hơn đối với môn học.
- Nhìn vào kết quả đối chiếu so sánh trên thấy được chất lượng giáo dục khi áp
dụng cải tiến các biện pháp trên. Cụ thể: số lượng yếu kém ngày càng giảm dần, số lượng
học sinh học trung bình, khá giỏi tăng . Trong khi đó số lượng học sinh yếu kém khi
kiểm tra đầu năm thì chiếm quá nhiều, số lượng học sinh khá giỏi thì lại ít. Hiện nay các
em đã đã viết được những bài văn có nội dung, biết cách diễn đạt. Đây chính là chất
lượng thực tế qua quá trình áp dụng cải tiến một số biện pháp khắc phục tình trạng học
sinh học yếu môn ngữ văn trong quá trình dạy học. Được như vậy là nhờ vào sự kiên trì
nỗ lực của thầy và trò trong sự phối hợp giữa dạy và học, sự quan tâm về việc nâng cao
chất lượng dạy và học của bộ phận chuyên môn nhà trường.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 27
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Hiệu quả của các biện pháp được thể hiện thông qua các tiết dạy: học sinh hứng
thú học tập.Giáo vên có tâm lí thoải mái tự tin trong quá trình truyền thụ kiến thức .Chất
lượng bộ môn được cải thiện đáng kể.
Hiệu quả của sáng kiến:
Năm học 2009 - 2010 tôi đã áp dụng các biện pháp trên đối lớp 9A4, 9A5 và đã đạt được hiệu quả như sau:
Kết quả đầu năm ( trước khi áp dụng-
Thông qua khảo sát chất lượng đầu năm)
Kết quả cuối học kì I (sau khi áp
dụng)
TS HS Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi Khá TB Yếu Kém
42 1 9 20 9 3 3 12 21 5 1
43 0 12 21 8 2 3 13 21 5 1
Kết quả cả nămKết quả cả năm thông qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Tổng số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
42 4 15 21 2 0
43 4 14 23 2 0
Kết quả thi tuyển sinh vào 10 năm học 2009- 2010
TS HS Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém % TB↑ %
9A4 ∕42 3 7.1 10 23.8 19 45.2 9 21.4 1 2.4 32 76.2
9A5∕43 4 9.3 10 23.3 20 46.5 7 16.3 2 4.6 34 79.1
Năm học 2010 - 2011, kết quả môn Ngữ văn các lớp 9A4, 9A5, 9A6 cuối năm đã đạt được như sau:TS
HS
Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém TB↑ %
9A4 ∕36 3 8.3 13 36.1 19 52.8 1 2.7 0 35 97.2
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 28
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
9A5∕37 2 5.4 15 40.5 19 51.4 1 2.7 0 36 97.3
9A6∕34 3 8.8 11 32.4 17 50.0 3 8.8 0 31 91.2
Kết quả thi tuyển sinh vào 10 năm học 2010- 2011
TS HS Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém % TB↑ %
9A4 ∕36 4 11.1 10 27.8 14 38.9 6 16.7 2 5.5 28 77.7
9A5∕37 3 8.1 11 29.7 17 45.9 5 13.5 1 2.7 31 83.8
9A6∕34 4 11.8 10 29.4 13 38.2 7 20.6 1 2.9 26 76.5
Kết quả thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ A công lập rất cao so với mặt bằng chung
của cả huyện.
3.Tác động xã hội tích cực; cải thiện môi trường, điều kiện làm việc.
Văn học là sáng tạo của con người, vì lợi ích và đời sống của con người. Một tác
phẩm văn học hay phải mang tính “bồi dưỡng tình đời” giúp mỗi chúng ta có thái độ
sống đúng đắn hơn. Thông qua văn học, học tốt văn học chúng ta có thể hiểu hơn về cuộc
sống và con người. Văn học cũng dạy cho các em biết thế nào là lẽ phải, dạy cái hay, cái
đẹp và từ đó gieo vào lòng các em niềm say mê khám phá,chiếm lĩnh kiến thức…Hơn
nữa, theo một số nguồn tin trên các phương tiện thông tin đại chúng cho biết trong lộ
trình đổi mới kỳ thi ĐH, CĐ thời gian tới, cùng với việc tổ chức thi nhiều môn khác nhau
trong một đợt thi, thì ngành nào cũng nên bắt buộc phải có một môn khoa học xã hội.
Ngữ văn là một trong những môn học có mặt trong tất cả các khối thi. Bởi “có chuyên
môn vững vàng nhưng vẫn cần thiết phải có kiến thức khoa học xã hội, nắm vững các giá
trị nhân văn nhất định mới có thể dễ đi đến thành công. Nhất là trong bối cảnh xã hội tri
thức hiện nay, ngày càng đòi hỏi nhân lực trình độ cao phải có sự cân đối giữa kiến thức
khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội nhân văn”. Đây có thể xem là một tín hiệu đáng
mừng trong việc cải thiện vị trí của các môn xã hội, nhất là môn ngữ văn trong hệ thống
các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông hiện nay. Nếu phương án đó sớm trở
thành sự thật thì chắc chắn môn ngữ văn sẽ có một vị trí xứng đáng - như nó cần có,
trong hành trang tri thức của học sinh.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 29
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
Và một khi môn ngữ văn tìm lại đúng vị trí của nó, học sinh sẽ coi trọng môn văn,
thích thú học ngữ văn thì người giáo viên sẽ tâm huyết với nghề, sẽ nhập thân hết mình
vào bài giảng và giảng những giờ văn thật sự “bốc lửa”.
Phần C. KẾT LUẬN**********************************
1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp:
- Văn học là một môn học chứa đựng những nội dung phong phú, đa dạng về
cuộc sống, về tâm hồn của dân tộc.Vì lẽ đó, môn ngữ văn có một vị trí quan trọng trong
nhà trường phổ thông với một thời lượng lớn trong chương trình giảng dạy (4-5 tiết/
tuần). Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Văn học là một vũ khí vô song”. Tuy
nhiên trong thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều học sinh học chưa chịu học hoặc học yếu
môn Ngữ văn. Xuất phát từ lí do đó mà sau nhiều năm trăn trở trong quá trình giảng dạy
cùng với sự trao đổi cùng đồng nghiệp, bản thân đã đúc kết được một số kinh nghiệm
với mong muốn giúp học sinh yêu thích môn Ngữ văn và học tập ngày một tiến bộ hơn.
Các biện pháp đưa ra còn mang tính chủ quan của bản thân trong quá trình giảng dạy. Vì
vậy, tùy theo điều kiện cụ thể mà các bạn đồng nghiệp có thể áp dụng linh hoạt các biện
pháp trên.
- Mặt khác, với kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy sự phối kết hợp chung
cũng rất quan trọng:
+ Trước hết các giáo viên bộ môn cần làm công tác phân loại học sinh ngay từ
đầu năm học (học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém). Tìm hiểu
nguyên nhân yếu kém đối với những học sinh học yếu kém bộ môn thông qua học sinh
trong lớp và cha mẹ của các em học yếu đó. Trao đổi trực tiếp với cha mẹ của học sinh
về cách thức và phương pháp dạy con học tập ở nhà. Tạo điều kiện về thời gian và vật
chất, mua sắm cho con đầy đủ các trang bị sách vở đồ dùng học tập cho con cái. Sau đó
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 30
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
giáo viên trực tiếp hướng dẫn cụ thể các em sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp như: những
tài liệu tham khảo cần thiết của môn Ngữ văn, sách giáo khoa, vở ghi... Hướng dẫn chi
tiết tỉ mỉ phương pháp học ở nhà cho các em: cách soạn bài, cách làm bài tập, học bài
cũ...
+ Sự chỉ đạo của chuyên môn nhà trường ( Ban giám hiệu ), phải sát sao luôn
quan tâm đến chất lượng và kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém đồng thời cũng tạo điều
kiện cho giáo viên được áp dụng kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn bằng cách phân
giảng dạy ổn định trên một khối lớp.
Sự phối kết hợp đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên bộ môn thực hiện tốt
việc phụ đạo học sinh yếu kém bộ môn của mình giảng dạy một cách có hiệu quả.
+ Ngoài ra giáo viên phải lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp; giáo viên
phải thiết kế bài giảng khoa học rõ ràng, chuẩn bị đồ dùng dạy học, áp dụng phương
pháp giảng dạy linh hoạt. Dành một thời lượng, thời gian nhất định hướng dẫn kĩ năng và
giáo dục tư tưởng cho các em.( Công việc này được tiến hành lồng ghép trong các tiết
dạy) Thực hiện chế độ thông tin hai chiều thường xuyên, kịp thời giữa giáo viên và cha
mẹ học sinh. Thông báo cụ thể về thực trạng học tập của học sinh trên lớp, cũng như các
em đã học tập ở nhà.
* Biện pháp đối với học sinh:
. Phải chú ý vận dụng phương pháp học tập trên lớp và ở nhà sao cho có hiệu
quả theo hướng dẫn của giáo viên.
. Phải cần cù, chịu khó học, đọc nhiều sách; học, đọc có chọn lọc .
. Phải ghi chép bài đầy đủ, đủ đồ dùng học tập tối thiểu.
. Phải biết tự đánh giá và rút kinh nghiệm về khả năng nhận thức của mình. Từ
đó điều chỉnh việc học tập của mình sao cho có hiệu quả cao nhất.
. Phải tạo được tính ham học, hiểu được ý nghĩa việc học của mình.
. Bài kiểm tra bị điểm yếu phải có tính kiên trì làm lại, viết đến bao giờ đạt hiệu
quả mới thôi.
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 31
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
- Phải hoà đồng, khiêm tốn; không ngại khó ngại khổ, rụt rè che dấu sự yếu
kém của mình. Khó khăn phải trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn để tìm cách tháo gỡ
những vướng mắc.
. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp:
Vận dụng tốt những giải pháp trên sẽ mang lại hiệu quả thiết thực góp phần nâng
cao chất lượng môn ngữ văn nói chung. Qua đó, học sinh sẽ biết cách soạn bài, học bài
cũ có chất lượng, chuẩn bị bài mới, biết cách hệ thống hóa kiến thức, biết cách lập dàn
bài, biết cách cảm nhận cái hay, cái đẹp của văn học và biết viết một bài văn đảm bảo
những yêu cầu cơ bản. Giúp các em có một tâm lí tốt hơn khi học bộ môn này: tích cực,
chủ động, rèn luyện thói quen và tinh thần tự học, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những
tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn.Từ đó trở nên yêu thích môn văn học, có
đủ tự tin, không còn cảm giác e ngại khi bước vào các kì thi và góp một phần không nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng điểm thi tuyển sinh vào 10 trong các trường PTTH.
3. Đề xuất, kiến nghị:
Để đạt được kết quả như mong muốn trên, ngoài yêu cầu chung là giáo viên phải
có năng lực chuyên môn sư phạm vững vàng còn đòi hỏi mỗi giáo viên phải có lòng say
mê, nhiệt tình, tâm huyết và tận tụy với nghề nghiệp, dành thời gian đầu tư cho công tác
soạn giảng, nghiên cứu chương trình, tìm ra những biện pháp dạy học tốt nhất, nâng cao
mở rộng kiến thức, tìm tòi sáng tạo không ngừng trong công tác dạy học.
Mặt khác, để đạt được hiệu quả cao trong việc khắc phục tình trạng học sinh học
yếu môn ngữ văn, giảm thiểu số học sinh ngồi nhầm lớp không phải là một sớm một
chiều. Đây là việc làm thường xuyên liên tục và là vấn đề đáng quan tâm của toàn ngành
giáo dục. Muốn thực hiện được cần dựa vào rất nhiều yếu tố tương tác nhưng quan
trọng nhất là yếu tố người dạy và sự cộng tác học tập của người học.
Con đường dẫn đến thành công trong việc giảng dạy tạo cho học sinh hứng thú học
tập và học tập tiến bộ môn ngữ văn có lẽ không phải là một con đường bằng phẳng
nhưng tôi tin các bạn sẽ tìm cho mình một con đường với những giải pháp hay nhất để
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 32
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
vượt qua tất cả và hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nặng nề mà xã hội giao cho. Đó là
“sự nghiệp trồng người”
Phù Mỹ, ngày 7 tháng 04 năm 2012
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Mỹ Hiệp
NHẬN XÉT NHẬN XÉT CỦA BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN PHÙ MỸ
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 33
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
....................................................................................
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp giảng dạy văn học – Phan Trọng Luận ( NXB Giáo dục )
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 34
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
2. Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 9
3. Ngữ văn 9 nâng cao – Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Việt Hùng (NXB Giáo
dục)
4.Bình giảng văn 9 – Tạ Đức Hiền và một số tác giả ( NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh)
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương( NXB Giáo dục-
2001)
6. Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường (ĐHSP Huế 2002)
7.Tạp chí Văn học và tuổi trẻ
PHỤ LỤCSKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 35
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
PHẦN A. MỞ ĐẦU Trang
I. Đặt vấn đề 1
1. Thực trạng của vấn đề 1
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới 2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
II. Phương pháp tiến hành 2
1.Cơ sở lý luận và thực tiễn 3
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp 3
PHẦN B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu ( Nêu rõ nhiệm vụ của đề tài) 4
II.Mô tả giải pháp của đề tài
1. Thuyết minh tính mới 4 -20
2. Khả năng áp dụng 20 - 21
3. Lợi ích kinh tế - xã hội 21 - 25
PHẦN C . KẾT LUẬN
- Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp 26
- Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp 26-27
- Đề xuất, kiến nghị 27-28
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 36
www.huongdanvn.comTröông THCS Thò traán Phuø Myõ GV: Nguyeãn Thò Myõ Hieäp
SKKN: Một số bieän phaùp khaéc phuïc tình traïng hoïc sinh hoïc yeáu moân ngöõ vaên Trang 37