Phần 1: NHỮNG TRANH CHẤP, BẤT NG TRONG QUÁ · PDF filehợp với phẩm chất...

45
Các tranh chp bất đồng trong hoạt động xut nhp khu và cách gii quyết 1 Phn 1: NHNG TRANH CHP, BT ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH THC HIN HỢP ĐỒNG XUT NHP KHU HÀNG HÓA Trong quá trình thc hin hợp đồng xut nhp khu có thxy ra nhng tranh chp, bất đồng sau: 1.1 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến vic thc hin hợp đồng của người bán: Người bán không cung cp hàng hóa hoc cung cp hàng hóa không phù hp vi quy định ca hợp đồng mua bán mà đôi bên đã ký kết hoc cung cp hàng hóa không đúng với smong đợi của người mua. 1.1.1 Tranh chp vnghĩa vụ giao hàng: Người bán giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm, thiếu slượng,không đúng chất lượng không đúng tên gọi, quy cách, chng loi ,hoc không giao hàng…) Vslượng: Người bán phi giao hàng phù hp vi hợp đồng vmt slượng. Như vậy, người bán bcoi là vi phm hợp đồng khi chgiao mt slượng hàng hóa thc tế ít hơn số lượng quy định. Người mua có quyn tchi phần dư ra khi người bán giao vượt quá slượng. - Trường hợp đối tượng ca hợp đồng là nhng hàng hóa cá biệt, hàng đặc định hoc các mt hàng slượng nhvới đơn vị đo là cái, chiếc…như máy móc thiết b, ô tô, xe gắn máy,…-> người bán buc phi tuân thđúng số lượng trong hợp đồng. - Đối tượng ca hợp đồng là các mặt hàng đồng loi mà slượng được xác định bằng các đơn vị đo trọng lượng, khối lượng, dung tích như tấn, t, mét khối như ngũ cốc, nguyên vt liệu,…và hợp đồng thường quy định mt slượng phng chng -> người bán có quyn giao vi slượng chênh lch trong tldung sai quy định.

Transcript of Phần 1: NHỮNG TRANH CHẤP, BẤT NG TRONG QUÁ · PDF filehợp với phẩm chất...

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

1

Phần 1: NHỮNG TRANH CHẤP, BẤT ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẤU HÀNG HÓA

Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu có thể xảy ra những tranh chấp,

bất đồng sau:

1.1 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện hợp đồng của người

bán:

Người bán không cung cấp hàng hóa hoặc cung cấp hàng hóa không phù hợp với quy

định của hợp đồng mua bán mà đôi bên đã ký kết hoặc cung cấp hàng hóa không

đúng với sự mong đợi của người mua.

1.1.1 Tranh chấp về nghĩa vụ giao hàng:

Người bán giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm, thiếu số lượng,không đúng chất

lượng không đúng tên gọi, quy cách, chủng loại ,hoặc không giao hàng…)

Về số lượng:

Người bán phải giao hàng phù hợp với hợp đồng về mặt số lượng. Như vậy,

người bán bị coi là vi phạm hợp đồng khi chỉ giao một số lượng hàng hóa

thực tế ít hơn số lượng quy định.

Người mua có quyền từ chối phần dư ra khi người bán giao vượt quá số

lượng.

- Trường hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa cá biệt, hàng đặc

định hoặc các mặt hàng số lượng nhỏ với đơn vị đo là cái, chiếc…như máy

móc thiết bị, ô tô, xe gắn máy,…-> người bán buộc phải tuân thủ đúng số

lượng trong hợp đồng.

- Đối tượng của hợp đồng là các mặt hàng đồng loại mà số lượng được xác

định bằng các đơn vị đo trọng lượng, khối lượng, dung tích như tấn, tạ,

mét khối như ngũ cốc, nguyên vật liệu,…và hợp đồng thường quy định

một số lượng phỏng chừng -> người bán có quyền giao với số lượng chênh

lệch trong tỷ lệ dung sai quy định.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

2

Ví dụ 1:

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM

Các bên:

Nguyên đơn: Người mua – Cuba

Bị đơn: Người bán – Trung Quốc

Tóm tắt vụ việc:

25/12/2006: Ký hợp đồng mua bán với các điều kiện sau:

- Hàng hóa: 19.500 bộ quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả

khác nhau

- Điều kiện giao hàng: FOB (cảng Trung Quốc)

- Tổng trị giá hợp đồng: 404.415 USD

- Phương thức đóng gói: hộp giấy

- Giao hàng vào tháng 6/2007

- Số lượng giao: 900 hộp giấy bốc lên tàu của Cuba

Điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: quy định rõ quyền

của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hóa.

Các tình tiết:

Tại cảng đến Havana, người mua xác nhận có 1 số thùng có trọng lượng

không đủ. Tuy nhiên, người mua vẫn vận chuyển số hàng trên vào kho và nhờ

Cơ quan giám định tại Cuba .

Sau khi kiểm định, cơ quan này đã xác nhận như sau:

Thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định ( trong tổng số

300 thùng) theo vận đơn B/L 52, hóa đơn SUL 30047.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

3

Thiếu 1.845 quần/áo trong 61 thùng hàng theo B/L 53, hóa đơn SUL

30048

Người bán đã không chấp nhận thỏa thuận đàm phán khi người mua yêu cầu.

Cho nên, người mua đã khởi kiện người bán phải chịu trách nhiệm cho số

hàng thiếu & yêu cầu được bồi thường.

Lập luận của bị đơn:

Điều 14: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Số lượng và

khối lượng của hàng hóa được xác định theo vận đơn đường biển.

Điều 15: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Đơn vị khối

lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hóa cung cấp phụ thuộc vào

các tài liệu của bên bán.

Bị đơn dựa theo các quy định tại điều 14 ở trên nói rằng: sau khi hàng

được bốc lên tàu, đã nhận được vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành

xác nhận là hàng hóa hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hóa đơn và

bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn.

Bị đơn cho rằng: nếu xảy ra tình trạng thiếu hàng trầm trọng như Nguyên

đơn biện luận thì lúc đó chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng đã bị mở, và

như thế thì thuyền trưởng đã không ký vận đơn sạch.

Bị đơn cũng biện luận rằng : Nguyên đơn cũng đã xác nhận các thùng hàng

vẫn hợp lệ khi được chuyển đến.

Bên cạnh đó, Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định

hàng hóa để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có

nhiều thứ khác không phải là hàng hóa.

Thêm nữa, bị đơn cho rằng: hàng hóa được ký theo điều kiện FOB thì theo

quy định của Incoterms 2000, một khi hàng được chuyển qua lan can tàu

tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hóa thì

người mua phải chịu.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

4

Bị đơn cũng dựa vào điều 15 ở trên lập luận: bên bán đã cung cấp tài liệu

để chứng minh số hàng được giao phù hợp với các quy định của hợp đồng

và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao.

Phán quyết của trọng tài:

Cũng chiếu theo điều 14: các điều kiện chung về giao hàng ở trên, nhưng

trọng tài lập luận rằng: mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng

lượng của hàng hóa nhưng không ghi rõ số hàng trong từng thùng hoặc khối

lượng của mỗi thùng hàng.

Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này

còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi

rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới

được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước

khi số hàng này được bốc lên tàu.

Ủy ban trọng tài cũng chiếu theo điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng

trong hợp đồng đã ký kết có qui định rõ quyền của các bên được khiếu nại về

việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng

này.

Về tiền phạt:

- Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD - khoản tiền đã

trả cho số hàng thiếu

- 180 USD phí giám định.

- Bị đơn chịu phí trọng tài.

Về chất lượng :

Tranh chấp giữa người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa

các thương nhân với nhau do sản phẩm, hàng hoá không phù hợp với tiêu

chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất

lượng trong hợp đồng.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

5

Tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và

các bên có liên quan do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây

thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường.

Người bán phải có nghĩa vụ giao hàng phù hợp với phẩm chất quy định trong hợp

đồng.

Nếu là hàng đặc định thì phải giao hàng có phẩm chất hoàn toàn phù hợp với

quy định của hợp đồng -> sự khác biệt về phẩm chất đều bị coi là vi phạm

hợp đồng.

Trường hợp người bán giao hàng có khuyết tật -> người mua có quyền đòi bồi

thường bằng hiện vật bằng cách thay thế hàng hóa mới hoặc sữa chữa khuyết

tật.

Nếu là hàng đồng loại thì tùy thuộc các chỉ tiêu chất lượng trong hợp đồng để

xét xem người bán có giao hàng đúng chất lượng hay không.

Tranh chấp có thể phát sinh trong các trường hợp sau:

Khi người bán cung cấp hàng có sự sai biệt về mặt phẩm chất so với quy định

trong hợp đồng mà sự sai biệt đó làm cho người mua không thể sử dụng hàng

hóa theo mục đích đã định.

Ngược lại, sự sai biệt đó vẫn cho phép người mua sử dụng được hàng hóa theo

mục đích đã định nhưng hiệu quả không cao hoặc không làm thay đổi tính chất

cơ bản của hàng hóa vẫn có thể coi như phù hợp với hợp đồng nhưng đồng thời

người mua sẽ đòi hỏi người bán phải giảm giá cả lại lô hàng đã giao cho phù

hợp với phẩm chất thực tế của hàng hóa -> từ đó nảy sinh tranh chấp giữa

người mua và người bán.

Trong nghĩa vụ giao hàng của người bán, còn phải kể đến việc kiểm tra về sự

phù hợp về phẩm chất và số lượng của hàng hóa thực tế đã giao với các quy định

của hợp đồng.

Kết quả kiểm tra thường được thể hiện qua “ Giấy chứng nhận phẩm chất và

số lượng” được coi là có giá trị pháp lý khi nó phản ánh rõ ràng, trung thực

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

6

hàng giao thực tế, được xác định bởi tổ chức kiểm tra giám định có thẩm

quyền và việc kiểm tra được tiến hành đúng thời gian, địa điểm, nội dung và

phương pháp do hợp đồng quy định.

Giấy chứng nhận sự phù hợp thường có 2 loại:

- Giấy chứng nhận sự phù hợp không có tính chất quyết định (không có giá

trị pháp lý cuối cùng). Trong hợp đồng giữa người bán và người mua đã

ký kết chỉ quy định việc kiểm tra phẩm chất ở nơi đi do cơ quan X tiến

hành -> trường hợp này người bán chưa hết trách nhiệm về sự phù hợp

của hàng hóa ở nơi đến -> người mua có quyền bác bỏ giấy chứng nhận

đó.

- Giấy chứng nhận về sự phù hợp có tính chất quyết định ( có giá trị pháp

lý cuối cùng). Điều này phải được thể hiện trong hợp đồng và khi đó giấy

chứng nhận này ràng buộc trách nhiệm của cả hai bên. Người xuất khẩu

thì muốn việc kiểm tra ở nơi đi có tính quyết định. Khi đó, người xuất

khẩu có thể hết trách nhiệm về sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Cách

quy định này đương nhiên có lợi cho người bán, vì hàng hoá trong mua

bán quốc tế thường phải vận chuyển dài ngày, qua nhiều vùng khí hậu

khác nhau nên rất dễ bị tổn thất.

Tuy vậy, sự miễn trách của người bán về sự phù hợp này cũng có tính chất

tương đối. Người nhập khẩu vẫn có quyền chứng minh ngược lại khi thấy có sự

man trá hay thông đồng với cơ quan giám định của người bán, quá trình kiểm

tra có khuyết điểm, nội dung giấy chứng nhận không rõ ràng.

Người nhập khẩu, ngược lại, muốn việc kiểm tra sự phù hợp ở nơi đến có tính

quyết định. Bởi vì khi đó, ở mức độ nhất định người bán phải có trách nhiệm về

sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Người nhập khẩu yên tâm hơn về quá trình

vận chuyển và độ chính xác của việc kiểm tra ở nước mình. Ý chí của hai bên về

vấn đề này không giống nhau nên cũng có thể sẽ có tranh chấp, bất đồng xảy

ra, nhất là khi trong hợp đồng không quy định rõ ràng về giá trị của giấy chứng

nhận phẩm chất.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

7

Ví dụ 2:

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CHÈ

Các bên:

Nguyên đơn : Người mua - Ba Lan

Bị đơn : Người bán - Việt Nam

Tóm tắt vụ việc:

Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau :

Hàng hóa : 11 MT chè đen loại D và 10.5 MT chè đen loại PS

Tiêu chuẩn hàng : Thủy phần: tối đa 9,0%, Tro: tối đa 6,5%, Tạp

chất: tối đa: 0,3%

Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng)

Tổng trị giá hợp đồng : 21,695 USD

Điều 175 Luật Thương mại Việt Nam quy định: “ Hàng được giám định theo

thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá, trong trường hợp

Hợp đồng không có quy định thì các bên có quyền lựa chọn tổ chức giám

định.”

Tình tiết vụ án:

Căn cứ theo điều 13 của hợp đồng, bị đơn đã mời Vinacontrol giám định từ

ngày 24/3 -> 01/4/2008 và cấp chứng thư vào ngày 01/4/2008

01/04/2008 : Hàng được gửi từ Hải Phòng đi Gdynia. Tại cảng đến Gdynia,

Nguyên đơn đã nhờ SGS tại Ba Lan giám định. Tuy nhiên, việc giám định

được thực hiện sau khi hàng đã được dỡ khỏi tàu 6 tháng.Theo chứng thư

giám định của SGS tại Ba Lan cấp ngày 12/10/2008, thì kết quả giám định là:

- 10,5 MT chè đen loại PS đạt yêu cầu quy định của hợp đồng

- 11 MT chè đen loại D thì: Thủy phần: 8%, Ferromagnetic ( tạp chất

chứa sắt từ tính) : 6,05%/kg, Tro không tan trong nước: 11,14%.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

8

- Do hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao nên

đã không được phép nhập vào Ba Lan do không thể dùng vào mục đích

thực phẩm

27/07/2008: Nguyên đơn gửi đơn khiếu nại bị đơn yêu cầu hoàn trả lại

toàn bộ số tiền của 11 MT chè đen loại D cùng các chi phí liên quan nhưng Bị

đơn từ chối mọi trách nhiệm liên quan.

Lập luận của bị đơn

- Theo điều 17 hợp đồng đã ký kết, bị đơn đã không chấp nhận kết quả đã

giám định của trạm vệ sinh dịch tễ tỉnh Gdynia – một tổ chức không phải

cơ quan giám định độc lập.

- Chè đen là hàng nông sản có tính hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu,

trong khi đó kết quả giám định của SGS lại dựa trên mẫu lấy ở lô hàng để

quá lâu (hơn 6 tháng)

- Hàng đã được kiểm tra và cấp chứng nhận phù hợp với hợp đồng bởi

Vinacontrol – một tổ chức giám định độc lập, được chỉ định theo điều 13

của Hợp đồng.

- Chè có hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao: là

hai tiêu chí không được các bên thoả thuận, cam kết trong hợp đồng.

Trên cơ sở đó bị đơn đã bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn

Phán quyết của trọng tài:

1. Về hiệu lực của các văn bản xác định chất lượng giao hàng

- Căn cứ Theo điều 175 Luật thương mại VN, Nguyên đơn đã làm đúng

nghĩa vụ của người mua theo thông lệ quốc tế và phù hợp với Hợp đồng đã

được ký kết vì hợp đồng không quy định cụ thể về việc giám định hàng tại

cảng bốc hàng là cảng cuối cùng -> Bị đơn không thể không thừa nhận giá

trị pháp lý cũng như hiệu lực của biên bản của SGS cấp.

- Bị đơn cũng không thể viện vào lý do chè đen là mặt hàng nông sản có tính

hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu, bởi vì cho dù có để lâu hơn nữa (

thậm chí là hơn 6 tháng) thì nguyên nhân mà lô hàng chè đen loại D mà

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

9

Hải quan Ba Lan không cho phép nhập là do trong chè có hàm lượng tạp

chất sắt từ tính và tro không tan trong nước quá cao, không thể đưa vào sử

dụng làm thực phẩm (đồ uống ) cho con người được.

- Giấy chứng nhận Vinacontrol đưa ra chỉ nêu chung chung là hàng phù hợp

với hợp đồng, không phân tích về chỉ tiêu phẩm chất hàng như hợp đồng

hay theo tiêu chuẩn Việt Nam đã quy định theo Quyết định 1343/TM-PC

của Bộ trưởng bộ Thương mại Việt Nam.

- Vinacontrol đã gửi cho Hội đồng Trọng tài văn bản giải trình về phẩm chất

lô chè liên quan đến chứng thư giám định do cơ quan này cấp, trong đó,

khẳng định rõ rằng chính Vinacontrol cũng đã lưu ý với bị đơn về hàm

lượng sắt của lô chè loại D cao hơn mức bình thưòng và Bị đơn đã trả lời

sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này nếu bị khiếu kiện.

2. Về yêu cầu bồi thường của nguyên đơn

- Nguyên đơn thiếu sự kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng: chưa kiểm

tra được chất lượng, và tính chuẩn mực của giấy chứng nhận chất lượng, số

lượng của Vinacontrol mà đã mở L/C -> nguyên đơn cũng phải chia sẻ

phần thiệt hại.

- Trong các khoản mục yêu cầu bồi thường, có 1 số khoản nguyên đơn

không tính được chi phí bằng con số cụ thể -> hội đồng trọng tài không

chấp nhận.

Trọng tài quyết định:

- Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc giao hàng không phù hợp với

tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam đối với chè đen loại D.

- Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền là 8.778 USD tiền

hàng

- 1.850 USD tiền cước phí từ Hải Phòng đến Gdynia.

- Phí trọng tài bị đơn phải chịu.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

10

1.1.2 Tranh chấp về nghĩa vụ cung cấp chứng từ hàng hóa

Chứng từ hàng hoá có tác dụng nói rõ đặc điểm về giá trị chất lượng và số

lượng của hàng hoá. Những chứng từ này do người bán xuất trình và người

mua sẽ trả tiền khi nhận được chúng. Những chứng từ chủ yếu mà người

bán phải có nghĩa vụ giao cho người mua thường là hoá đơn thương mại,

phiếu đóng gói, giấy chứng nhận số lượng, giấy chứng nhận chất lượng, vận

đơn, các chứng từ khác như hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm

dịch, ….

Trong số các chứng từ nói trên, thì vận đơn là một chứng từ rất quan trọng,

chứng từ này do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng (thường là

người bán) và người này phải gửi nó cho người mua để nhận hàng. Thông

thường sau khi gửi hàng, người bán bắt buộc phải gửi vận đơn gốc cho

người mua để người mua có thể kịp thời đi nhận hàng.

Việc gửi, giao chứng từ hàng hoá chậm, đặc biệt là vận đơn, hay gửi thiếu

chứng từ sẽ gây trở ngại cho người mua trong việc nhận hàng và phân phối

hàng hoá, gây thiệt hại cho người mua -> trong trường hợp này sẽ dẫn đến

tranh chấp giữa hai bên người bán và người mua.

1.1.3 Tranh chấp về điều khoản giá:

Điều khoản giá là một trong những điều khoản quan trọng trong hợp đồng.

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà đối tượng hợp đồng là những

mặt hàng có giá cả biến động mạnh với xu hướng khó nắm bắt, hoặc những

hợp đồng có thời hạn thực hiện dài, giao hàng nhiều lần hoặc những hợp đồng

mà thời điểm giao hàng chưa được xác định cụ thể. Cho nên, việc “thả nổi”

giá hàng hóa theo sự tăng, giảm của giá thị trường là rất phổ biến.

Ví dụ như: xăng, dầu, sắt, thép, vật liệu xây dựng, xi măng, cà phê, cao

su, hồ tiêu, gas, gạo, thủy sản, ngũ cốc, lúa mì, các mặt hàng nông sản

khác,… là những mặt hàng có giá cả luôn biến động với giá thị trường

thế giới.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

11

Những hợp đồng XNK cho các mặt hàng này thường được ký kết với điều

khoản giá mở, đáp ứng yêu cầu về giá linh hoạt theo diễn biến thị trường. Về

mặt pháp lý, sự linh hoạt này giúp đảm bảo sự cân bằng cho hợp đồng, hạn

chế thiệt thòi quá mức cho một bên khi thị trường biến động, hạn chế tranh

chấp phát sinh.

Các doanh nghiệp thường có thói quen xác định một mức giá cố định ngay

khi ký kết hợp đồng. Đây là quan điểm về mặt pháp lý, chưa phù hợp với

pháp luật hợp đồng hiện đại và về mặt thực tiễn, chưa phù hợp với diễn biến

“nóng” của giá hàng hóa trên thị trường hiện nay. Công ước Vienna và pháp

luật hợp đồng của các nước đều chấp nhận hiệu lực của các hợp đồng có giá

mở, trong đó, điều khoản giá được dẫn chiếu đến giá thị trường.

Vì vậy, trong mua bán quốc tế các hàng hóa mà giá cả biến động mạnh, các

bên nên đưa vào hợp đồng điều khoản về điều chỉnh giá cả để tránh thiệt hại

cho người bán và người mua cũng như các tranh tranh chấp có thể xảy ra.

Cần chú ý, trong một số tình huống cụ thể phải quy định điều khoản giá hợp

lý và linh hoạt. Nên đưa ra mức giá chính xác ban đầu để có thể tính toán lợi

nhuận, nhưng không quên có sự điều chỉnh giá theo sự biến động của thị

trường.

Dù trong hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá thì khi giá của hàng

hóa biến động quá lớn, các bên nên có thiện chí đàm phán lại giá nhằm xác

định lại một mức giá hợp lý, cho phép đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giữ

được mối quan hệ làm ăn lâu dài.

nếu không, khi giá thay đổi sẽ rất dễ dẫn đến tranh chấp.

Ví dụ 3:

TRANH CHẤP VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ CỦA HÀNG HOÁ

Các bên:

Nguyên đơn: Người mua Pháp (NM)

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

12

Bị đơn: Người bán Đức (NB)

Tóm tắt vụ việc:

- Người mua gửi một đơn chào mua các linh kiện điện tử đến người bán với

quy định giá mua do người mua đưa ra có thể được xem xét theo sự suy

giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng.

- Nhận được đơn chào mua, người bán trả lời là giá cần được xem xét theo

cả sự tăng lên và sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng.

Người mua đã đồng ý về việc này.

- Hàng hóa được người bán gửi cho người mua theo đúng đơn chào mua,

nhưng người mua lại đơn phương hủy đơn chào mua của mình và không

nhận hàng.

- Người mua cho rằng điều khoản giá quy định như vậy là chưa đủ rõ ràng

để hình thành hợp đồng giữa hai bên.

Phán quyết của toà án:

- Vì Pháp và Đức là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng

CISG để giải quyết tranh chấp.

- Tòa Phúc thẩm Paris trích dẫn điều 14 khoản 1 CISG, theo đó “Một đề

nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là

một chào hàng nếu nó đủ chính xác và chỉ rõ ý chí của người chào hàng

muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó.

Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng

và giá cả một cách rõ ràng hoặc ngầm định hoặc quy định các yếu tố để

xác định số lượng và giá cả”.

- Đơn chào hàng của người mua đã ghi rõ: giá của hàng hóa được xác định

theo sự suy giảm của giá thị trường. Người mua đã đưa ra căn cứ để xác

định giá, đó là tham chiếu đến giá thị trường vào một thời điểm cụ thể là

thời điểm giao hàng. Như vậy, theo điều 14 khoản 1 CISG, điều khoản giá

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

13

với giá được xác định theo sự tăng giảm của giá thị trường là đã đủ chính

xác, rõ ràng.

Với những lập luận đó, tòa án cho rằng hợp đồng đã thành lập giữa

hai bên, người mua không thể hủy chào hàng. Người mua phải nhận

hàng và thanh toán tiền hàng.

Ví dụ 4:

TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn: Người mua Ai Cập (NM)

Bị đơn: Người bán Nam Tư (NB)

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 20/8/1987, ký kết hợp đồng mua bán

- Hàng hoá: thép thanh

- Số lượng: 80.000 tấn

- Giá trung bình: 190 USD/tấn

-Thời hạn giao hàng: trong vòng ngày 15/12/1987 đến ngày 15/12/1988

“Quyền mua đặc biệt” cho phép NM tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000

tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm

nhất là vào ngày 15/12 năm 1987

- Mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31/12/1987

- Ngày 26/11/1987, NM đã thông báo cho NB rằng họ sẽ thực hiện “Quyền

mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoản từ 15 đến 31/12/1987.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

14

Do giá thép thế giới tăng, theo đề nghị của NB, cuộc họp thảo luận về mức giá

bổ sung, nhưng NM không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.

Trong văn thư đề ngày 31/12/1987, NM nhấn mạnh rằng NB đã vi phạm hợp

đồng và nếu cho đến ngày 6/1/1988 NB vẫn không chấp thuận, thì NM sẽ buộc NB

phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây

ra. Thời hạn này sau đó đã được NM kéo dài tới ngày 25/1/1988

Ngày 26/1/1988, NM đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty

Rumani với giá 216 USD/tấn.

NM đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài

Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi NB bồi thường thiệt hại do chênh

lệch giá.

Phán quyết của trọng tài:

1. Luật áp dụng:

Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

(ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở

Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ

áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực

(ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào

ngày 20 tháng 8 năm 1987

Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có

trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp

đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).

Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà

bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào

hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.

Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

15

mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ước này

qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật

của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn

đặt hàng.

Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là

Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở Nam Tư

theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là

luật áp dụng

2. Trở ngại của Hợp đồng:

Giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng

13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá

bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt"

13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.

Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình

thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế,

thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét.

Và NB đã không viện dẫn điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng

mạnh.

Theo 2 của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978, NB không thể từ chối

"quyền mua đặc biệt" với lý do tăng giá thép

3. Mua hàng thay thế

- NB ý kiến rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của NM

không thể coi là việc mua hàng thay thế vì NB không được thông báo trước về ý định

mua hàng cụ thể của NM

Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt

hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

16

chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi

việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng

nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

- NB cho rằng giá thép trên thị trường thị trường thế giới (cùng loại) đã tăng ít

nhất tới 215 USD/tấn, NM lẽ ra phải mua thép của NB, việc NM trên thực tế đã mua

thép từ Rumani với giá cao hơn giá NB chào bán là hết sức vô lý

NM khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50

USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của

họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt

hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn

- NB cho rằng NM phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn

hàng của Nam Tư

NM không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ

việc mua hàng thay thế.

- NB cho rằng thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với

loại thép mà NB cung cấp

Đối với NM thì chất lượng thép là tương đương.

Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này

NM hoàn toàn có quyền yêu cầu NB bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua

thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của NB theo “Quyền

mua đặc biệt”. Tuy nhiên, NM chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà

họ phải chịu, được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và

giá mua thực tế mà NM đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã

trừ đi khoản tiền mà NM tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn).

Như vậy NB sẽ phải bồi thường cho NM một khoản tiền là 80.000 x 24 USD

= 1.920.000 USD

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

17

1.1.4 Tranh chấp phát sinh do người bán không thực hiện nghĩa vụ sau bán

hàng:

Sau khi giao hàng cho người mua, người bán vẫn có thể phải thực hiện một số

nghĩa vụ như bảo hành, hướng dẫn sử dụng hàng hoá, vận hành máy móc thiết

bị,…. Điều khoản bảo hành có vai trò rất quan trọng trong các hợp đồng mua

bán máy móc thiết bị toàn bộ, hàng điện tử, ô tô... Trong các điều khoản này

thường quy định người bán có nghĩa vụ đảm bảo khả năng làm việc bình

thường của hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định phù hợp với tiêu

chuẩn kỹ thuật đã thoả thuận trong hợp đồng.

Như vậy, đối với những hợp đồng mua bán có quy định vấn đề bảo hành,

hướng dẫn sử dụng sau bán hàng,… mà người bán lại không thực hiện tốt các

nghĩa vụ này thì người mua có quyền phản đối, yêu cầu người bán phải làm

tròn nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi cho mình, khi đó sẽ tránh khỏi tranh chấp

giữa các bên.

Ngoài các tranh chấp nói trên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của người

bán còn có thể phát sinh các tranh chấp liên quan đến việc chuyển giao quyền

sở hữu hàng hoá, việc cung cấp bao bì và ký mã hiệu hàng hoá,…..

1.2 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của người

mua:

- Việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ là nghĩa vụ của người bán mà

còn là nghĩa vụ của người mua. Nghĩa là người mua cũng phải thực hiện đúng và

đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng:

- Nghĩa vụ của người mua trong một hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm nghĩa vụ

thanh toán tiền hàng và nghĩa vụ nhận hàng.

- Những tranh chấp, bất đồng có thể nảy sinh khi người mua không thực hiện các

nghĩa vụ như đã cam kết với người bán trong hợp đồng sau đây:

Người mua từ chối nhận hàng, từ chối thanh toán mặc dù hàng hóa được

người bán cung cấp hoàn toàn phù hợp với những quy định trong hợp đồng

mua bán.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

18

Người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đúng với những thỏa

thuận của đôi bên trong hợp đồng mua bán:

Người mua nhận hàng nhưng không thanh toán tiền hàng (trong các phương

thức thanh toán clean collection, D/A, chuyển tiền trả chậm,…..

Người mua nhận hàng nhưng chậm trễ, dây dưa trong khâu thanh toán, mở

L/C chậm, chuyển tiền chậm so với quy định của hợp đồng.

Thanh toán không đúng loại tiền, số tiền theo quy định,….

1.2.1 Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng:

a. Trường hợp quy định thanh toán bằng L/C

Việc người mua mở L/C là điều kiện tiên quyết để người bán thi hành nghĩa

vụ giao hàng.

Khi người bán thông báo cho người mua biết là hàng đã sẵn sàng để giao thì

người mua phải mở L/C trong thời hạn đã quy định trong hợp đồng.

Việc người mua không mở L/C, mở không kịp thời hoặc số tiền ghi trên L/C

không đúng số tiền quy định trong hợp đồng, hoặc không mở L/C quy định tại

ngân hàng đã thoả thuận đều là những hành vi vi phạm nghĩa vụ mà hợp đồng

đã quy định và dẫn đến khiếu nại của người bán.

Việc không mở L/C sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho người bán trong trường

hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hoá tươi sống, hàng chóng bị hư

hỏng như rau quả tươi, thịt gia súc... Người bán sẽ phải bỏ thêm các chi phí

khác như thuê kho lạnh để bảo quản, tái chế hàng hoá,…. -> những trường

hợp như vậy chắc chắn sẽ gây ra tranh chấp.

Ví dụ 5:

TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn : Người bán – Quốc tịch Áo

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

19

Bị đơn : Người mua – Quốc tịch Việt Nam

Tóm tắt vụ việc:

26/06/1999 ký Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau :

Hàng hóa : 1500 MT thép tấm cán nóng

Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng)

Tổng trị giá hợp đồng : 370.880 USD

Giao hàng vào tháng 7 năm 1999

Thanh toán bằng L/C không hủy ngang có xác nhận (ngày mở chậm nhất là

ngày 30/06/1999)

Điều 7 Hợp đồng quy định rằng trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc

nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với ngày hợp đồng quy định thì bên

bán/bên mua có quyền hủy hợp đồng, bên vi phạm phải trả một khoản tiền

phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia.

30/06/1999 (ngày cuối cùng để mở L/C) :

Bên mua đã gửi văn thư cho bên bán trình bày khó khăn khách quan và đề

nghị xin hủy Hợp đồng (Khó khăn khách quan là bên mua chưa trả hết tiền nợ

cho ngân hàng nên ngân hàng không mở L/C theo đề nghị của bên mua).

03/07/1999 (3 ngày sau khi hết thời hạn mở L/C) :

Bên bán đã telex cho bên mua đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng

6 năm 1999 (until June 7th 1999).

Bên mua đã nhận được bản Telex này.

20 phút sau khi Telex bên bán phát hiện có sự sai sót về ngày tháng, nên đã

sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho bên mua. Nhưng

sau này bên mua nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của bên bán.

09/08/1999 bên bán vẫn không nhận được L/C cũng như không nhận được tiền phạt

từ phía bên mua. Do vậy, bên bán đã kiện bên mua ra trọng tài yêu cầu bên mua nộp

phạt.

Phán quyết của trọng tài:

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

20

1.Về việc không mở L/C của bên bán:

Đến ngày 09/08/1999 bên mua vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7

Hợp đồng bên mua bị coi là không mở L/C, tức là bên mua đã vi phạm nghĩa vụ hợp

đồng.

Lý do khách quan mà bên mua nêu không được Uỷ ban trọng tài công nhận là

chính đáng, không phải là căn cứ miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8

của Hợp đồng cũng như Luật Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều

không qui định việc gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc

không thực hiện hợp đồng.

Ngày 30/06/1999 bên mua gửi văn thư đề nghị xin hủy hợp đồng vì khó khăn

về tài chính, nhưng bên bán không có trả lời gì về vấn đề này. Sự im lặng của bên

bán không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do vậy các bên phải tiếp tục thực hiện hợp

đồng.

Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì bên mua phải

chịu trách nhiệm trước bên bán.

2.Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của bên bán:

Khi nhận được Telex thông báo gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày

07/06/1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng bên mua không hề có phản ứng gì,

không điện hỏi bên bán tại sao lại như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho

việc gia hạn mở L/C. Như vậy chứng tỏ bên mua không quan tâm đến việc gia hạn

mở L/C của bên bán.

Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc việc gia

hạn lùi về quá khứ của bên bán không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C,

mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do bên mua gặp khó khăn về tài

chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy bên mua không được miễn trách

nhiệm do không mở L/C.

3. Về tiền phạt:

Theo Điều 7 Hợp đồng bên mua có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng

cho bên bán, cụ thể là:

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

21

5% x 370.880 USD = 18.544 USD

Bên mua lập luận rằng việc bên mua xin hủy hợp đồng, không mở L/C không

hề gây thiệt hại nào cho bên bán. Lập luận này không được Uỷ ban trọng tài công

nhận, bởi vì bên bán chỉ đòi tiền phạt theo quy định của hợp đồng chứ không đòi bồi

thường thiệt hại. Đây là tiền phạt do không thực hiện hợp đồng cho dù không gây

thiệt hại cho bên kia. Từ đó Uỷ ban trọng tài quyết định bên mua phải nộp cho bên

bán 18.544 USD tiền phạt.

b. Trường hợp quy định thanh toán bằng phương thức nhờ thu kèm chứng từ

Nghĩa vụ của người mua là phải trả tiền hoặc phải chấp nhận trả tiền hối phiếu

do người bán ký phát -> nếu người mua chậm trả tiền hối phiếu hoặc không

chấp nhận trả tiền hối phiếu sẽ dẫn đến tranh chấp giữa các bên.

Việc chậm thanh toán tiền hàng của người mua sẽ gây thiệt hại cho người bán.

Thực tiễn mua bán hàng hoá quốc tế cho thấy trong nhiều hợp đồng xuất nhập

khẩu thường áp dụng cách thanh toán: người mua trả trước cho người bán

bằng tiền mặt, hay chuyển khoản 30% giá trị hợp đồng trong vòng 30 ngày

trước ngày giao hàng, 70% còn lại sẽ được thanh toán bằng phương thức D/P

ngay sau khi giao hàng. Khi người mua xuất trình đủ các chứng từ cần thiết

theo quy định của hợp đồng tại ngân hàng nhờ thu, nhưng người mua thường

dây dưa 30 - 40 ngày sau mới chịu trả tiền -> việc người mua dây dưa chậm

thanh toán như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bán và do vậy sẽ

không tránh khỏi tranh chấp xung quanh vấn đề này.

1.2.2 Nghĩa vụ nhận hàng

Nếu người mua tiếp nhận hàng hóa không kịp thời và đầy đủ có thể gây tổn

thất cho người bán:

- Trong trường hợp bán hàng theo điều kiện FOB, sau khi nhận được thông

báo của người bán là hàng đã sẵn sàng để giao lên tàu thì người mua

không dược chậm trễ thuê và chỉ định tàu đến cảng nhận hàng quy định.

Mọi sự chậm trễ hay không thực hiện việc thuê và chỉ định tàu sẽ gây ra

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

22

cho người bán các thiệt hại như chi phí lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng

hoá và các chi phí liên quan khác.

- Trong các hợp đồng ký giữa Việt Nam và các nước Đông Âu và Liên Xô

cũ, tại các điều khoản về giao hàng và vận tải thường quy định là sau khi

nhận được thông báo của người bán là hàng đã được chuẩn bị sẵn sàng để

giao thì trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo này thì người

mua phải gửi cho người bán một lệnh giao hàng bằng văn bản, trong đó có

ghi rõ địa chỉ cụ thể của người nhận hàng, cảng đến ... Người bán chỉ được

phép giao hàng sau khi nhận được lệnh giao hàng của người mua -> trong

trường hợp người mua không gửi lệnh giao hàng hoặc chậm trễ trong viẹc

gửi lệnh giao hàng thì sẽ gây thiệt hại cho người bán, từ đó tranh chấp sẽ

phát sinh.

Ngoài những vấn đề nêu trên, các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của người

mua còn có thể phát sinh trong các trường hợp như khi người mua mở L/C

không đúng các quy định của hợp đồng, người mua tự ý yêu cầu ngân hàng

ngừng thanh toán,….

Như vậy các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán

hàng hoá quốc tế là rất đa dạng và phức tạp.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm được những phương pháp giải quyết tranh chấp đó

một cách có hiệu quả nhất.

Phần 2: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

2.1 Các phương pháp giải quyết tranh chấp không mang tính tài phán

2.1.1 Hòa giải

Hòa giải có 3 đặc điểm sau:

Một là, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

23

Hai là, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh

chấp thỏa thuận với nhau về GQTC. Điều này làm cho hòa giải có sự khác biệt với

thương lượng. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ

chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người này phải có vị trí độc lập với các

bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ ba làm trung

gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán

quyết.

Ba là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do chính các

bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hòa giải

không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự

nguyện của các bên.

Như vậy, có thể hiểu hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải

quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ

thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung

gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của

trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.

Hình thức giải quyết này có nhiều ưu điểm:

Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp,

Các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa

giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian

như trong thủ tục tố tụng tại tòa án.

Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan

hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Hòa giải là mong muốn của các bên

dàn xếp vụ việc sao cho không có bên nào bị thua cuộc, không dẫn đến tình

trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại tòa án.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

24

Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp

kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính,… ). Vì

rằng, các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc

tìm kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp.

Nhưng trong thực tiễn kiện tụng tại tòa thì các bên không có quyền lựa chọn

cán bộ giải quyết trừ một số trường hợp phải thay đổi hội đồng xét xử theo

quy định của pháp luật. Một điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh

cũng rất quan tâm là khi giải quyết bằng con đường này các bên kiểm soát

được các tài liệu chứng cứ có liên quan (những bí mật kinh doanh) trong khi

giải quyết tại tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực

hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.

Bên cạnh những ưu điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa

giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định:

Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các

bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt

bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính

bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án. Nếu hoà giải

bất thành, thì lợi thế về chi phí thấp trở thành gánh nặng bổ sung cho các bên

tranh chấp.

Người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoản việc thực hiện

nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi bị vi phạm

mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn khởi kiện.

Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.

Các hình thức hòa giải:

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

25

Tự hòa giải: là do các bên tranh chấp tự bàn bạc để đi đến thống nhất phương

án giải quyết tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp đỡ của đệ tam

nhân.

Hòa giải qua trung gian: là việc các bên tranh chấp tiến hành hòa giải với nhau

dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ của người thứ ba (người trung gian hòa giải). Trung

gian hòa giải có thể là cá nhân, tổ chức hay Tòa án do các bên tranh chấp chọn

lựa hoặc do pháp luật qui định.

Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được các bên tiến hành trước

khi dưa đơn khởi kiện ra Tòa án hay trọng tài.

Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa án, trọng

tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện của một

bên (hòa giải dưới sự trợ giúp của Tòa án hay trọng tài). Tòa án, trọng tài sẽ ra

quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên và quyết định này có giá trị

cưỡng chế thi hành đối với các bên.

Ngoài ra, hòa giải còn được phân thành 2 phương thức với định nghĩa như

sau:

Hòa giải vụ việc: việc tổ chức và giám sát hòa giải do các bên tự quy định,

không có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức nào.

Hòa giải quy chế: do 1 tổ chức hoặc 1 trung tâm chuyên nghiệp giám sát tố

tụng trọng tài tiến hành.

2.1.2 Trung gian

Cũng tương tự như phương pháp hòa giải là có 2 phương thức: trung gian vụ

việc và trung gian quy chế. Nhưng khác với hòa giải ở nghĩa vụ cơ bản của người thứ

ba. Đó là:

- Hòa giải viên đưa ra lời khuyên bằng lời hoặc bằng văn bản.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

26

- Người trung gian: thiên về thuyết phục các bên để tìm một phương pháp giải

quyết tranh chấp một cách thân thiên.

2.1.3 Tố tụng mini

Phương thức này thường được sử dụng ở Mỹ. Về cơ bản phương thức này

không khác với hòa giải hoặc trung gian nhưng chỉ khác là phương thức này áp dụng

chỉ sau khi đã thu thập chứng cứ và thảo luận tranh tụng giữa các bên.

2.1.4 Xem xét tranh chấp/ Ủy ban phân xử tranh chấp

Phương pháp này dùng phổ biến trong các hợp đồng xây dựng cơ sở hạ tầng,

các hợp đồng xây dựng quốc tế lớn.

2.2 Các phương pháp giải quyết tranh chấp mang tính tài phán

2.2.1 Giải quyết tranh chấp, bất đồng thông qua các tòa án quốc gia

Các tòa án quốc gia chủ yếu thực hiện việc tố tụng – tòa án quốc gia được yêu

cầu xét xử vụ kiện và đưa ra phán quyết trên cơ sở nội dung vụ kiện. Bên cạnh đó tòa

án còn cung cấp những dịch vụ hữu ích, như: ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp

và tạm thời, chỉ định chuyên gia kỹ thuật trong phạm vi quyền hạn nhất định, tiến

hành quy trình hòa giải- được coi như là bước khởi đầu trước lúc tố tụng thực chất.

Tố tụng tòa án:

Tố tụng là phương pháp chủ yếu được sử dụng tại các tòa án. Thông thường,

các bên sẽ chọn tòa án tại quốc gia của bên nguyên đơn hoặc bị đơn. Tuy nhiên điều

khoản này không phổ biến trong các hợp đồng ngoại thương vì lý do không bên nào

muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại tòa án quốc gia của bên kia. Do đó, trong nhiều

trường hợp, các bên không quy định bất kỳ điều khoản nào về giải quyết tranh chấp.

Khi tranh chấp phát sinh sẽ phải quyết định tòa án nào có thẩm quyền bằng cách hoặc

áp dụng các quy tắc xung đột pháp luật về thẩm quyền pháp lý hoặc xem xét các hiệp

định song phương và đa phương có thể áp dụng. Khi đó, một tòa án quốc gia có thể

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

27

khước từ thẩm quyền xét xử và trên cơ sở các quy tắc xung đột pháp luật của quốc

gia đó chuyển vụ việc cho tòa án của một quốc gia khác, sau khi bên bị đơn kiện về

việc tòa án đó không có thẩm quyền gây ra tốn kém.

Trong thực tế, các bên không muốn giải quyết tranh chấp tại tòa án của nước

thứ ba vì những lý do:

- Sẽ không phù hợp khi đưa tranh chấp được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp

luật này cho các thẩm phán quốc gia khác giải quyết khi mà trình độ chuyên

môn và kiến thức của họ có nguyền gốc từ một hệ thống pháp luật khác.

- Nếu giải quyết tranh chấp bằng tòa án của bên thứ ba thì hợp đồng và các văn

bản có liên quan sẽ phải dịch sang ngôn ngữ làm việc của thẩm phán và cuộc

thảo luận cũng phải tiến hành ngôn ngữ của nước thứ ba, điều đó gây bất tiện

cho các bên và người tham gia tố tụng.

- Nếu chọn tòa án có thẩm quyền của một quốc gia chưa tham gia vào hiệp định

song phương hoặc đa phương về công nhận hoặc thi hành các phán quyết của

tòa án, các bên rất khó để thực hiện phán quyết đã ban hành.

- Các bên cần nhớ rằng tố tụng tòa án được tổ chức công khai.

Các giai đoạn tố tụng tại tòa án:

- Khởi kiện

- Hòa giải

- Xét xử sơ thẩm

- Xét xử phúc thẩm

- Thi hành án

Các biện pháp khẩn cấp và tạm thời của tòa án quốc gia

Các bên liên quan trong tranh chấp có thể yêu cầu tòa án áp dụng một số biện

pháp tạm thời hoặc khẩn cấp nhằm:

- Đảm bảo đối tượng của vụ tranh chấp không bị thay đổi trước khi phán quyết

cuối cùng về nội dung vụ kiện được ban hành hoặc thi hành.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

28

- Quy định cách hành xử các bên và quan hệ giữa họ trong quá trình tố tụng.

- Lưu giữ và quản lý các sổ sách, chứng từ liên quan đến tranh chấp.

Giám định kỹ thuật theo lệnh của tòa án:

Giám định kỹ thuật là một trong những biện pháp khẩn cấp mà tòa án có thể

áp dụng, được thực hiện bởi các chuyên gia, theo yêu cầu của tòa án họ sẽ tiến hành

giám định và đưa ra ý kiến về tình trạng của đối tượng tranh chấp (hàng hóa, công

trình,…)

Hòa giải bởi các tòa án:

Hòa giải là một trong những biện pháp tòa án áp dụng để giải quyết tranh

chấp. Trường hợp hòa giải thành công, thỏa thuận giải quyết được thành lập thành

văn bản và có thể có tính chất như một phán quyết ràng buộc.

2.2.2 Giải quyết các tranh chấp, bất đồng thông qua trọng tài thương mại quốc

tế:

Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp tư, dựa trên thỏa thuận

giữa các bên. Cần lưu ý quy tắc cơ bản “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương

pháp trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.

Các bước tố tụng trọng tài:

- Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, chỉ định trọng tài viên và nộp phí trọng tài

- Trung tâm trọng tài kiểm tra sơ bộ về vấn đề thẩm quyền, thụ lý đơn kiện và

gửi thông báo cho Bị đơn

- Bị đơn nộp bản tự bảo về và chỉ định trọng tài viên

- Hội đồng trọng tài sẽ được hai trọng tài viên của Nguyên đơn và Bị đơn bầu

hoặc do trung tâm trọng tài chỉ định.

- Hội đồng trọng tài xem xét giải quyết vụ tranh chấp

- Hội đồng trọng tài triệu tập các bên đến phiên họp giải quyết vụ tranh chấp

- Công bố quyết định trọng tài

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

29

Phân loại

Có nhiều loại trọng tài, trong đó có hai loại cơ bản: trọng tài quy chế và trọng

tài vụ việc.

2.2.2.1 Trọng tài quy chế:

Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được thành lập dưới dạng các trung

tâm, tổ chức hoặc hiệp hội, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định. Hầu hết các

tổ chức trọng tài đều có quy tắc tố tụng trọng tài riêng, một số danh sách trọng tài

viên riêng.

Trong trọng tài quy chế các bên nhờ một trung tâm trọng tài quy chế giám sát

tố tụng theo quy tắc tố tụng trọng tài của tổ chức đó. Mức độ giám sát tố tụng trọng

tài của các tổ chức trọng tài khác nhau cũng khác nhau, có: trọng tài được giám sát

một phần và trọng tài được giám sát toàn bộ.

Lựa chọn trọng tài quy chế thích hợp:

Để nhận được sự trợ giúp của tổ chức trọng tài quy chế, các bên phải thỏa

thuận bằng điều khoản trong hợp đồng. Điều quan trọng là tên của tổ chức trọng

tài phải được nêu chính xác và đầy đủ. Một số tổ chức trọng tài quy chế nổi tiếng:

- Tòa án trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (International Court

of Arbitration of the International Chamber of Commerce) với trụ sở đặt tại

Paris.

- Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (International Centre of

Settlement of Investment Disputes) được Ngân hàng thế giới thành lập và trụ

sở đặt tại Washington D.C.

- Trung tâm giải quyết tranh chấp quốc tế của Hiệp hội trọng tài Mỹ

(International Center of Dispute resolution of the American Arbitration

Association) với trụ sở đặt tại New York.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

30

- Trung tâm Trung gian và Trọng tài của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới

(Arbitration and Mediation Center of the World Interllectual Property

Organization) trụ sở đặt tại Genevo, Thụy Sĩ.

2.2.2.2 Trọng tài vụ việc:

Trọng tài vụ việc có thể được hiểu là hình thức trọng tài được lập theo yêu cầu

của các đương sự để giải quyết tranh cấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó được

giải quyết. Do các bên không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một

tổ chức trọng tài thường trực, họ có thể tự do quy định quy tắc tố tụng riêng. Khi gặp

khó khăn, đôi khi các bên có thể nhờ một tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp.

Do các bên tự tiến hành trọng tài vụ việc nên họ phải thỏa thuận trực tiếp vấn đề thù

lao và chi phí với các trọng tài viên.

Cần lưu ý: Địa điểm tổ chức trọng tài vụ việc có vai trò đặc biêt quan trọng,

bởi hầu hất các khó khăn liên quan đến tiến hành trọng tài vụ việc sẽ phải giải quyết

theo luật quốc gia ở nơi tiến hành trọng tài.

2.2.3 Ưu nhược điểm cơ bản của tòa án và trọng tài:

Tòa án (TA) Trọng tài (TT)

Tính trung

thực

Phán quyết của TA thường bị

kháng cáo

Đa số phán quyết của TT không bi

kháng cáo

Sự công

nhận quốc

tế

Phán quyết của TA thường rất

khó đạt được sự công nhận

quốc tế

Phán quyết trọng tài đạt được sự

công nhận quốc tế thông qua một

loạt các công ước quốc tế, đặc biệt là

công ước New York 1958 về Công

nhận và Thi hành quyết định Trọng

tài nước ngoài.

Tính trung Mặc dù thẩm phán quốc gia Các bên có thể bình đẳng về: nơi

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

31

lập có thể khách quan, họ vẫn

buộc phải sử dụng ngôn ngữ

và áp dụng quy tắc tố tụng của

quốc gia họ và TA thường

cùng quốc tịch với một bên

tiến hành TT; ngôn ngữ sử dụng,

quy tắc tố tụng, quốc tịch của trọng

tài viên và đại diện pháp lý.

Năng lực

chuyên

môn và sự

kế tục của

các cá

nhân

Không phải tất cả các thẩm

phán đều có chuyên môn về

ngoại thương. Trong những vụ

kiện kéo dài, có thể có nhiều

thẩm phán kế tiếp nhau xét xử

vụ kiện

Các bên có thể lựa chọn TT viên có

trình độ chuyên môn cao, miễn là

các TT độc lập. Thông thường, TT

viên theo vụ kiện từ đầu đến cuối.

Tính linh

hoạt

TA quốc gia bị ràng buộc

nghiêm ngặt bởi các quy tắc tố

tụng quốc gia

Quy tắc tố tụng quy định linh hoạt

việc xác định thủ tục TT, thời hạn,

địa điểm.

Các biện

pháp tạm

thời

TA có thể ra lệnh cưỡng chế

khẩn cấp thậm chí trước khi

bắt đầu tố tụng thực chất

TA cũng có thể ra lệnh cưỡng

chế đối với bên thứ ba

Trước khi hội đồng TT được thành

lập, các bên phải nhận lệnh tạm thời

thông qua TA. Khi hội đồng TT

được thành lập, các bên vẫn nhận

lệnh của TA để ngăn chặn hành vi

sai phạm. Theo luật của nhiều nước

hội đồng TT cũng được quyền áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Tuy nhiên TT viên không thể ra lệnh

cho bên thứ ba

Nhân

chứng

Các TA , đại diện chủ quyền

quốc gia có quyền triệu tập

TT viên không có quyền triệu tập

bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

32

bên thứ ba và nhân chứng ra

trước tòa

của họ và không có quyền yêu cầu

một bên phải mời nhân chứng đến

Tốc độ Có thể bị trị hoãn và kéo dài.

Các bên có thể gặp phải một

loạt sự kháng các kéo dài và

tốn kém

TT nhanh hơn TA, TT có thể tiến

hành rất nhanh (vài tuần hoặc vài

tháng)

Tính bí

mật

Công khai Không công khai

Phí tổn Các bên không phải trả thù lao

cho thẩm phán, ngoài ra phí

hành chính rất hợp lý tuy

nhiên, chủ yếu là thù lao của

các luật sư.

Các bên phải trả trước các khoản thù

lao, chi phí đi lại, ăn ở cho TT viên,

cũng như chi phí hành chính cho tổ

chức trọng tài quy chế.

Phần 3: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI VIỆT NAM

3.1 Tòa án kinh tế

3.1.1 Chức năng:

Xét xử các vụ án kinh tế theo quy định của Pháp luật.

Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

3.1.2 Cơ cấu tổ chức

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

33

(Nguồn: website Tòa án nhân dân tối cao

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/2185103/cctc/tandtc )

3.1.3 Thủ tục xét xử các vụ án kinh tế:

Khởi kiện vụ án: Người khởi kiện làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án kinh tế

trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật có

quy định khác.

Thụ lý đơn: Tòa án sẽ thụ lý vụ án với các điều kiện sau:

Hòa giải thành

Hòa giải không thành Xét xử

Khởi kiện Thụ lý đơn Chuẩn bị xét xử - Tiến hành hòa giải

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

34

Người khởi kiện có quyền khởi kiện.

Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Đơn khởi kiện được gửi đúng thời hiệu khởi kiện.

Nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí.

Sự việc chưa được quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực của tòa án

hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.

Sự việc không được các bên thỏa thuận trước là giải quyết theo thủ tục trọng

tài.

Nếu Toà án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, thì thông báo ngay

cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày được thông báo, nguyên đơn

phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Toà án vào sổ thụ lý vụ

án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí.

Chuẩn bị xét xử:

Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo cho

bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện.

Nếu xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để

làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng không có nghĩa vụ phải điều tra.

Toà án tiến hành hoà giải.

Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì trong

vòng 10 ngày nếu không có bất kỳ thay đổi nào thì Toà án lập Biên bản hòa

giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và

quyết định này có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp các đương sự không thể thoả thuận với nhau được, thì Toà

án lập Biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Sau quá trình chuẩn bị xét xử (thời hạn 40 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án), thẩm

phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:

Đưa vụ án ra xét xử;

Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;

Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

35

Đối với các vụ án phức tạp, thì thời hạn nói trên không quá 60 ngày.

Mở phiên tòa xét xử: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra

xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng, thì thời hạn

đó không quá 20 ngày.

3.2 Trung Tâm Trọng Tài Quốc Tế Việt Nam (Vietnam International

Arbitration Center – VIAC)

Giới thiệu:

Trụ sở: 9 Đào Duy Anh, Hà Nội

ĐT: 84.4.574 2021/574 4001

VIAC với tính chất là một tổ chức trọng tài phi Chính phủ bên cạnh Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

VIAC có thẩm quyền:

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ quốc tế: hợp đồng mua bán

ngoại thương, hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế,

chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế khi có đủ các điều

kiện sau:

o Một bên hoặc các bên đương sự là thể nhân hoặc pháp nhân nước

ngoài

o Nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đương sự thoả

thuận đưa vụ kiện ra trước VIAC hoặc có điều ước quốc tế ràng

buộc các bên phải đưa vụ tranh chấp ra trước VIAC

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh trong nước nếu

các đương sự thoả thuận đưa vụ việc đó ra VIAC

Thủ tục xét xử tại VIAC:

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

36

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

37

1. Đơn kiện & Bản tự bảo vệ

Thủ tục tố tụng bắt đầu bằng một đơn kiện do nguyên đơn nộp cho Trung

tâm. Kèm theo đơn kiện phải có thoả thuận trọng tài, các tài liệu, bằng

chứng liên quan. Nội dung chủ yếu của đơn kiện:

a. Ngày tháng năm làm đơn kiện

b. Tên và địa chỉ của các bên

c. Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp

d. Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có

e. Các yêu cầu của Nguyên đơn

f. Trị giá tài sản mà Nguyên đơn yêu cầu nếu có

g. Tên và địa chỉ người được Nguyên đơn chỉ định làm Trọng tài viên

hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

38

VIAC tiếp nhận Hồ sơ đơn kiện: VIAC kiểm tra sơ bộ vế vấn đề thẩm

quyền và yêu cầu Nguyên đơn nộp phí trọng tài (xem biểu phí trọng tài

dưới đây). Khi phí trọng tài đã được nộp đủ và Nguyên đơn hoàn thành

các thủ tục cần thiết, VIAC sẽ chính thức thụ lý vụ kiện và thông báo cho

Bị đơn

Bị đơn nộp Bản tự bảo vệ: Sau khi nhận được Đơn kiện do VIAC gửi, Bị

đơn phải nộp Bản tự bảo vệ cho VIAC. Nội dung chủ yếu:

a. Ngày, tháng, năm

b. Tên và địa chỉ của Bị đơn

c. Cơ sở và chứng cứ bảo vệ nếu có

d. Tên và địa chỉ của người được Bị đơn chỉ định làm Trọng tài viên

hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên

Nếu Bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của VIAC, hoặc

không có thoả thuận trọng tài, hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, hoặc thoả thuận

trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu điều đó trong Bản tự bảo vệ

Bị đơn có thể yêu cầu gia hạn thời hạn nộp Bản tự bảo vệ, tối đa không quá 75

ngày kể từ ngày nhận được Đơn kiện;

Bị đơn có quyền kiện lại Nguyên đơn; Đơn kiện lại phải được nộp cùng thời

điểm nộp Bản tự bảo vệ;

Việc Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ sẽ không ngăn cản các bước tố tụng

trọng tài. Quá trình tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành.

2. Thành lập Hội đồng trọng tài: gồm 3 Trọng tài viên, trừ trường hợp các bên

có thoả thuận Hội đồng trọng tài gồm 1 trọng tài viên.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

39

Chủ tịch Hội đồng trọng tài sẽ do hai Trọng tài viên của Nguyên đơn và Bị đơn

bầu, hoặc do Chủ tịch VIAC chỉ định.

VIAC gửi Hồ sơ vụ kiện cho Hội đồng trọng tài

3. Hội đồng trọng tài nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc:

Hội đồng trọng tài nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc, có thể mời giám định

theo yêu cầu của các bên để làm rõ bản chất vụ việc

4. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp: Khi có đủ điều kiện để giải quyết vụ

tranh chấp, Hội đồng trọng tài quyết định triệu tập các bên tham dự phiên họp

để giải quyết vụ tranh chấp

Thời gian mở phiên họp và cách thức tiến hành phiên họp giải quyết vụ tranh

chấp do Hội đồng trọng tài quyết định.

Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không công khai

5. Phán quyết trọng tài: Sau khi phiên họp giải quyết vụ tranh chấp và quá trình

tố tụng trọng tài kết thúc, Hội đồng trọng tài soạn thảo Phán quyết trọng tài.

Phán quyết trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp giải quyết vụ

tranh chấp hoặc sau đó.

Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và ràng buộc đối với các bên

VIAC gửi Phán quyết trọng tài: Sau khi nhận được Phán quyết trọng tài của

Hội đồng trọng tài, VIAC sẽ gửi phán quyết cho các bên

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

40

Biểu phí Trọng tài Quốc tế Việt Nam

Đơn vị tính: Đồng Việt Nam

Trị giá tranh chấp Phí trọng tài

500.000.000 trở xuống 45.000.000

500.000.001 đến 1.000.000.000

45.000.000 + 7,0% số tiền vượt quá

500.000.000

1.000.000.001 đến 5.000.000.000

80.000.000 + 4,0% số tiền vượt quá

1.000.000.000

5.000.000.001 đến 10.000.000.000

240.000.000 + 2,5% số tiền vượt quá

5.000.000.000

10.000.000.001 đến 50.000.000.000

365.000.000 + 1,5% số tiền vượt quá

10.000.000.000

50.000.000.001 đến

100.000.000.000

965.000.000 + 1,0% số tiền vượt quá

50.000.000.000

100.000.000.001 đến

500.000.000.000

1.465.000.000 + 0,4% số tiền vượt quá

100.000.000.000

500.000.000.001 trở lên

3.065.000.000 + 0,1% số tiền vượt quá

500.000.000.000

http://www.viac.org.vn/vi-VN/Home/quy-trinh-to-tung-93/159/Tom-tat-Quy-trinh-

To-tung.aspx

3.3 Các Trung Tâm Trọng Tài Khác

- Trung tâm Trọng tài Kinh tế Hà Nội

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

41

Trụ sở: 90 Phan Bội Châu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội

ĐT: 84.4. 822 0602

- Trung tâm Trọng tài Kinh tế Thăng Long

Trụ sở: 47 Lê Hồng Phong, quận Ba Đình, Hà Nội

ĐT: 84.4.823 1949

-Trung tâm Trọng tài Kinh tế Bắc Giang

Trụ sở: 65 Nguyễn Văn Cừ, TX Bắc Giang

ĐT: 84.240.773 2740

- Trung tâm Trọng tài Kinh tế Sài Gòn

Trụ sở: 460 Cách Mạng Tháng Tám, P.4, Q. Tân Bình, TP. HCM

ĐT: 84.8.844 6975

- Trung tâm Trọng tài Kinh tế Cần Thơ

Trụ sở: 111 Nguyễn An Ninh, TP Cần Thơ

ĐT: 84.71.825296

Phần 4: NHỮNG BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TRANH CHẤP

4.1 Làm tốt khâu đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu

Cách tốt nhất để ngăn ngừa những bất đồng, tranh chấp trong quá trình tổ chức

thực hiện hợp đồng là thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng tất cả các giai đọa đàm phán như

chuẩn bị đàm phán, tiếp xúc, tiến hành đàm phán, kết thúc đàm phán, và rút kinh

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

42

nghiệm sau đàm phán. Hợp đồng phải được soạn thảo cẩn thận, chứa đựng đầy đủ

các nội dung, các điều kiện và điều khoản cần thiết, các nội dung được trình bày rõ

ràng, đơn giản, chính xác.

Ngược lại, những hợp đồng được đàm phán, soạn thảo vội vã, mang tính hình

thức, đối phó với những điều kiện và điều khoản quá sơ sài hoặc mập mờ, tối nghĩa,

những hợp đồng bị thúc ép ký kết gấp gáp, chủ thể hợp đồng không kịp có thời gian

cân nhắc hay xem xét…chính là mầm mống phát sinh tranh chấp, bất đồng về sau.

Để có những hợp đồng chặt chẽ, các bên mua bán có thể:

- Tham khảo các mẫu hợp đồng mua bán quốc tế của ITC trên các trang như:

http:// www.intracen.org, http://www.iccwbo.org, http://www.jurisint.org

- Nghiên cứu kỹ và vận dụng tốt các điều khoản Incoterms, UCP, URC…Đây

cũng là các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp hữu hiệu.

- Nghiên cứu các quy định của các quốc gia có liên quan đến hợp đồng, ví dụ :

Nghị định số 06/2008/ NĐ-CP ngày 16/01/2008 của chính phủ nước cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động

thương mại, Mục 5 Chương II, Vi phạm quy định về xuất khẩu, nhập khẩu

hàng hóa và dịch vụ liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

- Các bên đối tác phải hiểu nhau và thiện chí với nhau.

4.2 Bàn bạc soạn thảo kỹ những tình huống bất khả kháng, miễn trách, khó

khăn trở ngại dẫn đến phải điều chỉnh, sửa đổi lại hợp đồng.

Trên thực tế, ngay cả những hợp đồng được đàm phán, soạn thảo kỹ lưỡng

nhất cũng không thể lường trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra,bởi vạn vật luôn

biến đổi, tạo ra vô số những rủi ro, bất trắc. Vì vậy một trong những biện pháp ngăn

ngừa tranh chấp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là bàn bạc soạn thảo kỹ

lưỡng những điều khoản bất khả kháng, miễn trách, khó khăn trở ngại trong quá trình

thực hiện hợp đồng.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

43

Mỗi quốc gia đều có những điều khoản quy định về bất khả kháng riêng, ở

một số quốc gia còn quy định những tình huống gặp khó khăn trở ngại. Tuy nhiên,

những quy định này ở các quốc gia khác nhau là khác nhau, nên khi áp dụng các hợp

đồng ngoại thương có thể dẫn đến những bất đồng, trach chấp. Chính vì vậy khi đàm

phán, soạn thảo hợp đồng ngoại thương các bên cần đưa những điều khoản về “ Bất

khả kháng”, “ khó khăn trở ngại” vào hợp đồng. Khi những điều khoản này được

soạn thảo tốt sẽ giúp ngăn ngừa được những bất đồng, tranh chấp hay giúp giả quyết

những bất đồng, tranh chấp một khi chúng phát sinh mà không cần sử dụng tòa án

hay trọng tài.

Ví dụ trong thời gian qua miền Trung có lũ lụt rất nặng, đường xá bị sạt lở,

giao thông bị cản trở. Do đó nhiều doanh nghiệp vận tải không thể không vi phạm

hợp đồng vận chuyển. Điều này kéo theo nhiều doanh nghiệp cũng phải vi phạm hợp

đồng vì không giao được hàng cho bên thứ ba đúng thời hạn, không có nguyên liệu

để sản xuất nên chậm giao hàng. Vì thế đây là những điều kiện bất khả kháng mà đã

được quy định trong hợp đồng thì sẽ tránh được những tranh chấp không cần thiết

Với mục đích giúp các bên mua bán soạn thảo hợp đồng tốt Phòng Thương

mại Quốc tê (ICC) đã soạn ra hai điều khoản : Điều khoản bất khả kháng và Điều

khoản khó khăn trở ngại. Các bên có thể đưa vào hợp đồng nguyên văn điều khoản

bất khả kháng được quy định trong ấn phẩm 421 cua ICC hoặc có thể dẫn chiếu như

sau: “ Điều khoản bất khả kháng của Phòng Thương mại Quốc tế ( ấn phẩm sô 421

của ICC) là một phần của hợp đồng này.”

4.3 Tổ chức quá trình thực hiện hợp đồng một cách có khoa học, hợp lý.

Tổ chức thực hiện hợp đồng là quá trình gồm nhiều bước, nhiều công việc có

liên quan mật thiết với nhau.

Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu bên bán phải tiến hành các công viêc

sau: làm những công việc bước đầu của khâu thanh toán ( tùy theo phương thức đã

chọn), xin giấy phép xuất khẩu ( nếu cần), chuẩn bị hàng hóa để xuất khẩu, thuê tàu,

kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hóa, làm thủ tục hải quan, giao gàng, mua bảo hiểm,

làm thủ tục thahh toán, giải quyết khiếu nại (nếu có), thanh lý hợp đồng

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

44

Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu bên mua phải tiến hành các công việc

sau: xin giấy phép nhập khẩu (nếu cần), thực hiện các công việc bước đầu của khâu

thanh toán, thuê tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, nhận hàng, kiểm tra hàng

hóa, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại hàng hóa nếu bị thiếu hụt hoặc tổn thất (nếu

có), thanh lý hợp đồng.

Nếu các bên liên quan đều nghiêm túc thực hiện quá trình này, thông qua việc

chuẩn bị chu đáo, bố trí công việc, nhân sự, phương tiện… để thực hiện hợp đồng

một cách có khoa học, hợp lý, đồng thời phối hợp chặ chẽ với nhau sẽ giảm được bất

đồng và tranh chấp.

Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Th.S. Kim Ngọc Đạt, 2011, “Quản trị xuất nhập

khẩu”, nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh.

2. “Tòa án nhân dân tối cao”,

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/2185103/cctc/tandtc (ngày truy

cập 09/05/2013)

3. “Tóm tắt quy trình tố tụng”, http://www.viac.org.vn/vi-VN/Home/quy-trinh-

to-tung-93/159/Tom-tat-Quy-trinh-To-tung.aspx (ngày truy cập 10/05/2013)

4. “Ký kết hợp đồng: Linh hoạt điều khoản giá”, http://www.sigb.org.vn/kien-

thuc-kinh-doanh/186-ky-ket-hop-dong-linh-hoat-dieu-khoan-gia.html (ngày

truy cập 07/05/2013)

5. “ 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, http://www.viac.org.vn/vi-

VN/Home/anpham44-107/345/50-phan-quyet-trong-tai-quoc-te-chon-loc.aspx

(ngày truy cập 06/05/2013)

6. Diễn đàn giao nhận và vận tải Việt Nam, http://www.vietship.vn/news/ (ngày

truy cập 07/05/2013)

7. Xuất nhập khẩu Việt Nam, http://xuatnhapkhauvietnam.com/ (ngày truy cập

08/05/2013)

8. Luật thương mại Việt Nam 2005,

http://www.vietlaw.biz/bldisplay/db1/show_tm1.php?doc=865 (ngày truy cập

08/05/2013)