NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII -...
Transcript of NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII -...
VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ THỨ X – NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII
TẬP I
Tác giả: ĐINH GIA KHÁNH –
BÙI DUY TÂN – MAI CAO CHƯƠNG
LỜI NÓI ĐẦU
Mấy chục năm qua, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và được
sự lãnh đạo của Đảng, giới nghiên cứu văn học đã tiếp thu một cách có chọn
lọc những kinh nghiệm và truyền thống của việc nghiên cứu văn học thời
trước để tìm hiểu sự phát triển của văn học Việt Nam.
Trong việc tìm hiểu văn học, trường Đại học tổng hợp đã góp phần vào
nỗ lực chung của các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu, đồng thời
đã dựa vào kết quả của nỗ lực chung ấy để xây dựng bộ Lịch sử văn học Việt
Nam thích hợp với yêu cầu đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học của mình.
Mặc dầu còn những vấn đề phức tạp về mặt xác định tác giả, tác phẩm,
văn bản và niên đại, việc giới thiệu lịch sử văn học viết vẫn cứ thuận lợi hơn
là việc giới thiệu lịch sử văn học truyền miệng. Vì vậy, nếu như trong sách
“Văn học dân gian” (tập I, xuất bản năm 1972; tập II, xuất bản năm 1973),
chúng tôi mới chỉ có thể dành non một phần tư số trang để phác thảo sơ lược
về lịch trình phát triển của văn học dân gian thì từ sách này, chúng tôi sẽ dành
toàn bộ số trang để trình bày lịch sử văn học viết.
Sách này mở đầu các tập giáo trình về lịch sử văn học từ thế kỷ thứ X
đến năm 1930. Vì vậy, phần I của sách sẽ giới thiệu đại cương về mười thế
kỷ của tiến trình văn học viết. Tiếp đó, nội dung chính của sách là lịch sử văn
học viết từ thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ thứ XVIII.
Sách gồm hai tập, tập I kết thúc với thế kỷ thứ XV, tập II mở đầu với thế
kỷ thứ XVI. Sách biên soạn tập thể, do Đinh Gia Khánh làm chủ biên. Sau đây
là sự phân công chấp bút đối với tập I:
Phần I: Mở đầu: Mười thế kỷ của tiến trình văn học viết. ĐINH GIA
KHÁNH
Phần II. Văn học từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV.
1. Sự hình thành và phát triển của nền văn hóa Đại Việt thế kỷ
thứ X đến thế kỷ thứ XIV. ĐINH GIA KHÁNH
2. Văn học đời Lý và những truyền thống của dân tộc. ĐINH GIA
KHÁNH
3. Văn học đời Trần đã phát triển trong hào khí của dân tộc Đại
Việt đang lớn mạnh. ĐINH GIA KHÁNH
4. Học phong Đông Á. ĐINH GIA KHÁNH
5. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo trong văn học đời
Trần. ĐINH GIA KHÁNH
6. Văn tự sự và truyện ký đời Trần. ĐINH GIA KHÁNH
7. Văn thơ nôm đời Trần. ĐINH GIA KHÁNH
Phần III. Văn học thế kỷ thứ XV.
1. Sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của nền văn hóa Đại Việt
trong thế kỷ thứ XV. ĐINH GIA KHÁNH
2. Sự nghiệp sáng tác và trước thuật của thế kỷ thứ XV có ý
nghĩa rất tích cực đối với lịch sử văn hóa Đại Việt. ĐINH GIA
KHÁNH
3. Hai thời kỳ văn học của thế kỷ thứ XV. ĐINH GIA KHÁNH
4. Âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo trong văn học thế kỷ thứ
XV. ĐINH GIA KHÁNH
5. Nguyễn Trãi và tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước
triều đông”. ĐINH GIA KHÁNH
6. Văn học nửa thứ hai thế kỳ thứ XV có tính chất quan phương.
MAI CAO CHƯƠNG
7. Đóng góp đáng kể nhất của nữa thứ hai thế kỷ thứ XV là sự
thúc đẩy bước tiến của văn học chữ nôm. MAI CAO CHƯƠNG
8. Những tác gia tiêu biểu và Lê Thánh tông. MAI CAO
CHƯƠNG
9. Văn tự sự, truyện ký thế kỷ thứ XV. ĐINH GIA KHÁNH
Trong việc biên soạn sách này, nhiêu vấn đề vê nội dung cũng như về
qui cách trình bày đã được lý giải với sự giúp đỡ tận tình của Ban Biên tập
Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, đặc biệt là của các đồng
chí Hoàng Văn Thân và Lương Văn Đang. Nhân đây, chúng tôi xin tỏ lời cảm
tạ chân thành về sự giúp đỡ ấy.
Và chúng tôi rất hoan nghênh mọi ý kiến giúp đỡ của bạn đọc để có thể
ngày càng đáp ứng đầy đủ hơn cho yêu cầu giảng dạy và học tập văn học cổ
(từ thế kỷ thứ X cho đến giữa thế kỷ thứ XVIII) ỏ trường đại học.
Hà Nội, ngày 10-4-1977 Thay mặt các tác giả
Chủ biên: ĐINH GIA KHÁNH
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
MƯỜI THẾ KỶ CỦA TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIẾT
Trong suốt thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc phong
kiến xâm lược, nhân dân ta đã nhiều phen lật đổ chính quyền của bọn đô hộ.
Nhưng chỉ với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 thì mới chấm
dứt được ách thống trị của phong kiến phương Bắc và mở đầu thời kỳ quốc
gia độc lập. Ngô Quyền đã xưng vương và đóng đô ở Cổ Loa, cố đô của An
Dương Vương, biểu hiện ý chí nối liền quốc thống với thời độc lập của nước
Âu Lạc xưa. Tiếp theo đó, Đinh Bộ Lĩnh đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (về sau
được Lý Thánh tông đổi là Đại Việt) biểu hiện niềm tự hào về tổ quốc, về dân
tộc.
Khối cộng đồng của người Việt, trước kia vốn đã khá chặt chẽ từ thời
kỳ Văn Lang và Âu Lạc, lại càng được củng cố sau cuộc đấu tranh lâu dài để
đuổi giặc ngoại xâm. Vì vậy mà sau khi giành được độc lập thì ý thức về một
đất nước thống nhất đã thể hiện khá rõ rệt. Ngô Quyền sớm mất đi trong khi
chính quyền trung ương còn non trẻ. Bọn lãnh chúa phong kiến ở các địa
phương bèn thừa cơ nổi dậy, gây ra cuộc loạn Mười hai sứ quân. Nhưng
năm 968, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân cả nước. Đinh Bộ Lĩnh
đã nhanh chóng khắc phục nạn cát cứ, thu giang sơn về một mối.
Ngọn cờ độc lập dân tộc mà Ngô Quyền đã dựng lên, ngọn cờ thống
nhất đất nước mà Đinh Bộ Lĩnh đã giương cao, nhân dân ta quyết chí giữ
vững. Và năm 981, Lê Hoàn đã dựa vào ý chí ấy mà chiến thắng giặc Tống
xâm lược. Với sự nghiệp của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, thế kỷ thứ
X đã mở đầu lịch sử quốc gia độc lập một cách hào hùng như thế đó. Và ý chí
bảo vệ nền độc lập dân tộc, củng cố mối thống nhất đất nước sẽ trở thành
truyền thống ngày càng vững chắc hơn của ông cha ta.
Là người lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giải phóng, giai cấp
phong kiến dân tộc đã lập nên Nhà nước phong kiến Đại Việt. Nhà nước
phong kiến ấy đã đứng vững và phát triển được trên cơ sở biết tuân theo ý
chí của nhân dân mà đồng thời cũng là tuân theo yêu cầu của lịch sử: tổ chức
việc bảo vệ độc lập, củng cố thống nhất và xây dựng đất nước. Nhà nước ấy
sẽ đi dần đến chỗ suy vi khi không làm như thế. Nhà nước ấy sẽ nhanh chóng
sụp đổ khi nó phản bội những quyền lợi cao cả của dân tộc. Từ thế kỷ thứ X
đến thế kỷ thứ XV, phần lớn những người lãnh đạo Nhà nước đã biết dựa
vào sức mạnh của nhân đân để bảo vệ nền độc lập của dân tộc và mối thống
nhất của tổ quốc, mở mang đất đai, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa. Sự
nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần
Nhân tông, Trần Quốc Tuấn, Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi v.v… mà hiển hách thì
chính là vì biết dựa vào sức dân để ít hoặc nhiều thực hiện nguyện vọng của
dân. Họ đều là những đại biểu xứng đáng của khí phách dân tộc trong nước
Đại Việt đang không ngừng lớn mạnh.
Nhà nước phong kiến thống trị nhân dân vì quyền lợi của giai cấp
phong kiến. Cho nên giữa Nhà nước ấy và nhân dân bao giờ mà chẳng có
mâu thuẫn. Mâu thuẫn ấy và những mâu thuẫn thường xảy ra trong nội bộ
giai cấp phong kiến, trong nội bộ tập đoàn cầm quyền cộng với những lý do
lịch sử cụ thể khác đã khiến cho các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê
kế tiếp nhau hết hưng rồi lại đến vong. Nhưng bất kể những sự hưng vong
của từng triều đại, từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV, Nhà nước phong kiến
nói chung vẫn còn trong thời thịnh, vì nó vẫn đáp ứng được những nguyện
vọng dân tộc cơ bản của nhân dân, giữ vai trò tích cực đối với lịch sử. Từ thế
kỷ thứ XVI trở đi, giai cấp phong kiến dần dần suy thoái. Các tập đoàn thống
trị tranh quyền đoạt lợi, chém giết lẫn nhau, chia xẻ đất nước và gây ra nội
chiến phong kiến. Nhân dân bị bóc lột ngày càng tàn tệ hơn, và đối lập ngày
càng gay gắt hơn với Nhà nước phong kiến. Sự phản kháng của nhân dân khi
thì âm ĩ, khi thì bùng nổ thành những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Trong các thế
kỷ thứ XVI, thứ XVII và thứ XVIII, vua Lê, vua Mạc, chúa Trịnh, chúa Nguyễn
cũng có những cố gắng nhằm chấn chỉnh chế độ ổn định tình hình đất nước.
Nhưng đó đều là những hành động vô ích. Bởi vì nhìn chung thì Nhà nước
phong kiến đã hết vai trò tích cực đối với lịch sử dân tộc. Bằng những hành
động xấu xa như cắt nộp đất đai cho phong kiến nước ngoài, gây nội chiến và
chia xé tổ quốc, các tập đoàn phong kiến đã chống lại những nguyện vọng
dân tộc cơ bản của nhân dân.
Tuy nhiên, dầu chế độ phong kiến đã trở nên một chướng ngại đối với
lịch sử thì dân tộc ta vẫn cứ tiến lên với sức sống mãnh liệt. Do công sức của
nhân dân và những nhà văn hóa dân tộc mà đất nước vẫn được mở mang
thêm, kinh tế và văn hóa vẫn phát triển mạnh. Và đến cuối thế kỷ thứ XVIII,
cuộc đấu tranh của nhân dân vì lẽ sống còn của dân tộc đạt tới đỉnh cao là
phong trào Tây Sơn. Người anh hùng “áo vải cờ đào” Nguyễn Huệ đã lật đổ
tất cả các tập đoàn phong kiến, thống nhất được tổ quốc, đập tan giặc Xiêm
do Nguyễn Ánh rước vào miền Nam và giặc Thanh do Lê Duy Kỳ rước vào
miền Bắc, bảo vệ được độc lập, mở ra những triển vọng tốt đẹp cho dân tộc.
Nhưng sau khi Nguyễn Huệ tạ thế, tập đoàn phong kiến phản động và ngoan
cố nhất đứng đầu là Nguyễn Ánh dựa vào sự giúp đỡ của bọn thực dân Pháp,
lợi dụng những sai lầm của nhà Tây Sơn dưới triều Cảnh Thịnh (Nguyễn
Quang Toản), đã giành lại địa vị thống trị, lập nên nhà Nguyễn. Về nguồn gốc
và về bản chất, nhà Nguyễn đối lập gay gắt với lợi ích của dân tộc. Nó dựng
nên thể chế phong kiến phản động và ngoan cố nhất trong lịch sử, thống trị
nhân dân một cách hết sức tàn bạo, kìm hãm bước tiến lên của dân tộc. Cho
nên nó bị nhân dân quyết liệt chống lại ngay từ đầu và chỉ trong bốn đời vua
Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức mà đã có 500 cuộc khởi nghĩa lớn
nhỏ chống lại triều đình. Và triều Nguyễn vì phản động nhất, tàn bạo nhất mà
đã kém cỏi nhất, bất lực nhất trong các triều vua. Đến khi đế quốc Pháp xâm
lược nước ta, nhà Nguyễn không dám dựa vào nhân dân, cho nên không
chống nổi giặc. Nó đã lùi bước dần và cuối cùng quì gối đầu hàng, quay gót
làm tay sai cho giặc, chống lại các phong trào kháng chiến. Nhưng nhân dân
ta không bao giờ chịu đầu hàng. Và những phát súng xâm lược đầu tiên bắn
vào Đà Nẵng năm 1958 đã làm bùng lên ngọn lửa căm thù và khơi lên ngọn
trào diệt giặc cứu nước của toàn thể dân tộc. Cuộc đấu tranh giải phóng từ
nửa cuối thế kỷ thứ XIX đến hết nửa đầu thế kỷ thứ XX đã trải qua nhiều giai
đoạn phức tạp, nhiều gian khổ hy sinh, nhưng ngày càng tiến lên với những
thắng lợi to lớn.
Những truyền thống đẹp, những kinh nghiệm tốt của hàng nghìn năm
đấu tranh để bảo vệ và xây dựng đất nước là vốn liếng quí báu, là sức mạnh
to lớn góp phần vào cuộc đấu tranh từ hơn một thế kỷ nay vì độc lập, vì tự do.
Những truyền thống ấy là nhân tố quan trọng của những thắng lợi vĩ đại đã
giành được vì mục đích cao cả ấy.
***
Trong số những truyền thống đẹp và những kinh nghiệm tốt của hàng
nghìn năm đấu tranh, phải kể đến những truyền thống và kinh nghiệm trong
việc xây dựng, bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc.
Chế độ phong kiến thì trước thịnh, sau suy, nhưng trong mười thế kỷ
của nước Đại Việt độc lập, nền văn hóa dân tộc trước sau vẫn không ngừng
phát triển và ngày càng có những thành tựu rực rỡ hơn.
Nền văn hóa dân tộc ở nước ta nảy sinh trên cơ sở rất lâu đời của văn
hóa dân gian. Bắt nguồn từ thời Văn Lang, Âu Lạc, trải qua thời chống ách
Bắc thuộc, nền văn hóa dân tộc đã thu hút những thành tựu văn hóa của Hán
tộc và các tộc thiểu số ở Trung Quốc. Đồng thời nó cũng đồng hóa những
thành tựu văn hóa của các nước láng giềng khác, đặc biệt là văn hóa Phật
giáo của Ấn Độ và các nước phương nam. Những sự tiếp thu và đồng hóa
ảnh hưởng nước ngoài như thế không làm mất bản sắc dân tộc mà chỉ làm
cho bản sắc ấy càng thêm phong phú. Từ thế kỷ thứ X trở đi, văn hóa dân tộc
phát triển mạnh mẽ trong một đất nước đã giành được độc lập. Tận dụng
những điều kiện mà mặt tích cực trong chính sách của các triều Lý, triều Trần
và triều Lê sơ có thể tạo nên, nhân dân ta đã phục hưng những giá trị văn
hóa bị chìm đắm hoặc bị vùi lấp trong thời Bắc thuộc. Giai cấp phong kiến dân
tộc trong thời kỳ này cố gắng giữ tính độc lập về mặt văn hóa của nước Đại
Việt trong quan hệ với Nhà nước phong kiến phương Bắc, mà muốn thế thì
tất nhiên không có cách nào khác là phải sử dụng những thành tựu của văn
hóa dân gian trong việc xây dựng văn hóa tinh thần của chế độ. Và nhìn
chung, trong thời kỳ này sự phát triển của văn hóa dân tộc thể hiện quá trình
đi tới ý thức ngày càng sâu sắc hơn về dân tộc Đại Việt, về nước Đại Việt,
hậu thân của nước Văn Lang và nước Âu Lạc xưa. Từ thế kỷ thứ XVI trở đi,
văn hóa dân tộc phát triển mạnh mẽ trong hoàn cảnh nhân dân ngày càng
quyết liệt chống nội chiến phong kiến, chống ách áp bức của giai cấp phong
kiến. Đến thế kỷ thứ XVIII trong cao trào nhân dân lật đổ các tập đoàn phong
kiến, thống nhất đất nước, đánh thắng ngoại xâm thì văn hóa dân tộc đạt tới
mức phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Sang thế kỷ thứ XIX, đà phát triển
ấy không yếu đi, mặc dầu có những chính sách bảo thủ, phản động của nhà
Nguyễn. Và nền văn hóa dân tộc, với truyền thống tốt đẹp và sinh lực dồi dào,
chính là một sức mạnh của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ
thù xâm lược mới là đế quốc tư bản.
Nhìn chung, lịch sử văn hóa dân tộc trước hết là quá trình nâng lên
bình diện dân tộc những thành tựu của văn hóa dân gian vốn có màu sắc địa
phương phong phú, hay nói một cách khác thì đó chính là quá trình dân tộc
hóa những thành tựu của văn hóa dân gian. Lịch sử văn hóa dân tộc cũng lại
là quá trình tiếp thu một cách chủ động những thành tựu văn hóa của nước
ngoài và đồng hóa những thành tựu này vì những yêu cầu của đời sống dân
tộc.
Văn học dân tộc, bộ phận quan trọng, có thể nói là bộ phận trung tâm
của văn hóa dân tộc, cũng đã hình thành trong một quá trình tương tự.
Quá trình hình thành ấy chính là quá trình xây dựng văn học viết bằng
cách dựa vào những truyền thống và thành tựu của văn hóa, văn học dân
gian, và trên cơ sở ấy tiếp thu một cách chủ động ảnh hưởng văn hóa, văn
học nước ngoài. Đó cũng lại là quá trình tác động qua lại giữa văn học dân
gian và văn học viết với tính cách là hai dòng văn học hỗ trợ và bổ sung cho
nhau trong nền văn học dân tộc.
***
Văn học truyền miệng dân gian, ở nước ta cũng như ở bất cứ nước
nào, có từ rất lâu trước văn học viết. Trong mấy nghìn năm lịch sử, văn học
dân gian luôn luôn là tấm gương phản chiếu một cách trung thành cuộc đấu
tranh thiên nhiên và cuộc đấu tranh xã hội của nhân dân mà cũng lại là một
sức mạnh góp phần thúc đẩy nhân dân trong các cuộc đấu tranh ấy. Từ
những truyện Sơn Tinh, Thánh Dóng có gốc gác xa xưa rất lâu trước công
nguyên, đến những truyện Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ xuất hiện vào cuối thời kỳ
phong kiến, từ những câu hò lao động và những bài hát nghề nghiệp đến
những bài dân ca trữ tình và những bài vè trào phúng, v.v… văn học dân gian
chứa đựng những truyền thống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta, biểu
hiện cốt cách của dân tộc ta với những nét độc đáo, biểu hiện tâm hồn của
dân tộc ta với nhiều khía cạnh phong phú.
Văn học dân gian là một kho tàng chẳng những quí báu về chất mà lại
còn phong phú về lượng. Sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân gian ở
nước ta có cơ sở từ những điều kiện lịch sử nhất định. Xã hội nước ta đã
chuyển dần sang chế độ phong kiến từ những thế kỷ đầu công nguyên.
Nhưng sự chuyển hóa ấy, vì nhiều lý do, không có nghĩa là hoàn toàn phá vỡ
những cơ cấu của xã hội cộng sản nguyên thủy. Công xã thị tộc tan rã lại
được thay thế bằng công xã nông thôn. Công xã nông thôn, làng quê, là một
đơn vị cơ sở của xã hội phong kiến, nhưng vẫn giữ lại rất lâu nhiều di tích của
các thiết chế trong đời sống tập thể thời công xã thị tộc. Công xã nông thôn,
trong khi lệ thuộc vào chính quyền phong kiến, vẫn ít nhiều có tính chất tự trị.
Làng quê ngày xưa bảo tồn sau lũy tre xanh kín đáo nhiều thiết chế vững
chắc, không thể phá vỡ được: “phép vua thua lệ làng”. Lệ làng dần dần không
tránh khỏi bị phong kiến hóa sâu sắc, và bị bọn hào trưởng ở địa phương lợi
dụng. Tuy nhiên, các làng quê, ở những mức độ khác nhau, vẫn duy trì được
những tục lệ phản ánh tinh thần tập thể và dân chủ của nông dân, di sản quí
báu còn lại từ thời kỳ công xã thị tộc. Những tổ chức phường họ, phe, giáp,
những cách bầu bán, phân bố theo suất đinh, rồi đến những hội hè, đình đám
mà mọi người đêu được tham gia, v.v… ít nhiều vẫn mang tinh thần tập thể
và dân chủ. Những tổ chức và sinh hoạt ấy là điều kiện tốt cho sự phát triển
của Văn nghệ dân gian. Sáng tác dân gian chỉ nở rộ trong hoàn cảnh sinh
hoạt tập thể, khi mọi người xướng họa với nhau, kích thích lẫn nhau và cảm
hứng của người này khêu gợi cảm hứng của người khác, khi các bên thi đua
giật giải của làng xã và sự nỗ lực của phe này thúc đẩy sự nỗ lực của phe kia.
Sáng tác dân gian chỉ nở rộ trong tinh thần dân chủ, khi quần chúng nhân dân
được phát huy năng khiếu của mình, được bộc lộ tâm tư thầm kín của mình,
được phát biểu nguyện vọng tha thiết của mình, khi mọi người cảm thấy bình
đẳng với nhau và tôn trọng lẫn nhau. Hoàn cảnh ấy, tinh thần ấy, ít hoặc
nhiều, và tùy nơi, tùy lúc, vẫn thường có ở nông thôn nước ta ngày trước,
trong làng quê ngày trước, mặc dầu chế độ phong kiến có đem lại nhiều hạn
chế đến đâu đi nữa. Sự phát triển của văn học dân gian ở nước ta không thể
tách rời điều kiện lịch sử trong đó nhân dân, tuy bị thống trị, nhưng vẫn có
những sinh hoạt mang tính chất tập thể và dân chủ, tuy bị áp bức nhưng vẫn
giữ được tính năng động và tính sáng tạo của mình. Sự phát triển ấy lại cũng
không thể tách rời điêu kiện lịch sử trong đó nhân dân buộc phải phát huy tính
năng động, tính sáng tạo thì mới có thể đảm bảo cho nhu cầu văn hóa văn
nghệ của mình. Cho đến trước cách mạng tháng Tám, hơn 90% nhân dân ta
bị mù chữ. Trong hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, văn học viết của
trí thức phong kiến ít đến được với nhân dân. Trong non một trăm năm dưới
chế độ thực dân nửa phong kiến, trừ một số ngoại lệ nào đó, văn học viết của
trí thức tư sản và tiểu tư sản cũng khó đến được với đông đảo quần chúng
lao động. Văn học viết ngày trước có nhiều tác phẩm hay. Tuy phần lớn đã do
những người trí thức, ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, phục vụ giai cấp
thống trị viết ra, nhưng trong điều kiện xã hội và điều kiện sáng tác nhất định,
những tác phẩm ấy vẫn cứ phản ánh được xu hướng tiến lên của lịch sử, thể
hiện được tâm hồn dân tộc hoặc phát biểu được nguyện vọng của nhân dân.
Những tác phẩm ấy lẽ ra có thể đáp ứng một phần không nhỏ cho nhu cầu
tinh thần đông đảo của quần chúng. Nhưng, như trên vừa nêu rõ, do nạn mù
chữ mà phạm vi phổ biến của chúng bị hạn chế. Cho nên để đáp ứng cho nhu
cầu tinh thần của mình, nhân dân lao động trước hết phải trông vào nguồn
sáng tác Văn nghệ, văn học của chính mình. Và trong mấy nghìn năm, văn
học dân gian luôn luôn là một kho tàng trong đó chứa chất dần những kinh
nghiệm sản xuất, chiến đấu ngày càng già giặn và những tri thức về mọi mặt
ngày càng phong phú. Trong mấy nghìn năm, văn học dân gian luôn luôn là
tiếng nói tâm tình hoặc lời thét phẫn nộ, là niềm rung cảm sâu sắc và tế nhị về
cái đẹp hoặc nhịp ca hào hùng và đầy tin tưởng về sự tất thắng của chính
nghĩa. Trong mấy nghìn năm, văn học dân gian là quá trình xây dựng, rèn
giũa ngôn ngữ văn học dân tộc và thể loại văn học dân tộc, là quá trình nâng
cao năng khiếu thẩm mỹ và bồi dưỡng tâm hồn của nhân dân.
Cho nên không ở đâu hơn ở nước ta khi nói đến văn học ngày xưa thì
trước hết phải nói đến văn học dân gian, rất hay đẹp về chất và rất giàu có về
lượng. Nhưng dòng văn học dân gian Việt Nam có vị trí lớn trong văn học dân
tộc không phải chỉ vì bản thân nó có giá trị cao. Vị trí ấy lại còn quan trọng ở
chỗ dòng văn học ấy có ảnh hưởng lớn đối với dòng văn học viết. Văn học
dân gian xét cho kỹ đã có vai trò hàng đầu trong toàn bộ quá trình văn học
dân tộc.
Xét toàn bộ quá trình văn học dân tộc thì bên cạnh dòng văn học truyền
miệng dân gian lại phải đề cập tới dòng văn học viết mà tác giả phần lớn là
các tầng lớp trí thức trong xã hội cũ. Một nền văn học dân tộc chỉ có tính chất
hoàn chỉnh khi xuất hiện dòng văn học viết bên cạnh dòng văn học truyền
miệng. Văn học viết ở nước ta bắt đầu trở thành một dòng kể từ thế kỷ thứ X.
Dầu có phát hiện được những tài liệu văn học viết có từ trước đó, thì điều ấy
cũng khó mà lay động nhận định hiện nay là: văn học viết của dân tộc ta chỉ
có thể thực sự trở thành một dòng bên cạnh dòng văn học dân gian trong
điều kiện Nhà nước phong kiến độc lập. Sự ra đời và phát triển của văn học
viết có liên quan chặt chẽ với một nghìn năm lịch sử của nước Đại Việt.
Sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách thống trị ngoại xâm, thì giai
cấp phong kiến bèn xây dựng nên Nhà nước Đại Việt. Muốn củng cố vị trí độc
lập của mình đối với giai cấp phong kiến phương Bắc thì giai cấp phong kiến
Đại Việt chỉ có cách là dựa vào sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chính sách của
Nhà nước phong kiến vì vậy mà có khi đã chú trọng phát huy những giá trị
tinh thần của dân tộc. Nhưng giai cấp phong kiến lại luôn luôn muốn củng cố
vị trí thống trị của nó đối với nhân dân: thì nó đã có sẵn mẫu mực của Nhà
nước phong kiến phương Bắc mà các thiết chế đã đựợc thể nghiệm qua hàng
nghìn năm của bộ máy thống trị thành thục. Và nhiều khi chính sách của Nhà
nước phong kiến lại là muốn rập khuôn theo những thành tựu văn hóa của
phương Bắc. Xét các chính sách của Nhà nước phong kiến trong lịch sử
nước ta thì thấy chính sách ấy thường xuyên bị giằng co giữa hai xu hướng
đối lập kể trên. Từ thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ thứ XV, tính chất dân tộc của
Nhà nước phong kiến được phát huy thì xu hướng thứ nhất biểu hiện ra ở
mặt này hoặc mặt khác trong chính sách của nó, nhưng từ thế kỷ thứ XVI,
Nhà nước phong kiến ngày càng đối lập gay gắt với nhân dân và xu hướng
thứ hai chiếm ưu thế.
Văn học viết đã ra đời và phát triển trong điều kiện ấy. Từ thế kỷ thứ X,
giai cấp phong kiến Đại Việt được độc lập về mặt chính trị đối với giai cấp
phong kiến phương Bắc, nhưng mọi thiết chế của Nhà nước phong kiến Đại
Việt vẫn ít hoặc nhiều phỏng theo Nhà nước phong kiến phương Bắc. Cho
nên về mặt văn hóa thì Hán học rất được coi trọng. Hán học là biểu hiện của
ý thức hệ chính thống, là nội dung việc giáo dục và việc thi cử, là tiêu chuẩn
chọn lựa người cho bộ máy chính quyền. Và chữ Hán đã được dùng làm thứ
văn tự chính thức của Nhà nước. Tầng lớp trí thức của chế độ được đào
luyện trong lò Hán học đã dùng chữ Hán để trước thư lập ngôn. Văn học viết
bằng chữ Hán đã ra đời trong điều kiện như vậy. Vì được viết bằng chữ Hán,
một thứ chữ mà không phải ai cũng đọc nổi, cho nên nói chung các tác phẩm
văn học ấy ít được phổ biến trong nhân dân và tác dụng xã hội của chúng bị
bó hẹp. Vì được viết bằng chứ Hán, một thứ chữ cách biệt với ngôn ngữ hàng
ngày của dân tộc Việt, cho nên các tác phẩm văn học ấy bị những hạn chế
nhất định khi cần phản ánh hiện thực sinh động và cụ thể của đất nước Việt,
khi muốn phát biểu tâm tư tình cảm thầm kín của con người Việt. Nếu như
cần có thuật ngữ “văn học bác học” để phân biệt với thuật ngữ “văn học bình
dân” thì trước hết có thể dùng nó để gọi văn học chứ Hán.
Văn học chữ Hán có một số lượng tác phẩm rất lớn. Đó là những tác
phẩm văn học chính luận và văn học hình tượng thuộc đủ loại, viết theo thể
tản văn, biền văn và vận văn. Phạm vi đề tài của văn học chữ Hán rất rộng,
bao gồm từ những vấn đề chung của dân tộc đến những vấn đề riêng của con
người. Văn học chữ Hán ca ngợi quốc gia phong kiến mà các tác giả muốn
đồng nhất với tổ quốc, băn khoăn về vận mệnh của chế độ phong kiến mà
các tác giả muốn gắn liền với vận mệnh của dân tộc, phát biểu lý tưởng xã
hội, chính trị của trí thức phong kiến mà các tác giả muốn coi là lý tưởng xã
hội, chính trị của toàn thể nhân dân. Phần có giá trị cao hơn cả trong nội dung
văn học chữ Hán là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước này ở những
tác giả ưu tú nhất đã vươn gần tới quan điểm của nhân dân. Như thế là văn
học chữ Hán vẫn có tính chất dân tộc, tuy nó không sử dụng ngôn ngữ dân
tộc, tuy nó bị hạn chế về nhiều phương diện. Cho nên để khẳng định tính chất
dân tộc của văn học Việt mà lại viết bằng chữ Hán, thiết tưởng có thể gọi đó
là văn học Việt Hán.
Văn học viết bằng chữ nôm, tức là sử dụng ngôn ngữ dân tộc, có lẽ ra
đời sau văn học chữ Hán. Có một điều chắc chắn là từ thế kỷ thứ XIV, văn
học chữ nôm đã trở thành bộ phận đáng kể trong dòng văn học viết. Một khi
mà Hàn Thuyên đã thấy phải nghiên cứu việc áp dụng luật thơ Đường vào
tiếng Việt thì tất là để đáp ứng một nhu cầu cấp thiết nảy sinh từ sự phát triển
của phong trào làm thơ nôm. Kể từ thế kỷ thứ XV, văn học chữ nôm dần dần
trở thành một bộ phận quan trọng của dòng văn học viết. Số lượng tác phẩm
văn học chữ nôm nhìn chung thì nhỏ hơn số lượng tác phẩm văn học chữ
Hán. Văn học chữ nôm thường bị giai cấp thống trị coi nhẹ. Ngay cả trong
thời kỳ mà văn học chữ nôm được triều đình khuyến khích như dưới triều Lê
Thánh Tông chẳng hạn thì văn học chữ nôm cũng không được đặt ngang
hàng với văn học chữ Hán.
Sang đến thế kỷ thứ XVII, văn học chữ nôm nói chung đã rất phát triển.
Hơn nữa, chắc rằng sự phát triển ấy có hại cho việc bảo vệ kỷ cương cua
Nhà nước phong kiến cho nên chúa Trịnh (Trịnh Tạc) đã chủ trương phá hoại
các sách nôm. Năm Cảnh Trị nguyên niên (1663) chúa Trịnh sai Phạm Công
Trứ soạn 47 điều giáo hóa để chỉnh đốn trật tự phong kiến bị suy vong sau
non hai trăm năm loạn lạc. Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), viên lang trung
thuộc Lại bộ tuyên khảo ti là Nhữ Đình Toản đem ra diễn nôm 47 điều giáo
hóa ấy, trong đó có đoạn sau:
“Ngũ kinh chư sử xưa nay,
Với chư tử tập cùng rày văn chương,
Dạy Bèn có ích đạo thường,
Mới nên san bản bốn phương thông hành.
Kỳ như Thích, Đạo, phi kình,
Lời tà mối lạ tập tành truyện ngoa,
Cùng là truyện cũ nôm na,
Hết thơ tập ấy lại ca khúc này,
Tiếng dăm dễn khiến người say,
Chớ cho in bán, hại nay thói thuần.”
Cùng với việc ban hành 47 điều giáo hóa, Trịnh Tạc cho thu thập nhiều
sách nôm “có hại cho giáo hóa” đem đốt đi. Việc làm ấy của Trịnh Tạc hồi
cuối thế kỷ thứ XVII lại được Trịnh Cương tiếp tục vào hồi đầu thế kỷ thứ
XVIII. Và không biết tự bao giờ, giai cấp phong kiến đã đưa ra khẩu ngữ “nôm
na là mách qué”. Với nhận thức như vậy, giai cấp phong kiến không có ý thức
xây dựng văn học nôm. Tuy nhiên, quy luật tất yếu của lịch sử vẫn đưa đến
sự phát triển ngày càng mạnh của các tác phẩm văn học nôm. Để miêu tả
thiên nhiên của đất nước, để phản ánh hiện thực của dân tộc, để phát biểu
những tư tưởng, tình cảm trực tiếp và sâu xa nhất của con người – mà đây
chính lại là chức năng chủ yếu của văn học – thì tốt nhất vẫn là dùng tiếng mẹ
đẻ, mà có khi lại nhất thiết phải dùng tiếng mẹ đẻ. Văn học chữ nôm đã ra đời
vì yêu cầu rất có tính chất văn học ấy. Như vậy thì sự ra đời và phát triển văn
hoc chữ nôm là một tất yếu của quá trình văn học ở nước ta. Đương nhiên,
không thể quên điều kiện quan trọng là sự hình thành của chữ nôm. Mà bản
thân sự kiện này thì cũng lại là một tất yếu lịch sử. Văn học chữ nôm sử dụng
những tư liệu và kinh nghiệm của Hán học nói chung, của văn học chữ Hán
nói riêng. Nhưng nếu nó có thể ra đời và phát triển được thì trước hết và chủ
yếu là vì dựa trên cơ sở những thành tựu của văn học dân gian, trong đó có
những thành tựu về mặt rèn giũa ngôn ngữ văn học dân tộc và xây dựng thể
loại văn học dân tộc. Văn học chữ nôm chủ yếu bao gồm những tác phẩm
vận văn và biền văn. Khác với văn học chữ Hán, trong văn học chữ nôm
không có những tác phẩm mang nhiều tính chất chính luận. Phần lớn là các
tác phẩm văn học hình tượng thuộc các loại thơ, phú, truyện, ngâm. Phạm vi
đề tài của văn học chữ nôm cũng rộng như văn học chữ Hán. Nổi bật hơn cả
trong văn học chữ nôm vẫn là chủ nghĩa yêu nước kết tinh ở những tác phẩm
tiêu biểu nhất từ Nguyễn Trãi đến Phan Bội Châu. Chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc ta vốn đã từng được thể hiện trong văn học chữ Hán thì trong văn học
chữ nôm cũng lại là một nội dung quan trọng bên cạnh chủ nghĩa yêu nước.
Từ thế kỷ thứ XVIII trở đi, chủ nghĩa nhân đạo ấy lại gắn với một sự phê phán
ngày càng gay gắt những tệ lậu của chế độ phong kiến suy vong.
Nhìn chung thì văn học chữ Hán và văn học chữ nôm có nhiều phần
giống nhau trong nội dung phản ánh hiện thực và có những điểm giống nhau
trong cách phản ánh hiện thực. Nhìn chung thì cả hai bộ phận ấy của dòng
văn học viết đều ít hoặc nhiều chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến.
Nhưng tùy theo từng nơi, từng lúc và tùy theo từng tác giả, từng tác phẩm mà
văn học viết lại phản ánh những tư tưởng tiếp thu được từ nhân dân, khi thì
trong sự dung hợp tinh tế hoặc vụng về, trong sự điều hòa chân thành hoặc
miễn cưỡng với ý thức hệ phong kiến, khi thì trong sự đối lập kín đáo hoặc
công nhiên với những khía cạnh nhất định của ý thức hệ ấy.
Giữa văn học chữ Hán và văn học chữ nôm có nhiều chỗ khác nhau.
Khác nhau không phải chỉ vì một đằng thì sử dụng chữ Hán và một đằng thì
sử dụng ngôn ngữ dân tộc ghi bằng chữ nôm. Nhưng chính vì sử dụng ngôn
ngữ dân tộc cho nên so với văn học chữ Hán thì văn học chữ nôm có thể
phản ánh hiện thực cuộc sống bình thường của nhân dân một cách linh hoạt
và cụ thể hơn, có thể xây dựng những hình tượng văn học đậm màu sắc dân
tộc hơn và do đó dễ thấm sâu hơn vào cảm quan của công chúng. Cho nên
nếu như tính dân tộc và tính nhân dân có thể thấy được ở cả hai bộ phận của
văn học viết thì lại có thể dễ thấy hơn ở văn học chữ nôm.
Văn học chữ Hán và văn học chữ nôm đều thuộc dòng văn học viết của
trí thức phong kiến, phân biệt với dòng văn học truyền miệng dân gian. Văn
học truyền miệng dân gian phát biểu tư tưởng và nguyện vọng của nhân dân,
cho nên về cơ bản là đối lập với ý thức hệ phong kiến. Còn văn học viết thì lại
phát biểu tư tưởng và tình cảm của những tầng lớp trí thức theo quan điểm
của ý thức hệ phong kiến. Vì vậy giữa hai dòng văn học ấy không khỏi có chỗ
đối lập với nhau. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng xét hoàn cảnh cụ thể của
nước ta thì thấy nổi bật lên đặc điểm sau đây: do điều kiện đấu tranh thiên
nhiên gay gắt, do điều kiện chống giặc ngoại xâm ác liệt mà từ lâu đời, nhân
dân ta đã sớm kết thành một khối chặt chẽ và ngày càng có đầy đủ hơn ý
thức làm chủ đất nước. Cũng vì vậy mà nhân dân có vai trò hàng đầu, vai trò
chủ động đối với quá trình lịch sử của đất nước. Giai cấp phong kiến chỉ có
thể thành công trong những nhiệm vụ lịch sử nhất định của nó trên cơ sở
động viên được sức mạnh của nhân dân. Phong trào của nhân dân và ảnh
hưởng của dòng văn học dân gian vì vậy thường xuyên vang dội vào tư
tưởng và tình cảm của rất nhiều tác giả trong dòng văn học viết. Đó là lý do
chủ yếu khiến cho dòng văn học này tuy có mặt tiêu cực hoặc hạn chế bắt
nguồn từ ý thức hệ phong kiến, nhưng vẫn có những tác phẩm đậm đà tính
dân tộc, tính nhân dân. Xét cho cùng thì những tác phẩm ưa tú trong dòng
văn học viết dầu không phải là sản phẩm trực tiếp thì cũng là sản phẩm gián
tiếp của nhân dân. Và trên bình diện văn học thì vai trò chủ động của nhân
dân đối với toàn bộ quá trình lịch sử dân tộc thể hiện vai trò hàng đầu của văn
học dân gian đối với toàn bộ quá trình văn học dân tộc. Cho nên không thể
đem đối lập một cách đơn giản và máy móc dòng văn học truyền miệng dân
gian với đống văn viết. Giữa hai dòng ấy tuy có chỗ khác biệt, nhưng lại có
chỗ thống nhất. Không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng của văn học dân gian
đối với những tác phẩm văn học chữ Hán như Thánh tông di thảo, Truyền kỳ
mạn lục v.v..: Ai cũng phải nhận thấy ảnh hưởng sâu sắc của văn học dân
gian vào rất nhiều tác phẩm văn học chữ nôm, từ thơ phú cho đến truyện,
ngâm. Ngược lại, rất nhiều sáng tác dân gian đã tiếp thu ảnh hưởng của văn
học viết. Có nhiều hiện tượng chứng minh ảnh hưởng của Truyện Kiều, của
truyện Lục Vân Tiên đối với văn học dân gian. Đánh giá cao vai trò của văn
học dân gian thì phải tìm hiểu cho hết ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển
của văn học viết. Xác nhận giá trị của văn học viết thì lại không thể quên ảnh
hưởng của phần ưu tú trong dòng văn học này đối với văn học dân gian. Đó
là những điều không thể bỏ qua khi tìm hiểu lịch sử văn học ở nước ta.
***
Văn học ở nước ta đã hình thành và phát triển cùng với quá trình hình
thành và phát triển của dân tộc. Ở nhiều nước (đặc biệt là các nước phương
Tây) dân tộc đã hình thành khi nền kinh tế hàng hóa của giai cấp tư sản đã
phát triển đến mức đòi hỏi xóa bỏ tình trạng cát cứ vốn gắn với bản chất chế
độ phong kiến, ở những nước ấy, dân tộc được xây dựng trước hết trên cơ
sở một thị trường thống nhất, tức là trên cơ sở kinh tế. Ở nước ta, không phải
đợi đến khi có cơ sở kinh tế ấy thì mới hình thành dân tộc. Nhân dân ta từ lâu
đã có ý thức về khối cộng đồng của người Việt. Truyền thuyết một bọc trăm
trứng phản ánh sự gắn bó ruột thịt giữa các bộ lạc người Lạc Việt và quá trình
hình thành nước Văn Lang, nước Âu Lạc xưa. Các bộ lạc vốn đã rất gần gũi
nhau từ thời kỳ nguyên thủy xa xăm, đã cùng nhau phấn đấu xây dựng và
bảo vệ quê hương chung, đã giao phối huyết thống, giao phối văn hóa mà coi
nhau là đông bào. Đó là gốc rễ xa xưa của ý thức dân tộc. Ách Bắc thuộc đã
cố kết thêm các bộ lạc người Lạc Việt ở các địa phương lại theo một mục tiêu
chung là giải phóng đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà khi Hai Bà Trưng
vừa phất cờ khởi nghĩa thì “sáu mươi lăm thành” bèn nhất tề hưởng ứng. Ý
thức về vận mệnh chung sớm hình thành như thế ngày càng được nâng cao
hơn trải qua một nghìn năm của cuộc chiến đấu quyết liệt mà tiêu biểu nhất là
những cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc
Loan, Phùng Hưng. Đến khi Ngô Quyền giải phóng tổ quốc thì ý thức dân tộc
đã trưởng thành trong nhân dân ta. Sau đó Đinh Bộ Lĩnh đã có thể nhanh
chóng khắc phục nạn cát cứ của mười hai sứ quân vì đã thể theo ý thức ấy.
Và cũng chính ý thức sâu sắc về dân tộc đã khiến cho Lý Công Uẩn có chí khí
xây dựng nước Đại Việt giàu mạnh với quy mô to lớn như được nêu trong bài
Chiếu dời đô.
Các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm trong các đời Lý, Trần, Lê đã
ngày càng nâng cao hơn ý thức dân tộc. Điều này đã được phản ánh rất rõ ở
sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước từ bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý
Thường Kiệt, qua bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, đến bài Đại cáo
bình Ngô của Nguyễn Trãi, ở sự phát triển nói chung của nội dung văn học từ
thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV. Ý thức dân tộc lại là cơ sở vững chắc của
sức mạnh khiến cho nhân dân ta từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XIX vừa có
thể mở mang đất nước, vừa có thể đấu tranh thắng lợi chống nạn cát cứ do
các tập đoàn phong kiến gây ra. Trong các thế kỷ thứ XVII và thứ XVIII, cuộc
phân tranh Lê – Mạc và nhất là cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn đã tác hại
không ít đến đời sống dân tộc. Tuy nhiên, các tập đoàn phong kiến cát cứ vẫn
không dám chính thức phân nước Đại Việt làm hai nước. Chúa Nguyễn tuy
biệt lập ở miền Nam nhưng vẫn phải giữ danh nghĩa tôn Lê, tức là coi vùng
đất mà mình cai quản như một bộ phận của nước Đại Việt thống nhất. Nhà
nho thì gọi vùng đất mà chúa Trịnh cai quản là Bắc Hà, vùng đất mà chúa
Nguyễn cai quản là Nam Hà; nhân dân thì gọi là Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Những cách gọi ấy đều mặc nhận rằng đó là hai miền của cùng một đất nước
tạm thời bị chia cắt một cách vô lý. Và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đỉnh điểm
của cao trào nhân dân chống phong kiến, lại cũng mang tính chất dân tộc rất
sâu sắc. Phong trào Tây Sơn đã quét sạch các tập đoàn phong kiến Nguyễn,
Trịnh, Lê, san bằng mọi hàng rào ngăn đôi đất nước. Và không phải ngẫu
nhiên mà sự nghiệp thống nhất vĩ đại ấy lại gắn với những chiến công oanh
liệt tiêu diệt quân xâm lược Xiêm ở miền Nam và quân xâm lược Thanh ở
miền Bắc. Như thế là quá trình đấu tranh để củng cố và mở rộng nền thống
nhất của đất nước đồng thời cũng lại là quá trình hình thành và phát triển của
dân tộc. Trong các đời Ngô, Đinh, Tiền, Lê, nền thống nhất đã bao gồm khắp
các vùng trong nước và được đặc biệt củng cố ở đồng bằng và trung du Bắc
Bộ. Nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, với chính sách liên tục và kiên trì, đã tìm cách
dần dần nắm chắc các khu vực khác. Việc làm ấy phù hợp với quyền lợi tối
cao của đất nước, với yêu cầu của lịch sử, cho nên đã thu được nhiều kết
quả tốt. Một trong những kết quả tích cực ấy là dựa trên cơ sở những thành
tựu văn hóa dân gian của các địa phương mà xây dựng và không ngừng phát
triển nền văn hóa dân tộc của cả nước. Nền văn hóa Đại Việt mà trung tâm là
Thăng Long – tục gọi là Kẻ Chợ – đã hình thành như thế. Nền văn hóa ấy kế
thừa những truyền thống văn hóa của nước Văn Lang, nước Âu Lạc xưa, kế
thừa những truyền thống văn hóa của ông cha trong thời kỳ chống ách Bắc
thuộc, chính là bản lĩnh của một dân tộc ngày càng có ý thức về sức mạnh
của mình. Nền văn hóa ấy thể hiện ở những phong tục, tập quán chung của
toàn quốc. Nền văn hóa ấy thể hiện ở cách làm ăn, cách tổ chức và tiến hành
qui trình sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, ở cách tổ chức lưu thông
phân phối giữa các địa phương qua hoạt động thương nghiệp. Nền văn hóa
ấy thể hiện ở cách làm nhà cửa, cách ăn mặc, phương tiện đi lại. Nền văn
hóa ấy thể hiện ở những tín ngưỡng, tôn giáo, ở những hội hè, đình đám, ở
những sinh hoạt vui chơi, giải trí. Nền văn hóa ấy thể hiện ở các công trình
kiến trúc, các công trình khoa học, các tác phẩm văn học nghệ thuật. Nền văn
hóa ấy thu hút những thành tựu văn hóa dân gian của các địa phương, nhào
nặn những thành tựu ấy theo yêu cầu chung của cuộc sống toàn dân tộc. Và
do đó nền văn hóa ấy khiến cho từng địa phương có thể hưởng thụ những
thành tựu của mọi địa phương khác trong cả nước. Nền văn hóa ấy thúc đẩy
các địa phương phát triển theo một phương hướng chung, với một xu thế
chung. Cho nên từng địa phương một mặt ngày càng phát huy những đặc
điểm gắn với điều kiện thiên nhiên cụ thể của mình, mà mặt khác thì lại ngày
càng hòa đồng với các địa phương khác trong tính chất chung của nền văn
hóa Đại Việt không ngừng được nâng cao.
Ngay từ khi mới giành lại độc lập, hồi đầu thế kỷ thứ X, nền văn hóa
của dân tộc ta, một trong những thứ keo sơn gắn bó nhân dân cả nước với
nhau, đã là cơ sở vững chắc cho nền thống nhất của tổ quốc. Và sự phát
triển của nước Đại Việt từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX lại đồng thời là sự
phát triển của nền văn hóa Đại Việt, tức là sự nâng cao chất lượng của thứ
keo sơn ấy. Một mặt vì mối thống nhất về mặt chính trị ngày càng củng cố và
đất nước ngày càng mở mang mà nền văn hóa Đại Việt ngày càng tiếp thu
được nhiều hơn những thành tựu phong phú và đa dạng của các địa phương.
Mặt khác, do những yêu cầu của đời sống dân tộc, nền văn hóa Đại Việt đã
ngày càng thấm nhuần nhiều hơn vào từng địa phương và làm cho nhân dân
cả nước ngày càng hòa đồng với nhau một cách sâu sắc hơn. Nền văn hóa
chung của nước Đại Việt không phải là một hiện tượng nhất thành bất biến.
Nền văn hóa ấy đã phát triển trong quá trình không ngừng mở rộng mối thống
nhất của đất nước. Phải nói rằng tuy nước Đại Việt từ khi độc lập đã là một
nước thống nhất, nhưng cho mãi đến đời Trần, vẫn còn chia ra kinh trấn và
phiên trấn. Chung quanh kinh đô Thăng Long có bốn kinh lộ hoặc kinh trấn là
Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc và Hải Dương. Giữa các kinh trấn và các phiên
trấn như An Quảng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Nghệ An, Thuận Hóa, v.v…
vẫn ít hoặc nhiều có sự chênh lệch về trình độ phát triển văn hóa. Theo sử gia
Ngô Sĩ Liên thì đời Trần gọi Hoan, Ái (Nghệ An, Thanh Hóa) là đất trại để
phân biệt với đất Kinh (Sơn Nam, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây). Ông viết:
“Hoan Ái là các châu ở xa, triều đình nhận thấy việc giáo dục chưa thấm
nhuần, nhân tài không nhiều bằng ở các kinh trấn, cho nên mỗi khoa thi bèn
lấy người giỏi nhất về bên trại gọi là trại trạng nguyên và cho được ngang
hàng với kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến khích”. Sự việc này rất có ý nghĩa.
Một mặt, chúng ta thấy giữa đất kinh (tức vùng đồng bằng và trung du Bắc
Bộ) và đất trại (tức vùng bắc Trung Bộ) ít nhiều vẫn còn sự chênh lệch về việc
học hành, tức là một trong những biểu hiện của sự chênh lệch về trình độ văn
hóa. Hai là Nhà nước có ý thức chiếu cố đến đất trại: Dân đất trại vì điều kiện
khó khăn hơn mà thường khó đỗ trạng nguyên khi phải đọ tài với đất kinh cho
nên nhà vua đặt tách riêng ra danh hiệu trại trạng nguyên, tuy tiêu chuẩn lấy
đỗ có hạ xuống mà quyền lợi thì lại ngang với kinh trạng nguyên. Đến cuối thế
kỷ thứ XIV, Hồ Quý Ly xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, điều này chứng tỏ
rằng đến khi ấy không còn phân biệt kinh và trại nữa. Sang thế kỷ thứ XV, trải
qua cuộc kháng chiến của Trần Ngỗi và Trần Quí Khoách nhất là cuộc kháng
chiến của Lê Lợi thì vùng Thanh Hóa, Nghệ An tỏ rõ vai trò rất lớn đối với vận
mệnh tổ quốc khi ấy và do đó mà đã hòa đồng sâu sắc hơn với các vùng vốn
đã được gọi là đất kinh. Mà chẳng cứ gì Thanh Hóa, Nghệ An, các vùng khác
cũng dần dần tham gia vào quá trình hòa đồng ấy. Và đến giữa thế kỷ thứ XV,
Lê Thánh Tông đã có thể chia đất nước từ Lạng Sơn đến Thuận Hóa thành
mười hai thừa tuyên; sau đó lại đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam là vùng đất
mới gia nhập nước Đại Việt. Gọi tất cả các đơn vị hành chính trong toàn quốc
bằng cái tên chung duy nhất là thừa tuyên Lê Thánh Tông muốn khẳng định
sự thống nhất toàn diện của nước Đại Việt, thống nhất về mặt văn hóa cũng
như về mặt chính trị. Thừa tuyên có nghĩa là thừa mệnh tuyên hóa, vâng
mệnh trời tuyên dương giáo hóa. Toàn thể đất nước đều chịu chung giáo hóa
của triều đình như nhau, không phân biệt ra kinh trấn và phiên trấn, ra kinh và
trại nữa. Tất nhiên, đó là đứng trên quan điểm của Nhà nước phong kiến mà
nhận định vấn đề. Dầu sao thì quyết định ấy của Lê Thánh tông cũng dựa trên
thực tế là các địa phương trong đất nước tuy có những nét đặc thù, nhưng
đều đã hòa đồng trong nền văn hóa chung của nước Đại Việt. Sự mở rộng và
nâng cao nhận thức về đất nước thống nhất đã dựa trên cơ sở sự hình thành
và phát triển của nền văn hóa Đại Việt thống nhất; bởi vì xét về một mặt nào
đó thì nền văn hóa Đại Việt chính cũng là biểu hiện của ý thức mà nhân dân
Đại Việt có được về đất nước, về dân tộc. Nhận thức về đất nước, về dân tộc
được mở rộng và nâng cao dần với sự nghiệp mở mang tổ quốc từ Bắc vào
Nam, với công cuộc khai phá, chinh phục thiên nhiên, với các cuộc chiến đấu
để bảo vệ độc lập và thống nhất. Nhận thức ấy đã thể hiện khá rõ trong các
bài ca dao dân ca, các truyện dân gian. Nhận thức ấy lại đã thể hiện với rất
nhiều khía cạnh phong phú trong văn học viết. Có thể nói rằng ngày xưa văn
học viết cũng như văn học truyền miệng dân gian không phải chỉ là một trong
những phương tiện để biểu hiện ý thức dân tộc của nhân dân ta mà lại chính
là một trong những nguồn nuôi dưỡng phong phú của ý thức ấy.
Nhưng tác dụng của văn học đối với việc nâng cao ý thức dân tộc, và
qua đó mà củng cố khối cộng đồng dân tộc, không phải chỉ là ở chỗ góp phần
xây dựng nhận thức về dân tộc, về tổ quốc. Tác dụng ấy còn thể hiện qua
việc rèn đúc cảm quan mỹ học của nhân dân theo những yêu cầu và đặc
điểm của đời sống dân tộc. Các tác phẩm ưu tú trong văn học dân gian cũng
như trong văn học viết đã phản ánh hiện thực với cảm quan phong phú và
tinh tế, qua những hình tượng văn học thích hợp với tâm lý và thị hiếu của
nhân dân, qua những phương thức diễn đạt chính xác nhất và nhuần nhị nhất
của ngôn ngữ dân tộc. Những tác phẩm hay đã chinh phục công chúng theo
cách nhìn nhận, cách cảm nghĩ của tác giả và khiến cho nhân dân ta cùng
hòa chung trong một cách nhìn và trong một niềm rung cảm (tất nhiên ở đây
không kể đến hạng người đã mất gốc). Có thể nói rằng những bài ca dao,
những truyện dân gian, cũng như những tác phẩm hay trong văn học viết từ
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đến
Truyền kỳ mạn lục, Hoàng Lê nhất thống chi, từ thơ nôm Nguyễn Trãi đến thơ
nôm Hồ Xuân Hương đã góp phần làm cho mỗi người Việt hòa chung với tất
cả những người Việt khác trong cùng một nhịp điệu tâm hồn. Và Truyện Kiều
đi từ Bắc vào Nam, truyện Lục Vân Tiên đi từ Nam ra Bắc, mang theo cách
nhìn nhận, cách cảm nghĩ của những tác giả lớn, trong khi chinh phục trái tim,
khối óc của hàng chục triệu người thì đã lại làm cho họ hòa đồng với nhau
trong những nhận thức chung về hiện thực của xã hội, về vận mệnh của con
người, về ý nghĩa của cuộc sống, trong những nỗi niềm rung cảm chung vì
căm ghét tội ác và yêu mến chính nghĩa, vì ghê tởm cái xấu xa bẩn thỉu và
trân trọng cái đẹp đẽ cao thượng, Văn học dân tộc quả là đã góp phần gắn bó
chúng ta lại thành một dân tộc.
Tóm lại, nền văn học dân tộc nảy sinh trên mảnh đất màu mỡ của dân
tộc, lại đã bồi bổ cho chính mảnh đất sinh ra nó. Nền văn học dân tộc không
phải chỉ là sản phẩm của dân tộc đã hình thành mà còn là một động lực của
sự hình thành dân tộc.
Nhìn chung thì sự thống nhất đất nước ta, sự hình thành dân tộc ta xưa
kia không phải chỉ là hệ quả của sự thống nhất về mặt kinh tế, lại càng không
phụ thuộc vào việc xác định thị trường dân tộc, mà trước hết là hệ quả của
đoàn kết các địa phương để bảo vệ cuộc sống chung, tức là nền độc lập của
cả nước. Từ thực tế ấy đã dần dần hình thành một nền văn hóa chung, thống
nhất cho cả nước Đại Việt. Và chính nền văn hóa, tức là thượng tầng kiến
trúc, lại có tác động lớn lao đối với sự thống nhất đất nước, sự hình thành
dân tộc. Văn học là một bộ phận quan trọng trong văn hóa tinh thần của xã
hội đã tham gia không ít vào quá trình tác động ấy. Sự hình thành dân tộc là
cả một quá trình, sự hình thành văn học dân tộc cũng là cả một quá trình. Hai
quá trình ấy tiến hành song song, ảnh hưởng qua lại với nhau, xen kẽ, đan
lồng vào nhau. Và tìm hiểu lịch sử văn học của nước Đại Việt xét về một mặt
nào đó chính lại là tìm hiểu vấn đề rất phức tạp và rất phong phú ấy.
***
Văn học là một hiện tượng xã hội. Cho nên quan niệm của xã hội về
văn học có ảnh hưởng lớn đến thực tiễn văn học, từ mục đích viết văn cho
đến phạm vi đề tài, hình thức thể loại, v.v… Và do đó quan niệm về văn học
của mỗi tầng lớp xã hội ít nhiều chi phối xu hướng phát triển của văn học do
tầng lớp ấy sáng tác ra.
Văn học viết là sản phẩm của trí thức dân tộc. Ngày xưa, các tầng lớp
trí thức – kể cả một bộ phận không nhỏ của tăng lữ nữa – chịu ảnh hưởng
của Hán học. Quan niệm về văn học của họ cũng chịu ảnh hưởng của Hán
học. Và khi tìm hiểu dòng văn học viết thì không thể không tìm hiểu ảnh
hưởng của quan niệm về văn học của các tầng lớp trí thức Hán học, ít hoặc
nhiều được đào tạo trong nhà trường của Nho giáo.
Từ lâu Nho gia đã gắn văn với đạo. “Văn sở dĩ tải đạo đã”, Chu Đôn Di
đời Tống khi viết như vậy thì đã tổng kết quan niệm của nhiều thế hệ Nho gia
về tính chất và ý nghĩa của văn học. Quan niệm này có mặt rất đúng là coi
văn, tức hình thức, chỉ là cái để chứa, để chở, còn đạo, tức nội dung, mới là
cứu cánh.
Nguyễn Trãi khi bàn về âm nhạc đã nói: “… Hòa bình là gốc của nhạc,
thanh âm là văn của nhạc… Không có gốc không thể đứng vững, không có
văn không thể lưu hành”, thì cũng nhấn mạnh vào nội dung văn nghệ tuy vẫn
rất coi trọng hình thức văn nghệ. Và nói như vậy thì cũng là đặt cho văn
nhiệm vụ chở đạo.
Còn Phan Phu Tiên trong bài tựa cuốn Việt âm thi tập thì lại viết:
“Những lời xướng họa của vua tôi đời Đường Ngu, những bài ca dao về
phong tục dân gian của các nước, bàn về đạo trị loạn tuy có khác nhau,
nhưng đều là tình cảm phát ra từ trong lòng”.
Rõ ràng là người xưa đã đòi hỏi rằng nội dung của tác phẩm cần phải
hết sức chân thành. Văn học là để nói lên cái điều phát ra từ trong lòng, cái
điều không thể không nói. Và muốn như vậy thì hình thức văn học phải thống
nhất với nội dung văn học. Lê Quí Đôn trong sách Văn Đài loại ngữ đã phát
biểu về vấn đề ấy như sau: “Đại để anh hoa phát tiết ra ngoài là do ở trong
chứa nhiều hòa thuận. Cho nên người có đức tất có văn, người có hạnh tất
có học, như con phượng thì có cánh hào nhoáng, con báo thì có lông trơn
mướt, trang sức bên ngoài với chứa đựng bên trong vẫn là một… chớ nên sẻ
làm hai”. Rõ ràng là văn được quan niệm như một hình thức đẹp, là sự thể
hiện mà đồng thời lại là bộ phận hữu cơ không thể tách khỏi đạo, tức là nội
dung.
Văn học có hình thức đẹp chính là để phục vụ cho nội dung hay. “Văn
là để chở đạo”. Đạo thường được nhiều nhà nho hiểu một cách chật hẹp là
đạo đức, là lễ giáo, cương thường của Nho gia. Nhưng cũng có người hiểu
rộng hơn. Và “đạo”, theo Phan Lê Phiên, vừa là tính tình mà lại “bao gồm vật
lý”. Nói một cách dễ hiểu thì “đạo” không phải chỉ là đạo đức, mà đạo là quy
luật, là chân lý ở trong thiên nhiên và trong xã hội. Văn là để nói lên chân lý
ấy. Chân lý ấy tất nhiên có màu sắc thời đại và màu sắc giai cấp, nhưng
người xưa muốn coi nó như là phổ biến ở khắp nơi và ở mọi thời đại. Đạo là
chân lý phổ biến. Văn là để chở đạo tức là biểu hiện chân lý phổ biến.
Do nhận thức rằng văn là để biểu hiện chân lý phổ biến mà ngày trước
phạm vi văn học được quan niệm rất rộng. Phan Huy Chú mở đầu phần Văn
tịch chí, sách Lịch triều hiến chương loại chí, đã viết: “Cái hay trong tâm thuật
ngụ vào trong văn chương sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết được
đạo trời. Thư tịch, văn minh của loài người là ở đó”. Vì quan niệm rằng tất cả
những trước tác có liên quan với văn minh của xã hội loài người đều có thể
thuộc phạm vi văn học, cho nên một tác phẩm triết học như Khóa hư lục của
Trần Thái tông, một tác phẩm sử học như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ
Liên, hoặc những văn kiện chính trị như Chiếu dời đô của Lý Thái tổ, v.v…
cũng đều được coi là tác phẩm văn học. Mà coi đó là văn học thì quả cũng
không sai lắm. Người xưa chép sử, luận triết học, viết chiếu, chế, biểu, cáo,
hịch thì không chỉ nhằm mục đích có được “ý đúng lời rõ” của một công trình
học thuật hoặc một văn kiện chính trị mà còn trau chuốt hình thức biểu đạt
sao cho “ý đẹp lời hay” như là một tác phẩm văn học. Và có nhiều tác phẩm
mà ngày nay chúng ta không coi là thuộc phạm vi văn học thì lại có giá trị văn
học. Cho nên khi tìm hiểu văn học cổ thì cần phải chú ý đến một số không
nhỏ những trước tác học thuật và những văn kiện chính trị, thì cần nhớ rằng
ngày xưa, theo quan điểm của Nho gia, văn chương không tách rời học thuật
cũng như điển chế của Nhà nước, và quan điểm ấy đã ảnh hưởng đến thực
tế của dòng văn học viết.
Quan điểm “văn là để chở đạo” vốn tiếp thu được từ Hán học, từ Nho
gia ở Trung Quốc, nhưng các nhà trí thức dân tộc ở nước ta ngày xưa lại đưa
vào khái niệm “đạo” những nội dung dân tộc. Với quan điểm “văn là để chở
đạo”, văn học cổ ở nước ta không phải chỉ đề cập đến những nội dung mà
kinh điển của Nho giáo thường nhấn mạnh, mà lại còn chủ yếu lý giải những
vấn đề trọng đại mà thiết thực của dân tộc ta. Văn học đã cổ vũ sự nghiệp
chống ngoại xâm, xây dựng đất nước Việt. Văn học đã để cao ý thức tự lập,
tự cường và bồi dưỡng phẩm giá con người Việt. Văn học đã góp phần tạo
nên những truyền thống của chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc. Đặc biệt là văn học đã phản ánh ý thức chính trị của nhân dân mà vai
trò đối với lịch sử của đất nước ngày càng tăng. Cho nên văn chính luận đã
có vị trí quan trọng. Những tác phẩm như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn,
Hịch của Trần Quốc Tuấn Cáo và văn từ lệnh của Nguyễn Trãi đã phản ánh ý
thức chính trị của nhân dân Việt, đạo lý của dân tộc Việt. Nếu coi ý thức ấy,
đạo lý ấy là “đạo” với tất cả ý nghĩa cao quí của danh từ này thì quả là những
tác phẩm ấy đã “chở đạo”. Và “chở đạo” như thế thì “văn” quả là rất cổ ý
nghĩa.
Tuy nhiên, quan điểm chính thống của Nhà nước, phong kiến lại cho
rằng “đạo” là phải phù hợp với kinh điển của Nho gia. “Văn là để chở đạo”.
Cho nên cái gì không chở đạo, tức là không phù hợp với kinh điển của Nho
gia, thì không thể gọi là văn được. Và quan điểm chính thống trong một thời
gian rất lâu đã gạt ra khỏi lĩnh vực văn học những loại tác phẩm ngày nay
được gọi là tác phẩm văn học. Những áng văn thơ, tiểu thuyết viết về số phận
những con người bình thường, về hiện thực cuộc sống bình thường, hoặc
chứa đựng những tư tưởng và quan điểm mà nho gia cho là “phi kinh”, là “dị
đoan” thì không được coi là chở đạo. Phạm Đình Hổ đã viết trong Vũ trung
tùy bút rằng: “Có người đem những sách truyện nôm và những trò thanh sắc,
nghề cờ bạc, rủ rê chơi bời thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học liệp
thiệp được ít kinh sử, thế mà chữ nôm ta không thể hiểu hết được, câu ca
bản đàn thoảng qua ngoài tai rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả”. Vì coi thường
truyện nôm mà nhà nho họ Phạm đã xếp các tác phẩm ấy cùng hàng với “các
trò thanh sắc” và “nghề cờ bạc”. Phạm Đình Hổ đã “bịt tai lại” vì đó không phải
là tiếng nói của đạo mà ông đã học được ở kinh điển của Nho giáo. Cũng
trong tinh thần ấy mà nhà nho ngày xưa đã răn dạy con cái rằng:
“Làm trai chớ kể Phan Trần,
Làm gái chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”
Những truyện này đã kể những việc trai gái yêu đương vi phạm đạo lý
“nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho giáo. Đã “phi kinh” như vậy thì sao lại có
thể gọi là văn được. Và khi Tự Đức nói rằng:
“Mê gì, mê đánh tổ tôm,
Mê ngựa Hậu bổ, mê nôm Thúy Kiều.”
thì đó chẳng qua cũng coi việc ham thích truyện Kiều như một thói đam mê,
một tật xấu khó tránh, chứ không phải thật sự quí trọng truyện Kiều. Vì nếu
quí trọng truyện Kiều thì đã không xếp việc đọc tác phẩm ấy ngang hàng với
việc đánh tổ tôm. “Đạo” của thánh hiền đã là cao quí cho nên văn cũng phải
cao quí thì mới chở được “đạo”. Mà theo quan điểm chính thống thì “nôm na
là cha mách qué”. Thế thì làm sao văn nôm lại có thể “chở đạo” được! Do đó,
khi đề cập đến những vấn đề trang nghiêm, trọng đại tất là phải dùng Hán
văn. Còn khi vui chơi giải trí, nếu thích thì cũng có thể viết văn nôm, làm thơ
nôm.
Quan điểm chính thống thì như thế, nhưng thực tế văn học thì lại không
chịu khuôn theo quan điểm ấy. Văn thơ nôm của những tác giả lớn từ Nguyễn
Trãi đến Nguyễn Đình Chiểu, nếu có những khi vượt ra ngoài đạo lý của Nho
giáo hoặc đi ngược lại đạo lý ấy, thì lại đã luôn luôn đề cập đến những vấn đề
trọng đại liên quan đến vận mệnh của tổ quốc, của dân tộc, đến đời sống của
nhân dân, đến đạo lý làm người. Văn thơ nôm không phải chỉ là sản phẩm
của trò tiêu khiển, đùa trăng cợt gió, đối chén họa vần. Văn thơ nôm đã “chở
đạo”, nếu muốn hiểu rằng đó là phản ánh cuộc sống đã tham gia chiến đấu
cho sự phát triển của cuộc sống theo nguyện vọng của nhân dân, theo đạo lý
của dân tộc.
Nhưng có một thực tế khác nữa là chữ nôm và văn nôm vì không bao
giờ được có một địa vị chính thức trong đời sống chính trị và văn hóa cho nên
chưa bao giờ được dùng để xây dựng những tác phẩm sử học, triết học,
chính trị, v.v… nhất là những tác phẩm có tính chất điển chế của Nhà nước.
Và chính vì không được quan điểm chính thống công nhận là có thể chở đạo
cho nền văn học nôm đã không bị gắn chặt với học thuật. Văn học chữ nôm
chủ yếu bao gồm những tác phẩm có tính chất thuần túy văn học. Ngay cả
một vài tác phẩm viết về lịch sử như Thiên Nam ngữ lục hoặc Đại Nam quốc
sử diễn ca thì về cơ bản cũng vẫn là những tác phẩm văn học chứ không phải
là tác phẩm sử học,
Văn học chữ nôm vì sử dụng ngôn ngữ dân tộc, cho nên có thể miêu tả
một cách linh hoạt và cụ thể hơn văn học chữ Hán những nét phong phú và
mỹ lệ của thiên nhiên đất Việt, có thể biểu lộ một cách sâu sắc và tế nhị hơn
những khía cạnh độc đáo trong tâm hồn người Việt. Điều này làm cho văn
học chữ nôm có tính dân tộc đậm đà hơn văn học chữ Hán. Tính dân tộc này
lại càng sắc nét vì, như vừa trình bày ở trên, văn học chữ nôm không bị ràng
buộc với học thuật như là văn học chữ Hán. Càng ít bị ràng buộc với học
thuật, thì văn học càng xa với những giáo điều của Nho giáo. Cho nên nếu
như văn học chữ nôm vẫn “chở đạo” thì “đạo” ở đây đã xa với giáo điều của
Nho gia hơn là trong văn học chữ Hán. Do đó nội dung (tức là đạo) trong văn
học nôm nói chung lại có điều kiện gắn bó hơn với thực tiễn đời sống của
nhân dân, của dân tộc, của đất nước. Đó là chỗ khác nhau giữa thơ, phú chữ
nôm và thơ phú chữ Hán. Đó đặc biệt lại là chỗ khác nhau giữa thể tự sự
trong văn học chữ nôm và thể tự sự trong văn học chữ Hán. Thể tự sự trong
văn học chữ nôm tức là truyện thơ phát triển rất mạnh từ thế kỷ thứ XVIII trở
đi và tuy vẫn nói đến lễ giáo, trung hiếu, tiết nghĩa, cương thường, nhưng về
thực chất lại đề cập đến những vấn đề thiết thực trong đời sống của dân tộc,
của nhân dân và lý giải những vấn đề ấy gần với quan điểm của nhân dân.
Cho nên khi nói rằng ngày trước quan niệm “văn chở đạo” chi phối sáng tác
văn học và văn chương chưa tách rời khỏi học thuật thì lại cần thấy rằng ở
những vấn đề này, có sự khác nhau khá rõ giữa văn học chữ nôm và văn học
chữ Hán.
Nhìn chung, quan niệm “văn chở đạo” có mặt khi khẳng định tầm quan
trọng của nội dung văn học và gắn chặt hình thức với nội dung. Nhưng vì hiểu
khái niệm đạo một cách quá rộng như là nội dung của văn minh của xã hội
loài người hoặc quá hẹp như là đạo của Nho giáo, mà không ít người đã đi
đến chỗ nhận thức thiếu chặt chẽ hoặc thiếu toàn diện về văn học. Quan niệm
“văn chở đạo” ảnh hưởng nhiều đến mục đích viết văn, phạm vi đề tài, hình
thức thể loại, Nhưng càng tách rời khỏi giáo điều của Nho gia, càng gần với
thực tế đời sống dân tộc thì các tác giả càng nới rộng trước khuôn khổ của
quan niệm “văn chở đạo” và phát huy được mặt tích cực của quan niệm ấy.
Đó là một xu thế tất yếu trong sự phát triển của dòng văn học viết ở nước ta
ngày xưa.
***
Trong thời kỳ Văn Lang và Âu Lạc, tổ tiên ta đã có chữ viết chưa? Cứ
lấy lý mà xét thì với nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, có thể cũng đã có một
hình thức văn tự. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa có những tài liệu chắc
chắn để quyết đoán rằng đã có chữ viết, nhưng dầu cho có chữ viết đi nữa thì
chắc rằng với điều kiện xã hội chưa phân hóa thành giai cấp rõ rệt, vẫn chưa
thể hình thành được dòng văn học chuyên nghiệp tách biệt khỏi dòng văn học
dân gian. Có thể quan niệm rằng nếu đã có chữ viết thì khi ấy chữ viết mới
chỉ được dùng để ghi chép lại những sáng tác tập thể mà thôi.
Trong thời Bắc thuộc, kể từ cuối thời Tây Hán, văn hóa Trung Quốc
ngày càng ảnh hưởng nhiều vào nước ta. Nhân dịp loạn Vương Mãng (từ
năm 8 đến năm 23) nhiều quan lại và sĩ phu ở Trung Quốc chạy sang theo
Tích Quang khi đó là thái thú Giao Chỉ. Bọn họ đã bước đầu mở mang Hán
học. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (từ năm 40 đến năm
43), chính sách của nhà Đông Hán ngày càng khắt khe. Và từ đó trở đi, trải
qua các đời Lục triều, Tùy, Đường, bọn quan lại Trung Quốc lúc nào cũng chủ
trương đồng hóa nhân dân ta. Chủ trương ấy, rút cục không thực hiện được,
nhưng văn hóa Trung Quốc ngày càng có nhiều ảnh hưởng đối với đời sống
vật chất và tinh thần của xã hội. Kể từ cuối thế kỷ thứ II với Sĩ Nhiếp thì Hán
học đã bắt đầu phát triển. Sau đó, lại có những người nước ta sang học ở
Trung Quốc và làm quan bên ấy như Trương Trọng, Lý Tến, Lý Cầm,
Khương Công Phụ v.v… Và đã từng bước hình thành một tầng lớp nho sĩ
người nước ta. Tầng lớp trí thức này tuy còn nhỏ yếu nhưng đã trở hành một
bộ phận của giai cấp phong kiến dân tộc và dần dần cũng có ý thức dân tộc.
Có người tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống ách Bắc thuộc. Thí dụ
tiêu biểu nhất là Tinh Thiều, người giúp Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi bọn đô
hộ nhà Lương. Bên cạnh nho sĩ thì từ cuối thế kỷ thứ II trở đi dần dần lại hình
thành một tầng lớp tăng lữ người nước ta. Đến đời Đường thì tầng lớp tăng
lữ ngày càng phát triển. Tăng lữ khi đó đều là những người có học chữ Hán.
Như vậy là ngay từ thời Bắc thuộc đã hình thành các tầng lớp trí thức Hán
học. Chắc chắn là họ cũng có sáng tác thơ văn. Nhưng tình hình tài liệu hiện
nay không cho phép khẳng định rằng họ đã gây được cơ sở cho nền văn học
thành văn của dân tộc.
Phải đợi đến khi nước nhà giành được độc lập thì mới có cơ sở cho
việc hình thành một nền văn học viết của trí thức bên cạnh dòng văn học
truyền miệng dân gian vốn vẫn phát triển liên tục kể từ thời kỳ Văn Lang, Âu
Lạc. Những văn bản cổ nhất của dòng văn học viết ấy xuất hiện vào thế kỷ
thứ X, tức là trong buổi đầu của thời kỳ độc lập. Từ khi giành được độc lập
cho đến hết thế kỷ thứ XIV, Nhà nước phong kiến có khi thịnh, có khi suy,
nhưng nói chung đang ở trong quá trình phát triển. Giai cấp phong kiến sau
khi đuổi được giặc nước vẫn luôn luôn phải đấu tranh chống ngoại xâm. Đồng
thời giai cấp phong kiến tiến hành xây dựng và củng cố Nhà nước của mình.
Kể từ khi Lý Thái tổ dời đô ra Thăng Long, ý chí mở mang đất nước một cách
quy mô đã thể hiện rõ rệt. Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV, tuy nền sản
xuất xã hội có lúc lên lúc xuống, nhưng vì chính sách khuyến nông và công
tác thủy lợi- được tiến hành một cách kiên trì cho nên nói chung nền kinh tế
nông nghiệp vẫn ở trên đà phát triển. Trên cơ sở nông nghiệp khá vững chắc,
thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có những tiến bộ liên tục. Tóm lại,
đây là giai đoạn đi lên của giai cấp phong kiến khi nó còn có vai trò lịch sử
tích cực, đối ngoại thì hăng hái chống xâm lược, đối nội thì cố gắng thúc đẩy
sản xuất phát triển. Với ý thức làm chủ đất nước, giai cấp phong kiến khi ấy
đã có tinh thần dân tộc. Tinh thần dân tộc này thấy rõ ở trên bình diện văn
hóa cũng như trên các bình diện khác. Và trong nội dung văn học cũng như
trong hình thức văn học thấy biểu hiện ý thức xây dựng bản lĩnh dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này chứng kiến việc xây dựng cơ sở cho
văn học chữ nôm. Và sự hình thành của dòng văn học viết đời Lý, đời Trần là
một trong những biểu hiện rõ nét của sự nghiệp phục hưng văn hóa dân tộc
trong nước Đại Việt đang lớn mạnh dần.
Sang thế kỷ thứ XV, sau khi đuổi được giặc Minh, Nhà nước phong
kiến tiến đến lúc cực thịnh. Cuộc kháng chiến mười năm thắng lợi được là vì
dựa vào lực lượng nhân dân. Những người lãnh đạo chủ chốt, trước hết là
Nguyễn Trãi, đã có ý thức về điều ấy. Cho nên mặc dầu thái độ phản động
của một bộ phận đáng kể trong giai cấp thống trị, thế kỷ thứ XV vẫn chứng
kiến sự cải thiện của thân phận người dân, và do đó sự phát triển của sản
xuất. Xã hội trải qua một thời kỳ ổn định. Đất nước được mở mang, nền độc
lập của dân tộc được củng cố, mối thống nhất của đất nước trở nên vững
chắc hơn trước. Mặt khác thì dần dần chế độ phong kiến được xây dựng với
cơ cấu phức tạp hơn và qui mô to lớn hơn.
Trong khí thế của chiến thắng, trong khí thế xây dựng đất nước, văn
học viết giai đoạn này một mặt thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, một mặt
thể hiện ý thức của giai cấp phong kiến về vai trò của mình. Đây là giai đoạn
phát triển của văn học chữ Hán và trưởng thành của văn học chữ nôm.
Nhưng với việc củng cố chế độ phong kiến, với vai trò thống trị ngày càng
tăng của ý thức hệ Nho giáo, với chủ trương dùng văn học phục vụ cho triều
đại thì dòng văn học viết trong đời Lê Thánh Tông phần nào mất đi khí thế và
sinh lực mà nó thừa hưởng được của nhiều thế hệ tác gia các đời Lý, Trần và
của các tác gia nửa đầu thế kỷ thứ XV mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Trãi.
Từ thế kỷ thứ XVI trở đi, giai cấp phong kiến mất dần vai trò tích cực
đối với lịch sử dân tộc. Các thế kỷ thứ XVI, thứ XVII chứng kiến những mâu
thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến. Các cuộc chiến tranh phong kiến huy
động rất nhiều nhân lực, vật lực, tài lực phá hoại hoặc cản trở việc làm ăn sản
xuất, khiến cho đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng thêm điêu
đứng. Hiện thực của xã hội phong kiến ngày càng thêm đen tối. Nhiều người
có thiện chí trong tầng lớp trí thức khi ấy lui về ẩn dật ở nơi thôn dã, không
muốn cộng tác với Nhà nước phong kiến. Những tác phẩm văn học trong giai
đoạn này mà phần quan trọng là do họ viết ra đã tố cáo tình trạng suy yếu của
chế độ phong kiến. Đặc điểm quan trọng nhất của giai đoạn văn học này là sự
phát triển của văn học chữ nôm về mọi mặt, sự phát triển này phản ánh sự
vang dội của phong trào nhân dân chống phong kiến vào văn học viết của trí
thức dân tộc.
Sang các thế kỷ thứ XVIII và thế kỷ thứ XIX, những mâu thuẫn của chế
độ phong kiến trở nên gay gắt cực độ. Những cuộc tranh quyền đoạt vị đẫm
máu giữa các tập đoàn thống trị và trong cả nội bộ mỗi tập đoàn làm cho chế
độ phong kiến càng thêm mục nát. Nhân dân không chịu nổi áp bức đã vùng
lên chống lại quyết liệt. Và phong trào Tây Sơn, cao điểm của cuộc đấu tranh
vũ trang của nhân dân đã lật đổ các tập đoàn Nguyễn, Trịnh, Lê, đánh đuổi
giặc ngoại xâm trong Nam, ngoài Bắc, thống nhất toàn quốc. Những thắng lợi
ấy của nhân dân chưa kịp củng cố và phát triển thì Nguyễn Ánh, dựa vào giai
cấp địa chủ phục thù và thực dân Pháp, lợi dụng sơ hở của triều Tây Sơn
dưới thời Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) đã cướp lại đất nước. Nguyễn
Ánh đã dựng lại ngôi lầu phong kiến vốn đã mục ruỗng. Và nhà Nguyễn với
chính sách rất phản động, ngay từ đầu đã đối lập với nhân dân. Đó là triều đại
bảo thủ nhất, và do đó mà cũng bất lực nhất trong lịch sử. Nó sẽ tỏ ra khiếp
nhược, đầu hàng trước thực dân Pháp. Những biến động lớn của lịch sử,
hiện thực phức tạp của xã hội, nhất là phong trào đấu tranh mạnh mẽ của
nhân dân vì cuộc sống, vì dân tộc, vì nhân phẩm đã ảnh hưởng lớn vào văn
học viết. Và đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của văn học viết, với số
lượng tác giả và tác phẩm rất lớn. Văn học chữ nôm thì lại đặc biệt rực rỡ với
nhiều tác phẩm làm vinh dự cho nền văn học cổ của nước ta.
Nhìn chung, văn học viết đã phát triển liên tục trong mười thế kỷ quốc
gia độc lập, cùng với sự phát triển của dân tộc. Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ
thứ XV, dòng văn học viết hình thành dần và trở nên một bộ phận không thể
thiếu của văn học dân tộc bên cạnh dòng văn học dân gian trong việc khẳng
định nước Đại Việt độc lập tự cường. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVIII,
cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị của các tập đoàn phong kiến, chống
nạn cát cứ và nội chiến phong kiến đã khẳng định vai trò của nhân dân trong
việc bảo vệ sự thống nhất của đất nước và nền văn hóa dân tộc. Và lịch sử
chứng kiến việc mở rộng nội dung văn học cũng như hình thức văn học. Cuối
thế kỷ thứ XVIII đầu thế kỷ thứ XIX, văn học viết đạt tới mức phát triển rực rỡ
với những tác phẩm có tính chất cổ điển, phản ánh sự lớn mạnh chưa từng
thấy của phong trào nhân dân chống lại giai cấp phong kiến phản động, bảo
vệ Tổ quốc, giữ gìn và phát huy những truyền thống yêu nước và nhân đạo
của dân tộc.
Cho đến giữa thế kỷ thứ XIX, nền văn học dân tộc đã trải qua hàng
nghìn năm phát triển. Nền văn học ấy phản ánh đất nước Việt, con người
Việt, đồng thời lại là ý thức của người Việt về Tổ quốc, về dân tộc, về bản
thân. Nền văn học ấy nảy sinh từ cuộc đấu tranh của dân tộc, đồng thời lại là
sức mạnh tham gia vào cuộc đấu tranh này. Nền văn học ấy ra đời và phát
triển trên cơ sở sự hình thành của dân tộc ta, đồng thời lại là một nhân tố của
sự hình thành này.
Từ giữa thế kỷ thứ XIX trở đi, nền văn học dân tộc với những truyền
thống lâu đời lại phát triển theo một phương hướng mới, với nhiều sinh lực
mới trong cuộc đấu tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc chống kẻ thù xâm
lược mới là chủ nghĩa thực dân Pháp. Đế quốc Pháp xâm lược nước ta với
những thủ đoạn và phương tiện khác hẳn những bọn xâm lược trước kia cho
nên đã đặt dân tộc ta trước nhiều sự bất ngờ đau xót. Tuy nhiên, với chí khí
anh hùng, nhân dân ta không hề chịu khuất phục, vừa chiến đấu vừa tìm hiểu
kẻ thù mà đã dần dần thích nghi với những điều kiện chiến đấu mới. Mặc dầu
có sự phản bội của triều đình nhà Nguyễn, nhân dân ta từ trong Nam đến
ngoài Bắc, từ miền xuôi đến miền ngược đã chống trả quyết liệt từng bước
xâm lược của giặc Pháp. Và những nhân sĩ yêu nước từ Trương Định đến
Phan Đình Phùng, từ Nguyễn Hữu Huân đến Phan Bội Châu đã xứng đáng
với nhân dân, trong việc nêu cao những truyền thống nghìn năm giữ nước
của ông cha. Sang đầu thế kỷ thứ XX tuy giặc Pháp có tạm thời đặt được ách
thống trị thực dân, nhưng lúc nào chúng cũng như kẻ ngồi trên miệng núi lửa.
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta, khi thì âm ỉ khi thù bùng nổ, luôn luôn
tạo ra tình trạng không ổn định của trật tự xã hội thực dân nửa phong kiến.
Văn học đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh ấy.
Và đến lúc này, lịch sử của dòng văn học viết có những sự biến động
đặc biệt trong những biến động đặc biệt của lịch sử đất nước. Văn học viết
bằng chữ Hán nửa cuối thế kỷ thứ XIX vẫn có số lượng tác phẩm lớn, nhưng
dần dần mất đi vị trí quan trọng mà nó đã giữ trong mười thế kỷ. Sang đầu thế
kỷ thứ XX, việc học và việc thi chữ Hán suy dần. Từ sau khoa thi cuối cùng
năm Mậu Ngọ (1918) việc đào tạo tầng lớp trí thức Hán học chấm dứt. Và tiếp
theo đó, lực lượng sáng tác văn học viết bằng chứ Hán ngày càng nhỏ lại.
Trong khi ấy thì việc học, việc thi bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp ngày càng
được mở rộng hơn. Do đó, dần dần đã hình thành một tầng lớp trí thức Âu
học. Từ tầng lớp này đã xuất hiện những người viết văn làm thơ. Ngôn ngữ
dân tộc trước kia vốn được ghi bằng chữ nôm thì từ nay sẽ được ghi bằng
chữ quốc ngữ. Trong khi chuyển từ việc ghi bằng chữ nôm sang việc ghi bằng
chữ quốc ngữ, văn học đã phát triển mạnh mẽ hơn trước. Như thế là vì điều
kiện ấn loát thuận lợi hơn và nhất là vì có sự mở rộng thị trường văn học
trong một xã hội ngày càng có nhiều yếu tố tư sản.
Văn học dùng ngôn ngữ dân tộc trước kia, tức văn học chữ nôm, đã
hình hành trên cơ sở những thành tựu của văn học dân gian, đồng thời lại
tiếp thu không ít ảnh hưởng của Hán học. Những truyền thống của văn học
chữ nôm đã được các tác giả mới kế thừa, nhưng mặt khác thì sang đầu thế
kỷ thứ XX, ảnh hưởng của phương Tây, chủ yếu là ảnh hưởng của văn học
Pháp ngày càng tăng. Tuy nhiên, cũng như ảnh hưởng của Hán học trước
kia, trong sự phát triển của văn học, ảnh hưởng của Âu học sẽ chỉ đưa đến
những kết quả tốt khi được tiếp thu một cách sáng tạo trên cơ sở những
truyền thống văn hóa, văn học và ngôn ngữ của dân tộc. Đến những năm hai
mươi của thế kỷ thứ XX, đại đa số tác phẩm văn học sẽ không viết bằng chữ
Hán và bằng chứ Nôm nữa mà được viết bằng chữ quốc ngữ. Sự chuyển
biến này không phải chỉ thuộc phạm vi chữ viết. Sự chuyển biến này thể hiện
cả trong phạm vi thể loại và phương pháp sáng tác, trong phạm vi văn liệu và
ngôn ngữ văn học. Một nền văn học mới đã ra đời, kế thừa những truyền
thống của văn học cổ và phát triển với những phương thức biểu hiện mới,
phong phú và đa dạng hơn để cho phù hợp với những yêu cầu mới của cuộc
sống, của sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Trừ một số tác giả có xu hướng
thoát ly, quay lưng lại với thực tế nóng bỏng của đất nước, dòng văn học viết
của trí thức dân tộc đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống
giặc Pháp xâm lược và triều đình nhà Nguyễn tay sai, chống văn hóa và văn
học nô dịch của chủ nghĩa thực dân.
Trong cuộc đấu tranh từ cuối thế kỷ thứ XIX đến đầu thế kỷ thứ XX có
sự chuyển biến lớn trong nội dung văn học. Nguyên nhân của sự chuyển biến
ấy là sự chuyển biến trong ý thức hệ của trí thức dân tộc từ những tư tưởng
trung quân ái quốc của phong trào Cần vương đến những tư tưởng duy tân
cứu quốc của các phong trào Đông kinh nghĩa thục và Đông du. Nổi bật lên
trên hết là những tác phẩm chứa chan niềm yêu nước thương dân, sôi sục
nỗi căm thù bọn xâm lược và bọn tay sai. Ngoài ra cũng rất có ý nghĩa tích
cực là các tác phẩm phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến thối nát
mà nhà Nguyễn cố duy trì và những cái lố lăng của chế độ tư sản thực dân
mà giặc Pháp và tay sai vừa mới lập nên. Trong các tác giả, kể cả những tác
giả ưu tú nhất, vẫn có những hạn chế về mặt này hay mặt khác. Xét cho kỹ thì
nguyên nhân cơ bản của mọi sự hạn chế là ở chỗ cho mãi đến Phan Bội
Cháu, các chiến sĩ yêu nước, các nhà văn hóa dân tộc vẫn chưa tìm được
con đường đúng để cứu nước trong điều kiện lịch sử mới. Cho nên quả là
một tất yếu lịch sử khi Nguyễn Ái Quốc, người tìm ra được con đường đúng
nhất để cứu nước cũng lại đồng thời là người giải phóng cho văn học yêu
nước khỏi mọi sự hạn chế. Và từ những năm 20 của thế kỷ thứ XX, những
tác phẩm của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu cho một dòng
văn học mới, có nội dung yêu nước và cách mạng triệt để, gắn với thực tiễn
đấu tranh vô cùng phong phú của nhân dân. Dòng văn học cách mạng ấy từ
năm 1930 trở đi sẽ càng ngày càng phát triển trong khi trên văn đàn công
khai, bên cạnh những xu hướng tư sản và tiểu tư sản thì tinh thần dân tộc tuy
yếu ớt nhưng vẫn có thể tìm thấy ở một số tác giả. Văn học cách mạng tuy bị
bọn thực dân cấm phổ biến nhưng được sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp
vô sản, kế thừa những truyền thống tốt đẹp nhất của văn học dân tộc, hướng
theo lý tưởng tiên tiến nhất của thời đại, đã tham gia trực tiếp vào cuộc đấu
tranh để giải phóng đất nước và ngày càng phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ
hơn đối với các dòng văn học có xu hướng tích cực trên văn đàn công khai
trước Cách mạng tháng 8-1945. Từ năm 1945 đến nay, văn học cách mạng
đã trở nên chính thống và đóng góp rất nhiều vào cuộc đấu tranh vĩ đại của
dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
***
Phần thứ hai: VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ THỨ X ĐẾN THẾ KỶ THỨ XIV
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT TỪ THẾ KỶ THỨ X ĐẾN THẾ KỶ THỨ XIV
Sau khi đuổi được giặc nước, nhân dân ta có điều kiện phát huy mạnh
mẽ hơn trước kia những khả năng của mình. Giai cấp phong kiến dân tộc mà
có thể thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào ách phong kiến ngoại xâm thì chính là vì
đã dựa vào nhân dân. Và để bảo vệ nền độc lập mới giành được thì lại càng
phải dựa vào nhân dân. Cho nên các triều đại đã có chính sách “khoan dân”,
“thân dân” để có thể huy động sức dân.
Tận dụng mặt tích cực mà chính sách ấy có thể đem lại, với nhiệt tình
yêu nước của mình, nhân dân ta đã góp phần quyết định vào sự phát triển
của lịch sử. Và các thế kỷ thứ X, thứ XII, thứ XIII, thứ XIV là thời kỳ đại phục
hưng của dân tộc ta.
Với việc xưng vương và đóng đô ở cổ Loa, Ngô Quyền đã thể hiện ý
chí xây dựng quốc gia độc lập. Cuộc loạn Mười hai sứ quân sau khi Ngô
Quyền chết đã không cản trở nổi việc thực hiện mục tiêu đó. Đinh Bộ Lĩnh đã
qui giang sơn vào một mối và các triều Đinh, Tiền Lê bắt đầu xây dựng quốc
gia phong kiến trung ương tập quyền. Sự nghiệp ấy chỉ được tiến hành có
quy mồ dưới các triều Lý, Trần.
Trong các đời Đinh, Tiền Lê, Lý và đầu đời Trần, bên cạnh công điền,
công thổ tức là bộ phận chủ yếu của ruộng đất trong toàn quốc thì những đại
điền trang của triều đình, của quý tộc và ruộng đất của nhà chùa cũng chiếm
phần quan trọng. Còn như số ruộng đất tư hữu của tiểu nông và địa chủ thì từ
đời Lý trở đi tuy chưa nhiều nhưng cũng ngày càng tăng nhanh.
Giai cấp phong kiến trước hết bao gồm quý tộc và tăng lữ. Địa chủ thứ
dân (tức là không thuộc dòng quý tộc) là tầng lớp dưới của giai cấp đó. Từ
thế kỷ thứ X cho đến đầu thế kỷ thứ XIII, triều đình đã chủ yếu dựa vào quý
tộc và tăng lữ để thống trị, nhưng đồng thời cũng dần dần tìm cách hạn chế
bớt thế lực của hai tầng lớp ấy để củng cố chính quyền trung ương. Giữa
tăng lữ và quý tộc thường có quan hệ huyết thống. Sư Khuông Việt là tông
thất nhà Ngô, sư Viên Chiểu là quốc thích nhà Lý, sư Măn Giác là con quan
đại thần v.v… Mặt khác thì trong các đời Lý Trần, các hoàng đế và hoàng
hậu, các hoàng thân quốc thích, các công hầu, khanh tướng lúc về già
thường đi tu. Có nhiều truyền thuyết, tuy mang tính chất mê tín dị đoan nhưng
cũng phản ánh một sự thực là mối quan hệ huyết thống ấy (truyện nhà sư Đại
Diên giúp cho Nguyễn Bông đầu thai trở thành Lý Nhân Tông, truyện nhà sư
Từ Đào Hạnh đầu thai trở thành Lý Thần Tông). Trong các đời Đinh, Tiền Lê,
Lý và đầu đời Trần, tăng lữ tham gia chính sự và giữ những chức chướng
quan trọng ở triều đình bên cạnh quý tộc. Như vậy thì quý tộc và tăng lữ rõ
ràng là hai bộ phận khắng khít của giai cấp phong kiến trong thời kỳ này.
Quần chúng nhân dân trước hết bao gồm “nông dân tự do” là người
lĩnh canh công điền công thổ (một số ít có đôi chút ruộng đất) và nông nô ở
các điền trang của nhà nước, của quý tộc và của tăng lữ. Ngoài ra, cũng phải
kể đến thợ thủ công và lái buôn.
Nhìn chung, Nhà nước phong kiến trên con đường đi lên của nó không
phải là không có những chính sách nhằm thúc đẩy xã hội phát triển phù hợp
với lợi ích chung của dân tộc và cũng vì thế mà đã tranh thủ được sự ủng hộ
của nhân dân. Các triều vua Lý, Trần đều khuyến khích nông nghiệp. Từ đời
Lê Hoàn đã có lễ cày ruộng tịch điền thể hiện tinh thần coi trọng nghề nông:
cứ đến đầu tháng giêng thì nhà vua đích thân cày một thửa ruộng tịch điền,
mở đầu năm sản xuất. Nhà Lý, nhà Trần rất chú ý bảo vệ ruộng đất chống lụt
lội. Năm 1118, vua Lý cho đắp đê Cơ Xá. Tiếp đó nhà Lý và nhà Trần đã từng
bước phát triển và củng cố hệ thống đê ở các sông, đặc biệt là sông Nhĩ Hà,
lại đặt ra những chức Hà-đê chánh sứ, phó sứ để chuyên coi việc đào kênh
ngòi, đắp đê đập nhằm phục vụ giao thông và thủy lợi. Cuối thế kỷ thứ XI,
giống lúa chiêm đem từ Chiêm Thành vê, khiến cho ruộng đất ở nhiều vùng
dần dần được sử dụng cho hai mùa cày cấy. Nhà Lý và đặc biệt là nhà Trần
còn chú trọng mở rộng thêm diện tích canh tác, tổ chức và khuyến khích việc
khai hoang. Và chính sách “ngụ binh ư nông” đặt ra từ đời Lý một mặt đảm
bảo sức lao động cho sản xuất nông nghiệp, một mặt lại đảm bảo yêu cầu
sẵn sàng chiến đấu của quân dân trước mọi nguy cơ xâm lược.
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp đã phát triển trong nước Đại Việt
độc lập. Và đó là điều kiện cho việc đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp. Cho
nên tuy không được Nhà nước phong kiến coi trọng bằng nông nghiệp,
nhưng thủ công nghiệp cũng ngày càng phồn thịnh. Vả lại, triều đình có khi
cũng khuyến khích mỹ nghệ dân tộc. Thí dụ như năm 1040, nhà Lý chủ
trương dùng gấm vóc trong nước sản xuất để may lễ phục cho vua quan, chứ
không mua gấm vóc của nước ngoài nữa. Sự kiện này chứng tỏ rằng nghề
dệt gấm khi ấy đã đạt trình độ cao. Thư tịch cũ cho biết thủ công nghiệp các
đời Lý, Trần sản xuất ra hầu hết các nhu yếu phẩm của xã hội: nông cụ, vải
lụa; vật liệu xây dựng, đồ gốm, đồ sứ, đồ đông, vũ khí, xe thuyền. Kinh đô
Thăng Long có nghề dệt vải ở làng Nghi Tâm, nghề làm đồ binh khí ở
phường Tàng Kiếm, nghề làm giấy ở phường Yên Thái, nghề nung vôi ở
phường Hà Tân, nghề nhuộm điều ở phường Hàng Đào, nghề làm quạt ở
phường Tả nhất, v.v… Rất nhiều địa phương khác trong nước cũng nổi tiếng
về nghề thủ công. Mao Điền, Bất Bế dệt vải nhỏ, Hoa Triều, Kính Chủ sản
xuất đá hoa, Tiên Phong dệt lụa, Tam Nông sản xuất chè tai mèo, Sơn Vi sản
xuất sơn, tơ; Huệ Cầu nhuộm vải thâm, Yên Thế nung vôi đỏ, chế cung tên,
Thanh Oai dệt vóc là, Chuyên Mỹ khảm trai, Kim Bảng dệt the, v.v… Đáng
chú ý là ngay từ đời Lý, nghề khắc ván in sách đã có truyền thống. Sách
Thiền uyển tập anh chép rằng Tín học thiền sư (sống vào thế kỷ thứ XI) xuất
thân từ một nhà đời đời làm nghề khắc bản in.
Nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển mạnh đã tạo điều kiện cho
thương nghiệp phát triển theo. Kinh đô Thăng Long ngày càng mở mang.
Trong đời Trần, Thăng Long có 61 phường và nhiều phố xá buôn bán. Chợ
Đồng Xuân đã nổi tiếng từ thời ấy. Việc giao thông ngày càng được mở
mang. Nhiều đường thủy bộ và trạm dịch nối liền kinh đô Thăng Long với các
địa phương. Các chợ là nơi trao đổi hàng hóa mọc lên ở khắp nơi. Việc buôn
bán với nước ngoài được tổ chức ở các thương khẩu nổi tiếng như Vĩnh
Bình, Nghi Hòa đinh (Cao Lạng ngày nay), Vân Đồn (An Bang, tức Quảng
Ninh ngày nay).
Nhìn chung, nền kinh tế của nước Đại Việt độc lập đã đạt tới trình độ
phát triển cao trong thế giới Trung cổ. Và trên cơ sở nền sản xuất khá dồi
dào, văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội đã có điều kiện nảy nở.
Nhà nước phong kiến Đại Việt muốn củng cố được nền độc lập của
mình đối với nhà Tống, nhà Nguyên ở phương Bắc thì không những phải cố
gắng xây dựng cơ sở kinh tế vững chắc mà còn phải xây dựng cho được một
cơ sở văn hóa riêng biệt. Các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn ngủi cho nên chưa
thể quan tâm nhiều đến văn hóa. Lý Thái Tổ có hoài bão xây dựng Nhà nước
phong kiến một cách quy mô, bèn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (năm
1010). Triều đình có chính sách văn hóa ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn.
Xây dựng văn hóa tinh thần của chế độ, Nhà nước phong kiến Đại Việt
trước hết phải đạt yêu cầu khẳng định tính độc lập của mình đối với Nhà
nước phong kiến phương Bắc mà ý đồ nhất quán trước sau vẫn là không
muốn chấp nhận sự thực ấy. Mặt khác, Nhà nước phong kiến Đại Việt lại thấy
cần phải tiếp thu những kinh nghiệm và thành tựu của Nhà nước phong kiến
phương Bắc trong việc sử dụng văn hóa như là một phương tiện thống trị.
Chính sách của các vương triều Lý và Trần vì vậy đã thể hiện ý thức cố gắng
dung hòa và kết hợp những vốn liếng văn hóa dân gian vốn là nền tảng của
văn hóa dân tộc với những hệ tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo vốn
được giai cấp thống trị ở Trung Quốc từ lâu coi như nền tảng tinh thần của
chế độ phong kiến. Dung hòa và kết hợp như vậy là một việc khó khặn và
phức tạp, nhất là trong trường hợp có sự đối lập rõ rệt như là giữa tư tưởng
nhân dân và Nho giáo. Tuy nhiên giữa văn hóa dân gian vốn có gốc rễ sâu xa
từ đời sống của dân tộc ta hàng bao nhiêu đời và các hệ tư tưởng từ bên
ngoài du nhập vào cũng có những ảnh hưởng qua lại không thể phủ nhận.
Sau khi nước nhà giành được độc lập, văn hóa dân gian vốn là một vũ
khí tinh thần mạnh mẽ đã chiến thắng mọi âm mưu đồng hóa của bọn thái
thú, đô hộ thời Bắc thuộc thì từ nay lại có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn
trước. Trong khí thế của nhân dân Đại Việt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nhiều giá trị văn hóa từ lâu bị chìm đắm hoặc bị ức chế bèn được phục hồi,
nhiều khả năng bèn được phát huy. Và văn hóa dân gian thể hiện ý thức ngày
càng sâu sắc hơn về dân tộc Đại Việt, thể hiện quá trình phục hưng vĩ đại và
nảy nở phong phú. Để cho văn hóa tinh thần của chế độ có được một bản sắc
dân tộc, các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê và đặc biệt, là Lý, Trần đã sử
dụng di sản văn hóa dân gian mà tổ tiên đã bảo tồn và phát triển được qua
cuộc đấu tranh chống ách Bắc thuộc cũng như những thành tựu mới mà văn
hóa dân gian đã đạt được từ khi nước nhà độc lập.
Những thần thoại về nguồn gốc dân tộc Việt, Về cuộc đấu tranh xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt, những hội đền Hùng, Hội Rô, Hội Dóng, những
truyền thuyết về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai
Thúc Loan, Phùng Hưng, v.v…, những truyền thuyết về các vị thần núi, thần
sông, thần đất, thần nước ở các địa phương thấm đượm tín ngưỡng chất
phác, tất cả đã kết hợp với những phong tục, tập quán rất bền vững từ lâu đời
của nhân dân ta. Cuộc đấu tranh trường kỳ, phức tạp, nhiều khi ác liệt để
khắc phục thiên nhiên, và chống ách thống trị ngoại xâm, những quan điểm
và nhận thức về nguồn gốc dân tộc, về lịch sử dân tộc, những phong tục, tập
quán gắn với môi trường và điều kiện sinh hoạt, tất cả đều tham gia vào việc
nảy sinh và hình thành của các tác phẩm văn nghệ dân gian từ tranh tượng,
đồ chạm, đồ khảm đến các điệu nhảy múa, âm nhạc, các bài hát, các truyện
kể, các tích trò, v.v… Đền miếu, chùa chiền, và hội hè, đình đám ở khắp nơi
trong nước là nơi chứa đựng tập trung hơn cả những thành tựu văn nghệ dân
gian thời xưa, tuy rằng không ít tác phẩm văn nghệ dân gian đã nảy sinh và
hình thành ngoài những địa điểm và môi trường ấy.
Nhà nước đã sử dụng những thành tựu văn hóa văn nghệ dân gian vì
những mục đích của mình. Vương quyền cần có vầng hào quang kỳ diệu
chăng? Thế thì các vị thần linh “vốn là thủy tổ của nhân dân Đại Việt” hoặc là
anh hùng của dân tộc bèn “phù trợ nhà vua”. Thánh Dóng đã giúp Lê Đại
Hành đuổi giặc Tống, Hai Bà Trưng đã giúp Lý Anh tông làm ra mưa để cứu
hạn, Trương Hống, Trương Hát đã giúp Lý Thường Kiệt thắng Quách Quỳ,
thần Đồng cổ đá giúp Lý Thái Tông thắng Chiêm Thành. Các vua chúa
thường hay “xúc tiếp” với các thần mà nhân dân đương thời sùng bái và được
sự âm phù của các vị ấy trong việc trị nước, yên dân ở khắp nơi trong nước,
các vị thần linh phần lớn đều được triều đình bao phong và được coi như
những thế lực ủng hộ vương quyền. Đưa những vị thần mà nhân dân thờ
cúng vào điện thần, vào tự điển của Nhà nước như vậy rõ ràng là nhằm mục
đích chính trị. Nhà nước muốn rằng nhân dân vì tín ngưỡng thần linh mà
càng tin theo nhà vua. Nhưng xét cho kỹ thì các vua Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần
với tư cách là người Việt cũng có niềm tự hào chân thành về các vị thủy tổ
của dân tộc Việt, về “nhân kiệt” “địa linh” của đất nước Việt. Là người Việt, họ
cũng tuân theo phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người Việt một cách tự
nhiên. Và tinh thần dân tộc của họ đã thể hiện rõ ở chỗ sử dụng những thành
tựu của văn nghệ dân gian để xây dựng văn nghệ cung đình. Đinh Tiên
Hoàng đã cho dạy Hát Chèo trong quân đội. Bản thân Lê Hoàn và các vua Lý,
vua Trần nhiều khi cũng múa và hát theo những khúc điệu dân gian. Nhìn
chung, ca, múa, nhạc cung đình các triều Lý, Trần đều bắt nguồn từ ca múa,
nhạc dân gian và vẫn chưa tách rời nguồn gốc ấy. Sân khấu dân gian trải qua
các triều Lý, Trần cũng ngày càng phát triển và ảnh hưởng không ít đến văn
hóa cung đình. Múa rối thường không thể thiếu trong các hội hè đình đám thì
lại được các vua nhà Lý, nhà Trần rất ham thích. Các đên, chùa lớn như Đền
Dóng, Chùa Thày đều có nhà thủy đình để biểu diễn múa rối. Hát chèo được
những nhân vật có danh vọng như Từ Đạo Hạnh đời Lý, Trần Nhật Duật đời
Trần tham gia xây dựng. Các vua như Lý Thần Tông, Trần Dụ Tông rất
chuộng hát chèo, hát tuồng và ưu đãi nghệ nhân.
Việc sử dụng văn hóa văn nghệ dân gian còn thể hiện trong những
công trình kiến trúc và điêu khắc. Hiện nay, phần lớn các công trình kiến trúc
từ đời Trần trở về trước đã bị hủy hoại. Nhưng theo sử sách và tài liệu khảo
cổ hoc, cũng như một số di tích còn lại thì được biết từ thế kỷ thứ X đến thế
kỷ thứ XIV, các vương triều đã cho xây dựng nhiều công trình lớn. Năm 1031,
nhà vua cho xây 950 ngôi chùa ở trong nước. Cung điện nhà vua ở Thăng
Long có tòa cao 4 tầng Tháp Báo Thiên ở Thăng Long cao 12 tầng, tháp
Sùng Thiên Diên Linh ở Sơn Nam (Duy Tiên, Hà Nam Ninh ngày nay) cao 13
tầng. Nền chùa Dạm (Quế Võ, Hà Bắc ngày nay) dài 120 mét, rộng 70 mét,
Chùa Một Cột, chùa Keo, chùa Thày, chùa Láng, chùa Hun, tháp Bình Sơn,
chuông Qui Điền (nặng 12.000 cân đồng) v.v… đều là những công trình văn
hóa nổi tiếng. Lăng mộ nhà Trần ở Thái Đường (Thái Bình ngày nay) cũng là
công trình kiến trúc có giá trị. Đến như thành nhà Hồ (cuối thế kỷ thứ XIV, đầu
thế kỷ thứ XV) thì lại có qui mô đồ sộ, thể hiện trình độ cao của kỹ thuật xây
dựng cũng như của nghệ thuật kiến trúc. Những di tích văn vật còn lại cho
phép khẳng định rằng nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trong các công trình
của Nhà nước đời Lý, đời Trần đã tiếp thu những truyền thống nghệ thuật dân
gian và tận dụng khả năng, đặc điểm của vật liệu có sẵn trong nước.
Việc tiếp thu những truyền thống văn hóa, văn nghệ dân gian còn thể
hiện trong các trước tác văn, sử, triết. Những tác phẩm như Đỗ Thiện sử ký,
Đại Việt sử lược, Việt điện u linh, thiên uyển tập anh, Lĩnh nam chích quái,
v.v… đã chứng tỏ điều ấy. Đáng chú ý nhất là để viết nên những tác phẩm
văn học chữ nôm thì Trần Nhân tông và các tác giả khác đã sử dụng nhiều
thành tựu và kinh nghiệm của văn học dân gian.
Tiếp thu những truyền thống của văn hóa, văn nghệ dân gian để xây
đựng văn hóa, văn nghệ chính thống của Nhà nước Đại Việt là một hiện
tượng có tính tất yếu lịch sử, bởi vì nếu muốn có một nên văn hóa, văn nghệ
mang bản sắc dân tộc thì không thể làm khác.
Nhưng Nhà nước phong kiến lại cũng không thể không dựa vào những
hệ tư tưởng vốn tỏ ra có ích cho giai cấp thống trị như Phật giáo, Đạo giáo và
nhất là Nho giáo để xây dựng nền tảng tinh thần của chế độ phong kiến. Đầu
thế kỷ thứ X, khi nước nhà giành được độc lập thì Phật giáo và Đạo giáo
đương rất thịnh, vì trong mấy trăm năm cuối thời Bắc thuộc đã được các triều
đại Trung Hoa, nhất là nhà Đường, khuyến khích rất nhiều. Các vua Đinh, Lê,
Lý đều sùng thượng Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo
có những phần không có ích thiết thực cho Nhà nước. Giai cấp phong kiến
Đại Việt muốn mở mang cơ đồ thì tất nhiên không thể quên khả năng lớn lao
của Nho giáo trong việc củng cố địa vị thống trị của nó. Năm 1070, Lý Thánh
Tông lập Văn miếu ở quốc đô: thế là bên cạnh các chùa thờ Phật, đã có miếu
thờ các vị thánh hiền của Nho gia. Năm 1075, Lý Nhân tông mở khoa thi tam
trường để kén người minh kinh bác học; năm 1076, nhà vua mở Quốc tử
giám để chăm lo việc giảng thuật Nho giáo. Các năm 1086, 1152, 1165 và
1193 cũng có những kỳ thi. Như vậy là kể từ đời Lý, Nho giáo dần dần được
đề cao. Tuy nhiên, thế lực của Phật giáo và Đạo giáo trong suốt đời Lý và đầu
đời Trần vẫn còn lớn lắm. Nhà nước phong kiến có dành địa vị cao cho Nho
giáo nhưng vẫn là trong điều kiện dung hòa Nho giáo với Phật giáo và Đạo
giáo. Việc Lý Cao Tông mở khoa thi Tam giáo vào năm 1195 là một trong
nhiều chứng cứ cụ thể của quan niệm Tam giáo đồng nguyên đang thịnh
hành khi ấy.
Tầng lớp nho sĩ vốn đã xuất hiện từ thời Bắc thuộc, mới bắt đầu phát
triển từ thế kỷ thứ XII. Và trong đời Lý, nói chung tăng lữ vẫn chiếm đa số
trong những người có học. Vì vậy lực lượng sáng tác văn học từ đời Lý trở về
trước chủ yếu là tăng lữ.
Bước sang thế kỷ thứ XIII, tình hình kinh tế và chính trị dần dần chuyển
biến và đến nửa cuối thế kỷ thứ XIV thì bộ mặt xã hội đã có những thay đổi
lớn. Do các cuộc xung đột trong nội bộ giai cấp phong kiến cuối đời Lý
(khoảng cuối thế kỷ thứ XII và đầu thế kỷ thứ XIII), các cuộc xâm lăng của
giặc Nguyên (thế kỷ thứ XIII) và các cuộc lược đoạt của bọn vua chúa Chiêm
Thành (thế kỷ XIV). tài sản của bọn quý tộc bị phá hoại nhiều. Đồng thời, sự
ăn tiêu xa xỉ, việc tu tạo những chùa chiên, đài tạ cũng phung phí nhiều của
cải và làm cho khá đông quý tộc ngày thêm sa sút. Nhà nước phong kiến trên
con đường củng cố chế độ trung ương tập quyền lại dần dần tìm cách hạn
chế thế lực của quý tộc, vì thế lực này trong những trường hợp nhất định đã ít
nhiêu cản trở hiệu lực của pháp lệnh triều đình. Trong khi đó, do sự đấu tranh
của mình, các tầng lớp thứ dân giành được những quyền lợi nhất định. Số
“nông dân tự do” có chút ít ruộng đất ngày càng tăng. Nhà Trần đã bán ruộng
công cho nông dân làm ruộng tư và quy định một số luật lệ bảo đảm quyền tư
hữu ruộng đất. Những tầng lớp tiểu tư hữu và bộ phận giàu có của tầng lớp
ấy là địa chủ thứ dân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tầng lớp địa chủ thứ
dân sẽ chiếm địa vị chính trị ngày càng quan trọng.
Qua các cuộc chiến tranh chống xâm lược, đặc biệt là qua cuộc kháng
phiến chống giặc Nguyên, nhiều người xuất thân thứ dân như Phạm Ngũ Lão,
Yết Kiêu, Dã Tượng V.V.. lập được công trạng lớn và do đó được triều đình
phong chức tước cho. Trong thế kỷ thứ XIII, ngày càng có nhiều người xuất
thân thứ dân đi học và đi thi. Nhà Trần trong việc lựa chọn nhân viên cho bộ
máy chính quyền ngày càng thiên về biện pháp khảo khí hơn là các biện pháp
đề cử hoặc thế tập. Các kỳ thi Nho giáo tổ chức có thường lệ, lại có quy mô
rộng rãi hơn là trong đời Lý, với mục đích trước hết là tuyển người ra làm
quan. Năm 1236, Trần Thái tông đặt ra chức đề diệu Quốc từ giám để dạy
con em các quan văn. Năm 1252, nhà vua lại cho những phần tử xuất sắc
trong đám con em thứ dân cũng được theo học Quốc tử giám. Đến cuối thế
kỷ XIV, năm 1397, triều đình lại đặt chức học quan ở các lộ, phủ, châu, để mở
rộng việc học ra các địa phương. Như thế là triều đình ngày càng phát triển
quy mô đào tạo tầng lớp nho sĩ, những người sẽ tỏ ra đắc lực nhất trong việc
củng cố Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Khá đông nho sĩ có nguồn gốc từ những gia đình có của trong các tầng
lớp thứ dân, trước hết là từ bộ phận giàu có trong các tầng lớp ấy như địa
chủ, phú nông, phú thương v.v… Tất nhiên một số đông hơn có nguồn gốc từ
quý tộc. Một số ít thì có nguồn gốc từ nông dân, thợ thủ công. Nho sĩ thi đỗ
phần lớn sẽ trở thành quan liêu trong bộ máy chính quyền phong kiến. Một số
khác hoặc không đi thi, hoặc thi trượt, hoặc thi đỗ nhưng không ra làm quan
mà chỉ mở trường dạy học: họ dần dần đông đảo và trở thành một tầng lớp trí
thức ngày càng có uy thế trong xã hội. Họ là lực lượng sáng tác chủ yếu trong
văn học đời Trần, đặc biệt là trong thế kỷ thứ XIV.
***
Từ thế kỷ X đến thế kỷ thứ XIV; các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, Hồ đã hết hưng rồi lại phế, họ này thay họ kia mà làm vua, và xã hội
cũng trải qua những phen biến động và khủng hoảng, nhưng nói chung thì
chế độ phong kiến đang còn thịnh và giai cấp phong kiến dân tộc còn có vai
trò lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Ở một đất nước đang lớn mạnh, nền Văn hóa dân tộc đã ngày càng
phát triển. Trong bối cảnh ấy, dòng văn học viết của dân tộc bao gồm văn học
chữ Hán và văn học chữ nôm đã hình thành bên cạnh dòng văn học dân gian
vốn rất phong phú từ trước. Dòng văn học viết đã dần dần phát triển mạnh
mẽ cùng dòng văn học dân gian, trở thành một bộ phận quan trọng và không
thể thiếu trong nền văn học của một quốc gia độc lập.
Khác với dòng văn học truyền miệng dân gian, dòng văn học viết không
phải là sản phẩm trực tiếp của nhân dân. Tác giả của dòng văn học viết là
tăng lữ, là nho sĩ, nhiều khi là quan liêu, quí tộc, vua chúa. Họ chịu ảnh
hưởng nhiều của Phật giáo, Đạo giáo hoặc Nho giáo, và nói chung tư tưởng
của họ nằm trong ý thức hệ phong kiến. Tuy nhiên, khi mà lịch sử đang chứng
kiến sự phục hưng của dân tộc, khi mà nhân dân đang phấn khởi xây dựng
đất nước cũng như quyết tâm bảo vệ độc lập thì hào khí ấy có ảnh hưởng lớn
đối với nhiều tác giả và khiến cho họ phần nào vượt ra khỏi những giáo điều
của Phật giáo, Nho giáo để xứng đáng là những trí thức dân tộc. Và những
tác giả ưu tú vì tiếp thu được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân và
chịu ảnh hưởng của văn hóa văn nghệ dân gian cho nên đã phản ánh được
những vấn đề chính của thời đại và tìm cách lý giải những vấn đề ấy theo
quan điếm tích cực, có tính nhân dân.
Sự phát triển của văn học từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV chính là
sự mở rộng dần những vấn đề ấy, chính là sự nâng cao dần quan điểm ấy.
II. VĂN HỌC ĐỜI LÝ VÀ NHỮNG TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
Như đã trình bày ở trên, văn học truyền miệng dân gian vốn rất phong
phú từ thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc, vẫn tồn tại và sinh thành như một sức mạnh
tinh thần chống lại ách thống trị ngoại xâm từ Hán đến Đường thì sang thế kỷ
thứ X đã có điều kiện để phát triển một cách rực rỡ trong nước Đại Việt độc
lập. Và từ đó, văn học dân gian tiến lên mạnh mẽ trên cơ sở kế thừa và phát
huy những truyền thống lâu đời của mình và của văn hóa dân tộc.
Văn học viết của trí thức phong kiến các đời Đinh, Lê, Lý không có
được những điều kiện giống hẳn thế. Trong thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc dầu cho
có hình thành chữ viết và một dòng văn học viết đi nữa thì trải qua hơn nghìn
năm đất nước bị tàn phá dưới ách thống trị ngoại xâm cũng chẳng còn vết
tích gì về dòng văn học ấy. Trong thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị ngoại
xâm, đã dần dần hình thành tầng lớp trí thức Hán học là các nhà nho, các nhà
sư, các đạo sĩ. Cùng với sự trưởng thành của giai cấp phong kiến dân tộc,
tầng lớp trí thức ấy cũng ngày càng có ý thức dân tộc. Chắc họ đã viết văn,
làm thơ: tiếc rằng tư liệu liên quan đến sáng tác của họ còn lại đến nay rất ít,
cho nên chưa có thể đánh giá được những đóng góp của họ đối với dân tộc,
đối với văn học dân tộc. Tuy nhiên, dầu sự đóng góp ấy có đáng kể đi nữa thì
có lẽ cũng khó mà nói rằng đã hình thành một dòng văn học viết của dân tộc
trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong thời kỳ này, nói đến truyền thống văn học dân
tộc thì trước hết và chủ yếu vẫn là nói đến văn học truyền miệng trong dân
gian.
Phải đợi đến khi dân tộc giành được độc lập và xây dựng nước Đại Việt
tự cường thì tầng lớp trí thức của dân tộc vì tích cực đóng góp vào sự nghiệp
này mới dần dần khơi mở ra một dòng văn học viết bên cạnh dòng văn học
truyền miệng dân gian. Hai dòng văn học ấy vì tác động qua lại với nhau mà
phát triển nhanh và mạnh, mỗi dòng đều tham dự vào quá trình vận động của
văn học dân tộc.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV là thời kỳ hình thành dòng văn học
viết. Nhưng sự hiểu biết của chúng ta về văn học viết – văn học chữ Hán
cũng như văn học chữ nôm – trước thế kỷ thứ XV bị hạn chế trong những tài
liệu ít ỏi còn sót lại sau sự tàn phá độc hại của bọn quan lại nhà Minh, một sự
tàn phá văn hóa tiến hành có đường lối, chủ trương, có kế hoạch và có kiểm
tra của triều đình nhà Minh đứng đầu là Minh Thành tổ. Điều kiện tài liệu ít ỏi
làm cho chúng ta phải hết sức thận trọng khi nhận định về những bước đầu
của văn học viết.
Nếu như Lý Thái tổ chính thức mở ra trang đầu lịch sử văn học viết của
nước Đại Việt bằng Chiếu dời đổ nổi tiếng xuất hiện vào năm 1010 thì cũng
không nên quên rằng trước tác phẩm này, đã có những bài thơ của các thiền
sư trong đó phải kể đến bài thơ mà thiền sư Ngô Chân Lưu làm để tiễn sứ giả
nhà Tống là Lý Giác (năm 981).
Trước đời Lý, các thiền sư đã từng có vai trò quan trọng giúp đỡ triều
đình việc chính trị, việc ngoại giao. Ít nhiều tách rời truyền thống “vô ngôn đốn
ngộ” của Thiền tông, họ làm thơ phát biểu về các vấn đề của quốc gia và cả
các vấn đề của Phật giáo nữa. Dầu sao, cũng phải đến đời Lý mới thấy thể
hiện tương đối rõ nét ý nghĩa của văn học Thiền tông.
Theo sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm viết vào hồi thế kỷ thứ
XIII, thì trong đời Lý có khoảng trên bốn chục nhà sư làm thơ văn. Hiện nay
còn lại một số tác phẩm của khoảng hai chục nhà sư, trong đó tiêu biểu nhất
là tác phẩm của Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Không Lộ, Quảng Nghiêm,
Viên Thông, Diệu Nhân… Số tác giả không hẳn thuộc nhà chùa thì hiện nay
chưa phát hiện được nhiều. Những tên tuổi đáng chú ý là Lý Thái tông, Lý
Nhân tông, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Cống Bật (hoặc Mai Bật) Đoàn Văn
Khâm, Nguyễn Nguyên Úc, Lý Thừa Ân.
Trong đời Lý, văn học viết của dân tộc đang còn ở bước đầu. Vì vậy
chắc rằng số tác phẩm cũng không nhiều. Dầu sao thì hiện nay chúng ta biết
rất ít về thư mục đời Lý. Căn cứ vào những thư mục của Lê Quí Đôn (cuối thế
kỷ thứ XVIII) và của Phan Huy Chú (đầu thế kỷ thứ XIX) và vào những di tích
lịch sử và tôn giáo thì được biết rằng trong đời Lý có những sách Ngọc điệp
(đã mất). Hình thư (đã mất) Chư Phật tích duyên (đã mất). Tăng gịà tạp lục
(đã mất). Đó phần lớn lại có vẻ không phải là tác phẩm văn học. Ngoài ra,
chúng ta còn biết một số văn bia, văn chuông như: văn chuông chùa Thiên
Phúc, núi Phật tích, văn chuông chùa Viên Quang, văn bia tháp Sùng Thiện
Diên Linh, văn bia chùa Báo Ân, văn bia chùa Linh Xứng, văn bia chùa Sùng
Nghiêm Diên Khánh, văn bia chùa Diên Phúc, văn bia chùa Bảo Ninh Sùng
Phúc,v.v… Đây là những tác phẩm có ý nghĩa sử học, nhưng nhiều khi cũng
rất có giá trị văn học. Ngoài ra, những tác phẩm như Chiếu dời đô của Lý Thái
tổ, Chiếu miễn thuế của Lý Thái tông, Chiếu để lại lúc lâm chung của Lý Nhân
Tông, Chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng, Văn lộ bố của Lý Thường
Kiệt, Luận văn “Bàn về nguồn gốc an nguy trị loạn của xã tắc” của Nguyễn
Nguyên Úc, v.v… là những tác phẩm chính luận có giá trị văn học. Về thể loại
truyện, ký thì sử sách thường nhắc đến Báo cực truyện (khuyết danh tác giả)
và Ngoại sử ký của Đỗ Thiện, nhưng hiện nay chúng ta không được biết gì
hơn về các tác phẩm này ngoài một vài đoạn được dẫn ra trong Việt điện u
linh và Lĩnh nam chích quái (tức là những sách xuất hiện sau đời Lý). Phần
chủ yếu trong văn học còn lại từ đời Lý là thơ, tuy rằng số thơ này cũng không
nhiều. Đó hầu hết là thơ của nhà chùa. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý
Thường Kiệt không phải thơ của nhà chùa thì lại tiêu biểu hơn cả cho tinh
thần của thời đại và nêu cao truyền thống tốt đẹp nhất mà văn học đời Lý có
thể để lại cho đời sau.
***
Trong đời Lý, Phật giáo rất thịnh và vai trò của tăng lữ trong văn học
phản ánh vị trí của họ trong xã hội. Văn học đời Lý có những phần chịu ảnh
hưởng của Nho giáo. Nhưng ảnh hưởng của Phật giáo thường rất lớn, có tính
chất chủ đạo.
Cuối thời Bắc thuộc, tiếp đó là thời họ Khúc dấy nghiệp, rồi các đời
Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Mười hai sứ quân, Đinh, Tiền Lê, xã hội
nước ta trải qua nhiều cơn binh lửa, nhiều cảnh tàn phá thảm khốc. Cuộc
sống bấp bênh, nhân dân đau khổ. Mặt khác, tập tục hung hãn của thời loạn
ăn sâu vào các tầng lớp phong kiến, nhất là đám chiến tướng võ biền và cũng
ảnh hưởng vào cả những bộ phận nhất định trong dân chúng, nhất là những
đám lưu dân. Để trừng phạt tội ác, nhà Đinh đã phải dùng đến hình pháp khốc
liệt như vạc dầu, chuồng hổ. Đó tất nhiên là điều bất đắc dĩ. Nhưng nếu Vạn
thắng vương Đinh Bộ Lĩnh, có thể ngồi trên lưng ngựa chiến, dùng thanh
kiếm sắc mà khắc phục nạn cát cứ Mười hai sứ quân thì lại không thể chỉ
dùng hình pháp khốc liệt mà mong xác lập trật tự, qui tụ nhân tâm và đem lại
cảnh ổn định cho xã hội được. Để làm những việc này, Nhà nước phong kiến
một phần lại phải dựa vào Phật giáo. Phật giáo sau tám thế kỷ thâm nhập vào
nước ta, đến thế kỷ thứ X đã có một hệ thống chùa chiền và một mạng lưới
tăng ni rộng lớn ở khắp hơi. Nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê dựng nước thì
đều đã phần nào dựa vào thế lực của tăng lữ. Lý Công Uẩn được nhà chùa
nuôi dạy từ nhỏ, cho nên khi lên làm vua lại càng phải dựa vào nhà chùa. Và
ảnh hưởng của Phật giáo từ đó ngày càng thêm mạnh. Câu tục ngữ: “Đất
vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” phản ánh tình hình xã hội đời Lý. Đất trong
toàn quốc, tức công điền công thổ mà diện tích rất lớn, là của nhà vua. Đó
chính là một chỗ dựa về kinh tế và chính trị cho thế quyền. Chùa là của làng
xã, là nơi tập hợp lòng người ở đơn vị cơ sở của xã hội. Trong đời Lý, chùa
lại còn là nơi vua quan trú ngụ mỗi khi về làng xã. Và nhà chùa dạy rằng toàn
thể phong cảnh, mặt đất và bầụ trời, vạn vật với vô vàn sắc tướng, tức là thế
giới Sa-bà này, tất cả là của Phật. Nhà chùa dạy rằng đã ở trong thế giới của
Phật thì phải tuân theo giới luật và tin theo giáo lý của nhà chùa. Nhà nước
phong kiến, với tính cách là người quản lý đất nước, muốn nắm được nhân
dân ở cơ sở thì một phần phải dựa vào Phật giáo, cụ thể là chùa làng. Nhà
nước phong kiến dân tộc trên đường xây dựng, với nguyện vọng giữ được
tính độc lập với Nhà nước phong kiến phương Bắc về mặt văn hóa, về mặt
tinh thần, thì không thể hoàn toàn dựa vào Nho giáo đang được nhà Tống coi
là quốc giáo ở Trung Quốc mà đã dựa vào Phật giáo vốn chứa đựng nhiều tư
tưởng phi Nho giáo. Xem xét vai trò qủa tăng lữ đời Lý tất nhiên phải chú ý tới
khía cạnh tiêu cực, bi quan trong triết lý Phật giáo. Nhưng, mặt khác cũng cần
nhận thấy vai trò tích cực của nhà chùa khi ấy trong đời sống tinh thần của xã
hội, trong việc xây dựng nền văn hóa của nước Đại Việt độc lập và tự cường.
Trong Phật giáo của nước Đại Việt thì Thiền tông là dòng đạo chính
thức. Trong các đời Lý Trần, Thiền tông có 4 chi phái lớn. Chi phái thứ nhất
do thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci), một nhà sư Ấn Độ, đem vào nước ta
từ cuối thế kỷ thứ VI, đến thời nhà Lý thì truyền đăng qua các thiền sư như
Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Khánh Hỷ, Diệu Nhân v.v…
Chi phái thứ hai do thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc, đem vào
nước ta từ đầu thế kỷ thứ IX, đến đời nhà Lý thì truyền đăng qua các nhà sư
Viên Chiếu, Quảng Trí, Mãn Giác, Ngộ An, Không Lộ, Giác Hải, Quảng
Nghiêm v.v… Chi phái thứ ba, còn gọi là phái Thảo Đường, nảy sinh ở nước
ta cuối thế kỷ thứ XI, được truyền đăng qua Lý Thái tông, Không Lộ, Định
Giác, Phạn Âm, Tam Tạng, Hải Tĩnh v.v… Chi phái thứ tư, còn gọi là phái
Trúc Lâm, nảy sinh ở nước ta cuối thế kỷ thứ XIII, khởi đầu với Tuệ Trung
thượng sĩ tức Trần Quốc Tảng, hình thành với Trần Nhân tông tức Điều Ngự,
rồi truyền đăng qua các thiên sư Pháp Loa, Huyền Quang v.v…
Thiền tông, với những chi phái như vậy, thường được coi như dòng
đạo chính thống của Phật giáo trong nước Đại Việt. Nhưng trong thực tế thì
Thiền tông đã kết hợp với Mật tông và Tịnh Độ tông. Nhiều thiền sư tu luyện
cả các phép Tổng trì tam ma địa, tụng niệm cả Đại bi-tâm đà-la-ni kinh, tức là
những phép tu luyện và tụng niệm của Mật tông. Theo sách Thiên uyển tập
anh thì thiền sư Vạn Hạnh nói ra lời nào cũng đều là phù sấm có ứng nghiệm.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh thì có pháp thuật cao cường, có thể khiến rắn núi, thú
đồng đến tụ tập mà tuân theo sự dạy dỗ, có thể đốt ngón tay cầu mưa, phun
nước chữa bệnh.
Chép về sự tích các vị sư với mục đích ca ngợi, sách Thiên uyển tập
anh nhiều phần cũng dựa vào những lời truyền tụng không chính xác, cũng
dựa vào những truyền thuyết hoang đường của nhà chùa. Nhưng bản thân
sự lưu hành những truyền thuyết ấy cũng phản ánh việc các thiền sư đã tu
luyện và hành động ra ngoài khuôn khổ của giáo lý và giới luật Thiền tông, đã
tiếp thu nhiều ảnh hưởng của Mật tông. Mật tông, hoặc Mật giáo, là một dòng
đạo lưu hành ở Trung Quốc từ đời Đường trong thế kỷ thứ VIII, từ các nhà sư
Kim Cương Tri (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghavajra). Mật
tông vốn phát sinh từ Ấn Độ trên cơ sở kết hợp giáo lý của đạo Phật với
những thuật phù chú, mê tín, của các đạo sĩ Ấn Độ. Sang đến Tây Tạng, nó
kết hợp với Lạt Ma giáo. Sang Trung Quốc, nó lại kết hợp với Đạo giáo (tức
đạo Thần tiên). Kinh điển của Mật tông đã truyền sang ta muộn nhất là từ đời
Đinh. Tuy chưa có đủ cứ liệu để khẳng định sự tồn tại của một dòng Mật tông
ở nước ta, nhưng vai trò của Mật Tông thể hiện qua rất nhiều nhà sư Thiền
Tông. Mật Tông thường pha trộn với những điều mê tín trong nhân dân ngày
xưa, đồng hóa những phương thuật của thầy mo, thầy cúng, thầy phù thủy và
thâm nhập quần chúng bằng những phép lạ trừ tà, chữa bệnh. Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải nhiều khi hành
động chẳng khác gì đạo sĩ, chẳng khác gì thầy phù thủy. Việc Thiền tông để
ngỏ cửa cho sự thâm nhập của ảnh hưởng Mật Tông như vậy đã từng bị một
số thiền sư phê phán. Nhưng muốn có uy thế trong nhân dân thờ xưa vốn tin
ở thần linh thì nhà chùa cần phải sử dụng đến các thuật mê tín của Mật tông,
cần phải đem lại cho Phật tổ và môn đệ của Phật tổ ánh hào quang kỳ diệu.
Chính cũng vì lý do này mà bên cạnh Mật tông, thì Tịnh độ tông cũng có ảnh
hưởng lớn. Tịnh độ tông đi vào quần chúng bằng con đường thuyết giáo từ bi,
bác ái, cứu khổ cứu nạn. Tịnh độ tông dựng lên hình tượng của các vị bồ tát
tuy đã đắc đạo nhưng chưa lên cõi Phật mà thường hay xuất hiện trong cõi
đời để độ thế. Quan Thế Âm Bồ tát, một sự bày đặt của Phật giáo đại thừa,
“đã xuất hiện trong nhiều kiếp”, có khi là đàn ông có khi là đàn bà (như ở
Trung Quốc, ở Triều Tiên v.v…)… Ở nước ta ngày trước, Nam Hải Quan Thế
Âm và Quan Âm Thị Kính là những vị bồ tát được quần chúng nhân dân
ngưỡng mộ. Và Phật bà Quan Âm là hình tượng quen thuộc trong văn học
dân gian, tiêu biểu cho tình thương bao la và sức mạnh kỳ diệu. Với Tịnh Độ
tông thì Phật giáo đại thừa không còn là một triết lý nữa mà đã trở thành một
tông giáo thật sự. Tam thế chư Phật đã được tôn lên thành các thần linh. A-
Di-Đà, tức quá khứ Phật, ngự trị ở Tây Phương cực lạc chẳng khác Thượng
đế ngự trị ở Thiên đường hoặc Ngọc Hoàng ngự trị ở Thượng giới. Thích-ca-
mâu-ni hay là Thế Tôn, tức Hiện tại Phật, thì là đấng cứu thế hiện ra để tìm
con đường kỳ diệu giải thoát chúng sinh. Còn Di Lặc, tức là Vị lai Phật, thì
xuất hiện trong một tương lai mà nhà chùa hứa hẹn là sẽ đến và đem lại hạnh
phúc vĩnh cửu. Và tông giáo bịa đặt rằng nếu người ta có thể hy vọng lên
được cõi Tây phương Cực lạc để hưởng hạnh phúc thì cũng dè chừng phải
sa xuống địa ngục, trải qua Thập điện Diêm la với vô vàn hình phạt khốc liệt.
Thiên đường là phần thưởng cho Phật tử một lòng một dạ tuân theo sự
khuyến cáo của nhà chùa. Và địa ngục là sự trừng phạt đối với kẻ nào làm
trái lại.
Thiên tông ở nước ta đã kết hợp với Tịnh độ tông trong nhà chùa và
trong xã hội. Nhưng với tình hình tài liệu hiện nay thì không thấy thực rõ ảnh
hưởng của Tịnh độ tông trong văn học đời Lý.
Văn học đời Lý mang nặng ảnh hưởng của Phật giáo. Và nói đến văn
học đời Lý, người ta hay nhắc đến tác phẩm của các nhà sư, Tuy nhiên, dù
rằng đa số tác giả là nhà sư, nhưng văn học đời Lý không phải chỉ là văn học
Phật giáo. Có những tác phẩm do những người ở trong hay ở ngoài Thiên
môn viết ra mà đề cập đến những vấn đề của đời sống xã hội, của vận mệnh
dân tộc, tức là vượt ra ngoài phạm vi tông giáo. Vả lại ngay trong các tác
phẩm văn học Phật giáo đời Lý thì nhiều khi vẫn tìm thấy những nội dung liên
quan đến việc xây dựng nhân phẩm và có ý nghĩa tích cực.
Văn học Thiền tông đời Lý với thiên nhiên và con người.
Trong đời Lý, Phật giáo không phải chỉ là một thứ mê tín, thậm chí
không phải chỉ là một tông giáo với những sự thờ cúng và nghi lễ. Đối với
những cao tăng và cư sĩ có học vấn thì Phật giáo trước hết là một thứ vũ trụ
quan và nhân sinh quan, một thứ triết lý. Đối với họ, tư tưởng Thiền tông mới
thực là lõi cốt của Phật giáo.
Văn học Thiền tông đời Lý dầu sao không phải lúc nào cũng thuần túy.
Như ở trên đã trình bày, nhiều nhà sư đời Lý tuy thuộc Thiền tông mà lại tu
luvện theo giới luật của cả Mật tông nữa. Vì vậy, đôi khi Mật tông đã ảnh
hưởng vào trong văn học Thiền tông. Theo Thiền uyển tập anh thì trong một
buổi triều kiến, có hai con cắc kè kêu inh tai, vua Lý Nhân tông yêu cầu đạo sĩ
Thông Huyền và thiền sư Giác Hải bắt chúng im đi. Thông Huyền niệm thần
chú khiến một con phải rơi xuống. Giác Hải không chịu kém, bèn chằm chằm
nhìn vào con thứ hai và chỉ khoảnh khắc nó cũng phải rơi xuống. Nhà vua
thán phục, làm thơ rằng:
“Giác Hải tâm như hải,
Thông Huyền đạo diệc huyền.
Thần thông kiêm biến hóa,
Nhất Phật, nhất thần tiên.”
Việc dùng pháp thuật bắt cắc kè phải rơi chắc là bịa đặt, nhưng bài thơ
thì có thật. Qua bài thơ đủ thấy vua nhà Lý coi trọng ngang nhau Phật giáo và
Đạo giáo. Nhưng đáng chú ý hơn là giữa thiền sư và đạo sĩ, giữa Phật và
Thần tiên có chỗ giống nhau rất lớn: ấy là đều có phép thuật lạ kỳ, thần thông
biến hóa. Rõ ràng là nhà sư cao đạo cũng phải có tài lạ như thầy phù thủy
cao tay. Mà nhà sư biết ra tay ấn quyết, thi thố pháp thuật kỳ lạ thì tất là phải
tu luyện theo giới luật của Mật tông, Những truyện kể trong Thiền uyển tập
anh cho thấy rõ không ít thiền sư làm như vậy.
Bài thơ trên là chứng cớ của ảnh hưởng Mật tông trong đời Lý. Ảnh
hưởng của Mật tông tuy không thể hiện một cách rõ rệt như thế, nhưng lại
hàm súc hơn nhiều trong bài thơ sau đây của thiền sư Không Lộ:
“Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.”
Nghĩa là:
“Chọn được đất long xà có thể ở được,
Tâm tình nơi đồng quê suốt ngày vui không chán,
Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót,
Kêu lên một tiếng to làm lạnh cả bầu trời.”
Theo Thiền uyển tập anh, thì thiền sư Không Lộ cùng với đạo hữu là
Giác Hải đến chùa Hà Trạch, “mặc áo cỏ, ăn gỗ cây, quên cả thân mình, ở
ngoài thì cắt đứt mọi sự liên hệ, bên trong thì tu thiền định; tâm, thần, nhĩ,
mục ngày càng sáng láng, bèn có thể bay lên không, đi dưới nước, phục hổ,
giáng long, vạn quái thiên kỳ, người ta không ai lường biết được”. Tất cả
những phép lạ đó đều là sự bịa đặt của truyền thuyết, nhưng lại chứng tỏ
rằng các nhà sư này tu theo đạo của Mật tông. Và Thiền uyển tập anh kể rằng
bài thơ trên chính là một bài kệ mà thiền sư Không Lộ thường đọc để nói về
sự đắc đạo của mình. Không kể việc chọn kiểu đất “long xà”, qua đó thấy
phản ánh quan niệm huyền bí của thuật địa lý đời xưa thì câu thơ cuối rõ ràng
là mang ảnh hưởng của Mật tông, Mật tông vì muốn đạt tới những thuật lạ
huyền bí, những khả năng dị thường cho nên chú trọng đến việc tôi rèn ý chí
sắt đá qua việc khổ luyện thể xác. Thuật Du-già (yoga), tức là thuật luyện
thân, luyện khí để có thể tập trung mà thiền định có liên quan đến phép tu của
Thiền tông thì lại đã được Mật tông đem gắn với việc niệm Phật chú (đà-la-ni)
và gọi là Du-già đà-la-ni. Với thuật Du-già, các thiền sư muốn giải phóng trí
tuệ để có thể đi đến chỗ chính giác. Còn với thuật Du-già đà-la-ni thì những
người theo Mật tông lại còn muốn vượt ra khỏi phạm vi và khả năng của thân
thể, của qui luật hiện thực, mà biến hóa, mà thi thố phép lạ, tác động đến
ngoại giới một cách phi thường:
“Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót
Kêu lên một tiếng to làm lạnh cả bầu trời”.
Lời thơ này xét cho kỹ đã thể hiện tham vọng của nhà tu hành muốn có
được khí lực quảng đại, pháp thuật diệu kỳ. Tuy nhiên, gạt bỏ ý đồ ấy đi, thì
có thể thấy ở đấy nghị lực và khí phách của con người rất vững tin ở mình.
Và đứng về mặt khách quan thì lời thơ của Không Lộ, độc lập với mọi giáo lý
và giới luật của đạo Phật, của Thiền tông cũng như của Mật tông, đã dựng lên
được hình tượng một con người có ý chí lớn, có bản lĩnh cao. Giá trị văn học
của bài thơ là ở chỗ ấy.
Đối với văn học Thiền tông đời Lý, ảnh hưởng của Mật tông dầu sao
cũng rất hiếm. Trong thời kỳ này, không ít nhà sư có học vấn uyên bác và có
xác tín về giáo lý của Thiền tông. Khi cần đưa đạo Phật vào quần chúng, cần
gây uy thế và tín nhiệm cho nhà chùa thì họ cũng sử dụng thuyết giáo và giới
luật của Tịnh độ tông và Mật tông. Nhưng quan niệm của Tịnh độ tông về Tây
phương cực lạc, về Thập điện diêm la, về các đấng bồ tát cứu khổ cứu nạn
có thể dễ dàng thâm nhập đông đảo Phật tử. Những thuật của Mật tông như
quán đỉnh, rưới nước cam lộ chữa bệnh, như ấn quyết, dùng phép lạ, niệm
Phật chú đuổi tà ma lại càng dễ làm cho quần chúng ít học, mê tín tìm đến với
nhà chùa. Trái lại, những suy tư trừu tượng về pháp tướng, sắc không, bát
nhã, bồ đề, niết bàn của triết lý Thiền tông thì chỉ những cao tăng hoặc những
cư sĩ có học vấn uyên thâm mới hiểu được. Trong thơ của mình, các thiền sư
thường phát biểu những điều tâm đắc về đạo. Thế thì thơ của các thiền sư tất
nhiên là phải liên quan đến những suy tư ấy. Vì vậy, trong văn học Thiền tông
thường ít thấy vết tích những tín ngưỡng dung tục hoặc những tình cảm
thông thường của tín đồ đối với tông giáo. Thiền tông không gắn với mê tín và
phương thuật như Mật tông, cũng không thiên về tín ngưỡng và tình cảm như
Tịnh độ tông. Thiền tông giữ được bản chất của triết lý Phật giáo ở quan niệm
phiễm thần luận. Và đó chính là cơ sở tư tưởng của văn học Thiền tông đời
Lý.
Trong bài minh ở chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng sơn (Thanh Hóa), thiền
sư Pháp Bảo có viết: “Vạn là sự tản ra của một, một là nguồn gốc của vạn”.
Viết như thế là đề cập tới một trong những cơ sở của triết lý Phật giáo. Triết lý
Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ này cùng chung một bản thể. Cùng
một bản thể mà lại biến hóa và biểu hiện dưới muôn vàn dạng thức khác
nhau. Những dạng thức ấy luôn luôn biến động, luôn luôn thay đổi và được
gọi là pháp tướng vô thường. Phật giáo đã cho rằng mọi vật trong thế gian
này chỉ là muôn vàn dạng thức biểu hiện của cùng một bản thể, thì tất phải
cho rằng coi người cùng với trời đất và muôn loài chẳng qua chỉ là cùng một
thể chất. Với quan niệm ấy, văn học Thiền tông đã dễ dàng đem nhập con
người làm một với thiên nhiên. Trong bài thơ “Vãn Quảng Trí thiền sư”, sau
khi tỏ lòng thương tiếc nhà sư vừa mất, Đoàn Văn Khâm đã viết:
“Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình”.
(Các đạo hữu không nên đau thương về sự vĩnh biệt
Núi sống trước chùa trông xa, ấy là chân hình của nhà sư).
Nhà sư đã chết, nhưng theo Phật giáo thì đó chỉ là sự hủy diệt của thân
xác, sự biến mất của pháp tướng vô thường, còn bản thể của nhà sư thì vẫn
tồn tại mãi mãi, và có thể tìm thấy ở khắp nơi, ở vạn vật trong thế gian, ở
ngay núi sông nước chùa kia. Tác giả cố giải thích rằng tuy thân xác nhà sư
đã mất, nhưng chân hình của nhà sư đã lại bao trùm lấy phong cảnh quanh
chùa. Vừa ca ngợi, vừa an ủi, tứ thơ đột ngột tân kỳ mà lại hàm súc ý nghĩa
triết lý.
Cùng mang ý nghĩa triết lý ấy, là hai câu của nhà sư Không Lộ đã nêu
ở trên:
“Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”.
(Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót,
Kêu lên một tiếng to làm lạnh cả bầu trời).
Ảnh hưởng của Mật tông trong hai câu thơ này đã được phân tích ở
trên. Cần thấy thêm rằng hai câu thơ này biểu hiện một sự hòa đồng, thâm
nhập giữa con người và thiên nhiên. Thiên nhiên lại cũng thường có tính cách
rất người trong các lời kể của thiên sư Viên Chiếu, chép ở Thiền uyển tập
anh:
“Giác hưởng tùy phong xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường lai”.
(Tiếng tù và theo gió luồn trúc mà đến,
Ngọn núi cao cõng trăng vượt tường mà qua):
“Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi”.
(Hoa xuân mà bươm bướm
Hầu quyến luyến nhau lại hầu xa rời nhau).
Đây vốn là những ám dụ nhằm giảng giải cho đệ tử về lẽ đạo, chứ
không phải là cốt để tỏ cảnh thiên nhiên. Quan niệm về sự tương đồng giữa
vạn vật; mà ở đây là sự tương đồng giữa vạn vật và con người, đã đưa tới sự
xóa bỏ ranh giới giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Sự xóa bỏ
ranh giới, sự hòa đồng giữa con người và thiên nhiên ở đây đã là cơ sở cho
những tứ thơ độc đáo và những hình tượng rất sinh động.
Cũng chính Viên Chiếu thiền sư lại đã có những lời thơ rất đẹp về thiên
nhiên như sau:
“Khô mộc phùng xuân hoa giác phát
Phong suy thiên lý phức thần hương”.
(Cây héo vào xuân hoa nở dậy,
Gió đưa ngàn dậm nức hương thần).
“Uyển trung hoa lạng mạn
Ngạn thượng thảo ly phi
(Trong vườn, hoa rực rỡ,
Trên bò, có dờn dờn).
“Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu noãn nhật oanh”.
(Hoa cúc tiết dương nở chân dậu,
Chim oanh ngày trời ấm hót đầu cành).
Các lời thơ này cũng vẫn là những câu kệ dùng để giải đáp bằng hình
tượng những câu hỏi của đệ tử về lẽ đạo. Nhưng độc lập với những thuyết
giáo về Thiền học, các lời thơ này đã miêu tả thiên nhiên với cảm tình thắm
thiết, và với niềm lạc quan yêu đời khá xa lạ với sự phủ nhận thể giới hữu tình
trong triết lý Thiền tông.
Mãn Giác đại sư trước khi chết, làm bài kệ “Cáo tật thị chúng”, bảo đệ
tử rằng:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
(Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa nở,
Việc trôi qua trước mắt,
Cái già đến trên đầu
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Trước sân đêm qua nở một nhành mai)
Bốn câu trên nói về sự biến động, chuyển dời không ngừng của thế giới
hữu tình, của con người ở trong ấy. Hai câu dưới ngụ ý rằng bậc tu hành giác
ngộ lẽ đạo thì có thể vượt khỏi cái vòng luân hồi của pháp tướng, của thế giới
hữu tình, khác nào như nhành mai kỳ diệu kia vẫn cứ nở trong khi muôn hoa
đã rụng hết vào buổi xuân tàn. Nhà sư chết đi, nhưng do sự giác ngộ lẽ đạo
mà chân thân của nhà sư đã vượt ra khỏi vòng sinh tử, nở hoa vĩnh cửu, bất
chấp mọi sự biến động của pháp tướng. Đó có lẽ là chủ ý của thiền sư Mãn
Giác khi làm bài kệ này, Nhưng dầu cho về mặt chủ quan, thiền sư có muốn
phát biểu một quan niệm triết lý của Thiền tông đi nữa thì về mặt khách quan,
lời thơ đến với độc giả như là biểu hiện của sự nhạy cảm đối với sức sống dồi
dào luôn luôn khắc phục hoàn cảnh để mà vươn lên, như là biểu hiện của
niềm yêu mến cuộc sống trong những khía cạnh mỹ lệ mà tinh vi, tế nhị. Và
thiên nhiên qua bài thơ của thiền sư Mãn Giác đã được thể hiện một cách rất
tươi mát và sinh động.
Nhìn chung, thơ Thiền tông đời Lý nói đến thiên nhiên hiện không còn
lại được là bao. Và mỗi khi đề cập đến thiên nhiên, thì các thiền sư đều muốn
qua đó gửi gấm những quan điểm triết học của mình. Đáng chú ý nhất là
quan điểm vạn vật nhất thể của Thiền tông đã đưa đến sự hòa đồng giữa các
tác giả và thiên nhiên. Và sự hòa đồng này làm cho thiên nhiên có khi đã
được nhận thức một cách sâu sắc và độc đáo, trong một sự gắn bó và yếu
mến chân thành.
Nhưng quan điểm phiến thần luận tức là quan điểm vạn vật nhất thể
của Thiền tông không phải chỉ có tác dụng đối với việc nhận thức thiên nhiên
trong thơ đời Lý. Quan điểm ấy chủ yếu lại có tác dụng đối với việc các tác
giả nhận thức và miêu tả con người.
Nói về con người, văn học Thiền tông thường muốn khẳng định bản
lĩnh của nhà tu hành. Những điều mà tác giả nêu lên về bản lĩnh ấy có ý nghĩa
đối với việc xây dựng nhân phẩm? Đó là một vấn đề đáng chú ý.
Khi sắp tịch, thiền sư Vạn Hạnh có làm bài thơ dạy đệ tử như sau:
“Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận, thịnh suy vô bô úy.
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.
(Thân người như bóng chớp, có rồi lại không,
Cây cối đến tiết xuân thì tươi, đến tiết thu lại héo.
Đã nhậm vận, thì thịnh hay suy không làm cho sợ hãi.
Thịnh hay suy chẳng qua như giọt sương ở đầu ngọn cỏ)
Ở đây rõ ràng đã thể hiện tư tưởng triết học của Phật giáo Thiền tông,
Mọi vật, mọi việc luôn lụôn biến động, vô thường. Con người cũng không
thoát khỏi lẽ vô thường ấy được. Vì không hiểu rằng vô thường, biến động là
sự tất yếu của pháp tướng mà lại có sự vĩnh hằng, ổn định cho nên mới đau
khổ, sợ hãi. Bậc tu hành đã đạt tới trình độ “nhậm vận” thì có thể hòa đồng
nội tâm và ngoại giới, vượt lên trên sự phân biệt giữa cái ta và cái không phải
là ta. Và như thế là không lo ngại trước sự thay đổi, không sợ sự biến động
vô thường nữa. “Nhậm vận” như thế là biết trở về với tự tính, an nhiên nằm
trong sự vận động của bản thể, một sự vận động vĩnh cửu, vô thủy vô chung,
trong đó đời người chỉ đáng coi là một ánh chớp rất ngắn ngủi, trong đó sự
thịnh hay sự suy cũng mong manh và nhỏ nhoi như giọt sương bám ở đầu
ngọn cỏ kia. Và theo giáo lý Thiền tông thì thân xác của con người cũng chỉ là
pháp tướng, là một dạng thức tồn tại của bản thế; thân xác ấy có chết đi thì
chẳng qua cũng chỉ là kết thuc một dạng thức tồn tại mà thôi, chứ bản thể có
mất đi đâu mà lo sợ, buồn thương.
Cũng cùng một quan niệm ấy, Viên Chiếu thiền sư khi sắp tịch đã bảo
vệ đệ tử rằng:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc khống ẩn hiện nhậm suy di”
(Thân người ta khi đá thành cái xác chết giống như tường vách
đổ,
Thì ai ở đời mà chẳng hoảng hốt, buồn đau.
Nhưng nếu đạt được việc làm cho tâm hư không, chẳ0ng vẩn
sắc tướng,
Thì để tự nhiên cho sắc và không ẩn đi hoặc rõ rõ lên tùy theo sự
thúc đẩy chuyển dời)
Theo nhà sư thì nếu có thể đạt đến cái tâm thanh tĩnh, hư không, chẳng
còn vẩn một chút sắc tướng, tức là “vô nghiễm, vô tạp”, “vô niệm” thì vạn vật,
kể cả thân xác mình, dầu có hay là không thì cũng chẳng quan hệ gì. Bởi vì,
các sắc tướng hay là pháp tướng khi hiện thì thành vạn vật, kể cả thân xác
mình, khi ẩn đi thì hết vạn vật, kể cả thân xác mình, mà ẩn và hiện thì luôn
luôn thay đổi. Vậy thì tại sao lại hoảng hốt lo sự trước sự tất yếu ấy. Ở bài
này cũng như ở bài thơ của Vạn Hạnh trên kia, có thái độ coi việc đời như
huyễn ảnh, không có thực. Đó là tính chất hư vô, tiêu cực của Phật Giáo, của
Thiền tông. Nhưng điều đáng chú ý là thái độ an nhiên trước cái biến động,
thái độ tự tại trong cái vô cùng, tóm lại là bản lĩnh vững vàng của con người
tin ở con đường mình cho là đúng và đang noi theo.
Trên con đường của họ, nhiều thiên sư có bản lĩnh tự lập, tự cường rất
rõ. Quảng Nghiêm thiền sư, trong bài “Thị tật: cũng làm vào lúc trước khi chết,
đã thể hiện điều ấy:
“Ly tịch phương ngồn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh
Nam nhi tư hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”.
(Lìa được cõi tịch diệt thì mới có thể nói về việc bỏ tịch diệt.
Sinh ở trong cõi vô sinh rồi thì mởi có thể nói về việc không sinh.
Kẻ nam nhi phải tự mình có cái chí xông lên trời.
Thôi đừng đi vào con đường mà Phật Như Lai đã đi).
Ở đây, nhà sư muốn nói đến một quan niệm tu hành của Thiền tông.
Theo quan niệm ấy thì Phật tổ chẳng qua chỉ là người giác ngộ chân lý, và
làm gương cho kẻ khác. Phật tổ chỉ dạy cho ta phương pháp giải thoát ra khỏi
bến mê, còn như việc giải thoát ấy thì mỗi người phải tự làm lấy. Mỗi người
phải tự đốt đuốc tuệ soi lối tìm đường mà đi. Và như vậy thì không cần phải
chấp nê theo con đường của Như Lai, vì rằng chấp nê theo định hướng có
sẵn từ trước thì là xa rời tinh thần hư tâm, phá chấp mất rồi. Phải tự lập, tự
cường, tin ở sức mình, tìm ra chân lý và đi theo con đường mà mình chọn để
đạt mục đích đúng.
Ni sư Diệu Nhân thì lại phát biểu quan niệm ấy như sau:
“Sinh, lão, bệnh, tử,
Tự cổ thường nhiên.
Dục cầu xuất ly,
Giải phọc thiêm triền.
Mê chi cầu Phật,
Hoặc chi cầu Thiên.
Thỉền, Phật bất cầu,
Uổng khẩu vô ngôn”.
(Sinh, lão, bệnh, tử
Xưa nay lẽ thường.
Muốn cầu thoát ra khỏi cái vòng sinh tử, lão bệnh ấy,
Tưởng là cởi dây buộc ra thì chính lại là thêm rợ chẳng vào.
Kẻ mê hoặc đi cầu Phật, cầu Thiền.
Chẳng cầu Phật, cầu Thiền làm gì.
Phí cả lời, không nói).
Rõ ràng là ni sư Diệu Nhân phản đối việc ỷ lại vào Thiền và Phật. Nếu
muốn thoát khỏi vòng sinh, tử, lão, bệnh mà lại đi lệ thuộc vào Thiền, vào
Phật, tức là vào những sức mạnh ở ngoài mình thì sự giải phóng chưa thấy
đâu mà lại có thêm sự ràng buộc mới. Sức mạnh phải tìm thấy ngay ở bản
thân. Theo Thiền uyển tập anh thì đệ tử hỏi ni sư Diệu Nhân: “Hà vi bất ngôn”
(Tại sao không nói), ni sư trả lời: “Đạo bản vô ngôn” (Đạo vốn không có lời). Ý
ni sư muốn khuyên đệ tử rằng nên tự lực suy nghĩ, bởi vì đạo hiện ra trong sự
vận hành của bản thể, không có cách nào nói ra được. Nếu dựa vào lời nói
của bất cứ ai thì tức là bị lệ thuộc vào những cái vốn không phải là đạo. Ở
đây không phải là chỗ phân tích và phê phán truyền thống “vô ngôn đốn ngộ”
và “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” của Thiền Tông, ở đây, cần thấy
rằng lời thơ Quảng Nghiêm thiền sư và Diệu Nhân ni sư đến với độc giả như
là một sự khẳng định tinh thần độc lập suy nghĩ và bản lĩnh tự lực, tự cường.
Tinh thần ấy, bản lĩnh ấy, tách rời khỏi những mục đích và phương pháp tu
hành của Thiền tông, rất cần thiết cho việc xây dựng nhân phẩm mà văn học
có trách nhiệm đóng góp vào.
Văn học Thiền tông còn lại đến nay phần lớn là những bài kệ mà các
thiền sư đọc lên trong những hoàn cảnh nhất định để đáp ứng những yêu cầu
của đệ tử trong việc tu hành. Tuy nhiên các bài hoặc lời kệ ấy lắm khi có nội
dung vượt ra khỏi phạm vi giáo lý, rất có thể là ngoài ý muốn của các thiền
sư. Nhiều khi ta bắt gặp cái nhìn tinh tế và đầy xúc động đối với thiên nhiên.
Hơn thế nữa, độc lập với ý nghĩa giáo lý, thì nhận thức về bản lĩnh của con
người, về khả năng to lớn của con người cũng là đóng góp đáng kể cho văn
học Thiền tông.
Nhìn chung, nếu văn học Thiền tông có một vị trí nhất định trong lịch sử
văn học thì chính là vì các thiền sư đã ít nhiều có tinh thần dân tộc, thì chính
là vì các tác giả trong khi là nhà sư lại vẫn hành động và suy nghĩ như người
dân nước Đại Việt. Để giải thích giá trị văn học trong những tác phẩm vừa
nêu ở trên, trước hết phải thấy rõ ảnh hưởng mà các thiền sư đã tiếp thu
được từ tinh thần tự lập, tự cường cũng như từ lòng yêu mến thiên nhiên đất
nước của dân tộc, của nhân dân.
Văn học đời Lý mở đầu những truyền thống lớn của dòng văn học viết.
Văn học Thiền tông có một vị trí nhất định trong văn học đời Lý. Dầu
sao thì nó vẫn gắn với triết lý Phật giáo và đóng góp không nhiều lắm vào
nhiệm vụ xây dựng đất nước mà lịch sử đề ra lúc bấy giờ.
Các thiền sư đã đóng góp vào nhiệm vụ ấy nhiều hơn là những gì họ
phát biểu trong văn học Thiền tông. Thiền sư Ngô Chân Lưu làm chức tăng
thống đời Đinh Tiên hoàng, đời Lê Đại hành, được phong là Khuông Việt đại
sư (nhà sư lớn phù trợ nước Việt). Theo Thiền uyển tập anh thì: phàm mọi
việc quân, quốc của triều đình, nhà sư đều có tham dự”. Cũng theo sách này
thì thiền sư Ngô Chân Lưu đã đóng góp vào chiến thắng của Lê Đại Hành đối
với giặc Tống xâm lược. Khi sứ nhà Tống là Lý Giác sang nước ta thì thiền
sư Ngô Chân Lưu đã dùng tài ứng đối ngoại giao, khiến Lý Giác phải kính
phục người nước Đại Cồ Việt. Thiền sư Vạn Hạnh cũng được Lê Đại Hành
rất tôn kính. Theo sách Thiền uyển tập anh thì khi giặc Tống sang xâm lược,
nhà vua mời sư vào hỏi về lẽ thắng hoặc bại. Nhà sư nói: “Chỉ ba bảy (hăm
mốt) ngày giặc tất thua chạy” Quả nhiên chỉ non một tháng thì quân ta đại
thắng. Cũng theo sách ấy, khi Lê Đại Hành muốn đem quân đánh Chiêm
Thành để ngăn chặn nạn cướp phá ở miền nam đất nước triều đình còn đang
bàn bạc phân vân, thì nhà sư quyết đoán rằng nên đi ngay, đừng để lỡ cơ
hội. Nhà vua nghe lời. Quả nhiên quân ta đại thắng. Sư Vạn Hạnh cũng chính
lại là người giúp Lý Thái tổ trong buổi đầu xây đựng nước Đại Việt. Lý Nhân
tông trong bài “Truy tán Vạn Hạnh thiền sư” đã viết:
“Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp,
Quải tích trấn vương kỳ.”
(Thiền sư Vạn Hạnh thông hiểu cả ba cõi,
Thơ ông phù hợp với lời sấm cổ.
Quê nhà tên là Cổ Pháp,
Treo gậy trấn giữ kinh kỳ của nhà vua.)
Bên cạnh thiền sư Vạn Hạnh, không ít thiền sư khác đã tham gia vào
việc “trấn giữ” và xây dựng tổ quốc. Nhà sư Pháp Thuận trong khi ca ngợi
vương triều lại đã thể hiện niềm tin tưởng ở vận mệnh của tổ quốc:
“Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.”
(Phúc nước dài dằng dặc
Cõi trời nam dựng cảnh thái bình.
Ở nơi điện các không phải làm gì,
Mà khắp chốn hết nạn binh đao.)
Thơ của một thiền sư mà cũng đầy niềm ưu ái như thế thì chắc rằng
thơ văn nói chung phải gắn bó nhiều với những vấn đề của đời sống dân tộc.
Số tác phẩm thơ văn đời Lý còn giữ lại được rất ít. Tuy nhiên, căn cứ vào
những tư liệu rất hạn chế ấy, vẫn có thể thấy rằng các tác giả đời Lý, nhất là
tác giả ngoài nhà chùa, đã mở đầu truyền thống yêu nước của dòng văn học
viết ở nước ta.
Năm 1010, với hoài bão mở mang nghiệp lớn, Lý Thái tổ dời đô ra
Thăng Long. Nhân dịp ấy nhà vua có làm bài Chiếu dời đô. Bài chiếu nêu rõ ý
chí “muốn đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con
cháu muôn đời” và tin rằng nếu “trên theo mệnh trời, dưới chiều lòng dân,
thấy thuận lợi mới thay đổi, thì vận nước vững bền, phong tục giàu thịnh”. Để
đạt yêu cầu trên, nhà vua đã chọn nơi đất “ở vào chính giữa bờ cõi đất nước,
được cái thế rồng cuốn hổ ngồi, vị trí thích trụng với bốn phương đông, tây,
nam, bắc, tiện cả hai bề núi sông quay vào ngảnh ra. Địa thế vừa rộng lại vừa
bằng phẳng, đất đai vừa cao lại vừa sáng sủa, dân cư không khổ vì tối tăm
ẩm thấp, muôn vật đều phong phú tốt tươi… là nơi then chốt của bốn phương
hội lại và cũng là chốn thượng độ của đế vương muôn đời”. Lý Thái tổ đã tỏ ý
chí muốn xây dựng đất nước một cách qui mô và phát huy quyền lực cửa
chính quyền trung ương. Mà như vậy thì Chiếu dời đô cũng phát biểu được
nguyện vọng của nhân dân về một đất nước độc lập và thống nhất. Và Chiếu
dời đô trong khi phản ánh chí lớn của Lý Thái tổ thì lại cũng phản ánh khí
phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Đà lớn mạnh ấy được phản ánh rõ hơn trong một số tác phẩm khác.
Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của Nguyễn Công Bật viết năm 1121 mô
tả sự thịnh vượng của đất nước qua việc ca ngợi chính sách của Lý Nhân
tông: “…Triều Lý ta, phép tắc đạo đức thánh minh, văn thần vũ thánh, hay tới
dân và vật, muôn điều linh thiêng ứng rõ, phong hóa nhà vua thịnh vượng lâu
dài…” Nói về sự nghiệp đánh giặc giữ nước, lời văn hào hùng như sau: “Trên
thì chắp tay cung kính, dưới thì giúp đỡ láng giềng. Chợt bọn quan lại ở biên
giới thay đổi thói thường, thành ra sai trái và gây ra thù hận. Ngựa ruổi sao
đánh giặc, uy vang như sấm, quân đóng ở Ung châu hàng nghìn ức, tản tác
như mây mù theo cơn gió cuốn, giặc đến sông Như Nguyệt hàng trăm vạn tan
rã như băng giá bị mặt trời hun, đó là do tướng ở ngoài cửa khổn tự làm, há
cần đến cơ mưu từ trong cung vua quyết định. Sau đó đưa ngôi báu tới nơi
hòa mục trong sáng, đem của giàu tuổi thọ đến cho dân, quạt gió nhân để gây
phong hóa, ra ân trạch soi cho láng giềng. Vua nước Hoàn họ Xạ họ Chế từ
giã cung thất đến trước sân làm kẻ thứ dân, chúa nước La Vu rời bỏ non
sông mà lại cửa khuyết xưng là bề tôi, dốc lòng ngưỡng mộ, hướng tới mặt
trời. Mới đây, rợ Ma Sa cậy núi sông hiểm trở, sinh lòng lang sói, không theo
phong hóa nhà vua. Phép tắc bậc thánh, một khi nổi giận, xa giá khởi hành
mãnh tướng như mây theo, mưu thần như mưa tụ, dàn quân ngoài cõi hoang,
chụp đánh bọn giặc cứng cổ hung dữ vô luân, bắt làm tù binh bọn đầu sỏ…
Thả quân hùm gấu đế đánh chụột cáo thì khó gì, lật hòn đá to mà đập vỡ
trứng thật là dễ… Dân cư hòa hợp, quần chúng yên ổn”. Lời văn ca ngợi Lý
Nhân tông với sự nghiệp phá Tống, bình Chiêm của nhà vua. Mặt khác, tác
giả cũng phản ánh việc nhà Lý củng cố nước Đại Việt, khắc phục tình trạng
các tù trưởng miền núi cát cứ và gây cướp bóc ở các địa phương xa, đem lại
sự hòa hợp và yên ổn cho nhân dân.
Liên kết các bộ lạc miền núi khi ấy và thu hút họ vào quĩ đạo văn hóa
Đại Việt, củng cố các vùng biên giới và đoàn kết các tộc thiểu số với dân tộc
Việt để có đủ sức chống lại mối đe dọa ngoại xâm cũng như để xây dựng đất
nước là một nhiệm vụ lịch sử trọng đại. Dân tộc Việt cũng như các tộc thiểu
số khác đều đã có đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ lịch sử ấy. Ngay từ
khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được tổ quốc và lập nên nước Đại Cồ Việt thì các
tù trưởng các tộc thiểu số ở nhiều nơi đã về tụ hội, chào mừng nhà vua. Điệu
múa Xuân Phả còn tồn tại đến ngày nay ở Thanh Hóa là một trong những
chứng tích còn lại từ thời ấy đã phản ánh niềm hân hoan của các bộ lạc ở
miền núi đối với việc thống nhất nước Đại Cồ Việt. Về sau, khi Lê Hoàn đánh
thắng giặc Tống ở phía Bắc và giặc Chiêm ở phía Nam thì cũng phải nhờ đến
sự giúp đỡ của các bộ lạc thiểu số ở miền núi và ở biên giới. Nhà Lý đã theo
đuổi một chính sách đoàn kết dân tộc rất kiên trì. Có lúc nhà Lý cũng bất đắc
dĩ phải dùng đến vũ lực để chống nạn cát cứ và cướp bóc do một số tù
trưởng gây ra trái với quyền lợi của đất nước, trái với yêu cầu của lịch sử.
Nhưng nói chung, nhà Lý đã dùng nhiều biện pháp mềm dẻo thi hành chính
sách đoàn kết chân thành để tránh khỏi phải dùng đến vũ lực và gây tình hòa
mục thật sự. Trong số những biện pháp ấy phải kể đến việc kết thân gia giữa
nhà Lý và các tù trưởng. Theo Việt sử thông giám cương mục (Chính biên
quyển 2, tờ 33) thì vua Lý Nhân tông gả công chúa Kim Thành cho châu mục
Phong Châu là Lê Tông Thuận, gả công chúa Trường Ninh cho châu mục
Thượng Oai là Hà Thiện Lãm, và từ đó, việc gả công chúa cho châu mục là lệ
thường của nhà Lý. Nhà Lý ít nhiều cũng sử dụng Phật giáo để tìm cách hòa
đồng các bộ lạc thiểu số với người Việt. Thí dụ như năm 1082, gả công chúa
Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long (ở Chiêm Hóa, Hà Tuyên ngày nay)
là Hà Di Khánh thì năm 1107, họ Hà cho lập chùa Bảo Ninh Sùng phúc ở đấy,
làm chỗ đón tiếp vua nhà Lý mỗi khi về tuần thú ở địa phương. Văn bia chùa
này do Lý Thừa An soạn năm 1107, phản ánh sự gắn bó của các tộc thiểu số
đối với nhà Lý trong sự nghiệp xây dựng nước Đại Việt. Trong văn bia ấy có
những đoạn như sau:
“Thời thịnh thay! Đạo dựng nước vững như núi cao,
Dân theo về đông như suối chảy.
Hoặc lo việc vua chưa nên công tích, thì tự mình càng phải xét
suy.
Bèn khảo xem: Thói cũ có lành; một lòng giữ lấy,
Sửa chọn lời hay, rộng tìm khúc cũ.
Đường nhân cửa nghĩa, tập hợp lại chơi.
…
Hơi thơm bay, cao tới làn mây!
Tiếng chuông khánh, vang lừng hang đá,
Hoa thông xanh tốt, dài chiếm gió lành,
Cờ phướn tung bay, lập lòe tua lửa.
Dự chúc: Nhà vua có nơi bảo ngự lâu dài
Giữ gương huyền mà không có hạn.
Ở đây kẻ bề tôi coi đất nhà vua,
Giữ mãi cái chi ngày ngày trông ngóng.”
Văn bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là một trong những chứng tích về
quá trình thu hút các tộc thiểu số vào quĩ đạo của văn hóa Đại Việt. Văn bia
tháp Sùng Thiện Diên Linh thì viết về việc củng cố và phát triển nước Đại Việt
thống nhất như sau: “Ôi! vâng chịu phúc lớn trời ban, nối mệnh sáng của tổ
tông, hơn năm mươi năm thống hóa, khắp dưới bầu trời đều đến khâm kính
uy đức… Dân chúng giàu nhiều, hoàn vũ thanh bình, văn hóa thống nhất,
trong ngoài cùng gồm, ngũ hành thuận thứ tự, trăm giống thóc dồi dào, ngoài
cửa ải không khói bụi, trong cõi nước hết tai ương…” Văn bia ca ngợi sự
nghiệp xây dựng đất nước của Lý Nhân tông trong đó việc xây dựng văn hóa
dân tộc, một cơ sở của tính thống nhất và sức mạnh của dân tộc đã được tác
giả nhiều lần nêu bật lên hàng đầu.
Văn bia chùa Báo Ân ở núi An Hoạch (Thanh Hóa), trong khi ca ngợi Lý
Thường Kiệt, lại bộc lộ niềm tự hào về phẩm chất và khí phách của dân tộc
như sau: “Phía bắc chinh phạt nước láng giềng, phía nam thảo phạt kẻ không
chịu yên mệnh. Giỏi về độ lượng bảy lần bắt bảy lần tha mà thắng địch.
Chẳng thèm làm như công tích trong đời Hán của lũ Hàn Tín, Bành Việt, há
chịu xếp dưới vai vế trong nước Tề của đám Quản Trọng, Án Anh? Giúp nhà
vua, làm cho nước nhà giàu mạnh bao năm, có thể để lại dấu vết quí báu của
đạo làm tôi trong muôn đời vậy!” Lý Thường Kiệt có cái uy vũ lớn, đánh nam
dẹp bắc đều thắng, nhưng hơn thế lại có cái độ lượng bao dung của Khổng
Minh bảy lần bắt được kẻ địch thì bảy lần tha. Vì vậy bọn tướng mưu trí và vũ
dũng như Hàn Tín hoặc Bành Việt đời Hán không thể sánh bằng, và những
bậc trủng tể nổi danh của nước Tề như Quản Trọng, Án Anh cũng không thể
hơn được.
Lý Thường Kiệt nổi danh một phần là vì võ công oanh liệt, nhưng một
phần lại chính vì đã đem lại sự giàu mạnh cho nước, cho dân. Văn bia chùa
Linh Xứng viết:
“Nước Việt có ông Lý
Theo phép tắc người xưa
Coi quận thì dần yên
Cầm quân thì tất thắng”.
Ông “cầm quân thì tất thắng” chính là vì khi “coi quận” đã biết lấy việc
“yên dân” làm đầu.
Trong việc xây dựng đất nước Đại Việt lớn mạnh, sự đóng góp của
nhân dân thực là to lớn và có ý nghĩa quyết định. Những người lãnh đạo Nhà
nước đời Lý đã nhận ra điều ấy. Trong bài “bàn về nguồn gốc yên nguy trị
loạn của xã tắc”, Nguyễn Nguyên Úc viết: “các bậc thánh vương đời trước…
đều bắt chước trời, không ngừng trau đức để sửa mình, đều bắt chước đất,
không ngừng trau đức để yên dân. Sửa mình thì phải cẩn thận ở trong lòng,
run sợ như dẫm trên băng mỏng. Yên dân thì phải yêu mến kẻ dưới, hãi hùng
như cưỡi ngựa nắm dây cương mục”, ở đây, tác giả nêu rõ quan điểm của
nho gia về cách đối xử với dân. Xưa kia Khổng tử đã từng nói: “Xuất môn như
kiến đại tân, xử dân như hành đại lễ” (Ra cửa phải cẩn trọng như khi gặp bậc
khách lớn, vào với dân phải cẩn trọng như khi tiến hành cuộc đại lễ), ý nói
cần phải nơm nớp, lo sợ khi đối xử với dân, khổng thể nhẹ dạ xem thường.
Đủ thấy Khổng tử một mặt muốn cho giai cấp thống trị nhận thức được sức
mạnh của nhân dân, mặt khác lại răn đe những kẻ cầm quyền rằng nếu
không khéo đối xử thì sẽ gặp tai vạ lớn, bị sức mạnh của dân chống lại.
Nguyễn Nguyên Úc cũng nhắc lại cái ý nên dè chừng lo sợ ấy, và như thế
cũng là đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, vì quyền lợi của giai cấp
thống trị, Thế nhưng khi viết rằng: “Không ngừng trau đức để yên dân…” và
“yên dân là phải yêu mến kẻ dưới…” thì Nguyễn Nguyên Úc đá phát biểu một
ý kiến tích cực. “Yêu mến kẻ dưới”, như thế vẫn là có phân biệt kẻ trên người
dưới theo quan điểm của giai cấp phong kiến. Điều đó là khó tránh đối với
một người trí thức phong kiến. Điều đó không phải chỉ là một hạn chế có tính
chất giai cấp mà còn là một hạn chế của thời đại. Nhưng điều đáng chú ý là
Nguyễn Nguyên Úc không phải chỉ nói rằng nên sợ dân, tức là phải luôn luôn
đề phòng nhân dân chống lại. Ông còn nói đến việc phải yêu mến dân. Ý kiến
này phản ánh một sự thực lịch sử: Nhà nước đời Lý tuy có tính chất phong
kiến mà lại vẫn không hoàn toàn đối lập với nhân dân, bởi vì Nhà nước ấy
vẫn còn nhiều tính chất dân tộc. Vì phải dưỡng sức cho dân, Nhà nước cũng
miễn thuế khi có nạn mất mùa, dịch hạn, v.v… Và trong bài “Chiếu miễn thuế”
của Lý Thái tông (1044) có đoạn viết: “Nếu thiên hạ no đủ thời trăm dây há
chẳng no đủ hay sao?” Vua nhà Lý có thực lòng thương xót nhân dân hay
không? Điều đó chưa thể quyết đoán. Nhưng có một điều chắc chắn là qua
câu trên thì có thể thấy nhà vua đã nhận thức được mối quan hệ giữa vận
mệnh của nhân dân với vận mệnh của mình. Trong bài Di chiếu lúc lâm chung
mà ý nghĩa văn học không thể phủ nhận được, có đoạn viết: “Ta đã ít đức,
không có cái gì làm yên trăm họ, nếu đến khi chết lại bắt dân chúng mặc đồ
xô gai, sớm tối gào khóc, giảm sự ăn uống, nghỉ việc cúng tế, để làm nặng cái
tội lỗi của ta, thì thiên hạ bảo ta là người thế nào”. Như vậy là người lãnh đạo
Nhà nước đã biết nhấn mạnh đến trách nhiệm của mình đối với nhân dân
nhiều hơn là đến quyền hạn của mình.
Văn bia chùa Linh Xứng khi ca ngợi Lý Thường Kiệt đã viết như sau:
“Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ giản dị. Những sự
đổi hay phong tục nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì
đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ
yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ gian ác,
đem minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm.
Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc,
cho nên không để lỡ thời vụ, tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng cả
đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên thân.
Phép tắc như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều
ở đấy cả”.
Lý Thường Kiệt là một anh hùng dân tộc có sự nghiệp lớn. Vì vậy, lời
ca ngợi trên đây nếu có quá đáng thì cũng không phải là không dựa trên
những cơ sở hiện thực. Đáng chú ý là tác phẩm đã nêu lên quan niệm tích
cực về một sự nghiệp ích nước lợi dân. Quan niệm ấy tất nhiên không vượt
ra ngoài ý thức hệ phong kiến. Dầu sao, tác giả đã nhấn mạnh đến hạnh phúc
của dân, và lấy việc đem lại lợi ích cho dân làm tiêu chuẩn cao nhất để bình
giá nhân vật.
Trong bài văn “lộ bố” tức bài hịch kể tội vua tôi nhà Tống trước nhân
dân Trung Quốc, thì Lý Thường Kiệt lại nêu rõ: “Đạo làm chúa dân, cốt ở nuôi
dân”. Thế là Lý Thường Kiệt đã đặt vấn đề nuôi dân như nội dung chủ yếu
của đạo làm vua. Lý Thường Kiệt không thể quan niệm nổi một nước mà lại
không có vua. Như thế không có gì lạ, nếu ngược lại thì mới lạ. Nhưng tư
tưởng trọng dân, thân dân mà ông phát biểu lên một cách rõ ràng và nghiêm
trang như vậy chẳng những làm vẻ vang cho ông mà còn làm rạng rỡ thêm
những trang lịch sử văn học cổ. Xuất phát từ cách đặt vấn đề như trên, ông
phê phán kẻ cầm quyền nhà Tống đã “khiến trăm họ mệt nhọc lầm than, mà
riêng thỏa mãn nuôi thân mình béo mập”. Lời văn đầy phẫn nộ và có tính
chiến đấu cao. Văn “lộ bố” được truyền đi trên đường tiến quân sang đánh
các châu Khâm châu Liêm ở phía nam Trung Quốc. Chiến dịch này nhằm tiêu
diệt các căn cứ hậu cần mà vua Tống đang cho củng cố và phát triển trong kế
hoạch chuẩn bị xâm lược nước Đại Việt. Văn “lộ bố” nhằm tranh thủ được sự
đồng tình hoặc ít ra là thái độ trung lập của nhân dân Trung Quốc trước việc
quân đội Đại Việt vượt qua biên giới mà đánh lên phía Bắc, nhằm đạt được
yêu cầu “vấn tội hữu danh”, tức là nêu cao được danh nghĩa chính đáng của
việc chinh phạt hỏi tội kẻ có tội (ở đây là vua tôi nhà Tống). Và Lý Thường
Kiệt tuyên bố: “Nay bản chức vâng mệnh quốc vương, trỏ đường tiến quân
lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ,
không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn, hôi tanh để đến thủa
thăng bình ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn. Ta nay ra quân, cốt để cứu
muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai
nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi”. Bài hịch có mục đích chính trị là
gạt bỏ mọi sự nghi kỵ và chống đối của nhân dân Trung Quốc trước sự xâm
nhập của một đạo quân nước ngoài. Nhưng không thể phủ nhận được sự
thành thực của Lý Thường Kiệt khi ông viết: “Chỉ có ý phân biệt quốc thổ,
không phân biệt chúng dân”. Đất nước thì phải phân biệt rạch ròi, nhưng
không thể đối lập nhân dân hai nước với nhau. Đó là một quan niệm rất đúng,
gắn với lòng yêu hòa bình, chuộng hữu nghị của dân tộc ta.
Như vậy là các tác giả đời Lý đã đưa những truyền thống tốt của dân
tộc vào văn học viết. Trong các truyền thống ấy thì nổi bật lên là tinh thần quật
cường, kiên quyết bảo vệ nền độc lập đã giành được. Nước Đại Việt độc lập
là một hiện thực mà bọn vua chúa phương Bắc không muốn chấp nhận. Vì
vậy, chỉ ít lâu sau khi tạm chấm dứt được nạn phân tranh ở Trung Quốc và
tạm ổn định ách thống trị trên đầu trên cổ nhân dân Trung Quốc thì năm 981,
nhà Tống đã đem quân sang xâm lược nước ta. Ý đồ thôn tính đã bị Lê Hoàn
nhanh chóng đập tan. Nhưng thất bại thảm hại ấy đã không làm cho vua nhà
Tống tỉnh ngộ. Và chỉ mấy chục năm sau, vua Tống và Vương An Thạch đã
tiến hành một kế hoạch xâm lược có qui mô, có chuẩn bị. Đứng trước nguy
cơ ấy, nhà Lý đã chủ động để Lý Thường Kiệt đem quân sang tiến công
trước, tiêu diệt các cứ điểm hậu cần mà nhà Tống đang tích cực chuẩn bị để
đánh phổ nước ta. Chiến dịch ấy của Lý Thường Kiệt đã phần nào làm nhụt
nhuệ khí và làm giảm sinh lực của quân xâm lược. Nhưng năm 1076 quân
Tống vẫn kéo sang cướp nước ta. Quân dân ta dưới sự chỉ huy sau cùng, lập
phòng tuyến chống giữ ở sông Như Nguyệt, tức sông Cầu. Cuộc chiến đấu ở
đây diễn ra ác liệt. Để động viên tướng sĩ, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi
tiếng:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Nước Nam sông núi vua Nam ở,
Sách trời phân giới định rạch rồi.
Giặc dữ vì sao tới xâm phạm,
Tan tành lập tức bay chờ coi.)
Theo sách Trương tôn thần sự tích thì bài thơ này đã được thần sông
Như Nguyệt đọc lên hai lần để giúp vào việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, một
lần giúp Lê Hoàn (năm 981) và một lần giúp Lý Thường Kiệt (năm 1076).
Thần tích này dựa vào lời truyền thuyết trong dân gian. Thần sông Như
Nguyệt là hai anh em Trương Hống, Trương Hát. Đó là hai viên tướng đã
từng chiến đấu dưới ngọn cờ yêu nước của Triệu Quang Phục, một vị anh
hùng chống ngoại xâm của dân tộc hồi thế kỷ thứ VI. Nhớ ơn Trương Hống,
Trương Hát, nhân dân đời sau đã lập nhiều đền thờ hai ông ở ven sông Câu
và sông Thương. Tất nhiên là không thể có thần linh hiện ra để ngâm thơ
theo như truyền thuyết. Giới nghiên cứu văn học từ xưa đến nay đều nhất trí
rằng bài thơ là của Lý Thường Kiệt. Và sử sách đều kể rằng ông đã cho
người vào đền Trương Hống, Trương Hát giả làm thần ngâm thơ để khích lệ
tướng sĩ. Nếu quả có việc mượn uy thế của những vị thần vốn cũng là anh
hùng cứu quốc đời trước, để củng cố niềm tin của binh sĩ, thì Lý Thường Kiệt
đã có hành động phù hợp với tín ngưỡng và tâm lý của người đương thời.
Hai câu đầu của bài thơ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”
khẳng định sự tồn tại của nước ta với tính cách là một quốc gia độc lập, có
chủ quyền. Rõ ràng là ở đây tác giả đã dựa vào tư tưởng thiên mệnh. Cho
rằng trời quyết định mọi sự ở đời là một hạn chế của thời đại. Nhưng cần thấy
cho hết ý nghĩa chứa đựng trong câu: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. Với
chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đã xưng vương và đóng đô ở
Cổ Loa, kinh đô cũ của nước Âu Lạc xưa và từ đó nước ta đứng riêng ra
thành một nước độc lập. Nhưng vua tôi nhà Tống lại không chịu thừa nhận sự
thật ấy, và muốn xóa bỏ cương giới thiêng liêng, thôn tính nước ta. Tất nhiên
là dân tộc ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thành quả của hàng nghìn năm
đấu tranh. Trong văn “lộ bố” truyền đi khi đánh các châu Khâm và Liêm, Lý
Thường Kiệt đã từng viết: “chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng
dân”. Bài thơ làm ở sông Như Nguyệt này lại khẳng định một lần nữa điều ấy:
nước ta có quốc thổ rõ ràng, ranh giới đã được sách trời xác định. Và khẳng
định như thế, bài thơ biểu hiện niềm tin sắt đá vào vận mệnh đất nước.
Khi nói đến đất nước Nam, tác giả nói ngay đến vua nước Nam:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
Nước là vua, vua là nước, đó là quan điểm của giai cấp phong kiến mà
cách nhìn của Lý Thường Kiệt không thể tách rời ra được. Đó vừa là một hạn
chế có tính chất giai cấp, vừa là một hạn chế có tính chất thời đại. Tuy nhiên,
nếu đặt tác phẩm vào hoàn cảnh lịch sử thì lại thấy rằng viết như vậy mới có
tính chiến đấu cao. Nhà Tống kế thừa được của các triều đại phong kiến
trước đó, từ Hán đến Đường, quan điểm kỳ thị Hoa Di rất phản động. Trời
không có hai mặt trời, thiên hạ không có hai hoàng đế. Tất cả đất đai trong
thiên hạ đều là thuộc quyền thống lĩnh tối cao của vị hoàng đế duy nhất ấy.
Mà lúc đương thời thì đó là hoàng đế nhà Tống. Các dân tộc khác ở xa, ngoài
đất Hoa Hạ (tức Trung Quốc) đều là man di, tuy có thể có thủ lĩnh của họ,
nhưng các thủ lĩnh ấy chỉ là phiên thuộc củạ Tống đế. Vì vậy, Lý Thường Kiệt
nêu lên hai chữ “Nam đế” để gọi vua nhà Lý chính là muốn đối lập với Bắc đế,
tức là vua nhà Tống. Nếu Bắc quốc có Bắc đế thì Nam quốc có Nam đế. Vua
nhà Tống và vua nhà Lý mỗi đằng làm đế một phương, không ai hơn ai,
không ai có quyền xâm phạm đến ai. Nêu cao Nam đế chính là nhằm đập tan
tư tương kỷ thị Hoa Di rất phản động của giai cấp phong kiến và Nho gia ở
Trung Quốc. Đồng thời, làm như vậy cũng nhằm khẳng định niềm tự hào
trong binh sĩ nhà Lý, quét sạch tư tưởng tự ty nếu như nó còn rơi trong một
số người nào đó. Thành ra xét theo quan điểm lịch sử thì trong trường hợp cụ
thể này không những không nên nhấn mạnh vào mặt hạn chế trong tư tưởng
phong kiến là gắn nước với vua, đồng hóa nước vào vua, mà trái lại cần thấy
rằng việc Lý Thường Kiệt đem gắn chặt hai chữ “Nam quốc” với hai chữ
“Nam đế” chính lại đã làm cho bài thơ có tính chiến đấu mạnh mẽ. Và lời thơ
đã phản ánh sự trưởng thành của giai cấp phong kiến Đại Việt khi ấy, một giai
cấp có niềm tự hào dân tộc cao và có nhận thức đầy đủ về nền độc lập của tổ
quốc. Nhận thức ấy, xét đến cùng, vốn là của nhân dân. Và viết như thế là
phù hợp với tư tưởng chủ đạo của bài thơ: đề cao tinh thần độc lập chống
ngoại xâm.
Với tinh thần dân tộc mạnh mẽ, với khí thế hào hùng, Lý Thường Kiệt
lại vạch rõ tính chất phi lý, phi nghĩa trong hành động xâm lược của vua nhà
Tống cũng như biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối vào chiến thắng của dân tộc:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Niềm tin tưởng này trước hết thể hiện nhiệt tình yêu nước. Nhưng ở
đây không phải chỉ có nhiệt tình mà thôi. Niềm tin tưởng này có cơ sở vững
chắc ở thực tiễn chiến đấu lật đổ ách thống trị ngoại xâm của thời Ngô Quyền
và nhiều thế hệ trước đó, ở thực tiễn chiến đấu bảo vệ nước Đại Việt từ đời
Đinh đến đời Lý. Đến đời Lý Thường Kiệt thì kinh nghiệm lịch sử cho phép kết
luận rằng: từ nay kẻ nào xâm lược nước Đại Việt sớm hay muộn sẽ bị thất bại
thảm hại. Cho nên, xét cho kỹ thì khi tuyên bố rằng: “Nhữ đẳng hành khan thủ
bại hư”, Lý Thường Kiệt không phải chỉ biểu lộ một ý nguyện. Hơn thế, ông đã
khẳng định một chân lý lịch sử. Chân lý ấy là “dân tộc ta đã trưởng thành,
nước Đại Việt quyết tâm bảo vệ nền độc lập của mình, nước Đại Việt có đủ
sức mạnh đánh tan mọi kẻ xâm lược.
Chân lý mà Lý Thường Kiệt nêu cao cách đây 900 năm, đã được lịch
sử từ đó đến tận ngày nay chứng minh một cách hùng hồn. Chính cũng vì nói
lên được chân lý lịch sử vĩ đại ấy mà chỉ với bốn câu thơ Lý Thường Kiệt đã
viết thêm một trang rạng rỡ trong lịch sử văn học. Cũng chỉ với bốn câu thơ
ấy thôi, ông đã làm vẻ vang cho văn học đời Lý.
Văn học đời Lý – văn học trong Thiền môn cũng như ngoài Thiền môn
– với tất cả những hạn chế của thời đại, đã đặt cơ sở cho sự phát triển của
lịch sử văn học đời sau. Văn học đời Lý đã gắn với những truyền thống tốt
đẹp vốn có từ lâu của dân tộc. Các tác giả đời Lý đã đưa những truyền thống
ấy vào trong văn học và dùng văn học mà phát huy những truyền thống ấy
lên. Và cũng trên cơ sở ấy mà các tác giả đã tạo nên những truyền thống hay
cho bản thân dòng văn học viết. Những truyền thống văn học ấy sẽ được các
tác gia đời Trần phát huy lên một cách rực rỡ với hào khí Đông A nổi tiếng.
III. VĂN HỌC ĐỜI TRẦN PHÁT TRIỂN TRONG HÀO KHÍ CỦA DÂN TỘC ĐẠI VIỆT ĐANG LỚN MẠNH
Dân tộc Đại Việt, trải qua 215 năm xây dựng và chiến đấu trong đời Lý,
đã phát huy những truyền thống của hàng nghìn năm lịch sử trước kia, tạo lập
thêm những truyện thống mới và ngày càng lớn mạnh hơn. Điều đó góp phần
giải thích tại sao sang đời Trần dân tộc ta lại có thể chiến thắng một cách
oanh liệt đạo quân xâm lược khét tiếng hung hãn từ Á sang Âu trong thế giới
thời trung cổ là quân xâm lược Nguyên Mông. Tất nhiên bên cạnh sức mạnh
và lòng yêu nước của nhân dân thì nguyên nhân của chiến thắng oanh liệt
phải tìm thấy ở quyết tâm chiến đấu và tài năng tổ chức lãnh đạo của nhà
Trần. Và không phải ngẫu nhiên mà khí thế hào hùng của nhân dân ta đời
Trần đã được sử gia đời sau đặt cho cái tên là hào khí Đông A. Hào khí đó đã
làm cho vua quan nhà Nguyên mấy phen hết vía. Theo Lê Quý Đôn trong
Kiến văn tiêu lục thì sau khi quân ta chiến thắng, người nhà Nguyên có việc
phải sang nước ta phần nhiều có ý lo sợ. Vào đời Trần Nhân tông, Sứ thần
nhà Nguyên là Trần Phu sau khi ở nước ta về có viết tập sách nhan đề là “Sứ
Giao châu tập” trong đó có bài thơ “Sứ hoàn cảm sự” như sau:
“Thiếu niên ngẫu thử thỉnh trường anh,
Mệnh lạc Nam châu nhất vũ khinh
Vạn lý Thượng Lâm vô nhạn đáo,
Tam canh Hàm Cốc hữu kê minh,
Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
Dĩ hạnh quy lại thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn kinh”.
(Tuổi trẻ xin được có sợi dây dài
Tấm thân gieo vào cõi Nam, xem nhẹ như lông.
Muôn dặm ở Thượng Lâm, không chim nhạn bay tới,
Ba canh ồ Hàm Cốc, có tiếng gà gáy lên.
Trong bóng lòe của binh khi, lòng son đau khổ,
Giữa tiếng rộn của trống đồng, tóc bạc mọc ra.
Đã may mà được trở về, tấm thân khỏe mạnh còn đây,
Sau giấc ngủ, tỉnh dậy còn thấy thần hồn kinh sợ).
Nỗi lo sợ ấy của quân xâm lược cũng lại được Nguyễn Trung Ngạn
phản ánh trong bài thơ “Ung Châu”. Bài thơ này ông làm khi đi sứ sang triều
đình nhà Nguyên năm 1317, tức là ba chục năm sau cuộc xâm lược lần thứ
ba của giặc Nguyên, kết thúc bằng hai câu:
“Tòng quân lão thú tăng kinh chiến,
Thuyết đáo Nam chinh các tự sầu”.
(Lính già thửơ trước từng trải qua chiến trận
Nói tới Nam chinh luống ngậm ngùi).
Việc quan quân nhà Nguyên khiếp sợ rõ ràng là có thực. Để áp đảo tinh
thần của giặc Nguyên như vậy, nhân dân ta đời Trần đã có một hào khí phi
thường. Hào khí đó là của nhân dân, hào khí đó cũng lại là của những anh
hùng dân tộc như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão v.v…
Hào khí đó không những thể hiện trong chiến đấu mà cả trong xây dựng. Hào
khí đó thể hiện trong nền văn hóa dân tộc với bản sắc rất độc đáo. Hào khí đó
thể hiện trong lĩnh vực học thuật ở một ý thức tự cường, ở một đầu óc phê
phán, ở một tinh thần sáng tạo rất đáng chú ý.
Trong đời Trần, Phật giáo vẫn còn thịnh, các vua đời Trần, các nhà quí
tộc lúc về già thường đi tu. Trần Thái tông viết Thiền tông chỉ nam và chú giải
kinh Phật, Trần Nhân Tông là đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm.
Nhưng tình hình đã khác với đời Lý. Tuy vẫn giữ địa vị cao trong quốc
gia phong kiến mà Phật giáo dần dần phải nhường bước cho Nho giáo. Sang
thế kỷ thứ XIII, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Họ là những người trí
thức phần lớn xuất thân từ địa chủ thứ dân. Một số ngày càng nhiều lại xuất
thân từ nông dân và thợ thủ công. Là những người tương đối gần với các
tầng lớp nhân dân hơn là quí tộc, họ tiếp thu được nhiều hơn tư tưởng của
nhân dân về những vấn đề đặt ra cho dân tộc ta lúc bấy giờ. Vì vậy, tuy là
nho sĩ, nhưng tư tưởng và hành động của họ nhiều khi vượt ra khỏi giáo điều
của Nho gia. Bàn về khí tiết của kẻ sĩ đời Trần, Lê Quí Đôn, trong phần Tài
phẩm, sách Kiến văn tiểu lục, đã viết: “Đấy là những người trong trẻo, cứng
rắn, cao thượng, thanh liêm có phong độ như sĩ quân tử đời Tây Hán, thật
không phải người tầm thường có thể theo kịp được. Bởi vì nhà Trần đãi ngộ
sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật
trong thời ấy có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài
thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không hổ với trời, dưới không
thẹn với đất”. Tất nhiên, việc được so sánh với “sĩ quân tử đời Tây Hán”
không làm vinh dự gì cho các trí thức yêu nước đời Trần, nhưng ý kiến của
Lê Quý Đôn cũng phản ánh được phần nào sự thực: một là sự trọng đãi của
Nhà nước phong kiến đời Trần đối với nho sĩ, hai là chí khí tự lập của nho sĩ
lúc bấy giờ. Có một địa vị chính trị ngày càng củng cố, tầng lớp nho sĩ ngày
càng trở thành một lực lượng sáng tác văn học lớn mạnh. Có lý tưởng, có tiết
tháo, đa số những tác giả thuộc tầng lớp nho sĩ, vì tiếp thu được ảnh hưởng
của nhân dân, đã phát biểu được chủ nghĩa yêu nước của dân tộc.
Lực lượng sáng tác văn học các đời Trần và Hồ bao gồm quí tộc, nho
sĩ và tăng lữ. Trong số trên sáu chục tác giả các đời Trần và Hồ mà ngày nay
chúng ta được biết thì đã có vào khoảng trên bốn chục tác giả thuộc tầng lớp
nho sĩ, số tác giả thuộc tầng lớp tăng lữ chỉ có độ non một chục người, và số
tác giả thuộc tầng lớp quí tộc là trên một chục. Như vậy đủ thấy sự hình thành
lực lượng trên văn đàn đời Trần khác với đời Lý. Dòng văn học viết đời Trần
bao gồm văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
Về tản văn chữ Hán trước hết phải kể đến các tác phẩm sử học. Ngoài
Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, có Việt sử cương mục và Nam Việt thế chí
của Hồ Tông Thốc, Đại Việt sử lược của tác gia khuyết danh, v.v…, còn các
bộ Ngọc điệp, Đại điển thực lục, ghi chép thế hệ các vua Trần, các sự việc
lớn của Nhà nước. Về văn nghị luận, đáng chú ý nhất là các sách Khóa hư
lục và Thiền tông chỉ nam của Trần Thái tông, sách Tứ thư thuyết ước của
Chu An, sách Minh đạo lục của Hồ Quý Ly. Thuộc loại văn truyện ký có
những sách như Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Tam
tổ thực lục (khuyết danh), Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp, Nam ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng.
Về biền văn, đời Trần còn truyền lại mười ba bài phú, bảy bài biểu làm
theo thể văn tứ lục. Lê Quý Đôn, bàn về biền văn đời Trần có viết: “Văn thể
phú về triều Trần, phần nhiều khôi kỳ hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận cách
điệu như thể văn nhà Tống”. Ngoài phú và văn tứ lục ra lại còn có hịch, văn
bia, văn chuông trong số đó nhiều bài có giá trị. Trong kho tàng biền văn đời
Trần đáng chú ý nhất là những tác phẩm biểu hiện dũng khí chống xâm lăng
như bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, tinh thần tự hào dân tộc như bài
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, lòng yêu mến thiên nhiên của tổ
quốc như bài Thiên Hưng trấn phú của Nguyễn Bá Thông, lòng yêu hòa bình
như bài Trảm xà kiếm phú của Sử Hy Nhan hoặc những tác phẩm phê phán
Phật giáo như bài Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu, đề cao giá trị của
người trí thức như Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đỉnh Chi, Thiên thu kim giám
phú của Phạm Mại, Cần chính lâu phú của Nguyễn Pháp, bài Thất trảm sớ
của Chu An nếu không thất truyền chắc còn có thể giúp ta tìm hiểu thêm
những khía cạnh khác của “hào khí Đông A”.
Về vận văn chữ Hán, số lượng tác phẩm phong phú hơn các loại trên
nhiều. Căn cứ vào thư mục của Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại
chí - Văn tịch chí) thì hầu như mỗi vua nhà Trần đều có thi tập của mình. Trần
Thái tông có Thái tông ngự tập, Trần Thánh tông có Thánh tông thi tập, Trần
Nhân tông có Nhân tông thi tập và Đại hưng hải ấn thi tập, Trần Anh tông có
Thủy văn tùy bút, Trần Minh tông có Minh tông thi tập, Trần Nghệ tông có
Nghệ tông thi tập. Các nhà quí tộc khác cũng để lại nhiều tác phẩm thi ca.
Chiêu minh vương Trần Quang Khải có Lạc đạo tập, Uy văn vương Trần
Quốc Toại có Sầm Lâu tập, Văn huệ vương Trần Quang Triều có Cúc Đường
di thảo, Hưng nhượng vương Trần Quốc Tảng có Phóng cuồng ca, Chương
túc hầu Trần Nguyên Đán có Băng hồ ngọc hác tập. Những nhà sư còn để lại
tác phẩm thi ca là Pháp Loa với Đoạn sách lục, Huyền Quang với Ngọc tiên
tập. Nhiều hơn cả là số thi nhân thuộc tầng lớp nho sĩ. Đinh Củng Viên có Cồ
đường đô, Nguyễn Thuyên có Phi sa tập. Trương Hán Siêu có Cúc hoa bách
vịnh. Nguyễn Trung Ngạn có Giới hiên thi tập, Bùi Mộ có Chuyết trai thi tập,
Chu An có Tiều ẩn thi tập, Phạm Sư Mạnh có Hiệp Thạch tập, Hồ Tông Thốc
có Thảo nhàn hiệu tân tập, Nguyễn Phi Khanh có Nhị khê thi tập v.v… Ngoài
ra những người như Phạm Ngũ Lão, Mạc Đỉnh Chi, Lê Bá Quát, Trần Đình
Thám, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Cố Phu, Nguyễn Sĩ
Cố, Chu Đường Anh, Đỗ Tử Vi, Lê Cảnh Tuân, Đặng Dung v.v… tuy không
có thi tập nhưng để lại nhiều bài thơ có giá trị. Thơ đời Trần có loại nói lên
tình yêu tha thiết đối với quê hương như thơ của Trương Hán Siêu, Nguyễn
Trung Ngạn, Hồ Tông Thốc, hoặc chứa chan khí tiết bất khuất và ý chí quyết
thắng trước giặc ngoại xâm như thơ của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão,
Phạm Sư Mạnh, hoặc cảm khái trước thời thế như thơ của Chu An, Trần
Nguyên Đán, Lê Cảnh Tuân, Đặng Dung, có loại thơ ca tụng đời sống nhàn
tản như thơ của Nguyễn Sưởng, Huyền Quang, hoặc siêu thoát phóng cuồng
như thơ của Trần Quốc Tảng, Trần Quang Triều, Trần Quốc Toại v.v…
Điểm qua văn học đời Trần, phải nhận rằng số tác phẩm xuất hiện
không phải là ít (ấy là chưa kể những tác phẩm mà đến cả cái tên cũng không
còn lưu truyền lại được). Tiếc rằng phần lớn những tác phẩm kể trên đã thất
truyền.
Nói về văn học đời Trần thì bên cạnh các tác phẩm văn học chữ Hán
phải kể đến các tác phẩm chữ nôm. Văn thơ nôm có thể đã có từ đời Lý, tuy
nhiên hiện nay chỉ mới có chứng tích về chữ nôm đời Lý mà chưa có tài liệu
gì về văn thơ nôm đời Lý cả. Về văn thơ nôm đời Trần thì các bộ sử lớn đều
có nói đến. Và chúng ta được biết rằng đời Trần có nhiều người làm thơ nôm
mà nổi tiếng nhất là Nguyễn Thuyên tức Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố.
Nhưng đa số tác phẩm nôm đời Trần đã mất rồi. Hiện nay chúng ta chỉ còn
giữ được một số rất nhỏ tác phẩm như Cư trần lạc đạo phú, Hoa Yên tự phú,
Giáo tử phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, v.v… Văn bản những tác phẩm
còn lại như thể hiện chưa được giám định một cách thực là chặt chẽ và việc
đánh giá những tác phẩm ấy chỉ có ý nghĩa tương đối.
Nhìn chung, chúng ta bị hạn chế rất nhiều về mặt tài liệu trong việc tìm
hiểu dòng văn học viết vốn khá phong phú của đời Trần. Phan Huy Chú cho
biết rằng sau khi cướp nước ta, giặc Minh đã chủ trương hủy hoại kho thư
tịch của ta. Tướng giặc Trương Phụ đã cho thu hết sách vở của nước ta đưa
về Kim Lăng. Sau khi giặc Minh bị đuổi đi rồi, nhiều thế hệ các nhà biên soạn
đời Lê đã có ý thức sưu tập thơ văn trước thế kỷ thứ XV, nhưng kho thư tịch
cổ mười phần mới chỉ khôi phục được một, hai. Chúng ta đành phải dựa trên
phần còn lại để tìm hiểu một thời kỳ rất huy hoàng của nền văn học cổ mà
biết chắc rằng chưa có thể nhận định một cách thực là đầy đủ và chính xác về
thời kỳ ấy.
IV. HỌC PHONG ĐÔNG A
Nói đến đời Trần, các sử gia trước kia hay nhắc đến hào khí Đông A,
tức là khí phách anh hùng, tự lập, tự cường.
Về mặt văn hóa, khí phách tự lập, tự cường trong học phong, học thuật
thể hiện rất rõ. Xét học thuật đời Trần thì trước hết phải nói đến những trước
tác về Phật học. Những tác giả viết về Phật giáo không phải là ít. Trần Thái
tông viết Thiền tông chỉ nam, Khóa hư lục, Trần Quốc Tảng có Thượng sỉ ngữ
lục, Trần Nhân tông viết Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Thạch thất mị ngữ,
Pháp Loa tôn giả viết Tham thiền chỉ yếu, Huyền Quang tôn giả viết Phổ tuệ
ngữ lục v.v… Những sách như Thiền uyển tập anh ngữ lục, Nam tông tự
pháp đồ, Tam tổ thực lục tuy rằng đều viết theo thể truyện ký nhưng cũng có
nội dung triết học.
Trong đời Lý và đời Trần, ba hệ tư tưởng Nho, Lão, Phật đều được nhà
nước công nhận. Quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” là một quan niệm vốn
có từ lâu ở Trung Quốc. Đạo Phật truyền sang Trung Quốc từ đời Hán và sau
đó đạo Phật bắt đầu có địa vị quan trọng bên cạnh Nho và Lão. Nhiều nhà tư
tưởng đã cố gắng chứng minh rằng Nho Lão và Phật vốn có chung một
nguồn gốc. Từ đời Tam quốc, Vương Bật đã cho rằng sách Lão tử và sách
Chu dịch vốn là một. Sang đời Nam Bắc triều, các nhà theo Đạo giáo lại cho
rằng Đạo giáo với Phật giáo vốn là một dòng. Đến đời Tấn có Du Đạo Thiên
đề xướng luận điệu “Nho Phật nhất trí”. Sau đó, Vương Thông đời Tùy, một
nho gia nổi tiếng, lại cho tam giáo là đồng nhất. Sang đời Đường thì khuynh
hướng đó càng được nhiều người xác nhận: Lưu Mật làm sách Nho Thích
Đạo bình luận cũng nói về lẽ tam giáo đồng nguyên. Rõ ràng là quan niệm
tam giáo đồng nguyên không phải là một điều mới mẻ, lại càng không phải là
một điều sáng tạo đặc biệt của tư tưởng Phật học đời Trần. Quan niệm ấy
vốn có ở Trung Quốc từ mấy thế kỷ trước. Và quan niệm ấy không phải đợi
đến đời Trần mới truyền sang nước ta. Vua nhà Lý mở khoa thi tam giáo để
chọn người tài trong Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Giúp vua trị nước không
những chỉ có các nhà sư mà còn có các nhà nho. Những nhà nho như Đoàn
Văn khâm, Nguyễn Công Bật, Nguyễn Công Diễm lại thường mộ đạo Phật.
Trong khi ấy thì các nhà sư từ Vạn Hạnh cho đến Minh Không lại đã “nhập
thế” chẳng khác nhà nho để giúp vua làm việc nước. Trong Thiền tông đời Lý
cũng có những nhà sư cố giải thích sự tương đồng và sự hỗ trợ giữa Phật và
Khổng. Theo sách Thiền uyển tập anh thì nhà sư Viên Chiếu đã có ý kiến về
vấn đề này. Khi được hỏi: “Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà” thì nhà sư
đọc lời kể rằng: “Ly hạ trùng dương cúc, Chi đầu thục khí oanh”. Khi đệ tử
thưa rằng vẫn chưa hiểu và xin giảng lại cho thì nhà sư lại đọc lời kệ: “Trú tắc
kim ô chiếu, Dạ lai ngọc thỏ minh”. Để giải nghĩa về mối quan hệ giữa Phật và
Thánh (tức Khổng tử) mà nhà sư dùng hình tượng: “hoa cúc tiết trùng dương
nở chân dậu và chim oanh ngày trời ấm hót đầu cành” thì rõ ràng là coi trọng
cả hai như nhau, không phân biệt hơn kém. Nhưng kẻ đệ tử vẫn chưa hiểu và
muốn thấy không những chỗ giống nhau mà chủ yếu là chỗ khác nhau kia.
Thì nhà sư bèn dùng hình tượng “Ngày thì mặt trời soi, đêm đến mặt trăng
sáng”. Như vậy thì giống nhau là ở chỗ cùng là ánh sáng mà khác nhau là ở
chỗ phân công theo hoàn cảnh khác nhau. Phật có ý nghĩa đối với người đời
ở hoàn cảnh này và Nho có ý nghĩa đối với người đời ở hoàn cảnh khác. Như
vậy thì rõ ràng là từ đời Lý, ngay trong Thiền tông cũng đã có quan niệm dung
hòa Phật giáo với Nho giáo. Có điều đáng chú ý là sang đến đời Trần, thì thấy
rõ sự liên hệ chặt chẽ hơn giữa quan niệm ấy với thực tế xây dựng nhà nước
phong kiến. Cũng vì vậy cho nên trong việc dung hòa Phật giáo và Nho giáo,
ta thấy có xu hướng uốn Phật giáo theo Nho giáo, điều chưa thấy rõ trong đời
Lý.
Trong bài tựa Sách Thiền tông chỉ nam, Trần Thái tông viết: “… Đạo
Phật không chia nam bắc đều có thể tu cầu, tính người có hiền ngu, cũng đều
được giác ngộ. Cho nên: cái phương tiện để mở lòng mê muội, cái đường lối
soi rõ sống chết, chính là đại giáo của Đức Phật; giữ cán cân để làm mức cho
hậu thế, nêu khuôn phép cho tương lai là trách nhiệm nặng nề của Tiên thánh
vậy”. Như thế là tác giả đã nêu cao vai trò của cả Phật tổ lẫn Khổng tử. Cố
tìm ra mối liên hệ giữa Phật và Khổng, tác giả lại viết: “Thế mới biết giáo hóa
của đức Phật lại cần phải có Tiên thánh mới có thể truyền về đời sau vậy.
Trẫm ngày nay há chẳng nên lấy trách nhiệm của Tiên thánh làm trách nhiệm
của mình, giáo hóa của Phật tổ làm giao hóa của mình hay sao?”. Trần Thái
tông tuy cho rằng Phật tổ và Tiên thánh đều giáo hóa người đời, nhưng nhà
vua lại nêu rõ trách nhiệm của Phật tổ và Tiên thánh. Nhà vua thấy “Đại giáo
của Phật tổ” vạch cho chúng sinh “cái lối soi rõ sống chết”, còn như “trách
nhiệm của Tiên thánh” là “giữ cán cân để làm mức cho hậu thế, nêu khuôn
phép cho tương lai”. Phật chủ xuất thế, Khổng chủ hiện thế. Phật giáo nhằm
mục đích “cứu vớt” chúng sinh khỏi cảnh “khổ hải trầm luân”, khỏi cái vòng
“sinh sinh hóa hóa”. Khổng giáo vạch con đường tu, tề, trị, bình để xây dựng
một trật tự lý tưởng ngay trong cõi đời này. Vì vậy cho nên tác giả đã viết:
“Đạo của Đức Phật cần phải có Tiên thánh mới truyền về đời sau vậy”. Theo
tác giả thì hai thứ giáo lý ấy phân chia ranh giới, mỗi bên nhằm một hướng,
đêu có ích cho loài người, nhưng cả hai phải dựa vào nhau để bổ khuyết cho
nhau. Thế là điều hòa mà vẫn phân biệt, phân biệt mà vẫn điều hòa. Trần
Thái tông suốt đời tu cầu đạo Phật chắc là phải nhận rõ mặt tương phản –
hay ít ra thì cũng là mặt sai biệt – giữa triết lý xuất thế của đạo Phật và triết lý
hiện thế của đạo Khổng. Cho nên ông đã không hàm hồ mà bảo rằng Nho và
Thích không khác gì nhau và ông đã biện biệt rất minh bạch chỗ khác nhau.
Ông không nói thẳng ra, nhưng cứ theo ý kiến trình bày trong bài tựa sách
Thiền tông chỉ nam thì thấy rằng nếu như Phật lo cho phần đạo thì Khổng lo
cho phần đời của tất cả mọi người. Cũng trong bài tựa đó, nhà vua đã nhắc
lại lời quốc sư Trúc Lâm đại sa môn khuyên mình như sau: “Phàm đã làm vua
thiên hạ, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy tấm
lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay cả thiên hạ đêu muốn rước bệ
hạ về làm vua thì bệ hạ không về sao được? Duy có một điều là khi bệ hạ đã
về thì đừng có sao nhãng sự giảng cứu Nội điển vậy”. Và nhà vua đã thực
hiện điều đó, “lấy trách nhiệm của Tiên Thánh làm trách nhiệm của mình, lấy
giáo hóa của Phật tổ làm giáo hóa của mình”.
Quan niệm của Trần Thái tông về sự phân công giữa Phật và nho phản
ánh địa vị của Nho giáo và Phật giáo lúc bấy giờ. Phật giáo tuy còn địa vị cao
nhưng đã nhường bước dần dần cho Nho giáo. Phật giáo sẽ chủ yếu lo cho
phần đạo, Nho giáo sẽ lo phần đời, việc tu hành và truyền giáo là của tăng lữ,
còn như việc chính trị sẽ nhường dần cho nho sĩ.
Bàn về phép tu hành của nhà chùa, bài bạt hậu Khóa hư lục có câu:
“Ấy những sự nói, im, động, tĩnh đều là Phật pháp, những sự ăn uống, ngủ
nghê đều là Phật pháp, những sự ỉa, đái đều là Phật pháp”. Theo tác giả thì
trong cuộc sống của con người, có nhiều nhu cầu phải đáp ứng và không thể
coi thường được. Muốn tu hành thì tinh thần phải sáng suốt, muốn tinh thần
được sáng suốt thì không lẽ lại vứt bỏ thể xác. Cho nên tu hành không phải là
trốn tránh những nhu cầu của thể xác. Và nếu như phép thiền định, sự tĩnh
tâm trai giới là thuộc về Phật pháp thì việc đáp ứng cho những nhu cầu sinh
hoạt của con người như ăn uống, ngủ nghê, ỉa đái cũng phải được quan tâm
và cũng phải được coi là thuộc về Phật pháp. Ở đây tất nhiên cũng lại phải
thấy ảnh hưởng của tư tưởng cực đoan trong Thiền tông. Tư tưởng này cho
rằng nếu mọi thứ trên đời này đều là pháp tướng vô thường, đều là huyễn
ảnh thì cần gì phân biệt giữa chúng với nhau nữa. Bẩn và sạch, đục và trong
đều là không có thực. Vậy thì cần gì phải băn khoăn giữa hai mặt trái ngược
ấy. Kẻ đã giác ngộ lẽ Thiền thì sẽ thấy vô minh (ngu tối) cũng là bồ đề (giác
ngộ), phiền não (đau khổ) cũng là Nát Bàn (giải thoát). Tuệ trung thượng sĩ
Trần quốc Tảng đã có bài kệ Thị chúng (dạy học trò) như sau:
“Bản lai vô cấu tịnh,
Cấu tịnh tổng hư danh.
Pháp thân vô quể ngại,
Hà trọc phục hà thanh.”
Cấu (bẩn) và tịnh (sạch) đều là hư danh (cái tên suông không gắn với
cái gì có thực). Trọc (đục) và thanh (trong) làm gì có mà lại đòi hỏi không
được như thế kia và phải như thế này. Tuệ trung con cho rằng phàm thánh
bất dị (người thường và bậc thánh không khác nhau) mê ngộ bất dị (u mê và
giác ngộ không khác nhau). Có lần Thái hậu (em gái Tuệ Trung) mời ông ăn
cơm. Thấy mâm cơm có thịt, ông cứ ăn như thường. Thái hậu lấy làm lạ, hỏi
rằng: “Anh noi theo đạo Thiền, nếu ăn thịt thì sao mà thành Phật được?”. Ông
cười nói: “Phật là Phật, anh là anh. Anh không muốn là Phật, Phật cũng
chẳng muốn là anh”. Ý muốn nói cần gì phải cố chấp theo ai, cần gì phải theo
giới luật cứng nhắc. Phật là tâm, tâm là Phật, mình phải an nhiên thích thảng
theo con đường của mình, theo cái tâm của mình. Mọi thứ như sinh và tử,
phiền não và bồ đề đều xuất hiện với “tâm” và mất đi với “tâm”. Vì vậy không
e ngạị, câu nệ gì giữa những cái đó mà phải vượt lên trên tất cả. Tư tưởng
cực đoan này chắc đã có ở tác giả Thiền tông chỉ nam. Tuy nhiên, về một mặt
khác lại cần thấy rằng các vua Trần, các nhà quí tộc đời Trần dầu đã gia nhập
Thiền môn, mà trước hết lại là những nhà chính trị, những người hoạt động
Nhà nước. Cho nên có lẽ vì thế một phần mà họ cũng chú ý đến thực tiễn,
đến sinh hoạt vật chất của con người và họ không thể không phản đối những
phép tu hành quá ư khổ hạnh.
Tóm lại, trong đời Trần nếu như vẫn có nhiều tác phẩm thuyết giáo về
đạo Phật, nếu như vẫn có nhiều nhà tu hành cố gắng đề cao vai trò của đạo
Phật thì lại đồng thời xuất hiện xu hướng muốn phân công giữa Phật giáo và
Nho giáo.
Nhìn chung thì về cơ bản trong các đời Lý Trần, quan niệm tam giáo
đồng nguyên không bao giờ bị phủ định hoàn toàn. Có điều là Nhà nước
phong kiến trên bước đường củng cố đã dần dần thấy rằng Nho giáo có tác
dụng thiết thực hơn so với Phật giáo và Đạo giáo. Ngay trong đời Lý, đã có
nho sĩ lên tiếng đã kích tăng lữ. Theo Đại Việt sử lược, thì năm 1198, Đàm Dĩ
Mông đã phản đối tăng lữ như sau: “Bây giờ tăng đồ gần bằng số dịch phu.
Chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành bầy. Chúng làm nhiều việc bẩn
thỉu, hoặc nơi giới trường, tĩnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trai phòng
tịnh viện mà âm thầm gian dâm. Ngày ẩn, tối ra, thật như đàn cáo chuột.
Chúng làm bại tục thương giáo, dần dần thành thói quen. Nếu không cấm đi
thì lâu ngày quá lắm”. Lời phê phán này phản ánh sự trụy lạc của một bộ
phận không ít tăng lữ. Dầu sao, ở đây vẫn chưa phải là phê phán giáo lý đạo
Phật.
Sang thế kỷ thứ XIII thì không những tăng lữ mà ngay cả những giáo lý
của đạo Phật cũng bị nhà nho phê phán. Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký đã
có lần nêu rõ rằng lòng từ bi bác ái mơ hồ của Phật giáo có thể gây tác hại
không nhỏ. Nhân việc vua Lý Thái Tông sau khi đánh bắt được Nùng Trí Cao
đã không trừng phạt họ Nùng vì tội dấy quân, cát cứ chống lại triều đình mà
lại còn ban chức tước cho (năm 1043), sử thần Lê Văn Hưu có lời bàn rằng:
“Năm trước, Nùng Tôn Phúc làm phản, tiếm hiệu mở nước, đặt quan chức.
Vua Thái Tông đã bắt tội Nùng Tôn Phúc mà tha tội cho con là Trí Cao. Nay
Trí Cao lại dẫm lên vết cũ của cha thì tất là tội càng lớn, giết đi cũng đáng,
đoạt lấy tước ấp, giáng làm thứ dân cũng đáng. Thái tông đã tha tội mà lại
cho thêm châu quận, ban ấn phong làm Thái bảo. Thế là thưởng phạt không
có phép tắc và để di họa cho châu Quảng Nguyên… Ấy là vì đắm say vào
điều nhân nhỏ của Phật thị mà quên cái điều nghĩa lớn của quốc gia” Lê Văn
Hưu có lẽ chưa nhìn thấy việc làm của Lý Thái tông là thuộc về đường lối
chính trị của các vua Lý. Ấy là dùng chính sách mềm dẻo khiến các tù trưởng
miền núi qui phục chính quyền trung ương chứ không phải chỉ dùng đến vũ
lực. Trong xu thế tất yếu của lịch sử, các tộc thiểu số ở miền núi từ lâu đã gắn
bó với nước Đại Việt và tham gia tích cực trong khối đoàn kết toàn dân để xây
dựng và bảo vệ đất nước. Cho nên xử lý vấn đề Nùng Trí Cao như vua Lý
không phải là hoàn toàn sai. Nếu như về sau Nùng Trí Cao cứ ngoan cố tìm
cách cát cứ, xưng hùng xưng bá ở địa phương mà chống lại sự thống nhất
của đất nước thì đó là sai lầm của một cá nhân có tham vọng không chính
đáng. Việc làm của Nùng Trí Cao cuối cùng đã thất bại vì đi ngược lại với
nguyện vọng của các tộc thiểu số miền Đông Bắc. Việc vua nhà Lý đối xử tốt
với họ Nùng gắn với yêu cầu chính trị là đoàn kết các tộc thiểu số lại trong
nước Đại Việt, chứ không phải chỉ vì có lòng từ bi, không phải vì vướng vào
“cái điều nhân nhỏ của Phật thị mà quên cái nghĩa lớn quốc gia” Và nhận xét
của Lê Văn Hưu có phần nào chưa thỏa đáng. Nhưng ở đây cần phải thấy
rằng ông đã đặt vấn đề nghĩa lớn quốc gia lên trên hết. Theo ông thì không có
thứ tình thương chung chung và tiêu chuẩn để đánh giá mọi hành vi là ở chỗ
có phù hợp với nghĩa lớn ấy hay không. Lê Văn Hưu đã phê phán quan niệm
từ bi của nhà chùa mà ông cho là vô nguyên tắc và có hại.
Lê Bá Quát trong bài bia chùa Thiên Phúc thì lại phàn nàn rằng nhà
chùa lấy họa phúc mà mê hoặc, khiến cho mọi tầng lớp xã hội từ vương công
đến thứ nhân đều đua nhau phung phí tài sản để xây chùa, đúc chuông. Phê
phán nhà chùa một cách đầy đủ hơn cả là Trương Hán Siêu. Trong bài bia
chùa Khai Nghiêm, bài ký tháp Linh Tế, ông đã đứng trên quan điểm chính
thống của Nho gia mà phê phán nhà chùa.
Trong bài bia chùa Khai Nghiêm có đoạn viết về tăng lữ như sau: “Thời
bây giờ trong thiên hạ chỗ nào đất tốt cảnh đẹp, chùa đá chiếm phần nửa rồi,
lũ lượt theo đi ở chùa, không cày mà có cơm ăn, không dệt mà có áo mặc,
bọn thất phu, thất phụ thường lìa nhà cửa, bỏ làng nước mà theo như cò bị
gió lướt. Than ôi! đức thánh xa khơi, đạo không rõ rệt, làm thày làm quan
không có ai được như ông Chu, ông Thiệu để dẫn đầu phong hóa, trong châu
huyện làng xóm thì không có trường học để dạy nghĩa hiếu đễ; những hạng
người ấy làm sao mà lại không theo đạo khác được, cái thế tất nhiên phải là
như vậy”. Rõ ràng đó là một thái độ khinh miệt đối với tăng lữ. Đồng thời tác
giả lại biểu lộ nỗi niềm lo lắng về lý tưởng tu, tề, trị, bình của mình: Vì nhiều
người bỏ đi tu mà có phương hại đến sản xuất, có phương hại đến kỷ cương.
Trong bài ký tháp Linh Tế, sự mạt sát tăng lữ còn nặng nề hơn nữa: “Phật
Thích Già lấy tam không để chứng đạo chân tu, khi tịch rồi, đến thời sau này,
người ta sùng phụng đạo Phật, làm mê hoặc chúng sinh. Năm phần đất thiên
hạ, chùa chiếm mất một phần; bở cả luân thường, hao phí tiền của; bọn sư
sãi dông dài, người khờ dại tin theo. Như thế mà không biến thành yêu quỷ
gian tà thì cũng là một chuyện hiếm có!” Ở đây, bên cạnh sự phê phán tăng
lữ thì phần nào lại có sự phê phán giáo lý đạo Phật. Và theo ông thì: “Phương
chi ngày nay thánh triều muốn nổi cơn gió lớn để cứu thói hư, dị đoan nên bỏ,
chính đạo nên bày. Làm bậc sĩ đại phu, không phải đạo Khổng Mạnh thì
không trước thuật, quay lại lép bép nói về đạo Phật thì ta đây định dối ai!” (Bia
chùa Khai Nghiêm). Tác giả đã thanh minh rằng mình viết bài văn khắc vào
bia của nhà chùa thì khòng phải nhằm mục đích đề cao Phật giáo. Hơn nữa,
ông lại còn nêu rõ nhiệm vụ của kẻ sĩ đại phu là phải làm sáng tỏ đạo Thánh
nhân, đạo của Nghiêu Thuấn, chứ không nên đem những thuyết giáo xa lạ
với đạo Thánh nhân mà lừa dối người đời. Như thế là Trương Hán Siêu đã
nhấn mạnh vào chỗ khác nhau giữa Nho và Phật.
Tuy nhiên, nhà nho chưa khi nào đi sâu vào việc phân tích một cách có
hệ thống triết học Phật giáo, cho nên họ chỉ phê phán một số mặt tiêu cực cụ
thể trong tác dụng của Phật giáo, hay nói cho đúng hơn của tăng lữ, của nhà
chùa lúc đương thời đối với đời sống xã hội, trước hết là đối với việc xây
dựng Nhà nước phong kiến. Và xét cho kỹ, họ chưa bao giờ hoàn toàh phủ
định triết học Phật giáo. Cho nên không lấy gì làm lạ khi thấy một người như
Trương Hán Siêu lúc về già lại đi ở chùa.
Có một điều đáng chú ý là trong nhiều trường hợp, những tác phẩm
phê phán đạo Phật và tăng lữ nhờ nho sĩ viết hộ trong đời Trần, đạo Phật vẫn
còn thịnh, tăng lữ đều có học. Cho nên không phải vì tăng lữ dốt chữ mà
không biết đến nội dung chống lại những tệ lậu của nhà chùa trong những bài
văn bia đó. Thế mà những bài văn bia đó không bị phá hủy và cứ được các
chùa giữ lại. Tại sao vậy? Có thể vì tác giả có danh vọng lớn quá cho nên nhà
chùa kiêng nể mà không dám phá hủy tác phẩm của họ. Cũng có thể là vì dầu
sao thì những bài văn bia đó chỉ chống lại những tệ lậu của nhà chùa, chứ
không phải chống lại nhà chùa nói chung, lại càng không chống lại phần lõi
cốt của triết học Phật giáo.
Nhìn chung, trong xã hội ta ngày xưa, ảnh hưởng Nho giáo, Phât giáo,
Đạo giáo thường pha trộn với nhau. Ảnh hưởng của Nho giáo lại thường
không đậm nét đối với nhân dân bằng ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo.
Còn trong các tầng lớp trí thức thì quan niệm tam giáo đồng tôn không bao
giờ bị phủ định. Chính một không khí như vậy đã tạo điều kiện cho một thái
độ rộng rãi về mặt tư tưởng trong xã hội.
Sống trong một không khí xã hội như thế, lại tiếp thu hào khí của một
thời đại anh hùng, nho sĩ đời Trần tuy học theo Nho giáo mà không chịu câu
thúc tự bó mình trong khuôn khổ của Nho giáo. Họ có tinh thần tự lập, khí
phách tự cường trong khi nghiên cứu, học tập những thuyết lý của Nho giáo.
Với học phong tự lập, tự cường như thế đã xuất hiện những tác phẩm đáng
chú ý như Tứ thư thuyết ước của Chu An và Minh đạo lục của Hồ Quí Ly.
Sách Tứ thư thuyết ước được soạn vào khoảng giữa thế kỷ XIV, ngày nay đã
thất truyền. Chu An (? - 1370) hiệu Tiều ẩn, thụy Văn trinh, người làng Thanh
Đàm (nay là Quang Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội) là một nhà
nho lớn có danh vọng trong đời Trần. Học nghiệp tinh thuần, tính nết ngay
thẳng, không ham danh lợi, ông ở nhà mở trường dạy học. Những nhà nho có
tiếng như Phạm Sự Mạnh và Lê Bá Quát đều là học trò của ông… Trần Minh
tông vời ông ra làm quốc tử giám tư nghiệp và dạy thái tử. Đến đời Trần Dụ
tông, chính sự đổ nát, ông dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần (Thất trảm sớ).
Vua không nghe, ông bèn treo mũ từ quan về ẩn ở Chí Linh (Phượng Hoàng
sơn, xã Kiệt Đặc) và lại mở trường dạy học. Có thể nói Chu An suốt đời dạy
học, khi ở nhà, khi ra làm quan và khi đi ở ẩn. Hơn nữa, Chu An lại được coi
như ông thầy của cả một thời đại. Ông đã gắn học với hạnh, nêu gương tu
dưỡng và xử thế cho học trò, cho nên những học trò của ông như Phạm Sư
Mạnh, Lê Bá Quát sau khi thành đạt vẫn thường đến chịu sự giáo huấn của
thầy. Và không phải là quá đáng khi Trần Nguyên Đán đã có lời thơ ca ngợi
sự nghiệp giáo dục của Chu An như sau: “Bể học xoay làn sóng, phong tục
trở lại thuần hậu”. Chu An là một nhà nho. Vậy thì những điều giáo huấn của
ông không thể tách rời những kinh điển của Nho giáo. Nhưng phải thấy rằng
đức tính khảng khái, liêm khiết, không màng danh lợi, không ngại cường
quyền, bao giờ cũng nghĩ đến nước, đến dân mà ông nêu cao thì lại xứng
đáng thuộc vào những giá trị tinh thần của dân tộc. Về nhân cách của ông,
Ngô Sĩ Liên một sử gia của thế kỷ XV đã viết trong Đại Việt sử ký toàn thư
như sau: “Sau muôn năm nghe cái phong của tiên sinh, người ngoan ngạnh
cũng hóa ra liêm, kẻ đớn hèn cũng tự lập được…”. Ca ngợi ông, Đặng Minh
Khiêm, tác giả Việt giám vịnh sử tập (cuối thế kỷ thứ XV, đầu thế kỷ thứ XVI)
đã viết rằng Chu An có “khí tiết thanh cao và khắc khổ nêu gương nghìn thu,
tiêu biểu cho sĩ phu như núi Thái sơn cao ngất”. Về Thất trảm sớ của ông, Lê
Tung, một sử gia thế kỷ XVI, trong Việt giám thông khảo tổng luận, đã viết:
“thất trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn…” nghĩa là: bài sớ thất trảm, nghĩa
động cả trời đất. Lê Quí Đôn, trong Kiến văn tiểu lục (Tài phẩm) bàn về năm
người danh sĩ đời Trần, đã viết: “Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần làm
rung động cả trong triều ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không
chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục,
đấy là bậc thanh cao nhất”. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại
chí (Nhân vật chí) cũng ca ngợi Chu An như sau: “Văn trinh công học nghiệp
thuần túy, tiết tháo cao thượng, được thời ấy suy tôn, thời sau ngưỡng mộ.
Tìm trong làng nho ở nước Việt ta, từ trước đến nay chỉ có mình ông, các ông
khác thực không thể so sánh được” Cao Bá Quát thì cho rằng “làm trai sống
ở đời không làm được việc phơi gan bẻ gãy chấn song giữ vững cương
thường” (ý nói có dũng khí bảo vệ chính nghĩa) như Chu An thì lúc chết,
xuống dưới suối vàng, chắc phải run sợ, mặt dạn mày dày không dám gặp
Chu An. Một người mà trong hàng bao nhiêu đời được các thế hệ trí thức dân
tộc nhất trí thán phục tất phải có nhân cách cao cả. Về sách Tứ thư thuyết
ước, Phan Huy Chú cho biết là gồm mười quyển. Theo như tên sách thì chắc
rằng trong ấy, tác giả đã bình luận về tứ thư tức là bốn quyển sách kinh điển
của Nho gia: Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh tử. Tiếc rằng sách Tứ thư
thuyết ước hiện nay không còn nữa cho nên không rõ tác giả đã có những
kiến giải gì độc đáo về những vấn đề mà Nho giáo đã từng đề ra. Dầu sao,
nhân cách cao cả của Chu An bắt nguồn từ những truyền thống tốt đẹp và
trong sáng của dân tộc và gắn với hào khí đời Trần tất phải được phản ánh
trong sách ấy. Và chắc rằng, Tứ thư thuyết ước ít nhiều cũng chứa đựng
những tư tưởng vượt ra ngoài tầm vóc và khuôn khổ của Nho gia các đời
Tống, Nguyên lúc bấy giờ.
Cũng như Tứ thư thuyết ước của Chu An, sách Minh đạo lục của Hồ
Quý Ly hiện nay cũng không còn nữa. Hồ Quý Ly (không rõ sinh và mất năm
nào) người làng Đại Lại, tỉnh Thanh Hóa, vì lấy họ của cha nuôi là chức tuyên
phủ sứ Lê Huấn, cho nên gọi là Lê Quý Ly. Là con cô con cậu với vua Trần
Nghệ Tông, lại được nhà vua gả em gái là Huy Ninh công chúa cho, Hồ Quý
Ly được tín nhiệm, chuyên giữ binh quyền. Về sau, ông làm đến chức phụ
chính thái sư nhiếp chính, tước đại vương, rồi cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà
Hồ. Hồ Quý Ly tiến hành nhiều cải cách về kinh tế và văn hóa nhằm đưa Nhà
nước phong kiến thế kỷ thứ XIV- ra khỏi cơn khủng hoảng. Ông đã hạn chế
số ruộng đất của quí tộc, đánh thuế theo tài sản, phát hành tiền giấy, ban
hành các đồ đo lường, bắt tăng lữ phải đi lính, bắt tăng lữ dưới năm mươi
tuổi phải hoàn tục, tổ chức lại việc học, việc thi, đưa môn toán pháp vào các
kỳ thi v.v… Năm 1392, ông làm 14 thiên Minh đạo dâng lên vua. Theo như
Việt sử thông giám cương mục (chính biên, q. XI, t. 18) thì đại lược Hồ Qúy
Ly coi Chu Công là tiên thánh, Khổng tử là tiên sư và sắp xếp lại ngôi thứ ở
Văn miếu, đặt bài vị Chu công ngồi giữa, mặt hướng nam, đặt bài vị Khổng tử
ngồi bên, mặt hướng tây. Hơn nữa, Hồ Quý Ly lại nêu ra bốn điều nghi vấn ở
trong sách Luận ngữ là: Khổng tử đến yết kiến nàng Nam tử. Khổng tử bị hết
lương ăn ở nước Trần. Công Sơn Phất Nhiễu vời và Phật Hất vời Khổng tử
đều muốn đến giúp. Hồ Quý Ly muốn nghi ngờ cả tài năng và nhân cách của
Khổng tử, bậc “đại thành chí thánh” của Nho giáo. Cho nên không lấy làm lạ
nếu ông gọi Hàn Dũ, một nhà nho có danh vọng đời Đường, là “nhà nho ăn
trộm”. Còn Chu Đôn Di, Trình Hiệu, Trình Di, Chu Hy, các nhà nho có danh
vọng đời Tống, thì bị Hồ Quý Ly lên án là đồ “trộm cắp”, là hạng người học
nhiều mà ý nghĩ viển vông, không sát với thực tế. Kể ra, Hồ Quý Ly đã có đầu
óc táo bạo, khác với bọn hủ nho đời sau. Với đầu óc táo bạo, Hồ Quý Ly có ý
đồ lớn, nhưng ông đã thất bại, Hồ Quý Ly đã không giải quyết được cơn
khủng hoảng của Nhà nước phong kiến cuối đời Trần, vì những cải cách của
ông về mặt kinh tế, chính trị và xã hội dầu có giáng những đòn mạnh vào đặc
quyền, đặc lợi của quí tộc nhà Trần thì cũng chỉ đem lại đặc quyền, đặc lợi
cho bọn quí tộc mới, đứng đầu là họ Hồ, chứ không có ích gì thiết thực cho
nhân dân. Và nhà Hồ được lập nên từ năm 1400 đã không có một cơ sở xã
hội vững chắc. Cho nên cha con Hồ Quý Ly dầu đã có tinh thần chuẩn bị mà
vẫn nhanh chóng thất bại trước giặc Minh xâm lược. Để cho đất nước sa vào
vòng nô dịch, cha con họ Hồ đã có tội đối với dân tộc, với lịch sử.
Hồ Quý Ly đã thất bại thảm hại trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất
nước thì chắc rằng cũng khó mà có được những thành tựu thực là tốt đẹp về
mặt học thuật, về mặt lý luận. Và nếu như trong Minh đạo lục phần nào có
một tinh thần phê phán đối với Nho giáo, có một tinh thần tự lập trong học
thuật thì đó chính là nhờ ở dư ba của học phong đời Trần, thì đó chính là nhờ
ở dư ba của hào khí Đông A.
Nhìn chung, không khí học thuật đời Trần khác đời Lê sau này. Khi đó,
Nho giáo chưa chiếm hẳn ưu thế tuyệt đối. Nó còn phải giành giật ảnh hưởng
với Phật giáo. Ngược lại Phật giáo tuy đã mất địa vị mà nó chiếm giữ hồi đầu
đời Lý nhưng vẫn còn khá nhiều thế lực. Cho nên đã có đấu tranh tư tưởng.
Theo qui luật chung, có đấu tranh tư tưởng thì học thuật tất nhiên khởi sắc.
Từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XIV, nền sản xuất phong kiến đang trên
bước đường phát triển. Chế độ đại điền trang lùi dần trước chế độ tư hữu
ruộng đất. Trong khi tầng lớp quí tộc và nhất là tăng lữ sa sút dần thì tầng lớp
địa chủ thứ dân lại phát triển. Nho sĩ quan liêu đại diện cho tầng lớp này đã
dần dần giành được địa vị chủ chốt của bộ máy Nhà nước. Để thực hiện lý
tưởng tu, tề, trị, bình của mình, với sinh lực của một tầng lớp xã hội đang phát
triển, trong khí thế vươn lên mạnh mẽ của toàn dân tộc, nho sĩ đã đẩy lùi ảnh
hưởng của tăng lữ, giành ưu thế trong xã hội. Trong việc nghiên cứu và giảng
thuật Nho giáo, trong việc áp dụng Nho giáo vào hành động thực tiễn, họ đã
tỏ ra có tinh thần độc lập tự cường. Cái khuôn Nho giáo có khi chỉ là hình
thức. Và những danh từ tu, tề, trị, bình, nhân, nghĩa, trung, hiếu trong trước
tác đời Trần lại thường phần nào tách rời khỏi cái khuôn khổ Nho giáo hoặc ít
nhiều phá vỡ cối khuôn khổ ấy để có thể vươn lên mà chứa đựng những nội
dung thiết thực gần với cuộc đấu tranh của dân tộc để xây dựng đất nước,
xây dựng con người. Và nho sĩ đời Trần mà tiêu biểu là những người như Lê
Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn,Chu An, Phạm Sư Mạnh,
Lê Quát, v.v… đã vượt ra khỏi khuôn khổ vốn chật hẹp của tư tưởng Nho
giáo mà có đóng góp tích cực và thiết thực vào việc xây dựng nền văn hóa
dân tộc.
V. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG VĂN HỌC ĐỜI TRẦN
Hàng mấy nghìn năm, dân tộc ta luôn luôn phải đối phó với giặc ngoại
xâm. Và cuộc chiến đấu chống giặc Nguyên là một trong những thử thách
quyết liệt nhất trong lịch sử. Giặc Nguyên với sức mạnh của một đế quốc rộng
lớn gấp trăm lần nước ta lúc bấy giờ, đã ba lần sang xâm lược vào các năm
1257, 1285, 1287 và lại đã ba lần bị đánh lui. Nhân dân ta không chiến thắng
một cách dễ dàng. Phải có khí thế quyết chiến và tinh thần đoàn kết mới
chống nổi quân giặc. Hội nghị Diên Hồng ít nhiều đại biểu cho nhân dân lúc
bấy giờ, đã nhất trí hô to “Đánh!” khi nhà vua hỏi: “Nên hàng hay nên đánh”.
Quan quân ai nấy đều thích hai chữ “Sát Thát” vào cánh tay để nêu cao ý chí
giết giặc lập công. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, nhà Trần đã tổ chức và
lãnh đạo cuộc kháng chiến. Trong giai cấp phong kiến cũng có những kẻ đầu
hàng giặc và phản bội Tổ quốc như Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần
Lộng, Lê Tắc v.v... Nhưng đa số những người đứng đầu Nhà nước khi ấy còn
giữ vai trò lịch sử tích cực và có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước. Những
nhân cách như Trần Thủ Độ “Đầu chưa rơi xuống đất” thì không chịu bó tay,
như Trần Quốc Tuấn xin với vua “Trước hết hãy chặt đầu tôi đã, rồi sẽ hàng”,
như Trần Bình Trọng “Thà làm ma đất Nam, không thèm làm vương đất Bắc”,
như Trần Quốc Toản tuổi nhỏ gan to, quyết phá giặc mạnh báo ơn nước
v.v… mãi mãi vẫn là những tấm gương sáng chói trong lịch sử nước nhà,
Cuộc chiến đấu gian khổ nhưng vẻ vang đã tôi luyện thêm ý thức dân
tộc và truyền thống yêj nứớc của nhân dân ta. Ý thức ấy, truyền thống ấy đã
được văn học dời Trần biểu hiện trong nhiều tác phẩm, ở nhiều khía cạnh
khác nhau.
Người chiến tướng đảm lược, người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn
trong bài Hịch tướng sĩ gửi cho các tì tướng nhân dịp truyền thụ cho họ sách
“Binh gia diệu lý yếu lược” đã phát biểu chủ nghĩa yêu nước lúc bấy giờ. Lòng
căm thù giặc và ý chí quyết chiến của tác giả đã thể hiện như sau:
“Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi
gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều
mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất
Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vương
mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi
hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau? Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm
vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da,
nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn
xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.
Nhìn thấu suốt dã tâm của giặc nước, nhận thức rõ mối họa của Tổ
quốc, Trần Quốc Tuấn đã tiêu biểu cho tinh thần cảnh giác của dân tộc. Đặt
việc giết giặc lên hàng đầu, thà chết không chịu lùi, Trần Quốc Tuấn lại tiêu
biểu cho khí phách anh hùng của dân tộc.
Để động viên tướng sĩ, ông đã chứng minh rằng sự còn mất của mỗi
người gắn liền với sự được thua của cuộc chiến đấu, rằng lợi ích thiết thân
của mỗi người gắn liền với lợi ích tối cao của Tổ quốc. Bài Hịch phác ra hai
cảnh tượng trái ngược nhau. Một là thua trận: “Lúc bấy giờ, ta cùng các
ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không
còn mà bổng lộc của các người cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị
tan mà vợ con các ngươi cũng khốn. Chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày
xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên. Chẳng những thân ta
kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn
lưu, mà đến thanh danh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại
trận”. Hai là nếu thắng trận thì “chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền,
mà bổng lộc của các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến
của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai
lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tiên các
ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc
chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng tốt lưu truyền. Chẳng những
danh hiệu ta không bị mai một, mà họ tên các ngươi cũng sử sách lưu thơm”.
Hai đường họa và phúc, hai lẽ nguy và an bày ra trước mắt mọi người. Giữa
hai, phải chọn một, tình hình rất khẩn trương, không thể trù trừ. Vạch ra được
xu thế phát triển của tình hình, chắc chắn rằng bài Hịch đã có tác dụng thôi
thúc mọi người tiến lên mạnh mẽ trên con đường quyết chiến, quyết thắng.
Thật là rõ ràng: đuổi được giặc cứu được nước thì có tất cả; chịu thua giặc,
để mất nước thì mất tất cả. Trần Quốc Tuấn quả là hiểu rất rõ chân lý mà dân
tộc ta đã từng thể nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử. Độc lập dân tộc gắn
liền với tài sản, với gia đình, với cuộc sống và danh dự của mỗi người, Không
có gì thiết thực hơn và thiết thân hơn độc lập dân tộc. Bài Hịch tướng sĩ đã
biểu hiện một chủ nghĩa yêu nước chân chất mà sâu sắc, đã biểu hiện một
nhận thức hồn nhiên và cụ thể về vận mệnh riêng của mỗi người Việt trong
vận mệnh chung của dân tộc Việt. Trong vận mệnh chung ấy, vận mệnh của
Trần Quốc Tuấn và vận mệnh của các tướng sĩ gắn với nhau chặt chẽ: họa
thì cùng phải chịu, phúc thì cùng được hưởng. Trần Quốc Tuấn, với cái nhìn
của nhà quí tộc, phân biệt rất rõ vị trí khác nhau giữa mình và tỳ tướng. Tổ
quốc được bảo vệ thì họ Trần bảo vệ được thái ấp và gia quyến, tông miếu và
xã tắc v.v… mà các kẻ bộ thuộc thì bảo vệ được bổng lộc và vợ con, phần mộ
và nhà thờ tổ tiên v.v… Nói một cách khác, những tầng lớp khác nhau có
những địa vị và quyền lợi khác nhau, nhưng mỗi tầng lớp đều có thể tìm thấy,
trong cuộc chiến đấu vì nước, việc bảo vệ những lợi ích thiết thân của mình.
Chủ nghĩa yêu nước ở đây có nội dung rất cụ thể. Trong bài Hịch tướng sĩ mà
đối tượng là các tỳ tướng của mình, Trần Quốc Tuấn không nói đến dân
thường. Tuy vậy, xác định được ý chí quyết chiến cũng như sự gắn bó lợi ích
cụ thể của mỗi tầng lớp xã hội với vận mệnh của Tổ quốc và do đó, sự gắn bó
giữa vận mệnh của các tầng lớp với nhau trước kẻ thù chung, bài hịch rất có
giá trị lịch sử và tính nhân dân. Nhân dân ta, thông qua các kỳ lão ở hội nghị
Diên Hồng, đã tỏ rõ thái độ đoàn kết và quyết chiến. Nhân dân ta đã hiểu rằng
để bảo vệ quyền sống của mình chống bọn giặc dữ thì phải ủng hộ những
người lãnh đạo Nhà nước lúc bấy giờ. Và bài Hịch của Trần Quốc Tuấn nói
lên nguyện vọng của những người lãnh đạo Nhà nước mà cũng lại nói lên
nguyện vọng của nhân dân đời Trần.
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm trước hết là ở tính chất hùng biện của
nó. Tác giả đã nêu những tấm gương trung dũng của người xưa và của
người đương thời để kích động lòng tự trọng của các võ tướng. Tác giả đã
vạch rõ tội ác và sự hỗn xược của giặc để kích động lòng tự hào dân tộc của
họ. Tác giả đã nói đến tình nghĩa giữa mình và tỳ tướng để kêu gọi họ chia sẻ
với mình gánh nặng quốc gia. Tác giả lại phân tích rõ hai con đường lợi hại,
giữa hai con đường đó phải lựa chọn lấy một: đó là chiến đấu để mà sống
hay bó tay để mà chết. Hơn nữa, sau khi đã nói hết lý hết tình thì ở cuối bài
Hịch, Trần Quốc Tuấn lại viết như sau: “Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp
làm một quyển gọi là: Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách
này, theo lời dạy bảo của ta thì mới phải đạo tôi chúa; nhược bằng khinh bỏ
sách này, trái lời dạy bảo của ta thì là kẻ nghịch thù. Vì sao vậy? Giặc với ta
là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục,
không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu
đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc”. Thế là sau khi hùng biện về họa
phúc, về thị phi, về con đường chết nên tránh, về con đường sống nên theo,
Trần Quốc Tuấn đã nâng bài Hịch lên một khí thế cao hơn mà viết rằng nếu
chịu tập rèn để quyết chiến quyết thắng thì mới có thể được coi là người trung
thành, nếu không làm được như thế thì dầu không phải là giặc mà cũng vẫn
là kẻ thù. Coi những kẻ không chịu quyết chiến để quyết thắng, những kẻ lười
biếng và hèn nhát là kẻ thù của dân tộc, bài Hịch thể hiện quan điểm không
khoan nhượng của Trần Quốc Tuấn trước mọi biểu hiện của thái độ lẩn tránh
trách nhiệm và qua đó phản ánh xu thế áp đảo của tư tưởng quyết chiến của
nhân dân đời Trần đối với mọi tư tưởng đầu hàng hoặc thỏa hiệp. Có lý, có
tình, vừa thiết tha, vừa nghiêm nghị, bài Hịch đã tác động đến lý trí và tình
cảm. Tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt và vững vàng sở trường của thể
biền văn để khắc họach một cách khúc chiết và sắc nét những hình tượng,
những tư tưởng trên các mặt song song hoặc đối lập, trong những đoạn mạch
cân xứng và hô ứng với nhau. Những hình tượng và những tư tưởng ấy, với
trình tự từ thấp đến cao, liên tiếp và dồn dập, cụ thể và sinh động, đều gắn
với thực tế cuộc chiến đấu lúc đương thời. Lập luận chặt chẽ của bài Hịch có
cơ sở vững chắc và sâu sắc ở nhận thức sáng suốt về tình hình đất nước
cũng như ở tình cảm chân thành và ý chí gang thép của tác giả. Với bài Hịch
tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã có đóng góp quan trọng vào sự khẳng định vị trí
của các tác phẩm chính luận trong lịch sử văn học dân tộc.
Hịch tướng sĩ văn là tác phẩm lớn nhất biểu hiện tinh thần yêu nước
của văn học đời Trần. Nhiều tác phẩm thơ văn khác đi sâu vào những khía
cạnh khác nhau của tinh thần ấy và khắc hoạch nên những nét độc đáo, xây
dựng nên những hình tượng kỳ vĩ về đất nước Việt, con người Việt.
Trần Quang Khải đã biểu hiện thái độ vững vàng, an nhiên của dân tộc
ta ngay cả trong những ngày tháng chiến đấu ác liệt nhất:
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nổ lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thơ chữ Hán: Tụng giá hoàn kinh sư)
nghĩa là:
“Bến Chương Dương cướp giáo giặc,
Cửa Hàm Tử bắt quân thù
Vì cảnh thái bình nên gắng sức,
Non nước này vững bền muôn thủa.”
Trần Nhân tông thì lại đề ở nhà thái miếu hai câu thơ nổi tiếng:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.”
nghĩa là:
“Xã tắc hai phen nhọc ngựa đá,
Sơn hà muôn thủa vững âu vàng.”
“Non nước này vững bền muôn thủa” “Sơn hà muôn thủa vững âu
vàng”, đó là niềm tin tưởng không gì lay chuyển được về vận mệnh của Tổ
quốc, đó là nhận thức về thế đứng vững chắc trên giải đất thân yêu mà ông
cha để lại.
Thế đứng ấy lại được Phạm Ngũ Lão biểu hiện như sau:
“Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
(Thơ chữ Hán: Thuật hoài)
nghĩa là:
“Ngang giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Ngọn giáo ấy phải đo
bằng chiều ngang của non sông. Thế thì con người cầm ngang ngọn giáo bảo
vệ Tổ quốc ấy tất phải được đo bằng kích thước của đất trời. Con người có
tầm vóc vũ trụ như vậy đã đồng nhất với non sông. Tầm vóc hoành tráng, tư
thế vững chắc ấy của dân tộc ta có cơ sở từ tinh thần làm chủ đất nước rất
sâu sắc, từ ý chí bảo vệ đất nước rất kiên cường. Với tinh thần ấy, nhân dân
ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử, Chi
Lăng v.v… và nhất là ở Bạch Đằng.
Là người đã từng tham gia cuộc kháng chiến, Trương Hán Siêu đã
miêu tả trận đánh lịch sử ở sông Bạch Đằng trong bài phú sông Bạch Đằng
như sau:
“Đương khi muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ, gươm tuốt sáng
lòe, cờ bay đỏ khé, tướng Bắc quân Nam, đôi bên đối lũy. Đã nổi gió mà bay
mây, lại kinh thiên mà động địa. Kìa Nam Hán nó mưu sâu, nọ Hồ Nguyên nó
sức khỏe. Nó bảo rằng: phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
May sao: trời giúp quân ta, mây tan trận nó. Khác nào như quân Tào
Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở
nọ. Ấy cái nhục tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta,
lưu danh thiên cổ”
(Phú chữ Hán: Bạch Đằng giang phú
Tác giả đá gắn liền chiến thắng của nhà Trần với chiến thắng của Ngô
Quyền khi xưa, để nêu cao truyền thống anh hùng và tất thắng của dân tộc
với hào khí bừng bừng và niềm sảng khoái vô hạn.
Non nửa thế kỷ sau trận Bạch Đằng, Trần Minh tông vẫn còn như thấy
sát khí của trận huyết chiến ác liệt ấy:
“Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thủy đình hàm tàn nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can”.
(Thơ chữ Hán: Bạch Đằng giang)
nghĩa là:
“Giang sơn sau trước hai phen rạng,
Hồ Việt hơn thua một chớp bày.
Đỏ rực sáng chiều in đáy nước,
Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây”
Ý vị anh hùng ca thường gặp trong thơ đời Trần như vậy lại được
Phạm Sư Mạnh thể hiện như sau:
“Hung hung Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền,
Ức tích Trùng Hưng đế,
Diệu chuyển khôn cán kiền.
Hải phố thiên mông đồng,
Hiệp muôn vạn tinh chiên.
Phản chưởng điện ngao cực,
Văn hà tẩy giáp binh.
Chí kim tứ hải dân,
Trường ký cầm Hồ niên”.
(Thơ chữ Hán: Đề Thạch môn sơn)
nghĩa là:
“Thấy sông Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,
Tưởng tượng thấy thuyền chiến của Ngô Vương.
Trạnh nhớ vua Trùng Hưng xưa
Khéo chuyển đất xoay trời.
Nghìn chiến thuyền đóng cửa biển,
Muốn lá cờ lệnh tung bay đâu núi Hiệp Môn.
Trở bàn tay, vững trụ trời,
Kéo sông Ngân Hà rửa giáp binh.
Đến nay dân bốn biển,
Nhớ mãi năm bắt thù”.
Nhân dân cả nước nhắc mãi năm bắt thù! Cho nên mãi đến cuối đời
Hồ, hơn trăm năm sau cuộc kháng chiến, Trần Lâu đi qua cửa Hàm Tử vẫn
còn thấy tiếng trống trận và bóng cờ lệnh, vẫn còn nghe tiếng quân giặc sặc
nước, lục sục chết chìm dưới đáy sông:
“Cổ chinh hung dũng triều thanh cấp,
Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà.
Vương đạo hồi xuân nông cổ thụ,
Hồ quân bão hận thấu hàn ba.
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ,
Thủy lục sơn thanh nhập vọng xa”
(Thơ chữ Hán: Quá Hàm Tư quan)
nghĩa là:
Tiếng sóng dồn dập như chiêng trống đổ hồi,
Bóng tre nghiêng ngả như cờ quạt tung bay.
Vương Đạo làm cho mùa xuân trở lại, cây cối xanh tươi,
Quân Hồ ôm hận như ấm ức, lục xục trong sóng lạnh.
Toa Đô nộp đâu ở chỗ nào đây,
Nước biếc non xanh trông vời xa tít
Hai chứ “Sát Thát” trên cánh tay của mỗi người lính đời Trần dường
như luôn luôn vang lên trong những lời thơ bừng bừng hào khí giết giặc. Tuy
nhiên, sẽ lầm lẫn nếu coi đó là biểu hiện của tinh thần hiếu sát, hiếu chiến.
Sát khí của quân dân đời Trần chỉ là để tiêu diệt những kẻ đi gieo chết chóc
mà thôi. Hào khí “Đông A” đã nảy sinh trong cuộc chiến đấu để bảo vệ Tổ
Quốc, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ hòa bình.
Chính Trần Quang Khải, một trong những người lãnh đạo chủ chốt của
cuộc kháng chiến đã nói lên nguyện vọng hòa bình an lạc của ông cha ta như
sau:
“Thử lai yêu khách khiêu trà uyển,
Vũ quá hô đồng lý dược lan.
Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an”.
(Thơ chữ Hán: Phúc Hưng viên)
nghĩa là:
Nắng lên mời tân khách đến pha trà,
Mưa tạnh gọi tiểu đồng sửa giàn thuốc.
Trông về phía Nam không có hiệu báo giặc lại đến,
Nghiêng mình trên tấm phản ngủ yên giấc.
Trên đường về của một cuộc trường chinh bảo vệ biên giới, Trần Anh
tông coi là một hạnh phúc lớn khi bóng lá cờ lệnh dùng trong chiến trận không
còn làm vẩn giấc ngủ thanh bình nữa:
“Thuyền song nhất chẩm giang hồ noãn,
Bất phục du chàng nhập mộng trung”.
(Thơ chữ Hán: Bạc Phúc thành cang)
nghĩa là:
Cửa thuyền một gối giang hồ ấm,
Cờ lệnh không còn vẫn giấc mơ.
Còn Nguyễn Trung Ngạn thì lại đi xa hơn mà mơ ước đến tình hòa hiếu
giữa các dân tộc:
“Vãn tận thiên hà tẩy giáp binh,
Miếu đường vô ý sự biên chinh.
Giang sơn hữu hạn phân Nam Bắc,
Hồ Việt đồng phong các đệ huynh”.
(Thơ chữ Hán: Khâu Ôn dịch)
nghĩa là:
Kéo nước thiên hà rửa giáp binh,
Triều đình nào thích sự biên chinh,
Núi sông Nam Bắc phân biên giới,
Hồ Việt đồng phong đều đệ huynh.
Quan điểm đối với chiến tranh và vũ lực, đối với hòa bình và văn trị
được biểu hiện trong bài “Trảm xà kiếm” của Sử Hy Nhan. Bài phú gồm hai
phần chính. Ở phần đầu tác giả đề cao tác dụng của thanh kiếm quí: “Đó là
vật thần của nhà Hán bởi chưng chém rắn mà nổi danh vậy… Lưỡi gươm
sáng như nước thu, mũi gươm quắc tựa băng giá. Ngày đeo mặt trời mờ ánh,
đêm cất vầng trăng lóe vàng. Sao chổi cũng sợ ngươi lùi xa, yêu ma cũng sợ
ngươi ẩn náu”. Lưu Bang tức Hán Cao đế ngày trước đã tuốt kiếm mà chém
rắn lớn ở Ly Sơn lập nên cơ nghiệp nhà Hán. “Đất Mang Đãng điềm lành hiển
hiện, đình Chỉ Đạo ấn quí đem dâng. Diệt tên hầm hè đất Cai Hạ, trừ kẻ phản
bạn hạt Hoài Âm: Ngươi là thanh kiếm thần rất sắc rất bén vậy”. Và thanh
kiếm này được vào tay Hán Cao đế “tiếng tăm không bị mai một, danh thơm
lưu lại ngàn thu”. Ở phần này, rõ ràng là tác giả đề cao thanh kiếm quí.
Nhưng sang phần thứ hai, tác giả đột nhiên lại viết: “Bài phú này chưa làm
xong, có người đến chất vấn rằng: Sinh thời văn minh không nên bàn chuyện
uy vũ, ở đời thịnh trị chớ nên nói chuyện chiến tranh. Hiện nay triều thánh ta
đang lúc thăng bình cực trị, thu bốn bể lại một nhà, xe đi cùng một đường,
chữ viết cùng một lối, bọc giáo gươm trong da hùm, rèn binh khí làm nông cụ.
Khí hòa đầy cả chín châu, gió nhân hun khắp trời đất. Ngài phải như con chim
phượng đẹp nhảy múa, hòa theo khúc nhạc thiều. Cớ sao lại bo bo cái nghề
nhỏ mọn đẽo gọt con sâu, tán tụng sự tích của bọn tạp bá, làm mờ tối đức tốt
của bậc đế vương, không am hiểu thời thế, khiến cho kẻ thức giả coi khinh?
Kẻ viết bài phú này bèn vui mừng làm bài ca rằng:
“Kiếm ni! kiếm ni là vật chẳng lành,
Bậc thánh túng kế mới dùng mi, phải đâu vật quí!
Ôi thánh triều ta, sùng thượng văn học,
Thiên hạ nhất thống, thái bình thịnh trị,
Nếu có kiếm ni, dùng đến làm chi?”
Thế là bài phú đã đem đối lập văn minh với uy vũ, thái bình với chiến
tranh. Tất nhiên, tác giả vẫn khẳng định việc dùng đến vũ khí khi cần bảo vệ
chính nghĩa, khi cần trừ tà diệt ác. Nhưng lý tưởng tốt đẹp là hòa bình an lạc,
là “bọc giáo gươm trong da hùm, rèn binh khí làm nông cụ”. Dầu cho cái cảnh
thăng bình cực trị mà Sử Hy Nhan nói đến là quá với sự thực và cái việc “bọc
giáo gươm trong da hùm, rèn binh khi làm nông cụ” chỉ là một ước mơ đẹp
mà thôi thì bài phú vẫn ít nhiều phản ánh lòng yêu chuộng hòa bình của nhân
dân ta. Lòng yêu chuộng hòa bình ấy không có liên quan gì với tư tưởng hòa
bình chủ nghĩa, một thứ tư tưởng có ảnh hưởng xấu đối với tinh thần cảnh
giác và ý chí chiến đấu. Bởi vì để bảo vệ hòa bình thì không có cách nào khác
là phải biết chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Cho nên lòng yêu hòa bình gắn với
lòng yêu nước.
Thơ văn đời Trần không phải chỉ thế hiện chủ nghĩa yêu nước quạ việc
miêu tả sự nghiệp đuổi giặc cứu nước. Nhiều khía cạnh phong phú của chủ
nghĩa yêu nước có thể tìm thấy trong nhiều áng thơ văn lấy đề tài khác.
Không ít tác phẩm đã nói lên niềm tự hào và lòng yêu mến đối với đất
nước Việt, dân tộc Việt. “Địa linh, nhân kiệt”, đó là nhận thức của các tác giả.
Ngòi bút của Trương Hán Siêu đã trở nên hoành tráng khi cần vẽ lại cái cảnh
“bát ngát sóng kình muôn dặm” và “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”
của sông Bạch Đằng vừa hùng vừa đẹp. Nguyễn Bá Thông trong bài phú chữ
Hán Thiên Hưng trấn lại đã tả cảnh miền Tây Bắc nước ta với những nét thật
kỳ vĩ:
“Giống như dòng sương treo, trắng xóa rạt rào thác nước,
Dường tự khoảng không xuống, cao vút vòi vọi đê rồng.
Đỉnh non Tản chống trời trấn cõi Bắc,
Nước sông Đà gieo ngọc chảy về Đông.
…
Muôn đỉnh núi cao vun vút, xanh thẳm vây quanh
Trăm ngọn suối nước mênh mông, bạc phau chảy tới
Đất Chi Lăng ở Đông Bắc nước ta thì được Phạm Sư Mạnh ca tụng vì
tính chất hiểm trở của nó trong bài thơ chữ Hán Động Chi Lăng như sau:
“Lâu Lãi cốc thâm ư tỉnh để,
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề.
Lâm phong bạt mã cao hồi thủ,
Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê”.
nghĩa là:
“Hang Lâu Lãi sâu hơn đáy giếng,
Ải Chi Lăng hiểm trở bằng lên trời.
Thúc ngựa lướt gió, lên cao quay lại,
Trông về kinh đô, thấy bóng mây nghi ngút phương Tây”.
Đất nước hùng vĩ, nhưng đất nước lại còn giàu có. Trong bài phú Thiên
Hưng trấn, Nguyễn Bá Thông đã viết về tài sản của đất nước như sau:
“Biền, nam, quát, bách,
Kỷ tử, dự chương,
Lúa bắp bát ngát chừ liền đội,
Dâu gai mơn mởn chừ từng hàng,
Da thú, lông, ngà, ngập tràn chừ miền lân cận;
Vàng, bạc, châu, báu, đầy rẫy chừ chốn biên cương.
Tấp nập thuyền bè dây kéo,
Dọc ngang đường lối chim muông.
Xe ngọc cống hiến, đưa đón rộn ràng”.
Tuy không có những nét bút hoành tráng và rực rỡ như Nguyễn Bá
Thông, nhưng trong bài thơ chữ Hán “Giang thôn thu vọng” Bùi Tông Hoan lại
biểu hiện tình cảm đậm đà và lắng đọng của mình đối với quê hương, đất
nước như sau:
“Phất y độc tự lập giang thiên,
Thu sắc thùy tương đáo nhãn biên.
Lữ nhạn hàng hàng qua biệt phố,
Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên.
Khê đầu Phật tự y hồng điệp,
Trúc ngoại nhân gia đạm tự yên.
Nhật mộ cự tri ngưng trữ xứ,
Lục vân ám dã khán phong niên”.
nghĩa là:
“Một mình vén áo đứng bên sông,
Bảng lảng trời thu ngước mắt trông.
Chim nhạn hàng hàng qua bến khác,
Thuyền buồm lớp lớp giữa trời không,
Đầu ghềnh, chùa Phật cây vàng đỏ,
Trong khóm, nhà dân khói nhạt nồng.
Đứng mải nào hay ngày đã muộn.
Trên đồng lúa tốt tựa mây lồng”
Đất nước rất hùng vĩ mà cũng rất bình dị như vậy đã trải qua hàng
nghìn năm lịch sử chiến đấu và xây dựng. Phạm Sư Mạnh là một trong những
tác giả có ý thức sâu sắc nhất về điều này. Và niềm yêu mến TỔ Quốc của
ông thường gắn với niềm tự hào về sự nghiệp của bao nhiêu thế hệ:
“Ngọc Nhĩ hàn quang tẩm quảng đã,
Tản Viên tễ sắc chiếu Thăng Long.
Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp,
Ông Trọng từ thâm vân đạm nùng”.
(Thơ chữ Hán: Họa Minh sứ đề Nhĩ Hà dịch)
nghĩa là:
“Ánh sáng mát lạnh của dòng sông chảy quanh như vành tai
ngọc thấm vào cánh đồng rộng lớn.
Sắc đẹp rực rỡ của ngọn núi tròn như chiếc tán tròn chiếu xuống
kinh đô rồng bay,
Núi lớp lớp vây quanh thành cổ Văn Lang.
Mây đậm nhạt che đền thẳm Ông Trọng”.
Đất nước thống nhất và thanh bình với những văn vật cổ kính như vậy
là do ông cha xây dựng nên, và con cháu thấy có trách nhiệm phải đứng vững
chân ở đấy. Trong bài thơ vịnh tháp Báo Thiên, một trong bốn “kỳ khí” của
nước Việt, Phạm Sư Mạnh viết:
“Trấn áp đông tây củng đế kỳ,
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy.
Sơn hà bất động kình thiên bút,
Kim cổ nan ma lập địa chùy”.
(Thơ chữ Hán: Báo thiên tháp)
nghĩa là:
“Nén ép từ đông đến tây làm vững kinh kỳ của nhà vua,
Vút lên một ngọn tháp cao vòi vọi.
Cây bút chống trời không lay chuyển của non sông,
Ngọn dùi cắm đất không thể mòn khắp xưa nay”.
Cây bút chống trời không lay chuyển, ngọn dùi cắm đất không thể hao
mòn, và đất trời này muôn thuả là của ta. Phạm Sư Mạnh đã kết thúc bài thơ
như sau:
“Ngã lai dục tỷ đề thi bút,
Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì”.
(Thơ chữ Hán: Báo thiên tháp)
nghĩa là:
“Ta đến đây muốn dầm ngòi bút để thơ,
Phải lấy cả dòng sông xuân làm nghiên mực”.
Đúng là phải dốc hết dòng sông xuân mới có đủ mực để tả nguồn thi
hứng về đất nước, về nền văn hóa dân tộc.
Đất nước, dân tộc được xây dựng trên cơ sở của tinh thần đoàn kết,
của nghĩa đồng bào thắm thiết. Trần Anh tông so sánh việc Đường Thái tông
giết anh là Kiến Thành với việc Trần Thái tông hòa giải với anh là An Sinh
vương và tự hào về tinh thần đoàn kết của anh em nhà Trần, đã viết như sau:
“Đường Việt khai cơ lưỡng Thái tông,
Đường xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong,
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng”.
nghĩa là:
“Đường và Việt lập cơ nghiệp có hai vua Thái tông.
Vua Đường xưng hiệu là Trinh Quán, vua ta xưng hiệu là Nguyên
Phong.
Kiến Thành thì bị giết, mà An Sinh thì sống,
Miến hiệu tuy cùng là Thái tông, mà cái đức thì không giống
nhau”
Tinh thần đoàn kết giữa anh em vua Trần phản ánh tinh thần đoàn kết
rộng lớn của dân tộc. Và Trần Minh tông đã có lời thơ rất thiết tha đối với khối
cộng đồng của dân tộc:
“Sinh dân nhất thị ngã bào đồng,
Tứ hải hà tâm sử khốn cùng”.
(Thơ chữ Hán: Nghệ An hành diện)
nghĩa là:
“Hết thảy trăm họ là đồng bào ta,
Nỡ lòng nào để cho bốn biển phải khốn cùng”.
Lòng yêu nước ở đây gắn với nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân
dân. Trần Quốc Tuấn, người lãnh đạo chủ chốt của cuộc kháng chiến thì lại
càng hiểu rất rõ thế nào là sức mạnh của nhân dân. Khi ông sắp mất, lời trối
trăng của ông là phải “làm thế nào thu hút được binh lính như cha con một
nhà” thì mới có thể chiến thắng ngoại xâm được và lại phải “khoan sức cho
dân để làm cái kế sâu gốc, bền rễ. Đó là thượng sách giữ nước, không còn gì
hơn”.
Và ý thức “khoan sức cho dân” đã thể hiện trong nhiều chính sách của
những người lãnh đạo Nhà nước lúc đương thời. Chu Đường Anh đã phản
ánh điều này trong việc chê trách vua Đường Minh Hoàng coi trọng con tuấn
mã Ngọc Hoa hơn là người:
“Ngọc Hoa dạ chiếu tuyệt quyền kỳ,
Dục bãi khiên lai cận xích tri.
Nhược sử ái nhân như ái mã.
Thương sinh an đắc hữu sang đi”.
(Thơ chữ Hán: Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ)
nghĩa là:
“Con ngựa Ngọc Hoa đẹp lạ lùng,
Tắm xong, dắt tới trước sân rồng,
Nếu vua biết quí người như ngựa,
Đâu đến nhân dân phải khốn cùng”
Quí trọng con người; thơ văn đời Trần thường nhấn mạnh vào điều
này. Sử Hy Nhan trong bài Trảm xà kiếm phú đã viết “… Ta thường nghe
rằng: vật sở dĩ quí là do người”.
Nguyễn Xướng trong bài thơ chứ Hán “Bạch Đằng giang” thì viết:
“Thủy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán quan hà, bán tại nhân”.
nghĩa là:
“Ai biết chăng sự nghiệp muôn đời của vua Trùng Hưng.
Một nửa là ở quan hà, một nửa là ở người.”
Núi sông hiểm trở chỉ là một yếu tố của chiến thắng Bạch Đằng, một
yếu tố khác là vai trò của con người. Trương Hán Siêu trong bài phú chữ Hán
Bạch Đằng giang thì không chỉ cho rằng một nửa nguyên nhân chiến thắng là
vai trò con người, mà lại cho rằng non sông hiểm trở là nhân tố quan trọng,
nhưng nhân tố ấy lại phụ thuộc vào con người:
“Tuy nhiên: Từ có vũ trụ đã có giang sơn.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an”
Ơn trời ban chỉ là phụ, tài người làm nên mới là chính:
“Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đầu đất hiểm, cốt mình đức cao”
Con người với “đức cao” và chính nghĩa có tác dụng quyết định trong
mọi sự thành công ở đời này. Tư tưởng ấy đã nổi lên trên tất cả các ý tứ khác
trong bài phú của Trương Hán Siêu.
Nguyễn Bá Thông trong bài “Thiên Hưng trấn phú” cũng có ý tương tự
như Trương Hán Siêu. Trấn Thiên Hưng hiểm trở, giàu có là của quí trời ban
cho ta. Nhưng người anh hùng, kẻ có0 “đức lành” lại đáng quí hơn bội phần:
“Thiên Hưng địa thế hùng thay
Cõi Nam trụ cột xưa nay đời đời.
Muôn năm để nghiệp lâu dài,
Chẳng cần đất hiểm, nhờ nơi đức lành”
Đào Sư Tích trong bài phú “Cảnh tinh” cũng viết:
“Trời người một lý, cảm thông không lầm.
Chứng tỏ không tự trời mà tự người.
Phù ứng không tại điềm mà tại đức.
Cho nên trời ban điềm lành cho vua Thuấn,
Không bởi làm xong bảy chính,
Mà bởi xúc tiến thời cơ giúp trời.
Trời ban lộc cho vua Vũ,
Không bởi trình đệ Lạc thư,
Mà bởi sửa sang sáu phủ.
…
Coi vẻ điềm hay kia, ráng lộng lẫy chừ,
Phù hiệu thái bình cũng vững bền chừ
Tâu nhà vua, nhờ ở đức, chứ không phải nhờ ở sao chừ”.
(Phú chữ Hán: Cảnh tinh)
Nhân có “cảnh tinh” (sao lành) xuất hiện, họ Đào làm bài phú để ca
ngợi điềm lành, nhưng ông lại nhấn mạnh rằng việc thành hay bại chẳng phải
vì có điềm lành hay là không có điềm lành, chẳng phải bởi trời mà lại bởi
người.
Con người có “đức cao” “đức lành” ở tất cả các bài trên trước hết là
anh hùng; là “thánh quân”, “hiền thần”, nhưng các tác giả cũng không tỏ vẻ gì
muốn hạn chế khái niệm trong cái nghĩa chật hẹp đó. Dầu thế nào đi nữa, chí
khí tự lập, tin ở sức mình, không trách cứ hoàn cảnh và thời cơ, không ngóng
chờ may rủi, không hoàn toàn phụ thuộc vào mệnh trời, thấy yếu tố quyết
định của thành công là ở tài và ở đức, do đó khuyến khích sự rèn luyện tài
năng và sự tu dưỡng đạo đức, tất cả những điều ấy đều nâng cao giá trị con
người. Ngay trong những tác phẩm của nhà chùa như “Cư trần lạc đạo phú”
hoặc “Hoa Yên tự phú” v.v… thì những nội dung trên đây cũng thể hiện một
cách rõ rệt.
Với tất cả những hạn chế do điều kiện lịch sử qui định, thơ văn đời Trần
khẳng định giá trị của con người, vai trò của nhân dân và do đó mà có ý nghĩa
nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc. Chủ nghĩa nhân đạo ấy gắn liền với chủ nghĩa
yêu nước, bởi vì khi khẳng định giá trị của con người trong việc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc thì các tác giả cũng đồng thời thể hiện niềm tin tưởng ở phẩm
chất và khả năng của dân tộc.
Sau chiến thắng bình Nguyên, nhân dân ta đã xứng đáng hưởng cuộc
sống hòa bình. Cái cảnh “Thuyền buồm lớp lớp” ở trên sông và “Trên đồng
lúa tốt tựa mây lồng” mà Bùi Tông Hoan phác họa lên chắc đã là hiện thực
trong những năm phấn khởi xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Cảnh
“thăng bình cực trị” mà Sử Hy Nhan nói đến chắc không ngắn ngủi, cho nên
mãi đến nửa sau thế kỷ thứ XIV vào khoảng năm 1370 mà Nguyễn Bá Thông
còn có thể nói đến tình hình “Lúa, bắp bát ngát đầy lũng, dâu gai mơn mởn
thành hàng”, “Tấp nập thuyền bè dây kéo, dọc ngang đường lối chim muông”.
Cuộc sống thanh bình đã được Trần Nhân tông miêu tả như sau:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quỉ ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.”
(Thơ chữ Hán: Thiên Trường vãn vọng)
nghĩa là:
“Trước xóm, sau thôn tựa bóng lồng,
Bóng chiều bên có lại bên không.
Theo hồi kèn mục trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.”
Trong bài thơ chữ Hán “Thôn cư”, Nguyễn Xưởng viết:
“Thông thông xuân dĩ hạ,
Thụ để điểu thanh mang.
Thiềm nguyệt di hoa ảnh,
Song phong tá trúc lương.”
nghĩa là:
“Thấm thoắt xuân đã sang hạ,
Dưới gốc cây, chim vội vã kêu.
Ánh trăng trước mái hiên chuyển dịch bóng hoa.
Làn gió qua cửa sổ đưa bóng mát vào nhà.”
Cuộc sống giản dị ấy của quê hương đá khiến cho Nguyễn Trung Ngạn
đang ở giữa cảnh phồn hoa đô hội đất Giang Nam với cương vị là sứ thần
Đại Việt cũng muốn quay về ngay:
“Lão tang diệp lạc, tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương, giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quí.”
(Thơ chữ Hán: Qui hứng)
nghĩa là:
“Dâu già, lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm bông thơm, cua béo ghê.
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt,
Giang Nam tuy sướng chẳng bằng về.
Khác với tính chất nhẹ nhàng mà thắm thiết của những bài thơ trên, lời
thơ Trần Quang Khải lại biểu hiện niềm lạc quan yêu đời với khí phách hào
hùng của người chiến tướng đã từng “Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm
Tử bắt quân thù” năm xưa:
“Vũ bạch phi mai tế nhược ti,
Bế môn ngột ngột tọa thư si.
Nhị phần xuân sắc nhàn tha quá,
Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
Cố quốc tảm hoàn phi điểu quyện,
Ân ba hải khoát túng lân tri.
Sinh bình đảm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi,”
(Thơ chữ Hán: Xuân nhật hữu cảm)
nghĩa là:
“Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi.
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi,
Mơ màng quê cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân cá khó bơi.
Đảm khí ngay nào rày vẫn đó,
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi.”
Tác giả đã năm chục tuổi và tiếc nửa phần xuân đã qua nhưng với cái
phong thái “ngất ngưởng”, “đè nghiêng ngọn gió” thì chắc rằng ông sẽ tận
hưởng được nửa phần xuân còn lại và với tâm hồn như vậy thì có lẽ cuộc đời
phải là trăm tuổi xuân.
Yêu cuộc đời, Trần Nhân tông đã tả “buổi sớm mùa xuân” như sau:
“Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.”
(Thơ chữ Hán: Xuân hiểu)
nghĩa là:
“Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay.”
Rõ ràng là một niềm yêu đời tha thiết. Phải có một tâm hồn tươi trẻ mới
có thể nhạy cảm với mùa xuân như vậy, và bắt được hơi thở của cuộc sống
trong cảnh bướm đang phấp phới trên bông hoa xuân mơn mởn.
Cũng với một niềm yêu cuộc đời tha thiết như vậy, Trần Thánh tông đã
tả “cảnh mùa hè” như sau:
“Yểu điệu hoa đường trú ảnh trường,
Hà hoa suy khởi bắc song lương.
Viên lâm vũ quá lục thành ác,
Tam lưỡng thiền thanh náo tịch dương.”
(Thơ chữ Hán: Hạ cảnh)
nghĩa là:
“Thềm hoa xinh đẹp bóng ngày dài,
Song bắc mùi sen thoảng gió bay.
Mưa tạnh vườn cây màn biếc phủ,
Tiếng ve chiều tối rộn bên tai.”
Thật là lộng lẫy, tưng bừng. Nếu như ta cảm thấy lòng mình phơi phới
cùng cánh bướm trong bài “Buổi sớm mùa xuân” trên kia thì ở đây ta lại cảm
thấy lòng mình rộn ràng cùng với tiếng ve náo nhiệt trong cảnh màn biếc
vườn cây của mùa hè.
Ngay trong khí lạnh của đêm thu, ánh trăng vẫn cứ vừa đẹp vừa vui
trong bài “Trăng” của Trần Nhân Tông:
“Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ. “
(Thơ chữ Hán: Nguyệt)
nghĩa là:
“Bên song đèn sáng sách đầy giường,
Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương.
Thức dậy tiếng chầy đã lặng ngắt,
Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương”
Tất cả tứ thơ của bài này dồn xuống câu cuối. Ba câu trên chỉ là tả
cảnh thực, ở câu cuối cùng thì cảnh vừa thực mà lại vừa đẹp như mộng.
Và trong cảnh ẩn dật của mình, Chu An đã vui với cảnh mùa xuân như
sau:
“Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng, hộ khinh hàn.
Bích khê thảo sắc, thiên như túy,
Hồng thấp hoa sao, lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách luân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.”
(Thơ chữ Hán: Xuân đản)
nghĩa là:
“Nhà trên núi thanh vắng, suốt ngày nhàn rỗi,
Cửa phên treo nghiêng che đỡ hơi lạnh.
Cỏ xanh biêng biếc, trời như say,
Hoa đẫm mầu hồng, hạt sương chưa khô.
Thân như mây nổi quyến luyến với núi,
Lòng giống giếng xưa không gợn làn sóng.
Khói thơm gỗ bách sắp tàn, bếp trà vừa tắt,
Một tiếng chim suối làm tỉnh giấc xuân.”
Cũng với thái độ an nhiên như thế, Chu An vui với cảnh mùa hè như
sau:
“Yến tầm cổ lũy tương tương khứ,
Thiền yết tần thanh lục tục lai.
Điểm, thủy khê liên vô tục thái,
Xuất ly trúc duẩn bất phàm tài.”
(Thơ chữ Hán: Sơ hạ)
nghĩa là:
“Chim én lũ lượt kéo nhau đi tìm tổ cũ,
Ve sầu lục tục bay vê, cất tiếng kêu đầu mùa.
Hoa sen dưới khe nhấp nhô mặt nước, vẻ thanh tao thoát tục,
Chòm măng vươn ra ngoài bờ dậu, khác loài tầm thường.”
Trong lời thơ thoáng thấy có cái nhìn mang tính chất triết học đối với
cuộc sống luôn luôn vươn lên và cái phong thái an nhiên của một bậc ẩn sĩ
cao khiết vui với đạo.
Còn Lý Đạo Tái, tức sư Huyền Quang, chắc đã có nhiều dịp để suy tư
về lẽ đạo trong cuộc đời tu hành của mình, và hiểu thế nào là sự hư vô của
sắc tướng theo giáo lý của Thiền tông, thế mà trong bài thơ tức sự về ngày
xuân thì lại đã viết như sau:
“Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
(Thơ chữ Hán: Xuân nhật tức sự)
nghĩa là:
“Người con gái đẹp tuổi đôi tám chầm chậm thêu,
Dưới bóng hoa tử kinh, chim hoàng ly nhảy nhót.
Đáng yêu là cái ý thương xuân vô hạn,
Đọng lại tất cả ở lúc dừng kim, không nói năng.”
Mùa xuân và thiếu nữ: đó là cuộc sống với vẻ yêu kiều tươi mát nhất
của nó; người đẹp dừng mũi kim thêu để tư lự về xuân sắc, xuân tình: lời thơ
mới tình tứ làm sao! Kể ra trong thơ văn ngày xưa cũng ít khi ta bắt gặp
những ý, những tình như thế.
Lạc quan là âm điệu chủ đạo trong thơ văn đời Trần, bên cạnh âm điệu
anh hùng. Nhưng không lạ gì nếu có khi lại thấy những nét nhạc buồn xen kẽ
vào trong bản nhạc ấy. Trong xã hội cũ, khi mà những mâu thuẫn giữa các
tầng lớp -xã hội luôn luôn nảy sinh thì những xu hướng tư tưởng đối lập nhau
cũng luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau. Trong thời Trần, nếu đứng trên quan
điểm đời sống của dân tộc thì người ta phải thấy vui, nhưng nếu xét về lợi ích
riêng của từng cá nhân thì không tránh khỏi có trường hợp bất mãn với thực
tại. Cho nên ngay trong thời đại của hào khí Đông A thì những lời than vãn vì
lý do này cũng vẫn thấy nổi lên ở một số tác giả, tác phẩm. Và xu hướng yếm
thế thoát ly thể hiện khá rõ trong buổi suy vi của nhà Trần, tức là cuối thế kỷ
thứ XIV.
Kể ra thì xu hướng ấy không phải đợi đến cuối thế kỷ thứ XIV mới xuất
hiện. Ngay từ cuối thế kỷ
Kể ra thì xu hướng ấy không phái đợi đến cuối thế kỷ thứ XIV mới xuất
hiện. Ngay từ cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ thứ XIV, xu hướng ấy đã thấy ở
Trần Quốc Tảng (1252-1313). Trần Quốc Tảng la con thứ của Trần Quốc
Tuấn, có tham gia cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và được phong
tước Hưng Nhượng Vương. Vì có lúc khuyên cha là Trần Quốc Tuấn nên
theo lời di chúc của ông nội là Trần Liễu, tức là nên báo thù cho Trần Liễu mà
cướp lấy ngôi vua, ông đã bị Trần Quốc Tuấn cho là có đầu óc phản nghịch
và biếm chức, buộc phải ra ở Tĩnh Bang (An Quảng, nay là vùng Quảng
Ninh). Ở Cửa Ông, hiện còn đền thờ ông. Trong bài thơ chữ Hán “Phóng
cuồng ca” ông viết:
“Thiên địa diểu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương.
…
Cơ tắc xan hề hòa la phạn,
Khốn tắc miên hề hà hữu hương.
Hứng thời xuy hề vô khổng địch,
Tĩnh xứ phần hề giải thoát hương.
…
Lạc ngô lạc hề bố đại lạc,
Cuồng ngô cường hề phổ hóa cuồng.
Đốt đốt phù vân hề phú quí,
Hu hu quá khích hề niên quang.
Hồ vi hề hoạn đồ hiểm trở,
Phả nại hề thế thái viêm lương.
Thâm tắc lệ hề, thiền tắc khế.
Dụng tắc hành hề, xả tắc tàng.”
nghĩa là:
“Trời đất xa trông chừ, sao thấy mênh mang,
Ngoài vòng cương tỏa chừ, chống gậy chơi rong.
…
Đói thời ăn chừ, cơm hòa la,
Mệt thời ăn chừ, làng hư không.
Khi hứng thổi chừ, sáo không lỗ,
Lúc lặng thắp chừ giải thoát hương.
…
Vui cái vui của ta chừ cùng dòng túi vải
Ngông cái ngông của ta chừ, khuyên giáo thập phương,
Chà chà! giàu sang chừ, đám mây nổi.
Than ôi, ngày tháng chừ ngựa qua song,
Làm gì chừ, hoạn đồ hiểm trở,
Biết sao chừ, thói đời viêm lương,
Sâu thời dấn áo chừ, cạn thời xắn gọn,
Dùng hay bỏ chừ, theo lẽ hình tàng.”
Trần Quốc Tảng là thủy tổ của phái Thiền tông Trúc Lâm, và được tôn
lên danh hiệu thượng sĩ. Qua sách Thượng sĩ ngữ lực có thể thấy ông đã đi
đến tư tưởng cực đoan của Thiền tông (xem phần: Học phong Đông A) phủ
định tất cả, trừ cái tâm. Xét cho kỹ thì tư tưởng hư vô trong Thượng sĩ ngữ
lục có ý nghĩa triết học phức tạp chứ không phải chỉ đơn giản là một thái độ
chán đời của những con người bình thường trong xã hội cũ. Nhưng trong
những lời thơ như trên thì rõ ràng là có bao hàm một niềm bất mãn đối với
những sự kiện cụ thể trong cuộc đời chính trị của Trần Quốc Tảng.
Trần Quang Triều, con Trần Quốc Tảng, sống vào cuối thế kỷ XIII và
đầu thế kỷ XIV, có lời thơ còn chán chường hơn cha. Trong bài thơ chữ Hán
“Chu trung độc chước” (Trên thuyền uống rượu một mình), ông đã viết:
“Nhân tình sơ mật xao bồng vũ,
Thế thái cao đê phách ngạn triều.”
nghĩa là:
“Tình người lúc thân lúc sơ như hạt mưa gỗ trên mui thuyền,
Thói đời khi cao khi thấp như ngọn sóng vỗ bên bờ sông.”
Tình người ấy, thói đời ấy là chuyện rất thường trong xã hội có giai cấp.
Tác giả lại viết hai câu kết như sau:
“Kỷ đa lỗi khối hung trung sự.
Thả hướng tôn tiền thí nhất kiêu.”
nghĩa là:
“Bao nhiêu khối bất bình bề bề trong dạ,
Hãy mượn chén rượu tười cho tiêu tan.”
Nỗi bất bình này dầu sao cũng chưa phải là có nguyên nhân từ sự
khủng hoảng của chế độ phong kiến.
Từ nửa sau thế kỷ XIV trở đi, thì với sự khủng hoảng ấy, tiếng than bất
bình về thời thế đã trở thành âm điệu chủ yếu trong không ít tác giả. Lê Quát
thấy tình người và cảnh trời tương ứng trong cùng một không khí cô liêu và
đã tả nỗi lòng mình như sau:
“Niên lai thế sự dữ tâm vi,
Nhật vọng gia sơn phú Thức Vi.
Thủy quốc thiên hàn kinh tuế mộ,
Mộc lan hoa lão vũ phi phi.”
(Thơ chữ Hán: Thư hoài)
nghĩa là:
“Bấy lâu thế sự trái lòng ta,
Từng vịnh Thức Vi buổi nhớ nhà.
Năm cuối bên sông trời rét mướt,
Mộc lan tan tác trận mưa sa.”
Biểu lộ một tâm trạng chán chường đối với công danh, Chu An viết:
“Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải liêu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.”
(Thư chữ Hán: Giang đình tác)
nghĩa là:
“Giấc mộng công danh đà chán ngát,
Thú chơi hồ hải hãy vung vênh.
Đi về đủng đỉnh chi còn lụy,
Thẳng cánh âu bay bề rộng thênh.”
Giấc mộng công danh của một người như Chu An tất nhiên không phải
là giấc mộng giàu sang danh lợi. Giấc mộng đó chính là lý tưởng trị bình của
người trí thức yêu nước. Lý tưởng ấy, ông không thể thực hiện được, và đó là
nỗi đau khổ của ông. Tuy nhiên, nhiệt tình của ông cũng chưa bao giờ nguội
lạnh. Trong bài thơ chữ Hán “Miết trì” ông đã viết:
“Thốn tâm thùy vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.”
nghĩa là:
“Tấc lòng ai bảo là như tro nguội,
Nghe nói tiên hoàng thầm gạt lệ.”
Nếu thơ Chu An thể hiện niềm cảm khái trước tình trạng suy vi của triều
đại nhà Trần hồi cuối thế kỷ thứ XIV thì thơ Trần Nguyên Đán phản ánh rõ
tình trạng khủng hoảng của xã hội phong kiến khi ấy. Trong bài “Thơ làm
ngày tháng sáu năm Nhâm dần”, ông đau xót thấy rằng:
“Niên lai hạ hạn hữu thu lâm,
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu khống phụ ái dân tâm.”
(Thơ chữ Hán: Nhâm dần lục nguyệt tác)
nghĩa là:
“Mấy năm liền mùa hè bị hạn, mùa thu bị lụt,
Lúa khô mạ thối tai hại rất nhiều.
Đọc ba vạn sách mà thành vô dụng.
Đầu bạc tuổi già rồi, luống phụ lòng yêu dân.”
Trong bài “Thơ làm ngày tháng giêng năm Mậu thân.” ông viết:
“Tam phần đầu bạch thốn tâm đan,
Thế thượng phân vân vạn sự nan.”
(Thơ chữ Hán: Mậu thân chính nguyệt tác)
nghĩa là:
Ba phần tóc bạc tấc lòng son,
Muôn việc trên đời bối rối đồn.
Dân đói, nước loạn, đó là cảnh phác họa lên, trong bài “Thơ làm trong
thuyền đang lúc ban đêm đi về”:
“Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư,
Sóc Yên đông Biện dĩ khâu khư.
Qui châu vị ổn giang hồ mộng,
Phân thủ ngư đăng chiếu cổ thư.”
(Thơ chữ Hán: Dạ qui chu trung tác)
nghĩa là:
“Muôn nước nhân dân cá vạc sôi,
Miền đông cõi bắc tả tơi rồi!
Thuyền về trằn trọc khôn yên giấc,
Ghé ngọn đèn câu giở sách coi.”
Cũng như Trần Nguyên Đán, con rể của ông là Nguyễn Phi Khanh đã
phản ánh trong thơ ca cảnh khổ của nhân dân hồi cuối đời Trần. Trong bài
thơ chữ Hán Thù Đạo Khê thái học xuân hàn vận (Họa vần bài thơ Xuân hàn
của quan thái học Đạo Khê) ông viết:
“Liên cừ vạn tính giai ngô dữ,
Tị ốc thùy gia diện diện hàn.”
nghĩa là:
“Chỉ xót thương muôn họ là đồng bào ta,
Nhà ai đó chen chúc, khuôn mặt nào cũng rét buốt.”
Và vào tiết trung thu, ngắm trăng tròn trời sáng, ông ao ước:
“Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ,
Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.”
(Thơ chữ Hán: Trung thu hữu cảm)
nghĩa là:
“Mong dựa vào ánh sáng trên trời kia,
Soi thấu mọi nỗi đau khổ ở thế gian này.”
Trong bài thơ chữ hán “Thu nhật vãn khởi hữu cảm” ông lại viết:
“Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp,
Thiên biên cách lệ sổ chinh hồng.
Ô hô thế đạo hà như ngã,
Tam phủ di biên phú Đại đông.”
nghĩa là:
“Nhìn dám lá rụng ngoài sân muốn quét sạch mối sầu trước mắt,
Đếm chim hồng nơi chân trời, buồn cho giọt lê bị ngăn cách.
Than ôi, cuộc đời như vậy ta nên như thế nào,
Ba lần vỗ sách xưa đọc thơ Đại đông mà thương cảm.”
Nguyễn Phi Khanh đau xót mà liên hệ tình cảm nhân dân lúc đương
thời với tình cảnh đau khổ của nhân dân đời Chu miêu tả trong thơ Đại đông
(Kinh Thi, Tiểu nhã) và băn khoăn tự hỏi mình đã thuộc lòng thơ Đại đông rồi
để làm gì đây, Và ông đã nói lên chí lớn của mình như sau:
“An đắc thử thân đồng thác thược,
Hòa phong hư biến cửu châu tâm.”
(Thơ chữ Hán: Xuân hàn)
Nghĩa là:
“Thân này ví được làm cái bể thợ rèn
Thì sẽ phát nên những trận gió dịu ấm thổi vào cõi lòng mọi
người ở chín châu.”
Nguyễn Phi Khanh trong khi nói lên nỗi buồn của mình đối với hiện
trạng của xã hội phong kiến vẫn không tỏ ra tuyệt vọng. Trái lại, ông đã nói
lên ý chí phấn đấu để cải thiện hoàn cảnh. Khí phách của tác giả tiêu biểu cho
khí phách của tầng lớp trí thức yêu nước đương thời. Từ Chu An cho đến
Nguyễn Phi Khanh, các nhà trí thức đã từng nhiều khi tỏ ra bất mãn với hiện
thực, nhưng không ai tỏ ra tuyệt vọng về khả năng và vai trò của mình.
Thơ văn đời Hậu Trần, ngay trong lúc tình thế trước mắt thực là gian
khổ, cũng vẫn phản ánh chí khí kiên trì của nhiều người trong từng lớp trí
thức dân tộc quyết tâm đi theo lý tưởng vì nước của mình. Lê Cảnh Tuân đã
nói lên ý chí trong bài thơ chữ Hán “Vô ý” như sau:
“Thân tuy lão hĩ, tâm nhưng tráng,
Nghĩa hữu đương nhiên tử bất từ.
Nhiếp đắng môn la canh vạn hiểm,
Thượng than hạ lãi thiệp thiên nguy,
Tứ phương tự thị nam nhi sự,
Đạp biến giang sơn dã nhất kỳ, “
nghĩa là:
“Thân ta dẫu già rồi, nhưng lòng ta vẫn còn hăng hái,
Việc nghĩa đáng làm thì dù chết cũng chẳng từ.
Leo đá bãm dây vượt qua muôn hiểm trở,
Lên ghềnh xuống thác, trải nghìn gian nan.
Việc bốn phương nguyên là việc của người nam nhi,
Dạo khắp cả núi sông cũng là một sự kỳ lạ.”
Lê Cảnh Tuân vì lầm đường nên đã thất bại trong việc phục tích nhà
Trần. Sau cùng, khi ông thấy rõ là giặc Minh đánh lừa nhân sĩ và nhân dân ra
để cướp lấy nước ta thì đã quá muộn rồi. Khác với Lê Cảnh Tuân, người ôm
cái ảo tưởng dùng con đường ngoại giao để yêu cầu giặc Minh trả lại nước
cho vua nhà Trần và rút quân về, Đặng Dung, một trong những người đã lãnh
đạo cuộc kháng chiến anh dũng trong đời Hậu Trần, đã nói lên quyết tâm giết
giặc cứu nước của nhân dân ta trong bài thơ chữ Hán “Cảm hoài” như sau:
“Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí.chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long tuyền đái nguyệt ma.”
nghĩa là:
“Việc thế lôi thôi tuổi tác này,
Mênh mông trời đất hát và say
Găp thời, đồ điếu thừa nên việc,
Lỡ vận, anh hùng luống nuốt cay.
Giúp chúa những lăm dựng cốt đất,
Rửa dòng không thể kéo sông mây.
Quốc thù chua, trả già sao vội,
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chày.”
Đặng Dung không thực hiện được lý tưởng “báo quốc thù” của mình và
đã hy sinh. Dầu sao thì khí phách anh hùng của ông xứng đáng với truyền
thống bất khuất chống xâm lăng của ông cha.
Nhìn chung, thơ đời Trần bất kể là vui hay buồn thường thể hiện sự
khẳng định nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Và ngay cả
trong cõi buồn của thơ ca cuối thế kỷ thứ XIV vẫn còn phảng phất dư ba của
hào khí Đông A.
Nói đến “Hào khí Đông A” thì không phải là chỉ cần nói đến những kỳ
công vĩ tích trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, mà còn phải biết thông
qua những kỳ công vĩ tích ấy nhận thức rõ về tầm vóc con người mà ông cha
ta đã tạo nên. Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Lê Văn Hưu, Chu An, đó
không phải chỉ là nhân vật lịch sử. Đó còn là những nhân cách mà lịch sử để
lại cho dân tộc.
Giới thiệu những nhân cách đời Trần, Lê Quý Đôn có nêu ra tấm
gương sáng sau đây:
“Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều
ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu tước lộc bó buộc, vua
chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất.
Đặng Tảo được ban ơn, không lấy làm vui mừng mà cam tâm ở nơi
vườn ruộng. Trương Đỗ, ba lần dâng lời can, không được vua dùng, mà bỏ
quan về ở ẩn dật. Bùi Mộng Hoa biết họ Hồ chuyên quyền mà đi ở ẩn không
ra làm quan. Trần Đình Thám giả làm tai điếc để tránh tai họa mà không chịu
thần phục bọn bạo nghịch cướp ngôi. Bốn người này vào bậc thứ hai” (Kiến
văn tiểu lục – Tài phẩm).
Ở đây Lê Quý Đôn mới chỉ nói đến những người không phùng thời đạt
vận. Nhưng trong đời Trần, rất nhiều trí thức dân tộc đã thực hiện được lý
tưởng giúp dân, giúp nước của mình. Lý tưởng đó đã được nói lên nhiều hơn
cả ở thể phú. Trong số mười ba bài phú chữ Hán đời Trần còn lại đến nay
không bài nào là không đề cập đến những vấn đề chính trị và xã hội.
Trong bài phú “Tấm gương soi sáng ngàn thu” của Phạm Mại, nhân
bàn về bài “Thiền thu kim giám” của Trương Cửu Linh nhà Đường làm để
khuyến khích nhà vua, họ Phạm đã viết:
“Đạo đức rộng ra khuôn mẫu,
Lễ nghĩa vững chắc đá vàng
Khí tiết nghiêm túc tự băng sương,
Văn vẻ sáng láng như nhật nguyệt.
Soi cho kẻ mờ được thấy sáng
Mài cho người ngu được thấy khôn.”
(Phú chữ Hán: Thiên thu kim giám phú)
Để tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tài năng thì, kẻ làm việc nước phải
xem xét cho tường những tấm gương xấu tốt, thành bại của người xưa:
“Lấy đấng tiên vương làm gương soi,
Thì có những thành hiệu của tổ tông.
Lấy những việc trước làm gương soi,
Thì có những vẻ vang của kỳ cựu.
Lấy việc trị loạn làm gương soi,
Thì ai lành và ai dữ.
Lấy việc được mất làm gương soi,
Thì ai đẹp và ai xấu. “
(Phú chữ Hán: Thiên thu kim giám phú)
Trong bài phú “Chiếc chậu tắm của vua Thang”, tác giả khuyết danh đã
nêu cao tấm gương tu dưỡng. Vua Thang “mỗi lần dùng chậu, mỗi lần lại đọc
bài minh răn mình thì lòng càng sạch mà đức lại càng sáng thêm”. Tác giả đã
tự nhủ rằng:
“Chiếc chậu vua Thang chứ sáng lóe,
Khuôn khổ như vang nhật chừ tròn xoe.
Quần chúng chừ được thấm thía,
Kính bậc Thánh chừ ngày mỗi tiến lên
Bài minh ở chậu chừ chỉ còn chín chữ,
Trải nghìn xưa chừ vẫn nguyên
Lòng đục của người chừ gột sạch
Đức hay của bậc thánh chừ sáng thêm
Ôi! suốt đời ta chừ hàng ngày nhẩm đọc,
Cho sự học của ta chừ mở mang.
Mong muốn cõi chừ coi như đuốc ngọc
Để đạo ta chừ lại được sáng choang.”
(Phú chữ Hán: Thang bôn phú)
Chín chữ mà bài phú nói tới: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật
tân” đã là phương châm tu dưỡng của những trí thức dân tộc xưa kia..
Họ tu thân để giúp nước giúp đời. Trong bài thơ “Lầu Cần chính” của
Nguyễn Pháp có đoạn viết đến việc trị bình như sau:
“Vua lên ngự lầu để xét mọi việc,
Tướng văn tướng vũ đại diện trăm quan.
Lớp lớp uyên ương, bày bày hồng nhạn,
Theo chức dâng lời, tùy hàng tâu việc.
Như vậy, vua được
Suốt bốn thông, tỏ bốn mắt,
Nghe trình việc hay, thay việc dở,
Nhất trí hoặc chưa đồng tình.
Có việc chính trị chưa thi hành chừ,
Mong sẽ khởi xướng
Có điều ân đức chưa ban đều chừ,
Mong sẽ mở rộng.
Có việc hình luật chưa thích đáng chừ,
Mong sẽ đổi thay.
Có nơi dân chúng còn thiếu an ninh chừ,
Mong được giữ gin trật tự
Có việc lợi ích chưa biết chấn hưng chừ,
Mong sẽ nghiên cứu thi hành.
Có điều hại chưa được bài trừ chừ,
Mong sẽ được cải cách
Thận trọng nơm nớp hàng ngày muôn việc
Lúc nguy lúc yên, không vui không nhác
Nhân trạch được rộng ban
Thấm nhuần mọi vật,
Muôm họ âu ca chừ, ba cõi bình yên.”
(Phú chữ Hán: Cần chính lâu phú)
Tác giả đã trình bày khá đầy đủ lý tưởng về một Nhà nước trong đó
“Vua sáng tôi lành” cùng nhau “đồng đức hiệp tâm” để xây dựng một xã hội
“thái bình thịnh trị”. Vua được “suốt bốn thông, tỏ bốn mắt” cũng là nhờ ở
quan văn quan võ “theo chức dâng lời, tùy hàng tâu việc”, cũng là ở chỗ biết
bàn bạc cùng với quan liêu về việc hay, việc dở. Vua tôi biết cùng nhau “thận
trọng nơm nớp, hàng ngày muôn việc, lúc nguy, lúc yên, không vui không
nhác” thì nước sẽ được thịnh vượng. Yêu cầu nhà vua lấy “đức trị dân”, lý
tưởng chính trị được nêu lên ở đây tuy có xác nhận địa vị chí tôn của nhà vua
mà đông thời lại đề cao công luận. Công luận ở đây tất nhiên là công luận của
trí thức phong kiến.
Trong bài phú “Ngọn bút của Đổng Hồ”, tác giả khuyết danh tuyên
dương đức tính cương trực, trung chính của Đổng Hồ, sử thần nước Tấn đời
Xuân Thu và đồng thời nêu cao “điển tắc” nhấn mạnh ý nghĩa của công luận.
Tác giả ca ngợi việc “tiên thánh”:
“Đặt lối viết lách để dùng cho tiện lợi,
Mà ghi văn hóa vào sách vở,
Dựng sử quan để giữ luật pháp
Và nêu rõ điển tắc giữa nhà vua và bề tôi.”
Tác giả đã nêu gương sáng của Đổng Hồ:
“Thường nơm nớp cẩn thận tưởng như mình chưa tin mình,
Và hết dạ trung thành với chức trách người chép sử
Dựa sấm sét để ra oai,
Định sự xét soi cân nhắc nơi tấc dạ.
…
Tỏ rõ phải chăng cho cả muôn đời,
Uốn nắn dở hay riêng trong một thuở,
Khen chê nghiêm hơn thưởng phạt,
Nghị luận sắc như búa rìu.”
Ngòi bút khen chê sắc như búa rìu đã có sức mạnh không gì chống nổi
cho nên:
“Lúc xoe ngòi bút và thấm mực chừ
Quỉ thần sợ phải né tránh”.
Với ngòi bút ấy, sử thần nhận rõ trách nhiệm của mình là:
“Kỷ cương nhà vua đã hỏng thì phải bổ sung,
Pháp luật nhà nước đã đổ thì phải nâng đỡ.
Đẩy hơi mạnh chú trọng vào đầu ngòi bút,
Lưu lại lời văn sâu sắc cho đời sau.
Để mà dập tắt lòng tà của kẻ tiểu nhân
Để mà răn vua chúa đời sau chớ nên rộng rỡ.
…
Kẻ loạn thần nghe mà mất vía
Bọn tặc tử thấy mà kinh hồn.”
(Phú chữ Hán: Đổng Hồ bút phú)
Cần phải nhận thức cho rõ sức mạnh của lời công luận, dũng cảm bảo
vệ kỷ cương, khiến cho vua chúa không dám tự chuyên mà rông rỡ, khiến
cho mọi người phải tuân theo phép nước. Cho nên tác gia nói về Đổng Hồ mà
không phải chỉ muốn nêu gương cho người viết sử. Tấm gương Đổng Hồ
đáng cho mọi người nói chung phải noi theo. Cho nên không phải chỉ sử thần
Lê Văn Hưu mới biết chê trách việc Lý Thần tông ra lệnh cho con gái các
quan hoãn việc lấy chồng để nhà vua chọn cung nữ mà Chu An cũng đã
ngang nhiên dâng sớ xin chém bảy kẻ bày tôi yêu của vua nhà Trần, và khi
nhà vua không nghe lời nói phải thì trao trả mũ áo, từ bỏ quan chức. Trong
bài “Ngọc tỉnh liên phú”, Mạc Đỉnh Chi viết: “Nếu ta thẳng ngay, không cong
queo thì có sợ gì mưa sa gió táp”. Cần phải dũng cảm, vững tin ở phẩm chất
và khả năng của mình, cần phải biết chiến đấu và dám hy sinh cho lý tưởng.
Lý tưởng ấy bao hàm cái đạo trung với vua, nhưng cũng bao hàm cái nghĩa
thương đến dân. Cho nên trong nhiều tác phẩm như bài phú “Sông Bạch
Đằng” của Trương Hán Siêu, bài phú “Trấn Thiên hưng” của Nguyễn Bá
Thông, bài phú “Sao lành” của Đào Sư Tích đều có nêu cái “đức” mà kẻ “chăn
dân” phải có. Vua có “đức” thì mới có thể thành công trong việc trị nước, vua
không có “đức” tất nhiên phải bại vong. Mà có “đức” có nghĩa là “ân trạch
thấm thía đến quần chúng” như ý nêu lên trong bài phú “Chiếc chậu tắm của
vua Thang”, có nghĩa là làm cho “dân được an ninh”, khiến “muôn họ âu ca”
như ý nêu lên trong bài phú. “Lầu Cần chính”
Phú là thể văn có tính chất khoa trương. Nhưng ở các bài phú đời Trần,
dầu từ ngữ có nhiều chỗ khoa trương mà ý tình thì bao giờ cũng trung thực.
Các tác giả đã rất chân thành khi tỏ niềm tin tưởng ở việc rèn luyện bản lĩnh,
xây dựng nhân phẩm, ở sự nghiệp đấu tranh cho đại nghĩa dân tộc.
Nhìn chung, văn học đời Trần, dầu là phú, là thơ, là văn chính luận,
v.v… thường gắn tinh thần yêu nước sâu sắc với tinh thần nhân đạo chủ
nghĩa rộng lớn. Và qua thơ văn đời Trần, có thể thấy rõ việc xây dựng nhân
phẩm luôn luôn gắn liền với cuộc đấu tranh vì Tổ quốc, vì dân tộc, cho nên
thơ văn đời Trần ngoài những giá trị về nội dung và nghệ thuật của các tác
phẩm lại còn rất có ý nghĩa ở chỗ thể hiện một trong những qui luật chính của
việc hình thành con người Việt trong lịch sử.
VI. VĂN TỰ SỰ, TRUYỆN KÝ ĐỜI TRẦN
Khi xét đến giá trị của văn học chữ Hán đời Trần thì không thể không
nhấn mạnh vào nội dung đầy tính dân tộc của các tác phẩm tự sự như lịch sử
và truyện ký.
Như đã trình bày ở trên, trong thời xưa, khi mà khái niệm văn học rộng
hơn so với khái niệm văn học hiện nay thì đã có tình trạng “văn sử bất phân”.
Những tác phẩm sử học ngày xưa nhiều khi có giá trị văn học và những sử
gia lớn đều là những tay đại bút. Sách chép sử của đời Lý không còn lại
quyển nào. Chúng ta biết rất ít về quyển Đỗ Thiện sử ký. Nhưng các bộ sử ký
và truyện ký lịch sử xuất hiện trong đời Trần có một số hoặc là còn giữ được
toàn vẹn, hoặc là còn giữ được một phần.
Trong số sách đã mất đi mà chúng ta còn giữ được cái tên thì phải kể
đến bộ Việt chí của Trần Phổ (có chỗ viết là Trần Tấn) xuất hiện vào khoảng
nửa đầu thế kỷ thứ XIII, Trung hưng thực lục của Trần Nhân tông xuất hiện
vào cuối thế kỷ thứ XIII, Việt sử cương mục và Nam Việt thế chí của Hồ Tông
Thốc xuất hiện vào thế kỷ thứ XIV. Trong số sách mà đến nay ta còn giữ
được một phần hoặc toàn bộ nội dung thì đáng chú ý nhất là bộ Đại Việt sử
ký của Lê Văn Hưu, bộ Đại Việt sử lược của tác giả khuyết danh, các tập
Thiền uyển tập anh và Tam tổ thực lục của tác giả khuyết danh, Việt điện u
linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp, Nam ống
mộng lục của Lê Trừng.
Bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đến nay không còn nguyên bản nữa.
Lê Văn Hưu là người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh
năm 1229, không rõ mất năm nào, đậu bảng nhỡn năm Thiên ứng chính bình
thứ 16 (1247) đời Trần Thái tông, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư,
tước Nhân uyên hầu. Ổng lại được sung chức Hàn lâm viện học sĩ, Quốc sử
viện giám tu. Nhà vua giao cho ông soạn bộ sử ký nước nhà. Không rõ ông
khởi công năm nào, chỉ biết đến năm 1272 thì viết xong. Đại Việt sử ký bao
gồm 30 quyển, chép sự việc từ đời Triệu Vũ đế (tức Triệu Đà, năm 207 trước
CN) đến đời Lý Chiêu Hoàng (năm 1224). Đó là bộ sử lớn đầu tiên ở nước ta.
Việc nhà vua sai soạn bộ lịch sử của nước nhà với một qui mô như vây có ý
nghĩa chính trị quan trọng. Điêu đó chứng tỏ Nhà nước phong kiến đã trưởng
thành. Chỉ với ý thức cao về một quốc gia độc lập, chỉ với niềm tự hào mạnh
mẽ về quá khứ của dân tộc, chỉ với quan niệm rõ ràng về việc xây dựng điển
chương của đất nước có văn hiến thì vua nhà Trần mới đặt vấn đề soạn
chính sử của Nhà nước. Tuy chỉ có thể tìm hiểu được Lê Văn Hưu qua những
đoạn dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, nhưng ta cũng thấy
được tinh thần dân tộc của một nhà viết sử yêu nước.
Nhân khen sự nghiệp của Hai Bà Trưng, ông đã viết: “Trưng Trẩc,
Trưng Nhị lấy cái thân phận nữ tử hô lên một tiếng mà Cửu Chân, Nhật Nam,
Hợp Phố cho đến 65 thành ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc lập nước xưng
vương của Hai Bà dễ như trở bàn tay. Có thể thấy hình thế nước Việt ta đủ
lập nên cơ nghiệp bá vương. Tiếc thay, kế sau họ Triệu cho đến trước họ
Ngô, trong khoảng hơn một nghìn năm, bọn nam tử chịu cúi đầu bó tay làm
kẻ tôi tớ người phương Bắc, chẳng hề xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng!
Ôi! có thể gọi rằng mình tự bỏ mình vậy”. Lời bình luận này của Lê Văn Hưu
thể hiện sự hạn chế trong nhận thức của nhà nho xưa: một là coi Triệu Đà
như là người nước ta, hai là có ý trọng nam khinh nữ. Mặt tích cực của lời
bình luận là trong cái ý trách cứ bọn “nam tử” kia có bao hàm một sự phẫn
khích kèm với một ý thức dân tộc rõ rệt. Phản đối sự việc Lý Thần tông ra
lệnh bắt con gái các quan hoãn việc lấy chồng để nhà vua tuyển lựa cung nữ,
ông viết như sau: “Trời sinh ra dân, đặt cho họ một ông vua để chăn dắt họ,
không phải để cho ông ta tự cung phụng mình. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn
con cái có gia thất. Bậc thánh nhân thể theo lòng ấy, chí những: kẻ thất phu
thất phụ không được có nơi có chốn. Cho nên, Kinh Thi chép bài “Đào non”,
bài “Mai rụng”, khen sự trai gái lấy nhau đúng lúc và chê cảnh muộn vợ muộn
chồng vậy. Vua Thần tông xuống chiếu ra lệnh cho con gái các quan phải đợi
nhà vua tuyển lựa cung nữ xong mới được lấy chồng, đó là tự cung phụng
cho sướng cái thân mình, chứ đâu phải là tấm lòng làm cha mẹ dân!” Rõ ràng
là ông đã phê phán sự độc đoán và thói hưởng lạc của vua chúa. Đồng thời
ông cũng biểu lộ tấm lòng chân thành đối với quyền lợi và hạnh phúc của
trăm họ, của kẻ “thất phu thất phụ”. Về cách chép sử của Lê Văn Hưu, chúng
ta không thể tìm hiểu tường tận được. Vì vậy, khó mà đánh giá sự nghiệp về
mặt sử học và lại càng khó mà đánh giá tác phẩm về mặt văn học. Tuy nhiên,
vẫn có thể tin rằng việc hậu nho khen ông là bậc đại bút tất là có căn cứ.
Hơn một trăm năm sau bộ Đại Việt sử ký đã xuất hiện bộ Đại Việt sử
lược của tác giả khuyết danh. Đại Việt sử lược hiện nay vẫn còn, vì vậy ta có
thể đánh giá tác phẩm chính xác hơn là Đại Việt sử ký. Sách gồm 3 quyển.
Quyển thượng chép tóm tắt từ Triệu Đà đến Lê Ngọa Triều. Quyển trung và
quyển hạ chép sự việc đời Lý mà tác giả gọi là Nguyễn Kỷ từ Lý Công Uẩn
đến Lý Chiêu Hoàng. Cuối quyển hạ, có một bản phụ lục niên hiệu các vua
đời Trần (Trần triều kỷ niên), kết thúc bằng câu: “Kim vương, Xương Phù
nguyên niên, Đinh Tỵ” nghĩa là: “Vua bây giờ, hiệu Xương Phù năm đầu, năm
Đinh Tỵ”. Theo dương lịch thì năm này là năm 1377, tức là năm đầu đời Trần
Đế Hiện. Có thể là tác giả Đại Việt sử lược đã soạn sách này trên cơ sở tóm
lược bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Điều khác chủ yếu là ở chỗ Đại Việt
sử lược có chép thêm sự việc đời Hùng vương và đời An Dương Vương, tuy
rằng cũng chỉ chép một cách sơ sài, bỏ qua nhiều truyền thuyết mà Đại Việt
sử ký toàn thư (thế kỷ XV) sau này sẽ chép tương đối kỹ (truyền thuyết về
Kinh Dương Vương, về Lạc Long Quân, về Âu Cơ đẻ trăm trứng, về Phù
Đổng thiên vương, về Chử Đồng tử và Tiên Dung, về Rùa vàng và nỏ thần,
v.v…) Đại Việt sử lược chép sử một cách giản lược. Nhưng nó rất có giá trị
nếu xét về phương diện sử học, vì đây là một trong những tác phẩm lịch sử
hiếm có của người việt viết về nước Việt từ đời Trần mà văn bản còn tồn tại
đến tận ngày nay. Hơn nữa, mặc dầu tính chất giản lược của nó, Đại Việt sử
lược có nhiều đoạn có giá trị văn học rõ rệt. Trước hết tuy tác giả không đặc
biệt chú ý đến những tài liệu dã sử và truyền thuyết dân gian như Ngô Sĩ Liên
sau này, nhưng vì viết trong không khí tư tưởng đời Trần, khi mà ảnh hưởng
của Phật giáo và Đạo giáo vẫn còn khá mạnh, cho nên tác giả đã kể lại nhiều
sự việc hoang đường quái đản như chuyện rồng và kỳ lân xuất hiện, chim sẻ
trắng về chầu, trâu trèo cây muỗm, rùa sáu mắt sáu chân, cau chín buồng, lúa
chín bông, v.v… Những tài liệu này có thể giúp ích cho nhà sử học cũng như
nhà văn học tìm hiểu phong tục và không khí tâm lý của thời đại Lý – Trần.
Trong Đại Việt sử lược, bên cạnh những đoạn rất tóm tắt, nhiều khi lại xen
vào những đoạn có tính chất tự sự và miêu tả giống như văn truyện ký vậy.
Sau đây là đoạn viết về vua Lê Ngọa Triều:
“… Vua thích giết. Người ta bị tội hình, vua sai quấn rơm vào người rồi
thiêu chết, lại sai tên hề Liêu Thủ Tâm dùng dao cùn để mổ người cho lâu
chết. Như thế độ vài ngày, người bị tội kêu la thảm thiết, Thủ Tâm nói khôi
hài: “Mày không quen chết”. Vua cười lớn, lấy làm vui. Phàm những tù binh đi
đánh trận mà bắt được thì vua sai áp tải ra bờ sông. Khi nước triều rút, vua
sai đóng chuồng ở dưới nước, xua tù vào đó. Khi nước triều lên, họ đều ngớp
ngáp mà chết ngạt. Vua lại bắt người trèo lên cây cao, rồi chặt cây cho đổ
xuống. Vua đi chơi Chi Ninh giang. Sông đó có nhiều thuồng luồng. Vua bèn
buộc người ở cạnh thuyền chèo đi chèo lại giữa dòng sông khiến thuồng
luồng hại người đó. Phàm lợn trâu sắp đưa nhà bếp làm thịt, vua trước hãy
sai người dắt đến tự tay đâm chết, rồi mới giao cho nhà bếp. Vua lại róc mía
trên đầu sư Quách Mão, giả vờ lỡ tay, làm đầu sư bị thương chảy máu, vua
cười lớn. Hoặc đêm khuya vua sai giết mèo bán cho các tước vương ăn. Khi
các tước vương ăn xong, vua giơ đầu mèo lên cho xem, các vương đều nôn
mửa cả. Mỗi khi coi chầu, vua sai tên hề nói liến thoắng làm rối việc tâu bày
của các quan chấp chính”.
Tác giả Đại Việt sử lược không có lời bình luận như Lê Văn hưu, Ngô
Sĩ Liên và các sử gia đời sau. Nhưng chỉ qua cách trình bày sự việc, ông
cũng đã vạch rõ bản chất tàn bạo, thô lỗ của Lê Ngọa Triều. Tác giả đưa ra
một loạt chi tiết, gọn ngắn nhưng sinh động, để phô bày những mặt khác
nhau trong tính cách của Lê Ngọa Triều. Và tuy không nói nhiều về sự phản
kháng của những nạn nhân mà tác giả cũng vẫn làm cho ta cảm thấy sự căm
tức ngấm ngầm nhưng sâu sắc của mọi tầng lớp xã hội đối với y. Có thể nói
rằng bút pháp của tác giả Đại Việt sử lược khá súc tích. Đoạn sau đây viết về
sự kiện năm 1148 lại thể hiện một đặc điểm khác của bút pháp ấy: “…Lúc vua
còn nhỏ, chính sự bất kỳ lớn nhỏ đều giao cho Anh Vũ. Anh Vũ lại tư thông
với bà Thái hậu, do đó càng kiêu căng bừa bãi, ở chốn triều đình thì giơ tay,
thét lớn, sai khiến quan lại chỉ cần nhếch mép ra hiệu là mọi người đều lấm
lét không dám bói. Bọn phò mã Dương Tư Minh cùng điện tiền chỉ huy là Vũ
Đái đem quân sĩ tới ngoài cửa Việt Thánh hô to lên rằng: Anh Vũ ra vào nơi
cung cấm thường làm nhiều điều ô uế, tiếng lan cả ra ngoài, bọn thần xin trừ
đi để cho khỏi lo về sau”. Nhân đó bắt Anh Vũ trói ở hành lang Cụ Thánh.
Thái hậu sai người đem cơm rượu cho Anh Vũ, lại ngầm lấy vàng đút cho bọn
Đái. Lúc bấy giờ viên Cụ Thánh đô hỏa đầu là Nguyễn Dương nói với bọn ấy
rằng: “Các anh tham của đút ấy thì ta cùng các anh tất không thoát khỏi tay
Anh Vũ. Chi bằng giết nó đi để ta khỏi lo”. Dương vác giáo toan đâm Anh Vũ.
Viên Tả Cụ Thánh là Đàm bèn cướp lấy giáo của Dương, bắt ngừng lại mà
nói: “Quan điện tiền bảo tôi rằng tội Anh Vũ tuy đáng chết, nhưng trước hết
phải xin mệnh trên” Dương giận dữ mắng rằng: “Điện tiền là Vũ Cứt chứ
không phải Vũ Đái! Sao lại tham của người mà không đoái tới công nghị?” Nói
xong Dương đâm đầu xuống giếng chết…”
Sự việc ở đây được kể lại một cách nhanh, gọn và sắc sảo. Tính cách
của các nhân vật, nhất là Nguyễn Dương, đã bộc lộ rõ rệt qua vài nét miêu tả
đơn giản mà sinh động, về sau, kết cục diễn ra đúng như dự đoán của
Dương. Đỗ Anh Vũ được cứu thoát, đã giết tất cả bọn người tham gia vụ đảo
chính hụt kia.
Bút pháp Đại Việt sử lược chẳng những sinh động mà có khi lại còn hài
hước một cách tế nhị nữa. Trong đời Lý, ảnh hưởng của Mật tông khá mạnh.
Các nhà sư hay dùng pháp thuật để gây tín nhiệm trong vua chúa. Đại Việt sử
lược đã phản ánh một cách lý thú tình hình ấy, khi chép về niên hiệu Thiên tư
gia thụy thứ 1 (tức năm 1187) đời Lý Anh tông như sau:
“Mùa thu, có một nhà sư người xứ Tây vực tới (nước ta). Vua hỏi sư
biết làm phép gì. Sư trả lời: “biết giáng hổ”. Vua sai chức Chi hầu phụng ngự
là Lê Năng Trường đưa sư về nhà công quán nghỉ, và sai người bắt hổ đến
để thử pháp thuật của sư. Hơn một tuần sau, sư nói với Năng Trường rằng
hổ ấy có thể phục được rồi. Năng Trường tâu vua. Vua sai làm chuồng ở gác
Vĩnh Bình, rồi bảo sư vào chuồng. Sư đi rón rén bước một, vừa đi vừa niệm
chú, tiến về phía hổ, lấy gậy cốc vào đầu nó. Hổ chồm lên vồ lấy gậy. Sư
nhân thế bèn tâu với vua rằng: “Có kẻ ác đã giải mất phép mầu trong lời chú
của tôi. Xin lại để tụng niệm cầu Phật thêm nữa rồi sau đó sẽ thi thố pháp
thuật”. Vua nghe lời. Sư cầu đảo mãi, lâu lắm, (Nhưng) vua cứ muốn thử
pháp thuật đến cùng. Một hôm, vua lại bảo sư vào chuồng hổ. Hổ bèn nhảy
chồm lên vồ thét. Sư sợ hãi, lùi lại, không biết làm thế nào được, bèn đứng
tựa vào chuồng mà chết.”
Con hổ này kể ra cũng chẳng dữ lắm, có lẽ vì nó được nuôi ở trong
cung từ lâu và quen thấy người rồi. Chả thế mà phải đợi đến lúc sư gõ vào
đầu thì nó mới chồm lên mà cũng chỉ vồ lấy gậy thôi. Lần thứ hai, có lẽ vì nó
nhận ra người đã trêu chọc nó bữa trước cho nên mới nổi giận. Nhưng cũng
không cần nó phải cắn xé. Nhà sư chỉ vì sợ quá mà cũng đã chết rồi, Đủ biết
pháp thuật của sư là như thế nào. Đoạn sử trên vừa là một truyện ngắn hấp
dẫn, vừa là một tấn bi hài kịch. Mà vua Lý Anh tông thì vừa có thái độ tôn
trọng lời nói của sư mà lại vừa có thái độ hoài nghi kín đáo, muốn thử đến
cùng pháp thuật. Thế mới chết người ta chứ? Mà chết thật chứ không phải
chết đùa. Với một bút pháp tinh giản và một thái độ hình như khách quan, tác
giả Đại Việt sử lược không bình luận gì cả. Nhưng độc giả thì thấy rõ tính
cách của các nhân vật và đồng thời cũng thấy được quan điểm của tác giả
đối với những kẻ đem pháp thuật đi lừa bịp thiên hạ.
Đại Việt sử lược là một bộ sử biên niên. Nhưng hình như mỗi khi thấy
sự việc có ý nghĩa đặc biệt hoặc thấy có hứng thú về sự việc xảy ra thì tác giả
lại kể truyện một cách gọn gàng và sắc sảo như vậy. Và một vài thí dụ trích
dẫn trên đây cũng đủ để chứng minh tình trạng “văn sử bất phân” ngày trước
và khiến chúng ta không thể coi thường giá trị văn học của những tác phẩm
sử học đời cổ.
Trong những truyện ký lịch sử xuất hiện vào đời Trần mà văn bản còn
giữ lại được thì đáng chủ ý nhất là những sách Thiền uyển tập anh, Tam tổ
thực lục của tác giả khuyết danh, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên và
Nam ông mộng lục của Lê Trừng.
Thiền uyển tập anh xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIII, chép sự
tích các cao tăng thuộc ba chi phái Thiền tông. 40 vị thuộc chi phái Vô Ngôn
Thông gồm 14 đời, trong đó có 11 đời từ Khuông Việt thiền sư đời Đinh Lê
(thế kỷ thứ X) đến Hiệu Quang thiền sư đời Lý (cuối thế kỷ thứ XII, đầu thế kỷ
thứ XIII) là thuộc thời kỳ nước Đại Việt độc lập. 28 vị thuộc chi phái Ti-ni-đa-
lưu-chi gồm 19 đời, trong đó có 8 đời từ Vạn Hạnh Thiền sư đời Lê, đầu đời
Lý (thế kỷ thứ XI) đến Y Sơn thiền sư đời Lý (đầu thế kỷ thứ XIII) là thuộc thời
kỳ nước Đại Việt độc lập, 19 vị thuộc chi phái Thảo Đường gồm 5 đời từ Lý
Thánh tông (cuối thế kỷ thứ XI) đến Lý Cao tông (đầu thế kỷ thứ XIII). Các chi
phái trên chắc là còn truyền đăng về sau, nhưng Thiền uyển tập anh kết thúc
với thiền sư Hiệu Quang (mất năm 1223) thuộc chi phái Vô Ngôn Thông, với
thiền sư Y Sơn (mất năm 1213) thuộc chi phái Ti-ni-đa-lưu-chi, với Lý Cao
tông (mất năm 1205) thuộc chi phái Thảo Đường.
Trong Thiền uyển tập anh có chép thơ và kệ (dưới hình thức thơ) của
các Thiền sư. Vì vậy, tác phẩm là một tài liệu văn học quí hiếm còn truyền lại
về đời Lý. Tác phẩm chép hành trạng của các vị cao tăng và các lời thuyết
pháp mà họ nói với đệ tử. Vì vậy, tác phẩm là một tài liệu quan trong đối với
việc tìm hiểu lịch sử Phật giáo ở nước ta. Sự tích các vị cao tăng có nhiều
đoạn liên quan tới cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc cũng như
phong tục tập quán trong các đời Đinh, Lê, đặc biệt là trong đời Lý. Có những
sự tích xứng đáng được coi như tác phẩm văn học hay, không kém gì những
truyện ngắn đầy hấp dẫn trong văn học đời sau.
Sự tích Khuông Việt đại sư, tức Ngô Chân Lưu có đoạn chép việc sư
lên núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ như sau:
“… Đến đêm, mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái
cầm cây thương vàng, tay phải cầm cây bảo tháp, theo sau có hơn mười
người, bộ mặt cổ quái đáng sợ. Thần đến trước mặt bảo rằng: “Ta là Tỳ-sa-
môn thiên vương, bọn theo hầu ta đều là Dạ-thoa. Thượng đế có lệnh sai ta ở
đây hộ trì cương giới để hưng hành Phật pháp, với ngươi có duyên, nên ta
đến nói chuyện.” Sư sợ hãi tỉnh dậy, nghe trong núi có tiếng hò hét, rất lấy
làm lạ. Đến sáng vào núi thấy một cây cao mười trượng, cành lá rườm rà,
trên ngọn có đám mây lành phủ kín, mới sai thợ đốn cây và theo như hình
trong mộng mà tạc tượng thần, rồi lập đền thờ. Năm Thiên Phúc thứ nhất
quân Tống sang cướp. Nhà vua đã biết tiếng thần thiêng, mới sai nhà sư đến
cầu đảo. Bấy giờ quân Tống đóng ở thôn Tây Kết. Chưa giao chiến với quân
ta, thì quân Tống đã sợ sệt, lui về giữ Chi Giang. Gặp cơn sóng cả gió to,
thuồng luồng nổi lên rất nhiều, quân giặc sợ chạy tan tác”.
Ở dây, có chi tiết liên quan đến Sóc thiên vương, tức Thánh Dóng.
Thánh Dóng hiện ra dưới hình thức Tỳ-sa-môn thiên vương chỉ huy đạo quân
Dạ-thoa. Rõ ràng là Thiền uyển tập anh đã phản ánh việc các thiền sư đem
Phật giáo hóa truyền thuyết dân gian. Nhưng điều quan trọng hơn và rất có ý
nghĩa là việc thiền sư Khuông Việt tham gia vào việc giúp Lê Đại Hành đánh
đuổi giặc Tống. Sự tham gia ấy được miêu tả dưới hình thức hoang đường,
nhưng đã chứng to vai trò “nhập thế” giúp nước giúp dân của các thiền sư lúc
đương thời.
Sự tích thiền sư Vạn Hạnh kể rằng thiền sư giúp Lý Công Uẩn lên ngôi
vua, lập ra triều đại nhà Lý. Những sự việc ấy được kể lại với những chi tiết
hoang đường. Thí dụ như các điểm lạ được báo trước qua việc sét đánh
thành chữ ở vỏ cây gạo, sâu ăn thành chữ ở vỏ cây đa, lông chó trắng có vết
chữ “thiên tử”, và việc thiền sư đã đặt ra những lời phù sấm về sau có ứng
nghiệm, v.v… Những chi tiết hoang đường như thế thường gặp ở nhiều sự
tích, đặc biệt là ở các thiền sư Giác Hải, thiền sư Không Lộ, thiền sư Từ Đạo
Hạnh.
Sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh kết thúc bằng việc nhà sư chết đi, đầu
thai làm con Sùng Hiền hầu để về sau nối ngôi vua, trở thành Lý Thần tông.
Việc Lý Thần tông là hậu thân của Từ Đạo Hạnh hiện còn thấy qua việc bố trí
tượng thờ của Từ Đạo Hạnh và Lý thần tông ở chùa Thầy (Quốc Oai, Hà Tây)
và chùa Láng (Từ Liêm, Hà Nội). Đó tất nhiên là chuyện bịa, phản ánh đầu óc
mê tín dị đoan của người xưa. Nhưng đối với chúng ta, thì điều đó có nghĩa là
tăng lữ đời Lý không những tham gia vào việc chính trị của Nhà nước mà còn
can thiệp vào nội bộ hoàng gia: những việc chữa bệnh cho vua, cầu tự, làm
cho hoàng hậu có con, lập hoàng thái tử, v.v… đều có sự tham gia của các
nhà sư.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nhân vật được miêu tả với những nét kỳ
dị, hoang đường. Thiền uyển tập anh kể về việc nhà sư báo thù cho cha như
sau:
“… Cha nhà sư dùng pháp thuật làm phật ý Diên Thành hầu. Hầu sai
thiền sư Đại Điên dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi
tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành hầu, hốt nhiên đứng dựng
lên, trỏ vào nhà, ở lại đấy suốt một ngày không trôi đi. Diên Thành hầu sợ hãi,
nói với Đại Điên. Đại Điên đến và hét lên: “Người đi tu không được phép giận
quá một ngày”. Rứt lời thì thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ tìm cách báo thù cho
cha, nhưng chưa nghĩ ra kế gì. Một hôm rình Đại Điên ra ngoài, định đánh,
chợt nghe trên không trung có tiếng thét: dừng lại! Lộ sợ hãi, quăng gậy mà
chạy. Lộ muốn sang nước Ấn Độ cầu phép lạ để đánh Điên, đường đi qua đất
rợ Răng Vàng, thấy hiểm trở quá bèn quay về, ở ẩn tại núi Từ Sơn, hàng
ngày đọc kinh Đại-bi-tâm-đà-la-ni, đọc trọn 18.000 lần. Một hôm, thấy có vị
thần đến trước mặt, thưa rằng: “Kẻ đệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm phục
công đức trì kinh của thầy, nên lại đây theo hầu để thầy sai khiến”. Lộ biết
rằng đạo pháp đã thành, thù cha có thể rửa, bèn đi đến cầu An Quyết, ném
thử cây gậy xuống dòng nước chảy xiết. Gậy trôi ngược dòng nước tới cầu
Tây Dương thì dừng lại. Lộ mừng mà nói rằng: “Phép của ta thắng được rồi!”.
Bèn đến thẳng chỗ Điên ở, Điên thấy mặt, nói rằng: “Mày không nhớ việc
ngày trước hay sao?” Lộ nhìn lên không trung, không thấy gì, bèn đánh liền.
Điên đau, thành bệnh mà chết. Từ đó, thù xưa đã rửa, tục lự nguôi dần, mới
du ngoạn các miền rừng rú để tìm ấn chứng… Phép lực ngày càng mạnh,
duyên thiền ngày càng kết. Các giống rắn núi, thú rừng đều đến quanh mình
chịu sự dạy dỗ. Lộ đốt ngón tay cầu đảo, chú phép lạ vào nước trị bệnh,
không điều gì không ứng nghiệm…”
Qua một đoạn sự tích trên đây có thế thấy ảnh hưởng của Mật tông
trong cách tu hành của các thiền sư. Các thiền sư nhiều khi cũng là những
thầy phù thủy. Không khí mê tín, dị đoan khá nặng nề trong xã hội các đời Lý,
Trần thể hiện trong sự tích này cũng như trong nhiều sự tích khác của Thiền
uyển tập anh, Các thiền sư không e ngại lợi dụng tâm lý mê tín ấy để gây ảnh
hưởng đối với cả vua chúa. Đoạn sự tích sau đây thể hiện rõ điều ấy:
“Khi ấy, vua Lý Nhân tông không có con. Tháng hai năm Hội tường đại
khánh thứ ba, có người ở phủ Thanh Hoa tâu rằng: “ở bãi bể có đứa trẻ kỳ lạ,
mới khoảng lên ba, tự xưng là con đích tử của Bệ hạ, Bệ hạ làm điều gì đứa
trẻ ấy cũng biết”. Vua sai quan Trung sứ tới xem, thấy đúng như lời nói, bèn
đón về kinh, cho ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa trẻ thông minh, rất yêu dấu,
muốn lập làm hoàng thái tử. Quần thần cố can ngăn, tâu rằng: “Nếu kẻ kia
thực là linh dị, tất phải thác sinh ở nơi cung cấm, sau mới có thể lập (làm thái
tử) được”. Vua nghe lời. Bèn mở hội bảy ngày bảy đêm để làm phép đầu thai.
Sư (Lộ) nghe tin, tự nhủ rằng: “Đứa trẻ kia là tà ma, mê hoặc người ta quá
đáng. Ta há chịu ngồi yên mà không cứu, để cho nó làm mê hoặc nhân tâm,
rối loạn chính pháp hay sao?” Bèn bảo chị gái giả làm người đi xem hội, ngầm
đem một số hạt châu mà Lộ đã kết ấn vào treo ở trên rèm. Hội tới ngày thứ
ba thì Giác Hoàng bị bệnh, nói với mọi người rằng: “Khắp biên giới trong
nước đều có lưới sắt vây che, tuy muốn thác sinh, sợ không có lối vậy”. Vua
nghi là sư (Lộ) phá mất sự linh nghiệm của bùa chú (của Giác Hoàng), sai đi
lùng, quả nhiên bắt được (chứng cớ), sai đem Lộ trói lại ở lầu Hưng Thánh,
họp quần thần xét xử. Vừa lúc đó, Sùng Hiền hầu đi ngang qua, Lộ năn nỉ:
“Xin ra sức cứu khỏi phải chịu tội, ngày sau xin đầu thai để báo đáp công
đức”. Hầu gật đầu. Đến buổi họp, bề tôi tâu vua rằng: “Bệ hạ vì không có con
cho nên cầu đến kẻ kia thác sinh, thế mà tên Lộ cuồng ngông dám tự ý giải
mất chú thuật, nên dùng phép lớn cực hình để tạ thiên hạ”. Sùng Hiền hầu tâu
rằng: “Thiết tưởng nếu quả Giác Hoàng có thần lực, thì dầu có trăm tên Lộ
giải chú há lại có hại gì đâu? Nay thì trái hẳn lại. Điều đó chứng tỏ Lộ hơn
Giác Hoàng xa. Thần trộm nghĩ như thế thì chẳng thà tha tội cho Lộ để y thác
sinh”. Vua y lời. Sư đến phủ đệ nhà Sùng Hiền hầu, vào chỗ phu nhân tắm,
đến sát mà ghé nhìn. Phu nhân giận quá, mách với hầu. Hầu vốn hiểu ý, để
mặc không hỏi đến, Phu nhân vì thế mà có thai. Lộ dặn Sùng Hiền hầu rằng
đến lúc phu nhân đẻ thì phải báo cho biết trước. Đến khi được tin báo, Lộ bèn
thay quần áo, tắm rửa, bảo học trò rằng: “Mối túc nhân của ta chưa dứt, phải
thác sinh lần nứa ỗ đời, tạm làm quốc vương, đến khi già chết đi sẽ làm tam
thập tam thiên sử. Nếu thấy chân thân ta mục rửa hẳn thì đó là ta đã nhập
vào bùn đất, không còn ở trong cõi sống chết nữa…”
Lời chú thích ở cuối sự tích này lại ghi rằng Lộ đầu thai làm con Sùng
Hiền hầu, về sau được vua nuôi làm con, phong làm thái tử, nối ngôi trở
thành Lý Thần tông, còn Giác Hoàng thì chính lại là hậu thân của Đại Điên.
Qua sự tích này, ta thấy ở dưới tấm màn của những việc kỳ lạ hoang đường
cuộc tranh chấp quyết liệt giữa các nhà sư. Mà cuộc tranh chấp này hình như
còn phản ánh cả sự tranh chấp giữa các nhà quí tộc (Diên Thành hầu và
Sùng Hiền hầu) để giành ngôi thái tử cho con. Tính cách các nhân vật, đặc
biệt là Từ Lộ, đã được miêu tả một cách gọn gàng nhưng rất sinh động. Văn
Thiền uyển tập anh thường là sinh động như vậy, và ít nhiều có phong cách
của truyện dân gian. Cho nên người đời sau thường chép lẫn nhiều sự tích ở
Thiền uyển tập anh vào các tập truyện dân gian đặc biệt là Lĩnh nam chích
quái.
Nếu như Thiền uyển tập anh xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIII,
thì Tam tổ thực lục xuất hiện sớm nhất cũng là vào cuối thế kỷ thứ XIV. Sách
viết về ba vị tổ chi phái Thiền tông Trúc Lâm là Trúc Lâm đại sĩ, Điều Ngự tức
Trần Nhân tông, Phổ Tuệ đại tôn giả Pháp Loa tức Đồng Kiên Cương, Huyền
Quang tôn giả tức Lý Đạo Tái. Vì cũng viết về các vị cao tăng của Thiền tông
như sách Thiền uyển tập anh và cũng chú ý đến thuyết giáo của các vị ấy cho
nên Tam tổ thực lục có giá trị như một tư liệu triết học về Phật giáo đời Trần.
Tuy nhiên, nếu như Thiền uyển tập anh chú ý tới mối quan hệ giữa việc tu
hành của các thiền sư và việc họ tham gia vào những sự kiện ngoài nhà chùa
như đánh giặc giữ nước, xây dựng vương triều, v.v… thì Tam tổ thực lục ít
chú ý tới mối quan hệ ấy. Cho nên viết về Trần Nhân tông mà tác phẩm
không hề đề cập tới hai phen (năm 1285 và năm 1287) chống giặc Nguyên,
tới hai cuộc chiến tranh ái quốc rất anh hùng trong đó vai trò của nhà vua
không phải là nhỏ. Cũng vì vậy mà so với Thiền uyển tập anh thì Tam tổ thực
lục ít giá trị sử học và văn học hơn. Tuy nhiên, Tam tổ thực lục đã ghi lại được
nhiều bài thơ của ba vị tổ phái Trúc Lâm. Do đó mà tác phẩm có tính chất một
tư liệu hiếm quí giúp ta tìm hiểu văn học đời Trần. Vả lại, Tam tổ thực lục
cũng có những đoạn văn kỳ thú, miêu tả nhân vật với những nét khá sinh
động. Trong truyện về vị tổ thứ ba của chi phái Trúc Lâm là nhà sư Huyền
Quang (tên thực là Lý Đạo Tái), có đoạn kể lại việc vua Trần thử thách sự trì
giới của nhà sư như sau:
“Khi ấy sư sáu mươi tuổi. Một hôm nhà vua bảo thị thần và tăng đạo
rằng: Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thì thích
vị ngon, mặc thì thích màu đẹp, ai nấy đều có tình dục. Bọn chúng ta mà ngăn
hãm cái mặt ham muốn ấy chính là để có thể dốc lòng phụng đạo, như thế đã
đành đi một lẽ vậy. Cớ sao vị lão tăng Huyền Quang từ trước đến nay, chỉ có
một lẽ sắc sắc không không, như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng
bụi mờ. Đó là vì ngăn hãm tình dục chăng, hay là vì không có tình dục
chăng?” Có một viên quan văn từ bên cạnh tâu rằng: “Vẽ hổ chỉ vẽ được da,
khó vẽ được xương. Biết người chỉ biết được mặt, khó biết được lòng. Xin
hãy thử để xem như thế nào là đúng”. Nhà vua nhìn xem ai, thì đó là một học
sĩ trẻ, lưỡng quốc trạng nguyên, họ Mạc tên là Đĩnh Chi. Nhà vua cho ý kiến
là phải. Bèn im ắng không hề động đạc, không lộ góc cạnh, ngầm có ý chọn
lấy trong đám cung nữ một người dưới hai mươi tuổi, có cái nõn nà như Phi
Yến, có cái đẹp khéo như Điêu Thuyền. Có một cung nhân tên là Điểm Bích,
hiệu là Tam nương… Nhan sắc rất đẹp, tính lại ham học, cửu lưu tam giáo
không có cái gì là chẳng thông hiểu… Điểm Bích khi tuổi mới lên 9, đã được
tuyển vào trong cung làm nữ cung nhân… Thơ trường thiên ngũ ngôn cứ mở
miệng là thành chương, thơ quốc ngữ lại càng giỏi… Nhà vua khen rằng đó là
nữ thần đồng… Khi ấy nhà vua triệu vào nội điện, ban cho bút trát và bảo
rằng: “Ông sư ấy vốn không có sắc dục, tính nết cương phương, giới hạnh rất
cao. Nàng có nhan sắc, giỏi ngôn từ, lại thông kinh sử. Nàng hãy đến thử
thách ông sư ấy, nếu thấy động tình quyến luyến thì dỗ dành xin được vàng
mang về đây làm chứng cớ. Nếu dối trá thì có tội đấy. Nàng phải kính cẩn mà
làm theo ý chỉ này của trẫm”. Thị Bích lĩnh nhận lệnh chỉ của vua ra đi, đem
theo một nữ tỳ. Đến (chùa) Vân Yên, vào gặp một bà vãi già, khai quê hương
và căn cước, xin xuất gia tu hành học đạo, nhờ gửi lời lên quốc sư (Huyền
Quang). Bà vãi già thường sai Thị Bích sớm chiều dâng nước chè lên quốc
sư. Sư thấy con người này khi động khi dừng có cái vẻ Hằng Nga trên mặt
trăng lả lơi với gió, không phải là hạng phật tử cầu đạo, bèn sai tăng ni
chuyền lời trách bà vãi già, truyền bảo nàng Thị Bích quay về nhà đi lấy
chồng, lập sinh nghiệp, đợi khi về già thì sẽ lại cho đến học đạo.
Thị Bích thấy sư nghiêm túc, khó chuyển lay, bèn nói với đám tăng ni
rằng mình vốn con nhà quan. Cha thu thuế đem về kinh nộp bị mất trộm hết
cả tiền, đương lo phải tội, nàng phải đi khuyến giáo lấy tiền cứu cha. Nay xin
vâng lời ra về, nhưng mong được giúp đỡ. Tăng ni thưa với sư Huyền Quang.
Sư bèn cho nàng một dật vàng để góp vào số tiền mà nàng cần có để giúp
cha đền vào công quĩ. Và Thị Bích được vàng, bái biệt để về.
Về đến kinh, vào gặp vua, quì tâu rằng: “Thiếp vâng ý chỉ của bệ hạ đi
thử quốc sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, ở nhờ một bà vãi già, tự xưng
là con gái nhà dân, xin được học đạo tôn sư. Bà vãi già sai thiếp dâng nước
chè lên cho sư. Được hơn một tháng, sư không hề nhìn, liếc, hỏi han gì cả.
Một hôm vào buổi tranh tối, tranh sáng, sư lên tụng kinh, đến canh ba, sư và
tăng ni ai nấy về phòng mình để ngủ. Thiếp bèn đến bên cạnh phòng của
quốc sư để nghẹ xem động tĩnh, thì thấy quốc sư ngâm bài kệ rằng:
“Vầng vặc giăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngầm sênh.
Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ,
Mầu – Thích – Ca nào thửa hữu tình”.
Ngâm đi, ngâm lại mãi. Thiếp bèn vào tăng phòng, từ biệt sư để về nhà
thăm cha mẹ, hẹn sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ lại ngủ một
đêm, ròi cho thiếp một dật vàng”. Nhà vua nghe lời tâu thì bực bội, không vui
mà nói rằng: “Việc này nếu quả có thực, thì đó là vì ta giăng mắc lưới vây ở
cửa tổ chim mà bắt chim vậy. Nếu việc không có thực thì quốc sư khó tránh
khỏi phải chịu đựng mối ngờ đối với người sửa dép vườn dưa vậy. Bèn mở
hội Vô Già ở phía tây kinh thành, cho mời sư đến, giao cho giữ ngôi mật án
pháp trong lễ ở hội ấy. Cà sa, y bát, pháp khí, tất cả đều đem ra dùng; đồi
mồi, vàng bạc, châu báu la liệt đem ra trang hoàng. Sư thấy vua mời, bèn về
kinh thành yết kiến. Hôm sau, sáng sớm, đến đàn làm lễ. Bốn bên đàn lễ đều
căng lụa quyến vàng, tạp vật thuộc các loại, đèn hương của sáu lễ cúng đều
bày biện đầy đủ cả. Sư đã biết bữa trước bị nhà vua sai cung nữ đến thử
mình, ngẩng mặt lên trời than thở, lên đàn ba lần, hạ đàn ba lần, đứng trống
trải giữa đàn, vọng bái hiền thánh mười phương, tay trái cầm bình ngọc trắng,
tay phải cầm cành liễu xanh, miệng thầm niệm chú, rưới nước phép từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài, khắp đàn làm lễ. Bỗng thấy một đám mây đen
từ phương tốn hiện lên, bụi cát bay che mù mịt cả bầu trời, chỉ một lát lại tan
hết. Tất cả các tạp vật trên đàn làm lễ đều bay đi mất sạch, chỉ đèn hương
của sáu phép cúng là còn lại mà thôi. Các đạo tràng và tất cả mọi người xem
hội thảy đều kinh sợ, thất sắc. Vua thấy phép của quốc sư thông cảm đến cả
trời và đất, bèn rời chiếu lễ, đến lạy, tạ lỗi lầm trước quốc sư. Vua giáng Thị
Bích làm phu quét rửa chùa Cảnh Linh ở trong cung. Từ đó càng thêm tôn
kính nhà sư, gọi là Tự Pháp nghĩa là người nói dõi Phật pháp”.
Tam tổ thực lục viết về sự tích các vị tổ chi phái Trúc Lâm với mục đích
ca tụng công đức và giới hạnh của các thiền sư. Và đoạn truyện trên nhằm
rửa một mối ngờ của người đời đối với thiền sư Huyền Quang. Ở đây không
phải chỉ là chuyện nhà vua muốn thử xem nhà sư có giới hạnh cao hay
không. Việc nàng Thị Bích làm cho Huyền Quang sa ngã đã lưu hành như
truyền thuyết trong đời Trần và sau đó. Vì vậy sách Tam tổ thực lục là sách
của nhà chùa buộc phải viết về việc này và cố tìm cách minh oan. Nhưng
những chi tiết hoang đường về pháp thuật cao cường của thiền sư không có
ý nghĩa thuyết phục. Người ta khó tin có việc trời đất rung động vì pháp thuật
của thiền sư để rồi tạo nên các hiện tượng kỳ quái như được miêu tả. Vả lại,
các hiện tượng kỳ quái ấy nếu có thì cũng chỉ chứng tỏ thiền sư có phép lạ
mà thôi. Các hiện tượng ấy không có thể xác minh được rằng thiền sư chưa
hề tư thông với người cung nữ xinh đẹp kia. Dầu sao, vấn đề chủ yếu cũng
không phải là ở chỗ có sự tư thông ấy hay không. Vấn đề là ở chỗ nhà vua và
Mạc Đĩnh Chi vốn cũng là những người theo đạo Phật mà lại có mối ngờ về
giới hạnh của vị quốc sư, đệ tam tổ chi phái Trúc Lâm. Mối ngờ có cơ sở thực
tế, có cơ sở kinh nghiệm ấy quả là đã đủ mạnh để đánh bạt lòng ngưỡng mộ
đối với nhà chùa và tăng lữ. Mối ngờ ấy lại còn xoáy vào cả hệ thống giáo lý
của Thiền tông mà trung tâm là sắc sắc không không. Vua Trần ở đây tỏ ra
thông minh sắc sảo, Mạc Đỉnh Chi thì hoạt bát, thiết thực. Còn nàng Thị Bích
thì dầu có quyến rũ được nhà sư hay không cũng đại biểu cho tâm lý của
những người dân bình thường, không thích và cũng không theo giới luật diệt
dục, không hiểu và cũng không tin triết học sắc không. Và nếu quả nàng đã
bịa đặt mà vu oan cho nhà sư thì có lẽ nàng cũng không cho rằng làm như
thế là bôi nhọ nhà sư, ví theo lẽ thường thì ai mà chẳng có tình dục. Có tình
dục chưa chắc đã phải là xấu. Có tình dục mà hành động ám muội và giả làm
ra vẻ đạo mạo thì mới là xấu. Cho nên tuy Tam tổ thực lục đã chép việc Thị
Bích vì nói dối vu oan cho nhà sư mà bị giáng phạt, nhưng cũng không miêu
tả nàng như một con người xấu xa độc ác. Cho nên tuy tác giả miêu tả Huyền
Quang như một cao tăng có giới hạnh đáng kính trọng, nhưng cũng lại tỏ vẻ
thông cảm với mối ngờ của vua Trần và Mạc Đỉnh Chi. Nói chung, bút pháp
của Tam tổ thực lục sáng sủa giản dị hơn Thiền uyển tập anh mà nhiều khi
cũng không thiếu phần sinh động.
Khác với Thiền uyển tập anh và Tam tổ thực lục là những tập sách có
nhiều nội dung triết học, Việt điện u linh, Lĩnh nam chích quái và Nam ông
mộng lục là những truyện ký chủ yếu có tính chất sử học và văn học. Sách
Lĩnh nam chích quái do Trần Thế Pháp biên soạn. Chúng ta được biết rất ít về
Trần Thế Pháp và chưa xác định được văn bản Lĩnh nam chích quái của ông.
Hiện nay mới xác định được văn bản này do Vũ Quỳnh và Kiều Phú đời Lê
viết lại. Vì vậy Lĩnh nam chích quái sẽ được phân tích ở phần thế kỷ thứ XV.
Việt điện u linh do Lý Tế Xuyên soạn và viết bài tựa vào năm Khai hựu thứ
nhất đời Trần Hiến tông (1329), Về tiểu sử của Lý Tế Xuyên, chúng ta không
được biết gì ngoài những lời ghi kèm theo bài tựa kể trên. Ở dưới bài tựa có
ghi chức tước của soạn giả là Thủ đại tạng thư, hỏa chính chưởng, Trung
phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ. Việt điện u linh không phải là
một sáng tác phẩm mà là một cuốn sách biên soạn, tập hợp những truyện đã
sẵn có. Ngoài cái nguồn quan trọng là ở các sách Giao chỉ ký, Báo cực truyện
và Đỗ thiện sử ký mà Lý Tế Xuyên hay trích dẫn thì soạn giả còn dựa vào
thần tích các miếu đền và các đạo sắc chỉ phong thần của các vua đời Trần.
Theo Lê Quý Đôn, trong Kiến văn tiểu lục thì tác phẩm gồm có hai mươi tám
truyện. Trong các văn bản Việt điện u linh còn lại đến ngày nay thì số truyện
nhiều ít có khác nhau. Nhưng có thể thấy 27 truyện được chép trong đa số
các văn bản. Điều này xác minh rằng con số do Lê Quý Đôn đưa ra là có căn
cứ. Việt điện u linh (Việt điện: cõi nước Việt, u linh: thiêng liêng) chép sự tích
các vị thần thờ ở các miếu đền. Các vị thần đó hoặc thuộc loại “Lịch đại nhân
quân” như truyện Hai Bà Trưng, truyện Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử,
truyện Phùng Hưng v.v… hoặc các loại “Lịch đại nhân thần” như truyện Cao
Lỗ, truyện Lý Phục Man, truyện Lê Phụng Hiểu, truyện Lý Thường Kiệt v.v…
hoặc thuộc loại “Hạo khí anh linh” như truyện thần núi Tản Viên, truyện thần
đất Bạch Hạc, truyện thần Long Đỗ, truyện thần núi Đồng cổ v.v… Trong
không khí tư tưởng của xã hội phong kiến nói chung, đặc biệt là trong đời
Trần khi mà những truyện mê tín hoang đường còn được nhiều người tin
theo, Lý Tế Xuyên chép sự tích các vị thần đã nêu cao tính chất thiêng liêng
của mỗi vị đối với nhân dân đến cầu đảo tế tự. Trong Việt điện u linh, có
những vị thần có nguồn gốc từ thần thoại dân gian. Thần Hậu Tắc (Xã đàn đế
quân) vốn là vị thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, thần núi Đồng cổ
(Minh chủ chiêu cảm đại vương), thần núi Tản Viên (Hựu thánh hiển ứng đại
vương) v.v… vốn là những vị thần trong thần thoại Việt Nam cổ đại. Lại có
những vị vốn là anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý
Thường Kiệt v.v… được nhân dân lập đền thờ vì lúc sinh thời đã có công với
dân với nước. Trong hầu hết các truyện, các vị thần đều có dịp hiển linh báo
mộng cho vua chúa, quan quân để chỉ rõ điềm lành, dữ, hoặc có khi tham gia
vào những công việc của thế gian, giúp triều đình dẹp giặc trừ họa. Truyện
“Minh chủ linh ứng chiêu cảm bảo hựu đại vương” tức truyện thần núi Đồng
cổ kể sự việc như sau:
“Theo Báo cực truyện chép thì Vương là thần núi Đồng Cổ (ở Thanh
Hóa, tục gọi là núi Khả Phong). Khi xưa, Lý Thái tông còn là thái tử, phụng
mạng vua cha là Thái tổ, đem binh đi đánh Chiêm Thanh, đến Trường Châu
đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, nhà vua chợt thấy
một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiếc bào, tay cầm
binh khí, đến trước mặt nhà vua, cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần Đồng Cổ, nghe
tin thái tử sang đánh phương nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công
nhỏ”. Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy luôn. Hôm sau, tiến quân đến đất
Chiêm. Trận ấy quả nhiên đại thắng. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, thái
tử bèn sai quân sửa sang lễ tạ, rồi rước về kinh đô, để giữ nước hộ dân.
Đang chọn khắp ngoại thành, chưa biết nên lập đèn chỗ nào cho tốt lành thì
đến đêm, thái tử lại thấy thần báo mộng: “Xin lập đền ở bên hữu, trong đại
thành, sau chùa Thánh Thọ”. Thái tử theo lời, cho hưng công xây dựng;
không bao lâu đền dựng xong…”
Thế là thần Đồng cổ đã theo giúp thái tử nhà Lý đi đánh giặc lập công,
và về sau đã được thù lao một cách xứng đáng.
Truyện về Hai Bà Trưng thì có đoạn như sau:
“Vua Lý Anh tông, gặp thời hạn hán, sai Tĩnh giới thiền sư làm lễ cầu
mưa, thì được mưa, trời mát mẻ. Vua mừng lắm, nằm ngủ bỗng mộng thấy
hai người đàn bà, mặt phù dung, mày dương liễu, áo xanh váy đỏ, mũ đỏ,
thắt đai, cưỡi ngựa sắt, theo trận mưa mà đến yết kiến. Vua lấy làm lạ, bèn
hỏi. Thì đáp rằng: “Chúng ta là hai chị em họ Trưng, vâng mệnh thượng đế
làm ra mưa. Vua tỉnh dậy thấy xúc cảm, bèn sắc cho sửa lại đền, sắm lễ vật
để tế lễ. Lại sai sứ rước về phía Bắc trong thành, xây đền Vũ sư để thờ. Sau
hai bà lại báo mộng cho nhà vua xin lập đền thờ ở cổ Lai. Nhà vua nghe theo,
sắc phong là “Trinh Linh phu nhân”
Thế là Hai bà Trưng cũng cảm ứng với lễ cầu mưa của vua nhà Lý và
lại còn theo mưa mà đến thăm nhà vua. Vua đã đáp lại bằng việc dựng đền
thờ và bao phong mỹ tự cho Hai bà. Truyện Chứng an minh ứng hựu quốc
công thì kể như sau:
“Xưa vua Lý Thái tổ đi xem xét các địa phương, đến bến Cổ Sở, thấy
phong cảnh núi sông rất đẹp, tâm thần nhà vua cảm xúc, mới rót rượu xuống
đất, khấn rằng: “Trẫm xem chỗ này nước non đẹp khác mọi nơi, nếu có người
thiêng liêng thì hãy nhận lấy cốc rượu của trẫm tặng cho!” Đêm ấy, vua mộng
thấy một người cao lớn béo tốt, mặt hổ râu rồng, ăn mặc trang nghiêm đến
trước mặt vua, cúi đầu chắp tay nói rằng: “Tôi là người làng này, họ Lý, tên
Phục Man, làm tướng giúp vua Lý Nam Đế, được tiếng trung liệt. Vua giao
cho giữ hai đất Đỗ Động và Đường Lâm, các rợ ở gần đều sợ, không dám
phạm đến bờ cõi, nhân dân được an vui. Khi tôi chết được đức Thượng đế
khen là trung, cho giữ chức như cũ… Vua Ngô Tiên chủ đánh giặc Nam Hán,
vua Lê Đại Hành đánh giặc Tống, mỗi lần ra quân, tôi đều dẫn đội quĩ binh
giúp ngầm cho được thành công mau chóng. Tôi lại phụng mệnh Thượng đế,
đem quân đánh đuổi giặc Chiêm Thành ở trấn Giáp Sơn. Khi tôi đã chết,
được dân làng kính yêu. Họ sợ không có người phòng giữ bọn rợ vào cướp,
mới dựng đên thờ tôi. Vì vậy tôi được phảng phất trong khoảng trời mây. Lúc
có giặc giã, tôi liền chống đánh. Nay gặp bệ hạ loan giá tới đây, tôi xin đến bái
yết”. Nói đoạn liền ngâm mấy câu thơ:
“Thiên hạ toàn mông muội,
Cô vị ẩn thanh danh.
Trung thiên yết nhật nguyệt,
Quang diệu thị chân hình”.
Ngâm xong, biến mất. Thái tổ giật mình tỉnh dậy, nói chuyện cho các
quan nghe. Quan ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm tâu rằng: “Nghe bốn câu
thơ thì rõ ý thần muốn dựng tượng thờ đó”. Thái tổ liền sai lập đền, tạc tượng
theo như hình dáng đã thấy trong mộng. Miếu mạo đàng hoàng, làm phúc
thần một phương”. Thế là Lý Phục Man cảm kích vì chén rượu chuốc mời của
Lý Thái tổ mà từ cõi âm đã hiện về triều kiến nhà vua. Hơn nữa, vị thần ấy đã
ngâm thơ ca ngợi Lý Thái tổ, ví nhà vua như mặt trời, mặt trăng treo cao tỏa
sáng, và ngụ ý nhờ đức huệ của nhà vua thì bản thân mình sẽ được hiển
vinh. Và vua Lý Thái tổ đã đáp ứng nguyện vọng của thần. Qua ba đoạn sự
tích trên đây thì thấy dầu là thuộc loại nào trong ba loại “hạo khí anh linh”
(thần núi Đồng cổ), “nhân quân” (Hai bà Trưng) và “nhân thần” (Lý Phục Man)
mà Lý Tế Xuyên đã sắp xếp thì các vị thần linh đều có giao cảm với cõi đời.
Và các thần linh được nêu trong Việt điện u linh thường hay về gặp gỡ các
vua Ngô, Đinh, Lê và đặc biệt là Lý, Trần để ca ngợi các triều đại ấy hoặc âm
phù cho sự nghiệp đánh giặc, dựng nước của các triều đại ấy. Nhiều khi họ
không giấu giếm mục đích lập công để mong được nhà vua xây dựng hoặc
sửa chữa đền miếu, mong được hưởng sự tế tự lâu dài. Truyện thần Tô lịch
thì kể rằng:
“Khi Lý Thái tổ thiên đô về, thường nằm mộng thấy có ông già đầu bạc
đi thấp thoáng ở trước sân rồng, lạy hai lạy cúi đầu hô mừng: “muôn tuổi”.
Vua lấy làm lạ, hỏi họ tên. Ông già tâu hết khúc nhôi. Vua cười nói: “Vì tôn
thần muốn giữ hương lửa tới trăm năm hay sao?” Đáp: “Cốt mong cho cơ đồ
của hoàng đế bền lâu như Thái Sơn, bàn thạch, thánh thọ vô cương, trong
triều ngoài quận đều được thái hòa, thì lũ chúng tôi chẳng phải chỉ giữ được
trăm năm hương lửa mà thôi đâu”. Nhà vua tỉnh dậy sai quan đến tế lễ, phong
thần làm Quốc đô Thăng Long thành hoàng đại vương. Như vậy là thần Tô
lịch vốn là thổ thần ở thành Đại La, đến khi Lý Thái tổ dời đô về, đã được
phong làm thành hoàng của quốc đô. Theo sự tích thì thần tỏ lòng gắn bó vận
mệnh của mình với vận mệnh của triều đại nhà Lý. Thành ra các vị thần hành
động chẳng khác gì những kẻ bề tôi triều đình ở thế gian này vậy. Và ngay cả
những vị thần vốn có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại hoặc nhân vật truyện
cổ tích lịch sử, thì dưới ngòi bút cua nhà nho cũng ít nhiều biến chất, mất cái
khí thế hào hùng của nhân vật thần thoại, cái phong cách phóng khoáng của
nhân vật truyện cổ tích. Tuy nhiên, đáng chú ý là qua Việt điện u linh, ta thấy
các triều đại từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV đã tìm cách chứng minh rằng
thần linh ở khắp nơi đều hoặc là ủng hộ, hoặc là phục tùng nhà vua. Đặc biệt
các vua nhà Lý thì lại muốn bằng cách ấy, đem lại cho triều đại ánh hào
quang kỳ diệu có tính chất thần linh. Trong không khí tư tưởng lúc đương
thời, khi mà nhân dân ở khắp nơi còn tin ở thần linh, và mỗi địa phương lại có
các vị thần của mình, việc làm trên có tác dụng không nhỏ đối với mọi nỗ lực
củng cố mối thống nhất của nước Đại Việt.
Lý Tế Xuyên, dù tự giác hay không thì cũng đã tham gia bằng cách của
mình vào nỗ lực ấy khi biên soạn Việt điện u linh. Đó cũng là mặt tích cực của
tác phẩm, bên cạnh mặt tiêu cực của những yếu tố mê tín, dị đoan. Lại phải
thấy rằng tác giả muốn phần nào hạn chế những yếu tố này khi chọn lựa các
thần tích. Trong lợi tựa, ông viết: “Thánh nhân xưa nói: Thông minh chính
trực, mới đáng gọi là thần. Không phải hạng dâm thần, tà ma quỉ quái mà lạm
gọi là thần được đâu”. Ông chủ trương ghi chép lại sự tích các vị thần mà ông
cho rằng có công tích rõ rệt và gạt bỏ những điều mê tín quá ư nhảm nhí.
Thái độ ấy lại thể hiện rõ trong đoạn Lý Tế Xuyên viết để tán dương Lý
Thường Kiệt như sau: “Những kẻ chuộng những truyện quỉ thần, đồng cốt để
lừa dối người khác đều bị thái úy trừng phạt rất nặng, quá nửa đều bị sa thải,
thói tục dơ bẩn được rửa sạch” (truyện Thái úy trung phụ công). Lý Tế Xuyên
phân biệt dâm thần và phúc thần tức là phân biệt giữa mê tín và tín ngưỡng.
Dầu là mê tín hay tín ngưỡng thì cũng đều nằm trong phạm vi tư tưởng tông
giáo, tư tưởng thần linh chủ nghĩa. Các vị thần thờ trong miếu đền một khi
được Nhà nước phong kiến công nhận bèn bị coi như những kẻ cúc cung tận
tụy với nhà vua, tượng trưng cho uy thế của giai cấp thống trị. Yếu tố thần kỳ
ở các vị thần này càng nhiều thì càng có tác dụng đề cao uy quyền của vua
chúa thông qua việc đề cao uy quyền của thần linh. Đó là ý nghĩa tiêu cực chủ
yếu của các bản thần tích, các bộ ngọc phả. Và đó cũng là mặt tiêu cực của
Việt điện u linh. Tuy nhiên, phải thấy đây là một hạn chế do điều kiện lịch sử
qui định. Làm sao lại có thể đòi hỏi một người như Lý Tế Xuyên vượt được ra
ngoài tư tưởng thần linh chủ nghĩa và ý thức hệ phong kiến?
Vả lại, cũng cần thấy cho hết ý nghĩa của việc thờ cúng thần linh ở
nước ta xưa kia. Trong các thần linh thờ cúng ở miếu đền có những loại mà
Lý Tế Xuyên gọi là “dâm thần, tà ma, quỉ quái”, lại có những vị mà ông gọi là
“tinh tuý của núi sông”, là “nhân vật kiệt linh”. Và nếu việc thờ cúng thần linh
nói chung thường là mê tín nhảm nhí và phản ánh một tình trạng văn hóa lạc
hậu thì ở nước Đại Việt thời Lý Trần việc ấy có khi lại là hành động đầy ý
nghĩa. Trong cuộc đấu tranh lâu dài để dựng nước và giữ nước của nhân dân
ta, đã lần lượt xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, những anh hùng. Họ vừa
phản ánh những bước nhảy vọt của lịch sử, vừa thúc đẩy những bước nhảy
vọt ấy. Anh hùng của dân tộc phản ánh sự nghiệp của dân tộc. Ở những anh
hùng quá cố đã đúc kết những kinh nghiệm chiến đấu, những đức tính truyền
thống. Việc học tập những kinh nghiệm ấy, việc tu dưỡng theo những đức
tính ấy góp phần làm tăng thêm sức mạnh cho các thế hệ đến sau, và những
anh hùng quá cố vì thế mà sống mãi với đất nước, với dân tộc. Nhưng nhân
dân ta thời xưa không thỏa mãn với một quan niệm như vậy về sự bất tử của
anh hùng, mà còn muốn tin rằng anh hùng đã qua đời vẫn sống mãi một đời
sống thực. Nhân dân ta ngày xưa thờ cúng tổ tiên với ý nghĩa rằng tổ tiên vẫn
sống ở một thế giới khác, bên cạnh hoặc bên trên thế giới này, với niềm tin
rằng tổ tiên vẫn theo dõi, chứng giám hành vi hiếu thảo của con cháu và khi
cần thì phù hộ cho con cháu vượt qua khó khăn gặp nhiều may mắn. Cũng
theo một phương hướng suy nghĩ như vậy mà nhân dân ngày xưa thờ cúng
các vị anh hùng quá cố trong các miếu đền và tôn họ làm thần linh. Đã là thần
linh thì có thể hiển ứng mỗi khi cần thiết. Và các vị anh hùng đời trước thỉnh
thoảng lại trở về thế gian để giúp đỡ người đời sau, nếu họ biết thành tâm
cầu cúng. Việc thờ cúng anh hùng như vậy có tính chất tông giáo và là một
hiện tượng không có gì lạ trong điều kiện xã hội cổ xưa. Nhưng nếu biết tước
đi cái vỏ tông giáo thì sẽ thấy rằng việc thờ cúng thần linh nhiều khi lại bao
hàm những lý tưởng tốt đẹp và những niềm tin tưởng chân thành của nhân
dân ngày xưa. Khi biên soạn Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên chắc đã có lý
tưởng ấy và niềm tin tưởng ấy. Đọc Việt điện u linh, phải có sự thông cảm với
người xưa như vậy thì mới thấy tác giả tham gia vào việc bảo vệ truyền thống
của dân tộc, vào việc củng cố ký ức vững bền về những kỳ tích của dân tộc
trong quá khứ và niềm tự hào chính đáng để vững bước tiến lên trong tương
lai. Với nhận thức như thế thì có thể xác nhận rằng ngoài giá trị sử học ra,
Việt điện u linh còn mang những khía cạnh tích cực thuộc truyền thống tốt
đẹp của văn hóa dân tộc. Hầu hết các vị “nhân quân”, “nhân thần” đều là
người nước ta, những công tích siêu việt của các vị đó há chẳng đủ cho nhân
dân ta tự hào vì nhân vật nước ta hay sao? Các vị thần thuộc loại “hào khí
anh linh” há chẳng đủ biểu dương “khí thiêng sông núi”, của đất nước ta hay
sao? Khi viết sách này, Lý Tế Xuyên có lẽ đã nghĩ như vậy, và nghĩ như vậy
cũng không xa tâm lý nhân dân ta thủa xưa. Bên cạnh quan điểm phong kiến
về siêu nhân, về anh hùng mà chúng ta thấy rõ những thiếu sót và sai lầm, thì
niềm tự hào dân tộc của tác giả đã thể hiện trong hầu hết các truyện, và do đó
nội dung của tác phẩm có những khía cạnh tích cực nhất định. Việt điện u linh
mặc dầu có những nhược điểm, vẫn xứng đáng là một phần trong di sản quí
báu của nền văn hóa cổ nước ta.
Nếu Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên được viết hồi đầu thế kỷ thứ XIV
thì Nam ông mộng lục của Lê Trừng (tức Hồ Nguyên Trừng) lại là một quyển
sách viết vào hồi đầu thế kỷ thứ XV, khi tác giả sống ở Trung Quốc. Tuy vậy
có thể coi sách này như một tập truyện ký đời Trần và Hồ vì tác giả đã sống
và làm quan cuối đời Trần và trong đời Hồ, hơn nữa tác giả đã viết sách này
với tâm trạng của một người đời Trần, Hồ. Cũng như Đại Việt sử lược, sách
Nam ông mộng lục đã được lưu hành ở Trung Quốc từ lâu. Bài tựa của tác
giả có ghi rõ năm Chính thống thứ ba (1438) và “Giao nam Lê Trừng, Mạnh
nguyên” đề tựa. Lê Trừng, tên tự là Mạnh nguyên biệt hiệu là Nam ông, chính
là Hồ Nguyên Trừng, con trưởng Hồ Quí Lý. Sau khi thua trận, cha con Hồ
Quí Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, ghép vào tội phản nghịch mà đem đi
đày. Hồ Nguyên Trừng vì có tài năng kỹ thuật cho nên được tha, sau đó lại
làm quan trong triều đình nhà Minh. Hồ Nguyên Trừng không dám chết vì
nước, điều đó chứng tỏ một khí tiết kém cỏi. Dầu sao, Hồ Nguyên Trừng cũng
không phải là ke chủ động phản bội tổ quốc, mà chỉ là một kẻ chiến bại chịu
khuất phục trước hoàn cảnh. Sách Nam ông mộng lục (ghi chép về giấc mộng
của ông già phương Nam) thể hiện tâm sự nhớ nước của tác giả và mối hoài
niệm về văn vật của nước Đại Việt. Sách gồm 28 truyện ngắn, không những
chép sự kiện lịch sử như thiên thứ nhất (Nghệ vương thủy mạt) chép sự việc
đời Trần Nghệ tông, thiên thứ chín (Dũng lực thần dị) chép việc Lê Phụng
Hiếu phá giặc v.v… mà còn chép những sự việc liên quan đến những nét sinh
hoạt về mọi mặt của xã hội nước ta đời Lý và đời Trần. Có những thiên chép
việc liên quan đến tăng lữ, đạo sĩ và tín ngưỡng như Tăng đạo thần thông
(thiên thứ 11), tức là sự thi phép lạ giữa Giác Hải thiền sư và Thông Huyền
đạo nhân, như Áp lãng chân nhân (thiên thứ 13) tức là việc đạo sĩ họ La dùng
phép thuật dẹp sóng biển cho vua Lý, như Minh Không thần dị (thiên thứ 14)
tức là việc nhà sư Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho Lý Thần tông. Có
những thiên chép sự tích các nhà nho có danh vọng như Văn trinh ngạnh trực
(thiên thứ 7) ca tụng phẩm cách của Chu An, như Trung trực thiện chung
(thiên thứ 20) khen anh em Phạm Ngộ và Phạm Mại vì trung trực mà giữ
được trọn vẹn thân thế. Có những thiên chép sự việc kỳ lạ, lý thú như Y thiện
dụng tâm (thiên thứ 8) tức là truyện thầy lang khéo dùng thì giờ chữa bệnh,
như Cảm khích đồ hành (thiên thứ 17) tức là truyện Trần Đạo Tái đi bộ, như
Thi tửu kinh nhân (thiên thứ 24) tức truyện Hồ Tông Thốc uống rượu khỏe,
làm thơ nhiều. Lại có những thiên đề cập đến các vấn đề thơ văn như Điệp tự
thi cách (thiên thứ 18) nói về lối thơ điệp tự, láy chứ của Trần Thánh tông,
như Thi ý thanh tân (thiên thứ 19) bình luận về tập Đại hương hải ấn của Trần
Nhân tông, như Thi thán tri quân (thiên thứ 27), nói về việc Trần Nguyên Đán
làm thơ tự thán để can vua, v.v… Xem như vậy thì thấy nội dung Nam ông
mộng lục đa dạng hơn nội dung Việt diện u linh.
Truyện Văn trinh ngạnh trực (sự cứng thẳng của ông Văn Trinh) viết
như saụ:
“Ông Chu An, tên hiệu là Tiều Ẩn, người huyện Thượng Phúc, quận
Giao Chỉ, tính ngay thẳng, cứng cỏi, ở nhà chăm đọc sách, học nghiệp tinh
thuần, xa gần đều biết tiếng, học trò đầy cửa đầy nhà, cùng nối gót nhau thi
đỗ, làm quan ở chính phủ. Tính tình ông điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi.
Khoảng năm Chí Nguyên vua Trần Minh vương cử ông làm Quốc tử giám tư
nghiệp, dạy thế tử học, dần dần thăng lên chức Đại học tế tửu. Minh vương
mất, con là Dụ vương chỉ mải chơi bời, lơ là chính sự. Quyền thần khá đông,
làm nhiều việc phi pháp. Ông thường can ngăn, vương không nghe. Ông lại
dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần đều là những kẻ có quyền hành, thời bấy
giờ người ta gọi là Thất trảm sớ. Sớ tâu vào, vương không làm theo, ông bèn
treo mũ áo, bỏ quan về nhà. Về sau, Dụ vương mất, nước loạn. Quần thần
bèn dựng Nghệ vương. Ông nghe tin mừng lắm, chống gậy lên yết kiến. Sau
đó lại xin về làng, lấy cớ tuổi già không chịu nhận chức tước gì cả. Vương
bèn tặng cho hiệu là Văn trinh tiên sinh, dùng lễ hậu tặng mà đưa về. Về sau,
ông mất ở nhà, những người ở đô thành, ai cũng ngửa trông phong độ cao cả
của ông, đều rất thương tiếc. Học trò của ông có người làm quan đến chấp
chính, trường đến thăm hỏi. Ông cho ngồi ở giường dưới, cho cùng nói
chuyện một, hai câu rồi cho về. Nếu câu chuyện hay thì ông mừng, nếu câu
chuyện dở thì ông trách mắng quát tháo, không cho ngồi nói. Ông thanh trực,
nghiêm chỉnh, uy danh lừng lẫy một thời, ai nấy đều kính nể và ca ngợi”.
Truyện này, qua việc miêu tả nhân cách của Chu An, đã phản ánh
được khí phách của nhân sĩ đời Trần. Lời văn súc tích ngắn gọn như văn
chép sử, nhưng lại có tính chất linh hoạt, không những chỉ kể lại được rành
mạch sự việc mà còn miêu tả nhân vật một cách rất sinh động. Nhân vật còn
được miêu tả một cách sinh động hơn trong truyện Y thiện dụng tâm. Truyện
này viết như sau:
“Ông ngoại của Trừng là Phạm công, húy là Bân, vốn nhà đời đời làm
nghề chữa bệnh, ra làm quan với vua Trần Anh vương đến chức Phán thái y
lệnh. Ông thường đem hết gia tư để dành dụm thuốc tốt, tích trữ thóc gạo.
Người đời có ai gặp cảnh côi cút, đói khổ, tật bệnh thì ông cho trú ở trong
nhà, nuôi cơm cháo, chữa chạy cho, dầu cho máu mủ nhầy nhụa cũng không
ngại tránh. Cứ như thế, người ta đến nương nhờ được ông chữa cho khỏe
mạnh rồi mới ra đi, trên giường bệnh không lúc nào hết người.
Bỗng gặp thời buổi liền năm đói kém, dịch bệnh bùng lên. Ông bèn làm
phòng ốc để chứa kẻ khốn cùng. Người đói, người bệnh được ông cứu sống
có đến hơn nghìn. Tên tuổi ông được người đương thời kính trọng.
Sau đó, một lần, có người đến gõ cửa, khẩn cấp mời ông, thưa rằng:
“Tôi có vợ bị băng huyết, máu chảy xối xả, mặt đã tái mét”. Ông nghe nói, vội
ra đi, đến cửa thì gặp sứ giả của nhà vua sai gọi, bảo rằng: “Quí nhân ở trong
cung bị cảm sốt, nóng và lạnh, mời ông đến xem cho”. Ông nói: “Bệnh ấy
không gấp. Nay ở nhà dân có người bệnh nặng, tính mệnh quyết định chỉ
trong khoảnh khắc. Để tôi đi cứu họ đã, không lâu sẽ xin đến” Quan trung sứ
tức giận nói: “Cái lẽ mà kẻ bề tôi phải giữ cho trọn sao lại có thể như vậy
được! Ông muốn cứu tính mệnh của kẻ khác mà không lo cho tính mệnh của
mình sao?” Ông nói: “Đã đành là ta mắc tội với vua rồi. Nhưng không hề gì.
Người dân kia mà không cứu ngay thì chỉ chốc lát sẽ chết, không còn trong
mong vào đâu được nữa. Đến như cái tính mệnh của kẻ bề tôi này thì còn
trông mong được ở nhà vua, may ra có thể được miễn tội chết. Còn các tội
khác thì xin gánh chịu”. Nói xong liền đi cứu người bệnh. Người đàn bà kia
quả nhiên được cứu sống. Ít lát sau, ông lại gặp nhà vua. Vua quở trách. Ông
bỏ mũ ra tạ tội, bày tỏ hết cả chân tâm của mình. Vua mừng mà nói rằng:
“Nhà ngươi quả là bậc lương y. Đã có nghề giỏi, lại có lòng nhân để mà chăm
sóc cho đám con đỏ của trẩm, thực là đáp ứng được lòng mong mỏi của trẩm
vậy”.
Về sau, con cháu ông đều làm quan lương y, có đến hai, ba người lên
đến bậc tứ, ngũ phẩm(3). Người đời khen là không để suy nghiệp nhà.
Nói chung, phạm vi phản ánh của Nam ông mộng lục rộng hơn Thiền
uyển tập anh, Việt điện u linh và Tam tổ thực lục. Nội dung của Nam ông
mộng lục lại nhiều phần hiện thực và ít phần hoang đường hơn các tác phẩm
kia. Nam ông mộng lục có thể giúp ích cho việc tìm hiểu tình hình xã hội và
nhân vật đời Lý, đời Trần. Vì vậy, tuy được viết trong cuộc sống lưu vong của
tác giả ở nước ngoài, Nam ông mộng lục vẫn có vị trí nhất định trong thể loại
tự sự của thời kỳ lịch sử này.
Thể loại tự sự đời Trần không lưu lại được nhiều tác phẩm. Qua một số
ít tác phẩm, có thể các tác giả chủ yếu mới làm việc ghi chép những sự tích
từ đời trước truyền lại hoặc những điều mắt thấy tai nghe, chứ chưa có tham
vọng sáng tác, thậm chí chưa có tham vọng phóng tác. Tuy nhiên, bút pháp
của các tác giả nhiều khi cũng sinh động, và những thành tựu đạt đường qua
một số truyện có thể coi như thuộc về truyền thống nghệ thuật của thể loại tự
sự viết bằng chữ Hán trong lịch sử văn học cổ.
VII. VĂN THƠ NÔM ĐỜI TRẦN
Văn học viết bằng chữ Hán các đời Lý, Trần tuy không sử dụng ngôn
ngữ dân tộc nhưng lại có nội dung rất dân tộc. Vì vậy có thể gọi là văn học
Việt Hán. Dầu sao thì viết bằng chữ Hán, văn học Việt Hán vẫn bị nhiều hạn
chế khi cần miêu tả hiện thực phong phú và sinh động của đất nước Việt, khi
cần bộc lộ tâm tư thầm kín và đa dạng của con người Việt, mà việc miêu tả
hiện thực và bộc lộ tâm tư ấy thì lại chính là yêu cầu đối với văn học dân tộc.
Cho nên tất yếu phải xuất hiện văn học viết mà sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ dân tộc khi đã có thể được ghi bằng một hệ thống chữ viết tương
đối hoàn chỉnh thì bèn được các nhà văn hóa dân tộc sử dụng. Trong nước
Đại Việt, hệ thống chữ viết ấy là chứ nôm, và văn học sử dụng ngôn ngữ dân
tộc đã được viết bằng chữ nôm. Đó là văn học chữ nôm.
Hiện nay, chưa có chứng cứ để khẳng định rằng văn học chữ nôm đã
hình thành trước đời Trần. Vả lại ngay cả tài liệu văn học chữ nôm đời Trần
hiện cũng còn lại rất ít. Tuy nhiên, với số tài liệu ấy vẫn thể khẳng định rằng
vào đời Trần đã hình thành văn học chữ nôm như một bộ phận không thể
thiếu của dòng văn học viết trong nước Đại Việt.
Văn học chữ nôm chỉ có thể xuất hiện khi hệ thống chữ nôm đã tương
đối hoàn chỉnh. Tính từ “nôm” cũng như tính từ “nồm” (gió nồm) có gốc gác ở
danh từ “nam”, và chữ nôm có nghĩa là chữ của nước Nam.
Chữ nôm xuất hiện vào khoảng thời gian nào? Vấn đề không có thể giải
quyết một cách dứt khoát được. Sự hình thành của một thứ văn tự thường
đòi hỏi một thời gian lâu. Đối với chữ nôm thì sự hình thành đó có tính chất tự
phát cho nên lại càng phải trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài. Nhiêu nhà
nghiên cứu văn học đã cho rằng chữ nôm xuất hiện từ thời Bắc thuộc.
Nguyễn Văn San trong cuốn Đại Nam quốc ngữ lại đã đưa ra ý kiến cho rằng
chữ nôm có từ đời Sĩ Nhiếp (thế kỷ II) và viết như sau: “Sĩ Vương bắt đầu
chữ Hán dịch ra tiếng ta, đến chứ thư cưu thì không biết tiếng ta gọi là con
chim gì, chữ dương đào thì không biết tiếng ta gọi là quả gì?” Và chính vì thế
mà thấy rằng không phải bao giờ cũng có thể dịch từ chữ Hán sang tiếng
nước ta hoặc ngược lại không phải bao giờ cũng có thể dịch từ tiếng nước ta
sang chữ Hán. Cho nên gặp những tiếng mà không thể dịch ra chữ Hán được
thì đành phải dùng chữ Hán mà phiên âm vậy. Và từ những chữ Hán dùng để
phiên âm tiếng nước ta ấy đã dần dần hình thành hệ thống văn tự nôm.
Thuyết này được nhiều người về sau nhắc đến và có xu hướng công nhận.
Tuy nhiên, chắc rằng trong thời Bắc thuộc, chữ nôm chưa thể là một thứ văn
có hệ thống tương đối hoàn chinh để có thể ghi âm ngôn ngữ dân tộc. Hệ
thống chữ nôm, văn tự nôm chỉ được xây dựng dần trong quá trình phát triển
của nước Đại Việt độc lập mà thôi.
Lâu nay, bàn về chữ nôm, người ta thường nhắc đến những chữ Bố
Cái trong danh hiệu Bố Cái đại vương mà nhân dân ta dùng để suy tôn Phùng
Hưng vào cuối thế kỷ VIII (bố theo nghĩa Hán tự là phô bày cho mọi người
cùng biết. Cái theo nghĩa Hán tự là cái lọng, cái nắp, nhưng hai chữ ấy được
dùng để phiên âm tiếng ta, và bố là cha mà cái là mẹ). Dầu sao, hai chứ Bố
Cái ấy cũng chỉ thấy viết trong tài liệu đời sau, chứ chưa chắc vào thế kỷ thứ
VIII thứ IX đã có ai viết hai chữ ấy để ghi lại danh hiệu vốn truyền khẩu trong
nhân dân. Gần đây, có ý kiến cho rằng quả chuông do Viện Bảo tàng lịch sử
vớt được ở Đồ Sơn trên đó có khắc hai chữ nôm Ông Hà (tên đất) hình như
đã được đúc vào khoảng cuối thế kỷ thứ XI, tức là vào đời Lý Nhân tông. Đây
là một giả thiết cần xác minh thêm. Có một tài liệu cổ khác về chữ nôm là văn
bia chùa Báo Ân (xã Tháp Miếu, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú), khắc năm Trị
Bình Ứng Long thứ 5 đời Lý Cao Tông, tức là vào năm 1209. Trong văn bia
ấy có các tên đất viết bằng chữ nôm như Đồng Hấp, Đồng Chài, Đường Sơn,
Đồng Nhe, oản, sự điền, v.v… Hiện nay, có lẽ đây là tài liệu cổ nhất mà ta biết
được về văn tự nôm. Trước đây, có người nói đến tấm bia đề năm 1343, ở
núi Hộ Thành Sơn (Ninh Bình) trong đó có khắc 20 tên làng bằng chữ nôm.
Nhưng tấm bia ấy hiện chưa tìm thấy lại. Tài liệu đích xác về chữ nôm thế kỷ
XIV có thể thấy trong Đại Việt sử lược. Trong sách này có câu nói của Nguyễn
Dương thóa mạ chức Điện tiền chỉ huy sứ là Vũ Đái như sau: “Điện tiền là Vũ
Cứt chứ không phải là Vũ Đái! Sao lại tham của người mà không đoái tới
công nghị?”. Âm “đái” vốn có trong Hán tự, nhưng ở trong câu này chữ đái đã
được dùng với nghĩa nôm, còn âm cứt thì tác giả đã dùng chứ cát trong Hán
tự để ghi lại.
Sách của người Trung Quốc hồi thế kỷ XIV cũng có khi đã dùng Hán tự
để ghi âm Việt, Lê Quý Đôn, trong “Kiến văn tiểu lục” (Thể lệ thượng) có dẫn
một đoạn trong “Sứ Giao Châu tập” của Trần Phu, sứ thần nhà Nguyên, viết
về ngôn ngữ nước ta. “Sứ Giao châu tập” xuất hiện đầu thế kỷ thứ XIV. Vì vậy
tài liệu trong sách ấy có thể phần nào giúp cho việc tìm hiểu ngữ âm nước ta
đời Trần. Đoạn văn mà Lê Quý Đôn dẫn từ “Sứ Giao châu tập” là như sau:
“Tiếng nói líu lo, nói nhanh mà bổng, rất giống tiếng chim. Dưới đây kể
đại khái mấy tiếng nói:
Thiên = bột lỗi (trời)
Địa = đát (đất)
Nhật = phù bột lỗi (mặt trời)
Nguyệt = bột văn (mặt trăng)
Phong = giáo (gió)
Vân = mai (mây)
Sơn = cán ôi (quả núi)
Thủy = lược (nước)
Nhãn = mạt (mắt)
Khẩu = mãnh (miệng)
Phụ = cha (cha)
Mẫu = na (nạ, mẹ)
Nam tử = can đa (con giai)
Nữ tử = can ái (con gái)
Phu = trùng (chồng)
Thê = đà bị (đàn bà, vợ)
Hảo = lãnh (lành, tốt)
Bất hảo = trang lãnh (chẳng lành)
Ở đây, Trần Phu đã phiên âm tiếng Việt không được chính xác lắm, vì
là người ngoại quốc mà cũng chỉ ở nước ta trong một thời gian ngắn khi đi sứ
mà thôi. Có điều đáng chú ý là qua sự việc trên đây chúng ta thấy rằng quan
lại Trung Quốc thường dùng chữ Hán để phiên âm tiếng nước ta. Xét cho kỹ
thì đó là qui luật chung, và ngày nay khi cần thì chúng ta cũng phiên âm tiếng
ngoại quốc bằng thứ chữ của nước mình. Do đó có thể cho rằng trước kia,
trước sứ thần Trần Phu, thì chữ nôm một phần đã được quan lại Trung Quốc
đặt ra từ trong thời Bắc thuộc. Quan lại Trung Quốc khi sang nước ta thường
vấp phải một số từ trong tiếng Việt mà họ không thể dịch ra chữ Hán mà cũng
không thể bỏ qua trong công việc hành chính của họ. Và khi đó, họ đã dùng
ngay chữ Hán để ghi những âm Việt ấy. Khi gặp những tên người, tên đất,
tên loài vật, tên sản phẩm của nước ta mà âm thanh có thể tìm thấy trong kho
âm thanh Trung Quốc thì họ dùng ngay chữ Trung Quốc có âm thanh tương
ứng để ghi lấy. Khi gặp những trường hợp mà âm thanh không thể tìm được
trong kho âm thanh Trung Quốc thì họ phải chế biến chữ Trung Quốc như thế
nào đấy để ghi âm tiếng Việt… Trong trường hợp thứ nhất, thí dụ như một
(con số) thì họ có thể dùng chữ một (mất để ghi âm hoặc như qua (qua lại) thì
họ có thể dùng chữ qua (vũ khí) để ghi âm. Trong trường hợp thứ hai, thí dụ
như vậy (trợ ngữ từ) thì họ có thể dùng chứ phi (lớn) để ghi âm, hoặc như sét
(sấm sét) thì họ có thể dùng chữ liệt (oanh liệt) để ghi âm v.v… Chúng ta
không có thí dụ cụ thể về cách ghi âm tiếng Việt của quan lại Trung Quốc thời
Bắc thuộc. Nhưng cách ghi âm tiếng Việt của sứ thần nhà Nguyên là Trần
Phu cũng cho ta khái niệm về việc làm của họ. Có lẽ họ đã ghi âm tiếng Việt
một cách chính xác hơn Trần Phu, vì họ ở nước ta lâu hơn (có người ở đến
hàng mấy chục năm và tiếp xúc với nhiều tầng lớp người nước ta hơn.
Văn tự nôm – hay nói cho đúng hơn những chữ nôm thời Bắc thuộc –
không phải chỉ do người Trung Quốc chế tác ra. Các tầng lớp nho sĩ và tăng
lữ người Việt lúc đương thời chắc cũng đã tham gia vào việc đó và tất nhiên
là cách ghi âm của họ lại chính xác hơn cách ghi âm của quan lại Trung
Quốc. Dầu sao, trong hoàn cảnh đất nước không được độc lập, thì ngôn ngữ
dân tộc tất nhiên bị bọn thống trị coi khinh và thứ chứ để ghi chép ngôn ngữ
đó không được coi trọng. Một số chữ nôm có thể được dùng ít nhiều trong
các sách Hán, xen kẽ với chữ Hán, để bổ sung cho chữ Hán. Và chắc là chưa
thể có được một hệ thống văn tự nôm riêng biệt tách khỏi chữ Hán, và được
sử dụng độc lập.
Việc hình thành hệ thống chữ nôm như một thứ văn tự độc lập chỉ có
thể là hiện thực của thời kỳ nước Đại Việt độc lập. Kể từ thế kỷ thứ X, khi dân
tộc được độc lập thì giai cấp phong kiến nước ta vẫn coi chữ Hán như là văn
tự chính thức của Nhà nước và chữ nôm vẫn đôi khi được sử dụng trong
công văn để bổ sung cho chữ Hán mỗi khi cần thiết.
Tuy Nhà nước phong kiến không hề muốn nâng chữ nôm lên địa vị văn
tự chính thức, nhưng từ thế kỷ thứ X trở đi, lịch sử lại yêu cầu có một thứ văn
tự dân tộc có thể sử dụng riêng biệt, độc lập với Hán tự.
Để xây dựng Nhà nước của mình, giai cấp phong kiến phải xây dựng
tài chính kinh tế, phải tổ chức quân đội cũng như công viêc hành chính, do đó
phải làm sổ bạ về cương giới, về đơn vị cai trị, về ruộng đất, về dân số, về tài
sản cống nạp v.v… Ngay trong thời Bắc thuộc, quan lại Trung Quốc cũng phải
làm những việc đó và đã thấy nếu như chỉ dùng chữ Hán thì không đủ. Trong
thời độc lập, giai cấp phong kiến Đại Việt tất nhiên đã tổ chức bộ máy Nhà
nước của mình một cách chặt chẽ hơn vì nó có điều kiện thâm nhập vào nhân
dân hơn quan lại Trung Quốc trước kia. Vì vậy khi làm những việc ấy, người
ta càng thấy rõ hơn nhược điểm của Hán tự khi được dùng như một thứ công
cụ của bộ máy Nhà nước. Cho nên, dựa vào cơ sở có từ trước, tầng lớp có
học trong giai cấp phong kiến đã bổ sung, chỉnh lý dần dần, làm cho chữ nôm
phù hợp với ngôn ngữ dân tộc hơn và trở thành một hệ thống văn tự hẳn hoi.
Công việc này đã được tiến hành trong khí thế xây dựng đất nước của dân
tộc ta. Những người có đóng góp vào việc nâng chữ nôm lên trình độ của một
hệ thống văn tự đã ít hoặc nhiều, tự giác hoặc không tự giác, hành động dưới
ảnh hưởng của ý thức dân tộc. Đến khoảng các thế kỷ thứ XII và thế kỷ thứ
XIII, chữ nôm đã đầy đủ khả năng để ghi âm ngôn ngữ dân tộc cho nên
phong trào thơ nôm khi đó mới có điều kiện để bắt đầu phát triển.
Lẽ ra, với những thành tựu đạt được, chữ nôm đã có điều kiện để, từ
lâu, trở thành một thứ văn tự hoàn chỉnh. Chỉ cần Nhà nước chính thức công
nhận chữ nôm và tổ chức tiêu chuẩn hóa chữ nôm. Nhưng điều đó đã không
xảy ra. Đến cuối thế kỷ thứ XIV, Hồ Quí Ly nắm chính quyền, thi hành nhiều
cải cách. Nhưng Quí Ly cũng chưa dám mạnh dạn đặt vấn đề tiêu chuẩn hóa
chữ nôm và công nhận chữ nôm là văn tự chính thức của Nhà nước, tuy ông
rất chú ý đến ngôn ngữ dân tộc và chữ nôm, lại có dịch thuật và sáng tác
bằng chữ nôm. Sau này, Lê Thánh Tông có khuyến khích sáng tác thơ nôm,
Trịnh Kiểm có lần viết công văn bằng chữ nôm, Lê Quí Đôn có lần làm tờ khải
lên chúa Trịnh bằng chữ nôm và Nguyễn Huệ đã có lúc dành địa vị cho chữ
nôm trong khoa cử, nhưng chưa bao giờ chữ nôm được Nhà nước phong
kiến chính thức coi là đối tượng của một sự nghiên cứu và tu chính nghiêm
túc. Trong lịch sử cũng có những người chú ý xác định tiêu chuẩn viết chữ
nôm. Pháp tính (?) viết Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (thế kỷ XVII), Ngô Thời
Nhậm viết Tam thiên tự giải âm (thế kỷ XVIII), Nguyễn Văn San viết Đại nam
quốc ngữ (thế kỷ XIX) là những học giả có đóng góp nhiều hơn cả vào việc
xây dựng chữ nôm. Dầu sao, đó cũng chỉ là những cố gắng của từng cá nhân
và chưa hề được Nhà nước xác nhận. Vì vậy, chữ nôm vẫn cứ ở tình trạng
một thứ văn tự hình thành một cách tự phát.
Những người chế tác ra chữ nôm đại khái cũng dựa vào cách thức như
lục thư (sáu lối viết) của Trung Quốc. Tất nhiên là không dùng đến lối tượng
hình và lối chỉ sự, vì nếu làm như vậy thì lại đặt ra chứ mới, chứ không phải là
xuất phát từ chữ Hán mà chế tác chữ nôm.
Những tiếng Việt nào có thể tìm thấy âm trong tiếng Trung Quốc hoặc
âm na ná trong tiếng Trung Quốc thì người ta cứ dùng nguyên hình chữ
Trung Quốc. Ở đây có ba trường hợp. Hoặc là tiếng Hán Việt thì nghĩa và âm
ở hai thứ ngôn ngữ Hán và Việt đều là một: tài, mệnh, chính v.v… Hoặc là
tiếng Việt vốn có nguồn gốc Hán thì nghĩa vẫn là một nhưng âm đã hơi khác
một chút: cuộc (cục), ghế (kỷ), mùa (vụ) v.v… Hoặc là tiếng Việt không có gốc
Hán nhưng âm giống với âm một chữ Hán nào đó: qua, lại, một.
Những tiếng Việt nào mà âm không thể tìm thấy trong tiếng Trung Quốc
thì người ta theo cách thức của lục thư (trừ lối tượng hình và lối chỉ sự). Hoặc
là hội ý như: trời, đất. Hoặc là chuyển chú như: trường, trưởng. Hoặc là hình
thanh như: trăm, năm, đến. Lối hình thanh là lối hay dùng nhất. Có khi lại kết
hợp hội ý và hình thanh với nhau như: lời, ngón.
Trong khi chế tác chữ nôm người ta lại thường hay giản hóa đi cho tiện.
Như thời, có thể viết là (trong chữ người). Trong lối hình thanh người ta lại
hay dùng bộ của chữ Hán thay cho chữ: như vướng (bộ mịch), ngọn (bộ thảo)
v.v… Sau cùng, trong chữ nôm lại hay có lối dùng dấu “nháy, nháy” để tỏ ý
rằng khi đọc thì lái âm thanh chệch đi một chút, thí dụ như (ba vi) nếu viết thì
đọc là bơ vơ.
Nói chung, cách chế tác chữ nôm không phải là không theo những
nguyên tắc. Nhưng vì không được tiêu chuẩn hóa, không được hệ thống hóa
và cố định hóa trong một bộ tự vị có giá trị trong toàn quốc, cho nên chữ nôm
có nhiều nhược điểm. Những nhược điểm chính là tính chất không cố định và
không thống nhất. Có khi cùng một chữ Hán mà có thể ghi hai tiếng Việt khác
nhau, như thì có thể đọc là vụ cũng được mà đọc là mùa cũng được. Có khi
cùng một tiếng Việt mà khi viết ra chữ nôm lại có thể có hai lối khác nhau,
như đến thì viết là cũng được mà viết là cũng được. Ngoài ra có những
trường hợp, vì ở tiếng Trung Quốc không có âm tương tự cho nên trong khi
dùng lối hình thanh người ta đã đặt ra những chữ rất khó đọc, thí dụ như phải
đọc là mướp (chữ vốn phải đọc là pháp) và như trên đã giới thiệu (ba vi có
nháy nháy đọc là bơ vơ), cái lối dùng dấu “nháy nháy” không được khoa học
chút nào. Vì có những nhược điểm đó, cho nên người ta luôn luôn phải dựa
vào gốc chữ Hán để xác minh chữ nôm và không thể học chữ nôm một cách
độc lập, tách khỏi việc học chữ Hán được. Muốn đọc được chữ nôm thì phải
tương đối khá về chữ Hán đã, và lại phải có tài đoán giỏi nữa. Do đó sự phổ
cập chứ nôm bị hạn chế.
Mặc dầu còn có nhược điểm, nhưng chữ nôm cũng đã đáp ứng được
phần nào nhu cầu phát triển văn hóa của dân tộc. Có chữ nôm, văn học dùng
ngôn ngữ dân tộc không chỉ dừng lại ở trình độ một nền văn học truyền khẩu.
Có chữ nôm, đã xuất hiện văn học viết sử dụng ngôn ngữ dân tộc: văn học
chữ nôm. Và văn học chữ nôm đã hình thành trong đời Trần.
Hiện nay chúng ta còn giữ được một số văn bản được ghi là thuộc kho
tàng thơ văn nôm đời Trần mà trước hết phải kể đến Cư trần lạc đạo phú của
Trần Nhân tông (thế kỷ thứ XIII) và Hoa Yên tự phú) của sư Lý Đạo Tái (thế
kỷ thứ XIV). Các tác phẩm này được ghi lại trong những văn bản của nhà
chùa, cho nên bảo tồn được lâu dài. Một là vì nhà chùa trong đời Lý, đời Trần
được tự do khắc bản in, cho nên các tác phẩm không chỉ được chép tay mà
còn được in, và khi đã in ra thì có nhiều bản. Đã có nhiều bản để ở nhiều
chùa thì dầu mất bản này cũng còn bản khác. Hai là những tác phẩm ấy được
các nhà sư truyền cho nhau từ đời này sang đời khác như là tài sản thiêng
liêng không chịu để cho mất đi. Ba là những tác phẩm ấy không bị chính
quyền phong kiến tìm cách phá hủy, vì Phật giáo chưa hề bị đàn áp trong suốt
10 thế kỷ của nước Đại Việt độc lập. Cho nên trong khi nhiều tác phẩm nôm
khác có thể bị chúa Trịnh thiêu hủy (thế kỷ thứ XVII) thì những tác phẩm được
lưu trữ trong nhà chùa vẫn giữ lại được. Bốn là, trải qua các cuộc chiến tranh
xâm lược của giặc Minh, giặc Thanh hoặc các cuộc nội chiến phong kiến giữa
Lê Mạc, Trịnh Nguyễn v.v… nhà chùa vẫn là nơi ít bị đụng chạm tới và tài sản
của nhà chùa, trong đó có tài sản văn hóa, ít bị tàn phá hơn cả. Như vậy thì
có thể tạm tin rằng Cư trần lạc đạo phú, Hoa Yên tự phú là tác phẩm từ đời
Trần còn lưu lại đến nay. Tất nhiên, trải qua nhiều lần sao chép lại, khắc bản
in lại, những văn bản ấy đã phải chịu đựng những sự sữa chữa, thay đổi. Và
đối với các văn bản nôm từ đời Trần truyền lại đến nay có nhiều vấn đề đặt ra
cho khoa văn bản học. Sau này dựa trên những thành tựu của văn bản học,
chắc rằng giới nghiên cứu văn học sẽ có điều kiện khai thác một cách sâu sắc
hơn những tác phẩm văn học nôm vào loại cổ nhất ấy của nước ta. Ở đây
hãy giới thiệu một cách sơ lược các tác phẩm có thể tạm coi là thuộc đời Trần
ấy.
Bài phú nôm Cư trần lạc đạo gồm mười hội (tức mười đoạn tương đối
độc lập nhau), cuối cùng có một bài kệ chữ Hán viết theo thể thơ tứ tuyệt. Tư
tưởng của bài phú là tư tưởng quen thuộc của Thiền tông: nếu dứt bỏ dục
vọng, luyện được cái tâm thanh tĩnh hư vô thì dầu ở đâu vẫn cứ có thế đắc
đạo. Và “Cư trần lạc đạo” có nghĩa là ở trong cõi bụi mà vẫn vui đạo Thiền.
Mở đầu đệ nhất hội, bài phú viết: “Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm,
Muôn nghiệp lắng, an nhàn thể tính; Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm”. Như thế là
ở ngay giữa thành thị mà vẫn giữ được thân tâm tự tại, thoát khỏi muôn vàn
nghiệp chướng thì cần gì phải tìm lên tu ở chốn núi rừng. “Áng tư tài, tính
sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Giơi Yên Tử. Răn thanh sắc niềm đình chẳng
chuyển, lọ cho ngồi Am sạn non Đông” (đệ tam hội). Vấn đề là ở chỗ luyện
được tính tình sáng suốt, vấn đề là ở chỗ kìm giữ được nỗi niềm dục vọng
chứ không phải là ở chỗ lánh về núi xa Yên Tử, ở trong am vắng non Đông.
Luận điểm này quán xuyến toàn bộ bài phú và phù hợp với tên đặt cho tác
phẩm. Bên cạnh luận điểm chủ đạo ấy, có một luận điểm khác cũng quan
trọng. Đã gọi Phật là tâm, tâm là Phật, thì chẳng phải đi cầu đạo ở đâu xa.
“Tĩnh thổ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương. Di đà là tính sáng
soi, mỗ phải nhọc tìm Cực lạc” (đệ nhị hội). Vậy thì vấn đề là có “lòng trong
sạch”, là có “tính sáng soi” Tây phương, Cực lạc chính là cái tâm. Và “Bụt ở
cùng nhà, chẳng phải tìm xa, Nhân khuy bản nên ta tìm bụt” (đệ ngũ hội). Vì
thiếu căn bản trong cái tâm của mình cho nên mới đi tìm đạo ở đâu đâu. Chứ
nếu như đã rèn được cái tâm thì hà tất phải đi tìm giáo điều ở các vị tổ sư đời
trước. Đã giác ngộ chân không, đã giữ vững căn khí thì ta tự tìm thấy cách tu
của ta và “Cơ quan tổ giáo, tuy khác nhiều đường, chẳng khác mỗ cương”
(đệ cửu hội). Cho nên “chỉn xá nói tự sau Mã tổ, ắt đà quên thủa trước Tiêu
hoàng” (đệ cửu hội). Chẳng phải noi theo giáo điều có từ sau Mã tổ, hãy quên
phắt giáo điều có từ trước Tiêu hoàng. Luận điểm này cũng quán xuyến toàn
bộ bài phú. Hai luân điểm trên kể ra cũng không có gì đặc biệt, vì đã từng
được các nhà sư đời Lý đời Trần luôn luôn nêu lên. Dầu sao, giá trị của bài
phú, xét cho kỹ, lại không phải là ở chỗ phát biểu được tư tưởng gì mới mẻ
của Thiền tông. Giá trị của bài phú trước hết là phản ánh được những nét
trong hiện thực dân tộc đời Trần. Miêu tả cảnh sống giản dị của nhà tu hành,
bài phú viết: Ăn rau, ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thủa đắng cay. Vận
giẻ, vận sui, thân căn có ngại chi đen trắng. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa
gian lều quí nớ thiên cung. Dầu hay miễn thửa nghĩa nhân, ba phiến ngõa yêu
hơn lầu các” (đệ nhị hội); Áo miễn chăn, đầm ấm qua mùa, hoặc kim hoặc chỉ.
Cơm cùng gạo, đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thô… Cầm vốn thiếu huyền, xá
đàn sách xoang vô sinh khúc. Địch chẳng có lỗ, cũng bấm chơi khúc “Thái
bình ca” (đệ ngũ hội). Trần Nhân tông là một nhà tu hành, vì vậy ông có thể
hiểu được cách sống chay tịnh của nhà chùa. Nhưng từ cách ăn, cách mặc,
từ quần áo đến cơm gạo, từ nhà ở cho đến chăn chiếu mà ông nói đến ở đây
khiến cho không ai ngờ được rằng tác giả đã từng làm vua, và lúc về già tuy
có đi ở chùa nhưng vẫn là Thái thượng hoàng. Lối sống giản dị như thế gián
tiếp phản ánh lối sống thôn dã thời xưa, và so với lối sống thôn dã mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Hàng (thế kỷ thứ XVI) hoặc Nguyễn Công Trứ
(thế kỷ thứ XIX) miêu tả thì không khác nhau là mấy. Bài phú còn cho thấy
rằng Trần Nhân tông khi đã đi tu rồi thì sống không xa cách nhân dân, tuy vẫn
có uy quyền của Thái thượng hoàng. Điều này có thể cho một khái niệm về
quan hệ gần gũi của ông với nhân dân khi ông còn đang làm vua. Và đó cũng
là một trong những yếu tố giải thích sự thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
chống Nguyên (năm 1285 và năm 1287), mà Trần Nhân tông là một trong
những người lãnh đạo chủ chốt. Cư trần lạc đạo phú ngoài việc phản ánh
những nét nhất định trong hiện thực dân tộc đời Trần như vậy lại có giá trị ở
chỗ bước đầu khẳng định ngôn ngữ văn học dân tộc. Tất nhiên, vì Cư trần lạc
đạo phụ truyền qua bảy trăm năm, văn bản nhiều lần in đi, khắc lại hoặc sao
đi chép lại cho nên khó mà có thể giữ được nguyên bản đời Trần. Rất có thể
là nhiều người đời sau đã phần nào sửa chữa để cho tác phẩm được trau
chuốt hơn. Nhưng với qui cách của thể phú, từ niêm, vận đến thanh, luật, từ
cách bố cục đến phép đối xứng, mà tất cả đều rất chặt chẽ thì lời văn tất là
khá xác định từ đâu. Và người đời sau dầu có muốn thay đổi sửa chữa nhiều
thì cũng khó. Vì vậy, chắc rằng văn bản hiện nay không khác xưa nhiều lắm.
Có khác nhiều chăng là về mặt ngữ âm: chắc rằng ngày nay chúng ta đọc bài
phú theo âm thanh không giống hẳn với âm thanh thế kỷ thứ XIII. Dầu sao thì
với một văn bản như vậy, chúng ta vẫn có thể thấy những thành tựu về việc
xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trong đời Trần. Qua những đoạn như:
“Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm. Muôn nghiệp lắng, an nhàn thể tính.
Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm. Tham, ái, nguồn đình, chẳng còn châu yêu,
ngọc quí, Thị, phi, tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt, oanh ngâm. Chơi
nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý. Biết đào hồng hay
liễu lục, thiên hạ năng mỗ chủ tri âm” (đệ nhất hội), như: “Miễn được lòng rồi,
chẳng còn pháp khác. Gìn tính sáng, tính mới hầu an. Nén niềm võng, niềm
đành chẳng thác, Dứt trừ nhân ngã, thời ra tướng thực kim cương. Đình hết
tham sân, mới lẻo lòng mầu viên giác” (đệ nhị hội), như: “Miễn cộc một lòng,
thời rồi mọi hoặc. Chuyển tam độc mới chứng tam thân. Đoạn lục căn nên trừ
lục tặc. Tìm đường hoán cốt, chỉn xá hay phục dược luyện đan. Hỏi pháp
chân không, hề chỉ ngại lánh thanh chấp sắc. Biết chân như, tin bát nhã, chớ
còn tìm Phật tổ tây đông. Chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh
Thiền nam bắc” (đệ tứ hội), hoặc như các đoạn văn đã dẫn ở trên kia thì thấy
tác giả đời Trần đã đặt được những nền tảng vững chắc cho ngôn ngữ văn
học dân tộc. Phép đối xứng mà tục ngữ thường dùng thì ở đây, với thể phú lại
được đề lên theo một yêu cầu phức tạp hơn. Và chính là qua khuôn khổ ấy
mà ngôn ngữ hàng ngày đã được loc lựa, nhào nặn lại để trở thành một thứ
ngôn ngữ trau chuốt về ý nghĩa, về âm thanh, về nhịp điệu. Về mặt từ vựng,
Cư trần lạc đạo phú cũng là một đối tượng nghiên cứu bổ ích. Ở đây, những
từ gốc Hán, đặc biệt là những thuật ngữ liên quan đến triết học, tư tưởng,
nghệ thuật, v.v… đã được phối hợp một cách khá linh hoạt với các từ gốc
Việt. Tất nhiên, việc dùng từ gốc Hán có chỗ còn sượng hoặc không được
thanh thoát. Thí dụ như: nết dụng sơn lâm; niềm đình chẳng chuyển; ba phiến
ngõa yêu hơn lầu các, cầm vốn thiếu huyền, thiên hạ năng mỗ chủ tri âm…
Những từ gốc Hán mà khó đặt vào câu tiếng Việt hoặc không cần thiết vay
mượn để bổ sung cho tiếng Việt như thế sẽ phải nhường chỗ cho từ gốc Việt
trong quá trình tiến lên của ngôn ngữ văn học. Còn những từ gốc Hán mà tích
cực, tức là cần thiết phải đưa vào để bổ sung cho kho từ vựng của ngôn ngữ
dân tộc thì lại dần dần được Việt hóa sâu sắc hơn. Trong Cư trần lục đạo
phú, tác giả đã ít nhiều tham gia – tự giác hoặc không tự giác – vào việc Việt
hóa ấy. Ở trong đa số các câu thì vị ngữ thường là dùng từ gốc Việt. Các từ
gốc Hán đã bị khuôn vào kết cấu ngữ pháp Việt lại thường bị lôi cuốn theo ý
nghĩa của vị ngữ gồm từ gốc Việt, cho nên dần dần chúng đã được Việt hóa.
Và các từ gốc Hán được Việt hóa đã làm cho kho từ vựng của ngôn ngữ văn
học ngày càng phong phú.
Tất nhiên, khi nói đến ngôn ngữ văn học của các tác phẩm nôm thì
trước hết phải kể đến ảnh hưởng của ngôn ngữ dân gian. Trong Cư trần lạc
đạo phú không thấy hiện rõ dấu vết của tục ngữ ca dao. Nhưng nhiều từ ngữ
trong ấy như đầm ấm qua mùa”, “đói no đòi bữa” “một sức dùi mài” “núi
hoang rừng quạnh”, “ngựa cao tán cả” v.v… thì rõ ràng là từ ngữ quen dùng
trong nhân dân. Những khẩu ngữ ấy có giá trị biểu hiện rất sâu sắc và góp
phần làm nên tính hình tượng của tác phẩm.
Cư trần lạc đạo phú là một trong những tài liệu hiếm giúp cho việc tìm
hiểu sự hình thành văn thơ nôm. Và chỉ xét riêng về mặt này thôi thì tác phẩm
cũng có ý nghĩa văn học không thể coi nhẹ.
Bên cạnh Cư trần lạc đạo phú, hình như Trần Nhân tông còn là tác giả
của bài “Đắc thú lâm tuyên thành đạo ca”. Giả thiết như vậy là vì trong các
văn bản cổ, bài này thường chép liền ngay sau Cư trần lạc đạo phú. Dầu sao
thì đây rất có thể cũng là tác phẩm đời Trần. Đáng chú ý là bài ca viết theo lối
thơ bốn chữ, giống như văn bốn trong thơ ca dân gian. Sau đây là một đoạn:
“Sinh có nhân thân,
Ấy là họa cả.
Ai hay cộc được,
Mới rằng là đã.
Tuần nay mà ngẫm,
Ta lại xá ta.
Đắc ý trong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,
Phú quí chẳng màng.
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhàn hạ.
An bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân,
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hú hí,
Làm bạn cùng ta,
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỉ xả,
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước thay hoa,
Thờ phụng bụt trời
Đêm ngày hương hỏa.
…
Bài ca gieo vần trắc và từ đầu đến cuối chĩ gieo một vần. Khác với Cư
trần lạc đạo phú, bài ca ít dùng từ Hán khó hiểu. Như thế thì một phần cũng
có lẽ là vì ở đây tác giả ít nói về triết lý Phật giáo. Qua tác phẩm có thể thấy rõ
ảnh hưởng của văn học dân gian vào bước đầu xây dựng văn học nôm. Dùng
thể vãn (hoặc nói lối) vốn rất quen thuộc trong văn học dân gian, tác giả đã
thoát ra khỏi sự gò bó của những thể cách phức tạp thường thấy trong các
thể loại Hán văn. Văn học nôm trên con đường tiến triển của nó sẽ tận dụng
khả năng của các thể cách trong cả Hán văn và văn học dân gian. Xu hướng
ấy xem ra thì đã có từ đời Trần.
“Hoa Yên tự phú” theo bản khắc gỗ lưu hành ở nhà chùa thì là của Lý
Đạo Tái. Tác phẩm này viết theo thể phú bát vận (tám vần). Lời văn rất lưu
loát: “Buông niềm trần tục, náu đến Hoa Yên. Chim thụy dõi tiếng ca chim
thụy, gió tiên đưa đòi bước thần tiên. Bầu đủng đỉnh gồng hòa thế giới, hài
thong thả dạo khắp sơn xuyên… Nương am vắng, bụt hiện từ bi; gió hiu hiu,
mây nhè nhẹ. Kề song thưa, thầy ngồi thiền định; trăng vằng vặc, núi xanh
xanh. Huống chi, vân thủy bằng lòng, yên hà phải thú. Vui thay, cảnh khác
cảnh hoàng kim; trọng thay đường hơn đường cẩm tú. Phân ân ái, am Não,
am Long; dứt nhân duyên, làng Nương, làng Mụ”. Cách dùng cặp tiếng đôi
phối hợp với cách dùng từ láy đi láy lại khiến cho nhịp điệu câu văn càng ăn
khớp với tính chất đối xứng và hô ứng của thể phú, Rõ ràng là ngôn ngữ văn
học trong Hoa Yên tự phú không phải là chất phác, thô sơ.
Ngoài Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm truyền thành đạo ca và Hoa
Yên tự phú, lại có Giáo tử phú, tương truyền là của Mạc Đĩnh Chi. Giáo tử
phú nói về đạo Phật, nhưng ở đây tác giả ít đề cập đến triết học trừu tượng
mà lại đem những hình tượng về địa ngục ra để răn giới. Sau khi đã kể ra
những dục vọng và những thói xấu, những cảnh bon chen, tranh giành của
người đời, bài phú viết về cảnh ngộ của con người ta khi chết: “Bắc nam mồ
quạnh, eo éo thảo xanh. Hoàng nhưỡng thâu đêm, người kêu người khóc.
Diêm vương đòi hỏi: lành, dữ cho hay. Hắc ám mịt mùng, người ta lóc nhóc”
Bọn quỉ sứ dùng những hình phạt khốc liệt hành hạ những kẻ có tội ở dương
thế: “Đứa thời cưa xẻ, phân mình làm hai. Đứa thời trói lưng, thương thay vỉ
khóc. Nước đồng bắt uống, một ngày trăm phen. Cháy nát tan tành, lòng
thương bực tức. Đao sơn vạn nhận, ngục tốt vây quanh. Kiếm thụ thiên trùng,
ngưu đầu xuyên xúc. Hỏa lò rờ rỡ, lửa cháy hào quang. Nung nấu người ta,
tan xương nát thịt. Hàn thủy ngăn ngắt, giá lạnh lênh đênh. Gieo xuống một
khi, hồn phiêu phách lạc…” Và “Muôn ngàn địa ngục, thây chết trùng trùng.
Đứa vỉ đứa kêu; người lo, người khóc”. Muốn tránh khỏi cảnh địa ngục ghê
gớm ấy, thì theo bài phú, lúc sống ở đời không nên tham tài, hám lợi. Phải
biết sùng đạo: “Ruộng nương nhiều ít, chớ để cho con, tư tiến trai đàn, minh
dương thủy lục… Thí ruộng, thí nương, làm bụt, làm chùa, tu nhân nhẫn
nhục”. Phải biết “… Niệm bụt ăn chay, Diêm vương mới phục… Trọng pháp
kính thầy, thí bần tác phúc. Cơm ăn phải bữa, ai đói thì cho, bớt miệng suy
lòng, một người một chút”. Tác giả khuyên người ta nên biết coi thường vinh
hoa phú quí và ăn ở có nhân nghĩa. Trong bài phú có câu: “Xá cộc tu thân,
học đòi ông Mạc” Vì thế mà người ta mới cho rằng bài phú là của Mạc Đĩnh
Chi đặt ra để dạy con. Hơn nữa, lại có lời ghi chú là: “Trạng nguyên Mạc Đĩnh
Chi chết xuống Minh ty (tức Âm ty) bảy ngày, thấy cảnh các địa ngục; sau
được sống lại, làm bài phú dạy con”. Nhưng Mạc Đĩnh Chi vốn là người
không sùng đạo Phật lắm. Ông là người chủ trương cho nàng Điểm Bích đi
quyến rũ sư Huyền Quang, để thử xem nhà sư đạo mạo ấy có tình dục hay
không. Chính Tam tổ thực lục đã ghi chép sự việc ấy. Vả lại Mạc Đĩnh Chi là
một nhà nho, mà với truyền thống “bất ngữ quái, lực, loạn, thần” của nhà nho
thì chắc ông khó mà có thể viết về cảnh âm ty, địa ngục một cách chất phác
và thành thực như vậy. Dầu sao, nếu không phải là của Mạc Đĩnh Chi thì tác
phẩm vẫn có thể là thuộc về đời Trần. Những từ cố như vỉ (van vỉ), xá cộc
(nên biết), bực tức (uất ức), quạnh (quạnh hiu), v.v… chứng tỏ tác phẩm có
thể xuất hiện trước thế kỷ thứ XV. Đây chắc là một tác phẩm đặt ra để nhắc
nhở tín đồ tuân theo sự khuyến cáo của nhà chùa. Đối tượng của bài phú là
quảng đại quần chúng cho nên điều thuyết giáo ở đây không có tính chất cao
xa của Thiền tông mà lại có tính chất thiết thực của Tịnh độ tông. Và cũng vì
viết ra cho quảng đại quần chúng tín đồ cho nên tác phẩm đã có ngôn ngữ
giản dị, giàu hình tượng.
Ngoài các tác phẩm trên, trong nhà chùa còn lưu hành tập Trần triều
Thiền tông chỉ nam truyền tâm quốc ngữ hành (gọi tắt là Thiên tông bản
hạnh). Trước đây, căn cứ vào tên sách, có người tưởng rằng tác phẩm xuất
hiện trong đời Trần. Nhưng đây chính là một tác phẩm viết vào đời Lê. Sách
mở đầu như sau:
“Thời vừa đâu tiết xuân thiên,
Khí dương đầm ấm dân an thuận hòa.
Bụt sinh hoàng đế Lê gia,
Thánh chúa phủ trị gan xa lai hàng.”
Có vua Lê, lại có chúa Trịnh: vậy thì tác phẩm không thuộc đời Trần
được. Vả lại ở ngay sau đó, từ câu thứ 13 đến câu thứ 16, tác giả lại viết:
“Vốn xưa cổ tích danh lam,
Trần triều khai sáng đỉnh nham tu thiền.
An sơn cảnh tự Tây thiên,
Phần hương chúc thánh vững bên đế đô. “
Như vậy thì Thiền tông bản hạnh là tác phẩm của người đời Lê viết về
lịch sử Thiền tông. Sau khi lược qua lịch sử Thiền tông trước đời Trần, tác
phẩm chú trọng kể về Thiền tông trong đời Trần, đặc biệt nhấn mạnh vào
hành trạng của Trần Nhân tông và phái Trúc Lâm. Chắc là sự tích vốn có từ
đời Trần, nhưng tác phẩm nôm diễn ca sự tích ấy thì là do các nhà sư đời Lê
viết ra.
Nhìn chung thì số tác phẩm nôm từ đời Trần truyền lại không nhiều.
Những tác phẩm ấy tuy là thuộc đời Trần nhưng chắc cũng đã chịu đựng
nhiều sự thay đổi sửa chữa của người đời sau. Đó dầu sao cũng là tác phẩm
của nhà chùa. Mà trong đời Trần thì việc sáng tác thơ nôm lại cũng khá sôi
nổi cả ở ngoài nhà chùa nữa.
Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục đều có chép
việc sáng tác thơ nôm trong đời Trần. Theo Việt sử thống giám cương mục
(Chính biên, q. VII, tờ 26) thì năm Nhâm ngọ (1282) niên hiệu Thiệu Bảo, thứ
4 đời Trần Nhân tông “tháng 8, mùa thu, có cá sấu đến sông Phú Lương. Nhà
vua sai quan Hình bộ thượng thư là Nguyễn Thuyên làm bài văn thả xuống
sông, cá sấu tự nhiên bỏ đi, nhà vua thấy việc đó giống như việc Hàn Dũ bèn
cho Nguyễn Thuyên được đổi họ Hàn”. Tiếp đó Việt sử thông giám cương
mục lại có lời chua như sau: “Nguyễn Thuyên, người Thanh Lâm thuộc Hải
Dương, có tài làm thơ phú bằng quốc ngữ, nhiều người bắt chước. Vì thế,
sau này làm thơ quốc âm gọi là Hàn luật” Trước đây có người đã cho rằng bài
văn tế cá sấu đó viết bằng chữ nôm, nhưng điều đó không lấy gì làm chắc
chắn. Căn cứ vào sử thì chỉ biết chắc rằng Hàn Thuyên đã sáng tác thơ nôm,
mà lại có tài làm thơ hay, khiến nhiều người bắt chước. Hàn Thuyên đã ứng
dụng Đường luật vào việc làm thơ nôm, gây một tiếng vang trong văn đàn lúc
bấy giờ cho nên người ta mới gọi luật thơ nôm là Hàn luật. Tác phẩm chính
của Hàn Thuyên là Phi sa tập, Quyển này đã thất truyền. Phan Huy Chú,
trong Lịch triều hiến chương loại chí (Văn tịch chí) viết rằng “trong tập này có
nhiều thơ quốc âm”. Không phải chỉ có một mình Hàn Thuyên là “có nhiều thơ
quốc âm”. Đại Việt sử ký toàn thư nhân chép việc Trần Anh tông gả Huyền
Trân công chúa cho Chế Mân (năm 1306) đã viết rằng “Văn nhân trong triều
đình, ngoài thôn dã nhiều người mượn việc vua Hán đem Chiêu Quân gả cho
Hung Nô, làm thơ từ bằng quốc ngứ để châm chích”. Xem thế đủ biết việc
sáng tác thơ Nôm đã là một việc khá phổ biến trong đám văn nhân cuối thế kỷ
thứ XIII đầu thế kỷ thứ XIV.
Sau Hàn Thuyên, cuối thế kỷ thứ XIII đầu thế kỷ thứ XIV có Nguyễn Sĩ
Cố. Việt sử thông giám cương mục (Chính biên q. VIII, tờ 44) chép về ông
như sau: “Sĩ Cố khéo khôi hài, người ta thường ví với Đông Phương Sóc. Sĩ
Cố lại có tài làm thơ phú bằng quốc âm, nhiều người bắt chước”. Trong thế kỷ
thứ XIV, có Chu An cũng sáng tác thơ Nôm. Theo Lịch triều hiến chương loại
chí thì Chu An có viết Quốc ngữ thi tập, nhưng Phan Huy Chú không cho biết
thêm gì về nội dung sách đó. Tên sách “Quốc ngữ thi tập” chưa đủ để chứng
minh rằng đó là một tập thơ Nôm, vì Phan Phu Tiên (thế kỷ thứ XV) chẳng đã
lấy cái tên “Việt âm thi tập” để gọi tập sách sưu tập thơ ca chữ Hán đời Trần
và đời Lê do ông biên soạn đó hay sao? Tuy vậy, rất có thể Chu An đã sáng
tác thơ nôm, vì ông là một nhà nho ẩn dật sống gần gũi với nhân dân trong
phần lớn cuộc đời của mình. Đồng thời với Chu An lại có Trần Ngạc (con cả
Trần Nghệ Tông) cũng hay làm thơ nôm.
Tác giả thơ nôm có tiếng vào cuối thế kỷ thứ XIV là Hồ Quý Ly, Việt sử
thông giám cương mục (Chính biên q. XI, tờ 3) chép việc Trần Nghệ tông
dùng Hồ Quý Ly làm Đồng bình chương sự đã cho biết Quý Ly làm thơ bằng
quốc âm để tạ ơn Thượng hoàng. Cũng sách đó (Chính biên q. XI, tờ 22) đã
chép: Quý Ly biên dịch thiên Vô dật ra quốc ngữ để dạy quan gia”. Đại Việt sử
ký toàn thư chép rằng năm Đinh Ty (1437) Lê Thái tông muốn xem thủ chiếu
và thơ văn của họ Hồ, Nguyễn Trãi lượm lặt và chép ra được vài thiên thơ
văn bằng quốc âm dâng lên nhà vua. Sách Thiên nam ngữ lục (tác giả khuyết
danh thế kỷ thứ XVII) viết về truyện Hồ Quý Ly, có dẫn một bài thơ chữ Hán
mà tác giả cho rằng là của Quý Lý sáng tác khi bị giặc Minh bắt. Bài thơ đó
như sau:
“Canh cải đa đoan tử phục sinh,
Du du hương lý bất thăng tình.
Nam quan siêu đệ ưng đầu bạch,
Bắc quán yểm lưu giác mộng kinh.
Tướng quốc tài nan, tàm Lý Bật,
Thiên đô kế chuyết, khốc Bàn Canh.
Kim âu kiến khuyết vô do hợp,
Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh.”
Sau đó, sách lại dẫn một bài thơ nôm mà tác giả cho biết là do chính
Quý Ly dịch từ bài thơ trên. Bài thơ nôm như sau:
“Canh cải nhiều đường tử phục sinh,
Lòng lo hương lý ở bao đành,
Quê người dễ thấy đau dần bạc.
Quán khách khôn cầm tóc trắng xanh.
Tướng quốc ắt chăng tài Lý Bật,
Thiên đô còn phải hận Bàn Canh,
Kim âu dường khuyết khôn hàn được,
Đợi giá cho nên biết ngọc lành.”
Bài thơ nôm này có đúng là do chính Hồ Quý Ly viết ra để dịch bài thơ
chữ Hán của mình hay không? Hay là tác giả Thiên nam ngữ lục (thế kỷ thứ
XVII) đã dịch và đem gán cho Quý Ly? Vấn đề còn phải xem xét về nhiều mặt
thì mới có thể giải đáp chính xác được. Nhưng căn cứ vào ngôn ngữ văn học
và lời thơ thì thấy tác phẩm không cổ bằng thơ nôm Nguyễn Trãi. Vì vậy,
cũng khó mà tin vào lời kể của Thiên nam ngữ lục về lai lịch bài thơ ấy.
Nhìn chung, văn học nôm đời Trần đã hình thành như một bộ phận
không thể coi nhẹ trong dòng văn học viết. Chúng ta chưa giám định được về
mặt văn bản học một số tác phẩm từ đời Trần truyền lại. Và đại bộ phận tác
phẩm nôm đời Trần thì vẫn chưa tìm được. Đặc biệt là cho đến nay, chúng ta
vẫn chưa thấy được một tác phẩm nôm chắc chắn thuộc đời Trần mà lại
không phải là của nhà chùa. Đó là một hạn chế lớn cho việc nhận định về văn
học nôm thời này. Nhưng những tài liệu đáng tin cậy cho phép khẳng định
rằng việc sáng tác thơ văn nôm đời Trần không phải là việc làm lẻ tẻ của một
vài cá nhân. Hơn nữa, đã có lúc việc sáng tác thơ nôm trở thành phong trào
trong trí thức dân tộc. Các tác giả đời Trần đã đặt cơ sở vững chắc cho việc
sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc. Đó là một điều chắc chắn. Nếu không công
nhận sự thực ấy thì khó mà giải thích tại sao Nguyễn Trãi, một tác giả sinh ra
vào cuối đời Trần và sáng tác vào đầu đời Lê, lại có thể làm thơ nôm với số
lượng nhiều như thế và chất lượng cao như thế.
Cho nên khi nói về thành tựu văn học của đời Trần thì cần phải thấy
cho hết tầm quan trọng của việc hình thành văn học chữ nôm như là một bộ
phận không thể thiếu trong dòng văn học viết của dân tộc.
Phần thứ ba. VĂN HỌC THẾ KỶ THỨ XV
I. SỰ PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ VÀ TOÀN DIỆN CỦA NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT TRONG THẾ KỶ THỨ XV
Sau năm thế kỷ hình thành và phát triển, dòng văn học viết đã có nhiều
thành tựu rực rỡ. Và đến thế kỷ thứ XV dòng văn học ấy sẽ phát triển mạnh
mẽ hơn, toàn diện hơn.
Đến cuối thế kỷ thứ XIV, Nhà nước phong kiến trải qua một cuộc khủng
hoảng lớn. Hồ Quý Ly, với những biện pháp cải cách táo bạo, về thực chất
vẫn duy trì những đặc quyền của quý tộc quan liêu mà không mang lại lợi ích
thiết thực cho nhân dân. Vì vậy đến năm 1400, khi nhà Hồ cướp ngôi nhà
Trần, thì nó thiếu cơ sở xã hội vững chắc. Hồ Quý Ly vừa có kẻ thù nguy
hiểm là các tầng lớp quí tộc gắn bó với nhà Trần, vừa không được nhân dân
ủng hộ. Giặc Minh nhân cơ hội ấy, đã giả danh “diệt Hồ phục Trần” đánh lừa
sĩ dân ta mà cướp nước ta, đặt ách đô hộ lên trên dân tộc ta.
Ách thống trị của giặc Minh xét về phương diện đời sống của nhân dân
thì rất tàn khốc và xét về phương diện sự phát triển của lịch sử thì rất phản
động. Thuế má hà lạm, phu phen nặng nề, đốt phá, cưóp bóc, giặc Minh
không dừng lại ở một thủ đoạn tham tàn nào. Vì vậy, nền kinh tế của nước ta
sa sút ghê gớm và đời sống nhân dân khổ cực vô cùng. Trong thời Minh
thuộc đã liên tiếp xảy ra rất nhiều nạn vỡ đê lụt lội, mất mùa, đói kém, dịch tễ,
đặc biệt là vào những năm khủng khiếp 1407, 1409, 1411, 1412, v.v… Sức
sản xuất nông nghiệp vì thế mà càng bị phá hoại nghiêm trọng. Giặc Minh cố
duy trì chế độ đại điền trang và quan hệ lãnh chúa nông nô, hơn nữa chúng
đã cùng với bọn quí tộc đầu hàng và tay sai phát triển chế độ nông nô, nô tỳ;
tất cả những chính sách ấy không những cản trở mà còn kéo lùi lịch sử.
Tóm lại, sự thống trị của giặc Minh là cái ách nặng nề đè lên đầu lên cổ
nhân dân và là một chướng ngại lớn trên con đường tiến hóa của xã hội Đại
Việt thế kỷ thứ XV. Vấn đề là vứt bỏ được cái ách đó, vấn đề là san bằng
chướng ngại đó, nhiệm vụ lịch sử đề ra khi ấy đã được nhân dân ta hoàn
thành một cách vẻ vang.
Cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi là cuộc chiến đấu gian khổ vào
bậc nhất trong lịch sử thời xưa. Trong các đời Tiền Lê, Lý, Trần, bọn xâm
lược tuy thường cũng rất mạnh, nhưng lần nào cũng ở vào cái thế của kẻ ở
xa nghìn dặm mà đến, và ta đâu có yếu hơn nhưng thường có thế “dĩ dật đái
lao” mà cuối cùng thắng được chúng. Lần này thì khác hẳn. Vì bọn quí tộc
nhà Trần phản bội, vì nhà Hồ không được nhân dân ủng hộ, giặc Minh đã đặt
nổi ách thống trị ở nước ta. Tất nhiên, trong hai chục năm thống trị, giặc Minh
không lúc nào được yên ổn mà hưởng lợi. Phong trào đấu tranh giết giặc cứu
nước đã dấy lên ngay từ khi giặc vừa mới thắng được nhà Hồ và cướp xong
nước ta. Từ những cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn ở Bình Than (Hải Hưng),
của Chu Sư Nhạn ở Thái Nguyên, của Hà Thế Trật, Hà Khả Chính, Hà Nhân
Tráng ở Tam Đái (Vĩnh Phú), của Trần Nguyên Tốn, Nguyễn Nhật Tân ở Hạ
Hồng (Ninh Giang, Hải Hưng) v.v… cho đến các cuộc khởi nghĩa của Trần
Quỹ (Giản Định Đế) và của Trần Quý Khoáng (Trừng Quang đế), quy mô của
phong trào đấu tranh cứu nước ngày càng mở rộng. Tuy vậy, chính trong việc
đàn áp thắng lợi các cuộc khởi nghĩa ấy mà giặc Minh đã tự đề cao được uy
thế và có lúc đã tạm xác lập được ách thống trị của chúng. Đến khi Lê Lợi
phất cờ khởi nghĩa (1418), bộ máy thống trị xâm lược, bắt đầu xây dựng từ
năm 1407, đã hình thành rồi. Để đánh thắng giặc Tống hay giặc Nguyên, Lý
Thường Kiệt hay Trần Quốc Tuấn có cả một bộ máy chính quyền mạnh mẽ.
Lê Lợi thì không thế. Lê Lợi phải vừa đánh giặc, vừa xây dựng quân đội, vừa
xây dựng chính quyền. Cuộc kháng chiến tuy rất gian khổ mà đã đi đến thắng
lợi thì chính là vì những người lãnh đạo đã biết dựa vào lực lượng của toàn
thể dân tộc. Những người lãnh đạo cuộc kháng chiến xét về thành phần xuất
thân đã đại diện cho đủ các tầng lớp xã hội khác nhau, từ hào trưởng địa
phương như Lê Lợi, nho sĩ như Nguyễn Trãi, quý tộc cũ như Trần Nguyên
Hãn, tù trưởng dân tộc thiểu số như Lê Lai, thương nhân như Nguyễn Xí, Lưu
Nhân Chú và đặc biệt đáng chú ý là những nông dân nghèo như Nguyễn
Chích, Nguyễn Khuyển v.v… Nhà nước phong kiến đời Lê sẽ hình thành dần
dần từ tập đoàn những người lãnh đạo cuộc kháng chiến. Bộ máy nhà nước
ấy đối lập với chính quyền xâm lược mà lớn mạnh lên được thì chính là nhờ
vào hậu thuẫn của toàn thể dân tộc. Nghĩa quân có nguồn gốc từ nhân dân,
chiến đấu vì dân tộc, cho nên đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ. Nhiều
truyền thuyết dân gian còn ghi lại mãi đến ngày nay những sự gắn bó giữa
quân và dân, giữa những lãnh tụ nghĩa quân và quần chúng. Sự đoàn kết
trong nội bộ nghĩa quân, giữa nghĩa quân với nhân dân trước kẻ thù chung là
yếu tố quyết định trong việc chiến thắng giặc Minh. Bộ máy nhà nước hình
thành và lớn lên trong cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc thì sau khi giặc
đã tan rồi, trong một thời gian khá dài – có thể nói là suôt non một thế kỷ –
vẫn còn biết dựa vào lực lượng của nhân dân, vì nhiều người lãnh đạo đã
hiểu như thế nào là lực lượng ấy qua kinh nghiệm đấu tranh của mình.
Cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo đã giải phóng ách thống trị tàn
bạo của giặc Minh, đã mở đường tiến lên cho lịch sử dân tộc. Chế độ chính trị
phản động của giặc ngoại xâm bị thủ tiêu. Nhà Lê đã hình thành từ cuộc đấu
tranh của dân tộc để thực hiện nhiệm vụ mà lịch sử nước ta hồi đầu thế kỷ
thứ XV đã đề ra. Triều đại ấy sẽ trở nên thịnh vượng vì nó biết, trên đà thắng
lợi, phục hồi và phát triển sức sản xuất, và trong phạm vi mà điều kiện lịch sử
cho phép, quan tâm giải quyết những vấn đề thuộc đời sống nhân dân.
Sau khi giải phóng đất nước, triều đại mới đã ra sức khôi phục lại nền
kinh tế vừa bị phá hoại nghiêm trọng. Lê Lợi đã tịch thu ruộng đất của quan lại
nhà Minh, ngụy quan, Việt gian, ruộng đất của quí tộc nhà Trần bị tuyệt, ruộng
đất của nhân dân bỏ hoang vì chiến tranh và đem sung làm ruộng đất công.
Ruộng đất công, sở hữu của Nhà nước phong kiến, từ trước vốn là bộ phận
ruộng đất quan trọng nhất trong nước. Đến nay, số ruộng đất ấy lại càng tăng
thêm. Lê Lợi đã cho đem chia lại ruộng đất công cho nông dân sử dụng và
nộp tô cho nhà nước. Chính sách quân điền của nhà Lê đối với ruộng đất
công của xã thôn được quy định từ năm 1429, ngay sau khi kháng chiến
thắng lợi, lại được bổ sung dần trong suốt thế kỷ thứ XV. Một mặt, chính sách
đó có mục đích xác nhận lại quyền sở hữu của Nhà nước phong kiến đối với
ruộng đất công của xã thôn vốn đã do nhân dân chiếm giữ trong thời chiến
tranh, và dựa trên cơ sở đó để bóc lột tô. Một mặt, nó lại có tác dụng kích
thích sản xuất. Với số ruộng đất công còn lớn so với số dân thời bấy giờ,
chính sách quân điền cũng có lợi cho người nông dân lao động vì nó bảo đảm
cho họ ruộng đất cần thiết để sinh sống. Do đó họ yên tâm sản xuất và nền
nông nghiệp được phục hồi và phát triển.
Bên cạnh ruộng đất công, bộ phận ruộng đất tư hữu ở trong giai cấp
địa chủ và tiểu nông cũng phát triển nhiều. Kể từ thế kỷ thứ XIV, số ruộng đất
tư hữu đã ngày càng tăng bên cạnh các đại điền trang đang suy vi dần. Phần
lớn số ruộng đất tư hữu là ở trong giai cấp địa chủ. Giai cấp này đến cuối thế
kỷ thứ XIV và đầu thế kỷ thứ XV đã lớn mạnh lắm. Nhà nước phong kiến đã
khuyến khích chế độ tư hữu ruộng đất. Luật Hồng Đức công nhận quyền
chiếm hữu của địa chủ. Chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển cho nên việc
mua bán, cầm cố, kế thừa, tranh chấp về ruộng đất đã được luật lệ quy định
rõ ràng.
Để phát triển sản xuất nông nghiệp, nhà Lê đã có chính sách trọng
nông thể hiện ở những biện pháp cụ thể như cấm bỏ ruộng hoang, mở đồn
điền để khai khẩn những vùng đất mới, xây dựng và bảo vệ đê điều và các
công trình thủy lợi, đình chỉ việc công dịch trong lúc mùa màng, ra những điều
luật bảo vệ trâu bò, thực hiện chế độ “ngụ binh ư nông”, v.v… Với những biện
pháp tích cực như vậy0, với sự phấn khởi của nhân dân vừa được thoát ách
ngoại xâm và được làm ăn trên mảnh ruộng ổn định – sức sản xuất xã hội đã
phát triển.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng phát triển mặc dầu không
được Nhà nước phong kiến khuyến khích như nông nghiệp. Dư địa chí của
Nguyễn Trãi còn ghi lại các nghề thủ công nổi tiếng như: làm dầu, đay, gai ở
Bất Bạt; làm sáp ở Tam Nông; dệt lụa ở Thanh Oai; dệt the ở Kim Bảng; làm
đồ sứ ở Bát Tràng; làm vôi ở Yên Thế; làm nhung phục ở Nghệ An, tơ gai, lụa
màu huyền ở Quảng Nam; gấm thêu, lĩnh, hương liệu ở Lạng Sơn; v.v…
Thăng Long có 36 phố phường làm giấy, làm quạt, nhuộm điều, làm kiệu, áo
giáp, làm lọng, dệt lụa v.v… Nghề khắc bản in, nghề thuộc da cũng phát triển
hơn với kỹ thuật mới. Lại có nghề khai mỏ bạc, đồng, thiếc ở Hưng Hóa,
vàng, bạc, thiếc ở Cao Bằng, chì, đồng, diêm tiêu ở Lục Yên Châu, bạc,
đồng, chì, vàng ở Thái Nguyên, v.v…
Cũng như mọi triều đại phong kiến, nhà Lê có chính sách ức thương.
Nhà nước cấm nông dân thoát ly ruộng đất để đi làm ăn buôn bán ở các thị
trấn (thí dụ năm 1481, quan phủ Phụng Thiên đuổi những người “tạp cư” –
thợ thủ công và thương nhân – ở kinh đô về nguyên quán để làm ruộng). Đối
với ngoại thương, Nhà nước phong kiến giữ độc quyền. Thương nhân ngoại
quốc chỉ được buôn bán ở các nơi qui định. Việc mua bán giữa nhân dân với
người ngoại quốc rất hạn chế và bị kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, do tình
hình xã hội ổn định, đất nước thống nhất, việc giao thông giữa các vùng được
mở mang, thương nghiệp cũng có điều kiện phát triển. Và nhìn chung thì nền
kinh tế hàng hóa đã được mở mang hơn các thế kỷ trước; điều đó chứng tỏ
sự phồn thịnh của nền sản xuất xã hội.
Tóm lại, trong thế kỷ thứ XV, nhà Lê đã có vai trò tích cực đối với lịch
sử. Sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm, Nhà nước phong kiến mới đã biết sử
dụng những điều kiện của một đất nước vừa giành được độc lập, của một
dân tộc vừa được giải phóng mà thúc đẩy việc phục hồi và phát triển nền kinh
tế trong nước.
Nhà nước phong kiến trong đời Lê đã được xây dựng một cách chặt
chẽ hơn trước. Để thống trị nhân dân, nó dựa vào giai cấp địa chủ chiếm hữu
phần lớn ruộng đất tư và bóc lột địa tô của nông dân. Giai cấp địa chủ cũng là
giai cấp nắm chính quyền, tầng lớp quan liêu phần lớn xuất thân địa chủ. Địa
chủ quan liêu ngoài ruộng đất tư lại còn được hưởng lộc điền do triều đình
ban cấp cho.
Nông dân là lực lượng lao động sản xuất chủ yếu mà lại là giai cấp bị
bóc lột. Một bộ phận nông dân tiểu tư hữu có chút ít ruộng đất, nhưng phần
lớn phải lĩnh canh nộp tô. Nông dân cũng là những người phải làm những
việc tạp dịch cho Nhà nước phong kiến, đi phu, đi lính.
Thợ thủ công và thương nhân, trừ một số rất ít ở Thăng Long và một
vài thị trấn, còn thì phần lớn chưa tách hẳn khỏi sản xuất nông nghiệp, chưa
tách biệt hẳn với khối nông dân đông đảo. Họ cũng bị bóc lột hoặc ức chế
Ngoài các tầng lớp trên, trong thế kỷ thứ XV còn một số nô tỳ có nguồn
gốc từ đám tù binh chiến tranh, tội nhân, từ đám người cùng khổ. Nhà nước
phong thế kỷ thứ XV hạn chế việc nuôi nô tỳ, định lệ cho nô tỳ được chuộc
thân, và về sau thì cấm việc mua bán nô tỳ. Số nô tỳ ngày càng ít dần đi và
không được sử dụng vào việc sản xuất. Và tầng lớp nô tỳ sẽ bị thủ tiêu cùng
với sự tiến lên của xã hội.
Chính quyền phong kiến đời Lê được tổ chức hoàn bị hơn các đời Lý,
đời Trần, Lê Thánh tông chia đất nước ra làm 13 thừa tuyên (kê cả thừa
tuyên Quảng Nam, bao gồm vùng đất mới trước kia gọi là viễn châu) và qua
đó khẳng định sự đồng nhất của cả nước về mặt chính trị cũng như về mặt
văn hóa. Nhà vua hiệu định quan chế nhằm tăng cường hiệu lực cho chính
quyền trung ương, khiến cho nó có thể nắm được một cách chặt chẽ các địa
phương trong cả nước. Các thứ bậc, nghi lễ, chức trách trong bộ máy quan
liêu được quy định rõ rệt làm cho chính quyền trung ương tập trung vào tay
nhà vua. Chính quyền đời Lê đã trở thành một Nhà nước quân chủ chuyên
chế, đồng thời là một Nhà nước phong kiến quan liêu.
Một bộ phận không ít quan liêu xuất thân từ chỗ tập ấm, nghĩa là dựa
vào chức tước của cha ông mà được bổ nhiệm. Nhiều người trong hàng ngũ
quan liêu lại xuất thân nho sĩ, nghĩa là con em các tầng lớp giàu có (địa chủ,
phú thương) trong xã hội qua con đừờng khoa cử mà được ra làm quan.
Cũng có nho sĩ có nguồn gốc từ nông dân lao động, nhưng khi sung vào hàng
ngũ quan liêu thì họ cũng trở thành người bảo vệ cho lợi ích của Nhà nước
phong kiến. Nếu như giai cấp địa chủ là giai cấp thống trị trong xã hội thì tầng
lớp quan liêu, kẻ đại diện cho nó, là kẻ điều hành bộ máy nhà nước. Nho sĩ
quan liêu là động lực chính của Nhà nước phong kiến đời Lê.
Để đào tạo nhân viên cho bộ máy nhà nước ấy, việc học hành, việc thi
cử được tổ chức theo một qui mô ngày một lớn hơn. Ngay từ năm Bính ngọ
(1427) khi giặc chưa tan, Lê Lợi đã mở kỳ thi ở hành doanh Bồ Đề để lấy nho
sĩ trúng tuyển bổ dụng làm an phủ sứ và viên ngoại lang.
Đến khi đất nước được giải phóng, triều đình lập ra Quốc tử giám ở
kinh đô và các trường học ở các lộ. Quốc tử giám trước hết dành cho con em
quan liêu, và cũng nhận con em các tầng lớp khác từ các trường ở các lộ đã
qua được một kỳ sát hạch. Đến đời Lê Thánh tông, nhà vua mở rộng Quốc tử
giám (nhà Thái học), lập Văn miếu, Bí thư khố, hạ dụ Khuyến học, lại cấp học
bổng cho giám sinh Quốc tử giám, chia thành nhiều loại để khuyến khích việc
học. Năm 1467, Lê Thánh tông đặt ra chức bác sĩ dạy ngũ kinh, mỗi chức
chuyên nghiên cứu một kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu) để dạy ở Quốc tử
giám, và cho in sách Ngũ kinh làm tài liệu học tập.
Việc thi cử dần dần cũng tổ chức theo nền nếp nhất định. Năm 1429,
có khoa Minh kinh ở thành Đông Quan (Thăng Long), năm 1431 lại mở khoa
Hoành từ ở Bồ Đề. Từ năm 1434 trở đi định lệ cứ ba năm mở một khoa thi
hương, và năm tiếp sau khoa thi hương lại mở khoa thi hội để lấy tiến sĩ. Từ
năm 1439 trở đi có lệ xướng danh, treo bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, ăn yến,
và vinh quy bái tổ để khích lệ cử tử và từ năm 1442 trở đi lại có lệ khắc bia
tiến sĩ. Sang đời Lê Thánh tông, việc thi cử càng có qui mô lớn. Số người đi
học ngày càng nhiều, số học trò đi thi ngày càng đông. Lấy một thí dụ như
khoa Nhâm ngọ (1462), chỉ ở một trấn Sơn Nam thôi mà cũng đã có khoảng
một trăm người, trúng tuyển kỳ thi hương, trong số non một nghìn người vào
lọt tam trường trong số mấy nghìn thí sinh. Triều Lê Thánh tông có thể nói là
thời kỳ thịnh nhất của việc học và việc thi trong toàn bộ lịch sử khoa cử ở
nước ta xưa kia. Nếu kể từ đời Lý với khoa thi Nho học đầu tiên vào năm Ất
mão (1075) cho đến đời Nguyễn với khoa thi Nho học cuối cùng vào năm
Mậu ngọ (1918) thì lịch sử khoa cử của chế độ phong kiến là 884 năm. Lê
Thánh tông làm vua 38 năm (1459 - 1497), mở 12 kỳ thi. Trải 844 năm có tất
cả 2.335 tiến sĩ (hoặc thái học sinh), trong số này có 30 trạng nguyên. Trải
qua 38 năm đời Lê Thánh tông, với 12 khoa thi, đã tuyển được 501 tiến sĩ
trong đó có 9 trạng nguyên. Như vậy là với khoảng thời gian bằng 38/844 tức
là non 1/23 lịch sử khoa cử ở nước ta, mà đời Lê Thánh tông đã lấy đỗ
501/2335 tức là non 1/15 tổng số tiến sĩ và 9/30 tức là non 1/3 tổng số trạng
nguyên của toàn bộ lịch sử khoa cử ấy. Nhà trường phong kiến quả là đã
phát triển đến mức rất cao.
Tầng lớp nho sĩ được đào tạo trong cái lò “nhân tài” đó là nguồn bổ
sung cho bộ máy quan liêu. Tất nhiên cũng có người đỗ kẻ trượt; nhưng “tiến
vị quan, đạt vi sư”, nếu không có điều kiện ra làm quan hoặc không thích làm
quan thì nho sĩ mở trường dạy học, hoặc làm thầy thuốc. Còn những kẻ trụy
lạc thì làm thầy tướng, thầy địa, thầy bói, v.v… Nho sĩ tức là quan liêu và các
hạng “thầy” trong xã hội cũ đã hình thành như những tầng lớp trí thức khác
nhau của giai cấp địa chủ phong kiến.
Nho học đã đạt tới mức cực thịnh trong thế kỷ thứ XV. Nhưng chính sự
thịnh vượng của lối học cử tử lại đã làm cho học phong đời Lê dần dần kém
đời trước… Nho giáo đời Lê học theo phái Tống nho, nặng về từ chương, có
tính chất câu nệ gò bó. Lối học bát cổ, giáo điều ấy đá hạn chế tư tưởng, hạn
chế tính sáng tạo.
Bên cạnh việc đề cao Nho giáo, công cụ đắc lực của Nhà nước phong
kiến, các vua Lê đã ít nhiều hạn chế Phật giáo và Đạo giáo. Lê Thái tổ dưới
danh nghĩa bảo vệ thuần phong mỹ tục, ra lệnh cấm vu cổ tả đạo. Nhà vua
đặt lệ thi tăng nhân, kẻ nào không trúng tuyển thì phải hoàn tục, hơn nữa phải
đến tuổi trên năm mươi mới được đi tu. Lê Thánh tông hạn định sự di trú của
tăng nhân và đạo sĩ, cấm in sách Phật, cấm tự tiện xây chùa, tô tượng, đúc
chuông v.v… Tăng lữ nói chung ngày càng sa sút về các phương diện kinh tế,
chính trịnh và văn hóa.
Tuy nhiên, Đạo giáo và Phật giáo dầu không còn được chính thức coi
trọng như trong đời Lý Trần, nhưng vẫn có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Nhân
dân vẫn tin theo các phương thuật của Đạo giáo. Các đạo quán như Bích
Câu, Trấn Vũ v.v… ở kinh đô Thăng Long cũng như các đạo quán ở khắp nơi
trong nước vẫn thu hút đông đảo người lễ bái. Các tầng lớp quan liêu, đặc
biệt là vợ con họ vẫn chuộng sự cầu đảo, thuật đồng cốt. Các hậu phi, vợ Lê
Thái tông cũng lập điện thờ ở trong cung. Mà ngay bản thân Lê Thánh tông
cũng có nhiều lần tỏ ra là tin vào Đạo giáo. Hàng mấy chục bài sớ cầu đảo
mang nhiều dấu vết mê tín, tuy chưa hẳn là của Đạo giáo, nhưng cũng xa lạ
với Nho giáo, hiện nay còn thấy được ở trong Thiên nam dư hạ tập. Ông vua
được tiếng là chuộng Nho giáo này lại còn “gặp tiên” (Vọng tiên lâu ở cửa
Nam kinh thành xưa và câu thơ “Gió thông đưa kệ tan niềm tục, Hồn bướm
mơ tiên lẩn sự đời” tương truyền là của ông đã gắn với việc “gặp tiên” ấy).
Tương truyền ông còn hay đi lại “giao du với tiên” ở cửa biển Di Luân thuộc
châu Bố Chính (Quảng Bình ngày nay) và nhân đó đã làm thơ Di luân hải
môn ngoại thi. Đó có thể chỉ là sự bịa đặt của truyền thuyết, nhưng tất là cũng
dựa một phần vào hành trạng của nhà vua. Và qua đó ta thấy rằng tuy Nhà
nước phong kiến chính thức đề cao Nho giáo và hạn chế Đạo giáo, nhưng
trong sinh hoạt xã hội thì Đạo giáo vẫn có ảnh hưởng, Phật giáo tất nhiên
cũng vẫn giữ được ảnh hưởng lớn, ít nhất cũng như Đạo giáo. Và lại hai thứ
tông giáo này nhiều khi lại pha tạp với nhau, và đồng thời cả hai lại pha tạp
với những tín ngưỡng thần linh vốn có từ lâu đời trong nhân dân. Kiến trúc
các chùa đời Lô theo kiểu tiền thần hậu Phật (đằng trước thờ thần linh, đằng
sau thờ Phật) đã phản ánh tình hình ấy. Tuy nhiên, phải thấy rằng Phật giáo
và Đạo giáo không còn giữ địa vị những tông giáo của Nhà nước nữa. Cho
nên rất dễ hiểu rằng ảnh hưởng của những tông giáo ấy rất mờ nhạt trong
văn học viết tuy rất đậm nét trong văn học dân gian.
Thái độ của nhà Lô đối với văn hóa văn nghệ dân gian khá phức tạp.
Nhà Lê nảy sinh từ cuộc kháng chiến chống Minh, cho nên có tính chất tích
cực của một Nhà nước phong kiến dân tộc. Và chính sách văn hóa của Nhà
nước ấy có mặt tích cực. Việc sưu tập vốn văn hóa dân tộc là một chủ trương
của triều đình. Trong vốn văn hóa dân tộc ấy có văn hóa, văn nghệ dân gian.
Trong các niên hiệu Thổi Hòa và Hồng Đức, Nguyễn Văn Chất đẩ biên soạn
lại sách Việt điện u linh và bổ sung thêm một số truyện mới. Ngô Sĩ Liên khi
biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư, một bộ sách có tính chất điển chế của
Nhà nước, mà đã chú ý nhiều đến tài liệu văn hóa, văn nghệ dân gian thì một
phần cũng vì tuân theo chủ trương của Lê Thánh tông. Trong bài tựa bộ sách
trên, ông viết: “Hoàng thượng… khoảng niên hiệu Quang Thuận, xuống chiếu
tìm kiếm dã sử và các truyện ký xưa nay mà các tư nhân chưa giữ đều khiến
dâng cả lên để sẵn tham khảo”. Chú ý đến dã sử trong khi xây dựng bộ lịch
sử chính thức của Nhà nước là mặt tích cực trong thái độ của nhà Lê đối với
vốn văn hóa, văn nghệ dân gian. Đó chính là sự phản ánh tinh thần dân tộc
của Nhà nước phong kiến khi ấy. Nhưng Nhà nước phong kiến lại đang ngày
càng trở nên chuyên chế thì tính chuyên chế của nó lại phản ánh vào chính
sách đối với văn hóa văn nghệ dân gian. Năm 1437, trong buổi lễ yết Thái
miếu, vua Lê Thái tông ra lệnh bãi bỏ hát chèo và cấm “dâm nhạc”. Dâm nhạc
là danh từ mà giai cấp phong kiến dùng để trỏ nhạc dân gian và các thứ nhạc
không phải là nhạc cung đình mà Lê Thái tông đã sai Lương Đăng xây dựng
vào năm 1437. Năm 1448, Lê Nhân tông và thái hậu về Lam Kinh (tức Lam
Sơn, Thanh Hóa). Dân Thanh Hóa thấy nhà vua về yết lăng Lê Thái tổ bèn ra
đón. Con trai con gái đưa nhau đến hát lý liên để chúc mừng. Theo tục hát lý
liên, hai bên nam nữ giao tay, ngoắc chân, hoặc tréo cổ vào nhau mà hát, gọi
là “cài hoa, kết hoa”. Theo lời hoặc của đài quan là Đồng Hanh Phát, thái úy
Lê Khả sai cấm hẳn vì cho như thế là hát nhảm trước xa giá nhà vua. Năm
1465, lấy cớ chỉnh đốn phong tục, Lê Thánh tông ra lệnh cấm các buổi chèo
hát kéo dài trong hội hè đình đám ở nông thôn. Năm 1470, Lê Thánh tông
phân chia ca nhạc thành hai loại: một là nhạc cung đình hoặc gọi là quan
nhạc (nhạc chính thức của Nhà nước) gồm có Đồng Văn và Nhã nhạc do
quan Thái thường trông coi hai là nhạc Giáo phường (bao gồm nhạc dân
gian, do Ty Giáo phường quản lý. Từ đó có sự phân biệt giữa nhạc cung đình
và nhạc dân gian, khác với thời Lý, thời Trần khi mà nhạc cung đình được xây
dựng chủ yếụ trên cơ sở nhạc dân gian, khi mà ở cung đình người ta còn hát
đạp ca, hát chèo v.v…
Tuy Nhà nước phong kiến có khi tỏ thái độ kỳ thị và đối lập với văn hóa,
văn nghệ dân gian như vậy, nhưng ảnh hưởng của văn hóa, văn nghệ dân
gian vào dòng văn học viết vẫn rất mạnh. Phong trào Lam Sơn với tính nhân
dân sâu rộng đã được phản ánh vào trong truyện cổ tích lịch sử về Lê Lợi,
Nguyễn Trãi v.v… Những truyện Ông lão đánh cá và vua Lê, Hồ ly phu nhân
hay Hộ quốc phu nhân, Nang quát phu nhân, Đào nương và giặc Minh, Mục
Thận và hồ Hoàn Kiếm v.v… đã làm phong phú thêm kho tàng truyện dân
gian. Những câu tục ngữ, thành ngữ và những bài ca dao, dân ca phản ánh
sự căm thù giặc nước và sự ủng hộ đối với nghĩa quân Lam Sơn, với nhà Lê
lúc buổi đầu phục quốc vẫn còn lưu hành mãi đến ngày nay. Những tác phẩm
văn học dân gian ấy đã để lại dấu vết trong những tác phẩm như Lam sơn
thực lục, thơ nôm Nguyễn Trãi, thơ nôm đời Hồng Đức. Và ảnh hưởng của
văn học dân gian không phải chỉ thúc đẩy Lê Thánh tông quan tâm đến dã sử
khi giao cho Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ sử chính thức của Nhà nước, mà chủ
yếu lại là động lực của việc biên soạn và bổ sung thêm Việt điện u linh và
Lĩnh nam chích quái. Cũng không phải ngẫu nhiên mà một nhà nho có danh
vọng như trạng nguyên Lương Thế Vinh lại nhiệt tình nghiên cứu hát chèo mà
viết sách Hý phường phả lục và một nhà nho có danh vọng khác là tiến sĩ
Quách Hữu Nghiêm lại đề tựa cho sách ấy mà ca ngợi nghệ thuật hát chèo.
Và nói chung, ảnh hưởng của văn hóa, văn nghệ dân gian vào sự phát triển
của văn học viết, văn học chữ Hán và đặc biệt là văn học chữ nôm rất là quan
trọng. Ảnh hưởng ấy đã góp phần không nhỏ vào việc tạo nên tính dân tộc rất
cao trong dòng văn học viết mặc dầu ảnh hưởng của Nho giáo ngày càng có
xu hướng gì bó một số tác giả trong những giáo điều cứng nhắc xa lạ với
thực tiễn đời sống dân tộc.
Nhìn chung, tuy chính sách văn hóa của Nhà nước phong kiến khi có
mặt tích cực nhất định thì lại có mặt tiêu cực, tuy trong xu hướng tiến tới một
nền quân chủ chuyên chế nhà Lê ngày càng đưa Nho giáo lên một địa vị cao
nhằm khống chế văn hóa tinh thần của xã hội, nhưng trong khí thế của dân
tộc vừa chiến thắng ngoại xâm và đang xây dựng lại đất nước, trong khí thế
của nền văn hóa dân tộc vừa phục hưng vừa phát triển, dưới ảnh hưởng của
văn hóa văn nghệ dân gian mà những truyền thống tốt đẹp ngày càng được
bồi dưỡng thêm, dòng văn học viết thế kỷ thứ XV đã đạt những thành tựu rất
lớn.
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ TRƯỚC THUẬT CỦA THẾ KỶ THỨ XV CÓ Ý NGHĨA RẤT TÍCH CỰC ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐẠI VIỆT
Nền văn học của nước Đại Việt thế kỷ thứ XV phản ánh tinh thần của
một dân tộc đã trưởng thành. Ngoài những thành tựu về văn học chữ Hán,
thế kỷ này lại đã củng cố cơ sở vững vàng cho văn học chữ nôm, chuẩn bị
cho những giai đoạn phát triển về sau. Hơn nữa, thế kỷ thứ XV lại chứng kiến
những công trình trước thuật (đặc biệt là về mặt văn học) rất có giá trị.
Hồi đầu thế kỷ thứ XV, văn học đã phát triển trong một hoàn cảnh lịch
sử đặc biệt. Kể từ thế kỷ thứ X. Nghĩa là từ khi giành được độc lập cho đến
thế kỷ thứ XV, chưa bao giờ vận mệnh dân tộc lại đen tối như khi mất nước
cho giặc Minh, chưa bao giờ số phận, nhân dân lại đau khổ như khi bị giặc
Minh thống trị trong hai chục năm trời. Bọn phong kiến nhà Minh không những
biến nước ta thành quận huyện của chúng, không những bóc lột nhân dân ta
tàn bạo (tàn bạo hơn việc bóc lột nhân dân Trung Quốc), mà còn phá hoại
kho tàng văn hóa của nhân dân ta. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến
chương loại chí (phần văn tịch chí) đã viết: “…Cuối đời Trần bị nạn giặc
Minh… tướng Minh là Trương Phụ lấy cả sách vở cổ kim đưa về Kim Lăng”.
Nhân dân cả nước căm thù giặc, những người trí thức có lương tri cũng căm
thù giặc. Cuộc kháng chiến mười năm lật đổ ách thống trị của giặc Minh là sự
nghiệp của toàn thể dân tộc. Chiến thắng đã giành được qua gian khổ là vinh
quang chung của dân tộc. Sự kiện lịch sử lớn lao này tất nhiên phải xúc động
tình cảm và tư tưởng của mọi tầng lớp nhân dân trong đó có tầng lớp trí thức
dân tộc mà đa số đã tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu chung. Và lẽ tự
nhiên là tình cảm và tư tưởng đó được phản ánh vào trong văn học, văn học
dân gian cũng như văn học viết.
Văn học viết thế kỷ thứ XV chủ yếu là do nho sĩ sáng tác nên. Trong số
non trăm rưỡi tác giả mà tác phẩm còn lưu truyền đến nay, trừ ba ông vua (Lê
Thái tông Lê Thái tông và Lê Thánh tông ra), thì đều là nho sĩ. Các vua Lê
Thái tông, Lê Thánh tông – nhất là Lê Thánh tông – Lại là những ông vua
chuộng đạo nho, học đạo nho. Nếu như văn học đời Trần còn phản ánh sự
lấn lướt dần dần của đạo Nho đối với đạo Phật thì văn học đời Lê phản ánh
sự thống trị của đạo Nho với tính cách là ý thức hệ chính thống của Nhà
nước. Nho sĩ là một tầng lớp lớn mạnh. Dầu có sung vào hàng ngũ quan liêu
hay không, họ đều trực tiếp hoặc gián tiếp giúp Nhà nước phong kiến xây
dựng chế độ kỷ cương. Họ phấn khởi tìm thấy ở chế độ mới điều kiện thuận
tiện để có thể thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình. Hàng ngũ họ ngày càng
đông, tác phẩm của họ ngày càng nhiều.
Như vậy là nhìn chung, thì cần thấy rõ ảnh hưởng của Nho giáo vào
văn học viết đời Lê. Ảnh hưởng ấy trong thế kỷ thứ XV mạnh hơn trước kia
rất nhiều. Ảnh hưởng ấy càng mạnh thì càng bất lợi cho văn học. Những giáo
điều cứng nhắc của đạo Nho chỉ có lợi cho giai cấp thống trị, không sát với
yêu cầu của thực tiễn, của đời sống dân tộc, gò bó trí sáng tạo và cảm hứng
văn học, cảm hứng mỹ học. Với sự phát triển của lối học cử tử trong đời Lê
Thánh tông, ảnh hưởng của những giáo điều ấy càng mạnh thì văn học viết
càng có nhiều mặt hạn chế. Tuy nhiên, cũng lại phải thấy rằng ảnh hưởng có
phần tiêu cực của Nho giáo vẫn không làm mất được tinh thần dân tộc trong
văn học cuối thế kỷ thứ XV. Các tác giả nửa đầu thế kỷ thứ XV như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích v.v… vì kế thừa
được hào khí và truyền thống của văn học đời Trần, lại được trực tiếp nuôi
dưỡng trong phong trào dân tộc chống xâm lược, cho nên dầu có mượn
những hình thức, những cách phát biểu của Nho giáo mà vẫn cứ vượt ra
ngoài, vượt lên trên những hạn chế của ý thức hệ Nho giáo để viết nên những
tác phẩm hào hùng và chân thành, sát với đời sống dân tộc và xứng đáng với
dân tộc. Các tác giả nửa thứ hai thế kỷ thứ XV không làm được như thế.
Nhưng không ít người, kể cả Lê Thánh tông, tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của
Nho học mà vẫn phần nào hiểu lý tưởng tu, tề, trị, bình của Khổng Mạnh theo
cái nghĩa là phải có ý thức làm chủ đất nước, và lý giải một cách thiết thực
những vấn đề của đất nước, của đời sống dân tộc.
Từ Nguyễn Trãi cho đến Lê Thánh tông, các tác giả đều có ý thức rõ
ràng là văn học phải được dùng để phục vụ cho những mục đích chính trị và
xã hội. Nói một cách khác, các tác giả không hề đặt vấn đề rằng văn học với
nhân sinh có gắn bó với nhau hay không, điều đó mặc nhiên được coi như
một chuyện không còn phải nghi ngờ gì nữa. Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng
Tuân, Lý Tử Tấn v.v… đã sử dụng văn học như một vũ khí để chiến đấu cho
lợi ích của dân tộc, cho tư tưởng nhân nghĩa. Lê Thánh tông, Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận v.v… cũng sử dụng văn học như một công cụ để củng cố
chế độ và để động viên mọi người vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Lê Thái
tổ đã từng biết dùng hùng văn của Nguyễn Trãi để đánh vào tinh thần tướng
giặc, dụ hàng mười lăm thành. Lê Thái tông và nhất là Lê Thánh tông cũng
hiểu rõ tác dụng của văn hoc và coi trọng văn thần. Cuối thế kỷ thứ XV, Lê
Thánh tông đã tập hợp các văn thần lại, thành lập Hội Tao đàn mà nhà vua tự
nhận là chánh nguyên súy. Các hội viên Tao đàn cùng nhau xướng họa, ca
tụng chế độ, ca tụng nhà vua, ca tụng lẫn nhau, đồng thời cũng ca tụng đất
nước, ca tụng lịch sử dân tộc. Việc sáng tác văn học được chính nhà vua
khuyến khích và các tác giả phần lớn là ở trong hàng ngũ đám triều thần. Có
lẽ chưa bao giờ văn học có tính chất quan phương hơn là dưới triều Lê
Thánh tông. Vì văn thần được Nhà nước trọng đãi, cho nên phong trào sáng
tác văn học tác động cả đến những người ở ngoài hàng ngũ nho sĩ Thái
Thuận vốn là lính dạy voi, sau cũng học, thi đỗ, làm quan ở Viện Hàn Lâm,
sáng tác thơ văn rất nhiều và được Lê Thánh tông cho làm Tao đàn phó
nguyên súy. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (Thiên Chương) đã viết về
không khí sáng tác văn học thời đó như sau: “Triều Hồng Đức, văn giáo phát
đạt, các quan về hàng võ đều phải đọc sách, không những các viên quan to
như đố đốc Lê Hoằng Dục, Lê Niệm, mà cả đến những người không có tiếng
ở đương thời cũng có những câu đề vịnh thanh tân có thể truyền tụng…”
Trong không khí văn học như vậy, không phải chỉ có bộ phận văn học
chữ Hán phát triển mà thôi,, mà văn học chữ Nôm cũng tiến lên một bước dài.
Văn học chữ Nôm đã hình thành từ đời Trần. Sang đời Lê, văn học chữ Nôm,
với tinh thần dân tộc của thời đại, tất nhiên phải trưởng thành hơn trước. Một
số khá nhiều tác phẩm thất truyền, nhưng ngày nay vẫn còn lại những tác
phẩm tương đối lớn, đủ giúp chúng ta đánh giá bộ phận văn học đó. Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi gồm 254 bài thơ là tác phẩm thơ Nôm lớn. Chỉ một
tác giả thôi – dầu là tác giả lớn đi nữa – mà đã làm đến chừng ấy bài thơ Nôm
thì điều đó đủ chứng tỏ rằng việc sáng tác thơ Nôm lúc bấy giờ không còn là
một thí nghiệm mò mẫm nữa. Đến nửa sau thế kỷ thứ XV thì có Hồng Đức
quốc âm thi tập gồm 328 bài thơ Nôm, do Lê Thánh tông và văn thần sáng
tác. Lại có bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn chép trong Thiên nam dư hạ
tập, có lẽ là của Lê Thánh tông. Có những tài liệu còn cho rằng những truyện
thơ Nôm như Kim Lăng ký (của Đỗ Cận) và Phan Trần (tương truyền là của
Đỗ Cận) cũng đã xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ XV – Lê Thánh tông không
những khuyến khích văn thần sáng tác văn thơ Nôm mà bản thân cũng đã
viết nhiều tác phẩm. Điều đó cũng nói lên sức mạnh của phong trào sáng tác
văn thơ Nôm và bước thắng lợi mới của ngôn ngữ dân tộc trên văn đàn. Mặc
dầu sự khinh thị cố hữu của giai cấp phong kiến đối với văn học chữ Nôm,
đến thời kỳ này vua quan cũng đua nhau sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc.
Tất nhiên văn thơ Nôm vẫn không được coi trọng như văn thơ chữ Hán,
nhưng hiện tượng trên chứng tỏ rằng tinh thần dân tộc đã ảnh hưởng đến cả
những người ở vị trí cao nhất của Nhà nước phong kiến thế kỷ thứ XV.
***
Nhận định về tình hình văn học thế kỷ thứ XV, không thể quên được
thái độ trân trọng đối với di sản văn học của dân tộc thể hiện ở việc làm rất có
ý nghĩa của cả mấy thế hệ trí thức dân tộc trong thế kỷ thứ XV: sưu tập và
biên soạn lại các tác phẩm thơ văn của nước Đại Việt trước thế kỷ thứ XV.
Kho tàng văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm từ thế kỷ thứ XIV trở
về trước rất phong phú. Trải qua hơn hai chục năm binh hỏa, kho tàng ấy bị
hủy hoại đi nhiều. Nhưng sự hủy hoại ấy đã đạt đến mức nghiêm trọng thì
chính là do chính sách của giặc Minh. Theo lệnh của Minh Thành tổ, tướng
Minh trước hết là Trương Phụ đã thu vét tất cả các văn hóa phẩm của nước
ta đem về Kim Lăng và phá hủy những cái gì không đem đi được.
Sau khi giải phóng đất nước, các vua Lê nhiều lần xuống chiếu sưu tầm
văn thơ đời trước. Và nhiều nhà văn hóa dân tộc đã có công lao rất lớn trong
việc phục hồi được phần nào các văn bản trước thế kỷ thứ XV. Nguyễn Trãi
đã thu nhặt thơ đời Trần, Hồ, kể cả thơ Nôm, dâng lên nhà vua. Phan Phu
Tiên và Chu Xa đã sưu tập các bài thơ đời Trần và đầu đời Lê thành sách
Việt âm thi tập và Lý Tử Tấn có bình duyệt thi tuyển này, Dương Đức Nhan
biên soạn Cổ kim thi gia tinh tuyển (còn có tên là Tinh tuyển chư gia thi tập)
và Lương Như Hộc duyệt lại; sách này gồm có thơ của 13 tác giả cuối đời
Trần, đời Hồ và đời Lê, kèm theo chú thích. Hoàng Đức Lương biên soạn
Trích diễm thi tập trong đó có thơ đời Trần và đầu đời Lê.
Lê Quý Đôn, trong Kiến văn tiểu lục (Thiên chương), bình luận về các
công trình biên soạn này, có viết: “Hồi quốc sơ (ý nói đầu nhà Lê) Phan Phu
Tiên chép những bài thơ của vua chúa, công khanh và sứ thần về đời nhà
Trần, lại chép những bài ngự chế của Cao đế (tức Lê Thái tổ), Văn đế (tức Lê
Thái tông) cùng những bài ngâm vịnh của các nho thần về bản triều (tức triều
Lê), thành quyển Việt âm thi tập; Dương Đức Nhan lại chép nối những bài
không có trong Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên thành Tinh tuyển thi tập,
Hoàng Đức Lương lại chép nối theo những bài còn thiếu trong hai tập trên,
thành Trích diễm thi tập. Hợp cả ba tập thơ ấy mà xem, thì văn thơ nước Nam
có thể tìm thấy đầy đủ”. Xem thế thì các nhà biên soạn đã có ý thức kế tiếp
nhau bổ sung cho công việc của nhau với mục đích không bỏ sót những áng
thơ hay của ông cha mà họ có thể tìm được.
Trên đây là các công trình sưu tập và biên soạn về thơ. Về văn, cũng
có những công trình biên soạn có giá trị. Lương Như Hộc biên soạn cổ kim
chế từ tập, Vũ Cán sưu tập các bài văn tứ lục trong sách Tứ lục bị lãm. Hoàng
Tụy Phu sưu tập các bài phú đời Trần mạt và Lê sơ trong sách Quần hiền
phú tập. Sách này, do Nguyễn Thiên Túng đề tựa năm 1457, gồm có các bài
phú của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, v.v… (đầu đời Lê) và 13 bài phú đời
Trần. Trong bài tựa sách Trích diễm thi tập, Hoàng Đức Lương, sau khi nêu
bốn lý do khiến cho thơ văn cổ không lưu truyền ở đời được, đã viết như sau:
“Vì bốn lý do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những
vật bền như đá, như vàng, lại được quý thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi
chìm, huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mong manh, để trong cái níp cái
hòm, trải qua mấy lần binh hỏa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách
nát tan tành? Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ Bách gia đời nhà
Đường, còn như thơ văn thời Lý, Trần thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi
khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than
thở, có ý đỗ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ. Than ôi! một nước văn
hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, lẽ nào không có quyển sách nào có thể làm
căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường, như thế chả đáng
thương xót lắm sao?” Xem như vậy đủ biết tinh thần dân tộc đã thúc đẩy
Hoàng Đức Lương và các nhà nho khác làm công việc sưu tập và biên soạn
thơ văn các đời trước. Chính cũng nhờ những công trình sưu tập và biên
soạn ấy mà một số tác phẩm thơ văn đời Trần còn lưu lại được đến ngày nay.
Những công trình của Lê Quý Đôn và của Bùi Huy Bích sau này như Toàn
Việt thi lục, Hoàng Việt văn hải, Hoàng Việt thi văn tuyên, Lịch triều thi sao
đều căn cứ vào các công trình của các soạn giả thế kỷ thứ XV. Sự nghiệp của
những người này biểu hiện lòng yêu nước, niềm trân trọng đối với di sản văn
hóa của tổ tiên và ý thức bảo vệ di sản ấy để truyền lại cho con cháu đời sau.
Sự nghiệp của họ có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử văn hóa, lịch sử văn học
của nước ta.
***
III. HAI THỜI KỲ VĂN HỌC CỦA THẾ KỶ THỨ XV
Đến cuối thế kỷ thứ XIV, nền văn hóa Đại Việt, hậu thân của nền văn
hóa Lạc Việt thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc xưa kia, đã trở nên rất phong phú, sau
gần năm trăm năm phát triển. Sang đầu thế kỷ thứ XV, văn hóa là một trong
những sức mạnh góp phần vào cuộc chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, và
cuộc chiến đấu ấy đi đến thắng lợi thì lại đã góp phần bảo vệ và phát huy văn
hóa.
Sau kháng chiến, nhân dân ta xây dựng lại đất nước với một qui mô to
lớn hơn trước thì đồng thời lại đã phục hưng và phát triển nền văn hóa Đại
Việt. Nhà Lê đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp ấy. Nếu kể từ năm 1418 là
khi Lê Lợi khởi nghĩa cho đến năm 1505 (khi Lê Hiến tông mất), thì thời kỳ
thịnh của nhà Lê kéo dài non một trăm năm. Đó là thời kỳ xây dựng và củng
cố Nhà nước phong kiến quan liêu. Nhà Lê hình thành dần trong cuộc kháng
chiến và được các triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái tông, Lê Nhân tông tổ chức
theo một qui mô ngày càng lớn. Cho nên thời kỳ xây dựng của Nhà nước đó
phải coi như bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa (năm 1418) cho đến hết đời Lê Nhân
tông (năm 1459) tức là nửa đầu thế kỷ XV. Nửa đầu thế kỷ thứ XV là một thời
kỳ có nhiều biến cố quan trọng: có biến cố thì liên quan đến vận mệnh toàn
thể dân tộc như cuộc kháng chiến cứu nước, có biến cố thì liên quan đến
những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến như cái chết của Lê Thái
tông, việc thoán đoạt của Nghi Dân. Đến năm 1460, khi triều thần phế Nghi
Dân và lập Lê Thánh tông thì Nhà nước phong kiến quan liêu đời Lê đã ra
khỏi cơn khủng hoảng nội bộ.
Như vậy là Nhà nước phong kiến đời Lê đã trưởng thành dần trong đấu
tranh và nửa đầu thế kỷ thứ XV là thời kỳ sinh cơ lập nghiệp gian lao của Nhà
nước phong kiến mới. Nhà nước phong kiến ấy khác với Nhà nước phong
kiến đời Trần ở chỗ quan liêu đã hoàn toàn thay thế quí tộc để giúp vua trong
việc cai trị. Nho sĩ, tầng lớp trí thức của giai cấp phong kiến, tầng lớp trong đó
Nhà nước phong kiến quan liêu chọn lựa nhân viên của mình, là kẻ đại diện
cho giai cấp phong kiến trong việc xây dựng chế độ. Họ đã gian khổ chiến
đấu, có khi phải hy sinh, để thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình của mình. Trong
cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, họ đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân,
trong cuộc chiến đấu để xây dựng đất nước vừa được giải phóng, họ hiểu
rằng phải dựa vào sức mạnh ấy. Cho nên, vượt ra ngoài khuôn khổ của ý
thức hệ Nho giáo, họ đã thể hiện được – tất nhiên là ở những chừng mực
khác nhau – quan điểm thân dân. Nhiều người đã phát biểu lên được những
yêu cầu của dân tộc, những nguyện vọng của nhân dân và do đó mà đã xứng
đáng là những trí thức của dân tộc. Nhiều người đã viết văn, làm thơ, biên
soạn văn học, sử học, triết học, v.v… Là lực lượng sáng tác chủ yếu lúc bây
giờ, họ đã phản ánh trong các tác phẩm cuộc đấu tranh gian khổ và vinh
quang của dân tộc, đã biểu lộ trong các tác phẩm nỗi niềm ưu ái trước những
khó khăn của thời cuộc và ý chí kiên quyết đấu tranh cho lợi ích của tổ quốc,
cho lý tưởng vì dân tộc. Và nửa phần đầu thế kỷ thứ XV là giai đoạn văn học
phản ánh cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc và những cố gắng nhằm xây
dựng chế độ. Trong giai đoạn văn học này nổi bật lên hàng đầu là Nguyễn
Trãi và bên cạnh ông thì Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn cũng là những ngôi
sao sáng trên văn đàn. Ngoài ra, Vũ Mộng Nguyên, Lý Tử Cấu, Nguyễn Thời
Trung, Trần Thuấn Du, Phan Phu Tiên, Nguyễn Thiên Tích, Trình Thanh,
Nguyễn Húc, Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên cũng là những người đáng chú
ý nhất trong số trên sáu chục tác giả.
Đến khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua thì triều đại mới đã vững mạnh.
Nhà nước mở thêm đồn điền, lập thêm chợ mới, qui định đơn vị đo lường,
đơn vị tiền tệ, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế “để cho nguồn tích trữ trong
nước được dồi dào” mà cũng là để tăng thêm nguồn cung cấp tô thuế cho
Nhà nước. Nhà vua cho vẽ lại bản đồ, chia lại các đơn vị hành chính, hiệu
đính quan chế để củng cố bộ máy cai trị, chế tác bộ luật Hồng Đức để xác
định trật tự mới. Nhà nước phong kiến cũng tổ chức lại quân đội, củng cố
quốc phòng để sẵn sàng đối phó với ngoại xâm. Không khí anh hùng và tinh
thần dân tộc của thời kỳ kháng chiến chống Minh vẫn còn ảnh hưởng đối với
giai cấp phong kiến, cho nên Nhà nước vẫn còn chiếu cố đến dân. Nhưng
mặt khác, khi đã cảm thấy yên ổn ở địa vị thống trị thì giai cấp phong kiến lại
thỏa mãn với sự nghiệp của nó và cố gắng củng cố trật tự hiện hành có lợi
cho nó. Tầng lớp trí thức của giai cấp phong kiến mà lý tưởng lúc này là chăm
lo phục vụ đắc lực cho nhà vua, mà mục tiêu chủ yếu không phải là khắc phục
những tai họa trực tiếp của dân tộc, tất là không có được khí thế hào hùng
như cha anh lớp trước. Ấy là chưa kể đến một số thì lại chỉ bon chen trên con
đường khoa hoạn mà mất cả chí khí tự lập. Tuy vậy, không ít người vẫn còn
giữ được tinh thần yêu nước và nỗi niềm ưu ái đối với dân tộc, đối với nhân
dân. Tình hình kể trên đã phản ánh vào nội dung văn học. Do sự phát triển
của tầng lớp nho sĩ, do việc triều đình đứng đầu là Lê Thánh tông, khuyến
khích văn học cho nên số tác giả và tác phẩm ngày càng nhiều. Lê Thánh
tông vừa sáng tác nhiều, vừa lãnh đạo việc sáng tác. Chung quanh Lê Thánh
tông là cả một đội ngũ văn thần và trong số 28 người được tập hợp trong hội
Tao đàn thì trước hết phải kể đến Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Thái Thuận,
Lương Thế Vinh, Đàm Văn Lễ v.v… Ngoài hội Tao đàn thì Nguyễn Trực,
Nguyễn Bảo, Vương Sư Bá, Phù Thúc Hoành, Ngô Chi Lan v.v… là những
người tiêu biểu trong số trên bảy chục tác giả của nửa cuối thế kỷ thứ XV.
Việc thành lập hội Tao đàn vào những năm cuối cùng của thế kỷ là cao
điểm của phong trào sáng tác văn học cung đình. Nhưng hội Tao đàn đã đưa
văn học cung đình vào cái lối xướng họa khuyên sáo và do đó mà phần nào
đã làm khô cạn những cảm hứng chân thành. Và chính việc thành lập hội Tao
đàn, cao điểm của phong trào sáng tác cung đình, lại báo hiệu sự cáo chung
của phong trào ấy.
IV. ÂM ĐIỆU ANH HÙNG LÀ ÂM ĐIỆU CHỦ ĐẠO TRONG VĂN HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XV
Từ năm 1407, sau khi giặc Minh sang xâm lược, cho đến năm 1428, khi
đất nước giải phóng, dân tộc ta đã trải qua một thời kỳ đấu tranh gian khổ. Và
từ năm 1428 đến năm 1459 tức là già phần tư thế kỷ tiếp theo, nhiều nhiệm
vụ nặng nề như khôi phục nền kinh tế dân tộc, xây dựng lại đất nước, đã đề
ra cho những thủ lĩnh của cuộc kháng chiến. Cuộc đấu tranh để hoàn thành
những nhiệm vụ này cũng rất gian khổ vì trong hàng ngũ những thủ lĩnh trước
kia dần dần lại có sự phân hóa. Sự phân hóa đưa đến những mâu thuẫn gay
gắt. Ngay sau khi thành công, Lê Lợi đã sát hại công thần: Trần Nguyên Hãn
vì là dòng dõi quí tộc nhà Trần cũ, Phạm Văn Xảo vì có danh vọng lớn ở đất
Bắc, bèn bị coi là có thể nguy hiểm đối với họ Lê cho nên đã bị giết. Sau đó
Lê Thái tông lại giết Lê Sát, Lê Ngân… Lê Nhân tông thì giết Lê Khả, Lê Khắc
Phục… Nguyễn Trãi cũng bị giết một cách rất oan ức sau cái chết khó hiểu
của Lê Thái tông năm 1442. Có nhiều lý do đưa đến những sự sát hại này,
nhưng có hai nguyên nhân chính. Một là sự tranh giành quyền thế giữa các
tập đoàn khác nhau, Hai là mâu thuẫn giữa hai đường lối là đường lối thân
dân của những người nhìn xa thấy rộng và biết quan tâm đến lợi ích cao cả
của tổ quốc và đường lối ngược lại của những kẻ bảo vệ quyền lợi ích kỷ và
thiển cận của giai cấp phong kiến mới.
Những người viết văn làm thơ lúc bấy giờ đã trải qua những cơn thử
thách gay go. Và những mâu thuẫn quyết liệt đã đập mạnh vào cảm quan của
họ, phản ánh trong tác phẩm của họ.
Trong thời Minh thuộc, trừ một bộ phận nhỏ đầu hàng và làm tay sai
cho giặc như bọn Lương Nhữ Hốt, thì đa số nho sĩ đại khái có thể chia làm
hai loại người. Một số không chịu đầu hàng giặc đã mai danh ẩn tích để giữ
gìn tiết tháo. Một số có thái độ tích cực hơn đã tham gia vào cuộc kháng
chiến của dân tộc mà số này thì đông hơn. Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên,
Nguyễn Húc, Nguyễn Thời Trung tiêu biểu cho loại thứ nhất, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Đào Công Soạn, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích v.v…
tiêu biểu cho loại thứ hai. Cũng trong loại thứ hai này phải kể đến các nhà nho
đã tích cực tham gia vào việc xây dựng đất nước, khi kháng chiến đã thắng
lợi, như Phan Phu Tiên, Trình Thuấn Du, Lương Như Hộc, Lê Thiếu Dĩnh, Bùi
Cầm Hổ, Phan Thiên Tước, Trình Thanh, Nguyễn Phu Tiên, v.v…
Bàn về phong độ kẻ sĩ hồi Lê sơ, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục
(Tài phẩm) có viết như sau: “Hồi Lê sơ, sau khi loạn lạc, nho sĩ thưa thớt.
Người chầu chực trong triều đường như Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ
phần nhiều bộc lộ chí khí sáng suốt có những Lời nói quả cảm, còn những
người ngao du nơi núi sông như Lý Tử Cấu, Nguyễn Thời Trung giữ tiết tháo
trong trắng, không mơ tưởng đến giàu sang”. Ở đoạn sau, bàn về Nguyễn
Trãi, họ Lê viết rằng đó là “người có công lao đứng đầu về việc giúp rập
vua… nghìn năm không thể mai một được”. Bàn về Lý Tử Tấn và Trình
Thuấn Du, họ Lê lại viết rằng “Lý Tử Tấn giữ chức Hàn lâm học sĩ, Trình
Thuấn Du giữ chức Trung thư thị lang, đều là người danh vọng đức độ, kỳ
cựu, túc học, lúc ấy người ta gọi là Lý – Trình”.
Bàn về văn tài thế kỷ thứ XV, Bùi Huy Bích, trong Lữ trung tạp thuyết
(quyển hạ) viết rằng “Lời nhanh ý mạnh, không lúc nào quên quân thân thì có
Lê Trãi, còn như khí khái thì có Lý Tử Cấu”.
Họ Lê và họ Bùi đều thấy được một điều căn bản là nho sĩ đầu đời Lê
có hai loại, một loại thì tích cực chiến đấu để giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước, một loại thì cố gắng giữ tiết tháo trong thời loạn. Và hai loại thái độ
đối với cuộc sống như thế đã phản ánh vào trong văn học. Có loại tác phẩm
biểu hiện lối sống nhàn tản, ca ngợi phẩm chất cao quí của kẻ sĩ ẩn dật.
Nhưng quan trọng hơn và có ý nghĩa chủ đạo hơn là loại tác phẩm phản ánh
cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng đất nước.
Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Húc nặng
về xu hướng nhàn tản. Lý Tử Cấu (không rõ năm sinh và năm mất), là người
huyện Bình Giang (Nay thuộc tỉnh Hải Hưng), đậu thái học sinh trong đời Hồ,
được nhà Hồ bổ làm hữu dụ đức để dạy thái tử, nhưng đã từ chối. Giặc Minh
sang cướp nước ta, muốn bổ ông làm học quan, nhưng ông không theo, bỏ đi
ẩn dật, lấy ngâm vịnh làm vui. Đến khi nhà Lê được thành lập, Nguyễn Mộng
Tuân có ý muốn tiến cử ông với triều đại mới, nhưng ông cũng từ chối. Có lẽ
ông tự cho mình là dân nhà Trần cũ thì đã đành là không theo kẻ thoán đoạt
là nhà Hồ và kẻ cướp nước là nhà Minh mà cũng không nên phục vụ cho nhà
Lê là triều đại khác chăng? Trong bài thơ chữ Hán “Thuật chí” ông viết:
“Bình sinh vị cải Tang quân nghiễn,
Đáo xứ liêu vi Vương Xán lâu.
Túng sử thế nhân đa tổn đạp,
Dã ưng vô nộ đáo hư châu”.
nghĩa là:.
“Suốt đời chưa hề đổi cái nghiên viết văn của Tang quân,
Có lúc sực nhớ lại bài phú Đăng lâu của Vương Xán.
Giá phỏng người đời nhiều lời quở trách,
Cũng đành không giận như khi gặp chiếc thuyền không va phải”
Hai câu trên nói lên quyết tâm dùi mài học tập, nhưng chí không phải ở
chỗ ra làm quan. Hai câu sau ý muốn nói cố giữ tâm sự thản nhiên trước sự
thế, không oán đời, không trách người.
Trong bài thơ chứ Hán “Ký Vũ tiên sinh”, gửi Vũ Mộng Nguyên, ông
viết:
“Khả kham Nguyên Lượng thời bất ẩm,
Nhi huống Tử Mỹ phương vô gia.
Văn quân cố lý phần du hảo,
Nhung mã độc tồn canh dữ đạo.
Hạnh hữu kim nhật doanh sưu cừu.
Hội tác minh niên ngã đông đạo.
Ngã kim hư đĩnh tùy thiển ba,
Cử thế cẩu tòng ngô ủy đà.”
nghĩa là:
“Có thể chịu được như Nguyên Lượng có lúc không uống rượu,
Huống chi lại như Tử Mỹ đương không có nhà.
Nghe nói quê hương ông vui vẻ lắm,
Qua Hồi chiến tranh vẫn còn nhiều thóc.
May có ông ngày nay sửa sang lại nơi ở ẩn,
Để sang năm ông sẽ làm chủ nhân của tôi.
Tôi sẽ bơi thuyền nhẹ theo làn nước mà đến,
Tất cả người đời đều vội vã, tôi vẫn ung dung.”
Tự ví với Đào Nguyên Lượng (tức Đào Tiềm) và Đỗ Tử Mỹ (tức Đỗ
Phủ), Lý Tử Cấu lấy làm vui về phẩm chất trong sạch của mình. Thái độ ung
dung, an bần lạc đạo, không hối hả mưu cầu danh lợi mà ông nhấn mạnh
chính là điều mà hậu nho muốn học tập. Tuy nhiên, trong thơ của Lý Tử Cấu
toát lên khí vị ưu du nhàn tản, khá lạc lõng trong một thời đại sôi động mà âm
điệu chủ đạo trong văn học là âm điệu anh hùng.
Vũ Mộng Nguyên, chưa rõ năm sinh và năm mất, người làng Đông Sơn
(nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc), cũng có cái an nhiên thích thảng
của Lý Tử Cấu, nhưng lại có thái độ nhập thế hơn. Đậu thái học sinh năm
1400 (cùng khóa với Nguyễn Trãi), ông không làm quan với nhà Hồ. Trong
suốt thời gian giặc Minh chiếm đóng nước ta, ông ở ẩn, không chịu hợp tác
với chúng. Đầu đời Lê, ông ra làm Quốc tử giám tư nghiệp, về sau được
thăng, đến Quốc tử giám tế tửu tức là chức vụ học quan cao nhất. Đến năm
74 tuổi ông mới về hưu trí.
Thơ Vũ Mộng Nguyên thể hiện thái độ ung dung của một con người tin
ở phẩm chất trong sạch của mình. Trong bài thơ chữ Hán “Kỷ hợi tuế trùng
dương” (Tiết trùng dương năm Kỷ hợi) ông viết:
“Sổ bôi cánh tả thù giai tiết,
Nhất thủ hoàn ngâm tị ác tường.
Nội tỉnh thử thân vô biệt sự,
Tự tri chỉnh trực tất an khang.”
nghĩa là:
“Rót một vài chén rượu để đón tiết lành,
Ngâm một bài thơ để đuổi cái rủi.
Xét thân này chẳng có việc gì cả,
Tự biết con người chính trực tất được an khang.”
Vũ Mộng Nguyên tự tin ở mình cho nêh tỏ ra rất an nhiên trước sự đối
lập giữa kiếp người phù du và thiên nhiên vĩnh cửu, một sự đối lập thường thì
hay đem lại nỗi buồn cho các nhà thơ. Trong bài thơ chữ Hán “Văn vọng”
(Ngắm cảnh chiều), ông viết:
“Nhật nhập thúy phong khai họa chướng,
Yên lung giang thụ triển la duy.
Anh hùng dĩ hĩ, hào hoa tận,
Duy hữu Nam Sơn bất chuyển di.”
nghĩa là:
“Mặt trời lặn vào sau núi biếc mở bức bình phong vẽ,
Khói lồng cây trên sông, dàn bức màn là.
Bậc anh hùng chết, trang hào hoa hết,
Chỉ có núi Nam Sơn là không chuyển dời.”
Vũ Mộng Nguyên có uy vọng ông thầy của nhiều thế hệ nho sĩ. Và tuy
làm quan với nhà Lê, nhưng ông không thể thỏa mãn với cảnh phú quí
thường ràng buộc đám triều thần. Ồng đã thể hiện ý tứ ấy trong bài thơ chữ
Hán “Bồn tùng” (Cây thông trong chậu):
“Thốn căn di tự lĩnh văn thâm,
Thác tích bồn trung, trưởng lục âm.
Yển kiển đương song tài sổ xích,
Sóc xâm xuất hạm nhạ thiên tầm.”
nghĩà là:
“Tấc gốc lấy từ trong mây núi đem về,
Gửi mình vào chậu, lớn trong bóng râm.
Tuy thân cằn cỗi trước cửa sổ mới vài thước cao,
Mà cành nảy nở bên lan can muốn vượt nghìn tầm.”
Phải chăng họ Vũ là cây thông từ núi cao đem về trồng trong chậu
cảnh? Nếu quả là như thế thì ông cũng như cây thông ấy luôn luôn muốn
vượt ra khỏi vòng tù túng.
Cũng như Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Thời Trung có thái độ thích thảng
an nhiên trong cuộc sống. Nguyễn Thời Trung, chưa rõ năm sinh và năm mất,
người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình), đi ở ẩn
trong thời gian giặc Minh chiếm đóng nước ta, năm 1435 ra làm Quốc tử giám
giáo thụ, được ít lâu về hưu, dạy học ở quê nhà, rất có uy vọng. Người đương
thời gọi ông là Như Ngu cư sĩ. Như Ngu cư sĩ lúc nào cũng ung dung vui với
đạo trời. Trong bài thơ chữ Hán “Tống Phạm giáo thụ trí sĩ” (Tiễn quan giáo
thụ họ Phạm về hưu), ông viết:
“Hành, sắc tần châm Hòe thị liễu,
Xuân phong sơ thưởng Nhĩ hà thuyền.
Đáo gia liệu tưởng hồn vô sự,
Ẩn kỷ khan xuân lạc tính thiên.”
nghĩa là:
“Nhiêu lần rót rượu mời, tiễn đưa có liễu chợ Hòe,
Vừa mới nổi gió xuân, bước lên thuyền sông Nhĩ.
Về đến nhà chắc rằng an nhiên không bận bịu,
Dựa ghế của người ở ẩn, xem mùa xuân, vui tính trời.”
Nguyễn Thời Trung chúc bạn an nhiên không bận rộn, có thể dựa ghế
của người ở ẩn xem mùa xuân, vui tính trời, mà điều đó chính cũng lại là
nguyện vọng của ông. Trong bài thơ chữ Hán “Lưu biệt Hồ giám sinh” (từ biệt
chàng giám sinh họ Hồ), ông tâm sự với người học trò của mình rằng:
“Bất vị bần vô mục túc bàn,
Nhãn hôn nhĩ quí giảng luân nan.”
nghĩa là:
“Không lấy làm nghèo vì trên mâm không có rau đậu,
Mắt hoa tai điếc khó mà giảng dạy luận đàm.”
Chẳng bao lâu ông sẽ về nghỉ ở quê nhà tại làng Bối Khê và nếu muốn
đến thăm ông thì:
Tha niên nhược phỏng u cư xử,
Bối thủy dương dương trúc vạn can.”
nghĩa là:
“Năm sau nếu có đến tìm ta ở chỗ ở ẩn,
Thì đó là sông Bối Khê nườm nượp vạn cây trúc.”
Nguyễn Thời Trung cũng như Vũ Mộng Nguyên, tuy làm học quan với
nhà Lê nhưng cái chí vẫn để vào cảnh điền viên. Trong bài thơ chữ Hán “Lưu
biệt Giám trung chư tiên sinh” (Từ biệt các ông ở trong Quốc tử giám) làm khi
về hưu trí, ông viết:
“Tứ qui hân đắc thỉnh,
Tích biệt độc trì hồi.”
nghĩa là:
“Được nhà vua cho về, mừng rằng lời xin của mình đã được đáp
ứng,
Tiếc rằng phải chia tay nhau nên mới chậm ra về.”
Vũ Mộng Nguyên và Nguyễn Thời Trung là những ông thầy có uy vọng
đầu đời Lê. Thơ của Vũ Mộng Nguyên hiện còn giữ lại được không nhiều lắm
(38 bài còn sót lại từ Vi Khê thi tập), thơ của Nguyền Thời Trung còn giữ lại
được thì lại càng ít (5 bài chép trong Toàn Việt thi lục). Không thể chỉ qua số
bài thơ mà giải thích vị trí cao của hai ông trong sinh hoạt văn hóa, văn học
lúc đương thời. Trong số những bài thơ còn giữ lại được ấy, không thấy vang
vọng gì của cuộc kháng chiến vĩ đại, cũng không thấy phản ánh sự nghiệp
xây dựng đất nước sau khi giặc tan. Tuy nhiên, bên cạnh những lời thơ bày tỏ
tâm trạng ưu du nhàn tản, ở Vũ Mộng Nguyên và Nguyễn Thời Trung cũng
thấy thể hiện những nhân cách trong sạch, cũng thấy niềm tin ở phẩm giá và
khả năng tu dưỡng của con người. Đó có lẽ là đóng góp của hai ông vào
truyền thống văn hóa của dân tộc.
Nguyễn Húc có phong cách khác với Vũ Mộng Nguyên và Nguyễn Thời
Trung. Về hành trạng của Nguyễn Húc, hiện nay không còn tư liệu nào ghi
chép rõ. Chỉ biết ông sống vào đàu thế kỷ thứ XV và hình như có lúc làm
chức quan nhỏ.
Nguyễn Húc không có tâm sự phóng khoáng của Vũ Mộng Nguyên,
không có thái độ an nhiên như Nguyễn Thời Trung, mà cũng không có thái độ
bình thản, nhiều khi đi đến chỗ bàng quan như Lý Tử Cấu. Trong thơ ông
hiện lên nỗi niềm ưu ái của một người đau xót vì thế sự. Trong bài thơ chữ
Hán “Phong vũ thán” (Than cảnh gió mưa), ông ca tụng cảnh nhàn tản:
“Duy hữu u nhàn cảnh đắc nhàn,
Vi ngầm tiễn tận tây song chúc.”
nghĩa là:
“Chỉ có người ẩn dật chiếm riêng một cách thanh nhàn,
Ngồi bên cửa sổ phía tây, cắt hoài tàn nến mà khẽ ngâm thơ.”
Tập thơ “Cưu đài” của ông phần lớn làm trong đời Minh thuộc (bài tựa
đề năm Thuận Thiên thứ hai đời Lê Thái tổ, tức là năm 1429). Tâm sự bộc lộ
trong ấy là tâm sự của một người dân mất nước. Tròng bài thơ chữ Hán “Hiểu
thán” (than thở lúc buổi sáng) ông viết:
“Ngộ mị vô tri giả,
Bồi hồi hữu thán yên.
Mang mang hoài hải kiệu,
Lịch lịch ngộ phong yên.”
nghĩa là:
“Thức ngủ không ai biết ta,
Lòng có lúc bồi hồi nên thở than.
Núi non biển cả bát ngát bao la,
Gió đưa mây khói chập chờn.”
Rõ ràng là một tâm sự bơ vơ chán chường. Trong bài thơ chữ Hán
“Phong vũ hối” (Gió mưa mù mịt) tâm sự đó lại được thể hiện rõ hơn:
“Thu khí nãi như hử,
Khách tầm lương dữ đông.
Thảo gian văn lạc diệp,
Phong lý đệ minh cùng.
Tử dã giang vân tế,
Nhất song yên ái mông,
Mang mang tọa lai tĩnh,
Hiểu dạ tại kỳ trung.”
nghĩa là:
“Hơi thu thường hiu hắt,
Làm cho lòng người cùng lạnh theo.
Trên mặt cỏ nghe tiếng lá rụng,
Trong luống gió nghe tiếng dế kêu.
Khắp bốn phía, đám mây trên mặt sông che phủ,
Bên chiếc cửa sổ hơi khói tỏa mịt mù,
Trong cảnh mông lung ấy ta ngồi im lặng,
Ngày đêm cảnh vật chìm đắm trong đó cả.”
Một không khí quạnh hiu, lạnh lẽo, mờ mịt im ắng bao phủ lên thi nhân.
Con người thu nép lại, cảm thấy lòng mình cũng lạnh theo. Chưa rõ bài thơ
này tác giả làm vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào. Bài thơ thể hiện một thái độ
tiêu cực, bị động của một con người không biết làm gì để thoát ra khỏi cảnh
chìm đắm ấy. Hoặc giả đây là tâm sự của Nguyễn Húc khi chưa tìm ra con
đường đi sáng sủa là con đường cứu nước, tham gia vào sự nghiệp do Lê
Lợi lãnh đạo chăng? Trong bài thơ chữ Hán “Thương loạn” ông viết:
“Hoang nguyên nhất vọng động hồi cư,
Quỉ thảo thương xuân sài hổ dư. “
nghĩa là:
“Trông ra cánh đồng hoang, lòng quá thương đau, quay xe trở lại,
Sau khi giặc giã tàn phá,, đồng ruộng chỉ trơ ra bãi cỏ năn, không
còn xuân sắc nữa.”
Đau xót vì cảnh tàn phá của đất nước, ông cảm thấy mình bơ vơ trong
cảnh hoang vu:
“Binh hỏa thập niên sinh khí tận,
Thương châu thiên lý mộng do hư.
Sơn trung tự hướng “Thanh mê” phạn,
Dĩ thượng thùy truyền Hoàng Thạch thư
Hồi thủ Trường An thiên chính viễn,
Mang mang vô xứ ký ngô lư.”
nghĩa là:
“Binh lửa trải mười năm, sinh khi đã hết rồi,
Thương châu ngoài ngàn dậm, chỉ tìm thấy trong giấc mộng hư
không.”
Ở trong núi tự kiếm lấy cơm Thanh nê mà ăn,
Trên cầu Hạ Bì kia, ai truyền cho ta sách Hoàng Thạch.
Ngảnh lại nhìn đất Tràng An thăm thẳm dưới trời xa,
Mênh mang chẳng biết chốn nào có thể gửi được túp nhà của
mình.”
Có lẽ bài thơ này làm trong thời gian giặc Minh chiếm đóng nước ta, và
Nguyễn Húc phải lánh mình đi ở ẩn. Ông mong được như Trương Lương gặp
người tiên ban cho sách quí để học phép lạ cứu nước, cứu dân chăng?
Đôi khi Nguyễn Húc cũng có con mắt của Đỗ Phủ nhìn thấu được cảnh
trái ngược trong xã hội như trong bài thơ chữ Hán “Phong vũ thán” (Than gió
mưa):
“Chinh phu sách kiển hoạt hoạt nê,
Cổ giản nguy kiêu hành độc lộc.
Tỳ bà đình hạ thủy tiêu hồn,
Phượng hoàng đài biên vân đoạn mục.
Trường An quí nhân phương minh trâu,
Thử thời du y quải triều phục.
Nhược bối thực nhục kham thành danh,
Hoặc vân mại thái vị miễn tục.”
nghĩa là:
“Người chinh phu cưỡi con lừa quê lội qua bùn trơn,
Đi qua khe sâu, cầu lung lay một cách nguy hiểm.
Dưới đình Tỳ Bà nước cuồn cuộn nổi lên làm cho người ta phải
tiêu ma hồn phách.
Bên đài Phượng hoàng, làn mây ngăn chặn cả tầm con mắt.
Trong lúc ấy bọn quý nhân ở Tràng An cưỡi xe rung nhạc ngựa,
Họ mặc áo đầu khoác ngoài triều phục,
Bọn ấy ăn cơm thịt tự cho là danh giá.
Và bảo những người bán rau là phường hèn hạ.”
Tác giả định phản ánh xã hội thời Lê sơ sau cuộc kháng chiến chăng?
Nếu đúng như vậy thì ông cũng đã nói lên được một sự thực là một bộ phận
không nhỏ trong giai cấp phong kiến mới đã bắt đầu sống xa hoa bên cạnh sự
nghèo khổ của chiến binh, của nhân dân.
Nguyễn Húc nhạy cảm trước những sự đau khổ, những nỗi bất công
của cuộc đời. Lời thơ của ông thường lắng xuống, đầy tính chất trữ tình. Tiếc
rằng thái độ bi quan chỉ muốn thấy ở khắp chốn toàn một màu xám đã khiến
cho ông chưa phản ánh được sinh khí của dân tộc, của nhân dân lúc đương
thời.
Nhìn chung thì thấy tuy Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Thời
Trung, Nguyễn Húc giống nhau ở chỗ cùng ca ngợi cảnh sống ẩn dật, nhưng
mỗi tác giả vẫn có phong thái riêng.
Trong thơ văn của họ, cũng có lúc thấy phản ánh cảnh loạn lạc của đất
nước khi giặc Minh sang xâm lược, nhưng không thấy vang vọng các cuộc
chiến đấu của nhân dân ta, đặc biệt là của phong trào Lam Sơn. Đó là vì tài
liệu ít ỏi còn giữ được về các tác giả ấy không phản ánh được trung thực sự
nghiệp sáng tác của họ chăng? Hay là vì bản thân họ không gắn bó chặt chẽ
với phong trào đấu tranh của nhân dân? Những câu hỏi này chỉ có thể giải
đáp trên cơ sở phát hiện đầy đủ về thơ văn của họ. Khí vị ưu du nhàn tản
trong tác phẩm của họ và có vẻ lạc lõng, không ăn nhịp với âm điệu anh hùng
của thời đại.
Kể ra thì hầu như trong tất cả các tác giả đầu thế kỷ thứ XV, ít hoặc
nhiều, đều có những lời thơ mang khí vị ưu du, nhàn tản. Đó là trường hợp
của Nguyễn Thiên Tích, Lý Tử Tấn, Lê Thiếu Dĩnh v.v… Đó cũng lại là trường
hợp của cả Nguyễn Trãi nữa. Họ đều đã tham gia tích cực vào cuộc kháng
chiến giải phóng đất nước, vào sự nghiệp xây dựng lại đất nước. Thế nhưng
ngay cả sau khi nước nhà đã giành lại độc lập, ngay cả khi dân tộc đang trên
đà phục hồi và phát triển mà thơ của họ nhiều khi vẫn nảy ra những nét bi
phẫn thì điều này cũng có lý do không khó hiểu lắm.
Sau cuộc kháng chiến, trong tầng lớp quí tộc của triều đại mới có một
số khá đông đã quay lại phản bội lợi ích của dân tộc, lo vơ vét bóc lột hương
thụ giàu sang trên lưng của nhân dân. Tất nhiên là giai cấp phong kiến mới
nói chung đều sống trên sự bóc lột nhân dân, chứ không riêng gì bọn quí tộc
và đại quan liêu. Nhưng có những nho sĩ cương trực, những người trí thức
yêu nước đã không thể chịu nổi những sự bất công quá đáng, những sự
hoành hành trắng trợn của bọn cầm quyền. Những người như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, Phan Thiên Tước v.v…
tiêu biểu cho bộ phận tích cực trong hàng ngũ nho sĩ quan liêu đã kiên trì đấu
tranh cho “nhân nghĩa”. Họ thấy rõ rằng sau khi giặc Minh đã bị đuổị thì không
phải là cuộc đấu tranh bảo vệ nhân nghĩa đã kết thúc. Trong thơ ca của họ
thường có những lời phê phán đối với những tệ lậu của triều đại mới và
những lời than thở về việc mình muốn giúp nước mà phải lâm vào con đường
công danh. Trong bài thơ chữ Hán “Mạn cảm”, Nguyễn Thiên Tích viết:
“Bán thế lao tâm độc ngũ xa,
Đan biều bất cải cựu sinh nha.
Công danh tự tiếu phụ toàn chỉ,
Tạo vật kham kinh nhi hí sa.
Niệm thiết quân thân đầu nhạ tuyết
Sầu khan biến cố nhãn sinh hoa.”
nghĩa là:
“Nửa đời nhọc lòng đọc năm xe sách,
Đời sống cũ, giò cơm bầu nước không thay đổi.
Tự cười công đanh như đàn bà xếp giấy,
Đáng kinh con tạo như đứa trẻ chơi cát.
Gắn bó quân thân đầu pha tuyết trắng,
Buồn xem biến cố, mắt đồ hoa quang.”
Trong bài thơ chữ Hán “Mộ xuân Diễn Châu tác” (Cảnh cuối xuân ở
Diễn Châu), ông viết:
“Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ;
Thân sự hồn như lạc phẫn hoa.
Tảo tuế ngộ vi danh sở lụy,
Đông môn tu sát Thiệu Bình qua.”
nghĩa là:
“Tâm trạng kẻ làm quan đã như tơ liễu nhuộm bùn,
Thân thế mình cũng lại giống cánh hoa rơi phải chỗ bẩn.
Lúc trẻ đã lầm để công danh làm lụy mình.
Nghĩ chuyện Thiệu Bình giống dưa ở cửa Đông, mà luống những
thẹn thùng.”
Nguyễn Thiên Tích đã nói lên một mâu thuẫn không tránh khỏi của cả
tầng lớp nho sĩ: muốn thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình của mình thì phải ra
làm quan, nhưng con đường hoạn đồ lại thường đày bùn nhơ. Vì vậy cho nên
Nguyễn Thiên Tích, Lê Thiếu Dĩnh hay Lý Tử Tấn thường có mộng ước được
sống ngoài vòng cương, tỏa, được trở về với cảnh nhàn. Trong bài thơ chữ
Hán “Tư sơn thủy lạc” (Nghĩ đến cảnh vui núi sông), Nguyễn Thiện Tích viết:
“Bốc ngô cư hề thúy vi,
Trạc ngô anh hề Thương Lương.
Dẫn ngô niên hề thọ vực,
Đào ngô tỉnh hề túy hương.”
nghĩa là:
“Chọn chỗ ở của ta chừ nơi màn biếc,
Rùa dải mũ của ta chừ dòng Thương Lương.
Thung dung năm tháng chừ đến cõi thọ,
Chan chứa tình tứ chừ trong làng say.”
Lý Tử Tấn thì viết trong bài thơ chữ Hán “Tạp hứng” như sau:
“Trĩ ế dĩ vũ thái,
Qui chước nhân xác linh.
Tán tài tạ lương đống,
Chúc vĩ miễn hy sinh.
Dụng xả tín hữu mệnh,
Hồ vi lao kỳ sinh.”
nghĩa là:
“Chim trĩ bị chết vì lông đẹp,
Con rùa bị nướng vì mai thiêng.
Cây gỗ tạp khỏi bị xẻ làm rường cột,
Trâu cụt đuôi khỏi bị thiêu để tế thần.
Dùng hay bỏ vẫn tự mệnh có sẵn,
Cần gì phải mệt nhọc đời sống,
Rõ ràng là Lý Tử Tấn muốn ám chỉ việc những người có tài bị mắc vào
tai họa. Và theo ông thì cứ làm hạng người tầm thường như gỗ tạp hoặc trâu
cụt đuôi thì sẽ được yên thân. Mệnh trời đã an bài, được dùng thì ra giúp
nước, mà bị bỏ rơi thì về ở ẩn, hà tất phải mưu cầu phú quí. Và trong bài thơ
chữ Hán “Hạ nhật” ông viết:
“Phù vân phú quí một tư lường”
nghĩa là:
“Cái giàu sang như mây nổi chẳng bận lòng tính toán làm gì”
Những lời thơ bi phẫn hoặc chán nản và ca ngợi cảnh nhàn như thế có
thể tìm thấy ở những mức độ khác nhau trong không ít tác giả hồi nửa đầu
thế kỷ thứ XV, thậm chí ở cả Nguyễn Trãi nữa, tức là ở một người yêu nước
vĩ đại, ở tác giả của những áng hùng văn. Đó chính là sự phản ứng đối với
những sự bất công của chế độ phong kiến ngay trong lúc thịnh của nó, một
phản ứng lành mạnh của những người có tâm huyết. Tất nhiên, giữa phản
ứng của những người như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, v.v…
và của những người như Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Húc v.v… thì
ý nghĩa và mục đích có khác nhau.
Dầu sao thì chữ “nhàn”, biểu hiện của một thái độ sống khá phổ biến
của nhà nho thủa xua, cũng không phải là nét nổi bật trong văn học nửa đầu
thế kỷ thứ XV. Đây là thời kỳ chiến đấu gian khổ mà vinh quang của dân tộc,
là thời kỳ của sự nghiệp vĩ đại giải phóng tổ quốc. Âm điệu chủ đạo của thời
đại là âm điệu anh hùng. Cho nên âm điệu chủ đạo của văn học phải là âm
điệu anh hùng.
Ngoài một số tác phẩm biểu hiện tâm sự nhàn tản, thái độ thoát ly, thì
đa số tác phẩm lại đã phản ánh một cách hào hùng cuộc chiến đấu của dân
tộc, sự nghiệp xây dựng đất nước. Và lạc quan, phấn khởi là tình điệu chính
trong thơ văn của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, Phan
Thiên Tước, Trình Thuấn Du, Phan Phu Tiên, Nguyễn Phu Tiên, v.v…
Nguyễn Mộng Tuân (chưa rõ năm sinh và năm mất) tên tự là Văn
Nhược, tên hiệu là Cúc Pha, người làng Viên Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, đã yết kiến Lê Lợi tại hành doanh của nghĩa quân Lam Sơn, tham
gia cuộc kháng chiến và sau đó trải ba đời vua đã được trọng dụng. Ông có
Cúc Pha thi tập gồm 143 bài thơ chữ Hán và bốn chục bài phú chữ Hán mà
nổi tiếng nhất là những bài Chí Linh sơn phú, Lam Sơn giải khí phú, Tẩy binh
vũ phú, Nghĩa kỳ phú, Kích tặc hốt phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Bút trận
phú, Huân phong cầm phú, Đoạn ngao lập cực phú, Xuân đài phú.
Văn thơ của Nguyễn Mộng Tuân phản ánh khí thế của nghĩa quân
trong cuộc kháng chiến và nói lên tiết tháo của kẻ sĩ đại phu quyết bảo vệ
chính nghĩa. Trong bài “Lam Sơn giai khí phú” (phú khí đẹp núi Lam), ông viết
về khí thế của nghĩa quân như sau:
“Cờ nghĩa đã kéo, mao trắng vẫy lên,
Khiến hào kiệt đi theo như mây cuốn.
Bày tâm can ý khí hẹn hò nhau,
Lần vết Linh Sơn,
Khác gì núi Mang Đãng ủng hộ Lưu Quí.
Vùng dậy Bồ Già,
Giống như đầm Đại trạch giúp việc trung hưng.
…
Một quận dựng nghiệp,
Nghệ An đã gây nền,
Nhật nguyệt soi thấu đến miền Tây,
Tin tức truyền xa qua cõi Bắc.
Kết cục thì:
Quét sạch rác nhơ chốn quan hà.
Mở nguồn sáng láng thành nghiệp đế.”
(Phú chữ Hán: Lam Sơn giai khí phú)
Nói về chính nghĩa của quân ta, ông viết:
“Vì không thích giết người,
Mà ưng cho mấy thành ra thú hẳn hoi.
Vì theo lòng hiếu sinh,
Mà phóng xá mười vạn quân hàng cùng quẫn.
…
Không dùng gấm vóc bọc núi rừng,
Mà lấy đạo đức làm đẹp.
Không đem ơn riêng cho làng mình,
Mà cần chí công vô tư.”
(Phú chữ Hán: Lam Sơn giai khí phú)
Rõ ràng là Nguyễn Mộng Tuân có ý thức về cái đẹp, cái lớn, cái mạnh
trong lý tưởng chiến đấu của nghĩa quân, của Lê Lợi và cũng tức là của bản
thân mình.
Trong những bài Chí Linh sơn phú, Nghĩa kỳ phú, những tư tưởng tích
cực đại loại như trên có thể gặp thấy ở từng câu, từng vế. Cũng như Lam
Sơn giai khí phú, các bài phú này ít hoặc nhiều, tỉ mỉ hoặc đại cương, đã vẽ
lại những chặng đường gian khổ mà cuộc kháng chiến của Lê Lợi trải qua và
đã nêu cao đại nghĩa dân tộc. Văn của Nguyễn Mộng Tuân có cái khí thế
hùng hồn na ná như của Nguyễn Trãi. Mở đầu bài Nghĩa kỳ phú (phú cờ
nghĩa) ông viết:
“Khí thế quân Ngô tai hại chừ tràn lan khắp chốn
Cư xử bậy bạ tanh tởm chừ xông lến tới trời.
Khen Cao hoàng trượng nghĩa,
Mong rửa nhục trừ hung,
Giơ sào đứng dậy, hào kiệt ùa theo,
Đã trỏ vẫy nhằm hai kinh khôi phục,
Lại thả buông khiến Vương Thông chịu hàng.
Tha tù binh hàng mười vạn,
Lập công to để muôn đời,
Tiếng nhân vang khắp, khí nghĩa tràn lan,
Đó là lá cờ nghĩa của Thánh tổ,
Đặt Hán, Đường xuống bậc thứ hai.”
(Phú chữ Hán: Nghĩa kỳ phú)
Và thật là hào hùng những đoạn sau đây trong bài Chí Linh sơn phú
(Phú núi Chí Linh):
“Vua ta khởi nghĩa núi Lam, thế mạnh bừng bừng như lửa,
Hào kiệt theo tựa mây ùn, hiệu lệnh ran như sấm vỡ.
…
Mất giữ lại được, nguy đổi thành an.
Đội quân tình thiết cha con, thân cùng cam khổ,
Tướng sĩ sức dư hùng hổ, sắt luyện tâm can.
…
Đến như phá vòng khốn quẫn, tạo cuộc hanh thông,
Chín phần tử, một phần sinh, tuy ở chốn hiểm nghèo mà có ngất
trời khí thế
Bao nhiêu nghịch, bấy nhiêu thuận, khéo tùy cơ lợi dụng, thật là
tột bậc anh hùng.
Thần giùm mưu chước, người mến uy phong.
Cột chống nhà cao, mong thu cả tài năng mọi mặt.
Đá ra tay luyện, quyết vá lại trời xanh muôn trùng.”
(Phú chữ Hán: Chí Linh sơn phú)
Phải là một người đã tham gia vào phong trào, đã trải qua những cơn
chiến đấu hiểm nghèo và anh dũng, đã hòa vào nhịp điệu sống hùng mạnh
của nghĩa quân thì mới có được khí văn như vậy. Nguyễn Mộng Tuân là một
người nhiệt tình yêu nước, yêu đời. Thái độ tích cực đó cũng thường thể hiện
trong thơ. Trong bài thơ chữ Hán “Du hồ” (Đi chơi hồ) có hai câu rất tiêu biểu
cho tư tưởng của ông:
Hảo tương quốc luận tư thâm ý,
Hà tất Bồng, Doanh nhập mộng tư.”
nghĩa là:
“Nên đem việc nước bàn bạc để giúp thêm ý tốt,
Chẳng cần mơ mộng cảnh thần tiên.”
Rõ ràng là Nguyễn Mộng Tuân đã phát biểu lên quan điểm của cả một
hệ trí thức, muốn thực hiện lý tưởng của mình ở ngay cõi đời này, muốn thiết
thực giúp ích cho dân tộc, cho tổ quốc. Là một người đã từng tham gia vào
cuộc kháng chiến, ông hiểu thế nào là sức mạnh của nhân dân. Trong bài thơ
chữ Hán “Dân thủy” (Dân và nước) ông viết:
Đãng đảng dân tình dị khứ lưu,
Tín tai như thủy hoặc trầm phù
Quần sinh tụ tán doanh hư thế,
Chúng chí tòng vi thuận nghịch lưu.
nghĩa là:
“Tuồn tuột dân tình dễ đi mà cũng dễ ở,
Quả đúng như là nước dễ chìm mà cũng dễ nổi.
Sự tụ hợp lại hay sự tan đi mất của dân chúng cũng giống như
cái thế đầy và vơi của nước,
Sự tuân theo hay sự chống lại của dân chúng cũng giống như
dòng nước xuôi hoặc dòng nước ngược.”
Và nếu dân đã giống như nước, thì phải biết thuận theo sức dân như là
thuận theo sức nước. Thuận theo dân thì mọi việc sẽ trôi chảy. Được lòng
dân thì như đi thuyền mà được xuôi dòng nước. Điều mà Nguyễn Trãi nhận
thức rõ thì Nguyễn Mộng Tuân cũng thấy. Ca ngợi sự nghiệp của Lê Lợi khi
đọc sách “Lam Sơn thực lục”, ông viết:
“Sưu la tuấn kiệt thu quần sách,
Khôi thác phong cương kiến đại bang.
Hữu nhãn cộng khan tân nhật nguyệt
Phục nhàn bất dụng cố kim thang.”
(Thơ chữ Hán: Độc Lam Sơn thực lục hữu cam)
nghĩa là:
“Tập hợp kẻ tuấn kiệt, thu nạp mưu lược của nhiều người,
Khôi phục và mở mang phong cương lập nên nước lớn.
(Đọc sách Lam Sơn thực lục) cùng xem ngày tháng mới.
(Thì biết rằng) muốn thắng người không cần phải có thành cao
hào sâu.”
Thu phục lòng người là mưu kế cao nhất, và có được lòng người thì có
sức mạnh vô địch, không có kim thành (thành đồng), thang trì (hào chứa
nước sôi) nào sánh kịp. Rõ ràng là đường lối “tâm công” (đánh lòng) mà
nghĩa quân Lam Sơn theo đuổi và đưa đến thắng lợi, mà Nguyễn Trãi thường
nói đến, thì Nguyễn Mộng Tuân cũng tỏ ra tâm đắc.
Nói về nhiệm vụ của kẻ cầm quyền trị nước, Nguyễn Mộng Tuân đòi hỏi
như sau:
“Tiên tri giá sắc gia đồ trị,
Vô hiệu du điền trí túc cung.
Phần cẩm do lai tri hữu tố,
Trí quân diệc khả thị vô cùng.”
(Thơ chữ Hán: Đề Vô dật dồ)
nghĩa là:
“Trước hết lo việc cày cấy để mưu thêm việc bình trị,
Không theo đuổi việc săn bắn, đi tới chỗ nghiêm chỉnh kính đạo
trời.
Đốt gấm đi thì mới biết cái chất của vải,
Hết lòng giúp vua thì mới có thể thấy việc lớn vô cùng.”
Như vậy thì làm vua phải biết tính đến sinh kế của dân, chăm lo nghề
nông, không săn bắn, sợ ngựa xe và quân sĩ giày xéo đồng điền, biết kính
đạo trời vốn không dung sự phá hoại, còn như làm bề tôi thì phải cần kiệm và
hết lòng giúp vua lo việc nước mà không biết thế nào là giới hạn của phận sự.
Quan điểm của Nguyễn Mộng Tuân về việc xây dựng đất nước, xây dựng chế
độ như thế đã tiêu biểu cho tư tưởng của cả một thế hệ trí thức dân tộc và có
ý nghĩa tích cực.
Nguyễn Mộng Tuân cũng hay miêu tả đất nước và qua đó thể hiện
niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Trong bài thơ chữ Hán “Hàm Tử quan (Cửa
Hàm Tử), ông viết:
“Trần gia thượng tướng chân long chủng,
Hồ thị thiêm văn thị thử can.
Thung mộc mai hà, xuân thảo lục,
Độc lâu khiếu nguyệt, dạ trào hàn.”
nghĩa là:
“Quan thượng tướng nhà Trần đúng là nòi rồng,
Chức thiêm văn của nhà Hồ quả là gan chuột,
Cọc gỗ lớn chôn dưới sông, cỏ mùa xuân xanh thắm,
Đầu lâu giặc gào dưới trăng, nước triều đêm lạnh lẽo.”
Nguyễn Mộng Tuân tự hào về thượng tướng Trần Quang Khải đã chém
đầu tướng giặc Nguyên Mông là Toa Đô ở cửa Hàm Tử và liên hệ đến sông
Bạch Đằng trong đó quân dân đời Trần đã chôn cọc gỗ đánh đắm thuyền giặc
mà dìm chúng xuống đáy dòng nước lạnh.
Trong bài thơ chữ Hán “Phong Châu tức sự” ông viết:
“Thu truyền nhất diệp tỉnh phiêu đồng,
Vạn tượng đô thu nhập vọng trung.
Viên tản thường tồn tí dân niệm,
Nhĩ hà minh kiến sự quân trung.
Tống thanh viễn thế sơn bài thát,
Lưu ngọc đa tình thủy lậu cung.
Tự thị hoàng châu giai lệ địa,
Phụ chi tại đức vệ vô cùng”.
nghĩa là:
“Tin mùa thu truyền đến qua lá cày ngô đồng rụng vào giếng,
Muôn cảnh tượng đều tóm cả vào cái nhìn xa.
Núi (Tản viên) tròn như cái tán vẫn còn mãi đó, lo che chở cho
dân.
Sông (Nhĩ hà) như vành tai ngọc có thể soi rõ lòng trung thờ vua,
Đưa màu xanh đi xa mãi, thế núi như bày ra cổng lớn nhà vua.
Trôi vẻ ngọc chứa chan tình, sông như giải ra cung điện bằng
nước.
Đất nhà vua đều là cảnh đẹp,
Giúp vào đấy là ở cái đức để giữ gìn mãi mãi.”
Gắn cảm xúc về sự hùng vĩ của đất nước với ý nghĩ về việc giúp dân,
phò vua, gắn nhận thức về cảnh đẹp của đất nước với ý nghĩa về sức mạnh
của chính nghĩa bảo vệ đất nước, Nguyễn Mộng Tuân đã phát biểu những tư
tưởng yêu nước có tính chất truyền thống của trí thức dân tộc từ thời Lý Trần
đến thế kỷ thứ XV.
Thiết tha yêu nước, Nguyễn Mộng Tuân luôn luôn nghĩ đến việc tu
dưỡng phẩm chất tiên ưu hậu lạc. Trong bài thơ chữ Hán “Cảnh chẩm”
(Chiếc gối tỉnh ngủ), ông viết:
“Tiên sinh cự tẩm cảm cầu an,
Cảnh chẩm tòng lai nhập mộng nan.
Tâm thủ bất khi niên khất khất,
Tình tri vô quyện tự can can.”
nghĩa là:
“Tièn sinh ở trong nhà mà nào dám cầu được an thân,
Dùng cái gối tỉnh ngủ cho nên khó đi vào giấc mộng say.
Giữ cho bụng dạ không giả dối năm năm gắng sức mình,
Biết rằng tấm lòng chẳng mệt mỏi luôn luôn sợ sai phạm.”
Ngày xưa Tư mã Quang, tên hiệu là Ôn công, dùng chiếc gối tròn để
khi nằm đọc sách, nếu mắt muốn dip lại buồn ngủ thì gối lăn đi đánh thức
mình dậy. Nguyễn Mộng Tuân đã mượn hình tượng chiếc gối tỉnh ngủ của Ôn
công ấy mà nói đến việc luôn luôn tỉnh táo tự rèn luyện, cố gắng gian khổ đế
giữ gìn phẩm chất, lúc nào cũng dè chừng mắc phải sai phạm.
Trong bài thơ chữ Hán “Mạn thuật” ông viết:
“Thệ kiệt thốn tâm thù đại tạo,
Khu khu hà túc đạo hiền lao.”
nghĩa là:
“Thề đem hết tấc lòng báo đáp ơn tạo lập to lớn,
Tấm thân nhỏ mọn sao đủ gọi là có công lao của bậc hiền tài.”
Lúc nào ông cũng lo rằng chưa làm hết sức mình:
“Chức chuyết miếu đường tam hâu lạc,
Dân đầu mãn hác thiết tiên ưu.”
(Thơ chữ Hán: Mạn thuật)
nghĩa là:
“Góp vào công việc Nhà nước, tự thẹn rằng mình mà cũng dự
vào hàng những người vui sau thiên hạ.
Nhân dân bị rơi vào vực lầm than, tấm lòng gắn với mối lo trước
thiên hạ.”
Nguyễn Mộng Tuân khiêm tốn mà lo rằng mình không có đóng góp
xứng đáng với nước, với dân, nhưng ông lại rất tự hào vì
“Điểm kiểm nhất sinh công dụng xứ,
Nguyên lai đoan bất vị thân mưu.”
(Thơ chữ Hán: Mạn thuật)
nghĩa là:
“Kiểm điểm cái chỗ có ích của đời mình,
Ấy là ở chỗ không hề mưu toan điều gì cho riêng mình.”
“Không hề mưu toan điều gì cho riêng mình”, “tự thẹn rằng mình mà
cũng được dự vào hạng người vui sau thiên hạ”, “tấm lòng gắn với mối lo
trước thiên hạ”, Nguyễn Mộng Tuân xứng đáng với phẩm chất mà Chu An đã
từng nêu cao, mà Nguyễn Trãi cùng với nhiều tri thức dân tộc thế kỷ thứ XV
ngày càng làm cho tốt đẹp hơn.
Cùng với Nguyễn Mộng Tuân, và sau Nguyễn Trãi, thì Lý Tử Tấn cũng
là một tác giả lớn phản ánh được cuộc chiến đấu để giải phóng dân tộc và để
xây dựng đất nước và thể hiện được phẩm chất cao quí của những tri thức
yêu nước.
Lý Tử Tấn hiệu là Chuyết Am, người làng Triều Liệt, huyện Thượng
Phúc (nay là Thường Tín, Hà Sơn Bình), đậu thái học sinh năm 1400, cùng
khoa với Nguyễn Trãi và Vũ Mộng Nguyên, nhưng không làm quan với nhà
Hồ. Theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí)
thì “học vấn ông rộng khắp, thời bấy giờ ai cũng tôn trọng”. Cũng như Nguyễn
Mộng Tuân, ông đã đến yết kiến Lê Lợi tại nơi hành doanh của nghĩa quân,
được Lê Lợi khen về tài học và cho coi giữ văn thư. Ông làm quan đến học sĩ
viện Hàn Lâm, trải qua ba triều vua Lê Thái tổ, Lê Thái tông và Lê Nhân tông.
Ông để lại Chuyết Am thi tập, bài thơ trường thiên tự sự “Pháp Vân cổ tự ký”,
kể truyện Man nương, và hai mươi mốt bài phú chữ Hán trong đó có những
bài nổi tiếng như Chí Linh sơn phú, Xương giang phú, Quảng cư phú, Thọ
vực phú, Dưỡng chuyết phú, Dục Nghi phú.
Phú của Lý Tử Tấn cũng có phong cách giống với Nguyễn Mộng Tuân.
Cũng một tấm lòng yêu nước mãnh liệt, cũng một khí phách hào hùng như
nhau. Bài phú tiêu biểu nhất của ông là bài Xương Giang phú. Bài Xương
Giang phú (phú sông Thương) có kết cấu tương tự bài “Bạch Đằng giang
phú” của Trương Hán Siêu. Tác giả trước hết miêu tả cảnh sông Thương, rồi
kể việc giặc Minh sang “lập trại đắp thành” ở bờ sông đó để “chiếm giữ đất
cát, tàn hại sinh linh”, việc Lê Lợi “thấy dân cực khổ, động mối thương tình”,
“bèn theo lòng trời, bèn họp nghĩa binh” để đánh đuổi giặc. Sau cùng, tác giả
cũng nêu cao cái ý mà Trương Hán Siêu đã từng nêu: muốn giữ được nước,
không cậy ở hiểm trở mà nhờ ở có chính nghĩa. Nhưng bài “Xương Giang
phú” của Lý Tử Tấn có điều khác với bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương
Hán Siêu ở chỗ là nếu như họ Trương ca tụng cảnh hiểm trở của sông Bạch
Đằng thì họ Lý lại viết về sông Thương như sau:
“Cồn cát rải rác,
Bãi lau rườm rà,
Ầm ầm sóng vỗ,
Dồn dập nước sa.
Không sâu, không nông,
Dễ lội, dễ qua.
Một bó sậy vượt sang, không hiêtn như Cù Đường, Diễm Dự,
Nhiều ngọn roi ném xuống, không lo như Hắc Thủy, Đại Hà. “
(Phú chữ Hán: Xương Giang phú)
Sông Thương không hiểm trở mà sông Bạch Đằng thì hiểm trở, nhưng
sự nghiệp của Lê Lợi thì lại oanh liệt ngang với sự nghiệp của Trần Quốc
Tuấn ngày trước. Sự nghiệp của hai vị anh hùng dân tộc đó giống nhau là ở
chỗ cùng có chính nghĩa. Vì vậy, Trương Hán Siêu ngày trước đã từng viết:
“… Từ có vũ trụ, đã có giang sơn.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an.”
và
“Giặc tan muốn thưở tháng bình,
Phải đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”
(Phú chữ Hán: Bạch Đằng giang phú)
thì Lý Tử Tấn cũng lại viết:
“Than ôi!
Có đức, công mới lớn,
Có người, đất mới linh.
Giữ nước, không cốt ở hiểm yếu.
Giữ dân không cốt ở hùng binh.”
(Phú chữ Hán: Xương Giang phú)
Cũng như Trương Hán Siêu, Lý Tử Tấn đã nhấn mạnh đến yếu tố con
người trong mọi việc thành bại ở đời. Có đức, tức là có chính nghĩa thì tất
thắng.
Nguyễn Mộng Tuân và Lý Tử Tấn đều giúp việc đắc lực cho Lê Lợi
trong thời gian kháng chiến. Đến khi nước nhà đã được giải phóng, hai ông
cũng như nhiều trí thức yêu nước khác đã phấn khởi tin rằng bây giờ là lúc có
thể tiến lên xây dựng một chế độ có vua sáng tôi lành, nhân dân được an cư
lạc nghiệp, “đạo thánh” được sáng tỏ. Trong nhiều bài phú, các tác giả này đã
trình bày nỗi mong ước và niềm phấn khởi ấy. Trong bài Xuân đài phú,
Nguyễn Mộng Tuân đã tả xã hội lý tưởng của mình như sau:
“Tưng bừng vui trung cảnh ngửa lên phụng dưỡng, cúi xuống
chăn nuôi.
Sầm uất đủ cả đoàn, trên dưới thuận hòa, thấp cao vừa phải.”
(Phú chữ Hán: Xuân đài phú)
Trong bài Huân phong cầm phú (phú đàn cầm gió huân), Nguyễn Mộng
Tuân lại nói lên hoài bão muốn cho nhân dân được no ấm:
“Ca khúc gió nam để giúp đỡ
Đưa dân ta lên cõi thọ giàu.”
(Phú chữ Hán: Huân phong cầm phú)
Lý Tử Tấn thì lại thích nói nhiều hơn đến cốt cách của kẻ sĩ đại phu
trong đời thịnh. Trong những bài như Tảo mai phú, Quảng cư phú, Dục Nghi
phú, v.v… ông thường bàn về đạo nhân mà kẻ sĩ đại phu phải bảo vệ. Trong
bài Quảng cư phú (phú ở rộng), ông viết:
“Nào có biết đạo nhân đối với người,
Không gì là không có, không phút nào khác đâu.
…
Lễ nhạc hình chính, không nhân là không vững,
Giáo hóa mệnh lệnh, không nhân là không truyền.”
(Phú chữ Hán: Quang cư phú)
Theo ông, nếu biết giữ đạo “nhân” thì “điên bái” cũng nhờ đó mà chu
toàn. Kẻ sĩ đại phu mà biết ở vào đạo nhân, lấy trí, lấy tín làm liếp, làm rào,
lấy lễ, lấy nghĩa làm cửa, làm sân thì thực là ở rộng rãi thông thênh. Kẻ sĩ đại
phu có nhiệm vụ “lấy nhân dựng nước, lấy nhân trị dân” và theo ông thì đạo
“nhân” coi muôn người như một, cho nên nếu có thể khiến kẻ sĩ đại phu làm
những điều nhân chính thì “thiên hạ đều được chạy theo nhân, đua theo
nghĩa”.
Thể phú, với tính cách khoa trương của nó, thường dễ dung nạp những
nét bút hoành tráng. Với Lý Tử Tấn thì những nét bút như vậy chẳng những
có thể tìm thấy trong phú mà lại thấy cả ở trong thơ. Trong bài thơ chữ Hán
“Đề Lư giang tống biệt đồ” (đề bức tranh cảnh tiễn biệt ở sông Lô) đưa chân
người đi sứ, ông viết:
“Vạn khoảnh thương ba châm biệt tửu,
Mản đê dương liểu phất hành tinh.”
nghĩa là:
“Muôn khoảnh sóng nước xanh rót rượu tiễn đưa,
Khắp bờ đê dương liểu vẫy ngọn cờ tinh.”
Cảm hứng hào mại đã khiến nhà thơ thấy rằng rót cả nước sông làm
rượu tiễn đưa thì mới xứng với tấm lòng lưu luyến của mình, và muôn ngàn
cây dương liễu trên con đê dài kia phất phới như muôn ngàn lá cờ theo sứ
giả lên đường. Cũng với cảm hứng hào mại tương tự, Lý Tử Tấn đã có
những lời ca ngợi mối thống nhất của nước Đại Việt như sau:
“Anh minh duệ toán thánh thần công,
Tứ hải xa thư hỗn đại đồng,
Tinh đẩu nhất thiên giai củng bắc,
Giang hà vạn phái tận trào đông.
Mao nghê cổ vũ qui vương hóa,
Hà nhĩ âu ca yển đức phong,”
…
(Thơ chữ Hán: Tứ hài nhất gia)
nghĩa là:
“Sáng suốt mưu toan nên sự nghiệp thánh thần,
Bốn bể cùng chung mối thống nhất.
Cả trời sao đều quay về hướng bắc,
Muôn dòng sông thảy nhằm vào hướng đông.
Già lẫn trẻ mừng rỡ theo về vương hóa
Khắp xa gần vui hát, thuận chiều đức phong.”
…
Là người đã tham gia cuộc kháng chiến, Lý Tử Tấn hiểu ý nghĩa của
sức mạnh quân sự, và xem duyệt binh, ông đã viết:
“Đương thời tứ hải nhất gia thu,
Văn trị phương hưng vũ bị tu.
Vạn lữ tinh kỳ minh nhật nguyệt,
Lục quân cổ súy túc tỳ hưu.
Sư hành dĩ luật kê tiền điển,
An bất vong nguy nhược đại do.
Bích thủy tiểu thần quan thịnh sự,
Tái canh thạch cổ tục Kỳ Chu.”
nghĩa là:
“Đương vào lúc đất nước thống nhất,
Vì đã có văn trị cho nên phải sửa sang vũ bị.
Vạn lữ cờ quạt sáng rực mặt trời mặt trăng,
Sáu quân kèn trống đầy đủ tướng hùng quân tráng.
Quân đi có phép tắc theo như lệ cũ,
Khi yên không quên nguy đó là mưu lớn.
Kẻ tiểu thần này ở trong lũy xem cảnh tốt đẹp,
Lại nối tiếp ca ngợi cảnh nhà Chu ở đất Kỳ.”
Lý Tử Tấn ca ngợi quân Lê Lợi hùng dũng như quân của Văn vương
nhà Chu ở đất Kỳ Sơn xưa kia. Và như thế là ông hết sức tự hào vì quân độỉ
có chính nghĩa sẵn sàng bảo vệ cuộc trị bình của đất nước Đại Việt.
Nhìn chung, Lý Tử Tấn đã phản ánh khí thế của nghĩa quân Lam Sơn,
của dân tộc Đại Việt hồi đầu thế kỷ XV, và bên cạnh Nguyễn Trãi, Nguyễn
Mộng Tuân, ông đã có những lời thơ hào hùng. Tuy nhiên, ở Lý Tử Tấn,
nhiều khi lại có những suy tư triết học làm cho thơ ông có phong cách độc
dáo. Trong bài “Tạp hứng” đã nêu ở trên, ông đã đưa ra quan niệm rằng kẻ
có tài nhiều khi chết vì cái tài của mình ví như con chim trĩ bị chết vì bộ lông
đẹp mà người ta chuộng, con rùa bị nướng để bói lành dữ vì có cái mai
thiêng, còn kẻ bất tài thì lại thường “ngu si hưởng thái bình” ví như cây gỗ tạp
thì không ai thèm cưa xẻ làm cột nhà, con trâu cụt đuôi thì không ai thèm đem
thui để tế thần. Triết lý ấy có lẽ đúng trong xã hội phong kiến nói chung và
chắc đã được ông thể nghiệm qua việc nhà Lê sát hại những người có tài. Và
triết lý ấy là một trong những cơ sở của tư tưởng ẩn dật trong một số không
nhỏ nhà thơ đương thời. Trong một bài thơ chứ Hán “Tạp hứng”, Lý Tử Tấn
viết:
“Nhan, Mẫn nhất hà sấu,
Chích, Cược nhất hà phì.
Thi, Tường nhất hà diễm,
Diệm, Mẫu nhất hà xỉ.
Tùng bách thiên niên thọ,
Bồ liễu tiên thu phì.
Đại tiểu tự bằng yến,
Trường đoản các nga qui.
Tiêu dao thiên địa gian,
Sở hỉ thích hữu nghi.
Vạn sự chỉ như thử,
Nhân sinh hề phục nghi.”
nghĩa là:
“Thầy Nhan, thầy Mẫn sao gầy thế?
Gã Chích, gả Cược sao béo thế?
Nàng Thi, nàng Tường sao đẹp thế?
Bà Diệm, bà Mẫụ sao xấu thế?
Cây tùng, cây bách sống đến nghìn năm,
Cây tò, cây liễu béo trước mùa thu.
Chim bằng, chim yến một lớn, một nhỏ,
Con ngỗng, con rùa dài ngắn khác nhau.
Rong chơi trong khoảng trời đất,
Mừng rằng biết thích nghi với hoàn cảnh.
Vạn sự chỉ như thế cả,
Người đời còn nghi ngờ gì nữa.”
Hiển nhiên là Lý Tử Tấn muốn nhấn mạnh vào sự an bài tất yếu của
thế giới, mà cái mạnh của con người chính là hiểu biết lẽ ấy và cái vui của
con người là an nhiên thích nghi với hiện thực.Trong bài thơ chữ Hán Mạn
hứng thì Lý Tử Tấn lại chê bai những người khoe khôn cậy khéo và hợm hĩnh
vô ích mà ca ngợi những người biết an nhiên vui với đạo trời:
“Lộng xảo, đồ lao xà hữu cước,
Hoành hành thùy ngộ giải vô tràng.
Hà như lạc đạo an thiên mệnh,
Tổn ích tùy nghi nhiệm thủ tương.”
nghĩa là:
“Trổ tài khéo chỉ tổ vẽ rắn thêm chân vô ích,
Bò ngang nhưng ai lạ gì cua không có ruột.
Sao bằng vui đạo, yên mệnh trời,
Hoặc bớt hoặc thêm tùy nghi mà làm, được sao thì hay vậy.”
Với thái độ an nhiên như thế, Lý Tử Tấn luôn luôn tìm thấy lạc thú trong
cuộc sống, trong bài thơ chữ Hán “Sơ thu” (Đầu mùa thu), ông viết;
“Hòe thủ âm âm đạc phấn tường,
Hà hoa niểu niểu phiến tân hương.
Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,
Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang.
Tử giải hàm hoàng sơ thướng đoạn,
Hương duyên đái lục sảo thiêm nhương.
Tôn tiền hữu tửu tu hành lạc,
Mạc đãi đông ly cúc nhị hoàng.”
nghĩa là:
“Cây hòe đo bóng trên tường phấn,
Hoa sen dịu dàng phả hương thơm mới.
Một phần sắc thu pha với sắc trời,
Bốn bề ánh núi tiếp liền ánh nước.
Cua đỏ tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ,
Phật thủ thơm đượm màu xanh, dần dần thêm múi.
Trong hồ có rượu hãy cứ vui uống,
Chẳng cần đợi giậu đông nảy cúc vàng.”
Phong vị quê hương mà Lý Tử Tấn rất yêu mến gợi lại cho ta những
vần thơ của Nguyễn Trung Ngạn (thế kỷ thứ XIV) về nhộng chín, cua béo, và
rất giống với những vần thơ của Nguyễn Trãi về quả núc nác, rau mùng tơi,
bè rau muống, luống dọc mùng hay là của Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ thứ
XVI) về canh cua rốc, măng trúc, giá đỗ, v.v… Với tâm lý an nhiên, vui với
cuộc sống, Lý Tử Tấn lại rất tự hào vì mình đã hiễu lẽ trời. Trong bài thơ chữ
Hán “Bốc cư” (chọn chổ dựng nhà), ông viết:
“Thân an tự giác càn khôn đại,
Tính thích tòng lai đống vũ ti.”
nghĩa là:
“Tấm thân được an, tự biết trời đất lớn,
Bản tính thẳng tắp, mới hiểu nhà cửa thấp.”
Rõ ràng, cũng như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn là một nhân cách
vững vàng nổi bật trong các tác giả thời Lê sơ.
Nguyễn Thiên Tích, Phan Phu Tiên tuy về số lượng và chất lượng thơ
văn thì không bằng Nguyễn Mộng Tuân và Lý Tử Tấn, nhưng cũng tiêu biểu
cho các tác giả nửa đầu thế kỷ thứ XV.
Nguyễn Thiên Tích, không rõ năm sinh và năm mất, tên tự là Huyền
Khuê, tên hiệu là Tiên Sơn, người làng Nội Duệ, huyện Tiên Du (nay là Tiên
Sơn, Hà Bắc), thi đậu khoa hoành từ năm Thuận Thiên thứ tư (năm 1431),
làm quan trải các chức ngự tiền học sĩ, thị ngự sử, Hàn lâm viện thị độc, hai
lần đi sứ Trung Quốc. Tính ông thẳng thắn, Lê Thái tông kính nể và so sánh
ông với Ngụy Trưng đời Đường. Tác phẩm của ông là Tiên Sơn thi tập.
Nguyễn Thiên Tích nhiều khi cũng có những lời thơ hào hùng. Trong
bài thơ chữ Hán “Tống Lê Hựu tức thú” (Tiển Lê Hựu đi việc quân) ông viết:
“Quốc thù khẳng dữ đái thiên đồng,
Đầu bút kim triêu chuyển thủ hùng.
Bảo kiếm hoành yêu quang xạ đẩu,
Du chàng tán họa dạ sinh phong.
Tam niên hệ triển kham lân ngã,
Vạn lý thừa phong độc tráng quân.
nghĩa là:
“Kẻ thù của nước sao lại có thể đội trời chung,
Ném bút đi, sớm nay ra tay mạnh.
Kiếm báo đeo ngang lưng, lóe ánh sao bắc đẩu,
Cờ lệnh thêu hình vẽ, đêm phất ra gió.
Đáng thương cho tôi bị ràng buộc ba năm (vì có đại tang)
Chỉ phục tráng khí của ông ruổi gió xa muôn dặm.”
Quả là Nguyễn Thiên Tích đã phán ánh được ý chí diệt thù và khí
phách ngoài muôn dặm của bao nhiêu trang trang sĩ lúc đương thời.
Trong bài thơ chữ Hán “Tống Đào thượng thư sứ Minh” (Tiễn quan
thượng thư họ Đào đi sứ sang nhà Minh), ông viết:
“Nhất thân dĩ nhiệm an nguy ký,
Vạn lý ninh từ bạt thiệp nan.
Hứa quốc tráng hoài minh nhật nguyệt,
Kỷ hành kiện bút biến giang sơn.”
nghĩa là:
“Ở một thân đã được trao gửi cái lẻ an nguy của quốc gia,
Trong vạn dặm đâu lại từ chối sự gian nan của việc lặn lội.
Vì nước, tấm tráng chí sáng như nhật nguyệt,
Ghi lại cuộc đi sứ, ngòi bút khỏe vung khắp non sông.”
Đào thượng thư, tức Đào Công Soạn, đi sứ nhà Minh sau cuộc kháng
chiến, với tư thế hào hùng. Nguyễn Thiên Tích chúc họ Đào hoàn toàn thắng
lợi nhiệm vụ vinh quang, đồng thời chúc cho họ Đào có ngòi bút hoành tráng
để ghi lại chuyến đi lớn về hành trình cũng như về ý nghĩa này. Và để tỏ ý
mình như thế thì Nguyễn Thiên Tích cũng lại đã có ngòi bút hoành tráng.
Nguyễn Thiên Tích thường nặng niềm ưu ái như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng
Tuân, Lý Tử Tấn. Ông viết:
“Niệm thiết quần thân đầu nhạ tuyết,
Sầu khan biến cố nhãn sinh hoa.”
(Thơ chữ Hán: Mạn cam)
nghĩa là:
“Tấm lòng gắn bó quân thân đầu nhạ tuyết,
Buồn xem biến cố, mắt đổ hoa.”
Mái tóc và con mắt của Nguyễn Thiên Tích có phần cũng giống với mái
tóc và con mắt thường gặp trong thơ Nguyễn Trãi, mái tóc bạc vì lo đời, con
mắt thao thức vì việc nước. Cũng như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, nhiều lúc
Nguyễn Thiên Tích đã tỏ ra bất mãn với những kẻ cường thần muốn chống lại
chính sách huệ dân. Có lúc ông đã từ quan vì vua Lê Thái tông không nghe
theo lời nói của mình. Trong thơ ông, nhiều khi bộc lộ nỗi chán chường của
một người không thực hiện được lý tưởng. Trong bài thơ chữ Hán “Trừ tịch
ngẫu thành” (Bài thơ ngẩu nhiên làm thành đêm ba mươi tết), ông viết:
“Tráng niên sự nghiệp thả hưu khoa,
Thắng hỉ kim tiêu đắc tại gia.
Nhất trản lan cao tiêu vĩnh dạ,
Sổ bôi trúc điệp phá sầu ma.
Văn chương vô dụng hồ song chỉ,
Tuế nguyệt nan lưu phó hác xá.
Tụ thủ cưỡng ngâm thiên dục thự,
Đông phong tống noãn nhập mai hoa.”
nghĩa là:
“Sự nghiệp lúc tuổi trẻ thôi đừng có khoe nữa,
Hãy mừng đêm nay được ở nhà.
Một đĩa dầu lan thơm chong suốt đêm,
Vài chén rượu lá trúc giải cơn sầu.
Văn chương vô dụng, giấy đem dán cửa sổ,
Năm tháng khôn giữ lại như rắn chui tụt vào hang.
Cắp tay gáng ngăm thơ thì trời đã toan sáng,
Gió xuân đua hơi ấm vào cành hoa mai.”
Khác với thơ Nguyễn Thiên Tích, thơ Phan Phu Tiên không hề đượm
vẻ buồn. Phan Phu Tiên, không rõ năm sinh và năm mất, tên tự là Tín Thần,
tên hiệu là Mặc Hiên, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay thuộc
ngoại thành Hà Nội) đã từng đỗ thái học sinh đời Trần, đến đời Lê lại đi thi, đỗ
khoa hoành từ, làm Quốc sử viện đồng tu quốc sử rồi sau làm an phủ sứ
Thiên Trường. Phan phu Tiên trước hết là một sử bút có tài, và nói đến văn tự
sự truyện ký thế kỷ thứ XV tất là phải kể đến phần tục biên bộ Đại Việt sử ký
của ông. Ông lại có công đóng góp vào văn hóa, văn học nước ta bằng việc
biên soạn Việt âm thi tập, một tập thơ của 110 tác giả đời Trần và đầu đời Lê
(đầu thế kỷ thứ XV). Tiếc rằng về thơ của Phan Phu Tiên, hiện nay chỉ còn sót
lại ba bài chép trong Toàn Việt thi lục. Phan Phu Tiên chú ý đến việc tu dưỡng
và đào tạo nhân tài. Trong bài thơ chữ Hán “Vi nhân cầu học”, ông viết:
“Ấu nhi vô học lão vô văn,
Tự thán khu khu lão thử nhân.
Vị đắc thăng đường na nhập thất,
Bất tằng ôn cố hạt tri tân.
Đản tương lễ nhạc tòng tiên tiến,
Nguyện bả thi thư thục hậu nhân.
Hà xí quần sinh chiêm hóa vũ,
Phai vinh tư tưởng vọng lai xuân.”
nghĩa là:
Lúc nhỏ mà không học, lúc già không được ai biết đến,
Tự phàn nàn rằng bo bo tấm thân già mất rồi.
Chưa bước lên thềm, sao lại có thể vào nhà,
Chưa từng ôn cố sao lại có thể tri tân.
Hãy noi lễ nhạc mà theo người đi trước,
Xin đem thi thư mà dạy kẻ đi sau.
Há chỉ khiến cho muôn loài được thấm đượm mưa giáo hoá,
(Mà còn) được tươi tốt, nảy nở lên đón trông mùa xuân đến.”
Rõ ràng là một niềm lạc quan, tin ở tương lai,và cùng với niềm lạc quan
ấy là ý chí tự bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Trong bài thơ chữ Hán “Đương đạo Lương phán cung nhiệm mãn”
(Quan Lương phán cung hoàn thành trách nhiệm), ca ngợi sự nghiệp giáo
dục của vị phán cung họ Lương, ông viết:
“Cần cung thập tải bão di kinh,
Thi giáo tàm vô mộc đạc thanh.
Túc túc tư văn thiên cổ trọng,
Tễ diêm ngô phận nhất thân khinh,
U cư tịch mịch thế tình đạm,
Đắc ý an nhàn thi hứng thanh.
Nhật vãng nhật lai lưu bất đắc,
Qua kỳ hốt dĩ báo thu thành.”
nghĩa là:
“Trong nhà học, mười năm ôm sách kinh điển thánh hiền để lại,
Thi thố tài giáo hóa, thẹn rằng không có tiếng vang như cái mộc
đạc
Như gạo, như rau đậu, daọ thánh hiên nghìn xưa vốn coi trọng,
Quen dưa quen muối, phận minh một thân vốn coi nhẹ.
Ở chốn (về hưu) vắng vẻ, không bận tâm việc đời,
Đắc ý vì cảnh nhàn, hứng thơ trong suốt.
Ngày qua tháng lại, giữ không được,
Đến kỳ được thay thế bỗng thấy đã mùa thu.”
Trong bài thơ chữ Hán “Hạ Gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai” (Mừng
quan gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai), ông viết:
“Ấu học, tráng hành, hành thị đạo,
Tiên tri, hậu giác, giác tư dân.”
Nghĩa là:
“Lúc nhỏ học, lúc lớn làm, làm (theo) đạo ấy,
Biết từ trước, giác ngộ sau, giác ngộ dân này.”
Tuy nói theo cách nói của nhà nho, nhưng Phan Phu Tiên cũng thể hiện
nhận thức đúng về việc học. Học là để làm, làm là vì dân vì nước như Nguyễn
Trãi. Học là để tu dưỡng phẩm chất làm người. Phan Phú Tiên khi quan niệm
như vậy qua đã tiêu biểu cho niềm phấn khởi của trí thức dân tộc hồi đầu thế
kỷ XV đang rất tin ở lý tưởng tu, tề, trị, bình của mình và đang nỗ lực thực
hiện lý tưởng ấy trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng văn hóa,
Trình Thanh thì hay nhấn mạnh vào phẩm chất con người. Trình
Thanh(? – 1463), tên tự là Trực Khanh, tên hiệu là Trúc Khê, người làng
Trung Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình), đỗ khoa
hoành từ niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (năm 1431) làm quan đến chức tham
tri Hải Tây đạo quân dân bạ tịch, có đi sứ Trung Quốc vào niên hiệu Thái Hòa
thứ hai, đời Lê Nhân tông (năm 1443). Tác phẩm của ông là Trúc Khê thi tập.
Trong bài thơ chữ Hán “Đề trực học sĩ Chu quân Dung tất hiên” (Đề
hiên Dung tất của ông trực học sĩ họ Chu), Trình Thanh viết:
“Khích địa phương dư cấu tiểu hiên,
Dị an duy dục xí tiền hiền.
Bất vi hình dịch khoan tâm địa,
Diệu đắc thần toàn lạc tính thiên.
Tý sĩ hà tu cầu đại hạ,
Truyền gia ưng thị hữu thanh chiên.
Cá trung hảo toại tiêu dao thú,
Thân khuất tùy thời thích tự nhiên.”
nghĩa là:
“Trên mảnh đất rộng hơn một cung, dựng ngôi nhà nhỏ,
Dễ dàng yên thân chỉ mong làm theo tiền hiền.
Không làm tôi tớ cho hình xác, lòng rộng rãi,
Khéo giữ được toàn vẹn tinh thần, vui tính trời.
Để che chở kẻ sĩ đâu có cần đến ngôi nhà lớn,
Đê truyền nghiệp nhà thì sẵn tấm đệm xanh.
Ở trong có thể thỏa thú tiêu dao,
Duỗi co thì tùy theo thời, thích nghi với tự nhiên.”
Vui với tính trời, với ỉẽ tự nhiên, giữ gìn thanh giá, không chạy theo lạc
thú vật chất, quan niệm này của Trình Thanh tiêu biểu cho nhiều trí thức dân
tộc xưa nay.
Trong bài thơ chữ Hán “Giản ngự sử trung thừa Hà Cống” (Gửi quan
ngự sử trung thừa là ông Hà), Trình thanh viết:
“Nhậm quân yếu tất phân tà chính,
Luận sự vưu đương thức hậu tiên.
Miễn tận bình sinh ngô sự nghiệp,
Tư văn hưng táng tổng quan thiên.”
nghĩa là:
“Mong ông cần phân biệt tà và chính,
Bàn việc tất biết rõ trước và sau.
Cố gắng cả cuộc đời vào sự nghiệp của mình.
Đạo lớn hưng hay táng tất cả đều xem ở mệnh trời.”
Làm quan ngự sử thì phải phân biệt kẻ tà người chính, biết can gián
vua tránh khỏi lỗi lầm, Trình Thanh nhắc nhở ông ngự sử họ Hà như vậy mà
cầm chắc rằng “đạo lớn” đang hưng khởi. Và trong bài thơ chữ Hán “Nguyên
nhật thọ Úy Trai tiên sinh” (Ngày đầu năm chúc thọ ông Úy Trai), ông viết:
“Vọng cao đương đạo chiêm sơn đẩu,
Nhiệm trọng tư văn thác giám hành.
Thánh đạo chỉ kim chiêu nhật nguyệt,
Trữ khan phu tử phụ thăng bình.”
nghĩa là:
“Danh vọng cao như núi Thái sơn, như sao Bắc đẩu, người đời
trông lên,
Trách nhiệm nặng làm gương sáng, làm cán cân cho nền tư văn.
Ngày nay đạo thánh sáng tỏ như mặt trời, mặt trăng,
Chờ trông nhà thầy giúp đỡ vào sự nghiệp thời thăng bình.”
Như thế là Trình Thanh tin tưởng vào sự thịnh vượng của đất nước và
muốn kẻ sĩ đại phu phải tu dưỡng để thực hiện lý tưởng trị bình. Và cũng như
thơ Phan Phú Tiên, thơ Trình Thanh thường có tính chất lạc quan.
Tính chất lạc quan ấy ít thấy hơn ở Lê Thiếu Dĩnh. Lê Thiếu Dĩnh,
không rõ năm sinh và năm mất, tên tự là Tử Kỳ, tên hiệu là Tiết Trai, người
làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Hưng), là
con Lê Cảnh Tuân. Ông làm quan tri thẩm hình viện sự, có lần đi sứ sang nhà
Minh. Ông có Tiết Trai thi tập. Trong thời gian giặc Minh chiếm đóng, ông
cũng mang ý chí phục quốc. Trong bài thơ chữ Hán “Tỵ loạn hoài hương”
(Tránh loạn nhớ quê nhà), Lê Thiếu Dĩnh viết:
“Đồ Nam chí dục phấn Trang côn,
Khải ý phong trần động khách hồn.
Kiều mộc thế gia hà xứ tại?
Mai hoa ảnh lý nhật hoàng hôn.”
nghĩa là:
“Mưu đồ cứu nước Nam, ý chí muốn vọt lên như cá côn của
Trang tử,
Há đâu nghĩ rằng gió bụi đường đời làm xúc động lòng người xa
nhà.
Cây lớn nhà thế gia ở tại nơi đâu?
Qua bóng hoa mai chỉ thấy mặt trời tà.”
Con cá côn, theo Trang tử, mình dài vạn dặm, biến hóa thành chim
bằng cũng to lớn vô cùng. Cá con nhảy vọt trên biển lớn, chim bằng tung bay
trên trời cao, làm rung chuyển biển trời. Lê Thiếu Dĩnh đã ôm ấp chí côn bằng
và theo giúp Lê Lợi. Nhưng chắc ông đã có điều bất như ý về chính sách của
triều đại mới khi có việc sát hại và bạc đãi nhân tài, nhất là khi đám quyền
thần chống lại chủ trương huệ dân của những người trí thức yêu nước,
thương dân. Cho nên cũng như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích,
trong thơ của Lê Thiếu Dĩnh thường có tâm sự bất mãn. Trong bài thơ chữ
Hán: “Cung từ” (Lời người cung nhân) có ngụ ý tình cảnh của những người
bề tôi bị bạc đãi:
“Tàn hoa hoàn hướng lạc hoa khai,
Đắc sủng nguyên tòng thất sủng lai.
Vị hứa quân ân trung đạo tuyệt,
Thả tương chi phấn cưỡng ai bài.”
nghĩa là:
“Hoa mới được nở ra vào chỗ hoa cũ rụng,
Người này đuợc thương yêu vì người kia bị ruồng bỏ.
Không muốn để ơn vua giữa chừng đứt đoạn,
Thế thì hãy đem son phấn gượng điểm tô.”
Tất nhiên là Lê Thiếu Dĩnh không thể chịu hạ mình xuống để gượng
điểm tô như vậy. Ông chọn con đường rút lui để giữ tròn thanh giá.
Trong bài thơ chữ Hán “Đề sở cư” (Thơ đề nơi nhà ở) ông viết:
“Tế tư vãng sự nhất trường hô,
Thi tửu tùy duyên túc tự ngu.
Bán thế sinh nhai giang thượng thủy,
Bách niên lạc sự khích trung câu.
Nghĩ đồng Tưởng lão khai tam kính,
Hà dụng Tông Nguyên vịnh bát ngu.
Oánh triệt linh đài vô nhất lụy,
Hiểu lai thụy khởi lạc vu vu.”
nghĩa là:
“Xét suy tỉ mỉ việc đã qua, kêu dài một tiếng,
Thơ và rượu tùy duyên đủ để tự vui.
Sinh nhai nửa đời (trôi tuột như) nước chảy trên sông,
Việc vui trăm năm (vụt nhanh như) ngựa chạy qua khe cửa.
Bắt chước Tưởng lão mở ba lối đi,
Thì cần gì như Tông Nguyên vịnh thơ bát ngu.
Trong suốt tấm lòng không chút lụy,
Sáng đến, tỉnh dậy vui ngẩn ngơ.”
Lê Thiếu Dĩnh muốn quên tất cả tục lụy, nhưng ông vẫn muốn bắt
chước Tưởng Hủ đời Hán mở ba lối đi giữa hàng trúc trước nhà để sẵn sàng
chờ đón vài người bạn cùng đi dạo chơi chứ không cần theo Liễu Tông
Nguyên đời Đường làm thơ Bát nguy, để ngạo đời. Và ông luôn luôn tự hào
rằng mình vẫn mãi mãi giữ được tấm lòng son.
Trong bài thơ chữ Hán “Trạch thôn cố viên” (Vườn cũ thôn Trạch) ông
viết:
“Xuân quang mạn nhĩ xâm xâm khứ,
Sự nghiệp phiên thành đốt đốt thư.
Mạn tiếu sinh nhai đô tảo tận,
Nhất đan tâm ngoại cánh vô dư”.
nghĩa là:
“Ngày xuân vẫn cứ lần lần đi qua,
Sự nghiệp hóa thành việc viết hai chữ chà chà.
Buồn cười mọi kế sinh nhai đều bị quét sạch,
Ngoài môt tấm lòng son thì chẳng có gì.”
Nguyễn Phu Tiên cũng có tâm sự như Lê Thiếu Dĩnh. Ông tên hiệu là
Tân Kiều, người làng Vĩnh Động (nay thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hải Hưng),
làm quan đến Hàn lâm thừa chỉ thẩm hình viện sứ, sống đồng thời với Lê
Thiếu Dĩnh. Không thấy có thi tập của ông truyền lại. Thơ ông có một số bài
chép trong Toàn Việt thi lục. Trong bài thơ chữ Hán “Họa Lê Trạch thôn
trường tùng vi phong vũ sở chiết vận” (Họa vần bài thơ của ông họ Lê ở thôn
Trạch vịnh cây tùng cao bị mưa gió làm gãy), ông viết về cây thông như sau:
“Bình sinh băng tuyết tư,
Lỗi khả hợp thụ trạch.
Chi phất nhật nguyệt quang,
Căn xuyên sơn tuyền mạch.
…
Kiều mộc cố quốc giả
Xả thử tương an thích.”
nghĩa là:
“Bình sinh phong tư như băng tuyết,
Rắn chắc có thể sánh cột đá.
Cành phất ánh sáng mặt trời mặt trăng.
Rễ xuyên mạch nước suối núi.
…
Cây to là nước cũ,
Bỏ đi tìm đâu ra?.”
Lê Thiếu Dĩnh vịnh cây thông bị mưa gió làm gãy, ngụ ý người anh
hùng bị ám hại. Nguyễn Phu Tiên nhân đó lại mượn hình tượng cây thông để
ca ngợi phẩm chất người anh hùng, và cho rằng nếu bỏ đi thì không kiếm đâu
ra được người như thế. Tuy nhiên, cây thông mới gãy chứ chưa mất đi hẳn
và:
“Hạnh hữu bản căn tồn,
Nha nghiệt phục tầm mịch.
Tha nhật thành thanh ấm,
Do túc ấm hành khách.”
nghĩa là:
“May gốc rễ còn lại,
Chồi mầm sẽ nảy lên.
Ngày sau thành bóng mát,
Còn đủ che cho khách đi đường.”
Và Nguyễn Phu Tiên tin rằng dầu gặp khó khăn đến đâu đi nữa mà còn
giữ vững được bản lĩnh thì cũng không thể bị mai một, vẫn còn có thể hữu
ích. Nguyễn Phu Tiên thể hiện niềm yêu quê hương qua những lời chân
thành như sau:
“Uấn lệ phi trăn mịch tệ lư,
Xích duyên thốn ngõa dĩ vô dư.
Điếu ngư trì hạc đài phong thạch,
Chủng cúc đình hoang thảo một trừ.
Lậu hạng cận dung toàn mã địa,
Bạc điền nghĩ học tướng ngưu thư.
Hà thời qui tác lâm tuyền chủ,
Nhàn bạn thôn ông đái nguyệt sừ.”
(Thơ chữ Hán: Qui cố viên)
nghĩa là:
“Gạt nước mắt, rẽ gai tìm nhà nát,
Đoạn rui, mảnh ngói cũng chẳng còn.
Ao câu cá khô cạn, bậc đá phủ rêu,
Sân trông cúc bỏ hoang, thềm nhà lấp cỏ.
Lối ngõ hẻm chỉ vừa chỗ xoay chân ngựa,
Mảnh ruộng xấu, muốn học sách xem tướng trâu.
Bao giờ được về làm chủ rừng suối,
Thanh thản cùng với cụ già trong thôn cày dưới bóng trăng.”
Chính vì yêu quê hương và đau xót về cảnh tàn phá do giặc gây ra cho
nên Nguyễn Phu Tiên đã viết như sau:
“Khách tử quyện hành dịch,
Liêu vi hãn mạn du.
Kiên khôn song cốt một,
Thân thể nhất bình phủ.
Quốc sỉ cam điền hải,
Hương hoài khiếp ỷ lâu.
Đoạn ngao tâm vị dĩ,
Thời phục khán Ngô Câu.”
(Thơ chữ Hán: Chu thứ hải môn đăng Biện
Sơn hòa Đồng Ký Thất vận)
nghĩa là:
“Khách mệt mỏi vì việc công,
Bèn đi chơi lan man.
Trời đất mênh mông, đôi chim ó bay mất hút,
Thân thế lênh đênh, cánh bèo trôi mặt nước.
Vì mối nhục của nước, quyết lấp bằng biển lớn,
Vì nỗi nhớ quê hương, sợ không dám tựa lầu.
Chặt chân con ngao (để chống trời) tấm lòng chưa thỏa,
Ngày ngày lại ngắm thanh kiếm Ngô Câu.”
Để báo quốc thù thì đầu cho mấy biển cũng lấp cho bằng, để dựng lại
nước thì quyết làm như bà Nữ Oa xưa kia chặt bốn chân con ngao thần làm
bốn cột trụ chống trời. Nhưng vì chưa làm được cho nên mắt thường không
rời thanh kiếm báu Ngô Câu. Trong lời thơ phảng phất khí phách của Đặng
Dung trước kia. Khí phách ấy cũng là của rất nhiều chiến sĩ yêu nước trong
đó nhiều người lại là nhà thơ, nhà văn của nửa đầu thế kỷ thứ XV.
Chỉ điểm qua vài nét về một số tác giả tiêu biểu cho hơn sáu chục nhà
văn nhà thơ của thời kỳ lịch sử này cũng thấy nội dung thơ văn của họ rất
phong phú. Vui có, buồn có, phấn khởi có, bất mãn có, lạc quan có, bi phẫn
có, nhưng ở tác giả nào thì cũng là niềm yêu đất nước, yêu quê hương, yêu
cuộc đời, tin tưởng ở phẩm giá con người, tin tưởng ở khí phách dân tộc. Từ
Lý Tử Cấu cho đến Nguyễn Mộng Tuân, từ Phan Phu Tiên cho đến Lê Thiếu
Dĩnh tuy hành trạng, tư tưởng, tâm sự, phong cách có khác nhau, nhưng mỗi
người đều ít hoặc nhiều góp phần khẳng định và đề cao những giá trị tinh
thần của dân tộc. Và mặc dầu đôi khi cũng có những tiếng đàn lạc điệu nhưng
xét chung thì, bao trùm lên tất cả, âm điệu anh hùng đã vang lên trong văn
học nửa đầu thế kỷ thứ XV.
Các tác giả thời kỳ này thường có dịp hòa chung lời ca trong những
sinh hoạt văn học ít hoặc nhiều có tính chất tập thể. Do sự giao du với nhau
mà đã có sự xướng họa giữa Lý Tử Cấu và Vũ Mộng Nguyên, giữa Vũ Mộng
Nguyên và Lý Tử Tấn, giữa Lý Tử Tấn và Nguyễn Mộng Tuân, giữa Nguyễn
Mộng Tuân và Nguyễn Trãi, giữa Lê Thiếu Dĩnh và Nguyễn Phu Tiên, v.v…
Trong dịp có những sự kiện đặc biệt thì nhiều tác giả lại cùng làm thơ xướng
họa về cùng một đề tài: chúc mừng chiến thắng, xem duyệt binh, tiễn bạn đi
sứ, tiễn bạn về hưu trí, mừng bạn làm nhà mới, mừng thọ bậc lão thành. Cho
nên bên cạnh những nét riêng trong tư tưởng và bút pháp của từng người thì
lại thấy phong khí chung của thời đại.
Phong khí chung ấy là niềm tự hào về đất nước, về dân tộc, sự nghiệp
kháng chiến thắng lợi. Việc nhiều tác giả cùng làm phú về núi Chí Linh là thí
dụ tiêu biểu cho sinh hoạt văn học đầu thế kỷ thứ XV. Núi Chí Linh ở Thanh
hóa là nơi có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi đã
nhiều lần rút lui về đấy, trong những khi khó khăn nhất, để cố thủ mà bảo toàn
lực lượng, dưỡng uy súc nhuệ và chờ thời cơ phát triển. Có lẽ vì thế mà sau
chiến thắng, Lê Lợi đã lấy núi Chí Linh làm đề tài cho văn thần làm phú.
Những bài “Hạ tiệp” (Mừng chiến thắng) hoặc “Duyệt vũ” (Xem duyệt binh),
“Quan duyệt thủy trận” (Xem duyệt thủy binh), v.v… thường gặp ở nhiều tác
giả cũng đã như Chí Linh sơn phú, được viết theo lệnh nhà vua để ghi lại
những sự kiện đáng nhớ của quốc gia. Sách Quần hiền phú tập chép các bài
phú núi Chí Linh của Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình
Thuấn Du đã ghi chú là “ngự đề” tức là đề tài do vua ra, và còn dẫn cả những
lời “ngự bình” tức là lời bình luận của vua.
Qua bốn bài phú chữ Hán của bốn tác giả khác nhau cùng viết về một
đề tài, có thể thấy sự nhất trí về tư tưởng kết hợp với sự đa dạng về phong
cách. Các tác giả tất nhiên đều hết ý ca ngợi Lê Lợi, nhưng qua đó lại đã ca
ngợi sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. “Địa linh, nhân kiệt”, đất thiêng,
người giỏi, đó là luận điểm chủ đạo của cả bốn bài phú. Núi Chí Linh là đất
thiêng, Lê Lợi là người giỏi, địa linh nhân kiệt gắn bó với nhau, cùng phối hợp
mà tạo nên sự nghiệp lớn. Tuy nhiên nói đến địa linh mà chính là để đề cao
nhân kiệt. Con người là yếu tố quyết định. Con người ở đây tất nhiên trước
hết là Lê Lợi. Nhưng qua con người ấy, các tác giả đã muốn khẳng định và đề
cao phẩm chất của dân tộc, bao gồm ý chí bất khuất, sức chịu đựng gian khổ,
khí phách dũng cảm, trí tuệ thông minh, tinh thần đoàn kết. Tất cả những yếu
tố ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng. Nhưng các tác giả lại nêu rõ rằng
sức mạnh ấy đã được nhân lên gấp bội vì Lê Lợi đã có “thịnh đức”, có đại
đức”. “Thịnh đức”, “đại đức” về thực chất là chính nghĩa dân tộc. “Thịnh đức”
theo Nguyễn Trãi là ở chỗ “giữ vẹn nước là hơn, lo dân yên là trọng”. Đại đức
ấy theo Nguyễn Mộng Tuân là ở chỗ “đưa nhân dân lên chăn ấm chiếu êm
chẳng khổ, đặt nước nhà như đá bàn non Thái không lay”.
Ca ngợi núi Chí Linh và Lê Lợi, cả bốn tác giả đều so sánh với núi Cối
Kê và Câu Tiễn, với núi Mang Đãng và Lưu Bang. Câu Tiễn và Lưu Bang đều
là nhân vật lịch sử thời cổ ở Trung quốc. Câu Tiễn vua nước Việt thời Xuân
Thu khi gặp khó khăn đã lấy núi Cối Kê làm nơi cố thủ, Lưu Bang đời Tần khi
còn ẩn náu đã lấy núi Mang Đãng làm nơi căn bản. Cuối cùng Câu Tiễn đã
diệt nước Ngô, khôi phục nước Việt. Cuối cùng Lưu Bang đã diệt Hạng Vũ,
lập nên nhà Hán. Như vậy thì núi Chí Linh với Lê Lợi, theo lời Nguyễn Trãi,
“há chẳng giống như núi Mang Đãng đối với Hán Cao tổ đó ư?”, “há chẳng
giống như núi Cối Kê đối với Việt Câu Tiễn đó ư?”. Còn theo Nguyễn Mộng
Tuân thì “núi Chí Linh này giúp vua mở vận, cúng như núi Cối Kê náu quân
giáp, núi Mang Đãng rợp bóng mây”. Kể ra so sánh sự nghiệp của Lê Lợi với
sự nghiệp phục quốc của Câu Tiễn, với sự nghiệp lập quốc của Lưu Bang thì
cũng đã là biểu hiện niềm tự hào dân tộc. Tuy nhiên các tác giả đã không
dừng lại ở đó. Theo các tác giả “Chí Linh sơn phú” thì nếu so về ý chí, về tài
năng, có thể thấy sự tương đồng giữa Lê Lợi và Câu Tiễn, Lưu Bang. Nhưng
từ đó, có tác giả còn tiến lên mà chứng minh rằng vê đức lớn thì Câu Tiễn và
Lưu Bang đều không thể sánh kịp Lê Lợi. Nếu như Nguyễn Mộng Tuân mới
chỉ viết: “Núi Lam phất cờ, núi Chí Linh đặt nền tảng, cùng với Cối Kê, Mang
Đãng, trước sau rọi một ánh sáng”, nếu như Lý Tử Tấn cũng mới chỉ viết: “Ôi
đất không cốt ở lớn, có đức thì tất thắng, quân không cốt ở đông, cùng lòng
thì tất thành. Nơi lánh nạn ở Kỳ Sơn, làm sáng tỏ công to lớn và rực rỡ của
nhà Chu, chốn lẩn vết ở Cối Kê đưa đến chỗ lừng thơm danh của Câu Tiễn”
thì Trình Thuấn Du và Nguyễn Trãi lại đi xa hơn nữa. Nguyễn Mộng Tuân
trong bài Nghĩa kỳ phú (phú cờ nghĩa) đã từng viết về sự nghiệp của Lê Lợi
như sau: “Lập công to để muôn đời, tiếng nhân vang khắp, khí nghĩa tràn lan.
Đó là lá cờ nghĩa của Thánh tổ, đặt Hán, Đường xuống bậc thứ hai”. Như vậy
là Nguyễn Mộng Tuân đã từng muốn đặt Lê Thái tổ lên vị trí cao hơn Hán Cao
tổ và Đường Thái tông, những người sáng lập ra những triều đại lớn nhất ở
Trung Quốc. Trong Chí Linh sơn phú Trình Thuấn Du và Nguyễn Trãi cũng có
ý kiến tương tự. Bài Chí Linh sơn phú của Trình Thuấn Du sau khi ca ngợi sự
nghiệp của Lê Lợi to lớn như sự nghiệp của Câu Tiễn và Lưu Bang (tức Hán
Cao tổ) lại viết rằng có một cụ già phản đối sự so sánh ấy: “Bỗng có một cụ
già than phiền rằng: Lời nói của ông sao mà sai như thế, chỉ biết một mà
chưa biết hai, mới thấy tượng núi này so với núi Cối Kê, núi Mang Đãng thì
tuy giống nhau mà chưa biết rằng cái đức của vua ta so với Câu Tiễn, Cao tổ
thì lại khác nhau. Hai ông vua kia nghe theo lời xui của kẻ bề tôi rằng trời cho
tại sao lại không lấy, mà nỡ tàn nhẫn dùng cái kế của kẻ bề tôi rằng nuôi hổ là
để tai vạ về sau, đến nỗi làm việc bất nghĩa. Há lại có thể giống như vua ta độ
lượng bao dung sánh với trời đất. Đại đức hiếu sinh, tâm thì thường lấy tâm
của Ngu Thuấn làm tâm của mình. Thần vũ bất sát, chí thì thường lấy chí của
Thang Vũ làm chí của mình. Mấy chục vạn tù binh ở Chi Lăng thực như chim
ác kêu cầu được sống, hai mươi thành nghịch tặc ở Đông Quan khác gì cá
nằm trong vạc đang sôi, thế mà nhất đán tha về, vạch khơi sinh lộ, rộng mở
mắt lưới của vua Thang, lớn trùm bóng mát của trời Nghiêu”. Câu Tiễn, Lưu
Bang ngày xưa với lòng tham vô hạn đã muốn bá chiếm thiên hạ mà nghe
theo lời bàn rằng trời cho tại sao không lấy, và bụng ác quá chừng tàn sát kẻ
đã hàng vì nghe theo lời bàn rằng nuôi hổ thì để vạ về sau. Như thế thì không
thể sánh với Lê Lợi có đức lớn hiếu sinh, có uy thần không thích giết, đã tha
hết tù binh khi chúng như hổ đói vẫy đuôi phục tội, đã mở rộng mắt lưới như
vua Thang để phóng sinh cho chim chóc, đã độ lượng như vua Nghiêu lấy
đức chở che vạn vật. Kể ra ca ngợi cái đức Lê Lợi như thế thì có thể là hết
lời. Mà như thế chính lại là ca ngợi độ lượng của dân tộc ta. Nguyễn Trãi thì
lại chia làm hai nấc để đưa lời ca ngợi ấy lên cao dần: trước hãy khẳng định
rằng Câu Tiễn không thể sánh được với đại độ của Lê Lợi, sau mới tiến lên
chứng minh rằng Lưu Bang cũng không thể so được với thịnh đức của Lê
Lợi. Ông viết: “Đạo quân cứu viện ở hai đường, chưa kịp trở gót mà đều tan
rã, bọn lính giữ thành ở các nơi chưa hề đổ máu mà đều ra hàng. Chúng vẫy
đuôi xin tha, kêu van thảm thiết. Đương khi bấy giờ há chẳng giống như Câu
Tiễn hãm Ngô vương ở đài Cô Tô đó ư? Tuy nhiên, Hán Cao tổ qui mô xa
rộng chính giống như khí thế của vua ta ngày nay, còn như Câu Tiễn chỉ lo
đạt cái chí phục thù mà thôi, há đủ so sánh trong muôn một với việc làm của
vua ta đó ư? Đến như thần vũ không muốn giết, đức lớn muốn cho sống, nghĩ
kế lâu dài cho quốc gia, tha mười vạn binh lính đã xin hàng, sửa sang mối
hòa hiếu cho hai nước, dập tắt ngòi chiến tranh cho muôn đời, giữ vẹn nước
là hơn, lo dân yên là trọng thì cái thịnh đức của vua ta không những Hán Cao
tổ không thể sánh được mà còn có thể cùng với nhị đế, tam vương thủa xưa
chung tiếng khen vậy”, như thế thì theo ông thịnh đức của Lê Lợi chỉ có thể
đem nhị đế là Nghiêu, Thuấn và tam vương là Hạ, Thương, Chu ra mà so
sánh, chứ các hạng vua chúa đời sau đều không đáng kể. Thịnh đức ấy là ở
chỗ biết đặt lợi ích của nước của dân lên trên hết, biết dẹp mối thù cũ lại một
bên mà tha cho quân giặc đã hàng, để dập tắt ngòi chiến tranh, ở chỗ có tấm
lòng đại độ nghĩ đến kế lớn lâu dài cho quốc gia, sửa sang mối hòa hiếu giữa
hai nước. Xét cho kỹ đó chính là đức lớn, là phẩm chất cao cả của dân tộc ta.
Bốn bài phú chữ Hán Chí Linh sơn phú về các mặt cấu tứ và xây dựng
hình tượng có những nét dị biệt, nhưng cả bốn đều thể hiện được âm điệu
hào hùng của thời đại. Và trong khi đua ý, sánh lời, các tác giả đã kích thích
cảm xúc của nhau và gây hứng khởi cho không khí văn đàn.
Việc sáng tác Chí Linh sơn phú là một thí dụ tiêu biểu nhất chứng tỏ
rằng sinh hoạt văn học nửa đầu thế kỷ thứ XV đã từng lôi cuốn các nhà thơ
nhà văn vào những quá trình sáng tác ít nhiều có tính chất tập thể. Và không
khí chung của văn đàn phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc lúc đương
thời lại đã ảnh hưởng đến phần lớn các tác giả.
Tiếp thu nhiều nhất khí thế hào hùng của dân tộc là Nguyễn Trãi, và
lãnh đạo văn đàn cũng là ông. Các nhà văn đã công nhận thực tế ấy và suy
tôn ông một cách chân thành.
Phan Phu Tiên trong bài thơ chữ Hán “Hạ Gián nghị đại phu Nguyễn ức
Trai (Mừng quan Gián nghị đại phu Nguyễn Ưc Trai) đã viết về Nguyễn Trãi
như sau:
“Chân nguyên hội hợp hạnh phùng thần
Tá trị danh nho hạnh hữu nhân.
Âu học tráng hành, hành thị đạo,
Tiên tri hậu giác, giác tư dân.
Diêm mai đỉnh nại điều hòa mỹ,
Lễ nhạc qui mô chế tác tân.
Tứ hải phương kim qui nhất thống,
Thùy năng dược dã ngoại đào quân.”
nghĩa là:
“Hội Chân nguyên may gặp được thời,
Giúp đỡ việc trị bình may có bậc danh nho
Lúc nhỏ học, lúc lớn làm, làm (theo) đạo ấy,
Biết từ trước, giác ngộ sau, giác ngộ dân này.
Muối mơ xanh vạc điều hóa khéo,
Lễ nhạc qui mô chế tạo mới.
Bốn bể ngày nay theo một mối,
Nào ai vượt được ra ngoài cái lò đào tạo (của ông).”
Đại diện cho trí thức dân tộc lúc đương thời, Phan Phu Tiên cảm phục
cái học để hành, sự nghiệp vì dân vì nước, công lao xây dựng chính trị và văn
hóa của Nguyễn Trãi, và lại nhấn mạnh rằng ông đã đào tạo nhân tài, không
ai vượt ra khỏi ảnh hưởng của ông. Đủ thấy vị trí của Nguyễn Trãi về mặt văn
hóa và văn học lúc bấy giờ là như thế nào.
Lý Tử Tấn thì lại ca ngợi đức độ thanh cao của Nguyễn Trãi. Trong bài
thơ chữ Hán “Đề Ức Trai bích” (Thơ đề ở vách nhà ông Ức Trai), ông viết:
“Tâm cảnh tương phùng khởi ngẫu nhiên?
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền.
Ưu du lễ nhượng an nhân trạch,
Xuất nhập khiêm cung lạc tính thiên.
Lại tán, đình tiền duy thảo sắc,
Khách lai, trúc ngoại hữu trà yên:
Cống dư thoái thực phần hương tọa,
Họa trục trương cầm lạc tuế niên”.
nghĩa là:
“Phải có tâm hồn mới chọn được cảnh đẹp, há phải ngẫu nhiên?
Mở riêng một cảnh rừng suối ở giữa thành thị.
Ung dung lễ nhượng, ở yên trong ngôi nhà nhân,
Vào ra khiêm cung, vui với tính trời.
Những kẻ thuộc lại ra về rồi, thì trước sân chỉ còn lại sắc cỏ,
Khi khách đến chơi, thì ngoài dậu trúc lọt ra khói nước chè.
Sau lúc viêc quan xong, lui về nhà đốt lò hương ngồi một mình,
Với bức vẽ cây đàn, vui tháng năm”
Rõ ràng là một con người hết lòng chăm lo việc nước mà tâm hồn thì
giản dị, đời sống thì thanh bạch. Đó là đời sống và tâm hồn của một nhà văn
nghệ chân chính.
Nguyễn Mộng Tuân thì mừng nhà mới của Nguyễn Trãi như sau:
“Thiện trị ưng tri kế Tử Kinh,
Hà tu lậu ốc soạn tân minh.
Nhất điều thủy lãnh tri tam quán,
Tứ bích gia bần phú lục kinh.
Mai ảnh nguyệt miên lai giáng trướng,
Hà lương phong đệ tống sơ linh
Huề hồ nghĩ dục đồng thanh thưởng,
Giai túy tùy nhân vật độc tinh.”
(Thơ chữ Hán: Hạ thừa chi ức Trai tân cư)
nghĩa là:
“Khéo làm nhà ở mới biết ông nối được chí của Tử Kinh,
Cần gí làm bài minh về ngôi nhà chật hẹp.
Một dòng nước lạnh ấy là nhà quan tri tam quán,
Bốn vách nhà nghèo chỉ giàu sách vở.
Bóng cây mai trăng dọi vào tấm màn đỏ,
Hương thơm hoa sen gió đưa qua song thưa.
Ôm bầu rượu đến muốn cùng ông thưởng thức thú thanh cao,
(Khuyên ông hãy) cùng say như mọi người chớ có tỉnh một
mình.”
Sống một cách thanh bạch mà lòng luôn luôn thao thức vì đời, đó đúng
là nhân cách của Nguyễn Trãi mà Nguyễn Mộng Tuân lại ca ngợi bạn của
mình như sau:
“Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên,
Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền.
Nhất thời từ hãn suy văn bá;
Lưỡng đạo quân dân ác chính quyền.
Bạch phát chỉ nhân thiên hạ lự,
Thanh trung lưu dữ tử tôn truyền.
Nho lâm kỷ hứa chiêm sơn đẩu,
Hảo vị triều đình lực tiến hiền”.
(thơ chữ Hán: Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn công)
nghĩa là:
“Như vị tiên thanh cao của lầu ngọc, ông ngồi trong gác vàng,
Lo việc nước và làm vẻ vang cho nước như thế thì từ xưa chưa
có ai.
Thư từ nổi tiếng một thời, ai nấy suy tôn là bậc văn bá,
Tóc bạc chỉ vì lo việc thiên hạ,
Tấm lòng trung trong trắng là của truyền lại cho con cháu.
Trong rừng Nho từ lâu ngửa trông lên ông như núi Thái sơn, sao
Bắc đẩu
Ông nên vì triều đình ra sức tiến cử bậc hiền tài”
Lời ca ngợi Nguyễn Trãi như thế thật là không quá đáng. “Lo việc nước
và làm đẹp cho nước”, đúng là Nguyễn Trãi đã có sự nghiệp như vậy. “Làm
đẹp cho nước” Nguyễn Trãi đã đóng góp về nhiều mặt, mà trong đó phải kể
đến mặt văn hóa, văn học. Và chắc Nguyễn Mộng Tuân, với tư cách là nhà
văn nhà thơ, cũng có ý nghĩ như thế.
Nhìn chung, văn học nửa đầu thế kỷ thứ XV đã ca ngợi Lê Lợi và
Nguyễn Trãi, đánh giá cao, đánh giá đúng hai nhân vật này. Qua đó các tác
giả lại còn phản ánh được khí thế của nhân dân ta trong sự nghiệp giành lại
chủ quyền, xây dựng đất nước, phát huy những truyền thống của ông cha,
nâng cao nền văn hóa của dân tộc. Mà phản ánh được khí thế của nhân dân,
của dân tộc một cách trung thành và mạnh mẽ nhất thì chính lại là Nguyễn
Trãi, ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc đương thời.
V. NGUYỄN TRÃI (1380 - 1442) VÀ TẤM LÒNG ƯU ÁI “ĐÊM NGÀY CUỒN CUỘN NƯỚC TRIỀU ĐÔNG”
Trong bài thơ nôm Thuật hứng (bài số 5) Nguyễn Trãi viết:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”
Trong bài thơ chữ Hán Mạn hứng (bài số 2) ông viết:
“Nụy ốc, thê thân, kham độ lão,
Thương sinh tại niệm, độc tiên ưu.”
nghĩa là:
“Nhà nhỏ, nương thân, có thể qua tuổi già.
Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm mối tiên ưu”.
Tấm lòng ưu quốc ái dân suốt đời cuồn cuộn như “nước triều đông” ấy
của Nguyễn Trãi quả là đã thể hiện trong sự nghiệp cứu quốc cũng như sự
nghiệp văn học của ông.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tên tự là Ức Trai, sống vào một giai đoạn
lịch sử sôi động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ, thời đấu tranh chống ách
Minh thuộc (của nhà Hậu Trần, của các phong trào nhân dân khắp nước, của
nghĩa quân Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng
Long tức Nguyễn Phi Khanh, tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc ở làng Chi Ngại,
huyện Phượng Nhỡn (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Hưng), nhưng đã di cư
sang làng Ngọc Ổi (Sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là
huyện Thường Tín, Hà Sơn Bình)
Lúc còn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên
được Trần Nguyên Đán, tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho.
Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi, đậu bảng nhỡn. Nhưng vì là con nhà thứ
dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên không được Trần Nghệ tông
cho làm quan và đành trở về quê dạy học. Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với ông
ngoại là Trần Nguyên Đán. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về trí sĩ ở Côn Sơn,
đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại chính là nơi quê tổ của họ
Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện Phượng
Nhỡn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với
cha. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở
khoa thi đầu tiên của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm
1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra
làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn Nguyễn Trãi thì sau khi thi
đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy là hai cha
con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đâu.
Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim
Lăng. Một số triều thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng
với Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng
Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về “tìm cách rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha thì mới là đại hiếu”.Trên đường trở về, Nguyễn Trãi bị giặc Minh
bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua
chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với giặc. Năm 1417, ông trốn khỏi
Đông Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã hiến dâng
Lê Lợi tập “Bình Ngô sách”. Theo Ngô Thế Vinh (nửa đầu thế kỷ thứ XIX) thì
phương châm cơ bản nêu trong đó “không nói đánh thành mà giỏi bàn về
cách đánh lòng” (tựa sách Ức Trai thi văn tập). Tư tưởng chiến lược này
chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nghĩa quân. Trong
thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân mưu. Ông
lại góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với chính quyền xâm lược.
Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng
Minh. Những bức thư đó (về sau được tập hợp dưới cái tên Quân trung từ
mệnh tập) có tính chiến đấu mạnh mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào
tinh thần dịch quân. Năm 1427, cuộc kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi đã
thay mặt Lê Lợi viết bài Bình Ngô đại cáo nổi tiếng. Năm đó, Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong làm Triều
liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu.
Trong công cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có
nhiều đóng góp lớn, tuy chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất
trong triều để có thể làm cho ông thi thố hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi
kêu gọi những người “hiền tài” ra giúp nước và năm 1429 thay nhà vua viết tờ
“Chiếu cầu hiền tài”. Năm 1430, ông thay nhà vua viết Chiếu cấm các đại
thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng”. Năm
1431, ông thay nhà vua viết tờ “Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính”.
Năm 1433, Tư Tề vì cuồng dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị
giáng xuống làm quận vương, ông thay nhà vua viết tờ “Chiếu giáng Tư Tề
làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp”. Ông cũng lại thay
nhà vua làm tờ “Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử”, “Chiếu
bàn về phép tiền tệ”, v.v…
Sau khi thành công, Lê Lợi nghi kỵ công thần và giết hại nhiều người,
trong đó đáng chú ý nhất là Phạm Văn Xảo, một người rất có uy vọng đối với
nhân sĩ ở Thăng Long và ở các kinh trấn, và Trần Nguyên Hãn, dòng dõi nhà
Trần, anh em con cô con cậu với Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi có uy vọng như
Phạm Văn Xảo, lại là thân thích với Trần Nguyên Hãn, cho nên sự nghi kỵ đối
với Nguyễn Trãi chắc là lớn lắm. Và ông có lần bị Lê Lợi hạ ngục. Nhưng sau
ông lại được tha, có lẽ vì ông là nhân vật tối cần thiết cho việc xây dựng bộ
máy chính quyền mới.
Trong thời kỳ này, đấu tranh để chính quyền mới không phản bội lại
nhân dân là tất cả sự cố gắng của Nguyễn Trãi. Sang đời Lê Thái tông,
Nguyễn Trãi đã đấu tranh với những quyền thần Lê Sát, Lê Ngân để thực
hiện đường lối “giản chính, khoan hình”. Lê Thái tông vì còn trẻ tuổi, thường
cùng bọn cận thần chơi bời phóng phiếm, Nguyễn Trãi đã cùng Trình Thuấn
Du, Phan Thiên Tước v.v… khuyên ngăn nhà vua và Nguyễn Trãi đã được
chỉ định cùng với năm người văn thần khác vào cung giảng dạy cho nhà vua
học. Trải qua nhiều năm đi khắp nơi trong nước, tham gia vào phong trào của
nhân dân, rồi sau lại tham gia quản lý Nhà nước, Nguyễn Trãi hiểu biết nhiều
về tổ quốc, về dân tộc. Dựa vào vốn hiểu biết ấy, năm 1435, ông viết cuốn Dư
địa chí. Nguyễn Trãi lại cùng với Đào Công Soạn, Nguyễn Liễu v.v… chống
lại những nghi thức lễ nhạc lố lăng và phiền phức của hoạn quan Lương
Đăng. Trong một cuộc tranh cãi ở trong triều, Nguyễn Liễu đã mắng rằng
hoạn quan “làm nát thiên hạ”. Lê Thái tông thấy mình bị gián tiếp xúc phạm,
đã khép Nguyễn Liễu vào án chém, sau giảm xuống đi đày viễn châu, thích
chữ vào mặt. Nguyễn Trãi thấy tình hình như vậy biết rằng ở lại triều đình thì
có thể chuốc vạ vào thân, bèn dâng sớ xin về trí sĩ ở Côn Sơn. Côn Sơn là
nơi quê tổ, lại là nơi thuở nhỏ Nguyễn Trãi đã từng sống với ông ngoại. Ở
đấy, Nguyễn Trãi đã sáng tác bài “Côn Sơn ca” nổi tiếng. Cũng trong thời kỳ
này ông đã sáng tác phần lớn thơ Nôm của mình (về sau được tập hợp trong
Quốc âm thi tập). Nguyễn Trãi tuy tuổi đã già và tạm rút lui về cảnh điền viên,
nhưng nguồn ưu ái của ông không bao giờ vơi cạn. Lúc nào ông cũng lo nghĩ
về dân, về nước, và buồn vì một nỗi chưa thực hiện được lý tưởng của mình.
Năm 1440, Lê Thái tông đã trưởng thành, đã hiểu được rằng Nguyễn Trãi là
người có tài có đức, bèn triệu ông ra làm quan, phong cho ông chức Kim tử
vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ học sĩ coi việc Tam quán và kiêm chức
Hành khiển Đông Bắc đạo, phụ trách quân dân bạ tịch Hải Dương, An Quảng.
Nguyễn Trãi tin rằng đây là lúc quyền thần đã bị dẹp thì chắc rằng có thể thi
thố được hoài bão của mình. Khi đó ông đã 61 tuổi. Trong bài biểu tạ ơn dâng
lên nhà vua, ông viết:
“Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi;
Cho thần như thông qua năm rét càng dạn tuyết sương
Quần ngôn mặc kệ gièm pha;
Thánh ý cứ bền tín nhiệm,
Khiến cho suy nát trở lại quang hoa.”
Và ông đã nổ lực trong nhiệm vụ mới được trao. Đến năm 1442, ông về
kinh đô làm chủ khảo kỳ thi hội. Người vợ thiếp của ông là Nguyễn Thị Lộ
được cử giữ chức Lễ nghi nữ học sĩ để dạy cung nữ. Nhưng mâu thuẫn lại
nảy ra giữa nguyên phi Nguyễn Thị Anh và Nguyễn Trãi. Nguyễn Thị Anh thấy
nàng tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao có mang, sợ đứa con đẻ ra sẽ có thể giành
ngai vàng của con mình, bèn vu cho Ngô Thị Ngọc Dao có liên quan đến việc
bùa bèn cúng bái của Huệ Phi và xin vua khép vào tội voi giày. Nguyễn Trãi
đã bảo Nguyễn Thị Lộ khuyên vua đừng nghe lời xúc xiểm độc hại ấy và tìm
cách đưa Ngô Thị Ngọc Dao đi trốn. Nguyễn Thị Anh biết chuyện bèn tìm
cách trả thù.
Năm 1442, Lê Thái tông đi Đông Triều, duyệt vũ ở thành Chí Linh, nhân
tiện ghé vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Lúc trở về, nhà vua bị chết ở Vườn
Vải (làng Đại Lai, Gia Bình, Hà Bắc ngày nay)
Nguyễn Thị Anh nhân cơ hội này đã dựa vào bọn quyền thần buộc tội
cho ông âm mưu với Nguyễn Thị Lộ đầu độc nhà vua. Nguyễn Trải bị kết vào
tội thí nghịch và bị tru di tam tộc. Năm ấy ông vừa 63 tuổi, chết mà không
thực hiện được trọn vẹn lý tưởng nhân nghĩa của mình.
***
Sau khi Nguyễn Trãi bị thảm họa tru di tam tộc, tác phẩm của ông đã bị
thất lạc. Trong hoàn cảnh chế độ phong kiến, tác phẩm của một “kẻ phản
nghịch” như vậy tất nhiên là những đồ quốc cấm đủ gây tai vạ lớn cho những
ai chứa chấp. Nhưng cũng có người đã dám tàng trữ là vì quý mến tài đức
của ông. Cũng nhờ vậy mà vua tôi Lê Thánh tông sau này mới có điều kiện
tập hợp các tác phẩm còn sót lại để truyền đến ngày nay. Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, năm Quang thuận thứ tám (1467), Lê Thánh tông sau khi rửa oan
cho Nguyễn Trãi đã hạ chỉ sưu tầm di cảo thơ văn của ông. Công việc này,
Trần Khắc Kiệm đã phải để hơn mười năm mới hoàn thành, ức trai thi tập do
Trần Khắc Kiệm biên tập và đề tựa năm 1480, về sau cũng thất lạc. Sang đến
thế kỷ XIX, Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh lại cùng
nhau sưu tập các tác phẩm của Nguyễn Trãi và cho xuất bản vào năm 1868
dưới cái tên Ức trai di tập.
Những tác phẩm chính của Nguyễn Trãi còn giữ lại được chưa phải là
tất cả sự nghịêp văn chương của ông, vì có một số đã thất lạc hẳn hoặc chỉ
còn lưu lại cái tên mà thôi.
Văn chữ Hán của Nguyễn Trãi chủ yếu là văn chính luận. Trước hết
phải kể đến Quân trung từ mệnh tập, Quân trung từ mệnh tập gồm khoảng
trên dưới 70 bài văn từ lệnh viết trong thời gian kháng chiến. Phần lớn những
bài văn đó là thư từ giao thiệp với các tướng Minh: Sơn Thọ, Mã kỳ, Phương
Chính, Vương Thông, Thái Phúc, với bọn ngụy quan như Lương Nhữ Hốt và
bè lũ, các bức thư dụ hàng các thành Điêu Diêu, Bắc Giang, Tam Giang,
Thanh Hóa, Nghệ An. Ngoài ra lại còn biểu cầu phong và tấu cầu phong gửi
vua nhà Minh, văn tấu cáo các vua nhà Trần, lệnh dụ các tướng hiệu quân
nhân ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, chiếu khuyên dụ hào kiệt v.v… Như
vậy thì Quân trung từ mệnh tập, ngoài những bài có tính chất đối ngoại, lại có
cả những bài có tính chất đối nội; đối ngoại thì tranh biện với địch quân, đánh
vào tinh thần của chúng, đối nội thì kêu gọi hào kiệt ra giúp nước, cổ lệ tướng
hiệu quân nhân nỗ lực giết giặc lập công. Văn bản Quân trung từ mệnh tập
còn lưu đến ngày nay mới chỉ gồm những bài văn từ lệnh viết từ năm 1423.
Có thể nghĩ rằng một bộ phận của Quân trung từ mệnh tập đã mất hẳn. Dầu
sao, với số bài hiện còn giữ lại được, Quân trung từ mệnh tập cũng phản ánh
được tình hình địch và ta trong các giai đoạn chính của cuộc kháng chiến,
cũng thể hiện được chiến lược và sách lược của nghĩa quân. Ngoài ra, Quân
trung từ mệnh tập cũng là một trong những tác phẩm phát biểu lên chủ nghĩa
ái quốc và tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Đến ngày đất nước được giải phóng, Nguyễn Trãi lại viết nhiều bài văn
nổi tiếng. Trước hết phải kể đến bài Bình Ngô đại cáo, một thứ tuyên ngôn
độc lập, một áng hùng văn vào bậc nhất trong lịch sử nước nhà. Bình Ngô đại
cáo đã phát biểu một cách có hệ thống chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi.
Những bài “Chiếu cầu hiền tài”, “Chiếu cấm các đại thần, tổng quan, cung các
quan ở viện, sảnh, cục tham lam, lười biếng”, “Chiếu cho Tư Tê quyền nhiếp
quốc chính”, v.v… phát biểu những quan điểm nhân nghĩa, cần kiệm của
Nguyễn Trãi trong vấn đề “trị nước, yên dân”, đề ra “chính sách cán bộ” của
ông. Những tác phẩm này được Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung và Ngô
Thế Vinh tập hợp lại trong phần Văn loại của Ức trai di tập.
Về văn của Nguyễn Trãi lại phải kể đến những bài “Chí Linh sơn phú”,
“Băng Hổ di sự lục”, truyện Nguyễn Phi Khanh, văn bia Vĩnh Lăng, v.v…
Cuốn Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi viết và Lam Sơn động chủ (Lê
Lợi) đê tựa năm 1432 là một tập lịch sử ký sự về cuộc Lam sơn khởi nghĩa và
cuộc trường kỳ kháng chiến chống Minh. Những sự kiện lịch sử mà tác giả đã
sống được trình bày một cách hệ thống với một lối văn súc tích, ngắn gọn,
sinh động và chứa chan tình cảm chân thành. Sách gồm ba cuốn. Cuốn thứ
nhất kể sự việc từ khi tằng tổ của Lê Lợi đến sinh cơ lập nghiệp ở Lam Sơn
cho đến khi Lê Lợi khởi nghĩa và bắt đầu chuyển sang đà chiến thắng, vây
chặt thành Nghệ An (năm Giáp thìn 1425). Cuốn thứ hai chép sự việc từ khi
vây thành Nghệ An cho đến khi đánh đuổi xong giặc Minh (cuối năm Đinh vị
1427). Cuốn thứ ba chép việc Lê Lợi lên ngôi, phong thưởng tướng sĩ. Bài
Bình Ngô đại cáo cũng được chép trong cuốn thứ ba này. Trong Lam Sơn
thực lục có những đoạn thần kỳ ít nhiều mang tính chất dân gian như lời sấm
báo trước việc Lê Lợi sẽ làm vua, việc Lê Lợi và Lê Thận quăng chài “vớt
được gươm thần trên có khắc chữ “Thuận Thiên” và “Lợi”, việc Lê Lợi
nhường vợ lẽ cho thần Phổ hộ (tức thần Quả) để được thần phù hộ đánh
thắng giặc v.v… Nếu Lam Sơn thực lục là một tập sách có tính chất sử học
thì Dư địa chí lại có giá trị về mặt địa lý, lịch sử và dân tộc học. Sách viết
khoảng năm 1435, Nguyễn Trãi đã phỏng theo lối văn của thiên Vũ cống trong
Kinh Thư nên sách Dư địa chí còn được người ta gọi là Đại Nam Vũ cống, tác
giả đã trình bày địa thế, núi sông, số khu vực hành chính và sự thay đổi của
tên nước ta, tên các khu vực hành chính qua các thời đại, các sản vật, các
nghề nghiệp ở từng vùng. Dư địa chí là bộ sách địa lý cổ nhất ở nước ta. Dư
địa chí thể hiện niềm yêu mến quê hương, niềm tự hào về khí thiêng sông
núi, về sự giàu có của đất nước.
Về thi ca, chúng ta còn giữ được Ức trai thi tập (chữ Hán) và Quốc âm
thi tập (chữ Nôm), Ức trai thi tập do Trần Khắc Kiệm biên soạn và đề tựa năm
1480. Ức trai thi tập gồm 3 quyển, 105 bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn. Thơ
chữ Hán Nguyễn Trãi giàu tính chất trữ tình, tả cảnh thiên nhiên (thí dụ như
“Mộ xuân tức sự”, “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm”, “Quan hải”), tả cảnh di tích lịch
sử (“Đề Yên Tử Sơn, Hoa yên tự”, “Bạch Đằng hải khẩu”), tả tâm tình (“Côn
Sơn ca”, “Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác “), tả ý chí (“Đề Hoàng ngự sử Mai
tuyết hiên”, “Thứ Cúc Pha”, “Ký hữu”, V.V..,)
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, thơ nôm giữ một vị trí rất
đặc biệt. Là một trí thức dân tộc có ý thức cao về nền văn hóa của nước Đại
Việt, Nguyễn Trãi đã rất coi trọng văn học dùng ngôn ngữ dân tộc. Theo Đại
Việt sử ký toàn thư thì năm Đinh Tỵ (1437) khi vua Lê Thái Tông muốn xem
những thủ cảo của Hồ Quý Ly, nhà vua đã nhờ Nguyễn Trãi làm công việc
sưu tập. Nguyễn Trãi đã không quên lượt lặt cả những tác phẩm nôm của Hồ
Quý Ly để dâng lên cho vua xem. Trong sáng tác thơ ca của ông, tỷ lệ tác
phẩm nôm rất là cao. Chỉ với sự hiểu biết của chúng ta hiện nay thì Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi đã gồm 254 bài thơ nôm. Cũng theo tài liệu hiện có
thì số thơ chữ Hán của ông là 105 bài. Như vậy là chúng ta biết rằng số thơ
nôm của Nguyễn Trãi nhiều gấp hai lần rưỡi số thơ chữ Hán. Rất có thể là với
những phát hiện về sau này thì tỷ lệ đó phải điều chỉnh lại. Nhưng dầu sao đi
nữa, thì con số 254 bài thơ chữ nôm cũng đủ xếp Nguyễn Trãi vào trong số
những tác giả làm nhiều thơ nôm nhất trong lịch sử văn học.
Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, các bài thơ được chia làm bốn
môn loại (Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn). Trong mỗi
môn loại lại có nhiều đề mục, tất cả là 53 đề mục. Một đề mục có thể chỉ gồm
một bài thơ, nhưng có đề mục lại gồm một chùm thơ. Thí dụ như đề mục
Ngôn chí có 21 bài, đề mục Mạn thuật có 14 bài, v.v… Những chùm thơ như
vậy được sáng tác theo một mạch, rất có thể là trong một hơi, và trong từng
chùm thơ số bài nhiều hoặc ít như vậy đã tùy thuộc hàm lượng nguồn thi
hứng của tác giả về mỗi loại vấn đề. Trong các chùm thơ nôm thì Bảo kính
cảnh giới là lớn hơn cả: 61 bài, Tự thán là thứ hai: 41 bài. Qua đó có thể thấy
trong thơ nôm, Nguyễn Trãi chủ yếu bộc lộ tâm sự của ông khi phải đi ở ẩn.
Nguyễn Trãi muốn để lại trong thơ nôm “tấm gương báu” để tự răn mình, biết
tu dưỡng, giữ vững phẩm chất, không chịu uốn theo thói xấu của thế nhân
(mà Nguyễn Trãi hiểu là những kẻ tranh quyền đoạt vị ở chốn triều đình), và
dè chừng sự hiểm độc của họ. Thơ nôm của Nguyễn Trãi là lời than của một
người đau xót vì lý tưởng không thực hiện được, lo lắng vì việc đời ngày càng
rối ren.
Nhìn chung, Nguyễn Trãi đã để lại một khối lượng tác phẩm khá lớn. Và
trong lịch sử văn học cổ thì Nguyễn Trãi là một trong những tác giả viết nhiều
nhất. Hình như có thể đặt câu hỏi sau: Một người suốt đời chiến đấu vất vả,
thì sao lại có thời giờ viết nhiều văn, làm nhiều thơ như thế? Nguyễn Trãi phải
bôn ba vất vả từ năm 27 tuổi đến năm 49 tuổi trong thời gian giặc Minh chiếm
đóng nước ta, trước thì lẩn tránh sự truy bức của giặc, sau thì tham gia cuộc
kháng chiến rất khó khăn gian khổ. Từ năm 50 tuổi cho đến năm 62 tuổi, ông
cũng không lúc nào có thì giờ rảnh, trừ vài năm ở ẩn tại Côn Sơn. Thế nhưng
phải thấy rằng chính vì suốt đời chiến đấu thì Nguyễn Trãi mới viết được
nhiều như vậy. Ông viết để đánh giặc, ông viết để xây dựng đất nước, ông
viết để phê phán những mặt tiêu cực của triều đình, ông viết để tự tu dưỡng
để giữ vững phẩm chất trong những cơn bĩ cực. Ở Nguyễn Trãi, con người
hành động và con người sáng tác nương tựa vào nhau, gắn bó với nhau. Ở
Nguyễn Trãi có thể tìm thấy một mẫu mực về sự gắn bó giữa văn nghệ và
cuộc sống.
***
Nguyễn Trãi quan niệm rằng văn nghệ không thể tách rời những yêu
cầu của cuộc sống. Và ông để lại những ý kiến rất quý báu góp phần xây
dựng một nhận thức đúng về nhiệm vụ và khả năng của văn nghệ. Trong các
tác giả của nền văn học cổ Trung Quốc ông thường nhắc đến Đỗ Phủ
“Tử Mỹ cô trung, Đường nhật nguyệt,
Bá Nhân song lệ, Tấn sơn hà”
(Thơ chữ Hán: Loạn hậu cảm tác)
“Trần Binh tự tín năng vi tể,
Đỗ Phủ thùy lân dĩ ngộ thân.”
(Thơ chữ Hán: Mạn thành, bài số 1)
“Nhan Uyên nước chứa, bầu còn nguyệt,
Đỗ Phủ thi nên, bút có thần.”
(Thơ nôm: Ngôn chí, bài số 11)
“Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,
Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh.”
(thơ nôm: Mạn thuật, bài số 9)
“Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.”
(Thơ nôm: Thuật hứng, bài số 5)
Thơ văn Nguyễn Trãi cũng có lúc nhắc đến những người như Khổng
Dung, Đào Tiềm, Lý Bạch, Tô Thức, nhưng ông thường thích ví mình với Đỗ
Phủ. Mang niềm trung của Tử Mỹ, nỗi lo nước, thương đời của Thiếu Lăng,
ông tự thấy dám gánh trách nhiệm như Đỗ Phủ và mong thơ của mình có
được cái thần của thơ Đỗ Phủ. Nghệ thuật thơ ca của ông đã bằng Đỗ Phủ
chưa? Điều đó còn hoặc phải bàn luận chăng? Nhưng thơ văn giúp đời của
ông thì đạt hiệu quả mà Đỗ Phủ chắc phải thèm muốn. Suốt đời ôm mối “tiên
ưu”, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, Nguyễn Trãi lại thường nhắc lời của
Tô Đông Pha (tức Tô Thức)
“Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn,
Pha lão tầng vân ngã diệc vân.”
(thơ chữ Hán: Mạn hứng, bài số 1)
“Người đời biết chữ thì lo nghĩ nhiều”. Đó là niềm tự hào, là ý thức trách
nhiệm của người trí thức chân chính trong xã hội cũ, mà cũng là niềm tự hào
và ý thức trách nhiệm mà Nguyễn Trãi tìm thấy ở người cầm bút.
Ông viết:
“Văn chương chép lấy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng.”
(thơ nôm: Bảo kính canh giới, bài số 5)
Rõ ràng là Nguyễn Trãi đã gắn văn chương với sự nghiệp, gắn việc làm
văn với nhiệm vụ làm người. Văn chương không tách rời hành động “trừ độc,
trừ tham, trừ bạo ngược”, văn chương gắn liền với phẩm chất “có nhân, có trí,
có anh hùng”. Và ông đã nói về ý nghĩa chiến đấu của văn chương khi nhắc
đến các bức thư gửi giặc Minh như sau:
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.”
(Thơ nôm: Bảo kính cảnh giới, bài số 6)
Ông đã dùng đao bút viết chỉ thư, tức là những bài văn từ lệnh mà
người đời sau gọi là “Quân trung từ mệnh tập”, cố ra tay thước, tức là tỏ tài
khéo mà chiến đấu với tư tưởng ngoan cố của quân giặc, góp phần vệ Nam,
tức là bảo vệ nước Nam, và điện Bắc, tức là dẹp yên giặc Bắc. Nguyễn Trãi
quả là đã có ý thức về tính chiến đấu của văn chương, và đã tự hào rằng
mình biết dùng ngòi bút như một vũ khí.
Tự hào về vai trò của người cầm bút, Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh vào
khả năng của văn nghệ. Vãn nghệ phải giúp cho người đời nhìn hiện thực
một cách phong phú hơn, sâu sắc hơn. Nguyễn Trãi đã từng làm được như
vậy trong tác phẩm của mình. Và ông lại cũng phát biểu về vấn đề như sau:
“Nhàn lai vô sự bất thanh nga,
Trần ngoại phong lưu tự nhất gia
Khuê bích thiên trùng khai điệp hiến
Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba.
Quản huyền tào tạp lâm biên điển,
La ỷ phương phân ổ lý hoa.
Nhãn để nhất thời thi liệu phú,
Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa.”
(thơ chữ Hán: Hý đề)
nghĩa là:
“Khi nhàn thì không gặp việc gì là không ngâm nga,
Ngoài cõi bụi, phong lưu tự thành một nhà.
Núi lớp lớp giăng nghìn trùng ngọc khuê ngọc bích,
Nước phẳng lặng bày muôn khoanh trong như pha lê,
Đàn sáo rộn rịp là chim hót bên rừng,
Gấm vóc rực rỡ là hoa nở trong khóm.
Trong đáy mắt một lúc nguồn thi liệu dồi dào,
Nhà thơ và người đời ai có nhiều hơn ai?”
Núi ấy, nước ấy, chim ấy, hoa ấy, nếu ở trong mắt người đời nhiều khi
cũng chỉ là bình thường thôi. Nhưng nhà thơ phải thấy đó là nguồn thi liệu
phong phú, phải biết qua đáy mắt của mình khiến cho núi ấy, nước ấy, chim
ấy, hoa ấy phản ánh thành châu ngọc, pha lê, ngân vang thành đàn sáo, dệt
thêu thành gấm vóc. Nhà thơ phải cung cấp cho người đời cách nhìn cao hơn
rộng hơn, mỹ lệ hơn đối với thiên nhiên của Tổ quốc, phải phát hiện ra nhiều
cái đẹp mà người thường khó phát hiện ra. Và văn nghệ làm cho thế giới cao
rộng thêm, đáng yêu hơn.
Viết về tác dụng của một làn dân ca, một nét dân nhạc, Nguyễn Trãi đã
có những phát hiện như sau:
“Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát,
Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao
(Thơ chữ Hán: Chu trung ngẫu thành, bài 2)
Ông chài hát lên ba lần thì mặt hồ phủ khói lại rộng thêm ra: chú chăn
trâu thổi lên một tiếng sáo thì mặt trăng trong bầu trời được đẩy cao hơn, Hồ
rộng thêm vì làn dân ca tỏa ra trên mặt nước, lan dần ra, man mác, vô biên.
Trăng vọt lên cao hơn vì tiếng sáo vút thẳng trong bầu trời, không biết dừng
lại ở đâu. Tả lời hát, tả tiếng sáo, đồng thời tả cảm giác của người ta khi nghe
ca, nghe nhạc, ý tứ thật là hàm súc sâu xa. Không gian rộng thêm ra, cao
thêm lên mà chính cũng là tâm hồn con người mở rộng ra, lớn thêm lên. Văn
nghệ có thể và phải nâng con người lên một tầm vóc cao đẹp hơn là như thế.
Nói về thơ, Nguyễn Trãi cũng có ý tứ tương tự:
“Khách lạ đến ngàn, hoa chửa rụng,
Câu thân ngâm dạ, nguyệt càng cao.
(Thơ nôm: Thuật hứng, bài số 7)
Thơ hay thì phải làm cho người ta nhìn hiện thực ở một tầm khác tầm
nhìn bình thường. Đó là quan niệm rất chính xác và ý nghĩ rất sâu sắc về vai
trò của thơ.
Nguyễn Trãi, trong tác phẩm của mình, kể cả trong các tác phẩm chính
luận, luôn luôn có cái nhìn xa rộng, cái nhìn thấu đáo và sâu sắc đối với thiên
nhiên, xã hội, đối với cuộc sống của đất nước, của nhân dân. Ông đề cao tác
dụng của văn nghệ, đồng thời lại có yêu cầu cao đối với văn nghệ và đối với
người làm văn nghệ. Yêu cầu ấy trước hết là: văn nghệ phải gắn bó mật thiết
với cuộc sống của quảng đại quần chúng. Mà chính sự nghiệp văn học của
Nguyễn Trãi thì cũng lại đã được xây dựng trên một mối quan hệ mật thiết
giữa văn học và đời sống. Và ông đã từng có dịp phát biểu về mối quan hệ
này nhân trình bày với vua Lê Thái tông quan niệm của mình về một nền âm
nhạc có cơ sở chân chính và vững chắc: “Thời loạn thì dụng võ, tnời bình thì
dụng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính là phải thời lắm. Song không có
gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc
của nhạc, thanh âm là văn của nhạc… Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương
và chăn nuôi muôn dân, khiến cho thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng
hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc vậy” (xem Đại việt sử
ký toàn thư q. 11, tờ 35a; 35b; và Việt sử thông giám cương mục, q. 17, tờ
3a).
Như thế nghĩa là văn nghệ có gốc ở đời sống, mà đời sống ở đây trước
hết là đời sống của nhân dân. Câu nói trên cũng có thể suy rộng ra mà hiểu là
giữa “gốc” và “văn” giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ tương hỗ
khăng khít, hữu cơ, trong đó nội dung quyết định hình thức. Kết luận rất đúng
mà Nguyễn Trãi rút ra là phải chăm bón cái “gốc” thì cái “văn” mới tươi tốt
được, tức là muốn cho văn nghệ có thể phát triển, có thể nở hoa kết quả thì
phải trước hết chăm lo đời sống của quảng đại quần chúng. Suy rộng ra thì
nhà văn nghệ trước hết phải là một người biết chiến đấu cho những quyền lợi
của Tổ quốc, của nhân dân, trước hết phải là một người biết hành động vì
cuộc sống, vì con người. Và chỉ có trong quá trình ấy thì mới có thể sáng tạo
ra những tác phẩm hay.
Bản thân Nguyễn Trãi đã thể nghiệm điều ấy. Là một nhà yêu nước vĩ
đại, một chiến sĩ kiên cường, ông đã suốt đời đấu tranh vì lợi ích của Tổ quốc,
của dân tộc. Ông đã viết để phục vụ cuộc đấu tranh ấy. Và chính cũng vì thế
mà ông đã có nhiều tác phẩm hay.
Nguyễn Trãi tất nhiên không thể quan niệm vấn đề như chúng ta ngày
nay, vì chúng ta đã có thêm hơn năm trăm năm lịch sử với biết bao kinh
nghiệm sống và đấu tranh của dân tộc. Nhưng nhận thức về vai trò của văn
nghệ được ông nêu lên và nhấn mạnh chẳng những rất xứng đáng với truyền
thống văn hóa lâu đời của dân tộc mà lại đồng thời có ý nghĩa hiện đại. Và có
thể nói rằng vai trò lớn của Nguyễn Trãi trong lịch sử văn học nghệ thuật
nước ta trước hết là ở những quan điểm của ông về ý nghĩa, tác dụng và
nhiệm vụ của văn nghệ đối với cuộc sống, đối với dân tộc, đối với nhân dân.
Ông đã đóng góp rất lớn vào kho tàng lý luận văn học nghệ thuật của dân tộc.
Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sinh động
trong toàn bộ sáng tác của ông. Ở một con người trung thực, lại có tài năng,
có nghị lực như Nguyễn Trãi thì tất nhiên giữa nói và làm, giữa lý luận và thực
hành có một sự nhất quán triệt để.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi trước hết là ở chỗ dùng ngòi bút
mà chiến đấu cho tổ quốc, cho nhân dân. Ông đã viết văn để đánh giặc.
Những bài văn chữ Hán có tính chiến đấu cao và nội dung yêu nước sâu sắc
viết trong thời gian kháng chiến được tập hợp lại thành Quân trung từ mệnh
tập. Quân trung từ mệnh tập có sức mạnh như những đạo quân, như những
đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù. Đó là tác phẩm phải nói đến trước hết, khi
tìm hiểu Nguyễn Trãi.
Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã giương cao ngọn cờ
chính nghĩa của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, nhân dân
ta lúc nào cũng noi theo nhân nghĩa, khác với giặc Minh tàn bạo, “dối trời hại
người” phản lại nhân nghĩa. Và chính vì noi theo nhân nghĩa mà nhân dân ta
tất thắng, chính vì phản lại nhân nghĩa mà giặc Minh thất bại. Đó là một trong
những nội dung căn bản được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp khúc,
trong thư từ gửi cho tướng giặc cũng như nhiều bài văn khác của Nguyễn
Trãi. Sức chiến đấu mạnh mẽ của văn Nguyễn Trãi một phần lớn thể hiện ở
điểm này.
Mưu việc lớn, phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Làm đại tướng phải lấy
nhân nghĩa làm gốc. Đó là một nguyên lý mà Nguyễn Trãi coi như bất di bất
dịch. Vì chân thành nghĩ như vậy cho nên Nguyễn Trãi mới có thể nói về điều
đó một cách hào hùng trong nhiều bức thư. Trong thư trả lời Phương Chính
có những câu như: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên
công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu” (bài số 8), “Bảo cho mày ngược tặc
Phương Chính biết: đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm
của…” (bài số 5), “Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính biết: “Ta nghe nói
người danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn bay quyền mưu
còn chưa đủ, huống chi là nhân nghĩa” (bài số 7). Quân giặc phản nhân nghĩa
như thế nào, thì Nguyễn Trãi lại vạch rõ: “Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo,
mượn tiếng điếu dân phạt tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta,
bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quí, dân mọn xóm làng
không được sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư? (bài số 8).
Nhân nghĩa vốn là những khái niệm của Nho giáo và có nội dung đạo
đức gắn với quyền lợi của giai cấp phong kiến. Nhưng dưới ngòi bút của
Nguyễn Trãi, nhân nghĩa lại có nội dung lịch sử cụ thể: đó là bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nhân dân, chống xâm lược, chống bóc lột. Điều đáng căm ghét là
chính bọn xâm lược, bọn bóc lột lại mượn danh nhân nghĩa. Cho nên Nguyễn
Trãi đã phải đập cho tan luận điệu lừa bịp ấy. Bọn tướng giặc thường tự nhận
là có văn minh, có lễ nghĩa và khinh ta là mọi rợ. Bức thư dụ thành Bắc Giang
mở đầu như sau: “Ta bảo cho tướng hiệu quan viên cùng quân nhân trong
thành Bắc Giang biết: Ta nghe nói người có Bắc Nam, đạo không kia khác.
Nhân nhân quân tử không đâu là không có. Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài
nơi Ngũ Lĩnh mà có tiếng là một nước thi thư, những bậc trí mưu tài thức đời
nào cũng có. Vì thế, phàm những việc ta làm đều theo lễ nghĩa, hợp trời
thuận người”. Nguyễn Trãi rất tự hào rằng nước ta là một nước “có lễ nghĩa”
dân tộc ta là một dân tộc văn minh không cần kẻ nào đến khai hóa cả. Trái lại,
bọn tự cho mình cái quyền đi “khai hóa” thực ra không có văn minh lễ nghĩa gì
cả. Trong bức thư gửi Vương Thông (bài số 35), ông vạch rõ sáu điều tất thua
của địch trong đó có điều thư năm như sau: “(ở nước ngươi) gian thần
chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến, đó
là điều phải thua thứ năm”. Nội bộ nhà Minh đã mục nát như thế, cương
thường điên đảo như thế, còn làm gi có nhân nghĩa mà ban bố cho nước
khác! Giặc Minh chỉ là một bọn giả nhân giả nghĩa mà thôi. Trong điều tất thua
thứ sáu của địch, Nguyễn Trãi đã nêu rõ tính chất chính nghĩa làm nên sức
mạnh của quân ta: “Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết
sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc;
quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi khốn khổ, tự chuốc lấy bại vong, đấy là
điều thua thứ sáu”. Nhuệ khí sắc bén, tinh thần đoàn kết vững chắc, ý chí
chiến đấu bền bỉ của quân dân ta đều có nguồn gốc từ đại nghĩa dân tộc. Còn
giặc Minh mang cái chiêu bài: “điếu dân, phạt tội”, “diệt Hồ, phục Trần” để ăn
cướp nước ta thì chẳng qua là một bọn lừa bịp, tất phải bại vong. Đó là điều
Nguyễn Trãi muốn nhấn mạnh. Phàm đã là phi chính nghĩa thì hay trí trá, và
chỉ có noi theo chính nghĩa mới trung thực được. Lúc còn mạnh, giặc Minh đã
quen thói trí trá, đến khi yếu chúng còn trí trá hơn. Khi thế lực quân sự đã suy
sút, chúng không đủ sức đe dọa áp đảo nghĩa quân nữa, cho nên đã tận dụng
mọi thủ đoạn lừa dối hòng phục hồi lại tình thế cũ. Bên ta thi trái lại, danh
chính ngôn thuận, không việc gì phải ăn gian nói dối. Trong Quân trung từ
mệnh tập, Nguyễn Trãi đã đem đối lập thái độ đường hoàng chính đại của
nghĩa quân với thái độ ám muội ti bỉ của quân giặc.
Trong nhiều bức thư gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi đã vạch rõ bộ
mặt phản tín nghĩa của chúng. Trong bức thư gửi Vương Thông, Sơn Thọ
(bài số 15), với một hái độ mềm mỏng, ông viết: “Tôi nghe nói: điều tín là vật
báu của nước, người ta không có điều tín thì liệu lấy cái gì mà làm việc?.. Các
ngài nếu thực không bỏ lời ước cũ, thì phàm làm việc gì cũng phải lợi hại rõ
ràng. Muốn rút quân thì cứ rút quân, muốn cố giữ thì cứ cố giữ, hà tất ngoài
thì nói giảng hòa mà trong thì mưu tính kế khác. Đừng nên trước sau trái
nhau, trong ngoài bất nhất như thế…”. Từ khi quân giặc bị nghĩa quân vây ở
thành Đông Quan và một số thành khác, chúng tìm kế hoãn binh, giả vờ xin
giảng hòa, nhưng thỉnh thoảng lại lẻn ra đánh trộm và còn cho gọi viện binh từ
Trung Quốc sang. Nghĩa quân một mặt khép chặt vòng vây hơn, một mặt
chuẩn bị đòn đánh viện binh. Trong khi đó thì trên mặt trận ngoại giao Nguyễn
Trãi đấu tranh kiên quyết với giặc, dùng lý lẽ buộc chúng phải tuân theo lời
ước cũ. Khi thì thuyết phục, khi thì đả kích, Nguyễn Trãi đã vạch cho giặc thấy
rằng giữ tròn chữ tín chỉ có lợi cho chúng, thất tín chỉ có hại cho chúng. Và có
lúc lời văn trở nên nghiêm khắc phẫn nộ trước thái độ trí trá của giặc: “Trước
đây bụng mưu giả trá, mặt thác giảng hòa, rồi cứ đào hào lắp lũy, ngồi chờ
viện binh. Tâm tích không rõ, trong ngoài khác nhau, sao đủ khiến cho ta chắc
tin mà không ngờ được?…” (bài thứ 35).
Trái với quân địch, quân ta lúc nào cũng giữ vững chữ tín, trước sau
như một, vẫn muốn thực hiện lời giao ước cho địch giảng hòa. Trong hầu hết
các bức thư gửi cho tướng giặc khi chúng đã thất thế, Nguyễn Trãi đều nêu
thiện ý của quân dân ta sẵn sàng cung cấp mọi phương tiện, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tàn quân của Vương Thông rút về nước yên ổn. Và điều
đó, sau này, quân ta đã thực hiện đúng như lời hứa.
Lập trường của Nguyễn Trãi lúc nói về địch và ta quả là lập trường của
một chiến sĩ: dưới ngòi bút của ông, tướng Minh hiện ra như một bọn người
độc ác mà đớn hèn, trí trá mà ngu xuẩn, trái lại nghĩa quân thì khoan hồng
nhưng dũng mãnh, trung thực nhưng khôn ngoan. Và điều đó quả đúng với
sự thật.
Để thuyết phục địch, có lúc Nguyễn Trãi đứng về phía quyền lợi chính
đáng của tướng Minh, quân Minh mà bàn bạc phải trái, vạch cho chúng con
đường sáng sủa mà đi. Ông hay nhắc đến chữ thời và chữ thế. Ông viết cho
Vương Thông như sau: “Tôi từng xem Kinh Dịch 384 hào, mà cố yếu là ỗ chữ
thời, cho nên người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ thời to tát lắm
sao!… Vì thế mà người quân tử lấy tùy thời xử trung làm quí. Song từ xưa
đến nay, kẻ vu nho tục sĩ không hiểu thời vụ; hiểu thời vụ họa chăng chỉ có
bậc tuấn kiệt thôi. Như ngài thì có thể bảo là bậc tuấn kiệt hiểu thời vụ đấy…
Hiện nay khí trời ôn hòa, chính là lúc đem quân về rất tốt. Nếu ngài bỏ lỡ thời
ấy không đi, mà cứ chờ đợi, đến lúc nước xuân mới sinh, khi nóng bức dần,
mà bảo là ung dung khải hoàn thì tôi e những quân sĩ đi lâu nhớ nhà, giữa
đường ta oán, đến lúc bấy giờ dẫu muốn ung dung vị tất đã được ung dung.
Trước có bảo là tùy thời xét biến, chinh nên liệu sớm ngay đi” (bài thứ 34).
“Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế
thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế, thì mạnh hóa ra
yếu, yên lại thành nguy: sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay. Nay các
ông không hiểu rõ thời thế lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn
thất phu hèn kém ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?” (bài thứ 35). “Tôi
nghe cái điều đáng quí ở người tuấn kiệt là biết thời thế, hiểu sự biến mà thôi”
(bài thứ 37) Phân tích thời và thế, Nguyễn Trãi nêu rõ rằng lúc trước khác,
bây giờ khác. Lúc trước, quân Minh mượn danh diệt nhà Hồ là kẻ cướp ngôi,
phục hồi nhà Trần là triều đại chính thống cho nên tạm thời có thể thành
công. Bây giờ ở lại chiếm đóng, thống trị, bóc lột, vơ vét, đã mất lòng dân rồi.
Cho nên nếu không sớm rút lui, sẽ bị tiêu diệt. Lúc trước, quân Lam Sơn thế
yếu mà quân Minh còn chẳng làm gì nổi nữa là bây giờ quân Lam Sơn đã có
phần lớn đất đai. Binh lính trong quân Minh lại chán nản, đã nhiều nơi đầu
hàng. Nếu còn ngoan cố, trì hoãn không chịu rút quân thế tất phải thua to. Đó
là nội dung các bức thư gửi Vương Thông, khi viên tướng này tuy còn nhiều
quân nhưng đã nao núng (bài số 32, bài số 34, bài số 37). Và Nguyễn Trãi
nhận xét tình hình mà tính toán hộ tướng giặc như sau: “Nay tính hộ các ông
thì có sáu điều phải thua: Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu
thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. Xưa Đường Thái bắt
Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có
quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua,
bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. Ở nước các ông, quân
mạnh ngựa tốt nay đóng cả ỗ miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi
nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. Luôn động can qua, liên tiếp
đánh dẹp, người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua
thứ tư. Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia
đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm. Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới
cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày
ruộng lại vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi, tự chuốc diệt
vong. Đó là điều phải thua thứ sáu. Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu
điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông” (bài số 35). Một mặt vạch con
đường sáng cho tướng giặc, một mặt Nguyễn Trãi lại nêu cái lỗ tùy thời thông
biến cho tướng giặc có thể dựa vào đó để rút quân mà bớt xấu hổ. Âu cũng là
một cách thông cảm với sĩ diện của tướng sĩ “Thiên triều”. Ông viết: “Nay tính
giùm các ông chẳng gì bằng cùng Thái đô đốc đem quân về nước là hơn cả…
Kinh Dịch có câu: cùng tắc biến, biến tắc thông”. Các ông sao không nghĩ thế”
(bài số 37). Từ lý lẽ cho đến thái độ, những bức thư của Nguyễn Trãi đều có ý
nghĩa thuyết phục mạnh mẽ. Nguyễn Trãi rất chú ý đến đối tượng, đến kẻ đọc
thư của mình. Đối với những tên ra mặt hung hăng như Phương Chính, Mã
Kỳ thì từ cách xưng hô cho đến nội dung và lời văn thường có tính chất đả
kích không thương tiếc. Trái lại đối với hạng người có thể tranh thủ được như
Thái Phúc và tướng sĩ cấp dưới, thì từ cách xưng hô cho đến nội dung và lời
văn đều có tính chất ôn tồn trọng thị. Đối với hạng tướng tá cấp cao như tổng
binh Vương Thông, nếu thuyết nhục được là có thể kết thúc chiến tranh, thì
Nguyễn Trãi lại tỏ thái độ kiên nhẫn vừa phê phán vừa tranh thủ. Còn như lời
lẽ trong các bài biểu và tấu gửi vua Minh thì lại nhún nhường. Ngay trong thư
từ gửi các tướng Minh, khi nói đến vua Minh thì bao giờ cũng ra vẻ suy tôn.
Đó chẳng qua chỉ là một thuật ngoại giao, thực tế không ảnh hưởng gì đến
chủ quyền quốc gia cả. Nhưng điều đó lại góp phần đưa đến quan hệ hòa
bình giữa nước nhỏ và nước lớn trong hoàn cảnh chế độ phong kiến. Vấn đề
đối với nghĩa quân lúc bấy giờ là làm thế nào cho nhà Minh bỏ cái tham vọng
chiếm đóng nước ta, đừng cho viện binh sang và chịu rút quân về.
Nếu theo sát từng bức thư, ta lại càng thấy rõ tính chất tinh vi của bút
pháp Nguyễn Trãi. Khi thì lời ván phẫn nộ, dập hẳn vào mặt quân giặc. Thí
dụ: “Nay lũ bay chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết
mà không thương xót. Việc ấy trời không dung, thần người đều giận, cho nên
liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua, thế mà không biết tự cải quá, lại
còn bới bẩn cho thêm thối, thì hối sao kịp được!…” (bài số 5). Khi thì lời văn
châm biếm khích khí: “…Nếu không nghe thế, thì nên chỉnh quân bày trận,
giao chiến ở chốn bình nguyên, quyết một trận được thua, để xem cái tài
khéo vụng, chớ không nên chúi một xó hang cùng mà bắt chước thái độ một
mụ già như thế”(bài số 35). Có khi lời văn ra vẻ thật là từ tốn mà lại bao hàm
cái uy thế áp đảo kẻ thù. Khi Lê Lợi kéo quân đến Bồ Đề ở hữu ngạn sông
Nhĩ để siết chặt vòng vây quanh thành Đông Quan, thì Nguyễn Trãi đã viết
cho Vương Thông như sau; “Trước vì trại đóng hơi xa, đi lại vất vả. Nay tôi
muốn dời đến bên thành, phía Bắc sông, đối ngạn gần nhau, đi lại cho tiện.
Kính bẩm để ngài biết ý, xin đợi tôn mệnh, Nếu có sự xử trí khác, xin ngài chỉ
bảo cho, tôi xin cảm tạ. Thư nói không hết” (bài số 18). Bức thư làm ra vẻ đến
ở gần cho tiện đi lại bàn bạc việc giảng hòa. Nhưng Vương Thông tất phải
thấy ở bức thư trên một lời cảnh cáo, trong khi sức ép quân sự của Lê Lợi đá
ốp sát sườn quân Minh. Nguyễn Trãi lại thường thấy ngay lý lẽ của địch mà
đánh trả địch. Thấy tướng giặc trước kia đã giương cao chiêu bài phù nhà
Trần để lừa bịp thì Nguyễn Trãi lại theo dõi từng sự việc cụ thể một mà bẽ
gẫy những luận điệu mà địch đưa ra. Thí dụ như cuộc bút chiến diễn ra qua
các bức thư thứ 6 và thứ 7. Phương Chính đánh nhau với nghĩa quân ở nơi
rừng núi hiểm trở thấy bất lợi, bèn gửi thư thách rằng: “Nếu muốn đánh nhau
thì hãy ra chỗ đồng bằng đất phẳng”. Nguyễn Trãi bèn trả lời: “Người dùng
binh giỏi thì không cho đâu là hiểm trở, đâu là không hiểm trở, không lấy đâu
làm bình dị, đâu là không bình dị. Thắng hay phụ là ở tướng chứ không ở địa
thế hiểm trở hay bình dị đâu… Mày nếu không lui, ta tất đưa quân đến để
quyết chiến” (bài số 6). Sau đó quân ta đánh thắng quân địch rồi kéo về vây
thành Nghệ An. Nguyễn Trãi bèn lấy ngay luận điệu của Phương Chính trước
kia mà đập lại nó, khiến tướng giặc phải cứng họng: “Trước mày gửi thư cho
ta cứ cười rằng ta núp náu ở nơi rừng núi, thập thò như chuột, không dám ra
nơi đồng bằng đất phẳng để đánh nhau. Nay quân ta đã đến đây. Ngoài thành
Nghệ An đều là chiến trường cả. Mày cho đấy là rừng núi chăng? Mày cho
đấy là bình nguyên chăng? Thế mà mày cứ đóng cửa thành cố thủ như một
mụ già là làm sao?” (bài số 7). Nguyễn Trãi đã bám sát địch mà đánh địch đại
loại là như vậy đó.
Với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, không khoan nhượng trên
những điểm căn bản, và tuân theo một sách lược sinh hoạt, Nguyễn Trãi đã
giáng cho địch những đòn tới tấp, đã đánh cho kẻ địch phải thua trên mặt trận
tư tưởng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của nghĩa quân. Quân trung từ
mệnh tập có tác dụng làm suy yếu kẻ địch về nhiều mặt, thứ nhất là phân hóa
hàng ngũ giặc Minh. Nguyễn Trãi, với ngòi bút của mình, ít nhiều đã tranh thủ
được một số tướng sĩ cấp dưới và cả những tướng sĩ cấp cao như Thái Phúc
chẳng hạn, tách dần bọn này ra khỏi bọn tướng tá hiếu chiến và ngoan cố
khác. Nguyễn Trãi đã đem những tin thắng trận của ta, những tin đầu hàng
của các thành địch v.v… mà báo cho các tướng giặc còn ngoan cố biết để rồi
nhân cơ hội đó mà nêu lên những tấm gương trí hay ngu, an hay nguy mà
vạch lẽ tiến lui cho kẻ địch, thuyết phục chúng, khuất phục chúng, thôi thúc
chúng phải cuốn giáp qui hàng.
Đường lối đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, chiến lược
“mưu phạt tâm công” mà Nguyễn Trãi chủ trương, mà nghĩa quân thực hiện,
đã được thực tế chứng minh là đúng, đã dẫn cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn. Quân trung từ mệnh tập xét chung thì đã biểu hiện chiến lược của
nghĩa quân, mà từng bức thư xét riêng thì lại biểu hiện sách lược của nghĩa
quân. Và văn chương của Nguyễn Trãi đá góp phần quan trọng vào sự thành
công của cuộc kháng chiến.
Quân trung từ mệnh tập là một tác phẩm văn học chính luận. Trước kia,
văn chính luận, từ Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, văn lộ bố của Lý Thường
Kiệt đến Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Thất trảm sớ của Chu An đã đặt
ra và giải quyết đúng những vấn đề trọng đại của đất nước. Người xưa có
câu: “Chính giả, chính dã” (làm chính trị là làm theo chính nghĩa). Nói đến
chính trị mà muốn thuyết phục người ta thì phải có mục đích quang minh, lý lẽ
thẳng thắn. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ (tổ quốc của nhân dân ta là sự
nghiệp chính nghĩa. Nêu cao ngọn cờ xây dựng và bảo vệ tổ quốc là nêu cao
chính nghĩa. Như thế thì lời nói dễ đường hoàng, thông suốt, khí văn dễ trở
nên hào hùng mạnh mẽ. Văn chính luận đề cập đến những vấn đề trọng đại
của dân tộc dễ có điều kiện hay, miễn là tác giả đứng về phía quyền lợi của
dân tộc, của nhân dân, và có cảm xúc chân thành, sâu sắc. Tất nhiên trau
chuốt lời văn cũng rất cần thiết, nhưng đó chỉ là việc phụ. Văn chính luận đã
có truyền thống vững chắc trước Nguyễn Trãi. Nhưng Nguyễn Trãi là người
đã đưa văn chính luận đến một trình độ cao. Nguyễn Trãi viết Quân trung từ
mệnh tập để nói với quân dân ta, nhưng chủ yếu là nói với kẻ địch. Viết cho
kẻ địch thì phải tự hiểu mình, để giữ vững tư thế, mà cũng phải rất hiểu kẻ
địch để đánh cho trúng. Lại phải tìm được lời lẽ xác đáng để kẻ địch hiểu
được những điều ta cần cho nó hiểu và hướng nó hành động theo yêu cầu
của ta. Nguyễn Trãi đã hiểu ta, hiểu địch, đã tìm được lời lẽ đúng. Ông lại có
ý chí kiên quyết đánh địch, trí tuệ nhạy bén và sáng suốt, nhất là tư tưởng
nhân đạo cao quí. Ông đã tiêu biểu cho ý chí và trí tuệ của nhân dân. Và
Quân trung từ mệnh tập vì phản ánh ý thức chính trị cao của nhân dân ta, của
dân tộc ta ngày trước cho nên đã trở thành một tác phẩm văn học chính luận
kiệt xuất.
Đến khi kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại
cáo tác phẩm chữ Hán nổi tiếng nhất của ông. Và tiếp đó, ông đã viết Chí
Linh sơn phú, Lam Sơn thực lục và Lam Sơn Vĩnh lăng bi. Các tác phẩm này
có những ý kiến, những tình tiết khác với nội dung của Bình Ngô đại cáo. Và
bút pháp của tác giả cũng tùy theo yêu cầu của từng loại văn “cáo”, “phú”, “bi
ký” và “thực lục” mà thay đổi, nhưng các tác phẩm này đều giống nhau ở chỗ
đã tổng kết toàn bộ cuộc kháng chiến. Khác với các bức thư và bài viết trong
thời gian kháng chiến được gồm lại trong Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô
đại cáo và các tác phẩm kể trên không có tính chất nhanh gọn, nóng hổi và
gắn với từng trận đánh. Ngược lại, Bình Ngô đại cáo và các tác phẩm ấy đã
thể hiện một sự nhận định toàn diện hơn.
Trong Bình Ngô đại cáo đã được phản ánh đầy đủ và tập trung hơn cả
sự diễn biến của cuộc kháng chiến. Sau khi nêu cao tính chất chính nghĩa của
quân ta và vạch tội giặc, Nguyễn Trãi đã kể lại các giai đoạn của cuộc kháng
chiến. Lúc đầu nghĩa quân còn yếu, phải nhiều phen lạo đao như “khi Linh
Sơn, lương hết mấy tuần”, “khi Khôi huyện, quân không một đội”, trải qua
những chiến thắng đầu tiên như “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật”, “Miền
Trà Lân trúc chẻ tro bay”, đến khi “sĩ khí đá hăng, quân thanh càng mạnh” thì
“thừa thắng ruổi dài, Tây kinh quân ta chiếm lại, tuyển binh tiến đánh, Đông
Đô đất cũ thu về”. Quân ta đã đánh thắng những trận cơ bản ở “Ninh kiều
máu chảy thành sông”, ở “Tốt Động thây chết đầy nội”. Quân Minh đáng lẽ
phải tự liệu sức mình, phải hiểu tình thế mà cầu hòa rút lui về nước, nhưng
tướng giặc đã lâm vào thế cùng lại càng đâm quẫn. “Vương Thông gỡ thế
nguy mà đám lửa cháy lại càng cháy” và “thằng nhãi con Tuyên Đức nhàm võ
không thôi lại sai đồ nhút nhát Thạnh Thăng đem dầu chữa cháy”. Nhưng
quân ta “trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, “sau đó lại” sai
tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”. Và do đó, trong có mười ngày
mà Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh tử vong, lại đến Lý Khánh tự vẫn. “Đánh
một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông”, “rồi” Thôi
Tụ lê gối dâng tờ tạ tội”, “Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”, “quân Vân Nam
nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, “quân Mộc Thạnh xéo lên nhau để chạy thoát
thân”. Quân giặc các thành đều cởi giáp ra hàng, thấy “tướng giặc bị cầm tù
như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”; cho nên “thần vũ chẳng giết hại, thể lòng
trời ta mở đường hiếu sinh”, và “họ tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”
thì “ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”.
Với lời văn sinh động, với những hình tượng sắc và mạnh, Nguyễn Trãi
đã kể lại một cách súc tích tất cả những sự kiện chính của cuộc kháng chiến,
đã miêu tả một cách tinh tế quân dân ta cũng như quân giặc Minh.
Bình Ngô đại cáo nêu cao chiến lược “mưu phạt, tâm công”. Chiến lược
ấy chỉ có thể là chiến lược của người nắm chính nghĩa. Có chính nghĩa thì
mới có thể dựa vào dân, và có được sự ủng hộ của dân thì khi dùng mưu mới
đạt kết quả là lấy yếu đánh mạnh, lấy ít thắng nhiều. Có chính nghĩa thì mới
có thể “tâm công”, thì mới có thể địch vận, ngụy vận, làm tan rã hàng ngũ kẻ
thù và giành chiến thắng.
Bình Ngô đại cáo đã trình bày diễn biến từ chỗ yếu đến chỗ mạnh của
nghĩa quân, từ chỗ gieo neo gian khổ đến chỗ phấn khởi thành công của cuộc
kháng chiến.
Bình Ngô đại cáo nêu cao ý chí bất khuất và chủ nghĩa anh hùng của
nhân dân ta.
Đó là một bản anh hùng ca của thời đại mà cũng là một bản tuyên ngôn
độc lập. Và giá trị của Bình Ngô đại cáo không phải chỉ là ở chỗ phản ánh
cuộc kháng chiến. Giá trị chủ yếu của Bình Ngô đại cáo là ở chỗ phát biểu
được chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Câu này được nêu lên như một tiêu đề
cho toàn bài và tất cả nội dung được phát triển về sau đều xoay quanh hai
chữ “nhân nghĩa”. Đáng chú ý là Nguyễn Trãi gắn chặt “nhân nghĩa” với “yên
dân”. Yên dân, đó là một điều mà Nguyễn Trãi luôn luôn theo đuổi. Đọc Quân
trung từ mệnh tập, chúng ta đã thấy toát ra một tinh thần yêu nước sâu sắc,
trong một bức thư trả lời Phương Chính (bài số 8) có đoạn kể tội giặc như
sau: “Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là điếu dân phạt tội, kỳ
thực là làm việc bạo tàn lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng
hình nhiều, vơ vét của quí, dân mọn các làng không được yên sống”, Trong
bài Biểu cầu phong (bài số 21), vì ta chủ trương giảng hòa cho nên không tiện
thẳng tay vạch mặt triều đình nhà Minh, nhưng Nguyễn Trãi cũng nói lên
được nỗi phẫn nộ và đau xót trước cảnh tàn hại do bọn giặc xâm lược gây ra
cho nhân dân ta: “… Dân chúng lưu ly, những nỗi lìa tan không kể xiết, binh sĩ
đánh chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay!” Trong Bình Ngô đại cáo,
Nguyễn Trãi đã lên án giặc một cách nghiêm khắc hơn:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dõi trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống hiển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập
thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt đò chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm dặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng
Thằng há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi,”
Nguyễn Trãi đã nhìn rõ những mối tai vạ mà giặc Minh đem lại cho
nhân dân: nào là vơ vét, bóc lột, phá hoại sản xuất, nào là gây ra cảnh chiến
tranh, tàn sát. Đối với Nguyễn Trãi, cứu nước trước hết là cứu dân, và trong
bài Bình Ngô đại cáo – một bản tuyên ngôn độc lập – không phải ngẫu nhiên
mà tác giả đã trước hết nêu lên hai chữ “yên dân”. Nói lên hai chữ “yên dân”,
Nguyễn Trãi đã kế thừa một truyền thống lớn trong lịch sử tư tưởng nước Đại
Việt và mặt khác lại đã khẳng định tinh thần của thời đại ông. Chính sách thân
dân vốn là chính sách chung của các triều Lý, Trần, khi mà Nhà nước phong
kiến còn có vai trò lịch sử tích cực trong việc tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ nước Đại Việt. Và tư tưởng thân dân vốn là truyền thống
của những người lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quân sự. Tư tưởng ấy đã thấy
ở Lý Thái tổ và nhiều vua đời Lý, tư tưởng ấy lại thấy ở Trần Thái tông, Trần
Nhân tông và nhiều vua đời Trần. Tư tưởng ấy lại càng thấy rõ ở Lý Thường
Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão,
Nguyễn Trung Ngạn, Chu An, Phạm Sư Mạnh, v.v…
Kế thừa truyền thống tốt đẹp ấy, Nguyễn Trãi đã nâng quan điểm thân
dân lên một mức cao hơn và coi việc chăm lo cho quyền lợi của dân là nội
dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước. Quan điểm của ông đối với nhân dân
tất nhiên bị sự hạn chế của thời đại. Đọc Bình Ngô đại cáo, ta thấy Lê Lợi đã
hiện ra như một vị cứu tinh và lòng thương dân được tác giả phát biểu lên
vẫn là lòng thương của một người ở trên mà cúi xuống với nhân dân. Tất
nhiên ở đây cũng cần hiểu rằng Nguyễn Trãi đã nhân danh nhà vua mà viết
cho nên không thể viết khác được. Và Nguyễn Trãi trong khi vẫn gọi nhân dân
là “dân đen”, “con đỏ” – theo như cách gọi của nhà nho ngày trước và cùng
với cách gọi đó là tình thương đối với những kẻ yếu hèn – không phải là
không nói lên được vai trò của nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng đất
nước. Ông đã miêu tả nghĩa quân như là một đạo quân có nguồn gốc từ nhân
dân:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Chỉ với hai câu này, Nguyễn Trãi đã nêu lên được tính chất nhân dân
của cuộc kháng chiến chống Minh. Nhân dân ở đây, theo nguyên văn chữ
Hán, là manh lệ (yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập), tức là người làm ruộng
và người đi ở. Phong trào do Lê Lợi lãnh đạo xét cho kỹ chính là phong trào
nông dân khởi nghĩa chống xâm lược. Những thủ lĩnh của nghĩa quân có thể
là địa chủ, hào trưởng, là nho sĩ, thương nhân, trên lá cờ của nghĩa quân có
thể ghi chữ “đế” chữ “vương”, nhưng tất cả những cái đó không che lấp được
tính chất nhân dân rất rộng lớn của phong trào.
Và Nguyễn Trãi, một người tham gia lãnh đạo phong trào, đã hiểu rõ
thế nào là sức mạnh nhân dân.
Trong Quân trung từ mệnh tập, ông thường nói đến những nỗi đau khổ
của dân với tất cả tấm lòng xót xa, phẫn nộ và nói đến sức mạnh của dân với
tất cả lòng quí mến, tin tưởng. Ông lại vạch rõ rằng giặc tất sẽ thất bại và
nghĩa quân Lam Sơn tất sẽ thắng lợi, vì một bên thì “hại dân” mà một bên thì
“yên dân”, Ông thường nêu cao sức mạnh của dân để răn đe kẻ địch ngoan
cố. Sau này, trong các tờ chiếu nhân danh nhà vua nói với thái tử và các
quan lại, ông thường nhắc đến dân như là đối tượng phải quan tâm chăm
sóc, như là sức mạnh phải biết coi trọng và dựa vào. Trong bài “Hậu tự huấn”
để răn bảo thái tử, Nguyễn Trãi viết “mến người có nhân là dân, mà chở
thuyền và lật thuyền cũng là dân”. Cũng ý ấy lại được nhắc đến trong bài thơ
chữ Hán “Quan hải”:
“Phúc chu thủy tín dân do thủy.”
nghĩa là:
“Làm lật thuyền, mới biết sức dân như nước”
Trong bài thơ nôm “Bảo Kính cảnh giới” (bài thứ 57), ông viết:
“Đọc sách thời thống đòi nghĩa sách,
Đem dân mựa nữa mất lòng dân
Trong bài thơ chữ Hán “Mạn hứng”, ông viết:
“Nụy ốc thê thân kham độ lão,
Thượng sinh tại niệm độc tiên ưu.”
nghĩa là:
“Nhà nhỏ, nương thân có thể qua tuổi già,
Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm mối tiên ưu.”
Trong bài thơ chữ nôm “Trần tình” (bài thứ 1), ông viết:
“Quốc phú, binh cường, chăng có chước
Bằng tôi nào thừa ích chưng dân.”
Trong bài thơ chữ Hán “Quan duyệt thủy trận”, ông viết:
“Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Văn trị chung tu trí thái bình.”
nghĩa là:
“Lòng vua muốn để dân yên nghỉ,
Văn trị nên xây dựng thái bình.”
Thật là rõ ràng: tư tưởng trọng dân, tình cảm thương dân, ý chí vì dân
là nội dung quán xuyến trong thơ văn Nguyễn Trãi. Có điều là với Bình Ngô
đại cáo thì tư tưởng ấy, tình cảm ấy, ý chí ấy đã được ông nêu cao như là
một tiêu đề, trong một văn bản chính thức của nhà nước, trong bản đại cáo
thiên hạ của triều đại mới. Qua cuộc sống chiến đấu của mình, Nguyễn Trãi
đã hiểu được rằng muốn thành công thì phải dựa vào sức mạnh của dân.
Nhận thức về dân của ông không phải là một nhận thức mơ hồ mà là một
nhận thức sâu sắc nảy sinh từ thực tiễn. Nêu cao vị trí và vai trò của dân,
Nguyễn Trãi đã phản ánh thực tế của lịch sử cũng như yêu cầu của lịch sử.
Là tiếng vang của cao trào nhân dân, cao trào dân tộc hồi đầu thế kỷ thứ XV,
nói đến nước là nói đến dân, nói đến nước thì trước hết nói đến dân, thơ văn
Nguyễn Trãi đã phát biểu tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại.
Nói đến nước là nói đến dân. Nhưng dân lại cần phải có nước. Và để
bảo vệ dân thì phải bảo vệ cương giới của tổ quốc. Khẳng định quyền làm
chủ của dân tộc đối với đất nước Việt, khẳng định tính bất khả xâm phạm của
cương giới Việt vốn là những điều nằm sâu trong ý thức của nhân dân ta từ
hàng nghìn năm trước. Và ba thế kỷ rưỡi trước Nguyễn Trãi, thì Lý Thường
Kiệt lại đã làm vẻ vang cho dòng văn học viết với bài thơ chữ Hán “Nam quốc
sơn hà”, trong đó ông khẳng định rằng:
“Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”
nghĩa là:
“Núi sông nước Nam thì vua Nam ở,
Rạch ròi cương giới đã định trong sách trời.”
Cương giới của tổ quốc là thiêng liêng. Ý thức ấy lại đã được nâng cao
thêm qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm các đời Lý, Trần, qua mấy
thế kỷ xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa của nước Đại Việt độc lập.
Nguyễn Trãi đã thể hiện ý thức ấy, khi ông viết trong đoạn đầu bài Bình
Ngô đại cáo như sau:
“Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi cương vực kỳ thù,
Nam bắc chỉ phong tục diệc dị.”
nghĩa là:
“Nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Cương vực sông núi đã riêng biệt, ai có phận nấy. Đất nước Đại Việt là
của dân tộc Đại Việt. Không thể tha thứ cho bất cứ hành động nào xâm phạm
vào cương vực của đất nước. Đây chính là một nội dung rất quan trọng vốn
đã được phát biểu nhiều lần trong Quân trung từ mệnh tập thì lại được nêu
cao trong Bình Ngô đại cáo.
Nhưng theo Nguyễn Trãi, nếu dân tộc Đại Việt là một dân tộc độc lập
thì không phải chỉ là ở chỗ “Cương vực sông núi đã riêng” mà lại còn là ở chỗ
“Phong tục Bắc, Nam cũng khác”, ở chỗ nước Đại Việt “vốn là một nước văn
hiến” lâu đời.
Nêu cao nền văn hiến của dân tộc, thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện sự
phản kháng quyết liệt đối với ý đồ thâm độc của giặc Minh. Trong khi xâm
lược và chiếm đóng nước ta, giặc Minh đã cố thực hiện chủ trương tiêu diệt
nền văn hóa Đại Việt, để đồng hóa dân tộc Đại Việt vào văn hóa Hán tộc.
Tướng giặc bắt nhân dân ta từ bỏ phong tục lâu đời của mình và phải theo
phong tục phương Bắc. Năm 1414, Hoàng Phúc ra lệnh cấm con trai con gái
không được cắt tóc và phải mặc áo ngắn quần dài như người phương Bắc.
Và giặc Minh đã qui định cách ăn mặc theo kiểu phương Bắc trong bản
“Tuyên minh giáo hóa”. Chúng lại tìm đủ cách ăn cướp hoặc tiêu hủy mọi thứ
văn vật của nước Đại Việt. Ngày 21 tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), vua nhà
Minh ra lệnh cho Trương Phụ, Trần Húc tiêu hủy tất cả sách vở, bản in sách,
bia đá, cho đến cả những bài học của trẻ con và nhấn mạnh rằng: “Một mảnh
giấy, một nửa chữ cùng những bia khắc của nước ấy dựng lên, hễ thấy thì lập
tức hủy hoại hết”. Năm 1419, giặc Minh cho vơ vét hết sách vở từ đời Trần,
đời Hồ trở về trước mà đưa về Kim Lăng (Nam Kinh ở Trung quốc ngày nay).
Giặc Minh làm như vậy là nhằm mục đích khiến cho nhân dân ta lãng quên
quá khứ vẻ vang của mình, từ bỏ những truyền thống anh hùng và sáng tạo
của mình, mất gốc, mất nguồn, để có thể vĩnh viễn biến nước ta thành một
châu quận của “Thiên triều”. Nhân dân ta đau xót về nỗi nước mất nhà tan, lại
khốn khổ vì phong tục cổ truyền, nếp sống quen thuộc bị xáo trộn, đảo điên.
Cùng chung nỗi đau xót và khốn khổ với nhân dân, nhà văn hóa dân tộc
Nguyễn Trãi lại càng căm phẫn vì thấy giặc Minh vừa phá hoại nền văn hóa
dân tộc của ta, vừa láo xược gọi dân tộc ta là man di để rồi giả nhân giả nghĩa
lấy cớ là khai hóa mà âm mưu đồng hóa dân tộc ta, thôn tính đất nước ta.
Trong thư gửi tướng giặc, nhiều lần ông đã lớn tiếng vạch mặt chúng là đồ
bất nghĩa, gian ác, giả dối và dõng dạc tuyên bố rằng quân dân ta mới thực là
nhân nghĩa, văn minh, chính trực. Trong thư dụ thành Bắc giang, ông viết
rằng nước ta “là một nước thi thư” (tức là có văn) và “những bậc trí mưu đời
nào cũng có” (tức là có hiến), rằng “người có bắc, nam, đạo không kia khác”
và “nhân nhân quân tử không đâu là không có”. Là một người được giáo dục
theo kinh điển của Nho gia, Nguyễn Trãi tất nhiên phải coi “thi thư” như nền
tảng của văn hiến. Trong bài thơ Nôm Trần tình (bài thứ 1), ông viết:
“Ước bề báo ơn minh chúa,
Hết khỏe phù đạo thánh nhân.”
Trong bài thơ nôm Tự thán (bài số 22), ông viết:
“Mấy kẻ tư văn người đất Việt,
Đạo này nối nắm để cho dài.”
Là nhà nho, Nguyễn Trãi nói đến “đạo thánh nhân”, đến “tư văn”, nhưng
ông lại đã viết rằng việc nhân nghĩa mà đạo ấy nêu lên chủ yếu phải là ở chỗ
yên dân. Cho nên “đạo thánh nhân” mà ông nêu cao xét đến cùng lại là đạo lý
của người Việt, vì lợi ích của đất nước Việt. Ông viết rằng: “Núi sông bờ cõi
đã chia, Phong tục bắc nam cũng khác” chính là để khẳng định tính độc lập
của văn hóa dân tộc. “Nước Đại Việt ta từ trước vốn xưng văn hiến đã lâu”,
đó là một lời tuyên ngôn đầy tự hào về văn hóa dân tộc. Những sẽ sai lầm
nếu cho rằng Nguyễn Trãi muốn kỳ thị các nền văn hóa. Khi ông viết rằng
“phong tục bắc nam cũng khác” thì ông nhấn mạnh vào tính đặc thù của mỗi
nền văn hóa, nhưng khi ông viết rằng “người có bắc, nam, đạo không kia
khác” thì ông lại khẳng định tính phổ biến của chân lý và tính thống nhất của
nhân loại. Rõ ràng là với tất cả sự hạn chế của thời đại, Nguyễn Trãi đã có
nhận thức phong phú và đúng đắn khi lý giải vấn đề văn hóa.
Nếu như Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến việc bảo vệ phong tục của nhân
dân, đề cao “văn hiến” của tổ quốc thì điều đó phản ánh ý thức của nhân dân
về nền văn hóa dân tộc mà ai nấy đều coi là bộ phận quan trọng, gắn liền với
đất nước.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng hơn mười thế kỷ Bắc thuộc trước
kia không thể nào khuất phục nhân dân ta được thì một phần quan trọng cũng
là nhờ vào sức đề kháng của nền văn hóa dân tộc. Hai mươi năm Minh thuộc,
với chính sách văn hóa tàn bạo nhất lại đã không thể phá hủy được nền văn
hóa Đại Việt mà chỉ càng làm cho nhân dân có ý thức rõ rệt hơn về giá trị và
sức mạnh của nền văn hóa ấy. Và ý thức về nền văn hóa dân tộc là một nội
dung cần thấy rõ trong chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi.
Chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi không trừu tượng, nó gắn với
những nhiệm vụ lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa yêu nước ấy gắn với tư tưởng
nhân nghĩa. Nhưng tư tưởng nhân nghĩa này cũng không mơ hồ, chung
chung. Đề cao nhân nghĩa, Nguyễn Trãi căm ghét đến xương tủy kẻ thù của
nhân nghĩa, tức cũng là kẻ thù của tổ quốc:
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.”
Cái yêu, cái ghét của Nguyễn Trãi phân minh rạch ròi, ranh giới địch, ta
trong tư tưởng ông không lẫn lộn.
Chủ nghĩa yêu nước của ông có tính chiến đấu mạnh mẽ. Yêu nước là
đấu tranh không mệt mỏi, không khoan nhượng với kẻ thù và quyết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn.
Lấy chí nhân để thay cường bạo.”
Và cũng vì “chí nhân” mà quân ta đối xử khoan hồng đối với quân giặc
đã đầu hàng. Nguyễn Trãi lấy làm tự hào mà viết rằng khi tướng giặc đã chịu
khuất phục thì “thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”.
Trong khi cổ vũ quân dân tiêu diệt địch, trong khi vạch tội giặc và đánh
vào tinh thần chúng, Nguyễn Trãi lại luôn luôn thể hiện ý chí hòa bình của
nhân dân ta. Có một điều rất đáng quý là Nguyễn Trải yêu nước, yêu nhân
dân, căm thù bọn tướng giặc, nhưng cũng lại thông cảm với nhân dân và binh
sĩ Trung Quốc bị tàn hại vì cuộc chiến tranh do bọn phong kiến nhà Minh gây
ra. Ông đã vạch tội tướng giặc đối với nhân dân Trung Quốc như sau: “… lại
muốn cùng binh độc vũ, khiến những dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở
chốn gươm đao, những kẻ lưu ly luôn năm phải nát gan ở nơi đồng cỏ…” và
ông khuyên chúng nên hối cải “để tránh khỏi sự giết hại trong thành, hàn gắn
được vết thương trong nước, hòa hiếu lại thông, can qua nghỉ mãi.”
Nhân và nghĩa vốn là những khái niệm của Nho gia. Chữ nhân của
Khổng Tử với chữ nghĩa của Mạnh Tử từ lâu đã trở thành những nguyên lý
đạo đức và chính trị của giai cấp phong kiến nhằm củng cố nội bộ của nó và
xác định địa vị thống trị của nó đối với nhân dân. Vì vậy, chữ nhân và chữ
nghĩa theo quan điểm của giai cấp phong kiến không áp dụng cho “lê dân”,
không phải là cái mà “lê dân” vươn lên tới được.
Nhưng những khái niệm nhân và nghĩa lại được những nhà văn hóa
dân tộc của ta từ Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cho đến Chu An,
Phạm Sư Mạnh hiểu theo ý nghĩa rộng rãi và tích cực, vượt ra khỏi nhận thức
và nhãn quan của Nho giáo. Nhân và nghĩa bao hàm những quan hệ tốt giữa
người với người, nhân và nghĩa không phải là những tiêu chuẩn đạo đức chỉ
dành cho riêng cho một thiểu số ưu việt và cao quí nào. Từ ý nghĩa rộng rãi
và tích cực như vậy, Nguyễn Trãi lại đi xa hơn nữa là gắn nhân nghĩa với lòng
yêu thương nhân dân.
Nhân và nghĩa là sức mạnh để chiến thắng hung tàn và cường bạo.
Nhưng cũng lại chính vì thế mà chí nhân, đại nghĩa lại là nền tảng của tư
tưởng bao dung độ lượng đối với kẻ thù đã đầu hàng, của mối thông cảm với
nhân dân Trung Quốc bị đẩy vào cuộc chiến tranh hao người tốn của vì lợi ích
thống trị của giai cấp phong kiến tham tàn.
Nhân nghĩa về thực chất chính là chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc ta
mà nội dung là coi trọng con người, coi trọng nhân dân, coi trọng sự nhân ái
giữa người với người, coi trọng sự hòa hiếu giữa dân tộc và dân tộc. Nguyễn
Trãi không những đã nêu cao được truyền thống của chủ nghĩa nhân đạo ấy
mà còn gắn nó với chủ nghĩa yêu nước.
Nhìn chung, chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi có nội dung rất
phong phú. Chủ nghĩa yêu nước ấy đã “tập đại thành” được những truyền
thống yêu nước của các đời trước và những kinh nghiệm, những sáng tạo
của các phong trào dân tộc đầy tính nhân dân hồi đầu thế kỷ thứ XV. Và chủ
nghĩa yêu nước trong thơ văn Nguyễn Trãi không những là một đóng góp lớn
vào sự phát triển của văn học mà còn là một đóng góp vào lịch sử tư tưởng
nước ta.
***
Sau khi giặc đã tan, Nguyễn Trãi có hoài bão xây dựng một đất nước
thịnh vượng trong đó “Dân giàu đủ, khắp đòi phương”! “Tôi Đường Ngu, ở đất
Đường Ngu”! Quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cũng lại quán xuyến
toàn bộ đường lối trị nước của ông.
Nguyễn Trãi tất nhiên không thể vượt ra ngoài ý thức hệ phong kiến
được. Xã hội lý tưởng đối với ông là xã hội phong kiến có “vua sáng tôi lành”
và nhân dân được an cư lạc nghiệp, “trong thôn cùng xóm vắng, không có
một tiếng hờn giận oán sầu”. Ông không thể nào quan niệm được một chế độ
xã hội và chính trị không có vua đứng đầu và quan giúp việc. Ông lại cũng
không phủ nhận thuyết thiên mệnh. Mệnh trời là thiêng liêng. Người làm vua
thay trời trị dân. Đó là những thuyết giáo mà Nguyễn Trãi đã tiếp thu trong
nhà trường Nho giáo.
Có điều là cuộc đấu tranh của dân tộc, của bản thân Nguyễn Trãi lại đã
vượt ra ngoài phạm vi những thuyết giáo ấy hay nói cho đúng hơn đã uốn
những thuyết giáo vào những yêu cầu của đời sống dân tộc. Xuất phát từ
thực tiễn của đời sống dân tộc, Nguyễn Trãi đã đề ra những yêu cầu đối với
những kẻ cầm quyền, từ vua cho đến quan. Theo Nguyễn Trãi thì người làm
vua phải “hòa thuận tông thân, nhớ giữ một lòng hữu ái, thương yêu dân
chúng, nghĩ làm những việc khoan nhân”. Ở vế trên, nói đến việc đoàn kết nội
bộ trong họ hàng thân thích nhà vua, nói rộng ra là đoàn kết trong nội bộ giai
cấp phong kiến, ở vế dưới nói đến việc thi hành nhân nghĩa đối với nhân dân.
Người làm vua “chớ thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư nộ; đừng thích
của tiền mà luông tuồng xa xỉ, đừng gần thanh sắc mà bừa bãi hoang dâm”,
nói một cách khác là phải tự kiềm chế, không thả lỏng cho những dục vọng,
thói xấu được phát triển, và lúc nào cũng phải chăm chỉ, thận trọng “dùng
nhân tài, nghe can gián, ra một chính sách, một mệnh lệnh, phát một lời nói,
một việc làm, đều giữ chính trung, dùng theo thường điển, ngõ hầu trên có
thể đáp thiên tâm, dưới có thể thỏa nhân vọng, thì quốc gia mới được yên
vững lâu dài”. Trong khi không thể quan niệm được một nước mà lại không
có vua, thì Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh vào trách nhiệm chứ không nhấn mạnh
vào quyền hưởng thụ của nhà vua và đề ra yêu cầu ràng buộc hành động của
nhà vua, Ông cũng lại cảnh cáo rằng làm vua mà không thi hành nhân nghĩa
thì phải coi chừng: dân sẽ lật đổ và trời sẽ không dung. Ông viết: “Vả lại mến
người có nhân là dân mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân, giúp người có
đức là trời mà khó tin và không thường cũng là trời”. Ông khuyên người làm
vua nên “kính trời chăm dân, không dám khinh suất chút nào”. Và như vậy thì
tuy Nguyễn Trãi vẫn tin vào thiên mệnh mà lại gắn liền ý trời với lòng dân.
Những yêu cầu mà Nguyễn Trãi đề ra như vậy, nếu thỏa mãn được,
không phải là không có lợi cho dân, cho nước.
Theo Nguyễn Trãi thì phàm kẻ bề tôi giúp vua, “phàm người có chức vụ
coi quân trị dân, đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua
tận trung, đối dân tận hòa, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng; bè đảng riêng tây
phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc của quốc gia làm công việc
của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của mình…”. Bên cạnh điều
trung đối với vua, Nguyễn Trãi nhấn rất mạnh vào trách nhiệm đối với dân, với
nước của quan liêu. Chủ trương của Nguyễn Trãi là giản chính, khoan hình,
“thỉnh thoảng cũng có khi dùng đến uy pháp, nhưng không nên lâu la phải
chóng trở về với nhân nghĩa”. Theo ông thì “quyền mưu chỉ dùng để trị gian
tà. Cốt lấy nhân nghĩa gìn giữ thì thế nước mới yên ổn”.
Những quan điểm chính trị, xã hội trên đây của Nguyễn Trãi đã đạt tới
tầm cao nhất và rộng nhất của tư tưởng mà điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho
phép. Cho nên những tác phẩm chính luận của ông về việc xây dựng đất
nước, chăm lo đời sống của nhân dân viết vào lúc triều đại mới vừa lên cầm
quyền cũng có ý nghĩa lớn không kém những tác phẩm chính luận mà ông
viết trong thời gian kháng chiến để đánh giặc, cứu nước. Đó không những là
tài liệu quí báu đối với lịch sử chính trị, lịch sử tư tưởng mà còn là những áng
văn hay nêu cao được lý tưởng đẹp của nhân dân lúc bấy giờ.
Nhưng lý tưởng đẹp của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã phát biểu lên
như vậy đã vấp phải những thế lực phản động vừa mới xuất hiện. Trong tập
đoàn những thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn đã có sự phân hóa. Một số không ít
những kẻ có thế lực, trước hết là võ tướng quân phiệt, đã từ những người
lãnh đạo nhân dân trong kháng chiến mà thoái hóa thành những kẻ bóc lột
đàn áp nhân dân trong hòa bình. Lê Sát, Lê Ngân v.v… với tư cách là công
thần của nhà Lê đã dần dần trở thành những cường thần trong triều đình.
Chính sách thân dân, huệ dân mà Nguyễn Trãi nêu lên đã vấp phải sự phản
kháng của họ. Đã có những sự xung đột gay gắt, và sự chèn ép đối với
Nguyễn Trãi ngày càng tăng. Muốn yên thân thì chỉ có cách là chịu cúi đầu.
Nhưng Nguyễn Trải không thể làm thế. Ông viết:
“Con mắt hòa xanh, đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn, lộc nên từ.
Ai ai đều đã bằng câu hết,
Nước chẳng còn có Sử Ngư.
Nguyễn Trãi không thể khúm núm quy lụy để hưởng phú quý. Ông ra
làm quan là để giúp trước giúp đời. Và nguyện vọng của ông trước kia vẫn là
được lui về sau khi đã làm tròn nhiệm vụ. Trong bài thơ chữ Hán “Loạn hậu
đáo Côn Sơn cảm tác” (Sau hồi loạn đến Côn Sơn cảm tác), ông đã nói lên
nỗi ước mơ thầm kín ấy:
“Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.”
nghĩa là:
“Bao giờ làm được nhà dưới núi mây,
Múc nước suối nấu chè, gối hòn đá ngủ.”
Rõ ràng là Nguyễn Trãi ra làm quan không phải là vì công danh phú
quý. Đến nay, trong hoàn cảnh những người trung lương bị ám hại, gian thần
lộng hành, thi ân thi oán, thì cái công danh đối với ông lại càng là cái lụy:
“Hai chữ công danh chẳng cảm cộc,
Một trường ân oán những hầm hè,
Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn, an bần lạc đạo. Ông vốn sống giản
dị:
“Cơm ăn chảng quản dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu.
Cho nên khi về Côn Sơn, sống với cảnh cũ người xưa, Nguyễn Trãi đã
thấy mình được thoải mái vô cùng. Trong bài “Côn Sơn ca” nổi tiếng, ông viết:
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng
Vạn lý thúy đông đồng,
Ngô ư thị hồ ẩn tức kỳ trung.”
nghĩa là:
“Côn Sơn có suối,
Tiếng nước chảy rì rầm,
Ta coi làm đàn cầm
Côn Sơn có đá
Mưa dội, rêu phô
Ta coi làm chiếu thảm.
Trên đèo có thông
Muôn dặm biếc mông lung,
Ta thảnh thơi nằm nghĩ bên trong.”
Trong thời gian ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã sáng tác nhiều thơ, nhất là
thơ nôm. Ông vẫn tưởng là mình có thể lánh đục về trong, né tránh bọn
quyền gian, giữ lấy phẩm chất của mình và sống trọn vẹn tuổi già với thiên
nhiên mà ông yêu mến.
***
Nguyễn Trãi viết văn thì đều là mục đích chiến đấu, ông làm thơ thì
ngoài mục đích ấy lại còn lạ để bộc lộ tâm sự của mình. Thơ ông có nhiều bài
thể hiện lý tưởng chiến đấu vì độc lập của tổ quốc, vì đời sống của nhân dân,
vì lý tưởng nhân nghĩa. Như đã phân tích ở trên, những bài thơ ấy bao giờ
cũng đầy khí phách hào hùng và chan chứa tình cảm chân thành, và có nội
dung tư tưởng nhất quán với những tác phẩm văn chính luận nổi tiếng của
ông.
Nguyễn Trãi là một người có khí phách hào hùng, có tầm vóc cao cả.
Khí phách ấy, tầm vóc ấy khiến cho Nguyễn Trãi đã có những lời thơ kỳ vĩ
như sau:
“Thanh dạ bằng hư quan vũ trụ,
Thu phong thừa hứng giá kình ngao”.
(Thơ chữ Hán: Chu trung ngẫu thành)
nghĩa là:
“Giữa đêm thanh, tựa vào bầu trời xem vũ trụ,
Nhân gió thu, thừa cảm hứng cưỡi kình ngao.”
Đúng là một con người có tầm vóc đo bằng kích thước vũ trụ, coi bầu
trời bao la như căn phòng của mình. Trong bài thơ chữ Hán “Đề Yên Tử sơn,
Hoa Yên tự” cảm xúc hào hùng của ông lại đã được biểu lộ như sau:
“Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.”
nghĩa là:
“Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói cười người ở giữa mày xanh.”
Với tàm nhìn cao cả, với cảm xúc hào hùng, Nguyễn Trãi đã vạch được
những nét bút hoành tráng khi miêu tả thiên nhiên của tổ quốc. Trong bài thơ
chữ Hán “Thần Phù hải khẩu”, ông viết:
“Kinh phun lãng hống, lôi nam bắc,
Sáo ủng sơn liên, ngọc hậu tiền.”
nghĩa là:
“Cá kình phun nước sóng gầm thét
(như) sấm ran từ nam đến bắc,
Giáo dựng san sát núi trùng điệp
(như) ngọc bày đằng trước đằng sau.”
Thiên nhiên vừa kỳ vĩ, vừa mỹ lệ ấy lại được miêu tả trong bài thơ chữ
Hán “Vọng doanh” như sau:
“Dục Thúy vũ tình, phong tự ngọc,
Đại An triều trướng, thủy như thiên.”
nghĩa là:
“Núi Dục Thúy, mưa tan, đỉnh tựa ngọc,
Cửa Đại An, triều nổi, nuớc như trời.”
Và với nét bút hoành tráng, Nguyễn Trãi lại thường hay gắn thiên nhiên
kỳ vĩ của đất nước với lịch sử hào hùng của dân tộc. Trong bài thơ chữ Hán
“Bạch Đằng hải khẩu”, ông viết:
“Sóc phong suy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình phầu sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.”
nghĩa là:
“Gió bấc thổi trên mặt nước, hơi biển rùng rợn,
Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng.
Như cá sấu bị chặt, cá voi bị mồ, núi đứt khúc lại khúc,
Như mũi qua chìm, cây kích gãy, bờ chồng tầng lại tầng.”
Sông Bạch Đằng kỳ vĩ, nhưng chiến tích của ông cha trên sông ấy lại
kỳ vĩ hơn. Địa linh, nhân kiệt, quan niệm ấy thấm vào lời thơ của Nguyễn Trãi.
Nhưng, viết về thiên nhiên, không phải lúc nào Nguyễn Trãi cũng chỉ
thể hiện cảm quan của người anh hùng về đất nước kỳ vĩ, về dân tộc anh
hùng. Và ngòi bút của Nguyễn Trãi đã lại hào hoa khi ông viết trong bài thơ
chữ Hán “Vân Đồn”:
“Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn.”
nghĩa là:
“Một mặt phẳng sắc lam sắc biếc (như) tấm gương trong suốt,
Muôn vòm màu đen màu xanh (như) những búi tóc óng trễ
xuống.”
Đó là cảnh Vịnh Hạ Long. Thật là duyên dáng, yêu kiều. Từ trước đến
nay đã mấy ai nhìn thấy Vịnh Hạ Long giống như tấm gương trong và trăm
nghìn quả núi xinh xắn bao quanh như những mái tóc đàn bà soi vào đấy để
làm duyên? Đúng là nhà thơ đã có cảm xúc tế nhị và cái nhìn tân kỳ.
Thơ Nguyễn Trãi không những có tính chất hoành tráng mà lại còn bộc
lộ tâm hồn đa cảm của một con người đầy lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời,
yêu con người. Lời thơ của ông có khi vui vẻ, tươi đẹp:
“Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.”
(Thơ chữ Hán: Mộ xuân tức sự)
nghĩa là:
“Trọn ngày thong thả khép phòng văn.
Khách tục bên ngoài chẳng bén chân.
Giục giã cuốc kêu xuân đã hết,
Hao xoan, mưa nhẹ, nở đầy sân.”
Lời thơ của ông có khi rí rỏm:
“Tiếc thiếu niên qua lật hạn lành,
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình.
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc,
Đầu bạc xưa này có thuở xanh.”
(Thơ nôm: Tích cảnh, bài thứ 4)
Ông đã cãi lý với người trẻ tuổi chê ông đầu bạc, nhưng rõ ràng là ông
yêu mến tuổi trẻ và tiếc rằng xuân xanh của mình đã qua mất rồi:
“Dặng dõi bên tai tiếng quản huyền,
Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn.
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.”
(Thơ nôm: Tích canh, bài thứ 3)
Ông tiếc tuổi thiếu niên, nhưng cảnh đẹp thì đám trai trẻ không phải đều
đã biết thưởng thức như ông:
“Rồi, hóng mát thủa ngày trường,
Hòe lục đùn đùn, tán rợp giương.
Thạch lựu, hiên còn phun thức đỏ,
Hòng liên, trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá, làng ngư phủ,
Dặng dõi cầm ve, lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
(Thơ nôm: Bảo kính cảnh giới, bài thứ 3)
Rõ ràng là niềm yêu đời tha thiết, Nguyễn Trãi đã viết nên những lời
thơ vui nhộn nhịp, tràn đầy màu sắc, hương vị, âm thanh. Phải nói rằng nếu
thơ văn Nguyễn Trãi một mặt phản ánh cuộc chiến đấu không mệt mỏi của
ông vì con người, vì cuộc sống thì một mặt khác lại thể hiện nhiệt tình yêu
mến cuộc sống với tất cả lạc thú mà cuộc sống có thể đem lại cho con người.
Lạc thú ấy có thể rất nhẹ nhàng, thanh thản:
“Am rợp, chim kêu, hoa sẽ động,
Song âm, hương tiễn, khói sơ tàn.
Mưa thu tưới ba đường cúc,
Gió xuân đưa một luống lan.”
(Thơ nôm: Ngôn chí, bài thứ 16)
Một tiếng chim kêu, một cánh hoa lay, một làn hương nhẹ thoảng, mấy
giọt mưa thu rơi, một ngọn gió xuân thổi, tất cả đều có thể rung động tơ lòng
nhà thơ. Lời thơ lắng xuống nâng niu trân trọng những hiện âm thầm nhất của
thiên nhiên.
Và tâm hồn nhà thơ có lúc đã hòa vào thiên nhiên ấy:
“Cây rợp, tán che am mát,
Hồ thanh, nguyệt hiện bóng tròn
Cò nằm, hạc lặn nên bầu bạn,
Ủ ấp cùng ta làm cái con.”
(Thơ nôm: Ngôn chí, bài thứ 20)
Thiên nhiên là bầu bạn, cho nên nhà thơ đã quét am để đón mây, dành
ao để chờ trăng, giữ rừng để đợi chim:
“Bẻ cái trúc hòng phân suối;
Quét con am để chừa mây.
Tri tham nguyệt hiện, chẳng buông cá;
Rừng tiếc chim về, ngại phát cây.”
(Thơ nôm: Mạn thuật, bài thứ 6)
Những ý nghĩ ấy có vẻ lạ kỳ, nhưng lại rất thực ở một tâm hồn rộng mở
cho tất cả những cái gì là vẻ đẹp, là sức sống trong thiên nhiên của tổ quốc.
Rất thực mà lại rất mộng. Thực và mộng hòa đồng, thâm nhập trong chiều
hướng vươn lên của tâm hồn. Đó chính là một trong những chất liệu góp
phần tạo nên cái hay, cái đẹp của thơ Nguyễn Trãi. Xét cho kỹ, đó chính là
thơ với tất cả vẻ hồn nhiên chân chất cần tìm thấy ở thơ. Con người đã từng
xông pha vào giữa mũi nhọn chiến đấu của dân tộc, đã từng hùng hồn vạch
tội ác của giặc nước, đã từng chống lại bọn quyền thần để bảo vệ chính sách
huệ dân lại cũng là một con người rất bình dị, rất người.
Con người ấy bao giờ cũng gắn bó với đất nước, với nhân dân, với
cuộc đời. Và cũng vì thế mà lúc còn trẻ tuổi, lúc ra giúp nước cũng như lúc
phải đi ở ẩn, Nguyễn Trãi chưa từng bao giờ quên nỗi tiên ưu, lo trước thiên
hạ. Ông thường đinh ninh một lẽ rằng: “Người đời biết chữ thì lo nghĩ nhiều”.
Ông tự ví với Phạm Văn Chính mà khẳng định rằng kẻ thức giả thì phải
biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ:
“Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa,
Vui, sơ chẳng quản đeo âu”.
(Thơ nôm: Ngôn chí, bài thứ 18)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
(Thơ nôm - Thuật hứng, bài thứ 5)
Nhiệt tình vì nước, vì dân bao giờ cũng mãnh liệt tràn trề như nước
ngày đêm không ngừng chảy ra biển đông. Và tấm lòng ấy bao giờ cũng nặng
nỗi ưu tư vì cuộc đời, vì con người:
“Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng
Cật chưng hồ hải đặt chưa an.
Những vì chúa thánh âu đời trị,
Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn”.
(Thơ nôm: Tự thán, bài thứ 2)
Suốt đời ôm mối tiên ưu, cho đến già mà Nguyễn Trãi vẫn không hề
dám mong có lúc được ngả lưng an cật để nghỉ ngơi. Nguyễn Trãi cho đến
bạc đầu vẫn không nguôi nỗi niềm lo nước, thương dân. Trong thơ ông,
thường thấy hiện lên mái tóc bạc đáng kính mà cũng đáng thương của ông:
“Lưỡng nhãn hôn hoa, đầu cánh bạch
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.”
(Thơ chữ Hán: Thứ Cúc Pha tặng thi)
nghĩa là:
“Hai mắt đã hoa, đầu lại bạc
Mảy may chưa báo đáp ơn vua.”
“Sầu nặng Thiếu Lăng, biên đã bạc.”
(Thơ nôm: Thuật hứng, bài thứ 5)
“Tôi ngươi một tiết bền bằng đá
Biên tóc mười phần chịu những sương.”
(Thơ Nôm: Tự thán, bài thứ 12)
“Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc,
Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh.”
(Thơ nôm: Tự thán, bài thứ 29)
Tóc bạc, nhưng mắt xanh. Tuổi già nhưng chí trẻ. Mái tóc bạc của
Nguyễn Trãi đáng kính, đáng thương mà đẹp làm sao. Và cũng đẹp vô cùng
là đôi mắt xanh luôn luôn từ trong thơ ông nhìn thấu những đau khổ của dân,
những khó khăn của nước. Đôi mắt ấy chưa bao giờ chịu nghĩ ngơi, bởi vì có
thể nói rằng suốt đời Nguyễn Trãi chưa bao giờ ngủ. Nguyễn Trãi luôn luôn
thao thức.
Khi còn trẻ tuổi, đứng trước cuộc đời mà con đường còn dài chưa rõ sẽ
ra sao, ông viết trong bài thơ chữ Hán “Thính vũ:
“Tịch mịch u trai lý;
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm;
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật;
Hòa chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hòn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.”
nghĩa là:
“Vò võ trai phòng vắng;
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng rung gối khách;
Thánh thót mấy canh dư.
Cách trúc khua song nhật,
Hòa chuông động giấc mơ.
Ngâm rồi cũng chẳng ngủ,
Đứt nối đến tờ mờ.”
Trong bài thơ chữ Hán “Ký cữu Dịch trai Trần công” với tâm sự của
người dân mất nước, không chịu hợp tác với giặc, ông viết:
“Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
Ty loạn chung đương học Quản Ninh.
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ
Cô trai phong vũ dạ tam canh.”
nghĩa là:
“Không đến, tự so thấy giống Vương Thức,
Tránh loạn, xét kỹ nên học Quản Ninh.
Muốn hỏi tìm chốn nhớ nhung sầu biệt,
Đó là chốn phòng vắng gió mưa suốt ba canh.”
Và lo lắng vì thời gian trôi qua mà chưa làm được gì cho nước, cho
dân, suốt đêm thao thức, ông viết:
“Quang âm thốc hốt, thời nan tái,
Khách xá thê lương, dạ tự niên.”
(Thơ chữ Hán: Ký hữu)
nghĩa là:
“Quang âm vùn vụt, thời gian khó quay lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như năm.”
Trong thời gian lưu lạc, tìm đường cứu nước có dịp về thăm Côn Sơn,
Nguyễn Trãi suốt đêm trằn trọc trong thuyền, đau khổ vì nỗi nước mất nhà
tan:
“Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
Qui tứ dao dao nhật tự tinh.
Ký thác mộng hồn tầm cố lý,
Không tương huyết lệ tẩy tiên uynh
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.”
(Thơ chữ Hán: Qui Côn Sơn chu trung tác)
nghĩa là:
“Mười năm trôi nổi than thân như cỏ bồng cánh bèo,
Muốn về khấp khởi lòng lúc nào cũng như mơ cờ.
Gửi vào hòn mộng mà tìm làng cũ,
Suông đem nước mắt trộn máu mà rửa mộ tổ tiên.
Trải cơn binh lửa than rằng khó ngăn rìu búa,
Trong cảnh lưu lạc đối với giang sơn chì có chút tình này.
Uất ức tấc lòng không làm sao được,
Bên cửa thuyền, xô gối đến lúc trời sáng.
Và về đến Côn Sơn, mơ ước đến một ngày dẹp yên giặc, ông thấy
thèm một giấc ngủ ở hòn đá tảng ven dòng suối quê nhà:
“Hương lý tài qua như mộng đáo;
Can qua vị tức, hạnh thân tuyền.
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên?”
(Thơ chữ Hán: Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác)
nghĩa là:
“Làng quê vừa mới qua, như là thấy chiêm bao đến.
Chiến tranh chưa yên, may còn được trọn vẹn tấm thân.
Bao giờ làm được nhà dưới núi mây.
Múc nước suối nấu chè, gối hòn đá ngủ?”
Nhưng còn chưa xong việc nước, việc dân thì dầu muốn ngủ cũng
không được. Trong bài thơ nôm Tự thuật (bài thứ 5), ông viết:
“Gia sơn đường cách muôn dặm,
Ưu ái lòng phiên nửa đêm.”
Trong bài thơ chữ Hán “Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy
đồng phú”, ông lại viết:
“Cao trai độc tọa hồn vô mị,
Hảo bả tân thi hướng chí luân.”
nghĩa là:
“Buồng cao ngồi một mình vẫn không ngủ,
Hãy làm bài thơ mới để nói chí của mình.”
Thế là khi đang gặp thời, có thể thi thố tài năng thì ông lại vui vì chí lớn
mà không ngủ được. Nhưng đến lúc gặp khó khăn trong triều đình nhà Lê thì
ông lại buồn mà khó ngủ. Bị thất thế, ông làm quan mà không được giữ trọng
trách, nhàn thân nhưng mà băn khoăn vì thấy việc nước, việc dân trái ý mình.
Nỗi buồn ấy được bộc lộ trong bài thơ chữ Hán “Thu dạ khách cảm” như sau:
“Hoàng diệp mãn đình thu quá bán,
Thanh đăng hòa vũ dạ tam canh.
Bệnh đa cốt sấu miên ưng thiểu,
Quan lãnh thân nhàn mộng diệc thanh.”
nghĩa là:
“Lá vàng rụng đầy sân, thu đà quá nửa,
Đèn xanh hòa tiếng mưa tiếng trống canh ba.
Bệnh lắm, xương giây ngủ phải ít.
Quan rảnh, thân nhàn, mộng nhẹ nhàng.”
Thường thì lo mà không ngủ, thảng hoặc có lúc được vui thì lại cũng
không ngủ, còn như gặp lúc buồn thì lại càng không thể ngủ. Lúc nào,
Nguyễn Trãi cũng thấy thời gian trôi nhanh quá mà chí bình sinh thì chưa
thành:
“Vãng sự nan tầm, thời dị quá,
Quốc ân vị báo, lão kham liên,
Bình sinh độc bão tiên ưu chí,
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.”
(Thơ chữ Hán: Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)
nghĩa là:
“Việc cũ khó lấy lại, thời gian dễ trôi qua,
Ơn nước chưa đền, tuổi già thực đáng thương.
Suốt đời riêng ôm cái chí lo trước (thiên hạ),
Ngồi ôm chăn lạnh, suốt đêm không ngủ”.
Suốt đời không ngủ vì lo trước thiên hạ, tâm sự của Nguyễn Trãi thể
hiện qua từng lời thơ. Nỗi niềm thao thức vì nước, vì dân, vì cuộc đời con
người ấy sau hơn năm trăm năm đến với chúng ta như một lời gửi gấm. Chí
khí bền bĩ, đến già vẫn không mệt mỏi, tấm lòng ưu ái, đến chết vẫn thắm
như son của Nguyễn Trãi mãi mãi là sự khẳng định nhân phẩm, và thuộc về
di sản quí báu của dân tộc.
Suốt đời ôm mối “tiên ưu” Nguyễn Trãi rốt cục lại không thực hiện được
trọn vẹn lý tưởng của mình. Đến cuối đời, có lúc ông cảm thấy bế tắc, và từ
lời thơ của ông trào lên một nỗi chán chường:
“Mộng giác cố viên tam kính cúc,
Tâm thanh hoạt thủy nhất âu trà.
Hồi đầu lục thập niên tiền sự;
Song mấn tinh tinh lưỡng nhãn hoa,”
(Thơ chữ Hán: Mạn hứng)
nghĩa là:
“Tỉnh mộng về vườn cũ có ba luống cúc,
Để rửa lòng cho sạch, có nước suối chảy với một âu chè.
Quay đầu lại nhớ việc sáu chục năm trước,
Hai mái tóc lốm đốm, hai mắt đã hoa.”
Thật là đau xót cho con người ấy, suốt đời không ngủ để lo viêc đời mà
đến lúc già chợt thấy sáu chục năm đời mình lại chỉ như là giấc mộng. Trong
bài thơ chữ Hán Côn Sơn ca, ông bộc lộ nỗi chán chường của mình như sau:
“Vấn quân hà bất qui khứ lai?
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
…
Nhân gian nhược hữu Sào, Do đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.”
nghĩa là:
“Hỏi người sao chẳng về đi?
Nửa đời bụi bặm lăn lóc hoài!
…
Nhân gian nếu có bọn Sào, Do,
Khuyên hãy nghe ta ca khúc hát trong núi.”
Muốn làm bạn với đám người ẩn dật như Sào Phủ, Hứa, Do, và lánh xa
cuộc đời lầm cát bụi: đó là nỗi đau khổ của một người vốn hăm hở lăn vào
cuộc chiến đấu vì cuộc đời, vì con người.
Trong bài thơ chữ Hán “Mạn hứng” ông viết:
“Phùng thời bất tác Thương Nham vũ,
Thoái lão tư canh Cốc Khẩu văn.”
nghĩa là:
“Lúc gặp thời, không làm được mưa ở Thương Nham,
Lúc già lui về, lo đi cày mây ở Cốc Khẩu.”
Đã không làm được mưa như Phó Duyệt ở Thương Nham giúp nước,
giúp đời thỏa chí bình sinh, ông đành mong được yên tấm thân như Trịnh Tử
Chân đi ẩn tại Cốc Khẩu. Nhưng vì ôm mối tiên ưu, ông không thể ở ẩn mãi
tại Côn Sơn. Và năm 62 tuổi, được vua vời ra, ông tự ví mình như “con ngựa
già còn ham rong ruổi”. Ông những tưởng có thể thực hiện được lý tưởng của
mình trong những năm cuối của cuộc đời. Nhưng ông đã bị ám hại. Những
năm cuối đời của Nguyễn Trãi đầy tính bi kịch. Thơ của ông đá có phần phản
ánh tấn bi kịch ấy. Không giải quyết nổi những vấn đề đặt ra, có lúc ông
không tránh khỏi thái độ tiêu cực. Đó không phải là lỗi của ông. Nếu như sự
nghiệp của Nguyễn Trãi bị dở dang thì đó là cái tội của chế độ phong kiến.
Các triều đại phong kiến thường không thể dung nạp được những tài năng
quá lớn vì sợ rằng không kiềm chế nổi. Nhà Lê đã không ra ngoài công lệ ấy.
Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn mặc dầu có công lớn đã vì thế mà bị giết.
Nguyễn Trãi vì thế mà lại tất yếu bị giết.
Nguyễn Trãi chẳng những có công lớn, có tài cao mà lại có đức cả. Cái
đức của ông lớn quá, cơ hồ muốn phá vỡ khuôn khổ quá ư chật hẹp của chế
độ phong kiến ngay trong buổi thịnh thời của nó.
***
Là một người đã từng lăn lộn trong phòng trào đấu tranh rộng lớn của
dân tộc, đã từng sống gần nhân dân trong phần lớn cuộc đời mình, là một
nhà văn hóa dân tộc rất có ý thức về những giá trị tinh thần của đất nước Việt
và con người Việt, Nguyễn Trãi đã có đóng góp lớn vào sự phát triển của văn
hóa dân tộc.
Trong lĩnh vực văn học, thì sự đóng góp ấy lại còn thể hiện rõ rệt ở việc
đẩy mạnh sự phát triển của thơ nôm. Kế thừa những thành tựu của các tác
phẩm đời Trần, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí ngày
càng quan trọng của văn học chữ nôm trong dòng văn học viết.
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ở
chỗ phản ánh thiên nhiên của đất nước ta và cuộc sống của ông cha ta. Với
thơ nôm, ông đã có thể phản ánh một cách cụ thể và sinh động hơn thiên
nhiên ấy, cuộc sống ấy.
Miêu tả phong vị quê hương thì tốt nhất vẫn là sử dụng tiếng mẹ đẻ.
Phong vị ấy thực là đậm đà trong những câu thư như:
“Tả lòng thanh, mùi núc nác
Vun đất ải, rảnh mồng tơi.”
(Ngôn chí – Bài thứ 9)
“Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.”
(Mạn thuật - Bài thứ 1)
“Ao quan thả gửi bè rau muống,
Đất Bụt ương nhờ một rảnh mùng.”
(Thuật hứng - Bài thứ 23)
“Vầu làm chèo, trúc làm nhà,
Được thú vui, ngày tháng qua.”
(Trần tình - Bài thứ 3)
“Cơm ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu.”
(Ngôn chí - Bài thứ 3)
“Cày rợp chồi cành, chim kết tổ,
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy.”
(Ngôn chí - Bài thứ 11)
“Thế sự người no ổi tiết bảy,
Nhân tỉnh ai ủ cúc mồng mười.
(Ngôn chí - Bài thứ 21)
Phải đã hòa mình vào cuộc sống ở nông thôn và yêu mến cuộc sống thì
mới có thể nói về sản vật và phong vị quê hương một cách thân thiết như vậy.
Quả núc nác, rau mồng tơi, hạt kê, củ khoai, bè rau muống, luống dọc mùng,
khóm vầu, bụi tre, củ ấu, quả ổi, dưa muối là những thứ vốn quen thuộc với
nhân dân nhưng lại vốn rất xa lạ với thơ văn bác học. Những thứ ấy đã được
đưa vào thơ nôm Nguyễn Trãi một cách rất tự nhiên. Kể ra thì ngay trong thơ
chữ Hán, Nguyễn Trãi cũng đã từng vượt ra ngoài cái gọi là “phong cách cao
quí” thường ràng buộc các tác giả xưa, khi ông viết:
“Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.”
(Thơ chữ Hán: Mộ xuân tức sự)
nghĩa là:
“Hoa xoan, mưa nhẹ, nở đầy sân.”
Nào đã mấy nhà thơ xưa nhắc đến cây xoan bên cạnh những thứ như
mai, lan, cúc, trúc là những thứ cây quen gặp trên các bức tứ bình? Thế mà
Nguyễn Trãi đã miêu tả hoa xoan với ngòi bút thực là tươi mát. Nhưng với
chữ Hán ông vẫn bị hạn chế nhiều trong việc miêu tả hiện thực cụ thể và sinh
động của thiên nhiên đất nước, của đời sống nhân dân. Viết bằng chữ nôm,
làm thơ bằng ngôn ngữ dân tộc, sự hạn chế ấy được vượt qua và ông đã có
thể nói về quê hương một cách giản dị và thắm thiết là như vậy đấy.
Tất nhiên, cũng như các tác phẩm văn thơ nôm khác, thơ nôm Nguyễn
Trãi đã tiếp thu không ít ảnh hưởng của Hán học. Kể ra thì sự vay mượn vốn
từ vựng của nhau cũng là một điều bình thường giữa nhân dân các nước láng
giềng. Và trong hàng chục thế kỷ giao lưu văn hóa, ngôn ngữ Việt trong khi
vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản – những nhân tố
chính để khẳng định một ngôn ngữ dân tộ – thì lại đã đồng hóa rất nhiều từ
ngữ Hán vào kho từ vựng của mình, Trong sự đồng hóa này, phải thấy công
lao của nhiều tác giả thơ văn nôm. Nguyễn Trãi là một trong những người đã
góp phần công lao xứng đáng. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay
mượn của Hán học. Hãy thử nêu một số dẫn chứng tiêu biểu. Từ câu “Tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (nghĩa là lo trước nỗi lo
của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ) của Phạm Văn Chính, ông đã
viết:
“Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa,
Vui sơ chẳng quản đeo âu.”
(Ngôn chí – bài thứ 18)
Từ câu “Nho quan đa ngộ thân” (nghĩa là cái mũ nhà nho khiến cho tấm
thân bị lầm lỡ nhiều) của Đỗ Phủ, ông đã viết:
“Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ
Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh”.
(Mạn thuật – bài thứ 9)
Từ câu: “Quân tử cố cùng” (nghĩa là người quân tử thì bền vững ngay
trong lúc khốn cùng) trong sách Luận ngữ, ông viết:
“Khó bền mới phải người quân tử,
Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu.”
Từ câu “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” (nghĩa là bậc nhân giả
vui với núi, bậc trí giả vui với nước) trong sách Luận ngữ, ông đã viết:
“Đạo ta cậy bởi chân non khỏe,
Lòng thế tin chi măt nước bằng”.
(Mạn thuật - bài thứ 1)
Từ câu “Nhân tâm chi bất đồng, như kỳ diện yên” (nghĩa là lòng người
khác nhau, hiện ra ở nét mặt) trong sách Tả truyện, ông đã viết:
“Lòng người tựa mặt ai ai khác,
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo”.
Từ khẩu ngứ Hán học “Đại ẩn, ẩn triều thị, tiểu ẩn ẩn lăng tẩu” (nghĩa là
bậc đại ẩn thì ẩn ngay tại nơi triều đình, thành thị đông đúc, bậc tiểu ẩn mới
ẩn tại chốn lăng tẩu hẻo lánh), ông đã viết:
“Ẩn cả lọ chi thành thị nữa,
Nào đâu là chẳng đất nhà quan”
(Ngôn chí – bài thứ 17)
Từ khẩu ngữ Hán học: “Bần cư trung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm
hữu khách tầm” (nghĩa là nghèo thì dầu ở chợ giữa cũng không ai hỏi đến,
giàu thì có ở núi rừng cũng có khách đến tìm), ông viết:
“Của nhiều, sơn dã đem nhau đến,
Khó ở kinh thành ít kẻ han.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 6)
Từ khẩu ngữ Hán học: “cùng đáo cốt” (nghĩa là cùng khổ đến xương)
hoặc “bần đáo cốt” (nghĩa là nghèo khó đến xương), ông viết:
“Cùng một ngày càng ngặt đến xương,
“Ắt vì số mệnh, ắt văn chương.”
(Tự thán – bài thứ 1)
Việc cố gắng Việt hóa những từ ngữ, kết cấu ngôn ngữ và hình tượng
mỹ từ pháp của Hán học như vậy không phải bao giờ cũng đạt kết quả hoàn
hảo. Nhưng thật là đáng quí dụng ý Việt hóa càng nhiều càng tốt những yếu
tố ngôn ngữ, văn học và văn hóa tiếp thu từ kho văn liệu Hán học.
Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho
từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc
trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian.
Trong thơ nôm Nguyễn Trãi, ta thường gặp những khẩu ngữ quen
thuộc của nhân dân:
“Ruộng đôi ba khóm đất con ong,
Đày tớ hay cày kẻ o muộn mòng.”
(Thuật hứng – bài thứ 11)
“Gạch quẳng nào bày với ngọc,
Sừng hằng những mọc qua tai.”
(Tự thán – bài thứ 92)
“Thân đà hết lụy, thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng, bụt sá cầu”.
(Mạn thuật – bài thứ 8)
“Co que thay bấy ruột ốc,
Khúc khuỷu làm chỉ lái (trái) hòe.”
(Trần tình – bài thứ 8)
“Nên thợ, nên thày vì có học.
No ăn, no mặc, bởi hay làm.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 46)
Rõ ràng là Nguyễn Trãi đã đưa những khẩu ngữ hàng ngày vào thơ ca
và tận dụng khả năng của những khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người,
tả vật. Và ngôn ngữ văn học của Nguyễn Trãi có một phần bắt nguồn từ ngôn
ngữ của văn học dân gian. Ngôn ngữ trong văn học dân gian vốn đã xây
dựng trên cơ sở gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày của nhân
dân. Nguyễn Trãi đã sử dụng hình tượng, những kết cấu ngôn ngữ vốn đã
được cô đúc trong ngôn ngữ của văn học dân gian để biểu tình đạt ý một
cách rất nhuần nhị.
Từ câu tục ngữ “ở gần nhà giàu đau răng ăn cám, ở gần kẻ trộm ốm
lưng chịu đòn”, Nguyễn Trãi viết:
“Lân cận nhà giàu no bữa cám,
Bạn bè kẻ trộm phải ăn đòn.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 21)
Từ câu tục ngữ “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, ông viết:
“Ở bầu thì dáng ắt nên tròn.
Xấu tốt thỉ đều rắp khuôn.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 21)
Từ câu tục ngữ “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, ông viết:
“Chằng ngừa nhỏ, âu nên lớn,
Nếu có sâu thì bỏ canh.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 9)
Từ câu tục ngữ “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” và câu thành
ngữ “Ngồi ăn núi lở”, ông viết:
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng,
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 22)
Từ câu thành ngứ “Sảy đàn tan nghé” và câu ca dao:
“Đất bụt mà ném chim trời.
Chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa.”
Nguyễn Trãi viết:
“Chúa đàn nẻo khỏi, tan con nghé,
Hòn đất hầu làm mất cái chim.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 25)
Từ câu ca dao:
“Bể sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.”
ông viết:
“Dễ hay ruột bể sâu cạn,
Khôn biết lòng người ngắn dài.”
(Ngôn chí – bài thứ 6)
Chỉ qua một vài thí dụ trên đây, tiêu biểu cho nhiều trường hợp gặp
trong Quốc âm thi tập, đủ thấy Nguyễn Trãi am hiểu ngôn ngữ của nhân dân
như thế nào. Cũng chính vì thế mà ông đã khai thác được tính tượng hình
tượng thanh rất sinh động của các cặp tiếng đôi cũng như của cấu trúc đối
xứng hô ứng, lấp láy trong tiếng Việt:
“Am cao am thấp, đợt đôi tầng,
Khấp khểnh ba lần, trở lại bằng.”
(Ngôn chí – bài thứ 15)
“Tại lệt lạt nhiều nên kém bạn,
Người mòn mỏi mãi phúc còn ta.”
(Ngôn chí – bài thứ 7)
“Thư nhạn lạc lài khi gió,
Tiếng quyên khắc khoải thủa trăng.”
(Tự thán – bài thứ 28)
“Hài cỏ, đẹp chăn đi đủng đỉnh,
Áo bô, quen cật, vận thênh thang.”
(Tức sự – bài thứ 4)
“Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc,
Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh.”
(Tự thán – bài thứ 29)
“Khóng khảy, kẻ cười cùng kẻ thốt,
Khó khăn, người rẻ lẫn người roi.”
(Tự thán – bài thứ 36)
“Bốn bể nhẫn còn mong đuốc đốt,
Dầu về dầu ở mặc ta dầu.”
(Bào kính cảnh giới – bài thứ 27)
“Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,
Đem dân mựa nữa mất lòng dân”.
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 47)
Những khả năng của ngôn ngữ Việt mà Nguyễn Trãi biết khai thác một
cách tài tình đã làm cho hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đây màu
sắc dân tộc.
Với Nguyễn Trãi, ngôn ngữ văn học nôm đã tiến một bước đáng kể so
với ngôn ngữ văn học nôm đời Trần. Thơ nôm Nguyễn Trãi nhiều khi kết hợp
được tính giản dị, chân chất với tính mỹ lệ, tinh tế:
“Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đầu bãi,
Hầu chất so le, cụm cuối làng.”
(Ngôn chí – bài thứ 8)
“Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 26)
“Am rợp chim kêu, hoa xảy động,
Song im, hương tận, khói sơ tàn.”
(Ngôn chí – bài thứ 16)
Thơ nôm Nguyễn Trãi nhiều khi lại có những nét gân guốc độc đáo:
“Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm,
Xăn tay áo đến tùng lâm.”
(Ngôn chí – bài thứ 4)
“Con mắt xanh, đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn, lộc nên từ.”
(Mạn thuật – bài thứ 14)
“Đạp áng mây, ôm bó củi,
Ngôi bên suối, gác cần câu.”
(Trần tình – bài thứ 5)
“La ỷ rập rìu, hàng chợ họp,
Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàng.”
(Thuật hứng – bài thứ 10)
“Rượu đối cầm, đâm thơ một thủ,
Ta cùng bóng lẫn nguyệt, ba người.”
(Tự thán – bài thứ 6)
Nếu như thơ nôm Nguyễn Trãi vừa sinh động vừa hàm súc, vừa chân
chất vừa mỹ lệ, lại nhiều khi gân guốc độc đáo thì trước hết là vì ông có tâm
hồn phong phú, tư tưởng cao đẹp, tình cảm tế nhị, tính cách phóng khoáng.
Nhưng cũng không thể quên rằng để thể hiện một cách đầy đủ và tinh tế tâm
hồn ấy, tư tưởng ấy, tình cảm ấy, tính cách ấy thì ông đã biết sử dụng một
cách khá thành thực kho văn liệu dân gian với những cảnh sắc, những hình
tượng vốn quen thuộc trong đời sống nhân dân, thì ông đã biết khai thác một
cách khá linh hoạt những khả năng phong phú của ngôn ngữ Việt vốn được
bồi dưỡng trong thực tiễn dân tộc. Ngoài ra, nếu như Nguyễn Trãi đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc thì cũng là vì ông không bị gò bó trong khuôn khổ
chật hẹp của một thể cách thi luật cố định. Viết theo thể thất ngôn bát cú Hàn
luật, thơ nôm Nguyễn Trãi không hiếm những bài mà kết cấu, niêm luật hoàn
chỉnh và vững chắc như:
“Ngẫm ngọt sơn lâm liễn (miễn) thị triều,
Nào đâu là chẳng đất Đường Nghiêu.
Người tham phú quí người hằng trọng,
Ta được thanh nhàn ta sá yêu.
Nô bộc ắt còn hai rặng quít;
Thất gia chẳng quản một con lều.
Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,
Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu.”
(Mạn thuật – bài thứ 2)
Tuy nhiên, cũng đôi khi nhà thơ vi phạm – hay nói cho đúng hơn – phá
vỡ niêm luật của thể thơ ấy như trong các bài sau đây:
“Có thân thì cốc khá làm sao,
Lững vững công hư, tuổi tác nào.
Người ảo hóa khoe thân ảo hóa,
Thủa chiêm bao thốt sự chiêm bao.
Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm,
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao.
Ai rằng mai hoa thanh hết tấc,
Lại chăng được chép khúc ly tao”.
(Thuật hứng – bài thứ 2)
“Kẻ thì nên bụt kẻ nên tiên,
Tượng thấy ba thân đã có duyên.
Bành được thương thua con tạo hóa;
Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên.
Có thân mưa lệ phạp bằng hữu,
Đọc sách thì xem thấy thánh hiền.
Ta nếu ở đâu vui thú đấy,
Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.”
(Tự thán – bài thứ 33)
Viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Hàn luật, thơ nôm Nguyễn Trãi cũng có
những bài mà kết cấu niêm luật hoàn chỉnh vững chắc như:
“Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành.
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình.
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc,
Đầu bạc xưa này có thủa xanh.”
(Tích canh – bài thứ 4)
Qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, có thể thấy thơ nôm Hàn luật
(bát cú hoặc tứ tuyệt) đã khá thành thục. Nhưng có điều đáng chú ý là trong
số 254 bài thì lại chỉ có 48 bài thất ngôn bát cú và 23 bài thất ngôn tứ tuyệt,
tổng cộng là 71 bài thơ luật. Vậy thì số bài thơ luật chỉ là 71/254 tức là chưa
được 2/7 tổng số các bài trong tập thơ ấy. Cho nên có thể nói thơ Hàn luật
theo điệu Đường trong thời Nguyễn Trãi tuy đã thông dụng nhưng không
chiếm ưu thế trên văn đàn, 183 bài thơ còn lại của Quốc âm thi tập là những
bài thơ ít nhiều có thể cách tự do. Nói cho đúng hơn, đó là những bài thơ tám
câu hoặc bốn câu mà cấu trúc đối xứng thì ít nhiều giống thơ luật, nhưng số
âm trong câu thì lại có thể sáu hoặc bảy (lục ngôn xen kẽ với thất ngôn). Việc
kết hợp một cách linh hoạt những câu sáu và câu bảy như thế đã tạo cho thơ
nôm Nguyễn Trãi âm điệu riêng:
“Góc thành nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến;
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa, ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải.
Góc thành nam, lều một gian.”
(Thu vĩ ngâm)
Xen kẽ câu sáu và câu bảy như vậy thường tạo được cảm giác đột
ngột và do đó nhấn mạnh được vào ý tình:
– “Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn,
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.
Dễ hay ruột bể sâu cạn,
Khôn biết lòng người vắn dài.”
(Ngôn chí, bài thứ 5)
– “Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa,
Vui, sơ chẳng quản đeo âu.”
(Ngôn chí – bài thứ 18)
– “Con mắt hòa xanh đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn, lộc nên từ.
Ai ai đều đã bằng câu hết,
Nước chẳng còn có Sử Ngư”.
(Mạn thuật – bài thứ 14)
Nhiều khi việc mở đầu hoặc kết thúc bằng những câu sáu lại rất phù
hợp với tính chất gân guốc, tân kỳ của tứ thơ:
“Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm,
Xăn tay áo đến tùng lâm.”
(Ngôn chí – bài thứ 14)
“Giữ thủa phong lưu pha thủa khó,
Lấy khi phú quí đắp khi hàn.
Cho hay bĩ thái là lề cũ,
Nếu có nguy thời có an.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 17)
Có trường hợp thì không phải chỉ câu sáu mà lại có cả câu năm xen với
câu bảy:
“Hễ kẻ làm quan đã có duyên,
Tới lui mặc phân tự nhiên.
Thân xưa hương hỏa chăng còn ước,
Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.
Trẻ hòa sang ấy phúc,
Già được trọn là tiên.
Cho về cho ở đều ơn chúa,
Lọ phải chon chăn đến cửa quyền.”
(Thuật hứng – bài thứ 8)
Nói chung, việc sắp xếp câu sáu và câu bảy thường không theo một qui
cách nào, và tác giả có thể tùy theo yêu cầu của nội dung mà chọn lựa nhịp
điệu thơ cho thích hợp. Rõ ràng là đa số thơ nôm Nguyễn Trãi có cấu trúc âm
thanh nhịp điệu tương đối tự do. Chính vì thế một phần mà thơ nôm Nguyễn
Trãi không đơn điệu và thường phù hợp với cảm xúc chân chất, hồn nhiên mà
nhiều khi sâu sắc tân kỳ của nhà thơ.
Nếu Nguyễn Trãi không tự gò bó trong thơ luật thì điều ấy phần nào
phản ánh xu hướng chung của văn học nôm trong buổi đầu xây dựng. Xu
hướng ấy là đi tìm thể cách thơ phù hợp với ngôn ngữ dân tộc và nhất là với
yêu cầu biểu hiện đời sống dân tộc. Nhưng lại có điều đáng chú ý là trọng thơ
nôm Nguyễn Trãi, một người rất am hiểu tục ngữ ca dao, ta chưa thấy rõ dấu
vết của thể thơ yêu vận dân tộc vần bằng (mà hoàn chỉnh nhất là thể lục bát)
và thể thơ yêu vận dân tộc kết hợp vần bằng và vần trắc (mà hoàn chỉnh nhất
là song thể lục bát). Tất nhiên, đôi khi ta gặp những câu có dáng dấp hai câu
bảy (có vần trắc ở giữa câu) của thể song thất lục bát như:
“Mọi sự đã chăng còn ước nữa,
Nguyện xin một thấy thủa thăng bình.”
(Tự thán – bài thứ 37)
“Bể học trường văn hăng nhặt bới,
Đường danh lối lợi hiểm không tim”.
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 23)
“Hết kinh hết gìn bề tiến thoái,
Mưa tham mưa dại nết anh hùng.”
(Tự giới – bài thứ 4)
hoặc hai câu hình như có vần bằng ở giữa câu như kiểu thơ yêu vận vần
bằng:
“Đột xung biếng tới áng can qua,
Địch lều ta, dưỡng tính ta.”
(Ngôn chí – bài thứ 17)
“Muốn ăn trái dưỡng nên cây,
Ai học thì hay mưa lệ chầy.”
(Bảo kính cảnh giới – bài thứ 10)
Nhưng chắc đây chỉ là do sự ngẫu nhiên chứ không phải là do dụng ý
của nhà thơ.
Nếu như trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi chưa thấy có dùng thể
thơ yêu vận dân tộc thì lý do cũng không khó giải thích lắm. Thơ yêu vận vần
bằng mà hoàn chỉnh nhất là thể lục bát trước hết phù hợp với yêu cầu tự sự,
kể truyện (tất nhiên là có thể phù hợp với yêu cầu trữ tình nữa), và cũng vì
vậy mà sau này sẽ được thông dụng trong việc viết truyện thơ nôm. Thơ yêu
vận vừa có vần trắc vừa có vần bằng mà hoàn chỉnh nhất là thể song thất lục
bát thì phù hợp với yêu cầu trữ tình khi cần bộc lộ tâm sự triền miên liên quan
với một cảnh ngộ kéo dài, và cũng vì vậy mà sau này sẽ được thông dụng
trong việc viết các khúc ngâm, vãn. Thơ nôm Nguyễn Trãi không có yêu cầu
tự sự, cho nên không cần phải dùng đến thơ yêu vận vần bằng, đến thể lục
bát. Thơ nôm Nguyễn Trãi không nhằm bộc lộ tâm sự triền miên liên quan với
một cảnh ngộ kéo dài, cho nên không cần phải dùng đến thơ yêu vận vừa có
vần trắc vừa có vần bằng, đến thể song thất lục bát. Thơ nôm Nguyễn Trãi
bộc lộ tâm tình của nhà thơ với cảm xúc đa dạng gắn với nhiều cảnh ngộ
khác nhau trong cuộc đời. Mỗi bài thơ bộc lộ một mảnh tâm tình. Thể thơ tám
câu hoặc bốn câu theo Hàn luật, hoặc là không theo Hàn luật, nhưng có cước
vận, cũng đủ với yêu cầu trữ tình như thế.
Ngoài ra, cũng có thể nghĩ rằng thơ yêu vận vốn hình thành ở văn học
dân gian thì khi ấy chưa đựợc hoàn chỉnh đến mức có thể hấp dẫn các nhà
thơ và ảnh hưởng mạnh đến họ. Và phải đợi non một thế kỷ sau, với Lê Đức
Mao thì mới thấy yêu vận bắt đầu xuất hiện, nhưng mà cũng chỉ là lọt vào
trong những bài theo thể thơ cước vận.
Thơ nôm Nguyễn Trãi không phải bài nào, câu nào cũng hay. Nhưng
nhìn chung thì thấy rất ít bài sa vào khuyên sáo. Hầu hết thơ nôm Nguyễn
Trãi là những lời tâm sự chân thành bộc lộ ra một cách thoải mái, hồn nhiên.
Nếu lời thơ còn có chỗ khúc mắc, nhịp thơ còn có phần chập chững thì đó là
vì ngôn ngữ thơ và thể thơ còn đang trong quá trình rèn giũa. Và chính
Nguyễn Trãi đã góp phần đầy sáng tạo vào quá trình rèn giũa ấy.
Nguyễn Trãi quả đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của văn
học chữ nôm, đã thúc đẩy mạnh mẽ bước phát triển ấy.
***
Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc. Đó là điều nổi bật. Nhưng
Nguyễn Trãi lại là một nhà đại văn hóa dân tộc, một nhà đại văn hào dân tộc.
Đó là điều không kém hiển nhiên
Công lao của Nguyễn Trãi trước hết là ở chỗ tham gia có hiệu quả vào
sự nghiệp cứu nước vĩ đại, là ở chỗ tham gia tích cực vào việc xây dựng lại
đất nước sau ngày giải phóng.
Công lao của Nguyễn Trãi lại còn là ở chỗ nêu cao được những bài học
yêu nước, yêu dân, dũng cảm chiến đấu cho đại nghĩa đến chết mới thôi.
Những tình cảm vĩ đại và đức tính cao quí ấy đã thuộc vào truyền thống của
dân tộc, mà chúng ta phải luôn luôn phát huy.
Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh
dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một
sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới
có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn
hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan
trọng trên con đường tiến lên của dân tộc ta. Cột mốc ấy lại đặc biệt quan
trọng đối với lịch sử văn học.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi, rất xứng đáng với cuộc đời đẹp
của ông, là một cống hiến to lớn cho sự phát triển của văn học nước ta, Thơ
văn của Nguyễn Trãi đúc kết được những truyền thống tốt đẹp nhất của dân
tộc, đặc biệt là những truyền thống đã được khẳng định trong công cuộc đại
phục hưng dân tộc từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV: có thể nói thơ văn của
ông là tấm kính hội tụ những ánh hào quang của quá khứ. Thơ văn của
Nguyễn Trãi lại đã phát huy những truyền thống tốt đẹp của quá khứ trong
hoàn cảnh đương thời, khi mà nhân dân có vai trò ngày càng chủ động hơn
đối với lịch sử của đất nước: có thể nói thơ văn của ông là tấm gương phản
chiếu những ánh hào quang rực rỡ nhất của thế kỷ thứ XV. Đúng như đồng
chí Phạm Văn Đồng đã chĩ rõ “Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh
hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu
nước và tự hào dân tộc”
Với tư cách là nhà văn, nhà thơ, Nguyễn Trãi đã đem văn học phục vụ
cho cuộc sống và qua bản thân mình đã chứng minh hùng hồn rằng chỉ có bắt
nguồn từ cuộc đấu tranh vì lợi ích của nhân dân thì văn nghệ mới có thể phát
huy tác dụng mạnh mẽ và lớn lao. Thơ văn của Nguyễn Trãi mãi mãi là di sản
quí báu của dân tộc ta.
VI. VĂN HỌC NỬA THỨ HAI THẾ KỶ THỨ XV CÓ TÍNH CHẤT QUAN PHƯƠNG
Nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV (tính từ năm 1460, năm Lê Thánh tông
lên ngôi) chế độ phong kiến nước ta đang ở vào thời kỳ thịnh trị.
Vương triều nhà Lê được xây dựng từ trong cuộc kháng chiến chống
Minh, đã dần dần được củng cố về mọi mặt qua các đời Thái tổ, Thái tông,
Nhân tông. Trong vòng hơn 30 năm, nhà nước phong kiến quan liêu tập
quyền ấy đã phải vượt qua nhiều khó khăn trên con đường củng cố và hoàn
thiện bộ máy của mình. Một loạt những thể chế, luật lệ, chính sách thuộc các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã được xây dựng hoặc sửa đổi,
bổ sung.
Trong quá trình đi tới chỗ củng cố chế độ phong kiến, trong nội bộ giai
cấp cầm quyền, trước hết là giữa hàng ngũ quí tộc và đại quan liêu đã có
những mâu thuẫn gay gắt. Giữa các tập đoàn khác nhau, có sự đấu tranh
quyết liệt đến mức dẫn tới chỗ sát hại lẫn nhau. Hàng ngũ công thần khai
quốc bị sát hại ở cả hai phía (sử cú chia ra loại quyền thần như Lê Sát, Lê
Ngân v.v…; trung thần như Nguyễn Trãi và một số người cùng chí hướng với
ông). Trong nội bộ hoàng gia thì giữa các hoàng tử, các cung phi cũng xẩy ra
những vụ ám hại lẫn nhau. Đặc biệt là năm 1459 Lạng Sơn vương Nghi Dân
(con cả của Thái tông) đã giết mẹ con Lê Nhân tông và cướp ngôi vua.
Nhưng năm sau (1460) triều thần lại trừ được bè đảng của Nghi Dân và lập
hoàng tử Lê Tư Thành (con út của Thái tông) lên làm vua, đó là Lê Thánh
tông.
Mặc dù có những mâu thuẫn gay gắt giữa các tập đoàn cầm quyền,
chế độ phong kiến quan liêu vẫn dần dần được củng cố và xã hội đi dần vào
thế ổn định. Đến triều Lê Thánh tông, nhà nước phong kiến quan liêu tập
quyền đã đạt tới bước phát triển cao. Lê Thánh tông thi hành chính sách
khuyến nông, khai hoang lập đồn điền, mở rộng đất đai, do đó nền sản xuất
của xã hội (chủ yếu là sản xuất nông nghiệp) vẫn còn khả năng phát triển,
nhà nước có lực lượng dự trữ về kinh tế đáng kể. Về mặt chính quyền, nhà
vua hiệu định lại quan chế làm cho bộ máy quan liêu có hiệu lực mạnh mẽ,
đồng thời nhà vua cũng tăng cường sự kiểm soát chặt chẽ bộ máy cai trị đó.
Như vậy mọi quyền lực trong nước dần dần tập trung vào triều đình, đứng
đầu là nhà vua. Điều này cũng có lợi cho viêc củng cố sự thống nhất của đất
nước.
Nhà nước phong kiến quan liêu tập quyền dưới triều Lê Thánh tông
quả có duy trì sự yên ổn và thịnh vượng của xã hội cho đến cuối thế kỷ thứ
XV. Về mặt này, giai cấp phong kiến đã phát huy được vai trò tích cực đối với
dân tộc. Nhưng đồng thời nó cũng bộc lộ mặt hạn chế nghiêm trọng: bộ máy
quan liêu tập quyền cao độ đã thống trị chặt chẽ mọi lĩnh vực đời sống của
dân tộc, cho nên sinh hoạt văn hóa và tư tưởng dần dần bị gò vào khuôn khổ
chính thống của chế độ phong kiến quan liêu.
Chính sách văn hóa giáo dục của Lê Thánh tông nhằm mục đích củng
cố ý thức hệ phong kiến và đào tạo một đội ngũ quan liêu phục vụ bộ máy cai
trị. Nhà nước rất mực đề cao Nho giáo. Việc học tập và thi cử được tổ chức
qui mô hơn bao giờ hết. Có thể nói đây là một thời kỳ hoàng kim của Nho giáo
ở nước ta. Nhà vua rất coi trọng việc đào tạo đội ngũ nho sĩ, đã hạ dụ
“Khuyến học”, trong đó cực lực ca tụng Nho giáo như sau:
“Kinh là một thứ sách chép đạo lý, phải dùng sức mà giảng cứu. Sử là
pho sách ghi việc làm, phải hết lòng mà suy xét. Khảo phép tắc của thánh
hiền đã dựng nên để tìm cái lẽ đương nhiên của sự lý. Chính lời nói không gì
bằng Kinh Thi, Kinh Thư; Thi, Thư chăm tất được. Ra hành đạo không gì
trước hơn Lễ, Nhạc; Lễ, Nhạc không thể thiếu…”
Trong khi nhấn mạnh tác dụng có tính chất nguyên lý đối với việc hành
đạo, giúp đời của kinh điển Nho giáo, nhà vua đã lưu ý rằng con đường vinh
hoa phú quý đang mở rộng ra trước mắt người đi học, và có lẽ chính điều đó
mới là liều thuốc kích thích mạnh đối với số đông nho sĩ. Dụ “Khuyến học” đã
cụ thể hóa một cách hấp dẫn cái mệnh đề “lộc tại kỳ trung” mà sách Luận ngữ
đã có lần nói đến. Người đi học chỉ cần nhai đi nhai lại kinh sử sao cho thật
nhuyễn, thì sẽ “lấy áo tía nhà Hán dễ như nhặt hạt cải; đỗ khoa đệ triều Tống
dễ như nhổ sợi râu” và thế là giấc mộng công danh đã trở thành sự thật,
“người ta tranh nhau xem danh chiếm bảng vàng. Thời thế càng thấy thanh
vân đắc lộ. Những khách bước ngọc leo vàng nối gót, liền vai; những bọn
cầm roi giương nỏ hô tiền ủng hậu. Không phụ cái công đèn lửa, đủ bù cái chí
lập công danh. Đem văn chương tô điểm đạo vua, lấy đạo đức sinh hòa trị
hóa. Giúp dân tôn chúa, ân trạch khắp cả đương thời. Dương danh hiển thân,
sự nghiệp ghi còn muôn thuở. Ấy là đều nhờ cổ chữ cần làm gốc, cho nên có
lộc ở trong”. Kèm theo đó là bao nhiêu thể chế nghi thức áp dụng cho người
thi đỗ như danh đề bảng vàng, tên ghi bia đá (bia tiến sĩ ở Văn miếu), rồi lệ
xướng danh, ban mũ áo, đãi yến, thăm Thượng uyển, bái tổ vinh quy… tất cả
đều nhằm làm say mê đầu óc người nho sinh cử tử. Ân trạch của triều đình
dành cho người thi đỗ quả là quá hậu. Hôm qua mới là anh đồ, hôm nay bỗng
trở thành quan lớn nghênh ngang võng lọng, Tất nhiên người nho sinh trúng
cách, “đội ơn mưa móc” của triều đình sẽ cúc cung tận tụy phục vụ quyền lợi
của giai cấp phong kiến. Nho học đã trở thành “hòn gạch gõ cửa” của những
kẻ muốn ngoi lên. Từ đó khoa cử dần dần trở thành cái chợ danh lợi. Một lối
học giáo điều cử nghiệp thịnh hành lên, làm cho Nho học suy vi dần đi. Cho
nên lúc mà Nho học được khuyến khích và phát triển khá rầm rộ ấy thì cũng
chính là lúc mà sự khô cứng và tàn tạ không còn xa nữa. Và cũng không lấy
làm lạ rằng càng về sau học phong sĩ khí càng suy đồi.
Việc mở rộng quy mô đào tạo nho sĩ ngoài mục đích để chọn nhân tài
bổ sung vào bộ máy quan liêu, còn nhằm tạo ra một tầng lớp trí thức nho học
đông đảo trong xã bội. Tầng lớp trí thức ấy sẽ là đội ngũ tuyên truyền đắc lực
cho ý thức hệ phong kiến trong nhân dân, xuống tận hang cùng ngõ hẻm. Lê
Thánh tông đã làm nhiều việc nhằm tăng cường giáo dục ý thức hệ phong
kiến đối với xã hội. Năm 1462, nhà vua ban phát “Huấn dân đại cáo” cho cả
nước từ phủ đến châu, huyện mỗi nơi một bản. Ai là người giảng giải “đại
cáo” ấy? Chính là nho sĩ. Năm 1493, nhà vua cho xây Quảng văn đình ở
Thăng Long (chỗ gần chợ Cửa Nam, Hà Nội ngày nay) để làm nơi giảng dạy
các huấn điều cho nhân dân và ban bố chính lệnh của triều đình. Bài Quảng
văn đình hý lại được giao cho một nho sĩ là Bùi Xương Trạch thảo ra. Bài ký
ấy có một đoạn ca tụng nhà vua ca tụng chế độ phong kiến, ca tụng trật tự
phong kiến và lễ giáo phong kiến như sau:
“Về trăm quan thì tỏ rõ đạo quỹ, giữ phép tắc, tuân theo lời nói của
Nghiêu ban xuống, tuyên bố lời chiếu như Vũ yết ra, ai cũng học lẫn nhau,
khuyên răn lẫn nhau.
Về nhân dân bốn phương, thì nghe “đức hóa” mà vui mừng, vâng theo
“đức âm” mà cổ vũ, trông thịnh trị hòa vui như của nhà Ngu, xem chính sách
rộng lớn như của nhà Hán, ai ai cũng hớn hở cùng vui. Thế thì dựng lên đình
này là để thêm cái phần thịnh trị, để cho công việc vững bền, há có phải là
việc ngẫu nhiên đâu! Thế thì đình này làm ra cũng có lý do vậy. Bày đặt chính
giáo, ban phát mệnh lệnh; pháp độ rõ rệt là thành công của Nghiêu; điển
chương đầy đủ là thịnh trị của Chu; trong nước thái hòa là lễ giáo của Thuấn;
tiếng tăm vang xa là văn giáo của Vũ. Một lời nói ra đúng là then máy, một
lệnh ban ra, cứng như vàng đá. Người trong nước ai cũng nói: lời nói của vua
thực là to tát, lòng vua trước sau như một. Mà lễ giáo truyền đi mọi nơi khủng
chỗ nào không tới. Thế thì dựng đình này đặt tên là Quảng văn để làm qui
giám cho muôn đời”.
Tưởng không còn lời nào để nịnh bợ nhà vua, ca tụng lễ giáo và trật tự
phong kiến được hơn thế nữa! Nho giáo quả là chỗ dựa đắc lực của nền
thống trị phong kiến. Nhưng trong khi đề cao Nho giáo, nhà nước phong kiến
thời kỳ này vẫn duy trì Phật giáo và Đạo giáo là hai tông giáo vốn đã có ảnh
hưởng sâu rộng trong nhân dân. Trạng nguyên Lương Thế Vinh là một nhà
nho có danh vọng mà cũng rất sùng Phật và đã từng viết sách về Phật giáo.
Trong gia đình hoàng tộc và quan liêu đều có người là tín đồ của Phật, Đạo.
Những hiện tượng đó cho thấy rằng thời này Nho, Phật, Đạo vẫn cùng tồn tại
với điều kiện là Phật, Đạo nhường địa vị cao nhất về chính trị và tư tưởng cho
Nho.
Tình hình văn hóa và tư tưởng ấy đã phản ánh rõ nét vào trong văn
học.
***
Văn học nửa thứ hai của thế kỷ XV được sáng tác trong hoàn cảnh trật
tự phong kiến đã được củng cố khá vững mạnh, Nho học được đặc biệt đề
cao. Người làm văn học đều là những nhà nho, nhiều người lại giữ những
chức vị cao trong triều đình. Lê Thánh tông cũng là một tác giả lớn ở thời kỳ
này. Nhà vua còn là người giám sát và chỉ đạo trực tiếp việc sáng tác văn học
của triều thần. Do đó văn học nói chung đã phát biểu quan điểm chính thống
của nhà nước phong kiến và thường nặng về xu hướng thù phụng, ca ngợi.
Văn học đã thể hiện rõ rệt tính chất quan phương.
Dưới triều Lê Thánh tông sáng tác văn học ở cung đình đã được đẩy
mạnh. Nhà vua thường xướng họa và phẩm bình thơ văn với các triều thần.
Số tác giả trong thời kỳ này mà có tên lưu lại là trên 70 người. Bên cạnh Lê
Thánh tông là tác giả lớn nhất, thì Nguyễn Trực, Lê Hoằng Dục, Nguyễn Bảo,
Thái Thuận, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh, Đàm Văn Lễ,
Nguyễn Nhân Phùng, Vương Sư Bá là những tác giả đáng chú ý hơn cả, Có
một sự kiện văn học đáng chú ý là việc thành lập Hội Tao đàn. Năm 1494
niên hiệu Hồng Đức thứ 25, nhân gặp năm được mùa, nhà vua sáng tác 9 bài
thơ hợp lại thành một tập gọi là Quỳnh uyển cửu ca và tập hợp 28 vị văn thần
lại, thành lập Hội Tao đàn. Trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca, nhà vua có nói
về việc này như sau: “Ta… mới đem viết chín chương cận luật rõ ràng trên
giấy hoa tiên vàng, bảo những ông học sĩ họ Thân, họ Đỗ, họ Ngô, họ Lương,
những nhà văn học họ Nguyễn, họ Dương, họ Chu, họ Phạm, cả thảy 28
người, ứng với nhị thập bát tú trên trời, cùng nhau chúc họa, được độ vài
trăm bài. Những bài đó đã hết sức thôi xao, văn kêu vần nhã, thơ làm xong đệ
dẫn tiến lãm, lòng ta vui vẻ. Bấy giờ cho người chứ tốt viết, cho thợ khéo khắc
để in. Họ kiệt tâm tư, đem hết tài năng ra làm, không quá mười ngày sách
xong, tiến lãm. Văn chương khúc chiết mà khoáng dật, theo lối đời xưa, thân
mật yêu chuộng những người tài giỏi, để nối theo lời canh ca cảnh cáo của
đời Đường, đời Ngu, vượt xa hẳn lối văn nguyệt lộ phong vân của nhà Ngụy,
nhà Tấn, há chỉ làm rạng rỡ cho người trước, phấn chấn người sau, bắt
chước đời xưa gây dựng cho đời nay mà thôi đâu!
Mùa thu, năm thứ 25, niên hiệu Hồng Đức, Hoàng đế làm bài tựa này”.
Họ Thân, họ Đỗ, họ Ngô, họ Lương là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận,
Ngô Luân, Lương Thế Vinh; họ Nguyễn, họ Dương, họ Chu, họ Phạm là
Nguyễn Nhân Phùng (tức Nguyễn Trọng Ý), Dương Trực Nguyên, Chu Hoãn,
Phạm cẩn Trực. Nhà vua tự xưng là Tao đàn chính nguyên súy, cho Thân
Nhân Trung và Đỗ Nhuận làm Tao đàn phó nguyên súy, Lương Thế Vinh làm
Tao đàn sái phu.
Tác phẩm văn học nửa sau thế kỷ XV phần lớn được chép vào “Thiên
nam dư hạ tập”. Tập sách này do Lê Thánh tông sai các văn thần Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo, Đào Cừ, Đàm Văn Lễ biên soạn năm
1483. Có lẽ bộ sách được tiếp tục biên soạn từ năm đó cho đến hết đời Lê
Thánh tông, vì trong đó có những phần rõ ràng là được viết sau năm 1483 (thí
dụ như Quỳnh uyển cửu ca). Thiên nam dư hạ tập không chỉ chép văn thơ mà
là một bộ sách có tính chất điển chế của triều đại. Theo Phan Huy Chú (Lịch
triều hiến chương loại chí – Văn tịch chí) thì Thiên nam dư hạ tập gồm 100
quyển, trong đó ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lễ, cáo sắc,
đại khái phỏng theo sách Hội Điển các triều Đường, Tống. Phan Huy Chú có
phàn nàn rằng bộ sách đó đã thất lạc mất nhiều và cho biết là “đời Cảnh
Hưng năm Mậu tí (tức năm 1786) Tĩnh Vương (Trịnh Sâm) tìm kiếm được độ
hơn 20 quyển, đến khi loạn lạc gặp binh lửa cháy mất. Nay các cố gia còn giữ
được, tôi được trông thấy chỉ độ 4, 5 quyển thôi”. Hiện nay chúng ta còn giữ
được một bộ sách nhan đề là Thiên nam dư hạ tập, trong đó có chép các tập
thơ Minh Lương cẩm tú, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Xuân vân thi
tập, Văn minh cổ xúy, Chinh tây kỷ hành, bài phú Lam sơn Lương thủy, tập
sách có tính chất bút ký triết học Liệt truyện tạp chí, một số thơ văn chữ Hán
khác của Lê Thánh tông và Hội Tao đàn, bài văn nôm Thập giới cô hồn quốc
ngữ văn, các sớ văn kỳ đảo của Lê Thánh tông v.v… và các sách Chinh
Chiêm thành sự vụ, Thiên hạ bản đồ ký, Quan chế, Điều luật… Bộ sách này
tất nhiên là không chép lại được đầy đủ nội dung vốn có của bộ Thiên nam
dư hạ tập đời Lê Thánh tông và đã có những phần của Thiên nam dư hạ tập
đã mất hẳn. Thiên nam dư hạ tập không phải là công trình biên soạn của Hội
Tao đàn. Lý do đơn giản là bộ sách bắt đầu biên soạn từ năm 1483 mà Hội
Tao đàn sớm lắm cũng chỉ được thành lập vào năm 1494 (vì mùa thu năm đó
nhà vua mới viết bài tựa cho công trình sáng tác chung đầu tiên của hội là
Quỳnh uyển cửu ca). Hơn nữa trong bộ sách có những phần rõ ràng không
liên quan gì đến hoạt động của hội văn học đó như những phần chép về chế
độ, luật lệ, điển lễ của nhà nước phong kiến. Và trong năm người biên soạn
Thiên nam dư hạ tập thì có ba người là Quách Đình Bảo, Đào Cử, Đàm Văn
Lễ không ở trong Hội Tao đàn. Còn Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận tham gia
biên soạn bộ sách đó cũng không phải với tư cách hội viên Tao đàn vì hai ông
này 11 năm sau mới gia nhập hội ấy.
Việc thành lập Hội Tao đàn đánh dấu một bước phát triển cao của
phong trào sáng tác ở cung đình và có tác dụng thúc đẩy cho phong trào đó
càng rầm rộ hơn. Nhưng Hội Tao đàn chỉ tồn tại được 3 năm cuối đời Lê
Thánh tông, và tác phẩm của nó cũng không có giá trị là bao. Phần lớn các
hội viên Tao đàn chỉ làm cái việc thụ động là “phụng bình” và “phụng canh”
(họa) thơ văn của Lê Thánh tông. Tác phẩm của họ là bản đại hợp xướng ca
ngợi tài đức nhà vua, ca tụng sự vững bền của chế độ và ca tụng lẫn nhau.
Do đó mà thường rơi vào tệ khuyên sáo, thù phụng, nghèo nàn về nội dung
và khô cứng về hình thức.
Tuy nhiên, nhìn chung toàn bộ văn học nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV
thì cũng thấy có những tác phẩm có giá trị. Những tác phẩm đó thường thể
hiện được lòng tự hào về non sông đất nước, về truyền thống anh hùng của
dân tộc và phản ánh được những mặt nhất định của hiện thực cuộc sống, thể
hiện mối quan tâm đến đời sống của nhân dân. Thời kỳ này cũng chứng kiến
một phong trào sáng tác văn thơ nôm khá rầm rộ.
VII. ĐÓNG GÓP ĐÁNG KỂ NHẤT CỦA NỬA THỨ HAI THẾ KỶ THỨ XV LÀ SỰ THÚC ĐẨY BƯỚC TIẾN CỦA VĂN HỌC CHỮ NÔM
Văn học nôm nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV phát triển trên cơ sở kế
thừa những thành tựu của nửa đầu thế kỷ mà tiêu biểu là Quốc Âm thi tập
của Nguyễn Trãi. Thời này, Lê Thánh tông cũng sáng tác văn thơ nôm và
khuyến khích các triều thần tham gia, do đó việc sáng tác văn học nôm đã
thành một phong trào. Phong trào đó chủ yếu là ở cung đình nhưng có thể đã
có tác dụng lôi cuốn nhiều nho sĩ ngoài cung đình. Phong trào đó thể hiện một
bước tiến mới của dòng văn học nôm. Việc khuyến khích sáng tác văn học
nôm của Lê Thánh tông đã tạo điều kiện cho nó phát triển mạnh mẽ hơn. Nhà
vua đã lái phong trào văn học chữ nôm vào quỹ đạo cung đình. Và điều đó đã
gây nên nhiều hạn chế cho văn học chữ nôm, nhưng dù sao thì những tác
phẩm có giá trị vẫn chứa đựng yếu tố dân tộc, và màu sắc dân gian. Văn học
chữ nôm đã có một bước tiến đáng kể trong lĩnh vực trau giồi và nâng cao
sức biểu hiện của ngôn ngữ văn học dân tộc. Những tác phẩm nôm của thời
kỳ này hiện nay còn giữ được là bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn và tập
thơ Hồng Đức quốc âm.
Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ nôm cỡ lớn của thế kỷ XV. Tập
thơ không có tên tác giả, nhưng chúng ta thấy rằng nó không phải là tác
phẩm của riêng một tác giả mà là một tuyển tập về nhiều tác giả. Điều đó có
thể thấy rõ ở nhiều chùm thơ có tính chất xướng họa hoặc nhiều bài thơ cùng
lấy chung đề tài. Thí dụ: trong phần Thiên địa môn có đến 4 bài “Tết nguyên
đán” cùng một vần (Tết nguyên đán, Lại thơ Tết nguyên đán, Họa vần bài
vịnh Tết nguyên đán), sau các bài thơ về Tết nguyên đán lại có đến 12 bài
vịnh cảnh 4 mùa xuân, hạ, thu, đông (mỗi mùa có 3 bài). Thơ vịnh trăng thì có
đến 11 bài, trong đó một bài xướng và 10 bài họa, v.v… Hiện tượng đa dạng
của đề tài và chủ đề, hiện tượng chênh lệch rõ rệt về trình độ nghệ thuật và
sự nhiều vẻ về phong cách nghệ thuật cũng nói lên tính chất nhiều tác giả của
tác phẩm, đồng thời cũng cho thấy thời này đã có một phong trào sáng tác
thơ nôm lôi cuốn nhiều người. Tác giả của tập thơ có lẽ là các triều thần và Lê
Thánh tông. Nhưng cũng có một số bài thơ của nho sĩ ngoài cung đình (thí dụ
một số bài ở phần Nhàn ngâm chư phẩm có vẻ xa lạ với quan điểm chính
thống, hoặc thể hiện tâm trạng của kẻ ẩn sĩ)
Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 328 bài thơ và được chia thành 5 môn
loại. Lối chia môn loại này có phần gần gũi với Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi. Năm môn loại (thực ra chỉ có bốn môn loại rõ ràng còn phần thứ năm có
tính chất linh tinh) ấy là: Thiên địa môn gồm 59 bài với các đề tài như Tết
nguyên đán, Bốn mùa, Trăng, Năm canh, Mười hai tháng. Nhân đạo môn
gồm 46 bài, phần lớn là những bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc và
Việt Nam, trong đó có những nhân vật đương thời như Lê Khôi, Nguyễn Trực,
Lương Thế Vinh. Có một số bài lấy đề tài nhân vật trong tiểu thuyết và truyền
thuyết Trung Quốc như Tô Vũ, Chiêu quân, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai,
Chức nữ, Ngưu lang. Phần này cũng có một số bài lấy đề tài tiết liệt trung
hiếu. Phong cảnh môn gồm 66 bài với các đề tài như Tiêu Tương bát cảnh,
Đào nguyên bát cảnh (những cảnh đẹp của Trung Quốc), Tứ thú (ngư, tiều,
canh, mục là cảnh sinh hoạt của bốn loại người lao động: đánh cá, hái củi,
cày ruộng, chăn trâu) và một số bài vịnh cảnh khác có tính chất ước lệ. Trong
môn loại này đáng chú ý hơn cả là những bài thơ vịnh sông núi, chùa chiền,
đền miếu của nước ta như chùa núi Phật Tích, chùa Non Nước, động Bạch
Nha, núi Thần Phù, quán Trấn Vũ, kênh Trầm, sông Bạch Đằng v.v… Phẩm
vật môn gồm 69 bài với những đề tài có tính chất công thức như phong, hoa,
tuyết, nguyệt, cầm kỳ, thi, tửu và một số đề tài về cáo loài hoa (mai, sen, mẫu
đơn, cúc), các loài vật (voi, cóc, kiến, muỗi), các đồ dùng (ấm đất, nón quạt),
ông đầu rau, người bù nhìn, các loài rau dưa v.v… Nhân ngâm chư phẩm
gồm 88 bài, trong đó có 26 bài chủ yếu tả tâm sự như tự thuật, tự dật, nhớ
người xưa, tỏ bày sự ẩn dật v.v… và một số bài lấy đề tài khác. Lại có 45 bài
thơ thất ngôn làm thành truyện Vương Trường, 17 bài vịnh đền miếu, nhân
vật, trong đó có nhân vật lịch sử Trung Quốc như Quan Vân Tường, Gia Cát
Lượng, Triệu Tử Long, Tào Tháo, và đặc biệt là có một số nhân vật trong
truyền thuyết và lịch sử nước ta như Xung thiên thần vương, Chử Đồng tử,
Trưng vương, Triệu Trinh nương v.v…
Hồng Đức quốc âm thi tập khá phong phú về số lượng bài thơ nhưng
lại thể hiện khuynh hướng sáng tác cung đình, nặng về mặt “ngâm hoa vịnh
nguyệt”, mượn thơ văn làm trò tiêu khiển cho lớp người sống đài các phong
lưu. Vì vậy mà tập thơ thường nặng về mặt đẽo gọt hình thức mà nội dung thì
nghèo nàn. Hồng Đức Quốc âm thi tập cũng thể hiện một cách lộ liễu khuynh
hướng ca tụng nhà vua, ca ngợi chế độ phong kiến. Hồng Đức quốc âm thi
tập là một tập thơ nhiều tác giả, cho nên về nội dung cũng như về nghệ thuật
có nhiều hình nhiều vẻ và khi nhận định không thể đánh đồng nhất loạt được.
Bên cạnh mặt yếu kém thì tập thơ cũng thể hiện được những mặt tích cực và
khả thủ về nội dung cũng như về hình thức ngôn ngữ văn học. Về mặt nội
dung, Hồng Đức quốc âm thi tập thường pha lẫn mặt tích cực với mặt tiêu
cực. Nhìn chung khá nhiều bài thơ mang âm điệu ngợi ca triều đại phong kiến
trong buổi thịnh thời, đề cao đạo đức lễ giáo. Nhưng rải rác trong tập thơ vẫn
thấy thể hiện truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Tập thơ cũng
phản ánh được một số vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống của dân tộc trong thời
bấy giờ. Trong tập thơ, những bài vịnh phong cảnh thiên nhiên chiếm một tỷ
lệ lớn. Nhưng cũng có nhiều bài thơ lấy đề tài lịch sử hoặc đề tài xã hội.
Thơ thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập có nhiều bài mang tính
chất ngâm vịnh tiêu khiển với đề tài công thức, tuy cũng có câu đẹp, lời hay
nhưng phần nhiều sáo rỗng, ít giá trị. Một số bài khác lại mượn đề tài làm cái
cớ, để qua đó mà tán dương vua chúa. Tuy nhiên cũng có một số bài thể hiện
được tình cảm chân thực của nhà thơ đối với cảnh vật, trong số đó đáng chú
ý là những bài lấy cảnh vật thiên nhiên có nhiều màu sắc dân tộc. Các nhà
thơ đã có sự rung cảm chân thành và viết nên những câu thơ hay và đẹp để
ngợi ca phong cảnh đất nước.
Đây là vẻ đẹp kín đáo và thanh khiết của một ngôi chùa cổ:
“Hoa nở châu rơi màu hổ phách,
Rêu in cỏ mọc thức đồi mồi.”
(Lại vịnh chùa Pháp Vân)
và đây là vẻ đẹp lộng lẫy của một đạo quán giữa chốn phồn hoa đô hội:
“Là tuông doành quế màu lai láng,
Gấm trải đường hoa khách dập dìu.”
(Quán Trấn Vũ)
Ở những cảnh trí núi non, sông biển thì nhà thơ lại say sưa miêu tả cái
hùng vĩ bao la. Núi Song Ngư như hai con cá khổng lồ bơi lội trên làn sóng
bạc:
“Dăng ngang biển chờn vờn lớn,
Cao chọc trời ngần ngật xanh.”
(Núi Song Ngư)
Động Bạch Nha thì lại mở ra trước mắt ta một vùng non xanh nước
biếc:
“Quanh co nước biếc doành muốn khảm,
Chồng chập non xanh đá mấy hòn.”
(Động Bạch Nha)
Trong bài thơ vịnh “Núi Thần Phù” thì nhà thơ lại từ đỉnh cao mà phóng
tầm mắt bao quát cả một vùng nước non:
“Phân cõi Nam Châu đất Ái Châu,
Bút vương khốn mạc cảnh Thần Phù.
Muối pha bãi mạc sông sâu hoáy,
Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù.
Khói quán, mây ngàn tuôn ngụt ngụt.
Chợ quê, sóng bể dức ù ù…”
(Núi Thần Phù)
Đất nước hiện ra với tất cả vẻ đẹp của một kỳ quan hùng vĩ chan hòa
màu sắc và âm thanh. Bài thơ đã thể hiện một sức sống mãnh liệt đang trào
dâng, sức sống của dân tộc đã từng chiến thắng quân thù và đang xây dựng
cuộc sống của mình. Bài thơ quả đã vươn lên đến cái tầm của thời đại, chứ
không bó hẹp trong sự thưởng thức phong cảnh thuần túy. Lòng yêu cảnh vật
thiên nhiên và lòng yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc thường có sự hòa lẫn
với nhau như vậv. Một ngọn núi, một dòng sông dưới con mắt nhà thơ
thường là những vật sống, có tâm hồn, có tình cảm. Núi Nam Công với hình
tượng con chim khổng lồ, giương đôi cánh rộng che chở cho “dân muôn họ”.
Hòn Song Ngư thì lại được miêu tả như bức trường thành mãi mãi chống đỡ
cho “cõi Nam minh” được bền vững. Đối với những cảnh trí có gắn với sự
kiện lịch sử, với chiến tích vẻ vang của cha ông, thì lòng tự hào dân tộc hầu
như bao hàm trong từng ý, từng câu của bài thơ. Bài “Bạch Đằng giang” là
một thí dụ:
“Leo lẻo doành xanh nước tựa dầu,
Trăm ngòi ngàn lạch chảy về chầu.
Rửa không thảy thảy thằng Ngô dại,
Giũ mọi lâng lâng khách Việt hầu.
Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó,
Nào hôn Ô Mã lạc loài đâu?
Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc,
Thong thả dầu ta bủa lưới câu.”
Lòng tự hào dân tộc tăng thêm với ý thức về một cuộc sống thanh bình
mà nhân dân ta đang xây dựng và đang gìn giữ. Ở đây quá khứ và hiện tại có
một mối quan hệ thật chặt chẽ.
Hồng Đức quốc âm thi tập có phần ngợi ca tổ quốc giàu đẹp, ngợi ca
cuộc sống thanh bình của dân tộc. Trong chùm thơ vịnh Năm canh, không khí
yên tĩnh của làng thôn thật nên thơ:
“Lầu treo cung nguyệt người êm giấc,
Đường quạnh nhà thôn cửa chặt cài.
Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm,
Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trời…”
(Canh hai)
Trong không khí đó, ánh trăng quen thuộc như càng tô điểm cho vẻ đẹp
thanh bình:
“Bâng khuâng kẻ mệt hồn thần nữ,
Phảng phất trời cao bóng tố nga.”
(Canh ba)
Có bài thơ còn vẽ lên bức tranh toàn cảnh về cuộc sống tươi vui của
một làng thôn:
“Chấp chảnh trời vừa mọc đầu tinh,
Ban khi trống một mới thu canh.
Đầu nhà khói tỏa long sương bạc,
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh.
Tuần điếm kia ai khua mõ cá,
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình.
Nhà nam nhà bắc đều no mặt,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
(Canh một)
Làng thôn dưới con mắt nhà thơ có thể bị thi vị hóa đi phần nào nhưng
chắc cũng có cơ sở hiện thực. Cảnh làng thôn như vậy khó mà tìm thấy trong
thơ văn các thế kỷ sau, khi mà chế độ phong kiến đã bước vào giai đoạn suy
vi.
Lòng tin tưởng và tự hào đối với cuộc sống đã đem lại cho nhà thơ một
cách nhìn lạc quan yêu đời. Thiên nhiên trong tập thơ lúc nào cũng đẹp đẽ,
tươi tắn. Mùa xuân là ngày hội của cỏ hoa, ong bướm nhưng cũng là ngày hội
của người.
“Đường hoa chấp chới tin ong dạo,
Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.
Ả Ngụy nàng Diêu khoe đẹp đẽ,
Người thơ khách rượu rộn mời khuyên.”
(Lại vịnh canh mùa xuân)
Mùa thu không phải chỉ là cảnh man mác trời mây, mà cũng có cái đặc
sắc:
“Xan xát vàng buông giậu cúc,
Phau phau bạc phất cờ lau.
Hòe pha khóm lục chim phơi ngọc,
Nguyệt dãi dòng trong cá hớp châu.”
(Vịnh cảnh mùa thu)
Đây là cảnh một xóm chài bên sông:
“Lụp xụp bên giang bảy tám nhà,
Trời thâu bóng ác dãi tha la.
Chan chan thuyền đỗ đầu ghềnh liễu,
San sát chài phơi cuối vụng hoa,
Pha khói chim về cây điểm phấn,
Thoáng dòng cá hớp nước tuôn là.
Có người đợi nguyệt chèo khoan gác,
Nước Thương lương một tiếng ca.”
(Ngư thôn tịch chiếu)
Bài thơ có thể sáng tác theo đề tài có sẵn, nhưng nếu không có sự
quan sát cuộc sống thì không thể nào sinh động như vậy.
Lòng lạc quan yêu đời đã khiến cho thơ hướng tới sức sống mạnh mẽ;
lấn át tất cả những cáí gì tàn tạ, tiêu điều:
“Thượng uyển, cúc tàn năm bảy lá,
La Phù, mai chiếng một hai bông.”
(Lại vịnh cảnh mùa đông)
Cúc tàn để mà mai nở là một qui luật của vạn vật, nhưng chỉ có ai yêu
đời mới thực sự để tâm đến điều đó. Cũng có khi bài thơ phát biểu về một qui
luật tuần hoàn của vũ trụ nhưng ý thơ lại tràn đầy niềm lạc quan đối với cuộc
đời:
“Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo,
Kìa kìa mai đã thức xuân nồng.”
(Vịnh cảnh mùa đông)
Bên cạnh chủ đề thiên nhiên, trong tập thơ Hồng Đức quốc âm cũng có
nhiều bài lấy đề tài ở những vấn đề xã hội. Nếu như tập thơ đã cho thấy cái
thế ổn định vững chắc của chế độ phong kiến đương thời, thì cũng có một số
bài thơ viết về đề tài xã hội lại phản ánh một xu thế mới đang nảy nở trong
lòng xã hội đó. Đã có những biểu hiện xa lạ với quan niệm chính thống.
Trước hết trong hàng ngũ kẻ sĩ đã có hiện tượng rút về ẩn dật, ca tụng lối
sống nhàn tản:
“Đường danh lợi biếng chôn chân,
Được thú thanh nhàn vuổn dưỡng thân.
Hán Sở mặc ai dầu dức lác,
Khểnh chân ngại bước áng phù vân.”
(Lạc tửu - bài 4)
Hiện tượng kẻ sĩ rút lui khỏi chốn quan trường, ca tụng lối sống ẩn dật
với ý nghĩa chống đối lại chế độ hiện tại thì phải đến thế kỷ thứ XVI mới xuất
hiện, nhưng thời này lẻ tẻ đã có kẻ sĩ muốn thoát vòng danh lợi.
Thời này lại có kiểu người chủ trương lối sống “có thì ăn mặc, có thì
chơi”, tìm thú vui trong chén rượu, tiếng đàn theo một nhân sinh quan hưởng
thụ:
“Chẳng gì hơn chén rượu dòng,
Thiên sầu tận thích kẻo buồn tong.
Tìm bạn thiết đi mời mọc,
Rủ người quen đến chác đong.
Lừng lẫy phú thơ hát hỏng,
Ấm thầm quyển sáo đàn đùng.
Chín mươi năm nữa dầu kia nọ,
Giải kết ai còn có tiếc tung.”
(Lạc tửu - bài 1)
Tập thơ cũng phản ánh những tệ nạn xã hội. Nào thói lừa đảo “mạt cưa
mướp đắng”; nào tệ cờ gian bạc lận. Nàng Hằng Nga nhí nhảnh thì tố cáo vị
Thượng đế vốn rất nghiêm khắc, đại diện cho đạo đức lễ giáo, nhưng lại có
hành động phi đạo đức:
“Thượng đế vốn hay nghiêm cấm đoán,
Có đêm lởm thởm đến phòng ta.”
(Hằng Nga nguyệt)
Thượng đế đã mất tôn nghiêm, thì hoàng thiên hậu thổ cũng bị lôi ra
làm trò đùa:
“Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.”
(Cây đánh đu)
Rồi đến Bà Banh, không rõ là thần hay là quỉ, nhưng nhất địhh là một
thứ công cụ để dọa nạt nhân dân, cũng bị mất thiêng trước tiếng cười mang
hơi hướng của một Hồ Xuân Hương sau này:
“Ấy rắp phất cờ trêu ghẹo tiểu,
Hay toan bốc gạo thử thung thầy.
Chẳng lên bảo điện ngồi thong thả,
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?”
(Tượng Bà Banh)
Chủ đề tình cảm lứa đôi cũng đã thấy xuất hiện trong tập thơ. Tuy lấy
đề tài trong truyền thuyết (như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, Ngưu lang Chức
nữ, nhưng chủ đề này lại là tiếng nói mới mẻ trong văn học. Các nhà thơ
chưa vươn tới quan điểm phê phán lễ giáo phong kiến, nhưng rõ ràng là có
sự rung cảm chân thành và lòng đồng tình sâu sắc đối với những mối tình
dang dở.
Những vấn đề xã hội được phản ánh trong tập thơ chắc là ở vào giai
đoạn chế độ phong kiến đã phát triển tới đỉnh điểm và đang chuyển mình để
nhanh chóng trượt dài xuống cái dốc suy thoái không bao giờ gượng lại
được.
Hồng Đức quốc âm thi tập là của nhiều tác giả và được sáng tác trong
một thời gian tương đối dài (suốt cả thời Lê Thánh tông), do đó mà tình trạng
không đều thấy thể hiện ở mặt hình thức nghệ thuật. Phải nhận rằng trong tập
thơ có rất nhiều bài non kém, thậm chí có những bài thơ thiếu tính nghệ thuật
(thường cũng là những bài nội dung sáo rỗng). Nhưng nhìn chung toàn tập
thơ thì vẫn tìm được những câu, những bài có chất lượng nghệ thuật nhất
định, thảng hoặc cũng có một số bài thơ có chất nghệ thuật cao.
Cũng như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, thể thơ chủ yếu trong
Hồng Đức quốc âm thi tập là thể thơ thất ngôn Hàn luật. Đây là một sự kế
thừa truyền thống của người đi trước, nhưng các nhà thơ thời này đã có
những cố gắng nhằm nâng cao hiệu quả nghệ thuật của loại thơ này… Câu
thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập đã uyển chuyển và linh hoạt. Có nhiều
bài thơ lưu loát gần như thơ thời cận đại. Thí dụ:
“Mai gầy liễu guộc cỏ le te,
Biết chạy đi đâu hỡi nắng hè?
Đậu lá võ vàng con bướm bướm,
Ấp cây gầy guộc cái ve ve.
Thốt chi kẻ đã nằm trên gác,
Thương một người còn lội dưới khe.
Càng điểm mây mưa càng lõi lục,
Hãy làm cho bõ khách màn the.”
(Lại vịnh nắng mùa hè – bài 1)
Lối đảo trang để nhấn mạnh ý thơ, làm nổi rõ hình tượng miêu tả:
“Hồng bay lựu, màn vây liễu,
Hương nức sen, bóng rợp hòe.
Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve.”
Lối điệp từ cũng khá tự nhiên, giàu sức biểu hiện:
- “Hay lòng thiếu nữ hay chăng chớ,
Biết sự nhân tình biết vững chăng?”
– “Cùng màu thắm ấy, màu phai ấy,
Mà chốn hơn phàn chốn kém phân.”
Rồi lối song điệp, lối buông lửng đều được các nhà thơ vận dụng khá
nhuần nhị.
Trong tập thơ có rất nhiều bài theo thể thất ngôn chen lục ngôn. Đây là
một thể thơ khá quen thuộc trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và sang
thế kỷ sau vẫn còn được nhiều nhà thơ vận dụng. Thể thơ thất ngôn chen lục
ngôn là kết qủa cuả sự tìm tòi sáng tạo của các nhà thơ đi trước (có lẽ ngay
từ lúc thể Hàn luật ra đời) trên cở sở kết hợp hai thể loại thất ngôn và lục
ngôn vốn có trong thơ ca Trung Quốc. Sự sáng tạo ra thể thơ thất ngôn chen
lục ngôn là biểu hiện của một khuynh hướng muốn thoát khỏi cấu trúc gò bó
và đơn điệu của luật Đường, để tìm về với một hình thức dân tộc, trong điều
kiện các thể thơ dân tộc chưa được đưa vào sáng tác văn học viết.
Trong Hồng Đức quốc âm thi tập nếu thể thơ Hàn luật đã đạt tới mức
linh hoạt, uyển chuyển thì thể thất ngôn chen lục ngôn cũng khá thành thục,
Có thể lấy vài thí dụ về thể thơ này.
– Câu lục ngôn là đoạn miêu tả (thực):
“Sơn thủy so xem chốn hữu tình,
Chừng đây mừng thấy lạ hòa thanh.
Dăng ngang biển chờn vờn lớn,
Cao chọc trời ngần ngật xanh.
Muôn kiếp chầu về đền Bắc cực,
Ngàn thu chống khỏe cõi Nam minh…”
(Song Ngư sơn)
Hình tượng trung tâm của bài thơ được miêu tả bằng câu lục ngôn, câu
thơ ngắn, mạch thơ nhanh, do dó mà nổi bật lên một cách rõ nét.
Câu lục ngôn ở đoạn bình luận (luận):
“Ngỡ thú vui là thú ở đâu,
Chẳng ngờ vui ở chốn chăng âu.
Chớ tham chợ dức nên rừng vắng,
Còn lụy trường ca biến bể sâu.
Chim khỏi lồng nên đắc thú,
Cây ngoài chậu mới tươi màu…”
(Hứng ngâm)
Hình tượng cây ngoài chậu, chim khỏi lồng thể hiện cái triết lý về quan
niệm sống tự do phóng túng, không chịu ràng buộc trong vòng danh lợi, là
trọng tâm của toàn bài thơ. Câu lục ngôn ở đây có tác dụng hướng sự chú ý
vào điểm trọng tâm ấy.
Có khi câu lục ngôn chiếm ưu thế trong toàn bài thơ và lời thơ gần với
lời nói hằng ngày. Điều đó đã mang lại nét đặc sắc riêng cho cả loại thơ miêu
tả cảnh vật cũng như loại diễn đạt tâm sự, tình cảm:
“Nơi gọi Bông, nơi gọi Nhược,
Hai bên góp làm Non Nước.
Đá chồng hòn thấp hòn cao,
Sóng trục lớp sau lớp trước.
Phật hư vô, cảnh thiếu thừa,
Khách danh lợi, buồm xuôi ngược,
Vẳng nghe trên gác boong boong,
Lẩn thẩn dưới chùa lần bước…”
Cảnh vật ở đây được “kể” bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng
không vì thế mà thiếu sức mạnh nghệ thuật.
Thơ diễn tả tâm sự thì như bài “Tự dật”:
“Không như có, có như không,
Miễn qua hạ, miễn lọn đông,
Phú quí cần câu Nghiêm tử,
Công danh con ngựa Tái ông.
Chữ thanh nhàn xem tựa ngọc,
Đường bôn tẩu nhẹ bằng lông.
(Thôi) miễn dài hơi náu tốt,
Thân riêng đã cậy có trời chung.”
Nhịp điệu câu lục ngôn rất linh hoạt. Chúng ta thường gặp những câu
nhịp 3/3 vốn không có trong thể thơ lục ngôn hoàn chỉnh. Nhịp 3/3 thường
gặp trong những câu thơ gồm hai vế có mối quan hệ hô ứng hoặc đối lập.
Nhịp 2/4 thì lại có quan hệ giải thích giữa hai vế (trong Hồng Đức quốc âm thi
tập không có câu lục ngôn nhịp 4/2 như ta đã gặp trong Quốc âm thi tập). Sự
phối hợp nhịp điệu giữa các câu lục ngôn trong một bài thơ có mang sắc thái
gợi tả khác nhau rất linh hoạt. Hãy lấy vài thí dụ:
Ngàn Tương / thuở rụng hạt mưa,
Lã chã / thâu đêm gió đưa
Trút tiếng vàng / cao lại thấp,
Rung cành ngọc / nhặt thì thưa…
(Tiêu Tương dạ vũ)
Cặp câu lục trên vào đề, diễn tả cái khung cảnh chung về mưa đêm,
câu thơ ngắt nhịp 2/4 làm cho mạch thơ dàn trải như mở rộng không gian của
bài thơ. Nhưng khi đi vào miêu tả tiếng mưa rơi cụ thể thì câu thơ đổi sang
nhịp 3/3, làm cho hơi thơ trở thành nhanh và mạnh, gây ấn tượng về tiếng
mưa rơi.
Trong bài “Tự dật” đã dẫn ở trên, màu sắc tình cảm trong thơ cũng có
sự biến hóa theo nhịp điệu của những cặp câu lục ngôn. Bài thơ thể hiện tư
tưởng hoài nghi công danh phú quí, chủ trương tìm về cuộc sống thanh nhàn.
Hai câu đầu nhịp 3/3:
“Không như có / có như không,
Miễn qua hạ / miễn lọn đông.”
Hơi thơ mạnh và nhanh, như tăng thêm tính chất khẳng định của một
quan niệm có màu sắc triết lý đối với cuộc sống. Hai câu tiếp theo nhịp 2/4:
“Phú quí / cần câu Nghiêm tử,
Công danh / con ngựa Tái ông.”
Mạch thơ bị ngắt chậm lại do sự phân bố chữ ở nhịp sau dài hơn, làm
cho ý thơ ngưng đọng lại.
Qua mấy thí dụ trên có thể nói rằng sự vận dụng thể lục ngôn trong các
bài thơ Hàn luật là xuất phát từ yêu cầu của bản thân nghệ thuật.
Hồng Đức quốc âm thi tập sử dụng từ ngữ khá điêu luyện. Một biểu
hiện đáng chú ý của nghệ thuật ngôn ngữ trong tập thơ là việc vận dụng vốn
từ lắp láy, một đặc sắc riêng của ngôn ngữ Việt. Lấy một vài thí dụ:
“Đường hoa chấp chới tin ong dạo,
Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.”
(Lại vịnh cảnh mùa xuân)
“Đâu lá võ vàng con bướm bướm,
Ấp cây gầy guộc cái ve ve.”
(Lại vịnh nắng mùa hè - bài 1)
“Bẻo lẻo câu thơ cũ rích,
Hê ha chén rượu hăng sì.”
(Tự thuật)
– “Lừng lẫy phú thơ hát hỏng,
Âm thầm quyển sáo đàn đùng.”
(Lọc tửu)
Cá biệt có mấy bài thơ cấu tạo hoàn toàn dựa trên cơ sở từ lấp láy. Thí
dụ bài “Ngư giang hiểu vọng”:
“Sông lồng lộng, nước mênh mênh,
Lườn lượn chèo qua, nép nép mình.
Gió hiu hiu, thuyền bé bé,
Mưa phún phún, nón kềnh kềnh.
Chuông chiền mỗi mỗi coong coong gióng,
Mõ xã lâu lâu cốc cốc lềnh
Bến liễu đâu đâu, tìm mộng mộng,
Đường về than thản, nguyệt chênh chênh.”
Trong tám câu thơ mà có tới 16 cụm từ lấp láy thì quả là một hiện
tượng ít thấy. Trong bài thơ, từ nào cũng có sắc thái gợi cảm mạnh mẽ, làm
cho sự nhận thức hình tượng thơ thêm sâu. Chi tiết nào cũng cụ thể, sinh
động, chi tiết nào cũng lung linh, uyển chuyển. Ý thơ vừa cô đọng lại vừa dàn
trải, gây một cảm giác như đứng trước cái cảnh vừa xa, vừa gần, nửa hư,
nửa thực.
Hồng Đức quốc âm thi tập còn cho thấy sự phong phú, đa dạng về
phong cách và bút pháp. Tính ước lệ tượng trưng là phổ biến, nhưng lại cũng
có xu hướng tả thực. Có những bức tranh chấm phá theo lối thủy mạc mà lại
cũng có những bức tranh phong phú các chi tiết cụ thể sinh động của đời
sống; có những tình cảm nhẹ nhàng, ủy mị mà lại cũng có những tâm sự
chua chát, những thái độ khinh bạc, phóng túng; có những lời thù phụng, tán
dương mà lại cũng có những tiếng cười hài hước trào lộng…
Mặc dầu có những mặt hạn chế, Hồng Đức quốc âm thi tập cũng mang
niềm tự hào về đất nước, về dân tộc. Hồng Đức quốc âm thi tập đã đánh dấu
một bước tiến rõ rệt của văn học nôm, đặc biệt là về phương diện rèn giũa và
nâng cao khả năng biểu hiện của ngôn ngữ văn học dân tộc.
Bên cạnh Hồng Đức quốc âm thi tập, cũng cần chú ý đến một tác phẩm
biền văn có giá trị: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn.
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (Mười bài văn viết bằng ngôn ngữ nước
ta để răn các cô hồn) được chép trong Thiên nam dư hạ tập (tập 6).
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết theo thể văn biền ngẫu, không có
vần. Tất cả gồm 11 đoạn, trừ đoạn mở đầu, còn lại mỗi đoạn là một điều răn
(nói đúng hơn là một lời phẩm bình) về một loại cô hồn, cũng tức là một loại
người nào đó trong xã hội. Mười loại người được “răn” trong tác phẩm này là:
thứ nhất, thiền tàng; thứ hai, đạo sĩ; thứ ba, quan liêu; thứ tư, nho sĩ; thứ
năm, thiên văn địa lý; thứ sáu, lương y; thứ bảy, tướng quân; thứ tám, hoa
nương (gái điếm); thứ chín, thương cổ (nhà buôn); thứ mười, đảng tử (thanh
niên ăn chơi lêu lỏng). Cuối mỗi bài “răn” có kèm theo một bài kệ theo thể thơ
thất ngôn hoặc thất ngôn chen lục ngôn.
Cũng như Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn
không có tên tác giả. Nhiều nhà nghiên cứu gần đây có xu hướng cho là Lê
Thánh tông đã viết tác phẩm này. Có ba lý do để đoán định tác phẩm này là
của Lê Thánh tông: một là xét về nội dung tư tưởng của tác phẩm thì thấy có
sự phù hợp với tư tưởng của Lê Thánh tông, như coi trọng quan liêu nho sĩ,
coi thường tăng lữ, đạo sĩ, thương nhân; hai là lời văn cân nhắc, gọt rũa và
có nhiều điển cố uyên bác phù hợp với bút pháp của Lê Thánh tông; ba là
giọng răn đời, răn đủ các hạng người kể cả “quan liêu” và “tướng quân” ở tác
phẩm này là giọng văn của một người tự đặt mình ở trên tất cả mọi người,
của một ông vua rất tự đắc và hay dạy đời như Lê Thánh tông.
Khuynh hướng tư tưởng của tác giả Thập giới cô hồn quốc ngữ văn thể
hiện khá rõ qua các đoạn văn miêu tả cũng như những lời phẩm bình. Quan
điểm khen chê của tác giả là dựa vào tiêu chuẩn đạc đức phong kiến, vào lợi
ích của chế độ phong kiến. Đối với những người làm ăn theo kiểu lừa bịp bất
chính, gieo rắc nọc độc mê tín dị đoan hoặc hạng người chuyên sống bằng lối
ăn bám, phá hoại thuần phong mỹ tục của xã hội thì sự đã kích phê phán có
phần gần với quan điểm của nhân dân. Tuy nhiên tác phẩm này không chỉ bó
hẹp ở ý đồ khen chê, ở sự than tiếc cho hạng người này và sự mỉa mai giễu
cợt hoặc thẳng tay đả kích vào hạng người khác. Những vấn đề mà tác phẩm
trình bày đã đụng đến nhiều mặt khá bản chất của xã hội đương thời.
Qua Thập giới cô hồn quốc ngữ văn ta thấy được cơ cấu các tầng lớp
xã hội đời Lê Thánh tông và cũng là của xã hội phong kiến quan liêu tập
quyền nói chung. Một câu hỏi đặt ra là tại sao trong bài văn này lại vắng mặt
nông dân và thợ thủ công là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội phong kiến?
Có lẽ vì vấn đề xã hội mà tác giả quan tâm nhiều không phải là ở hai hạng
người đó. Thời Lê Thánh tông đời sống của nông dân vẫn còn ổn định, và
điều đó đã cho phép Lê Thánh tông tự hào:
“Thái bình hưởng mãi dân vui vẻ,
Hơn bốn mươi năm sống dễ dàng.”
(Thơ chữ Hán: An Bang phong thổ)
Với những chính sách cai trị còn tương đối tích cực, đặc biệt là những
chính sách về kinh tế có chiếu cố đến quyền lợi của nhân dân. Cho nên điều
mà kẻ đại diện của giai cấp phong kiến quan tâm chưa phải là đối phó với các
phong trào nhân dân, mà là làm thế nào để “thuần khiết hóa” xã hội phong
kiến. Điều mà giai cấp phong kiến thống trị lo ngại là sự xuất hiện ngày càng
rõ những xu thế mới có thể làm lỏng lẻo trật tự phong kiến, đặc biệt là có thể
gây tác dụng ngược chiều đối với lễ giáo. Mặt khác giai cấp thống trị còn rất
tự tin ở sức mạnh của chế độ và còn thấy ở Nho giáo một chỗ dựa vững chắc
về mặt tinh thần.
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn đã chọn mười loại người để thể hiện
những vấn đề xã hội mà giai cấp phong kiến thống trị quan tâm. Người cầm
bút không xuất phát từ một cảm hứng nhân đạo mà là từ nhãn quan chính trị,
từ đạo đức phong kiến. Có ba hạng người được đề cao. Đó là quan liêu,
tướng quân và nho sĩ. Ca ngợi ba hạng người này thực chất là biểu dương
sức mạnh của chế độ phong kiến.
Vai trò của quan liêu được đánh giá rất cạo:
“Vào thì làm rường, làm cột, khỏe chống miếu đường.
Ra thì nên ải, nên thành, bền che phiên trấn.”
Do đó Nhả nước phong kiến cũng dành cho họ sự biệt đãi khác
thường:
“Chĩnh chện áo dài đai rộng,
Nghênh ngang đòng cả mác dài.”
“Xe kên kết, ngựa nhanh nhanh, dạo cáng tía bồi bội đỏ:
Áo phê phê, khăn dội dội, che dù đen ngăn ngắt xanh.”
“Vinh hoa lợp thế,
Công nghiệp hơn người.”
Võ tướng (tướng quân) thời này cũng có nhiều cơ hội để phát huy vai
trò nanh vuốt của chế độ:
“Vào hàng trận xông pha mấy phát, mình ngại chi cầm thuẫn,
cầm đòng,
Nằm sa trường lạnh lẽo nhiều thu, tai hằng mảng tiếng kèn, tiếng
giốc.”
“Thề lòng trả nợ quân vương, trỏ trời vạch đất;
Hết sức say nghề chiến phạt, vì nước quên nhà.”
Còn nho sĩ thì là đội hậu bị đông đảo sẽ bổ sung vào bộ máy quan liêu.
Họ kham khổ học tập để qua khoa cử mà ra phục vụ cho Nhà nước phong
kiến:
“Sách đối đan trì, văn choi chói gấm trên bà ngựa,
Tên bày kim bảng, tiếng ầm ầm dậy dưới đất bằng.”
Họ sẽ có điều kiện để thực hiện hoài bão:
“Ruổi dặm dài quyết chí côn bằng,
Giúp đời trị mừng điểm lân phượng.”
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn còn cho thấy trong lòng xã hội phong
kiến thời này đã có những hạng người ít chịu ràng buộc bởi những tư tưởng
và đạo đức chính thống. Tiêu biểu cho thế lực mới này là hạng “thương cổ”
(nhà buôn). Tình hình ổn định của xã hội đã tạo điều kiện cho họ có thể “dạo
khắp sơn xuyên dã huyện, thông thâu hồ hải giang khê” để làm ăn buôn bán.
Để kinh doanh, họ có lúc còn vượt ra ngoài biên giới. Họ chẳng những buôn
bán trên đất liền mà còn dám “vượt biển cả” đi đây đi đó:
“Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, bụi an tức, bị hồ tiêu, thau Lào, thóc
Huế, thuyền tám tầm chở đã vơi then;
Lụa ngũ sắc, vải tam lăng, vóc tố lĩnh, bả gấm chiên, quyến Thục,
giấy Ngô, phố năm gian chất hầu đẫy nóc.”
Con buôn thời này cũng chạy theo lợi nhuận đến mức liều lĩnh táo bạo,
bất chấp luật lệ:
“Qua ải buôn cấm vật đem về, ngọc hột trai, châu cửu khúc;
Tới chợ lẻ thăng bằng hòa lắc (nhắc), bạc chân rết, vàng thập
thành.”
Nguồn gốc của sự giàu có ấy là lối làm ăn “lừa đảo”. Bài văn thể hiện
khá sinh động lối làm ăn buôn bán kiểu con buôn:
“Lòng mối tính toan đường vặt vãnh,
Lưỡi lằn khéo léo thốt văn hoa.
Của phi nghĩa làm nên rắp nước,
Lòng bất nhân truyền để làm ca.
Lừa đảo so xem nào có khác,
Người ta lại bán được người ta.”
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn lại còn phản ánh những tệ nạn xã hội
qua việc miêu tả “giới hoa nương” và “giới đãng tử”.
Bài “Giới đãng tử” phê phán loại người đua đòi ăn chơi, hư hỏng về mặt
đạo đức. Tác giả miêu tả tỉ mỉ lối ăn diện xa hoa đến lố lăng của chúng:
“Mũ láng xanh cắt dáng quả cam, mịn bằng như chuốt,
Túi đại hồng đựng xâu trái táo, tròn tựa như vỏ.
Áo kẻ phải dáng Đông kinh,
Tóc búi học người Bắc quốc.
Khăn cuốn bông cúc,
Quần nhuộm cải hoa…”
Rồi nào “Quạt Đông Phiến”, nào “lược Thu Cầu”, nào “khoét móng
chân”, “nhổ lông mũi”, mỗi chi tiết đều cho thấy cái chất đua đòi đã đến mức
“chướng tai gai mắt”. Bọn vô công, rổi nghề lao vào cuộc ăn chơi trụy lạc:
“Nghề thơ, nghề văn, bẻ bai cách “Bắc phong tùng”
Đàn sắt, đàn hồ, trầm bổng xướng “Tây hà liễu”.
Vây làm đàn gà chọi chó săn,
Đua đòi xóm chim buông khướu hót.”
và tất nhiên là chơi bời thì đi đôi với trác táng:
“Thăm tìm quán khách, chơi bời dại nguyệt dại hoa,
Đủng đỉnh cầu đinh, lơ lửng đứng đường đứng sá.”
Tác giả chẳng những phê phán thói ăn chơi của bọn đãng tử mà còn tỏ
ra khinh bỉ, cho là hạng thô lậu học đòi:
“Ăn cà cuống, lầm phải bọ hung,
Uống rượu thiêu, lạc bằng nước lã.”
Song song với tệ nạn thanh niên du đãng, trụy lạc ở thành thị, còn có
loại hoa nương (gái điếm) đã xuất hiện đông đảo đến mức Thập giới cô hồn
quốc ngữ văn phải xếp các ả vào một hạng người trong xã hội cần phải “răn”.
Bài “Giới hoa nương” miêu tả rất sinh động cuộc sống trụy lạc và những
mánh khóe làm ăn của loại người này. Hoa nương không rõ xuất hiện từ lúc
nào, nhưng đến thời này đã biểu hiện đầy đủ bản chất trụy lạc và sa đọa. Đặc
biệt là bài Giới hoa nương không những chỉ miêu tả lối ăn diện trau chuốt, làm
dáng làm điệu của các ả, mà còn cho thấy cả cái nghề nghiệp “đưa người
cửa trước, rước người trước sau” nữa:
“Quấn quít sự anh sự ả;
Dập dìu tin bướm tin ong.
Làm bạn gửi, lấy chồng quyên, xụt xịt rằng tôi thương, tôi thảm,
Đưa người lâu, rước khách mới, bẻo lẻo chào anh ngược, anh
xuôi.”
Và đã bước chân vào nghề nghiệp ấy thì không thể còn giữ được bản
chất lương thiện, chất phác nữa. Họ cũng đủ mánh khóe để có thể sống được
trong hoàn cảnh “làm bạn gửi, lấy chồng quyên” ấy:
“Miệng thốt cười cợt nhợt, dạ biến đổi tơi bời.”
“Ân ái vờ, nhân nghĩa cây vối, châu đã đằm đằm,
Nước mắt gừng, tâm sự xôi chiêm, suối đà lã chã.”
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn phê phán, thậm chí “nhiếc mắng” họ,
nhưng không thấy rằng họ cũng là một thứ nạn nhân của xã hội khác với
thiền tăng, đạo sĩ, thầy phong thủy, thầy lang băm.
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn đã mỉa mai một cách sâu sắc và đích
đáng hơn thiền tăng, đạo sĩ, thầy địa lý, thầy lang băm.
Thiền tăng có cái vẻ chân tu bề ngoài, nhưng bên trong thì lại “chưa
sạch mọi lòng nhẫn nhục”. Thầy thiên văn địa lý chuyên cái nghề “khen huyệt
lành”, “chê đất xấu” để kiếm ăn bằng lối lừa đảo:
“Những nói dữ lành rằng bởi đất,
Đất nào hay cãi được người ta?”
Nghề thầy thuốc có lẽ là nghề ít nhiều có ích cho xã hội. Nhưng trong
đám thầy thuốc ngày xưa, lương y thì hiếm mà lang băm thì nhiều. Bài “Giới
lương y” phê phán họ ở cái lối “gia giảm lỗi phương”, thực chất cũng là một lối
làm ăn gian dối, vô trách nhiệm.
Nhìn chung, tuy tác giả đã từ quan điểm của lễ giáo mà xem xét các
hạng người trong xã hội, nhưng cũng đã phản ánh được khá trung thực lối
sống và tính cách của họ, và nhiều khi việc phê phán những tệ lậu của xã hội
cũng có ý nghĩa tích cực.
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết theo thể biền ngẫu có nhiều điển cố
cầu kỳ. Tuy vậy, nhìn chung thì Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là một áng
văn giàu hình tượng, giàu nhạc tính, nhiều khi khá cụ thể và sinh động. Đây là
y phục của “hoa nương”:
“Biếc búp dong, tía dọc ráy, yếm chéo cánh, cạnh thêu;
Lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống giang chân, thắt đáy.”
Và đây là lối học làm sang của bọn đãng tử:
“Ăn cà cuống, lầm phải bọ hung,
Uống rượu thiêu, lạc bằng nước lã.
Đánh cờ mo, bàn chiếu, đi nước vịt nằm,
Đá cầu chuối, mâm rơm, gánh chân chó đái.”
Tác phẩm lại thường sử dụng lối ví von tiếp thu từ ngôn ngữ dân gian.
Những cách diễn đạt so sánh như “mèo thấy mỡ”, “kiến sa dầu”, “thuộc như
chác chín”, “mặt tựa ma trơi”, “mịn… như chuốt”, “tròn… như vò” v.v… đều có
nguồn gốc ở lời ăn tiếng nói của nhân dân. Có khi lời thơ lại mang dáng dấp
của ca dao:
“Những nói dữ lành rằng bởi đất,
Đất nào hãy cãi được người ta.
Có khi chỉ qua vài nét sắc sảo mà tinh tế, tác giả đã thể hiện được đặc
điểm của một loại người. Ả hoa nương thì hay làm dáng làm điệu:
“Tiếng thốt ẽo à, ẽo ợt,
Nết làm chuộng quí, chuộng thanh…
Đi ngoay ngoảy đường đầu rối hát,
Dồi nhếch nhác tựa mặt ma trơi…”
Gã đãng tử thì lêu lổng:
“Mặt mũi vẻ vang,
Chân tay dún dẩy.
Dưới khóm trúc mím môi thổi ống,
Trên đường hòe nghểnh cổ bắn cung.”
Nhìn chung thì từ ngữ, hình tượng, kết cấu của Thập giới cô hồn quốc
ngữ văn rất chặt chẽ, tinh tế và thể hiện một ý thức thận trọng trong việc rèn
giũa lời văn, phát huy thể tài.
Qua Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, ngôn ngữ văn học dân tộc đã thể
hiện khả năng to lớn trong việc phản ánh đời sống phong phú và đa dạng của
một xã hội ngày càng phức tạp hơn.
VIII. NHỮNG TÁC GIẢ TIÊU BlỂU VÀ LÊ THÁNH TÔNG
Văn học nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV phát triển trong hoàn cảnh hòa
bình, khi chế độ phong kiến quan liêu được củng cố. Vấn đề trung tâm của
văn học cung đình là phản ánh bộ mặt “thịnh trị” của xã hội ấy. Lê Thánh tông
và các triều thần đã sáng tác theo tinh thần ấy. Tuy nhiên, vượt ra ngoài
khuôn khổ quan phương như thế có một số tác giả đã có những nét độc đáo.
Tác phẩm của Lê Thánh tông và các triều thần phần lớn được chép
trong Thiên nam dư hạ tập. Người sáng tác nhiều nhất là Lê Thánh tông. Các
triều thần (trong và ngoài Hội Tao đàn) thường có những bài họa thơ nhà vua.
Văn thần thường được xướng họa với vua là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận,
Đào Cử, Lương Thế Vinh, Lê Tuấn Ngạn, Phạm Phúc Chiêu, Vũ Dương,
Đàm Thận Huy, Nguyễn Ích Tốn.
Trước khi tìm hiểu thơ văn Lê Thánh tông và hội Tao đàn cũng cần
phải điểm qua những tác giả có thi tập riêng. Đáng chú ý nhất là năm tác giả:
Nguyễn Trực, Nguyễn Bảo, Thái Thuận, Vương Sư Ba, Đàm Văn Lễ.
Nguyễn Trực (1417 - 1473), tên tự là Công Dĩnh, có tiếng học giỏi từ
thuở nhỏ, 18 tuổi đậu thi hương ở Sơn Tây, 26 tuổi đậu trạng nguyên (năm
1442 đời Lê Thái tông). Lê Quí Đôn cho biết rằng đối đáp với sứ thần nhà
Minh là Hoàng Gián, ông đã “một lúc họa xong 50 vần thơ lưu biệt, giữ được
thể diện cho nước (Kiến văn tiểu lục – Tài phẩm). Truyền thuyết thì kể rằng
làm bồi thần đi sứ, nhân gặp khoa thi ở Trung Quốc, ông cũng xin thi, lại đỗ
trạng nguyên cho nên người đời gọi ông là Trạng nguyên hai nước. Ông làm
quan dưới hai triều Nhân tông và Thánh tông đến chức Tuyên phụng đại phu,
Trung thư lệnh, coi việc tam quán. Khi Nhân tông bị Lạng Sơn vương Nghi
Dân giết, ông cáo bệnh xin về. Đến đời Lê Thánh tông, ông lại được vời ra,
mấy lần ông xin về trí sĩ mà không được. Nguyễn Trực là một văn thần được
bình thơ văn Lê Thánh tông trước khi có hội Tao đàn. Tác phẩm của ông có
Hu Liêu tập và Ngu nhàn tập, hiện nay đã thất lạc, chỉ còn lại một đôi bài.
Qua các bài thơ còn lại, thấy biểu hiện một thái độ dửng dưng với công
danh phú quí, luôn luôn ước mơ một cuộc sống điền viên bình dị:
“Hà nhật Tây sơn sơn hạ lộ,
Thoa y tiểu lạp khán xuân canh,”
(Thơ chữ Hán: Ngẫu thành)
(Chưa biết ngày nào trên đường di dưới núi Tây
Mang áo tơi, đội nón lá, đi xem cày ruộng mùa xuân.)
Tâm Sự ấy vốn là nét chung của các nhà thơ có bất bình trong chốn
hoạn đồ, nhất là khi mà chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy vi. Nguyễn
Trực sống vào lúc chế độ phong kiến đang còn thịnh. Tuy nhiên, trước đời Lê
Thánh tông, nội bộ giai cấp phong kiến có nhiều mâu thuẫn. Các tập đoàn âm
mưu khuynh loát lẫn nhau, do đó nhiều người lương thiện bị vạ lây. Nguyễn
Trực phản ánh nỗi ngán ngẩm đến kinh sợ trước thực tế đó:
“Đại đình tằng đối tam thiên tự,
Phù thế hư kinh ngũ thập niên.”
(Thơ chữ Hán: Bính tuất ngẫu thành)
(Trước sân nhà vua từng làm bài văn ba ngàn chữ,
Cuộc đời trải đã năm mươi năm nghĩ lại mà giật mình)
Nỗi kinh sợ cho cuộc đời đôi lúc đã đưa nhà thơ tìm đến với thiên
nhiên. Trong bài thơ chữ Hán “Đề chùa Cực Lạc”, một ngôi chùa “cao chót vót
ở trên mây” ông viết:
“Địa viễn phi trần thiểu,
Sơn cao đắc nguyệt đa,”
(Thơ chữ Hán: Đề Cực Lạc tự)
(Xa đất nên bụi ít,
Trên cao được trăng nhiều)
Cảnh ít bụi nhiều trăng thích hợp với vị trí của một ngôi chùa, nhưng
cũng lại phù hợp với tâm sự của nhà thơ đang muốn thoát ra khỏi đám bụi
đời, tìm về với thiên nhiên cao rộng, thả tâm hồn theo ánh trăng làn gió.
Tâm sự xa lánh bụi đời ấy cũng đã đưa nhà nho Nguyễn Trực đến với
những suy tư nhuốm mùi tông giáo. Trong bài thơ chữ Hán “Đăng Hương Lô
sơn tự”, ông suy nghĩ như một tín đồ nhà Phật:
“Diệu kế tam sinh mộng,
Do tồn nhất lũ yên.
Du mục phù vân ngoại,
Mang mang thị đại thiên.”
(Khéo phảng phất như giấc mộng ba sinh,
Hãy còn một làn khói nhỏ như sợi dây.
Đưa mắt nhìn ngoài đám mây nổi,
Mênh mênh, mang mang tưởng thấy cả một thế giới đại thiên)
Thơ Nguyễn Trực rõ ràng là có tính chất phóng khoáng vượt ra khỏi
khuyên sáo chung thơ văn đời Hồng Đức.
Nguyễn Bảo (?–?), hiệu là Châu Khê, người làng Phương Lai, huyện
Vũ Tiên (Thái Bình), đỗ tiến sĩ năm 1472, niên hiệu Hồng Đức thứ 3 được vua
cho làm chức Tả tư giản ở Đông các, dạy thái tử học, sau được thăng Lễ bộ
thượng thư. Nguyễn Trực chấm bài thi của ông đã khen rằng: “Từ nay về sau,
nghĩa lý trong kinh sách thánh hiền ký thác vào ông cả” (Lê Quí Đôn dẫn trong
Kiến văn tiêu lục – Tài phẩm). Tác phẩm của ông là Châu Khê tập, do học trò
sưu tập và biên soạn sau khi ông mất. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến
chương loại chí (Văn tịch chí) khen thơ ông “giản dị, trọng hậu, có khí cốt”.
Thơ Nguyễn Bảo có nhiều bài miêu tả cuộc sống của nhân dân. Bài
“Ngày xuân tức sự” có lẽ được viết từ lúc ông còn là một người học trò học ở
chùa, tay ôm sách mà lòng vẫn để nơi đồng ruộng:
“Dã tự tiêu điều ký sổ duyên,
Nhập xuân phong cảnh khước du nhiên.
Vịnh khô tùy ý giai tiền thảo,
Nồng đạm đa tình, thụ ngoại yên.
Bán tích bán phì, nan chủng địa,
Bất hàn bất noãn, dục hoa thiên.
Ủng thư sàng thượng văn đề quyết,
Dục phỏng thôn ông học dưỡng điền.”
(Thơ chữ Hán: Xuân nhật tức sự)
(Trọ mái chùa hoang giữa cánh đồng,
Xuân sang mà cảnh vẫn buồn không!
Cỏ lan thềm trước tươi và héo.
Khói tỏa cây xa nhạc lại nồng.
Đất xấu khó trồng nên ruộng lúa,
Trời êm như muốn nảy mùa bông.
Ngôi ôm dống sách nghe chim giục,
Làm ruộng toan tim hỏi lão nông.
Nguyễn Bảo thưởng xuân với con mắt của người am hiểu và quan tâm
đến công việc đồng áng. Cảnh vật không thể nào tươi vui. được, dù là đang
giữa mùa xuân, khi mà sản xuất sút kém. Bài thơ rung động người đọc không
chỉ ở hình tượng miêu tả mà có lẽ trước hết là ở chiều sâu của cảm xúc, ở
tấm lòng của tác giả.
Trong một bài thơ khác, tác giả đã phác họa một bức tranh quê hết sức
cụ thể và sinh động. Cũng cảnh mùa xuân, cũng với sự quan tâm đến công
việc ruộng vườn, nhưng ở đây tình cảm của tác giả lại dạt dào niềm vui vì
mùa màng có nhiều hứa hẹn:
“Ám vân mạc mạc vũ phi phi,
Bỉnh lỗi khu ngưu trước đoản
Ấu phụ thì qua xâm hiểu khứ,
Lão cô sừ đậu hướng bô qui.
Li biên ế ế giá miêu trưởng
Thảo lý thanh thanh vu diệp hi.
Tưởng đắc điền viên chân lạc thú,
Tuy phi hành bí diệc vong ky.”
(Thơ chữ Hán: Trừng Mại thôn xuân văn)
(Phân phất mưa phùn sẩm sẩm mây,
Mặc manh áo ngắn giục trâu cày.
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó,
Bà lão chiều còn xới đậu đây.
Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn,
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây.
Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây)
Niềm vui của nhà thơ đã hòa cùng niềm vui của người nông dân. Bài
thơ còn cho thấy một tình cảm gắn bó với làng quê, với cuộc sống nơi thôn dã
của một người có thể sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi danh để trở về với luống
khoai, khóm mía, bãi đậu, vườn dâu dể cho tâm hồn thư thái. Và tình cảm
quê hương của ông thật là thắm thiết:
“Mạc mạc vân sơn nhập mộng đa,
Mỗi phùng tuế án bội tư gia.”
(Thơ chữ Hán: Tuế mộ thuật hoài)
(Non quê thường mộng góc trời xa,
Năm cuối càng thêm nỗi nhớ nhà.)
Thơ Nguyễn Bảo thể hiện một phong cách bình dị. Các chi tiết miêu tả
đều cụ thể, sinh động, giữ nguyên vẻ chất phác hồn nhiên của đời sống.
Cảnh vật và con người trong thơ ông mang đậm nét của hình ảnh nông thôn
quen thuộc; tình cảm thơ ông cũng là tình cảm của con người gắn bó với làng
mạc, ruộng dồng. Thơ ông vì thế mà có màu sắc dân tộc đậm đà ít thấy ở
những tác giả khác cùng thời.
Thái Thuận (1440 –?), tự là Nghĩa Hòa, hiệu là Lục Khê, biệt hiệu Lữ
Đường, người làng Liễu Tràng, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành,
Hà Bắc). Xuất thân con nhà thường dân, có lúc đã làm lính dạy voi, về sau
ông đi học thi đỗ tiến sĩ (năm 1475 dưới triều Lê Thánh tông) được bổ làm
chức Hàn lâm hiệu lý, kiêm tham chính Hải Dương. Thái Thuận còn là hội
viên Tao đàn và được vua cho làm phó nguyên soái Tao đàn. Tác phẩm của
ông là Lữ Đường thi cáo gồm 4 quyển, do con trai và học trò sưu tập biên
soạn sau khi ông mất. Lê Quí Đôn bàn về thơ ông cho rằng “sau tập thơ Giới
Hiên của Nguyễn Trung Ngạn, ít có thể văn ấy”. Ông gần với Nguyễn Bảo về
mặt phong cách và sự am hiểu nông thôn. Đọc thơ ông, ta thường gặp những
tứ thơ bất ngờ. Trong bài “Hoàng giang tức sự”, ông miêu tả cảnh ở bến
sông:
“Mao xá nhân yên lý,
Cô chu tiểu bạc thì
Thôn đồng tam tứ bối,
Duyên thủy mịch bành kỳ.”
(Thơ chữ Hán: Hoàng giang tức sự)
(Nhà cỏ tuôn làn khói,
Thuyền con ghé mái bồng.
Trẻ em năm bảy tốp,
Bắt cáy dọc ven sông.)
Hình tượng trẻ em bắt cáy chẳng những thể hiện sự quan tâm cửa nhà
thơ đối với cuộc sống mà còn làm cho bài thơ tưởng chừng như sắp rơi vào
lối miêu tả ước lệ bỗng bừng sáng lên với những chi tiết cụ thể sinh động.
- Lối cấu tứ độc đáo ấy còn gặp ở bài “Sông Muộn giang”:
“Bình phố thừa triều thướng;
Nông nhân sấn hiểu canh.
Hát ngưu phi bạch điểu,
Phong ngoại lưỡng tam thanh.”
(Thơ chữ Hán: Muộn giang)
(Bãi phẳng triều lên ngập,
Nhà nông sớm vội cày.
Vắt trâu nghe mấy tiếng,
Cò trắng giật mình bay.)
Thơ Thái Thuận giản dị, nhưng tứ thơ bao giờ cũng có những nét sáng
tạo. Cảnh vật dưới con mắt nhà thơ dường như cũng có tâm hồn và giàu cảm
xúc:
“Giang lưu thế dữ sơn tranh viễn,
Thiên khi sầu kiêm hải cộng hàn.”
(Thơ chữ Hán: Nghệ An chu trung).
(Sông chảy tranh nhau với núi đi xa mải,
Khí trời cùng biển lạnh đều có vẻ buồn.)
hoặc:
“Phù dạ chung qui hải,
Hàm thu nguyệt trụy giang. “
(Thơ chữ Hán: Pha Lại tự)
(Chuông tối vang ra biển,
Trăng thu rớt giữa dòng.)
Thơ Thái Thuận giàu chất hiện thực mà cũng đậm đà ý vị trữ tình. Bài
“Chinh phụ ngâm” viết về một đề tài có tính chất truyền thống trong văn học
cổ phương Đông, nhưng xúc cảm của nhà thơ thì lại hết sức chân thành và
sâu sắc. Nhà thơ như “nhập thân” vào cảnh ngộ của nhân vật chinh phụ:
“Đình thảo thành khoa liễu hựu ti,
Chinh phu hà nhật thị qui kỳ?
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ,
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì,
Tái bắc vân trường cô nhạn ảnh,
Giang nam xuân tận lão nga mi.
Tạc lại kỷ độ tương tư mộng,
Tầng đáo quân biên, tri bất tri?”
(Thơ chữ Hán: Chinh phụ ngâm)
(Cỏ tốt đầy sân liễu rủ mành.
Ngày nào về hỡi! kẻ tòng chinh?
Rèm thưa lòng não, trăng tàn bóng,
Gối lạnh châu tràn, cuốc gọi canh.
Ải bắc mây bay con nhạn lẻ,
Giang nam xuân hết nét ngài xanh.
Tương tư mấy độ đêm thường mộng,
Có thấu tình chăng, anh hỡi anh?)
Chất trữ tình pha chút ý vị trào lộng khi nhà thơ nói về mình:
“Thượng uyển điên cuồng liên hí điệp,
Cố sơn qui khứ phụ đề quyên.
Thê nô do vị hiềm năng ẩm,
Thì biện nang trung mãi tửu tiền.”
(Thơ chữ Hán: Trường An xuân mộ)
(Quay cuồng vườn uyển thương thân bướm,
Khắc khoải quê nhà phụ tiếng quyên.
Vợ chẳng hiềm ta hay quá chén,
Luôn luôn trong túi sẵn dành tiền.)
Thơ Thái Thuận bình dị, không màu mè hoa mỹ. Tư thơ độc đáo tân kỳ,
phóng khoáng, giàu chất hiện thực, nhưng cũng đậm đà ý vị trữ tình, đó là
đặc điểm của thơ Thái Thuận. Với thành tựu ấy, ông đã vượt lên trên nhiều
tác giả đương thời.
Vương Sư Bá (?–?) tự là Trọng Khuông, hiệu là Nham Khê, người làng
Đồng Yên (nay thuộc huyện Khoái Châu, Hải Hưng), làm tri phủ trong khoảng
niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469). Tác phẩm của ông là Nham Khê thi tập
gồm 8 quyển. Theo Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí – Văn tịch
chí) thì ông “chuộng thể cách văn Đường”. Nhận xét của Phan Huy Chú có lẽ
đúng ở chỗ thơ Vương Sư Bá dồi dào cảm xúc thiên nhiên. Chính nhà thơ đã
tự trào về điều đó:
“Lục phát như kim tuyết bán xâm,
Khổ vị oanh hoa thiên ái tích.”
(Thơ chữ Hán: Tự trào)
(Mái tóc xanh ngày nay, sương tuyết đã xâm phạm đến nửa
Khổ vì nỗi quá yêu đương thương tiếc oanh vàng và hoa đẹp)
Trong thơ ông, ta gáp những bức tranh nho nhỏ với vẻ đẹp kín đáo nhẹ
nhàng:
“Tà nguyệt nhất ngân liêm bán quyển,
Lưu huỳnh sổ điểm độ phương trì.”
(Thơ chữ Hán: Thu dạ)
(Bức mành nửa cuốn vành trăng xế,
Đom đóm qua ao bóng lập lòe).
Vương Sư Bá yêu thiên nhiên tạo vật không chỉ vì vẻ đẹp quyến rũ của
nó, ông còn tìm thấy ở đó một sự giao cảm với tâm hồn mình. Một bông hoa
cúc vô tình dường như cũng quyến luyến đối với ông:
“Hoàng hoa dã thị vô tình vật,
Ám thổ hàn hương hướng cố nhân. “
(Thơ chữ Hán: Xuân nhật vân du sơn tự)
(Hoa cúc chỉ là loài vô tình,
Đối với cô nhân vẫn âm thầm nhả hương thơm mát)
Hồn thơ Vương Sư Bá chẳng những dễ rung cảm với vẻ đẹp của tạo
vật mà còn hướng tới sự suy tư có tính chất triết lý. Qua một bụi cỏ trước sân,
ông suy nghĩ về đức hiếu sinh của tạo hóa:
“Hiềm căn chuyên dụng áp,
Đắc khích tiện hoàn sinh.
Tao hóa vô cùng ý,
Thùy năng sử bất bình. “
(Thơ chữ Hán: Chuyện đình sao)
(Cỏ này bực giận gạch sân đè nén,
Được chỗ khe hở lập tức lại mọc lên ngay
Cái ý tạo hóa hay vô cùng,
Ai có thể làm cho bất bình)
Nghe tiếng cuốc kêu, nhà thơ liên tưởng tới những hoàn cảnh và
những tâm sự khác nhau của con người:
“Xá tây hoang ổ tử quỉ đề,
Cộng thính vô tình lão cánh thê.
Liệu đắc điểu thanh nguyên bất biến,
Chi duyên thế sự sử nhân mê. “
(Thơ chữ Hán: My Sơn thính tư quy)
(Chim cuốc kếu ở bờ rào cỏ hoang phía tây,
Người trẻ nghe vô tình thoáng qua, người già nghe lại càng thê
thảm.
Chắc tiếng chim kêu vốn không có gì sai lầm,
Chỉ vì việc đời làm cho người ta hôn mê mà thôi.)
Trong một bài thơ xuân, ta lại thấy nhà thơ không chỉ thưởng thức cảnh
vật mà muốn qua cảnh vật “nhận thấy lòng trời”:
“Liễu ti đình viện ngọ âm âm,
Liêm mạc đê thùy, thụy yến thâm.
Nhàn ý lan can cùng vật hóa,
Khước ư hình sắc kiến thiên tâm.”
(Thơ chữ Hán: Xuân)
(Một sân tơ liễu bóng trưa im,
Trướng rũ rèm che chim én ngủ say.
Ngôi dựa lan can xét kỹ lẽ biến hóa của sự vật,
Cứ trong các hình, các sắc, nhận thấy lòng trời)
Vương Sư Bá không đi theo lối cảm nghĩ quen thuộc của các nhà thơ
cùng thời, ông không dừng lại ở hiện tượng bề ngoài mà có tham vọng đi sâu
khám phá lẽ huyền bí của sự vật. Thơ ông ít chú ý đến cuộc sống hiện thực
mà thường nặng về những suy nghĩ có tính chất triết học. Phong cách Vương
Sư Bá báo hiệu sự phát triển của dòng thơ triết lý ở thế kỷ sau mà tiêu biểu là
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đàm Văn Lễ (1452 - 1505) tự là Hoằng Kính; hiệu là Chân Trai, người
làng Lãm Sơn, huyện Quế Dương (nay là huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc). Thuở
nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, thi hương đỗ giải nguyên. Niên hiệu Quang
Thuận thứ 10 (1469) đời Lê Thánh tông, ông đỗ tiến sĩ, năm 18 tuổi, được bổ
chức Hàn lâm hiệu lý. Năm 1483 ông làm Hàn lâm thị thư, cùng với Thân
Nhân Trung và các văn thần khác biên soạn bộ sách Thiên nam dư hạ tập.
Năm 1488 (Mậu thân) ông được cử đi sứ sang nhà Minh, có lúc làm phó đô
ngự sử, rồi thăng dần đến Lễ bộ thượng thư, Đông các đại học sĩ. Khi Hiến
tông mất, ông theo tờ di chiếu phù lập Túc tông, vì thế mà vua Uy Mục căm
giận. Khi Uy Mục lên nối ngôi Túc tông, ông bị giáng làm quan ở thừa tuyên
Quảng Nam. Trên đường đi nhận chức đến Nghệ An, ông bị Uy Mục sai
người đuổi theo, dìm xuống bể.
Tác phẩm của ông còn lại có bài Văn bia Chiêu lăng, 24 bài thơ chép
trong Toàn Việt thi lục và 2 bài chép trong Hoàng Việt thi văn tuyển (có một
bài trùng với Toàn Việt thi lục). Những bài thơ còn lại của ông phần lớn được
sáng tác trong thời gian đi sứ.
Thơ của Đàm Văn Lễ có nhiều bài viết về đề tài thiên nhiên. Một cành
hoa, một khóm trúc, một cánh chim âu, một ngôi chùa cổ, một hòn giả sơn
đều được ông đưa vào thơ. Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ Đàm Văn Lễ
thường chỉ là những nét chấm phá. Nhà thơ không chú ý miêu tả sự vật và
thường là qua thiên nhiên mà gợi lên những suy nghĩ hoặc tìm một mối giao
cảm nào đó với cảnh vật. Ông yêu khóm trúc không phải chỉ vì vẻ đẹp duyên
dáng của nó, mà còn tìm thấy một sự đồng điệu giữa trúc với người:
“Niểu niểu yên tiêu bích sắc nùng,
Nhàn đình vị ngã dẫn thanh phong
Tuế hàn thùythức thâm giao ý,
Y lạm tương khan bất ngữ trung,”
(Thơ chữ Hán: Đối trúc)
(Ngọn trúc phơn phớt làn khói, sắc biếc đượm đà,
Khoảng sân vắng trúc đem lại cho ta luồng gió mát.
Cuối năm trời rét, dễ ai biết mối tình gắn bó giữa ta với trúc,
Tựa lan can nhìn nhau không nói gì,)
Nhà thơ muốn ca ngợi cái tiết chịu đựng gió sương của trúc, và đó
chính là chỗ tương đắc giữa ông và cảnh vật
Thưởng thức hoa mai, nhà thơ không ca ngợi cốt cách của mai như
nhiều người thường làm mà lại chú ý đến chức năng báo hiệu thời tiết của
loại hoa này:
“Dương phục hồ cán bán dạ tri,
Khởi lai nguyệt tín đáo nam chi.
Thiên cơ lậu tiết nan tàng xứ.
Thùy thức hoa trung hữu Phục Hy,”
(Thơ chữ Hán: Vịnh Mai)
(Nửa đêm biết rằng khí dương đã bốc lện trong ống quán
Lúc thức dậy thì bóng trăng đang chiếu đến cành phía nam.
Cơ trời bị tiết lộ cái chỗ khó ẩn giấu,
Ai ngờ trong hoa lại có thần Phục Hy)
Thơ Đàm Văn Lễ sáng tác trong khi ở nước ngoài có nhiều bài mang
âm điệu buồn. Đối với thiên nhiên, ông cũng thích khai thác những khía cạnh
phù hợp với tâm trạng day dứt về nỗi xa nước, xa quê của mình. Mùa xuân
trong thơ ông không tươi đẹp rực rỡ mà đang tàn tạ với cánh hoa bay theo
gió trong tiếng kêu của lũ chim oanh hoặc nỗi ngẩn ngơ của đàn bướm:
“Thanh đế quyển tương xuân tống khứ,
Hồng truy hạch tống trục phong mê.
Lưu oanh khả thị đa tình ý,
Do hướng phồn chỉ lạc xứ đề.”
(Thơ chữ Hán: Lạc hoa - Kỳ nhất)
(Thần gió đã cuốn mùa xuân đi,
Màu hồng màu trắng quay cuồng theo gió,
Chim oanh quả là có tình ý,
Vẫn đang kêu hót ở nơi hoa rụng.)
“Đông quân sơ giải bách hoa quyền,
Vũ hậu lâm đường chuyển sách nhiên
Si điệp tham tâm mang vị liễu,
Tâm hương ngộ đáo khởi song tiền.”
(Thơ chữ Hán: Lạc hoa - Kỳ nhị)
(Chúa xuân vừa từ bỏ quyền lực đối với trăm hoa,
Sau trận mưa, vườn cây và bờ ao trở nên vắng lặng.
Lũ bướm đắm say lòng tham vấn chưa hết
Bay đi tìm hương đã nhầm lối đến trước cửa sổ.)
Những cánh hoa rời rụng ấy đôi khi như muốn trêu nhà thơ đang sầu
muộn.
“Lạc hoa bất thức biệt ly khổ,
Cánh hướng ngâm biên phiến phiến phi.”
(Thơ chữ Hán: Khách trung tống xuân)
(Những cánh hoa rơi kia không hiểu được nỗi khổ biệt ly
Nên cứ từng cánh từng cánh bay vào phía chỗ ta đang ngâm
nga.)
Đêm trung thu, thưởng trăng, nhà thơ như muốn hòa mình vào cùng
tạo vật, nhưng rồi một tiếng chuông chùa đã kéo ông trở về với tâm sự nhớ
nước:
“Sâm hoành đẩu chuyển vị thành miên,
Cốt lãnh thần thanh, khí dục tiên.
Vô hạn sương chung thôi biệt hận,
Cử bôi mục tống hạ thiên biên.”
(Thơ chữ Hán: Trung thu thương nguyệt)
(Sao Sâm đã ngang trời, chuôi sao Đẩu đã di chuyển,
Xương cốt lạnh lùng, hồn trong sạch, thần khí như muốn lên tiên.
Tiếng chuông chùa trong sương như giục giã nỗi hận biệt ly vô
hạn,
Nâng chén rượu đưa mắt về tận phía dưới chân trời xa.)
Nhìn chung thơ thiên nhiên của Đàm Văn Lễ không có những nét tân kỳ
như ở Thái Thuận hoặc mộc mạc chất phác mà đầy sức sống như ở Nguyễn
Bảo, nhưng ông cũng xa lạ với lối ngâm vịnh khuyên sáo, công thức. Thơ ông
chính là tấm lòng của ông. Nét buồn trong thơ thiên nhiên của Đàm Văn Lễ
cũng đã thể hiện tình cảm và tâm sự của một người xa nước xa quê, lòng lúc
nào cũng hướng về Tổ quốc.
Bên cạnh đề tài thiên nhiên, thơ Đàm Văn Lễ cũng đề cập đến những
sự kiện và con người trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều bài thơ thuộc loại đề tài
này của ông mang tính chất như những đoạn bình luận về lịch sử. Trong bài
thơ chữ Hán “Đề Triệu Phi Yến tỉ muội tương ý đồ”, ông phê phán thói say
đắm nữ sắc, chểnh mảng chính sự của Hán Thành Đế:
“Viêm tộ phương ân liệt hỏa thiêu,
Hốt phùng thủy họa nhất song kiêu
Hán gia kỷ tải bồi nguyên khí
Tận hướng ôn nhu hương lý tiêu.”
(Cơ nghiệp nhà Viêm Lưu vừa bị ngọn lửa dữ thiêu cháy,
Lại gặp phải nạn lũ lụt nhiều phen.
Cái nguyên khí nhà Hán mấy đời bồi đắp
Đã tiêu tan theo quê ấm mềm)
Ở bài thơ chữ Hán “Phiếu mẫu từ” (đền bà Phiếu mẫu) nhà thơ chê
trách hành động vong ân bội nghĩa giết hại công thần (Hàn Tín) của Lưu
Bang:
“Nhất phạn vi ân do báo đức
Lưỡng phong đại quốc khởi vô tâm.
Thùy tri đại độ khoan nhân chủ,
Khước sứ công thần ẩm hận thâm.”
(Giúp một bữa cơm là cái ơn nhỏ mà còn báo đền công đức
Huống chi hai lần được phong ở nước lớn há lại không cố lòng
báo ơn hay sao?
Ai ngờ vị chúa khoan nhân đại độ ấy
Lại để cho công thần nuốt mối hận sâu)
Trong những bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc ta thấy tác giả
muốn gửi gắm tâm sự riêng của mình. Nếu nhà thơ ca ngợi hành động trung
cần giúp chúa của Đặng Vũ nhà Đông Hán thì mặt khác lại đồng tình với thái
độ xử thế khôn ngoan “thành công bất cư” của Phạm Lãi, một mưu sĩ lỗi lạc
của Việt vương Câu Tiễn, thời Xuân Thu:
“Bá Việt công thành tác viễn du,
Mộng thanh vô phục đảo Cô tô.
Ngũ Viên túng ẩm đương niên hận,
Nộ lãng ưng nan biến Ngũ Hồ.”
(Thơ chữ Hán: Phạm Lãi du Ngũ hồ)
Làm cho nước Việt nên nghiệp bá, thành công rồi thì đi chơi xa,
Trong giấc mộng trong trẻo cũng không trở lại đài Cô tô nữa,
Ngũ Viên dù phải nuốt mối hận năm ấy
Làn sóng cảm giận cũng không lan tràn khắp Ngũ Hồ được.
Than tiếc cho Hàn Tín hay ca ngợi Phạm Lãi đều thể hiện mối “đồng
bệnh tương liên” đối với người xưa. Hình như Đàm Văn Lễ có điều bất như ý
trong chốn hoạn đồ, và ngay trong khi đang ra sức phục vụ nhà vua ông vẫn
mơ ước được làm một Đào Uyên Minh, Trong bài thơ chữ Hán “Trùng cửu
ngẫu tác” ông băn khoăn tự hỏi:
“Hà thời toại nguyện hoàn sơn ước
Nhật nhật đăng làm tất thử sính.”
(Đến bao giờ được thỏa ước nguyện vì núi
Ngày ngày lên rừng (dạo chơi) cho trọn cuộc đời)
Rõ ràng là Đàm Văn Lễ có những tư tưởng tình cảm vượt ra ngoài
phạm vi của văn học cung đình
Tác phẩm của Nguyễn Trực, Nguyễn Bảo, Thái Thuận, Vương Sư Bá,
Đàm Văn Lễ nói chung phản ánh một tình hình xã hội ổn định cho nên ít chứa
đựng những tình cảm mạnh mẽ. Tuy nhiên, niềm yêu thích thiên nhiên, yêu
con người, yêu cuộc đời và cái nhìn sâu sắc, tinh tế, hoặc hóm hỉnh, hoặc
trung hậu của các tác giả này cũng là những đóng góp đáng kể vào kho tàng
văn học chữ Hán thế kỷ thứ XV.
Cũng đóng góp vào kho tàng ấy phải kể đến Thân Nhân Trung, Đỗ
Nhuận, Đào Cử, Lương Thế Vinh, Đàm Thận Huy, Nguyễn Ích Tôn, v.v…
Nhưng vì tác phẩm còn lại của họ phần lớn lại nằm trong khuôn khổ sáng tác
cung đình cho nên ít phần độc đáo và thường có phong cách chung, bút pháp
đồng nhất, đơn điệu.
Các tác phẩm của các văn thần xướng họa với Lê Thánh Tông được
chép trong Thiên nam dư hạ tập. Những tác phẩm này là loại văn “thù ứng”
dựa theo sự “ra đề hạn vận” của nhà vua mà sáng tác. Chẳng những thế, các
tác giả cung đình còn phải lựa lời, chọn ý sao cho phù hợp với quan niệm văn
học và thị hiếu thẩm mỹ của nhà vua. Tác phẩm của họ có sự nhất trí về
nhiều mặt giữa người xướng (nhà vua) và người họa (văn thần). Người họa
thơ thường là phát triển chủ đề mà người xướng đã nêu lên. Về mặt cấu tạo
hình tượng thơ, sự vận dụng từ ngữ, điển cố đều có sự tương đồng nhất định
giữa người xướng và người họa, do đó mà cũng có sự tương đồng giữa các
người họa với nhau. Cho nên có thể nói rằng riêng thơ văn Lê Thánh tông
cũng đủ tiêu biểu cho văn học cung đình rồi. Tuy nhiên, đám văn thần cũng
sáng tác nhiều. Và phong trào văn học cung đình vượt ra ngoài sự nghiệp văn
học của Lê Thánh tông.
Trong thơ văn cung đình, âm hưởng chủ đạo là ca ngợi công đức nhà
vua và bày tỏ lòng trung nghĩa đối với vương triều, đối với chế độ. Nhưng
trong khi ca ngợi nhà vua, thơ văn cung đình cũng vẫn ít nhiều thể hiện được
chủ nghĩa yêu nước.
Các nhà thơ Tao đàn thường tự hào về cuộc trị bình mà vương triều đã
đạt tới. Cuộc trị bình ấy thể hiện ở trạng thái xã hội ổn định, sản xuất nông
nghiệp phát triển, nhân dân an cư lạc nghiệp, được mùa no ấm:
“Chí trị nhật long, phong tập lợi,
Hưu trưng thời ứng, vũ như thằng.
Cửu niên hữu tích, bang trừ tiễn,
Tứ hải vô ngu, đế nghiệp hoằng.”
(Đỗ Nhuận. Thơ chữ Hán: Phong đăng)
(Đời thịnh trị tột bậc, sẵn có gió hòa.
Điềm lành ứng luôn, thường hay mưa thuận.
Thóc lúa tích trữ chín năm, trù bị trong nước dồi dào,
Bốn bề bình yên, công nghiệp nhà vua rộng lớn.)
Và các nhà thơ thường gắn liền sự ca ngợi nhà vua với niềm tự hào về
cuộc sống thái bình an lạc của nhân dân:
“Bảo tộ hoàng hoàng miên vĩnh viễn
Phong điều vũ thuận thái giai binh.”
(Ngô Luân. Thơ chữ Hán: Minh lương)
(Rực rỡ ngôi báu, lâu dài mãi mãi
Mưa hòa gió thuận thiên hạ thái bình.)
Ý thức về cuộc trị bình và sự huy hoàng của vương triều lại gắn liền với
niềm tin- mạnh mẽ vào cái thế vững bền trường cửu của đất nước, non sông:
“Hoàng cực nguy nguy quang túy cổ,
Thái bàn quốc tộ vạn tư niên.”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Quân Đạo)
(Hoàng cực cao cả sáng rạng cho cả đời xưa.
Quốc tộ muôn năm kiên cố như Thái sơn, bàn thạch,)
“Cảnh ngưỡng thánh thần toàn thịnh mỹ,
Đường đường quốc thế Thái bàn niên.”
(Đỗ Nhuận: Thơ chữ Hán: Quân đạo)
(Ngưỡng mộ thánh thần toàn thịnh toàn mỹ,
Quốc thế trang nghiêm, hùng vĩ như Thái sơn, bàn thạch)
Thơ văn cung đình thường đề cập đến đường lối cai trị theo lý tưởng
của Nho gia. Các văn thần thỏa mãn với hiện thực, nhưng họ không dừng lại
ở sự nghỉ ngơi, hưởng lạc, mà có ý thức về trách nhiệm của kẻ cầm quyền
đối với xã hội, đối với nhân dân:
“Trị hiệu dũ long, tâm dũ thận,
Ưu dân cần chính, nhật căng căng.”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Phong đăng)
(Công hiệu thịnh trị càng tốt dẹp, lòng càng thận trọng,
Lo việc dân, chăm việc nước, luôn luôn cố gắng.)
(Thân Nhân Trung - Phong đăng)
“Vũ trụ dĩ tề hy hạo thịnh,;
Vạn cơ đồ trị ích căng căng.”
(Nguyễn Trọng Ý. Thơ chữ hán: Phong đăng)
(Vũ trụ tuy đã đến lúc thịnh trị tuyệt đỉnh,
Thế mà muôn việc lo toan cho cuộc trị binh vẫn càng cố gắng.)
Người làm vua thì như vậy, người làm quan coi quân trị dân thì phải
luôn luôn tâm tâm niệm niệm về phận sự:
“Tá tích, trạch sư thiên cổ ý,
Nhương di, an hạ nhất sinh tâm.”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Thần tiết)
(Giúp nhà vua, yêu nhân dân là ý nghĩ thiên cổ,
Chống kẻ thù bên ngoài, yên trong nước là tâm sự suốt đời)
“Ái quốc, ưu quân niệm niệm thâm.”
(Nguyễn Trọng Ý. Thơ chữ Hán: Thần tiết)
(Luôn luôn suy nghĩ sâu xa vì lòng ưu quân, ái quốc.)
Rõ ràng là những tác phẩm này đã thể hiện được tư tưởng yêu nước
và lý tưởng xã hội chính trị tương đối tích cực. Tuy nhiên, vì là thơ làm theo
yêu cầu của nhà vua cho nên thường khô khan như những bài thuyết lý về
Nho giáo. Hơn nữa, các tác giả cung đình lại còn cho rằng: “phàm làm văn
chương dẫn những điển cố trong năm kinh, có đủ căn cứ mới là văn hay”,
“dùng điển trong kinh sử luyện thành câu có vần và đúng luật”. Vì thế thơ họ
thường chồng chất điển cố, mượn lời người xưa để nói ý mình.
Tất nhiên, có khi ta cũng bắt gặp sự đa dạng của cảm hứng. Thí dụ
như khi viết về hoa mai, thì Thân Nhân Trung so sánh hoa mai với bậc thần
tiên cao khiết:
“Cô Dịch thần tiên tiết tháo cô,
Phục phi tô luyện bội minh châu.”
(Thơ chữ Hán: Mai hoa)
(Hoa mai là bậc thần tiên ở núi Cô Dịch tiết tháo cô cao,
Mặc áo lụa trắng, đeo ngọc minh châu.)
Còn Đỗ Nhuận thì thưởng thức vẻ đẹp tinh thần của hoa mai:
“Tuyết cán phong phiêu đỉnh đỉnh cô,
Thanh cao vạn hộc trong minh châu..”
(Thơ chữ Hán: Mai hoa)
(Cốt cách từng trải gió tuyết đỉnh đạc cô cao,
Vẻ thanh cao muôn hộc trọng như minh châu.)
Và Nguyễn Trọng Ý thì lại hình dung đến mùa xuân:
*Xuân măn Giang Nam kỷ vạn chu”
(Thơ chữ Hán: Mai hoa)
(Kìa hàng vạn cây mai nở hoa, xuân đầy Giang Nam.)
Về đề tài “tư gia tướng sĩ” nhiều bài thơ đã khai thác tâm trạng buồn
khổ của người đi hành dịch ở nhiều khía cạnh và không che giấu thái độ đồng
tình khá sâu sắc với cảnh ngộ của nhân vật:
“Thùy tri tráng chí trì khu nhật,
Phiên tác nhu trường khế khoát thu.”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Tư gia tướng sĩ)
(Ai ngờ buổi lên đường ruổi dong với chí khí hăng hái,
Lại hóa ra lúc đau lòng vì nỗi ly biệt.)
“Canh trù ám sở si như mộng,
Lữ thứ không miên lãnh tự thu.
Vạn lý mã tê sầu tự hữu,
Nhất thiên nhạn đoạn tín thư vô,”
(Lương Thế Vinh. Thơ chữ Hán: Tư gia tướng sĩ)
(Âm thầm đếm trống canh ngần ngơ như trong mộng,
Nằm suông nơi lữ thứ lạnh lùng như mùa thu.
Muôn dặm ngựa hí đã sẵn mối sầu,
Phương trời nhạn vắng, thư tín thì không.)
“Lao lạc cơ hoài ảnh dữ câu,
Hải thiên vạn lý nguyệt đồng cô
Thê lương bạc trướng hồn nan mộng,
Đoạn tục hàn già phát dị thu.”
(Đào Cử. Thơ chữ Hán: Tư gia tướng sĩ)
Tâm tình người lữ khách hiu quạnh buồn bả, một mình với bóng.
Bề trời muôn dặm mặt trăng cũng trơ trọi như mình
Màn trướng mông manh lạnh léo hồn mộng cũng khó,
Tiếng kèn trong gió rét nghe đứt quảng làm cho tóc dễ đốm bạc.)
Mối sầu biên tái quả đã làm xúc động nhiều nhà thơ Tao đàn và gợi lên
ở họ cảm hứng nhân đạo. Có khi các nhà thơ Tao đàn lại đi đến chỗ phiêu
diêu thoát tục:
“Tam sinh hương hỏa duyên phong kế
Nhất chẩm yên hà mộng dĩ hàn.
Ngưỡng tục thần chương trân lự tức,
Nham hoa lộng ảnh điểu thanh nhàn.”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Đề Lục Vân động)
(Duyên hương lửa ba sinh còn đang gắn bó,
Giấc mộng khói mây đã nguội lạnh.
Được nối thơ nhà vua lòng trần tắt hẳn,
Hoa núi đùa với bóng, tiếng chim hót thư nhàn.)
“Thế thượng hồng trần lao nhiễu nhiễu,
Nhất sinh thùy thức bạch vân nhàn.”
(Đỗ Nhuận. Thơ chữ Hán: Đề Lục Vân động)
(Sống trong bụi hồng trèn đời vất vả phiền nhiễu,
Suốt đời mấy ai biết được làn mây trắng thư nhàn.)
Ở đây cảm hứng của các nhà thơ Tao đàn quả đã vượt ra ngoài sự
nghiêm ngặt của lý tưởng Nho gia, và điều đó cũng cho thấy trong tâm hồn
các đồ đệ của Khổng Mạnh thường khi vẫn có một góc dành cho Phật – Lão.
Các nhà thơ cung đình đều có học vấn và chắc không thiếu người có
tài năng. Nhưng vì gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của phong trào, văn học
cung đình cho nên tài năng ấy nếu có thì cũng khó phát huy. Phần lớn các tác
gia tự hạn chế trong phạm vi tiếp ý, nối vần của Lê Thánh tông. Còn Lê Thánh
tông thì là một người có học và có tài, lại có uy quyền tối thượng. Ông là tác
giả tiêu biểu của văn học cung đình. Cho nên qua Lê Thánh tông, có thể hiểu
được phần lớn các tác giả cung đình.
***
Lê Thánh tông (1442 - 1497) là con thứ tư của Lê Thái tông, tên là
Hiệu, lại có tên là Tư Thành, sinh vào năm 1442, năm Nguyễn Trãi bị giết
oan. Vì sự lục đục trong nội bộ hoàng gia, nên Lê Tư Thành đã phải trải qua
một thời kỳ thơ ấu gian truân. Năm 1460, sau khi triều thần trừ xong bè đảng
của Nghi Dân, Lê Tư Thành được lập lên làm vua. Lê Thánh tông ở ngôi 38
năm, cải nguyên hai lần, mười năm đầu (1460 - 1469) đặt niên hiệu là Quang
Thuận, hai mươi tám năm sau (1470 - 1497) đặt niên hiệu là Hồng Đức. Lê
Thánh tông là ông vua có vai trò quan trọng trong việc củng cố và phát triển
nhà nước phong kiến quan liêu. Đối với nông nghiệp, bộ phận chủ yếu của
nền sản xuất thời bấy giờ, Lê Thánh tông đã có sự quan tâm lớn. Chính sách
khuyến nông làm cho sức sản xuất của xã hội tăng lên rõ rệt. Đời sống nhân
dân, mà đại bộ phận là nông dân, đã được ổn định. Về mặt văn hóa, Lê
Thánh tông đề cao Nho giáo, khuyến khích Nho học, tuyên truyền ý thức hệ
phong kiến một cách rộng rãi, nhằm củng cố quyền thống trị của giai cấp
phong kiến. Tuy nhiên, trong những việc làm nhằm phục vụ lợi ích của nhà
nước phong kiến, có một số công trình vượt ra ngoài mục đích ấy và có tác
dụng góp phần vào việc xây dựng truyền thống văn hóa của dân tộc. Đó là
việc biên soạn Thiên nam dư hạ tập, việc biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư,
việc khuyến khích sáng tác văn học Nôm, việc cho sưu tầm những di sản văn
hóa, trong đó có di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi v.v…
Về văn học, Lê Thánh tông để lại nhiều tác phẩm. Lê Thánh tông viết
nhiều tác phẩm nôm. Thơ nôm của ông nhiều bài được chép trong Hồng Đức
quốc âm thi tập. Về biền văn nôm thì tác phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ
văn có lẽ cũng là của ông.
Lê Thánh tông để lại nhiều thơ văn chữ Hán. Về văn hiện còn ba tác
phẩm là: Dụ khuyến học, phú Lam Sơn Lương Thủy và sách Liệt truyện tạp
chí.
Dụ khuyến học là bản tuyên bố về chính sách giáo dục của nhà nước,
nhằm khuyến khích nho sinh lập chí theo con đường cử nghiệp.
Liệt truyện tạp chí là một thứ bút ký triết học trong đó Lê Thánh tông ghi
chép những ý hay, tứ lạ trong khi đọc sách, (chủ yếu là kinh truyện của Nho
gia, nhưng cũng có sách Phật, Đạo, và các tác phẩm văn học, sử học nữa).
Liệt truyện tạp chí rút ra những bài học về mặt tu dưỡng đạo đức, về đường
lối chính trị, giáo dục, về phương pháp học vấn v.v…
Tác phẩm này thể hiện khá rõ tư tưởng sùng Nho của Lê Thánh tông,
đồng thời cũng cho thấy sự dung hòa Nho, Phật, Đạo ở những mặt có lợi cho
việc giáo dục tư tưởng và đạo đức phong kiến.
Bài phú Lam Sơn Lương Thủy, ca tụng ngọn núi và dòng sông ở nơi
phát tích của nhà Lê. Nơi đây cũng chính là căn cứ địa đầu tiên của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Mệnh đề “nhân kiệt địa linh” là sườn tư tưởng của bài phú.
Núi sông ở đây sở dĩ thiêng liêng là vì nó gắn với sự nghiệp phi thường của
người anh hùng cứu quốc. Bài phú viết ra nhằm ca ngợi triều đại nhà Lê,
nhưng qua việc ca ngợi sự nghiệp khai quốc của Lê Lợi, bài phú đã miêu tả
được khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Minh. Mặc dù những lời
“phụng bình” của văn thần thường là lời tán tụng quá đáng, nhưng ta cũng
thấy âm điệu bài phú ở những đoạn này ít nhiều có phảng phất cái khí thế của
hùng văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn ở đầu thế kỷ. Có điều
là bài phú dùng “chữ nghĩa” và điển cố hiểm hóc quá nhiều, đã dài dòng mà
lại cầu kỳ văn hoa nên lời không cô đọng và ý cũng không thực bằng biền văn
nửa đầu thế kỷ.
Hình như Lê Thánh tông cũng là tác giả một số truyện trong tập “Thánh
tông di thảo” nhưng chưa thể khẳng định hẳn là truyện nào.
Về thơ chữ Hán của Lê Thánh tông, hiện nay còn có 9 tập được chép
vào Thiên nam dư hạ tập. Trong những tập này phần nhiều có chép cả thơ
của các văn thần họa thơ Lê Thánh tông.
– Năm 1468, Lê Thánh tông cùng Lê Niệm, Đỗ Nhuận v.v. về Thanh
Hóa bái yết Lam Kinh, vua tôi cùng nhau sáng tác tập “Anh hoa hiếu trị”
–Năm 1470, trên đường đi đánh Chiêm Thành, Lê Thánh tông sáng tác
tập “Chinh tây kỷ hành”, biểu lộ cảm xúc trên đường hành quân, miêu tả
phong cảnh và ghi lại những hoạt động của quân đội. Đầu mỗi bài thơ thường
có một đoạn văn ngắn theo lối ký sự.
– Tập “Minh lương cẩm tú” thì gồm những tác phẩm được sáng tác
trong nhiều giai đoạn khác nhau.
– Năm 1491, nhân dịp đi bái yết Sơn lăng, nhà vua sáng tác tập thơ
“Văn minh cổ xúy”.
– Năm 1494, nhà vua sáng tác chín bài thơ gọi là “Quỳnh uyển cửu ca”,
và sai 28 văn thần họa lại. Các bài phụng họa lên tới con số trên hai trăm.
Cũng nhân sáng tác “Quỳnh uyển cửu ca”, nhà vua tập hợp văn thần thành
lập Hội Tao đàn.
– Năm 1496, nhà vua sáng tác “Xuân vân thi tập”
– Năm 1497, nhà vua sáng tác tập thơ cuối cùng: “Cổ kim cung từ thi”.
– Hai tập “Châu cơ thắng thưởng” và “Cổ tâm bách vịnh” hiện vẫn chưa
rõ thời gian sáng tác.
Thơ văn của Lê Thánh tông và các văn thần còn lại với một khối luợng
tương đối lớn, nhưng chắc chắn là số bị mất mát cũng không ít. Hơn nữa
cũng không tránh khỏi tình trạng tam sao thất bản. Điều đó có gây khó khăn
cho việc nghiên cứu và đánh giá, thậm chí có thể đưa tới nhầm lẫn nếu không
thận trọng trong khâu xác định văn bản.
Lê Thánh tông là người học rộng, có một vốn hiểu biết phong phú. Lê
Thánh tông thường tự nói về tinh thần ham học của mình:
“Trống dời canh còn đọc sách.”
(Thơ nôm:Tự thuật)
“Ngột ngột đăng tỉền thập niên độc,.
Nhãn khuy vị biến thánh hiền thư.”
(Thơ chữ Hán: Trụ Xương giang)
(Cặm cụi trước đèn mười năm đọc sách,
Mắt vẫn chưa xem khắp được sách thánh hiền.)
“Ta, lúc muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn,
thường xem các sách, vui thích lục nghệ.”
(Tựa tập Quỳnh uyên cửu ca)
Sẵn tư chất thông minh lại chăm học nên tri thức sách vở của Lê Thánh
tông khá uyên bác. Ông cũng có một sự hiểu biết tương đối phong phú về
cuộc sống. Lúc thiếu thời gian truân hoặc khi chạy loạn Nghi Dân chắc hoàng
tử Tư Thành đã ít nhiều được tiếp xúc với sinh hoạt của nhân dân. Khi lên
làm vua, trong những cuộc tuần du hoặc viễn chinh, Lê Thái tông đã có điều
kiện quan sát cảnh vật cũng như tìm hiểu nhân tình trên nhiều miền của đất
nước. Vốn hiểu biết sách vở đã giúp Lê Thánh tông có thể làm văn thơ,
nhưng quan trọng hơn, vốn hiểu biết về cuộc sống đã khiến Lê Thánh tông
viết được những tác phẩm có giá trị.
Cuộc đời sáng tác của Lê Thánh tông khá dài; có thể nói từ khi trưởng
thành cho đến khi qua đời, ông luôn luôn giữ địa vị quan trọng trên văn đàn.
Ông là người cầm đàu bộ máy nhà nước nên sáng tác của ông thường thiên
về những vấn đề thực tiễn có liên quan đến yêu cầu củng cố chế độ phong
kiến. Trong thơ Lê Thánh tông ít thấy những tứ thơ bay bổng, những cảm
hứng phiêu dật, những suy tư thâm trầm. Trái lại, thơ ông thường vang lên
những lời thuyết giáo đạo đức phong kiến, những câu tán tụng minh quân
lương tướng, hiếu tử trung thần. Thảng hoặc, hồn thơ của ông cũng rung cảm
với ánh trăng, làn gió, hoặc buông thả cảm hứng bay bổng lên trên cõi đời,
nhưng rồi lại nhanh chóng trở về với những vấn đề thực tế. Thơ văn ông lại
bám sát vào nhiệm vụ chính trị mà giai cấp ông đòi hỏi.
Đến cuối đời mình, Lê Thánh tông còn hăng hái tổ chức Hội Tao đàn và
đảm đương trách nhiệm đứng đầu tổ chức đó. Lê Thánh tông chẳng những
lãnh đạo tổ chức sáng tác, mà còn qui định cả đề tài và nội dung cho từng tác
phẩm trong Hội Tao đàn. Nhưng điều đáng chú ý là nhà vua đã phát biểu cả
một quan điểm về văn nghệ có tính chất chính thống. Trong bài tựa tập
Quỳnh uyển cửu ca tập thơ mở đầu của Hội Tao đàn, nhà vua trình bày quan
điểm đó qua việc kể lại động cơ và mục đích sáng tác của mình.
“Ta nhân lúc muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem
các sách, vui thích lục nghệ, mọi sự huyên náo lắng xuống, một ngọn đèn
sáng thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sạch, ở yên, hứng cao, mới phấn
khởi nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của
trung thần lượng bật. Gọi chàng “giấy!, họ “bút” thượng khách “mực”, trọng
thần “nghiên đá”, bảo đi bảo lại rằng: “chân tình ta phát triển ra, có anh khí
dào dạt, thành cách ngôn hay, các người có thể ghi chép giúp ta được
không?”
Quan điểm này thực chất là mệnh đề “văn dĩ tải đạo” của Nho gia được
hiểu theo góc độ của người đứng đầu nhà nước phong kiến. Đạo ở đây là
đạo trị nước (khuôn phép lớn của Thánh đế minh vương) và đạo thờ vua
(lòng cẩn thận của trung thần lương bật). Văn học có nhiệm vụ “tải” cái đạo
đó, tức là phải phục vụ chế độ phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến. Lê
Thánh tông đánh giá cao những tác phẩm có nội dung “thân mật yêu chuộng
những người tài giỏi, để nối theo lời canh, ca, cảnh, cáo của đời Đường, đời
Ngu” và phê phán “lối văn nguyệt, lộ, phong, vân của nhà Ngụy nhà Tấn”. Tất
nhiên văn học Ngụy, Tấn, Nam bắc triều sa vào hình thức chủ nghĩa là đáng
phê phán, nhưng gò văn học vào con đường ca ngợi chế độ phong kiến thì lại
làm khô cạn dòng cảm hứng chân thành của nhà văn nhà thơ.
Lê Thánh tông và các văn thần có những tác phẩm thể hiện quan điểm
trên một cách lộ liễu, tiêu biểu là tập Quỳnh uyển cửu ca. Trước hiện tượng
được mùa hai năm liên tiếp, vua tôi cho là “điềm lành” làm thơ ca ngợi chính
tích của nhà vua. Phụ họa với ý thơ của nhà vua, các văn thần trong Hội Tao
đàn cực lực tán tụng, nào là:
– “Cách thiên, đế đức diệu toàn năng”
(Thân Nhân Trung. Thơ chữ Hán: Phong đăng.)
(Đức nhà vua cảm động đến trời, thật là mầu nhiệm tài giỏi)
nào là
– “Lân bút đại thư Hồng Đức thặng.”
(Đỗ Nhuận. Thơ chữ Hán: Phong đãng.)
(Lân bút chép đặc biệt: điềm tốt đời Hồng Đức”)
Nhà vua được đề cao đến mức:
– “Tham thiên, lượng dịa, thần công diệu”.
(Nguyễn Trọng Ý. Thơ chữ Hán: Phong đăng)
(Ngang với trời đất, công thánh thần mầu nhiệm)
Rồi thì họ ca ngợi các bậc hiền tài (anh hiền) các nhà văn học (văn
nhân) tài năng lỗi lạc, xuất chúng siêu quần, để tỏ lòng “thân mật yêu chuộng
những người tài giỏi”. Nhưng những người tài giỏi ấy chỉ được ca ngợi khi họ
cúc cung tận tụy phục vụ chế độ phong kiến:
– “Tri nhân thiện nhiệm phùng minh chủ
Triển tận kinh luân thủ đoạn kỳ.”
(Ngô Luân - Thơ chữ Hán: Anh hiền)
Gặp được minh quân biết người tài, khéo sử dụng
Thi thố hết thủ đoạn kinh luân kỳ lạ.
– “Cảo cảo nhật lâm trung hiếu niệm.
Nghĩ tương thốn thảo báo tam xuân.”
(Đỗ Nhuận - Thơ chữ Hán: Văn Nhân)
(Mặt trời quang minh soi đến niềm trung hiếu,
Nghĩ đem tấm lòng tấc cỏ để báo đáp ba xuân.)
Cả tập Quỳnh Uyển cửu ca là những lời ca ngợi nhà vua, ca ngợi chế
độ phong kiến, đại loại như trên.
Cũng trong tập này, Lê Thánh tông đã viết bài “Quân đạo”, (đạo làm
vua) và “Thần tiết” (tiết của người bề tôi) ca ngợi cái đạo của ông vua sáng
suốt, biết cách trị nước, yên dân, và những người bề tôi tài giỏi trung cần.
Đây là sự minh họa cái “khuôn phép lớn của thánh đế minh vương” và “lòng
cẩn thận của trung thần lương bật”. Thuật trị nước và đạo thờ vua mà Lê
Thánh tông nêu lên trong hai bài thơ này chỉ là tổng kết những tiêu chuẩn mà
Nho gia đã từng phát biểu. Đạo làm vua thì:
“… Hạ dục nguyên nguyên thượng kính thiên
Chế trị bảo bang tư kế thuật,
Thanh tầm quả dục tuyệt du điền.
Bàng cầu tuấn nghệ phu văn đức,
Khắc cật binh nhung trọng tướng quyền.”
(Thơ chữ Hán: Quân đạo)
(… Dưới dưỡng nuôi trăm họ, trên kính trời.
Trị dân, giữ nước thường nghĩ sự noi theo người trước.
Chay lòng, ít ham muốn, bỏ hẳn thói chơi săn bắn.
Rộng tìm kẻ tài giỏi để ban bố văn đức,
Sấm sửa binh bị coi trọng quyền kẻ làm tướng.)
Đọa của người bề tôi:
“Đan trung cảnh cảnh nhật tinh lâm,
Trí chủ an dân nghĩa khái thâm,
… Nội minh ngoại phủ hồi thiên lực,
Hậu lạc tiên ưu tế thế tâm
(Thơ chữ Hán: Thần tiết)
(Lòng son quang minh, nhật tinh soi xét tới,
Có nghĩa khí sâu sắc để trung với chúa và an dân
Sức chuyển trời trong nước bình trị, ngoài nước mến yêu
Lòng giúp đời, vui sau thiên hạ, lo truớc thiên hạ…)
Hai bài thơ trên nói lên tiêu chuẩn đạo đức phong kiến lý tưởng. Ở đây
không bàn về những tiêu chuẩn đó mà tìm hiểu mối quan hệ giữa yêu cầu
củng cố chế độ phong kiến với yêu cầu phải quan tâm đến nhân dân được
nêu trong các bài thơ. Yêu cầu phải quan tâm đến nhân dân, phải “vui sau
thiên hạ, lo trước thiên hạ,” không phải chỉ là vấn đề đạo đức hoặc tình cảm
nhân đạo thuần túy mà là vấn đề đường lối chính trị trong một giai đoạn lịch
sử nhất định dưới chế độ phong kiến. Lê Thánh tông rút bài học lịch sử qua
các triều vua trước thấy rằng muốn củng cố cơ nghiệp của vương triều họ Lê
thì phải quan tâm đến lợi ích của nhân dân, phải thi hành đường lối “thân
dân”. Trong “Liệt truyện tạp chí” nhà vua đã nhìn nhận sức mạnh của nhân
dân có thể lật đổ kẻ cầm quyền nào làm trái ý dân.
“Cho dân là không thể lo tính công việc từ đầu, Thương Ưởng cứ việc
tiến hành biến pháp. Cho trăm họ không đủ cùng nghị luận, Đổng Trác cứ
việc thiên đô. Bắt dân phải theo ý muốn riêng của mình, công việc của
Thương Ưởng, Đổng Trác đều hỏng và thân bị giết. Kết quả ác liệt đủ thấy rõ
ỉắm!” Lê Thánh tông hiểu rằng đường lối “thân dân” sẽ củng cố được chế độ
phong kiến và cuộc trị bình sẽ được dài lâu. Trong một bài thơ chữ Hán
(Quỳnh Uyển cửu ca), nhà vua viết:
“Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự,
Bát bách Cơ Chu lạc trị bình.”
(Thơ chữ Hán: Minh lương)
(Cháu hiếu là Hồng Đức này nối giữ nghiệp lớn,
Vui thấy cuộc trị bình sẽ được lâu dài như đời Cơ Chu tám trăm
năm.)
Ở một bài thơ nôm Lê Thánh tông lại nhấn mạnh trách nhiệm của mình
đối với nhân dân.
“Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
Thay việc trời dám trễ đâu…”
(Tự thuật)
Câu châm ngôn “tiên ưu hậu lạc” nổi tiếng mà Lê Thánh tông nhắc đi
nhắc lại chắc chưa trở thành câu nói sáo rỗng, vì giai cấp phong kiến thời này
còn có sinh lực, đang đóng vai trò lịch sử tích cực và do đó mà còn có tinh
thần dân tộc. Cho nên không lấy làm lạ rằng mặc dù quan điểm văn học thì
hẹp hòi và nhằm phục vụ cho chế độ phong kiến như vậy, mà Lê Thánh tông
và các văn thần vẫn có thể sáng tác được những tác phẩm có giá trị, thể hiện
được một chủ nghĩa yêu nước có bao hàm tư tưởng thân dân.
Chủ nghĩa yêu nước trong thơ văn Lê Thánh tông biểu hiện ở lòng tự
hào vì non sông đất nước tươi đẹp hùng vĩ. Thơ của Lê Thánh tông đã dành
phần lớn cho cảm hứng thiên nhiên.
Đây là vẻ đẹp hùng vĩ của cửa biển phía nam đất nước:
“Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc,
Kê thiên bạc lãng bích trùng trùng.”
(Thơ chữ Hán: Tư Dung hải môn lữ thứ)
(Giáp bãi núi cao xanh ngắt ngắt,
Tiếp trời sóng vỗ biếc trùng trùng.)
Đây là cảnh đẹp của núi Lam Sơn, sông Lương Thủy, nơi phát tích của
nhà Lê:
“Núi Lam Sơn cao chót vót như ôm lấy núi Thiên Mục, núi Lam Sơn
vươn mình tựa vào núi Thụ Mệnh. Hình dạng núi Lam Sơn im lặng như
thương đàn trẻ thơ, lởm chởm như dựng đứng những giáo mác. Ngọn núi
cao ngất rồi phẳng đần, thế núi bất bình rồi hoàn tán. Núi có chỗ to lớn và kéo
dài, núi có chỗ bằng phẳng và thư thái.
(Sông Lương Giang) sóng mạnh nổi lên, đua nhau so sánh chiều cao;
nước thác ầm ĩ như thiêng liêng nhảy vọt. Gió gầm thác mạnh, chảy vướng
lại lùi. Sóng tan rã rồi chảy mạnh, sóng to lớn cứ găng nhau…
Nước chảy mạnh, nước xoáy lại, nước sâu thẳm, nước sóng vọt. Nước
ứ lại, nước quanh co; nước chảy xoay tròn, nước chảy tung tóe. Nước sâu
lắm và mênh mông, nước vật lại và im lặng.”
(Phú chữ Hán Lam Sơn Lương Thủy phú)
Lời văn tiếp cận với phương pháp “tả chân”, đồng thời lại pha màu sắc
lãng mạn.
Tuy vậy phải nhận rằng thơ thiên nhiên của Lê Thánh tông và các văn
thần thường thiếu sự rung cảm tế nhị. Nhà thơ nặng về, “tả cảnh” hơn là gợi
cảm qua hình tượng thiên nhiên. Thơ thiên nhiên của Lê Thánh tông chú
trọng miêu tả những chi tiết cụ thể của đời sống, do đó giàu tính tả thực.
Trong thơ vịnh cảnh của Lê Thánh tông ta thấy có bóng nhà dân, có vạn chài
tấp nập, có chợ búa bán buôn.
“Tề diêm trường phố yêu thương khách,
Lỗ tửu bôi bàn túy thị nhân.”
(Thơ chữ Hán: Di Luân hai môn lữ thứ)
(Bến dài có muối nước Tề, đóm mời khách buôn,
Mâm chén có rượu nước Lỗ, say sưa người chợ)
“Viên hoàn thủy thị ngư hà tứ,
Tường nghĩ giang hồ cổ võng thôn.”
(Thơ chữ Hán: Kỳ la hai môn lữ thứ)
(Cửa hàng cá tôm bày bán trong chợ bến nước,
Làng xóm chài lưới thuyền đậu tại bến giang hồ.)
Thơ vịnh cảnh của Lê Thánh tông thường thể hiện sự quan tâm đến
cuộc đời hơn là đi tìm cái đẹp thiên nhiên thuần túy. Trong mỗi bài thơ, cảm
hứng thiên nhiên thường hòa lẫn với sự quan sát xã hội. Có những hình ảnh
rất thơ đứng song song với những hình ảnh rất thực của đời sống. Trong bài
“Đóng ở cửa bể Đồng Cảng”, nhà thơ thả tâm hồn theo cánh chim đến nơi xa
tít của chân trời, nhưng dòng suy nghĩ thì lại vẫn gắn chặt với những hiện
tượng trong đời sống:
– “Hải tân ngư tự thổ,
Thị thượng mễ như câm.
Qui điểu sâm si một,
Du du nhật ảnh trầm”.
(Thơ chữ Hán: Trụ Đồng Cảng)
(Bãi biển cá nhiều rẻ như đất,
Trong chợ gạo hiếm đắt như vàng.
Đàn chim bay về núi, con trước con sau khuất dần.
Thăm thẳm đằng xa mặt trời đang lặn).
Với sự quan tâm đến cuộc sống như vậy, có khi Lê Thánh tông dành cả
một bài thơ miêu tả cảnh giàu có của đất nước.
– “Tang giá liêu vân thổ vũ khoan,
Biều luân chưng phủ trọng kim hoàn.
Nhân gia đa thiểu lục âm hạ,
Suyết thốc tàm trung địch bạc can.”
(Thơ chữ Hán: Tang châu)
(Xanh tốt đồng dâu rộng thênh thang,
Bầu, nồi quí giá tựa the vàng.
Dưới chòm cây mát nhà dăm mái,
Vựa kén lau khô xếp dọc ngang.)
Lê Thánh tông là nhà thơ, đồng thời lại là nhà chính trị, là người nắm
vận mệnh của quốc gia, của dân tộc, mục đích sáng tác là để “tải” cái đạo trị
nước, cho nên trong khi ca ngợi thiên nhiên đất nước giàu đẹp, Lê Thánh
tông cũng tự hào về đường lối chính trị huệ dân của nhà nước phong kiến.
Bài thơ chữ Hán “An Bang phong thổ” đã thể hiện khá rõ quan điểm ấy:
“Hải thượng vạn phong quần ngọc lập,
Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh,
Ngư diêm như thổ, dân xu tiện,
Hoà đạo vô điền, phú bạc chinh.
Ba hướng san bình đê xứ dũng,
Chu xuyên thạch bích khích trung hành.
Biên manh cửu lạc thừa bình hóa,
Tứ thập dư niên bất thức binh.”
(Trên bờ biền muôn ngọn núi đứng quây quần như ngọc,
La liệt đá xanh biếc rải ra chon von,
Cá và muối nhiều như đất, dân chúng sinh nhai thuận lợi,
Lúa màu thiếu ruộng, thuế khóa đánh nhẹ.
Sóng xô vào dãy núi, vỗ mạnh chỗ thấp,
Thuyền len giữa vách đá, luồn theo khe núi,
Nhân dân ở biên giới đã lâu hưởng cảnh thái bình,
Hơn bốn chục năm không biết nạn binh đao.)
Trong bài thơ nôm “Vịnh làng Chế” tác giả ca ngợi cảnh non nước hữu
tình, chợ búa tấp nập, đồng thời cũng liên hệ đến chính sách huệ dân, với ý
nghĩa như một nhân tố quyết định đối với đời sống nhân dân.
“… Mênh mang khóm nước nhuộm màu lam,
Chận ngất đỉnh non lồng bóng quế.
Chợ họp bên sông gẫm có nhiều,
Thuyền bày trên đất xem nhiều thể.
Cảnh vật bằng đây họa có hai,
Vì dân khoan giảm bên tô thuế.”
Lòng tự hào về đất nước giàu đẹp, sự quan tâm đến cuộc sống no đủ
của nhân dân là một biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước có bao hàm nội dùng
thân dân. Tư tưởng thân dân của Lê Thánh tông còn thể hiện ở sự thông cảm
với nỗi khổ của người đân. Trong bài thơ chứ Hán “Đề phiến” (đề thơ lên
quạt) Lê Thánh tông tự thấy mình sống trong cảnh sung sướng mà chưa hiểu
hết nỗi khổ của người nông dân:
“Nam huân lâu các nhật trường thì,
Hoàn phiến huy phong ngọ mộng thì.
Phất phất lương phong nghi ngọ mộng,
Hạ huề lao khổ vị tằng tri.”
(Trên gác Nam huân giữa buổi ngày,
Quạt là phất gió ngủ trưa say.
Gió hiu hiu mát người êm giấc,
Nỗi khổ nông dân dễ có hay.)
Ngoài người nông dân ra, người lính trong xã hội phong kiến cũng là
tầng lớp chịu đựng nhiều gian khổ, hiểm nghèo. Lê Thánh tông trong những
lần đi chinh chiến đã có dịp chứng kiến nỗi khổ của binh sĩ và đã tỏ ra thông
cảm với họ. Trong bài “Tướng sĩ nhớ nhà” Lê Thánh tông nói lên tình cảnh
của người đi thú phương xa:
“Mai lạc ngũ canh tăng viễn hận,
Sầu lai nhất nhật tự tam thu…
Dục thức cố nhân cựu tiêu tức,
Khủng hi tiện nhạn đáo Thần châu.”
(Thơ chữ Hán: Tư gia tướng sĩ)
(Khúc hát Mai rụng suốt năm canh càng tăng thêm nỗi hận xa
nhà,
Trong cảnh buồn, ngày dài đằng đẳng như ba năm…
Muốn biết tin tức đã lâu ngày của người thân,
Nhưng chỉ sợ ít khi gửi được về đến chốn đế đô.)
Nỗi thương cảm của nhà vua lắng đọng một cách sâu sắc trong bài thơ
chữ Hán: “Trụ Hà Hoa hải khẩu”.
– “Tiễu tiễu bồng song để đính miên,
Lục sa trướng quyển bạc như thiền,
Kiền khôn dạ vũ tam canh mộng,
Hồ hải đông phong vạn lý thiên,
Diểu diểu ba đào cùng vọng mục,
Thông thông thời tự tích lưu niên.
Khước lân nê lộ cù lao sĩ,
Phúc thủ nan vô mộc quách tiền.”
(Vắng vẻ song thuyền thẳng giấc ngơi,
Màn the mỏng manh cuốn như chơi.
Ba canh mưa dội người mơ mộng,
Muôn dặm trời cao bể tuyệt vời.
Sóng gió dập dồn nhìn chẳng khắp,
Ngày giờ thấm thoắt chóng như trôi,
Dầm sương lội nước thân binh sĩ,
Quách thiếu tiền mua đáng ngâm ngùi.)
***
Văn học nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV, trên cơ sở tiếp thu những
thành tựu của văn học nửa đầu thế kỷ, đã có những bước phát triển mới. Hai
bộ phận văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm tiếp tục phát triển và một
phong trào sáng tác văn học có tính chất cung đình được nhà vua đích thân
chỉ đạo. Đáng chú ý là sự phát triển của phong trào sáng tác văn học Nôm.
Văn học nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV tuy bị chi phối bởi quan điểm
văn nghệ cung đình, nhưng cũng vẫn còn có nội dung yêu nước. Diện mạo
văn học thời kỳ này cũng khá đa dạng, có văn học cung đình của nhà vua và
các triều thần (trong Hội Tao Đàn), cũng có văn học thoát ly ảnh hưởng cung
đình của các nhà thơ có thi tập riêng; có văn học ca tụng chế độ phong kiến,
cũng có văn học phản ánh cuộc sống của nhân dân. Phong cách nghệ thuật
cũng có sự đa dạng nhất định. Có phong cách thơ cung đình thiên về từ
chương, cũng có phong cách thơ điền viên chú trọng tính cụ thể sinh động
của đời sống, lại cũng có phong cách thơ triết lý.
Văn học nửa thứ hai của thế kỷ thứ XV phát triển trong hoàn cảnh chế
độ phong kiến đã được củng cố. Sự ca ngợi chế độ phong kiến, tuyên truyền
cho ý thức hệ chính thống và khẳng định tính trường cửu của chế độ phong
kiến đã đưa nhiều tác giả đi tới chỗ sa vào khuyên sáo.
Tuy nhiên, nhiều tác giả, kể cả một số tác giả cung đình, trong đó có Lê
Thánh tông, vẫn có đóng góp tích cực vào bước tiến của lịch sử văn học.
IX. VĂN TỰ SỰ, TRUYỆN KÝ THẾ KỶ THỨ XV
Thể loại tự sự trong văn học đời Trần đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Các tác phẩm chữ Hán đầu tiên theo thể tự sự đã hoặc là chép sử,
hoặc là chép lại những thần thoại và truyện cổ tích. Nhưng người xưa chưa
phân biệt rạch ròi văn chép sử và văn truyện ký. Các thể loại gọi là lục, là ký,
là truyện thường được coi là những thể loại phụ của văn chép sử, trong khi
các bộ sử thì lại thường có những phần viết như truyện ký tức là có tính chất
văn học. Nhận xét về Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên mà mãi đến cuối thế kỷ
thứ XVIII, Lê Quý Đôn vẫn còn viết như sau: “Lời văn trang nghiêm, sự việc
xác thực, cũng tỏ ra tài nhà sử học lành nghề”. Tuy nhiên, trong bước đường
tiến lên của lịch sử văn học, các thể loại tự sự tuy vẫn được quan niệm như là
thể loại phụ của văn chép sử, nhưng dần dần lại ít nhiều tách ra khỏi lối văn
chép sử.
Giữa Đại Việt sử lược và Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh, Tam tổ
thực lục (tất cả đều là tác phẩm đời Trần) thì kể ra cũng khó mà khẳng định
rằng tác phẩm nào không phải là sử, lại cũng khó mà nói rằng tác phẩm nào
không có ý nghĩa văn học.
Đến thế kỷ thứ XV thì nhìn chung đã có sự phân biệt rõ hơn giữa tác
phẩm văn học và tác phẩm sử học. Nhưng xét cụ thể thì thấy Đại Việt sử ký
toàn thư vẫn có nhiều ý nghĩa văn học như Đại Việt sử lược trước kia. Lý do
là vì cũng như Đại Việt sử lược, tác phẩm ấy không bị gò bó theo lối viết sử
cương mục trong đó phần mục chỉ được viết ra để giải thích phần cương. Và
soạn giả đã có thể kể truyện với tình tiết hấp dẫn, với nhân vật ít nhiều có tính
cách văn học.
Vì vậy, trong lịch sử văn học thế kỷ thứ XV, không thể không đề cập tới
những giá trị văn học trong Đại Việt sử ký toàn thư. Đại Việt sử ký toàn thư đã
được viết lại trên cơ sở Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần. Bài tựa Đại
Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên viết vào năm Kỷ hợi, niên hiệu Hồng Đức
thứ 10 (tức năm 1479), đã kể lại việc biên soạn sách ấy như sau: “Nước Đại
Việt ta ở phía nam núi Ngũ Lĩnh: thế là trời đã chia ra Nam với Bắc vậy. Đấng
thủy tể là dòng dõi họ Thần Nông: thế là trời đã đặt ra vị chân chủ vậy. Bởi
thế mới có thể cùng với Bắc triều mỗi đằng làm vua một phương. Hiềm vì sử
sách ghi chép thiếu thốn, công việc đều theo truyền văn, lời lẽ quái đản, việc
hoặc quên sót, đến nỗi sao chép sai lầm, ghi chép lẫn lộn, chỉ làm rối mắt, còn
xem xét sao được.
Đến đời vua Trần Thái tông mới sai học sĩ Lê Văn Hưu sửa lại, từ đời
Triệu Vũ đế trở xuống đến năm đầu Lý Chiêu hoàng. Vua Nhân tông bản triều
lại sai quan tu sử Phan Phu Tiên biên chép nối tự đời Trần Thái tông trở
xuống đến lúc người Minh về nước, đều lấy tên là Đại Việt sử ký. Từ đó, công
việc dấu vết các đời mới rõ ràng có thể xét được. Văn Hưu là tay đại bút đời
Trần, Phu Tiên là bậc cố láo của Thánh triều, đều vâng chiếu chép sử nước
ta: đáng lẽ nên thu nhặt các sử còn sót lại, họp tập thành sách khiến cho
người sau xem đến không còn phàn nàn gì nữa thì mới phải; thế mà ghi chép
còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lý còn có chỗ chưa xác đáng, văn tự còn có chỗ
chưa ổn, người đọc không thể không phàn nàn vậy…
… Tôi trộm tự nghĩ may gặp thời thịnh, hể thẹn vì chưa làm gì để báo
bổ, nên dám không tự lượng sức mình, lấy hai bộ sách của người trước sửa
chữa lại và thêm vào một quyển ngoại kỷ, tất cả là ngần ấy quyển, đặt tên là
Đại Việt sử ký toàn thư. Việc nào còn quên sót thì bổ vào, lệ nào chưa xứng
đáng thì sửa lại, lời nào chưa ổn thì đổi đi; trong có việc thiện, việc ác có thể
lấy đó mà khuyên răn được thì thêm ý kiến bỉ lậu ở sau, vẫn biết thế là càn
giỡ, tội không thể trốn được, nhưng chức vụ buộc phải làm, không dám vì tài
hèn mà từ chối”.
Ngô Sĩ Liên đã lấy bộ Đại Việt sử ký do Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên
kế tiếp nhau soạn ra từ trước, rồi làm việc bổ sung các sự kiện, sửa lại thể lệ
chép sử, chỉnh đốn lại lời văn, và thêm lời bàn của mình. Riêng ở phần Ngoại
kỷ của sách Đại Việt sử ký thì Ngô Sĩ Liên đã thêm quyển 1, chép việc họ
Hồng Bàng và nhà Thục. Và cái tên Đại Việt sử ký đã được ông đổi thành Đại
Việt sử ký toàn thư.
Xem thế thì Đại Việt sử ký toàn thư không phải là tác phẩm do một
mình Ngô Sĩ Liên viết ra. Trái lại, nội dung cơ bản đã do Lê Văn Hưu và Phan
Phu Tiên kế tiếp nhau mà xây dựng nên từ trước. Hơn nữa, sau Ngô Sĩ Liên,
bộ Đại Việt sử ký toàn thư của ông lại được “tục biên”. Năm 1665, một tập thể
sứ thần khác đứng đầu là Phạm Công Trứ rồi năm 1697, một tập thể sử thần
đứng đầu là Lê Hy và Nguyễn Quí Đức đã kế tiếp nhau chép thêm các giai
đoạn lịch sử sau vào bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Không rõ họ có sửa chữa gì
vào phần do Ngô Sĩ Liên viết hay không. Dầu sao, văn bản của tác phẩm liên
quan đến lịch sử nước ta từ đầu đến năm 1427 chủ yếu vẫn là của Ngô Sĩ
Liên. Cho nên đánh giá tác phẩm thì phải chủ yếu nói về Ngô Sĩ Liên. Tất
nhiên, trước hết cũng phải kể đến công lao của Lê Văn Hưu và Phan Phu
Tiên. Về Lê Văn Hưu, đã có sự phân tích trong phần viết về các thể loại lịch
sử và truyện ký đời Trần ở trên.
Ở đây, trước khi nói về Ngô Sĩ Liên, hãy nói về Phan Phu Tiên. Phan
Phu Tiên (?–?), tên tự là Tín thần, hiệu là Mặc hiên, quê ở làng Đông Ngạc
(Kẻ Vẽ, nay thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), thi đậu thái học sinh
năm Quang Thái thứ 9 đời Trần Thuận đế (1396), được bổ vào làm việc ở
Quốc sử quán và Quốc tử giám. Trong đời nhà Hồ và thời Minh thuộc không
rõ ông làm gì. Chỉ biết năm Thuận Thiên thứ hai (1429) đời Lê Thái tổ, ông lại
ra thi khoa Minh kinh và đỗ thứ ba. Do đó, ông được bổ làm đồng tu sử ở
Quốc sử quán. Có lúc ông đi làm an phủ sứ ở Thiên Trường và ở Hoan Châu,
nhưng sau lại về Quốc sử quán. Ông đã chép lịch sử từ đời Trần Thái tông
(năm 1225) đến khi giặc Minh thua chạy (năm 1429, tức là tục biên bộ Đại
Việt sử ký của Lê Văn Hưu trước kia). Văn bản Đại Việt sử ký của Lê Văn
Hưu nay không còn nữa, mà văn bản phần lục biên của Phan Phu Tiên cũng
không còn. Trong văn bản Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên tất nhiên
có phần của hai ông nhưng không thể nhận được rõ phần nào là văn của Lê
Văn Hưu và phần nào là văn của Phan Phu Tiên. Riêng về một số lời bàn của
hai ông thì có ghi kèm với tên họ của từng người. Qua những lời bàn ấy thì có
thể thấy được tư tưởng chính trị, xã hội và quan điểm sử học của Lê Văn Hưu
cũng như của Phan Phu Tiên.
Bàn về Trần Minh tông, Phan Phu Tiên viết:
“Minh tông có lòng nhân hậu, nối nghiệp thái bình, phép cũ của tổ tông
không thay đổi việc gì. Bấy giờ có người học trò dâng sớ nói rằng trong dân
có nhiều người du đãng, đến già cũng không có tên trong sổ, không chịu thuế
khóa, sai phái tạp dịch không đụng đến họ. Vua nói: Nếu không có người như
thế, sao thành đời thái bình được? Ngươi muốn ta trách phạt họ thì có được
việc gì không? Triều thần như Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế
độ. Vua nói: Nhà nước đã có phép tắc nhất định, nam bắc khác nhau, nếu
nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”
(Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển VII, Kỷ nhà Trần).
Như thế là Phan Phu Tiên, qua lời ca ngợi Trần Minh tông, đã chủ
trương rằng trong việc cai trị phải khoan sức cho dân, và trong việc dựng
nước phải có tinh thần độc lập, tự chủ. Viết về việc Trần Dụ tông đánh bạc,
Phan Phu Tiên phê phán như sau: “Pháp độ nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc
đến như thế, mà đến thời Dụ tông lại công nhiên tự làm bậy, cho gọi những
người nhà giàu vào cung đánh bạc, rồi sau người trong nước bắt chước, cái
dở ấy không thể ngăn cấm được nữa, thành ra vì tệ hại đánh bạc rồi đến mất
nước” (Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển VIII, Kỷ nhà Trần).
Phan Phu Tiên lại phê phán việc Hồ Quý Ly tự nhận là dòng dõi xa của
Ngu Thuấn, rồi cướp ngôi nhà Trần, đổi tên nước Đại Việt thành nước Đại
Ngu, như sau: “Khổng tử nói: Không phải là ma của nhà mình mà lại cúng, thế
là xiểm nịnh… Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mãn, tế Ngu
Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời, cướp ngôi không gì lớn bằng…” (Đại
Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển VIII, Kỷ nhà Trần).
Qua hai đoạn trên đây, lại thấy Phan Phu Tiên đòi hỏi người lãnh đạo
Nhà nước phải gương mẫu, trung thực, thẳng thắn thì việc chính trị mới tốt
được.
Nhìn chung, Phan Phu Tiên có quan điểm tích cực và sáng suốt khi
nhận xét về lịch sử và nhân vật lịch sử, thể hiện tinh thần dân tộc và tư tưởng
thân dân rất tiêu biểu cho các nhà trí thức Đại Việt hồi đầu thế kỷ thứ XV.
Tinh thần ấy, tư tưởng ấy cũng lại thấy ở Ngô Sĩ Liên, người kế tục
công việc của Phan Phu Tiên trong nửa thứ hai thế kỷ thứ XV. Ngô Sĩ Liên
(?–?), người làng Chúc Lý (nay là thôn Chúc Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Sơn Bình), đỗ tiến sĩ khoa Nhâm tuất, niên hiệu Đại Bảo
thứ ba đời Lê Thái tông, và do đó được bổ vào Hàn lâm viện. Đến đời Lê
Thánh tông, ông làm Lễ bộ hữu thị lang, Triều liệt đại phu, kiêm Quốc tử giám
tư nghiệp, Quốc sử quán tu soạn. Ngô Sĩ Liên với tư cách là sử quan nhà Lê,
đã hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Kỷ hợi, niên hiệu Hồng
Đức thứ 10. Điều đáng chú ý trước hết là ông đã sử dụng không ít tư liệu dân
gian để viết chính sử của Nhà nước. Trong bài biểu dâng bộ Đại Việt sử ký
toàn thư, ông viết: “… tôi đem hai bộ Đại Việt sử ký đã làm khi trước tham
khảo với các sách dã sử làm thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Cũng chính vì
vậy mà trong Đại việt sử ký toàn thư thấy nhiều sự tích vốn có nguồn gốc từ
truyền thuyết dân gian như công cuộc xây thành của An Dương vương với
việc thần Kim Quy trừ tinh gà trắng và cho nhà vua lẫy nỏ, thời thơ ấu của
Đinh Bộ Lĩnh với việc cờ lau tập trận và việc rồng hiện lên cứu Bộ Lĩnh qua
sông, thời thơ ấu của Lý Công Uẩn ở nhà chùa với những triệu chứng kỳ lạ,
sự tích Từ Đạo Hạnh với những phép thuật cao cường v.v… Chẳng cứ gì
trong những đoạn chép lại các sự tích mà ngay trong lời bàn (tức ỉà ý kiến
của bản thân Ngô Sĩ Liên) về các nhân vật lịch sử lại cũng thấy ông ít nhiều
tin theo những lời truyền tụng trong dân gian, tin theo những tín ngưỡng dân
gian. Bàn về Hai bà Trứng, ông viết: “Bà Trưng căm phẫn thái thú nhà Hán
bạo ngược, vén cánh tay giơ lên, cất giọng hô to một tiếng mà quốc thống
nước ta cơ hồ lại được hợp lại: Cái khí khái anh hùng ấy há riêng thể hiện ỗ
chỗ dựng nước, xưng vương trong lúc sống thôi đâu? Đến lúc mất rồi, lại cứu
hoạn nạn, chống tai ương (cho dân), phàm những lúc có xảy ra tai nạn, tử
thương, hạn, lụt, (hễ dân), cầu đảo thì việc gì cũng được ứng nghiệm. Bà
Trưng em cúng vậy. Thế mới biết đàn bà mà có hành động như đàn ông thì
khí phách hùng dũng vẫn bàng bạc ở trong vòng trời đất, không vì thể chất
mất đi mà có giảm kém. Vậy, đại trượng phu há chẳng nên gây nuôi lấy cái
khí cương trực chính đại hay sao?” (Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, quyển
2, Kỷ Trưng vương).
Rõ ràng là Ngô Sĩ Liên tin rằng hai bà Trưng, vì là anh hùng dân tộc,
cho nên sau khi chết, vẫn để lại khí anh linh trong trời đất và luôn luôn hiển
ứng để cứu giúp nhân dân. Mà tin như thế thì chính là theo tín ngưỡng của
nhân dân. Tín ngưỡng ấy có phần chất phác và hoang đường, nhưng niềm tự
hào về anh hùng dân tộc thì lại đáng quí.
Về Sơn tinh, Thủy tinh, ông kể như sau: Cuối đời Hùng vương, vua có
con gái là Mỵ Nương, người xinh đẹp. Thục vương nghe tiếng đến cầu hôn.
Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: “Họ muốn dòm nước ta, mượn việc
hôn nhân lấy cớ mà thôi”. Thục vương vì việc ấy mà có lòng căm giận. Vua
muốn tìm người đáng gả, bảo các bề tôi rằng: “Đứa con gái này là giống tiên,
người nào có đủ tài đức mới cho làm rể”. Bấy giờ có hai người từ ngoài đến,
lạy ở dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi. Đáp rằng một người là Sơn
tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong bờ cõi đất nước, nghe nhà vua có
thánh nữ, đánh bạo đến đợi mệnh. Vua nói: “Ta có một con gái, có thể gả cho
cả hai thế nào được!”. Bèn hẹn rằng đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ
đến trước thì gả cho. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về. Hôm sau, Sơn tinh đem
châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng, đủ các thứ đến dâng lên. Vua y hẹn,
gả con gái cho. Sơn tinh đón vợ về ở ngọn cao núi Tản Viên. Thủy tinh đem
sính lễ đến sau, hối tiếc không kịp, mới kéo mây làm mưa, dâng nước lên tràn
ngập, đem loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn tinh lấy lưới sắt chăng
ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn lại. Thủy tinh theo dòng sông khác
từ Lý Nhân vào chân núi Quảng Oai, rồi theo dọc bờ lên cửa Hát, ra sông lớn
mà rẽ vào sông Đà để tiến công núi Tản Viên, khắp chốn đào sâu thành chằm
thành vực, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn tinh có phép thần biến hóa, gọi
người Man đan tre làm rào để chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài thủy tộc
trúng tên đều chạy trốn cả. Rút cục không thể xâm phạm được núi Tản Viên.
Tục truyền rằng Sơn tinh và Thủy tinh từ đấy về sau đời đời thù nhau;
mỗi năm, mùa nước to thường vẫn đánh nhau.
Núi Tản Viên là núi cao nhất của nước Việt, sự linh thiêng rất là ứng
nghiệm.
Mỵ nương đã lấy Sơn tinh. Thục vương căm giận, dặn lại con cháu tất
phải kiêm tính lấy nước Văn Lang; đến cháu là Thục Phán có dũng lược bèn
đánh lấy nước Văn Lang (Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, quyển I, Kỷ Hồng
Bàng).
Với quan điểm duy lý của nhà nho, Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn về truyện
ông vừa kể như sau: “…việc Sơn tinh, Thủy tinh rất là quái đản, tin sách
chẳng bằng không có sách, hãv tạm thuật lại truyện cũ để truyền lại sự nghi
ngờ”. Tuy nhiên, chính vì chú ý đến dã sử, đến chuyện dân gian mà ông
thường “thuật lại truyện cũ” và để lại trong bộ sử của mình nhiều mẩu truyện
hay, rất có ý nghĩa văn học. Trong đoạn văn trên đây, nhiều tình tiết lý thú vốn
vẫn lưu hành trong lời truyền khẩu của nhân dân đã bị lược đi, nhưng về cơ
bản thì Ngô Sĩ Liên đã dựng lại được một cách khá sinh động và ngắn gọn
nội dung của truyện Sơn tinh và Thủy Tinh. Thuật lại việc nhân vật này xuất
hiện một cách đột nhiên và hành động một cách khác thường, ngòi bút của
Ngô Sĩ Liên tuy đã giản lược mà vẫn giữ được khí vị của truyện thần thoại.
Kể việc Lý Công uẩn lên ngôi, thì bút pháp của Ngô Sĩ Liên lại rất
tường tận:
[… Đến khi Ngọa Triều băng, vua nối nghiệp còn nhỏ. Công uẩn cùng
với Hứu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 người
binh Tùy Long canh giữ. Khi ấy chức Chi hậu là Đào Cam Mộc do biết Công
Uẩn có ý muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng người, hỏi để gợi
xem: “Mới rồi chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời
chán nên không cho hưởng hết tuổi thọ; con nối nghiệp thì thơ ấu, chưa cáng
đáng nổi tình thế khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu, bách thần không ưa, dân
chúng ngóng tìm chân chúa. Sao ông không nhân lúc này vận dụng mưu cao,
quyết đoán sáng suốt, xa thì xem dấu cũ của Thang, Vũ, gần thì xem việc làm
của Đinh, Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo lòng dân, mà lại cứ muốn khư
khư giữ tiểu tiết làm gì?”. Công Uẩn nghe Cam Mộc nói như thế, trong bụng
thì thích, nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu kế gì khác, mới giả vờ mắng rằng:
“Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông đem nộp”. Cam Mộc ung dung bảo
Công Uẩn rằng: “Tôi thấy thời của trời, việc của người là như thế, cho nên tôi
nói thế, nay ông lại muốn cáo giác tôi, nhưng tôi không phải là người sợ chết
đâu”. Công Uẩn nói: “Tôi không nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói ấy tiết lộ ra thì
chết, nên răn ông đấy thôi”. Hôm khác, Cam Mộc lại bảo Công uẩn rằng:
“Người trong nước ai cũng bảo rằng họ Lý sẽ phát, mà lời sấm ấy đã rõ rồi,
đó là cái họa không thể che giấu được nữa; chuyển họa thành phúc chỉ trong
buổi hôm buổi mai. Trong lúc trời trao người theo, ông còn ngần ngại gì
nữa?”. Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu rõ ý ông, cùng với Vạn Hạnh không khác
gì. Nếu thực là như lời ấy, thì nên tính kế thế nào?”. Cam Mộc nói: “Ông là
người công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ, lòng người ngả theo. Hiện
nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi, ông nên nhân thế lấy ân đức mà
vỗ về, thì người ta tất là xô nhau kéo về như nước chảy chỗ trũng, ai mà lại
có thể ngăn được?”. Cam Mộc biết sự việc đã gấp, sợ để chậm sẽ sinh biến,
mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui lòng theo cả. Ngay ngày
hôm ấy, mọi người đều họp cả trong triều, bàn nhau rằng: “Hiện nay, dân
chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo
ngựơc, không muốn theo về với vua nối nghiệp, mà đêu có lòng muốn suy tôn
quan Thân vệ. Bọn ta không nhân lúc này mà tôn phù quan Thân vệ làm thiên
tử, phút chốc xảy ra tai biến, chúng ta có thể giữ được đầu không?”. Bấy giờ
cùng nhau dìu Công uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử. Trăm quan đều lạy
rạp ở dưới sân, trong ngoài đều hô “vạn tuế”, vang dậy cả trong triều.]
(Đại Việt sử ký bản toàn thư, quyển 1, Kỷ nhà Lê)
Trước đoạn này, Ngô Sĩ Liên đã kể lại việc lưu hành những lời sấm
ngữ báo hiệu nhà Lý sẽ thay nhà Lê. Những lời sấm ấy chắc do tăng lữ đứng
đầu là sư Vạn Hạnh đặt ra để tác động đến tâm lý mọi người vốn đang chán
ghét nhà Lê. Lý Công Uẩn trước kia là con nuôi của nhà chùa, nay được nhà
chùa ủng hộ, chắc đã biết việc làm của tăng lữ nhưng lại làm ra vẻ không biết
gì cả. Qua đoạn nầy, Lý Công Uẩn đã được miêu tả như một người thâm
trầm kín đáo, có ý đồ lớn mà rất thận trọng. Đào Cam Mộc thì lại là một người
lanh lợi, hoạt bát, giỏi liệu lòng người, lo công việc. Còn không khí xã hội, tâm
lý trăm quan thì đều tỏ ra ủng hộ Lý Công Uẩn, cho nên việc lên ngôi của nhà
Lý rất dễ dàng, trôi chảỵ. Đáng chú ý là bằng việc miêu tả hành động là chủ
yếu mà Ngô Sĩ Liên đã khắc hoạch được tính cách của các nhân vật khá sâu
sắc. Bút pháp ấy lại càng sinh động trong đoạn viết về Lý Chiêu Hoàng và
Trần Cảnh:
[Cảnh lúc ấy mới lên tám tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm đến
phiên giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu hoàng
trông thấy, yêu lắm. Mỗi khi chơi đêm, cho gọi Cảnh đến cùng chơi; thấy
Cảnh ở chỗ tối thì chạy đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng vào
bóng. Có một hôm Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu hoàng rửa mặt,
lấy tay té nước ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu. Đến khi Cảnh bưng khăn trầu
thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ.
Thủ Độ nói: “Nếu thực có như thế thì họ ta làm vua chăng? chết cả họ
chăng?”. Lại một hôm, Chiêu hoàng lấy khăn trầu ném cho Cảnh. Cảnh lạy và
nói: “Bệ hạ có tha tội cho thần không, thần xin vâng mệnh”. Chiêu hoàng cười
và nói: “Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đấy”. Cảnh lại về báo
cho Thủ Độ biết. Thủ Độ sợ việc tiết lộ ra thì bị giết cả. Bấy giờ mới tự đem
gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa
cung, cắt người coi giữ. Các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan
báo rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”. Các quan đều nói: “Được, xin chọn ngày
vào chầu”. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu, lạy mừng…]
(Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, q. IV, Kỷ nhà Lý)
Tính cách ngây thơ của Lý Chiêu hoàng, cảnh vui chơi đùa nghịch của
cô gái ấy, tâm lý vừa thích vừa sợ của Trần Cảnh, sự gian hùng và tính quyết
đoán của Trần Thủ Độ, thế bị động và tính nhu nhược của trăm quan, tất cả
đều biểu hiện rất rõ nét dưới ngòi bút của Ngô Sĩ Liên. Chỉ với một đoạn văn
ngắn, gọn mà không những ông đã miêu tả được đầy đủ tính cách của các
nhân vật, ý nghĩ và hành động của họ mà còn trình bày được một cách rành
mạch và sinh động mọi tình tiết trong sự diễn biến của sự việc nhà Trần đoạt
ngôi nhà Lý.
Bút pháp của Ngô Sĩ Liên có khi lại miêu tả tâm lý của nhân vật một
cách hàm súc, như trong đoạn viết về mối quan hệ giữa Trần Quốc Tuấn và
Trần Quang Khải:
[… Thánh tông đi đánh giặc. Quang Khải theo hầu, ghế thủ tướng bỏ
không. Vừa gặp lúc sứ phương bắc sang, (thượng hoàng) Thái tông gọi Hưng
đạo vương Quốc Tuấn, bảo rằng: “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẩm
muốn khanh làm tư đồ để ứng tiếp sứ thần phương bắc”. Quốc Tuấn trả lời:
“Việc ứng tiếp sứ thần phương bắc, thần không dám từ chối, còn việc cho
thần làm tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh
giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ tự phong cho thần chức ấy thì tình
nghĩa sợ có chỗ chưa ổn, không được thỏa lòng Quan gia và Quang Khải, đợi
khi Quan gia về sẽ xin nhận chức cũng chưa muộn gì.” Đến khi Thánh tông
về, việc ấy lại bỏ đấy, vì (Quang Khải và Quốc Tuấn) hai người vốn không ưa
nhau. Có một hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp đến, Quang Khải xuống thuyền
đánh cờ chơi suốt ngày mới về. Lại tính Quang Khải lười tắm gội, Quốc Tuấn
thì thích xông tắm, từng nói đùa với Quang Khải rằng: “Thân cáu bẩn; xin tắm
giùm”. Quốc Tuấn mới cởi áo của Quang Khải ra, lấy nước thơm để tắm và
nói: “Hôm nay được tắm cho thượng tướng”. Quang Khải cũng nói: “Hôm nay,
được quốc công tắm cho”. Từ đấy, hai người vui chơi với nhau, tình thân
càng mặn. Làm tướng văn, tướng võ, phù giúp nhà vua hai ông đứng hàng
đầu.]
(Đại Việt sử ký toàn thư, q.VI, Kỷ nhà Trần)
Trong một đoạn văn tự sự ngắn gọn, tính cách và nội tâm của Trần
Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã được miêu tả một cách sinh động và sắc
nét. Trần Quốc Tuấn vốn cùng với Trần Quang Khải không hòa mục. Nhưng
ông không lợi dụng lúc Trần Quang Khải đi vắng mà đón ý thượng hoàng
Thái tông để tranh lấy chức Tư đồ của Trần Quang Khải. Sau đó, ông lại chủ
động làm thân với Trần Quang Khải. Việc ông tắm cho Trần Quang Khải biểu
hiện sự đoàn kết giữa những quan chức cao cấp của đất nước khi ấy. Trần
Quang Khải cũng có ý thức về yêu cầu phải đoàn kết như thế và tỏ ra xứng
đáng với thiện chí của Trần Quốc Tuấn. Sự đoàn kết giữa Trần Quốc Tuấn và
Trần Quang Khải đã là một trong những yếu tố tích cực đối với việc tăng
cường bộ máy lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc nguyên.
Bút pháp của Ngô Sĩ Liên lại rất tinh tế khi viết về việc Mạc Đĩnh Chi đi
sứ:
[Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang nước Nguyên. Đĩnh Chi thấp bé, người
Nguyên tỏ vẻ khinh bỉ. Một hôm, tể thần mời vào trong phủ cùng ngồi. Lúc ấy
đương khoảng tháng 5, tháng 6, trong phủ có treo tấm màn mỏng, thêu hình
con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Đĩnh Chi giả vờ lầm là chim sẻ thật, vội
chạy đến bắt. Người Nguyên đều cười ồ lên, cho là người phương xa quê
mùa. Đĩnh Chi kéo cái màn xuống xé đi. Mọi người đêu lấy làm lạ, hỏi cớ sao,
Đĩnh Chi trả lời: “Tôi nghe người xưa có vẽ chim sẻ đậu cành mai, chưa thấy
vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong trướng của tể tướng lại thêu
chim sẻ đậu cành trúc. Trúc là quân tử, sẻ là tiểu nhân, tể tướng đem chim sẻ
đậu cành trúc mà thêu vào màn trướng, thế là để tiểu nhân lên trên quân tử.
Tôi sợ rằng đạo của tiểu nhân ngày càng lớn thịnh lên, đạo của quân tử ngày
càng mòn mỏi đi, cho nên tôi trừ giúp bọn tiểu nhân cho thánh triều”. Mọi
người đều phục là nhanh trí khôn. Đến khi vào chầu, vừa gặp nước ngoài
dâng quạt. Vua Nguyên sai làm bài minh. Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay, lời
văn như sau:
“Lưui kim thước thạch, thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề, Y Chu cự
nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề, Di Tê ngạ
phu.
Y! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như
thị phù.”
(nghĩa là: Chảy vàng chảy đá, trời đất như cái lò, ngươi trong lúc ấy
như bậc cự nho Y và Chu. Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, ngươi
trong lúc ấy như hạng chết đói Bá Di, Thúc Tề. Ôi! dùng thì làm, bỏ thì náu,
chỉ ta với ngươi, là như thế ru.]
(Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển VI. Kỷ nhà Trần).
Rõ ràng là Mạc Đĩnh Chi có dụng ý đả kích tể tướng nhà Nguyên để trả
lời việc người nhà Nguyên khinh thị ông. Cái kẻ đã thích thú bức màn thêu
chim sẻ đậu trên cành trúc thì tất là trọng kẻ tiểu nhân, khinh bậc quân tử. Và
nếu tể tướng nhà Nguyên mà khinh thị Mạc Đĩnh Chi thì khác gì con chim sẻ
kia dám đậu lên trên cành trúc. Việc Mạc Đĩnh Chi xé bức màn thêu ấy và
việc ông đối đáp như thế với người Nguyên không chắc có thực. Chỉ biết
trong kho tàng truyện dân gian về các ông Trạng đi sứ thì đó là một truyện rất
quen thuộc. Có thể nghĩ rằng Ngô Sĩ Liên đã dựa vào dã sử, truyền thuyết để
viết nên đoạn văn sinh động như thế.
Nhìn chung, trong Đại Việt sử ký toàn thư có rất nhiều đoạn mà nội
dung và lời văn vượt ra ngoài yêu cầu của một công trình sử học. Và nếu như
các bộ sử Cương mục (như bộ Việt sử thông giám cương mục của triều
Nguyễn) nên được gạt ra ngoài phạm vi nghiên cứu văn học thì lịch sử văn
học cổ lại phải tính đến sắc thái văn học rất đậm của Đại Việt sử ký toàn thư.
Ở những tập truyện, ký, lục, vốn được coi là thể loại phụ của văn chép
sử thì bút pháp không chịu nhiều sự ràng buộc của những thể lệ chép sử
bằng các bộ sử, kể cả Đại Việt sử ký toàn thư. Trong quá trình tiến lên của
lịch sử văn học, yêu cầu phản ánh hiện thực phong phú và phức tạp của cuộc
sống ngày càng thúc đẩy các tác giả vượt ra ngoài khuôn khổ của dụng ý đơn
thuần là chỉ chép các sự tích có sẵn. Các tập ký, lục, truyện vốn chú ý nhiều
đến dã sử, đến tư liệu dân gian lại dần dần có thêm những phần phóng tác,
hư cấu của tác giả. Cho nên các tác phẩm ấy ngày càng tách khỏi văn sử học
mà có ý nghĩa văn học nhiều hơn.
Về truyện ký, thế kỷ thứ XV để lại những tác phẩm như Lam Sơn thực
lục, Thánh tông di thảo, Lĩnh nam chích quái và Tục Việt điện u linh, Hương
miệt hành…
Lam Sơn thực lục là một tác phẩm sử học do Nguyễn Trãi viết ra theo
lệnh của Lê Lợi. Ngô Sĩ Liên viết: “Ngày mồng sáu tháng chạp năm Tân hợi
(tức năm 1431), vua (tức Lê Lợi) sai làm Lam Sơn thực lục, vua đề tựa, ký là
Lam Sơn động chủ” (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 1, tờ 13b). Ngô Sĩ Liên
không cho biết rõ là vua sai ai. Trong Lam Sơn thực lục có nhiều câu, nhiều ý
lại thấy ở trong Văn bia Vĩnh lăng (do Nguyễn Trãi viết sau khi Lê Lợi chết). Vì
vậy nếu Nguyễn Trãi không phải là tác giả duy nhất của Lam Sơn thực lục thì
“viết văn thảo hịch giỏi nhất một thời”, ông tất nhiên phải là một những người
chủ chốt được vua sai viết tác phẩm và rất có thể ông còn là chủ biên của tập
thể biên soạn ấy.
Văn bản Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi (hoặc tập thể biên soạn do
ông đứng đầu) đã thất lạc từ lâu. Văn bản hiện nay còn giữ được chắc là
chép theo bản Trùng san Lam Sơn thực lục do nho thần đời Lê Hy tông biên
soạn lại vào khoảng năm đầu niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) dưới sự chủ
biên của Hồ Sĩ Dương. Chắc là Hồ Sĩ Dương và những người cộng tác với
ông, trong khi “trùng san” đã thêm bớt, sửa chữa lại bản cũ. Nhưng từ bản
trùng san của Hồ Sĩ Dương đến bản chép tay hiện còn giữ được chắc lại đã
có sự thêm bớt, sửa chữa của những người sao chép từ thế kỷ thứ XVII trở
về sau. Vì vậy không thể coi bản Lam Sơn thực lục hiện còn giữ được là hoàn
toàn do Nguyễn Trãi viết ra. Dầu sao, Lam Sơn thực lục về cơ bản cũng là tác
phẩm của thế kỷ thứ XV, của Nguyễn Trãi và những người cộng tác với ông.
Lam Sơn thực lục viết về sự nghiệp mười năm kháng chiến của Lê Lợi.
Sách gồm 3 quyển. Quyển thứ nhất dừng lại ở các sự kiện xảy ra năm Ất tỵ
(năm 1425). Quyển này, sau khi kể về nguồn gốc họ Lê từ bốn đời trước Lê
Lợi cho đến khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn năm Mậu tuất (1418), đã kể lại
các sự kiện trong tám năm đầu của cuộc kháng chiến chống Minh như cuộc
chiến đấu thắng lợi ở Lạc Thủy, cơn tuyệt lương ở Chí Linh với sự hy sinh
cao cả của Lê Lai năm Mậu tuất (năm 1418), các trận phục binh thắng lợi ở
vùng Lam Sơn, Bồ Mộng, các chiến thắng ở Bồ Thi lang, Ba Lẫm, Quan Du
năm Canh tý (năm 1420), trận phục binh chiến thắng ở Đèo Ống, cuộc chiến
đấu chống âm mưu tập kích của địch và sự hy sinh của Lê Thạch năm Tân
sửu (năm 1421), cuộc chiến đấu gian khổ ở Sách Khôi, cơn tuyệt lương ở Chí
Linh và sách lược tạm giảng hòa với giặc để dưỡng sức cho quân năm Nhâm
dần (năm 1422), trận chiến thắng ở Đa Căng, trận chiến thắng ở Bồ Lạp, việc
mở rộng căn cứ ở các đất Thanh Hóa, Nghệ An năm Giáp thìn (năm 1424),
việc khước từ lời dụ hàng của giặc, trận đại thắng ở Khả Lưu và giai đoạn
đầu của cuộc bao vây thành Nghệ An năm Ất tỵ (năm 1425).
Quyển thứ hai kể các sự kiện từ năm Ất tỵ (năm 1425) đến năm Đinh
mùi (năm 1427) tức là cho đến khi cuộc kháng chiến thắng lợi. Quyển này kể
lại việc nhân dân Nghệ An ủng hộ nghĩa quân; cuộc vây đánh thành Nghệ An;
trận đánh úp Tây Đô và tình hình nhân dân Thanh Hóa ủng hộ nghĩa quân;
các chiến thắng giải phóng các thành Tân Bình Thuận Hóa; cuộc tiến quân ra
giải phóng các lộ Quốc Oai, Gia Hưng, Lâm Thao, Tam Đái, Tuyên Quang, ở
miền Tây và Tây Bắc Đông Đô, các Phủ Thiên Quan, Thiên Trường, Tân
Hưng, Kiến Xương ở phía Nam Đông Đô, các lộ Khoái Châu Thượng Hông,
Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang ở phía đông và phía đông bắc Đông Đô;
tình hình nhân dân khắp nơi ủng hộ nghĩa quân năm Ất tỵ (năm 1425) trận đại
thắng ở Ninh Kiều; trận chiến thắng ở Tam Giang chặn quân tiếp viện của
giặc từ Vân Nam kéo sang; trận đại thắng Vương Thông ở Tốt Động tiêu diệt
năm vạn quân giặc; cuộc vây đánh thành Đông Đô; tình hình nhân dân khắp
miền Bắc từ xuôi đến ngược ủng hộ nghĩa quân, tham gia tòng quân và đẩy
mạnh cao trào kháng chiến: việc giải phóng các thành Điêu Diêu, Thị Câu,
Tam Giang, Xương Giang, Khâu Ôn vào năm Bính ngọ (năm 1426); trận
chiến thắng ở Pha Lũy; trận đại thắng ở Chi Lăng, chém đầu Liễu Thăng và
Lý Khánh, trận đại thắng ở Xương Giang, bắt sống Thôi Tụ và Hoàng Phúc,
trận đuổi đánh Mộc Thạnh ở Lê Hoa vào năm Đinh mùi (năm 1427); và cuối
cùng là việc Vương Thông cùng toàn bộ tướng tá, binh sĩ của đạo quân xâm
lược phải xin đầu hàng ở Đông Đô vào ngày 16 tháng chạp năm Đinh mùi
(năm 1427).
Quyển thứ ba kể việc Lê Lợi lên làm vua, ban thưởng công thần, và kết
thúc bằng việc mượn lời Lê Lợi để phân tích thắng lợi của cuộc kháng chiến,
nêu rõ những lý do thành công và khuyên con cháu phải biết cần kiệm, đoàn
kết, cảnh giác để cho nghiệp lớn được vững bền.
Trong Lam Sơn thực lục có những đoạn mang nhiều yếu tố hoang
đường như việc Lê Thận mò được lưỡi gươm có chạm những chữ “Thuận
Thiên”, “Lợi” và Lê Lợi bắt được cái chuôi vừa khớp với lưỡi gươm, việc Lê
Lợi và vợ bắt được ấn báu cũng chạm những chữ như ở lưỡi gươm, việc Lê
Lợi và Lê Liễu bị giặc đuổi bắt, may được hương hồn một người đàn bà chết
bên sông Khả Lam cứu thoát (ở quyển 1), việc Lê Lợi giao người vợ thiếp là
Trần Thị Ngọc Trần cho thần Phổ Hộ bắt lấy làm vợ để được sự giúp đỡ của
thần trong việc đánh giặc (ở quyển 2). Những đoạn như thế chắc là do người
đời sau dựa trên cơ sở truyền thuyết mà thêm vào. Tất nhiên những truyền
thuyết ấy cũng ít nhiều có yếu tố dân gian, nhưng lại mang nhiều yếu tố mê
tín dị đoan. Với dụng ý chép những sự kiện trong công cuộc cứu nước của Lê
Lợi một cách chính xác và nghiêm trang theo yêu cầu của sử bút, chắc là
Nguyễn Trãi (và tập thể biên soạn sách Lam Sơn thực lục) không thể đưa
những tình tiết bịa đặt, dị đoan ấy vào tác phẩm được.
Lam Sơn thực lục đã kể các sự việc một cách ngắn, gọn theo lối chép
sử. Tuy nhiên, trong tác phẩm, cùng với tính cách tinh giản của bút pháp lại
thấy khá rõ tính cách sinh động. Viết về sự nghiệp khai cơ của Lê Lợi, Lam
Sơn thực lục tất nhiên có dụng ý đề cao vai trò của Lê Lợi. Và các tác giả đã
đạt được kết quả ấy.
Về năm Nhâm dần (năm 1422), Lam Sơn thực lục kể sự việc sau:
[Năm Nhâm dần ngày 24 tháng chạp, giặc Ngô lại ước với Ai Lao hiệp
đồng đánh vua ở trước mặt và sau lưng tại sách Da Quan. Quân ta đánh mấy
trận, nhiều người bị thương, hơi có tổn thất, liền ngầm lui sang Sách Khôi,
yên ủy quân lính, chỉnh đốn khí giới để chờ thời cơ. Mới được bảy ngày, giặc
quả nhiên kéo đến. Vua bảo các tướng sĩ rằng: “Giặc đến vây ta bốn mặt. Ta
muốn đi thì đi đường nào được? Đây là nơi binh pháp gọi là tử địa. Đánh mau
thì còn; không đánh mau thì chết”. Nói xong ứa nước mắt. Các tướng sĩ đẽu
cảm kích, tranh nhau liều chết đánh. Bọn Lê Vấn, Lê Linh, Lê Hào, Lê Triện
xông vào trận trước, bắt được tướng giặc là Phùng Quí. Quân giặc thua to.
Mã Kỳ, Trần Trí chỉ chạy thoát thân. Quân ta chém được hơn nghìn đầu, bắt
được hơn trăm ngựa.]
Ở đây Lam Sơn thực lục đã miêu tả Lê Lợi như là một người biết liệu
sức mình, không chỉ biết tiến mà còn biết thoái, không chỉ biết hăng hái mà
còn biết đợi chờ, gặp lúc quẫn bách lại biết quyết đoán đúng và nhanh, biết
động viên tướng sĩ với tất cả niềm chân thành của mình.
Về năm Ất tỵ (năm 1425), Lam Sơn thực lục kể sự việc sau:
[Nước Minh vào khoảng năm Hông Hy, (tức năm Ất tỵ) lại cho nội quan
Sơn Thọ dùng lời quỉ quyệt dụ dỗ vua. Vua biết trước ý giặc, nói rằng: “Sứ
giặc dụ ta, ta nên nhân chỗ hở của nó mà dùng nó”. Rồi vua cho sứ đi lại để
dò xét tình hình giặc nhằm mưu đánh úp thành Nghệ An. Giặc biết mưu ấy,
bèn thôi không đi lại giao thiệp nữa. Thế là vua chỉnh đốn binh và voi, do thủy
bộ đều tiến, để đánh úp thành Nghệ An. Quân sắp đi, thì có tin báo rằng giặc
đem nhiều binh sĩ, voi, ngựa, thuyền, thủy bộ đều tiến. Vua bèn họp các
tướng sĩ bàn rằng: “Giặc nhiều ta ít, lấy ít đánh nhiều thì phải có đất hiểm mới
có thể thành công được. Và binh pháp nói rằng phải khống chế người chứ
đừng để người khống chế mình”. Liền chia hơn hai nghìn quân, sai Lê Liệt đi
đường tắt Đỗ Gia, cướp lấy đất mà giành chỗ tiện. Vua thì thân đem đại binh
đi giữ chỗ hiểm để chờ. Vừa ba bốn ngày, thì giặc đem hết quân do thủy bộ
đều đến ải Khả Lưu, đắp dinh lũy ở hạ lưu. Vua ở thượng lưu, giương cờ
trống, ban đêm thì đốt lửa, lại ngầm sai quân tinh nhuệ và bốn thớt voi qua
sông phục ở nơi hiểm yếu. Trời gần sáng, giặc cho quân thủy bộ đều tiến, để
đánh doanh trại của vua. Vua giả lui, nhử giặc vào chỗ có phục binh. Giặc
không ngờ, đem hết quân tiến vào sâu. Phục binh bốn mặt nổi dậy, xông vào
đánh. Giặc vỡ to, bị chém và chết đuối kể hàng vạn.]
Qua đoạn này thì lại thấy Lê lợi tỏ ra có mưu lược, biết nhân kế của
giặc mà tiến hành kế của mình, có tinh thần tiến công, biết đánh lừà quân địch
đông hơn mà lấy ít thắng nhiều.
Cũng về năm Ất tỵ (năm 1425), Lam Sơn thực lục kể lại sự việc sau:
[Năm ấy ngày 15 tháng 4, tướng giặc là Lý An lại đem quân thủy từ
Đông Đô đến cứu. (Nghệ An). Vua đoán rằng thế giặc khốn cùng, hàng ngày
chỉ chờ đợi viện binh đến thì tất mỡ cửa thành ra đánh. Liền phục binh ở bờ
sông, chờ giặc qua sông được nửa chừng thì đánh. Đến ngày 27, quả nhiên
giặc kéo ra đánh trại Lê Thiệt. Phục binh của vua vùng ra đánh, giặc thua to,
quân ta chém hơn nghìn đầu, quân giặc chết đuối rất nhiều. Từ đấy giặc càng
hoảng sợ, đắp thêm lũy để cố sức chống giữ. Vua nói: “Quân giặc kéo đến
hết để cứu thành Nghệ An thì các nơi khác tất là trống rỗng”. Vua bèn chia hai
nghìn tinh binh, hai thớt voi, sai bọn cháu ngoại là Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê
Triện, Lê Nhân Chú đi một mạch suốt ngày ra đánh úp thành Tây Đô. Giặc
đóng cửa thành (Tây Đô) chống giữ. Quân ta đánh thắng, bắt được giặc rất
nhiều, chém hơn năm trăm đầu, Phàm nhân dân ở gần thành giặc, quân ta
mảy may không xâm phạm đến. Bấy giờ nhân dân ở lộ Thanh Hóa và bà con
thân thuộc của vua đều tranh nhau đến cửa quân, nguyện hăng hái ra sức để
báo đền (công ơn). Chưa đầy ba ngày, bộ ngũ quân ta sắp đặt đâu vào đấy,
liền vây chặt thành Tây Đô. Lê Lễ, Lê Triện yên ủi, vỗ về nhân dân, rèn luyện
binh sĩ để mưu tiến đánh. Bấy giờ thành giặc ở các xứ Tân Bình, Thuận Hóa
đã lâu không có tin tức gì với Nghệ An và Đông Đô. Vua bảo các tướng rằng:
“Tướng giỏi đời xưa bỏ chỗ vững đánh chỗ hở, tránh chỗ chắc đánh chỗ hư,
như thế là dùng sức có một nửa mà thành công gấp đôi”. Liền sai bọn Lê Nỗ,
Lê Bồ đem hơn nghìn binh, một thớt voi đánh các thành Tân Bình, Thuận Hóa
để chiêu phủ nhân dân. Đến Bố Chánh thì gặp giặc, liền đem quân vào chỗ
hiểm để mai phục. Giặc đến bức quân ta, Lê Nỗ đem một thớt voi và những
quân khỏe mạnh đột kích vào trận giặc. Giặc bị chém đầu và chết đuối hơn
nghìn người. Vua sai bọn Lê Triện, Lê Bôi, Lê Văn An đem bảy mươi chiếc
thuyền vượt biển, đánh thẳng vào sào huyệt giặc. Đến khi được tin chiến
thắng của Lê Nỗ thì Lê Triện, Lê Bôi, Lê Văn An bèn thừa thắng cả phá các
xứ Tân Bình, Thuận Hóa. Tưđng giặc phải vào thành tự thủ. Tân Bình, Thuận
Hóa là đất lòng dạ của ta. Đá được đất ấy rồi thì không còn mối lo ở phía
trong nữa.]
Ở đây thì Lê Lợi lại tỏ ra giỏi liệu đoán tình hình quân giặc, có tư tưởng
cơ động hoạt bát trong chiến thuật chiến lược, biết tránh chỗ mạnh, đánh chỗ
yếu của giặc, lại biết bảo vệ, tôn trọng đời sống và tài sản của nhân dân,
được nhân dân hết lòng ủng hộ, tướng sĩ hết lòng giúp đỡ. Do đó nghĩa quân
đã đánh đâu là thắng đấy.
Về sự trung thành của tướng sĩ, Lam Sơn thực lục nêu cao gương của
Lê Lai như sau:
[Bấy giờ (tức là vào đầu năm Mậu tuất, năm 1418) quân ta mới thắng
nhỏ, mà thế giặc lại đang mạnh, vua liền vời các tướng sĩ lại mà nói rằng: “Ai
có thể mặc áo hoàng bào thay ta đem năm trăm quân và hai thớt voi đi đánh
thành Tây Đô, thấy giặc ra đánh thì tự xưng là Chúa Lam Sơn, để cho giặc
bắt được, cho ta có thể ẩn náu thu nhặt binh sĩ mà mưu toan cơ sự về sau?”.
Các tướng đều chưa dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai nói: “Thần nguyện đổi lấy áo
bào, Chắc rằng ngày sau, bệ hạ thành đế nghiệp, có được thiên hạ, nhớ đến
công của thần sẽ cho con cháu muôn đời của thần được chịu ơn nước. Đó là
điều thần mong ước”. Vua vái trời mà khấn rằng: “Lê Lai có công đổi áo, sau
này trẫm cùng là con cháu trẫm và các tướng tá công thần cùng là con cháu
họ, nếu không nhớ đến công ấy, thì xin cung điện hóa thành rừng núi, ấn báu
hóa ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường”, Vua khấn xong, Lê Lai đem
quân đến cổng trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy binh mạnh, xông ra đánh. Lê
Lai cưỡi ngựa phi vào trận giặc, nói rằng: “Ta là Chúa Lam Sơn đây!”. Giặc
liền vây và bắt trói, đem vào trong thành, xử bằng cực hình, khác hẳn các
hình phạt thường dùng.]
Lam Sơn thực lục đã khắc hoạch hình tượng Lê Lai rất sắc nét. Một
mặt, thì với tâm lý bình thường của con người, Lê Lai khi quyết định tự hy
sinh liền nghĩ ngay đến con cái về sau, một mặt khác thì, với tầm vóc của
người anh hùng ông đã quyết là làm, không do dự trước cái chết vì đại nghĩa.
Lam Sơn thực lục trước hết là một tác phẩm sử học có giá trị, phản ánh
được một cách tương đối đầy đủ, có hệ thống cuộc kháng chiến chống Minh,
thể hiện được chiến lược, chiến thuật của nghĩa quân, tài ba của Lê Lợi và
các tướng sĩ, tinh thần ủng hộ nghĩa quân của nhân dân cả nước. Nhưng
Lam Sơn thực lục cũng lại có giá trị văn học ở chỗ đã kể lại nhiều sự việc một
cách khá hấp dẫn và khắc hoạch được một số nhân vật, đặc biệt là Lê Lợi,
với những nét tinh giản mà sắc sảo.
Bên cạnh Lam Sơn thực lục, thì Tục Việt điện u linh cũng được coi là
thể loại phụ của văn chép sử. Và tác giả đã có ý thức viết theo bút pháp chép
sử. Việt điện u linh vốn được Lý Tế Xuyên viết ra từ đầu thế kỷ thứ XIV, trong
đời Trần. Sang thế kỷ thứ XV, Nguyễn Văn Chất đã biên soạn lại sách ấy và
viết thêm một số truyện (các truyện Sóc thiên vương, Thần cửa bể Càn Hải,
Thần núi Tam Đảo) và gọi phần mới thêm vào ấy là Việt điện u linh tập tục.
Nguyễn Văn Chất, người xã Vũ Di, huyện Bạch Hạc, thuộc Vĩnh Phú
ngày nay, đố hoàng giáp khoa Mậu thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 đời Lê
Nhân tông (năm 1448), đã lần lượt làm các chức Quốc tử giám đồng tu sử,
Nghệ An tham chính, Hộ bộ thượng thư. Với tư cách đồng tu sử ở Quốc tử
giám, Nguyễn Văn Chất có dịp chú ý đến các sự tích cổ nước ta. Ông đã biên
soạn lại Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên. Có lẽ ông đã có công trong việc sưu
tập lại một trong những tác phẩm đời Trần ấy, cứu vãn cho nó khỏi bị mai
một. Ông có tham khảo Thiền uyển tập anh để bổ sung cho các truyện mà Lý
Tế Xuyên đã viết hay không? Điều đó có thể đã xảy ra. Sách Thiền uyển tập
anh là tác phẩm được in rất nhiều vì trong các đời Lý Trần, sách của nhà
chùa được khắc ván in tự do mà không phải xin phép triều đình như các sách
khác. Hơn thế nữa, nhà chùa ngày xưa thường không bị xâm phạm đến trong
các cuộc binh hỏa. Ngay cả giặc Minh nữa chắc cũng ít lục soát trong các nhà
chùa, lại càng ít đụng đến kho kinh, sách của nhà chùa tuy tướng Minh theo
lệnh vua Minh đã thu vét tất cả các văn hóa phẩm ở ngoài nhà chùa mang về
Kim Lăng và phá hủy những thứ không mang về được. Sách Thiền uyển tập
anh đời Trần vì được in nhiều, lại không thuộc loại sách bị thu vét đi hoặc phá
hủy mất, cho nên là tài liệu tham knảo dễ kiếm. Vì vậy, nếu Nguyễn Văn Chất
đã ít nhiều dựa vào sách ấy để biên soạn lại Việt điện u linh thì cũng dễ hiểu.
Có một điều chắc chắn là ông đã dựa vào Thiền uyển tập anh để viết thêm
truyện Sự tích Sóc thiên vương và xếp vào phần tục bổ của Việt điện u linh.
Sự tích này về thực chất là sự tích Thánh Dóng, nhưng đã được nhà chùa
dựng lại theo yêu cầu của Phật giáo cho nên vị thần trong thần thoại Việt cổ
đã trở thành Tỳ sa môn thiên vương có quỉ Dạ thoa theo hầu. Và chính
Nguyễn Văn Chất sau khi chép sự tích Tỳ sa môn thiên vương lại viết thêm:
[Lại có thuyết các cụ già tương truyền rằng không nhớ rõ về đời nào,
Thiên vương sinh ở một làng kia, lúc hãy còn phải bế ẵm, trong nước có giặc,
vua sai sứ đi các nơi cầu người tài giỏi ra giúp nước. Thiên vương nghe nói
vùng dậy hỏi. Bà mẹ bảo cho rõ. Thiên vương liền nói: “Xin mẹ lấy nhiều cơm
cho con ăn ngay”. Rồi ăn rất nhiều, một chốc hết mấy đấu gạo, chỉ ít lâu thân
cao tới hơn mười trượng, ra ứng mộ, đi cùng sứ giả đến kinh đô. Vua rất
mừng, hỏi muốn xin gì? Thiên vương xin một thanh gươm, một ngựa sắt, rồi
lên ngựa, thét lớn xông vào trận, quân giặc thua chạy tán loạn. Khắp nơi đều
yên. Thiên vương liền phóng ngựa đến núi Vệ Linh, lên ngọn cây đa rồi bay
lên trời. Nay vẫn còn dấu vết cây đa, chỗ Thiên vương cởi áo để lại, dân làng
gọi là “cây cởi áo”. Dân lấy làm lạ, lập đền thờ, tế lễ thì dùng bánh trái đồ
chay, cầu khẩn mọi việc đều linh ứng. Đến đời nhà Lý, muốn cho tiện việc cầu
đảo, mới dời về làng Cảo bên Tây hồ, thờ làm phúc thần, có chép vào tự
điển.]
Không hiểu tại sao Nguyễn Văn Chất đã không liên hệ truyện này với
truyện Xung thiên dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương (tức truyện Thánh
Dóng) mà sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên đã chép. Cũng không hiểu tại
sao ông lại viết một cách mơ hồ rằng: “Thiên vương sinh ở một làng kia”, tuy
rằng Hội Dóng hàng năm vẫn biểu diễn sự tích Thánh Dóng một cách long
trọng, mà làng Dóng thì rất gần kinh đô Thăng Long là nơi ông làm Quốc tử
giám đồng tu sử. Dầu sao việc chép thêm đoạn truyện trên theo lời kể của
“các cụ già” để bổ sung vào sự tích chép trong sách của nhà chùa cũng biểu
lộ thái độ coi trọng truyện dân gian Nguyễn Văn Chất.
Thái độ coi trọng truyện dân gian cũng là thái độ chung của các nhà
văn hóa dân tộc thế kỷ thứ XV. Như đã phân tích ở trên, Ngô Sĩ Liên đã dựa
vào kho tàng thần thoại mà xây dựng nên quyển I, phần Ngoại kỷ trong bộ Đại
Việt sử ký toàn thư và thường hay nhắc đến tài liệu dã sử trong rất nhiều lài
bàn luận của ông trong sách ấy. Thái độ của Nguyễn Văn Chất và Ngô Sĩ
Liên nằm trong cùng một xu hướng tư tưởng với việc biên soạn Lĩnh nam
chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú.
Vũ Quỳnh, tự Thủ Phác, hiệu Đốc Trai, người làng Mộ Trạch, huyện
Đường An, (thuộc Hải Hưng ngày nay), sinh năm 1453, đậu tiến sĩ năm 26
tuổi rồi làm quan đến Lễ bộ thượng thư. Ngoài sách Lĩnh nam chích quái, ông
còn viết bộ sử Việt giám thông khảo, sách Đại thành toán pháp và sáng tác
tập thơ Tố Cầm. Kiều Phú, hiệu là Hiếu Lễ, người làng Lạp Hạ, huyện An
Sơn, (thuộc tỉnh Hà Sơn Bình ngày nay) sinh năm 1450, đậu tiến sĩ năm 26
tuổi, trước Vũ Quỳnh ba năm, không rõ đã làm quan chức gì. Cũng như
Nguyễn Văn Chất và Ngô Sĩ Liên, hai soạn giả này đều là bậc đại khoa (cả
bốn người đều đỗ tiến sĩ). Việc những người học rộng đỗ cao, những nhà nho
có danh vọng mà chú ý đến kho tàng văn hóa, văn học dân gian đã phản ánh
tinh thần dân tộc của các trí thức đời Lê. Vũ Quỳnh và Kiều Phú tuy vẫn còn
giữ quan niệm chép truyện như chép sử, nhưng trong việc làm thì lại có khác
những người đi trước ở chỗ coi trọng các tình tiết mang ý nghĩa văn học.
Lĩnh nam chích quái là một tập sách ghi chép những truyền thuyết và
truyện cổ tích. Trong Kiến văn tiểu lục (Thiên vương) Lê Quý Đôn có viết:
“Sách Lĩnh nam chích quái tục truyền là do Trần Thế Pháp viết, bài tựa sách
Thiếu vi nam bản cũng có nói đến. Không rõ Thế Pháp là người ở đâu. Hiện
nay chỉ được thấy bài tựa của Vũ Quỳnh ở đầu sách mà thôi…”. Có lẽ Trần
Thế Pháp cũng chỉ là người đầu tiên đã sơ thảo sách Lĩnh nam chích quái, vì
trong bài tựa của mình, Vũ Quỳnh cho biết là sách ấy “viết ra đầu tiên là
những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần”. Dầu sao thì bản Lĩnh nam chích
quái của Trần Thế Pháp hoặc của “những bậc tài cao học rộng” nào khác của
đời Lý, Trần cũng không còn truyền đến chúng ta nữa. Bản Lĩnh nam chích
quái hiện nay còn giữ được là bản của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Vũ Quỳnh đã
kể lại công việc của mình như sau: “Hồng Đức, mùa xuân, tháng hai, năm
Nhâm tý, kẻ ngu này mới chép được truyện cú, ôm lấy mà đọc, nghĩ không
tránh nổi chứ nọ xọ chữ kia, cho nên quên mình dốt nát, đem ra hiệu chính,
xếp thành hai quyển, đặt tên ià Lĩnh nam chích quái liệt truyện, cất ở trong
nhà để tiện xem đọc”.
Như vậy thì Vũ Quỳnh đã sửa chữa lại những bản chép cũ về các
truyện dân gian và đáng chú ý là tên sách đã do ông đặt ra. Hình như Kiều
Phú đã sửa chữa các truyện ấy nhiều hơn. Trong bài hậu tự (lời tựa đề cuối
sách), Kiều Phú đã viết: “… Kẻ ngu này tham khảo thêm sách khác, thêm ý
riêng của mình, chứa lại cho đúng, hiệu chính những điều sai lầm của thủa
trước cho khỏi tiếng chê cười của đời sau, lại gọt bớt chỗ rườm rà, theo chỗ
giản dị để sách tiện mang cất, coi xem…”. Như vậy là hai người đều sửa
chữa các truyện cũ. Nhưng qua các đoạn vừa dẫn ra thì hình như không có
sự phân công hợp tác giữa hai người khi làm việc. Có thể là Vũ Quỳnh đã sơ
bộ hiệu chính và viết bài tựa ở đầu sách vào mùa xuân năm trước (năm
1492) và Kiều Phú đã sửa chữa lại một lần nữa và viết bài tựa ở cuối sách
vào mùa thu năm sau (năm 1493) chăng? Ngày nay chúng ta không rõ phần
nào là do họ Vũ hiệu chính và phần nào là do họ Kiều hiệu chính.
Lĩnh nam chích quái do Vũ Quỳnh và Kiều Phú biên soạn gồm có 22
hoặc 23 truyện Vũ Quỳnh và Kiều Phú đều nhận rõ tính chất dân gian của
những truyện đó. Trong bài tựa ở đầu sách, Vũ Quỳnh viết: “Than ôi! Lĩnh
nam liệt truyện không khắc vào đá, viết vào tre mà chỉ truyền tụng ở ngoài bia
miệng. Từ đứa trẻ hôi sữa đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng và yêu dấu, lấy
đó làm răn, tất là có quan hệ đến cương thường, phong hóa…”. Rõ ràng là Vũ
Quỳnh có thái độ trân trọng đối với kho tàng văn học dân gian của dân tộc.
Kiều Phú, trong bài tựa cuối sách cũng có thái độ tương tự: “…những sự lạ
của núi sông, của nhân vật tuy không chép trong sử sách, nhưng bia miệng
không ngoa…”. Hơn hai chục truyện trong Lĩnh nam chích quái mà hai ông
biên soạn chưa thể đại biểu cho kho tàng truyện dân gian vốn rất phong phú.
Nhưng phần lớn những truyện ấy đều có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu đất
nước, tìm hiểu dân tộc ít nhiều qua nhãn quan của nhân dân. Có những
truyện liên quan tới thủa ban đầu dựng nước và giữ nước như truyện họ
Hồng Bàng, truyện Ngư tinh, truyện Hồ tinh, truyện Mộc tinh, truyện Núi Tản
Viên, truyện Đổng Thiên vương. Có những truyện liên quan đến phong tục tập
quán lâu đời của dân tộc như truyện Bánh chưng, truyện Cây cau, hoặc các
di tích văn hóa như truyện Rùa vàng, truyện Man nương. Có những truyện về
anh hùng chống xâm lược như truyện Hai bà Trưng, truyện Nhất dạ trạch. Có
những truyện phản ánh ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo vào đời sống xã
hội như truyện Giếng Việt, truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải,
truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
Nói chung những truyện cổ dân gian này đã thể hiện niềm tự hào của
nhân dân ta về tổ tiên, về anh hùng lịch sử, về non sông đất nước, đã phản
ánh sinh hoạt vật chất và tinh thần của dân tộc với tất cả khí vị đậm đà của
phong tục, tập quán lưu truyền rất lâu đời. Chính Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã
nói rõ niềm tự hào dân tộc của mình về những truyện trong Lĩnh nam chích
quái. Vũ Quỳnh đã viết rằng nước ta “núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân
dân anh hào, truyện tích thần kỳ, thường thường vẫn có”. Ông đã ví sách
Lĩnh nam chích quái với Sưu thần tự của người Tấn và sách U quái lục của
người Đường. Kiều Phú thì có dụng ý nêu rõ là các sự tích của ta cũng hay,
cũng đẹp không kém gì sự tích nước người. Ông viết rằng nếu “trời đã sai
chim huyền điểu giáng thế sinh ra vua nhà Thương, thì ắt truyện Hồng Bàng
không thể mất được”. Vũ Quỳnh và Kiều Phú tất nhiên không thể vượt lên
trên tinh thần dân tộc của nhà nho. Các ông cũng lại đứng trên quan điểm đạo
lý của nhà nho để phân tích các truyện dân gian. Thí dụ như Vũ Quỳnh cho
rằng truyện Bánh chưng cốt là biểu dương lòng hiếu thảo, còn Kiều Phú thì
tìm thấy ở việc Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho vua là biểu hiện của lòng
trung nghĩa. Cách hiểu như vậy là hời hợt và có phần sai lạc nữa. Vũ Quỳnh
thấy các truyện mà ông sưu tầm, biên soạn “há chẳng phải khuyên điều thiện
trừ điều ác, bỏ giả theo thật, để khuyến khích phong tục đó ru?” và “tất là có
quan hệ đến cương thường phong hóa”. Với nhận thức như vậy, tất nhiên Vũ
Quỳnh và Kiều Phú đã bỏ qua nhiều truyện dân gian mà các ông không hiểu
được hết ý nghĩa và giá trị. Hơn nữa, trong việc biên soạn trên hai chục
truyện kể trên thì ảnh hưởng của Nho giáo đã hạn chế không ít ngòi bút của
các soạn giả. Tuy nhiên, nếu đứng trên quan điểm duy vật lịch sử mà đánh
giá tinh thần dân tộc và sự chân thành của các tác giả thì thấy mặt tích cực
vẫn là chủ yếu trong nội dung sách Lĩnh nam chích quái.
Ý nghĩa của Lĩnh nam chích quái không phải chỉ là ở chỗ các soạn giả
đã sưu tập được, với một tinh thần dân tộc đáng quí, một số truyện dân gian
hay. Lĩnh nam chích quái còn đánh dấu một bước phát triển của văn tự sự.
Trước kia, Thiền uyển tập anh, Việt điên u linh, Tam tổ thực lục, Nam ông
mộng lục đã có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, các tác phẩm ấy chủ
yếu vẫn chỉ mong ghi lại được sự tích có sẵn. Phần hư cấu, xây dựng hình
tượng văn học còn ít. Đến đầu thế kỷ thứ XV, Lam sơn thực lục vì muốn là
một tác phẩm sử học cũng có ít phần hư cấu, nếu không kể những đoạn có
tính chất thần kỳ mà người đời sau đưa thêm vào. Lĩnh nam chích quái đã
vượt ra khỏi phạm vi chỉ ghi chép sự tích có sẵn. Có nhiều truyện trong Lĩnh
nam chích quái cũng còn sơ sài về nội dung và khô khan về hình thức diễn
đạt. Nhưng trong nhiều truyện, các soạn giả có lẽ vì được thu hút theo sự ly
kỳ của tình tiết trong truyện dân gian, cho nên đã để cho trí tưởng tượng
vươn lên theo những hình tượng đẹp, để cho tình cảm rung động với những
nhân vật trong truyện. Và những khi ấy, ngòi bút của Vũ Quỳnh, Kiều Phú
không chỉ ghi chép mà đã sáng tác nên những trang có giá trị văn học. Truyện
Ngư tinh kể việc Lạc Long quân diệt con quái vật, kẻ thù của nhân dân, như
sau:
[Long quân thương dân bị hại, bèn hóa phép thành một chiếc thuyền
của dân, hạ lệnh cho quỷ dạ thoa ở thuỷ phủ cấm hải thần không được nổi
sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư tinh, giả cách cầm một người sắp
ném vào cho nó ăn. Ngư tinh há miệng định nuốt. Long quân cầm một khối
sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư tinh chồm lên, quẫy mình quật vào
thuyền. Long quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi, nay chỗ đó gọi là
Bạch Long vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài biển biến thành con chó. Long quân
bèn lấy đá ngăn biển rồi chém. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là cẩu đầu
sơn. Thân Ngư tinh trôi ra ngoài Mạn Câu, chỗ đó gọi là Mạn Câu thủy, còn
gọi là cẩu đầu thủy]. Ở đây, rõ ràng là tính chất ngây thơ chất phác của tâm
hồn nhân dân và tính chất hoành tráng của nhân vật thần thoại đã thể hiện
dưới ngòi bút của soạn giả. Trong truyện Mộc tinh, ngòi bút tả cảnh và tự sự
thực là sinh động: [Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu Phi Vân cao 20 thước,
dựng môt cây ở giữa, tết vỏ gai làm dây chão dài 136 thước, đường kính rộng
2 tấc, lấy mây mà quấn ô ngoài, chôn hai đầu dây xuống đất, ở giữa thì gác
lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3, 4 lần đi đi lại lại mà
không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần áo đen. Dây của Thượng
Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai
người đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không
ngã. Khi thì Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt
lên trên cây cao 17 thước 3 tấc. Đát đứng ở trên, nhảy hai ba cái, tiến tiến, lùi
lùi, điên đảo. Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng giống như cái lờ bắt
cá, dài 5 thước, tròn 4 thước, rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì
Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi
vỗ bụng, tiến lùi, lên xuống, hoặc cưỡi ngựa, bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật
ở dưới đất mà không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngả mình nằm ngửa, lấy thân
đỡ một cây gậy dài, rồi cho đứa trẻ trèo lên mà không rơi xuống. Khi thì cho
bọn ca hát gõ trống khua chiêng, múa hát rầm rĩ]. Rõ ràng là từ trang sách
thấy vọng ra tiếng ồn ào náo nhiệt của cảnh diễn trò tạp kỹ (ngày nay ta gọi là
trò xiếc) trong ngày hội xưa. Và tác giả như cũng nhập vào trò vui hấp dẫn và
đầy ấn tượng sâu sắc đối với người xem ấy. Trong Lĩnh nam chích quái lại có
những truyện khá dài với tình tiết phức tạp như truyện Rùa vàng, truyện Hà Ô
Lôi. Nhân vật trong các truyện ấy được miêu tả với sự phát triển của tính
cách. Bút pháp ở đây đã khá xa với bút pháp chép sử và các soạn giả chắc
đã có ý thức về tính chất văn học của tác phẩm. Đoạn kết thúc truyện Rùa
vàng đã miêu tả những quyết định nhanh của các nhân vật trước tình thế
khẩn cấp như sau:
[Quân Đà tiến sát, vua cầm lây nỏ, thấy lẫy thần đã mất, bèn bỏ chạy.
Vua đặt Mỵ Châu ngồi đằng sau ngựa, rồi cùng nhau chạy về phương Nam.
Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường
cùng, không có thuyền, bèn kêu rằng: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang mau mau
lại cứu”. Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính
là giặc đó!”. Vua bèn tuốt kiếm chém Mỵ Châu. Mỵ Châu khấn rằng: “Thiếp là
phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi.
Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu
ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống
nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu.]
Sự gian xảo tàn ác của cha con Trọng Thủy, thế cùng quẫn của An
Dương vương, sự ngây thơ dại dột của Mỵ Châu, tình cảm yêu ghét khen chê
của người viết, tất cả, tuy không trực tiếp viết ra thành lời mà vẫn thể hiện
qua việc miêu tả ngắn gọn mà sắc nét hành động của nhân vật, Văn tự sự ở
đây quả là hàm súc. Truyện Hà Ô Lôi thì kể rằng vua Trần rất yêu Hà Ô Lôi vì
giọng hát và thường bảo triều thần rằng khi thấy Ô Lôi có gian phạm tới nhà
ai, nếu bắt tới đem trả cho nhà vua thì sẽ được đền một nghìn quan, nếu giết
chết thì sẽ phải bồi thường một nghìn quan. Về sau, Hà Ô Lôi vâng mệnh
vua, đi quyến rũ quận chúa A Kim, lấy được chiếc mũ của quận chúa mang
về cho vua. Việc gã nô tỳ da đen như sơn ấy tư thông với nàng quận chúa
đẹp như tiên ấy đã gây dư luận khắp Kẻ Chợ (tức Thăng Long). Và truyện kể
tiếp:
[…Đời bấy giờ có thơ quốc ngữ rằng:
“Chỉn đà náu đến xin làm tôi,
Đành hay thiên tiên phúc để Lôi.”
Từ đó danh tiếng Ô Lôi vang lừng thiên hạ, mỹ nữ nhà vương hầu
thường bị Lôi trêu ghẹo. Có câu thơ quốc ngữ rằng:
“Mang mang mặt mắt cháy ma lem,
Kẻ Chợ khái, người qua mới thèm.
Nhẫn có hoàng kim thanh sắc ấy,
Mang mang mặt mũi thế soi xem.”
Tuy người đời làm thơ ghẹo Ô Lôi, nhưng vẫn bị thanh sắc cám dỗ mà
không thể tránh Ô Lôi được. Ô Lôi thường tư thông với con gái các nhà
vương hầu mà không ai dám đánh, sợ vua bắt bồi thường. Sau Ô Lôi tư
thông cả với con gái trưởng của Minh Uy vương. Vương bắt được song chưa
đem giết vội. Sáng hôm sau, vương vào chầu vua, tâu rằng: “Đềm qua Ô Lôi
lẻn vào nhà thần. Tối như bưng, không rõ trắng đen, cho nên thần đã giết
chết mất rồi, nay xin bệ hạ cho biết phải đền mấy nghìn quan để thần tiến
nạp”. Vua không biết là Ô Lôi còn sống, phán rằng: “Trót lỡ mà giết ta chẳng
chấp nể làm gì”. Hồi ấy, vì hoàng hậu Vi Từ là em ruột Minh Uy vương, cho
nên vua không tra hỏi cặn kẽ. Vương về nhà lấy trượng đánh Lôi. Lôi không
chết. Vương bèn lấy chày giã chết. Khi sắp chết, Ô Lôi có ngâm câu thơ quốc
ngữ rằng:
“Sinh tử do trời có quản bao,
Nam nhi miễn đã được anh hào.
Chết vì thanh sắc cam là chết,
Chết việc ốm đau cơm cháo nào.”
Lại nói: “Xưa kia Lã Động Tân bảo ta rằng: thanh và sắc của nhà ngươi
cái được, cái mất bù nhau, lời nói ấy nghiệm thật”. Nói rồi chết.]
Thái độ của nhà vua coi Ô Lôi như đồ chơi của mình, thủ đoạn thâm
độc của Minh Uy vương, tâm lý phóng túng của Hà Ô Lôi cho cuộc đời là trò
chơi nhởn, và sự kiện Hà Ô Lôi làm xáo động Thăng Long một thời, tất cả đều
được kể lại bằng một bút pháp quả là tinh tế và xúc tích.
Rõ ràng văn Lĩnh nam chích quái không chỉ ghi chép sự tích như Việt
điện u linh, Tam tổ thực lục, Thiền uyển tập anh, Nam ông mộng lục. Các
soạn giả nhiều khi đã dùng ngòi bút sáng tác để tặng chất lượng văn học của
các sự tích. Tất nhiên Vũ Quỳnh và Kiều Phú vẫn muốn tự hạn chế trong
phạm vi chỉ chép lại những sự tích có từ trước. Nhưng cảm xúc văn học và tài
năng nghệ thuật nhiều khi đã đưa các soạn giả ra khỏi phạm vi ấy. Lĩnh nam
chích quái là một bước quá độ từ chỗ ghi chép thần tích, sự tích như Việt
điện u linh sang chỗ phóng tác như Thánh tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục.
Trên bước tiến ấy, Lĩnh nam chích quái đã có đóng góp cho văn học những
hình tượng nhân vật đẹp, những hình thức diễn đạt hay.
Khi tìm hiểu văn tự sự trong lịch sử văn học từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ
thứ XV, không thể không chú ý tới truyện thơ chữ Hán “Hương miệt hành”
(Bài hành về chiếc giày thơm). Lê Quý Đôn chép truyện này vào trong Toàn
Việt thi lục và coi là tác phẩm khuyết danh đời Trần.
Truyện kể về mối tình duyên giữa nàng họ Trương và chàng họ Lý.
Ở bên mé cầu chợ Đồng Xuân, nhà họ Trương có cô con gái tuổi vừa
mười sáu:
“Trương gia hữu nữ nhan như ngọc,
Yểu điệu, phong tư tài thập lục,
Hoa dung phấn nhị, vựng sinh hồng,
Vân phát cao quân, mi dạng lục.”
(Nhà họ Trương có con gái mặt như ngọc,
Phong tư yểu điệu, tuổi vừa mười sáu.
Mặt hoa như nhồi phấn, má ửng hồng,
Tóc mây óng ả, đều đặn, lông mày xanh biếc.)
Một hôm nàng dạo chơi trước lầu:
“Hương miệt khinh doanh liên bộ trì,
Đình tiên hốt đạp lạc hoa toái.
Hí thập tàn hồng trang cựu chi,
Tường vi giá thượng, hương phong khởi.
Hồng quần tố luyện phiêu phiêu cử,
Xước ước lâu tiền lộ miệt tiêm.
Quang như nguyệt hạ thừa loan nữ.”
(Giày thơm, nhẹ cất, gót sen bước chậm,
Trước sân bỗng giẫm nát hoa rụng.
Đùa nhặt những cánh hoa tàn trang điểm cho cành cũ,
Trên giàn tường vi, gió đưa hương thoảng.
Qúần hồng áo trắng phất phơ bay,
Trước lầu tha thuớt lộ mũi giày.
Rực rỡ như cô gái cưỡi chim loan dưới trăng).
Vào lúc đó có chàng Lý Quốc Hoa cưỡi ngựa đi qua, chợt thấy người
đẹp thì chàng bèn:
“Lầu tiên hạ mã khơng bàng hoàng,
Giai nhân tiện thượng cao lâu khứ.
Lục song chu hộ bất tri xứ,
La Phù sơn đầu không tỏa vân,
Thiên thai động khẩu sầu vô lộ.
Hà kiều nhật ảnh trụng bồi hồi.
Hàm tỉnh dục ngử tận vô môi.”
(Trước lầu xuống ngựa, luống bàng hoàng,
Người đẹp bèn lui ngay vào lầu cao.
Cửa biếc nhà son biết ở nơi nao,
Đầu núi La Phù mây khóa kín,
Cửa động Thiên thai buồn không lối vào.
Bóng mặt trời bên cầu luống vương vấn,
Ngậm khối tình muốn nói ra không có ai làm mối manh.)
Về sau, chàng làm quen được với ả Hồng Hạnh là thị nữ nhà họ
Trương và nhờ đem thư gửi cho người đẹp. Nàng họ Trương đáp ứng mối
tình, và chàng họ Lý đến gặp nàng trong vườn hoa.
“Lý lang đạp nguyệt đáo hoa viên,
Hãn nhiên nhất kiến như cựu thức.
Đê thanh thâu ngữ phạ nhân tri,
Khoản khúc tình hoài tưởng biệt kỳ:
Tam nguyệt tam nhật hà kiều thượng,
Dạ bán vô nhân tương hội thì.”
(Chàng họ Lý giẫm bóng trăng đến vườn hoa,
Lâng lâng mới gặp lần đầu mà tưởng như đã quen biết.
Thủ thỉ nói khẽ sợ người nghe thấy.
Dãi bày tâm tình, tính tới lần hẹn sau:
Mồng ba tháng ba ở trên cầu sông kia,
Nửa đêm nhân vắngngười sẽ gặp lại nhau.)
Không may đến đêm mùng ba tháng ba, chàng họ Lý bị lính Chấp kim
ngô đi tuần bắt giữ lại. Nàng họ Trương đến chỗ hẹn, đợi mãi không thấy
chàng đến:
“A nương độc hướng hà kiều lai,
Ta ngã hoài nhân do vị kiến!
Khả lân kiều thượng nguyệt đoàn đoàn,
Anh hiện kiều biên giang thủy hàn!
Xúc mục hữu hoài tình hạo đãng,
Thương tâm vô ngữ lệ lan can!
Đồng hồ sạ trích chung sơ vận,
Trở ngã giai kỳ lương khả hận.
Toại lưu chích miệt biểu thâm tình,
Trực đãi Lý lang lai tiếp nhận.”
(Một mình nàng đi đến cầu,
Thì than ôi người yêu của ta đâu chẳng thấy!
Đáng thương thay trên cầu chỉ có mặt trăng một khối.
Soi bóng xuống nước sông lạnh bên cầu!
Mắt nhìn cảnh vật, tình càng lai láng,
Lòng buồn không nói, nước mắt ngắn dài!
Đồng hồ điểm giọt, tiếng chuông vừa báo hồi đầu.
Cuộc hẹn hò bị trở ngại thật đáng giận.
Bèn lưu lại chiếc giày tỏ mối tình sâu,
Đợi chàng Lý đến sẽ nhận được.)
Đến canh năm, chàng Lý được lính tuần đêm thả ra, đến chỗ hẹn,
chẳng thấy người, chỉ thấy hương thơm, nhặt được chiếc giày. Đau khổ,
chàng ôm giày, ngất đi. Hương hồn bay đến lầu nhà họ Trương và bên cầu
chỉ còn lưu lại cái xác chết của kẻ tương tư. Lúc ấy, có Trần thiếu sư đi qua.
Ông đoán đây chắc là chuyện trai gái yêu đương, bèn nhặt chiếc giày đi dò
hỏi và tìm ra nhà họ Trương. Nàng họ Trương được biết tin bèn chạy đến bên
cầu và:
“Phiên thân bão khấp Lý lang thi,
Lương duyên vị hợp cam đồng huyệt.
Vị cảm âm dương giao hội tình,
Du du điệp mộng hoán lai tỉnh.”
(Lăn vào ôm lấy xác chàng Lý mà khóc,
Dù duyên lành chưa kết cũng nguyện chết chung một mồ.
Vì có âm dương cảm cách mối tình giao hòa,
Từ giấc mộng bằn bặt, đã gọi được chàng tỉnh lại.)
Chàng họ Lý đã sống lại và hai người nhớ ơn Trần thiếu sư, bèn đến
cảm tạ. Trần thiếu sư đứng làm mối cho hai người lấy nhau. Từ đó:
“Hồng điệp trù mâu khế cựu duyên,
Minh nguyệt lâu tiền hài cầm sắt.
Tiêu kim trướng lý hội thần tiên,
Uyên ương giao cành hoa liên đế.
Hồng lục bão tình xuân diễm lệ.
Khước ức tòng tiên hoan ái đa,
Bách niên bất cải đồng tâm khế.”
(Lá thắm giao nhau nối duyên cũ,
Trước lầu trăng sáng, đàn cầm đàn sắt hòa hợp
Trong trướng tiêu kim, thần tiên cùng hội họp,
Chim uyên ương giao cổ nhau, hoa liền cuống nhau.
Mối tình diễm lệ như mầu hồng mầu biếc của mùa xuân,
Nhớ lại niềm yêu đương nhau từ trước vốn nhiều,
Trăm năm không đổi mối đồng tâm.)
Như vậy là Hương miệt hành có tình tiết rất đơn giản, và kết thúc thì lại
có hậu. Nhân vật Trần thiếu sư thì rất đáng chú ý. Thiếu sư là một chức quan
to dạy thái tử học. Thế mà khi thấy chàng họ Lý chết vì tương tư, ông đã
không lên án mối tình ngoài lễ giáo mà lại còn mang chiếc giày đi dò hỏi để
cho hai người tìm lại nhau và sau đó tác thành cho hai người lấy nhau. Hơn
thế nữa, trong toàn bộ tác phẩm cũng không thấy có một lời, một chữ nào nói
về tam cương ngũ thường, về đạo lý Nho giáo cả. Và tác giả khuyết danh đã
kết luận như sau:
“Cổ lai kháng lệ phi vô mệnh,
Mạc giáo nhĩ mục tường thiên tính.
Ô hô! bất duy Lý dữ Trương,
Thế gian vạn sự giai tiền định.”
(Xưa nay việc lứa đôi không hề không có mệnh (trời)
Chớ để tai (thích thanh âm) mắt (thích sắc đẹp) làm hại tính trời.
Than ôi! chẳng riêng gì chàng Lý và nàng Trương,
Thế gian muôn việc đều đo tiền định cả.)
Thế là trong khi không hề đả động gì đến đạo lý “nam nữ thụ thụ bất
thân” của Nho giáo thì tác phẩm lại đề cập đến những quan điểm của Phật
giáo về nhĩ, mục, sắc tướng, về an bài, tiền định. Vì vậy, nếu như Hương miệt
hành không phải là tác phẩm đời Trần như ý kiến của Lê Quý Đôn thì có lẽ
cũng đã xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XV, trước khi Nho giáo được Lê Thánh
tông đưa lên vị trí rất cao và có ảnh hưởng áp đảo đối với Phật giáo.
Sự tích trong Hương miệt hành đã xoay quanh chiếc giày thơm. Người
đẹp đi chiếc giày thơm, người đẹp lưu chiếc giày thơm lại để cho chàng trai
biết rằng mình đã đứng đợi ở bên cầu đúng như hẹn ước. Rồi lại nhờ chiếc
giày thơm mà nàng biết được rằng chàng đã chết ở bên cầu vì tương tư.
Chiếc giày thơm này gợi cho ta nhớ tới chiếc giày của cô Tấm trong truyện
dân gian. Tuy có chỗ khác nhau, nhưng cả hai chiếc giày đều liên quan đến
việc trai gái tìm nhận ra nhau, vượt qua mọi sự cách bức.
Sự tích trong Hương miệt hành lại diễn ra ở chiếc cầu bên chợ Đồng
Xuân. Chợ Đồng Xuân vốn đã có tiếng là nơi đông vui của Thăng Long ngay
từ đời Trần. Bên chợ có sông Tô Lịch chảy qua (nay là phố hàng Lược), và
chiếc cầu bắc ngang sông Tô Lịch ấy, nơi chàng Lý và nàng Trương hẹn hò
gặp nhau, cũng chính lại là nơi mà sau này chàng Tú Uyên trong truyện Bích
câu kỳ ngộ gặp người đẹp.
Những chi tiết trên đây về chiếc giày thơm và cầu sông Tô Lịch bên chợ
Đồng Xuân chứng tỏ rằng tác giả khuyết danh đã cấu tứ trên cơ sở những tư
liệu văn hóa dân tộc.
Trong Hương miệt hành, mối tình giữa chàng trai và cô gái không hề
gặp phải trở ngại hoặc sự chống đối gì trong gia đình và trong xã hội. Họ yêu
nhau một cách hồn nhiên và dễ dàng. Do một sự ngẫu nhiên mà mối tình nảy
sinh rồi do một sự không may mà mối tình suýt nữa lỡ dở. Nhưng lại do một
sự may mắn mà mối tình được nối lại. Tác giả không hề đặt ra một vấn đề xã
hội gì phải giải quyết. Tất nhiên cái triết lý về mệnh trời, về thiên tính, về tiền
định mà tác giả nêu ra để kết luận thì đã ít nhiều thể hiện ở trong nội dung tác
phẩm. Dầu sao, Hương miệt hành chủ yếu vẫn là một bài ca tình yêu, một
ước mơ hạnh phúc với hình tượng mỹ lệ, trong sáng, với tình điệu lạc quan,
nhẹ nhàng. Hương miệt hành thể hiện một lối sống trung thực và phúc hậu,
một nếp nghĩ hồn nhiên, giản dị..
Khác với Hương miệt hành, những truyện trong Thánh tông di thảo
thường có nội dung và tình tiết phức tạp. Thánh tông di thảo do người đời sau
tập hợp lại và tương truyền là của vua Lê Thánh tông. Hiện nay cũng chưa rõ
ai là người làm việc tập hợp và biên soạn ấy. Cuối mỗi truyện có lời bàn của
Sơn Nam thúc, nhưng Sơn Nam thúc là ai thì cũng chưa thể khẳng định
được. Thánh tông di thảo có phải đúng là do Lê Thánh tông viết ra hay
không? Hiện nay chưa giải đáp được dứt khoát vấn đề này. Một số truyện đã
do người đời Nguyễn chữa lại và một số lại có thể do người đời Nguyễn viết
ra. Tuy nhiên lời tương truyền rằng tác giả Thánh tông di thảo là Lê Thánh
tông cũng không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Ở những truyện như Phả ký
sơn quân, Lời phán xử cho anh điếc và anh mù, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, tác
giả đã sử dụng rất nhiều điển cố uyên bác và tỏ ra rất thích thú về việc mượn
lời, mượn ý trong kho tư liệu Hán học để xây dựng nên văn phẩm của mình.
Mà sính “tập cổ” lại là một nét rất đậm trong phong cách của Lê Thánh tông.
Ở những truyện như Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Tinh chuột… thì tác giả lại nói
đến bản thân ở địa vị hoàng tử và làm vua một nước. Vì vậy, nếu như có sự
thiếu chính xác trong lời tương truyền rằng tác giả của tất cả các truyện trong
Thánh tông di thảo là Lê Thánh tông thì cũng vẫn có thể nghĩ rằng một số
truyện lúc đầu vốn đã do Lê Thánh tông viết ra. Tất nhiên là ở những truyện
này, sự thêm bớt sửa chữa của người đời sau không phải là ít. Dầu sao thì
nhiều truyện trong Thánh tống di thảo vẫn có thể đã được viết từ đời Lê ít lâu
trước Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ thứ XVI). Trong khi chờ đợi xác định được
niên đại, tác giả và văn bản của từng truyện trong tác phẩm ấy, hãy tạm căn
cứ vào cái tên Thánh tông di thảo mà giới thiệu tác phẩm trong phần phân
tích thể loại văn tự sự thế kỷ thứ XV này.
Thánh tông di thảo tập hợp 19 truyện mà nội dung và bút pháp khá
phức tạp. Trong số 19 truyện thì có 8 truyện liên quan đến các sự kiện lịch sử
thời kháng chiến chống Minh hoặc liên quan tới Lê Thánh tông? (Yêu nữ
Châu Mai, Hai Phật cãi nhau, Hai gái thần, Duyên lạ nước Hoa, Người trần ở
thủy phủ, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Bài ký giấc mộng, Tinh chuột). Lại có
những truyện ít nhiều dựa vào truyện cổ dân gian (Ngọc nữ về tay chân chủ,
Trận cười ở Vũ Môn, Chồng dê). Có những truyện thì có tính chất ngụ ngôn
(Phả ký sơn quân, Người hành khất giàu, Bức thư của con muỗi, Lời phán xử
cho anh điếc và anh mù). Có truyện thì lại kèm với nhiều bài thơ không gắn
chặt gì với kết cấu của truyện (Người trần ở thủy phủ, Hai thần hiếu đễ).
Xét về mặt quan điểm xã hội chính trị, một số truyện trong Thánh tông
di thảo lại trái ngược nhau.
Truyện Hai gái thần phản ánh tâm lý căm ghét giặc Minh mà tội ác đã
để lại ấn tượng sâu sắc và lâu dài trong nhân dân. Truyện kể rằng cháu Long
vương thác hình cá đi chơi ở Hồ Tây bị Vương Thông chăng lưới bắt được,
đem giết thịt. Căm thù tướng giặc, vị thần ấy đã đầu thai vào cõi trần giúp vua
Lê, và nhiều lần làm thích khách lọt vào doanh trại của Vương Thông để mưu
sát y. Truyện lại kể rằng thần núi Đông Ngu căm thù tướng giặc là Hoàng
Phúc xẻ núi đào non, làm đứt long mạch núi Mẫu sơn, đã sai người rình
Hoàng Phúc đi qua thì đập nát xe của y, nhưng việc không thành. Thần bèn
đầu thai vào cõi trần thành Bùi Khả Gia, theo vua Lê làm chức tham tán quân
vụ và bắt sống được Hoàng Phúc. Rõ ràng là trong truyện Hai gái thần có ngụ
ý rằng giặc Minh đã vơ vét sông hồ, đào khoét núi non, làm hại muôn vật, đến
nỗi “thần và người cùng căm giận” như Nguyễn Trãi đã lên án một cách quyết
liệt trong Bình Ngô đại cáo. Nhưng có truyện lại biểu lộ thái độ mơ hồ của tác
giả về ranh giới giữa địch và ta. Truyện Người trần ở thủy phủ kể rằng một
người vì túng thiếu, bất đắc dĩ phải đi theo Vương Thông, rồi vì lập công to
với giặc mà được chúng phong làm thống quân thượng tướng. Về sau, vua
Lê cho chiêu dụ, nhưng hắn ta không chịu về với quân khởi nghĩa, để khỏi
mang tiếng “bội bạc”, “bất trung” với chủ là tướng giặc. Đến khi chết, hắn lại
được Thượng đế thương là “trí và trung”, và cho thống lĩnh quỷ binh Dạ thoa
ở cõi âm. Một kẻ bán mình làm tay sai đắc lực cho giặc, ngoan cố không chịu
nghe theo tiếng nói của chính nghĩa mà tác giả lại đề cao một cách trắng trợn
thì thực là lạ. Tất nhiên, tác giả truyện này không thể là Lê Thánh tông, hoặc
bất cứ người cầm bút nào có chút ít lương tri. Truyện này và truyện Hai gái
thần rõ ràng là có quan điểm trái ngược hẳn nhau. Đây lại là một chứng cở
hiển nhiên để khẳng định rằng các truyện trong Thánh tông di thảo đã do
nhiều người có trình độ tư tưởng khác nhau viết ra ở những thời điểm khác
nhau.
Đề cập tới Nho giáo và Phật giáo, các truyện trong Thánh tông di thảo
cũng lại thể hiện những quan điểm không đồng nhất. Trong truyện Ngọc nữ
về tay chân chủ, một truyện dựa vào những mô-típ và tình tiết của truyện Sơn
tinh Thủy tinh, tác giả đã đề cao “ngôi chí tôn” của hoàng đế theo quan điểm
chính thống của Nho gia. Truyện kể rằng Ngọc hoàng thượng đế có một gái
đẹp là nàng Ngọc Tỷ, đã mở hội kén rể. Sơn thần và Thủy thần cùng đến, mỗi
vị đều trổ tài cao, phép lạ, mong giành được nàng Ngọc Tỷ. Hai bên chưa
phân ưu, liệt thì có một người “dáng rồng, bước hổ, mắt Thuấn, mày Nghiêu,
có vẻ tĩnh trọng như núi, có lượng bao hàm như biển” (tức là Hoàng đế ở cõi
trần) ở ngoài ung dung bước vào và xin ứng tuyển. Ngọc hoàng thượng đế
hỏi có tài năng gì mà dám đến đua tranh với các vị thần. Người ấy bèn nói
rằng: [“…Quỷ thần ở núi sông nào chỉ là một vật ở nơi đó thôi. Mưu trí, khoe
tài, sao đáng đếm xỉa trong vòng trời đất? Sao không xem ngôi cao vòi vọi,
mà những người chiêm ngưỡng chỉ sợ đi sau, lượng biển bao la, mà những
kẻ lại chầu tranh nhau đến trước. Tài trí trong thiên hạ đều là tài trí của một
người. Núi đúc khí thiêng, mong được tận trung mọi việc, sông theo dòng lớn,
đâu không hiếu thuận một niêm. Thảng hoặc có thỏ nấp trong núi, kình múa
ngoài khơi, thì sai người văn thần trọng vọng, cử người võ tướng lược thao.
Bày trận theo thế rắn Trường sơn, hành quân như nước dòng Giang Hán. Núi
có thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể bắt lui, sông to có thể cắt
đứt… Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai trùm biển rộng, nào ai dám
chống…”]. Ngọc hoàng bèn cho là phải và gả con gái cho người ấy, chứ
không gả cho Sơn thần hoặc Thủy thần. Rõ ràng là truyện đã khẳng định uy
lực tuyệt đối của hoàng đế, việc mà Lê Thánh tông nỗ lực tiến hành trong ý đồ
củng cố chế độ quân chủ chuyên chế. Đề cao ngôi “chí tôn” là tư tưởng trung
tâm của Nho giáo. Và làm như vậy rõ ràng là phù hợp với không khí thời
Hồng Đức. Trong đa số truyện của Thánh tông di thảo, tư tưởng ấy và nhiều
tư tưởng khác của Nho giáo cũng thể hiện rõ. Tuy nhiên, lại có những truyện
có quan điểm trái hẳn lại. Truyện “Gặp Tiên ở hồ Lãng Bạc” kể rằng Lê Thánh
tông khi còn là hoàng tử gặp tiên ở hồ Láng Bạc (tức hồ Tây). Cảm phục tài
năng của vị tiên ấy, hoàng tử có ý mời về giúp việc triều chính. Nhưng vị tiên
đã từ chối và nói: […Vương tử không biết nghĩ, vừa vướng lưới trần mà đã bị
niềm tục làm mê đến thế! Xưa nay có vua nào sống được vạn năm đâu? Tôi
xin nói cho vương tử nghe, may ra vương tử nhớ được tiền thân chăng? Kìa:
đài cao tàn vàng, ra thì đường vào thì khua chuông, thảm lông, lầu rồng, nắm
quyền cương của trời mà cầm quả ấn bằng ngọc, không phải là không cao
quí. Nhưng so với xe mây ngựa bạc, sáng đón mặt trời ở biển khơi, chiều
trông mây núi ở Vu Giáp, thì đằng nào phóng khoáng hơn? Hải vị sơn hào, đủ
thức trân cam trong bốn biển, gầm trời mặt đất, ai nấy qui phục về một người,
thiên hạ còn ai hơn nữa? Nhưng so với rượu ngọc chén quỳnh, ăn tinh hoa
của muôn loài cây cỏ, cùng những thứ bàn đào ba nghìn năm khai hoa, ba
nghìn năm kết quả, thì đằng nào quí giá hơn? Núi non gấm vóc, ta làm chủ
ông, đất sạch dòng trong ta làm chỗ nghĩ; phàm những nơi cánh đồng loan
phượng, non sông khuê bích trong bầu trời, đều có vết chân ta đi tới. Nếu so
với phận định tự trời, trị vì có hạn, thì ai rộng, ai hẹp, ắt thấy rõ ràng. Huống
chi lá sen làm áo, mo rụng làm mũ, áo trời không phải may mà đường khâu
tuyệt diệu. Thơ ngâm ngàn cuốn, ở rừng hổ báo không lo, rượu quẩy một
bầu, vượt biển ba đào không sợ.. Ngâm trăng hát gió, thân rồng phượng há
nhọc tinh thần, cũ đổi mới thay, chốn Bồng Doanh kéo dài ngày tháng. Kìa
những người nát óc nhọc thân, một ngày muôn việc, “bốn cõi hoặc có nơi
ngang ngạnh, một người hoặc không được đội ơn, thì trời chưa sáng đã mặc
áo, bóng tới trưa mới được ăn cơm, cải trang du hành suốt ngày chưa xong
việc, chỉ lo nghĩ mà già. So ra ai bận ai nhàn cũng thấy rất rõ. Được một ngày
nhàn rỗi, thì dù đem ngôi vạn thặng mà đổi cũng không thiết, huống chi là bạn
với thái tử, huống chi là được trao trọng quyền?”]. Và khi nghe nói như thế thì
đến cả bản thân Lê Thánh Tông mà cũng muốn xin học đạo tu tiên ngay. Ở
đây, tác giả đã đề cao tư tưởng phóng dật của Đạo gia coi ngôi “chí tôn” của
vua cũng thua kém cảnh “lạc thú” của tiên. Trong Thánh tông di thảo, ảnh
hưởng của tư tưởng Đạo gia và của Đạo giáo còn thể hiện trong nhiều truyện
khác nữa, đặc biệt là trong các truyện Duyên lạ nước Hoa, Bài ký giấc mộng,
Tinh chuột, Hai gái thần, Một dòng chữ lấy được gái thần. Điều này phản ánh
tình hình thực tế của không khí tư tưởng thời Lê Thánh tông. Lê Thánh tông
hết sức đề cao Nho giáo theo yêu cầu củng cố nhà nước phong kiến và nền
quân chủ chuyên chế. Tuy vậy, có nhiều chứng cớ (đã có dịp nêu lên ở trên)
cho thấy rằng trong cuộc sống hàng ngày, nhà vua lại cũng ưa chuộng Đạo
giáo. Cho nên không lạ gì nếu truyện Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc đã đề cao tư
tưởng Đạo giáo đến mức cho rằng ngôi vua không phải là cao quí nhất nếu
so với cảnh tiên. Dầu sao thì ở đây vẫn chưa phải là sự đã kích Nho giáo như
trong Truyện lạ nhà thuyền chài. Truyện này kể rằng có một ông chài muốn
cho con trai là Thức Ngư bỏ nghiệp nhà để đi học đạo Nho. Truyện kể rằng:
[Thúc Ngư hỏi cha: “Đi học là thế nào?”. Cha nói: “Những lời nói và việc
làm của thánh hiền đời xưa chép trong sách, có học thì mới biết mà làm
theo”. Thúc Ngư lại hỏi: “Trong sách có cá không?”. Cha rằng: “Không!”. Thúc
Ngư lại hỏi: “Lấy lời nói và việc làm của thánh hiền mà đánh cá có được
không?”. Cha nói: “Lời nói là văn không, mà cá là vật thật, làm thế nào mà
đánh được. Mày nói sao ngu thế”. Thúc Ngư nói: “Trong sách đã không có cá,
lời nói lại không thể đem đánh được cá, còn học làm gì?]
Qua câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn cũng như lời kết luận có vẻ thiển cận và
thực dụng của Thúc Ngư, tác giả hình như có ngụ ý phê phán một cách tinh
tế và hóm hỉnh tính chất vô dụng, viển vông của những giáo điều ghi trong
kinh điển của Nho giáo. Tuy nhiên, mặc dầu có sự phê phán Nho giáo ở một
vài truyện như vậy, tinh thần chung của Thánh tông di thảo vẫn là khẳng định
lễ giáo phong kiến và phần lớn các truyện vẫn không thoát ra khỏi ảnh hưởng
của Nho giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trái lại thường ít thấy rõ. Hơn nữa,
có truyện lại đã kích rất mạnh vào nhà chùa. Truyện Hai Phật cãi nhau kể
rằng một năm lụt to, vua Lê Thánh tông đi chẩn cấp cho dân, đến nghỉ đêm
cạnh một ngôi chùa ở Văn Giang. Nửa đêm nhà vua ghé nhòm vào trong
chùa vắng thì thấy một tượng Phật bằng đất và một tượng Phật bằng gỗ cãi
nhau. Phật đất mắng Phật gỗ là đồ bất lực, không có tài cao phép lạ để ngăn
trừ nước lũ đến nỗi phải trôi nổi, bồng bềnh: “…Khi ấy, các mụ nhà quê trông
thấy ngươi, ngờ là cây chuối nổi, thợ mộc trông thấy ngươi nghi là khúc gỗ
trôi. Đã bao lâu, ngươi vẫn là chỗ cho bọn áo nâu tay chùng nấp bóng, thế mà
lúc bấy giờ ngươi lại không sao kiếm nổi một bữa cúng chay. Cũng may mà
thân nhà ngươi hãy còn, được sư sãi đem về sửa lại mũ áo, tô lại vàng son.
Ta nghĩ rằng ngươi đã từng gặp cảnh ngộ nhường ấy thì nay còn mặt mũi
nào mà dám ở trên ta, để hưởng lộc ba phẩm nữa”. Phật gỗ không chịu,
mắng lại rằng lụt và hạn là do thiên tai. Vả lại trong cảnh nước lụt thì tượng
gỗ lại cứ việc theo mực nước mà lên mà xuống, không hề thiệt gì đến “chân
thân” cả, chỉ đáng thương cho Phật đất: “…Nước đến chân thì chân ngươi
rữa nát, nước đến bụng thì bụng ngươi vỡ lở, nước đến lưng thì lưng và vai
ngươi đều sụp đổ. Trán rộng, mi dài, thôi còn đâu nữa! Than ôi, thương thay!
…”. Và truyện kể tiếp:
“Hai Phật còn đương nói thì chợt Phật Thích Ca tay xách bầu rượu,
dáng say lảo đảo, bước ra mà rằng: “Chao ôi! Hai ngươi đều có lỗi cả! Trong
khi nước lớn mênh mông, các ngươi đã không biết vận ngũ thông, dụng lục
trí, thét lui muôn dòng nước về biển đông, mà chỉ biết giữ cái hình hài bằng
gỗ, bằng đất, ngồi hưởng rượu thịt của dân, đã không biết xấu hổ, lại còn đấu
khẩu với nhau, không sợ vách có tai ư?”.
Rõ ràng là tác giả muốn cho thấy rằng Phật gỗ và Phật đất đá đành là
đồ vô dụng mà Phật Thích Ca thì chẳng qua cũng lại chỉ là kẻ nát rượu mà lại
bẻm mép. Ở đây, tất nhiên chưa phải là sự phê phán một cách nghiêm chỉnh
và sâu sắc giáo lý của đạo Phật, mà chủ yếu là sự đã kích nhà chùa theo
nhận thức thông thường của người đời về sự trụy lạc của sư sãi. Và giá trị nổi
bật của truyện này là ở chỗ qua ba ông Phật, gợi lên hình ảnh những sư sãi
ăn hại và bẻm mép.
Qua những truyện mà quan điểm rất trái ngược nhau đủ thấy nội dung
Thánh tông di thảo quả là phức tạp, nhưng lại chính vì thế mà rất phong phú.
Đáng chú ý hơn là Thánh tông di thảo không phải là một tập sách ghi lại
những sự tích có sẵn. Các tác giả có thể vay mượn mô-típ, tình tiết, thậm chí
cả kết cấu từ kho truyện dân gian, có thể tiếp thu đề tài, nội dung từ kho tư
liệu Hán học, nhưng lại đã từ đó mà sáng tác hoặc ít nhất thì cũng phóng tác
ra những truyện mới. Quan điểm và bút pháp của các truyện không giống
nhau vì đã do nhiều người khác nhau viết ra. Nhưng qua các đoạn đã nêu lên
thì thấy trong Thánh tông di thảo lời văn nhiều khi khá tinh tế, hình tượng
nhiều khi rất sinh động.
Nhìn chung, Thánh tông di thảo là một tập hợp những truyện do nhiều
người thuộc nhiều thế hệ từ đời Lê đến đời Nguyễn viết ra, trong đó có một
số truyện đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XV. Đến giữa thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Dữ
sẽ viết Truyền kỳ mạn lục. Những truyện trong Thánh tông di thảo mà xuất
hiện từ cuối thế kỷ thứ XV, có thể được coi như một bước tiến từ Lĩnh nam
chích quái sang Truyền kỳ mạn lục, nếu xem xét sự phát triển của thể loại tự
sự từ chỗ ghi chép sự tích cũ đến chỗ sáng tác những truyện mới hoặc từ
những sự tích cũ phóng tác ra những truyện mới. Một số truyện trong Thánh
tông di thảo có thể kém những truyện trong Lĩnh nam chích quái và trong
Truyền kỳ mạn lục về mặt nội dung cũng như về mặt hình thức. Nhưng rõ
ràng là nếu như phần hư cấu, sáng tác của người viết Thánh tông di thảo ít
hơn là của người viết Truyền kỳ mạn lục thì lại nhiều hơn là của người viết
Lĩnh nam chích quái.
Cùng với Hương miệt hành, những truyện trong Thánh tông di thảo là ở
đoạn cuối của chặng đường dài mà thể loại tự sự đã trải qua từ chỗ gắn với
văn chép sử, ghi chép sự thực lịch sử, rồi ghi chép sự tích có sẵn trong truyền
thuyết lịch sử, ghi chép sự tích có sẵn trong truyện dân gian đến chỗ viết ra
những truyện do bản thân tác giả xây dựng nên, theo yêu cầu của mình, với
hư cấu của mình.
Và như vậy là đến cuối thế kỷ thứ XV, thể loại tự sự trong văn học viết
đã trở thành một thể loại văn học hình tượng với ý nghĩa đầy đủ của thể loại
ấy. Từ đó, sang các thế kỷ sau, thể loại tự sự sẽ đi xa hơn nữa trong sự phát
triển của văn học chữ Hán, nhất là trong sự phát triển của văn học chữ nôm.
MỤC LỤC
VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ THỨ X NỬA ĐẦU THỂ KỶ THỨ XVIII
Tập I
Lời nói đầu
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU Mười thế kỷ của tiến trình văn học viết
PHẦN THỨ HAIVăn học từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIV
I. Sự hình thành và phát triển của nền văn hóa Đại Việt từ thế kỷ thứ X
đến thế kỷ thứ XIV
II. Văn học đời Lý và những truyền thống của dân tộc
III. Văn học đời Trần đã phát triển trong hào khí của dân tộc Đại Việt
đang lớn mạnh
IV. Học phong Đông Á
V. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo trong văn học đời Trần
VI. Văn tự sự, truyện ký đời Trần
VII. Văn thơ nôm đời Trần
PHẦN THỨ BAVăn học thế kỷ XV
I. Sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của nền văn hóa Đại Việt trong
thế kỷ thứ XV
II. Sự nghiệp sáng tác và trước thuật của thê kỷ thứ XV có ý nghĩa rất
tích cực đối với lịch sử văn hóa Đại Việt
III. Hai thời kỳ văn học của thế kỷ thứ XV
IV. Âm điệu anh hùng là âm điệu chủ đạo trọng văn học nửa đầu thế kỷ
thứ XV
V. Nguyễn Trãi và tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước triều
đông”
VI. Văn học nửa thứ hai thế kỷ XV có tính chất quan phương
VII. Đóng góp đáng kể nhất của nửa thứ hai thế kỷ thứ XV là sự thúc
đẩy bước tiến của văn học chữ nôm
VIII. Những tác giả tiêu biểu và Lê Thánh tông
IX. Văn tự sự, truyện ký thế kỷ thứ XV Bảng thư mục in ở cuối tập II
---//---
VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ THỨ X - NỬA ĐẦU THẾ KỶ THỨ XVIII
Tập 1
Tác giả:
ĐINH GIA KHÁNH – BÙI DUY TÂN – MAI CAO CHƯƠNG
NHÀ XUẤT BẢN
ĐẠI HỌC GIÁO DỤC VÀ CHUYÊN NGHIỆP
Chịu trách nhiệm xuất bản: PHẠM VĂN AN
Trình bày:VŨ HÒA
Vẽ bìa: DUY NGỌC
Sắp chữ điện tử và in 1.000 cuốn khổ 13 x 19cm. Tại xí nghiệp in số 2, số 4-
6-8 Mạc Thị Bưởi, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Số xuất bản 493/KHXB ngày 23-
11-1990. In xong và nộp lưu chiểu tháng 3 năm 1992.