Phân tích sức ảnh hưởng của môi trường vi mô tới hoạt động của doanh nghiệp
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT TỚI CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON …
Transcript of ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT TỚI CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON …
- 1 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
TRẦN THỊ HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT TỚI CÁC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
Hà Nội - 2010
- 3 -
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... - 1 -
NỘI DUNG ................................................................................................ - 10 -
Chƣơng 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI
DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ ................................................ - 10 -
1.1. Hoàn cảnh ra đời và ngƣời sáng lập ra Phật giáo ............................ - 10 -
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo .............................................. - 10 -
1.1.2. Người sáng lập Phật giáo ........................................................ - 12 -
1.2. Những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của triết học Phật giáo .............. - 14 -
1.2.1. Vài nét khái quát về thế giới quan Phật giáo ........................... - 14 -
1.2.2. Quan niệm về nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo .............. - 17 -
Chƣơng 2: ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TỚI
CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ... - 36 -
2.1. Khái niệm giá trị đạo đức và giá trị đạo đức của ngƣời Việt Nam- 36 -
2.1.1. Khái niệm giá trị đạo đức ........................................................ - 36 -
2.1.2. Giá trị đạo đức của người Việt Nam ........................................ - 38 -
2.2. Vài nét khái quát về ảnh hƣởng của Phật giáo tới đạo đức con ngƣời
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ............................................................... - 40 -
2.3. Ảnh hƣởng của đạo đức Phật giáo tới đạo đức con ngƣời Việt Nam
hiện nay .......................................................................................................... - 54 -
2.3.1. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc bảo tồn và phát triển đạo
đức của người Việt Nam ..................................................................... - 54 -
2.3.2. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc điều chỉnh hành vi của
con người Việt Nam dưới tác động của nền kinh tế thị trường ......... - 62 -
2.3.3. Đạo đức Phật giáo với vấn đề xây dựng đạo đức mới cho con
người Việt Nam hiện nay .................................................................... - 77 -
KẾT LUẬN ............................................................................................... - 93 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ - 98 -
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo Phật truyền bá vào nước ta khoảng đầu công nguyên và đã trở
thành một trong những tôn giáo lớn, có sức sống lâu dài và ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại,
đồng thời trở thành một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền
văn hoá dân tộc.
Một thực tế cho thấy, sự hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị
trường đang mang lại cho đất nước ta nhiều cơ hội thuận lợi. Song bên cạnh
đó cũng có không ít thách thức, đặc biệt là lĩnh vực đời sống tinh thần của xã
hội. Nền kinh tế thị trường mặc dù theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song
vẫn có những yếu tố tiêu cực mà ảnh hưởng của chúng không tốt, thậm chí ở
một số hoàn cảnh nhất định, đã làm thay đổi các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc vốn được hình thành hàng thế kỷ.
Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, nền đạo đức mới mà
chúng ta đang xây dựng cần phải hướng tới một hệ thống giá trị tinh thần mà
ở đó, cái truyền thống và cái hiện đại phải được kết hợp với nhau một cách
chặt chẽ để nền văn hoá dân tộc nói chung và các giá trị đạo đức truyền thống
nói riêng tham gia vào sự hoà nhập với các giá trị phổ biến toàn nhân loại mà
không bị hoà tan, điều mà Đảng ta kêu gọi là không làm mất đi bản sắc văn
hoá tốt đẹp của dân tộc.
Chính vì vậy, việc phát huy cái đúng, cái tốt, cái đẹp (chân, thiện, mĩ),
tiếp thu các giá trị tiến bộ và phổ biến toàn nhân loại trong quan hệ giữa con
người với con người, con người với tự nhiên, đồng thời phê phán những thói
hư tật xấu, lên án cái ác, chính là chuẩn mực các giá trị đạo đức của con người
Việt Nam hiện nay.
- 2 -
Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc và trong điều kiện hiện nay. Sự
tác động không nhỏ của nó theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực tới
đời sống xã hội đang trở thành mối quan tâm của các học giả trong và ngoài
giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Mặt khác, việc nghiên cứu, kế thừa những giá trị tích cực và khắc phục
những mặt tiêu cực, hạn chế trong nội dung tư tưởng triết học của Phật giáo
nói chung và nhân sinh quan, đạo đức Phật giáo nói riêng để lành mạnh hoá
các quan hệ xã hội là nhiệm vụ quan trọng của khoa học xã hội nước ta hiện
nay. Hơn nữa, đúng như Ph.Ăngghen từng viết rằng: “Tư duy lý luận chỉ là
một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy
cần phải được phát triển hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay,
không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”
[17, tr.487]1.
Xuất phát từ lập trường Mácxít và sự cần thiết phải nghiên cứu vai trò,
ảnh hưởng của đạo Phật tới nhân cách, đạo đức, lối sống... con người Việt
Nam hiện nay, chúng tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị
đạo đức con người Việt Nam hiện nay” với kỳ vọng góp phần nhỏ bé của
mình vào việc nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đạo Phật và vai
trò của nó ở nước ta. Ngoài những công trình do chính các tín đồ Phật giáo từ
các tổ chức Phật học và cá nhân, còn có các công trình khoa học của các học
giả ngoài Phật giáo. Các công trình đó đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác
1 - Từ đây trở đi, số đầu tiên trong móc chỉ thứ tự tài liệu tham khảo trong Danh mục các tài liệu tham khảo
của luận văn, số thứ hai chỉ trang tài liệu.
- 3 -
nhau của Phật giáo, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo tới lối sống của con
người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại.
Về vấn đề nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo đã có rất
nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể như:
Thích Tâm Thiện với cuốn Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo [Nxb
TP HCM PL 2538 - DL1994], trong đó tác giả lấy Duyên sinh - vô ngã làm
đối tượng để nghiên cứu. Đó chính là vấn đề mấu chốt, cốt lõi, thể hiện tinh
hoa của Phật giáo. Tác giả đã cho người đọc thấy được vị trí và giá trị của
Phật giáo với những nguyên lý nền tảng của nó.
Lưu Vô Tâm với cuốn Phật học khái lược [Phân viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002], một cuốn sách giới thiệu cho
người đọc thấy được những nét cơ bản nhất về nguồn gốc, kết cấu, nội dung
cơ bản của đạo Phật, trong đó các học thuyết Tứ diệu đế, nhân quả, luân hồi,
vô ngã…chứa đựng giá trị đạo đức Phật giáo sâu sắc.
Cuốn sách Cây giác ngộ của TS. Peter Della Santina, do Thích Tâm
Quang dịch ra tiếng Việt [Nxb Tổng hợp TP HCM, PL: 2546 - DL: 2002].
Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống các vấn đề của cuốn sách như: Phật
giáo - một nhãn quan hiện đại, bối cảnh trước khi có Phật giáo, cuộc đời Đức
Phật, bốn chân lý cao quý của nhà Phật, giới, nghiệp, tái sinh, năm khối tập
hợp ngũ uẩn. Có thể nói, Cây giác ngộ là một bức tranh minh hoạ tổng thể
giáo lý Phật giáo.
Cuốn Tâm và Ta của Thích Trí Siêu [Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2005]
là cuốn sách đã góp phần bổ túc rất nhiều kiến thức về giáo lý Vô ngã, trong
đó tác giả đã giải thích rõ Tâm là gì? Ta là gì? Vì sao mỗi người sinh ra trên
cõi đời này chỉ là Vô ngã?
- 4 -
Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội đã xuất bản cuốn Chân lý
sống của Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh. Đây là cuốn sách dành cho người muốn
tìm hạnh phúc và sự bình an qua con đường giác ngộ. Đó là con đường rất
đơn giản, thích hợp với mọi người, song nó đòi hỏi người tu hành cần phải
trang bị cả thân và tâm đề được giải thoát khỏi “Cái ngã”.
Danh nhân văn hoá Phật giáo Việt Nam đương đại - chân dung và đối
thoại là cuốn sách do Minh Mẫn chủ biên [Nxb Lao Động, Hà Nội, 2006] đã
thể hiện sự trân trọng, ghi ơn những bậc cao tăng, các tăng sĩ đã cống hiến hết
mình vì đạo pháp và dân tộc, nhất là trên lĩnh vực văn hoá xã hội. Cuốn sách
đã mang lại một vốn tri thức phong phú về Phật giáo thông qua các cuộc trao
đổi của các vị cao tăng. Đồng thời cũng là bài học quý giá cho những ai có
tinh thần dân tộc đang hướng đến bầu trời chân - thiện - mỹ.
Tác giả Vân Như Bùi Văn Nhự với Đạo Học [Nxb Phương Đông, Hà
Nội, 2007]. Trong công trình này, tác giả đã thâu tóm những điều căn bản và
cốt lõi của toàn bộ giáo lý nhà Phật mà nội dung của nó là Tứ diệu đế, Bát
chính đạo. Đây cũng là bài giảng trình bày một cách tổng thể tinh hoa của
Đạo Phật.
Trường Tâm - Thanh Long đồng biên dịch cuốn Đạo Phật với đời sống
[Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008]. Cuốn sách đã làm rõ một cách căn bản chữ
"Hoà" trong quan hệ giữa người với người. Từ đó, tác giả trình bày những
đóng góp của Phật giáo đối với nền giáo dục, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục đạo
đức cho thế hệ trẻ.
Về ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức, lối sống, nhân cách của
người Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể:
Năm 1997, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội cho xuất bản
cuốn: Hồ Chí Minh với đạo Phật Việt Nam do PGS.TS. Phùng Hữu Phú (chủ
- 5 -
biên) cùng Đại đức Thích Minh Trí. Các tác giả cuốn sách đã trình bày mối
quan hệ giữa chủ tịch Hồ Chí Minh và Phật giáo Việt Nam mang tính tiền
định. Cuộc đời cao đẹp của Hồ Chí Minh được các tăng ni, phật tử kính
ngưỡng, xem đó như là hiện thân của triết lý nhà Phật thông qua một con
người cụ thể giữa cuộc sống nhân gian. Mặt khác, trong qúa trình hoạt động,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và phát triển những giá trị nhân bản
của triết lý nhà Phật để cứu dân, cứu nước.
Năm 2001, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội cho ra mắt cuốn Đạo phật
với tuổi trẻ của Thích Thanh Từ. Trong cuốn sách này, tác giả đã bác bỏ quan
niệm sai lầm cho rằng, đạo Phật chỉ dành riêng cho những bậc lão niên, những
người yếm thế nên thanh niên xem thường, bàng quan và tránh xa đạo Phật.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu của tác giả, hàng loạt vấn đề như: Đức hỷ xả, Đức
thanh tịnh, Đức tinh tấn, tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục... được làm rõ. Từ đó,
tác giả đưa ra khẳng định cho rằng, đạo Phật là “đạo của tuổi thanh xuân đang
căng tràn nhựa sống và thiết tha yêu đời”. Tác giả khuyên tuổi trẻ nên học
Phật từ sớm vì đó là cách tốt nhất để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức.
Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam [Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2006] của TS. Đặng Thị Lan đã khảo lược những nét
cơ bản nhất của đạo đức Phật giáo như: Từ bi là giá trị nền tảng của đạo đức
Phật giáo; Ngũ giới là các chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật giáo; các khái
niệm nhân quả, nghiệp báo, luân hồi…; mối liên hệ giữa đạo đức Phật giáo
với đạo đức truyền thống Việt Nam; vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc
xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Đề cập đến giá trị đạo đức Phật giáo, TS. Hoàng Thị Thơ có bài Giá trị
đạo đức của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại, đăng trong kỷ yếu của
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II với chủ đề Việt Nam trên đường
- 6 -
phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại, TP HCM, 14 - 16/7/2004
(tập 3), (Nxb Thế giới & Đại học Quốc gia Hà Nội, VASS, 2007. Trong đó,
tác giả đã tập trung phân tích những ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo tới đạo
đức truyền thống và hiện đại của Việt Nam. Đó là những vấn đề về tính
hướng nội - bình đẳng - phi thần quyền của đạo đức Phật giáo.
Năm 2008, Nhà xuất bản Phương Đông, Hà Nội đã xuất bản cuốn Sức
mạnh của Đạo Phật của tác giả Jean - Claude Carriere, người dịch là Nguyễn
Tiến Lộc. Đọc cuốn sách này chúng ta thấy được những mảng đề tài, những
câu chuyện dẫn giải gần gũi, giản dị, khúc triết và thực tiễn về Phật giáo. Tác
giả đã đề cập đến một thực tế hiện nay là khi con người tham vọng, chạy đua,
vươn tới những đỉnh cao danh vọng và giàu có vật chất, thì đời sống tâm linh,
cái Đạo, cái Tâm, cái Thiện trong mỗi người có khi bị thu nhỏ lại, nhường chỗ
cho những băn khoăn, trăn trở, lo toan, cho những ham muốn bất tận của cuộc
sống.
Năm 2010, Nxb Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh cho xuất bản cuốn
Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam của PGS.TS. Trần Hồng
Liên. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm rõ các vấn đề như: Chức năng của
Phật giáo đối với vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, giúp người đọc hiểu rằng dù
tác động trên bất cứ lĩnh vực nào thì tựu trung lại, Phật giáo cũng chỉ nhằm
vào việc mang lại sự an vui, niềm hạnh phúc về cả vật chất và tinh thần cho
con người.
Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên
các tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội bàn về đạo đức như: Đặng Hữu
Toàn, "Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ
trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường" [Tạp chí triết
học, số 4 - 2001, tr 27- 32], Trần Nguyên Việt với "Giá trị đạo đức truyền
- 7 -
thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế
thị trường" [Tạp chí triết học, số 5 - 2002, tr.20 - 25]. Các bài bàn về nhân
sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống con
người Việt Nam như Hoàng Thị Thơ với: "Vấn đề con người trong đạo Phật"
[Tạp chí triết học, số 6 năm 2000, tr.41- 44], "Đạo đức Phật giáo với kinh tế
thị trường" [Tạp chí triết học, số 7 - 2002, tr 28 - 33, "Đạo đức Phật giáo với
vấn đề xây dựng nhân cách con người Việt Nam" [Tạp chí nghiên cứu tôn
giáo, Số 1- 2002, tr 44 - 49].
Nhìn chung, các nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật
giáo và ảnh hưởng của nó tới đời sống đạo đức con người Việt Nam hiện nay
không còn là một lĩnh vực mới mẻ, xa lạ. Số lượng các công trình cũng như
kết quả của các công trình đó rất lớn. Tuy nhiên, việc trình bày vai trò và ảnh
hưởng của Phật giáo tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử
và hiện đại là vấn đề rộng lớn, cần phải tiếp tục làm rõ, đặc biệt là ảnh hưởng
của đạo Phật đến đạo đức của người Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức con người
Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+Trình bày sự ra đời của Phật giáo và những nội dung tư tưởng cơ bản
của nó.
- 8 -
+Trình bày một cách khái quát về khái niệm đạo đức, giá trị đạo đức, hệ
thống giá trị đạo đức của người Việt Nam trong truyền thống và hiện đại. Qua đó
thấy được hệ chuẩn các giá trị đạo đức của người Việt Nam từ xưa đến nay.
+Trình bày ảnh hưởng của đạo Phật tới các giá trị đạo đức của người
Việt Nam trong lịch sử và đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về triết học và lịch sử triết học kết hợp với phương pháp luận nghiên cứu triết
học phương Đông.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp các phương pháp: phân tích
và tổng hợp, logic với lịch sử, quan sát, phỏng vấn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nội dung tư tưởng cơ bản Phật giáo, đặc biệt
là nhân sinh quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới các
giá trị đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Ảnh hưởng của Phật giáo đến các giá trị đạo đức
con người Việt Nam hiện nay, kế thừa các kết quả từ công trình nghiên cứu ở
nước ta về đạo Phật.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hoá những nội dung cơ bản về thế giới
quan, nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo. Từ đó nêu lên được ý nghĩa lý
luận và thực tiễn của đạo Phật, những ảnh hưởng của nó đến các giá trị đạo
đức con người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn nêu lên được những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của Phật
giáo tới các giá trị đạo đức con người Việt Nam. Từ đó có hướng phát triển
- 9 -
đạo Phật một cách đúng đắn, hợp lý, phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam
hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dậy và tìm hiểu tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
8. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, bản luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
- 10 -
NỘI DUNG
Chƣơng 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO
VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ
1.1. Hoàn cảnh ra đời và ngƣời sáng lập ra Phật giáo
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Phật giáo Ấn Độ ra đời trên cơ sở văn hoá truyền thống của nó, đó là
những điều kiện xã hội và tiền đề tư tưởng, trong đó tiền đề tôn giáo đóng vai
trò quyết định đến những nội dung tư tưởng cơ bản của Phật giáo. Ra đời
trong giai đoạn cuối của thời kỳ Vệ Đà, tức thời kỳ hình thành các bộ kinh
quan trọng của tôn giáo Vệ Đà với sự xuất hiện các dòng phái triết học - tôn
giáo chính thống, đồng thời làm xuất hiện giai đoạn mới của tôn giáo này là
Bà La Môn, Phật giáo cùng với Kỳ Na giáo (Jaina) đã trở thành những trường
phái triết học - tôn giáo chống lại chủ trương phân biệt đẳng cấp xã hội và đi
liền với nó là vấn đề giải thoát con người ra khỏi sự khổ đau. Sự phân chia
đẳng cấp do Bà La Môn thực hiện, có thể nói, là tiền đề quan trọng cho sự
xuất hiện các trường phái phi chính thống mà chúng ta cần tìm hiểu một cách
cặn kẽ hơn những đặc thù về vị thế, vai trò của các đẳng cấp xã hội Ấn Độ
thời đó.
Từ thế kỷ VI (TCN) đến thế kỷ I (SCN), chế độ chiếm hữu nô lệ mang
tính gia trưởng kiểu phương Đông đã khá phát triển ở Ấn Độ. Thủ công
nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp. Trên cơ sở của Luật "Ma Nu"2, xã hội Ấn
Độ được chia thành 4 đẳng cấp:
1. Brahmana (Tăng lữ, Bà Lamon) 2 - Ma Nu - một vị thần được xem là thuỷ tổ của người ấn Độ, trên cơ sở tín niệm ấy đã xuất hiện Luật Manu
thời Bà La Môn giáo về phân biệt đẳng cấp xã hội.
- 11 -
2. Ksatrya (giai cấp quý tộc)
3. Vai'sya (giai cấp bình dân)
4. Sudra (giai cấp cùng đinh nô lệ)
Các đẳng cấp này được phân biệt bởi vị thế, màu sắc y phục, nguồn gốc
xuất thân của các thành viên, được sắp xếp từ cao xuống thấp. Ba đẳng cấp
trên đều là người Aria, nó cách biệt về mọi lĩnh vực đời sống so với Sudra,
đẳng cấp chủ yếu là người Ấn bản địa (Dravia). Những người đàn ông thuộc
ba đẳng cấp trên được quyền tiếp xúc với những lễ nghi tôn giáo và thông qua
đó mà có được tri thức như là điều kiện tiên quyết cho sự giải thoát. Vì thế, họ
được xem là những người được sinh ra lần thứ hai. Đẳng cấp nô lệ (Sudra) và
tất cả những người phụ nữ không có quyền nói trên. Do đó, họ không được
giải thoát, thậm chí những người thuộc đẳng cấp thứ tư này bị đối xử như súc
vật, bị các đẳng cấp khác xua đuổi hoặc giết chết một cách thản nhiên. Như
vậy, sự cách biệt không chỉ bởi đặc quyền tiếp xúc với các lễ nghi, tri thức
[Veda] của tăng lữ Bà La Môn, bởi sức mạnh thống trị, tàn sát, chiếm hữu về
mặt nhà nước của Ksatrya; bởi tầng lớp quốc nhân (tầng lớp nhân dân lao
động có một số thực quyền, mà còn bởi điều kiện giải thoát cho con người ra
khỏi cuộc đời khổ đau truyền kiếp).
Đề cập đến các tiền đề xuất hiện của Phật giáo không thể thiếu văn hoá
tư tưởng. Đó là các văn bản tư liệu cổ nhất của Ấn Độ được hình thành qua
hàng thế kỷ mà từ đó xuất hiện các trường phái triết học khác nhau, đặc biệt là
các dòng chính thống. Tuy Phật giáo là một học thuyết tôn giáo triết học phi
chính thống của Ấn Độ, song những khái niệm, phạm trù của nó đều có nguồn
gốc từ các văn kinh của Vệ Đà.
Vệ Đà có nghĩa là tri thức, là tập hợp các tập quán tín ngưỡng, các bài
văn ca ngợi thần linh từ thiên niên kỷ thứ 3 TCN, còn gọi là các samhita. Tiếp
theo Vệ Đà hay còn gọi là lớp tư liệu thứ hai là Brâhmana chứa đựng những
- 12 -
nội dung kiến giải, chú thích cho các samhita. Lớp thứ ba là Aranyaka, còn
gọi là sách chú giải dành cho các cư sĩ sống trong rừng. Lớp thứ tư là
Upanishad, là bộ sách chú giải mang ý nghĩa triết học sâu sắc nhất.
Các samhita gồm có 4 bộ. Thứ nhất là Rigveda, hay còn gọi là Vệ Đà
của các bài thánh ca ca ngợi các thần linh, được hình thành từ thế kỷ 18 đến
thế kỷ 12 TCN. Thứ hai là Sammaveda, còn gọi là Vệ Đà của các giai điệu, đa
phần trùng hợp với các bài thánh ca trong Rigveda nhưng mang ý nghĩa lễ
nghi tôn giáo nhiều hơn. Thứ ba là Jadzurveda, còn gọi là Vệ Đà của các lễ
nghi hiến tế. Thứ tư là Atharvaveda, còn gọi là Vệ Đà của những yếu tố ma
thuật, phù chú.
Thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm trong
thánh kinh VêĐa, Upanishad đã trở thành hệ tư tưởng thống trị đời sống tinh
thần người Ấn Độ cổ.
1.1.2. Người sáng lập Phật giáo
Vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, tại miền Bắc Ấn Độ thuộc lưu vực
sông Hằng và chân núi Hi Mã Lạp Sơn có một người từ dòng tộc Gautama
thuộc bộ lạc Aria được sinh ra. Đó là hoàng tử của vua Saddhodan nước Ca Tì
La Vệ (Capilavastu) tên là Siddhartha Gautama. Siddhartha mồ côi mẹ từ khi
mới sinh và tương truyền người cha được báo trước về thân phận của con
mình rằng, đứa trẻ về sau sẽ trở thành nhà tu hành, nếu nó bắt gặp những hiện
tượng ngoài đời như bệnh, lão và tử của con người. Người cha của Siddhartha
không muốn điều đó xảy ra đã cố gắng bằng mọi cách nuôi dạy người con trai
duy nhất của mình trong cung điện. Tuy nhiên, khi lớn lên, Siddhartha tỏ ra
băn khoăn bởi những mặt trái khổ đau trong cuộc sống của con người. Con
đường tu hành của Siddhartha có nguyên nhân liên quan đến điều tiên đoán
trước đây. Đó là những lần Siddhartha ra ngoài cung điện, bắt gặp hiện thực
cuộc sống của con người như những trường hợp Ngài thấy người bệnh tật, già
- 13 -
yếu, người chết và động lực thúc đẩy mạnh nhất dẫn đến quyết định của ông
là sự gặp gỡ nhà tu hành, một cách sống giúp con người thoát khỏi mọi phiền
não của cuộc đời.
Siddhartha trở thành nhà tu hành từ năm 29 tuổi. Sáu năm nghiên cứu
kinh Vệ Đà, sau đó thực hành cuộc sống tu hành khổ hạnh. Song, Ngài đã
nhận ra con đường tu hành khổ hạnh thông qua hành xác không đem lại kết
quả mà Ngài mong đợi, đó là nhận thức chân lý. Cuối cùng, bằng việc áp
dụng phương pháp thiền định dưới gốc cây Bồ Đề, Ngài đã giác ngộ, trở
thành Phật (Budha).
Sau khi đạt đến chính quả, Sddhartha thực hiện việc truyền bá học
thuyết của mình. Các đệ tử của Ngài rất đông, dần dần hình thành nên cộng
đồng Phật giáo và họ tôn Ngài là Thích Ca Mâu Ni. Quá trình truyền bá của
Thích Ca Mâu Ni kéo dài 45 năm và Ngài viên tịch vào tuổi 80. Các tài liệu
khoa học hiện đại khẳng định niên đại của Phật là 563 - 483 tr.CN.
Là người sáng lập trường phái Phật giáo thuộc hệ phái phi chính thống
trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, song Phật không trước tác, tức không để
lại những tác phẩm giáo lý kinh điển của Phật giáo. Những kinh điển Phật
giáo mà hiện nay đang được lưu hành đều do các môn đệ của Ngài qua các
thế hệ biên tập và phát triển từ hình thức truyền miệng. Những tác phẩm kinh
điển đầu tiên được tập hợp trong suốt 300 năm sau khi Phật mất, đó là vào
thời thịnh vượng của Phật giáo, thời vua Asoka. Ông vua này được gọi là Phật
hoàng, người có công tiến hành ba cuộc kết tập và hình thành nên bộ kinh
điển quan trọng của Phật giáo mang tên Tam tạng kinh (Tripitaka - ba giỏ lớn
chứa đựng các nội dung giáo lý Phật giáo được viết trên những chiếc lá dừa).
Kinh điển được viết bằng tiếng Pali, do đó nó còn được gọi dưới tên khác là
kinh Pali.
- 14 -
Tam tạng kinh bao gồm: 1. Kinh tạng (Sutta-pitaka) - tập hợp các bài
giảng của Phật và những bài giảng của học trò được Ngài cho phép giảng
trong cộng đồng Phật giáo; 2. Luận tạng (Abhidhamma-pitaka) - phần phát
triển Kinh tạng về phương diện triết học, tâm lý - đạo đức bởi những bậc đạt
đức cao siêu; 3. Luật tạng (Vinaya - pitaka) tập hợp các giới luật, chuẩn tắc
cuộc sống của nhà tu hành và điều luật của các tổ chức giáo hội Phật giáo.
1.2. Những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của triết học Phật giáo
1.2.1. Vài nét khái quát về thế giới quan Phật giáo
Phật Thích Ca đã né tránh một cách có ý thức những vấn đề lớn của thế
giới quan như cấu trúc của vũ trụ, linh hồn và mối quan hệ của nó với thể xác.
Những vấn đề khác như thế giới có vĩnh hằng hay không, nó hữu hạn hay vô
hạn, linh hồn có đồng nhất với thể xác không, linh hồn bất tử hay không bất
tử đều được Phật xem là không quan trọng. Phật chỉ quan tâm nhất đến điều là
làm thế nào để giải thoát con người ra khỏi thế giới đầy rẫy những khổ đau.
Tuy nhiên, để thực hiện điều đó, Phật kêu gọi phải có nhận thức đúng về thế
giới ngoại cảnh đang không ngừng biến đổi trên lập trường của thuyết duyên
sinh vô ngã.
Phật giáo bác bỏ Brahman và Atman nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân
hồi và nghiệp. Quá trình hình thành thế giới và sự vận động của nó theo luật
nhân quả, nhân duyên. Đạo Phật ra đời khi mà xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có
một nền văn minh phát triển rực rỡ. Để cho triết thuyết của mình có thể đứng
vững trước thuyết tạo thần của Blamon, Đức Phật đã xây dựng thuyết duyên
sinh làm nền tảng cho học thuyết của mình. Đức Phật dạy rằng, vô ngã, vô
thường là một sự thực ở đời, nhưng xưa nay hầu như không ai hiểu được điều
đó. Do "vô minh" nên ai cũng nghĩ rằng mình tồn tại trên cõi đời này tức là sự
kết hợp của ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn) nhưng
sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, uẩn là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã mà
- 15 -
"Kinh vô ngã tướng" [58, tr.29 - 32] đã chỉ ra rất rõ, nên thật ra không có cái
Ta trên cõi đời này. Năm uẩn hình thành nên con người và cũng chính năm
uẩn hình thành nên thế giới. Trong vũ trụ, vạn sự, vạn vật được Phật giáo gọi
là vạn pháp không phải do một đấng thiêng nào sáng tạo ra bằng những phép
màu huyền bí, mà chúng được tạo nên bởi những phần vật chất nhỏ bé nhất,
đó là "bản thể", là thực tướng của thế giới vạn pháp. Các sự vật, hiện tượng,
các pháp trong vũ trụ không đứng yên mà luôn vận động, biến đổi gọi là vô
thường. Vạn pháp vô thường tức là không gì tồn tại vĩnh cửu mà tất cả tuân
theo chu trình: thành - trụ - hoại - không (với pháp vô tình) hay sinh - trụ - dị -
diệt (đối với các pháp hữu tình). Con người và vạn vật trong thế giới này luôn
luôn thay đổi từng giờ, từng phút, từng satna (thời gian búng móng tay). Vạn
pháp sinh diệt, tiếp diễn không ngừng. Vô thường là một tiến trình tự nhiên
của mọi sinh vật.
Vạn pháp trong vũ trụ không có tự tính (không có bản tính riêng của
mình) mà chỉ là sự hoà nhập của nhân duyên. "Nhân là nguyên do chính,
những nhân tố phụ gọi là duyên" [12, tr.470]. Các sự vật chuyển động, biến
động đều do nhân duyên chi phối. Nhân là mầm tạo quả, duyên là phương
tiện, điều kiện - Vạn pháp do nhân duyên mà thành. Một sự vật, hiện tượng
không phải là do một nhân duyên mà do nhiều nhân duyên. Vậy nên, các sự
vật, hiện tượng quan hệ mật thiết với nhau, tác động và chi phối lẫn nhau.
Trong quá trình vận động, nhân duyên liên tục kết hợp, liên tục tan rã, cho
nên các sự vật, hiện tượng cũng liên tục sinh, liên tục diệt. Nguyên lý duyên
sinh vô ngã nói rằng tất cả những gì hiện hữu trên cõi đời này là hiện hữu của
tương duyên. Tương duyên là tính chất cơ bản của hiện hữu. Con người do
duyên sinh nên vô ngã. Con người vô ngã vì do duyên sinh. Lý duyên sinh
cho thấy con người không có Ngã, mà chỉ là một chuỗi dài mười hai nhân
duyên trôi chảy bất tận.Tiếng nói duyên sinh vô ngã của nhà Phật có ý nghĩa
- 16 -
vô cùng to lớn, mang lại một niềm tin lớn cho tất thảy chúng sinh và cũng là
điểm khác biệt giữa Phật giáo với tất cả các tôn giáo khác. "Đối với xã hội,
đây là một bước ngoặt trọng đại của lịch sử, giải thoát nhân sinh ra khỏi
những nô lệ huyễn hoặc mà các tà giáo đã buộc chặt số phận con người, xem
con người và vạn hữu như là những tôi đòi của những quyền năng vô hạn.
Cũng từ đây, tất cả muôn loài chúng sanh đều được nhìn dưới quan điểm mới,
đó là cái nhìn Vô Ngã, một cái nhìn vô cùng tiến bộ trong lịch sử văn minh
nhân loại, xuyên suốt hơn 25 thế kỷ qua cho đến thời đại ngày nay của chúng
ta" [62, tr.61].
Phật giáo đưa ra thuyết "sắc - không" để lý giải việc nhận thức thế giới.
"Sắc" dùng để chỉ sự vật ở trạng thái có hình tướng trong không gian mà con
người nhận biết được gọi là “có”. "Không" dùng để chỉ sự vật, hiện tượng ở
trạng thái không có hình tướng trong không gian. Theo thuyết "sắc - không",
thế giới luôn chuyển động, biến đổi. “Sắc - sắc”, “Không - không” đều là
những thuật ngữ của Phật giáo dùng để chỉ cái có mà không có, cái không có
mà lại là có. “Sắc”, “Không” là hai dạng tồn tại của thế giới vạn pháp.
Như vậy, thế giới trong quan niệm của Phật giáo là thế giới vật chất
luôn vận động, biến đổi vô thuỷ và vô chung. Sự biến đổi của thế giới, sinh
diệt của vạn vật bắt nguồn từ những nguyên nhân tự nó mà nhà Phật gọi là tự
kỷ nhân quả. Sự vật, hiện tượng mà con người nhìn thấy chỉ là ảo giả, không
có thực tướng. Tất cả đều được sinh ra từ cát bụi rồi cuối cùng lại trở về cùng
cát bụi. Đối với con người thì thế giới khách quan đang tồn tại cũng chỉ là hư
ảo, không có thực.
Tư tưởng về tam giới, nhân duyên, vô thường, vô ngã là cốt lõi của thế
giới quan Phật giáo. Những tư tưởng này đã quyết định đến việc hình thành
quan điểm của Phật giáo về nhân sinh và liên quan mật thiết đến quan niệm
của Phật giáo về con người và đời người.
- 17 -
1.2.2. Quan niệm về nhân sinh quan và đạo đức Phật giáo
1.2.2.1. Quan niệm về con người và cuộc đời con người
Phật giáo lấy con người làm trung tâm, coi bản chất con người là khổ
và mục đích là cứu chúng sinh thoát khổ. Để thức tỉnh và giáo dục con người,
Đức Phật đã đưa ra các thuyết: Duyên khởi, vô thường, vô ngã, nghiệp báo,
luân hồi để từ đó xây dựng một nhân sinh quan, một triết lý sống trong học
thuyết của mình. Theo quan điểm của Phật giáo thì không có cái Ta thực sự
trên cõi đời này nên cũng không có cái gì được gọi là "của Ta". Vì vậy, con
người không nên tham cầu quá, không nên chấp ngã. Vì con người không
hiểu được bản thân đang tồn tại trên cõi đời này là tồn tại của cái "vô ngã”,
cho nên cứ mải mê tham đắm với tiền tài, danh vọng, v.v. Con người cũng
như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hoà hợp. Con người chỉ là một cái tên,
là một giả danh để gọi cái hội hợp của năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Khi đủ nhân duyên, chúng tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan ra thì chết.
Không thường mà tưởng là thường, không Ngã mà tưởng là có Ngã - điều đó
được xem là sự mê muội lớn nhất của con người. Và cũng chính do cái mê
muội ấy mà con người càng trở nên đau khổ thêm. Tuy nhiên, Phật không phủ
nhận hoàn toàn cái Ta mà chỉ phủ định quan niệm cái Ta tồn tại "bất di bất
dịch". Trường phái Trung Quán phân tích rõ về hai loại ta: cái ta tương đối và
cái ta tuyệt đối và chỉ ra rằng giáo lý vô ngã phủ định cái ta tuyệt đối chứ
không phủ định cái ta tương đối. "Cái Ta tương đối" là một danh từ giả hợp
(tạm lập ra) để chỉ năm uẩn. Mỗi khi năm uẩn hợp lại thì gọi đó là ta (ngã), nó
là một danh từ quy ước để xưng hô và chỉ định sự khác biệt giữa từng cá nhân
trong cộng đồng" [58, tr.73]. Còn "Cái Ta tuyệt đối " là cái Ta hiện hữu độc
lập, tự tánh, không lệ thuộc vào năm uẩn, thường còn, bất biến, nó hiện hữu
như là chủ của năm uẩn, điều khiển năm uẩn" [58, tr.74]. Do đó vấn đề cơ bản
của người phật tử là phải đi tìm diện mạo chân thật của chính mình, đó là
- 18 -
chân tâm, đó là cái "bản lai diện mục"3. Chỉ khi nào con người vứt bỏ được
mọi thứ phiền não để trở về chân tâm của mình thì lúc đó con người mới hết
khổ. Vì lẽ đó, Phật giáo kịch liệt bác bỏ thuyết định mệnh. Những người tin
vào thuyết định mệnh cho rằng, tất cả đều do trời sắp đặt, kể cả việc sống và
chết. Người đã có số thì dù cố gắng đến đâu cũng không thể thay đổi được số
mệnh của mình. Ngược lại Phật giáo cho rằng, tiền đồ và vận mệnh của một
cá nhân tốt hay xấu đều do việc làm hiện nay của mình quyết định, đó là tiền
đồ nằm trong tay chính mình, do mình quyết định. Đây là một quan niệm, có
thể nói là tiến bộ về nhận thức hành vi của con người và trách nhiệm cá nhân
trước hành vi đó. Phật giáo đưa ra học thuyết nhân quả: "Nhân là nguyên
nhân, quả là kết quả. Nhân là cái mầm, quả là cái hạt, cây trái là do mầm ấy
phát sinh. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực phát
động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có.
Nếu không có nhân thì không thể có quả và nếu không có quả thì không có
nhân" [61, tr.98]. Đây là một giáo lý đề cập đến mối quan hệ nhân quả, nhờ
đó giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ phổ biến, cơ bản giữa các sự vật,
hiện tượng, đó là mối quan hệ nhân - duyên - quả. Nó cung cấp cho mỗi người
chúng ta một cách suy nghĩ sâu hơn về thế giới hiện tượng và thông qua đó để
điều chỉnh hành vi của mình. Nó cảnh tỉnh về hệ quả, hệ luỵ của những hành
vi của con người, rằng "ác giả” sẽ có “ác báo". Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy: "Dù lên non, xuống biển, vào hang, nghiệp báo vẫn theo con
người như hình với bóng, không ai có thể tránh được". Cho nên, con người
phải lo trau dồi đức phước ngay cả những hành vi đối xử với môi trường
sống. Trong cuộc sống, mỗi con người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, làm tốt ở
hiện tại thì sẽ được hưởng thành quả ngọt ngào ở tương lai và ngược lại.
1.2.2.2. Vấn đề giải thoát 3 - Bản lai diện mục: nguyên nghĩa là nhận ra được diện mạo nguyên xưa, tức là hình dung được tính nguyên
sơ, cái tâm bản thể chứa trong mỗi sự vật để thấy tính, giác ngộ thành Phật.
- 19 -
So với Bà La Môn giáo, đạo Phật mang tính bi quan hơn trong quan
niệm về cuộc sống. Nếu Bà La Môn giáo dạy rằng, sự khổ đau (duhkha) là sự
trừng phạt bởi tội lỗi của kiếp trước và chỉ có bằng lòng thành tín thực hiện
các lễ nghi tôn giáo con người mới thoát khỏi sự khổ đau ấy, thì Phật giáo cho
rằng, bất kỳ cuộc đời nào cũng đều là khổ đau và trong luân hồi không bao
giờ có cuộc sống hạnh phúc. Là người ai cũng phải trải qua lão, bệnh và tử.
Không có một thứ lễ nghi hiến tế nào có thể làm cho con người thoát khỏi khổ
đau. Cách duy nhất giúp con người thoát khỏi khổ đau là chấm dứt hoàn toàn
sự luân hồi.
Như vậy, bằng những quan niệm về thế giới được thể hiện trong thuyết
duyên khởi vô ngã, nhà Phật đã chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của
vạn pháp trong thế gian, tìm ra nguồn gốc khổ đau của cuộc đời con người, từ
đó vạch ra con đường giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiệp báo luân hồi. Nội
dung nhân sinh quan căn bản và lý thuyết giải thoát của Phật giáo gồm “Tứ
diệu đế” (Catvary Arya Satya), “Thập nhị nhân duyên” (Dvadasanidanas) và
“Bát chính đạo” (Âryastangika mãrga).
"Tứ diệu đế được nhiều người nhìn nhận là nội dung chính yếu, cốt lõi,
căn bản của đạo Phật. Một nghệ thuật sống hoàn hảo, tuyệt vời, khôn ngoan
tuyệt đỉnh, thâm tuý cùng cực đã được diễn đạt bằng bốn sự thực rõ ràng,
minh bạch, hiển nhiên, chính xác, không thể phủ nhận: Khổ, Tập, Diệt, Đạo"
[44; lời tựa]. Trong thuyết Tứ diệu đế Đức Phật đã xếp Khổ đế thành chân lý
thứ nhất, đúng với bản chất cuộc đời con người là khổ đau. Theo Đức Phật,
khổ đau tồn tại ở ba dạng: đau đớn (về thể xác hay tinh thần), thay đổi và tái
sinh. Ngay giữa các cuộc vui, con người vẫn cảm thấy khổ vì sợ rằng cuộc vui
rồi sẽ tới lúc tàn. Kinh Chuyển Pháp Luân viết: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh
là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa là khổ, chấp trước
- 20 -
thân ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) là khổ. Đó là chân lý cao thượng về
sự khổ” [Trích theo 13; tr.180].
Thứ hai là Nhân đế (Samudaya - Satya), còn gọi là Tập đế (tích tập,
tổng hợp). Phật giáo cho rằng, nguyên nhân của khổ đau chính là do lòng ái
dục của con người gây nên. Ái dục lại từ sự vô minh, thiếu sáng suốt, bị mê
lầm làm cho tâm của con người vọng động, sinh ra vọng tâm, vọng niệm
trong nhận thức về thế giới vạn pháp. Con người không nhận thức được tất
thảy trong thế giới này đều là giả tạm, bản thân con người như đã trình bày ở
trên cũng chịu sự tác động, biến đổi của ngũ uẩn mà trở nên vô ngã. Con
người muốn trường tồn nhưng thực tại và cuộc đời của nó bị cuốn theo sự vận
động luân chuyển trong vòng “thành - trụ - hoại - không”. Mọi cái khổ đều có
nguyên nhân. Vì thế, Phật giáo đã đưa ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” bao
gồm: Vô minh, duyên hành, duyên thức, duyên danh - sắc, duyên lục nhập,
duyên xúc, duyên thụ, duyên ái, duyên thủ, duyên hữu, duyên sinh, duyên lão
- tử. Nói về nguồn gốc của khổ đau, kinh Chuyển Pháp Luân viết: “Bây giờ,
hỡi này các Tỳ kheo, đây là chân lý cao thượng về nguồn gốc của sự khổ.
Chính ái dục là nguyên nhân của sự tái sinh. Ái hợp với tâm tha thiết khao
khát, bám víu vào cái này cái kia [của đời sống]. Chính ái níu kéo theo nhục
dục ngũ trần, ái đeo níu theo sự sinh tồn, và ái đeo níu theo lý tưởng không
sinh tồn”. Như vậy, nguyên nhân của khổ đau đã được phát hiện, từ đó làm
xuất hiện chân lý thứ ba là Diệt đế.
Diệt đế (Nirodha - Satya) - là chân lý về cảnh giới diệt khổ. Phật khẳng
định cái khổ có thể diệt được. Có thể chấm dứt đau khổ bằng cách diệt dục.
Đấy là trạng thái của sự an lạc hoàn toàn, ở đó mọi dục vọng bị tiêu diệt.
Trạng thái đó được gọi là Niết bàn (Nirvana). Theo Doãn Chính, “Niết bàn là
một khái niệm không thể dùng tư duy và ngôn ngữ để định nghĩa hay mô tả,
mà phải bằng chính sự chứng ngộ, trực giác. Theo chữ Phạn, Niết bàn gồm
- 21 -
hai phần, “ni” và “vãna”. “Ni” là hình thức phủ định, nghĩa là không, “vãna”
có nghĩa là ái dục. Cho nên: “Gọi Niết bàn vì Niết bàn là sự dứt bỏ, sự tách
rời (ni) ra khỏi ái dục (vãna) và sự thèm khát nhục dục” [13, tr.182]. Để diệt
được ái dục, vô minh, Phật đưa ra tám phương pháp, còn gọi là tám con
đường chính đi đến giải thoát. Đó là chân lý thứ tư với tên gọi là Đạo đế.
Theo triết lý giải thoát của Phật giáo có tới 37 phương pháp và cách
thức giải thoát, còn gọi là 37 đạo phẩm, song con đường căn bản nhất, tập
trung nhất vẫn là “Bát chính đạo”, thường được gọi là “trung đạo”. Tám con
đường đó là:
• Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn, nhất là tứ diệu đế
• Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
• Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính
• Chính nghiệp: Giữ nghiệp không tác động xấu
• Chính mệnh: Phải tiết chế dục vọng, trì giới (giữ các điều răn)
• Chính tinh tiến: Rèn luyện tu tập không mệt mỏi
• Chính niệm: Thường ngày phải thờ Phật , niệm Phật.
• Chính định: Phải tĩnh lòng, tập trung tư tưởng mà suy nghĩ về tứ diệu
đế, vô ngã, vô thường.
Tám nguyên tắc trên có thể được thâu tóm vào “Tam học” đó là: Giới
học - Định học - Tuệ học.
Giới có nội dung rộng gồm (Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh) là
những điều răn cấm, những quy định giúp cho con người trên đường tu hành
tránh được những lỗi lầm, trở nên trong sạch. Giới luật có những quy chế cụ
thể cho từng đối tượng tu hành. Yêu cầu chung là giữ cho được năm giới
(không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu) và mười thiện.
- 22 -
Định (tức là thiền định) bao gồm: Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính
định. Đó là những phương pháp giúp người tu hành không tán loạn thân tâm,
nhờ đó mà loại trừ những ý nghĩ xấu, tạo điều kiện cho trí tuệ bừng sáng
Tuệ tức là trí tuệ gồm: Chính kiến, Chính tư duy. Phật giáo coi trọng
khai mở trí tuệ để thấy rõ thực tướng các pháp thì mới giải thoát sinh tử ra
khỏi "ba giới"4. Người có trí tuệ sáng suốt sẽ diệt trừ được vô minh, tham dục,
chứng ngộ được chân lý, làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Phật giáo lấy giải thoát làm lý tưởng cuối cùng cho chúng sinh. Giải
thoát là không có ô nhiễm, không có chấp trước, là được tự do, tự tại, cũng
gọi là cõi Niết Bàn. Phật giáo cho rằng, chúng sinh có nhiều phiền muộn như
ba cái độc: tham, sân, si (tam độc). Chúng là trở ngại cho sự sinh trưởng của
thiện căn, làm cho chúng sinh lưu chuyển trong nỗi khổ sinh tử không bao giờ
hết. Giải thoát theo Phật giáo có nhiều tiền đề khác nhau, nhưng tựu trung giải
thoát tự ngã trong thân năm uẩn giả hợp và cũng có nghĩa giải phóng ra khỏi
khổ bằng cách tri kiến nguyên nhân của khổ và tận diệt nó tức là thực hiện tứ
diệu đế và đoạn diệt ô nhiễm. Giải thoát tức là thoát khỏi ảo tưởng và khổ,
thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết Bàn. Danh từ "giải thoát"
được dùng như nghĩa giác ngộ. Trong kinh tạng AHàm, một tín đồ BàLamôn
hỏi Xá Lợi Phất rằng: "Niết bàn là gì?" Xá Lợi Phất trả lời rằng: "Đã diệt trừ
lòng tham, đã diệt trừ lòng nóng giận, oán thù, đã diệt trừ được si mê (vô
minh), đó là Niết Bàn". Vậy Niết Bàn không phải là một nơi chốn nào đặc
biệt mà có thể thực hiện ngay ở thế gian này, do sự tu hành nghiêm túc mang
lại cho con người một trạng thái tinh thần đặc biệt: an lạc, siêu thoát, tịch diệt.
Đạo Phật bao gồm rất nhiều những quan điểm nhân sinh độc đáo trong
đó Tứ diệu đế - Tam học - Bát chính đạo - Ngũ giới - Lục độ - Niết bàn -
Nhân quả, Nghiệp báo là nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo, thể hiện quan
4 - Ba giới: còn gọi là tam giới, gồm dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
- 23 -
điểm về nhân sinh và con đường giải thoát con người ra khỏi sự trầm luân của
"bể khổ". Tam học của nhà Phật không phải đề ra để con người đạt được sự
giải thoát sau khi chết, mà ngược lại, nhà tu hành có thể đạt được sự giải thoát
ngay tại thế giới bên này, nếu người đó biết tuân thủ tam học để diệt ái dục và
vô minh. Một điểm khác đáng lưu ý là nhà tu hành khi đắc đạo, đến với cõi an
lạc Niết bàn, nơi không sinh cũng không diệt, nơi chấm dứt sự luân hồi thì
Bát chính đạo đến đó cũng được coi là những phương pháp, con đường đi đến
giác ngộ “hoàn thành sứ mệnh” đưa “người qua sông mê”. Sự tu tập đó khác
hẳn với lý luận giải thoát của Bà La Môn giáo, một tôn giáo đề cao nghi thức
tế lễ, kể cả sự tế lễ man rợ nhất. Đức Phật vẫn thường khuyên con người hãy
ít tụng niệm và nên tập trung thực hành đạo pháp. Thậm chí Thiền Tông còn
cho rằng, Phật tức tâm, tâm tức Phật! “Không nên bỏ Phật tại gia mà cầu ma
ngoài đồng”, ý nói Phật tính trong tâm của mỗi con người, chỉ cần con người
có chí tiến thủ (chính tinh tiến), phải có niềm tin vào giáo lý của Phật và tập
trung thiền định sẽ đạt được giác ngộ. Ở nước ta, cả ba yếu tố “thiền, tịnh,
mật” đều có mặt, đều được giới phật tử nước ta tin theo bởi ở ba phái ấy chứa
đựng những nội dung tư tưởng gần gũi với tư tưởng bản địa của nước ta, đặc
biệt là Mật tông. Dù là Thiền tông, Tịnh Độ tông hay Mật tông cũng đều chứa
đựng những nội dung đạo đức tiến bộ, và ở mức độ khác nhau đều có ảnh
hưởng đáng kể đến lối sống của các cộng đồng dân cư Việt Nam trong lịch sử
và hiện tại.
1.2.2.3. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo
Đời sống con người chỉ có thể tồn tại bền vững, đạt được an vui, hạnh
phúc lâu dài khi được dựa trên nền tảng đạo đức chân chính. Trong đạo đức
học, luân lý học, triết học, văn học thì khái niệm về đạo đức không còn mới
mẻ nhưng trên thực tế, những ảnh hưởng tích cực bởi khuynh hướng đạo đức
và đời sống đạo đức thì luôn làm mới cuộc sống và con người. Một triết gia
- 24 -
phương Tây nào đó từng nói: "Muốn thay đổi cuộc sống, hãy thay đổi cách
sống". Vì vậy, không gì cao quí hơn trong cuộc đời này là mỗi người hãy
sống một đời sống đạo đức và vị tha. Đối với người tu theo hạnh Phật, điều
này càng trở nên quan trọng hơn. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và phát triển
các giá trị đạo đức Ấn Độ cổ, Phật giáo đã xây dựng một hệ thống các phạm
trù, khái niệm đạo đức cơ bản. Từ đó giúp các phật tử có một đời sống lành
mạnh, vị tha với một nền đạo đức mang những giá trị nhân bản sâu sắc.
Con người là đối tượng của đạo Phật, vì thế Đức Phật đề cập đến bao
nhiêu luật, bao nhiêu pháp môn, suy cho cùng cũng đều vì con người. Mang
lại sự an vui, hạnh phúc cho con người là mục tiêu chủ yếu của đạo Phật.
Theo quan điểm của nhà Phật thì con người muốn mang lại hạnh phúc cho
mình và cho mọi người thì phải biết thực hành ngũ giới, thập thiện, lục độ, lục
hoà, v.v.
Ngũ giới: là năm điều cấm do Đức Phật đề ra để các phật tử tuân theo.
Giữ gìn năm giới này là vì bản thân mỗi người chứ không phải vì Phật. Giới
(Silà) có gốc từ "Sil"với nghĩa là luân lý, đạo đức, cách cư xử hành vi đạo
đức. Giới luật (Sanskrit: Patimoksa; Pali: Patimokkha) có nghĩa gốc từ là "biệt
giải thoát" tức là giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít.
Theo Phật giáo, đạo đức thể hiện rõ nhất trong việc giữ giới. Giới là giai đoạn
đầu tiên tất yếu với mục đích dẫn dắt người tu hành từng bước đến với đạo.
Giới còn là phương tiện giúp con người vượt qua sông mê, bể khổ luân hồi,
tới chốn an lạc, giải thoát. Ngũ giới giúp con người hoàn thiện trong tư tưởng
và hành vi nhằm phát triển, hoàn thiện nhân cách con người theo nhân sinh
quan Phật giáo. Tinh thần giới căn bản của Phật giáo là làm lành, lánh ác, từ,
bi, hỉ, xả. Đức Phật không tự nhiên đặt ra nhiều giới luật mà mỗi giới luật
được chế ra đều dựa trên sự kiện thực tế cuộc sống nhằm ngăn ngừa các ác
bất thiện pháp giúp hành giả được thanh tịnh, làm nền tảng cho sự phát triển
- 25 -
tâm linh để mang lại an vui cho con người: "Ngũ giới là nền tảng căn bản đem
lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sống đúng ý nghĩa văn
minh của nhân loại. Ngũ giới là đạo đức cơ bản của người phật tử khi bắt đầu
bước chân trên con đường tu hành để đi tới giác ngộ, giải thoát. Thiếu căn bản
đạo đức này dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng là lối nói rỗng"
[40, tr.33]. Năm giới đó bao gồm: không sát sinh, không trộm cướp, không tà
dâm, không nói dối, không uống rượu. Đức Phật khuyên các vị đệ tử hãy
sống theo tinh thần giới luật, lấy giới luật làm thầy. Đó chính là nền tảng để
xây dựng một nếp sống cộng đồng tôn giáo lành mạnh, có đạo đức: "Các Tỳ
Kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự
phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chính hạnh, thấy sự nguy hiểm trong
các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới" [10, tr.443A].
Trong hầu hết các kinh tạng Pali, Đức Phật luôn khuyến khích các vị đệ tử
sống theo giới luật, đó cũng là nấc thang đầu tiên cho người xuất gia tiến sâu
vào con đường tuệ giác. Chúng ta hãy lắng nghe lời dặn dò tâm huyết của
Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn: "Các thầy Tỷ Kheo, sau khi ta diệt
độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù mà được mắt
sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc, phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của
các thầy. Nếu ta ở, đi thì cũng không khác gì tịnh giới ấy"5.
Qua đây cho chúng ta thấy được vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu của
giới luật trong giáo lý nhà Phật và theo cách nói của tiến sĩ Đặng Thị Lan thì
đó chính là "chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật giáo".
- Thập thiện đó chính là thập giới gồm mười giới luật chi tiết:
+ Ba nghiệp ác của thân như: không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm.
5 - Kinh Di giáo, bản dịch của T.T Thích Trí Quang
- 26 -
+ Bốn nghiệp ác của khẩu như: không nói dối, không nói lưỡi hai
chiều, không nói lời độc ác, không nói thêu dệt.
+ Ba nghiệp ác của ý: không tham dục, không ghen ghét thù hận, không
tà kiến.
- Lục độ: Lục độ chữ Phạn là "Balamâtđa" tức là "đến bờ bên kia" cũng
có nghĩa là: "Có thể vượt qua biển khổ, sống chết, đến bến bờ sung sướng".
Vì vậy, lục độ là sáu phương pháp khiến con người có thể vượt qua biển khổ,
sống chết. Lục độ bao gồm:
+ Bố thí: Đức Phật dạy pháp bố thí để dẹp bớt, dứt trừ lòng tham lam,
ích kỷ, bủn xỉn của con người. Chỉ có cái gì chúng ta "đã cho, đã bố thí" với
lòng từ bi là vẫn còn thuộc về chúng ta khi từ giã cõi đời này mà thôi.
+ Trì giới: Trì giới là nghiêm chỉnh ăn ở theo đúng giới luật của phật
tử. Nhờ trì giới mà trong cuộc sống mỗi người tự do hành động mà không làm
ảnh hưởng hay tổn hại đến người và vật xung quanh.
+ Nhẫn nhịn: Nghĩa là phải biết tự kiềm chế bản thân, hành động, ngôn ngữ
và kiềm chế ý nghĩ của chính mình. Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình.
Tự thắng mình là điều cao quý nhất"
Con người thường bị tâm tham lam, tâm sân hận và tâm si mê sai
khiến, điều khiển cho nên cuộc đời mới gặp nhiều phiền não và khổ đau. Khi
tâm tham, sân, si khởi nên, thì người nào tỉnh thức, tự kiềm chế được thì cuộc
sống sẽ an lạc, hạnh phúc. Chiến thắng được tâm tham lam, sân hận, si mê
của chính mình mới thực sự gọi là "có phước", mới thực sự mang lại an lạc
cho cuộc đời mình. Kinh Dị giáo có viết: "Này các Tỷ kheo, ai thực hành đức
nhẫn mới mệnh danh là bậc đại nhân có sức mạnh, kẻ nào không thể tiếp nhận
những lời nhục mạ một cách hoan hỉ như uống nước cam lồ, kẻ ấy không
- 27 -
được ca ngợi là bậc thượng nhân có trí". Cho nên, cổ nhân có dạy: "Một sự
nhịn chín sự lành" là vậy.
+ Tinh tấn: Tinh tấn nghĩa là siêng năng cần mẫn tu tâm dưỡng tính
trong mọi hoàn cảnh, trong mọi hoạt động để ngăn chặn ba nghiệp, không tạo
thêm tội lỗi, nghiệp báo mới.
+ Thiền định: Trau giồi tâm tính cho được tự tại, cho được bình tĩnh,
thản nhiên trước mọi hoàn cảnh. Tâm an là liều thuốc tinh thần tốt nhất giúp
con người hạnh phúc. Với tâm giải thoát, tâm thanh tịnh, đạo đức Phật giáo đã
vạch ra con đường mang hạnh phúc đến cho chúng sinh.
+ Trí tuệ: Có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nắm giữ các pháp,
nhờ có tuệ quán sát, pháp mới trở nên rõ ràng. Trí tuệ trong giáo lý phật giáo
không phải là sự hiểu biết kiến thức ở thế gian mà "là sự nhận thức sáng suốt
đưa con người đến chỗ giác ngộ giải thoát, được an lạc và hạnh phúc. Người
có trí tuệ là người có chánh kiến, nghĩa là người thấy muôn pháp, biết muôn
việc "đúng như thật", không mê lầm điên đảo, không mê tín dị đoan, không
nhận giả làm chân, không chấp chặt thành kiến" [59, tr.92].
- Lục hoà: Phật giáo dạy chúng sinh muốn có tin yêu và đoàn kết thì
phải thuận hoà. Lục hoà là sáu phương pháp hoà kính với nhau trong sự hoà
hợp từ lời nói đến việc làm. Lục hoà bao gồm: thân hoà đồng trụ (thân hoà
cùng ở), khẩu hoà vô chánh (lời nói hoà hiệp không tranh cãi nhau), ý hoà
đồng duyệt (tâm ý cùng vui), giới hoà đồng tu (giới hoà cùng tu), kiến hoà
đồng giải (thấy biết cùng nhau giãi bày), lợi hoà đồng quân (quyền lợi cùng
chia đều nhau).
- Đức tính tàm quý: Tàm có đặc tính là biết tự trọng, ghê tởm điều xấu
xa, quý là quan tâm đến dư luận, sợ làm điều sai trái. Con người biết tàm quý
tức là biết hổ thẹn với những việc làm sai của mình. Ngọc còn có vết huống
hồ con người "nhân vô thập toàn", ai cũng có lúc phạm sai lầm, có điều là
- 28 -
phải biết nhận lỗi và sửa lỗi. Một người mà không biết xấu hổ với những việc
làm tội lỗi của mình thì người đó không việc xấu gì là không giám làm.
Những người biết hối cải sẽ luôn được đón nhận với tấm lòng bao dung, vị
tha: "Này Chư Hiền, vị Tỷ Kheo này thường hay phạm giới tội, phạm nhiều
giới tội, khi bị các vị Tỷ Kheo nói, không tránh né câu hỏi bằng một câu hỏi
khác, không hướng câu chuyện ra ngoài vấn đề, không hiện khởi phẫn nộ, sân
hận và bất mãn, xử sự chơn chánh, có tự lắng dịu, có chấm dứt giới tội tốt
lành thay, nếu như Tôn giả, sau khi điều tra nhiều lần vị Tỷ Kheo này hãy giải
tội này một cách mau chóng" [11, tr.443A]. Vậy nên, tàm quý là một trong
những đức tính vô cùng quí báu trong việc giáo dục để hoàn thiện nhân cách
con người. Trong kinh Di giáo Đức Phật cũng đã nhấn mạnh rằng: "Sự hổ
thẹn là phục sức tốt đẹp nhất trong mọi thứ phục sức, như cái móc sắt, sự hổ
thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy
Tỳ Kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ quên đức tính ấy,
dầu chỉ tạm thời mà thôi, mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện
pháp, không hổ thẹn thì không khác chi cầm thú". Chính vì vậy đức tính hổ
thẹn trở thành một trong những nguyên tắc, quy phạm đạo đức quan trọng để
điều chỉnh hành vi thân, khẩu, ý để con người hướng thiện, dù là người tại gia
hay xuất gia cũng cần có đức tính ấy. Mất đi đức tính này là nguyên nhân sâu
xa của các điều ác, ngày nay ta thường gọi là các tệ nạn xã hội.
- Thiện và ác: Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ. Đức Phật luôn luôn
khuyên con người trong cuộc sống phải: "Làm lành, lánh ác" để hưởng quả
lành vì con người sống là theo luật nhân quả. Thiện và ác là phạm trù đạo đức
cơ bản của Phật giáo. Phật giáo quan niệm rằng thiện ác, chính tà không phải
là vốn có, cũng không phải do thần thánh hay tác nhân khách quan tạo ra hay
quy định, mà nguồn gốc sâu xa là ở chính mỗi người. Đạo đức Phật giáo coi
xã hội chỉ là một tập hợp những cá nhân khác nhau trong quan hệ thiện - ác
- 29 -
nhưng không đối kháng nhau về giai cấp, đẳng cấp, quyền lợi… Vậy thiện là
gì? Thiện là "từ bỏ sát sinh là thiện, từ bỏ vọng ngôn là thiện, từ bỏ nói lời hai
lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ ỷ ngữ là thiện, không tham dục là
thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện" [10, tr.47A] và căn bản của
thiện là không tham, sân, si. Đức Phật cũng chỉ ra rằng "sát sinh" là bất thiện,
lấy của không cho là bất thiện, tà dâm là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác
khẩu là bất thiện, ỷ ngữ là bất thiện, tà kiến là bất thiện, vọng ngôn là bất
thiện" [11, tr.443A] và căn bản của bất thiện chính là tham, sân si. Đây chính
là "tam độc" mà tam độc hại người đến bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, nếu
đáng sợ chúng ta nên sợ tam độc hơn tất cả các thứ độc khác. Vậy nên, thiện
là chân chính, có suy nghĩ, nhận thức và hành động đúng đắn, có đạo đức tốt
theo chuẩn mực của giới luật, còn ác là những điều xấu xa, những điều không
tuân theo chuẩn mực của giới luật gây đau khổ cho cuộc sống chúng sinh. Để
định giá về thiện, ác, Phật giáo cho rằng lợi ích là tiêu chuẩn để đánh giá,
nhận thức và hành động đem lại lợi ích cho người khác, đó là thiện. Nhà Phật
quan niệm thiện mấy cũng chưa đủ, tu bao nhiêu cũng không đủ nhưng ác thì
chỉ cần một chút thôi cũng đã là ác rồi, vì thế đức Phật dạy "Đại vương ví như
chút kim cương có thể phá núi tu đi, cũng như lửa có thể đốt cháy tất cả, như
chính thuốc độc có thể hại mạng chúng sinh. Chút lành cũng vậy, tuy gọi là
chút lành nhưng kỳ thật là lớn, vì sao vậy? Vì có thể phá đại ác vậy. Đừng
khinh ác nhỏ là không có tội, giọt nước mắt tuy ít nhưng chứa dồn đầy lu"
[25, tr.37].
Tuy nhiên, ranh giới giữa cái thiện và cái ác thật mong manh như nhà
văn Thạch Nam nói thì "chỉ mong manh như một sợi tóc" cho nên mỗi người
cần tin Phật, tin pháp và thực hành giới một cách có tuệ giác thì mới dễ dàng
vượt qua cám dỗ cuộc sống.
- Lấy ân báo oán:
- 30 -
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan"
Nghĩa là chuyện oán thù trong quá khứ chỉ nên cởi mở, không nên kết
chặt thêm. Thực ra quan niệm "răng trả răng, môi trả môi" của một số người
không phải là lối ứng xử thành công, tốt đẹp. La Cordaire nói rằng: "Nếu anh
muốn vui sướng trong chốc lát, cứ trả thù, nhưng nếu anh muốn an vui mãi
mãi thì hãy tha thứ".
Lời dạy của Đức Phật mãi mãi là một phương châm, một triết lý sống
cao cả đúng trong mọi thời đại.
- Đức Phật đưa ra một số nguyên tắc để ứng xử trong mối quan hệ giữa
cha mẹ với con cái, giữa chồng và vợ. Đối với trách nhiệm của cha mẹ "phải
ngăn chặn con làm điều ác, khuyến khích con làm điều thiện, trao cho con
nghề nghiệp, cưới vợ (gả chồng) xứng đáng cho con, trao cho con cái của cải
thừa tự đúng thời. Ngược lại bổn phận con cái phải nuôi dưỡng cha mẹ, phải
làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia đình, bảo vệ tài
sản thừa tự và an táng chu toàn khi cha mẹ qua đời" [Trích theo 40, tr.217],
trong mối quan hệ chồng vợ thì "người chồng phải kính trọng vợ, không bất
kính đối với bên vợ, giao quyền hành cho vợ và sắm đồ nữ trang cho vợ (theo
khả năng). Ngược lại trách nhiệm người vợ phải thi hành tốt bổn phận của
mình, khéo tiếp đón bà con bên chồng và người thân của chồng, chung thuỷ,
chung thành với chồng, khéo giữ gìn tài sản của chồng và khéo léo, nhanh
nhẹn trong công việc phụ giúp chồng" [Trích theo 40, tr.218]. Ngoài ra, Đức
Phật còn chỉ ra các mối tương hệ giữa thầy - trò, chủ - thợ, cư sĩ - tu sĩ, giữa
anh em láng giềng. Đó chính là những lời răn dạy chân thành của Đức Phật
để làm sao cho gia đình được thuận hoà, êm ấm, xã hội được an vui, mọi
người đối xử với nhau một cách chân thành, hoà ái.
- 31 -
- Đạo đức Phật giáo mang tính từ bi, bình đẳng và trí tuệ:
Tính chất từ bi của đạo đức Phật giáo trước hết được thể hiện ngay
chính trong cuộc đời Đức Phật. Ngài sẵn sàng từ bỏ cả cung vàng điện ngọc
để đi tìm chân lý cứu chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Trước khi ra đi tìm đạo,
Đức Thích Ca nói: "Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe
trong máu đào của muôn bãi chiến để rồi lưu lại trong hậu thế một kỉ niệm đỏ
ghê ghớm… tiếng kêu đau thương của thế giới xé rách màn tai, lòng Từ bi
của Ta chỉ muốn xoá bỏ những cảnh khổ đau của nhân loại" [29, tr.395]. Vì
tình thương mà Đức Phật hành đạo suốt một cuộc đời vì thế người đời gọi
Ngài là đấng Giác Ngộ hay đấng Đại từ, Đại bi.
Trong giáo lý đạo Phật nổi bật lên là tư tưởng từ bi, bác ái. Vì thế Đức
Phật đã giảng rất nhiều về thuyết "Vô ngã" để đập tan cái "Ta" mà mọi người
xưa nay vẫn lầm tưởng nên chỉ biết thương và nghĩ riêng cho Ta thôi. Vì vậy,
thuyết "Vô ngã", tu hạnh “Vô ngã” là những phương tiện để thực hiện tình
thương rộng lớn, đó là lòng từ bi. Từ bi có thể được hiểu như sau: Từ nghĩa là
thương yêu, là làm vui cho người và vật. Bi là thương xót người hay vật khi
thấy họ đau khổ, gặp hoạn nạn và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Vì vậy,
trong kinh Pháp Cú, Ngài đã khuyên: "Với người dữ ta nên ở lành, với người
câu nệ ta không nên câu nệ. Với người gian tham ta chớ nên gian tham. Lấy
từ bi đáp lại nộ khí, lấy thành thực đáp lại điêu ngoa, lấy lành đáp giữ". Chính
vì xuất phát từ tình thương nên Phật đã có những lời dạy đệ tử rất đẹp, làm
phương châm sống cho muôn đời.
Xét trong mọi triết lý đạo đức, tôn giáo thì giáo lý đạo Phật là một giáo
lý đề cao tinh thần bình đẳng hơn cả. Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm
son quý giá nhất trong giáo lý Phật giáo. Phật ví pháp của mình như một trận
mưa lớn, mưa xuống, mọi loài đều được hưởng không phân biệt cây, loại cây
cỏ làm thuốc hay loại cây cỏ hoang dại. Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sinh
- 32 -
đều có phật tính và đều có thể thành Phật". Trước sự phân chia giai cấp bất
bình đẳng ở Ấn Độ, Ngài dạy: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn,
trong dòng máu cùng đỏ như nhau". Trước sự sống, mọi sự vật đều bình đẳng
và được tôn trọng như nhau. Không có giống vật nào được biệt đãi hơn giống
nào. Trong xã hội, không có một ân sủng riêng cho một giai cấp hay một tầng
lớp người nào: "Ai ở hiền thì gặp lành, ai ở ác thì gặp dữ", đó là một định luật
bất di, bất dịch của bình đẳng. Trong khi các tăng lữ Bà La Môn cho rằng, chỉ
có Bà La Môn mới là giai cấp tối thượng, là giai cấp mang màu da trắng, là
con cháu của Phạm Thiên, chỉ có họ mới được thanh tịnh, còn các giai cấp
khác là hạ liệt với màu da đen, không được thanh tịnh. Bởi vậy các Bà La
Môn có quyền và thái độ coi khinh các đẳng cấp khác chỉ như đồ vật thậm chí
như súc vật. Đó là một bất công tồn tại bao đời trong xã hội Ấn Độ cổ. Chính
giáo lý của Đức Phật đã phá tan cái định kiến sai lầm đó, đã phá đi hàng rào
ngăn cách vô nhân đạo giữa con người với con người. J.Nehru trong cuốn:
Phát hiện Ấn Độ đã đánh giá tư tưởng bình đẳng trong đạo Phật như sau:
“Phật tổ không trực tiếp đả kích đẳng cấp, song trong cách sắp xếp của mình,
Ngài không thừa nhận nó. Và chắc chắn là toàn bộ thái độ, hành động của
Ngài đã làm suy yếu chế độ đẳng cấp" [Trích theo 36, tr.54]. Theo quan điểm
của nhà Phật thì nghiệp báo, luân hồi, giải thoát… là bình đẳng với tất cả
chúng sinh, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, trình độ tu học, địa vị sang
hèn… Đây là giá trị nhân văn thiết thực của đạo đức Phật giáo và cũng là
điểm tiến bộ hơn hẳn của Phật giáo so với các tôn giáo đương thời.
Đức phật ra đời và thuyết pháp vì hạnh phúc và an lạc cho số đông.
Ngài không khuyến khích mọi người theo Ngài chỉ vì niềm tin suông và cũng
không bao giờ nói: "Hãy tin ta!", nhưng Ngài bảo “Hãy đến để mà thấy!”;
"Hãy tự thắp đuốc lên để đi!", đó mới là khẩu hiệu để con người tìm kiếm
chân lý trong đạo Phật. Chúng tôi cho rằng, những khẩu hiệu ấy không phải là
- 33 -
sự hô hào mang tính chính trị, mà là thách thức đối với khả năng tìm tòi,
khám phá của mỗi cá nhân con người trong thế giới luôn vận động và biến đổi
(“vô thường”). Vì lẽ đó, “Giới, Định, Tuệ” là những phạm trù đạo đức quan
trọng của Phật giáo có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuệ có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc nắm giữ các pháp. Nhờ có Tuệ quan sát (chính kiến),
pháp mới trở nên rõ ràng và người học pháp mới biết được rằng: "Sau khi học
pháp này, chúng ta quan sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp
ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quan sát nên trở thành rõ ràng. Chúng ta học pháp
không vì lợi ích muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích muốn khoái khẩu
biện luận và chúng ta đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những
pháp ấy vì khéo nắm giữ nên đưa chúng ta đến hạnh phúc, an lạc lâu dài" [10,
tr.104B]. Đức Phật luôn thấy rõ rằng, nếu chỉ có niềm tin Phật, tin pháp
không thôi thì chưa đủ. Để có được đạo đức vững bền, đối với chúng sinh cần
phải có sự kết hợp hài hoà giữa niềm tin với trí tuệ. Chỉ khi có ánh sáng của
trí tuệ soi đường thì niềm tin mới sáng suốt, đúng đắn. Rèn luyện trí tuệ là
khâu đầu tiên và cũng là yêu cầu cao nhất để có được quá trình tu dưỡng tự
giác nhằm đạt tới giải thoát.
Đạo đức Phật giáo là sự kết hợp nhuần nhuyễn của từ bi, trí tuệ và bình
đẳng. Trí tuệ của Phật càng sâu rộng càng soi sáng đến đâu thì lòng từ bi của
Phật lan tràn đến đó. Khi đã giác ngộ được mình là toàn thể, toàn thể là mình
thì tất sẽ có tình yêu thương mọi người. Khi đã hiểu rằng tất cả chúng sinh
đều chung một bản thể, tất cả đều bình đẳng như nhau thì mỗi người không
thể nuôi dưỡng một thứ tình yêu hẹp hòi, riêng tư được. Điểm đặc biệt trong
đạo đức Phật giáo chính là vai trò của trí tuệ trong tất cả các pháp môn tự giác
đưa đến giải thoát và giác ngộ.
Điểm mạnh của đạo đức Phật giáo, tuy là mang sắc thái đạo đức tôn
giáo, nhưng lại có khuynh hướng vô thần, bởi vậy nên tính nhân đạo của nó
- 34 -
có phần độc đáo hơn so với các tôn giáo hữu thần. Tư tưởng căn bản của đạo
đức Phật giáo là Đạo đế (thuộc đế thứ tư trong Tứ diệu đế), đó là những con
đường đúng đắn (Bát chính đạo) để mỗi người tự giác đạt tới giải thoát, tới
Niết bàn. Cốt lõi của đạo đức Phật giáo được thể hiện trong Bát chính đạo là
Giới - Định - Tuệ, tức là ba bộ phận liên hoàn, hợp nhất, là quá trình phát
triển liên tục của niềm tin, thực hành và giác ngộ một cách tự giác.
Quan niệm của Phật giáo về đạo đức bao gồm rất nhiều nội dung sâu
sắc và độc đáo. Bao trùm lên tất cả đó là những tư tưởng từ bi, bác ái, nhân
nghĩa, tình người. Phật giáo đã góp phần tạo nên một xã hội lành mạnh, nơi
đó mọi sự tranh chấp của con người bị lên án, nơi sự yên lành, hoà bình chế
ngự sự hơn thua. Vì lẽ đó, Phật giáo luôn mang trong lòng một sức sống tiềm
tàng, mãnh liệt.
Đạo Phật ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn Độ có sự phân chia đẳng cấp
nghiệt ngã và thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt nên chủ trương của nó ngay từ
đầu đã đặt vấn đề giải thoát cho tất cả chúng sinh về mặt tinh thần khỏi những
khổ đau truyền kiếp của con người, điều mà Bà La Môn giáo chỉ dành cho số
ít. Những người phụ nữ bị coi thường và cùng chung số phận với đẳng cấp
thứ tư (Sudra) về giải thoát. Những tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan
của đạo Phật từng là triết lý sống của một bộ phận đông đảo người Ấn Độ
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Điểm tiến bộ hơn hẳn của đạo Phật so
với các trường phái triết học khác của Ấn Độ ở chỗ đã chỉ ra được nguyên
nhân nỗi khổ của con người. Nguyên nhân ấy không phải ở đâu xa, mà chính
là do chính bản thân con người tạo ra (Thập nhị nhân duyên). Khổ đau hay
sung sướng là do mình quyết định chứ không phải do một đấng thần linh,
thượng đế nào cả. Học thuyết Phật giáo với những nội dung: Tứ diệu đế, nhân
quả, nghiệp báo, luân hồi cùng với những giới luật, những phạm trù đạo đức
thiện, ác, tàm quý, lục hoà, lục độ, v.v., đã giúp con người hướng thiện, thoát
- 35 -
khỏi những cám dỗ của dục vọng thấp hèn, từ đó giúp con người sử dụng một
cách tối đa khả năng của mình để được giác ngộ, giải thoát. Giáo lý duyên
sinh vô ngã của nhà Phật có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp con người vượt
thoát ra khỏi sự vô minh tăm tối, chấp trước cho cái Ta, cái Ngã của mình.
Với ý nghĩa tích cực của nó, Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc
gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Đây cũng chính là nội dung sẽ được trình
bày ở chương 2 của luận văn.
- 36 -
Chƣơng 2
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TỚI CÁC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm giá trị đạo đức và giá trị đạo đức của ngƣời Việt
Nam
2.1.1. Khái niệm giá trị đạo đức
Đạo đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh các mối
quan hệ của con người trong đời sống xã hội, do đó hiện có rất nhiều cách tiếp
cận, cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Thứ nhất, đạo đức được xem là
toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh
phúc, công bằng và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Thứ hai, đạo
đức còn được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó phản
ánh hành vi của con người, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và tập quán, thói
quen của một cộng đồng người nhất định mà các hành vi đó được xem là
thiện hay bất thiện. Nói đến đạo đức là nói đến lương tâm con người sau đó là
đến chức năng điều chỉnh các hành vi của con người trong sự đối xử với
người khác và với tự nhiên. Chính vì vậy, đạo đức gắn liền với văn hoá, tôn
giáo và chủ nghĩa nhân văn.
Nói một cách cụ thể, đạo đức "là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [24, tr.81]. Tuy
nhiên, cần phải phân biệt chức năng điều chỉnh và đánh giá của đạo đức về
cách ứng xử của con người so với các hình thái ý thức xã hội khác, chẳng hạn
ý thức pháp luật.
- 37 -
Ý thức đạo đức được hình thành trong quá trình lao động, sinh hoạt,
phản ánh tồn tại của con người trong quá trình đó thông qua sự đánh giá, dư
luận xã hội về các hành vi của con người. Nhờ sự đánh giá dư luận xã hội mà
dần hình thành nên những qui tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho một cộng
đồng người và rộng hơn, là của toàn nhân loại để điều chỉnh các hành vi của
con người. Ý thức đạo đức vì thế được hình thành một cách tự giác, mức độ
áp đặt của nó chỉ là tương đối và mang tính cục bộ hơn ý thức pháp luật trong
chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Pháp luật là tổng hoà các qui
định, các nguyên tắc thành văn được thiết định bởi một thể chế chính trị nhất
định, đồng thời bắt buộc mọi người sống trong thể chế đó phải tuân thủ một
cách vô điều kiện nhằm duy trì sự ổn định xã hội. Nhờ chức năng điều chỉnh
của đạo đức mà trong đời sống xã hội của con người hình thành nên giá trị
đạo đức.
Giá trị hiểu theo nghĩa chung nhất là cái làm cho một khách thể nào đó
có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người thừa nhận. Tuy
nhiên, cái có ích, có nghĩa của khách thể nào đó chưa hẳn là giá trị, chẳng hạn
việc phát minh ra năng lượng hạt nhân đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng
trong lĩnh vực vật lý học, tạo niềm tin cho con người về khả năng sử dụng
nguồn năng lượng mới thay cho các loại năng lượng như than đá, dầu mỏ
đang dần cạn kiệt. Để nó có ích, con người cần phải tạo ra công nghệ sử dụng
nó một cách chính xác, nhằm tránh những rủi ro trong quá trình sản xuất năng
lượng từ các lò phản ứng hạt nhân như ở các nhà máy điện nguyên tử. Điều
đáng chú ý là dù thận trọng đến mấy, nếu năng lượng hạt nhân không được sử
dụng một cách đúng đắn trong lĩnh vực quân sự, thì thảm hoạ của nó là không
lường. Lịch sử chiến tranh thế giới đã chứng minh điều đó bằng thảm hoạ mà
hai quả bom quân đội Mỹ ném xuống nước Nhật năm 1945. Nói tóm lại, sự
phát minh ra năng lượng nguyên tử, suy cho cùng, nó chỉ ở tầm mức ý nghĩa
- 38 -
chứ không hoàn toàn mang tính giá trị. Nó chỉ trở thành giá trị khi được cộng
đồng thế giới thừa nhận một cách phổ biến. Điều này khó thực hiện, đặc biệt
trong điều kiện chiến tranh lạnh cũng như nỗ lực của một số nước có khả
năng phát triển ngành này cảm thấy bị đe doạ trước sự tấn công của chủ nghĩa
đế quốc.
Giá trị đạo đức nhìn từ góc độ cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần
của đời sống xã hội, là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những
quy tắc ứng xử nhằm điểu chỉnh và chuẩn hoá hành vi con người.
2.1.2. Giá trị đạo đức của người Việt Nam
Lịch sử xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao, đó cũng chính là
sự lần lượt thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Với tính cách
là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng không thể là những quy tắc,
những chuẩn mực bất di bất dịch mà luôn biến đổi cùng với sự vận động của
tồn tại xã hội qua các thời kì lịch sử khác nhau. Từ thời cổ đại, nhân loại đã
thừa nhận một hệ giá trị chuẩn: chân, thiện, mỹ. Đến nay hệ thống giá trị đó
vẫn được đề cao. Thời phong kiến, ở Việt Nam và một số nước đồng văn lấy
Nho giáo làm trụ cột hệ tư tưởng, các giá trị chuẩn thường được đồng nhất với
đạo đức của mẫu người lý tưởng, tốt tính, đó là mẫu người quân tử với những
phẩm chất đạo đức như nhân, trí, dũng, liêm trực, v.v. Sau này, khi đề cập đến
đạo đức người cán bộ cách mạng, Bác Hồ lại thường nêu các chuẩn mực đó là
nhân, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, trung với nước hiếu với dân.
Như vậy dù trong thời đại nào thì cái chân, cái thiện, lòng yêu dân, yêu
nước là cốt lõi trong thước đo giá trị đạo đức của người Việt Nam. Ngày nay,
dân tộc ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, từ đó các
giá trị dân tộc truyền thống phải được điều chỉnh, biến đổi cho phù hợp với
tinh thần thời đại, thừa nhận giá trị đạo đức toàn nhân loại, tiếp thu những giá
trị mới trong đạo đức của nhân loại, đồng thời không để mất đi những giá trị
- 39 -
có sức sống mãnh liệt, trường tồn, cái tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc.
Trong quá trình biến đổi đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, được kết
hợp với các giá trị hiện đại tạo nên một hệ giá trị mới mang tinh thần của thời
đại, theo nguyên tắc hoà nhập mà không bị hoà tan. Đặc biệt, "Trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách là bảo tồn và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống mà hàng nghìn đời nay, con người Việt Nam
tích luỹ, trao truyền theo thời gian, được cài đặt vào tâm thức của mình như
những mẫu tượng triết lý sâu sắc, đồng thời kế thừa các giá trị đó trong quá
trình điều chỉnh các chuẩn mực đạo đức cho phù hợp với cái phổ biến toàn
nhân loại trong đạo đức được nảy sinh do cơ chế kinh tế thị trường" [86,
tr.20].
Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về hệ
thống giá trị đạo đức. Tựu trung lại có thể phân chia một cách tương đối hai
hệ thống giá trị đạo đức của người Việt Nam, đó là:
- Hệ thống giá trị truyền thống: Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam là hệ thống giá trị yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa, anh hùng,
sáng tạo và lạc quan. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh
thần đứng đầu trong bảng giá trị truyền thống Việt Nam.
- Hệ thống giá trị hiện đại: Hoà bình, tự do, xã hội phồn vinh, gia đình
hạnh phúc, môi trường trong sạch, năng động sáng tạo, tự lập, chấp nhận cạnh
tranh thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, có tình yêu với gia đình, trách nhiệm với
tổ quốc, có tinh thần hữu nghị hợp tác.
Có thể nói, đây là sự phân định mang tính tương đối, bởi trong cả hai
hệ thống giá trị đạo đức Việt Nam có nhiều điểm chung. Và dù chúng ta đang
sống ở thời đại nào đi nữa, thì những hệ giá trị nói trên luôn luôn cần được
bảo tồn, phát huy và cần được thực hiện bởi tất cả các thành viên trong xã hội.
- 40 -
Trong bối cảnh đổi mới của đất nước ta hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, coi
trọng lợi ích cá nhân đã bị thiếu hụt trong hệ thống đạo đức truyền thống,
đồng thời trở thành những vấn đề quan trọng đang tiếp tục được đặt ra cho
quá trình xây dựng nền đạo đức mới xã hội chủ nghĩa.
2.2. Vài nét khái quát về ảnh hƣởng của Phật giáo tới đạo đức con
ngƣời Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay Phật giáo đã trải qua biết bao
biến cố, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc ta. Tuy nhiên, chúng ta đều biết
rằng, dù hoàn cảnh xã hội biến đổi đến đâu đi nữa, những giá trị đạo đức của
Phật giáo vẫn mang tính bền vững, trường tồn, đó là tinh thần nhân đạo, bác
ái hoà quyện với truyền thống tương thân tương ái của con người Việt Nam.
Người Việt Nam vốn trọng đạo lý tình người, sâu nặng về tình cảm. Mặt
khác, Phật giáo lại ít tham vọng giữ vị trí "thần quyền" làm cơ sở cho các mục
đích chính trị trong xã hội. Vì thế, đạo Phật rất gần dân, dễ gắn bó với đại đa
số quần chúng nhân dân. Trong suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo đã để lại cho
dân tộc ta nhiều dấu ấn, có thể thấy từ tín ngưỡng cho đến văn hoá, phong tục
tập quán, từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ tư tưởng đến tình cảm.
Những dấu ấn ấy qua từng giai đoạn lịch sử có những biểu hiện khác nhau vì
giữa Phật giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ khăng khít. Đất nước hưng
thịnh thì Phật giáo hưng thịnh, đất nước suy vi thì Phật giáo suy vi.
Thời kỳ Bắc thuộc (thế kỷ II Tr.CN - đầu thế kỷ X) là thời kỳ du nhập,
truyền bá các học thuyết Nho, Đạo, Phật vào Việt Nam. Nho giáo vào Việt
Nam bằng nhiều con đường khác nhau, song về cơ bản nó đi theo “vó ngựa”
kẻ xâm lược, luôn là công cụ thống trị của hệ tư tưởng phong kiến phương
Bắc. Đạo Lão - Trang mang yếu tố bác học trên phương diện triết học và Đạo
- 41 -
giáo là học thuyết triết học - tôn giáo ra đời ở Trung Quốc, được du nhập vào
Việt Nam từ thời Bắc thuộc, trong đó đạo Lão - Trang ảnh hưởng nhiều đến
tầng lớp trí thức Việt Nam trong lịch sử, còn Đạo giáo hoạt động theo hướng
tu tiên (đạo Thần tiên) và phù chú, ma thuật (đạo Phù thuỷ). Cùng với Nho
giáo, Đạo giáo, Phật giáo vào Giao Chỉ thế kỷ II. Luy Lâu là một trung tâm
Phật giáo lớn có thể so với các trung tâm lớn ở Trung Quốc lúc đó như Bành
Thành và Lạc Dương. Số sư tăng có tới 500 vị. Các nhà sư Ấn Độ và Trung Á
có vai trò lớn trong thời kỳ đầu truyền giáo như Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực,
Chi Cương Lương, Khương Tăng Hội, v.v. Bên cạnh các nhà sư nước ngoài
còn có các nhà sư người Việt nổi tiếng như Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền.
Huệ Thắng đã từng được mời sang Trung Quốc giảng Phật pháp. Phật giáo
thời Bắc thuộc đã nêu các quan điểm về bản chất của thế giới và con người.
Khương Tăng Hội cho rằng, bản chất đó là "không" là "vô thường", "vô ngã"
và cuộc đời con người có luân hồi, số kiếp. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi
(Vinitaruci), dòng thiền đầu tiên truyền bá vào nước ta thế kỷ thứ VI lại coi
bản chất của thế giới và con người chỉ là hư vọng, không phân biệt được
không có hữu và vô. Chính vì vậy, dòng thiền này kêu gọi “vô trụ" (không
dựa vào có cũng không dựa vào không). Tuy nhiên, trong bất cứ thời nào,
Phật giáo bao giờ cũng đề cập đến vấn đề nhân sinh. Khương Tăng Hội cho
rằng, cần phải noi gương các Bồ Tát, hết lòng cứu giúp chúng sinh khổ sở,
luôn đề cao các hành vi hướng thiện. Song vấn đề nhân sinh cũng có sự thay
đổi ít nhiều do sự ra đời của các tông phái, chẳng hạn: "Phật giáo lúc đầu ở
Giao Chỉ chú ý nhiều đến quan điểm làm thiện thì được phúc, làm ác thì gặp
phải hoạ, chú ý đến vấn đề bố thí, từ thiện. Dù dưới hình thức duy tâm, thần
bí nhưng việc thực hiện các quan điểm trên là có ích cho xã hội, cho nhân
quần. Tuy nhiên, Phật giáo phát triển đến Thiền tông thì lại bỏ quên các quan
điểm trên, chỉ còn chú ý đến cái bản tâm, cái tâm được giải thoát, ít quan tâm
- 42 -
đến cứu giúp người khác" [15, tr.117]. Chúng tôi cho rằng, việc khuyến khích
con người hướng thiện, trong quá trình hoạt động của con người điều đó có
tác dụng nhất định đối với việc điều chỉnh hành vi. Song đoạn trích trên ám
chỉ Thiền tông “ít quan tâm đến cứu giúp người khác” rõ ràng là không chính
xác, có chăng điều này chỉ đúng với chủ trương giải thoát của Phật giáo Tiểu
thừa.
Thời Bắc thuộc, ở Giao Châu có tới 88 chùa lớn, có chùa số sư tiểu lên
đến vài trăm, địa bàn hoạt động chủ yếu là làng. Phật giáo ngày càng len lỏi,
bám rễ sâu vào lòng dân. Chùa vừa là không gian tôn giáo, vừa là tổ chức
trang viên phong kiến, có ruộng đất và điền nô. Ngày sóc (mồng một âm lịch
hàng tháng) là ngày trăng mọc mang lại sự sáng sủa, may mắn. Ngày vọng
trăng tròn và mờ dần, người ta mong sự sáng sủa trở lại. Vì vậy, vào những
ngày sóc, vọng hàng tháng, người dân thường đi chùa cúng thần, Phật cầu
may. Phật giáo khi vào Việt Nam đã tiếp xúc, thâm nhập ngay với các tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc và do vậy đã dễ dàng kết hợp với các yếu tố
bản địa: "Ngay từ thời du nhập, Phật giáo tiếp xúc với nền văn hoá bản địa
trong tinh thần dung thông, không độc tôn, loại trừ. Nhờ tinh thần dung thông
này, đạo Phật đã sử dụng các dữ liệu tích cực của văn hoá và tôn giáo dân
gian để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc. Hình ảnh chùa
Tứ Pháp nói lên được sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá Phật giáo với văn hoá
bản địa. Nếu "Mây, Mưa, Sấm, Chớp" được tín ngưỡng dân gian nâng lên
thành các vị thần linh thì đạo Phật đã nhìn dưới góc độ của các hiện tượng
thiên nhiên, qua hoá thân của các hiện tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và
Pháp Điện" [40, tr.292].
Thời Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, cũng là thời kỳ du nhập
của cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Đạo Phật có mặt trên lãnh thổ Việt
Nam khoảng cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ thứ III, do các ngài Khương Tăng
- 43 -
Hội, Mâu Bác truyền vào. Đến thế kỷ thứ VI, VII, VIII do các ngài Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông truyền bá thiền tông vào Việt Nam. Phật giáo Việt
Nam dần dần có chỗ đứng trong lòng dân tộc mà địa bàn ảnh hưởng của nó
chủ yếu ở địa bàn dân cư là làng. Nho giáo hoàn toàn chiếm lĩnh trong lĩnh
vực chính trị, tạo cơ sở cho bộ máy cai trị thuộc địa, còn Phật giáo vốn mang
tư tưởng bình dân, gần gũi với tình cảm con người trong cộng đồng dân cư có
truyền thống tương thân tương ái trong lao động sản xuất, trong sự chống chọi
với thiên nhiên và kẻ thù. Tuy chưa có một tôn giáo riêng của người Việt thời
đó, song những yếu tố tín ngưỡng bản địa đã nhanh chóng kết hợp được với
các yếu tố Phật giáo là Thiền - Tịnh - Mật, đó là những tông phái Phật giáo
đều hiện diện ở nước ta.
Cũng trong thời kỳ này, tư tưởng nhân quả, luân hồi, số kiếp, vô
thường, vô ngã hay những tư tưởng về bản tâm, về giải thoát của Thiền Tông
đều là những tư tưởng đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống, phong tục
người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Nói cách khác, trong hoàn cảnh đất nước bị
đô hộ, chính thể của cộng đồng người Việt chưa có, khi đó lối sống, phong
tục tập quán của người Việt còn giữ được là do cộng đồng làng, nếu có sự tiếp
biến với Phật giáo hay Đạo giáo thì các cộng đồng ấy chỉ tiếp thu những cái
có lợi cho mình mà trước hết và cơ bản nhất, là các yếu tố mới đó góp phần
làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cộng đồng. Chúng tôi cho rằng,
các yếu tố mới đó chính là cái làm cho đạo đức cộng đồng thêm đẹp, thêm
bền vững để bảo tồn sinh mệnh của cộng đồng.
Thời kỳ đầu độc lập (thế kỷ X - XIV) là thời kỳ mà các tôn giáo ngoại
nhập như Phật - Nho - Lão đã được giai cấp phong kiến lựa chọn để sử dụng
vào việc thiết lập vương triều và ổn định trật tự xã hội. Tư tưởng tôn giáo thời
kỳ này khá phong phú và sâu sắc. Phật giáo sau gần mười thế kỷ du nhập vào
xã hội Việt Nam, vốn chỉ thịnh hành ở làng xã như trên đã nêu, nay lại có
- 44 -
điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, việc lựa chọn tôn giáo nào làm quốc giáo
lại là vấn đề phức tạp, nó quyết định tới sự thịnh trị hay suy vong của một
triều đại. Có thể nói, ngay từ đầu, vào thế kỷ X các triều đại Ngô, Đinh, Tiền
Lê không có thiện chí với Nho giáo bởi âm hưởng thống trị của nó trong suốt
hơn một ngàn năm ở nước ta. Chính vì vậy, các triều đại Đinh - Lê - Lý - Trần
đã có thiện cảm với Phật giáo, nhiều chính sách nhằm khuyến khích sự phát
triển của tôn giáo này và đỉnh cao hưng thịnh của Phật giáo ở Việt Nam đạt
được dưới thời Lý, Trần. Phật giáo được tôn làm quốc giáo, các nhà sư được
trọng dụng. Họ vừa là nhà tu hành, vừa là nhà trí thức đảm nhận nhiều trọng
trách trong các lĩnh vực như: chính trị, văn hoá, giáo dục.
Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền lên ngôi và thiền sư Ngô
Chân Lưu được phong chức Khuông Việt Thái Sư. Điều này đã cho ta thấy
chỗ đứng và tầm quan trọng của Phật giáo trong nền chính sự nước nhà.
Người Việt Nam vừa giành lại được chủ quyền mọi mặt: Văn hóa, chính trị,
học thuật đều thiếu kém, các vị thiền sư thấy có bổn phận đứng ra góp tay,
chung sức xây dựng xứ sở, kiến thiết quốc gia để đưa dân tộc đến chỗ vinh
quang. Lịch sử vận động, biến đổi không ngừng, sau khi nhà Đinh mất, nhà
Lê thay thế, đứng trước nạn ngoại xâm, bất kể tăng hay tục nhưng đã là người
Việt Nam thì đều mang trong lòng một ý chí sắt đá cứu nước, cứu đời. Các
tăng ni, từ các vị tăng thống trở xuống, đều thực sự nhập thế, tham gia chính
sự và đã có đóng góp được lịch sử ghi nhận vào sự nghiệp chung của dân tộc.
Đỗ Thuận là một trong những nhà sư có công lớn với triều đại nhà Tiền Lê
khi ông đóng vai trò là người chèo đò đưa Lý Giác sang sứ Việt Nam. Cách
đối đáp, ứng khẩu nhanh nhậy, tài tình của pháp sư Đỗ Thuận đã mang lại
nhiều vinh dự tự hào cho đất nước chúng ta và cũng từ đó "người Trung Hoa
đã có phần thầm kính người Việt Nam. Những cuộc ngoại giao nổi bật này
đều do các vị thiền sư chủ động" [81, tr.17-18]. Ngoài nhà sư Đỗ Thuận,
- 45 -
Khuông Việt Thái Sư còn nhiều các nhà sư khác như Vạn Hạnh, Pháp Thuận
đều được các triều đại trọng dụng và nổi tiếng trong các hoạt động chính trị,
vì thế, không chỉ ảnh hưởng về mặt đời sống tâm linh, Phật giáo còn được đặc
biệt đề cao trên lĩnh vực chính trị và giáo dục.
Đến thời Lý, nhiều vua nhà Lý là những tín đồ của Phật giáo, thậm chí
có những ông vua rời bỏ ngai vàng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông.
Riêng Lý Thánh Tông là người lập ra thiền phái Thảo Đường thời Lý, điều đó
tạo đà cho tinh thần nhập thế của Phật giáo phát triển ở Việt Nam ngày một
mạnh hơn. Vào thời bấy giờ, từ các vị tăng thống trở xuống, các nhà tu hành
Phật giáo đều tích cực nhập thế, khi cần thì cởi cà sa, mặc chiến bào để bảo vệ
Tổ quốc. Ngược lại, từ hoàng đế, hoàng tộc đến các đại thần và quan lại các
cấp đều tôn sùng Phật giáo. Chính tinh thần nhập thế của Đạo Phật đã thúc
đẩy các vị cao tăng Phật giáo đảm trách vai trò cố vấn cho vận mệnh quốc gia,
tham gia triều chính, họ đau với nỗi đau của dân tộc bị ngoại bang ức hiếp.
Thiền sư Vạn Hạnh có công rất lớn trong việc đưa Lý Công Uẩn lên làm vị
minh quân với những chính sách thiết thực, ảnh hưởng bởi tinh thần từ bi, bác
ái của đạo Phật có lợi cho dân chúng: "Nhờ tinh thần giáo dục Phật giáo và
niềm tin về tiềm năng chuyển hoá (Phật tính), các ngục hình đã được huỷ bỏ
hoặc giảm đi, thay vào đó là chính sách giáo dục đạo đức. Ông đã cho xây
dựng nhiều ngôi chùa, làm vai trò "mái chùa che chở hồn dân tộc" [40,
tr.293]. Qua thời gian, Phật giáo đã tạo được thế đứng vững vàng trong lòng
dân tộc. Tinh thần nhập thế của dân tộc khiến các vua quan cho đến mọi tầng
lớp sĩ phu, công nông đều hăng hái phấn đấu trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Còn Phật giáo thì lại chủ trương xuất thế với lý tưởng giải phóng
con người khỏi kiếp này, nó giáo dục con người hãy tu nhân tích đức để được
hưởng hạnh phúc ở kiếp sau. Một thực tế là những ông vua giầu lòng yêu
nước, thương dân lại là những người rất gắn bó, tôn sùng đạo Phật. Vì lẽ đó
- 46 -
phải có một sự tương đồng trong sự khác biệt giữa tinh thần nhập thế của các
ông vua, các thế lực cầm quyền với tinh thần xuất thế của đạo Phật. Để thích
nghi với thực tế đó, Phật giáo một mặt vừa cố gắng xây dựng giáo phái cho
mình, mặt khác lại toàn tâm dốc lòng thành và đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước. Tuy có những nét đặc sắc riêng của mình,
nhưng đạo Phật vẫn luôn hoà cùng dân tộc, cùng có mục tiêu là hướng tới
hạnh phúc đích thực, lâu dài cho con người. Đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng
đến nhân cách con người thời đại Lý, Trần đặc biệt là giai cấp phong kiến
cầm quyền. Sự có mặt của Phật giáo chẳng những giúp cho vua chúa một
đường lối chính trị sáng suốt, mà còn hướng dẫn dân tộc tiến cao trên con
đường văn minh đạo đức. Những vị thiền sư trong thời ấy, chẳng những thâm
đạt về đạo lý giải thoát (xuất thế) mà còn thấu hiểu cách tổ chức xã hội, đem
lại an lạc thực tế cho dân tộc (nhập thế). Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông đã hiểu
rất sâu sắc thiền học, nổi tiếng từ bi bác ái đều hết lòng vì sự nghiệp quốc thái
dân an. “Nhờ ảnh hưởng của Phật giáo nên thời Lý có nhiều vị vua nhân từ rất
mực, nhưng không kém vẻ hào hùng. Vì thế quốc gia hưng thịnh, dân chúng
an vui, có thể nói là thời huỳnh kim ở Việt Nam vậy" [81, tr.25]. Chính những
tư tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của
các bậc quân vương cho đến các tầng lớp nhân dân. Đạo đức Phật giáo đã
khiến các vua quan trong triều đình luôn luôn phải trau dồi đạo đức, phải biết
học hỏi, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đúng như Nguyễn Đăng Thục nhận
xét: "Suốt thời Lý, đạo Phật được vua quan coi trọng, tăng già nhiều kẻ giỏi
giang cho nên ảnh hưởng của Phật giáo ăn sâu vào tất cả các ngành, hoạt động
của con người trong nước về phương diện tinh thần cũng như vật chất" [Trích
theo 36, tr.152]. Các vua nhà Lý đã sống một đời đạo hạnh, yêu nước thương
dân sâu sắc, thể hiện đức hiếu sinh và triết lý từ bi của nhà Phật, càng thổi
phồng lên ngọn lửa yêu nước, thương người. Từ đó giúp con người vượt qua
- 47 -
khỏi những cám dỗ, tham, sân, si, mê đắm đời thường, chế ngự cái ác. Thời
kỳ nhà Lý có rất nhiều chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển của Phật
giáo. Nếu như Nho giáo lấy đạo đức làm cứu cánh cho đường lối trị nước, còn
gọi là đức trị mà sự biểu hiện cơ bản nhất là những người cầm quyền phải biết
noi gương, phải biết “làm sáng đức sáng” (Đại Học), thì các ông vua thời Lý,
Trần là những tấm gương sáng, ít bị khúc xạ nhất trong sự phản ánh cuộc
sống trần tục. Nhà Phật chỉ đưa ra phương án và khuyến cáo sự nỗ lực điều
chỉnh ý thức cá nhân để đạt tới giác ngộ. Các ông Vua - Phật của Việt Nam
thời Lý, Trần đã trải nghiệm điều đó và trở thành tấm gương cho nhân thế noi
theo. Chính vì vậy, theo chúng tôi, sức thuyết phục con người bằng tấm
gương đạo đức của các ông Vua - Phật là vô cùng hiệu quả, nó được minh
chứng bởi một thời kỳ thịnh trị, yên bình của đời sống xã hội nhưng không
kém phần oanh liệt qua những cuộc kháng chiến thần kỳ chống Tống và
Nguyên Mông.
Các thiền sư thời Lý thấm nhuần tư tưởng vô thường, vô ngã của Phật
giáo. Vạn Pháp biến đổi liên tục, vô gián đoạn, vô thuỷ, vô chung. Mọi hiện
hữu chỉ là tạm thời, không có gì là vĩnh viễn. Vấn đề là không nên sợ hãi, đau
khổ khi thấy cuộc đời đầy biến động. Bài Kệ của sư Vạn Hạnh thể hiện rõ
điều này:
"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông."
Cuộc đời, vạn vật biến đổi vô thường. Thân xác con người cũng vậy,
chỉ là cái tạm thời trong vòng quay của luân hồi, sinh tử. Cái thân tứ đại của
con người là sự kết hợp giả tạm của ngũ uẩn, không có bản thể đích thực, do
vậy không có bản ngã, không có cái tôi, chỉ là vô ngã. Thiền sư Đạo Huệ cho
- 48 -
rằng, mọi cái đang tồn tại của thế giới hiện hữu đều là hư huyền giả tưởng.
Mọi cái như có đấy mà lại là không:
"Địa thuỷ hoả phong thức
Nguyên lai nhất thiết không"
Vì thế mà con người có thể gạt sang một bên những danh lợi phù
phiếm. Dù trong thời chiến hay thời bình các tăng ni, phật tử đều hết lòng
phụng sự Tổ Quốc, hết lòng tham gia chính sự. Trong thời kì này hầu hết các
nhà tu hành phật tử đều tích cực nhập thế, hăng hái giúp đời. Khi hiểu được
tất cả đều là "không", danh lợi, tiền tài, ái sắc… tất cả đều chỉ là những cái
đam mê nhất thời, rồi tất cả cũng chỉ là hư vô, là cái "không", vậy thì còn
tranh giành đố kỵ, giẫm đạp lẫn nhau để làm gì? Các bậc quân vương tuy
sống trong cảnh lâu đài, điện ngọc, nhưng họ luôn mang trong mình lòng từ
bi, bác ái trong ứng xử với dân.
Nhà Lý mãn, nhà Trần lại tiếp tục truyền thống đề cao Phật giáo ở địa
vị quốc giáo. Các vua chúa nhà Trần đều uyên thâm Phật pháp, cụ thể Trần
Thái Tông là nhà Phật học với tác phẩm “Khoá hư lục”; Tuệ Trung thượng sĩ
(Trần Tung) với tác phẩm “Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục”. Trần Nhân Tông
sau khi truyền ngôi cho thái tử, đã xuất gia tu hành và trở thành Trúc Lâm đệ
nhất tổ. Các thiền sư thời Trần cho rằng, chỉ có tự tính, chân tâm hay bản thể
của sự vật là tồn tại vĩnh hằng, bất sinh, bất diệt. Theo triết lý của Phật giáo
thì sự giải phóng, giác ngộ có thể thực hiện được ngay trên cõi đời này. Khi
nhận thức được chân như, tự tính con người đạt đến tự do tuyệt đối, không
còn vọng tưởng, không chán nản bi quan, thì tinh thần lạc quan yêu đời của
con người được nhân lên gấp bội. Khi được giải thoát, con người sống ung
dung, tự tại giữa cảnh đời bề bộn, có thể không cần giữ nghiêm giới luật, hoà
mình trong cuộc sống đời thường, làm tròn bổn phận của mình đối với xã hội.
Hãy nghe lời của vị sư ở Yên Tử khuyên Trần Thái Tông: "Phàm đã làm vua
trong thiên hạ, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy
- 49 -
tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay cả thiên hạ đều muốn rước
bệ hạ về làm vua thì bệ hạ không về sao được" [38, tr.12]. Do các vua Trần
thấm nhuần tư tưởng đạo Phật nên việc quan tâm đến miếng cơm, manh áo
cho dân là việc hiển nhiên, bởi đó cũng là một biểu hiện của lòng từ bi và
bình đẳng của đạo Phật. Chú ý đến phát triển kinh tế, các vua Trần đặc biệt
tập trung vào việc trị thuỷ để nâng cao sản xuất nông nghiệp cho đất nước.
Bằng chứng là vua Trần Thái Tông sai Lưu Miễn đi bồi đắp đê các sông ở
Thanh Hoá năm 1255. Tuy sống trong cảnh lâu đài điện ngọc nhưng các ông
vua không hề say hoa đắm ngọc, mà lúc nào cũng nặng lòng trăn trở với cuộc
sống khó khăn của nhân dân. Trần Nhân Tông từng khuyên mọi người hãy
xây dựng được một nếp sống đạo đức theo tinh thần "Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng", bởi cuộc sống con người hết vui rồi lại đến buồn, lúc
đạt đến tột đỉnh vinh quang sẽ khó tránh bị rơi vào tình cảnh thất bại nặng nề,
mọi thứ đều là huyễn hoặc rồi cuối cùng cũng trở về cùng cát bụi.
Vì thế, Nhân Tông đã sống một cuộc đời đạo đức cao cả. Ông kêu gọi
mọi người hãy lấy "thập thiện" của Phật giáo làm phương châm sống. Ông
muốn xây dựng xã hội Việt Nam lấy đạo đức Phật giáo làm nền tảng. Trần
Nhân Tông đã lấy đạo pháp như là một phương tiện để phục vụ dân tộc.
Chính vì vậy, TS. Đặng Thị Lan đưa ra nhận xét đúng rằng, "Phật giáo Việt
Nam ở vào giai đoạn này rõ ràng đã cung cấp một triết lý sống chứ không
phải những tín điều, giáo điều" [36, tr.158]. Quan niệm về sống chết, nhân
quả, tính chất "vô thường" ngắn ngủi của cuộc đời con người theo quan điểm
của Phật giáo cũng ảnh hưởng rất lớn đến cách sống, cách làm của Nhân
Tông. Ông nhận ra rằng, cuộc đời thật là ngắn ngủi, cần phải sống tích cực hết
mình, sống làm sao cho "tốt đời, đẹp đạo". Ông coi tất cả chỉ là phù du nhất
thời, cung tần mĩ nữ ông không bị ngã vào vòng tham đắm như người đời mà
với cái tâm Phật, ông đã để cho tất cả về quê để lấy chồng chứ không giữ họ
- 50 -
lại, thậm chí còn ban thêm phần thưởng nếu như ai đó trong triều đồng ý lấy
họ. Trần Nhân Tông thực sự là một ông vua mặc áo bào nhưng vẫn là Phật
trong lòng dân vì trong người ông luôn mang tâm Phật, với tấm lòng nhân ái,
hết lòng vì muôn dân trăm họ. Nét độc đáo của các ông vua Trần rất hiếm
thấy ở những triều đại khác, đó là việc thường truyền ngôi cho con khi thấy
tuổi đời mình vừa cao, bổn phận tròn và chỉ ở ngôi Thái Thượng Hoàng.
Hành động này của các ngài một phần biểu hiện sự thông tỏ Phật pháp, xem
nhẹ ngôi vua, coi rẻ ngai vàng, không tham quyền, không cố bám cương vị
đến cuối đời nhưng bao giờ cũng là những “sư phụ” đào luyện các ông vua
trẻ.
Bên cạnh đó Nho giáo thời Trần đã có sự phát triển. Nho giáo đã giành
được chỗ đứng trong lĩnh vực chính trị, đó còn là sức mạnh của thần quyền.
Nho giáo và Phật giáo tuy là đi theo hai hướng khác nhau nhưng chúng vẫn
gắn bó với nhau trong khung cảnh tam giáo đồng nguyên. Phật giáo, Đạo giáo
và Nho giáo bổ sung cho nhau. Phật giáo có ảnh hưởng lớn trong tư tưởng,
trong phong tục tập quán trong quan hệ giữa người với người. Nho giáo lại
chiếm ưu thế trong sinh hoạt chính trị - xã hội. Đạo giáo thì chưa có tiếng nói
rõ rệt trên bình diện tư tưởng vì Đạo giáo mới chỉ tồn tại trên phương diện tín
ngưỡng và tôn giáo.
Thời kì Lý Trần, Phật giáo đã phát triển cực thịnh. Phật giáo không
những giúp cho vua chúa một đường lối chính trị sáng suốt mà còn hướng dẫn
dân tộc tiến cao trên con đường văn minh đạo đức. Hầu hết các vua quan đều
mộ đạo. Có người vì yêu mến đạo Phật mà từ bỏ ngai vàng như vứt bỏ chiếc
dép rách để "tìm đường đến Phật" như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông.
Chính văn hoá Phật giáo đã làm lên linh hồn của triều đại Lý - Trần. Thời kì
này nhiều chùa chiền được mở mang, xây dựng. Các thiền sư rất được trọng
dụng vì Phật giáo đã thích nghi cùng dân tộc, đã hoà cùng dân tộc để xây
- 51 -
dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cũng chính vì thấu suốt lý vô ngã của đạo
Phật cho nên các ông vua Phật tử đời Lý - Trần đều thật sự thương dân như
con.
Thời kỳ Lê - Nguyễn (thế kỷ XV- đầu thế kỷ XX), Phật giáo không nằm
ngoài luật vô thường. Nếu thời Lý - Trần là thời kỳ hoàng kim của Phật giáo,
thì đến thời Lê - Nguyễn là thời kỳ suy vi của nó. Các vị thiền sư dần bị loại
ra khỏi lĩnh vực chính trường. Cuối đời Trần những người giỏi Nho được bổ
dụng làm quan, nhất là từ đời Hậu Lê (1428) về sau, nho sĩ hoàn toàn nắm
quyền lãnh đạo quốc gia. Các nho sĩ tự khẳng định bằng cách quay lại công
kích Phật giáo. Thực tế cho thấy, lúc Phật giáo thịnh, đối với Nho, Lão vẫn
được quý trọng. Ngược lại, khi Nho học cực thịnh thì Phật giáo bị kì thị.
Nhưng nhờ đó mà Phật giáo đã có cơ hội quay trở lại sống gần gũi với đồng
bào trong thôn giã và gieo rắc một tiềm lực hùng hậu trong toàn dân. Cũng
nhờ đó Phật giáo mới thành đạo của dân tộc Việt Nam và sau này không
mang tội phản dân tộc. Bị mất chỗ đứng trong xã hội, các nhà sư lui về thôn
dã, sống cuộc đời đạm bạc, gần gũi thân mật với những người nông dân mộc
mạc ở xóm thôn. Tầng lớp nho sĩ lên ngôi và muốn dựng lại mô hình chế độ
phong kiến tập quyền theo quan điểm Nho học tại Việt Nam. Sự phê phán của
các nhà Nho đối với Phật giáo vì họ cho rằng, chính Phật giáo cản trở xã hội
phát triển theo mô hình Nho giáo. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng
đến đời sống xã hội theo các hướng khác nhau. Nhiều người muốn khôi phục
Phật giáo. Một số nhà Nho tiêu biểu vì lý do công danh thất sủng hay bất mãn
với thế sự buộc họ về với cuộc sống ẩn dật, chuyển từ hành sang tàng. Người
ta một khi suy ngẫm lại thế sự thường viện dẫn đến Phật giáo. Trong số nho
sinh đỗ đạt, một số người chủ trương (xuất) làm quan, một số người lại chủ
trương (xử) không ra làm quan. Một số người khác chủ trương xuất rồi xử.
Xuất là hướng về danh lợi, còn xử là hướng về đạo đức, nhân nghĩa. Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) xuất phát điểm là người trọng xử với hy vọng kinh
- 52 -
bang tế thế với tư tưởng lo cho dân, cho nước trước, còn vui thì sau thiên hạ.
Song do xử thế không thành, không đạt được ý muốn của mình, ông đã lui về
ở ẩn vui với phong cảnh thiên nhiên, hưởng cảnh an nhàn. Rốt cục, để lý giải
nhân tình thế thái, ông đã đi sâu tìm hiểu giáo lý Phật giáo và nhận thấy danh
lợi chỉ là gió thổi đưa hương nhất thời của hoa cỏ mà thôi. Còn Nguyễn Dữ
(thế kỷ XVI) thì tỏ thái độ bật hợp tác với triều đình, song vẫn mong xuất nếu
vua có đường lối chính trị quang minh chính đại. Nguyễn Hàng lại chỉ đề cao
tư tưởng vô vi, chủ trương sống tự do, tự tại, tuỳ thích. Đầu thế kỷ XV,
Nguyễn Trãi (1380 -1442) đạt đến đỉnh cao về đạo đức trên lập trường nhà
Nho nhưng ông không quan niệm trung quân một cách giáo điều như quan
niệm của Tống Nho: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Khi nhà Trần,
Hồ không còn đại diện cho quyền lợi của quốc gia dân tộc, ông phù Lê cứu
nước. Ông đặc biệt đề cao nhân nghĩa, thái độ của ông thiết tha, chân thành
khi nói đến nhân nghĩa rằng: chỉ có nhân nghĩa mới có thắng lợi, nhân nghĩa
là nguồn gốc của sức mạnh:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo" (Bình Ngô Đại Cáo)
Ông coi nhân nghĩa là đường lối chính trị, là cơ sở đạo đức, là chuẩn
mực đạo đức trong chính sách đối xử. Theo ông thì đạo làm tướng lấy nhân
nghĩa làm gốc và mưu việc lớn cũng phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Không phải
nhà nho nào thời bấy giờ cũng có lập trường quan điểm tiến bộ như Nguyễn
Trãi, đúng như nhận xét sau của nhà nghiên cứu Minh Mẫn: "Tư tưởng triết lý
của nhà Phật đã từ lâu trở thành một phần đời sống tinh thần của người Việt
Nam. Tinh thần từ bi, yêu chuộng hoà bình, tôn trọng sự sống và hiếu sinh
của Phật giáo đã ảnh hưởng tâm hồn Việt Nam một cách sâu sắc. Một trong
những nhà văn, nhà chính trị lớn của Việt Nam là Nguyễn Trãi đã thể hiện
tinh thần nhân bản của đạo Phật" [40, tr.292]. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Trãi
- 53 -
cuối đời đã dự định đi theo Thiền: “Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã, Lâm
kỳ ngã diệc thượng thừa thiền” (Lẩm cẩm già rồi đừng lạ tớ, Từ biệt nhau rồi
thì ta cũng sẽ tu đạo thiền thượng thừa) [85, tr.353].
Vẫn có truyền thống gắn bó đạo với đời, đầu thế kỷ XX, các phật tử
Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi
ân xá Phan Bội Châu và tham dự đám tang Phan Chu Trinh). Những năm
1925 - 1926, một số nhà sư biểu tình khi bị thực dân Pháp bắt tra khảo: "Ai
xui thầy chùa đi biểu tình?" Sư Thiện Chiếu trả lời: "Thuyết từ bi cứu khổ của
Phật xui phật tử tham gia những cuộc vận động yêu nước, thương dân chứ
không ai xui cả" [Trích theo 36, tr.160]. Thời Diệm - Thiệu, các phật tử miền
Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hoà bình và độc lập
dân tộc, nổi bật là sự kiện hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè
năm 1963 để đòi tự do - bình đẳng cho dân tộc, cho tín ngưỡng, tôn giáo.
Hành động đó của hoà thượng ai cũng đều cảm động và hết lòng ca ngợi tinh
thần "phụng đạo - yêu nước" của ông. Cùng với việc tự thiêu của hoà thượng
Thích Quảng Đức còn có rất nhiều nhà sư đã tuyệt thực để phản đối chính
quyền Sài gòn. Những việc đó khích lệ nhân dân ta kiên quyết ủng hộ cuộc
đấu tranh của đồng bào miền Nam trước đây. "Cuộc đấu tranh anh dũng của
đồng bào theo đạo Phật là một bộ phận trong mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam, kiên quyết chiến đấu đánh đổ ách thống trị hung ác của Mỹ Diệm.
Như vậy thì nhất định miền Nam sẽ được giải phóng, tín ngưỡng sẽ được tự
do" [ 48, tr.28].
Đồng thời với xu hướng nhập thế, vào những năm đầu thế kỷ XX đã
xuất hiện phong trào chấn hưng Phật giáo. Đây là bước đổi mới theo hướng
gắn Phật giáo với dân tộc, Phật giáo với xã hội, với khoa học. Vai trò dựng
nước, giữ nước và phát triển đất nước của Phật giáo đối với nền độc lập và tự
chủ của Việt Nam trở thành điểm son của văn hoá và chính trị Việt Nam. Nhà
- 54 -
thơ Hồ Dzếnh đã viết: "Trang sử Phật, Đồng thời là trang sử Việt. Trải bao độ
hưng suy, Có nguy mà chẳng mất" [ 40, tr.295].
Tóm lại, chính những thời điểm có tính chất bước ngoặt của lịch sử
dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã nắm bắt và hội nhập kịp thời với tinh thần yêu
nước, đổi mới để ngày càng gắn kết với dân tộc, xã hội. Nhờ vậy Phật giáo
Việt Nam đã có những đóng góp tích cực vào trào lưu tiến bộ, vào việc hình
thành các giá trị đạo đức của nhân dân. Tinh thần yêu nước, thương dân của
các ông Vua - Phật và những nhà tư tưởng lớn đã trở thành tấm gương đạo
đức cao cả cho mọi người dân, tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc mỗi khi
đất nước bị xâm lăng, tạo nên một lối sống xã hội lành mạnh mang đậm tinh
thần từ bi hỷ xả của Phật giáo. Tất thảy những cái đó hình thành nên giá trị
đạo đức truyền thống Việt Nam - một giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam.
2.3. Ảnh hƣởng của đạo đức Phật giáo tới đạo đức con ngƣời Việt
Nam hiện nay
2.3.1. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc bảo tồn và phát triển
đạo đức của người Việt Nam
Đạo Phật lấy con người làm trung tâm, luôn thấy được nỗi khổ của
chúng sinh và mong muốn chúng sinh thoát khỏi vòng trầm luân biển khổ.
Bằng chủ trương cứu nhân độ thế, từ bi, hỷ xả, vô ngã vị tha, đạo Phật hướng
con người tu tập nhân tâm vượt qua mọi cám dỗ để hoàn thiện nhân cách. Vì
vậy, có thể nói, những chuẩn mực trong giá trị đạo đức của Phật giáo mang
tính triết lý nhân văn sâu sắc. Ngoài việc góp phần giữ gìn các giá trị đạo đức
truyền thống, đạo Phật còn đóng vai trò hình thành và phát triển những yếu tố
lành mạnh trong lối sống của mỗi con người. Phật giáo không chủ trương con
người phải sống nghèo khổ, thiếu thốn mà khuyến khích con người thực hiện
một cuộc sống đúng (chính mệnh). Ghi nhớ lời Phật dậy, đa số tăng ni ăn mặc
gọn gàng, sạch đẹp và ăn uống đạm bạc. Có nhiều chùa còn tận dụng những
- 55 -
khoảng đất trống trồng rau xanh góp phần tự túc lương thực, thực phẩm.
Những biểu hiện ấy là tấm gương sáng cho tín đồ Phật giáo noi theo, đồng
thời còn tác động tích cực tới suy nghĩ và hành vi của mọi người. Có thể nói,
đây là điểm tương đồng với lối sống và tính cách của người Việt Nam, những
cư dân lúa nước vốn cần cù, một nắng hai sương, biết tiết kiệm, dành dụm để
khi gặp thiên tai mất mùa còn có cái để tồn tại. Tính cách đó của con người
Việt Nam được phương pháp thực hành sống đúng, sống có ý nghĩa của Phật
giáo bổ sung, làm cho nó được duy trì lâu bền. Vì thế, khi hoạn nạn ập đến,
con người Việt Nam ngoài bản lĩnh kiên cường chống đỡ, còn có nền tảng
tinh thần chịu đựng mà Phật giáo trang bị cho nó.
Phật giáo chủ trương khuyến thiện, tránh ác, giữ tâm trong sạch, cổ xuý
hành vi công ích cứu tế, giúp người neo đơn, cơ nhỡ, tàn tật, trẻ mồ côi, cho
thuốc chữa bệnh với phương châm:
" Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người"
Đạo Phật là tôn giáo luôn trân trọng sinh mệnh của con người. Lý luận
giải thoát của Phật giáo, như trên đã đề cập, đã khắc phục sự phân biệt đẳng
cấp của BàLaMôn giáo để không chỉ cứu cho một người, mà tất cả chúng sinh
đau khổ. Hình ảnh nhà tu hành Phật giáo trong bộ y phục “nhà chùa” cầm
chiếc bát đi “khất thực” luôn gợi nhớ, liên tưởng cho mọi người về tinh thần
bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khó, bởi “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Nhà Phật bằng tất cả mọi biện pháp, từ lý luận sâu sắc trong “Tam tạng kinh”
đến việc thực hành đạo pháp, đều hướng tới những hành vi hướng thiện thiết
thực của con người. Từ đó chúng ta có thể chia sẻ quan điểm với TS. Đặng
Thị Lan cho rằng, "Đạo Phật là đạo của lòng từ bi, hỷ xả, sẵn sàng xoá đi
những oán ghét, phục thù. Điều này rất phù hợp với bản chất nhân đạo của
người Việt" [36, tr.172].
- 56 -
Phật giáo không chỉ dừng lại ở việc chia sẻ những khó khăn của con
người, chung sức xây dựng hoà bình, thịnh vượng, công bằng cho đời sống xã
hội, mà còn hướng mọi người tới việc lấy điều thiện làm chuẩn mực sống,
làm phương tiện và mục đích để đạt tới hạnh phúc cho con người. Điểm sáng
trong đạo đức Phật giáo mà người dân Việt ta tiếp thu được là chủ nghĩa nhân
đạo lớn lao, tình thương vô hạn đối với con người. Điều này đã hun đúc, củng
cố thêm truyền thống nhân ái vốn có của dân tộc. Người Việt Nam vốn rất
trọng đạo lý tình người, truyền thống "thương người như thể thương thân"
không chỉ có sức sống lâu dài trong lịch sử mà ngày nay, truyền thống ấy còn
được thắp sáng bởi những hoạt động từ thiện xã hội, ủng hộ người nghèo,
đồng bào lũ lụt. Trong các lần hoạn nạn do thiên tai gây ra, hình ảnh các tăng
ni, phật tử cưu mang những thân phận bé nhỏ bị bỏ rơi, dấn thân vào các
phong trào "cứu khổ cứu nạn" mà các phương tiện truyền thông đại chúng
đưa tin, đều phản ánh đúng thực tế, đồng thời thể hiện một cách đúng đắn
thuyết từ bi của đạo Phật.
Một vài con số về hoạt động từ thiện - xã hội trong cả nước thời gian
qua cho thấy sự nỗ lực to lớn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cụ thể đã "xây
dựng một mạng lưới chữa và hốt thuốc miễn phí cho người nghèo, Phật giáo
đã có được 25 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng thuốc chẩn trị Y học dân tộc,
khám và phát thuốc trị giá 23 tỷ đồng" [3, tr.12]. GS. Vũ Khiêu trong công
trình "Bàn về văn hoá Việt Nam" đã viết: "Có thể nói, chính truyền thống sẵn
có của dân tộc đã dễ dàng hoà quyện với giáo lý nhà Phật và đã tạo nên chủ
nghĩa nhân đạo tích cực mang màu sắc Việt Nam, một nhân tố bền vững trong
nhân sinh quan Việt Nam".
Những năm gần đây, đời sống kinh tế của người dân không ngừng được
nâng cao, tạo điều kiện cho nhiều người đi chùa lễ Phật thường xuyên hơn.
Ngoài cầu nguỵên Phật ban phúc, phù hộ, người dân còn quan tâm hơn tới
- 57 -
việc nghe giảng giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tu tập đức hạnh. Các buổi nghe
giảng giáo lý ngày càng thu hút nhiều người và thông qua các buổi nghe
giảng, mọi người có thể tìm hiểu thêm ở các nhà thuyết pháp những điều
mình chưa hiểu. Các buổi giảng trang bị cho họ những hiểu biết về giá trị đạo
đức thể hiện trong ngũ giới, thập thiện, lục độ, lấy Đức Phật làm gương sáng,
ghi khắc những giới răn ở trong lòng và thực hiện nó trong đời sống, giúp ích
cho bản thân, cho gia đình và xã hội.
Đạo Phật ngay từ khi vào Việt Nam đã tiếp xúc với những tín ngưỡng
truyền thống, tức những yếu tố bản địa, đồng thời dễ dàng kết hợp chặt chẽ
với các yếu tố đó. Khi vào nước ta, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam
chấp nhận và phát triển tương đối rộng rãi, từ cái ngoại lai trở thành cái bản
địa, từ cái xa lạ trở thành cái thân thuộc với dân tộc. Phật giáo đã góp phần
làm cho đạo đức, tâm lý lối sống và phong tục tập quán.v.v. của dân tộc ta
thêm phong phú, đồng thời vẫn duy trì được bản sắc riêng của văn hoá Việt
Nam. Từ hệ thống chùa chiền cho chúng ta nhận thấy rõ nét sự kết hợp độc
đáo trong tín ngưỡng của người dân, đó là cách kiến trúc phổ biến của chùa
với cấu trúc "Tiền Phật hậu thánh", tức là đưa các vị thần, các thành hoàng,
thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Hầu như không chùa nào
không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong hồn đã khuất và "chính
trong hàng chục ngàn ngôi chùa tháp ấy, văn hoá Phật giáo đã có điều kiện
lan toả, đi vào đời sống tinh thần, vào cách ăn, nếp nghĩ, vào trong lối sống,
tập tục của người Việt Nam" [39, tr.62].
Khi xưa thường có quan niệm cho rằng, "Trẻ vui nhà, già vui chùa".
Nhưng thời gian gần đây đã khác, số lượng người đi chùa không hẳn chỉ là
những bậc lão niên mà đủ mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính, trước cửa
nhà Phật từ người già đến trẻ nhỏ, thanh niên, nam nữ, thương gia, trí thức
đều kính cẩn, thành tâm. Họ đi chùa không đơn giản chỉ vì sự cúng lậy, khẩn
- 58 -
cầu mà để noi theo gương lành của Phật, cải đổi tự thân để học hỏi giáo lý, tu
sửa tâm tính để xoa dịu phần nào vết thương lòng của cá nhân họ. Con người
đến với chùa Phật để cầu mong được Phật che chở, được cứu vớt và gửi gắm
những ước nguyện của mình vào đấng tuyệt đối mà họ tin tưởng.
Khi ta vào chùa lễ Phật, nhìn lên bức chân dung của Phật với cặp mắt
trìu mến, nhân từ, vẻ mặt từ bi của Ngài, chúng ta cảm thấy dường như lúc
nào Ngài cũng sẵn sàng tiếp nhận bất kỳ một sinh linh đau khổ nào. Từ đó, tự
nhiên ở trong tâm chúng ta có một cảm giác thật thanh thản, bình yên. Sự
bình yên ấy được lan toả từ chính công hạnh vị tha, đức độ hỷ xả vô biên của
Ngài. Đa số người Việt Nam đến với Phật nhưng chưa chắc đã hiểu hết ý
nghĩa thâm sâu của giáo lý Phật giáo mà chủ yếu với tâm lý đơn giản rằng:
"Có thờ có thiêng, có kiêng, có lành". Họ hy vọng rằng với sự thành tâm khấn
vái của mình, Đức Phật, cụ thể hơn là Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thấu hiểu để
phù hộ, cứu giúp cho họ có một cuộc sống may mắn, hạnh phúc hơn.
Sau những ngày vất vả vật lộn, đua chen với đời, đầu óc quay cuồng
bởi những bận rộn, tính toán thường ngày, con người muốn tìm đến một nơi
nào đó thật thanh tịnh, tránh xa hẳn những ồn ào, vội vã của cái chợ đời đầy
sóng gió để tìm lại chính mình, nơi đó có lẽ là chùa Phật. Chính không khí ở
chùa đã ru êm, xoa dịu tâm hồn con người, bởi vì đây là cả một khoảng trời
thanh tịnh. Cổng chùa rêu xanh phủ kín dù nắng táp mưa sa, ngôi chùa đứng
lặng im trong không gian tĩnh mịch. Phần lớn các chùa đều nằm ở trên núi cao
hay những nơi xa hẻo lánh, xa trung tâm những khu dân cư đông đúc. Ở đó,
tiếng chuông ngân nga nhịp nhàng hoà theo gió. Nhà nho tiêu biểu của nước
ta thế kỷ XVI đã nói lên tâm trạng của mình khi viếng thăm cảnh chùa Phổ
Minh như sau:
“Bi văn ác lạc hoà yên bích
Phạt nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
- 59 -
Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại
Thức đắc vô hình thắng hữu hình”
(Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình) [35, tr.233].
Chùa vừa là không gian văn hoá gắn bó với cuộc sống thường nhật của
con người, vừa là nơi linh thiêng làm cho tâm lý con người bớt đi sự thô bạo,
sân, si trong các hành vi ứng xử với mọi người cũng như với tự nhiên. Do đó
Trạng Trình mới khẳng định những gì không thể quan sát được bằng mắt
thường, con người phải thận trọng hơn để tránh sự quở trách của sức mạnh
“vô hình”. Ý nghĩa răn đe, cảnh báo đó bao giờ cũng có ý nghĩa nhất định.
Cứ vào ngày rằm, mồng một hay ngày lễ Phật Đản, Vu Lan, người dân
lại tụ hội về các chùa thành kính thắp nhang, dù công việc có bận mải đến đâu
nhưng dường như không ai bảo ai, họ đều gác lại một bên để dành những
khoảnh khắc thâm trầm, yên tĩnh, lắng lặng lòng hướng về tổ tiên ông bà:
"Hàng ngàn lượt người đã "vân tập" về tham dự ngày đại lễ phật Đản, Vu Lan
tại các ngôi chùa lớn như Quán Sứ (Hà Nội), Thiên Mụ (Huế), Vĩnh Nghiêm
(Thành phố Hồ Chí Minh). Qua những buổi lễ hội ấy, các phật tử càng cảm
thấy gắn bó hơn với quê hương, tôn kính nhiều hơn với tổ tiên, ông bà, cha
mẹ. Một lần tham dự lễ hội lại là một lần những tăng ni, phật tử cảm thấy gắn
bó hơn với cộng đồng mình, với những người đồng đạo, đó là tiền đề có thể
mở rộng tình thương, hướng đến những người ngoại đạo và nhân loại quanh
mình" [39, tr.63]. Chính thuyết Tứ ân, đặc biệt là ân tổ quốc của Phật giáo đã
hoà quyện với tín ngưỡng Phật hoàng làm cho tinh thần yêu nước và nhân từ
của Phật giáo giúp cho Việt Nam chiến thắng biết bao thế lực thù địch hùng
mạnh. Sức sống mãnh liệt của đạo Phật ngày nay cũng đang ngày càng lan
- 60 -
toả, thấm sâu vào người dân Việt Nam, không ngừng được củng cố và phát
triển những truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc. Bộ trưởng Bộ văn hoá
thông tin đã đưa ra nhận xét: "Văn hoá Phật giáo là nét văn hoá đặc trưng
trong dòng chảy văn hoá dân tộc Việt ta. Ở nơi nào văn hoá các tôn giáo trở
thành văn hoá đặc trưng thì đó chính là văn hoá dân tộc. Tôn vinh văn hoá
Phật giáo là tôn vinh văn hoá dân tộc" [Trích theo 39, tr.75].
Một câu hỏi đặt ra là tại sao gần đây số lượng du khách thập phương đi
tham quan, vãng cảnh chùa ngày càng đông? Ví dụ về số du khách đến hội
xuân Yên Tử (thị xã Uông Bí - tỉnh Quảng Ninh): năm 2007 là 90 vạn người;
năm 2008 là 1.3 triệu người. Riêng năm nay, chỉ tính đến ngày 5/3/2010 đã có
tới 44 vạn người đến thủ phủ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử6. Ở tỉnh
Quảng Ninh kế hoạch đúc tượng đồng Phật hoàng Trần Nhân Tông đang được
triển khai và tượng được xây dựng trên khu vực An Kỳ Sinh trên đỉnh non
thiêng Yên Tử với chi phí dự tính gần 70 tỷ đồng. Việc xây dựng tượng đồng
Phật hoàng Trần Nhân Tông có giá trị về mặt lịch sử văn hoá, thể hiện được
nhu cầu sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, văn hoá cảnh quan đồng thời nhằm tôn
vinh Phật hoàng Trần Nhân Tông và nâng cao giá trị toàn bộ di tích thắng
cảnh Yên Tử. Điều đó chứng tỏ chính sách của Nhà nước ta về đáp ứng nhu
cầu đời sống tâm linh của con người Việt Nam đang được chú trọng như bất
kỳ nhu cầu nào khác trong cuộc sống của nhân dân.
Đạo Phật ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều sinh hoạt khác của người dân
ta, thí dụ mỗi khi gia đình có người qua đời họ thường mời các thầy sư về nhà
làm lễ cầu siêu cho vong hồn đã mất. Thực ra "Việc tụng kinh cầu nguyện
không phải các vị sư đủ sức cứu vớt những kẻ ấy mà dùng sức mạnh tinh thần
6 Theo: Báo cáo của trung tâm quản lý khu di tích Yên Tử.
- 61 -
chuyên chú để soi thấu tâm tư của họ bằng những tia, cửa thanh tịnh an lành,
khiến họ thức tỉnh chuyển tâm hồn đen tối thành sáng suốt, ác độc thành
lương thiện. Thế là cứu độ họ thoát khỏi khổ đau" [81, tr.151]. Nhiều gia đình
có con nhỏ khó nuôi thường hay "bán vào chùa" để nuôi cho mát mẻ. Những
việc làm này ngày nay diễn ra khá phổ biến và nhiều người cũng băn khoăn
không biết làm thế có được không? Thượng toạ Thích Tâm Quán trong
chương trình "Thắp sáng niềm tin" do chùa Diên Quang thực hiện đã trả lời
về vấn đề này như sau: việc "bán con" là để cho gia đình phật tử đó được kết
duyên với Phật mà thôi. Cũng có hiện tượng những người già không có con
cháu nối dõi cũng xin vào chùa "công quả" cho đến ngày qua đời. Gia đình
nào có người qua đời trong 49 ngày đầu trước bữa ăn thường lấy một bát cơm
và đôi đũa cúng mời người đã khuất. Những việc này chứng tỏ dân ta quan
niệm "chết không phải là hết", tình sâu nghĩa nặng lúc sống cũng như lúc chết
con người vẫn luôn nhớ đến nhau. Vào ngày rằm, mùng một nhiều gia đình
không phải là phật tử cũng có tục ăn chay: "tục ăn chay cũng đã được áp dụng
ngay cả với những người không theo đạo vào các ngày sóc, vọng, tại chợ,
nhiều hàng quán không bán thức ăn mặn. Số lượng cá, thịt cung cấp ít đi, có
sạp nghỉ bán cá vào những ngày chay" [39, tr.67]. Vào ngày 23/12 (âm lịch)
là ngày "ông táo lên trời", rất nhiều người đi chợ mua cá chép về thắp hương
rồi mang phóng sinh. Điều đó cũng gần gũi với “Giới sát” (cấm sát sinh) của
Phật giáo và trở thành tập quán, phong tục hiện hữu trong lối sống của người
Việt Nam, giúp con người có tư tưởng hành thiện, làm lành lánh dữ. Có thể
nói, đạo Phật ngay từ khi mới du nhập vào nước ta đã có ảnh hưởng rất lớn
đến đạo đức con người Việt Nam, cụ thể được trình bày rất rõ trong “Lý hoặc
luận” của Mâu Bác; “Sáu bức thư” và “Bảy đoạn văn” ghi chép sự đối thoại
của các nhà sư với người trong đạo cũng như ngoài đạo. Những giáo lý, tư
tưởng từ bi, bác ái của nhà Phật ăn sâu vào nếp nghĩ, việc làm của con người
- 62 -
giúp con người vươn tới chân, thiện, mỹ. "Xã hội đương thời nhìn nhận lại
nền triết lý vô hạn của ngài bao hàm lòng từ bi đối với tất cả chúng hữu tình.
Ngũ giới, tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả một cách khâm phục và trân trọng
hơn bao giờ hết bởi lẽ những vấn đề của thời đại như chứng Stress, sự trầm
cảm, sự đe doạ của chiến tranh đầu đạn hạt nhân chỉ có thể giải quyết bằng
cách áp dụng những nguyên tắc trên của Đức phật đã nói ra cách đây hơn 25
thế kỷ" [60, tr.217].
Vai trò to lớn và những ảnh hưởng tích cực của đạo Phật đến đạo đức
con người Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn
chế cần khắc phục để các giá trị đạo đức truyền thống được duy trì và phát
triển. Chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này ở các tiết sau.
2.3.2. Vai trò của đạo đức Phật giáo trong việc điều chỉnh hành vi của
con người Việt Nam dưới tác động của nền kinh tế thị trường
Cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ đang biến đổi nhanh chóng từng
ngày. Loài người đang tiến vào kỷ nguyên của thời đại khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão. Chính sự phát triển ấy đã mang lại cho con người một
cuộc sống ngày càng cao với những tiện nghi vật chất vô cùng phong phú.
Tuy nhiên, đời sống vật chất của con người ngày càng tăng lên thì lại tỉ lệ
nghịch với đời sống tình cảm, đời sống tâm linh của con người, dẫn đến hàng
loạt những vấn đề nảy sinh như môi trường, bệnh tật, ma tuý, tham nhũng,
đạo đức xuống cấp trầm trọng. Con người nghiễm nhiên tự đặt mình vào tâm
trạng bất an, khủng hoảng, lo toan cho địa vị, công danh và sự giàu có cho
bản thân để tiến kịp với mọi người trong xã hội.
Xã hội ngày càng tiến bộ, sự đòi hỏi của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
trên mọi lĩnh vực càng khiến con người trở nên nhanh nhạy với công nghệ,
song ngược lại khó tránh khỏi sự cứng nhắc, máy móc trong ứng xử xã hội và
- 63 -
dần xa lạ với chính mình. Do cơ chế kinh tế thị trường, ai cũng mải mê bươn
chải, sống quay cuồng theo guồng quay của cuộc sống chung, có lúc còn
không biết cả người thân của mình đang sống ra sao. Quá nhiều những căn
bệnh phát sinh từ thực tế đó như stress, trầm cảm, cô đơn, v.v. Họ luôn có
cảm giác bất an, dao động và mất thăng bằng. Với tâm lý như vậy rất dễ dẫn
nhiều người đến với ma tuý, các bệnh viện tâm thần và có khi đi đến tự sát.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Tệ
sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối
sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của
dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình
nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham
nhũng phát triển … Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn khác gia tăng" [20, tr.46].
Đây là những vấn đề vô cùng nghiêm trọng buộc chúng ta phải có cách giải
quyết một cách thoả đáng.
Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới hơn hai mươi năm và đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế thị
trường đã làm cho bộ mặt xã hội Việt Nam ta có nhiều khởi sắc với rất nhiều
thành tựu đáng khích lệ. Bên cạnh đó cũng phát sinh ngày càng nhiều tiêu cực
gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội nước ta. Cơ chế thị
trường tạo điều kiện, cơ hội cho nhiều người giầu lên một cách nhanh chóng,
nhưng đồng thời cũng mở lối khiến cho nhiều người bị sa ngã. Đồng tiền có
sức công phá cực kỳ ghê gớm, mặc dù bản thân đồng tiền không có tội. Tất cả
đều xuất phát từ chính con người (làm ra tiền và cách sử dụng đồng tiền).
Trong thời buổi kinh tế thị trường dường như mọi thứ đều có thể đặt lên bàn
cân để cân, đo, đong, đếm theo triết lý "có tiền mua tiên cũng được", do đó
người ta dùng tiền để mua cả tình yêu, thứ tình cảm quý giá nhất của con
người. Ham muốn cao sang ngự trị trong mỗi người và để đạt được ham muốn
- 64 -
con người đã trở thành chúng sinh tàn bạo nhất trên thế giới này. Về thực
chất, không thể nói kinh tế thị trường trực tiếp tạo ra sự biến chất về đạo đức
con người, nhưng nó lại tác động mạnh mẽ đến đời sống riêng tư, suy nghĩ và
tình cảm của mỗi người. Và con người tuy đã đạt được thành công ở một mức
độ nào đó nhưng đã phải trả một giá rất đắt. Đó chính là sự hy sinh cả an lạc
nội tâm để đổi lấy tiện nghi vật chất và uy quyền. Đây mới chính là cái mất
mát lớn nhất của con người mà không phải ai cũng kịp nhận ra. Để kiếm được
nhiều tiền có những người dùng mọi thủ đoạn như gian lận thương mại, buôn
lậu, làm hàng giả, buôn bán ma tuý, cho vay nặng lãi,v.v. Thực tế đã có rất
nhiều vụ án kinh tế lớn xảy ra. Ai cũng đua chen trên dòng đời bất chấp hậu
quả ra sao miễn là mang lại cho mình lợi nhuận tối đa, dẫn đến tình trạng
thiếu trách nhiệm trước xã hội, cộng đồng. Với quan niệm sai lệch "cha chung
không ai khóc", một số kẻ đã lạm dụng tài nguyên của xã hội khai thác đến
cạn kiệt và gây ô nhiễm môi trường sống, ảnh hưởng đến sức khoẻ của con
người. Không ai trong chúng ta có thể nghĩ rằng, một công ty VEDAN có
thương hiệu nổi tiếng như thế mà bất chấp tất cả vì lợi nhuận của mình có thể
huỷ hoại môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước sông Thị Vải như
vậy. Sự xuống cấp về đạo đức đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội,
của các ngành, các cấp. Nếu chúng ta chỉ quan tâm tới tăng trưởng kinh tế mà
không chú ý đến việc xây dựng một nền đạo đức mới, hoàn thiện nhân cách
con người thì sự phát triển sẽ trở nên lệch lạc, không bền vững.
Một vấn nạn không nhỏ gây rất nhiều bức xúc trong xã hội ta hiện nay
đó là tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, mất dân chủ. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ bốn nguy cơ làm cho đất nước ta tụt hậu trong đó
có tệ nạn tham nhũng. Đây là những vấn đề ngày càng trở nên trầm trọng, đe
doạ sự tồn vong của chế độ ta. Các tệ nạn xã hội được dịp bung ra như lừa
đảo, trộm cắp, nghiện ngập, buôn bán ma tuý, giết người, cướp của. Chưa bao
- 65 -
giờ trật tự xã hội lại bị đảo lộn đến như vậy. Giờ đây ngay tại nhà mình, giữa
thanh thiên bạch nhật cũng có quá nhiều mối đe doạ đáng sợ. Một xã hội
không có trộm cướp, bóc lột nhau mới có thể gọi là một xã hội lành mạnh,
văn minh. Trái lại một xã hội dù có khoa học tiến bộ, cuộc sống vật chất tiện
nghi đến đâu đi nữa mà con người ở đó sống dựa trên mưu mô, xảo quyệt, lừa
gạt và cướp bóc nhau để làm giầu bất chính thì xã hội đó trên thực tế vẫn là xã
hội dã man, mọi rợ.
Cuộc sống vận động, biến đổi không ngừng, tri thức con người Việt
Nam ta hiện nay cũng ngày một nâng cao cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
đời sống vật chất. Tuy nhiên, tri thức và vật chất không phải là phương thuốc
màu nhiệm làm cho người ta có một cách sống hài hoà hơn trong xã hội. Trật
tự xã hội Việt Nam ta hiện nay do thiếu vắng cơ sở đạo đức nên thực sự bấp
bênh và không có sự ổn định mà nguyên nhân chủ yếu là các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp đang bị mai một.
Sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường dẫn đến sự thành bại,
may rủi không thể lường hết được thì những giá trị, những lời khuyên của đạo
đức Phật giáo vẫn có nhiều mặt tích cực có tác dụng cân bằng tâm lý cho con
người, dù đó chỉ là “một sự đền bù hư ảo". Từ thực tế đó quan niệm nhân sinh
của Phật giáo, đạo đức Phật giáo rõ ràng là có tác động nhất định trong việc
điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Sự tác động ấy trước hết là đối
với cộng đồng tín đồ Phật giáo và dần tác động lan toả đến các tầng lớp nhân
dân khác trong xã hội.
Thuyết "nhân quả" đóng vai trò quan trọng trong giáo lý nhà Phật, từ
xưa đến nay, thuyết này cũng đã ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của người
dân Việt Nam, từ đứa trẻ nhỏ cũng biết đến câu "gieo gió thì gặt bão", hay khi
chứng kiến cảnh một người chịu hậu quả do những việc làm tội lỗi của mình
gây ra, những người xung quanh thường thốt lên: "Nhân nào quả ấy", "chạy
- 66 -
đâu cho thoát khỏi nắng". Những câu cửa miệng này thực ra chứa đựng một
sức mạnh vô cùng to lớn từ trong tiềm thức của mỗi người. Một khi con người
đã thấu hiểu được luật nhân quả thì sẽ tự điều chỉnh được hành vi của mình:
"Trong mọi hành động của chúng ta, bao giờ cũng nên nghĩ đến quả mà trồng
nhân. Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa bãi thì thế nào
cũng gặt nhiều tai hoạ, gây tạo cho mình những điều phiền phức có khi làm
ung độc cả cuộc đời, cả sự sống. Chỉ có những người nông nổi, liều lĩnh mới
không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày. Chứ những người sáng suốt,
làm việc có kế hoạch, khôn ngoan thì bao giờ cũng nhằm cái đích, rồi mới đi
tới, hình dung rõ ràng cái quả rồi mới trồng nhân" [30, tr.28]. Thuyết nhân
quả có tác dụng điều chỉnh ý thức đạo đức và hành vi đạo đức cho con người,
bồi dưỡng cho con người tình thương yêu, sống vị tha, làm điều thiện, tránh
điều ác. Khi con người thấu suốt lý nhân quả của nhà Phật và tâm niệm rằng,
"chết chưa phải là hết, sự kết thúc của một sinh mạng này là sự kế tiếp một
sinh mạng khác. Như vậy sẽ hạn chế được lối sống buông thả, ích kỷ, đề cao
cái "tôi" dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất chấp công bằng, đạo lý và lẽ phải để
thoả mãn dục vọng cá nhân" [36, tr.96]. Hiện nay nhiều người bất chấp luật
pháp, bỏ qua những luân lý đạo đức mà làm những việc bất chính với hi vọng
làm giàu nhanh chóng, họ không biết rằng, ngoài quan niệm trong “Minh tâm
bảo giám” của Nho gia cho rằng, lưới trời lồng lộng, luật pháp nghiêm minh
không thể thoát, còn có lời khuyên của Phật về mối quan hệ nhân quả: “nhân
nào thì quả nấy”. Thuyết nhân quả, theo chúng tôi, trở thành lời răn đe hữu
hiệu đối với những hành vi thiếu suy nghĩ, bồng bột, kể cả những hành vi bất
thiện, thâm độc. Có người thắc mắc: Tại sao có những người ăn ở độc ác mà
vẫn ngang nhiên sống? Những người hiền lành mà sao lại chết một cách thê
thảm? Theo quan điểm của nhà Phật cho rằng, thuyết nhân quả vẫn hoàn toàn
đúng khi chúng ta suy ngẫm về Lục đạo mà Phật giáo cảnh báo. Đó là sáu con
- 67 -
đường của con người ở thế giới bên kia: cõi Thiên, cõi Người, Atuna, Ngạ
quỷ, Địa ngục và Súc sinh. Người sống tốt, hành động đúng ở đời này, kiếp
này không hưởng thì kiếp sau sẽ hưởng, đó cũng như là "của để dành" mà
thôi. Bởi vì "muốn chết lành, chúng ta phải sống tốt. Nếu sống tốt thì chúng ta
có thể chết lành, không hối tiếc. Chúng ta ra đi bình an, hài lòng rằng mình đã
làm tất cả những gì mình có thể làm được, rằng trong đời mình đã chia sẻ sự
cảm thông và hạnh phúc, rằng mình đã sống theo những nguyên tắc của mình
dựa trên tình yêu thương của tâm từ" [1, tr.12]. Hạnh phúc hay khổ đau là do
việc làm của chính bản thân mình tạo ra, không phải cứ làm nhiều việc tội lỗi,
buôn lậu ma tuý, gian lận thương mại rồi lại quỳ gối "cầu Phật phù hộ độ trì"
thì đó chỉ là điều phi lý. Trong nhiều tài liệu của Phật giáo chúng ta luôn bắt
gặp chủ trương hướng thiện của Phật, Ngài chỉ có thể ban phước cho những ai
ăn ở hiền lành, lương thiện. Cuộc đời của mỗi người là do nghiệp nhân của
chính mình tạo ra, mỗi người tự xây dựng đời mình thì hãy tự tin ở chính
mình, tin vào những việc làm thiện, làm đúng ngay đời hiện tại mình đang
sống, bởi vì lòng tin ấy là một sức mạnh vô cùng quí báu, làm cho con người
dám hoạt động, dám hi sinh, hăng hái làm điều tốt, vì những hành động tốt
đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quí báu đem lại những kết quả đẹp đẽ.
Trong cuộc sống hiện nay chúng ta thấy rất nhiều người dù sống trong
cảnh giàu sang mà vẫn trống trải, cô đơn. Do ảnh hưởng của lối sống “hiện
đại” lệch lạc, một số người đã tìm đến những cuộc vui thể xác, kết quả cũng
không hết buồn mà càng buồn hơn, càng bế tắc rồi dần dần không ăn, không
ngủ được dẫn đến trầm cảm, stress. Nếu như họ kịp thời thức tỉnh, không
hành hạ bản thân bởi những cuộc mua vui chớp nhoáng mà tìm hiểu kỹ Tam
học (Giới - Định - Tuệ) của nhà Phật, tích cực "sống vui, sống khoẻ, sống có
ích", tham gia những hoạt động xã hội giúp ích cho đời thì chắc chắn tâm hồn
sẽ thanh tịnh, cuộc sống sẽ "an vui" đúng nghĩa và sự "an vui" đó mới lâu
- 68 -
bền. Những việc làm hữu ích không chỉ tích phước cho mỗi người ở đời này,
kiếp này mà còn cho cả đời sau, kiếp sau. Chính vì thế nên dân gian ta có câu:
"Cha mẹ ăn ở hiền lành để đức cho con" hay "đời cha ăn mặn đời con khát
nước". Điều đó có tác dụng làm cho những người muốn làm điều gì đó xấu
xa, ác độc cũng phải tự vấn lương tâm, nhìn lại bản thân mình và trong nhiều
trường hợp họ đã kịp tỉnh ngộ mà dừng tay, tránh làm những việc gây hại cho
người khác. Điều đó không những phù hợp với đạo đức truyền thống của
người Việt Nam mà còn phù hợp với những quy luật xã hội của thời đại. Đâu
đó ngày nay còn có những hiện tượng lừa thầy phản bạn hòng chuộc lợi cho
bản thân. Họ bất chấp luật pháp, bất chấp luân thường đạo lý chỉ vì mưu cầu
lợi ích cá nhân mà họ cam tâm thực hiện những thủ đoạn độc ác dẫn đến
khuynh gia bại sản cho người khác. Những hiện tượng lừa đảo đang xảy ra
như cơm bữa hàng ngày như vay tiền với lãi suất hấp dẫn rồi "cao chạy xa
bay" để lại những hậu quả đau đớn không kể xiết cho người khác. Gậy ông lại
đập lưng ông, lòng tham của người cho vay nặng lãi đã giết chết chính họ, còn
kẻ lừa đảo đi vay cũng phải chịu những hình phạt thích đáng của luật pháp.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện để mỗi cá
nhân và tập thể tự do phát triển, làm ăn kinh tế. Cạnh tranh trong lành mạnh
để cùng nhau phát triển nâng cao đời sống con người là một mục tiêu lớn của
công cuộc hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Đảng ta đã xác định nền kinh tế
nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là tính chất nhân bản của nền kinh tế nước ta - một nền
kinh tế xuất phát từ con người và vì con người.
Tóm lại, học thuyết về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi vừa là hệ quả của
giáo lý duyên khởi, vừa là một thực tế khẳng định sự sống, khẳng định trách
nhiệm của con người về hành động có ý thức của chính mình. Điểm đáng quý
của giáo dục Phật giáo là khích lệ con người sống có đạo đức thiện lành để
- 69 -
được một cuộc sống hạnh phúc ngay hiện tại và tương lai. Con người sống có
ý thức và luôn có trách nhiệm về mình, nỗ lực xây dựng cuộc sống lành mạnh
cũng như vượt qua những chướng ngại của cuộc đời, con người sẽ không ngồi
đó mà than thân trách phận hay đổ lỗi cho người khác về việc làm do chính
bản thân mình gây ra. Đây là một đóng góp tích cực của nhân sinh quan Phật
giáo trong việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam ta hiện nay. Chính vì
cái vòng luẩn quẩn của nghiệp nhân quả đó cho nên trong mỗi hành động,
việc làm của mình, con người đều phải cân nhắc, thận trọng để mang lại một
kết quả tốt đẹp không chỉ ở đời này, kiếp này mà còn cho cả đời sau, kiếp sau.
Trong thời buổi nền kinh tế thị trường, cuộc sống hối hả và gấp gáp,
dường như ai cũng phải tận lực hết mình để chạy đua với thời gian còn không
kịp nên nhiều người nghĩ rằng không còn thời gian để tu tập. Thật ra, muốn tu
thân, tích đức không hề tốn kém hay mất thời gian vì theo quan điểm của nhà
Phật, muốn tạo phước thì cần phải giữ cho thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp được trong sạch. "Trong cơ chế cạnh tranh, đạo lý Phật giáo vẫn cần
để nhắc nhở con người không quên sự phán xử của "nghiệp báo", sự đánh giá
động viên của "quả thiện" để tự điều chỉnh hành vi đạo đức hướng thiện" [67,
tr.363]. Vậy thì, ta muốn "tu nhân, tích đức" thì ở bất kỳ đâu cũng làm được,
không nhất thiết là phải đến chùa quỳ lậy, khấn vái. Hãy "tu thân" ngay giữa
đời thường, trên chính cương vị nghề nghiệp của mình không phân biệt sang,
hèn. Từ việc làm cho đến lời ăn, tiếng nói, tâm ý đều trong sạch, đó chính là
tạo nghiệp thiện cho mình bởi vì để tạo ra của cải vật chất, con người có hai
phương thức tiến hành. Họ có thể tạo ra bằng con đương phi pháp, phi đạo
đức. Đó là những hành vi tạo của cải bằng con đường ác. Nhưng cũng có thể
tạo ra của cải bằng con đường thứ hai mang bản chất thiện, bằng nỗ lực của
chính mình và mang lại an lạc cho mình và cho người. Vì vậy, ở bất cứ nơi
nào, ở các công ty, xí nghiệp hay giữa dòng đời tấp lập, mỗi người đều có thể
- 70 -
"tu thân". Ví dụ như những thương gia không buôn gian bán lận, những người
buôn bán không "mua thừa bán thiếu", "một cân ăn tám lạng" thoải mái hoà
nhã "vui lòng khách đến vừa lòng khách đi", các công ty không làm hàng giả,
hàng nhái, những nhà sản xuất kinh doanh không vì lợi ích tối đa mà dùng
những hoá chất độc hại làm chất lên màu cho thực phẩm, đều là những hành
vi tu thân hướng thiện. Tu chính là việc làm thiết thực của chính bản thân
mình không hề mất thời gian, không hề tốn kém. Cho nên "Đức Phật khuyên
nên tìm kiếm của cải bằng con đường hợp pháp và lương thiện. Nó nên được
sử dụng một cách trí tuệ để làm những việc thiện và để dự phòng cho sự đau
khổ thể chất. Một điều quan trọng là những người sở hữu không nên làm nô lệ
cho của cải vật chất, vì sự chấp thủ và của cải tạo ra gánh nặng và ràng buộc"
[75, tr.784]. Tư tưởng kinh tế căn bản trong giáo lý Phật giáo là kinh tế - đạo
đức, chủ trương "ham muốn ít" bằng biện pháp "diệt dục, thiểu dục" để tạo ra
sự sung túc, chứ không phải là sản xuất nhiều hay tăng năng suất để có được
sự sung túc. Tư tưởng kinh tế này, về căn bản, đối lập với kinh tế thị trường,
vì nó phản đối hưởng thụ, không khuyến khích làm giầu, thậm chí còn không
khuyến khích tích luỹ.
Không ai có thể phủ nhận những thành quả to lớn mà nền kinh tế thị
trường đã đem lại cho đất nước ta, nhưng thiết nghĩ, nếu nền kinh tế ấy được
vận hành và có sự tác động từ lĩnh vực tôn giáo mà cụ thể là Phật giáo thì
chắc chắn sẽ mang lại kết quả tốt đẹp, con người sẽ được an lạc nội tâm mà
không phải bị làm nô lệ hay phụ thuộc bất kỳ yếu tố ngoại cảnh nào. Vì vậy,
"trách nhiệm mỗi người phật tử là tích cực học đạo, hành đạo tuỳ theo từng
thời đại, hoàn cảnh với tính đa dạng của nền kinh tế thị trường mà tham gia
tích cực đóng góp cho tự thân, gia đình và xã hội" [21, tr.53].
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, việc con người tạo ra của cải
vật chất đã có quá nhiều bất cập, nhưng việc hưởng thụ, tiêu xài những của
- 71 -
cải vật chất cũng là một vấn đề đáng bàn. Đối với vấn đề tiêu dùng, thái độ
của Phật giáo cũng rõ ràng khi nhận định rằng: Tất cả chúng sinh đều sống
còn nhờ vào thực phẩm, vì vậy, với nhu cầu này, họ phải đối phó bằng thiện
hay bất thiện. Việc tiêu dùng của cải vật chất nếu không hợp lý cũng sẽ tạo
nên nghiệp xấu. Đức Phật dạy chúng sinh sống phải biết tri túc nghĩa là phải
biết an phận với những gì mình đang có, phải biết cần, kiệm, biết sống một
cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch, thanh bạch. Nếu không có những gì
mình thích thì hãy thích những gì mình có thì cuộc đời này sẽ bớt đau khổ.
Nói vậy không có nghĩa là Đức Phật tán thành một đời sống nghèo đói và khổ
hạnh mà ngược lại Phật rất ủng hộ mọi cá nhân làm giàu chính đáng: "Phật
không bao giờ ca ngợi sự nghèo khổ. Trái lại, trong kinh Kutadanta (Trường
bộ kinh) và kinh "Chuyển luân thánh vương tu hành" (Trường A Hàm), Phật
giải thích là muốn trừ nạn giặc cướp và trộm cắp thì dùng hình phạt hay là bố
thí đơn thuần đều không thể giải quyết triệt để vấn đề. Qua vị Bàlamon chủ tể,
ở triều vua Mahavijita, Phật giải thích là muốn loại trừ triệt để bọn giặc cướp
ở trong nước thì "những người nào trong quốc độ nhà vua, nỗ lực về nông
nghiệp và mục xúc, thì nhà vua hãy cấp cho những người ấy hạt giống và thực
vật. Những người nào trong quốc độ nhà vua mà nỗ lực về thương nghiệp thì
nhà vua hãy cấp cho họ vốn đầu tư. Những người nào trong quốc độ nhà vua,
nỗ lực về mặt quan chức thì nhà vua hãy cấp cho họ thực phẩm và sống với
nhà cửa mở rộng" [Trích theo 59, tr.16 - 17].
Trong kinh Dị giáo Đức Phật có dạy:
"Tri túc chi nhơn tuy ngoạ địa thượng du vi an lạc
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý"
Nghĩa là: nếu một người nào đó biết thế nào là đủ thì tuy nằm trên đất
cũng thấy an vui, hạnh phúc. Còn người không biết thế nào là đủ thì thân xác
tuy ở trên cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thoả mãn, hạnh phúc.
- 72 -
Lão Tử khi xưa cũng khuyên con người ta sống cần phải biết "tri túc".
Thực ra, đầy đủ và an nhàn là rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc đời, nhưng
chúng ta không bao giờ đạt được đầy đủ và an nhàn nếu không "biết đủ, biết
nhàn". Có người sẽ cho rằng, như vậy khác chi kìm hãm ý chí phấn đấu muốn
vươn lên làm giầu của con người, vì dường như Phật giáo trái ngược với cái
vật chất, hướng nội trái ngược với hướng ngoại, tinh thần xả trái ngược với
động cơ hành động, lý tưởng cuộc sống xuất gia trái ngược với sự dấn thân
nhập thế. Sự đoạn trừ dục vọng trái ngược với lòng ham muốn. Sự an tịnh nội
tâm trái ngược với nhiệt tình hành động. Thật ra, đó chỉ là cách nhìn hời hợt,
phiến diện. Thực chất Phật giáo là một thể tổng hợp văn hoá, quyết định thái
độ của người này đối với người khác. Phật giáo đề cao cuộc sống đạm bạc, tri
túc, tinh thần vô ngã, sự hi sinh cho lợi ích chung. Theo đạo Phật thì "việc tu
tập, sự điều độ có thể làm cho người ta thoát khỏi những ham muốn vô tận và
bất thiện, và sẽ đưa đến sự kiểm soát sự rắc rối do sản xuất quá mức và tiêu
dùng quá độ. Như vậy, cần tu tập theo bốn nhu yếu ăn, mặc, ở và thuốc men.
Sự tu tập bốn sự điều độ trên mở ra cho tất cả những ai lỗ lực vì an lạc và
hạnh phúc của chính họ" [39, tr.22].
Thực tế hiện nay, con người sử dụng nguyên nhiên liệu và các loại dịch
vụ quá tốn kém, lãng phí. Các công sở hầu như sử dụng điện hết công suất,
nguồn nước nhiều nơi cũng được xả thoải mái đã tạo lên một nghịch lý là nơi
thừa cứ thừa, nơi thiếu cứ thiếu. Vì vậy "trong nền kinh tế thị trường, biện
pháp kinh tế - đạo đức "khổ hạnh, thiểu dục" của Phật giáo là một trong
những lựa chọn khi cần hạn chế hậu quả tiêu cực của cơ chế thị trường" [64,
tr.33], bởi vì nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, nền kinh tế còn nghèo nàn, điểm xuất phát thấp so với nhiều nước trong
khu vực. "Do vậy, biện pháp kinh tế mà chúng ta đang vận dụng vẫn rất gần
với biện pháp "thắt lưng, buộc bụng" mà dân tộc ta đã vận dụng thành công
- 73 -
trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ. Trong cuộc cạnh tranh kinh tế ở bối
cảnh toàn cầu hoá, Việt Nam cần phải lường trước nhiều hậu quả, nên trước
khi thắng cuộc thì biện pháp kinh tế "khổ hạnh, thiểu dục"của Phật giáo vẫn
có giá trị thực tế trong nền kinh tế thị trường" [64, tr.33]. Có câu chuyện kể
rằng: một cô gái sống rất tốt, luôn làm các việc lành nhưng sau khi chết, Diêm
Vương cho đày xuống địa ngục chỉ vì cô gái đó khi còn sống đã ăn tiêu hoang
phí, vô độ. Còn một chàng trai lúc sống tuy có làm một vài việc sai quấy
nhưng biết tiết kiệm nên sau khi chết được đầu thai vào kiếp Người. Câu
chuyện này để răn dạy người đời hãy biết nâng cao ý thức trong việc làm của
mình để sao cho vừa có lợi cho bản thân mà còn có ích cho xã hội. Vậy nên ta
mới thấy thấm thía hơn sự cao cả trong nhân cách Trần Nhân Tông, một ông
Phật bằng xương, bằng thịt giữa đời thường mà ngày nay mọi người cần soi
vào để học tập qua câu thơ của ông:
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền" (Cư Trần Lạc Đạo Phú)
Nền kinh tế thị trường hiện nay mang lại cho chúng ta khá nhiều thời
cơ và điều kiện thuận lợi cho việc tự do phát triển kinh tế, học tập mở mang
trí tuệ. Tuy nhiên, đời sống càng phát triển thì con người càng dễ trở nên sa
ngã. Ngạn ngữ Anh có câu: "The more you have the more you want" nghĩa là
"càng có nhiều, càng muốn nhiều". Phật giáo coi mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường như là "quả báo" của cuộc cạnh tranh, hưởng thụ. Vì thế, người biết
"tu thân" thì mọi chuyện đều tốt đẹp, còn người không biết kiềm chế bản thân
thì sự giầu có khó giữ được lâu và tiền bạc chính là nguyên nhân của sự sa
ngã vậy.
Với thuyết vô thường, vô ngã, Phật giáo muốn đem lại cho các tín đồ
của mình một triết lý sống vị tha, nhân bản. Khi đã thấu suốt được chân lý
này, con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị kỷ mà sống theo tinh thần "từ
- 74 -
bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha", có tinh thần nhân ái, yêu thương mọi người, thông
cảm sâu sắc với những nỗi đau khổ của người khác như nỗi khổ đau của chính
mình, tìm cách giảm nhẹ nỗi đau khổ cho họ.
Trong bối cảnh đồng tiền có sức mạnh dường như có thể làm đảo lộn
luân thường đạo lý thì những điều Phật dạy như không tham ngũ dục (danh
vọng, tiền tài, nữ sắc, ăn, ngủ, nghỉ), phải tiết chế dục vọng làm cho mọi
người sống giản dị, tiết kiệm. Những điều răn đó của đạo Phật có tác dụng
ngăn giữ giúp chúng ta hành động chân chính, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích cộng đồng.
Vấn đề trọng tâm của Phật giáo là "ly khổ đắc lạc", nghĩa là phải tận
diệt những mầm mống nguyên nhân đưa đến đau khổ để thành tựu đời sống
an lạc, giải thoát, chứng được Niết Bàn. Muốn đạt được điều đó, con người
không chỉ có niềm tin tôn giáo, mà còn cả sự phấn đấu nỗ lực của bản thân
bằng cách thực hành một đời sống đạo đức đúng nghĩa. Từ đó Phật giáo đưa
ra những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể để con người tu tập, phấn đấu hướng
đến con đường tâm linh. Đạo Phật đề ra ngũ giới (không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) và thập thiện: ba điều
thuộc về thân (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm): ba điều thuộc
về ý thức (không tham lam, không thù hận, không si mê): bốn điều thuộc về
khẩu (không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không ác khẩu).
Đây thực sự là những nguyên tắc ứng xử tốt giữa người với người, rất có ích
cho việc duy trì đạo đức xã hội hiện nay. Nói như vậy sẽ có người cho rằng,
Phật giáo chỉ thuyết về những điều lý tưởng xa vời bởi sống trong xã hội ngày
nay mà thành thật, ngay thẳng quá thì không làm ăn gì được! Chính xuất phát
từ quan điểm sai lầm ấy mà không ai thành thật với ai cả. Ai cũng bon chen,
muốn dẫm đạp lên vai người khác, cũng tìm cách để lừa dối người khác để
trục lợi cho mình. Trong xã hội mà một người nói dối rồi đến trăm người, vạn
- 75 -
người nói dối, thì xã hội đó bị phủ một lớp sơn hào nhoáng, mặt thật không
dùng mà mặt nạ được ưa với những lời ca tụng, nịnh bợ gây hậu quả khôn
lường. Châm ngôn Trung Quốc nói: "Nếu có lương tâm trong sáng, cả đời bạn
sẽ không phải sợ tiếng gõ cửa lúc nửa đêm". Trình Di lại cho rằng: "Lấy lòng
chân thật cảm động người ta thì người ta cũng lấy chân thật mà đãi lại. Lấy
cách trí thuật cài đạp người ta, thì người ta cũng lấy trí thuật mà xử lại".
Trong đạo Nho, một trong năm đức tính căn bản là lòng tin "Nhân vô tín bất
lập", đó là lời dạy của Khổng Tử. Hạnh phúc gia đình và xã hội không thể có
được trong sự dối trá, nghi ngờ, đố kỵ. Cho nên, ngăn cấm sự dối trá là một
điều cần thiết để nhân loại lần hồi tìm hiểu biết nhau hơn, để xã hội này mọi
người đều hăng hái thi đua, phát triển kinh tế, làm giàu cho bản thân, cho đất
nước nhưng không phải là một cái chợ đời toàn những kẻ buôn gian bán lận.
Khi giữ trọn vẹn được năm giới này cũng có nghĩa là ta đã mang hạnh phúc
và sự an toàn đến cho người khác vì mọi người sẽ không còn lo sợ, e ngại mà
sẽ thấy sự thoải mái khi gần gũi nhau, không phải lo lắng vì hiện tượng trộm
cướp, làm hại hay lừa dối mình. Một xã hội trong đó mọi người sống hài hoà
thân ái như vậy chẳng phải là một xã hội đáng mơ ước hay sao? Nhân sinh
quan Phật giáo, đạo đức Phật giáo đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo
đức cụ thể của cuộc sống thế tục và vì thế nó mang đậm màu sắc nhân văn.
Hiện nay, tình trạng tham ô, hối lộ trộm cắp của công, xâm phạm tài
sản của người khác diễn ra rất nhiều. Chừng nào còn có những cá nhân và tổ
chức tham lam đến mức cắt xén tiền ủng hộ người nghèo, ủng hộ đồng bào lũ
lụt làm của riêng thì việc giáo dục, thực hiện ngũ giới, thập thiện của Phật
giáo sẽ có tác dụng to lớn trong điều tiết hành động của con người cho hài hoà
với nhu cầu của xã hội.
So với thời kỳ nền kinh tế còn tập trung quan liêu bao cấp ta mới thấy
hết được ý nghĩa lớn lao và đáng trân trọng của nền kinh tế thị trường thời mở
- 76 -
cửa, hội nhập. Tuy nhiên, trong mỗi bước đi chúng ta cần thận trọng và kiểm
soát được hành động của chính mình, làm sao để thiết lập và củng cố cuộc
sống lành mạnh của xã hội. Thực tế cho thấy, không phải ngày một ngày hai
có thể giải quyết được những bế tắc về tâm lý, những day dứt, lo âu tinh thần,
xung đột giữa con người với con ngưòi trong xã hội. Vì vậy, các phương pháp
giải toả những bế tắc cho con người của nhà Phật sẽ mãi còn nguyên giá trị.
Có một tu sĩ Phật giáo đề xuất: "Cần soạn ngay những bài kinh ngắn gọn dễ
hiểu từ Tam tạng thánh điển để giới doanh nghiệp ứng dụng và tu tập trong
mọi hoàn cảnh, phát huy thêm nữa vai trò của sách nói và trực tuyến những
buổi giảng trong tuần, tổ chức giao lưu pháp thoại cho nhiều đối tượng" [63,
tr.61]. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, Phật giáo cũng có sự thay đổi
để thích nghi cho phù hợp vì nhà chùa và các sư tăng muốn hoạt động được
(tức là chăm lo về đời sống tâm linh cho dân chúng) thì cần phải có kinh phí
để ăn, ở, sống… Hiện nay, nhu cầu tâm linh của xã hội ngày càng cao, đa
dạng, phức tạp, cho nên "sự tham dự của cơ chế thị trường có lúc đã làm biến
dạng hình thức trao đổi và tác động không ít tới danh dự và đạo đức Phật
giáo" [64, tr.32]. Đâu đó vẫn còn hiện tượng "giả sư", mượn cửa chùa để mưu
cầu lợi ích cá nhân "và một cách không tự giác, nhiều sư tăng đã kiếm thêm
cả các công việc mà trước đó không phải của nhà chùa, như viết sớ, xóc thẻ,
bói toán…" [64, tr.32]. Tuy nhiên, những hiện tượng này không phải diễn ra
phổ biến mà nhìn chung, đạo Phật vẫn phát huy được tính ưu việt, nhân văn
của mình trong đời sống người dân hiện nay.
Vai trò to lớn của những giáo lý, những giới cấm, thuyết nhân quả,
nghiệp báo của nhà Phật trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi người dưới tác
động của nền kinh tế thị trường là không thể phủ nhận. Vậy nên, nếu áp dụng
được những giáo lý đó vào cuộc sống ngày nay thì chắc chắn con người sẽ
- 77 -
sống tự tin hơn, thương yêu, bao dung cởi mở và chân tình với nhau hơn. Đó
thật sự là những điều mà xã hội Việt Nam ta hiện nay rất cần đến.
2.3.3. Đạo đức Phật giáo với vấn đề xây dựng đạo đức mới cho con người
Việt Nam hiện nay
Con người vốn là một loài động vật có sự hiểu biết cao cấp, nhưng sự
hiểu biết đó cần có sự gạn lọc. Thông thường, khi nói đến mối quan hệ giữa
người với người, chúng ta nghĩ ngay đến thái độ cư xử và chính thái độ cư xử
của mỗi người đã nói lên đức tính đạo đức của cá nhân người đó, còn mức độ
cao thấp thế nào là tuỳ thuộc vào các mối quan hệ trong cộng đồng xã hội của
mỗi cá nhân. Do vậy, thông qua cuộc sống hành xử hiện tại, chúng ta có thể
thấy được giá trị đạo đức của mỗi cá nhân trong xã hội ấy.
Người Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn trọng đạo lý, tình người: "trăm
cái lý không bằng một tí cái tình". Vì thế trong cuộc sống họ luôn đề cao cái
tâm, lối sống tình cảm, trọng nghĩa tình: "Một miếng khi đói bằng một gói khi
no", "Lá lành đùm lá rách" giúp nhân dân ta có tư tưởng đoàn kết cùng nhau
vượt qua thời hoạn nạn, thiên tai, địch hoạ. Cuộc sống người Việt cũng
thường chú ý nhiều tới quan hệ họ hàng, làng xóm sao cho khôn khéo, tế nhị.
Theo quan niệm của Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc
bởi năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em,
vua - tôi, bạn bè. Năm mối quan hệ này phản ảnh được hai mặt của cuộc sống
hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối
quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng,
còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Nho
giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức và được pháp luật
ngầm bảo trợ. Trong gia đình vợ chồng phải hoà thuận, chồng xướng thì vợ
phải tuỳ; cha phải hiền từ, biết thương yêu và nuôi dạy con cái; làm con cái
phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; anh em phải
- 78 -
đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi
hỏi trước hết phải có lòng trung thành trong quan hệ vua - tôi và trên dưới.
Người dưới phục vụ người trên phải lấy chữ trung làm đầu. Người trên đối
với kẻ dưới phải lấy chữ nhân để xử. Cái gì mình muốn thì cũng làm hết lòng
cho người khác và ngược lại, cái gì mình ghét thì cũng đừng đem lại cho
người khác. Nho giáo cho rằng, gia đình là một đất nước thu nhỏ, và ngược
lại, quốc gia là một gia đình lớn. Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước
hết cần phải có những gia đình hoà thuận. Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong
gia đình phải biết giữ gìn và tuân theo lễ nghĩa, chỉ có lễ con người mới trở
thành con người xã hội.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể mang ý
nghĩa thực tiễn đối với xã hội hiện đại ở chỗ góp phần duy trì mối quan hệ
lành mạnh của con người và ổn định trật tự xã hội. Song, mặt hạn chế của nó
ở chỗ gò ép con người vào khuôn khổ “tôi - trung” đến mức người dưới
không dám phê bình cái sai của người trên. Thuyết chính danh của Nho giáo
cũng bó chặt con người vì đi kèm với nó là thuyết định phận, định mệnh bởi
Trời. Chủ trương của Nho giáo mang tính thực dụng cốt đem lại lợi ích cho
tầng lớp quí tộc phong kiến. Nó hướng con người ta tuân thủ một cách vô
điều kiện mệnh lệnh của bề trên nhân danh thay trời giáo dưỡng dân ở chính
cái thế giới bên này, mặc dù sự phũ phàng trong cuộc sống con người đang
tiếp diễn do thể chế phong kiến đem lại.
Bù đắp lại mặt hạn chế, khiếm khuyết của Nho giáo, thuyết nhân quả
của Phật giáo khẳng định sự tồn tại của thế giới mai sau mà sự chuyển tiếp
của nó là luân hồi. Tính khả dĩ của việc tái sinh vào con đường được trở lại
làm người trong Lục đạo theo Phật giáo đã thường xuyên nhắc nhở con người
sống thiện, hành thiện để kiếp sau nỗi khổ không bị chồng chất thêm.
- 79 -
Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài
những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng còn đề cập đến
những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân bản như sống hiếu thảo với cha
mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác. Những nội dung
đạo đức cơ bản và phổ quát có thể tìm thấy ở nhiều tôn giáo, trong đó có Phật
giáo. "Nét lớn trong đạo đức Phật giáo chính là kêu gọi tình thương giữa
người với người, cụ thể nhất và gần gũi nhất là cha mẹ, anh chị em, chồng vợ,
con cái… và mở rộng ra là đối với đồng loại, muôn loài" [36, tr.204]. Có thể
khẳng định giữa đạo Phật có mảng đạo đức mang tính đặc thù và có sự giao
thoa với những giá trị đạo đức của con người Việt Nam ta hiện nay. Nhân
sinh quan Phật giáo với những yếu tố tích cực có những đóng góp nhất định
trong xã hội, là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền đạo đức
xã hội. Đạo Phật có sự đồng hành lâu dài với loài người xuyên suốt lịch sử.
Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã hoà nhập và
ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đạo
đức, lối sống của mỗi cá nhân và xã hội.
Trong xã hội hiện nay, gia đình là tế bào của xã hội nhưng tình cảm gắn
bó giữa các thành viên lại trở nên mong manh, dễ vỡ bởi những yếu tố mặt
trái của cơ chế thị trường chi phối. Nhiều trường hợp vì đồng tiền mà anh em
đâm chém nhau, vợ chồng ly tán, những mối tình ngoài hôn nhân, có con
ngoài giá thú. Vì đồng tiền mà mẹ đẻ cam tâm bắt con gái bán dâm ở tuổi vị
thành niên, v.v. Xu hướng hội nhập và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
là không thể đảo ngược. Những hiện tượng tiêu cực nêu trên sẽ có cơ bùng
phát, phổ biến trong xã hội nếu không có những giải pháp thích hợp nhằm
duy trì các giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời xây dựng đạo đức mới cho
con người cho phù hợp với xu thế phát triển hiện đại.
- 80 -
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn của nước ta, có tác dụng
"chuyển mê khai ngộ" với con người. Nhân sinh quan Phật giáo nói chung và
đạo đức Phật giáo nói riêng chứa đựng những yếu tố tích cực, nhân bản có vai
trò và ảnh hưởng rất lớn không chỉ đối với sự hình thành và phát triển đạo đức
cá nhân của con người Việt Nam hiện nay (quan hệ chồng vợ, về bổn phận
đền đáp ân nghĩa sinh thành, dưỡng dục của con cái đối với ông bà, cha mẹ),
mà còn đối với cả đạo đức xã hội (vấn đề ứng xử giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội).
Thứ nhất: Là người Việt Nam, ngay từ khi mới cất tiếng khóc chào đời,
không ai trong chúng ta lại không biết đến những câu ca dao:
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Nội dung ca dao trên đây thoạt đầu chỉ mang nội dung “kính - hiếu”
của Nho giáo, song trên thực tế cuộc sống, Phật giáo cũng đưa ra những lời
răn dạy tương tự. Phật giáo đã định ra ngày lễ Vu Lan để giới phật tử có cơ
hội thực tri ân công lao cha mẹ, thể hiện tình thương kính của con người trong
cõi trần gian bởi chân lý không bao giờ thay đổi là không có cha mẹ sinh
thành và dưỡng dục thì không thể có chúng ta. Qua ngày lễ Vu Lan, người
Việt đã nâng tình thương, lòng từ bi trở thành triết lý sống. Dân gian Việt
Nam đã ví cha mẹ như là "Phật ở trong nhà" một cách tha thiết. Tinh thần từ
bi, hỷ, xả của đạo Phật gắn bó bền vững với tâm thức dân tộc. Tình yêu
thương đó đã gắn kết mọi người để vượt qua khổ đau, bất hạnh. Chỉ có
thương yêu mới mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Tình thương và
lòng nhân ái sẽ giúp con người từ bỏ dần tính ích kỷ, từ bỏ lòng tham lam, sự
sân hận và từ đó cũng diệt trừ được tam độc (tham, sân, si) mà theo đạo Phật
- 81 -
chính là cội rễ nẩy sinh sự xung đột, chiến tranh, bạo hành trong xã hội.
Thương người là đạo lý cơ bản nhất để làm người. Đạo Phật và dân tộc ta có
mùa xá tội nhằm chuyển tải những thông điệp yêu thương giữa người với
người, giữa cha mẹ và con cái và sự đền đáp tưởng nhớ công ơn của con cái
đối với cha mẹ, chia sẻ với những linh hồn bơ vơ không nơi nương tựa.
"Tháng bảy ngày rằm xoá tội vong nhân", đó là ngày của những tiếng gọi
thiết tha nhất khơi dậy tình thương yêu trong mỗi con người. Có ngày rằm này
mà bao người con xa quê hương trở về đoàn tụ sum họp bên gia đình, thâm
quyến, khi đó chúng ta mới thấy hết được sự đầm ấm bên người thân, cùng
nhau thắp nén nhang để tỏ lòng thành kính ông bà tổ tiên và cầu mong cho
những linh hồn ở thế giới bên kia được giải oan, xá tội. Trong "Mười bốn điều
răn của Phật" có điều Phật răn rằng: "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất
hiếu". Nếu như không có cha mẹ thì làm sao có ta trên cõi đời? Người nào
quên đi bậc sinh thành ra chính mình thì người đó không thể tiến bộ được
trong cuộc đời. Những người con bất hiếu chỉ nhìn thấy cái trước mắt và họ
không hiểu được nỗi niềm và tình cảm của cha mẹ họ. Sau này nếu con cháu
họ đối xử với họ cũng như vậy thì họ sẽ cảm nhận thế nào là tội lỗi, lúc đó
mới thấm thía rằng: "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ". Thuyết nhân quả
của nhà Phật càng đúng hơn bao giờ hết bởi vì ta đối xử với cha mẹ như thế
nào thì sau này con ta sẽ đối xử với ta như thế. Đây là một quy luật, một lẽ
đời xưa nay không đổi. Ngày nay "Mười bốn điều răn của Phật" được rất
nhiều gia đình treo ở tường nhà, có thể cách thức đó ít nhiều tác động nhắc
nhở mọi người hãy đối xử với cha mẹ tử tế hơn.
Tuy nhiên, cũng cần phải đặt lại vấn đề về quan hệ của cha mẹ đối với
con cái trong gia đình Việt Nam hiện nay. Dù là số ít, chưa tới mức báo động
về hành vi ngược đãi con cái, song cần phải chú trọng nhiều hơn đến thế hệ
tương lai của từng gia đình và xã hội. Vì lẽ đó, trong quan hệ qua lại giữa cha
- 82 -
mẹ và con cái, đạo đức Phật giáo không chỉ đưa ra nghĩa vụ làm con phải thế
nào đối với cha mẹ mà còn đề ra trách nhiệm của bậc làm cha mẹ đối với con
cái. Cái nhà muốn vững thì cái móng phải chắc, muốn con cái chăm ngoan,
hiếu thuận thì cha mẹ phải nhu hoà, đúng mực, có trách nhiệm nuôi nấng và
dạy dỗ con cái thành người và phải là tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Những lời dạy của Đức Phật mãi mãi có ý nghĩa không chỉ trong thời đại xưa,
nay mà còn mãi về sau.
Để xây dựng được nếp sống gia đình hạnh phúc ngoài mối tương hệ
giữa cha mẹ và con cái, Đức Phật còn chỉ ra mối tương hệ giữa vợ và chồng.
Chồng đối với vợ phải: thương yêu vợ, trung thành với vợ, săn sóc đời sống
vật chất cho vợ, kính trọng gia đình vợ. Ngược lại, vợ đối với chồng cũng
phải: thương kính chồng, trung thành với chồng, quản lý gia đình tốt, siêng
năng làm việc, đối đãi với gia đình chồng và bạn bè của chồng.
Đã một thời xã hội Việt Nam ta rất trọng cách học từ chương. Cái gì đã
in trong kinh sách của thánh hiền thì được coi là chân lý, cấm phản bác, bàn
bạc. Người phụ nữ theo quan điểm của Nho giáo không bao giờ được quyền
quyết định gì hết: "Xuất giá tòng phu, tại gia tòng phụ, phu tử tòng tử". Người
phụ nữ phải tuân thủ theo những quy định hết sức khắt khe, còn người đàn
ông, người chồng thì không phải chịu những sự ràng buộc như vậy. Quan
điểm của Nho giáo có điểm tốt là đề cao đức hạnh, phẩm giá, những quy tắc
ứng xử đúng trật tự, lễ nghi của con người, nhưng xét một cách khách quan
thì những quy định ấy quá khắt khe, cứng nhắc không thể phù hợp với quy
luật tình cảm - lĩnh vực tinh tế và mềm dẻo của con người. Trong Phật giáo
"ta thấy một hệ thống đạo đức toàn diện và một lý thuyết siêu hình, siêu việt
bao gồm một tâm lý cao thượng. Nó thích hợp cho mọi tầng lớp, với những
người bình dị, nó cung cấp một qui tắc luân lý, một sự thờ phượng đẹp đẽ và
một niềm hi vọng một cuộc sống tại thiên đường, với những người nhiệt tình
- 83 -
sùng đạo, nó là một hệ thống tư tưởng trong sạch, một triết lý cao thượng và
những lời giáo huấn về đạo đức đưa đến giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau"
[45, tr.98 - 99]. Chúng tôi cho rằng, quan điểm trên là hết sức chủ quan, mang
tính tuyệt đối hoá đạo đức Phật giáo. Đạo đức con người không phải từ trên
trời rơi xuống, không phải sự tiền định, mà do các quan hệ xã hội qui định.
Các quan hệ xã hội, xét bản chất của nó, là do con người kiến tạo nên, do đó
con người trong hoạt động thực tiễn của mình cũng cần có sự điều chỉnh để
tránh mọi hiện tượng cực đoan, bất cập.
Tuy nhiên, nếu đem so sánh với các học thuyết tôn giáo triết học khác,
chẳng hạn như với Nho giáo, thì tinh thần bình đẳng giữa mọi người, mọi
giới, không phân biệt nam, nữ, trẻ, già, người trên kẻ dưới trong giáo lý nhà
Phật được đề cập một cách cụ thể hơn, rộng lượng hơn. Nó góp phần không
nhỏ vào việc ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình. Đức Phật cho rằng:
"Trong mỗi người đều có Phật tính". Song, để “thấy tính Phật” không hề đơn
giản. Muốn đạt được điều đó, tức đạt đến giác ngộ, giải thoát, con người phải
dày công tu luyện mà trước hết là tinh thần tu dưỡng đạo đức, phải tránh được
tam độc, noi theo tam học. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của
chúng ta đã nói về hành vi đạo đức của con người như sau:
"Hiền dữ đâu phải do tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Như vậy, vai trò và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức
cá nhân con người được thể hiện rõ nét ở phương diện thực hành đạo đức. Lý
thuyết của nhà Phật về giáo dục đạo đức cũng đóng vai trò là con thuyền đưa
mỗi cá nhân vượt qua sóng gió để đến bờ hạnh phúc (đáo bỉ ngạn). Vấn đề là
mỗi cá nhân con người có nhận thấy được sự cần thiết của việc xây dựng đạo
đức để góp phần làm lành mạnh hoá cuộc sống của bản thân trong cộng đồng
xã hội hay không mà thôi.
- 84 -
Thứ hai: Về đạo đức xã hội - vấn đề ứng xử giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên và xã hội.
Cuộc sống của con người xét trong quan hệ của nó với người khác, với
tự nhiên và xã hội là vô cùng rộng lớn, nhưng tất cả đều được bắt đầu từ mối
quan hệ Nhà (gia đình) - Làng - Nước trong truyền thống và ngày nay, cần
phải bổ sung một yếu tố mới, đó là Quốc tế. Mặt khác, tại mỗi cấp độ quan hệ
còn có một tham số quan trọng quyết định sự tồn tại của cá nhân con người và
xã hội - đó là tự nhiên. Giáo lý của nhà Phật mà nội dung cơ bản của nó là đạo
đức không có gì khác ngoài việc góp phần nhân đạo, nhân văn cho các mối
liên hệ tình cảm đó gắn bó, keo sơn.
Con người ta khi sinh ra và lớn lên dù giầu có bao nhiêu về tài sản cũng
không thể "thân cô, thế cô" giữa cuộc đời mà không cần ai hết. Vì lẽ đó trong
mối tương hệ giữa anh em, bà con láng giềng, và xa hơn nữa là với những
cộng đồng lớn hơn, nhà Phật khuyên chúng ta cần phải biết giữ tình cảm thuỷ
chung, không bỏ nhau khi khó khăn, giúp đỡ nhau khi ốm đau, hoạn nạn. Khi
đã có diễm phúc được sinh ra làm người trên cõi đời này thì không kể tăng
hay tục, cần phải thiết lập cho mình một mối tương hệ tốt với anh em, bà con
láng giềng. Cuộc sống như vậy mới tìm được ý nghĩa đích thực, trọn vẹn. Vì
chính thông qua mối quan hệ ấy thì lòng yêu thương, tình cảm, tình người
mới được sẻ chia, đồng cảm. Từ đó, con người mới tin yêu, đoàn kết và gắn
bó với nhau hơn. Một thôn, một huyện, một tỉnh, mở rộng ra là cả xã hội làm
được như vậy thì trật tự đạo đức của xã hội ta sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu, hoà ái
biết bao nhiêu!
Có thể thấy, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, những mánh
lới làm ăn của những người kém đạo đức đã dùng mọi thủ đoạn lừa đảo người
khác, lừa đảo cả các cơ quan công quyền để trục lợi. Năm nay, nhân ngày
mồng 1 tháng Tư, ngày mà thế giới phương Tây gọi là ngày “nói đùa”, còn ở
- 85 -
Việt Nam gọi là ngày “cá”, một số bloge đã viết những bài thu hút người đọc
và tranh luận về chủ đề: có nên tạo ra một ngày nói thật cho Việt Nam hay
không? Thiết nghĩ, đây cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh mọi người về tư cách
đạo đức đang suy giảm nghiêm trọng, khi con người sống với nhau không biết
tin vào ai. Trước tình hình đó, chúng ta lại liên tưởng đến lý luận giải thoát
của Phật giáo trong “Bát Chính đạo”, ở đó chứa đựng ba điều giới quan trọng
là Chính ngữ, Chính mệnh và Chính nghiệp mà ở chương 1 chúng tôi đã khái
quát nội dung cơ bản của những khái niệm này.
Chúng ta đang xây dựng một xã hội học tập để đào tạo ra nguồn nhân
lực vừa hồng vừa chuyên cho sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Song xã hội học tập như vậy không được bắt đầu từ việc
giáo dục gia đình, tiếp đến là giáo dục xã hội (trường lớp và các tổ chức xã
hội khác) thì số người dối trá, lừa đảo ngày càng làm vẩn đục, ô nhiễm môi
trường sống của cộng đồng. Trong các loại toà án đang hoạt động hiện nay,
không có toà án nào vượt lên được toà án lương tâm được thiết lập trên tính tự
trọng, tính nhân đạo, nhân văn của con người, ở đó yếu tố tâm lý, tình cảm
chiếm địa vị thống trị. Đạo đức Phật giáo không nghi ngờ gì nữa, đã đóng vai
trò quan trọng trong việc thức tỉnh trong lương tâm, lương tri con người bằng
giáo lý đạo đức và răn đe về một toà án hà khắc ở thế giới bên kia.
Thêm nữa, giáo pháp của Phật chỉ dạy rất nhiều, nhưng nội dung đạo
đức cơ bản của nó được xây dựng trên nền tảng của Tứ diệu đế. Đức Phật dạy
rằng: "Đời là bể khổ". Nói khổ ở đây không có nghĩa là để người ta chán nản,
thở than mà để nhắc nhở mọi người hãy thương yêu nhau hơn, giúp đỡ nhau
và đừng gây khổ thêm cho nhau nữa. Con người ta sinh ra đã phải mang bao
nỗi khổ: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ. Khi con người nhận thức được
Tứ diệu đế của nhà Phật cũng có nghĩa là đã đạt tới Chính kiến, nhờ đó con
người không bị vô minh, vật dục che lấp, tinh thần không mắc phải phiền
- 86 -
muộn. "Việc diệt khổ này đòi hỏi một trách nhiệm về đạo lý làm người. Trước
hết, con người cần phải trau dồi, rèn luyện đạo đức của chính mình. Hành vi
đạo đức của con người thể hiện trong việc "cứu khổ, cứu nạn" cho người
khác, không làm ngơ trước nỗi khổ của người khác, hướng con người vào một
nếp sống trong sạch, lành mạnh, vị tha" [36, tr.216]. Nếu mỗi người đều thấm
nhuần được Tứ diệu đế của nhà Phật và áp dụng vào cuộc sống thì chắc chắn
xã hội này sẽ càng trở nên tốt đẹp, tránh được bao rắc rối tham, sân, si đem
lại. Chỉ có những ham muốn vô lý và thái quá mới làm chúng ta đau khổ
trong thế giới vô thường. Áp dụng triệt để luật vô thường vào việc phân tích
con người, Phật giáo cho rằng người là kết hợp động của năm yếu tố - ngũ
uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức). Con người không có cái gọi là bản ngã mà
là vô ngã. Cách nhìn này đã khiến con người sống một cách không lo sợ và vị
tha hơn. "Một khi chúng ta đã thông suốt và loại bỏ khái niệm về cái Ta,
chúng ta sẽ vượt qua được ước vọng và sợ hãi. Chúng ta có thể coi xét hạnh
phúc và khổ đau, khen và chê và tất cả những điều còn lại khác bằng sự bình
thản tinh thần. Chỉ lúc ấy, chúng ta sẽ không còn bị lệ thuộc vào sự chao đảo
giữa ước mong và sợ hãi" [57, tr.167]. Vì hiểu được rằng con người sinh ra từ
cát bụi rồi cuối cùng cũng trở về với cát bụi cho nên nhiều người có tư tưởng
trước khi chết họ muốn làm một điều gì có ích cho đời, họ tình nguyện hiến
giác mạc cho người mù hoặc hiến một bộ phận cơ thể của mình cho việc
nghiên cứu của y học. Tư tưởng "sống gửi, thác về", "chết không phải là hết"
đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người. Chính quan điểm này cũng giúp họ
sống tốt hơn ở hiện tại.
Chúng ta biết rằng, cạnh tranh là một nguyên tắc trong xã hội, đồng
thời là thuộc tính của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, phương pháp và mục đích của
từng người, từng nhóm người lại không giống nhau. Dù thế nào đi nữa, cạnh
tranh là vấn đề nhạy cảm, dễ bị đẩy lên tầm thái quá làm tổn hại đến các quan
- 87 -
hệ xã hội. Để phòng và chống sự cực đoan trong cạnh tranh, đặc biệt trong cơ
chế kinh tế thị trường hiện nay, quan điểm Lục hoà của nhà Phật có thể phát
huy được tác dụng trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh lành mạnh. Hoà
là sự hoà hợp trong sự khác biệt của các cá nhân với nhau để sống cho tốt đẹp
hơn, vì vậy cổ nhân thường nói: "Dĩ hoà vi quý!". Dân gian ta tổng kết:
"Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn". Nho giáo nói "Thiên thời,
địa lợi, nhân hoà". Như vậy ở đây chúng ta thấy có sự tương đồng giữa Nho
giáo, Phật giáo và dân gian Việt Nam. Chữ Hoà trong đạo Phật là lời khuyên
có tính cách luân lí và được dựa trên một căn bản triết lý rất vững chắc và sâu
rộng. Chữ Hoà ấy được dựa trên căn bản trí tuệ, trên sự bình đẳng tuyệt đối
của Phật tính. Bởi vì bình đẳng càng triệt để thì hoà càng sâu rộng, vững chắc.
Xét theo mọi triết lý đạo đức, tôn giáo thì giáo lý đạo Phật là một giáo lý đề
cao tinh thần bình đẳng hơn cả. Ngài dạy: "Không có giai cấp trong nước mắt
cùng mặn, trong dòng máu cùng đỏ như nhau". Theo quan điểm của nhà Phật
thì chữ Hoà được đặt trên nền móng bình đẳng tuyệt đối nên không ai có thể
tự bào chữa cho bản thân hay viện ra bất kì một lý do nào để gây ra sự bất
hoà, sự xung đột, sự tranh chấp với mọi người. Mặt khác, chữ Hoà của đạo
Phật còn dựa trên căn bản của từ bi. Tình thương có thể giải quyết mọi vấn đề
dù khó khăn đến đâu. Một xã hội thiếu tình thương thì xã hội ấy sẽ là mảnh
đất tốt cho những mầm mống bất hoà, tranh chấp, chia rẽ. Vì vậy, tình thương
càng rộng, càng sâu thì Hoà càng lâu bền vững chắc. Cái Hoà của đạo Phật
không phải là một sự bắt buộc, dựa trên uy quyền hay một lời khuyên suông,
mà là một thứ hoà chân thành, vì lợi ích và mục đích cao đẹp cho tất cả chúng
sinh. Các thành viên trong xã hội khi thực hiện Lục hoà sẽ không ai còn lo
lắng cho riêng mình, kiếm lợi cho riêng mình và rốt cuộc, là một sự liên thông
trách nhiệm, bổn phận và lòng thương người. Trong xã hội ngày nay nếu
chúng ta xác lập được một sự cân bằng giữa xã hội và cá nhân thì đó chính là
- 88 -
hạnh phúc của số đông trên nền hạnh phúc cá nhân. Nhưng hạnh phúc nào
cũng không thể xây dựng trên lòng ích kỉ và bất nhân, cho nên Lục hoà trở
thành cốt lõi cho tiến trình xây dựng đạo đức, đem lại hạnh phúc cho toàn xã
hội. Tư tưởng về Lục hoà là một trong những cách thức xây dựng cuộc sống
tự tại, an nhiên. Đó cũng là phương thuốc giúp con người trở về với "Bản lai
diện mục" của chính mình.
Về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, Đức Phật đề cập đến
mười hai yếu tố giúp con người đạt được hạnh phúc, trong đó có yếu tố "sống
hoà hợp với thiên nhiên" được đề cao, bởi vì thiên nhiên là cuộc sống vô tận,
có công năng nuôi dưỡng thân thể và sự sống của chúng ta. Sống hoà hợp và
bảo vệ thiên nhiên chính là bảo vệ hạnh phúc của chúng ta và thế hệ sau này.
Thiên nhiên và con người luôn tương tác qua lại, nhưng môi trường sống tự
nhiên của chúng ta hiện nay lại có quá nhiều vấn đề bất cập, nó đe doạ sự tồn
vong không phải riêng ai mà tất cả mọi người: các chất phóng xạ, các khí đốt,
cháy rừng, tai nạn giao thông, nguồn nước ô nhiễm. Chính thiên nhiên đã hàm
dưỡng, nuôi lớn con người, bản thân nó có khả năng tự điều chỉnh, điều hoà
kỳ diệu, nhưng con người lại phá huỷ thế cân bằng của tự nhiên, dẫn tới sự
huỷ diệt sự sống của chính mình. Đó là hậu quả của sự sống thiếu trách nhiệm
đối với môi sinh của con người dẫn tới sự huỷ diệt loài người trong tương lai
gần. Thiên tai, dịch bệnh, động đất, sóng thần, nước lũ đang diễn ra khắp nơi
trên thế giới. Việt Nam ta mỗi năm tính sơ qua có biết bao trận lũ lụt lớn,
cướp đi sinh mệnh quá nhiều người cùng với những thiệt hại về vật chất thì
không kể hết. Hậu quả của nó xuất phát từ lòng tham lam ích kỷ của các cá
nhân vô đạo đức. Xuất phát từ tư duy hữu ngã của con người mà môi trường
sống của cả loài người bị mất cân bằng và điều đó gây hại cho tính mạng con
người, trong đó có bản thân họ và con cháu họ phải gánh chịu hậu quả không
lường về sau. Một triết lý giải thoát và con đường giáo dục vì môi sinh là rất
cần thiết cho xã hội ngày nay nhằm tái lập môi trường sống tự nhiên. Giáo
- 89 -
dục con người nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa con người và môi
trường sinh thái thông qua giáo lý duyên sinh và thân năm uẩn: Tạo nhận thức
cho con người thiết lập ý thức bảo vệ môi sinh một cách tích cực. Chính xuất
phát từ tư duy hữu ngã của con người nên ai cũng muốn ôm vào mình thật
nhiều. Đó cũng là nguyên nhân gây ra khổ đau trực tiếp hay gián tiếp cho bản
thân và người khác. Chỉ đến khi nào mỗi chúng ta ai cũng nhận thức được
rằng, giữa con người và thiên nhiên có mối liên hệ mật thiết thống nhất hữu
cơ với nhau thì con người mới yêu và bảo vệ môi trường một cách thiết thực.
Một trong năm giới của nhà Phật là cấm sát sinh. Trong bối cảnh hiện nay ta
mới thấy hết được ý nghĩa lớn lao của nó. Thật khó để mỗi bữa cơm trong gia
đình Việt Nam ta hiện nay mà thiếu món ăn từ thịt các con vật, nhưng cũng vì
nhu cầu đòi hỏi quá cao của mức sống ở một số người khá giả mà biết bao
động vật quí hiếm đã bị tàn sát không thương tiếc, dẫn đến nguy cơ bị tiệt
chủng. Bọn lâm tặc thì ngày đêm hoành hành đốn gỗ chặt cây không thương
tiếc. Thay vì phải yêu quí và bảo vệ thiên nhiên, con người lại đang tâm tàn
sát muông thú, cỏ cây để mỗi khi lũ lụt xẩy ra, tốc độ xói mòn của dòng nước
lũ đã cuốn phăng biết bao làng mạc, vùi lấp biết bao gia đình do núi sạt lở.
Khi giảng về "Nhân quả giầu và nghèo" Thượng Toạ Thích Chân Quang cho
rằng, nếu mỗi người tự trồng cho mình một cây xanh tức là đã tạo cho mình
"nghiệp giầu" và ông đã lấy ví dụ: "Có một anh chàng miệt mài trồng rừng và
anh ta thấy tự nhiên mình cứ giàu nên một cách kì lạ, mặc dù cái giàu đó
không phải bằng con đường trồng rừng mà bằng những con đường khác vì từ
đó vợ anh ta buôn bán rất phát tài. Từ đó anh ta càng hăng hái trồng rừng làm
cho gia đình anh ta càng ngày càng giàu lên"[52].
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ văn minh, điều đó đòi hỏi mỗi cá nhân, tổ chức phải xác
định rõ vai trò chủ thể đạo đức của mình. Gia đình là tế bào của xã hội, muốn
cho xã hội tốt đẹp thì trước hết mỗi gia đình phải hoà thuận, yên vui. Dựa trên
- 90 -
sự bình đẳng tuyệt đối, Đức Phật đã đưa ra những nguyên tắc ứng xử giữa cha
mẹ - con cái; vợ - chồng, thầy - trò; chủ - thợ… ở đó chữ Hoà được đặc biệt
đề cao đã làm nổi bật lên tư tưởng bác ái, bình đẳng, vị tha thấm đậm tình
người của đạo đức Phật giáo. Nho giáo chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa
người với người, còn Phật giáo ngoài mối quan hệ giữa người với người còn
chỉ ra được mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, kêu gọi mọi người hãy
đối xử đúng mực với thiên nhiên vì con người với thiên nhiên là một thể
thống nhất. Tư tưởng này đã được Đức Phật đưa ra cách đây hơn 2500 năm,
và đến thời đại ngày nay càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
Hiện nay, tình trạng đốt vàng mã diễn ra khá phổ biến, Người ta tốn rất
nhiều tiền của vào việc mua hàng mã (ti vi, tủ lạnh, ô tô, quần áo, tiền âm
phủ, thậm chí cả thẻ bảo hiểm) để đốt cho người đã khuất. Đây thật sự là
những việc làm đi ngược lại với giáo lý nhà Phật, bởi Phật giáo đòi hỏi sự
thành tâm, cái tâm trong sáng biết hướng tới sự hành thiện trong cuộc đời trần
tục để được giải thoát, chứ không phải sự mặc cả, đánh đổi.
Gần đây có một thực tế gây rất nhiều bức xúc trong dư luận, một số
người đi chùa với những hình thức "lễ Phật" đã bị biến chất. Họ sắp lễ cúng
Phật với nhiều đồ ăn mặn (cả con gà và giò lụa) rồi kẹp tiền vào đó. Đây thực
sự là một hình thức "hối lộ, đút lót Phật" làm ô uế chốn linh thiêng.
Trước cổng chùa người ta bày bán đủ loại sách tử vi, cúng sao, giải hạn
không có nguồn gốc xuất sứ, làm mê hoặc quần chúng. Lợi dụng lòng tốt của
khách đến chùa, một số người trẻ tuổi, lành lặn nhưng lười lao động ngồi
ngang dọc ăn xin, gây mất mỹ quan, nghiêm trang nơi cửa Thiền và làm phiền
du khách thập phương. Ngay tại cửa chùa những hiện tượng móc túi, lừa đảo
diễn ra khá nhiều. Chùa nào cũng trang bị thùng rác nhưng vẫn có một số
người xả thức ăn và túi đựng đồ bừa bãi lên các sân cỏ hay dọc lối đi gây ô
nhiễm môi trường.
- 91 -
Đâu đó vần còn một số quan điểm cho rằng, Phật giáo là bi quan yếm
thế, Phật giáo là tôn giáo dành cho những kẻ chán đời. Đây là những quan
điểm sai lầm, vì bi quan hay lạc quan là do thái độ sống của mỗi người quyết
định. The Great Khan Mongka đã từng khẳng định: "Một số người nghĩ rằng
Phật giáo là một tôn giáo đen tối và buồn chán. Đó là một nhận xét sai lầm,
Phật giáo sẽ làm cho tín đồ của mình sáng rạng và vui tươi" [59, tr.245].
Trên đây là một số hạn chế còn tồn tại cần có sự góp sức chung lòng
của tất cả mọi người để đạo pháp và dân tộc được gắn bó hài hoà, cùng phát
triển. Các cơ quan chức năng cần có những biện pháp hợp lý, kịp thời ngăn
chặn các tệ nạn trên nhưng có lẽ tốt hơn hết vẫn là việc tìm nhiều cách khác
nhau để nâng cao trình độ dân trí và đời sống vật chất cho người dân. Vấn đề
xây dựng đạo đức mới phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện đại
đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong xã hội phương Tây, nơi Thiên
Chúa giáo chiếm vị trí gần như độc tôn trong đời sống tinh thần xã hội, nhiều
nhà bác học, đông đảo giới trí thức cũng đi lễ ở nhà thờ, song không vì thế mà
khoa học của họ, đời sống văn hoá của họ bị kém và lạc hậu. Chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm vô thần của chủ nghĩa Mác, song chủ
nghĩa vô thần mà những nhà sáng lập đưa ra dường như bị hiểu sai và từ đó
gây ra sự kỳ thị đối với các tôn giáo.
Theo quan điểm của chúng tôi, xây dựng đạo đức mới là xây dựng lối
sống có đạo đức, có văn hoá cho con người Việt Nam hiện đại. Lối sống ấy
cần phải kế thừa những yếu tố tích cực, nhân bản của Phật giáo và một số tôn
giáo khác, đồng thời phải cương quyết gạt bỏ những mặt hạn chế, kể cả những
hạn chế phát sinh do hiện tượng tiêu cực gây ra trong sinh hoạt tôn giáo. Xã
hội mà chúng ta đang xây dựng là xã hội văn minh, có nền khoa học và công
nghệ hiện đại, do đó con người trong xã hội ấy phải có lối sống tương xứng,
phải có thái độ ứng xử thông minh, lành mạnh. Những tệ nạn xã hội làm suy
giảm đạo đức con người cần phải bị lên án và ngược lại, những yếu tố tích
- 92 -
cực của đạo đức Phật giáo cần được phổ cập, giáo dục cho con người khi còn
chập chững bước vào đời.
- 93 -
KẾT LUẬN
Đạo Phật truyền vào nước ta từ những năm đầu Công nguyên bằng hai
con đường: Đường thuỷ thông qua việc buôn bán với thương gia Ấn Độ và
đường bộ qua giao lưu văn hoá với Trung Quốc. Đạo Phật đến với nước ta
bằng con đường hoà bình, giáo lý của Phật giáo lại chuyển tải tư tưởng bình
đẳng, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, gần gũi với tín ngưỡng, văn hoá Việt Nam nên
được người dân Việt Nam dễ dàng chấp nhận.
Tư tưởng, văn hoá, đạo đức Phật giáo đã bám rễ và ảnh hưởng sâu sắc
đến đạo đức con người và xã hội Việt Nam.
Văn hoá tinh thần và đạo đức truyền thồng Việt Nam luôn lấy Chân -
Thiện - Mỹ làm thước đo giá trị đạo đức con người Việt Nam, luôn đề cao các
giá trị tốt đẹp, nhân ái, tình người. Phật giáo là tôn giáo của giải thoát, luôn đề
cao tinh thần bình đẳng, trí tuệ, bác ái, từ bi. Những điểm này rất phù hợp với
đời sống văn hoá truyền thống của người Việt Nam xưa và nay. Phật giáo lấy
con người là trọng tâm, thấu hiểu được nỗi khổ của con người và chỉ ra con
đường giải thoát khỏi vòng trầm luân biển khổ. Bằng chủ trương cứu nhân độ
thế, từ bi, hỉ, xả, vô ngã, đạo Phật hướng con người tu tập nhân tâm, vượt qua
mọi cám dỗ để hoàn thiện nhân cách. Để giáo dục con người, đạo Phật đã đưa
ra bốn chân lý kỳ diệu (Tứ diệu đế), chỉ rõ căn nguyên của khổ đau là do tham
sân, si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định con
đường diệt khổ là khả dĩ để đi đến Niết bàn (Nirvana) bằng "Bát chính đạo"
(Tam học). Nhà Phật còn đưa ra thuyết nhân quả luân hồi, nghiệp báo đầy sức
thuyết phục cùng những chuẩn mực đạo đức ngũ giới, lục hoà, lục độ, thập
thiện, các cặp phạm trù thiện - ác, đức tính tàm quý để hướng con người đến
nếp sống thiện lành, xa cái ác. Phật giáo hướng con người tới lối sống biết
cảm thông, hỷ xả và hoà mục, dạy con người biết sống vì người khác. Đây là
- 94 -
động lực thúc đẩy các hành vi hướng thiện của con người, tiến tới xây dựng
một xã hội có cuộc sống lành mạnh.
Ngay từ thời du nhập, Phật giáo tiếp xúc với nền văn hoá bản địa với
tinh thần dung hoà, không độc tôn, loại trừ. Qua thời gian, Phật giáo đã xác
lập được vị trí của mình trong lòng dân tộc, luôn song hành cùng vận mệnh
đất nước. Đất nước hưng thịnh thì Phật giáo hưng thịnh, đất nước suy vi thì
Phật giáo cũng suy vi. Mọi hoạt động của Phật giáo Việt Nam luôn xuất phát
từ lợi ích của dân tộc, Tổ quốc và cuộc sống nhân sinh. Nếp sống của dân tộc
Việt Nam đã thấm nhuần sâu sắc tinh thần đạo đức của Phật giáo. Trải qua
thời gian dài, qua thời Đinh - Lê - Lý - Trần, Phật giáo đã để lại dấu ấn quan
trọng không chỉ về phương diện tôn giáo học, mà cả những tấm gương đạo
đức sáng ngời của các thiền sư, các nhà vua chân tu cũng như Phật Hoàng.
Đây cũng là bốn triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, ở
đó Phật giáo rất được coi trọng, đặc biệt là triều đại Lý - Trần. Các vị thiền
sư, Pháp sư đã cùng thần dân trăm họ phò tá triều đình, xây dựng xã tắc trên
nền tảng tư tưởng giáo lý nhà Phật.
Qua thời gian, đạo Phật luôn thể hiện tinh thần nhập thế, phụng sự cho
đời sống xã hội. Qua đó, Phật giáo đã thể hiện rất rõ tinh thần tự lực, tự cường
cùng với các yếu tố bản địa tạo lên truyền thống yêu nước quí báu. Trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Phật giáo Việt Nam luôn đồng
lòng chung sức tham gia đấu tranh chống lại thực dân đế quốc để giành và giữ
độc lập cho dân tộc.
Đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, đạo Phật lại đồng hành
cùng dân tộc, tạo lên một sức mạnh mới trong khối đại đoàn kết toàn dân với
phương châm "Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội".
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo tới đạo đức con người Việt
Nam hiện nay trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- 95 -
có ý nghĩa rất quan trọng. Nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy sản xuất phát
triển và đời sống xã hội được nâng cao rõ rệt, đồng thời cũng làm nảy sinh
những hiện tượng tiêu cực như xu hướng chạy theo lợi nhuận và lối sống thực
dụng, sự phân hoá giàu nghèo diễn ra phức tạp. Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước ta đang diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, sự hội nhập kinh tế quốc
tế đã mang lại cho chúng ta rất nhiều cơ hội nhưng trong xu thế vừa hợp tác
vừa đấu tranh để tồn tại, buộc đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc đường lối
xây dựng đất nước và chính sách tôn giáo của Đảng, kích động các phần tử
xấu để gây rối, bạo loạn nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong bối cảnh cuộc sống hiện nay, con người luôn đặt giá trị vật chất
lên trên tất cả thì mọi quan hệ xã hội, đạo đức cá nhân, gia đình đều bị đảo
lộn. Ai cũng mải mê, sống vội, chìm đắm trong ngũ dục, vì thế tâm luôn luôn
bị xáo trộn, do đó tư tưởng về cuộc đời vô thường, vô ngã, tri túc, nhân quả,
nghiệp báo luân hồi của nhà Phật càng ý nghĩa hơn bao giờ hết trong việc điều
chỉnh hành vi con người trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Đạo đức Phật
giáo không chỉ là đối trọng với các vấn đề tiêu cực của xã hội, mà còn là công
cụ hữu hiệu để chúng ta dần loại bỏ những thói hư tật xấu, vô đạo đức, đồng
thời xây dựng một lối sống hiện đại cho con người Việt Nam. Ngoài ra, trong
quan hệ đạo đức cá nhân (trong gia đình và ngoài xã hội) thì đạo Phật cũng có
tác dụng chuyển mê khai ngộ, đưa mọi người khỏi những mê lầm tội lỗi, tự
điều chỉnh hành vi của mình sao cho tốt hơn, phù hợp hơn.
Chúng ta đang chủ trương xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa,
vậy thì bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế thì chúng ta cũng không thể
để xảy ra tình trạng "nghèo về văn hoá" và đánh mất gốc rễ văn hoá truyền
thống. Với lịch sử du nhập và phát triển ở Việt Nam, triết lý nhân sinh của
- 96 -
Phật giáo đã kết hợp với các yếu tố bản địa, dần hình thành nên lối sống lành
mạnh với những minh triết thâm sâu nhưng mang tính giáo dục mạnh mẽ.
Đạo Phật không hề bi quan, yếm thế như một số người quan niệm mà
bi quan hay lạc quan là do cách sống, do thái độ của mỗi con người quyết
định. Mỗi chúng ta khi đã diễm phúc được sinh ra làm người trong cõi đời
này thì hãy luôn phấn đấu, tự mình thắp đuốc lên mà đi, đừng để dục vọng cá
nhân và vô minh gây ra vọng tâm, tức cái tâm sai biệt. Hai tiếng "con người"
thật đẹp, thật thiêng liêng, cho nên muốn làm người tốt thì điều đầu tiên cần
quan tâm là "tu thân, tích đức". Con người hiện nay có thể làm bất cứ điều gì
nếu họ thích ứng với thời đại, vì lẽ đó không thể dùng phương pháp mệnh
lệnh, áp đặt để hy vọng thành công, mà chỉ có thể bằng phương pháp cảm
hoá, giáo hoá, thuyết phục để mỗi người không bị những yếu tố độc hại của
thời đại lôi cuốn, không bị lệch hướng nhận thức bởi các hiện tượng vô văn
hoá và trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trên tinh thần đó, đạo Phật với tư cách là một trong những đạo lớn nhất
nước ta, đã đồng hành và ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ tới sự phát triển của
đất nước. Trong thời đại ngày nay đạo Phật cần được quan tâm và phát triển
thoả đáng để nó có nhiều đóng góp hơn cho việc giáo dục đạo đức, nhân cách
con người Việt Nam. "Nói đến văn hoá Việt Nam hiện đại mà không nói đến
Phật giáo Việt Nam là một thiếu sót đáng tiếc. Nói đến văn hoá Việt Nam mà
không thấy được ảnh hưởng của văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ không thấy
được gốc rễ và sự phát triển của của văn hoá Việt Nam" [40, tr.297 - 298].
Để kết thúc bản luận văn này người viết xin được mượn lời đánh giá về
đạo Phật của Sircharles Bell KCIE, CMG (1870 - 1945), nhà ngoại giao, nhà
biên soạn từ điển người Anh, và điều này cũng rất thoả đáng, thích hợp về vai
trò, ảnh hưởng của đạo Phật với con người và xã hội Việt Nam ta hiện nay:
"Thông điệp của Đức Phật về chân lý, hoà bình, từ bi và khoan dung rất là
- 97 -
thích hợp đối với xã hội ngày nay cũng như nhiều thế kỷ trước đây. Thời gian
trôi qua đã làm cho những ánh sáng càng toả sáng hơn. Sự lan tràn của chủ
nghĩa vật chất và sự theo đuổi những thành đạt của cá nhân bất chấp mọi giá
đã làm sói mòn những sợi dây thắt chặt tình huỳnh đệ và tính cộng đồng.
Trong những tình huống này, điều cần thiết và quan trọng đối với chúng ta là
nhớ lại và truyền bá thông điệp về tư bi và trí tuệ của đức Phật để hận thù có
thể được thay thế bằng tình thương, xung đột bằng hoà bình an lạc, và sự cạnh
tranh bằng hợp tác lẫn nhau"
Nghiên cứu vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống tinh thần
của con người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại là một đề tài lớn, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những nỗ lực của Đảng và Nhà nước đối với sự
phát triển về mọi mặt của đời sống tôn giáo, trong đó có đạo Phật, là cánh cửa
mở rộng để các học giả suy ngẫm, nghiên cứu sâu hơn, cặn kẽ hơn nguồn gốc,
quá trình phát triển của Phật giáo cũng như sự tồn tại, hoà nhập của nó vào
đời sống con người Việt Nam hai ngàn năm nay. Chúng tôi tin rằng, Phật học
và nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam luôn là đề tài hấp dẫn và thú vị.
- 98 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình Anson (2007), Thương yêu là thông cảm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
2. Thích Thanh Ân (2009), Thắp sáng niềm tin, VCD 1- 2, Chùa Diên
Quang, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
3. Báo cáo thành quả 25 năm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
(2006).
4. Báo cáo của trung tâm quản lý khu di tích Yên Tử - Quảng Ninh
(2010).
5. Thạc sỹ Vũ Văn Bình (2001), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb. Lao động -
xã hội, Hà Nội.
6. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học - Mác Lênin (2002), Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
7. Jean - Claude Carriere (2008), Lê Việt Liên dịch, Sức mạnh của đạo
Phật, Nxb. Phương Đông, Hà Nội.
8. Thiện Cẩm (1970), Quan niệm giải thoát trong Phật giáo cũ, Nxb. Đa
Minh - Sài Gòn.
9. Thích Bửu Chánh, Cát bụi, VCD, Chùa Hoằng Pháp thực hiện.
10. Thích Minh Châu (1973), Trung bộ kinh I (Majjhima Nikaya) (dịch và
chú thích), Pali - Việt đối chiếu, tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
11. Thích Minh Châu (1973), Trung bộ kinh II (Majjhima Nikaya) (dịch và
chú thích), Pali - Việt đối chiếu, tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
12. Thích Minh Châu và Minh Chi (1991), Từ điển Phật học Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội - nhân văn, Hà Nội.
13. Doãn Chính (2008), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Thích Trí Chơn (2008), Bến yêu thương, VCD A, B, Chùa Hoằng Pháp
thực hiện.
- 99 -
15. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên) (2006), Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, Nxb. Khoa học và xã hội, Hà Nội.
16. http://chungta.com.vn/Desktop.aspx/Chu-De/Suy-ngam/Phat_giao/
17. C.Mác và Ănghen, Toàn tập, tập 20 (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
18. Lê Cung (1996), Phật giáo Việt Nam với cộng đồng dân tộc, Thành hội
Phật giáo TP HCM.
19. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hoá tâm linh, Nxb. Hà nội.
20. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Thích Phước Đạt (2007), Tính năng động của Phật giáo Việt Nam
trong quá trình hội nhập. Nguyệt San giác ngộ 130.
22. Thích Mãn Giác (1968), Nhân bản và nhân bản Phật giáo, Nxb. Huyền
Trang, Sài Gòn.
23. http://giacngo.vn/triethoc/
24. Giáo trình đạo đức học (2000), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
25. Dương Tú Hạc (1998), Kinh lời vàng, Nxb. TP HCM.
26. Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh (2006), Chân lý sống, Nxb. Tôn giáo, Hà
Nội.
27. Đại Đức Thích Nguyên Hiền (2009), Giọt nước cành dương,VCD,
Chùa Hoằng Pháp, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
28. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Hội nhà
văn.
29. Thích Thiện Hoa (1954), Tám quyển sách quý, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội.
30. Thích Thiện Hoa (2003), Xây dựng đời sống trên nền nhân quả, nghiệp
và luân hồi, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
31. Bùi Biên Hoà (1998), Đạo Phật và thế gian, Nxb. Hà Nội.
- 100 -
32. Lê Doãn Hợp (2007), Tôn vinh văn hoá Phật giáo là tôn vinh văn hoá
dân tộc, phỏng vấn Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin, Văn hoá Phật giáo
số 34.
33. Phan Văn Hùm (1970), Phật giáo triết học, Nxb. La Sơn - Sài Gòn.
34. Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhà
nước và giáo hội, Nxb. Tôn giáo - Hà Nội.
35. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1983), Nxb. Văn học, Hà Nội.
36. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Lê Thị Lan (2002), "Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại
trong xây dựng đạo đức", Tạp chí triết học, Số 7 (134), T7/2002, Tr25-27.
38. Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển tập II (2004), Nxb. Chính trị Quốc
gia Hà Nội.
39. Trần Hồng Liên (2010), Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt
Nam, Nxb. Tổng hợp TP HCM.
40. Minh Mẫn (2006), Danh nhân văn hoá Phật giáo Việt Nam đương đại,
chân dung và đối thoại, Nxb. Lao động, Hà Nội.
41. Viên Minh - Trần Nhân Tài (2005), Con đường hạnh phúc, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
42. Diane Morgan (2006), Triết học và tôn giáo phương đông, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
43. Thích Minh Nhẫn (2007), Ánh sáng Phật pháp, Kỳ 6, 11, VCD, Chùa
Hoằng Pháp thực hiện.
44. Vân Như Bùi Văn Nhự (2007), Đạo học, Nxb. Phương Đông, Hà Nội.
45. Ksri Phammananda (1995), Đạo Phật với đời sống hiện đại, Thích Tâm
Quang dịch từ Budhism and Present life. Tủ sách Phật học song ngữ
Anh - Việt.
- 101 -
46. http://www.phattuvietnam.net/
47. Đại Đức Thích Thông Phổ, Chết là một pháp tu, MP3.
48. Phùng Hữu Phú, Đại Đức Thích Minh Trí (1997), Hồ Chí Minh với
Phật giáo Việt Nam (1945-1969), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Thích Thông Phương (2008), Buổi nói chuyện với đoàn sinh viên y
khoa, VCD A, B, Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng.
50. Thích Thông Phương (2008), Vô ngã, VCD, Thiền viện Trúc Lâm
Phụng Hoàng.
51. Thích Chân Quang (2006), Triết lý về tiền bạc, VCD A - B, Chùa Phật
Quang thực hiện.
52. Thích Chân Quang (2009), Nhân quả giàu và nghèo, VCD1 - 2, Chùa
Phật Quang, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
53. Thích Chân Quang (2009), Sự bù trừ của luật nhân quả, VCD, Chùa
Phật Quang, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
54. Thích Tâm Quán (2009), Thắp sáng niềm tin, VCD 1- 2, Kỳ 1, Chùa
Diên Quang, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội.
55. Thích Trí Quảng (1992), Cảm niệm về Đức Phật, Nxb. Thành hội Phật
giáo TP HCM.
56. Thích Trí Quảng (2008), Ở đời vui đạo, VCD 1 - 4. Chùa Phổ Quang
thực hiện
57. Peter Della Satina. Việt dịch TT. Thích Tâm Quang (2002), Cây giác
ngộ, Nxb. Tổng hợp TP HCM.
58. Thích Trí Siêu (2005), Tâm và ta, Nxb. Phương Đông, Hà Nội.
59. Trường Tâm - Thanh Long (2008), Phật giáo một góc đạo và đời, Nxb.
Văn hoá Sài Gòn.
60. Trường Tâm -Thanh Long (2008), Đạo Phật với đời sống, Nxb. Văn
hoá Sài Gòn.
- 102 -
61. Lưu Vô Tâm (2002), Phật học khái lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
62. Thích Tâm Thiện (1997), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb.TP
HCM.
63. Lê Thọ (2007), Cư sĩ làm kinh tế có được hay không? Tạp chí nghiên
cứu Phật học số 1, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
64. Hoàng Thị Thơ (2002), Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường, Tạp
chí triết học số 7 (134), tr 28- 33.
65. Hoàng Thị Thơ (2002), Vấn đề con người trong đạo Phật, Tạp chí triết
học, Số 6 (118), Tr.41 - 44.
66. Hoàng Thị Thơ (2002), Đạo đức Phật giáo với vấn đề xây dựng nhân
cách con người Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo , Số 1, Tr.44 -
49.
67. Hoàng Thị Thơ (2004), "Giá trị đạo đức của Phật giáo trong truyền
thống và hiện đại", Việt Nam học. Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ hai.
Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện
đại, Nxb. Thế giới, Đại học Quốc gia Hà Nội, VASS, Tr.353 - 365.
68. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng Thiền - từ Veda Ấn Độ tới
Thiền tông Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Thích Thiện Thuận (2007), Bóng mây, VCD, Chùa Hoằng Pháp thực
hiện
70. Hà Thuyên (2008), Đạo làm người, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
71. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội.
72. Thích Chân Tính (2008), Bến đỗ bình yên, VCD, Chùa Hoằng Pháp.
73. Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn
giá trị Chân - Thiện - Mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh
tế thị trường, Tạp chí triết học, Số 4, Tr. 27 - 32.
- 103 -
74. Đại Đức Thích Viên Trí (2006), Tình người, VCD, Chùa Hoằng Pháp.
75. Thích Nhật Từ (2006), Kinh tế từ cái nhìn Phật giáo, Kỷ yếu hội thảo
quốc tế: Phật giáo thời hiện đại, những cơ hội và thách thức.
76. Thích Thanh Từ (1998), Tu là xây dựng bản thân và gia đình hạnh
phúc, VCD, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
77. Thích Thanh Từ (2000), Hai ông vua đời Trần xem ngai vàng như đôi
dép rách, VCD A - B, giảng tại Chùa Yên Tử.
78. Thích Thanh Từ (2001), Đạo Phật với tuổi trẻ, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
79. Thích Thanh Từ (2001), Một thứ tài sản không bao giờ mất, VCD A-B,
Chùa Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) thực hiện.
80. Thích Thanh Từ (2005), Tam Độc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
81. Thích Thanh Từ (2006), Phật giáo trong mạch sống dân tộc, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
82. Thích Thanh Từ, Cuộc đời là mâu thuẫn, CD, giảng tại Trúc Lâm Đà
Lạt.
83. Khánh Vân (1998), Cuộc đời ánh đạo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Nxb. TP HCM.
84. Viện nghiên cứu Phật học (2001), Giáo dục Phật giáo trong thời hiện
đại Việt Nam, Nxb. TP HCM.
85. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
86. Trần Nguyên Việt (2002), Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và
cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường,
Tạp chí triết học số 5 (132) 5/2002, tr 20- 25.
87. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.