ÂM VỊ HỌCkhoaspnv.vinhuni.edu.vn/DATA/34/upload/516/document… · · 2016-07-19thuộc...
Transcript of ÂM VỊ HỌCkhoaspnv.vinhuni.edu.vn/DATA/34/upload/516/document… · · 2016-07-19thuộc...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN HOÀI NGUYÊN
ÂM VỊ HỌC
Chuyên đề Cao học, chuyên ngành Ngôn ngữ học
VINH 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Âm vị học, từ pháp học và cú pháp học là ba bộ môn đỉnh cao, đem lại
cho ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ cái uy tín như ngày nay là nhờ
sự thức nhận làm cơ sở cho cách tiếp cận chức năng và cấu trúc trong ngôn
ngữ. Âm vị học là bộ môn của ngôn ngữ học nghiên cứu mặt chức năng của
âm thanh ngôn ngữ với tư cách là phương tiện phân biệt vỏ âm thanh (hay sự
biểu hiện) của hình vị và từ; nghiên cứu khả năng khu biệt của kí hiệu và các
thuộc tính chức năng của âm thanh, tổ hợp âm thanh và các phương tiện
ngôn điệu. Âm vị học có nhiệm vụ nghiên cứu những sự khác biệt nào về
ngữ âm gắn liền với sự khu biệt ý nghĩa trong ngôn ngữ, xem xét các yếu tố
khu biệt liên quan với nhau như thế nào và kết hợp với nhau theo những quy
tắc nào trong khi cấu tạo các từ và câu. Do vậy, ở một mức độ nhất định,
chuyên đề Âm vị học nhằm cung cấp cho người học bức tranh chung về bộ
môn Âm vị học, cho thấy những cố gắng của các nhà âm vị học đã cách tân
bộ môn Ngữ âm học (truyền thống) khi họ phát hiện ra đối tượng đích thực
của bộ môn này.
Nhưng theo giáo sư Cao Xuân Hạo, lí thuyết âm vị học cổ điển, về cơ bản
được xây dựng trên cơ sở những ấn tượng chủ quan của người bản ngữ do
cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình quy định. Bởi vậy, trong
công trình Âm vị học và tuyến tính, tác giả đã tổng kết lí thuyết âm vị học cổ
điển để phê phán và lập thức lại những định đề của âm vị học dưới dạng hiển
ngôn nhất, trình bày nó thành một hệ thống mạch lạc với mục đích Vì một lí
thuyết âm vị học đại cương đích thực. Chúng tôi giới thiệu ở phần sau của
chuyên đề (Bài 5) để người học tham khảo.
TÁC GIẢ
Bài 1. NGỮ ÂM HỌC VÀ ÂM VỊ HỌC
1. Ngôn ngữ, lời nói và chữ viết
1.1. Về mối quan hệ
Trong giao tiếp hàng ngày, người ta dùng lời nói (parole) và chữ viết
(character). Lời nói và chữ viết do cá nhân tạo nên trên cơ sở những nguyên
tắc chung, những quy luật chung của ngôn ngữ được cả cộng đồng chấp
nhận. Như vậy, về một phương diện nào đó, có thể hiểu ngôn ngữ (langue)
là sự khái quát hoá, trừu tượng hoá thành những quy luật chung từ lời nói và
chữ viết; chúng được đúc kết từ lời nói và chữ viết của cộng đồng. Vậy thì,
lời nói và chữ viết theo cách hiểu trên là sự vận dụng cụ thể những quy luật
chung mang tính xã hội trở lại vào quá trình giao tiếp cụ thể. Về mối quan hệ
giữa lời nói, chữ viết và ngôn ngữ, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến
những khía cạnh sau đây:
- Lời nói là có trước, chữ viết có sau. Chữ viết không nằm trong cơ chế
nội tại của ngôn ngữ mặc dù nó có tác dụng rất quan trọng trong việc tăng
thêm hiệu lực giao tiếp của ngôn ngữ qua không gian, thời gian.
- Ngôn ngữ là sự trừu tượng hoá thành những quy luật chung, những
phép tắc chung, những quy định chung vốn nằm sẵn trong lời nói. Như vậy,
ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng, là mặt bằng chung, bó buộc và chi phối
về cách dùng lời ăn tiếng nói để tổ chức giao tiếp trong xã hội.
- Một người trong quá trình trưởng thành, qua tiếp xúc với môi trường ăn
nói xung quanh (xã hội) bao giờ cũng tiếp thu cho cá nhân mình một vốn
liếng ngôn ngữ nhất định. Trong khi làm việc này, anh ta có khả năng cá thể
hoá cái tài sản ngôn ngữ chung của xã hội vào bản thân mình, tạo cho mình
một năng lực ngôn ngữ nhất định. Chính năng lực ngôn ngữ của từng cá
nhân, đặc biệt, những cá nhân có trình độ văn hoá cao lại tác động đến ngôn
ngữ, làm cho ngôn ngữ ngày càng đa dạng, phong phú và hoàn thiện.
- Khi sử dụng vốn ngôn ngữ chung được tích luỹ cho bản thân, người sử
dụng có thể dùng nó ở dạng lời nói hoặc chữ viết để giao tiếp. Dùng ngôn
ngữ ở dạng lời nói và chữ viết sẽ tạo nên ngôn bản (ngôn phẩm/ diễn ngôn),
còn dùng chữ viết sẽ cho văn bản. Do đó, bên cạnh việc phân chia ngôn ngữ
và lời nói như lâu nay, có lẽ nên phân chia theo hướng sau đây để dễ nhận
biết: ngôn ngữ và hành động ngôn ngữ (còn gọi hành vi ngôn ngữ); hành
động ngôn ngữ lại phân chia thành dạng ngôn bản và dạng văn bản.
1.2. Phân biệt ngôn ngữ và lời nói
Để xây dựng bộ môn khoa học về ngôn ngữ, F. de Saussure [4] phân
biệt trước hết nguyên liệu của nó là toàn bộ những hiện tượng phát sinh từ
việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày với đối tượng của nó được coi như hệ
thống các yếu tố quyết định sự tồn tại của những hiện tượng kia. Ông gọi hệ
thống các yếu tố quyết định sự tồn tại của các hiện tượng kia là ngôn ngữ.
Còn nguyên liệu (tức là toàn bộ những hiện tượng phát sinh từ việc sử dụng
ngôn ngữ hàng ngày) là những hiện tượng của lời nói. Sự phân biệt có tính
xã hội này dựa trên một loạt các tiêu chí sau đây:
- Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tồn tại trong bộ óc của tất cả những
người cùng nói một thứ tiếng. Nó chỉ được thể hiện ra trong lời nói và bằng
lời nói. Ngôn ngữ là cái mã chung cho một cộng đồng, nó làm cho hình ảnh
thính giác ăn khớp với những khái niệm. Còn lời nói chỉ là sự vận dụng cái
mã (code) này của người nói và chỉ là sự biểu hiện cụ thể của cái hệ thống
tiềm năng kia.
- Ngôn ngữ là một sản phẩm mà người nói ghi nhận một cách thụ động,
sản phẩm được tàng trữ nhờ có kí ức dưới dạng tiềm năng. Vậy là, sự chiếm
lĩnh ngôn ngữ và làm chủ nó chỉ là sự vận dụng những năng lực tàng trữ duy
nhất ấy của trí óc con người. Do đó, mọi hành động ngôn ngữ đều thuộc
phạm vi lời nói, hành động cá nhân, hành động có ý thức, tự do và sáng tạo
của cá nhân.
- Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, một sản phẩm tập thể được hình
thành trong quá trình lao động sản xuất của xã hội. Nó tồn tại dưới dạng
tiềm năng trong bộ óc của mỗi thành viên cộng đồng như một pho từ điển
mà tất cả các bản in đều giống nhau, được phân phối cho từng cá nhân. Như
vậy, ngôn ngữ là phương tiện chung cho mọi người, cho tất cả người nói lẫn
người nghe và hoạt động như một thể chế đặc biệt với tính chất bắt buộc.
Mỗi cá nhân không tự mình sáng tạo ra ngôn ngữ và cũng không thể thay đổi
được nó. Cá nhân phải trải qua một quá trình học tập mới nắm bắt được
ngôn ngữ và sử dụng một cách có hiệu quả.
Lời nói chỉ là những hành động cụ thể, thay đổi từ người này sang người
khác, nó là một hoạt động sinh lí của mỗi cá nhân (sự phát âm) và kết quả
của hành động này cho ta âm thanh (hiện tượng vật lí) nhằm thể hiện tư
tưởng, tình cảm, nguyện vọng và ý chí cá nhân (hiện tượng tâm lí). F.de
Saussure [4] cho rằng, tách ngôn ngữ ra khỏi lời nói là đồng thời cũng tách
ra: a/ Cái có tính chất xã hội và cái có tính chất cá nhân, b/ Cái có tính chất
cốt yếu và cái có tính chất phụ thuộc hay ít nhiều có tính chất ngẫu nhiên.
- Để đảm nhiệm chức năng làm cộng cụ giao tiếp xã hội, ngôn ngữ có
tính chất ổn định trong một thời gian tương đối lâu dài, còn lời nói có tính
nhất thời và luôn luôn thay đổi. Nó được hiện ra trong thiên hình vạn trạng
của những hành động nói năng cụ thể (lời nói là có sự sáng tạo để đáp ứng
những biến chuyển của thực tế khách quan).
2. Ngữ âm học và âm vị học
2.1. Ngữ âm học (phonetic)
Ngữ âm học là bộ môn chuyên nghiên cứu các đơn vị âm thanh của lời
nói về mặt phát âm, nghĩa là nghiên cứu bản chất âm học (cảm thụ - vật lí)
và những phương thức cấu âm (nguồn gốc - sinh lí), tức là mặt tự nhiên của
các đơn vị âm thanh ngôn ngữ. Ngữ âm học được hoàn thiện vào cuối thế kỉ
XIX khi các nhà ngữ học biết áp dụng những phương pháp thực nghiệm của
các ngành khoa học tự nhiên với những máy móc ngày càng tinh xảo.
Dựa vào tính năng của một số công cụ thuộc ngành vật lí, y học và một
số công cụ riêng biệt để quan sát âm thanh ngôn ngữ như máy quay phim ghi
bằng tia X, ngạc đồ để ghi vị trí của các bộ phận phát âm, máy quang phổ,
máy hiện sóng để ghi và phân tích âm thanh, máy ghi lại âm thanh bằng mặt
sáp, mặt nhựa, băng từ tính,... nên bộ môn ngữ âm học ngày càng có những
bước tiến mới trong việc miêu tả ngữ âm.
Những kết quả nghiên cứu về ngữ âm cho thấy, khi nói, âm thanh được
cấu tạo bằng luồng hơi đi từ phổi qua thanh hầu. Ở trong thanh hầu, hai dây
thanh - hai tổ chức cơ nằm sóng đôi chấn động cho phép luồng hơi thoát ra
thành từng đợt nối tiếp nhau tạo thành các sóng âm. Tuỳ theo tốc độ chấn
động của dây thanh mà tạo ra những âm cao/thấp khác nhau. Những âm mà
dây thanh tạo nên còn được biến đổi do cộng hưởng của các khoang thanh
hầu, khoang miệng và khoang mũi nằm ở phía trên thanh hầu. Những âm
nào thoát ra một cách tự do thì chúng có âm hưởng êm ái, dễ nghe, có tần số
xác định và có đường cong biễu diễn tuần hoàn (tức là có chu kì), đó là tiếng
thanh, cơ sở cấu tạo các nguyên âm (vocalic).
Trong quá trình thoát ra, nếu luồng hơi gặp phải một chướng ngại nào đó
như sự thu hẹp khe hở của các dây thanh, sự tiếp xúc của lưỡi và răng, hoặc
sự khép chặt của hai môi thì nó phải lách qua khe hở hoặc phải phá vỡ
chướng ngại nên tạo ra một tiếng cọ xát hay một tiếng nổ. Những tiếng này
có đặc điểm ồn, khó nghe, có tần số không ổn định và được biểu diễn bằng
những đường cong không tuần hoàn. Đó là tiếng động, cơ sở để tạo nên các
phụ âm (consonant).
Với các phụ âm, đặc điểm cơ bản của cơ chế phát âm là sự cản trở của
luồng hơi thoát ra, là sự tạo nên tiếng động. Song, khi phát âm một số phụ
âm, dây thanh cũng có hoạt động và cung cấp thêm tiếng thanh. Tuỳ theo tỉ
lệ giữa tiếng thanh và tiếng động mà ta có các phụ âm vô thanh, hay phụ âm
điếc (được tạo bằng tiếng động), phụ âm hữu thanh, hay phụ âm kêu (ngoài
tiếng động còn có tiếng thanh nhưng tiếng động là chính). Hai loại phụ âm
này được gọi là phụ âm ồn, đối lập với loại thứ ba có tỉ lệ tiếng thanh lớn
hơn, gọi là phụ âm vang (resonnant).
Các nguyên âm do dây thanh tạo nên (vốn là tiếng thanh) khi phát ra
được biến đổi đi thành những đơn vị khác nhau. Sự khác nhau giữa các
nguyên âm là về âm sắc của cùng tiếng thanh. Tiếng thanh là một âm phức
tạp gồm nhiều âm đơn giản trong đó có âm trầm nhất gọi là âm cơ bản và
nhiều âm cao hơn gọi là các hoạ âm. Âm cơ bản và hoạ âm, khi thoát ra qua
các khoang rỗng trên thanh hầu sẽ có thêm sự cộng hưởng. Do hoạt động
của lưỡi, môi, các khoang này luôn có khả năng thay đổi hình dáng và thể
tích, lối thoát không khí (luồng hơi) và vì vậy có khả năng cộng hưởng khác
nhau. Trong mỗi trường hợp cụ thể, với một vị trí nhất định của lưỡi, môi thì
hiện tượng cộng hưởng đối với một số hoạ âm nào đó khiến cho chúng được
tăng cường. Cũng vậy, trong một số trường hợp khác, nhóm hoạ âm khác
cũng sẽ có sự cộng hưởng và sẽ được tăng cường. Như vậy, mỗi khi thay đổi
mối tương quan giữa âm cơ bản và các hoạ âm về cao độ và cường độ là một
lần thay đổi âm sắc, tức là, ta có một nguyên âm khác. Sự khác nhau giữa
các nguyên âm là do những nhóm hoạ âm được tăng cường bởi có sự cộng
hưởng khác nhau của các khoang trên. Các dải tần số được tăng cường đặc
trưng cho mỗi nguyên âm như thế gọi là phoocmăng (formant). Các nguyên
âm trong mọi ngôn ngữ đều có ít nhất hai phoocmăng (F1, F2) để phân biệt
nhau.
2.2. Âm vị học (phonology)
Những đặc trưng cấu âm - âm học của các đơn vị âm thanh có giá trị gì?
Nghĩa là, chúng có chức năng xã hội gì lại là một vấn đề khác hẳn. Vì rằng,
không phải tất cả các đặc trưng cấu âm - âm học đều có giá trị ngang nhau
và được sử dụng như nhau trong ngôn ngữ học. Vậy là, bên cạnh đặc trưng
cấu âm - âm học, từ năm 1926, những thành viên của Câu lạc bộ Praha đã
tìm ra trong những đặc trưng âm học ấy cái gì có chức năng xã hội trong
giao tiếp. Cũng như trong ngôn ngữ học, nhà ngữ âm học cần phân biệt: a/
cái có tính chất xã hội và cái có tính chất cá nhân, b/ cái chủ yếu và cái thứ
yếu và ít nhiều có tính ngẫu nhiên theo công thức của N.S. Trubetskoy:
ngôn ngữ âm vị học
................... = ....................
lời nói ngữ âm học
Đó là đối tượng của một bộ môn khoa học mới: âm vị học, chuyên
nghiên cứu những đơn vị âm thanh có tổ chức của tiếng nói hay những âm
thanh có chức năng xã hội - tức âm vị để tìm ra hệ thống những đơn vị biểu
đạt của ngôn ngữ. Như vậy, âm vị học là bộ môn của ngôn ngữ học nghiên
cứu mặt chức năng của âm thanh ngôn ngữ với tư cách là phương tiện phân
biệt vỏ âm thanh của từ và hình vị, nghiên cứu khả năng khu biệt của kí hiệu
và các thuộc tính chức năng của âm thanh, tổ hợp âm thanh và các phương
tiện ngôn điệu. Âm vị học có nhiệm vụ nghiên cứu những sự khác nhau nào
về ngữ âm trong ngôn ngữ gắn liền với sự khu biệt nghĩa, xem xét các yếu tố
khu biệt liên quan với nhau như thế nào và kết hợp với nhau theo quy tắc
nào trong cấu tạo từ và câu. Tuỳ theo đặc điểm riêng, mỗi ngôn ngữ chỉ chọn
lấy một số lượng các đơn vị âm thanh nhất định làm hình thức biểu đạt cho
ngôn ngữ. Cho nên, trong ngôn ngữ này, yếu tố này là một âm vị nhưng
trong ngôn ngữ kia thì không. Chẳng hạn, trong tiếng Nga có âm vị /Ц/, còn
tiếng Việt thì không, nhưng trong tiếng Việt có âm vị /h/ mà tiếng Nga thì
không. Cũng vậy, /i/ và /i:/ là hai âm vị trong tiếng Anh (nguyên âm ngắn/
nguyên âm dài) còn trong tiếng Pháp, tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác
chỉ là một. Tiếng Việt có các phụ âm /d/, /ʐ/, còn tiếng Hán lại không có,
nhưng tiếng Hán có phụ âm tắc xát /ts/, không có trong tiếng Việt, v.v..
3. Trường phái ngôn ngữ học Praha và bộ môn Âm vị học
3.1. Trường phái ngôn ngữ học Praha
Năm 1926, Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha được thành lập, do sáng kiến
của nhà ngôn ngữ học đại cương V. Mathesius, tập hợp nhiều nhà nghiên
cứu ngôn ngữ và ngữ văn học Slavơ và Giecman như B. Havranek, J.
Mukarovski, J. Vachek, B. Trnka, L. Novak, V. Skaliska, K. Horalek, v.v..
Tham gia vào Câu lạc bộ này còn có N.S. Trubetskoy, R. Jakobson và S.O.
Karsevski. Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha hoạt động mạnh mẽ từ năm 1926
đến năm 1940 nhưng sau năm 1940, do ảnh hưởng của chiến tranh và sự
biến động về chính trị trong nước nên hoạt động rời rạc dần và chấm dứt về
mặt tổ chức vào năm 1943.
Như đã biết, lí thuyết lừng danh của F. de Saussure là lưỡng phân thành
những cặp đối lập cơ bản trong ngôn ngữ và đã tuyệt đối hoá sự đối lập đó.
Nhưng nếu chủ nghĩa miêu tả, trường phái ngữ vị học xây dựng học thuyết
của mình trên cơ sở sự tuyệt đối hoá đó, đặc biệt trên những kết luận về
những mặt tiêu cực của hệ thống ngôn ngữ thì các nhà nghiên cứu trong Câu
lạc bộ Praha lại không phủ định những mặt tích cực trong những cặp đối lập
mà F. de Saussure đã phát hiện, cố gắng tìm ra tính thống nhất giữa các mặt
tiêu cực và tích cực. Xuất phát từ những luận điểm trong học thuyết của F.
de Saussure, đặc biệt là luận điểm ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, một
số nhà ngữ học đã đi sâu tìm hiểu các yếu tố, các lớp, các cơ chế xuất hiện
trong ngôn ngữ, nhấn mạnh chức năng giao tiếp của hệ thống ngôn ngữ và
xây dựng học thuyết của mình trên mối quan hệ hệ thống - chức năng. Vì
vậy, họ được gọi là những nhà chức năng luận, và trường phái ngôn ngữ học
Praha được gọi là trường phái cấu trúc - chức năng (gọi tắt là trường phái
ngôn ngữ học chức năng). Vậy là, cùng xuất phát từ F. de Saussure nhưng
chủ nghĩa miêu tả đi tìm những quy định về miêu tả, còn ngữ vị học xây
dựng lí thuyết tín hiệu học chung thì ngôn ngữ học chức năng luận hướng tới
lí thuyết về các hiện tượng và quá trình thực có của các ngôn ngữ tự nhiên.
Trong công trình Những luận điểm của Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha
(1929), có phần tuyên bố chương trình nghiên cứu của Câu lạc bộ Praha,
gồm những quan điểm chính:
- Là sản phẩm của hoạt động của con người, ngôn ngữ hướng tới một
mục đích nhất định mà rõ ràng nhất, thường gặp nhất là mục đích diễn đạt.
Bởi vậy, phải nghiên cứu ngôn ngữ theo quan điểm chức năng. Theo quan
điểm này thì ngôn ngữ là hệ thống những phương tiện diễn đạt phục vụ cho
mục đích nhất định nào đó. Do đó, mọi hiện tượng ngôn ngữ phải được lí
giải trong hệ thống mà nó nằm trong đó. Quan điểm này có tính chất tiền đề
phương pháp luận nhằm thống nhất hai mặt đối lập hệ thống và chức năng
của hệ thống (chủ nghĩa miêu tả và ngữ vị học bỏ qua mặt chức năng).
- Không tán thành sự cực đoan hoá, sự đối lập giữa hai mặt đồng đại và
lịch đại trong ngôn ngữ, chủ trương phải thống nhất đồng đại và lịch đại.
Nếu theo ngôn ngữ học đồng đại, các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ phải
được xem xét về mặt chức năng thì bất cứ sự biến đổi nào trong ngôn ngữ
(lịch đại) cũng không thể tách rời khỏi hệ thống mà những biến đổi này tác
động tới. Ngôn ngữ học lịch đại không thể bỏ qua các khái niệm hệ thống và
chức năng và ngôn ngữ học đồng đại không thể bỏ qua hoàn toàn khái niệm
tiến triển (biến đổi lịch đại).
- Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ có những nhiệm vụ, trước hết có liên
quan đến phương diện âm thanh của ngôn ngữ. Trong nhiệm vụ này, có sự
phân biệt âm thanh như là những hiện tượng vật lí và như là các yếu tố của
hệ thống ngôn ngữ. Không gạt bỏ những đặc điểm thể chất của âm thanh
nhưng xem chúng là thứ yếu; chúng chỉ trở thành yếu tố của hệ thống ngôn
ngữ khi thực hiện chức năng khu biệt ý nghĩa. Các thuộc tính thể chất không
quan trọng bằng các quan hệ giữa chúng trong hệ thống. Như vậy, các nhà
ngữ học Praha hướng tới sự thống nhất hai mặt đối lập là thể chất và cấu trúc
(F. de Saussure và Ngữ vị học tuyệt đối hoá sự đối lập giữa hai mặt này).
Âm vị, theo các nhà chức năng luận là các yếu tố thanh học - vận động
nhỏ nhất, có giá trị khu biệt ý nghĩa của ngôn ngữ. Nghiên cứu hệ thống âm
vị của một ngôn ngữ là lập bảng thống kê các âm vị và xác lập các quan hệ
giữa chúng. Trong các quan hệ âm vị học, quan trọng là các tương liên âm vị
học. Một tương liên âm vị học là một kiểu đối lập giữa một cặp hai âm vị
dựa trên một tiêu chí nào đó (hữu thanh/vô thanh, cứng/mềm, dài/ngắn,...).
Nhiệm vụ nghiên cứu từ và kết hợp từ, đề xuất lí thuyết về sự định danh
của ngôn ngữ. Theo quan điểm chức năng, từ là kết quả của hoạt động định
danh của ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống định danh riêng và sử
dụng nhiều hình thức định danh khác nhau như cấu tạo từ, cụm từ cố định.
Nhiệm vụ nghiên cứu các phương thức tuyến tính. Theo các nhà chức
năng luận, kết hợp từ là kết quả của hoạt động tuyến tính của ngôn ngữ.
Hoạt động tuyến tính chủ yếu là hoạt động tạo vị ngữ. Bởi vậy, cú pháp học
chức năng trước hết nghiên cứu các kiểu vị ngữ có tính đến chức năng và
hình thái của chủ ngữ; sự phân đoạn câu thành đề (thème) và thuyết (rthème)
và cho rằng chức năng của chủ ngữ sẽ được làm sáng tỏ nhờ sự so sánh cấu
trúc chủ ngữ/vị ngữ với cấu trúc đề/thuyết, v.v..
3.2. Sự ra đời bộ môn Âm vị học
Đóng góp lớn nhất của trường phái Praha cho ngành ngôn ngữ học là đã
khai sinh bộ môn Âm vị học. Các công trình âm vị học có tiếng vang lớn là
của N.S. Trubetskoy, R. Jakobson, V. Mathesius, B. Trnka, B. Havnanek.
Từ năm 1926, nhóm ngôn ngữ học Praha đã đưa ra một phương pháp nghiên
cứu ngữ âm khác hẳn những cách nghiên cứu trước đây. Phát triển luận điểm
của F. de Saussure [4] trong việc phân biệt ngôn ngữ và lời nói, N.S.
Trubetskoy [5] đã nêu ra lần đầu tiên lí luận về bộ môn âm vị học trên cơ sở
đối lập âm vị học với ngữ âm học theo công thức: ngôn ngữ/ lời nói và âm vị
học/ ngữ âm học.
Qua sự đối lập đó, N.S. Trubetskoy [5] đã xác định nhiệm vụ của bộ
môn âm vị học. Công trình Nguyên lí âm vị học của N.S. Trubetskoy [5] thể
hiện khá đầy đủ và toàn diện phương pháp luận xác định âm vị cùng với
cách nhìn thực chất học thuyết âm vị học: âm của lời nói mang tính chất cá
nhân và thay đổi theo người nói, còn âm của ngôn ngữ bao giờ cũng được tổ
chức chặt chẽ và thuộc về một ngôn ngữ nhất định. Học thuyết khu biệt
nghĩa được xác lập trên khái niệm thế đối lập, chiếm vị trí quan trọng. Ông
cho rằng, mỗi một thành phần của thế đối lập âm vị học được gọi là một đơn
vị âm vị học hay âm vị. Tác giả định nghĩa: Âm vị là một tập hợp các đặc
trưng khu biệt bao hàm một hình ảnh âm thanh, và ngữ âm học là khoa học
nghiên cứu mặt vật chất của các âm thuộc ngôn ngữ loài người, trong lúc
âm vị học chỉ khảo sát âm có một chức năng nhất định trong ngôn ngữ
[5,36]. Với sự phân biệt rạch ròi như vậy, N.S. Trubetskoy đã thúc đẩy việc
nghiên cứu âm thanh ngôn ngữ lên một tầm cao mới. Cùng với N.S.
Trubetskoy, các công trình của R. Jakovson, V. Mathesius tiếp tục đề cập
đến các đặc trưng khu biệt, hình thái học, sự phát triển của hệ thống âm vị.
Khoa âm vị học tiếp tục được khẳng định qua các công trình sau này của L.
Novak, I. Vachek, B. Trnka, v.v..
3.3. Về mối quan hệ giữa ngữ âm học và âm vị học
Ngữ âm học truyền thống nghiên cứu âm thanh như một sự thống nhất
giữa hai mặt âm học - sinh lí học và xã hội (ngôn ngữ học). Mặt xã hội trong
ngữ âm cũng như bất kì hiện tượng ngôn ngữ học nào, vốn đóng vai trò chủ
đạo. Ngữ âm học chỉ có lí do tồn tại trong trường hợp nó nghiên cứu âm
thanh của tiếng nói như một hiện tượng ngôn ngữ, tức là chỉ khi nào nó là
một ngành của ngôn ngữ học. Cố nhiên, trong mỗi trường hợp cụ thể, người
nghiên cứu có thể tập trung sự chú ý vào một mặt nào đó của âm thanh ngôn
ngữ. Có thể nghiên cứu các thuộc tính âm học và sinh lí học của âm thanh
ngôn ngữ mà trừu tượng hoá đến một mức độ nhất định cái chức năng của
nó trong ngôn ngữ, và mặt khác, có thể nói đến chức năng của các đơn vị âm
thanh ngôn ngữ mà không đi sâu vào những chi tiết về tính chất âm học -
sinh lí học của nó; song trong mỗi trường hợp như vậy mà hoàn toàn không
đếm xỉa gì đến mặt kia thì không thể được. Sau này, I.A. Baudouin de
Courtenay là người đầu tiên đề nghị phân biệt khoa ngữ âm học quan sát và
thí nghiệm trong lĩnh vực các khí quan phát âm và các khí quan thính giác
(khoa nhân âm học) với khoa tâm lí ngữ âm học quan sát và khái quát hoá
những sự kiện ngữ âm học có tính chất tinh thần trong lĩnh vực vận dụng
ngôn ngữ của trí óc. Dựa vào tư tưởng của I.A. Baudouin de Courtenay, các
nhà kết cấu luận cũng cho rằng cần phải phân biệt hai mặt trong ngữ âm học.
N.S. Trubetskoy [5] khẳng định: Việc tách rời âm vị học ra khỏi ngữ âm học
là cần thiết về nguyên tắc và trong thực tiễn có thể thực hiện được nhưng khi
trình bày lí luận về âm vị học, ông lại dựa vào những cứ liệu của ngữ âm
học. Điều đó cho thấy giữa âm vị học và ngữ âm học theo nghĩa hẹp của từ
này vốn gắn bó khăng khít với nhau. L.V. Sherba là người kiên quyết phản
đối khuynh hướng tách rời hai mặt đó. Tác giả khẳng định: Có một điều cần
dứt khoát phản đối, là lối tách rời âm vị học với ngữ âm học theo nghĩa hẹp
của từ này (...) Một số người tưởng rằng có thể nghiên cứu âm vị học mà
tách hẳn ra khỏi ngữ âm học. Điều đó không thể làm được cũng như không
thể nghiên cứu chức năng của một hình thái nào mà tách rời ra khỏi những
trường hợp sử dụng cụ thể hình thái đó trong lời nói /Dẫn theo [6,14]/.
Thật vậy, bất kì sự đối lập âm vị học nào, tức là bất kì sự khu biệt nào
(dùng để phân biệt các từ) giữa các âm tố, hay là những loại hình trọng âm,
hay thanh điệu đều căn cứ trên những đặc trưng ngữ âm học nhất định.
Chẳng hạn, khi nói có sự đối lập giữa các phụ âm hữu thanh và vô thanh,
ngạc hoá và không ngạc hoá, lưỡi trước và lưỡi sau, v.v., hay có sự đối lập
giữa nguyên âm tròn môi và không tròn môi, v.v., giữa ngữ điệu đi xuống và
ngữ điệu đi lên, v.v. thì nói cho cùng là người ta đang vận dụng thuần tuý
những khái niệm ngữ âm học, tức là phẩm chất âm học - sinh lí học của các
hiện tượng tương ứng. Khi phân tích và miêu tả các đặc tính cấu âm của một
âm tố nhất định cũng như hiệu quả âm học do nó gây ra không những là sự
phân tích ngữ âm học mà còn đồng thời cũng là việc phân tích âm vị học. Vì
rằng, không thể phân tích âm vị học mà không đếm xỉa đến ngữ âm học. Mặt
khác, việc nghiên cứu mặt âm học - sinh lí học của ngữ âm cũng lệ thuộc
vào mặt âm vị học, tuy điều này không hiển nhiên bằng. Trước hết, khái
niệm âm tố vốn là đơn vị cơ bản của ngữ âm học, thực chất cũng là khái
niệm âm vị học. Bộ môn ngữ âm học khi chưa ra đời âm vị học, tuy chưa nói
đến khái niệm âm vị nhưng đã vận dụng khái niệm này một cách tự phát. Vì
khi nhận xét rằng trong ngôn ngữ này có âm tố nọ, âm tố kia thì đó không
chỉ là liệt kê các đơn vị âm thanh mà còn liệt kê các âm vị khác nhau trong
một ngôn ngữ. Khi nêu các đặc điểm của một âm tố (tức âm vị), một mặt,
dựa vào các đặc điểm cấu âm - âm học làm cho nó phân biệt với âm tố khác,
mặt khác, dựa vào việc nó được sử dụng như một đơn vị khu biệt với các âm
tố khác để phân biệt nghĩa. Như vậy, ngay việc miêu tả một âm tố, ta thấy
hai mặt ngữ âm học và âm vị học gắn bó khăng khít với nhau.
Có thể kể thêm, ngữ âm học lệ thuộc vào âm vị học ở chỗ, các thuộc
tính ngữ âm học của âm vị lệ thuộc ở một mức độ nhất định vào vị trí của nó
trong hệ thống âm vị của một ngôn ngữ nào đó. Chẳng hạn, trong tiếng
Beludzhi có hai âm vị nguyên âm dài /i:/ và /e:/ khu biệt với nhau một phần
vì /i:/ có thể rút ngắn trong một số vị trí ngữ âm nào đấy, trong khi /e:/
không bao giờ rút ngắn đến mức như vậy. Từ góc độ ngữ âm học theo nghĩa
hẹp thì không thể cắt nghĩa hiện tượng này được mà chỉ có thể lí giải hiện
tượng này trong quan hệ với các âm vị nguyên âm khác, đặc biệt với nguyên
âm /i/ (nguyên âm ngắn). Nguyên âm /i/ (ngắn) khác với nguyên âm /i:/
tương ứng không những về trường độ mà còn cả về phẩm chất nữa: nó rộng
hơn nguyên âm /i:/. Trong vị trí ngữ âm học mà /i:/ rút ngắn đến mức tối đa,
và về trường độ trùng với /i/ thì âm vị này lại cấu âm rộng đến nỗi trùng với
/e/ về phẩm chất và không lẫn lộn với /i:/. Mặt khác, trong những trường hợp
này, nó vẫn không lẫn lộn với /e:/ vì /e:/ bao giờ cũng dài hơn. Cho nên, đặc
điểm về lượng khác nhau của của hai âm vị nguyên âm dài /i:/ và /e:/ trong
tiếng Beludzhi - cụ thể là /e:/ không có biến thể ngắn - sở dĩ có là vì trong
các biến thể của /i/ (ngắn) trùng với /e:/ về phẩm chất.
Tính chất lệ thuộc của ngữ âm học đối với âm vị học còn thể hiện ở chỗ
khi miêu tả các thuộc tính cấu âm - âm học của các âm vị. Chẳng hạn, trong
tiếng Gruzi và tiếng Nivkhe đều có phụ âm /p'/ giống nhau về các thuộc tính
ngữ âm học: phụ âm tắc, môi, vô thanh, bật hơi. Song, trong khi nêu rõ đặc
điểm của phụ âm Gruzi cần phải nói thêm nó cấu tạo không kèm theo âm tắc
thanh hầu vì trong tiếng Gruzi còn có một âm môi, vô thanh khác có tiếng
tắc thanh hầu. Còn đối với âm /p'/ trong tiếng Nivkhe vốn không có âm tắc
thanh hầu thì nói thêm điều đó là thừa.
Bài 2: PHÂN ĐOẠN TUYẾN TÍNH
VÀ THỦ PHÁP PHÂN TÍCH ÂM VỊ HỌC
1. Âm tiết, âm tố và âm vị
1.1. Âm tiết (syllable)
Âm tiết (syllable) và âm tố (sound) là hai khái niệm cơ sở cho sự hình
thành bộ môn khoa học nghiên cứu âm thanh tiếng nói loài người cũng như
về cơ cấu ngữ âm của một ngôn ngữ cụ thể. Trong bất cứ công trình ngữ âm
học nào, dù chuyên về thực nghiệm hay xác lập các đơn vị ngữ âm, xây
dựng lí thuyết âm vị học, v.v. bao giờ cũng phải làm việc với hai khái niệm,
hai thuật ngữ cơ bản này.
Trong ngữ âm học cổ điển, âm tố là khái niệm chiếm vị trí trung tâm.
Còn sự khác nhau giữa các trường phái âm vị học đương đại là ở cách quan
niệm về mối quan hệ giữa âm vị và âm tố. Đối với trường phái này, đó là
mối quan hệ giữa khái quát và cá biệt (chủng loại và cá thể); đối với trường
phái kia, đó là mối quan hệ giữa sự kiện tâm lí và sự kiện thể chất, giữa cái lí
tưởng và cái hiện thực giữa sự kiện ngôn ngữ và sự kiện lời nói, v.v..
Đối với các nhà âm vị học, âm tiết dường như chỉ là đơn vị ở vào vị trí ít
được quan tâm, đơn giản chỉ là một đại lượng do các âm vị tổ hợp với nhau
theo một quy tắc nhất định mà thành. Chẳng hạn, theo Connr H. và Trim
Y.L.N. Về mặt âm vị học tốt hơn hết là nên xem âm tiết như là đơn vị cấu
trúc, trong đó thể hiện một cách tiết kiệm nhất các khả năng tổ hợp giữa các
nguyên âm và phụ âm. Còn theo R. Jakobson: Âm tiết là mô hình cơ bản
trong bất kì sự tổ hợp nào giữa các âm vị /Dẫn theo Nguyễn Quang Hồng,
[2, 42]/. Cách hiểu như vậy về âm tiết đã có một lịch sử lâu dài trong ngôn
ngữ học châu Âu để miêu tả các quy luật liên kết âm vị học trong từng ngôn
ngữ khác nhau. Song, theo cách lập thức trên thì âm tiết hầu như không có
chức năng gì khác ngoài mỗi một chức năng là làm cái tổ cho các âm vị có
sẵn liên kết tụ họp lại với nhau để tạo thành vỏ âm thanh của từ ngữ. Trong
thực tế, âm tiết có thể mang nhiều chức năng, song có thể quy thành ba chức
năng chính: a/ Là đơn vị nhỏ nhất dùng để tạo thành lời nói và đồng thời
cũng là đơn vị nhỏ nhất để tiếp nhận lời nói thành tiếng; b/ Âm tiết là đơn vị
nhỏ nhất trong cơ cấu nhịp điệu của lời nói; c/ Trong một số ngôn ngữ, âm
tiết có thể có chức năng tạo lập vỏ tiếng cho các đơn vị ngôn ngữ ở cấp độ
hình thái và do đó, có thể được xem như một đơn vị đặc biệt của hệ thống
ngôn ngữ. Chức năng (a) và (b) là phổ quát cho mọi ngôn ngữ, còn chức
năng (c) chỉ có ở một số ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập âm tiết
tính. Như vậy, trong ngôn ngữ học đại cương, rõ ràng, âm tiết là là một đơn
vị ngữ âm khá phức tạp. Nó có thể được nghiên cứu và xác định hoặc là
thuần tuý vật chất cấu âm - âm học, hoặc từ bình diện chức năng ngôn ngữ
học. Hệ quả, các nhà ngữ học đã đưa ra nhiều định nghĩa về âm tiết trên từng
khía cạnh đó. Cố nhiên, cũng có những nhà ngữ học mong muốn tìm đến
một định nghĩa sao cho bao hàm được hầu hết tính chất của âm tiết. Chẳng
hạn, R. K. Potarova (1975): Đó là một tổng thể các đơn vị đoạn tính và siêu
đoạn tính, tạo thành một cấu trúc tương đối ổn định mang những đặc trưng
khách quan nhất định (về cấu âm và âm học), hoạt động trong lời nói và
được người bản ngữ phân định ra trong quá trình tiếp nhận dòng ngữ lưu
/Dẫn theo Nguyễn Quang Hồng, 2, 53/. Thế nhưng, cũng có nhiều nhà ngữ
học nghi ngờ tính hiệu quả của những định nghĩa tổng hợp như thế về âm
tiết và cho rằng không thực hiện được và chẳng cần thiết phải làm cái công
việc đó (L.V. Zlatoustova, A.A. Banin, 1978, v.v.).
Liên quan đến đơn vị âm tiết còn có các vấn đề như nhận diện âm tiết
trong ngữ lưu, cấu tạo âm tiết, phân loại âm tiết, v.v.. Vấn đề gây tranh cãi
nhiều nhất trong lí thuyết về âm tiết là vấn đề phân giới âm tiết. Từ trước
đến nay, các nhà ngữ học đã đưa ra nhiều lí thuyết nhận diện âm tiết mà
phần lớn trong số đó đều tiếp cận trên quan điểm ngữ âm học, tức là dựa vào
cứ liệu về cấu âm - âm học của hiện tượng âm tiết. Dựa trên cơ sở cấu âm có
lí thuyết ngắt hơi của R.H. Stéton (Mĩ), lí thuyết độ căng của L. Roudet và
N. Grammont (Pháp), được L.V. Sherba (Nga) phát triển đầy đủ. Theo tiêu
chí âm học, có lí thuyết độ vang mà đại biểu là O. Jespersen (Đức), lí thuyết
về cường độ của N.T. Jinkin. Một số nhà ngữ học như B. Hala, N.T. Jinkin,
L.A. Chistovich,... kết hợp các tiêu chí cấu âm và âm học, cố gắng nhận diện
âm tiết một cách tổng hợp. Một số nhà ngữ học khác như E.N. Vinarskaja,
N.I. Lepskaja, E.B. Trofimova, v.v. đặt vấn đề phân giới âm tiết (trong tiếng
Nga) theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học tâm lí (tức là cảm thức của người
bản ngữ). Đối với vấn đề cấu tạo âm tiết, các nhà ngữ học xuất phát từ cách
hình dung âm tiết như là một sự tổ hợp các âm tố (âm vị) để tạo nên âm tiết
trong từng ngôn ngữ cụ thể. Thế là, người ta đã xác lập nhiều lí thuyết khác
nhau về cấu trúc âm tiết. Trong các ngôn ngữ khác nhau, âm tiết được cấu
tạo theo nhiều kiểu đa dạng, được quy định bởi số lượng và trật tự phân bố
của các phụ âm so với nguyên âm trong thành phần âm tiết. Trong mỗi ngôn
ngữ cũng có thể có nhiều kiểu cấu trúc âm tiết khác nhau nhưng có thể coi
kiểu CVC (phụ âm + nguyên âm + phụ âm) và CV (phụ âm + nguyên âm) là
những kiểu cấu trúc phổ quát cho các ngôn ngữ trên thế giới.
Vấn đề phân loại âm tiết, có thể trong từng ngôn ngữ có nhiều cách phân
loại âm tiết theo từng tiêu chí được xác lập nhưng cách phân loại âm tiết có
tính phổ quát là phân loại theo cách kết thúc âm tiết, theo đó cho ta hai loại
âm tiết là âm tiết mở (âm tiết hở) và âm tiết khép (âm tiết đóng).
1.2. Âm tố và âm vị
Âm tố là đơn vị âm thanh ngắn nhất của lời nói, không thể chia cắt được
nữa về thời gian, phẩm chất của nó được tai ta tri giác một cách ổn định, một
đại lượng tách biệt. Theo cách hiểu thông thường của các nhà ngữ học, âm
tố là sự kiện vật chất (cấu âm - âm học) có thể được phân định rạch ròi bằng
vào sự phân tích thuần tuý về mặt cấu âm hoặc âm học trong dòng ngữ lưu.
Vậy, âm tố là một chiết đoạn âm thanh, một âm đoạn có thể được ghi lại
bằng một chữ cái của mẫu tự ngữ âm học quốc tế, còn gọi là ký hiệu API
(API = Alphabet Phonétique Internationale). Ngữ âm học truyền thống châu
Âu hình dung ngữ lưu như một dãy âm tố đoạn tính nối tiếp nhau thành một
tuyến theo thời gian, nghĩa là, những âm tố như những chất liệu dễ dàng tách
riêng ra; người ta tưởng tượng có thể cắt ra được như cắt bằng kéo. Nhưng
trên thực tế, dòng âm thanh được phát ra không hề hiện diện những khúc
đoạn âm thanh tối thiểu tách bạch như vậy. Các âm tố trong ngữ lưu không
hề giống như những hạt cườm trong chuỗi cườm hay như những viên gạch
nối tiếp nhau trong mạch tường mà chúng chuồi lẫn vào nhau, khó lòng phân
định rạch ròi ranh giới giữa các âm tố. Kết quả của các nghiên cứu thực
nghiệm cũng cho thấy không thể xác định được ranh giới giữa các âm tố nếu
chỉ dựa thuần tuý vào cấu âm - âm học. Dù trên bình diện cấu âm hay âm
học, ngữ lưu đều cho thấy một sự chuyển động liên tục. Các âm tố làm thành
một âm tiết không hề được phát ra lần lượt âm trước âm sau và cũng không
nghe ra lần lượt như thế. Mọi hoạt động cấu âm nhằm chuyển giao những
thông báo cần thiết cho việc nhận diện các đơn vị ngôn ngữ đều được thực
hiện đồng thời. Vì vậy, một số nhà nghiên cứu sinh lí học và âm thanh học
thậm chí còn đề nghị trong khoa ngữ âm học nên bỏ khái niệm âm tố vì nó là
một cái gì không hiện thực. Từ cuối thế kỉ XIX, một số nhà ngữ học, chẳng
hạn, G. Pau (Đức) cho rằng: Chia tách từ ra các yếu tố hợp thành nó là một
công việc không chỉ là khó khăn mà không thể làm được. Từ không phải là
một hợp nhất cơ giới một số lượng các âm tố đơn lẻ được thể hiện dưới dạng
các chữ cái mà hoàn toàn ngược lại bao giờ cũng là một chuỗi liên tục của
một tập hợp các yếu tố âm thanh mà chữ cái ở một chừng mực nào đó đánh
dấu những điểm đặc trưng nhất định trong chuỗi âm thanh đó mà thôi /Dẫn
theo Nguyễn Quang Hồng, [2,13]/.
Thế nhưng, việc sáng tạo và xây dựng các hệ thống chữ viết ghi âm
trong thế giới cổ đại rõ ràng không thể tách rời sự hình dung về các âm tố
tách biệt trong lời nói. Khi nảy sinh ý định đặt ra chữ viết ghi âm, trước hết,
phải có được những ấn tượng nhất định về sự tách bạch của các âm tố và đó
là tiền đề làm nảy sinh và bảo đảm cho nhu cầu xây dựng chữ viết ghi âm
được thực hiện. Sau đó, hoạt động thực tiễn của chữ viết ghi âm có tác dụng
củng cố những ấn tượng về sự tồn tại của các âm tố tách biệt trong lời nói.
Trước thực tế này, các nhà ngữ học đã lí giải sự tồn tại khách quan của các
âm tố theo nhiều cách khác nhau nhưng đều cho rằng âm tố là một chiết
đoạn âm thanh dễ dàng phân xuất trong ngữ lưu chỉ cần dựa vào cấu âm hay
âm học. Ngay cả F. de Saussure cũng xem ngữ lưu như một chuỗi âm thanh
tuyến tính và được tác giả đề lên thành một nguyên lí cơ bản của ngôn ngữ.
Mặt năng biểu của ngôn ngữ, vốn có tính âm thanh từ bản chất, chỉ diễn ra
trên một chiều thời gian mà thôi và mang những đặc tính mà nó vay mượn
của thời gian: a. nó có một kích thước, và b. cái kích thước ấy chỉ có thể đo
trên một chiều: đó là một đường thẳng (F. de Saussre, 1916).
Ở đây ta có thể thấy một đặc tính tối quan trọng của chất liệu âm thanh
chưa được nêu lên thật rõ, là nó xuất hiện trước mắt ta như một chuỗi, và do
đó tất nhiên phải mang một đặc tính của thời gian chỉ là một chiều duy nhất.
Có thể gọi đặc tính đó là tính hình tuyến hay tuyến tính, và điều đó có một
tầm quan trọng vô cùng đối với tất cả các quan hệ được xác lập về sau.
Những sự khu biệt về chất chỉ có thể được thể hiện lần lượt mà thôi (...). Tất
cả đều làm thành một tuyến cũng như trong âm nhạc vậy (F. de Saussre
trong Godel, 1957).
Tuyến âm thanh phải được cắt ra như cắt bằng kéo (...). Chính nhờ đó
mà các đơn vị được khẳng định (F. de Saussre trong Godel, 1957).
Một ngữ đoạn, dù ngắn dài ra sao, cũng bao hàm một trật tự, một sự kế
tiếp tuyến tính (...). Sở dĩ ta có thể cắt rời các từ ra được chính là nhờ một
trong những hệ quả của nguyên lí này (F. de Saussre, 1916).
Có lẽ, L.V. Sherba là người đầu tiên lí giải trên quan điểm chức năng về
tính tách biệt và khả năng phân định các âm tố trong lời nói thành những
đơn vị âm thanh riêng biệt. Theo L.V. Sherba, mọi đơn vị âm thanh của lời
nói, trong đó có âm tố, đều có thể phân xuất ra khi có sự tác động của nhân
tố ý nghĩa. Sở dĩ, chúng ta có được ấn tượng về sự chia tách lời nói vì có sự
lỉên hệ nào đó giữa các nhân tố ý nghĩa với các yếu tố âm thanh. Kết quả,
chúng ta phân xuất ra được các âm như a, e, i, o, k, b, l, m, v.v..
Năm 1912, trong công trình Những nguyên âm Nga, L.V. Sherba đã
chứng minh chính mối quan hệ giữa các yếu tố âm thanh với các yếu tố ý
nghĩa là điểm xuất phát để phân chia ngữ lưu ra thành các âm tố riêng biệt.
Tác giả viết: Nhưng số là các yếu tố biểu tượng về ý nghĩa thường được liên
hệ với các yếu tố biểu tượng về âm thanh, chẳng hạn, âm l trong các từ пил
(uống), Бил (đánh), дала (cho) được liên hệ với biểu tượng thời quá khứ, a
trong các từ корова (con bò), вода (nước), liên hệ với biểu tượng chủ ngữ,
u trong các từ корову, ваду liên hệ với biểu tượng đối tượng (...). Nhờ
những sự liên hội như vậy mà các yếu tố biểu tượng về âm thanh có được
một tính chất độc lập nhất định /Dẫn theo [6,44]/.
Như vậy, việc phân chia ngữ lưu là do những nhân tố thuần ngôn ngữ
học quy định, nghĩa là, nó lệ thuộc vào hệ thống của từng ngôn ngữ cụ thể
(cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ). Điều đó, phải dùng đến khái niệm âm
vị (phoneme) - đơn vị âm thanh nhỏ nhất không thể chia theo chiều dọc của
một ngôn ngữ. Trong trường hợp này, âm tố chỉ là sự phản ánh âm vị, là
hình thức tồn tại của âm vị trong lời nói. Cả hai khái niệm này tuy có đối lập
nhau như ngôn ngữ và lời nói nhưng lại liên hệ khăng khít với nhau.
Tuy nhiên, nếu triệt để đi theo nguyên tắc này ta phải tính đến một tình
huống, trong một ngôn ngữ nào đó, không phải là các âm tố (âm vị) mà là
các âm tiết nguyên vẹn mới có khả năng liên hệ với các yếu tố ý nghĩa thì
thay vào các ấn tượng âm tố, trong cảm thức của người bản ngữ sẽ nổi lên
các ấn tượng âm tiết riêng biệt. Điều này đã được E.D. Polivanov (1935)
chứng minh trên tài liệu tiếng Hán.
Trở lại vấn đề trên, ta thấy, L.V. Sherba và trường phái của ông coi
nguyên lí trên chẳng những có ý nghĩa về nhận thức luận mà quan trọng hơn
còn có vai trò quyết định trong việc xây dựng phương pháp phân chiết âm vị
học, từ đó, xác lập các âm vị như những đơn vị ngữ âm ngắn nhất của một
hệ thống ngôn ngữ nhất định. Trên quan điểm này mà xét, việc phân chia
ngữ lưu thành những âm tố riêng biệt, về nguyên tắc, cũng là việc phân chiết
âm vị học để có các âm vị độc lập. Bởi lẽ, khi bắt tay nghiên cứu hệ thống
ngữ âm của một ngôn ngữ nào đó, nhà khoa học buộc phải phân chia lời nói
thành âm tố với sự chấp nhận ở đây khái niệm âm tố lời nói ít nhiều mang
tính giả định và quy ước được coi như một đại lượng siêu ngôn ngữ để làm
chỗ dựa cho công việc phân tích ngôn ngữ học tiếp theo. Theo Baudouin de
Courtenay, khái niệm âm tố bao gồm ba nhân tố sau đây: a/ Một thực thể cấu
âm - âm học đơn chất mà bao giờ cũng mang tính chất tương đối, bởi vì,
trong đó cũng có những động tác cấu âm và âm hưởng chuyển tiếp, b/ Một
yếu tố tâm lí nào đó khiến người bản ngữ và cả nhà khoa học nhận định rằng
những động tác cấu âm và âm hưởng chuyển tiếp như vậy là không quan yếu
cho việc xác định âm tố đang xét, c/ Một tính chất ngoài ngôn ngữ, tức là,
âm tố đang xét chưa được xác nhận giá trị đích thực của nó trong một hệ
thống ngôn ngữ nhất định /Dẫn theo Nguyễn Quang Hồng, [2,21-22]/. Áp
dụng định nghĩa của Baudouin de Courtenay về âm tố vào công việc phân
định âm tố trong ngữ lưu, chúng ta phải đụng chạm đến một loạt các thao tác
khác như:
Theo nhân tố (a), cần phải dựa vào định đề về ba giai đoạn cấu âm gồm
giai đoạn tiến, giai đoạn giữ và giai đoạn lùi. Theo nhân tố (b), phải đề cập
đến việc phân chiết và đồng quy tiền âm vị học đối với các cứ liệu âm thanh
lời nói. Còn nhân tố (c), nhắc nhở ta phải khách quan trong việc xử lí các kết
quả đã đạt được (tức các âm tố) trước khi thực sự bắt tay vào việc phân tích
âm vị học đối với các cứ liệu đó.
Nói đến âm vị là ta đang bàn đến câu chuyện hết sức phức tạp. Khái
niệm âm vị (phoneme) - vấn đề trung tâm của các lí thuyết âm vị học được
các nhà ngữ học xác lập bằng nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau.
Người đầu tiên đưa ra cách xác lập âm vị, đặt nền móng cho sự ra đời của bộ
môn âm vị học sau này là Baudouin de Courtenay. Theo ông, có thể gọi âm
vị là những yếu tố sống động của ngôn ngữ, được thể hiện ra trên phương
diện phát âm vốn là đơn giản nhất, không thể chia cắt được nữa về mặt ngôn
ngữ. Đó là những đơn vị âm - tâm lí khác với âm tố chỉ đơn giản là những
đơn vị âm thanh không phụ thuộc vào ý thức ngôn ngữ. Theo Baudouin de
Courtenay, âm vị là những đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của một hệ thống ngôn
ngữ nhất định mà người bản ngữ có thể phân định và nhận diện được.
N.S. Trubetskoy cho ta hai cách lập thức: 1/ Các đơn vị âm vị học mà xét
trên quan điểm của thứ tiếng đang xét không thể cắt ra thành những đơn vị
kế tiếp ngắn hơn, 2/ Các tập hợp gồm những nét đặc trưng quan yếu của một
âm thanh (Nguyên lí âm vị học, 1939).
R. Jakobson định nghĩa: Một bộ gồm những nét khu biệt cùng xuất hiện
(...). Các nét khu biệt được xếp thành từng chùm đồng thời xuất hiện gọi là
âm vị; các âm vị được ghép lại với nhau thành những chuỗi kế tiếp
(Jakobson và Halle, 1956).
A. Martinet (1940) định nghĩa âm vị như một chùm nét khu biệt được
thực hiện đồng thời.
Còn trường phái Praha định nghĩa âm vị: Âm vị là đơn vị khu biệt âm
thanh nhỏ nhất có tham gia vào thế đối lập âm vị học về trật tự thời gian.
Âm vị là đơn vị âm vị học tuyến tính nhỏ nhất.
Tác giả Đoàn Thiên Thuật thì cho rằng: Đơn vị nhỏ nhất của hệ thống
biểu đạt thành tiếng của một ngôn ngữ, được quan niệm như một tổng thể
của những nét khu biệt được thể hiện đồng thời (Đoàn Thiện Thuật - Ngữ
âm tiếng Việt, Nxb ĐH & THCN, H.1977, tr.49).
Cao Xuân Hạo tổng kết: Trong các lí thuyết không vật lí luận của âm vị
học hiện đại, đơn vị âm vị học cơ bản của ngôn ngữ - âm vị - được định
nghĩa bằng những định tính thuộc hai bình diện khác nhau: bình diện chức
năng (khu biệt), tức một bình diện của ngôn ngữ học, hay hình thức; và bình
diện thời gian, tức một bình diện thể chất hay vật lí. Âm vị, một là được định
nghĩa như đơn vị âm vị học (nghĩa là có tác dụng khu biệt) không thể phân
tích thành những đơn vị nhỏ hơn kế tiếp nhau theo thời gian, hai là được
định nghĩa như một tập hợp (một bộ, một chùm) nét khu biệt được thực hiện
đồng thời - thật ra, đó là hai cách trình bày khác nhau của chính hai cái
định tính ấy mà thôi [1,28-29].
Cũng theo Cao Xuân Hạo, khái niệm âm vị được định tính bằng các biểu
thức tính đồng thời và tính kế tiếp là chứa đầy những sự nhầm lẫn, là một ảo
giác khi hình dung về tính chiết đoạn của ngữ lưu dựa vào các dữ kiện vật lí
khách quan. Khái niệm âm vị theo các nhà ngôn ngữ học chức năng luận
(N.S. Trubetskoy, A. Martinet, R. Jakobson) là thiếu minh xác, chưa thức
nhận bằng những định tính thực sự ngôn ngữ học. Cách duy nhất để làm việc
đó là thay những định tính hư ảo như tính đồng thời, tính kế tiếp đang hiện
diện hay hàm ẩn trong các định nghĩa trên bằng các biểu thức hiển ngôn hoá:
Một tập hợp gồm những nét khu biệt có tham gia thế đối lập về trật tự thời
gian bên trong các đơn vị ở cấp cao hơn mà nó khu biệt; hay diễn đạt một
cách ngắn gọn hơn: đơn vị âm vị học nhỏ nhất mà sự hoán vị có tác dụng
khu biệt [1,45]. Tác giả còn giải thích thêm:
Khi một đơn vị ngôn ngữ tham gia vào thế đối lập về trật tự thời gian,
nghĩa là, trong một ngôn ngữ mà sự khác nhau giữa hai tổ hợp ab và ba là
quan yếu, thì tổ hợp ấy được phân xuất ra một cách tự phát trong cảm thức
của người bản ngữ, và hai thành phần của nó được tri giác như hai âm đoạn
kế tiếp nhau trên tuyến thời gian. Sở dĩ người bản ngữ của các thứ tiếng châu
Âu tách được âm tiết ra thành hai hay nhiều âm tố và tri giác các âm tố ấy
như những chiết đoạn kế tiếp nhau chính là vì lẽ ấy. (So sánh, tiếng Nga: kot
(con mèo), kto (ai), tok (dòng), ta thấy, trật tự trước sau của các âm tố [k],
[t], [o] có tác dụng khu biệt nghĩa của các hình vị).
1.3. Truyền thống ngôn ngữ học châu Âu và Trung Hoa với việc xác lập các
đơn vị ngôn ngữ
Nhà ngôn ngữ học hiện đại Ba Lan J. Kurylowicz khẳng định một cách
xác đáng rằng, một ngôn ngữ bao giờ cũng thể hiện dưới dạng những câu
nói và dưới dạng những âm tiết. Theo ông, khoa học về ngôn ngữ phải đi
theo cái trình tự là: bắt đầu từ những chỉnh thể (tức những câu nói và những
âm tiết) rồi từ đó phân chiết ra các đơn vị hợp thành những chỉnh thể ấy theo
từng cấp bậc cấu trúc khác nhau, chẳng hạn, từ câu xác định từ, từ âm tiết
xác định âm vị, v.v.. Thế nhưng, ngôn ngữ học cổ điển châu Âu đã thực hiện
theo một trình tự ngược lại trong việc xác lập các đơn vị ngôn ngữ. Quả là,
trong việc xác lập các đơn vị thuộc cấp độ cấu trúc ngữ âm, truyền thống
ngôn ngữ học châu Âu kể từ ngữ văn học cổ điển Hi - La cho đến các công
trình âm vị học hiện đại đều đi theo một trình tự ngược chiều. Người ta chú
ý trước tiên đến các âm tố (nguyên âm và phụ âm), qua đó, xác lập các âm vị
(trong sự liên hệ với chữ cái), rồi cuối cùng mới thuyết minh về các âm tiết
như những đại lượng âm thanh do sự tổ hợp giữa các âm vị (âm tố) mà
thành. Âm tố, trong quá trình này, từ đầu chí cuối được hình dung như một
khúc đoạn âm thanh ngắn nhất có thể quan sát được mà không cần biện giải.
Trên đại thể, công việc của nhà nghiên cứu chỉ ghi chép các âm tố trong
những từ riêng lẻ (theo quan niệm ngôn ngữ của mình) bằng các kí hiệu kế
tiếp nhau rồi trên cơ sở đó tiến hành quy loại chúng thành những tập hợp
nhất định - những âm vị. Như vậy, nội dung chủ yếu của việc xác lập các
đơn vị ngữ âm cơ bản trong một ngôn ngữ là đồng quy các âm tố cho sẵn
thành những âm vị theo một số tiêu chí âm thanh và chức năng nhất định.
Nếu âm tố - đại lượng âm thanh tỏ ra mập mờ vì tính khúc đoạn và tính
phân giới của nó không hề được chứng minh nhưng được ngôn ngữ học châu
Âu đưa lên hàng đầu và làm điểm xuất phát để phân tích âm vị học thì âm
tiết là đại lượng âm thanh tỏ ra hiển nhiên hơn nhiều trong lời nói lại không
được châu Âu chú ý. Đối với âm tiết, điều mà châu Âu quan tâm lại là vấn
đề phân giới âm tiết trong ngữ lưu.
Một quang cảnh khác hẳn hiện lên trước mắt chúng ta khi nhìn vào ngôn
ngữ học cổ điển Trung Hoa. Khác với truyền thống châu Âu, ở đây, người ta
xác lập các đơn vị ngữ âm trong sự độc lập hoàn toàn với chữ viết và ngữ
pháp, song lại có phần gắn liền với việc khảo sát âm vận thi ca. Do đó, ngữ
âm học cổ điển Trung Hoa được gọi là âm vận học. Trong âm vận học Trung
Hoa, hoàn toàn vắng mặt khái niệm âm tố nguyên âm và phụ âm, ngược lại,
âm tiết mang thanh điệu (thường được gọi đơn giản là âm hay tự âm, tức là
âm đọc một chữ vuông Hán) được đưa ra khảo sát ngay từ đầu như một
chỉnh thể cho sẳn. Những chỉnh thể âm thanh như vậy đều được miêu tả và
phân loại thông qua việc phân tích cấu trúc của chúng một cách tỉ mỉ, và kết
quả là lập nên các vận thư (sách vần, như Quảng vận, thế kỉ XI), đặc biệt,
các vận đồ (bảng tra vần, như Vận kính, thế kỉ XV), trong đó, mỗi âm tiết
đều được sắp xếp vào một vị trí xác định. Vấn đề phân giới âm tiết không hề
được chú ý, trái lại, việc phân chia âm tiết ra thành các đơn vị ngắn hơn
trong thành phần cấu trúc của nó được các nhà âm vận học Trung Hoa thực
hiện một cách nghiêm ngặt và rõ ràng. Với biện pháp phiên âm chữ Hán, gọi
là phiên thiết (hay phản thiết), thí dụ, đông: đức + hồng, người Trung Hoa
đã tiến hành phân chiết mỗi âm tiết trong ngôn ngữ của mình thành hai đơn
vị tiếp nối nhau và có vị trí cố định trong cấu trúc âm tiết là thanh mẫu (âm
đầu) như đ- và h- trong ví dụ trên, và vận mẫu (vần cái) như -ưc và -ông.
Mặt khác, thông qua quy tắc song thanh điệp vận (láy âm đầu, láy vần),
trong gieo vần thơ, v.v., người Trung Hoa đã đồng quy các âm đoạn này
thành một số lượng hữu hạn các đơn vị ngữ âm ở cấp độ dưới âm tiết, tương
đương phần nào với cấp độ âm vị trong ngôn ngữ học châu Âu.
Sau này, khi tiếp xúc với ngữ âm học châu Âu, người Trung Hoa mới bắt
đầu phân tích cấu trúc các âm tiết tiếng Hán theo mô hình bốn thành tố kế
tiếp nhau (đoạn tính) tương đương với bốn âm tố (và một thành tố thanh
điệu siêu âm đoạn tính). Song, dẫu vậy, người ta vẫn tiếp tục hình dung mỗi
âm tiết mang thanh điệu như một chỉnh thể nguyên vẹn qua cách gọi tên bốn
thành tố là đầu (đầu), cổ (cảnh), mình (phúc), đuôi (vĩ), và thanh điệu gọi là
hồn (thần).
Tóm lại, trong khi xác lập và miêu tả các đơn vị ngữ âm, âm vận học
Trung Hoa đã đi theo một trình tự xuôi chiều, từ chỉnh thể (âm tiết) đến các
tạo tố, một trình tự hoàn toàn khác hẳn truyền thống ngữ âm học châu Âu.
2. Thực tế ngữ liệu và phân tích âm vị học
2.1. Dẫn nhập
Cá hai nền ngôn ngữ học cổ điển châu Âu và Trung Hoa đều cùng thực
hiện nhất quán một nguyên tắc miêu tả ngôn ngữ học chung là miêu lả từ
bên trong, tức là từ bản thân ngôn ngữ đang xét, phù hợp với cảm thức của
người bản ngữ. Qua tìm hiểu chung về hai truyền thống, chúng ta tiếp tục
tìm hiểu sâu hơn về cách xử lí các ngữ liệu thực tế ở mỗi truyền thống trong
việc phân tích ngôn ngữ học. Trước hết, chúng ta hãy so sánh truyền thống
ngôn ngữ học cổ điển châu Âu, mà cụ thể là truyền thống âm vị học Nga với
âm vận học cổ điển Trung Hoa.
2.2. Truyền thống ngôn ngữ học châu Âu
Khi đặt nền móng cho lí thuyết âm vị, Baudouin de Courtenay đã xây
dựng những khái niệm cơ bản cho âm vị học trên thực tế ngữ liệu của các
ngôn ngữ châu Âu như tiếng Nga, tiếng Ba Lan, tiếng Litva, tiếng Latinh,..,
trong đó, cứ liệu quan trọng nhất mà tác giả dựa vào để xác lập các phạm trù
âm vị học chính là hiện tượng luân phiên ngữ âm, tức là sự chuyển hoán các
âm tố theo các lớp lang khác nhau. Để thuyết minh về các hiện tượng ngữ
âm, Baudouin de Courtenay đã tiến hành phân loại ở diện đồng đại tất cả các
loại luân phiên ngữ âm, trong đó, có ba loại chính: a/ luân phiên ngữ âm liên
quan đến ngữ pháp, như hodit (nó đi) - rashazhivaet (nó đi đi lại lại), trong
đó, có sự chuyển hoán các âm [o] với [a], [d'] (d) với [z'] (zh); b/ luân phiên
ngữ âm tự nhiên như voda (nước), nguyên cách - vodu (nước), thuộc cách,
trong đó, âm [o] (o) mang trọng âm chuyển đổi thành [a] (o) không mang
trọng âm; c/ luân phiên ngữ âm bất thường như muha (ruồi nhặng) - moshka
(ruồi con), trong đó, có sự chuyển đổi [u] với [o] một cách hơi ngẫu nhiên.
Một học trò của Baudouin de Courtenay là N.V. Krushevskij đã cố gắng xác
định rõ hơn tính chất của từng loại luân phiên ngữ âm và đưa ra những thuật
ngữ mới. Chẳng hạn, những âm tố chuyển hoán với nhau theo điều kiện vị
trí xuất hiện gọi là biến dạng, biến thể (divergent). Còn các âm tố thuộc hai
nhóm luân phiên khác, không bị vị trí xuất hiện chi phối thì gọi là thế tương
liên (correlat). Chính sự đổi mới cách phân loại các hiện tượng luân phiên
ngữ âm như thế đã đặt nền móng cho sự ra đời khoa âm vị học (M.V.
Panov).
Thế là, đối với các nhà ngôn ngữ học Nga, ngữ liệu thực tế đầu tiên để
xác lập các đơn vị ngữ âm là những âm tố chuyển hoán với nhau theo sự chi
phối của vị trí xuất hiện của chúng (tức là hiện tượng divergent). Để khái
quát và đồng quy các âm tố như thế thành những đơn vị ngữ âm cơ sở của hệ
thống ngữ âm, theo Baudouin de Courtenay là phải gạt bỏ kì hết những gì là
ngẫu nhiên trong sự luân phiên ngữ âm và thay tất cả những biến dạng khác
nhau của cùng một âm duy nhất bằng cách dùng một cách biểu đạt chung
cho nó. Một khái niệm bao quát như thế không thể là khái niệm thuộc về bản
thể vật chất của âm tố mà phải là một sự khái quát ngữ âm. Kết quả của sự
khái quát ngữ âm như thế, Baudouin de Courtenay gọi là âm vị (phoneme).
Rõ ràng là, từ thực tế luân phiên, chuyển hoán các âm tố một cách có quy tắc
trong hình vị để thực hiện tạo từ hoặc tạo dạng từ chính là những cuộc tìm
kiếm trong lịch sử âm vị học thuộc truyền thống âm vị học Nga.
Luân phiên ngữ âm còn gọi là trắc nghiệm giao hoán. Vì âm vị, do chính
định nghĩa của nó là đơn vị tự mình có thể phân biệt các đơn vị mang nghĩa,
cho nên, để kiểm nghiệm tư cách âm vị của các âm tố, người ta sử dụng thủ
pháp giao hoán, một thủ pháp còn có tác dụng phân xuất âm vị trong ngữ
lưu. Chẳng hạn, cho một khối tư liệu gồm toàn bộ vốn từ của một ngôn ngữ
nhất định được phiên âm bằng kí hiệu API, trong đó, liệt kê cả thảy bốn
nguyên âm a, i, ɨ và u. Vấn đề đặt ra là, kiểm nghiệm tính quan yếu của sự
khác nhau giữa bốn âm tố ấy, tức là mỗi âm tố với tất cả các âm tố còn lại.
Muốn vậy, người ta tìm trong vốn từ ngữ của ngôn ngữ đang xét những từ
khác nhau nhờ các nguyên âm ấy.
Trong số những từ ấy, ta thấy ba từ gần đồng âm bat, bit, but, làm thành
ba cặp tối thiểu là bat/bit, bit/but, và but/bat. Nếu quả thật, trong mỗi cặp
như thế, hai từ được người bản ngữ công nhận là có nghĩa khác nhau, người
ta nói rằng, có sự giao hoán giữa a và i, giữa i và u, giữa u và a (các nguyên
âm ấy có thể giao hoán với nhau hoặc ở vào thế giao hoán với nhau). Nghĩa
là, nếu trong một từ, ta thay thế nguyên âm này bằng nguyên âm kia, ta sẽ có
một từ khác của thứ tiếng đang xét. Ta có thể kết luận rằng, sự khác nhau về
vật chất được ghi nhận trong khi phiên âm các từ này có khả năng tự mình
phân biệt các từ của ngôn ngữ đang xét, nó có tính chất quan yếu ngôn ngữ
học, các nguyên âm hữu quan được thừa nhận là ở vào thế đối lập âm vị học
trong một chu cảnh đồng chất, và do đó, là hai âm vị khác nhau.
Vì trong khối tư liệu không có từ bɨt, mà chỉ có bɨk, và mặt khác, từ bik
lại không thấy có trong ngôn ngữ đó, vậy nên, không thể tìm ra một cặp từ
tối thiểu cho thấy có sự đối lập giữa i và ɨ, ta nói rằng, hai âm này ở vào thế
bổ sung cho nhau, rằng giữa hai âm này không có sự giao hoán (không thể
giao hoán với nhau), như thế có nghĩa là, nếu trong một từ, ta thay âm này
bằng âm kia thì sự thay thế đó không cho ta một từ khác của ngôn ngữ đang
xét. Vậy, sự khác nhau về vật chất mà ta đã ghi nhận khi phiên âm hai từ
này, tự nó không thể phân biệt các từ trong ngôn ngữ đó, tức nó không có
tính quan yếu ngôn ngữ học thì không phải là hai âm vị khác nhau mà chỉ là
hai biến thể kết hợp (variantes cmbinatoires), hay biến thể chu cảnh
(variantes contexuelles) của một âm vị. Sau khi làm trắc nghiệm giao hoán,
ta có được một cách phiên âm phản ánh được tất cả những sự phân biệt quan
yếu trong ngôn ngữ đang xét, tức là xác lập được cấu trúc âm vị học của
ngôn ngữ đó.
2.3. Âm vận học cổ điển Trung Hoa
Trong lĩnh vực miêu tả âm vị học, lí thuyết âm vận học cổ điển Trung
Hoa tỏ ra hết sức cần thiết đối với các ngôn ngữ không biến hình, đặc biệt là
các ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính ở phương Đông. Rất tiếc là, lí thuyết này,
cho đến nay, vẫn chưa được đánh giá một cách đầy đủ và thoả đáng trên
quan điểm của âm vị học đại cương. Âm vận học Trung Hoa, trên thực tế đã
đặt ra và giải quyết ba nhiệm vụ miêu tả và phân tích âm vị học (âm vận
học) đối với các âm tiết mang thanh điệu trong các ngôn ngữ thuộc loại hình
ngôn ngữ đơn lập: a/ chia tách âm tiết ra thành các đại lượng nhỏ hơn, tức là
những đơn vị ngữ âm (hay những đơn vị miêu tả âm vị học dưới cấp độ âm
tiết), b/ xác lập và miêu tả các thành tố đoạn tính và siêu đoạn tính trong cấu
trúc âm tiết, c/ miêu tả và phân tích hệ thống âm tiết của ngôn ngữ trên diện
đồng đại và cả lịch đại (nhiệm vụ này thường được giải quyết đồng thời với
nhiệm vụ thứ hai).
Thật vậy, âm vận học cổ điển Trung Hoa nghiên cứu mặt âm thanh của
chữ vuông Hán mà trên thực tế là trùng khít với âm tiết mang thanh điệu. Bộ
môn này thực sự quan tâm đến việc phân tích âm tiết trên phương diện ngữ
âm - âm vị học, về thực chất là một thứ ngữ âm - âm vị học về âm tiết, trong
đó, bao giờ cũng xuất phát từ âm tiết và lấy âm tiết làm trung tâm (một thứ
ngữ âm - âm vị học khác hẳn với truyền thống ngôn ngữ học châu Âu lấy âm
tố làm trung tâm cho mọi sự phân tích và miêu tả).
Trước hết, để phân đoạn âm tiết tiếng Hán (phân chiết âm tiết), âm vận
học Trung Hoa dùng phép phiên thiết , còn gọi là phản thiết .
Theo phép phiên thiết, mỗi chữ Hán sẽ được chú âm thông qua hai chữ Hán
khác mà âm đọc của chúng có phần tương đồng với chữ đã cho theo công
thức chung X: AB thiết ( ), trong đó:
X: chữ Hán cần chú ý âm đọc
A, B: hai chữ Hán dùng để phiên
thiết: có nghĩa là chia cắt (hoặc láy lại) đối với A và B
Ví dụ, chữ điền (ruộng) được chú âm bằng hai chữ khác là đồ (đường
đi) và niên (năm) như sau: điền, đồ niên thiết. Theo cách
này, để có được âm đọc chữ điền, ta phải chia cắt âm đọc của chữ đồ
và chữ niên thành từng phần rồi chỉ lấy phần âm đầu của âm đọc chữ
phiên thứ nhất và phần sau của âm đọc chữ phiên thứ hai, kể cả thanh điệu.
Ghép hai phần này lại sẽ cho ta một âm tiết mới, đó là âm đọc chữ điền:
điền (đ+iên) = đồ (đ+ô) niên (n+iên).
Như vậy, phép phiên thiết đã thực hiện một thao tác tách đôi âm tiết đã
cho, tức là, chia cắt các âm tiết theo quan hệ tuyến tính thành âm đầu (thanh
mẫu) và vần cái (vận mẫu). Phép phiên thiết được hình dung như một thủ
pháp ngôn ngữ học để chú âm cho chữ Hán, nhưng đồng thời cũng là cách
phân tích ngữ âm - âm vị học, đặt nền móng cho bộ môn âm vận học Trung
Hoa. Kết quả của sự phân tích các âm tiết Hán được phản ánh qua phép
phiên thiết cho thấy: mỗi âm tiết tiếng Hán hầu như bao giờ cũng có thể tách
làm đôi thành âm đầu (thanh mẫu) và phần vần (vận mẫu), đồng thời cũng
phân xuất ra điệu (thanh điệu) và một dạng tiếp hợp giữa thanh mẫu và vận
mẫu được gọi là hô (âm đệm). Điệu và hô là những đặc trưng âm thanh
chung cho toàn bộ âm tiết (đơn vị siêu đoạn).
2.4. Khái luận về âm vị học âm tiết
Trong các ngôn ngữ phương Đông, khái niệm âm vị (âm tố) nguyên âm và
phụ âm không thực sự cần yếu, ngược lại, âm tiết và cấu trúc của nó mới là
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của ngữ âm học ở các ngôn ngữ này. Người
đầu tiên trong ngôn ngữ học phương Đông thực hiện một miêu tả âm vị học
không có âm vị là nhà ngữ học Nga E.D. Polivanov (1930) khi ông tiến hành
nghiên cứu ngữ âm tiếng Hán và tiếng Nhật. Ông đề ra khái niệm syllabeme
(âm tiết - âm vị), và lí thuyết syllabeme hay âm vị học âm tiết áp dụng cho
các ngôn ngữ đơn lập có thanh điệu phương Đông. Về sau, lí thuyết
syllabeme được phát triển qua các công trình của A.A. Dragunov, M.V.
Gordina, V.B. Kasevich, v.v..
2.4.1. Syllabeme - đơn vị ngữ âm cơ bản
Luận điểm mang tính chất chủ đạo của âm vị học âm tiết (syllabic
phonology) là: coi âm tiết là đơn vị cơ bản của hệ thống ngữ âm, tức là, đơn
vị thuộc hệ thống ngôn ngữ. E.D. Polivanov gọi là syllabeme, mà có thể dịch
là tiết vị (âm vị âm tiết). Khi nghiên cứu tiếng Hán, tác giả đã coi âm tiết
tiếng Hán là đơn vị ngữ âm cơ bản, đối sánh nó với âm vị (phoneme) trong
các ngôn ngữ châu Âu. Ông nhấn mạnh đến tính độc lập và tối thiểu của
chúng trong vai trò tạo lập vỏ tiếng của hình vị và từ trong hệ thống ngôn
ngữ. Do đó, phải tiến hành tính đếm số lượng âm tiết trong một ngôn ngữ,
quan tâm đến các âm tiết được sử dụng tương đối phổ biến để tạo lập nên tín
hiệu ngôn ngữ trong hệ thống ngôn ngữ đang xét. Cần phải phân biệt âm tiết
ngoại lai với âm tiết bản ngữ và xem xét các âm tiết ngoại lai riêng, không
đưa chúng vào danh sách thống kê. Khi thống kê, cần gạt bỏ các âm tiết
trong các trường hợp sau (chứng minh bằng tư liệu tiếng Việt).
- Thoảng hoặc có mặt trong một vài văn bản nào đó mà không tham gia
vào vốn từ ngôn ngữ văn hoá toàn dân. Đó là các trường hợp như kện, mòm
trong câu thơ của Năm Sài Gòn (Bỉ vỏ - Nguyên Hồng): Anh đây công tử
không vòm/ Ngày mai kện rập biết mòm đi đâu.
- Chỉ có mặt trong từ địa phương, từ ngữ cổ ít dùng, âm tiết trong một số
tên riêng, v.v.. Ví dụ, sốm trong Kẻ Sốm (làng cổ nay thuộc xã Phú Lãm,
Thanh Oai, Hà Tây), tiểng trong Huỳnh Văn Tiểng, ruệ trong Nguyễn Thế
Ruệ, ngươn trong Nguyễn Văn Ngươn, v.v. (tên riêng chỉ người).
Với sự cân nhắc như trên, áp dụng vào tiếng Việt, có thể thống kê các
âm tiết được sử dụng tương đối phổ biến trong thành phần từ ngữ toàn dân
tiếng Việt hiện đại, con số tính tròn hàng chục là 5890 âm tiết, theo Nguyễn
Quang Hồng (1994); 6900, theo Vương Hữu Lễ (1974); 6100, theo Hoàng
Tuệ, Hoàng Minh (1978); 5440, theo Hoàng Cao Cương (1993); 5434, theo
Nguyễn Thị Hằng (2005); 6718, theo Hoàng Phê (1999).
2.4.2. Cấu trúc syllabeme và vấn đề phân xuất các đơn vị ngữ âm
Như đã biết, phân tích âm vị học đối với một thực thể ngữ âm phải được
thực hiện dựa trên cơ sở chức năng nhất định. Một đại lượng ngữ âm chỉ có
thể mang tư cách một đơn vị âm vị học chừng nào nó đảm nhận một chức
năng nhất định đối với các đơn vị mang nghĩa (hình vị, từ) trong một ngôn
ngữ. Có hai chức năng cơ bản mà các đơn vị ngữ âm có thể đảm nhận là
chức năng tạo lập và chức năng khu biệt đối với vỏ tiếng của các đơn vị
mang nghĩa trong hệ thống ngôn ngữ. Trong tiếng Hán, tiếng Việt, thực hiện
chức năng cấu tạo vỏ tiếng cho các đơn vị mang nghĩa phải là âm tiết
nguyên vẹn. Tuy nhiên, có một loạt sự kiện ngôn ngữ chứng minh rằng,
trong khi vẫn giữ chặt biên giới của mình, các âm tiết có thể tự chia tách nội
bộ ra thành những thành phần khác nhau và thực hiện việc trao đổi những
thành phần tương tự như thế với các âm tiết lân cận. Kết quả đó, một mặt
cho ta cái ấn tượng âm tiết như là một chỉnh thể nguyên vẹn, mặt khác, lại
cho phép ta nói tới cấu trúc đoạn tính của cái chỉnh thể đó và có thể phân
xuất từ âm tiết ra các đại lượng ngữ âm khác nhau. Dựa vào các cứ liệu như
cách cấu tạo từ láy, iêc hoá, nói lái, v.v., ta sẽ phân xuất được hai đại lượng
âm thanh trong thành phần cấu trúc âm tiết là âm đầu và vần cái. Ngoài ra,
giữa âm đầu và vần cái còn có sự tiếp hợp mà lâu nay ta vẫn mô tả như một
âm đệm trong bước trung chuyển từ âm đầu sang vần cái. Khó mà có thể coi
âm đệm là một đơn vị đoạn tính. Khi chia tách âm tiết thành hai phần thì yếu
tố được gọi là âm đệm có thể gắn cho âm đầu nhưng cũng có thể gắn cho
phần vần. Trong các trường hợp cho/áng v/áng, b/âng khu/âng, ta phải quy
âm đệm cho âm đầu để phần vần đồng nhất. Nhưng trong các trường hợp
l/ập l/oè, x/um x/oe thì âm đệm cần phải quy cho phần vần (láy âm đầu).
Trong nhiều trường hợp, âm đệm khó lòng xác định thuộc thành phần nào,
bởi vì, nó gắn với cả hai bên, chẳng hạn, khoác loác/ khoác lác, luẩn quẩn/
lẩn quẩn, loanh quanh/ lanh quanh, v.v.. Như vậy, âm đệm không phải là
thành phần đoạn tính trong cấu trúc âm tiết mà là một dạng màu sắc âm
thanh của âm tiết nói chung.
Thêm nữa, dựa vào các sự kiện từ láy, nói lái, ta có thể phân xuất một
đại lượng ngữ âm như là cái khung âm điệu cho toàn âm tiết (đặc trưng độ
cao), đó là thanh điệu (đầu tiên/ tiền đâu, đấu tranh, tránh đâu, v.v.).
Như vậy, tiến hành phân tích cấu trúc âm tiết Hán và Việt, ta có thể
phân xuất các đại lượng ngữ âm ở cấp độ dưới âm tiết làm thành tố trực tiếp
trong cấu trúc âm tiết ở các ngôn ngữ này. Có thể hình dung cấu trúc âm tiết
tiếng Hán và tiếng Việt bằng sơ đồ sau:
T
M
I R
I (Initian): âm đầu, R (Rhyme): vần cái, T (Ton): thanh điệu, M (Mendian):
âm đệm.
Trong sơ đồ cấu trúc trên, âm đầu (initian) và âm đệm (mendian) có thể
được thể hiện dưới dạng zêrô, còn vần cái (rhyme) và thanh điệu (ton) thì
bao giờ cũng được thể hiện bằng những âm thanh hiện thực.
Dĩ nhiên, phần vần cái còn được tiếp tục xem xét chứ chưa thể dừng lại
ở đây. Bởi vì, nếu quan sát kĩ các cứ liệu thực tế trong các ngôn ngữ đang
xét, ta có thể tìm thấy những sự kiện ít nhiều đến chức năng tạo lập tín hiệu
ngôn ngữ của các yếu tố âm thanh trong phạm vi vần cái. Trước tiên, đó là
sự kiện chuyển hoán các yếu tố âm thanh thuộc vần cái trong việc tạo lập
các dạng từ láy trong tiếng Việt. Chẳng hạn, có sự chuyển đổi âm thanh chỉ
diễn ra ở đỉnh vần như mủm mỉm, hổn hển, lóp lép, v.v., hoặc có sự chuyển
đổi chỉ diễn ra ở kết vần như hèm hẹp, mồn một, long lóc, v.v. nhằm mục
đích làm cho hai âm tiết trở nên tương quan, gắn bó với nhau thành một thể
thống nhất. Như vậy, sự chuyển đổi âm thanh ở đây chỉ đụng chạm đến một
vài đặc trưng nào đó, hoặc ở đỉnh vần, hoặc ở kết vần. Những sự chuyển đổi
các đặc trưng âm thanh như vậy còn có thể bắt gặp trong một số dạng thức
nói lái kiểu như con vịt > vin cọt, gắng sức > gứng sắc, v.v.. Từ các sự kiện
trên, cho phép nói đến khả năng có thể phân xuất vần cái tiếng Việt ra những
đặc trưng âm thanh nhất định thể hiện chủ yếu ở đỉnh vần và kết vần.
Bài 3: CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ÂM VỊ HỌC
1. Một số vấn đề chung
1.1. Âm vị và biến thể
Âm vị thực chất là những đơn vị ngắn nhất của bình diện biểu thị, do
đó, quá trình phân tích cần phải phân chia ngữ lưu thành những âm đoạn tối
thiểu. Để thực hiện việc phân đoạn ngữ lưu, nhà âm vị học cần dùng đến
những tiêu chí ngôn ngữ học. Sự cần thiết phải dùng đến những tiêu chí
ngôn ngữ học được suy ra từ bản chất kí hiệu ngôn ngữ. Các âm vị không
phải là kí hiệu ngôn ngữ nhưng chức năng của chúng là xây dựng các kí
hiệu. Do đó, cần phải xem xét các âm vị thực hiện chức năng của mình trong
thành phần của các kí hiệu như thế nào. Dưới góc độ âm vị học, chuỗi âm
thanh được phân xuất thành những âm đoạn tối thiểu phải được xem xét theo
cách nhìn hình thái học. Cụ thể, để xác định ranh giới âm vị học, cần làm
sáng tỏ ranh giới hình thái học đi qua đâu. Một âm đoạn thống nhất về mặt
âm vị học cần phải xác định xem âm đoạn ấy có được tách ra thành một ranh
giới hình thái học hay không.
Nếu áp dụng tiêu chí phân đoạn đã được hình thái học hoá (còn gọi là
tiêu chuẩn phân âm đoạn chức năng), ta sẽ phân chia ngữ lưu thành những
âm đoạn tối thiểu về mặt âm vị học, tức là các âm vị. Song, rõ ràng, số lượng
các âm vị trong một ngôn ngữ bao giờ cũng ít hơn các âm được phân xuất
trong ngữ lưu. Trong ngữ lưu, các âm vị được thể hiện bằng các biến thể của
mình. Do đó, cần phải xác định xem những âm đoạn nào là những biến thể
của một âm vị, nghĩa là quy những âm đoạn đồng nhất thể hiện một âm vị.
Trong ngôn ngữ học, có hai kiểu tiêu chí đồng nhất các âm đoạn. Kiểu
1, là những tiêu chí phân bố bổ sung và là sự biến dạng tự do.
Phân bố là phân phối các đơn vị đối với nhau và/ hoặc đối với những đơn
vị nào đó. Chẳng hạn, sự phân bố các phụ âm hữu thanh trong tiếng Nga cho
phép chúng ta kết hợp với các nguyên âm, các phụ âm hữu thanh khác
nhưng không kết hợp được với các phụ âm vô thanh và không xuất hiện ở
đầu từ trước chỗ ngừng.
Phân bố bổ sung là mối quan hệ giữa các đơn vị khi mỗi một đơn vị
trong số đó chỉ có thể xuất hiện được trong bối cảnh, ngữ cảnh của mình mà
không xuất hiện trong bối cảnh khác. Nếu biểu thị hai âm đoạn là x và y, còn
bối cảnh tương ứng của chúng là A - B và C - D thì có thể nói rằng x và y
nằm trong quan hệ phân bố bổ sung nếu x xuất hiện trong bối cảnh A - B và
không xuất hiện ở bối cảnh C - D, còn y thì ngược lại, xuất hiện ở bối cảnh
C - D mà không xuất hiện ở bối cảnh A - B. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, [æ]
có thể xuất hiện trong bối cảnh các phụ âm mềm (caбъ hãy ngồi xuống)
nhưng không thể xuất hiện trong bối cảnh các phụ âm cứng, trong khi đó, [a]
lại xuất hiện trong bối cảnh các phụ âm cứng (caб vườn) nhưng lại không
xuất hiện trong bối cảnh các phụ âm mềm. Từ đó, ta rút ra kết luận, các âm
đoạn này thực chất là những biến thể của một âm vị, nghĩa là [æ] và [a] thực
chất là hai biến thể của một âm vị /a/ trong tiếng Nga. Hay trong tiếng Anh,
các phụ âm tắc bật hơi [p'], [t'], [k'] không bao giờ xuất hiện sau [s], còn các
phụ âm không bật hơi [p], [t], [k] không bao giờ xuất hiện ở đầu từ. Do đó,
trong các cặp từ spot (vết) - pot (cái ấm), stop (dừng lại) - top (đỉnh, chóp),
school (trường học) - cool (mát); ta có: [p'] và [p] là hai biến thể của âm vị
/p/, [t'] và [t] là hai biến thể của âm vị /t/, [k'] và [k] là hai biến thể của âm vị
/k/ trong tiếng Anh.
Biến dạng tự do là quan hệ giữa các âm đoạn khi chúng thay thế được
cho nhau, bao giờ cũng có thể dùng âm đoạn này để thay thế cho âm đoạn
khác. Ví dụ: [a] ở vào vị trí đầu từ trong tiếng Nga bao giờ cũng được thay
thế bằng ['a] (một nguyên âm có phần đầu tắc thanh quản) và ngược lại:
[ana] và ['ana] (oнa: chị ấy). Quan hệ biến dạng tự do còn xác nhận rằng các
âm đoạn này đều thuộc một âm vị. Thật vậy, [a] và ['a] trong tiếng Nga thực
chất là hai biến thể của âm vị /a/.
Kiểu 2 là những tiêu chí đồng nhất các âm đoạn dựa trên kiến giải có
tính chức năng. Theo tiêu chí này, người ta đồng nhất các âm đoạn được
luân chuyển trong thành phần cái biểu đạt của cùng một hình vị. Chẳng hạn,
cùng một tiền tố được truyền đạt trên chữ viết bằng o có thể thể hiện với tư
cách là âm đoạn [a] hoặc ['a] (ocaбok cặn), là [ai ] (ocябem làm bằng), là
[iai], hay khác đi là [æ] (мym ocяб cặn lắng xuống), v.v.. Như vậy, tất cả các
âm trong những trường hợp này được thừa nhận là những biến thể của âm vị
/a/. Nhờ áp dụng những tiêu chí trên, người nghiên cứu tách ra được các lớp
hoặc nhóm âm đoạn đồng nhất về mặt âm vị học. Mỗi lớp (nhóm) như vậy
tương ứng với một khách thể trừu tượng gọi là âm vị. Dĩ nhiên, tập hợp thu
được của các âm vị tự thân nó là một bộ, một bản liệt kê chứ chưa phải là
một hệ thống.
1.2. Âm vị và hệ thống âm vị
Để xác lập hệ thống âm vị của một ngôn ngữ phải phát hiện và xác lập
những mối liên hệ và quan hệ giữa chúng, tức là xác lập cấu trúc âm vị học.
Phương pháp phổ biến để xác lập và trình bày cấu trúc âm vị học của một
ngôn ngữ là miêu tả các âm vị theo các dấu hiệu khu biệt của chúng. Dấu
hiệu khu biệt (còn gọi là nét khu biệt) là cái (nét) có khả năng phân biệt ít
nhất hai âm vị trong hệ thống ngôn ngữ đang xét. Cố nhiên, các âm vị được
đặc trưng bằng những bộ dấu hiệu khu biệt phần nào giống nhau sẽ được tập
hợp thành các nhóm (các lớp con). Kết quả, ta sẽ tìm được một tổ chức nhất
định ở bên trong lớp chung của các âm vị, tức là tìm được cấu trúc của hệ
thống âm vị. Mỗi âm vị có một bộ dấu hiệu khu biệt riêng của mình, phân
biệt với các âm vị khác trong ngôn ngữ đang xét. Chẳng hạn, âm vị /b/ trong
tiếng Nga được đặc trưng bằng những dấu hiệu khu biệt như: môi (dấu hiệu
này khu biệt với các âm vị /d/, /ɣ/), tắc (khu biệt với âm vị /v/), cứng (khu
biệt với âm vị /bь/), hữu thanh (khu biệt với âm vị /p/), không mũi (khu biệt
với âm vị /m/).
Theo R.Jakobson, tất cả các dấu hiệu khu biệt là những dấu hiệu nhị
nguyên, dấu hiệu đôi, tức là, mỗi dấu hiệu khu biệt chỉ nhận hai ý nghĩa.
Chẳng hạn, có thể nói đặc trưng vô thanh/ hữu thanh, chứ không có đặc
trưng độ nâng cao/ độ nâng trung bình/ độ nâng thấp. Hay nói cách khác,
đây là thế đối lập có/ không. Quan niệm này được R.Jacobson và một số nhà
ngữ học khác gọi là lí thuyết âm vị học lưỡng phân. Theo lí thuyết này, có
thể xác lập một bộ dấu hiệu khu biệt dùng để miêu tả các âm vị của bất kì
ngôn ngữ nào (có 12 dấu hiệu khu biệt).
N.S.Trubetskoy, khi bàn về chức năng khu biệt các âm thanh (tức là xác
định các âm vị) đã xây dựng lí luận về sự khu biệt. Theo tác giả, khái niệm
khu biệt giả định khái niệm đối lập. Hai vật chỉ có thể khu biệt với nhau
chừng nào nó đối lập với nhau, nghĩa là hai vật đó có quan hệ đối lập. Cho
nên, một đặc trưng âm thanh chỉ có thể có chức năng khu biệt chừng nào nó
là một vế đối lập âm thanh. Những sự đối lập âm thanh có giá trị khu biệt
nghĩa của hai từ trong một ngôn ngữ nhất định thì ta gọi là sự đối lập âm vị
học, hay đối lập âm vị học khu biệt (gọi tắt là đối lập khu biệt). Ngược lại,
những sự đối lập không có khả năng này thì sẽ gọi là không thoả đáng âm vị
học (hay không khu biệt).Tác giả tiến hành phân loại các thế đối lập âm vị
học và xác định tính hệ thống âm vị học qua những thế đối lập âm thanh có
tác dụng khu biệt nghĩa trong ngôn ngữ (các tiêu chí nguyên âm và phụ âm).
2. Các phương pháp miêu tả âm vị học
2.1. Học thuyết âm vị học lưỡng phân của R.Jakobson
2.1.1. Nhận xét chung
R.Jakobson và những người ủng hộ lí thuyết của ông đều cho rằng có
thể xác lập bộ dấu hiệu khu biệt dùng để miêu tả các âm vị trong bất kì ngôn
ngữ nào. Bộ dấu hiệu đó gồm 12 dấu hiệu khu biệt. Trong âm vị học lưỡng
phân, cái có ý nghĩa quan trọng chính là xác lập các yếu tố tương liên âm
học và cấu âm của các dấu hiệu khu biệt nên khi miêu tả các dấu hiệu, người
ta đưa vào một số đặc trưng ngữ âm tương ứng với chúng. Tất cả các dấu
hiệu khu biệt (12 dấu hiệu) được phân thành hai lớp, gồm các đặc trưng về
độ kêu và đặc trưng về thanh sắc.
2.1.2. Bộ dấu hiệu khu biệt
a. Đặc trưng về độ kêu
(1) Tính nguyên âm / không nguyên âm
Những âm tố đại diện của các âm vị có dấu hiệu tính nguyên âm được
đặc trưng bằng một cấu trúc phoocmăng rõ ràng, tức là, bằng sự tồn tại của
những vùng được tăng cường được biểu hiện rõ rệt trong quang phổ (tức là
các dải tần số được tăng cường đặc trưng cho mỗi nguyên âm). Ngược lại,
dấu hiệu tính không nguyên âm không đòi hỏi sự có mặt của một cấu trúc
phoocmăng rõ ràng. Về mặt cấu âm, tính nguyên âm vắng mặt chướng ngại
trong ống dẫn thanh, còn tính không nguyên âm đòi hỏi xuất hiện chướng
ngại trong ống dẫn thanh.
(2) Tính phụ âm / không phụ âm
Dấu hiệu tính phụ âm đòi hỏi một mức năng lượng chung thấp, còn dấu
hiệu tính không phụ âm đòi hỏi mức năng lượng chung cao. Về mặt cấu âm,
ở đây, cái quan trọng là sự có mặt hoặc vắng mặt của vật chướng ngại xuất
hiện trong ống dẫn thanh.
(3) Tính đặc / tính loãng
Về mặt âm học, tính đặc được đặc trưng bởi sự tập trung năng lượng vào
phần trung tâm của quang phổ. Tính đặc được đặc trưng về quang phổ là các
phoocmăng xuất hiện gần nhau. Về mặt cấu âm, lưỡi chia khoang miệng và
khoang yết hầu thành hai khoang có thể tích gần bằng nhau, làm cho các
phoocmăng ở những vùng tần số gần bằng nhau. Ví dụ: các âm đặc có thể là
/a/ (trong số các nguyên âm), và /k/ (trong số các phụ âm). Tính loãng, về
mặt âm học, các phoocmăng xuất hiện xa nhau, một phoocmăng xuất hiện ở
tần số cao, một phoocmăng xuất hiện ở vùng tần số thấp. Về mặt cấu âm, do
vị trí của lưỡi quá cực đoan làm cho thể tích khoang miệng và khoang yết
hầu lệch nhau, chi phối các phoocmăng. Người ta xếp vào âm loãng như /i/
(trong số các nguyên âm), âm /t/ (trong số các phụ âm).
(4) Tính căng / không căng
Các phụ âm căng được tạo nên khi có áp suất âm thanh cao, khi các
vách ngăn ống dẫn thanh có độ căng lớn. Các âm căng thường có trường độ
lớn. Trong số các phụ âm, các âm /p/, /t/, /k/ trong tiếng Anh được xếp vào
phụ âm căng.
(5) Tính hữu thanh / tính vô thanh
Tính hữu thanh là có sự tham gia của tiếng thanh vào việc cấu âm, tức
có sự tham gia của dây thanh. Tính vô thanh, nghĩa là không có sự tham gia
của dây thanh (dây thanh không hoạt động). Dấu hiệu này dùng để phân biệt
các âm, chẳng hạn: /d/ - /t/, /b/ - /p/, v.v. trong tiếng Nga.
(6) Tính mũi / tính miệng
Tính mũi là có sự cộng hưởng của hộp cộng hưởng mũi. Tính miệng là
có sự cộng hưởng của hộp cộng hưởng miệng. Theo dấu hiệu này, có thể
phân biệt các phụ âm mũi / không mũi (miệng), tức là giữa các phụ âm /m/ -
/b/, / n/ - /d/, v.v. (phổ biến ở nhiều ngôn ngữ), phân biệt các nguyên âm mũi
/ không mũi trong tiếng Pháp, Ba Lan, v.v..
(7) Tính gián đoạn / không gián đoạn
Về mặt cấu âm, dấu hiệu tính gián đoạn biểu thị bằng động tác mở ra
đột ngột của chướng ngại, hoặc bằng chỗ nghỉ trong quá trình cấu âm. Tiêu
biểu cho tính gián đoạn là các phụ âm tắc và rung, còn các phụ âm xát và âm
lướt tiêu biểu cho tính không gián đoạn.
(8) Tính thé / không thé
Tính thé biểu thị cường độ tiếng ồn lớn hơn tính không thé. Các âm tắc -
xát là những âm thé. Chẳng hạn, trong tiếng Đức, âm /c/ là âm thé, còn âm
/t/ là âm không thé.
(9) Tính thanh quản / không thanh quản
Dấu hiệu này dựa trên sự tham gia vào việc cấu âm một yếu tố tắc -
thanh quản bổ sung. Dấu hiệu này dùng để phân biệt các phụ âm (phụ âm tắc
hầu).
b. Đặc trưng về tiếng thanh
(10) Thanh trầm / thanh bổng
Về mặt âm học, đặc trưng của âm chứa thanh trầm là sự tập trung năng
lượng vào những vùng quang phổ thấp, còn các âm mang thanh bổng thì tập
trung vào những vùng quang phổ cao. Về mặt cấu âm, đặc trưng của những
âm mang thanh trầm là thể tích của hộp cộng hưởng miệng lớn và độ phân
chia của nó nhỏ. Chẳng hạn, /p/, /k/ là những âm trầm, còn /t/, /c/ là những
âm bổng (các âm lưỡi trước và giữa lưỡi).
(11) Tính giáng / không giáng
Tính giáng đánh dấu sự hạ thấp một số, thậm chí tất cả các phoocmăng
của quang phổ (xẩy ra do hiện tượng môi hoá - tròn môi). Các nguyên âm
giáng là những nguyên âm tròn môi, đối lập với những nguyên âm không
giáng là nguyên âm không tròn môi, chẳng hạn: /y/ - /i/.
(12) Tính thăng / không thăng
Tính thăng biểu thị sự nâng cao hoặc tăng cường một phần của các
phoocmăng cao (bắt đầu từ phoocmăng thứ hai). Về mặt cấu âm, tính thăng
biểu hiện trước hết ở sự ngạc hoá. Các phụ âm mềm tiếng Nga khác với các
phụ âm cứng như phụ âm thăng khác với các phụ âm không thăng.
2.2. Lí luận về sự khu biệt của N.S.Trubetskoy
2.2.1. Đơn vị âm vị học khu biệt - âm vị
Theo N.S.Trubetskoy [5], âm vị là đơn vị âm vị học, đứng về phía ngôn
ngữ đang xét không thể phân tích thành những đơn vị âm vị học nhỏ hơn kế
tiếp nhau. Vậy là, âm vị là đơn vị âm vị học nhỏ nhất của một ngôn ngữ.
Mỗi từ tồn tại trong ngôn ngữ, với tư cách là yếu tố biểu hiện (singifiant)
đều có thể phân tích ra thành từng âm vị và được hình dung như một chuỗi
âm vị nhất định. Dĩ nhiên, không thể hình dung âm vị như những viên gạch
xếp lại thành từ ngữ. Trái lại, mỗi từ là một tổng thể ngữ âm, một diện mạo
và cũng được người nghe tri giác như một diện mạo, tương tự như người ta
nhận ra một người quen ngoài đường phố nhờ cái bóng dáng chung của họ.
Nhưng nói nhận ra diện mạo tức giả định rằng nó khu biệt với các diện mạo
khác, và điều đó chỉ có thể có được khi các diện mạo đều khu biệt với nhau
nhờ những đặc trưng nào đấy. Do vậy, âm vị là những đặc trưng khu biệt của
diện mạo các từ. Mỗi từ đều chứa đựng một số âm vị kế tiếp nhau theo một
trật tự nhất định và với một số lượng đủ để cho nó khu biệt với bất cứ từ nào
khác. Toàn bộ cái tổ hợp âm vị này thì chỉ riêng từ ấy mới có nhưng mỗi
đơn vị tách riêng ra trong tổ hợp thì có thể xuất hiện trong những từ khác
cũng với tư cách là những đặc trưng khu biệt. Quả là, trong bất cứ ngôn ngữ
nào cũng vậy, số âm vị được dùng làm đặc trưng khu biệt vốn ít hơn số từ
rất nhiều, thành thử, mỗi từ riêng lẻ bao giờ cũng chỉ là một tổ hợp nhất định
gồm những âm vị vốn được dùng trong nhiều từ khác.
Bây giờ, ta cần xác định nội dung âm vị học của từng âm vị trong một
ngôn ngữ. Theo N.S.Trubetskoy, nội dung âm vị học là toàn bộ những tiêu
chí thoả đáng của âm vị để khu biệt với các âm vị khác trong ngôn ngữ đang
xét. Chẳng hạn, âm /k/ tiếng Đức có những đặc trưng sau đây là thoả đáng:
1. Sự bế tắc hoàn toàn của luồng hơi (khác với /f/), 2. Đường lên mũi bị
đóng kín (khác với /ŋ/), 3. Trạng thái căng thẳng của các cơ lưỡi và trạng
thái buông lơi của dây thanh (khác với /d/), 4. Sự tham gia của mặt lưỡi, cụ
thể là phần gốc lưỡi (khác với /b/). Do đó, có thể thấy rằng, xác định nội
dung âm vị học của âm vị tức là đặt nó vào các hệ thống của những thế đối
lập tồn tại trong một ngôn ngữ. Việc xác định nội dung âm vị học của một
âm vị lệ thuộc vào vị trí của nó trong hệ thống đang xét, nghĩa là, đặt âm vị
đó trong sự đối lập với các âm vị khác.
2.2.2. Phân loại các thế đối lập
Thành phần âm vị của một ngôn ngữ, về thực chất chỉ là hệ luận của hệ
thống những thế đối lập của ngôn ngữ đó. Trong âm vị học, cái đóng vai trò
quan trọng không phải là âm vị mà là các thế đối lập khu biệt nghĩa. Sỡ dĩ,
một âm vị nào đó có được một nội dung âm vị học vì nó nằm trong hệ thống
của những thế đối lập âm vị học. Tuy nhiên, một thế đối lập âm vị học giả
định không phải chỉ những đặc trưng làm cho các vế đối lập khu biệt với
nhau mà còn có những đặc trưng chung cho cả hai vế đối lập nữa. Những
đặc trưng như vậy có thể coi là một cơ sở để so sánh. Hai vật không có cơ sở
để so sánh (tức là không có những đặc trưng chung) tuyệt nhiên không thể
đối lập với nhau được. Trong những hệ thống đối lập như hệ thống âm vị
học, trước hết, cần phân biệt hai loại hình đối lập: đối lập một chiều và đối
lập nhiều chiều.
Trong các thế đối lập một chiều, toàn bộ những đặc trưng chung (cơ sở
để so sánh) mà cả hai vế đối lập đều có như nhau, chỉ có trong hai vế đối lập
này mà thôi chứ không tìm thấy có trong một thành viên khác của hệ thống.
Trái lại, trong thế đối lập nhiều chiều, toàn bộ những đặc trưng chung không
chỉ hạn chế trong hai vế đối lập đang xét mà còn lan rộng ra trong các thành
viên khác của hệ thống. Chẳng hạn, trong tiếng Đức, thế đối lập /r/ - /l/ là
đối lập một chiều, vì đây là hai âm nước duy nhất trong tiếng Đức. Hay, thế
đối lập /n/ - /d/ là thế đối lập một chiều vì đây là hai âm tắc - răng, hữu thanh
duy nhất trong hệ thống. Trái lại, thế đối lập /d/ - /b/ trong ngôn ngữ này là
thế đối lập nhiều chiều, vì những nét chung trong hai âm vị này là tư thế tắc
yếu còn thấy có trong một âm vị khác của tiếng Đức, đó là âm vị /g/. Theo
N.S.Trubetskoy [5], hệ thống phụ âm tiếng Đức tiêu chuẩn gồm 20 âm vị, có
thể có 190 thế đối lập nhưng chỉ có 13 thế đối lập một chiều, còn lại là thế
đối lập nhiều chiều. Có những âm vị có thể không tham gia vào thế đối lập
một chiều (chẳng hạn, phụ âm /h/ tiếng Đức) nhưng bất cứ âm vị nào cũng
đều phải tham gia vào những thế đối lập nhiều chiều /xem thêm [5, 81]/.
Bên cạnh việc phân biệt thế đối lập một chiều và nhiều chiều, theo N.S.
Trubetskoy [5] cần phân biệt những thế đối lập tỉ xứng (tỉ lệ) và những thế
đối lập biệt lập. Thế đối lập tỉ xứng là những thế đối lập tồn tại giữa một số
cặp âm vị đồng chất. Mỗi một cặp trong số các cặp của nhóm này đều được
đặc trưng bởi cùng một dấu hiệu khu biệt. Kết quả, ta thu được các thế đối
lập tỉ xứng kiểu như /b/ - /p/ = /d/ - /t/ = /z/ - /s/ = hữu thanh - vô thanh trong
tiếng Nga. Cũng vậy, trong tiếng Đức, thế đối lập /p/ - /t/ là thế đối lập tỉ
xứng vì có /b/ - /d/, /m/ - /n/ = âm môi - âm đầu lưỡi.
Thế đối lập biệt lập là những thế đối lập mà mối quan hệ giữa hai vế đối
lập đồng chất không tìm thấy trong những cặp đối lập khác. Chẳng hạn,
trong tiếng Đức, thế đối lập /p'/ - /s'/ là thế đối lập biệt lập vì /p'/ và /s'/ là
những âm tắc, bật hơi không tìm thấy trong một cặp đối lập nào khác.
Nếu phân loại các thế đối lập theo mối quan hệ giữa các vế đối lập ta có
thế đối lập có/không và thế đối lập thành bậc. Thế đối lập có/không là những
thế đối lập, trong đó, đặc điểm của một vế là ở chỗ có một đặc trưng nào đấy
(vế có), còn đặc điểm của vế kia là ở chỗ không có đặc trưng ấy (vế không).
Chẳng hạn, hữu thanh/vô thanh, mũi hoá/không mũi hoá, môi hoá/không
môi hoá, v.v.. Vế đối lập mà đặc điểm là có đặc trưng ấy gọi là vế có, còn vế
kia gọi là vế không. Còn thế đối lập thành bậc là những thế đối lập, trong đó,
đặc điểm của mỗi vế là ở chỗ cũng có đặc trưng như vế kia nhưng ở mức độ
(bậc) khác nhau. Chẳng hạn, đối lập hai mức độ rộng/hẹp của nguyên âm, về
cao độ của thanh điệu.
2.2.3. Phân loại các tiêu chí âm thanh khu biệt nghĩa
Những tiêu chí âm thanh làm thành những thế đối lập khu biệt nghĩa
trong các ngôn ngữ có thể chia làm ba loại: tiêu chí nguyên âm, tiêu chí phụ
âm và tiêu chí điệu tính. Những âm vị nguyên âm gồm có những tiêu chí
nguyên âm, còn những âm vị phụu âm gồm có những tiêu chí phụ âm.
Những tiêu chí điệu tính, tuỳ từng ngôn ngữ, hoặc gắn liền với một nguyên
âm, hoặc gắn với một phụ âm, hoặc với cả một loạt âm vị. Do đó, trước khi
xác định các loại tiêu chí khu biệt nghĩa phải xem xét các khái niệm nguyên
âm, phụ âm. Như đã biết, đặc điểm của phụ âm (cấu âm - âm học) là ở sự
hình thành một chướng ngại và cách khắc phục chướng ngại đó, còn đặc
điểm của nguyên âm là ở chỗ không có chướng ngại. Vì vậy, những tiêu chí
biệt loại của phụ âm liên quan đến những kiểu chướng ngại khác nhau và
những cách khắc phục những chướng ngại đó, nghĩa là, những tiêu chí gắn
liền với những phương thức khắc phục chướng ngại. Trái lại, những tiêu chí
loại biệt của nguyên âm chỉ liên quan đến những trạng thái thiếu chướng
ngại khác nhau, nghĩa là, những tiêu chí gắn liền với khai độ (độ mở) khác
nhau. Bên cạnh những tiêu chí trên, các nguyên âm và phụ âm còn có những
tiêu chí khác nữa, đó là những tiêu chí định vị, vì rằng, những phương thức
khắc phục chướng ngại trong các phụ âm và những khai độ khác nhau trong
các nguyên âm sẽ được định vị vào những vị trí khác nhau.
Với nguyên âm, các tiêu chí khai độ và định vị thuộc bình diện cấu âm
có thể thay bằng các tiêu chí âm lượng, tiêu chí âm sắc (hiệu quả âm học)
thuộc bình diện âm học. Trong thực tế, các nhà ngữ học dùng song song các
thuật ngữ trên. Theo các tiêu chí định vị (âm sắc), ta có sự đối lập giữa
nguyên âm hàng trước (âm sắc bổng) với các nguyên âm hàng sau (âm sắc
trầm). Trong hầu hết các ngôn ngữ đều có sự đối lập giữa nguyên âm hàng
trước (âm sắc bổng) như /i/, /e/, /ɛ/ với các nguyên âm hàng sau (âm sắc
trầm) như /u/, /o/, /ɔ/. Hai loạt nguyên âm này có thể gọi là hai loại cực đoan,
vì giữa hai loại này, trong những hoàn cảnh nhất định có thể có loại trung
bình (hàng giữa, âm sắc trung hoà). Theo các tiêu chí khai độ (âm lượng),
người ta phân biệt các nguyên âm có khai độ rộng (âm lượng lớn) và khai độ
hẹp (âm lượng bé), đó là sự đối lập giữa một bên là /a/ với một bên là /i/, /u/.
Giữa hai bậc âm lượng có tính chất cực đoan, có thể có những bậc ở giữa
nhưng phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới có một hệ thống nguyên âm ba
bậc theo hình tam giác sau đây:
a
e o
i u
Với phụ âm, dùng tiêu chí định vị (bộ phận và vị trí xuất hiện chướng
ngại), ta thấy hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có phụ âm môi, phụ âm
đầu lưỡi, phụ âm mặt lưỡi và phụ âm thanh hầu.
Các phụ âm môi như /p/, /b/, /m/, /v/
Các phụ âm đầu lưỡi như /t/, /d/, /n/, /s/, v.v..
Phụ âm mặt lưỡi như /c/, /k/, /ŋ/, v.v..
Phụ âm thanh hầu như /h/, /?/
Sử dụng các tiêu chí phương thức (cách khắc phục chướng ngại), người
ta phân biệt các phụ âm tắc như /p/, /b/, /m/, /t/, /n/, /c/, /k/, /ŋ/, v.v. với các
phụ âm xát như /v/, /f/, /z/, /s/, /h/, v.v.. Ngoài ra, ở một số ngôn ngữ còn có
phụ âm tắc - xát như /ts/ trong tiếng Hán, phụ âm rung như /r/ trong tiếng
Nga.
Tóm lại, theo N.S.Trubetskoy, có thể dựa vào một số tiêu chí để xác lập
các âm vị nguyên âm và phụ âm trong các ngôn ngữ.
3. Các đơn vị ngôn điệu
Trong âm vị học, ngoài các đơn vị âm đoạn tính còn có các đơn vị siêu
âm đoạn tính hay ngôn điệu. Các đơn vị âm đoạn tính gồm âm vị (âm tố),
âm tiết; đối với các ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính là âm đầu và vần cái. Các
đơn vị ngôn điệu đóng vai trò là phương thức muôn màu muôn vẻ để tổ chức
các đơn vị âm đoạn tính thành những thể thống nhất lớn hơn, cũng như để
phân biệt các kí hiệu ngôn ngữ. Các đơn vị ngôn điệu gồm trọng âm, thanh
điệu và ngữ điệu.
Trọng âm là đơn vị siêu đoạn tính, là phương tiện âm vị học chồng lên
các đơn vị đoạn tính để tạo nên vỏ âm thanh của từ. Tuỳ thuộc vào các đơn
vị đoạn tính đóng vai trò, chức năng gì mà trọng âm dược phân chia thành
trọng âm từ, trọng âm câu. Trọng âm từ là sự tách biệt một trong các âm tiết
trong thành phần một từ đa tiết bằng các phương tiện ngữ âm nào đó. Trong
các ngôn ngữ như tiếng Nga, việc nhấn giọng (trọng âm) một âm tiết nào đó
kéo theo hiện tượng nhược hoá cùng một lúc tất cả các âm tiết còn lại, có tác
dụng đạt tới sự thống nhất về mặt ngữ âm của từ, tách biệt tương đối từ
trong ngữ lưu, đôi khi kéo theo sự phân biệt về ýnghĩa từ vựng của từ (chẳng
hạn, мýka: bột - мyká: sự đau khổ). Trọng âm còn có trọng âm logic, là sự
tách biệt một từ nào đó trong câu bằng cách nhấn mạnh từ đó để nhấn mạnh
ý nghĩa. Chẳng hạn, cho câu: Hôm nay nó về nhà. Có thể nhấn mạnh Hôm
nay (thời gian), có thể nhấn mạnh nó (chủ thể), v.v..
Thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính, một dấu hiệu của toàn bộ âm tiết
(đặc trưng độ cao). Mỗi thanh điệu đều được xác định bằng các dấu hiệu khu
biệt về âm vực (cao/ thấp), về âm điệu (bổng/ trầm), về đường nét (bằng
phẳng/ gãy). Cần phân biệt thanh điệu với trọng âm. Thanh điệu là đặc trưng
mang tính chất âm điệu của mỗi âm tiết trong từ. Khi biết thanh điệu thuộc
âm tiết nào đó của từ thì nói chung, không xác định được thanh điệu của âm
tiết khác. Còn trọng âm lại là đặc trưng của một âm tiết của từ, khi biết vị trí
của trọng âm và số lượng âm tiết thì có thể xác định được đặc trưng ngôn
điệu của những âm tiết còn lại trong từ. Các thanh điệu dùng để phân biệt ý
nghĩa của từ, còn đối với trọng âm thì việc phân biệt ý nghĩa từ vựng của từ
chỉ là thứ yếu.
Ngữ điệu là tổng hoà những sự diễn biết âm thanh bao gồm độ cao (lên/
xuống giọng), độ mạnh (nhấn/ lướt giọng), độ dài (ngắt/ kéo giọng) trong
một câu nói, có chức năng thể hiện và phân biệt các câu nói. Trọng âm và
thanh điệu chỉ có ở một số ngôn ngữ, còn ngữ điệu có trong tất cả các ngôn
ngữ. Ngữ điệu gồm ba yếu tố là độ cao (âm điệu), độ dài (ngừng giọng) và
độ mạnh (trọng âm). Yếu tố quan trọng nhất của ngữ điệu là độ cao, tức là
sự chuyển động lên/ xuống của thanh cơ bản của giọng nói. Cùng với độ dài,
độ cao là một phương tiện phân đoạn lời nói.
Bài 4. VẤN ĐỀ ÂM VỊ TRONG TIẾNG VIỆT
1. Các khuynh hướng miêu tả ngữ âm tiết Việt
Từ trước đến nay đã có không ít các công trình nghiên cứu về ngữ âm
tiếng Việt, trong đó thể hiện nhiều xu hướng khác nhau khi bắt tay mô tả hệ
thống ngữ âm tiếng Việt. Những xu hướng đó, trước hết phản ánh những
quan điểm, những cách nhìn nhận khác nhau (hoặc có phần khác nhau) giữa
các tác giả về các đơn vị ngữ âm cơ bản của tiếng Việt, trong đó có vấn đề
âm vị. Chính ở đây, trong cách làm việc của mình, các tác giả cho thấy một
cách trực tiếp hay gián tiếp thái độ của họ đối với việc xác định đơn vị âm vị
học trong tiếng Việt- âm vị. Có thể kể ra các xu hướng nghiên cứu sau đây:
1.1. Theo cách hình dung của truyền thống ngữ âm học cổ điển châu Âu, cái
hiển nhiên đối với các nhà nghiên cứu là các âm vị nguyên âm và phụ âm,
tương ứng với các chữ cái a, b, c trên mặt giấy. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của phương pháp phân tích âm vị học vốn được áp dụng cho các ngôn ngữ
châu Âu, một số tác giả đã hình dung hệ thống ngữ âm tiếng Việt như bất kì
một hệ thống ngữ âm nào thuộc các loại hình ngôn ngữ châu Âu. Từ đó, họ
đi đến xác lập hệ thống nguyên âm và phụ âm tiếng Việt. Thậm chí, (phụ)
âm đầu và (phụ) âm cuối cũng quy vào một đơn vị thuộc hệ thống phụ âm.
Đại diện cho quan điểm này là hai tác giả Lê Văn Lí (1948) và M.B.
Emeneau (1951). Kết quả của hướng miêu tả này cho ta thấy âm tiết tiếng
Việt được miêu tả như một tổ hợp của các phụ âm và nguyên âm, trong đó,
nhất thiết phải có một nguyên âm, còn thanh điệu không được tính đến.
Theo Lê Văn Lí (1948), một kí hiệu thanh tính đơn trong tiếng Việt có thể
tồn tại bốn kiểu khác nhau: V, VC, CV, CVC (V là nguyên âm, C là phụ
âm). Tác giả M.B. Emeneau (1951) cũng có quan điểm tương tự khi ông đưa
ra lược đồ âm tiết là một tổ hợp âm đoạn gồm phụ âm + nguyên âm + phụ
âm. Cho đến thập kỉ sáu mươi thế kỉ XX, chúng ta còn bắt gặp cách phân
tích và mô tả hệ thống ngữ âm tiếng Việt tương tự ở tác giả Hoàng Tuệ
(1962). Theo Hoàng Tuệ, lược đồ âm tiết tiếng Việt sẽ là C1VC2, trong đó:
C1 là thuỷ âm (âm đầu), C2 là chung âm (âm cuối), còn V là nguyên âm.
Như vậy, rõ ràng là đối với Lê Văn Lí, M.B. Emeneau và Hoàng Tuệ, cái
nổi bật trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt là nguyên âm và phụ âm.
1.2. Tiếp thu thành tựu của Âm vận học Trung Hoa, tác giả Nguyễn Quang
Hồng (1994) khẳng định âm tiết tiếng Việt, một mặt giữ chặt biên giới của
mình trong ngữ lưu nhưng mặt khác lại khẳng định cấu trúc đoạn tính của
chỉnh thể âm tiết và có thể phân xuất từ âm tiết ra thành các đại lượng ngữ
âm khác nhau. Dựa vào các cứ liệu như cấu tạo từ láy, iếc hoá, nói lái,..., tác
giả phân xuất hai đại lượng âm thanh trong thành phần cấu trúc âm tiết là âm
đầu và vần cái, và cùng với hai thành phần đoạn tính đó là hai thành phần
như cái khung âm điệu của âm tiết, hai đại lượng âm thanh siêu đoạn tính là
âm đệm và thanh điệu. Lược đồ âm tiết của tác giả được hình dung như sau:
thanh điệu
âm
đầu
vần
âm
đệm
âm
chính
âm
cuối
Tác giả tiến hành tính đếm số lượng các đơn vị âm thanh (âm vị) gồm âm
đầu là 21 đơn vị, còn vần cái gồm 124, trong đó có 12 vần đơn (vần mở),
112 vần phức (bao gồm vần nửa mở, vần nửa khép và vần khép).
1.3. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà Đông phương học Xô
Viết như E.Polivanov, A.A.Dragunov, E.N.Dragunova, M.V.Gordina,..., các
nhà Việt ngữ học đã không xây dựng hệ thống ngữ âm tiếng Việt thành các
hệ thống nguyên âm và phụ âm, cũng không thừa nhận theo cách mô tả của
Âm vận học cổ điển Trung Hoa mà tiến hành xác lập hệ thống bốn thành tố
cấu trúc âm tiết gồm âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Công thức xác
lập bốn thành tố này gọi là công thức Polivanov. Bởi lẽ, năm 1930, khi
Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán hiện đại, ông là người khởi xướng quan
điểm không coi âm vị tiếng Hán như trong các ngôn ngữ châu Âu. Ông đề
xuất thuật ngữ syllabeme (tiết vị), và mỗi syllabeme có thể chia thành bốn
thành tố. Bởi vậy, khi nghiên cứu về Vấn đề âm vị tiếng Việt, M.V.Gordina
(1976) cũng tán thành công thức của Polivanov, chia âm tiết tiếng Việt thành
bốn thành tố. Có thể nói, quan điểm bốn thành tố ảnh hưởng rất lớn đối với
nhiều nhà ngữ học Việt Nam và đã được thể hiện ở các giáo trình giảng dạy
ở bậc đại học. Hướng nghiên cứu này đã phá vỡ cách hình dung lấy châu Âu
làm trung tâm, và phần nào cho thấy diện mạo ngữ âm tiếng Việt là không
thể đồng nhất với diện mạo ngữ âm các ngôn ngữ châu Âu. Xu hướng phân
tích và mô tả các đơn vị ngữ âm tiếng Việt theo bốn thành tố tuy không còn
phỏng theo hai hệ thống nguyên âm và phụ âm như các ngôn ngữ châu Âu
nhưng đồng thời cũng chưa thoát khỏi ấn tượng về các chữ cái. Thêm nữa,
những người đi theo hướng phân tích âm tiết tiếng Việt thành bốn thành tố
cũng có những cách nhìn khác nhau trong cấu trúc âm tiết. Các tác giả Cù
đình Tú, Hoàng Văn Thung và Nguyễn Nguyên Trứ (1972) không hình dung
cấu trúc từng bậc của âm tiết mà chỉ hình dung bốn thành tố như những âm
đoạn kế tiếp nhau theo trật tự tuyến tính. Ngoài bốn thành tố đoạn tính, yếu
tố đặc trưng độ cao (thanh điệu) chỉ gắn với phần vần của âm tiết. Hầu hết
các tác giả đều chỉ ra cấu trúc hai bậc của âm tiết nhưng các thành tố trong
bậc lại có sự khác nhau. Theo Hoàng Thị Châu (1989), bốn thành tố được
sắp xếp thành hai bậc: bậc 1 có âm đầu, âm đệm, vần và thanh điệu; bậc 2 có
nguyên âm và âm cuối. Còn các tác giả Đoàn Thiện Thuật (1977), Hữu
Quỳnh (1980), Vương Hữu Lễ và Hoàng Dũng (1994),..., lại cho rằng bậc 1
gồm âm đầu, phần vần và thanh điệu; bậc 2 gồm âm đệm, âm chính và âm
cuối. Sau khi đã chỉ rõ cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt, các tác giả
tiến hành mô tả các đối hệ âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh
điệu; phân biệt các âm tiết tiếng Việt theo từng đối hệ.
1.4. Đặt vấn đề có phải trong thứ tiếng nào âm vị cũng được thể hiện bằng
một âm tố không, tác giả Cao Xuân Hạo (1974, 1985) khẳng định kích thước
của cái đại lượng ngữ âm thể hiện âm vị có thể khác nhau tuỳ theo từng
ngôn ngữ, và cái mà ta gọi là âm tố chỉ có được cương vị âm vị trong một số
ngôn ngữ thuộc một loại hình ngôn ngữ nhất định mà thôi. Tác giả cho rằng
âm vị có hai loại là đoản âm vị và trường âm vị. Các ngôn ngữ đoản âm vị
và các ngôn ngữ trường âm vị khác nhau một cách sâu sắc về cách tổ chức
và sử dụng chất liệu âm thanh. Trong các ngôn ngữ châu Âu, âm vị có kích
thước của âm tố (nguyên âm và phụ âm) là những âm đoạn nhỏ nhất được
phân xuất trong ngữ lưu dựa vào tiêu chí chức năng- chức năng tạo lập vỏ
tiếng cho các kí hiệu ngôn ngữ (hình vị, từ). Còn trong tiếng Việt và các
ngôn ngữ cùng loại hình như tiếng Việt, âm vị có kích thước âm tiết, vì âm
tiết mới là âm đoạn nhỏ nhất. Trong ngữ lưu, chỉ có các âm tiết mới kế tiếp
nhau theo tuyến tính. Chỉ trong âm tiết, các nét khu biệt mới được thực hiện
đồng thời, hay ít nhất là gần đồng thời. Tóm lại, trong tiếng Việt, các âm tiết
nguyên vẹn là đơn vị âm vị học cơ bản - âm vị. Đơn vị âm vị học cơ bản này
sẽ được định nghĩa là đơn vị âm vị học đoạn tính nhỏ nhất không thể phân
chia thành những đơn vị kế tiếp nhỏ hơn, hay một tập hợp nét khu biệt được
thực hiện đồng thời. Thay vì một lí thuyết xoay quanh âm vị- âm tố, trong
tiếng Việt sẽ là lí thuyết xoay quanh âm vị- âm tiết (syllabeme).
2. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt
2.1. Âm tiết là điểm xuất phát để phân tích âm vị học
Như đã biết, một đại lượng ngữ âm nào đó sẽ có tư cách là đơn vị âm vị
học chừng nào nó đảm nhận một chức năng nhất định đối với đơn vị mang
nghĩa (hình vị, từ) trong một hệ thống ngôn ngữ. Có hai chức năng cơ bản
mà các đơn vị ngữ âm có thể đảm nhận là chức năng tạo lập (constitutive) và
chức năng khu biệt (distinctive) đối với vỏ tiếng của các đơn vị mang nghĩa
(tức là các kí hiệu ngôn ngữ) trong một ngôn ngữ nhất định. Trong tiếng
Việt, thực hiện chức năng tạo lập vỏ tiếng cho các đơn vị mang nghĩa phải là
các âm tiết nguyên vẹn, nhưng khi nói đến chức năng khu biệt vỏ tiếng cho
các đơn vị mang nghĩa trong tiếng Việt ta có thể nói đến cái đại lượng ngữ
âm dưới âm tiết. Trong các ngôn ngữ châu Âu, các nhà ngữ học dựa vào
ranh giới hình thái học đi qua giữa các âm trong ngữ lưu để phân xuất các
âm vị, nghĩa là người ta xuất phát từ hình vị để phân tích âm vị học. Còn
trong tiếng Việt, hầu hết các âm tiết đều trùng với hình vị, nghĩa là hình thức
biểu đạt của hình vị và âm tiết là một, cho nên, có thể xuất phát từ âm tiết để
phân tích âm vị học.
2.2. Cấu trúc âm tiết và các đơn vị ngữ âm tiếng Việt
Âm tiết tiếng Việt không phải là một khối đông kín bất khả phân mà là
một chỉnh thể có cấu trúc từ các yếu tố nhỏ hơn. Có nhiều sự kiện ngôn ngữ
chứng tỏ rằng có thể phân giải âm tiết tiếng Việt thành các đơn vị ngữ âm
nhỏ hơn. Dựa vào các sự kiện ngôn ngữ như cách cấu tạo từ láy, iếc hoá, nói
lái, mô phỏng ngữ âm, hiệp vần trong thơ, ta thấy âm tiết tiếng Việt có thể
chia tách ra thành ba bộ phận trực tiếp tạo thành là âm đầu, vần và thanh
điệu. Ba bộ phận này được tách ra nhờ các sự kiện cấu tạo từ láy, iếc hoá,
mô phỏng ngữ âm có liên quan đến hình thái học (cấu tạo từ), hay đây còn
gọi là hiện tượng hình âm vị học. Phần vần cũng được tách ra (bằng các ranh
giới ngữ âm học thuần tuý) thành ba yếu tố là âm đệm, âm chính và âm cuối.
Tóm lại, cấu trúc âm tiết tiếng Việt có thể được hình dung bằng lược đố sau:
thanh điệu
âm
đầu
vần
âm
đệm
âm
chính
âm
cuối
Hệ thống ngữ âm tiếng Việt hiện đại là một cơ chế gồm các tiểu hệ thống:
âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Năm hệ thông con này là
nét cố hữu của âm tiết, cấu tạo nên âm tiết (hình vị) tiếng Việt. Ngoài ra, còn
có một đại lượng âm thanh thuộc về ngữ lưu, đó là ngữ điệu.
2.2.1. Âm đầu
Âm đầu đều là phụ âm và là phụ âm đơn. Đảm nhận vị trí âm đầu do 22
phụ âm, trong đó có một phụ âm tắc bật hơi, một âm tắc thanh hầu (không
có chữ viết ghi lại); không có âm tắc- xát và âm rung. Trong các âm đầu
tiếng Việt, âm /p/ không nhập hệ. Bởi vì, tuy /p/ có trong tiếng Việt cổ (bằng
chứng là âm /p/ vẫn tồn tại trong tiếng Mường) nhưng đến thế kỉ XXII thì /p/
biến mất. Trong tiếng Việt hiện đại, âm /p/ tái xuất hiện để phiên âm các đơn
vị nước ngoài.
Các âm đầu tiếng Việt gồm:
- Các âm môi /b/, /m/, /f/, /v/
- Các âm đầu lưỡi /t/, /t'/, /s/, /z/, /d/, /n/, /l/ (các âm đầu lưỡi bẹt); /ƫ/,
/ʂ/,/ʐ/ (các âm quặt lưỡi).
- Các âm mặt lưỡi /c/, /ɲ/ (giữa lưỡi); /k/, /ŋ/, /x/, /ɣ/.
- Các âm họng /h/, /?/.
Sự thể hiện trên chữ viết: b, m, ph, v, t, th, x, d/ gi, tr, đ, n, l, s, r, ch, nh, c/
k/ q, ng/ ngh, kh, g/ gh, h.
2.2.2. Âm đệm
Âm đệm chỉ có một đơn vị, đó là bán âm /w/, có tác dụng làm trầm hoá âm
sắc của âm tiết. Cũng có quan niệm cho rằng, tiếng Việt có hai âm đệm: bán
âm /w/ và âm đệm zêro (so sánh tuấn và tấn).
2.2.3. Âm chính
Âm chính do nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính, cùng với thanh điệu bao
giờ cũng có mặt trong mọi âm tiết Việt. Âm chính gồm 14 đơn vị, trong đó
có 11 nguyên âm thuần sắc (nguyên âm đơn) và 3 nguyên âm chuyển sắc
(nguyên âm đôi). Cụ thể:
- Các nguyên âm hàng trước (không tròn môi) /i/, /e/, /ɛ/
- Các nguyên âm hàng sau, không tròn môi /ɯ/, /ɤ/,/ɤ/, /a/, /ă/
- Các nguyên âm hàng sau, tròn môi /u/, /o/, /ɔ/
- Các nguyên âm chuyển sắc /ie/, /ɯɤ/, /uo/
Sự thể hiện trên chữ viết: i/ y, ê, e, ư, ơ, â, a, ă/ a (trong au ay), u, ô, o/ oo,
ia/ ya/ yê/ iê, ưa/ ươ, ua/ uô.
2.2.4. Âm cuối
Các âm cuối tiếng Việt gồm 10 đơn vị, trong đó có 8 phụ âm và 2 bán
âm. Tất cả các phụ âm làm âm cuối đều có đặc điểm chung là tắc và không
buông (nghĩa là bộ phận cấu âm tiến đến vị trí cấu âm rồi cố định ở đó chứ
không trở về chỗ cũ). Âm cuối gồm:
- Các phụ âm tắc miệng (tắc điếc) /p/, /t/, /c/, /k/
- Các phụ âm tắc mũi (tắc vang) /m/, /n/, /ɲ /, /ŋ/
- Các bán âm /j/, /w/
Hệ thống âm cuối thể hiện trên chữ viết: p, t, ch, c, m, n, nh, ng, i/ y, o/ u.
2.2.5. Thanh điệu
Tiếng Việt có 6 thanh nhưng trên chữ viết chỉ có 5 kí hiệu (dấu thanh) vì
thanh ngang không có kí hiệu chữ viết. Các thanh điệu tiếng Việt được khu
biệt bởi các tiêu chí âm vực và đường nét (tuyền điệu).
- Tiêu chí âm vực: các thanh cao gồm /1/, /3/, /5/; các thanh thấp /2/, /4/, /6/
- Tiêu chí đường nét: bằng phẳng /1/, /2/; không bằng phẳng /3/, /4/ (gãy),
/5/, /6/ (không gãy).
2.3. Phân bố âm vị học trong tiếng Việt
2.3.1. Phân bố âm đầu
a. Trước âm đệm
- Các âm đầu /b/,/m/, /f/, /v/, /n/, /ʐ /, /ɣ/ không bao giờ xuất hiện trước âm
đệm. Ngoại lệ: boa, (xe) buýt, moa, (thùng) phuy, (khăn) voan, noãn (bào),
roàn roạt, goá (bụa).
- Các âm đầu còn lại phân bố được trước âm đệm. Chẳng hạn, toàn, thuỷ,
xuân, duyên, truyền, khoa, huệ,...
b. Trước âm chính
Hầu hết các âm đầu đều có khả năng xuất hiện trước âm chính, trừ hai
trường hợp sau:
- Âm đầu /f/ không xuất hiện trước âm chính là /uo/, ngoại lệ: phuốc (tăng)
- Âm đầu /ɣ/ không xuất hiện trước âm chính là /ie/, ngoại lệ: (gớm) ghiếc
2.3.2. Phân bố âm đệm
a. Sau âm đầu
Âm đệm không bao giờ xuất hiện sau các âm đầu /b/, /m/, /f/, /v/, /n/, /ʐ /,
/ɣ/, trừ các ngoại lệ như đã trình bày ở mục âm đầu. Âm đệm có thể được
phân bố sau các âm đầu còn lại.
b. Trước âm chính
- Âm đệm không bao giờ xuất hiện trước các âm chính là nguyên âm dòng
sau, tròn môi /u/, /o/, /ɔ/, /uo/.
- Âm đệm không bao giờ xuất hiện trước các âm chính là nguyên âm hàng
sau, không tròn môi /ɯ/, /ɯɤ/.
- Âm đệm có thể được phân bố trước âm chính /ɤ/ nhưng hết sức hạn chế,
vì chỉ xuất hiện trong các âm tiết quơ, quờ, quở, thuở (nhưng thuở có biến
thể thủa thì không có âm đệm).
- Âm đệm có thể xuất hiện trước các âm chính là /i/, /e/, /ɛ/, /ie/ (các
nguyên âm hàng trước, không tròn môi), các âm chính là /a/, /ă/, /ɤ/ (các
nguyên âm hàng sau, không tròn môi).
2.2.3. Phân bố âm chính
a. Sau âm đệm (xin xem ở phần trình bày âm đệm phân bố trước âm chính).
b. Sau âm đầu
Hầu hết âm chính đều xuất hiện sau âm đầu, trừ hai trường hợp: âm chính
/uo/ không phân bố sau âm đầu /f/; âm chính /ie/ không phân bố sau âm đầu
/ɣ/ (trừ hai ngoại lệ).
c. Trước âm cuối
- Âm chính /ɯ/ không xuất hiện trước hai âm cuối /p/ và /m/
- Âm chính /ɤ/ không xuất hiện trước hai âm cuối /k/ và /ŋ/
- Các âm chính là /u/, /o/, /ɔ/, /uo/ và /ɤ/ không xuất hiện trước âm cuối là
/w/ (bán âm).
- Các âm chính là /i/, /e/, /ɛ/, /ie/ không xuất hiện trước âm cuối là /j/ (bán
âm)
- Trừ các trường hợp trên, các âm chính còn lại đều có thể phân bố trước
các âm cuối.
2.2.4. Phân bố âm cuối
Phân bố âm cuối như đã trình bày ở mục phân bố âm chính trước âm cuối.
2.2.5. Phân bố thanh điệu
Sáu thanh trong tiếng Việt có khả năng phân bố khác nhau. Thanh /5/
(sắc) và thanh /6/ (nặng) có khả năng xuất hiện trong mọi loại hình âm tiết:
tá, tạ (mở), tái, tại (nửa mở), tám, tạm (nửa khép), táp, tạp (khép). Các
thanh /1/ (ngang), /2/ (huyền), /3/ (ngã), /4/ (hỏi) không bao giờ xuất hiện
trong các âm tiết khép.
Từ những điều trình bày trên, có thể rút ra luật phân bố ngữ âm tiếng Việt
là: các âm được phân bố theo nguyên tắc xa nhau về cấu âm, nghĩa là, những
âm có cấu âm giống nhau hoặc gần nhau thì không bao giờ kết hợp với nhau.
2.2.6. Kết luận
Hệ thống ngữ âm tiếng Việt hiện đại gồm có 53 âm (vị), là kết quả biến đổi
và phát triển của hệ thống ngữ âm tiếng Việt ở những giai đoạn trước đó.
Trong phát âm tiếng Việt hiện nay, có thể khẳng định rằng không có một
vùng địa phương nào thể hiện và phân biệt đầy đủ các đơn vị của hệ thống
như đã được phản ánh trong chữ viết và chính tả. Trong phát âm của vùng
Bắc Bộ, các âm đầu tiếng Việt mất khả năng khu biệt ở một số trường hợp.
Với các phát âm của vùng Nam Bộ, âm đệm gần như bị lược bỏ. Còn cách
phát âm của vùng Bắc Trung Bộ cho thấy các hình thái ngữ âm tiếng Việt ở
những giai đoạn trước đó vẫn còn tồn tại song song với hệ thống ngữ âm
tiếng Việt hiện đại. Vấn đề đặt ra là cần phải chuẩn hoá phát âm tiếng Việt
hiện nay để đảm bảo tính thống nhất ngôn ngữ và chính tả.
3. Tự pháp và quy tắc chính tả tiếng Việt
3.1. Một số vấn đề chung
3.1.1. Tự pháp, tự vị, chính âm, chính tự
- Tự pháp là các quy tắc, các phép phiên chuyển các âm (vị) trong ngôn
ngữ nói thành các con chữ trong ngôn ngữ viết, tức là quan tâm đến mối
quan hệ giữa âm và chữ. Đối tượng nghiên cứu của tự pháp là các quy luật
phiên chuyển các âm vị trong ngôn ngữ nói thành các tự vị trong ngôn ngữ
viết. Vì vậy, tự pháp quan tâm đến cách đọc (giá trị âm thanh) của các chữ.
Còn chính tả chủ yếu quan tâm đến cách viết, vì nó giúp cho người bản ngữ
biết cách lựa chọn cách viết chuẩn theo những quy tắc được xã hội thừa
nhận.
Muốn nắm vững chính tả quốc ngữ cần phải nắm vững tự pháp vì: a/ chữ
viết là để ghi lại hệ thống ngữ âm (tức là giữa chữ và âm có một sự tương
ứng nào đó) nên muốn viết đúng chính tả phải biết quy tắc phiên chuyển từ
âm thành chữ cái; b/ đối với việc dạy học tiếng mẹ đẻ thì hiểu biết trên lại
hết sức quan trọng, vì người học trước khi viết chính tả một từ nào đó phải
có một hình ảnh âm thanh về từ đó xuất hiện trong trí não. Chẳng hạn, người
học cần viết chính tả tổ hợp quê cũ thì phải chuyển âm đầu /k/ thành chữ cái
nào trong các chữ cái c, k, q; c/ hệ thống chữ viết lí tưởng phải có sự tương
ứng 1-1 giữa âm và chữ. Nhưng trên thức tế, không có một hệ thống chữ viết
ghi âm nào đạt được yêu cầu đó, nảy sinh những bất hợp lí về vấn đề chính
tả. Để giải quyết những bất hợp lí trong chính tả cần phải chú ý tự pháp.
- Tự vị là những đơn vị cơ sở (có số lượng nhất định) tạo thành một hệ
thống chữ viết. Tự vị khác chữ cái, tuy hai khái niệm này có mối quan hệ
gắn bó mật thiết: chữ cái chỉ có quan hệ với bộ chữ cái, còn tự vị có quan hệ
đến ngôn ngữ viết nói chung; tự vị có thể là một chữ cái hoặc một tổ hợp
chữ cái (th, nh, ch, tr,...) nhưng có thể không phải chữ cái mà chỉ là kí hiệu
đặc biệt như dấu thanh, dấu câu, trọng âm,....
- Chính âm và chính tự. Chính âm là âm tiêu chuẩn trong hệ thống ngữ âm
của một ngôn ngữ. Đọc có cơ sở chuẩn mực là chính âm (âm chuẩn), còn
chính tả có cơ sở là chính tự. Chính tự là sự biểu hiện quy tắc chính tả ở một
đơn vị từ ngữ. Một từ xét về mặt chính tả là một chính tự.
3.1.2. Những vấn đề của tự pháp
Tự pháp đặt ra và làm sáng tỏ ba vấn đề: a/ Tương ứng giữa âm và chữ, b/
Giá trị biểu thị âm của chữ.
a. Tương ứng âm - chữ
- Một số chữ cái có sự tương ứng giữa âm và chữ. Có hai mức độ tương
ứng: tương ứng lí tướng, nghĩa là một âm được ghi bằng một chữ theo quan
hệ 1-1: b, m, v, t, n, l, h, u; có một sự tương ứng nào đấy, nghĩa là một âm
được ghi lại bằng một chữ: e, ê, ư, ơ, â, ô, x, s, r,...
- Ghép hai ba con chữ để biểu thị một âm. Đó là các tổ hợp con chữ: ph,
th, tr, ch, nh ng/ ngh, kh,...
- Dùng nhiều con chữ đơn hoặc kép để biểu thị cùng một âm. Đó là các
trường hợp i/y, c/k/q, ng/ngh, g/gh, d/gi,....
Cùng một chữ cái nhưng biểu thị nhiều âm khác nhau. Đó là các trường
hợp a, o, i, y, u.
Đối với những chữ có tương ứng lí tưởng giữa âm và chữ thì nguyên tắc tự
pháp nghe sao viết vậy, viết sao đọc vậy. Các trường hợp dùng nhiều con
chữ đơn hoặc kép để biểu thị cùng một âm là điều bất hợp lí. Đây là hệ quả
của nhận thức ngữ âm học và tự pháp của người nước ngoài khi họ chế tác
chữ quốc ngữ. Những trường hợp không có sự tương ứng giữa chữ và âm
phải tìm ra quy tắc chính tả. Chẳng hạn, khi nào viết o để biểu thị /ɔ/, khi
nào để biểu thị /-w-/ hoặc /-w/(giá trị của con chữ o trong Trước sau nào
thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông là khác nhau).
b. Giá trị biểu thị âm của chữ
Vì trong nhiều trường hợp không có sự tương ứng lí tưởng (1-1) giữa chữ
và âm dẫn đến hệ quả:
- Có những chỉ biểu thị một âm duy nhất, chẳng hạn: b /b/, đ /d/, ơ /ɤ/, hay
c, k, q /k/, i, y /i/,...
- Có những chữ cái có hai hay nhiều giá trị; có thể phân chia thành hai loại
giá trị là giá trị chính và giá trị phụ. Giá trị chính là giá trị vốn có của chữ.
Còn giá trị phụ là giá trị được xác lập do vị trí và chức năng mà chữ thể hiện
trong cấu trúc âm tiết (tiếng). Chẳng hạn, chữ u biểu thị âm /u/ là giá trị
chính; còn biểu thị bán âm /w/ ở vị trí âm đệm /-w-/ hay âm cuối /-w/ là giá
trị phụ.
3.2. Quy tắc chuyển âm thành chữ
Tiếng Việt có hai quy tắc chuyển âm thành chữ (tự pháp) cơ bản và một
quy tắc phụ.
3.2.1. Quy tắc tiến (đệ quy) x - a
Quy tắc tiến x - a, nghĩa là đọc chữ cái x nào đó là dựa vào chữ cái a đi sau
nó. Trong tự pháp chữ quốc ngữ, quy tắc tiến được sử dụng phổ biến (chủ
yếu). Thí dụ, trong các cặp âm tiết hai - hay, cao - cau, đọc chữ a (âm chính)
khác nhau tuỳ thuộc vào sau nó là chữ i hay y, chữ o hay u.
3.2.2. Quy tắc lùi (hồi quy) a - x
Quy tắc lùi a - x, nghĩa là đọc chữ x nào đó là dựa vào chữ cái a đi trước.
Thí dụ, chữ o và u ở cuối tiếng bao, beo và bêu đọc giống nhau vì khi đứng
trước chữ o là hai chữ a và e thì o phải đọc giống u ghi bán âm /w/ làm âm
cuối. Trong tự pháp tiếng Việt, quy tắc lùi ít được sử dụng.
3.2.3. Quy tắc về thành phần của âm tiết (tiếng)
Quy tắc này dùng để đọc và viết một số tổ hợp chữ cái ghi nguyên âm ở vị
trí âm chính tuỳ theo: a/ trước đó có chữ ghi âm đệm hay âm đầu không; b/
sau đó có chữ ghi âm cuối không. Quy tắc này dùng để bổ trợ cho hai quy
tắc trên, chỉ dùng để đọc và viết các tổ hợp ia, ya, yê, iê ghi nguyên âm /ie/.
Cụ thể: viết yê khi trước nó không có chữ cái ghi âm đầu, nghĩa là khi nó
đứng đầu từ, chẳng hạn, yên, yêu, yết, yếm,...; viết iê khi trước và sau nó có
chữ cái ghi âm đầu và âm cuối, chẳng hạn, hiểu, biết, nhiều, tiếng, Việt,...;
viết ia khi sau nó không có chữ cái ghi âm cuối, nghĩa là khi nó đứng cuối
từ, chẳng hạn, chia, lìa, mía, bia,... Theo quy tắc lùi, viết yê, ya khi trước nó
có chữ cái ghi âm đệm, chẳng hạn, uyên, tuyết, khuya,... Theo quy tắc về
thành phần của âm tiết, viết ya khi sau nó không có chữ cái ghi âm cuối,
chẳng hạn, khuya, (xanh) tuya,...; viết yê khi sau nó có chữ cái ghi âm cuối,
chẳng hạn, huyền, nguyệt, tuyên,...
3.2.4. Một số trường hợp chính tả cần lưu ý
a. Theo quy tắc tiến
- Trường hợp c/ k/ q, g/ gh, ng/ ngh
trước i, ê, e, iê (ia) trước ư, ơ, â, a, ă, ươ
(ưa), u, ô, o, uo, (ua)
trước hai chữ ghi bán
âm o, u
c, k, q k c q
g, gh gh g
ng, ngh ngh ng
- Trường hợp ia/ iê, ưa/ ươ, ua/ uô
Trước chữ ghi âm cuối Trước zêrô (không có chữ ghi âm cuối)
iê: hiếu, hiền, tiến ia: chia, mía, bìa
ươ: hương, nước, mượt ưa: mưa, lửa, hứa
uô: chuông, buồn, ruột ua: lúa, mùa, chúa
Ngoại lệ, khi không có chữ ghi âm đầu thì iê được viết là yê, chẳng hạn,
yêu, yếm, yểng,...
- Trường hợp a/ ă ghi nguyên âm /ă/. Viết a trước hai con chữ ghi âm cuối
là u, y, chẳng hạn, sau. này, đau, tay, cau, mày,...; viết ă trước các chữ cái
ghi các âm cuối khác, chẳng hạn, ăn, mặn, mắt, sắc, thẳng, tắp,...
- Trường hợp o/ u để ghi bán âm /w/ làm âm đệm. Viết o trước các con
chữ a, ă, e (ghi các nguyên âm rộng, hơi rộng), chẳng hạn, hoa, xoan, xoắn,
thoắt, loè, loẹt,...; viết u trước các con chữ ghi các nguyên âm khác, chẳng
hạn, thuý, huýt, huệ, khuất, huyền, thuở,...
b. Theo quy tắc lùi
Áp dụng quy tắc này cho hai trường hợp các con chữ ghi hai bán âm /j/ và
/w/ làm âm cuối. Trường hợp i/ y ghi bán âm /j/ làm âm cuối: viết y sau các
con chữ â, a ghi các nguyên âm ngắn, chẳng hạn, đầy, mây, quấy, ngày,
nay,...; viết i sau các trường hợp khác, chẳng hạn, đời, người, tai, hại, mũi,
cuối, đồi,... Trường hợp o/ u ghi bán âm /w/ làm âm cuối: viết o sau các chữ
ghi nguyên âm a, e, chẳng hạn, thạo, chèo, đèo, cao,...; viết u sau các con
chữ ghi các nguyên âm khác, chẳng hạn, liu, điu, lêu, đêu, đầu, cầu,...
Ngoại lệ, khi chữ a ghi nguyên âm /ă/ thì không viết o mà viết u, chẳng
hạn, rau, màu, đau, cau,...
Bài 5. VÌ MỘT LÍ THUYẾT ÂM VỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG ĐÍCH THỰC
1. Dẫn nhập
Như đã biết, lí thuyết âm vị học đại cương là lí thuyết được xác lập trên
các ngôn ngữ biến hình châu Âu. Đó là lí thuyết mà đơn vị âm vị học nhỏ
nhất có cách kết hợp tuyến tính được thực hiện trong một âm tố - một đại
lượng không thể xác định bằng những định tính ngữ âm học nhưng lại được
phân giới trong ngữ lưu bằng những đường biên giới hình thái học ở bên
trong các âm tiết, và bằng những đường biên giới âm tiết ở bên trong các từ
và các hình vị. Lí thuyết này, về cơ bản được xây dựng trên cơ sở những ấn
tượng chủ quan của người bản ngữ do cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ
biến hình quy định. Hậu quả là, người bản ngữ (và cả các nhà ngữ học) có
cảm giác như thể ngữ lưu chia sẵn ra thành những đại lượng ngữ âm làm
thành từng khúc, từng âm đoạn có biên giới dứt khoát trong thời gian gọi là
âm tố, và đại lượng âm thanh tự nhiên này được sử dụng như một đơn vị cơ
bản trong hệ thống âm vị học cổ điển đã không đặt ra được những vấn đề lẽ
ra phải đặt ra từ đầu. Sau đây, chúng tôi xin lập thức lại những định đề ấy
dưới dạng hiển ngôn nhất và cố gắng trình bày thành một hệ thống mạch lạc.
2. Những định đề của âm vị học cổ điển đương đại
2.1. Ngữ âm học
2.1.1. Ngữ lưu trong tự nhiên được chia sẵn ra thành từng âm đoạn nối tiếp
theo nhau gọi là âm tố. Trên bình diện âm vị học, âm tố là những âm đoạn
tương đối đồng chất (nghĩa là những sự thay đổi có thể có bên trong phạm vi
của nó là không đáng kể, hoặc không tri giác được) mỗi âm đoạn choán một
khoảng thời gian riêng và được phân giới với các âm đoạn lân cận bằng một
sự thay đổi về nguồn tạo âm hay chức năng chuyển âm, hoặc bằng một sự
chuyển biến đột ngột về phẩm chất. Trên bình diện cấu âm, mỗi âm tố tương
ứng với một tư thế riêng của bộ máy phát âm (các khí quan phát âm).
2.1.2. Những thuộc tính đặc trưng của âm tố nằm trong phương thức cấu âm
và trong vị trí cấu âm của nó. Mỗi âm tố đều có những thuộc tính vật lí có
thể miêu tả bằng những đặc trưng về phương thức cấu âm (nguyên âm hay
phụ âm, miệng hay lưỡi, hữu thanh hay vô thanh, tắc hay xát, bên, rung,...)
hay về vị trí cấu âm (trước, sau, tròn, dẹt, môi, răng, lợi, ngạc, khẩu mạc,
tiểu thiệt, thanh hầu,...).
2.1.3. Các âm tố được phân chia thành hai loại lớn: nguyên âm và phụ âm.
Phụ âm là những âm do một tư thế khép kín hay một khe hở hẹp của đường
dẫn âm gây nên, thường làm thành một tiếng động (tạp âm) có thể nghe
được. Tiếng động này rất yếu trong các âm vang và không có mặt trong các
âm tắc không có giai đoạn buông. Nguyên âm là những âm được phát ra với
một đường dẫn âm để ngỏ hoàn toàn, cho nên chỉ có tiếng thanh thuần tuý,
không có tiếng động. Tiếng thanh này do những chấn động của dây thanh
phát ra và nó có một âm sắc đặc trưng nhờ hình dáng của các hộp cộng
hưởng ở phía trên thanh hầu (yết hầu, miệng, mũi).
2.1.4. Những thuộc tính không liên quan đến phương thức và vị trí cấu âm
hoặc trải dài trên hơn một âm tố là những sự kiện điệu tính hay siêu đoạn.
Những thuộc tính có liên quan đến cường độ hay độ dài của việc phát âm,
đến độ cao của âm thanh đều không phải là đặc trưng của âm tố mà nó
thường trải dài trên nhiều âm đoạn. Những thuộc tính này được gọi là những
yếu tố điệu tính hay những đơn vị siêu đoạn.
2.1.5. Giữa các âm tố lân cận thường có những giai đoạn chuyển tiếp ngắn
do những động tác cố ý của các khí quan phát âm từ vị trí này đến vị trí khác
gây nên. Nội dung của hoạt động phát âm là lần lượt phát ra những âm tố kế
tiếp nhau theo một trật tự nhất định, nghĩa là làm sao cho các khí quan lần
lượt chiếm lĩnh các vị trí phát âm cần thiết. Muốn chuyển từ vị trí của một
âm tố này sang vị trí của một âm tố khác kế theo, các khí quan buộc lòng
phải thực hiện những động tác bất đắc dĩ sinh ra những âm thanh chuyển
tiếp có tính chất kí sinh và gây nhiễu mà thính giác phải bỏ qua để nhận diện
cho đúng các âm tố.
2.1.6. Các âm tố kế cần thường ảnh hưởng lẫn nhau. Do quán tính và do sự
vụng về của các khí quan phát âm, các động tác chuyển tiếp có thể làm cho
các âm kế cận biến dạng một cách đáng kể, nghĩa là vị trí của các khí quan
phát âm có thể xê xích một cách đáng kể so với vị trí lẽ ra phải chiếm lĩnh.
Cái ảnh hưởng không cố ý này có thể được miêu tả như những hiện tượng
đồng hoá, dị hoá, đồng cấu âm, v.v..
2.2. Âm vị học
2.2.1. Những sự khác nhau về thể chất (ngữ âm học) giữa các âm tố của một
ngôn ngữ có thể quan yếu hoặc không quan yếu đối với ngôn ngữ ấy. Một sự
khác nhau quan yếu tự nó có tác dụng phân biệt hai đơn vị có nghĩa của
ngôn ngữ đang xét. Nó làm thành một thế đối lập âm vị học. Một sự khác
nhau không có tác dụng như thế là sự khác nhau không quan yếu. Nó không
có chức năng gì trong ngôn ngữ đang xét, và do đó, không có giá trị ngôn
ngữ học.
2.2.2. Hai âm tố mà sự khác nhau có tính quan yếu trong ngôn ngữ đang xét
thì cần được coi là sự thể hiện của hai âm vị khác nhau trong ngôn ngữ ấy.
Sự khác nhau giữa các âm vị của một ngôn ngữ - tức là những thế đối lập âm
vị học- có thể được phân loại và miêu tả theo tính chất và số lượng của
những đặc trưng ngữ âm học (tức những nét khu biệt) làm thành sự khác
nhau ấy.
2.2.3. Hai âm tố mà sự khác nhau không có tính quan yếu trong ngôn ngữ
đang xét thì cần được coi là những sự thể hiện khác nhau (những biến thể)
của cùng một âm vị. Trong các biến thể của một âm vị, có thể phân biệt
những biến thể tự do và những biến thể bắt buộc. Biến thể tự do là những
biến thể có thể thay thế cho nhau trong một chu cảnh đồng nhất tuỳ từng ngữ
cảnh hay tuỳ theo ý muốn người nói. Biến thể bắt buộc (hay biến thể ngữ
cảnh) là những biến thể được hệ thống ngôn ngữ quy định cho từng chu
cảnh. Trong những biến thể này, có thể phân biệt giữa biến thể kết hợp và
dạng ngữ âm do ảnh hưởng của các âm tố lân cận hay các yếu tố điệu tính
quy định, và biến thể vị trí do vị trí cấu âm âm tố đang xét trong đơn vị cấp
cao hơn (từ, hình vị, âm tiết) quy định.
2.2.4. Âm vị là đơn vị âm vị học đoạn tính nhỏ nhất của một ngôn ngữ. Hay
nói cách khác, âm vị là đơn vị nhỏ nhất có cách kết hợp tuyến tính trong một
ngôn ngữ. Một câu nói có thể phân chia triệt để thành những âm vị kế tiếp
nhau mà không để lại chút cặn nào, và từ đó không thể phân chia thành
những chiết đoạn kế tiếp nhỏ hơn nữa.
2.2.5. Âm vị bao giờ cũng được thể hiện trong một âm tố và chỉ một âm tố
mà thôi, trừ những trường hợp sau đây:
Có nhiều thứ tiếng biết đến những trường hợp mà một âm vị được thể hiện
trong hai âm tố. Trong những trường hợp đặc biệt này, hai âm tố làm thành
các âm vị hữu quan: a/ không bao giờ làm thành hai âm tiết, hay thuộc về hai
âm tiết khác nhau, b/ bao giờ cũng có cùng nguyên âm hay phụ âm, c/ nếu
cùng là phụ âm, bao giờ cũng cùng một vị trí cấu âm và âm thứ nhất bao giờ
cũng là âm tắc, còn âm thứ hai bao giờ cũng là âm xát, d/ nếu hai âm ấy
không cùng một bộ vị cấu âm thì âm thứ hai bao giờ cũng là /h/.
2.2.6. Âm vị là một tập hợp nét khu biệt được thực hiện đồng thời, nghĩa là
trong phạm vi một âm tố. Âm vị là đơn vị được cấu thành bằng những đặc
trưng quan yếu (tham gia vào thế đối lập âm vị học) chứa đựng trong một
âm tố, và do đó được gọi là những nét khu biệt. Các nét này bao giờ cũng là
những nét đặc trưng về phương thức và vị trí cấu âm. Hệ luận 1, những nét
khu biệt không thể hiện đồng thời thì không thuộc về một âm vị, trừ khi âm
vị ấy được thể hiện trong hai âm tố. Hệ luận 2, một nét khu biệt chỉ có tính
quan yếu (có tác dụng khu biệt) trong phạm vi của âm đoạn chứa đựng cái
âm vị mà nét ấy là một thành tố. Nếu ra ngoài cái phạm vi ấy, nó không còn
là quan yếu nữa, dù nó có làm thành sự khác nhau duy nhất cho phép phân
biệt hai đơn vị có nghĩa. Hệ luận 3, những nét được ngữ cảnh quy định, và
do đó có thể nói trước, thì không có tính quan yếu: nếu trong một ngôn ngữ
nào đó có thể nói rằng hễ nét x xuất hiện trong âm đoạn A thì trong âm đoạn
B sẽ có nét y, thì chỉ có một trong hai nét x và y có tính quan yếu mà thôi
(nét nào là quan yếu, nét nào không là tuỳ ở giải pháp âm vị học được chọn).
2.2.7. Những đặc trưng không thể miêu tả như những nét thuộc phương thức
hay vị trí cấu âm cần được coi là những nét đặc trưng điệu tính làm thành
những điệu vị. Các điệu vị hay âm vị siêu đoạn, khác với các nét khu biệt,
được thể hiện cùng một lúc một âm đoạn không phải là nhỏ nhất trong hệ
thống (không phải là một âm tố). Các điệu vị có thể được miêu tả như những
thanh điệu, những trọng âm hay những ngữ điệu tuỳ theo những thuộc tính
cấu thành của nó và kích thước của những âm đoạn được thực hiện đồng
thời với nó làm thành những lĩnh vực dàn trải của nó. Hệ luận 1, một âm vị
choán một thời gian riêng trong ngữ lưu; một điệu vị, một đặc trưng điệu
tính hay một nét khu biệt âm vị tính không choán một khoảng thời gian nào
cho riêng nó. Hệ luận 2, không thể có những âm vị đồng thời với nhau và
những nét khu biệt hay những điệu vị kế tiếp theo nhau.
2.2.8. Âm tiết là một đại lượng ngữ âm thuần tuý do một âm vị nguyên âm,
một âm vị phụ âm âm tiết tính hay một tổ hợp âm vị làm thành. Xét trên
bình diện chất liệu, âm tiết là đơn vị tự nhiên nhỏ nhất có thể phân xuất từ
ngữ lưu bằng những nhát cắt thẳng đứng với trục thời gian, và cũng là đơn vị
nhỏ nhất trên bình diện cấu trúc và tri giác, nhưng trên bình diện chức năng
nói chung, tự bản than nó không có cương vị ngôn ngữ học.Tuy nhiên, âm
tiết đôi khi cũng có thể nhờ cương vị của những đơn vị khác mà có được
một vị trí nào đó trong cấu trúc của ngôn ngữ với tư cách là lĩnh vực dàn trải
của những đơn vị ngôn ngữ học như trọng âm, thanh điệu hay ngữ điệu.
2.2.9. Có những thuộc tính ngữ âm bao giờ cũng quan yếu trong mọi loại
hình ngôn ngữ. Đó là: 1/ tính nguyên âm và tính phụ âm, 2/ tính đồng thời
và tính kế tiếp, 3/ trật tự trước sau của các đại lượng ngữ âm từ âm tố trở lên,
4/ những sự thay đổi nhanh chóng của nguồn âm và/ hay công năng truyền
âm, vốn bao giờ cũng đánh dấu những biên giới âm vị và quy định tính quan
yếu hay không quan yếu của các đặc trưng ngữ âm. Có những thuộc tính ngữ
âm không bao giờ quan yếu trong bất cứ loại hình ngôn ngữ nào, đó là: 1/
những thuộc tính về những đặc trưng của người nói, hay thuộc về cơ sở cấu
âm của ngôn ngữ đang xét, 2/ những thuộc tính có liên quan đến các động
tác của các khí quan phát âm bật ra hay khép vào, 3/ những thuộc tính cho
phép nhận diện các nguyên âm nhưng nằm trong âm đoạn phụ âm, 4/ những
thuộc tính cho phép nhận diện phụ âm nhưng nằm trong âm đoạn nguyên
âm.
2.3. Phương pháp và kỹ thuật
2.3.1. Công việc phân tích âm vị học có thể thực hiện một cách hoàn toàn
độc lập đối với cấu trúc hình thái học của ngôn ngữ đang xét. Việc ngữ lưu
được phân đoạn ra thành từng âm tố cho phép tiến hành phân tích âm vị học
mà không cần viện đến bình diện ngữ pháp của ngôn ngữ đang xét, vì đơn vị
âm vị học có thể làm cơ sở cho những thủ pháp phân tích và giải thuyết - âm
vị - có thể coi như đã được phân xuất từ trước: nó hầu như tương ứng một
đối một với âm tố, và không còn cần đến một thao tác nào khác để rút nó ra
khỏi ngữ lưu nữa.
2.3.2. Việc phiên âm ngữ âm học cung cấp một cơ sở khách quan để tiến
hành phân tích âm vị học. Một bản phiên âm ngữ âm học biểu hiện ngữ lưu
đúng như thực chất của nó trong hiện thực khách quan (hay đúng như con
người nghe thấy nó, dù tiếng mẹ đẻ của người nghe có là thứ tiếng nào) với
cách phân đoạn tự nhiên của nó. Trong bản phiên âm, mỗi âm tố được biểu
hiện bằng một kí tự, không phân biệt tính quan yếu hay không quan yếu của
những sự khác nhau được ghi lại đối với ngôn ngữ đang nghiên cứu. Dĩ
nhiên, những sự khác nhau nào không thể có tính quan yếu trong bất cứ một
thứ tiếng nào thì không việc gì phải ghi lại trong bản phiên âm ngữ âm học.
2.3.3. Tính quan yếu của những thuộc tính ngữ âm học được ghi lại trong
bản phiên âm ngữ âm học có thể được kiểm tra bằng trắc nghiệm giao hoán.
Người ta kiểm tra tính quan yếu (a) của những thuộc tính đặc trưng của các
âm tố được biểu trưng bằng các kí tự phiên âm bằng cách thử lấy kí tự này
thay cho kí tự kia, và (b) của sự có mặt của một âm tố bằng cách xoá bỏ kí
tự biểu hiện âm tố ấy (giao hoán với zêro): nếu sự thay thế hay xoá bỏ ấy
cho ta một đơn vị có nghĩa khác của ngôn ngữ đang xét, thì sự khác nhau
cần kiểm tra tỏ ra có tính quan yếu. Nếu không ta sẽ có (a) những biến thể
khác nhau của cùng một âm vị, hay (b) một yếu tố phi âm vị tính của một âm
vị phức hợp về phương diện ngữ âm học.
2.3.4. Những biến thể của cùng một âm vị đều chứa đựng những nét khu biệt
như nhau. Những âm tố khác nhau vì những thuộc tính không quan yếu
(những âm tố không giao hoán với nhau được) là những biến thể của cùng
một âm vị. Nếu sự khác nhau giữa các âm tố ấy là tuỳ ý thì đó là những biến
thể tự do; nếu sự khác nhau ấy là do ngữ cảnh quy định, thì đó là những biến
thể bắt buộc, hay biến thể có điều kiện, hay biến thể vị trí, hay biến thể kết
hợp.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ta có thể tập hợp (quy nạp) những âm
tố không có những nét khu biệt như nhau, vì thuộc những hệ đối vị khác
nhau thành một âm vị, và giải thích sự khác nhau về cấu trúc giữa các biến
thể âm vị đó bằng sự khác nhau về vị trí (biến thể vị trí).
2.3.5. Trong những trường hợp mà một sự khác nhau quan yếu giữa hai đơn
vị có nghĩa bao giờ cũng được chứa đựng trong hai âm tố kế cận, phải gán
tính quan yếu ấy cho sự khác nhau trong một âm tố mà thôi. Sau khi chọn
âm tố được coi là mang tất cả sự khác nhau quan yếu trong đơn vị có nghĩa,
sự khác nhau chứa đựng trong âm tố kia cần được coi là không quan yếu. Sự
lựa chọn nói trên có thể căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây: 1/ tính đơn
giản (hay tiết kiệm) của việc miêu tả, 2/ tính hợp lí về phương diện ngữ âm
học, 3/ áp lực của những đặc trưng chung của cấu trúc âm vị học, 4/ hiệu lực
giải thích đối với các bình diện cao hơn.
2.4. Đánh giá chung
Trên đây là những định đề, nguyên lí và những chỉ dẫn về mặt kỉ thuật
được nhiều trương phái và các nhà ngữ học chấp nhận hơn cả dù trình bày
hiển ngôn hay mặc ẩn. Về phương diện kỉ thuật, những nguyên lí và định đề
này có thể làm cơ sở cho một cách biểu hiện nhất trí và tiện dùng, có thể áp
dụng cho bất kì ngôn ngữ nào.Nó đặc biệt hữu hiệu cho việc xây dựng cho
những hệ thống văn tự a, b, c. Về phương diện thực tiễn, các nguyên lí và
định đề này hoàn toàn được biện minh nhờ những kết quả thu được trong khi
phân tích các ngôn ngữ châu Âu,vốn là những thứ tiếng hoạt động theo cơ
chế này. Nhưng những nguyên lí và định đề ấy không thể làm cơ sở cho một
lí thuyêt âm vị học đại cương có hiệu lực cho mọi thứ tiếng vì chẳng khó gì
mà không nhận ra trừ một vài định đề thực sự xuất phát từ những nguyên lí
cơ bản của cách hoạt động nói năng của con ngời thì còn lại toàn là những
chuyện tiên nghiệm và cực kì võ đoán. Không có lấy một định đề ngữ âm
học nào phù hợp với sự thật khách quan, đó đều là những âna tượng chủ
quan, những ảo giác của người nói thứ tiếng đoản âm vị. Cho nên, âm vị học
đại cương sẽ phải xây dựng một tập hợp những nguyên lí và định đề mới,
hoàn toàn hiển ngôn và không còn dấu vết của những nhận định tiên nghiệm,
được diễn dịch trực tiếp từ những nguyên lí cơ bản của cách hành chức của
ngôn ngữ như một hệ thống kí hiệu có cấu trúc và tôn ti. Những nguyên lí
âm vị học cơ bản mà chúng tôi trình bày sau đây là một thí nghiệm hãy còn
ngập ngừng theo hướng ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Xuân Hạo, Âm vị học và tuyến tính, tác giả dịch từ tiếng Pháp, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, H. 2005.
2. Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình các ngôn ngữ, Nxb Khoa học
xã hội, H. 1994.
3.V.B. Kasevich, Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, tập thể
tác giả dịch, Trần Ngọc Thêm hiệu đính, Nxb Giáo dục, H. 1998.
4. F.de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 2005.
5. N.S. Trubetskoy, Nguyên lý âm vị học, bản vi tính, Phòng tư liệu, Viện
ngôn ngữ, H. 1975.
6. L.R.Zinder, Ngữ âm học đại cương, Tổ ngôn ngữ Trường ĐHTH Hà Nội
dịch, Nxb Giáo dục, H. 1962.