Luận văn Đổi mới quản lý nhà nước về...

120
1 Luận văn Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay

Transcript of Luận văn Đổi mới quản lý nhà nước về...

1

Luận văn Đổi mới quản lý nhà nước về kết

cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam

trong giai đoạn hiện nay

2

Mở ĐầU

1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã

hội của các đô thị là kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Hầu hết các nội dung cơ bản của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đều do Nhà nước đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng vào mục đích công. Vấn đề quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật là một bộ phận quan trọng trong công tác quản lý đô thị, có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi đô thị.

Thành phố Tam Kỳ là tỉnh lỵ- trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa- xã hội của tỉnh Quảng Nam. Từ năm 1997, khi Quảng Nam-Đà Nẵng được chia tách thành hai đơn vị hành chính, Thành phố được tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật với tốc độ cao, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong quá trình đô thị hóa, còn nhiều tồn tại, yếu kém, nhất là việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tính chiến lược, quy hoạch “treo”; quản lý đầu tư xây dựng thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp, nhiều công trình hạ tầng kém chất lượng, thất thoát vốn đầu tư, tình trạng “đào lên lấp xuống” nhiều lần ở cùng một công trình khá phổ biến; vệ sinh môi trường đô thị còn nhiều yếu kém, tỷ lệ thu gom rác thải mới đạt trên 68% so với yêu cầu; đầu tư phát triển chưa gắn với giải quyết môi trường sinh thái đảm bảo tính bền vững...

Vấn đề có tính thời sự đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Tam Kỳ là làm thế nào để quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục tình trạng yếu kém, bất cập đang diễn ra, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đã có một số tài

liệu đề cập. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu được xuất bản đều nghiên cứu vấn đề này như là một bộ phận cấu thành trong công tác quản lý đô thị nói chung chứ chưa có tài liệu riêng biệt, chuyên sâu về nội dung mà đề tài này nghiên cứu, điển hình như:

Sách “Quản lý đô thị” do TSKH Nguyễn Ngọc Châu chủ biên (Nxb Xây dựng, Hà Nội 2001). Sách “Kinh tế học đô thị” của giáo sư Trung Quốc -

Nhiêu Hội Lâm, người dịch Lê Quang Lâm (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004). Sách “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế đầu tư quy hoạch và quản lý cơ sở hạ tầng đô thị”, của PGS Trần Đức Dục (Nxb Xây dựng Hà Nội 2000).

Sách “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi” của TS Võ Kim Cương (Nxb Xây dựng Hà Nội 2004). Sách “Quản lý đô thị” của TS Phạm Trọng Mạnh (Nxb xây dựng, Hà Nội năm 2002). Sách “Phương pháp tiếp cận mới về quy hoạch và quản lý đô thị", tác giả Nguyễn Đăng Sơn - Viện Nghiên cứu đô thị và phát

triển hạ tầng (IUSID) (Nxb Xây dựng Hà Nội 2005)... Trong các sách nêu trên, chủ yếu đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các đô thị lớn trong cả nước và kinh nghiệm quốc tế; đưa ra

một số ý tưởng và quan điểm mới mang tính giải pháp, đột phá để đóng góp vào việc giải quyết bài toán hắc búa, bức thiết hiện đang đặt ra đối với các chính phủ và chính quyền đô thị.

Ngoài ra, một số nội dung có liên quan đến công tác quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được đưa ra hội thảo của một số tổ chức như Hiệp hội các đô thị Việt Nam (năm 2004 tại TP Pleicu - Gia Lai); Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (năm 2000 tại Hà Nội); Viện Nghiên cứu hợp tác khoa học kỹ

thuật Châu á- Thái Bình Dương (năm 2001). Trên thực tế, vấn đề “Quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô

thị” chưa có một công trình nghiên cứu nào riêng biệt, cụ thể và có hệ thống. Hơn nữa, đề tài “Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành

4

phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay” chưa được nghiên cứu. Vì vậy, đề tài nghiên cứu làm luận văn không trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã công bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước

về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị nói chung và tại thành phố Tam Kỳ- Tỉnh Quảng Nam nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ đến năm 2010.

Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích, làm rõ khái niệm về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, vai trò

của kết cấu HTKT đô thị đối với phát triển kinh tế- xã hội đô thị. - Phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ

thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý nhà nước về

kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước trên lĩnh

vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ 2001-2010.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục tiêu “phát triển bền vững” và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay; các quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, thành phố Tam Kỳ về quản lý kết cấu hạ tầng nói chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị nói riêng nhằm phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh và tổng kết kinh nghiệm.

5

6. Những đóng góp của luận văn Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về kết cấu hạ tầng

kỹ thuật, vai trò của nó đối với phát triển kinh tế-xã hội tại các đô thị. Đề xuất một số giải pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước trên lĩnh

vực này, nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng, chỉnh trang đô thị, phát triển kinh tế- xã hội tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quản lý, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.

6

Chương 1

CƠ Sở Lý LUậN CủA QUảN Lý NHà NƯớc

về kết cấu Hạ tầng kỹ thuật đô thị

1.1. khái niệm, vai trò và đặc điểm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

1.1.1. Khái niệm kết cấu hạ tầng và kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị 1.1.1.1. Kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng kỹ thuật nói riêng và kết cấu hạ tầng nói chung ngày

càng được sử dụng nhiều với tư cách là những thuật ngữ khoa học trong các công trình nghiên cứu và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, ngay nội dung của thuật ngữ này cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhìn tổng quát chúng ta có thể thấy tập trung chủ yếu là hai loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan niệm theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng của thuật ngữ kết cấu hạ tầng.

Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất thuộc lĩnh vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những nhu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội. Theo cách hiểu này kết cấu hạ tầng chỉ bao gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên lạc... và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Cách hiểu như vậy có tác dụng giúp phân biệt khu vực "kết cấu hạ tầng" với chức năng bảo đảm lưu thông, phục vụ cho khu vực sản xuất và các khu vực khác và về nguyên tắc khu vực kết cấu hạ tầng khác hẳn với các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân như tài chính, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội... Tuy nhiên quan niệm kết cấu hạ tầng theo nghĩa hẹp không phản ánh được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất.

Theo nghĩa rộng, kết cấu hạ tầng được hiểu là tổng thể các công

7

trình đảm bảo những điều kiện "bên ngoài" cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Kết cấu hạ tầng là một phạm trù rộng gần nghĩa với "môi trường kinh tế", bao gồm các phân hệ: phân hệ kỹ thuật (đường, giao thông, cầu, cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông...) và phân hệ xã hội (giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật...), hay phân tích cụ thể hơn còn có phân hệ tài chính (hệ thống tài chính - tín dụng), phân hệ thiết chế (hệ

thống quản lý nhà nước và luật pháp). Cách hiểu này rõ ràng là rất rộng, bao hàm hầu như toàn bộ khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng hiểu theo nghĩa rộng không đồng nghĩa và lẫn lộn với các phạm trù "khu vực dịch vụ" hoặc "môi trường kinh tế" ở chỗ kết cấu hạ tầng là một phạm trù bao hàm tất cả những công trình cơ sở vật chất kỹ thuật, trong mối quan hệ chặt chẽ với chức năng của chúng là tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển.

Như vậy, khu vực kết cấu hạ tầng xét về mặt hình thức là rất rộng, bao gồm các lĩnh vực rất khác nhau từ hệ thống giao thông đến cấp thoát nước, từ thể chế pháp lý đến hệ thống đảm bảo thông tin kinh tế... nhưng cần phải chú ý là kết cấu hạ tầng không phải là tổng thể cơ học của tất cả các lĩnh vực đó mà nó chỉ xét đến mối quan hệ "phục vụ", quan hệ "đảm bảo điều kiện" của các lĩnh vực đó cho nền kinh tế quốc dân (xem sơ đồ 1.1).

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước nên quan niệm kết cấu hạ tầng theo nghĩa rộng vì như vậy sẽ thấy rõ tính hệ thống của toàn bộ các lĩnh vực có tác dụng hỗ trợ cho sản xuất và đời sống xã hội. Các bộ phận của kết cấu hạ tầng không đứng độc lập riêng rẽ mà có quan hệ hữu cơ với nhau. Cách nhìn hệ thống đối với kết cấu hạ tầng theo nghĩa rộng cho phép thấy được vị trí, vai trò tổng thể của kết cấu hạ tầng, thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận bề ngoài có vẻ như độc lập và không có liên quan với nhau, từ đó quan điểm, chính sách giải pháp quản lý khu vực này sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế quốc dân.

Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa kết cấu hạ tầng đối với hoạt động

8

của nền kinh tế quốc dân

1.1.1.2. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật

Hiện nay, có một vài khái niệm khác nhau về kết cấu hạ tầng tùy thuộc vào cách tiếp cận ở góc độ này hay góc độ khác. Chẳng hạn nếu tiếp cận kết cấu hạ tầng ở góc độ ngành, có các khái niệm như kết cấu hạ tầng nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, tài chính tín dụng, y tế, giáo dục, quốc phòng- an ninh... Nhưng trong quản lý đô thị người

Nền kinh tế quốc dân

Hoạt động sản xuất Hoạt động tiêu dùng

Yêu cầu

cung cấp

về máy

móc

thiết

bị, về

nguyên

nhiên

Yêu cầu về đào tạo con

người có trình độ kỹ thuật, có sức

khỏe, kỹ năng...

Yêu cầu về giao thông, điện, thông

tin, đảm bảo an toàn...

Nhu cầu về ăn,

mặc, ở, y tế...

nhằm tái sản xuất sức lao động

Nhu cầu đi lại,

học tập, thông tin, vui chơi giải trí nhằm

phát triển toàn diện

Kết cấu hạ tầng

9

ta thống nhất sử dụng khái niệm trên cơ sở phân chia kết cấu hạ tầng theo lĩnh vực, đó là “kết cấu hạ tầng kỹ thuật” và “kết cấu hạ tầng xã hội”. Tuy nhiên, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, vì thực tế ít có loại kết cấu hạ tầng nào chỉ hoàn toàn phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội.

Khái niệm kết cấu HTKT được dùng để chỉ toàn bộ những lĩnh vực tạo điều kiện về mặt "kỹ thuật" cho sản xuất và đời sống xã hội, bao gồm hệ thống đường giao thông, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc, hệ thống cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường... các bộ phận của kết cấu HTKT đều có điểm chung về mặt chức năng và thống nhất về bản chất kinh tế. Đối với các đô thị, vị trí vai trò của kết cấu HTKT rất quan trọng, bảo đảm cho quá trình tổ chức sản xuất và sinh hoạt của đô thị được thực hiện liên tục, mang lại hiệu quả KT-XH cao.

Kết cấu HTKT đô thị bao gồm nhiều bộ phận hợp thành và mỗi bộ phận lại có tính độc lập tương đối, có đặc điểm và phương thức quản lý khác nhau. Cho đến nay, quan niệm về kết cấu HTKT cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung đều nhất trí rằng kết cấu HTKT đô thị bao gồm những bộ phận chủ yếu sau đây:

- Các công trình giao thông đối nội và đối ngoại, bao gồm: mạng lưới đường, cầu, hầm, quảng trường, bến bãi, sông ngòi, kênh rạch, các công trình đầu mối giao thông, sân bay, nhà ga, bến xe và bến cảng nằm trong phạm vi quản lý của các công trình giao thông đô thị.

- Các công trình cấp nước đô thị, bao gồm: các nguồn cung cấp nước mặt hoặc nước ngầm, các công trình kỹ thuật khai thác nguồn nước và sản xuất nước sạch, hệ thống phân phối nước (đường ống, tăng áp và điều hòa).

- Các công trình thoát nước đô thị, bao gồm: hệ thống cống rãnh, cửa xả, kênh mương, đê đập, trạm bơm và trạm xử lý nước thải...

- Các công trình cấp điện và chiếu sáng đô thị, bao gồm: các nhà máy phát điện, các trạm biến áp, hệ thống đường dây dẫn điện, cột điện, đèn chiếu sáng...

- Các công trình thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông...

10

- Các công trình phục vụ công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải đô thị (thùng chứa, các điểm trung chuyển rác, phương tiện thu gom, vận chuyển, bãi xử lý rác...)

- Các công viên, cây xanh phục vụ vui chơi, giải trí và bảo vệ môi trường; Ngoài ra có quan điểm còn tính đến cả các lĩnh vực nhà ở, hệ thống kho

tàng tập trung, các công trình và tổ chức phục vụ công cộng như tang lễ, y tế, cơ sở xã hội, phòng chữa cháy, phòng chống lụt bão, động đất v.v...

Sơ đồ 1.2: Cấu trúc của kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng trên

giác độ lãnh

Kết cấu hạ tầng trên

giác độ ngành

Kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng

- Giao thông - Cấp nước - Cấp điện - VSMT ....

- Cơ sở giáo dục đào tạo -Công viên,cây xanh -Bệnh viện, trạm xá -Cơ sở văn hóa công cộng của đô thị .....

một

phần

phục

vụ

cho

11

Nghiên cứu và phân tích cụ thể hơn thì trong kết cấu HTKT đô thị bao gồm hai mảng lớn. Mảng thứ nhất là các công trình cơ sở vật chất có chức năng tạo điều kiện cho toàn bộ hoạt động kinh tế-xã hội của thành phố như đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, lưới điện, mạng bưu chính viễn thông... Đây là những công trình được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu về dịch vụ hàng hoá công cộng và dù chúng được đầu tư xây dựng theo phương thức nào đi chăng nữa cũng đều có đặc điểm là gắn liền với chức năng đảm bảo điều kiện cho sự hoạt động bình thường của đô thị.

Mảng thứ hai của kết cấu HTKT đô thị chính là các thiết chế tổ chức có chức năng quản lý đầu tư xây dựng, quản lý vận hành, khai thác sử dụng các công trình kết cấu HTKT hoặc cung ứng các sản phẩm hàng hoá công cộng. Đó là các công ty, xí nghiệp, trạm, các đơn vị sự nghiệp... tức là các tổ chức con người được thành lập và hoạt động theo thể chế hiện hành.

Việc phân biệt hai mảng kết cấu HTKT đô thị như trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Đối với mảng các công trình kết cấu HTKT có tầm quan trọng đặc biệt lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hiệu suất vốn thấp, khó tổ chức thu hồi vốn... Nhà nước có trách nhiệm đầu tư phát triển và quản lý thống nhất, còn đối với mảng thứ hai, tuỳ thuộc vào cơ chế quản lý, trình độ quản lý... có phương thức và hình thức tổ chức quản lý phù hợp.

1.1.2. Đặc điểm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị Sản phẩm đầu ra của kết cấu HTKT đô thị đều là sản phẩm hàng hoá

hoặc dịch vụ công cộng. Do đó những sản phẩm này vừa mang những đặc điểm của các sản phẩm dịch vụ vừa có những đặc điểm của các hàng hoá công cộng. Chính yếu tố này quy định phương thức và các hình thức đầu tư, quản lý các công trình kết cấu HTKT. Nhìn chung, kết cấu HTKT đô thị có các đặc điểm chủ yếu sau:

Đặc điểm cơ bản nổi bật nhất của kết cấu HTKT đô thị là tính hệ thống đồng bộ của nhiều “nhánh” khác nhau trong quan hệ tổng thể. Nếu một khâu nào đó trong hệ thống không được thiết kế xây dựng sẽ ảnh hưởng đến vận hành toàn bộ, thậm chí gây ách tắc, chẳng hạn một đô thị có đầy đủ các điều

12

kiện thuận lợi về giao thông vận tải (như hệ thống cảng biển, sân bay, đường bộ, đường sắt...) nhưng cũng không thể khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp nếu như không có đủ nguồn điện hoặc nguồn nước bị ô nhiễm. Do vậy tính hệ thống đồng bộ là đặc điểm đặc biệt của kết cấu HTKT đô thị.

Tính hệ thống đồng bộ không những chi phối toàn diện đến thiết kế quy hoạch đầu tư thiết bị... các công trình cụ thể mà còn liên quan đến cách thức tổ chức quản lý, vận hành kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo vùng, lãnh thổ. Yêu cầu trên càng thể hiện trong những loại kết cấu HTKT mang tính hệ thống cao như giao thông, bưu chính viễn thông... tính hệ thống đồng bộ đặt ra cho công tác quản lý nhà nước của các cấp chính quyền đô thị là phải kết hợp một cách đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành trên các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu quả, hạn chế thấp nhất lãng phí khi xây dựng các công trình kết cấu HTKT.

Đặc điểm thứ hai của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị là tính định hướng. Đặc điểm này xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau của vị trí hệ thống kết cấu HTKT như vốn đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, là yếu tố mở đường cho các hoạt động kinh tế- xã hội... đặc điểm này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có quy hoạch dài hạn, chiến lược, quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết bố trí hệ thống kết cấu HTKT. Cách làm chắp vá đến đâu hay đến đấy, sẽ hạn chế phát triển kết cấu HTKT, thậm chí gây ách tắc, cản trở phát triển kinh tế- xã hội của đô thị.

Đặc điểm thứ ba của kết cấu HTKT đô thị là tính chất vùng và địa phương: việc xây dựng và phát triển kết cấu HTKT đô thị phụ thuộc nhiều yếu tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển, tập quán văn hóa, kiến trúc... vì thế hệ thống kết cấu HTKT mang tính chất vùng, địa phương rất rõ nét. Yêu cầu này đặc ra cho công tác quản lý là trong việc xác định hệ thống kết cấu HTKT đô thị và thiết kế đầu tư, sử dụng nguyên vật liệu vừa đặt trong hệ thống chung của quốc gia, vùng lãnh thổ vừa phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Đặc điểm thứ tư là kết cấu HTKT đô thị có tính chất dịch vụ và tính cộng đồng cao, hầu hết các sản phẩm của kết cấu HTKT là sản phẩm trung

13

gian, cung cấp các dịch vụ để ngành khác tạo ra sản phẩm cuối cùng. Vì thế việc đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về kết cấu HTKT rất phức tạp.

Hơn nữa nhiều loại kết cấu HTKT tiến hành sản xuất và dịch vụ là những hàng hóa công cộng, phục vụ chung cho nhiều ngành, nhiều người (như ngành cấp nước vừa kinh doanh nước sạch nhưng vừa đảm bảo yêu cầu phục vụ nước sinh hoạt cho tất cả mọi người dân). Đặc điểm này đòi hỏi phải giải quyết quan hệ giữa yêu cầu kinh doanh và phục vụ mang tính phúc lợi, đồng thời xác định hệ thống cơ cấu các chủ thể tham gia sử dụng kết cấu HTKT, hệ thống các chính sách và công cụ của nhà nước để xử lý quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, thu nhập của dân cư thấp, ngân sách nhà nước còn hạn hẹp như Việt Nam.

1.1.3. Vai trò của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị Kết cấu HTKT đô thị có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã

hội của mọi quốc gia nói chung và các đô thị nói riêng, thể hiện cụ thể ở một số điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, kết cấu HTKT là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một khi kết cấu HTKT phát triển hợp lý, nó sẽ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng khu vực kinh tế nông nghiệp (khu vực I) ngày càng giảm dần, khu vực kinh tế công nghiệp, dịch vụ (khu vực II và III) tăng lên, thỏa mãn ngày càng cao về sản xuất, đời sống và vui chơi giải trí của xã hội loài người.

Tương ứng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Lao động khu vực I giảm dần, lao động khu vực II và III tăng lên. Sự chuyển dịch cơ cấu như trên làm tăng quy mô dân số trong các khu vực đô thị.

Thứ hai, kết cấu HTKT đảm bảo những điều kiện vật chất thuận lợi nhất để các cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động có hiệu quả. Thật vậy, chỉ cần trục trặc trong một khâu nhất định của một loại hoạt động do sự yếu kém của

14

hệ thống kết cấu HTKT gây ra như cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, giao thông, thông tin liên lạc... thì lập tức gây ra sự cố cho hoạt động của các cơ sở sản xuất và dịch vụ khác. Ngược lại, một hệ thống kết cấu HTKT hiện đại, đồng bộ sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính cạnh tranh hơn.

Thứ ba, xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, kết cấu HTKT như là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ giữa các bộ phận và các vùng của nền kinh tế. Một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tốt nhất những tiềm năng của đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế. Mặc khác tạo điều kiện để phát triển kinh tế- xã hội đồng đều, rộng khắp theo vùng lãnh thổ, làm giảm bớt sự khác biệt về dân trí, mức sống giữa các vùng.

Thứ tư, hệ thống kết cấu HTKT góp phần nâng cao trình độ văn minh đô thị, đồng thời là cơ sở quan trọng để giải quyết tốt môi sinh, môi trường, vấn đề đang đặt ra hết sức bức xúc cho hầu hết các đô thị trên thế giới, nhất là nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Kết cấu HTKT là cơ sở điều kiện thiết yếu để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Kết cấu HTKT còn có vai trò quan trọng trong việc phục vụ cho các hoạt động đảm bảo an ninh- quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội trên cơ sở chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội, vai trò của kết cấu HTKT ở các đô thị có xu hướng ngày càng tăng lên, do một số nguyên nhân sau:

+ Quy mô sản xuất tăng lên, quá trình phân công lao động xã hội sâu sắc thêm, dẫn đến quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh và hình thành những trung tâm kinh tế lớn. Đối với các quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hoá, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ cao. Sự phát triển của đô thị đòi hỏi phải phát triển hệ thống HTKT như một điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho các quá trình phát triển sản xuất và tổ chức đời sống xã hội. Một loạt nhu cầu tăng nhanh chóng: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cung ứng năng lượng, nước sạch, xử

15

lý nước thải, cây xanh, hệ thống kho tàng... những nhu cầu này đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả trong quá trình phát triển.

+ Việc phát triển đô thị trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập có nhiều hình thức đầu tư và giao lưu quốc tế đòi hỏi các chỉ số tiêu chuẩn của tổ chức đô thị phải phù hợp với các chỉ số của quốc tế. Điều này đòi hỏi phải coi phát triển HTKT như một yếu tố có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Như vậy, kết cấu HTKT có vai trò ngày càng hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng đơn vị kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như ở Việt Nam hiện nay. Sự phát triển kết cấu HTKT đô thị là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển nền kinh tế và các phúc lợi xã hội khác. Nó là yếu tố mở đường, là bộ phận cấu thành của phát triển KT-XH. Chính vì vậy, sự phát triển của kết cấu HTKT là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá trình độ phát triển, trình độ hội nhập của một quốc gia hay một địa phương.

1.1.4. Đánh giá trình độ phát triển và hiệu quả của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

1.1.4.1. Về đánh giá trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Kết cấu HTKT đô thị có tính độc lập tương đối nên có những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của từng loại kết cấu HTKT nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống nói chung. Đây là hệ thống chỉ tiêu làm cơ sở để lập quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng kết cấu HTKT trong hoạt động quản lý nhà nước các cấp. Trình độ phát triển của kết cấu HTKT thể hiện ở hai mặt khác nhau:

Một là, loại phản ánh quy mô và trình độ phát triển của bản thân các loại kết cấu HTKT như tổng số vốn đầu tư, tỷ trọng đầu tư trong tổng số vốn đầu tư cho đô thị đang xem xét, số kilômet đường các cấp đã xây dựng, số máy điện

16

thoại, số lượng nước sạch cung ứng, số kilômet đường ống cấp nước, thoát nước... Loại chỉ tiêu này cho biết quy mô, tốc độ phát triển các lĩnh vực HTKT.

Hai là, loại phản ánh chất lượng tổng hợp, phản ánh mối quan hệ giữa sự phát triển của các loại kết cấu HTKT với sự phát triển của đô thị nói chung. Khi nghiên cứu lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư kết cấu HTKT thì loại chỉ tiêu này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ví dụ chỉ tiêu số mét vuông đường tính bình quân cho một phương tiện giao thông đang hoạt động hoặc tốc độ trung bình của phương tiện, tần suất tắc nghẽn giao thông nói lên khả năng lưu thông trong đô thị; chỉ tiêu thời gian đi lại làm việc trung bình một ngày của cư dân đô thị nói lên chất lượng hệ thống giao thông và các phương tiện giao thông công cộng; chỉ tiêu số mét khối nước sạch tiêu dùng của dân cư, khả năng thoát nước...nói lên chất lượng hệ thống cấp thoát nước, chỉ tiêu số mét vuông cây xanh nói lên chất lượng đảm bảo môi trường xanh cho đô thị...

1.1.4.2. Về hiệu quả của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội được đánh giá

bằng sự đóng góp của kết cấu HTKT cho sự phát triển KT-XH, an ninh- quốc phòng của địa phương (bao gồm cả vấn đề môi trường, môi sinh...). Do đặc điểm của kết cấu HTKT mà hiệu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội rất khó xác định một cách cụ thể, mà thông thường chỉ dừng lại ở mức độ dự báo dự tính, ước lượng mang tính chất “định tính” hoặc xác định tương đối bằng chỉ tiêu tổng hợp mà thôi. Hơn nữa, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội do các công trình kết cấu HTKT mang lại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau nên rất khó định lượng chính xác. Tuy nhiên, để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu và quản lý nhà nước về kết cấu HTKT ở các cấp chính quyền đô thị, người ta thường phân thành hai chỉ tiêu:

Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế: cần quan tâm các chỉ tiêu hiệu quả đem lại trực tiếp cho toàn xã hội như: đóng góp cho tốc độ tăng trưởng GDP, tăng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần cải thiện cho cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, củng cố an ninh-quốc

17

phòng. Đồng thời phải tính toán đến những kết quả kinh tế kéo theo như: cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống nên đã nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí chữa bệnh do sức khoẻ của nhân dân được đảm bảo...

Tuy nhiên, những thiệt hại do kết cấu HTKT gây ra đối với nền kinh tế

trong nhiều trường hợp là rất lớn và thường khó tính tóan hết trong các phân tích đánh giá, ví dụ: thiệt hại trực tiếp do đầu tư thiếu phối hợp, đường mới làm lại đào lên để chôn ống nước hoặc cáp thông tin; công trình mới làm chưa hết khấu hao đã phải làm lại do không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật... Hoặc thiệt hại gián tiếp do các công trình kết cấu HTKT không đáp ứng được nhu cầu của phát triển sản xuất và đời sống xã hội. Thiệt hại vô hình do công trình kết cấu HTKT đã xây dựng nhưng tỷ suất sử dụng quá thấp trong thời gian dài, hoặc do tỷ suất sử dụng vượt quá khả năng đáp ứng của công trình kết cấu HTKT. Đây là những vấn đề cần được chú ý khắc phục trong các quyết định

quản lý của chính quyền đô thị. Theo giáo sư Nhiêu Hội Lâm (Trung Quốc):

Hạng mục xây dựng và dung lượng phục vụ của các công trình cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư sử dụng một lần rất khó hoàn toàn ăn khớp với nhu cầu của số lượng người và sản xuất ngày càng tăng lên. Cho nên biện pháp giải quyết chỉ có thể là mỗi khi xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị đều phải có chỗ dôi ra làm cho nó có lượng định trước nhất định. Nên tầng suất sử dụng hoặc cường độ sử dụng của nó có một quá trình phát triển từ thấp đến cao. Do đó hiệu ích của cơ sở hạ tầng đô thị tăng trưởng theo tỷ lệ thuận với tỷ suất sử dụng hoặc cường độ của nó. Nhưng điều quan trọng là tỷ suất sử dụng và cường độ lợi dụng của cơ sở hạ tầng đều có giới hạn, vượt quá giới hạn này hiệu quả kinh tế của nó không chỉ không thể tiếp tục nâng cao mà còn trượt theo hướng ngược lại, gây nên hiệu ích âm của đô thị, tức hiệu ích kinh tế tổng hợp đô thị giảm thấp (xem đồ thị 1.1) [33,

18

tr.338].

Đồ thị 1.1: Tỷ suất sử dụng kết cấu HTKT đô thị với quy luật biến đổi của hiệu quả kinh tế tổng hợp đô thị [33, tr.377]

Hiệu quả kinh tế tổng hợp đô thị

thấp phù hợp vượt quá Tỷ suất sử dụng kết cấu HTKT đô thị

Biểu đồ này phản ảnh khá rõ thực tiễn sử dụng kết cấu HTKT ở các đô thị. Điển hình như trên một tuyến đường giao thông được đầu tư xây dựng mới, giai đoạn đầu lượng người tham gia lưu thông thấp, tức hiệu suất sử dụng công trình thấp. Khi dân cư đô thị tăng lên, lượng người lưu thông trên đường sẽ từng bước phù hợp với quy mô thiết kế, lúc này hiệu quả sử dụng đạt cao nhất, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội chung. Nhưng cùng với quá trình phát triển đô thị, đến một lúc nào đó sẽ xảy ra tình trạng quá tải, tắc nghẽn giao thông, ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, gián tiếp làm giảm hiệu quả kinh tế- xã hội của đô thị.

Chỉ tiêu về hiệu quả xã hội: các chỉ tiêu xã hội của các công trình kết cấu HTKT đô thị thể hiện ở các mặt như giải quyết được công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm lao động nặng nhọc hoặc các tác động đến môi trường sinh thái... Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng không hợp lý sẽ gây ra những hậu quả khôn lường về xã hội, nhất là phá vỡ môi trường sinh thái, hủy hoại môi trường sống trong lành của nhân dân. Ví dụ, xây dựng bãi xử lý rác không đảm bảo quy chuẩn dẫn đến ô

19

nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiêm không khí đối với các khu dân cư chung quanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sức khỏe của nhân dân.

Có một số phương pháp tính hiệu quả cho từng loại kết cấu HTKT. Điển hình là phương pháp của phó giáo sư Trần Đức Dục, hiệu quả KT-XH của các công trình phục vụ công cộng không mang tính chất kinh doanh như: hệ thống giao thông công cộng, thoát nước đô thị, thông tin liên lạc (hệ thống phát thanh truyền hình...) được tính như sau [18, tr.42-43]:

Hiệu quả kinh tế của công trình loại này được thể hiện ở tổng chi phí đầu tư và chi phí sử dụng hàng năm nhỏ nhất:

Ct = V.r – S min Trong đó: Ct: tổng chi phí hàng năm,

V: vốn đầu tư vào xây dựng công trình r: Lãi suất vốn vay của ngân hàng S: Chi phí sử dụng hàng năm. Có thể tính chi phí cho một đơn vị giá trị sử dụng của công trình nhỏ nhất: Ct V.r + S Cđvị = ----- = ---------- min Gsd Gsd

Gsd: giá trị sử dụng tổng hợp của công trình được xác định theo phương pháp chỉ tiêu tổng hợp không đơn vị đo, bởi vì các giá trị sử dụng của công trình được biểu hiện bằng nhiều hình thức, bằng nhiều đơn vị đo khác nhau như đơn vị đo công suất phục vụ của công trình: số m2 diện tích, số m3 nước sạch, số lượng người tham gia lưu thông...hoặc có những giá trị thông qua chất lượng “phục vụ” bằng cách đánh giá cho điểm của các chuyên gia.

Khi xác định tổng chi phí (Ct) cũng cần lưu ý đến hiệu quả kinh tế bằng tiền được nảy sinh từ các hiệu quả kinh tế kéo theo mang lại, ví dụ như việc xây dựng một con đường sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, giảm thời gian làm việc, tăng năng suất lao động... do đó làm tăng lợi nhuận. Lúc này khi xác định Ct cần tính toán thêm điều đó:

Ct = V.r + (S - H) min

20

Trong đó: H- Tiết kiệm chi phí do các hiệu quả kinh tế kéo theo mang lại Trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị, cần tính tóan phân

tích, kết hợp nhiều phương án với nhau nhằm tính toán hiệu quả so sánh giữa chúng, làm cơ sở để quyết định lựa chọn phương án đầu tư kết cấu HTKT mang lại lợi ích KT-XH cao nhất.

1.2. sự cần thiết khách quan phải đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng

kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay

1.2.1. Vai trò quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị 1.2.1.1. Nhà nước đảm bảo cung cấp đầy đủ hệ thống các kết cấu

HTKT để đảm bảo nhu cầu cuộc sống của nhân dân, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất và làm dịch vụ của các tổ chức và cá nhân, đảm bảo sao cho dịch vụ đó có được một cách kịp thời, đủ số lượng và chất lượng cần thiết với giá cả thích hợp, đồng thời phù hợp với các yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường. Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu quản lý để điều tiết nền kinh tế phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Ví dụ: quản lý hệ thống cấp nước đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước hàng ngày cho sinh hoạt, các dịch vụ công cộng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Chính quyền đô thị là nơi lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng hoặc nâng cấp các nhà máy nước để sản xuất nước sạch cho các hoạt động của đô thị, đảm bảo cho người tiêu dùng có đủ nước với giá thành hợp lý và đảm bảo chất lượng, nhưng vẫn đảm bảo tính chủ động trong các hoạt động có tính chất kinh doanh của ngành cấp nước. Vấn đề đặt ra trong công tác quản lý cấp nước của các chính quyền đô thị là cung cấp nước phải đầy đủ về số lượng, chất lượng và đặc biệt là phải tuân thủ nghiêm ngặt Luật bảo vệ nguồn nước. Các nhà máy nước phải xây dựng theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các đối tượng dùng nước phải ký hợp đồng với cơ quan chuyên trách.

1.2.1.2. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nhằm tạo ra hành lang

21

pháp lý thông thoáng, thuận lợi để đầu tư phát triển kết cấu HTKT đô thị như: Luật khuyến khích đầu tư, Luật đường bộ, Luật đường sông, Luật bảo vệ tài nguyên nước, Luật bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Nghị định ban hành điều lệ quản lý quy hoạch đô thị; hay chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp-dịch vụ, cho phép hình thành quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển đô thị... Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng và các địa phương đề lập quy hoạch, kế hoạch và thực hiện đầu tư xây dựng kết cấu HTKT ở địa phương mình, đồng thời có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục để mọi tổ chức cá nhân hiểu và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất.

1.2.1.3. Kết cấu HTKT có tính hệ thống, đồng bộ, giữa các lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết với nhau cả về mặt kết cấu kỹ thuật, hiệu quả sử dụng... nhưng mỗi lĩnh vực thường được giao cho một ngành chức năng quản lý, như các tuyến đường giao thông đối nội do chính quyền đô thị quản lý, nhưng kết cấu HTKT đi cùng như hệ thống cấp nước do công ty cấp nước quản lý, cấp điện do điện lực quản lý, cáp quang do bưu điện quản lý... gây rất nhiều khó khăn trong quá trình đầu tư xây dựng cũng như trong quản lý sử dụng (nhất là đối với các đô thị trực thuộc tỉnh). Do vậy, Nhà nước phải quản lý chặt chẽ và chỉ đạo các cơ quan này thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất trong quá trình phát triển các công trình kết cấu HTKT, đồng thời phân công nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng đầu tư thiếu đồng bộ gây lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư.

1.2.1.4. Trong quá trình hoạch định chiến lược, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kết cấu HTKT, Nhà nước phải nắm và phân tích các dữ liệu cần thiết, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để tìm ra những giải pháp phát triển hợp lý nhất. Ví dụ, dự báo nhu cầu tương lai của nhân dân về dịch vụ công cộng: giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, nhu cầu vui chơi giải trí, tính toán khả năng tiền vốn, khả năng đầu tư từ đó xác định thứ tự ưu tiên trong đầu tư (phân kỳ đầu tư hợp lý), phương thức đầu tư (đầu tư từ nguồn nào, hình thức gì ?...). Đặc biệt phải chú ý tính toán các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả KT-XH của kết cấu HTKT nhằm xác lập quy hoạch, hoặc đưa ra các quyết định đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đạt hiệu quả cao

22

nhất. 1.2.1.5. Thông qua quản lý kết cấu HTKT, Nhà nước có thể điều chỉnh

được cơ cấu kinh tế, tổ chức lại sản xuất, hoặc bố trí sắp xếp lại dân cư... theo các mục tiêu đã được xác định. Đồng thời, thông qua đó, đảm bảo cho đô thị phát triển một cách có hệ thống trong tổng thể phát triển của địa phương, vùng hoặc quốc gia; đảm bảo các yếu tố về kỹ thuật, mỹ thuật, vệ sinh môi trường, tiến độ kế hoạch... ví dụ: việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung sẽ giải tỏa được những cơ sở sản xuất nằm trong các khu dân cư, nhất là những cơ sở có mức độ ô nhiễm môi trường lớn. ở Việt Nam, việc Chính phủ quyết định xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa phát triển KT-XH vừa tạo điều kiện tăng cường các yêu tố đảm bảo quốc phòng- an ninh cho đất nước nói chung và các tỉnh miền núi, Tây Nguyên nói riêng. Hay việc đầu tư khu hóa lọc dầu Dung Quất gắn với khu kinh tế Dung Quất, kinh tế mở Chu Lai là điều kiện quan trọng cho sự phát triển đột phá của khu vực Miền Trung, hiện KT-XH khó khăn nhất cả nước.

1.2.1.6. Trong kết cấu HTKT có một mảng quan trọng là các thiết chế tổ chức có chức năng đầu tư xây dựng, quản lý vận hành và khai thác sử dụng các kết cấu HTKT. Hơn nữa, để giải quyết có mối liên hệ giữa nhiều lĩnh vực khác nhau trong quản lý kết cấu HTKT, tránh sự chồng chéo trong quản lý, nhà nước phải thực hiện thường xuyên việc rà soát, củng cố tổ chức bộ máy và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các cấp chính quyền đô thị để bộ máy quản lý nhà nước ngày càng được tinh gọn và hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.

1.2.2. Nội dung chủ yếu trong quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Thứ nhất, quản lý quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT đô thị. Bất kể một đô thị nào cũng cần có quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội. Trên cơ sở đó, lập quy hoạch chung làm căn cứ pháp lý để quản lý đất đai và xây dựng đô

23

thị. Trên nền quy hoạch chung các đô thị tiến hành quy hoạch chi tiết và quy hoạch chuyên ngành đầu tư xây dựng các công trình kết cấu HTKT theo dự án được duyệt. Đây là nội dung đặc biệt quan trọng, là nhân tố “đi trước, mở đường”, có ý nghĩa quyết định đến phát triển đô thị trong hiện tại và tương lai.

Khi nhà nước đã phê duyệt chiến lược phát triển hệ thống đô thị với các kế hoạch dài hạn thì đó là cơ sở pháp lý để triển khai các loại hình quy hoạch tiếp theo, đăc biệt là quy hoạch phát triển đô thị nói chung và kết cấu HTKT đô thị nói riêng theo đúng mục tiêu phát triển đã được phê duyệt. ở Việt Nam, định hướng quy hoạch tổng thể đã khẳng định mục tiêu:

Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị theo vị trí và chức năng của mình, phát huy được đầy đủ các thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc [6, tr.6].

Hầu hết các đô thị hình thành và phát triển từ rất sớm với một nền văn hóa lâu đời, mang đậm bản sắc của từng vùng miền, địa phương. Do vậy, đòi hỏi chính quyền các đô thị trong quá trình thực hiện quy hoạch, xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị vừa phải đảm bảo tính hiện đại, vừa gắn liền với các yếu tố văn hóa- xã hội truyền thống dân tộc, bảo tồn và phát huy được giá trị của các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của địa phương và quốc gia, theo hướng phát triển bền vững.

Một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, là phải xác định chính xác nhu cầu về kết cấu HTKT đô thị. Bởi vì qua đó sẽ xác định được quy mô, số lượng đầu tư kết cấu HTKT hợp lý, mang lại hiện quả kinh tế- xã hội cao nhất; đồng thời cũng sẽ xác định được nhu cầu vốn cho đầu tư, làm cơ sở để hoạch định chính sách huy động vốn phù hợp. Vấn đề nay được phó giáo sư Bùi Trọng Cầu đề cập trong bài viết “tiếp cận tổng thể trong quy hoạch các hệ thống hạ tầng” như sau:

Việc xác định không chính xác nhu cầu hạ tầng sẽ gây ra thiệt hại rất lớn do hoặc hệ thống hạ tầng không đảm bảo cung cấp các

24

dịch cần thiết, hoặc là hệ thống hạ tầng dư thừa công suất sơ với nhu cầu dẫn tới lãng phí vốn đầu tư. Ngoài ra việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng không đồng bộ và cấn đối cũng gây ra các thiệt hại rất lớn vì lúc đó, toàn hệ thống hạ tầng sẽ hoạt động theo hệ thống có công suất đáp ứng nhu cầu kém nhất. Thí dụ, nếu hệ thống cấp điện chỉ đáp ứng 70% yêu cầu của một khu công nghiệp thì lúc đó, việc sản xuất sẽ bị đình đốn và các hệ thống hạ tầng khác cũng chỉ có thể được khai thác với tỷ lệ tương đương [9, tr.28].

Vậy làm thế nào để xác định được nhu cầu và quy mô đầu tư tối ưu của các công trình hạ tầng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư cao nhất. Có nhiều quan điểm đồng tình với cách tiếp cận của phó giáo sư Bùi Trọng Cầu, thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và sự hữu ích của kết cấu HTKT (xem đồ thị 1.2): khi kết cấu HTKT chưa đáp ứng được yêu cầu của hệ thống kinh tế- xã hội, việc đầu tư HTKT mang lại hiệu quả rất lớn. Khi tăng chi phí đầu tư cho HTKT thì lợi ích mà HTKT mang lại tăng lên rất nhanh chừng nào cung còn nhỏ nhiều hơn cầu, tiếp tục đầu tư, lợi ích này vẫn tăng nhưng tốc độ tăng ngày càng giảm khi cung gần đáp ứng được cầu và giảm rất nhanh khi cung đã vượt cầu. Lúc này nếu tiếp tục đầu tư, lợi ích HTKT mang lại tăng ngày một chậm dần tới mức không tăng nữa, và việc đầu tư ngày càng trở nên kém hiệu quả và dần tới trở thành lãng phí hoàn toàn.

Cũng theo phó giáo sư Bùi Trọng Cầu: quy mô đầu tư tối ưu cho các hệ thống hạ tầng là quy mô khi đầu tư một đơn vị chi phí biên thu lại được một đơn vị lợi ích biên tương ứng. Đó là điểm mà cung và cầu về các dịch vụ hạ tầng bằng nhau.

Đồ thị 1.2: Khái niệm về quy mô đầu tư hạ tầng tối ưu [9, tr.30]

Chi phí đầu tư hạ tầng C (đ)

Lợi ích đầu tư U (đ)

0 tối ưu

Lợi ích của Đầu tư Hạ tầng U = f(C)

25

Thứ hai, quản lý vốn đầu tư. Một trong những vấn đề quan trọng trong

quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị là quản lý vốn, bởi vì đầu tư kết cấu HTKT cần có số vốn rất lớn, đầu tư ở đây mang tính chất quốc gia hoặc vùng, địa phương, thời gian thu hồi vốn chậm và trong đầu tư còn mang tính xã hội. Do đó vấn đề chủ yếu đặt ra cho các chính phủ và chính quyền đô thị là làm thế nào để xác định được chính xác nhu cầu vốn đầu tư, trên cơ sở đó có biện pháp huy động và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các dự án kết cấu HTKT.

Việc kêu gọi vốn của các nhà đầu tư quốc tế và Việt Nam để tiến hành các dự án, nhìn chung có nhiều đô thị đã tận dụng nguồn vốn này để liên doanh, liên kết có hiệu quả, song có nơi bị đình đốn, một số dự án đầu tư thất thiệt làm cho sản xuất ít có hiệu quả hoặc hiệu quả giả tạo. Nhiều quốc gia trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa chỉ tập trung đầu tư vào các đô thị lớn, còn ở các đô thị vừa và nhỏ (thường kém thuận lợi cho thu hút đầu tư), nhà nước còn thiếu các chính sách, chủ trương, biện pháp cụ thể để buộc hoặc tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tìm đến các địa phương ở xa các trung tâm kinh tế lớn. Những năm qua, Việt Nam đã tiến hành áp dụng chương trình đầu tư kết cấu HTKT đô thị theo phương thức BOT, BT... nhưng chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn và vừa. Vì vậy, ở những vùng xa các thành phố lớn, như thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam và các địa phương ở khu vực miền Trung đất nước kinh tế phát triển rất chậm chạp, thu ngân sách không đủ bù đắp nhiệm vụ chi mà chủ yếu nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách TW; mức sống của đại đa số nhân dân còn ở mức thấp so với bình quân cả nước và tình trạng đói nghèo đang ở tỷ lệ khá cao, nhất là tại các địa bàn nông thôn.

Thứ ba, quản lý đầu tư và xây dựng. Trong xu thế phát triển hiện nay, công trình kết cấu HTKT đô thị có quy ngày càng lớn và yêu cầu chất lượng cũng ngày càng cao. Đây là một thách thức lớn, đòi hỏi các cơ quan quản lý

26

nhà nước các cấp phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý đầu tư và xây dựng kết cấu HTKT. Trước hết và cốt lõi nhất là quản lý chất lượng công trình, với nội dung quản lý bao gồm các tiêu chí xuyên suốt trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến đến thi công xây lắp, nghiệm thu hoàn công đưa vào sử dụng; ngoài chất lượng tiêu chuẩn kỹ thuật, thì tính thẩm mỹ, tính tiện nghi, hiện đại… đều được xem là những tiêu chí đánh giá chất lượng công trình.

Việc quản lý định mức xây dựng, quản lý định mức xây dựng, tính đồng bộ và hiện đại thể hiện trong các chính sách đầu tư kết cấu HTKT cần chú ý vào các lĩnh vực có vốn đầu tư lớn ngay từ khi chuẩn bị đầu tư, đó là: giao thông vận tải đô thị, cấp và thoát nước đô thị, cung cấp năng lượng và điện chiếu sáng công cộng đô thị, thu gom- vận chuyển và xử lý chất thải đô thị, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông. Đồng thời phải tôn trọng pháp luật trong xây dựng, đó là yếu tố vô cùng quan trọng để phát huy hiệu quả tiền vốn bỏ ra trong quá trình đầu tư ở đô thị. Chính quyền đô thị phải chú trọng thực hiện tốt nội dung này trong quá trình quản lý nhà nước về kết cấu HTKT.

Vấn đề kỹ thuật và chuyển giao công nghệ: các đô thị ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam nói chung đang trong thời kỳ đô thị hóa nhanh, tức là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang phát triển với tốc độ nhanh, song việc huy động vốn luôn gặp khó khăn, vì vậy các công trình xây dựng thường kéo dài. Vấn đề lựa chọn kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến để áp dụng vào quá trình công nghiệp hóa, rút ngắn thời gian xây dựng và “đi tắt đón đầu” cũng rất quan trọng đặt ra trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT. Thực tế cho thấy sự phối hợp đồng bộ trong các chủ trương, chính sách đầu tư cho các hạng mục công trình ở đô thị là yếu tố quyết định để phát huy hiệu quả đầu tư. Việt Nam chúng ta đã có nhiều bài học kinh nghiệm về vấn đề này, vừa qua các đô thị đã tranh luận hết sức gay gắt về việc nên chăng từng tỉnh đều phải có cảng biển, sân bay; hay bài học đau xót trước đó, khi chúng ta xây dựng các nhà máy sản xuất ciment và nhà máy đường theo công nghệ Trung Quốc... gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế đất

27

nước. Thứ tư, quản lý vận hành và khai thác sử dụng kết cấu HTKT đô thị

sao cho phù hợp với nhu cầu của sự phát triển, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của từng quốc gia, từng khu vực hoặc từng đô thị cũng là một nhân tố quan trọng trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT giai đoạn hiện nay.

Theo quan điểm của tiến sỹ Phạm Trọng Mạnh, trong quản lý đô thị: Nội dung quản lý sử dụng và khai thác các công trình kết cấu

hạ tầng kỹ thuật bao gồm: lập và lưu trữ hồ sơ hoàn công sau khi cải tạo và xây dựng công trình; phát hiện các hư hỏng, sự cố kỹ thuật và có biện pháp sửa chữa kịp thời; thực hiện chế độ duy tu, bảo dưỡng, cải tạo nâng cấp để duy trì chức năng sử dụng các công trình theo định kỳ; hợp đồng cung cấp các dịch vụ công cộng (điện, nước, thông tin) với các đối tượng cần sử dụng và hướng dẫn họ thực hiện đúng các quy định về hành chính cũng như các quy định về kỹ thuật; phát hiện và xử lý các vi phạm về chế độ sử dụng và khai thác các công trình kết cấu HTKT đô thị [34, tr.114].

Trên từng lĩnh vực của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị sẽ có nội dung, hình thức và phương pháp quản lý khác nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là nâng cao chất lượng phục vụ của các công trình kết cấu hạ tầng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội của các đô thị. Chẳng hạn như quản lý cấp nước đô thị bao gồm quản lý nguồn nước, các công trình kỹ thuật sản xuất nước, hệ thống đường ống cấp nước…với mục tiêu nhằm cung cấp nước đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước hàng ngày cho sinh hoạt, sản xuất và các dịch vụ công cộng. Đối với quản lý giao thông, bao gồm quản lý hệ thống đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay…phục vụ cho giao thông đô thị; công tác quản lý gắn liền với quy hoạch, kế hoạch xây dựng, duy tu bảo dưỡng, xây dựng hoàn chỉnh từng bước hệ thống pháp quy Luật đường bộ, đường sông, chính sách hỗ trợ phát triển giao thông công cộng…

1.2.3. Những yêu cầu đặt ra phải đổi mới quản lý nhà nước về kết

28

cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị Chính vị trí, vai trò của HTKT đô thị đòi hỏi phải có một chương trình

phát triển chung từ khâu định hướng, ý tưởng đến quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, kế hoạch thực hiện và các giải pháp tổ chức thực hiện sao cho vừa đảm bảo cho toàn bộ hệ thống kết cấu HTKT hình thành và phát triển như một chỉnh thể vừa đảm bảo mối quan hệ phù hợp giữa nó với quy mô sản xuất, quy mô dân cư và nhu cầu ngày càng tăng của giao lưu kinh tế. Có thể nói, sự tăng lên về quy mô và tỷ trọng, sự phức tạp thêm về cơ cấu của kết cấu HTKT đô thị vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất trong vùng vừa là thước đo trình độ tổ chức và quản lý nền sản xuất xã hội của đô thị nói riêng và cả vùng kinh tế nói chung.

Việc đầu tư xây dựng các công trình HTKT đô thị như đường sá, bến cảng, sân bay, mạng lưới cấp điện, hệ thống cấp thoát nước... đòi hỏi một số vốn đầu tư khổng lồ mà thời gian hoàn vốn về mặt kinh tế thường rất lâu (thường hàng chục năm) thậm chí không thể thu hồi, do đó hiệu suất vốn sẽ rất thấp. Chính vì vậy, nếu không có quan điểm hệ thống trong phát triển đô thị nói chung và phát triển kết cấu HTKT nói riêng dễ đi đến quan điểm sai lầm là lĩnh vực này chỉ nên tập trung đầu tư khi trình độ phát triển kinh tế đã đạt được mức độ nhất định nào đó. Những người theo quan điểm này thường căn cứ vào hiệu quả kinh tế thuần tuý của HTKT và cho rằng ở các nước chậm phát triển trong giai đoạn đầu của phát triển đô thị (thu nhập và sức sản xuất nói chung còn thấp) không nên tập trung chú ý đầu tư phát triển HTKT. Trên thực tế chúng ta thấy, các công trình HTKT không phải chỉ có mục đích tự thân mà chúng đều có đặc điểm là thực hiện chức năng tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế khác và các khu vực khác của xã hội phát triển bình thường. Việc phát triển các công trình HTKT trước hết đòi hỏi phải đầu tư tập trung, có sự quản lý chặt chẽ thống nhất, sau đó phải căn cứ vào mối quan hệ với tổng thể phát triển của đô thị hoặc vùng kinh tế... đây chính là vai trò, trách nhiệm của các chính quyền đô thị.

Kết cấu HTKT là nhân tố đi trước mở đường, là yếu tố rất quan trọng,

29

quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội của mọi quốc gia hay địa phương. Nhưng chúng ta biết rằng, nếu kết cấu HTKT xây dựng không hợp lý, thì hiệu quả mang lại sẽ rất thấp, thậm chí gây lãng phí, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Do vậy, không ngừng đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu HTKT là đòi hỏi tất yếu khách quan đặt ra cho tất cả các chính quyền đô thị và mọi quốc gia.

Trong xu thế đô thị hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ như hiện nay, làm nảy sinh sự mất cân đối về kết cấu HTKT giữa các quốc gia và các vùng trong một quốc gia. Đây cũng là một nguyên nhân gây ra sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, chênh lệch quá lớn về điều kiện sống giữa đô thị và nông thôn. Điều đó đòi hỏi Nhà nước các cấp phải “đủ sức” để điều tiết hợp lý, đảm bảo sự hài hòa trong quá trình phát triển.

Nhu cầu về kết cấu HTKT, nhất là các công trình phục vụ công cộng trong các đô thị ngày càng tăng là một tất yếu khách quan. Trong khi đó các công trình kết cấu HTKT có xu hướng xuống cấp nhanh chóng, mà nguồn lực của nhà nước lại hạn hẹp. Do vậy bộ máy nhà nước phải “vận động” thật linh hoạt, hiệu quả thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu đó của mọi mặt đời sống sản xuất, xã hội của đô thị.

Sự phân công, phân cấp, phối hợp trong quản lý nhà nước ngày càng phức tạp. Trong quản lý kết cấu HTKT đô thị thì vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn (vì nó đòi hỏi tính đồng bộ, thống nhất và tính trách nhiệm cao). Trong thực tế, sự phối hợp giữa các ngành chức năng thiếu nhất quán và đồng bộ; việc phân định trách nhiệm giữa các ngành chức năng trong quá trình phát triển kết cấu HTKT chưa rõ ràng. Cho nên, nhà nước phải tăng cường lãnh đạo, quản lý mới có thể thực hiện tốt yêu cầu này.

Hệ thống các văn bản pháp qui là công cụ chủ yếu của chính quyền địa phương nhằm phối hợp thống nhất các đạo luật mà Nhà nước đã ban hành để vận dụng vào quá trình quản lý kinh tế - xã hội ở đô thị, bên cạnh đó các hoạt động kinh tế-xã hội đều phải dựa vào công cụ của pháp luật và hệ thống các văn bản pháp qui hành chính để tiến hành, tức là mọi hoạt động trên các lĩnh

30

vực, trong đó có quản lý kết cấu HTKT, đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Công tác quản lý kết cấu HTKT đô thị chủ yếu dựa trên hệ thống văn bản quản lý qui hoạch, đất đai và xây dựng đô thị đã được ban hành như: Nghị định của Chính phủ ban hành điều lệ quản lý qui hoạch đô thị, điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng; các quyết định về phê duyệt các dự án quy hoạch tổng thể đã được thể chế hóa để làm cơ sở pháp lý trong công tác quản lý xây dựng kết cấu HTKT đô thị; các quyết định về định hướng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở đô thị; định hướng phát triển kết cấu HTKT... Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và trên lĩnh vực xây dựng phát triển kết cấu HTKT đô thị nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế như chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn quá nhiều kẻ hở, chồng chéo lẫn nhau... đòi hỏi chính quyền cấp cơ sở phải triển khai thực hiện nghiêm minh, đồng thời vận dụng linh hoạt, mềm dẻo nhằm vừa đạt được mục tiêu phát triển, vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hạn chế và ngăn ngừa có hiệu quả các vi phạm. Đồng thời đòi hỏi Nhà nước TW phải không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lập pháp đáp ứng được yêu cầu phát triển đô thị trong thời kỳ mới.

Công tác thanh tra, kiểm tra các vi phạm trong lĩnh vực xây dựng, phát triển kết cấu HTKT đô thị còn nhiều bất cập, quá trình thực hiện còn chồng chéo, hiệu quả thấp, khi phát hiện vi phạm thì việc xử lý chưa kịp thời, nghiêm minh, vẫn còn hiện tượng nể nang, xuê xoa... Do vậy nhà nước cần sớm có biện pháp chấn chỉnh, đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trong xu thế toàn cầu hóa và xu thế hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới. Điều đó đặt ra yêu cầu hết sức cấp thiết cho cả nước, là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, từng bước nâng cao trình độ nền kinh tế lên ngang bằng với các quốc gia trong khu vực, phát triển mạnh mẽ kết cấu HTKT theo hướng hiện đại. Muốn vậy, phải không ngừng đổi mới quản lý nhà nước trên lĩnh vực này, coi đây là một trong những nhân tố nền tảng, quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước.

31

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Thứ nhất, hiệu quả hoạt động, điều hành và quy mô, năng lực của bộ máy quản lý nhà nước Trung ương cũng như tại các đô thị có tác động rất lớn và trực tiếp đến hiệu quả quản lý kết cấu HTKT đô thị. Nếu bộ máy tinh gọn và hiệu quả, sẽ tiết kiệm chi thường xuyên tăng các khoản chi cho đầu tư phát triển, đồng thời có khả năng thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, nhất là các nguồn đầu tư nước ngoài, các chương trình mục tiêu Chính phủ. Đối với quản lý nhà nước về kết cấu HTKT, yếu tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức và cán bộ là trình độ cán bộ làm công tác quy hoạch, kế hoạch, công tác quản lý các dự án đầu tư xây dựng... Nếu đội ngũ cán bộ này thật sự có năng lực, phẩm chất tốt thì sẽ tham mưu cho chính quyền đô thị quản lý, điều tiết hiệu quả, hạn chế lãng phí trong quá trình đầu tư xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị.

Thứ hai, việc quản lý các công trình kết cấu HTKT chịu ảnh hưởng khá lớn về vấn đề sở hữu: đầu tư của Nhà nước hay của các thành phần kinh tế khác; công trình đó do ai quản lý sử dụng... Nếu do Nhà nước đầu tư sẽ dễ tập trung được nguồn vốn lớn, xây dựng công trình được đồng bộ hơn, có thể đầu tư những công trình mà hiệu quả kinh tế rất thấp, nhưng hiệu quả xã hội cao hoặc có tác dụng tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, về lâu dài có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Nếu là nguồn vốn của tư nhân hay doanh nghiệp (trừ vốn đầu tư nước ngoài) thì sẽ ngược lại. Tất nhiên, nếu nguồn vốn của nhà nước thì vấn đề đặt ra là phải quản lý và sử dụng nó như thế nào cho có hiệu quả, hạn chế thất thoát do các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí hoặc các hiện tượng tiêu cực khác. Vấn đề quản lý quản lý khai thác, sử dụng các công trình kết cấu HTKT cũng có ảnh hưởng rất lớn từ các yếu tố nêu trên: công trình thuộc sở hữu nhà nước, thường kéo theo việc hình thành các tổ chức để quản lý vận hành; chi phí quản lý, vận hành được chi từ nguồn ngân sách... làm tăng thêm gánh nặng cho quản lý nhà nước ở lĩnh vực này. Công trình do khu vực kinh tế ngoài

32

Nhà nước đầu tư và quản lý thì khắc phục được hạn chế vừa nêu, nhưng lại tạo ra khó khăn trong việc thực hiện một số mục tiêu định trước của Nhà nước, như điều hòa sự phát triển kinh tế giữa các vùng thuận lợi và khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội, dân sinh, vấn đề đảm bảo quốc phòng an ninh, trật tự xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái.

Tính phức tạp trong quản lý nhà nước về HTKT tăng tỷ lệ thuận theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương hay quốc gia. Bởi vì, một mặt sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tăng tỷ trọng ngành kinh tế công nghiệp, thương mại- dịch vụ sẽ đòi hỏi sự phát triển kết cấu HTKT tương ứng. Mặt khác, kinh tế phát triển mới có khả năng tích lũy nội bộ nền kinh tế và thu hút các đối tác từ bên ngoài (kể cả trong và ngoài nước) đầu tư xây dựng kết cấu HTKT, đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, thương mại-dịch vụ. Điều đó, tất yếu làm tăng quy mô, chất lượng, tính hiện đại, đa dạng phức tạp của các công trình HTKT, dẫn đến đòi hỏi cấp thiết, khách quan là phải không ngừng đổi mới, nâng cao trình độ quản lý của chính quyền các cấp trên lĩnh vực này.

Thứ ba, cơ chế chính sách của Nhà nước TW và địa phương sẽ tạo ra hành lang thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển. Trước hết là hệ thống pháp lý như Luật khuyến khích đầu tư, Luật đất đai, Nhà ở, các văn bản pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng... sau đó là các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư như miễn giảm thuế, cho thực hiện khấu hao nhanh, chính sách về nhà ở, đất đai, bồi thường- giải phóng mặt bằng và các cơ chế chính sách về quản lý sử dụng khai thác các công trình kết cấu HTKT như: quy định về chế độ sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng, vấn đề thu hồi vốn để tái đầu tư. Tất nhiên, nếu hệ thống chính sách, pháp luật thông thóang, sẽ tạo điều cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực kết cấu HTKT. Tuy nhiên, sự thoáng mở thường dẫn đến sự thiếu đồng bộ, hoặc thiếu chặt chẽ, khó kiểm sóat ở một số địa phương hoặc từng lĩnh vực. Thực tế, ở nước ta cơ chế thoáng mở của nước ta trong những năm trước đây đã dẫn đến hệ quả là gần

33

40 tỉnh, thành trực thuộc TW đã “vận dụng” đề ra các quy định khuyến khích đầu tư vượt rào, mà vừa qua Chính phủ phải ra quyết định hủy bỏ.

Thứ tư, môi trường chính trị ổn định là nhân tố quan trọng để tăng khả năng đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế những năm qua cho thấy các quốc gia kém ổn định về chính trị như Pakistan, Apganistan hay vùng Trung Đông, tốc độ tăng

trưởng kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đầu tư nước ngoài giảm mạnh, đầu tư xây dựng kết cấu HTKT rất thấp. Ngoài ra các điều kiện về môi trường tự nhiên, tâm lý xã hội cũng là những yếu tố cần được lưu ý trong quá trình quản lý nhà nước về kết cấu HTKT.

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở một số đô thị

Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020: “Quy mô đô thị từ mức 19 triệu người, diện tích 1.140 km2 năm 2000, sẽ tăng lên 30,4 triệu người và diện tích 2.432km2 vào năm 2010, 46 triệu người và diện tích 4.600 km2 vào năm 2020” (chiếm 45% dân số và 1,4%diện tích cả nước) [6, tr.6]. Cho đến nay, cả nước đã hình thành 10 vùng đô thị hoá đặc trưng, với 718 đô thị lớn nhỏ, trong đó có 02 đô thị loại đặc biệt, 03 đô thị loại I trực thuộc trung ương, 01 đô thị loại I trực thuộc tỉnh, 14 đô thị loại II, 20 đô thị loại III, 53 đô thị loại IV và 617 đô thị loại V. Do vậy, kinh nghiệm thực tiễn công tác quản lý nhà nước về kết cấu HTKT ở các đô thị hết sức phong phú, đa dạng cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

1.3.1. Kinh nghiệm về quy hoạch và quản lý quy hoạch Thành phố Đà Nẵng là một điển hình về quy hoạch phát triển đô thị, từ

quy hoạch chung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, thành phố đã tập trung lập và phê duyệt gần 700 đồ án quy hoạch chi tiết, với diện tích gần 5.500ha. Đây là cơ sở quan trọng cho giai đoạn “bùng nổ” về xây kết cấu HTKT và chỉnh trang đô thị của thành phố trong thời gian qua. Vấn đề là,

34

trong quy hoạch thành phố Đà Nẵng đã xác định được vai trò và tiềm năng của tự nhiên vốn có để có được định hướng phát triển đô thị, đó là hướng biển và tiếp cận tự nhiên, với phương châm “kéo dài bờ biển, kéo dài dòng sông”, khai thác hợp lý các yếu tố tự nhiên khác như sông, núi, đồng bằng, trung du..., nhờ đó Đà Nẵng đã vươn mình qua sông Hàn, “thâu tóm” được khu vực rộng lớn phía Đông Thành phố (khu vực quận III cũ), mở rộng phát triển đô thị theo bờ sông Hàn về phía Nam (khu vực cầu Tiên Sơn mới); đồng thời hình thành một số tuyến đường giao thông ven biển như đường Liên Chiểu- Thuận Phước và Sơn Trà- Điện Ngọc...làm thay đổi mạnh mẽ diện mạo của thành phố. Quy hoạch chi tiết xác lập tương đối hoàn thiện một hệ thống các không gian trung tâm, các điểm nhấn trọng yếu, đặc biệt gần đây vấn đề thiết kế đô thị đang được quan tâm đúng mức, tạo điều kiện phát triển đô thị hiện đại; trong quy hoạch đã hạn chế được việc chia lô vụn vặt (mà có thời gian dài rất phố biến ở thành phố)...Quy hoạch chi tiết vừa tuân thủ nghiêm quy hoạch chung, vừa có trọng tâm, trọng điểm gắn chặt với thực tế, nhờ vậy hạn chế tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch kém chất lượng.

Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng hạ tầng đô thị cũng từng bước đi vào nề nếp, hạn chế dần những chồng chéo trong quản lý đô thị giữa các ngành có quan hệ mật thiết như: Sở Xây dựng (cơ quan quản lý quy hoạch), Sở Kế hoạch - Đầu tư (cơ quan quản lý đầu tư), Sở Tài nguyên- Môi trường (quản lý đất đai), Sở Giao thông (cơ quan quản lý giao thông công chính), các Ban quản lý dự án đầu tư, UBND các địa phương...

Với điều kiện của thành phố Tam Kỳ hiện nay, cần chú trọng thực hiện quy hoạch chi tiết trên toàn địa bàn, bởi vì nó có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong quản lý đất đai, xây dựng mà còn thúc đẩy quá trình hình thành các công trình kết cấu HTKT, góp phần chỉnh trang, phát triển đô thị. Trong quá trình lập quy hoạch cần lưu ý quan hệ vùng và các khu vực ven đô thị để mở rộng thành phố (khu vực này thường ít tốn kém kinh phí bồi thường, thuận lợi cho đầu tư hạ tầng mới) gắn với phân kỳ đầu tư hợp lý đảm bảo tính khả thi cao; đồng thời tôn trọng và phát huy các yếu tố tự nhiên (biển, sông ngòi, đồi

35

núi...) nhằm đảm bảo cảnh quan hài hòa và môi trường trong thiên nhiên trong lành cho đô thị. Triển khai xây dựng kết cấu HTKT cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành chủ quản.

Tuy nhiên, trên lĩnh vực này Thành phố Đà Nẵng vẫn còn bộc lộ khá nhiều bất cập, điển hình như: Chưa có tầm nhìn “thật xa, thật rộng”, chưa giải quyết tốt vấn đề không gian kiến trúc, thể hiện ở các tuyến đường ven biển, các ngôi nhà cao tầng quá gần biển, làm mất không gian cảnh quan thiên nhiên bãi biển (mà rất khó khắc phục). Thành phố Tam Kỳ cần tránh sai lầm này trong quy hoạch và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng tại các xã vùng Đông, nhất là tại xã biển Tam Thanh và khu vực dọc sông Trường Giang, Bàn Thạch... Việc huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác quy hoạch, xây dựng HTKT còn nhiều hạn chế hoặc mạng nặng tính hình thức, chưa mạnh dạn mời các nhà quy hoạch nổi tiếng nước ngoài tham gia xây dựng quy hoạch địa phương. Mặc dù được khắc phục nhưng tình trạng quy hoạch xây dựng HTKT công cộng để chia lô bán đất vẫn còn ở một số dự án. Tổ chức môi trường còn ỷ lại lớn vào môi trường tự nhiên chủ đạo sẵn có mà quên đi việc cải thiện môi trường không gian tại các khu đô thị. Các đồ án quy hoạch cũng như các công trình HTKT vẫn còn thiếu tính khớp nối, thiếu đồng bộ; nhiều khu dân cư hạ tầng công cộng phúc lợi xã hội, cây xanh...chưa đạt yêu cầu; vẫn còn nhiều đồ án chất lượng thấp, tính khả thi kém - “quy hoạch treo”, phải điều chỉnh nhiều lần. Lực lượng kiến trúc sư của thành phố tuy phát triển nhanh về số lượng (hơn 200 KTS) nhưng thiếu chuyên gia đầu ngành, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng phát triển thành phố... Ngoài ra, việc quản lý xây dựng HTKT còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành. Đây là những hạn chế mà hiện tại Tam Kỳ vẫn còn đang mắc phải (do hạn chế nguồn vốn và thiêú tầm nhìn xa trong quy hoạch) cần sớm khắc phục.

Các đô thị của CHLB Đức và Liên minh Châu Âu (nước có rất nhiều kinh nghiệm trong quy hoạch, xây dựng hạ tầng), trong quy hoạch và quản lý

36

quy hoạch, họ đặc biệt coi trọng sự tham gia của cộng đồng, xem như là một tất yếu, đảm bảo tính minh bạch của quy hoạch và sự tham gia này càng được gắn kết chặt chẽ thì mức độ thực hiện của đồ án quy hoạch càng rõ rệt và khả thi cao hơn, bởi không ai khác ngoài cộng đồng hiểu rõ những vấn đề và các thách thức đối với quy hoạch. Hình thức tham gia của cộng đồng gồm 08 mức khác nhau (từ cung cấp thông tin, trao đổi thông tin,..., trao quyền quyết định). Tam Kỳ cũng giống như các đô thị khác trong cả nước, mới chỉ thực hiện được một mức là cung cấp thông tin trong bước công bố quy hoạch, nếu chỉ dừng lại ở đây mà không có phản hồi thông tin thì đồ án sẽ không có hiệu quả thực thi. Vì vậy, để cải thiện hiệu quả tham gia cộng đồng thành phố Tam Kỳ cần phải đổi mới trong phương thức tham gia của công đồng (quần chúng được chủ động hơn, thông tin công khai hơn, nhiều hình thức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ điều kiện của từng địa phương).

Trong quá trình đầu tư xây dựng đô thị nói chung và kết cấu HTKT nói riêng, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng quan trọng và rõ rệt. Đô thị ngày càng phát triển với quy mô lớn và năng động mà nếu chỉ dựa vào cơ quan hành chính công để quản lý thì sẽ bị quá tải và sơ cứng, trong khi đó khả năng tham gia và kiểm soát các hoạt động của các tổ chức quần chúng trong phát triển đô thị lại không được khai thác. Mô hình quản lý mà EU và CHLB Đức đang áp dụng “cộng đồng- tư nhân- chính quyền” là mô hình quản lý đô thị và kết cấu HTKT đô thị có hiệu quả cao so với mô hình không có cộng đồng tham gia. Tuy nhiên, yếu tố văn hoá và xã hội là rất quan trọng trong việc xem xét và lựa chọn hình thức tham gia của cộng đồng. Đây là phương pháp quản lý mới, có hiệu quả cao, nhưng chưa được các đô thị Việt Nam quan tâm. Trong thời gian tới chúng ta cần nghiên cứu triển khai thí điểm ở một số đô thị sau đó nhân rộng ra phạm vi cả nước.

1.3.2. Kinh ngiệm về quản lý hành chính nhà nước ở thành phố Đà Lạt, công tác quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị

có nhiều điểm khá thành công. Trên cơ sở quy hoạch được duyệt, chính quyền đô thị quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt từ khâu định hướng xây dựng, thoả thuận

37

vị trí xây dựng, giao đất xây dựng các công trình hạ tầng, kể cả việc xử lý vi phạm trong xây dựng. Thành phố Đà Lạt đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 vào việc quản lý quy trình thủ tục hành chính trong các lĩnh vực cấp phép xây dựng, thẩm định phê duyệt báo cáo đầu tư, thiết kế dự toán các công trình kết cấu HTKT đô thị- đây là công cụ để cơ quan quản lý nhà nước thực thi nhanh chóng và đúng pháp luật công tác quản lý xây dựng, đồng thời cũng là công cụ để kiểm tra lại tính hiệu quả công tác quản lý. Nó không những có tác dụng nâng cao năng lực, chất lượng quản lý mà còn là cơ sở để nhân dân giám sát, kiểm tra đánh giá công tác quản lý của cơ quan nhà nước, của cán bộ công chức được giao thực thi nhiệm vụ; hạn chế tiêu cực, thể hiện được tính công khai minh bạch trong quản lý của cơ quan công quyền.

Đặc biệt, Đà Lạt đã xây dựng thành công và áp dụng có hiệu quả hệ thống tích hợp thông tin địa lý (GIS). Trong hệ thống này lưu giữ cơ sở dữ liệu hết sức phong phú, có ý nghĩa thiết thực trong quản lý sử dụng, khai thác cơ sở hạ tầng đô thị, bao gồm các hồ sơ quy hoạch chung, bản đồ hiện trạng, dữ liệu địa chính, địa hình của toàn thành phố; dữ liệu quy hoạch và hiện trạng hệ thống giao thông, cấp thoát nước, cấp điện, cây xanh (được cập nhật thông tin thường xuyên)...sử dụng GIS chúng ta có thể biết đến hiện trạng cụ thể của từng tuyến đường giao thông, đường cống thoát nước, hệ thống cáp quang ngầm, của một thửa đất, hay các đặc điểm, thuộc tính của từng cây xanh trong đô thị. Đây là mô hình cần sớm được nhân rộng trên phạm vi cả nước, nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý trong xu thế hiện nay.

1.3.3. Kinh nghiệm về huy động vốn Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển kết cấu HTKT luôn

là vấn đề quan trong đặt ra cho các đô thị. Tuy nhiên, cách làm của từng đô thị khác nhau và hết sức phong phú đa dạng. Thành phố Đồng Hới, việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng nhỏ được thực hiện theo phương thức “dân làm nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ”, như lát gạch vỉa hè và trồng cây xanh đô thị được huy động toàn bộ từ cộng đồng dân cư, nhà nước chỉ quản lý theo

38

đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt; các tuyến bê tông hoá giao thông nông thôn và kiệt hẽm nội thị được đầu tư với tỷ lệ đóng góp của nhân dân từ 40-60% tổng giá trị dự toán. Mức đóng góp này do nhân dân tự bàn bạc, thảo luận công khai, dân chủ và quyết định trên cơ sở gợi ý và định hướng của chính quyền thành phố. Hay tại thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, công tác xây dựng và chỉnh trang đô thị nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân địa phương thông qua việc tự nguyện giao đất cho Nhà nước mà không nhận tiền bồi thường và tự nguyện đóng góp kinh phí xây dựng công trình.

Tại Bình Dương, Vĩnh Yên...nhiều năm qua đã đẩy mạnh thu hút đầu tư hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu đô thị mới từ các đơn vị ngoài nhà nước, theo hướng doanh nghiệp tự ứng vốn trước để đầu tư hạ tầng (đường sá, điện nước, công viên...) theo hình thức đấu thầu quỹ đất thô hoặc đấu thầu xây lắp công trình, sau đó được nhà nước thanh toán bằng quỹ đất có giá trị tương ứng hoặc tự khai thác toàn bộ dự án để thu hồi vốn... Điển hình như khu Đầm Vạc của Thành phố Vĩnh Yên, khu công nghiệp Amata ở Bình Dương. Đặc biệt, việc huy động nguồn vốn đầu tư hạ tầng bằng hình thức thành lập “Quỹ đầu tư phát triển” mang lại hiệu quả cao ở nhiều địa phương, đến nay đã có 13 tỉnh, thành phố thực hiện (như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Phước...), cần nghiên cứu nhân rộng trên phạm vi cả nước.

ở thành phố Lạng sơn, công tác thu gom và xử lý rác thải được xã hội hoá hoàn toàn theo hướng Nhà nước không bao cấp hoặc bù lỗ chi phí (như hiện nay phần lớn các đô thị đang áp dụng, trong đó có thành phố Tam Kỳ) mà đấu thầu thu gom rác thải hoặc giao cho các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm, đồng thời một số phường thực hiện mô hình tự quản thu gom rác thải do nhân dân địa phương tự thực hiện thu gom, chi phí chi trả từ thu phí trong công đồng hưởng lợi từ dịch vụ này.

39

Chương 2

Thực trạng quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng

kỹ thuật ở thành phố tam kỳ, tỉnh quảng nam

trong thời gian qua 2.1. Một số đặc điểm tự nhiên và kinh tế-xã hội của thành phố tam kỳ, quảng

nam

2.2.1. Đặc điểm tự nhiên có ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Tỉnh Quảng Nam thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung; Diện tích tự nhiên 10.408,78 km2, dân số 1.462.324 người. Mật độ dân số 140 người/km2, gồm 17 huyện - thị, trong đó có hai đô thị lớn là thành phố Tam Kỳ và thị xã Hội An.

Thành phố Tam Kỳ-tỉnh lỵ Quảng Nam nằm ở trung điểm của đất nước, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Phú Ninh, phía Nam giáp huyện Núi Thành, phía Bắc giáp huyện Thăng Bình và Phú Ninh. Cách thành phố Đà nẵng 70 km về phía Bắc, cách khu công nghiệp và nhà máy lọc dầu Dung Quất 40 km về phía Nam. Tam Kỳ là cửa ngõ của Tây Nguyên và đường xuyên á ra biển Đông của các nước tiểu vùng sông Mêkông, gần đường hàng hải quốc tế, là trung điểm đi đến các vùng Đông Nam á và Đông Bắc á, thuận lợi cho giao lưu quốc tế và trong nước; các cửa khẩu Đắc ốc, Bờ Y tạo ra mối liên kết vùng giữa Quảng Nam, thành phố Tam kỳ với vùng Tây Nguyên, Nam Lào, Đông bắc Thái Lan và tiểu vùng sông Mêkông,... Tam Kỳ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và hơn 2/3 diện tích tự nhiên thuộc Khu kinh tế mở Chu Lai.

Thành phố Tam Kỳ có 13 đơn vị hành chính (gồm 09 phường, 04 xã), với diện tích tự nhiên là: 9.263,6ha. Trong đó: Đất phi nông nghiệp: 2.893,41ha (gồm đất ở đô thị: 489,54 ha; đất ở nông thôn: 198,26 ha; đất chuyên dùng: 976,92 ha); đất nông nghiệp và đất khác: 6.370,16 ha (Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Tam Kỳ năm 2006).

40

Biểu 2.1: Hiện trạng sử dụng đất

STT

Danh mục sử dụng đất Hiện trạng 2005

Diện tích đất (ha)

Bình quân m2/người

I Tổng cộng đất toàn thị xã 9.263,6 939,3 a Đất nội thị 4.116,5 580,1 b Đất ngoại thị 5.147,1 1.861 II Đất nội thị 4.116,5 580,1 A Đất xây dựng đô thị 1658,0 238,7

A1 Đất dân dụng 1416,4 203,9 A1.1 Đất phục vụ trong phạm vi đô thị

1 Đất các đơn vị ở 1157,7 166,7 . Trong đó: Đất vườn tạp 461,1

2 Đất công trình công cộng 43,2 6,2 3 Đất cây xanh - công viên -TDTT 15,29 2,2 4 Đất giao thông 101,3 14,6

A1.2 Đất phục vụ ngoài phạm vi đô thị 5 Đất cơ quan-trường chuyên nghiệp 84,7 12,2 6 Đất tôn giáo, di tích lịch sử, văn hoá 14,1

A2 Đất ngoài dân dụng 241,6 34,8 1 Đất công nghiệp -TTCN 71,5 2 Đất an ninh - Quốc phòng 32,1 3 Đất các công trình đầu mối kỹ thuật (kênh

mương thoát nước, bãi chôn lấp...) 6,7

4 Đất thuỷ lợi 57,1 5 Đất giao thông đối ngoại 21,7 6 Đất nghĩa địa 52,5 B Đất khác 2458,5 354 1 Đất nông nghiệp 1390,4 2 Đất lâm nghiệp 131,4 3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 10,1 4 Đất chưa sử dụng khác (đồi núi, sông suối...) 926,6

Nguồn: Số liệu tổng kiểm kê đất đai của UBND thành phố Tam Kỳ, 2006.

Theo số liệu thống kê thành phố Tam Kỳ, tổng dân số thường trú đến ngày 31/12/2006 là 99.879 người (dân số quy đổi là 132.936 người); tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hàng năm 8,51%. Dân số sinh sống tại khu vực nội thị 72.260 người, chiếm tỷ lệ 72,35%, ngoại thị 27.619 người chiếm 27,65%. Mật độ dân số 1.078 người/km2. Lao động trong độ tuổi của toàn Thành phố năm 2006 là 60.138 người (khu vực nội thị là: 42.840

41

người, chiếm 71,24%) (biểu 2.2 và 2.3). Biểu 2.2: Tốc độ tăng dân số của thành phố Tam Kỳ

Năm Tổng dân số

đã quy đổi (người) Tốc độ phát triển dân số

liên hoàn qua các năm (%) 2001 98.754 2002 102.516 103,8 2003 105.332 102,7 2004 113.972 108,2 2005 123.662 108,5 2006 132.936 107,5

Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Tam Kỳ năm 2001-2006.

Biểu 2.3: Tỷ lệ dân số nội thành và ngoại thành

Năm Tỷ lệ dân cư (%) Nội thị Ngoại thị

2001 66,26 33,74 2002 66,89 33,11 2003 68,23 31,77 2004 69,83 30,17 2005 71,54 28,46 2006 72,35 27,65

Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Tam Kỳ năm 2001-2005.

Theo số liệu Đồ án quy hoạch chung (1/5000) của thành phố: Địa hình Tam Kỳ nằm trên vùng đồng bằng có độ dốc nhỏ, địa hình nhìn chung nghiêng theo hướng Tây nam và Đông bắc. Khu vực đô thị của thị xã có địa hình tương đối bằng phẳng ở phía Bắc, phía Đông, phía Nam và có nhiều đồi núi ở phía Tây. Độ dốc trung bình của nội thị là từ 2% đến 4%. Cao độ trung bình của các khu vực ven sông và khu trung tâm thay đổi từ +2,0mét đến +4,0mét. Địa hình khu vực phía Tây của thị xã có cao độ > +6 mét và có những quả đồi nằm tách biệt có đỉnh ở độ cao đến tới +40mét.

Nhiệt độ trung bình năm khoảng 25,60C, các tháng mùa hè (tháng 5 đến tháng 8) nhiệt độ trung bình 28 đến 300C. Mùa mưa chủ yếu tập trung nhiều vào các tháng 9 đến tháng 12,lượng mưa chiếm 70 đến 75% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8, lượng mưa chỉ chiếm 25 đến 30%

42

lượng mưa năm. Trung bình hàng năm có 0,5 cơn bão đổ bộ trực tiếp và hai đến ba cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến khu vực xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị.

Về thủy văn: thành phố Tam Kỳ chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy văn sông Tam Kỳ và sông Thạch bàn; các con sông này chịu tác động của chế độ thuỷ triều biển, nước biển thường xâm nhập vào thời kỳ mùa khô, ảnh hưởng khá lớn đến thoát nước khu vực nội thành; sông Trường Giang là sông nước mặn chạy sát biển nối cửa An Hòa với cửa Đại, Hội An, khi lũ lớn chỉ ảnh hưởng tràn bờ vùng sát ven sông có cao độ nền <2,5m. Hồ chứa nước Phú Ninh nằm cách Tam Kỳ khoảng 7Km về phía Tây điều hoà dòng chảy tại sông Tam Kỳ. Hồ Phú Ninh đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho khu vực đô thị Tam Kỳ và nước tưới cho sản xuất nông nghiệp cho ba địa phương Tam Kỳ, Thăng Bình, Núi Thành.

Những năm lũ lớn như lũ lịch sử 1964, 1999 tại thị xã Tam Kỹ bị ngập lũ từ 0,5 đến 2,5mét, thời gian ngập từ 2 đến 3 ngày, những khu vực có cao độ nền 1 đến 2 mét thường bị ngập nhiều nhất.

Thuỷ triều tại khu vực Tam Kỳ có chế độ bán nhật triều không đều. Nhật triều xảy ra từ 10 đến 15 ngày trong tháng, còn lại là bán nhật triều. Mức nước triều trung bình là 1,2m; cường độ triều lớn là 1,0 đến1,5 mét, triều kém là 0,4 đến 0,8 mét. Tốc độ dòng chảy trung bình từ 0,2 đến 0,3 mét/s, tốc độ cực đại 2,5mét/s.

Về địa chất thuỷ văn, nước ngầm mạch nông xuất hiện ở độ sâu 2-10m. Khi xây dựng cần khảo sát kỹ để có giải pháp hợp lý về móng công trình. Về địa chất công trình, cường độ chịu tải của đất trung bình đạt khoảng R = 1,5-2,5Kg/cm2. Vùng ven các con sông địa chất yếu hơn, khi xây dựng công trình tại vùng này cần khoan khảo sát kỹ. Theo tài liệu của Viện Vật lý địa cầu, khu vực Tam Kỳ nằm trong vùng dự báo có thể xẩy ra động đất cấp 6.

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế- xã hội Địa danh Tam Kỳ ra đời năm 1905, với tên gọi đầy đủ là phủ Tam Kỳ vốn

43

là đất Hà Đông xưa, có bề dày lịch sử gần 600 năm kể từ thời kỳ Hồ Hán Thương (1403). Quá trình hình thành và phát triển của Tam Kỳ gắn liền với vùng đất Quảng Nam giàu truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước. Trước năm 1975 Tam kỳ là thủ phủ của tỉnh Quảng Tín. Sau ngày giải phóng, Tam Kỳ là thị xã thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đến năm 1997 khi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được tách thành hai đơn vị hành chính, Tam Kỳ là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam.

Ngày 17/6/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 148/2005/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015, trong đó định hướng phát triển Tam Kỳ trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tạo động lực thu hút và thúc đẩy phát triển kinh tế cho khu vực.

Trong những năm qua, thành phố Tam Kỳ đã có bước phát triển nhanh về mọi mặt từng bước xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, VH-XH của tỉnh Quảng Nam, trung tâm dịch vụ hỗ trợ cho Khu kinh tế mở Chu Lai, là đầu tàu thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển. Đến nay, thành phố Tam Kỳ đang dần rõ nét của một Thành phố “xanh-sạch-đẹp” trong chuỗi đô thị vùng duyên hải miền Trung. Đánh dấu kết quả của sự nỗ lực phát triển kinh tế- xã hội, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 113/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 công nhận Tam Kỳ là thành phố thuộc tỉnh.

a. Về kinh tế: Kinh tế thành phố Tam Kỳ những năm gần đây phát triển khá mạnh,

mức tăng trưởng GDP bình quân 5 năm (2001-2005) xấp xỉ 14,81%/năm, cao hơn bình quân chung toàn tỉnh trên 5% (bình quân của tỉnh là 9,8% năm). Tính riêng năm 2006 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 16%; GDP bình quân đầu người đạt 730USD. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh, giá trị thương mại tăng 27,1%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 30,4%, nông nghiệp tăng 4,5% so với năm 2005 [20]. Cơ cấu kinh tế Thành phố chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị của các ngành thương

44

mại, dịch vụ- công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, trong đó: + Dịch vụ chiếm 56,92% (năm 2005 là 56,4%). + Công nghiệp chiếm 35,3% (năm 2005 là 34,7%). + Nông nghiệp chiếm 7,78% (năm 2005 là 8,2%). + GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 702 USD/người/năm [20]. Giá trị sản xuất ngành thương mại dịch vụ giai đoạn 2001-2005 đạt

2254,7 tỷ đồng, tăng bình quân 25,5%/năm.Trong năm 2006 giá trị thương mại, dịch vụ đạt 857,2 tỷ đồng, đạt 102% so với kế hoạch và tăng 27,1% so với năm 2005. Trong đó giá trị xuất khẩu đạt 22,36 triệu USD [44]; Những ngành hàng TMDV có giá trị tăng trưởng khá hơn các năm trước như: đại lý bán buôn các mặt hàng sản xuất và tiêu dùng; dịch vụ cơ khí, điện tử, tin học... Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tập được trung đầu tư bước đầu đưa vào khai thác có hiệu quả, các loại hình du lịch sinh thái, văn hoá lịch sử phát triển phong phú, như: Biển Tam Thanh, hồ Phú Ninh, địa đạo Kỳ Anh, bãi sậy Sông Đầm gắn với sự phát triển về dịch vụ lưu trú, bưu chính viễn thông. Bên cạnh đó, dịch vụ đào tạo lao động việc làm, tài chính - tín dụng, y tế nghỉ dưỡng, giao thông vận tải,...có chuyển biến rõ nét. Các trung tâm thương mại, chợ khu vực, các khu công viên cây xanh, khu vui chơi giải trí từng bước hình thành đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Cùng với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay, các trung tâm đào tạo tin học và các loại hình dịch vụ Internet trên địa bàn Thành phố đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, đối với dịch vụ Internet trên địa bàn đã được nâng cấp đầu tư công nghệ truyền dẫn ADSL, tạo điều kiện truy cập Internet với tốc độ cao.

Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong 05 năm đạt 876,5tỷ đồng, bình quân tăng 23,3%/năm. Riêng năm 2006 giá trị thực hiện được 340,4 tỷ đồng, đạt 100,6% so với kế hoạch, tăng 30,4% so với năm 2005; giá trị tuyệt đối gấp 3 lần so với thời kỳ 05 năm trước. Các ngành có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định là: Công nghiệp may mặc dày da, sản xuất vật

45

liệu xây dựng, sản phẩm phục vụ công nghiệp và nông nghiệp,... [20]. Toàn Thành phố quy hoạch nhiều khu công nghiệp vừa và nhỏ, trong

đó khu công nghiệp Thuận Yên (225ha) hiện có 06 doanh nghiệp đang hoạt động; Cụm Công nghiệp Trường Xuân giai đoạn 1 (16ha) đã lấp đầy 100% diện tích với 16 doanh nghiệp đang hoạt động. Ngoài ra, vệt Công nghiệp dân cư phía Tây Thành phố (49,8ha), cụm dịch vụ dân cư An Sơn (34ha),...cũng đang được xúc tiến đầu tư hạ tầng để đưa vào thu hút đầu tư. Vốn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật ngành công nghiệp do thành phố làm chủ đầu tư năm 2006 là 50 tỷ đồng, các dự án đầu tư đang hoàn chỉnh hồ sơ để đầu tư xây dựng trong những năm đến là 150 tỷ đồng.

Khu kinh tế mở Chu Lai hiện nay thu hút một số lượng lớn doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, với số vốn lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Hiện đang xúc tiến đầu tư xây dựng kết cấu HTKT nhiều khu, cụm công nhiệp, đồng thời phát triển các loại hình dịch vụ như tín dụng, tài chính, ngân hàng, các trung tâm giao dịch lớn,...điển hình là Khu công nghiệp Tam Thăng quy mô 300 ha, Khu Công nghiệp An Phú, trung tâm công nghệ phần mềm, làng đại học...

Giá trị sản xuất nông nghiệp-lâm nghiệp, thủy sản trong 05 năm đạt 487,9 tỷ đồng, tăng bình quân 3,48%/năm. Năm 2006 giá trị thực hiện 109,5 tỷ đồng, đạt 98,1% so kế hoạch, tăng 4,5% so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước chuyển biến tích cực theo hướng nông nghiệp đô thị [44].

Tổng thu ngân sách trên địa bàn từ năm 2001-2005 là: 964,458 tỷ đồng. Trong đó, Thành phố thu 612,495 tỷ đồng, cụ thể từng năm như sau (biểu 2.4):

Biểu 2.4: Thu ngân sách trên địa bàn thành phố Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm Số thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Thành phố

Số thu ngân sách phân cấp cho Thành phố

2001 69.059 57.564 2002 141.564 79.770 2003 201.159 125.468 2004 243.830 167.806 2005 308.846 181.887

46

Nguồn: phòng TC-KH, UBND thành phố Tam Kỳ, năm 2006.

Tổng chi ngân sách trên địa bàn từ năm 2001-2005 là: 616,772tỷ đồng. Trong đó: Thành phố chi là 553,3 tỷ đồng, cụ thể như sau (biểu 2.5):

Biểu 2.5: Chi ngân sách trên địa bàn Thành phố Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm Chi ngân sách trên địa bàn Thành phố

Chi ngân sách phân cấp cho Thành phố

2001 62.007 54.032 2002 91.960 73.490 2003 137.126 120.548 2004 174.979 160.910 2005 150.700 144.319

Nguồn: Phòng TC-KH, UBND thành phố Tam Kỳ, năm 2006. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn toàn Thành phố trong giai đoạn

2001-2005 ước đạt khoảng 2.500 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển từ nguồn Ngân sách thành phố đạt trên 300 tỷ đồng tăng bình quân trên 60,8%/năm.

b. Về văn hóa- xã hội: Giáo dục đạt được những kết quả đáng kể: nâng cao chất lượng dạy

học, cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư tầng hóa trường học được 16/24 trường tiểu học và trung học cơ sở, đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở vào cuối năm 2003. Ngành học mẫu giáo, mầm non có 17 trường đã chuyển 100% sang bán công. Đến cuối năm 2005 đã xây dựng 9 trường đạt chuẩn quốc gia ở các bậc học. Hiện nay, toàn Thành phố có 02 trường cao đẳng, 4 trường trung học chuyên nghiệp, 2 trường dạy nghề, 6 trung tâm đào tạo nghề; 05 trường phổ thông trung học (trong đó có một trường chuyên). Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, ngoài việc nâng cao chất lượng và mở rộng qui mô các trường công lập, tỉnh và thành phố đã tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân phát triển mạnh các trường, cơ sở đào tạo nghề có chất lượng.

Mạng lưới y tế trên địa bàn thành phố Tam Kỳ đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Trong đó, có 01 bệnh viện đa khoa và 04 bệnh viện

47

chuyên ngành cấp tỉnh với cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ thầy thuốc có trình độ chuyên môn cao. Ngoài ra, bệnh viện Đa khoa thành phố quy mô 100 giường bệnh và các trạm y tế xã, phường (hiện có 5/13 trạm đạt chuẩn quốc gia) đang phát huy tốt vai trò khám chữa bệnh và có uy tín với nhân dân.

Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đạt được một số kết quả nhất định, đến cuối 2005 có 90,5% gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá; 82,8% thôn, khối phố đạt thôn khối phố văn hoá các cấp (87thôn/105thôn). Đến nay đã xây dựng xong 105/105 nhà sinh hoạt văn hoá thôn, khối phố. Trên địa bàn thành phố có 12 di tích lịch sử, văn hóa được Bộ Văn hoá và tỉnh công nhận.

Tam Kỳ là địa phương có nhiều đối tượng chính sách, với 376 bà Mẹ Việt Nam anh hùng (54 Mẹ còn sống), 2700 đối tượng chính sách đang hưởng chế độ... Do đó, Công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách luôn được Thành phố chú trọng thực hiện tốt. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, cho vay vốn giải quyết việc làm đã đạt được những kết quả tích cực, tỷ lệ hộ nghèo từ 15,24% năm 2001 cuối năm 2005 giảm xuống còn 5% (theo tiêu chí cũ), tiêu chí mới còn 15,19%. Hằng năm tạo việc làm mới hơn 2000 lao động, riêng trong năm 2005 giải quyết được trên 2.600 lao động có việc làm mới [20].

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố luôn phát huy truyền thống đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Chú trọng tăng cường công tác xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị tam kỳ

trong 5 năm (2001-2005)

2.2.1. Thực trạng về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị ở thành phố Tam Kỳ [43]

2.2.1.1. Giao thông Về đường bộ: tổng chiều dài các tuyến giao thông đường bộ trên địa

bàn Thành phố là 100km. Trong đó, đường quốc lộ dài 6 km, tỉnh lộ dài 13 km, đường du lịch (biển Tam Thanh và hồ Phú Ninh) 15km. Hệ thống đường giao thông đô thị dài trên 60km. Cụ thể như sau:

48

Giao thông đối ngoại: Hiện có Quốc lộ 1A chạy qua Thành phố dài 06km. Đường tránh Nguyễn Hoàng thay thế cho quốc lộ 1A dài 6,8km đã thi công xong và đưa vào sử dụng. Thành phố có mạng lưới giao thông thuận lợi nối đến cửa khẩu Bờ Y và Đắc ốc đó là đường nam Quảng Nam đã khởi công vào tháng 7 năm 2006, ngoài ra còn có đường Du lịch Thanh Niên ven biển nối Thành phố Đà Nẵng - thị xã Hội An - Thành phố Tam Kỳ - Huyện Núi Thành - Khu công nghiệp Dung Quất. Đã xây dựng hoàn chỉnh Bến xe mới của tỉnh với diện tích 3,6ha.

Giao thông đối nội: Mạng lưới đường chính xây dựng phát triển theo quy hoạch được duyệt, đảm bảo chất lượng tốt đáp ứng cơ bản các yêu cầu về giao thông đô thị. Mật độ đường phân bố tương đối đồng đều từ khu trung tâm ra ven đô. Đặc biệt, có một số khu vực mật độ cao như khu trung tâm hành chính, mật độ bình quân đạt gần 6 km/km2. Hiện tại 100% tuyến đường phố chính đã có điện chiếu sáng công cộng đạt tiêu chuẩn, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.

Về đường sắt: tuyến đường sắt Bắc-Nam đoạn chạy qua thành phố Tam Kỳ dài 10 km phục vụ chuyên chở các chuyến tàu hành khách, tàu hàng Quốc gia và tàu khách địa phương thông qua nhà ga Tam Kỳ (cách đều TP Hồ Chí Minh và Hà Nội 863 kilômét).

Đường thuỷ: Tam Kỳ có sông Bàn Thạch, Kỳ Phú và sông Tam Kỳ chảy qua để vận chuyển hàng hoá và hành khách trong phạm vi địa phương. Đặc biệt, có sông Trường Giang nối từ Cửa Đại (Hội An) đến cảng Kỳ Hà- khu KTM Chu lai, cảng Dung Quất- thành phố Quảng Ngãi.

Đường hàng không: thành phố Tam Kỳ không có sân bay, nhưng về phía Bắc Thành phố khoảng 70km là sân bay Quốc tế Đà Nẵng và cách 30km về phía Nam là sân bay Chu Lai đã đưa vào khai thác sử dụng chuyên chở hành khách dân dụng, trong tương lai được quy hoạch là sân bay trung chuyển hàng hóa quốc tế lớn trong khu vực Đông Nam á.

2.2.1.2. Cấp nước Hiện nay, thành phố đang được cấp nước bởi Nhà máy nước Tam Kỳ

có công suất: 15.000m3/ngày/đêm (hiện tại mới sử dụng khoảng 60% công

49

suất thiết kế), nguồn nước được cung cấp từ hồ Phú Ninh- với diện tích mặt nước là 36 km2 dung chứa 344 triệu m3 nước. Tổng chiều dài ống cấp nước hiện có: 58,3km, trong đó mạng cấp 1 là 4,15km, mạng cấp 2 là 41,87km, mạng cấp 3 là 12,26km, có đường kính từ 100 trở lên, hầu hết các tuyến đường nội thị có mạng lưới đường ống bao phủ, các khu dân cư đã có nước máy sử dụng. Hiện nay, trên địa bàn Thành phố có trên 55% dân cư được cấp nước sạch từ hệ thống này, trong thời gian đến sẽ phủ kín trên toàn địa bàn Thành phố sau khi nâng cấp công suất nhà máy nước Tam Kỳ.

2.2.1.3. Thoát nước Hiện tại Thành phố đang sử dụng hệ thống thoát nước chung cho nước

mưa và nước thải. Các tuyến cống hiện có đều được dẫn ra các kênh, suối và đổ ra sông Bàn Thạch, sau đó đổ ra sông Trường Giang và thoát ra biển qua cửa Lở Kỳ Hà, thuộc huyện Núi Thành. Hệ thống mương thoát nước chính nội thị có tổng chiều dài trên 65 km, bao gồm cống buy tròn fi 12000, 1000, mương hộp 1800, 1600, mương trần,...được bố trí hợp lý trên toàn địa bàn, giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước đô thị.

Cũng như hầu hết các đô thị trên cả nước, trên địa bàn Thành phố hiện nay nước thải đều chưa được qua xử lý trước khi đổ ra sông, riêng những nơi có tỷ lệ ô nhiểm cao như bệnh viện, một số khu - cụm công nghiệp...được xử lý sơ bộ trước khi thoát vào hệ thống chung của Thành phố. Dự án cải thiện môi trường đô thị và dự án mở rộng lợi ích cho người nghèo từ nguồn vốn ADB, ODA (tổng vốn đầu tư 16,6 triệu USD) sẽ triển khai vào đầu năm 2007 và kết thúc vào năm 2009 sẽ góp phần giải quyết được vấn đề nước thải hiện nay.

2.2.1.4. Cấp điện Thành phố Tam Kỳ hiện có trạm hạ thế 110/35/15KV tại phường

Trường Xuân đủ công suất để cung cấp cho điện sản xuất và diện sinh hoạt của nhân dân Thành phố. Trạm thuỷ điện Phú Ninh công suất lắp đặt 1600KW gồm 2 tổ máy 2x 800KW, hoà vào lưới điện quốc gia qua trạm biến áp nâng áp 6,6/15KV tổng dung lượng 2000KVA. Nguồn Điezen tại chỗ công

50

suất lắp đặt là 3600KW, dùng để dự phòng khi điện lưới mất điện sẽ cung cấp điện cho Thành phố.

Lưới điện cao thế qua khu vực Tam Kỳ hiện nay có các tuyến sau: - Tuyến 110KV Cầu Đỏ, Đà Nẵng - Tam Kỳ, Quảng Nam. - Tuyến 220KV Cầu Đỏ, Đà Nẵng - Quảng Ngãi. - Tuyến 35KV Cầu Đỏ - Thăng Bình - Tam Kỳ - Núi Thành.

2.2.1.5. Thông tin liên lạc và phương tiện nghe nhìn Toàn thành phố có 13/13 xã, phường có Bưu điện văn hóa, trong khu

vực nội thành có 02 Bưu điện trung tâm, 09 Bưu điện khu vực. Đến cuối năm 2005, tổng số thuê bao cố định trên địa bàn thành phố đạt 13.154 máy; Bình quân 13,34máy/100 dân; trong đó khu vực nội thành đạt 17,27 máy/100dân; 13 xã, phường đã nhận được sóng di động của tất cả các hệ như: Vina, Mobi, Viettel,...Trên địa bàn thành phố có đầy đủ hệ thống internet với tốc độ truyền dẫn cao, thành phố đã đưa vào sử dụng mạng máy tính diện rộng kết nối từ tỉnh đến thành phố và các xã, phường ... Đồng thời đã xây dựng trang Web để công khai các thông tin về kinh tế xã hội của thành phố, các thủ tục hành chính công tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong quan hệ giao dịch với chính quyền.

Hiện nay toàn bộ 13 xã, phường đã được phủ sóng phát thanh và truyền hình, có 263 loa nén, 15 cụm loa với 71 km đường dây. Thành phố đã được bố trí hệ thống truyền hình cáp ở các phường nội thị.

2.2.1.6. Môi trường đô thị Thực hiện công tác vệ sinh môi trường ở thành phố có Công ty môi

trường Đô thị Quảng Nam đóng trên địa bàn, với các đơn vị: Xí nghiệp môi trường đô thị Tam Kỳ, Đội cây xanh, thực hiện các công việc thu gom, vận chuyển xử lý rác thải, trồng và chăm sóc cây xanh, nạo vét khơi thông hệ thống thoát nước, quản lý nghĩa trang; Bên cạnh đó có Đội trật tự đô thị trực thuộc thành phố làm nhiệm vụ quản lý và giữ gìn trật tự đô thị trên địa bàn thành phố.

51

Từ khi tái lập tỉnh, Tam Kỳ trở thành thành phố tỉnh lỵ, Tam Kỳ đã tập trung chỉ đạo xây dựng thành phố theo hướng văn minh, xanh-sạch-đẹp, đến nay hầu hết các tuyến đường đều được trồng cây xanh. Hệ thống cây xanh đường phố, nơi công cộng được trồng theo đúng yêu cầu quy hoạch, phong phú về chủng loại, phù hợp với điều kiện khí hậu của Thành phố; đặc biệt đã xây dựng được 04 tiểu công viên tạo cảnh quan xanh và điểm dừng chân trong Thành phố.

Việc thu gom và xử lý chất thải rắn được triển khai thực hiện trên

tất cả các xã, phường của Thành phố. Đối với các phường nội thị tổ chức

thu gom đến các kiệt, hẻm và nội bộ từng khu dân cư, đối với các xã vùng

ven tổ chức thu gom ở các thị tứ, các trục đường chính. Hiện nay, lượng

rác thải trên địa bàn Thành phố được thu gom, vận chuyển và xử lý đạt tỷ

lệ 90% (thu gom bình quân mỗi ngày 140m3, khoảng 51.100m3/năm).

Việc xử lý rác thải được thực hiện tại bãi rác Tam Đàn (thuộc địa phấn

thành phố Tam Kỳ) bằng phương thức thủ công (như xử lý hóa chất, vôi

và chôn lấp) theo đúng quy trình quy định. Đặt biệt, đối với rác thải y tế

trên địa bàn Thành phố được bố trí riêng một xe chuyên dùng để vận

chuyển về là đốt rác y tế của bệnh viện Đa khoa Quảng Nam để tiêu hủy

bằng công nghệ lò đốt tiêu chuẩn.

Nhận thức của cộng đồng về vệ sinh môi trường và thực hiện nếp

sống văn minh đô thị ngày càng được nâng cao. Thành phố quy hoạch 06

khu vệ sinh công cộng trên địa bàn (năm 2006 đã hoàn thành đưa vào sử

dụng 01 khu), đang chuẩn bị triển khai dự án đầu tư nhà máy xử lý chất

thải rắn thành phân bón từ nguồn vốn ODA Tây Ban Nha với tổng giá trị

trên 3,3 triệu USD. Ngoài ra, từ năm 2007-2009 có 02 dự án ODA lớn về

vệ sinh môi trường triển khai trên địa bàn: Dự án cải thiện môi trường đô

thị Miền Trung - Tiểu dự án Tam Kỳ từ nguồn vốn vay ADB 15,4 triệu

52

USD và dự án mở rộng lợi ích cho người nghèo (thông qua dự án trên) từ

nguồn viện trợ không hoàn lại 1,2 triệu USD sẽ giải quyết căn bản vấn đề

rác thải, thoát nước của Thành phố.

Biểu 2.6: Lượng rác thải được thu gom hàng ngày trên địa bàn Thành phố

Stt Xã, phường Khối lượng rác thải (m3/ngày)

Hộ dân (hộ)

Số cơ quan, doanh nghiệp

01 An Sơn 14,5 940 32 02 Hòa Hương 12 810 18 03 An Mỹ 28 1550 49 04 Tân Thạnh 21 1220 173 05 Phước Hòa 12,5 660 12 06 An Xuân 18 675 53 07 An Phú 5,5 220 7 08 Trường Xuân 9 205 11 09 Hòa Thuận 6 180 5 10 Tam Phú 4 185 3 11 Tam Thanh 3,5 87 3 12 Tam Ngọc 6 118 4

Tổng cộng 140 6.800 370 Nguồn: Công ty Môi trường đô thị Quảng Nam, năm 2007.

2.2.2. Những kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị ở thành phố Tam Kỳ

2.2.2.1. Về quản lý quy hoạch Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cơ quan hữu quan từ trung

ương đến tỉnh, công tác nghiên cứu quy hoạch ở thành phố Tam Kỳ đã được chú trọng thực hiện và đạt nhiều kết quả tốt. Ngay sau khi tái lập tỉnh, điều chỉnh quy hoạch phát triển không gian thành phố Tam Kỳ đến 2020 đã được phê duyệt để triển khi xây dựng đô thị với vai trò mới là trung tâm lỉnh lỵ. Đến nay, các công trình kết cấu hạ tầng theo quy hoạch 1997 đã cơ bản được thực hiện xong, đảm bảo quy mô, số lượng, chất lượng phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của thành phố.

Thành phố đang xúc tiến điều chỉnh quy hoạch chung (1/5000) đến năm 2025 nhằm định hướng không gian và đầu tư xây dựng kết cấu HTKT và

53

mở rộng đô thị về phía Đông và Đông Nam thành phố. Đồng thời thực hiện quy hoạch chi tiết khớp nối toàn bộ các khu vực nội thành và cắm mốc quản lý thực địa. Đây là điều kiện hết sức cơ bản để hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kết cấu HTKT đô thị nói riêng.

Trong năm năm qua, Thành phố luôn luôn chú trọng tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý quy hoạch, đúng quy định của Luật xây dựng năm 2003, Nghị định số 08/2005/ NĐ-CP, ngày 24/1/2005 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng; Thông tư số 15/2005/TT-BXD ngày 19/8/2005 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng và các văn bản pháp luật có liên quan của Nhà nước, được thể hiện tập trung ở các nội dung cụ thể như:

Đã triển khai hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết 1/2000 toàn bộ khu vực nội thành, trên cơ sở đó thực hiện trên 150 đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 (riêng năm 2005 và 2006 thực hiện 40 đồ án), căn bản khớp nối toàn bộ phần 3.200 ha khu vực nội đô. Tổ chức giới thiệu công khai các đồ án quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt cho nhân dân biết, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, panô ngoài trời... hoặc trực tiếp tại các xã phường. Hầu hết các đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng của thành phố Tam Kỳ thực hiện đạt chất lượng khá cao, góp phần quan trọng tạo nên bộ mặt của một Thành phố trẻ hiện đại, nhưng vẫn giữ được nét độc đáo riêng của một đô thị duyên hải miền Trung, điển hình là hệ thống giao thông đô thị được quy hoạch rộng và thoáng, các tuyến nội thành có mặt cắt trung bình 27mét, các trục chính và giao thông đối ngoại được quy hoạch mặt cắt từ 48 đến 60 mét (như tuyến đường Hùng Vương rộng 48 mét, Điện Biên Phủ rộng 60 mét…) các khu đất công cộng và không gian xanh đô thị được hết sức chú trọng, bố trí quỹ đất hợp lý.

Phổ biến, giới thiệu và phát hành tương đối kịp thời tới các ngành, địa phương hệ thống văn bản pháp quy của nhà nước về quản lý quy hoạch và quản lý xây dựng Thành phố, kết hợp với tuyên truyền vận động các tổ chức cá nhân thực thi đúng pháp luật trong việc đầu tư xây dựng kết cấu HTKT theo quy hoạch.

Củng cố, tăng cường bộ máy quản lý nhà nước từ cấp Thành phố đến

54

cấp xã, phường. Xác định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT theo vùng, lãnh thổ (UBND thành phố, UBND xã phường và Ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai) phối hợp với quản lý theo ngành (Sở Xây dựng của tỉnh, Phòng quản lý đô thị, Đội Quy tắc đô thị thành phố, cán bộ chuyên trách địa chính-xây dựng của các xã phường). Vai trò quản lý quy hoạch xây dựng của các địa phương được từng bước nâng cao. Các phường nội thành đều thành lập tổ quản lý đô thị chuyên trách gồm 03 biên chế, thực hiện nhiệm vụ quản lý hiện trạng, quản lý đất đai, xây dựng, tham mưu UBND địa phương xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.

Thành phố thường xuyên quan tâm đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý quy hoạch xây dựng nhằm nâng cao năng lực phục vụ đối với các nhu cầu đầu tư phát triển, từng bước khắc phục những hạn chế, tồn tại của nhiều năm trước như hiện tượng cửa quyền, gây sách nhiễu, phiền hà trong việc giải quyết các thủ tục thoả thuận địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, thoả thuận về kiến trúc...

2.2.2.2. Về quản lý đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật Trên cơ sở quy hoạch chi tiết được phê duyệt và theo phân cấp của Uỷ

ban nhân dân tỉnh, hầu hết các công trình kết cấu HTKT đô thị trên địa bàn thành phố cơ bản được quản lý xây dựng theo quy hoạch và thiết kế được duyệt. Tất cả các khâu từ chuẩn bị đầu tư, thẩm tra phê duyệt dự án, đấu thầu chọn đơn vị thi công đến giám sát chất lượng và tiến độ thực hiện công trình... đều được chú trọng chỉ đạo thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng theo Luật Xây dựng, luật đấu thầu, Nghị định số 16/2005 NĐ-CP, ngày 07/ 02/ 2005 của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn của các Bộ ngành liên quan về quản dự án đầu tư xây dựng công trình...

Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý phát triển kết cấu HTKT không ngừng được nâng cao về chất lượng, tính khả thi, giảm tối đa các sai sót. Thành phố đã dựa trên quy định của Nhà nước cấp trên để cụ thể hoá một số quy định phù hợp với đặc điểm của địa phương, như quy định cụ thể hóa trình tự thủ tục, thời gian hoàn tất việc xin thoả thuận địa

55

điểm xây dựng, phê duyệt báo cáo đầu tư, thiết kế kỹ thuật-dự toán thi công, cấp giấy phép xây dựng...

Công tác tuyển chọn tư vấn có nhiều cải tiến, đảm bảo lựa chọn những đơn vị có đủ năng lực trình độ, uy tín tham gia. Đặc biệt công tác giám sát nhân dân được triển khai đồng bộ, đem lại hiệu quả tốt (kể cả các công trình quy mô lớn như Khu phố mới Tân Thạnh vốn đầu tư 150 tỷ, Kè biển Tam Thanh 64 tỷ, Trung tâm thương mại Tam Kỳ trên 80 tỷ...).

Quy định rõ về mối quan hệ trách nhiệm giữa các phòng ban chức năng có liên quan và UBND các xã, phường trong quản lý xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị trên địa bàn. Các công trình kết cấu HTKT xây dựng không đúng quy hoạch, xây dựng trái phép, không đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật được kiểm tra và xử lý nghiêm minh theo quy định tại Nghị định số 126/2004/ NĐ-CP, ngày 24/1/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà. Nhờ đó, trong năm năm qua, những vi phạm lớn trên lĩnh vực quản lý xây dựng kết cấu HTKT giảm đáng kể so với trước đây: nếu như giai đoạn 1997-2000 bình quân hàng năm Thành phố kiểm tra phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính gần 150 trường hợp, thì giai đoạn từ 2001-2005 đã giảm xuống còn 100 trường hợp/năm, riêng năm 2006 xử phạt 40 trường hợp, giảm 32 trường hợp so với năm 2005.

Uỷ ban nhân dân thành phố đã tích cực chỉ đạo và tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam chỉ đạo các cơ quan chuyên ngành, quản lý các lĩnh vực khác nhau phối hợp khá chặt chẽ trong quá trình triển khai xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị, như giữa Điện lực, Công ty Cấp nước, Công ty Môi trường đô thị (thoát nước và vệ sinh môi trường), Công ty Điện báo- Điện thoại và đơn vị thi công công trình, nhất là xây dựng các công trình có quy mô đầu tư lớn, đòi hỏi tính đồng bộ cao (như hệ thống cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc…đi cùng các tuyến đường giao thông đô thị), từng bước giảm bớt hiện tượng công trình bị đào lên, lấp xuống nhiều lần. Từ năm 1997 đến nay, thành phố đã triển khai (hoặc phối hợp với các chủ đầu tư

56

khác) đầu tư xây dựng 196 công trình hạ tầng đô thị. Nhiều công trình được xây dựng khá đồng bộ, sớm phát huy hiệu quả sử dụng trong thực tiễn.

Một nội dung hết sức quan trọng, phức tạp gắn liền với quá trình xây dựng kết cấu HTKT đô thị là công tác bồi thường- giải phóng mặt bằng, tái định cư luôn được thành phố đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện khá tốt, kịp thời bàn giao mặt bằng cho các công trình xây dựng, gắn với đảm bảo ổn định và phát triển đời sống dân sinh. Từ năm 2001 đến cuối năm 2006, thành phố thực hiện 195 phương án bồi thường được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó 89 công trỡnh do Thành phố làm chủ đầu tư, 25 công trỡnh do TW, Tỉnh làm chủ đầu tư, 81 công trỡnh do cỏc chủ đầu tư khác trên địa bàn.

Tổng kinh phí bồi thường được phê duyệt 230,717 tỉ đồng đó chi bồi thường trực tiếp 146,745 tỉ đồng. Trong 2 năm 2005-2006, UBND thành phố thực hiện giải phóng mặt bằng cho trên 40 dự án trên địa bàn, đó hoàn thành dứt điểm và bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư được 32 dự án, trong đó có nhiều dự án trọng điểm được triển khai thực hiện khá tốt như: Khu dân cư văn hoá-thương mại Bạch Đằng và Trung tâm thương mại Tam Kỳ, Khu phố mới Tân Thạnh, đường Điện Biên Phủ mới (đoạn thuộc KTM Chu Lai), đường từ Nguyễn Văn Trỗi đi KCN Tam Thăng, dự án nhà máy may 100% vốn nước ngoài tại phường Hoà Thuận...

Tổng diện tích đất thu hồi 291 ha trong đó đất ở 20,5 ha, với 4.810 hộ bị ảnh hưởng, trong đó hộ có nhà giải toả trắng là 846 hộ. Thành phố đã bố trí đất ở tái định cư 781 hộ, với tổng diện tích đất 93.720 m2, bỡnh quõn 1 lụ đất ở 120 m2.

Đặc biệt trong những năm gần đây thực hiện chủ trương xó hội hoá đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nông thôn nhân dân Thành phố Tam Kỳ đó đóng góp xây dựng cở hạ tầng bằng hỡnh thức khụng nhận một phần tiền bồi thường. Trong hai năm 2005-2006, nhân dân Tam Kỳ đã đóng góp 6,17 tỉ đồng và 4.086 m2 đất ở để nhà nước đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng đô thị.

2.2.2.3. Về quản lý các nguồn vốn

57

Từ năm 2001 đến năm 2005, thành phố đã huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư trên toàn địa bàn đạt khoảng 2.500 tỷ đồng, trong đó chi cho đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách thành phố đạt trên 250 tỷ đồng (chiếm 10%), tăng bình quân 60,8%/năm. Tính riêng nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị trên địa bàn thành phố đến 31 tháng 12 năm 2006 là 748,3 tỷ đồng, với cơ cấu nguồn vốn như sau (biểu 2.7):

Biểu 2.7: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu HTKT

STT Nguồn vốn Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ %

01 Nguồn vốn từ Ban quản lý khu kinh tế mở Chu Lai 186 24,9

02 Nguồn vốn vay, viện trợ (WB,ADB, NGO...) 119,7 16,0

03 Nguồn ngân sách nhà nước 90 12,0

3.1 Ngân sách tập trung theo kế hoạch 10 1,3

3.2 Chương trình mục tiêu quốc gia và quyết định của Chính phủ 25 3,3

3.3 Ngân sách tỉnh, TW đầu tư các công trình trên địa bàn (không qua kênh NS thành phố) 35 4,7

3.4 Nguồn kiến thiết thị chính 20 2,7

04 Nguồn khai thác quỹ đất trên địa bàn 191 25,5

4.1 Khai thác quỹ đất của thành phố 86 11,5

4.2 Khai thác quỹ đất của nhừng dự án có phương án tài chính riêng 105 14,0

05 Nguồn doanh nghiệp 146 19,5

06 Nguồn nhân dân đóng góp 15,6 2,1

Tổng cộng 748,3 100,0

Nguồn : ủy ban nhân dân thành phố Tam Kỳ Thành phố đã huy động khá tốt nguồn vốn từ khai thác quỹ đất với

phương châm “đổi đất lấy cơ sở hạ tầng”, bình quân nguồn thu từ khai thác quỹ đất trên địa bàn mỗi năm 50-70 tỷ đồng, đây là nguồn nội lực quan trọng cho đầu tư và chỉnh trang đô thị của thành phố. Điểm nổi bật trong công tác

58

huy động vốn đầu tư cho kết cấu HTKT của Tam Kỳ là đã đề ra chính sách “xã hội hoá” đầu tư, huy động mạnh mẽ sự đóng góp của nhân dân với phương châm “Nhà nước và nhân cùng làm” như bêtông hóa giao thông nông thôn, đường kiệt nội thành, lát vỉa hè đường phố, giải toả xây dựng các công trình công cộng, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường giao thông quan trọng. Điển hình như: trong lĩnh vực giao thông đã đầu tư xây dựng, nâng cấp trên 40km đường giao thông kiệt hẻm nội thị, hàng chục hạng mục cầu, cống. Trong đó, nhân dân đóng góp hơn 213 nghìn ngày công, tương đương khoảng 6 tỷ đồng. Một số tuyến đường chính của thành phố được xây dựng chỉnh trang như đường Trần Cao Vân, Trưng Nữ Vương...nhân dân đóng góp thông qua hình thức không nhận bồi thường đất (đất không gắn với nhà ở) và không nhận một phần tiền bồi thường (trung bình khoảng 30% tổng giá trị bồi thường), với giá trị hàng chục tỷ đồng. Riêng dự án điện OPEC, nhân dân đã đóng góp 1,2 tỷ đồng trong tổng số vốn đầu tư 10,14 tỷ đồng.

Trong huy động nhân dân đóng góp vốn xây dựng kết cấu HTKT thì bên cạnh chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng bộ và chính quyền thành phố, thì vấn đề vận động nhân dân tạo ra sự đồng thuận cao có ý nhĩa rất to lớn (trong đó có vai trò của các cấp uỷ Đảng, tổ chức đoàn thể quần chúng). Thực tế đã chứng minh rất rõ điều này: điển hình như công trình nâng cấp đường Trần Cao Vân, theo dự kiến cần phải có ít nhất là 8 tỷ để bồi thường giải phóng mặt bằng, nhưng qua vận động, nhiều hộ đân đã tự động hiến đất hoặc tháo dỡ công trình xây dựng của mình...qua đó đã tiết kiệm được cho nhà nước gần 3 tỷ đồng.

UBND Thành phố đã mạnh dạn chủ động xây dựng đề án thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị trình HĐND tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 05/1999/NQ-HĐND ngày 05/5/1999 và được UBND tỉnh cụ thể hóa tại Quyết định số 36/1999/QĐ-UB ngày 15/6/1999 về thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị tỉnh Quảng Nam, ủy quyền cho thành phố thực hiện. Từ năm 2000 đến đến 31/12/2005 tổng thu của quỹ đạt 13,72 tỷ đồng, từ các nguồn: trích 10% tổng giá trị thực hiện được của các dự án

59

khai thác quỹ đất của tất cả mọi chủ đầu tư trên địa bàn thành phố (chiếm 63,77% tổng thu), thu từ các đơn vị, doanh nghiệp thuộc TW, tỉnh, địa phương (chiếm 31,39%), phần còn lại được thu từ nhân dân do UBND các xã phường tổ chức thu và từ nguồn ngân sách nhà nước. Đây là quỹ do UBND thành phố quản lý (có tài khoản riêng do phòng TCKH thành phố trực tiếp quản lý), hoạt động theo nguyên tắc hỗ trợ đầu tư có thu hồi và bảo toàn nguồn vốn. Việc thành lập quỹ đã hỗ trợ tích cực cho thành phố trong xây dựng chỉnh trang đô thị nói chung và xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị nói riêng.

Hiện nay do các nội dung của quỹ nêu trên không còn phù hợp với các quy định mới của nhà nước (chẳng hạn việc thu quỹ trên đầu xe ôtô, xe máy nay đã được nhà nước quy định thống nhất thu qua giá bán xăng dầu...), nên hiện tại HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết bãi bỏ việc thu quỹ này từ 30/6/2006. Tuy nhiên, Thành phố cần nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của một số thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội... để xây dựng đề án mới về quỹ đầu tư hạ tầng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư trên địa bàn thành phố trong những năm tiếp theo.

2.2.2.4. Về quản lý sử dụng và khai thác các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại thành phố Tam Kỳ

Các công trình kết cấu HTKT sau khi xây dựng xong đều được tổ chức nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư hoàn thành đúng theo quy định. Các nội dung về quản lý sử dụng và khai thác được hầu hết các ngành, đơn vị thực hiện tốt, như: công tác lập và lưu trữ hồ sơ hoàn công xây dựng công trình; các hư hỏng được phát hiện và có biện pháp sửa chữa tương đối kịp thời, đảm bảo cho công trình được vận hành; chế độ duy tu, bảo dưỡng...được quan tâm thực hiện (chủ yếu bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hằng năm bố trí trên 5 tỷ đồng); thủ tục ký kết hợp đồng, thanh toán kinh phí sử dụng các dịch vụ công cộng (điện, nước, thông tin...) được các đơn vị quản lý chuyên trách thực hiện khá tốt và từng bước cải thiện theo xu hướng phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu của nhân dân.

60

Thành phố đã chính thức ban hành “Quy chế quản lý đô thị” nêu một số quy định cụ thể và chặt chẽ về quản lý, khai thác sử dụng công trình kết cấu HTKT đô thị. Các tác động vào hệ thống hạ tầng kỹ thuật đều phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, như việc đấu nối hệ thống thoát nước thải nội bộ cơ quan, hộ gia đình ra hệ thống công cộng đều phải được sự thoả thuận của BQL công trình công cộng, sử dụng vỉa hè ngoài mục đích công cộng phải được phép của UBND xã phường... Đặc biệt việc quản lý cây xanh được xã hội hoá cao theo hướng: Nhà nước chỉ cung cấp cây giống (theo chủng loại cây đô thị) cho từng cơ quan, đơn vị, trường học tự trồng theo thiết kế và thực hiện việc quản lý, chăm sóc theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.

Việc quản lý sử dụng đúng mục đích các công trình kết cấu HTKT, nhất là các công trình công cộng được UBND thành phố, UBND xã, phường và các cơ quan chuyên trách kiểm tra thường xuyên, các hiện tượng vi phạm như sử dụng vỉa hè, lòng lề đường, khu công viên cây xanh hay các công trình công cộng khác...vào mục đích riêng từng bước được khắc phục. Ngoài lực lượng thanh tra chuyên ngành, Thành phố đã thành lập đội công liên ngành (do trưởng phòng QLĐT làm tổ trưởng, trưởng công an thành phố tổ phó và thành viên gồm các ngành, địa phương liên quan), định kỳ một tuần hai lần tổ chức ra quân kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm.

Bảo vệ môi sinh, môi trường đô thị là vấn đề hết sức bức xúc của các đô thị hiện nay, nếu không được giải quyết tốt thì khó có thể phát triển đô thị “bền vững”. Nhận thức rõ điều đó, Tam Kỳ đã hết sức chú trọng chỉ đạo thực hiện nội dung này.

Trong những năm qua, thành phố thường xuyên tổ chức tuyên truyền giáo dục các tổ chức và cá nhân nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề môi trường đối với cuộc sống, từng bước nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong việc quản lý bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời chấp hành nghiêm các quy định của nhà nước trên lĩnh vực này. Bên cạnh đó, thành phố phát động mạnh mẽ phong trào “Toàn dân giữ gìn thành phố xanh- sạch- đẹp”

61

gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Các cam kết về bảo vệ môi trường được thể hiện rõ trong các quy ước xây dựng thôn tổ văn hoá. Qua đó, 100% cán bộ chủ chốt xã, phường và các tổ dân phố được quán triệt chủ trương, nghị quyết, chỉ thị để triển khai thực hiện đến từng hộ gia đình, cơ quan đơn vị trên địa bàn. Hiện nay, phong trào đang dần dần đi vào cuộc sống và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng và chỉnh trang thành phố Tam Kỳ. Trong qua trình kiểm tra, thẩm định xét duyệt các đồ án quy hoạch, các dự án đầu tư xây dựng, dự án phát triển thương mại- dịch vụ... thành phố cũng đã lưu ý đến các tác động môi trường, cảnh quan.

Công tác thu gom rác thải đang được triển khai theo hướng tăng cường sự tham gia của cộng đồng. Rác thải trong nội bộ các khu dân cư, các tuyến đường giao thông đô thị (trừ các tuyến giao thông chính theo quy định) do tổ công tác được UBND phường thành lập và quản lý, tự thực hiện việc thu gom sau đó vận chuyển đến các điểm trung chuyển rác. Chi phí chi trả cho hoạt động này được thu từ các hộ dân theo mức phí do UBND tỉnh quy định. Công ty Môi trường đô thị chỉ thực hiện thu gom tại các điểm trung chuyển, các tuyến đường phố chính và vận chuyển, xử lý tại bãi rác theo quy định.

2.2.2.6. Bộ máy quản lý nhà nước của thành phố Tam Kỳ Việc rà soát, củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước ở Thành

phố được hết sức chú trọng thực hiện, nhất là các cơ quan chuyên môn liên quan đến công tác quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý đầu tư xây dựng... Tính đến thời điểm 30 tháng 5 năm 2006, bộ máy tổ chức của Uỷ ban nhân dân thành phố Tam Kỳ bao gồm 14 phòng, ban hành chính và 11 đơn vị sự nghiệp. Số lượng cán bộ công chức là 151 người, trong đó trình độ trên đại học 10; đại học, cao đẳng (và tương đương) là 92 người; Trung học chuyên nghiệp (và tương đương) là 38 người; trình độ sơ cấp là 11 người. Trình độ lý luận chính trị từ cao cấp trở lên 20 người, trung cấp 9 người (xem bảng phụ lục 1).

62

Điểm nổi bật trong bộ máy quản lý (có liên quan mật thiết đến quản lý về kết cấu hạ tầng kỹ thuật) của thành phố Tam Kỳ là đã thành lập Ban Bồi thường- giải phóng mặt bằng, tái định cư trực thuộc UBND thành phố (các đô thị thường không có tổ chức chuyên trách mà thành lập Hội đồng bồi thường theo từng dự án đầu tư, và giải tán sau khi công trình hoàn thành đưa vào sử dụng), chuyên trách thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư cho tất cả các dự án thuộc mọi chủ đầu tư trên địa bàn, trên cơ sở chỉ đạo của UBND thành phố và hợp đồng kinh tế với các chủ đầu tư. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho thành phố trong quá trình bồi thường- giải phóng mặt bằng phục vụ thi công các công trình kết cấu hạ tầng trên địa bàn. Thành phố cũng đã thành lập Tổ tiếp nhận và giao trả hồ sơ trực thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân- Uỷ ban nhân dân thành phố theo mô hình “một cửa” góp phần cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức, cá nhân đến giao dịch công tác.

Ngoài ra, thành phố đã thành lập 03 Ban quản lý dự án chuyên trách trực thuộc UBND thành phố, nhằm quản lý toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng trên địa bàn do thành phố làm chủ đầu tư, gồm BQL các dự án đầu tư và xây dựng (quản lý các dự án có nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách tập trung), Ban quản lý các dự án khai thác quỹ đất (quản lý các dự án có nguồn vốn từ quỹ đất). Đặc biệt, trong xây dựng và quản lý hạ tầng kỹ thuật, thành phố không duy trì các doanh nghiệp công ích mà tổ chức đấu thấu thực hiện các sản phẩm công ích, thông qua một đầu mối quản lý trực thuộc UBND thành phố là Ban quản lý các công trình công cộng (đơn vị sự nghiệp có thu). Mô hình này hiện đang được duy trì và phát huy hiệu quả tốt. Đây là điểm khá khác biệt của Tam Kỳ so với nhiều thành phố trrong cả nước.

Để tăng cương công tác đảm bảo trật tự xây dựng đô thị, thành phố đã thành lập Đội quy tắc đô thị trực thuộc UBND thành phố (điểm khác biệt so với nhiều đô thị cùng cấp trong cả nước). Đây là đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thông qua nguồn thu từ xử phạt vi phạm hành chính được để lại. Hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND

63

thành phố và phối kết hợp theo phân cấp với UBND các xã phường, chỉ đạo chuyên môn đối với lực lượng quản lý đô thị chuyên trách của các phường nội thành.

Hơn 5 năm qua, trong điều kiện còn nhiều khó khăn phức tạp, song nhờ quán triệt đường lối đổi mới của Trung ương và Tỉnh, bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII, thành phố Tam Kỳ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng; kết cấu HTKT đô thị có bước phát triển vượt bậc, tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển của thành phố trong giai đoạn mới, cùng cả nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế..

Công tác quản lý nhà nước về kết cấu HTKT trên địa bàn thành phố đạt được nhiều kết quả tốt; các công trình kết cấu HTKT được xây dựng đều cơ bản tuân thủ đúng theo quy hoạch được duyệt, đảm bảo cao trình thiết kế, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và định hướng phát triển lâu dài của thành phố. Tiến độ thi công và chất lượng các công trình hầu hết đảm bảo theo đúng kế hoạch và thiết kế kỹ thuật thi công. Các công trình đã thể hiện được nét kiến trúc hiện đại, đón đầu cho việc xây dựng đô thị mới trong tương lai, như công trình đường Điện Biên Phủ và trục cảnh quan hai bên đường, đường Hùng Vương, cầu Tam kỳ II, tháp thu - phát sóng của Đài Phát thanh Truyền hình Quảng Nam, Trung tâm thương mại Tam Kỳ, khu phố mới Tân Thạnh; các tuyến giao thông nội thị khác được chỉnh trang nâng cấp, hệ thống cây xanh, cảnh quan, điện chiếu sáng, thoát nước... được tăng cường Trong xây dựng Thành phố luôn chú trọng vấn đề cảnh quan chung của đô thị gắn với hệ thống xử lý chất thải, nước thải một cách tương đối có hệ thống... đã góp phần quan trọng làm cho bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng thay đổi khang trang, một đô thị trẻ xanh-sạch-đẹp đang từng bước phát triển rõ nét.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của một thành phố tỉnh lỵ thì những kết quả ấy mới chỉ là bước đầu. Bên cạnh những ưu điểm cơ bản, vấn đề quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị vần còn một số tồn tại, khuyết điểm cần nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, tìm ra những nguyên nhân để khắc

64

phục từ đó xây dựng những giải pháp tổ chức quản lý có hiệu quả nhất.

2.3. NHữNG TồN TạI và nguyên nhân tồn tại TRONG QUảN Lý NHà NướC

Về KếT CấU hạ tầng kỹ thuật ở THàNH PHố TAM Kỳ

2.3.1. Những tồn tại Thứ nhất, trong công tác quy hoạch: Việc điều chỉnh quy hoạch chung

của thành phố đến năm 2025 được xúc tiến từ năm 2005 nhưng đến nay vẫn chưa chính thức được phê duyệt. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể năm 1997 (hiện hành), qui hoạch chi tiết cho từng khu vực được tích cực triển khai thực hiện, nhưng một số quy hoạch chi tiết vẫn chưa hoàn thành hoặc còn nằm trên giấy (quy hoạch treo), chưa triển khai cắm mốc trên thực địa để quản lý và thông báo rộng rãi cho nhân dân, điển hình là khu trung tâm hành chính phường An Phú, khu phố mới Hoà Hương hơn 3 năm qua vẫn chưa hoàn chỉnh quy hoạch, khu dân cư tổ 6 An Sơn, đường N10 đã phê duyệt quy hoạch và dự án đầu tư nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai... Việc khớp nối qui hoạch giữa các khu chưa thống nhất, mỗi đơn vị tư vấn lập hồ sơ một khu, khi thi công không khớp nối được, nhất là hệ thống thoát nước, gây khó khăn cho công tác quản lý và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân (như dự án khu dân cư số 5- phường An Mỹ, khu dân cư Biên phòng- phường Hoà Thuận, cao trình tuyến đường Trần Phú...). Quy hoạch khu vực ven đô thị và điểm dân cư nông thôn, cũng như thiết kế đô thị chưa được chú trọng đúng mức.

Một số hồ sơ qui hoạch chất lượng thấp, thiếu nội dung so với yêu cầu (như quy hoạch khu công nghiệp-dịch vụ phía Tây thành phố 49,8ha), đặc biệt thiếu bản đồ bố cục kiến trúc cảnh quan, cây xanh. Quy hoạch ngành còn thiếu, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, lúng túng (thành phố vẫn chưa xây dựng quy hoạch mạng lưới cấp nước, thoát nước...mà thường đầu tư theo nhu cầu thực tế phát sinh); cá biệt vẫn có trường hợp quy hoạch ngành chưa tuân thủ quy hoạch tổng thể mà còn mang tính chất cục bộ và vì lợi ích của ngành, địa phương mình, như sa vào tình trạng chia lô bán đất mà quên đi

65

việc dành quỹ đất thích đáng cho các công trình công cộng, nhà văn hoá, cây xanh... gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Tình trạng xây dựng các công trình kết cấu HTKT đô thị không tuân thủ quy hoạch vẫn diễn ra ở một số nơi, kể cả công trình do thành phố làm chủ đầu tư (tuy nhiên, chỉ xảy ra ở công trình nhỏ mà nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn đầu tư và vướng đền bù), điển hình là các bãi trung chuyển rác tại phường An Xuân, Tân Thạnh, trụ sở UBND phường An Phú…

Thứ hai, các công trình kết cấu HTKT đô thị, nhất là hệ thống giao thông, cấp thoát nước, điện chiếu sáng công cộng và một số công trình công cộng khác còn thiếu, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển và tầm vóc của một thành phố tỉnh lỵ, nhiều tuyến đường khá quan trọng cho đô thị nhưng chậm được xây dựng như đường Điện Biên Phủ (mới), N10, Mai Hạc, đường 27 mét Trường Xuân- Thuận Yên, một số tuyến nội thị chưa có cống rãnh thoát nước như đườngNguyễn Thái Học, Trần Văn Dư, Phan Đình Phùng hoặc chưa có hệ thống điện chiếu sáng như đường Lý Thường Kiệt, đường nội bộ khu dân cư số 8... Nhiều tuyến đường nội thị còn quá chật hẹp, thiếu biển báo, đèn tín hiệu giao thông, biển tên đường... Một số công trình rất cần thiết cho sự phát triển của thành phố chưa được đầu tư kịp thời, như công viên cây xanh (toàn thành phố chưa có công viên), nhà văn hoá thiếu nhi, bãi đỗ xe công cộng, hệ thống xử lý nước thải, kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu cho các khu - cụm công nghiệp, dịch vụ...

Thứ ba, tình trạng vi phạm quy định về quản lý đầu tư và xây dựng trong xây dựng các công trình kết cấu HTKT vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhất là việc xây dựng không tuân thủ quy trình quy phạm, sai thiết kế kỹ thuật, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính... dẫn đến chất lượng công trình kém, tuổi thọ quá thấp so với thiết kế, nhất là các tuyến đường giao thông (cá biệt có tuyến đường xây dựng mới, đưa vào sử dụng chưa được hai năm đã xuống cấp), một số công trình chưa phù hợp giữa trước mắt và lâu dài.

Mặc dù được quan tâm nhiều hơn trước, nhưng sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan (như Bưu điện, Điện lực, Công ty cấp nước, Công

66

ty vệ sinh môi trường và các đơn vị thi công...) trong quá trình xây dựng phát triển kết cấu HTKT đô thị vẫn còn thiếu đồng bộ, nhiều tuyến đường giao thông vừa mới hoàn thành đã bị đào lên, lấp xuống nhiều lần để đặt các loại đường dây, đường ống (phục vụ cấp nước, cấp điện, cáp quang...), gây lãng phí không nhỏ cho nhà nước và ảnh hưởng đến môi trường, cảnh quan đô thị. Nhiều đoạn đường nội thị cột điện vẫn nằm trong lòng đường trong nhiều năm liền (đường Trưng Nữ Vương, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thái Học), đường Hùng Vương sau khi khánh thành chưa được bao lâu thì Công ty Cấp nước lại đào xới vỉa hè lên để lắp đặt đường ống, Công ty Xây lắp điện Quảng Nam đang tiến hành khoan cắt trên một số đoạn để lắt đặt hệ thống điện ngầm, kinh phí rất tốn kém. Mà suy cho cùng đây là tiền của của nhân dân.

Nhiều công trình kết cấu HTKT có thời gian thi công kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ, vệ sinh môi trường, gây lãng phí và mất lòng tin trong nhân dân...như đường Trưng Nữ Vương, đường Duy Tân- Trường Xuân, Khu dân cư số 5, số 6. Đáng chú ý là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để thi công các công trình thực hiện quá chậm, bị ách tắc ở nhiều khâu, thiếu nhất quán giữa các dự án...vừa làm chậm tiến độ xây dựng, gây tâm lý bất bình trong nhân dân, làm nảy sinh khiếu kiện phức tạp.

Việc tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình kết cấu HTKT vẫn thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thậm chí có trường hợp chưa tuân thủ đúng các quy định hiện hành của pháp luật, nhất là trường hợp chủ đầu tư tự quản lý dự án. Điển hình là dự án khu dân cư phố chợ An Mỹ vốn đầu tư lớn (trên 30 tỷ đồng), nhưng UBND thành phố lại giao cho UBND phường An Mỹ làm chủ đầu tư, dẫn đến dự án trì trệ kéo dài từ năm 1999 đến nay với khá nhiều sai phạm phức tạp, khó tháo gỡ. Hay dự án xây dựng tru sở làm việc UBND phường An Sơn tổng vốn trên 03 tỷ đồng được giao cho phường làm chủ đầu tư, làm cho thời gian thi công kéo dài, chất lượng công trình không đảm bảo. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do cấp phường không đủ năng lực để quản lý dự án lớn. Trong khi đó, theo quy định tại Thông tư 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 của bộ Xây dựng thì những trường hợp này UBND

67

thành phố phải “thành lập Ban quản lý dự án, trừ trường hợp dự án có quy mô nhỏ dưới 1 tỷ đồng” [8, tr.10].

Thứ tư, vệ sinh môi trường, nhất là vấn đề xử lý rác thải đô thị tuy được chú trọng chỉ đạo thực hiện nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải còn đạt thấp so với tiêu chí của đô thị loại III, nhất là thu gom rác thải trong nội bộ các khu dân cư tập trung vẫn còn nhiều bất cập. Diện tích dành cho cây xanh và các khu vui chơi giải trí trong thành phố vẫn còn mất cân đối, phân bố không hợp lý so với diện tích xây dựng nhà ở. Hệ thống cống rãnh thoát nước chưa được xây dựng một cách cơ bản, tình trạng ngập lụt ở các khu dân cư và các tuyến đường nội thị diễn ra khá phổ biến vào mùa mưa. Thành phố chưa xây dựng hệ thống thoát nước thải riêng, hầu hết nước thải từ các khu cụm công nghiệp, các bệnh viện chưa có hệ thống xử lỹ đúng tiêu chuẩn.

Thành phố chưa có Công ty môi trường đô thị trực thuộc để UBND thành phố chủ động chỉ đạo, điều hành giải quyết nhu cầu thu gom và xử lý rác thải ngày càng tăng của đô thị.

Thứ năm, việc thực hiện chính sách “xã hội hoá” trong đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị tuy có nhiều chuyển biến đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thành phố trong giai đoạn mới. Các dự án khai thác quỹ đất tuy được triển khai nhiều nhưng sức mua thấp, giá trị không cao, không đủ bù đắp chi phí đầu tư hạ tầng. Chủ trương “ Nhà nước và Nhân dân cùng làm” hay “Dân làm Nhà nước hỗ trợ” tuy phát huy tác dụng khá tốt, nhưng cũng đã bộc lộ nhiều yếu điểm, như: chưa có quy định riêng bài bản và có hệ thống, phù hợp cho từng đối tượng, từng địa bàn, nên quá trình thực hiện đóng góp của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được (ví dụ, thu đóng góp xây dựng vỉa hè đường Phan Chu Trinh hay thu đóng góp hạ tầng đường Hùng Vương... Thành phố đã xây dựng phương án và triển khai đến các hộ dân nhưng không thu được). Một bộ phận dân cư không có ý thực tự giác thực hiện phần đóng góp của mình theo quy định mà có tư tưởng chây ỳ hoặc vi phạm quy định-như chương trình bê tông hoá giao

68

thông nông thôn, dân đã tự động bán xi-măng (phần nhà nước hỗ trợ) để mua cát, sạn (phần nhân dân phải đóng góp), dẫn đến tình trạng thi công không đúng thiết kế kỹ thuật, làm giảm chất lượng công trình... mà thành phố vẫn chưa có biện pháp xử lý kịp thời.

Thứ sáu, công tác thanh tra kiểm tra việc đầu tư xây dựng phát triển kết cấu HTKT trên địa bàn thành phố Tam Kỳ mặc dù những năm gần đây đã được chú ý, quan tâm của UBND thành phố và các ngành, các cấp có liên quan, song vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp và còn một số tồn tại, hạn chế đáng kể; Những sai phạm được quần chúng phát hiện, tố giác nhất là tình trạng làm dối, làm ẩu, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, công trình dễ hư hỏng... nhưng chưa được tổ chức thanh tra kịp thời, hoặc có thanh tra nhưng chưa công bố rộng rãi kết quả thanh tra cho nhân dân biết, một số trường hợp xử lý vi phạm thiếu kịp thời, nghiêm minh, gây dư luận không tốt trong nhân dân.

Thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị tuy có được cải cách một bước nhưng vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là các thủ tục chuẩn bị đầu tư còn rườm rà, gây không ít phiền hà cho các tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” đã được triển khai, nhưng thực hiện thiếu triệt để và cũng đã nảy sinh nhiều tồn tại, khuyết điểm.

Thứ bảy, việc quản lý sử dụng và khai thác các công trình kết cấu HTKT đô thị còn một số hạn chế. Toàn thành phố có trên 40 công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhiều năm nhưng chưa quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, không có hồ sơ hoàn công để bàn giao cho đơn vị quản lý, hoặc đã hoàn thành và quyết toán nhưng không có đơn vị nào được giao trách nhiệm quản lý. Đồng thời chưa có chính sách để tạo vốn cho quá trình duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa mà chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách nhà nước; chưa có cơ chế để thu hút sự tham gia của nhân dân vào quá trình này.

Ngoài ra, một số nội dung khác trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị chưa được chú trọng chỉ đạo thực hiện hoặc có thực hiện nhưng hiệu quả không cao, như: Công tác quản lý thu thuế xây dựng cơ bản thiếu

69

chặt chẽ, nhất là đối với các đơn vị tư nhân, gây thất thoát khá lớn ngân sách của nhà nước. Việc phối hợp trong kiểm tra giám sát, đôn đốc trong quá trình thi công các công trình của chủ đầu tư (bên A) và đơn vị thiết kế còn nhiều hạn chế, báo cáo giám sát đầu tư theo quy định tại Nghị Định 29/NĐ-CP của chính phủ chưa đầy đủ kịp thời, nhưng chậm được chấn chỉnh, xử lý.

2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại 2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan Thành phố Tam Kỳ là nơi thường xuyên phải đối mặt với sự tàn phá

của thiên tai. Hàng năm đều có bão lụt, hoặc hạn hán... gây thiệt hại rất lớn về tài sản, tính mạng của nhân dân và Nhà nước. Điển hình như đợt lũ lụt lịch sử và cuối năm 1999 đầu năm 2000 đã làm hư hại nặng nề hàng trăm công trình kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình giao thông, cấp điện, thuỷ lợi...với tổng giá trị thiệt hại lên đến 105 tỷ đồng; năm 2006 vừa qua có hai cơn bão mạnh ảnh hưởng trực tiếp đến thành phố gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng tài sản của nhà nước và nhân dân.

Cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô (Trung ương và Tỉnh) bên cạnh những ưu điểm cơ bản, vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng, cụ thể và chưa phù hợp với thực tế. Chẳng hạn như: quy định của Luật đất đai về xác định diện tích đất ở được bồi thường trong trường hợp thửa đất có vườn ao (điều 87), vừa không sát thực tế sử dụng đất ở miền Nam và tạo cách hiểu không nhất quán, rất khó thực hiện thẩm quyền; quy định về giá bồi thường đất ở theo giá thị trường...ảnh hưởng lơn đến công tác giải phóng mặt bằng đầu tư hạ tầng. Tỉnh chưa ban hành kịp thời những quy định về quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng kết cấu HTKT đô thị, cũng như các quy định về xử lý vi phạm còn nhiều điểm chưa cụ thể và chưa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Hơn nữa các bước chuẩn bị đầu tư còn quá nhiều thủ tục rườm rà, bất hợp lý mà chưa được tập trung giải quyết. Việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc các đơn vị thi công còn thiếu kịp thời, sâu sát.Vấn đề phân cấp ngân sách, tỷ lệ điều tiết ngân sách còn nhiều vấn đề bất cập; bộ máy chính quyền đô thị không có

70

sự ưu tiên bổ sung (thậm chí không bằng các huyện), mặc dù khối lượng công việc quản lý ở đô thị nhiều và phức tạp hơn...

Do thành phố là một đô thị có xuất phát điểm thấp, một mặt làm hạn chế nguồn đầu tư từ ngân sách cho xây dựng kết cấu HTKT và các nguồn đóng góp của dân cư (do nguồn lực nội sinh trong dân cư thấp), mặt khác nó cũng làm hạn chế đáng kể đến hiệu quả khai thác, sử dụng kết cấu HTKT đã được xây dựng- nhiều công trình đường giao thông mới quy mô khá lớn (mặt cắt từ 19-27 mét), như đường Nguyễn Chí Thanh, Đào Duy Từ, Phạm Phú Thứ... nhưng mật độ người đi thấp, hiệu quả sử dụng không cao; nhiều hộ dân khu vực nội thành tự khai thác nguồn nước ngầm để sử dụng mà không có nhu cầu được cung cấp nước máy; khoảng 25% hộ dân nội thành vẫn chưa có hố xí hợp vệ sinh...gây ảnh hưởng xấu đến vệ sinh môi trường khu dân cư.

2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, các sở, ban ngành ở tỉnh chưa thể hiện trách nhiệm cao trong

việc xây dựng phát triển thành phố tỉnh lỵ, mà xem đó là nhiệm vụ của địa phương. Việc phân công, phân cấp quản lý và quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn chưa rõ ràng như: phê duyệt dự án quy hoạch chi tiết, thoả thuận địa điểm đầu tư,... thậm chí có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa ngành ở tỉnh với Thành phố; Uỷ ban nhân dân Thành phố phải gánh vác nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhưng lại ít quyền hạn để đảm đương trách nhiệm đó...

Cán bộ làm quy hoạch còn hạn chế về năng lực, thiếu “tầm nhìn xa”, trong khi chính quyền địa phương chưa huy động được đội ngũ chuyên gia đầu ngành, hay công ty nước ngoài có uy tín tham gia quy hoạch (nhất là quy hoạch chung và quy hoạch tổng thể). Việc phối hợp giữa UBND thành phố với các ngành ở tỉnh (sở Xây dựng, Ban Quản lý khu kinh tế mở Chu Lai...) trong xây dựng quy hoạch cũng như quản lý quy hoạch xây dựng thiếu chặt chẽ và có nhiều vướng mắc chậm được giải quyết. Bản thân công tác quản lý quy hoạch của thành phố còn nhiều hạn chế, đội Quy tắc đô thị- đơn vị có chức năng kiểm tra, tham mưu UBND thành phố xử lý các vi phạm về quy hoạch, xây dựng hoạt động yếu, trong khi vai trò của UBND các xã phường

71

chưa được phát huy, phân công-phân nhiệm thiếu rõ ràng. Ngoài ra, các nguyên tắc trong quá trình lập đề án quy hoạch chưa được tuân thủ nghiêm túc, nhất là việc tổ chức lấy ý kiến của cộng đồng dân cư không được thực hiện (chỉ thực hiện khâu công bố quy hoạch nhưng vẫn mang tính hình thức, chiếu lệ) ; còn xem nhẹ ý kiến đóng góp của chính quyền cơ sở, nhất là cấp xã phường.

Hai là, lãnh đạo thành phố chưa thật sự năng động trong việc huy động các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng phát triển kết cấu HTKT đô thị. Việc tranh thủ vốn ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh chưa mạnh; chưa có cơ chế thông thoáng để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là vốn ODA, FDI, NGO và các nguồn vốn khác từ bên ngoài. Trong khi đó, khả năng vốn Nhà nước còn hạn chế nhưng đầu tư dàn trải, không có mục tiêu chính, không xác định được thứ tự ưu tiên hợp lý. Không có giải pháp hữu hiệu để huy động mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong nhân dân, chưa xây dựng được hành lang pháp lý đồng bộ, thật sự thông thoáng, thuận lợi để nhân dân mạnh dạn đóng góp cùng Nhà nước đầu tư phát triển kết cấu HTKT đô thị.

Việc tổ chức thực hiện công tác đền bù giải toả để phục vụ xây dựng các công trình kết cấu HTKT thiếu nhất quán, chưa kiên quyết và đồng bộ giữa các ngành chức năng... Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nhằm tạo ra sự “đồng thuận” cao trong các cộng đồng dân cư khi tiến hành công tác này chưa được quan tâm đúng mức, vai trò của các tổ chức đảng, đoàn thể mặt trận từ Thành phố đến các xã phường chưa được phát huy. Việc thực hiện một số nội dung quan trọng như bố trí đất ở tái định cư cho các hộ dân giải toả trắng, hỗ trợ ổn định cuộc sống, giải quyết việc làm cho nhân dân hậu giải tỏa chưa được thực hiện tốt...

Thành phố chưa có phương án thực hiện “xã hội hoá” trong lĩnh vực vệ sinh môi trường; Còn xem nhẹ công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân ý thức tự giác bảo vệ, giữ gìn vệ sinh môi trường cũng như chấp hành các quy định của Nhà nước trên lĩnh vực này (đến nay toàn thành phố chưa có quyết

72

định xử phạt vi phạm hành chính nào trên lĩnh vực này). Chưa làm tốt việc điều tra về hiện trạng môi trường để có quy hoạch tổng thể, hướng xử lý, kiểm tra, giám sát để bảo vệ môi sinh môi trường một cách cơ bản.

Ba là, tổ chức bộ máy, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thành phố chưa thật sự chủ động, năng động triển khai các giải pháp tập trung vào các khâu đột phá để khai thác tiềm năng lợi thế. Năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của các cấp, các ngành từ Thành phố đến cơ sở còn có những mặt hạn chế nhất định. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, nhất là các lĩnh vực thuộc kết cấu HTKT còn nhiều hạn chế; hơn nữa trang thiết bị và các điều kiện vật chất kỹ thuật bất cập, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ quản lý phát triển kết cấu HTKT đô thị trong tình hình mới. Bộ máy tổ chức tuy được củng cố một bước nhưng vẫn còn thiếu và yếu: Chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về vệ sinh môi trường; chưa có cơ quan quản lý kiến trúc đô thị... Đội Quy tắc của Thành phố hoạt động cầm chừng, rất kém hiệu quả nhưng trong thời gian khá dài mà vẫn chưa được củng cố, kiện toàn; Ban Bồi thường-GPMT chưa đủ mạnh. Vẫn thiếu một số tổ chức cần phải có của một đô thị như công ty môi trường đô thị (trước đây thuộc thành phố nhưng hiện tại lại do Tỉnh quản lý), làm cho công tác quản lý của Thành phố gặp không ít khó khăn, nảy sinh nhiều vấn đề bất hợp lý. Các phòng ban chuyên môn ở thành phố và chính quyền cơ sở xã, phường chưa có sự phối hợp chặt chẽ; còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa thật sự năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm...đã làm cho hiệu lực quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Bốn là, mặc dù là thành phố tỉnh lỵ, nhưng nếp nghĩ, cách làm của một bộ phận cư dân đô thị vẫn còn mạng nặng tư tưởng của những người nông dân- sản xuất nhỏ, nếp sống văn minh đô thị chưa được xác lập một cách đầy

đủ. Một số không nhỏ chưa hiểu rõ tầm quan trọng của phát triển kết cấu HTKT đối với sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố, mà thông qua đó họ

73

sẽ là những người được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp. Do vậy, chưa có sự đồng thuận cao trong nhân dân trong quá trình xây dựng kết cấu HTKT, nhất là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, giữ gìn vệ sinh môi

trường...Trong khi đó, những kết quả đạt được trong công tác dân vận mới chỉ là bước đầu; Sự phối hợp giữa cấp uỷ đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng trong công tác vận động quần chúng chưa đồng bộ, các giải pháp đề ra còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp.

Năm là, trật tự kỷ cương trên lĩnh vực hành chính chưa nghiêm. Việc kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm trong quá trình xây dựng phát triển kết cấu HTKT đô thị chưa được chú trọng chỉ đạo thực hiện một cách đúng mức. Chưa kiên quyết trong việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính trong quản lý quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai, vệ sinh môi trường...Sự phối hợp giữa Thanh tra nhà nước với Thanh tra chuyên ngành, để tạo ra tính đồng bộ và hiệu quả trong công tác thanh tra kiểm tra của nhà nước chưa được chú trọng thực hiện, mà trái lại có nhiều trường hợp các cơ quan chức năng thanh tra của Nhà nước lại chồng chéo dẫn đến hiệu quả thấp hoặc gây ảnh hưởng đến quá trình quản lý đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị.

Việc tổ chức hội thảo, tổng kết rút kinh nghiệm sau khi thi công hoàn thành từng công trình, hoặc tổng kết theo những mốc thời gian định kỳ chưa được chú trong thực hiện, nếu có làm thì thường chỉ là qua loa, đại khái. Việc tranh thủ ý kiến của các chuyên gia đầu ngành trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị hầu như chưa được quan tâm.

74

75

Chương 3 MộT Số GIảI PHáP đổi mới QUảN Lý NHà NướC

Về KếT CấU Hạ tầng kỹ thuật ở THàNH PHố TAM Kỳ- TỉNH QUảNG NAM

3.1. Những định hướng lớn TRONG QUảN Lý NHà NướC Về KếT CấU hạ

tầng kỹ thuật ở THàNH PHố TAM Kỳ

3.1.1. Một số quan điểm chính trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố

Một là, trên cơ sở chiến lược phát triển KT-XH và quy hoạch chung xây dựng Thành phố Tam Kỳ đến năm 2025, việc quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT đô thị phải hướng đến mục tiêu đến 2010 Tam Kỳ đạt tiêu chí đô thị loại II và năm 2015 trở thành thành phố loại I.

Thành phố Tam Kỳ phải “phát triển bền vững”, vừa tập trung cho phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giải quyết các vấn đề xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của địa phương. Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo chỉnh trang với xây dựng mới, từng bước mở rộng quy mô đô thị, cải thiện đời sống của người dân.

Hai là, quản lý nhà nước về kết cấu HTKT phải gắn chặt với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Kết cấu HTKT thành phố Tam Kỳ không chỉ phục vụ phát triển “tại chỗ” mà còn thúc đẩy phát triển các vùng trong tỉnh, “kết nối” với các đô thị khác trong khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung.

Ba là, quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị ở Thành phố Tam Kỳ phải tuân thủ đầy đủ và triệt để các nguyên tắc, quy tắc về quản lý đô thị, đảm bảo tính khoa học và hiện đại, kỹ thuật và mỹ thuật, chất lượng và hiệu quả, phù hợp giữa trước mắt và lâu dài...đáp ứng yêu cầu phát triển của một đô thị Tỉnh lỵ với những đặc thù riêng. Phát triển kết cấu HTKT phải có sự kết hợp hài hoà với những nét văn hoá truyền thống, bảo tồn được những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của địa phương.

76

3.1.2. Về định hướng không gian và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

3.1.2.1. Định hướng không gian phát triển đô thị Giai đoạn từ nay đến 2010: xây dựng hoàn chỉnh khu vực nội thị hiện

có (rộng 3.200ha). Tập trung mở rộng đô thị về hướng Đông theo quy hoạch tổng thể (rộng 6.000ha) hình thành khu đô thị mới Tam Phú, bao gồm cả trung tâm hành chính mới của thành phố và khu kinh tế mở Chu Lai, nối khu đô thị hiện có với khu du lịch ven bờ biển Tam Thanh. Về phía Tây, chỉ phát triển đô thị phía dưới đường sắt Bắc-Nam; phía trên đường sắt hình thành hai khu vực chủ yếu là làng du lịch sinh thái Tam Ngọc và vệt công nghiệp Trường Xuân-Thuận Yên.

Giai đoạn từ 2010 đến 2025: Nghiên cứu mở rộng đô thị về phía Nam, theo hướng sáp nhập Thành phố Tam Kỳ hiện tại và một phần của huyện Núi Thành nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai, hình thành một thành phố lọai I tại khu vực ven biển miền Trung.

Về quy hoạch chung xây dựng đô thị: Bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội thành phố đến năm 2025, hoàn chỉnh đồ án quy hoạch chung đến 2025 theo định hướng phát triển nêu trên. Sớm hoàn thành quy hoạch chi tiết khớp nối toàn bộ khu vực nội thị, triển khai quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Tam Phú và khu vực vùng Đông Tam Kỳ. Thực hiện quy hoạch ngành, nhất là quy hoạch hệ thống giao thông, cấp-thóat nước; quy hoạch các trung tâm hành chính xã phường, quy hoạch các khu dân cư mới... Đảm bảo quy hoạch phải đi trước một bước, làm nền tản cho cho việc xây dựng kết cấu HTKT và phát triển kinh tế- xã hội thành phố Tam Kỳ.

3.1.2.3. Về quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật a) Quy hoạch giao thông: Đường bộ: đối với các tuyến giao thông đối ngoại, hoàn chỉnh đường

Nguyễn Hoàng (đường tránh QL1A). Xúc tiến quy hoạch xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng-Dung Quất cách đường sắt 1.500m về phía Tây; đường Nam Quảng Nam; đường Thanh Niên Ven biển từ Đà Nẵng đến Quy Nhơn.

77

Giao thông đối nội: quy hoạch hệ thống đường dạng ô bàn cờ kết hợp đường vành đai và hướng tâm, được gắn với hệ giao thông đối ngoại, phát triển đến các khu đô thị mới: đường Trục chính phía Bắc Khu kinh tế mở, Đường ĐT 615, 616 mở rộng; đường Điện Biên Phủ từ nhà Ga mới đến bãi biển Tam Thanh. Quy hoạch các trục dọc nối các khu chức năng bao gồm: hai tuyến đường Bạch Đằng dọc sông Bàn Thạch, đường An Hà - Quảng Phú. Đường cảnh quan cây xanh nối các khu ở, khu công viên cây xanh, khu giáo dục, mặt cắt 200m.

Quy hoạch 06 ha bố trí bến bãi đỗ xe công cộng (cho khoảng 3.000 xe). Mở rộng bến xe liên tỉnh có vị trí tại phía Bắc Thành phố, diện tích 5,0 ha. Quy hoạch xây dựng mới bến xe nội thị trí tại khu vực gần nút giao thông đường Tôn Đức Thắng- Nguyễn Hoàng, phường An Sơn. Hình thành 100km hành trình xe buýt 8 tuyến phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân thành phố.

Đường sắt: tuyến đường sắt thống nhất chạy qua Thành phố, trong tương lai sẽ cải tạo thành tuyến đường tàu chạy nhanh. Xây dựng mới nhà ga xe lửa mới theo quy hoạch (cách đều thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội 863km), hình thành nhà ga du lịch tại điểm giữa đất nước, là điểm dừng của du khách đến với Quảng Nam và khu vực miền Trung.

Đường thuỷ: trên địa phận Tam Kỳ có sông Tam Kỳ, Sông Bàn Thạch và sông Kỳ Phú, và Trường Giang cần quy hoạch gắn kết với cửa Đại Hội An và cảng biển Kỳ Hà để phục vụ du lịch kết hợp giao thông thuỷ. Đây là lợi thế cần phát huy, góp phần phát triển kinh tế của thành phố Tam Kỳ.

Đường hàng không: Thành phố Tam Kỳ cách sân bay Chu Lai 30km (được quy hoạch là sân bay hành khách và trung chuyển hàng hoá lớn của của vực Đông Nam á, là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển thành phố Tam Kỳ về nhiều mặt, cùng với sân bay Đà Nẵng hiện nay là điều kiện rất quan trọng để Tam Kỳ mở rộng quan hệ với các nước trong Khu vực và quốc tế tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển kinh tế- xã hội.

b) Quy hoạch thoát nước: Thành phố cần sớm triển khai xây dựng quy hoạch thoát nước đô thị.

78

Trong đó cần thể hiện rõ toàn bộ hệ thống cống chung, cao trình, hướng thoát nước chính; quy hoạch các hồ điều hoà kết hợp công viên cảnh quan (tối thiểu 4 hồ). Đặc biệt lưu ý giải pháp thoát nước vào mùa mưa và khi triều cường (do đặc điểm tự nhiên nêu ở phần trên), như hệ thống đê ngăn lũ, các cửa van đóng mở tự động tại các kênh xả chính….

c) Quy hoạch cấp nước: Đảm bảo tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt đến 2010 là 150lít/người/ngày

đêm, năm 2015 đạt 170lít/người/ngày đêm, cấp cho >95% dân. Đảm bảo cung cấp đủ nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, kinh doanh dịch vụ và nước công cộng... với tổng nhu cầu dùng nước là 54.000m3/ngày đêm vào 2025, thông qua việc mở rộng, cải tạo Nhà máy nước Tam Kỳ.

Nguồn nước: có thể sử dụng nguồn nước ngầm, nước mặt của các sông Trường Giang, sông Tam Kỳ, Sông Bàn Thạch. Nhưng nguồn chính là hồ Phú Ninh, có dung tích lớn, chất lượng nước tốt, đủ cung cấp cho Thành phố trong hiện tại và lâu dài.

d) Quy hoạch cấp điện: Theo quy hoạch cấp điện Quảng Nam do Viện năng lượng Việt Nam lập

tháng 4/1999: chỉ tiêu cấp điện sinh hoạt khu vực nội thị đến 2010 là 700 KWh/người/năm (đến 2025 là 850 KWh/người/năm). Cấp điện cho dịch vụ công cộng, thương mại theo tiêu chuẩn quy hoạch: giai đoạn 2010 là 0,04KW/người; cấp điện cho công nghiệp tập trung được tính từ 0,3 đến 0,45MW/ha

Phương hướng cấp điện: Trong tương lai tiếp tục cải tạo trạm biến áp nguồn 110KV Tam Kỳ, xây dựng mới một trạm 220/110KV công suất trạm 1x25MVA vào năm 2008, để đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn điện phục vụ cho sản xuất và điện sinh hoạt ngày càng tăng của Thành phố. Trước mắt, cần tập trung nâng cấp chất lượng nguồn điện tại một số khu vực chất lượng điện kém như khu Thuận Trà, Đông Yên- phường Hoà Thuận, Đoan Trai, Phương Hoà- phường Tân Thạnh…giải quyết dứt điểm các khu vực còn lõm điện tại Tam Thăng, Tam Phú, Hoà Hương trong năm 2007.

Mạng lưới đường dây cấp điện của thành phố hiện tại cần phải cải tạo,

79

nâng cấp nhằm đảm bảo yêu cầu an toàn và chất lượng điện. Về lâu dài cần phải thiết kế đi ngầm đi ngầm theo đúng mạng đường quy hoạch để đảm bảo mỹ quan đô thị .

e) Quy hoạch thoát nước - vệ sinh môi trường:

Quy hoạch định hướng thoát nước bẩn: Chọn hệ thống cống riêng để

thoát nước bẩn sinh hoạt. Xây dựng 09 trạm bơm, 03 trạm xử lý nước thải

công suất 5000m3 10000m3/ngày. Nước thải bệnh viện, các khu công

nghiệp tập trung phải xây dựng trạm xử lý riêng theo đúng tiêu chuẩn quy

định mới được xả vào hệ thống thóat chung.

Vệ sinh môi trường: Với khối lượng chất thải rắn dự báo khoảng

120tấn/ngày vào năm 2010; Ngoài việc thực hiện xử lý chất thải rắn tại

các bãi rác hiện tại, bắt đầu từ năm 2007 thành phố triển khai thực hiện dự

án cải thiện môi trường đô thị Tam Kỳ (tổng vốn 15,4 triệu USD), phấn

đấu đưa nâng năng lực thu rác thải đạt 95% vào năm 2010. Triển khai

xây dựng bãi xử lý rác thải mới và nhà máy chế biến rác thải thành phân

bón (3,3 triệu USD), đưa vào sử dụng trước năm 2009.

Quy hoạch hợp lý các khu công viên cây xanh: Khu vực An Hà (20 ha),

Công viên ven sông Thành phố(20ha), Công viên sinh thái Đoan Trai (200ha),

Công viên hồ Sông Đầm (200ha); Công viên An Thổ, công viên An Mỹ,

Quảng trường Điện Biên Phủ. Nghiên cứu hình thành rừng cây xanh với quy

mô hợp lý trong đô thị. Chỉnh trang, nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống cây xanh

các tuyến đường nội thành...

Khẩn trương đầu tư xây dựng 3,6 km đường Bạch Đằng phòng chống

ngập lụt; hệ thống công thóat nước từ cấp 1 đến cấp 3, đặc biệt xây dựng 03

hồ điều hoà với tổng diện tích 18 ha, 02 cửa van đóng mở tại các kênh xả để

hạn chế ngập úng cho khu vực nội thành (từ nguồn 15,4 triệu USD).

Tại đồ án quy hoạch chung Thành phố Tam Kỳ đến năm 2025 đã đưa

80

ra các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Thành phố như sau [43].:

81

Biểu 3.1: Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu trong quy hoạch đô thị

TT Tên các chỉ tiêu Đơn vị tính

Hiện trạng 2005

Quy hoạch 2010 2025

I Dân số và lao động 1 Dân số toàn thành phố người 123.662 149.000 262.300 2 Dân số nội thành người 95.889 117.800 227.800 3 Mật độ cư trú nội thành người/ha 45,2 55,5 107,3 4 Tỷ lệ tăng dân số nội thành % 8,50 4,83 4,52 . Trong đó: Tỷ lệ tăng cơ học % 6,70 3,23 3,48 5 Dân số trong tuổi LĐ(nội thành) người 62.175 75.680 109.680 II Chỉ tiêu kinh tế- xã hội 1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế b/quân %/năm 15,75 16 16 2 Tổng sản phẩm trên địa bàn Tr.đồng 636.482 738.319 856.450 3 GDB bình quân đầu người USD 702 1.300 - 4 Thu ngân sách trên địa bàn/năm Tr.đồng 219.227 350.000 -

III Diện tích đất khu vực quy hoạch ha 9.263,6 9.263,6 9.263,6 IV Nhu cầu đất XD đô thị(1+2) ha 1.658,0 2.424,8 3.819,5 1 Đất các khu vực dân dụng ha 1.416,4 2.003,7 3.130,9

1.1 Đất các đơn vị ở ha 1.157,7 1.392,0 2.010,8 1.2 Đất giao thông ha 101,3 235,6 501,2 1.3 Đất cây xanh- TDTT ha 15,3 82,5 205,0 1.4 Đất công trình công cộng ha 43,2 58,9 113,9 2 Đất ngoài dân dụng ha 241,6 421,1 688,6

2.1 Công nghiệp - TTCN ha 95,5 250,0 490,0 2.2 Đất giao thông đối ngoại ha 76,1 81,1 108,6 2.3 Đất an ninh quốc phòng ha 60 70 70 2.4 Đất nghĩa địa ha 10 20 20 V Hạ tầng kỹ thuật 1 Tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt L/ng,ng,đ 85 120 170 2 Tỷ lệ dân được cấp nước % 55 75 90 3 Tiêu chuẩn cấp điện KWh/ng/năm 520 700 850 4 Tiêu chuẩn nước thải L/ng,ngày 120 150 5 Lượng rác thải bình quân Kg/ng.ng 0,6 0,8 1 6 Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom % 68 95 99 7 Giao thông đô thị -

7.1 Mật độ đường chính rải nhựa km/km2 5,8 6,3 7,5 7.2 Diện tích đất giao thông ha 123,06 254,403 525,61 8 Mật độ đường ống thoát nước chính km/km2 5,8 7,5 8-9

82

9 Tỷ lệ nước bẩn được thu gom, xlý % 60 65 80

3.2. Một số giải pháp cơ bản

3.2.1 Đổi mới công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

3.2.1.1. Đổi mới về tư duy Thành phố Tam Kỳ nằm trong một khu vực đầy tiềm năng phát triển,

chịu tác động của các vùng công nghiệp từ Liên Chiểu đến Kỳ Hà- Chu Lai- Dung Quất, song cũng chỉ là các tác động gián tiếp. Vị trí Tam Kỳ gần như ở trung điểm của hai cực phát triển (Phía Bắc là thành phố Đà Nẵng, Chân Mây; phía Nam là Kỳ Hà, Chu Lai- Dung Quất) nhưng lợi thế so sánh của Tam Kỳ về phát triển công nghiệp quy mô lớn kém hơn phát triển TMDV, nhất là dịch vụ du lịch. Do vậy, ý tưởng xây dựng Tam Kỳ trở thành một đô thị công nghiệp hiện đại, có quy mô hoành tráng như một số đô thị trung tâm khác là điều quá xa rời thực tế. Vì vậy, cần có một tư duy mới trong quy hoạch phát triển Tam Kỳ theo hướng đô thị sinh thái, phục vụ dịch vụ du lịch là chủ yếu.

Phát triển đô thị sinh thái mang nét độc đáo riêng của Thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam được tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam đề cập cùng với khái niệm “phố làng”:

... Đô thị hóa là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển, cần phải được thúc đẩy nhưng đồng thời phải quản lý, điều chỉnh quá trình ấy, hạn chế những sai lầm. Phải có sự thay đổi một cách căn bản về tư duy: Đô thị không khác biệt, không đối lập, không phủ định làng quê mà ngược lại là sự kế thừa và phát triển làng quê, trên cái nền của văn hóa làng. Với suy nghĩ như vậy đi đến một khái niệm mới là phố làng. Chủ thể mới là phố, nhưng phố ở đây phải giữ cái cốt lõi của làng. Muốn vậy phải kế thừa không gian sống và tình người của làng, giữ gìn và nhân lên trong phố. Phải tiếp thu phần dịch vụ, tiện nghi văn minh và tự do cá nhân của phố để đưa vào làng, hoàn thiện làng, nâng làng lên. Làng và phố không phải là A và B nữa, không phải B thay thế cho A trong quá trình đô thị hóa nữa. Từ làng đến phố

83

phải là một quá trình hoàn thiện về văn hóa vật thể và phi vật thể. Từ tư duy đó, cần phải có khái niệm mới về đô thị, định nghĩa lại, khác với định nghĩa lâu nay về không gian kiến trúc... [31, tr.1].

Để thực hiện tốt quy hoạch đô thị theo kiểu “phố làng”, việc đầu tiên là Thành phố phải tiến hành rà xét lại toàn bộ quy hoạch về phát triển kết cấu HTKT hiện có, tìm ra những điểm chưa hợp lý, không mang tính khả thi, từ đó bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp. Tư duy này phải được thể hiện xuyên suốt trong công tác quản lý nhà nước về kết cấu HTKT thành phố Tam Kỳ, kể từ khâu quy hoạch đến đầu tư xây dựng và quản lý vận hành.

Theo đó, trong đồ án quy hoạch chi tiết đối với từng khu vực đô thị, các khu dân cư và từng công trình kết cấu HTKT cần phải dành tỷ lệ lớn so với quy chuẩn xây dựng nhằm dành đất cho cây xanh, đất xây dựng các công trình công cộng (như khu vui chơi cho trẻ em, công viên cây xanh mini, nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, sân thể thao...), đất thông thóang và quỹ đất dự trữ cho phát triển. Tuyệt đối tránh tình trạng các nhà đầu tư chỉ muốn tạo ra càng nhiều đất khai thác càng tốt, chạy theo xu hướng chia lô bán nền, làm cho mật độ xây dựng gia tăng, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan và mỹ quan đô thị. Các công trình xây dựng phải có sự phân bố hài hòa, hợp khối kiến trúc-cảnh quan, tôn trọng và phát huy các yếu tố tự nhiên (đồi núi, sông, hồ, đồng ruộng...), thậm chí có những khu vực quy hoạch cần giữ nguyên hiện trạng. Các công trình cộng cộng như đường giao thông, công viên, quảng trường... cần quy hoạch đủ lớn cho nhu cầu sử dụng trong tương lai (khi đầu tư xây dựng sẽ phân kỳ hợp lý, đảm bảo hiệu suất sử dụng trong từng giai đoạn). Trong quá trình quy hoạch và phê duyệt quy hoạch UBND tỉnh và thành phố cần đặc biệt lưu ý vấn đề đảm bảo quốc phòng an ninh; trong đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị phải lưu ý bố trí các công trình lưỡng dụng, thời bình phục vụ dân sinh nhưng thời chiến có thể sử dụng như một công trình quốc phòng; đảm bảo các yếu tố xây dựng khu vực phòng thủ dân sự vững chắc..

3.2.1.2. Đổi mới về phương pháp Từ trước đến nay, toàn bộ các đồ án quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT

84

của Thành phố Tam Kỳ đều do một nhóm các chuyên gia quy hoạch của đơn vị tư vấn và các ngành chức năng của Thành phố thực hiện, sau khi hoàn chỉnh, được phê duyệt mới công bố cho nhân dân biết, thiếu sự tham gia của cộng đồng ngay từ giai đoạn đầu, làm cho quy hoạch bị cứng nhắc, thiếu tính thực tiễn... Do vậy cần đổi mới theo quan điểm “một đồ án quy hoạch tốt nhất phải thể hiện được nguyện vọng của người dân, đáp ứng được những nhu cầu mà người dân cho là cần thiết đối với họ”. Cách tốt nhất để có được điều đó là đảm bảo sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch.

Đây hoàn toàn không phải là cách làm đơn giản, vì nó là sự thay đổi về tư duy và phương pháp làm quy hoạch truyền thống lâu nay vẫn đang được áp dụng ở hầu hết các đô thị Việt Nam. Trong quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng, chính quyền Thành phố đóng vai trò là người tạo điều kiện và cho phép cộng đồng tham gia làm quy hoạch; còn các nhà quy hoạch và cơ quan chuyên môn đóng vai trò là người hỗ trợ, tuyên truyền, cung cấp thông tin và hợp tác cùng với cộng đồng thực hiện quy hoạch. Để phương pháp này phát huy hiệu quả và có thực chất, Nhà nước phải thật sự coi trọng vai trò của cộng đồng, khuyến khích họ tham gia quy hoạch ngay từ giai đoạn đầu tiên thông qua quy trình thực hiện “Quy chế dân chủ cơ sở", áp dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và phải được thể chế hóa bằng các quy định của chính quyền địa phương.

Quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng bao hàm cả sự tham gia của các cá nhân tâm huyết ngoài vùng dự án, các chuyên gia quy hoạch (trong và ngoài nước), các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội quy hoạch, kiến trúc sư, các doanh nghiệp... Do vậy, chính quyền Thành phố cần có chính sách tạo điều kiện, khuyến khích họ tham gia đóng góp quy hoạch xây dựng địa phương. Trước hết, UBND thành phố chủ động hình thành một tổ chức tư vấn về quy hoạch-kiến trúc, trên cơ sở mời các cá nhân tâm huyết, có chuyên môn sâu, kiến thức rộng về lĩnh vực này tham gia. Các đồ án quy hoạch, kiến trúc đô thị trên địa bàn Thành phố đều có sự tham gia đóng góp ý kiến của tổ chức này theo hình thức tư vấn, cung cấp thông tin giúp chính quyền địa phương

85

quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển đô thị theo thẩm quyền.

Hiện nay, trong quy hoạch mới chỉ tập trung đề cập đến nội dung của quy hoạch vùng, quy hoạch chung và chi tiết. Nay cần nghiên cứu bổ sung phương pháp tiếp cận tổng thể mới trong quy hoạch kết cấu HTKT theo “ma trận ảo bốn chiều”, bao gồm: chiều “thời gian quy hoạch”, chiều “quy mô quy hoạch”, chiều “mức độ chi tiết của quy hoạch” và chiều “các hệ thống hạ tầng riêng biệt”. Mục đích nhằm làm cho hệ thống kết cấu HTKT đô thị đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả cao, có khả năng thích ứng linh hoạt với các yêu cầu của hệ thống kinh tế- xã hội (xem bài viết “tiếp cập tổng thể trong quy hoạch các hệ thống cơ sở hạ tầng của PGS Bùi Trọng Cầu, trang 28,29) [9]. Trong quy hoạch phải tuân thủ nguyên tắc từ chiến lược tổng thể tới chung và chi tiết; từ quốc gia, vùng tới thành phố, khu và tiểu khu; từ dài hạn và tập trung tới ngắn hạn và tác nghiệp. Phần quy hoạch ngắn hạn (3-5 năm) phải xuất phát từ những đòi hỏi bức xúc của đô thị, từ đó xác định quy mô, số lượng các công trình kết cấu HTKT phù hợp, đồng thời sắp xếp thứ tự ưu tiên, thời gian cụ thể triển khai thực hiện, tránh quy hoạch treo.

Về mặt thực tiễn, để quản lý tốt quy hoạch thì toàn bộ hệ thống đường sá phải được định vị, cắm mốc lộ giới, xác định rõ cao độ nền các khu đất xây dựng kèm theo định vị các mạng mục công trình kết cấu HTKT và nhất thiết phải được bàn giao cho một đơn vị hoặc địa phương chịu trách nhiệm quản lý, tổ chức thực hiện. Việc công khai quy hoạch cần thực chất và đi vào chiều sâu, tránh cách làm tuỳ tiện, mang tính hình thức như hiện nay.

Trong quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT thành phố Tam Kỳ, phải từng bước thực hiện thiết kế đô thị, xác định quy mô và hình thức hợp khối kiến trúc cho từng công trình kết cấu HTKT đô thị, nhất là các công trình trọng điểm (điểm nhấn đô thị), các khu trung tâm và các trục phố chính. Đây chính là chiếc cầu nối giữa kiến trúc sư quy hoạch và kiến trúc sư công trình

trong sáng tạo kiến trúc và cũng là một trong những cơ sở để xây dựng các quy định về quản lý đô thị cho toàn Thành phố và từng khu vực trong đô thị.

86

Chú trọng công tác đánh giá tác động môi trường, xác định rõ những không gian đô thị cần được bảo vệ, tôn tạo.

Để các đề án quy hoạch đảm bảo tính pháp lý và tính khả thi cao, đòi

hỏi quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch phải chấp hành

nghiêm túc các quy định của nhà nước trên lĩnh vực này, nhất là Luật Đất đai,

Luật Xây dựng năm 2003, Nghị định 08/2005/NĐ-CP ngày 24/01/2005 của

Chính phủ về quy hoạch xây dựng; Thông Tư số 15/2005/TT-BXD ngày

19/8/2005 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch

xây dựng... Đặc biệt, trong quá trình thực hiện cần có sự tham gia đầy đủ và

ngay từ đầu của các sở ngành chức năng liên quan ở tỉnh như Sở Công

nghiệp, Điện lực (liên quan đến cấp điện), sở Bưu chính viễn thông, Bưu điện,

đài PTTH (liên quan đến hệ thống thông tin liên lạc, cáp quang), sở Giao

thông vận tải, sở Xây dựng (liên quan đến đường giao thông, thóat

nước)...nhằm đảm bảo tính khoa học, đồng bộ trong quy hoạch và quản lý quy

hoạch kết cấu HTKT đô thị.

3.2.2. Đổi mới chính sách huy động vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng kỹ thuật đô thị 3.2.2.1. Xác định nhu cầu đầu tư Theo mục tiêu phát triển kết cấu HTKT của thành phố giai đoạn

2005-2010, cần phải tổng hợp nhu cầu đầu tư ở các lĩnh vực cụ thể rồi cân

đối nguồn vốn và có kế hoạch huy động vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu đề ra.

Nhu cầu đầu tư được tổng hợp từ các dự án định hướng theo quy hoạch và

các dự án cụ thể do các cấp kế hoạch báo cáo, trên cơ sở tổng hợp này xác

định phần nhu cầu đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước các cấp, phần còn

lại sẽ tính toán huy động từ những nguồn đầu tư khác. Do vậy việc xác

định chính xác nhu cầu vốn đầu tư và khả năng chủ động nguồn vốn của

Thành phố có ý nghĩa hết sức quan trọng, cần phải thực hiện đảm bảo tính

khoa học và thực tiễn cao.

87

Tổng nhu cầu vốn đầu tư kết cấu HTKT của Thành phố Tam Kỳ giai

đoạn 2005-2010 dự kiến khoảng 5.619 tỷ đồng, được huy động từ các nguồn

vốn như sau (biểu 3.2):

Biểu 3.2: Nhu cầu vốn đầu tư Đơn vị tính: tỷ đồng

Dự kiến nguồn vốn

Tổng nhu cầu vốn

Luỹ kế CP đến 31/12/

05

Phân kỳ đầu tư theo năm Ghi chú 2006 2007 2008 2009 2010

Tổng cộng 5.619 409 748,3 1.050,6 1.205 1.163,1 1.043 100%

Nguồn kinh tế mở 1.906,6 122 186 323,6 412 438 425 33,9%

Nguồn vay và vốn viện trợ (WB, ADB) 900,7 85 119,7 159 198 205 134 16% Nguồn ngân sách nhà nước 791 84 90 134 143 170 170 14,1%

N.sách tập trung theo kế hoạch 97 10 10 15 20 21 2. 1,7% Chương trình mục tiêu QG và theo QĐ của Chính phủ 306 16 25 64 58 69 74 5,4% NS tỉnh, TW chủ đầu tư các công trình trên địa bàn 223 43 35 30 35 40 40 4,0% Nguồn KTTC (Nguồn GTNT tính 60% tỉnh & thị) 165 15 20 25 30 40 35 2,9% Nguồn khai thác quỹ đất trên địa bàn 1.195 96 191 218 240 225 225 21,3% KTQĐ của thành phố (tính 2% cho DA nông nghiệp) 642 85 86 106 115 125 125 11,4% KTQĐ của dự án (Công trình có PATC riêng) 553 11 105 112 125 100 100 9,8%

Nguồn doanh nghiệp 663,1 10 146 191 177 85,1 54 11,8%

Nguồn nhân dân đóng góp 162.6 12. 15,6 25 35 40 35 2,9%

Nguồn: ủy ban nhân dân thành phố Tam Kỳ.

3.2.2.2. Đổi mới chính sách huy động vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị Như ở phần trên đã phân tích, để phát triển kết cấu HTKT thành phố

Tam Kỳ trong giai đoạn 2005-2010 cũng như trong giai đoạn sau năm 2010 việc huy động thành công các nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, để huy động được các nguồn vốn khác nhau đầu tư vào các lĩnh vực

88

HTKT cần phải có một loạt những hình thức cụ thể vừa đủ mức tin cậy về mặt pháp lý vừa đủ mức khuyến khích về mặt kinh tế. Trong giai đoạn 2006-2010 Thành phố cần áp dụng những hình thức sau đây để huy động vốn đầu tư HTKT đô thị:

a) Đối với nguồn ngân sách Nhà nước Tích cực, chủ động làm việc với tỉnh để bổ sung vốn đầu tư từ ngân

sách tỉnh và thành phố theo phân cấp: - Nguồn ngân sách tập trung: nhu cầu vốn giai đoạn 2006-2010 cần

khoảng 97 tỷ đồng, với mức bố trí như hiện nay là 10 tỷ/năm thì nguồn này còn thiếu khoảng 47 tỷ. Vậy mỗi năm cần đề nghị Tỉnh bổ sung thêm 9,4 tỷ đồng từ ngân sách tập trung cho Tam Kỳ nhằm đảm bảo nhiệm vụ chi.

- Nguồn kiến thiết thị chính: nhu cầu vốn giai đoạn 2006-2010 cần khoảng 165 tỷ đồng. Nếu bố trí như hiện nay khoảng 15 tỷ/năm, thì thiếu khoảng: 89 tỷ. Vậy mỗi năm đề nghị Tỉnh bổ sung thêm 17,8 tỷ đồng.

Vậy tổng kinh phí từ ngân sách cấp trên cần phải đầu tư thêm cho thành phố trong giai đoạn 2006-2010 để bổ sung cho các nguồn ngân sách tập trung và kiến thiết thị chính khoảng 136 tỷ (Chưa kể các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và theo quyết định của Chính phủ). Nguồn tăng chi này đề nghị bổ sung từ nguồn cho Thành phố được hưởng 100% các khoản: tăng thu so với dự toán của các khoản thu trên địa bàn thành phố phần Ngân sách tỉnh được hưởng (theo hướng giao trọn gói nhiệm vụ thu trên cơ sở nhiệm vụ chi theo phân cấp, chứ không thực hiện điều tiết tỷ lệ giữa tỉnh và thành phố đối với từng khoản thu như hiện nay); tiền thuê và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước; các khoản thu thuế công nghiệp ngoài quốc doanh trong các khu, cụm công nghiệp do thành phố quản lý...Với cơ chế đề này, chắc chắn UBND thành phố sẽ có đủ nguồn để bổ sung cho đầu tư kết cấu HTKT theo quy hoạch.

Tích cực cùng với tỉnh tranh thủ vốn hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương để đầu tư một số công trình hạ tầng quan trọng, dự kiến nguồn khoảng 223 tỷ đồng, nguồn chương trình mục tiêu và quyết định Chính phủ 306 tỷ

89

đồng. Đồng thời xúc tiến các công trình thuộc dự án khu kinh tế mở 1906,6 tỷ đồng. Đây là nguồn vốn có tính khả thi cao từ các dự án trực thuộc Ban quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai làm chủ đầu tư, nếu thực hiện tốt sẽ phát triển mạnh kinh tế -xã hội, kết cấu HTKT vùng Đông đúng theo quy hoạch chung của thành phố. Đối với thành phố Tam Kỳ cần tập trung công tác phối hợp tốt với các chủ đầu tư trong việc bồi thường - giải phóng mặt bằng, quản lý qui hoạch, phối hợp với chủ đầu tư trong việc xin cơ chế, tìm nguồn đề đẩy nhanh tiến độ phê duyệt, giải ngân và đầu tư các dự án trên.

b) Huy động nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Nguồn ODA: Thành phố Tam Kỳ đã và đang sử dụng nguồn vốn ODA của nước ngoài đầu tư cho lĩnh vực HTKT như dự án cấp nước sạch của Phần Lan, thóat nước và vệ sinh môi trường của ADB, xử lý chất thải rắn của Tây Ban Nha, cải tạo và nâng cấp hệ thống điện OPEC...Tuy nhiên, như nêu ở trên trong giai đoạn 2006-2010 khả năng huy động nguồn vốn đầu tư ODA sẽ rất lớn, vượt cả qui mô đầu tư từ ngân sách nhà nước (vượt 13,87%), do đó các cơ quan tài chính- kế hoạch của thành phố cần phải hết sức chú ý đến nguồn vốn này đảm bảo huy động được đủ lượng vốn theo kế hoạch đề ra và sử dụng có hiệu quả, đúng tiến độ.

Nguồn vốn ODA thường tài trợ cho một số mục đích nhất định trong đó ưu tiên cho phát triển kết cấu hạ tầng nói chung và HTKT nói riêng. Như vậy, việc định hướng nhiều dự án phát triển HTKT đô thị Tam Kỳ từ nguồn ODA là hợp với thực tiễn đổi mới quản lý kinh tế hiện nay ở nước ta và quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới và khu vực.

Các dự án ODA đều phải được ký kết qua chính phủ Việt Nam nên qui trình soạn thảo và thực hiện một dự án ODA hết sức chặt chẽ đòi hỏi các cấp đầu tư phải tuân thủ nghiêm ngặt, theo đúng quy định của Chính phủ tại Nghị định 87/CP ngày 05/8/1997 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý, sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (hiện nay đã được thay thế bởi Nghị định 131/NĐ-CP ngày 09/11/2006), đồng thời thực hiện đúng quy trình và thủ tục

90

rút vốn ODA được Bộ Tài chính hướng dẫn tại Quyết định số 96/2000/QĐ-BTC ngày 12/6/2000. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA trên địa bàn Thành phố Tam Kỳ cần chú ý những điểm sau đây:

Thứ nhất, các dự án ODA đều đòi hỏi phần vốn đối ứng (chiếm khoảng 20-30% tổng vốn đầu tư cho các dự án). Việc bảo đảm cân đối nguồn vốn đối ứng là rất quan trọng, theo kinh nghiệm thực hiện các dự án ODA, phần vốn đối ứng mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư nhưng lại rất lớn so với nguồn lực tài chính của địa phương, hơn nữa có vai trò quyết định đến tiến độ đầu tư và tiến độ giải ngân. Để giải quyết tốt vấn đề này, một mặt UBND thành phố phải chủ động bố trí trong kế hoạch ngân sách hàng năm theo phân cấp, mặt khác chủ động, tích cực làm việc với tỉnh và TW để được hỗ trợ (phấn đấu tối thiểu đạt 50% tổng vốn đối ứng)

Thứ hai, vấn đề giải ngân vốn ODA là hết sức quan trọng. Trong thực tế đây là khâu đang gặp rất nhiều khó khăn; theo vụ Kinh tế quốc dân- bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 10/5/2007, nguồn vốn ODA toàn quốc đạt khoảng 1,216 tỷ USD (trong đó vốn vay 1,195 tỷ, vốn viện trợ không hoàn lại 21 triệu USD), tuy nhiên giải ngân mới đạt 709 triệu USD bằng 37% kế hoạch năm. Nguyên nhân chủ yếu là do quá trình chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án ODA quá dài và tốn kém; quá trình khởi động và thực hiện dự án rất chậm. Năng lực quản lý dự án, khung pháp lý về đầu tư công chưa đồng bộ, sự lúng túng của cơ quan chủ quản...

Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân thực hiện đầu tư xây dựng các dự án đã và đang được tài trợ, tạo niềm tin đối với nhà tài trợ, tạo điều kiện thuận lợi để tranh thủ các dự án ODA tiếp theo. UBND thành phố phải tính toán tiến độ, tăng cường phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan sao cho tiến độ giải ngân được thực hiện đúng kế hoạch đề ra, nâng cao năng lực quản lý dự án.

Thứ ba, các dự án ODA thường kèm theo một số điều kiện về mặt tổ chức đầu tư (điều kiện về cung ứng thiết bị, công nghệ, thuê chuyên gia, đấu thầu...). Do vậy, ngay từ khâu vận động đầu tư, xây dựng dự án, thẩm định và

91

phê duyệt đến đàm phán điều ước quốc tế, tổ chức thực hiện UBND thành phố cần chú ý đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của dự án, tránh tình trạng bị ép buộc từ phía nước tài trợ.

Thứ tư, các dự án ODA có thời gian thực hiện và trả vốn vay dài, điều kiện vay khá ưu đãi nên trong quá trình xây dựng và thực hiện dự án cơ quan chủ dự án và cơ quan thực hiện dự án không để ý hoặc không tính toán hết khía cạnh hiệu quả kinh tế -xã hội của dự án, phương án trả nợ vốn vay. Điều này đòi hỏi các cấp, các ngành khi xây dựng, phê duyệt và thực hiện dự án ODA phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ kiến thức đủ khả năng xây dựng và thực hiện dự án ODA có hiệu quả thực sự.

Nguồn FDI: Đây là nguồn đầu tư quan trọng cho phát triển kinh tế- xã hội mà chưa thực sự được khai thác hết tiềm năng. Vì vậy trong thời gian đến tỉnh và thành phố cần có các chính sách cụ thể để thu hút đầu tư đó là: tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thông thoáng để kêu gọi các dự án FDI trên địa đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp, thương mại dịch vụ và khu đô thị mới của Thành phố. Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đưa hình ảnh của Thành phố Tam Kỳ với người nước ngoài, tạo trang web trên mạng Internet. Đặc biệt, Tỉnh và Thành phố phải đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính, giải quyết nhanh gọn thủ tục cho nhà đầu tư, nhất là về cấp phép đầu tư, thu hồi đất giao đất, cho thuê đất, đẩy nhanh tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư, đồng thời tạo lập các điều kiện cần thiết như đào tạo nghề, chuẩn bị nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng đồng bộ và sự ổn định về trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, trên cơ sở quy định pháp luật hiện hành, UBND Tỉnh cần quan tâm vận dụng, tạo điều kiện tối đa về mặt pháp lý ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khi đến đầu tư trên địa bàn Thành phố...

Phấn đấu huy động nguồn kinh phí này đạt 10% (khoảng trên 561 tỷ đồng) trong tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng đô thị giai đoạn 2006-2010, để đầu tư CSHT cho các khu công nghiệp, dịch vụ- dân cư, khu đô thị mới trên địa bàn Thành phố.

92

c) Xúc tiến thành lập quỹ đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật Tam Kỳ Hình thức này rất phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà

nước và đã được phát triển có hiệu quả ở nhiều nước. Theo kinh nghiệm của các nước đã có hình thức này, quỹ đầu tư có thể được xây dựng với quy mô lớn hoặc nhỏ tuỳ theo mục đích và hiệu quả hoạt động của quỹ. Quỹ có thể mang tính chất đa ngành (quỹ đầu tư nói chung) hoặc chuyên ngành (có mục đích đầu tư vào những lĩnh vực riêng biệt, chẳng hạn như hạ tầng kỹ thuật đô thị). Phạm vi hoạt động của quỹ có thể là lĩnh vực quốc tế, quốc gia hoặc chỉ hạn chế trên một địa bàn nhất định. Thực tế hiện nay, cả nước ta đã có 13 tỉnh, thành phố thực hiện quỹ đầu tư phát triển hạ tầng, mang lại hiệu quả cao trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư kết cấu HTKT đô thị.

Đối với thành phố Tam Kỳ, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Tam Kỳ xây dựng và trình tỉnh cho phép thực hiện từ ngày 01/01/2000 và sau đó bị bãi bỏ vào ngày 30/6/2006 do một số nội dung của quỹ không còn phù hợp với những quy định mới của Nhà nước (đã nêu ở phần trên). Tuy nhiên, xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của địa phương, Thành phố cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng đề án thành lập quỹ với hình thức, nội dung huy động, nguyên tắc hoạt động quỹ đúng với quy định của pháp luật.

Qua kinh nghiệm thành lập quỹ đầu tư phát triển đô thị ở một số tỉnh, thành trong nước cho thấy, để Quỹ đầu tư phát triển HTKT Tam Kỳ sớm được thành lập và đi vào hoạt động nhanh, có hiệu quả cần giải quyết một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần xây dựng phương án thành lập Quỹ đầu tư phát triển HTKT trên cơ sở nghiên cứu kỹ kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư trong nước, kể cả ở nước ngoài. Phương án thành lập Quỹ phải được thảo luận rộng rãi để thống nhất quan điểm, từ đó có chủ trương và giải pháp thành lập rõ ràng thống nhất (tránh như tình trạng Quỹ đầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh trước đây không được Bộ Kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép kinh doanh vì cho rằng Quỹ không phải là loại hình doanh nghiệp).

Thứ hai, hoạt động chủ yếu của quỹ sẽ là đầu tư dự án công trình, uỷ

93

thác đầu tư và mua bán chứng khoán nhưng tất cả những lĩnh vực này đều là rất mới ở Việt Nam, chưa có thể chế đầy đủ, rõ ràng. Do đó, nhà nước cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của Quỹ, đồng thời bổ sung hệ thống pháp luật và những chính sách liên quan về cơ chế hoạt động của thị trường vốn, quy chế đổi đất lấy hạ tầng, quy chế phát hành trái phiếu công trình HTKT đô thị... để quỹ đầu tư phát triển HTKT có căn cứ tính toán các phương án, khả năng và hình thức đầu tư. Trước mắt Quỹ đầu tư phát triển HTKT Tam Kỳ có thể được cấp vốn từ nguồn đấu thầu khai thác quỹ đất xây dựng ở một số khu phát triển HTKT, tiền thuê và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, huy động các tổ chức, cá nhân đầu tư hạ tầng các công trình kết cấu hạ tầng của Thành phố, nguồn nguồn phụ thu phí thóat nước từ thu tiền cấp nước.

Thứ ba, ngay từ khi thành lập và những bước đầu hoạt động, Quỹ phải định hướng phát triển theo hướng một tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp; phân định rõ chức năng kinh doanh đầu tư tài chính và chức năng quản lý vốn Nhà nước; làm rõ cơ chế tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước..., tránh tình trạng thành lập quỹ như một cơ quan nhà nước, rập khuôn theo kiểu Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển (nay là ngân hàng phát triển), do nhà nước cấp vốn 100%.

d) Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chủ trương "dùng quỹ đất để tạo vốn" xây dựng hạ tầng kỹ thuật

Chủ trương dùng quỹ đất để tạo vốn xây dựng HTKT đã được Thành phố Tam Kỳ thực hiện từ khá sớm (như công trình xây dựng chợ trung tâm Tam Kỳ năm 1993). Đặc biệt, từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam đến nay hoạt động khai thác quỹ đất tạo vốn được thực hiện với quy mô ngày càng lớn. Hiện tại, trên địa bàn Thành phố đang triển khai 46 dự án, với tổng vốn đầu tư theo dự tóan được duyệt trên 850 tỷ đồng. Điển hình như khu phố mới Tân Thạnh trên 150 tỷ đồng, khu dân cư văn hóa-thương mại Bạch Đằng 83,6tỷ đồng, đại lộ Điện Biên Phủ và trục cảnh quan hai bên đường trên 200 tỷ đồng, tuyến đường và vệt khai thác quỹ đất hai bên đường Duy Tân- Trường Xuân,

94

đường N24... đem lại nguồn thu khá lớn cho Thành phố (bình quân giai đoạn 2000-2005 là 30-50 tỷ đồng/năm) để đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn chung công tác này vẫn chưa thật sự hiệu quả, nhưng hình thức thiếu phong phú, chưa tạo sự chuyển biến mạnh trong đầu tư phát triển Thành phố.

Tam Kỳ là thành phố trẻ, đang ở giai đoạn đầu của sự tăng tốc phát triển, do vậy có nhu cầu rất lớn về đầu tư phát triển HTKT, lại có nhiều quỹ đất nên việc thực hiện chủ trương nêu trên là rất thuận lợi. Phấn đấu giai đoạn 2006-2010 huy động từ nguồn này đạt 1.195 tỷ đồng. Tuy nhiên, để thực hiện thành công, mang lại hiệu quả cao cần chú ý các điểm sau:

Thứ nhất, phải có danh mục các công trình HTKT ưu tiên đầu tư theo hình thức tạo vốn từ khai thác quỹ đất. Danh mục này phải phù hợp với tiến độ đầu tư trong kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội của Thành Phố. Tuyệt đối tránh tư tưởng khai thác quỹ đất bằng mọi giá, làm lãng phí tài nguyên đất, giảm hiệu quả đầu tư và gây các hậu quả xấu về môi trường sinh thái, xáo trộn lớn đời sống nhân dân.

Hai là, mỗi một công trình phải có phương án cụ thể và đầy đủ hệ thống dữ liệu từ báo báo đầu tư xây dựng HTKT đến phương án thực hiện, hình thức đấu thầu hoặc khai thác quỹ đất, giá đấu thầu... tuân thủ nghiêm ngặt các quy định hiện hành của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản. Việc sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng HTKT phải sử dụng đúng mục đích và theo quy hoạch được duyệt; tiền sử dụng đất phải được thu nộp toàn bộ vào ngân sách sau đó chi cho từng công trình theo dự án được cấp thẩm quyền phê duyệt; tuyệt đối không sử dụng nguồn kinh phí này để chi thường xuyên.

Ba là, quỹ đất dùng để khai khác tạo vốn đầu tư phải được chuẩn bị trước cả về mặt bằng lẫn các điều kiện về qui hoạch và thủ tục pháp lý bảo đảm quỹ đất đó thực sự có giá trị, hấp dẫn các nhà đầu tư. Ngoài các hình thức khai thác quỹ đất truyền thống hiện đang áp dụng, Thành phố cần đa dạng hóa hình thức đầu tư như: đấu thầu quỹ đất thô hoặc quỹ đất có hạ tầng để giao công trình; sau khi hoàn thành, nghiệm thu, nhà thầu sẽ được thanh tóan theo giá trị quyết tóan bằng quỹ đất tương ứng với giá trúng thầu.

95

Đặc biệt, với điều kiện đặc thù của thành phố Tam Kỳ (hạ tầng còn nghèo, tính hấp dẫn từ đất chưa cao...) thành phố nên mạnh dạn tổ chức đấu thầu, giao toàn bộ công trình cho nhà đầu tư trọn quyền sử dụng, khai thác quỹ đất của dự án sau khi hoàn chỉnh hạ tầng theo thiết kế được duyệt, gắn với thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước theo quy định. Hình thức này có thể áp dụng cho các khu công nghiệp, các khu dịch vụ-dân cư rất có hiệu quả, thu hút cả vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên cách làm này phải được thể chế hóa bằng quy định của Tỉnh trên cơ sở vận dụng đúng quy định hiện hành của pháp luật.

e) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa đầu tư HTKT đô thị Đầu tư và kết cấu HTKT công cộng đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn,

thời gian hoàn vốn rất dài và hầu như không có lãi. Cho nên đầu tư vào kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là những công trình phục vụ công cộng phần lớn là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nếu có chính sách đầu tư hợp lý thì vẫn có thể thu hút được những nguồn đầu tư trực tiếp của tư nhân và các thành phần kinh tế. Như vậy, trên lĩnh vực này Thành phố phải có những cơ chế, chính sách đặc biệt hơn so với các lĩnh vực đầu tư khác.

ở những lĩnh vực đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận hoặc có thể thu hồi vốn như các dự án hạ tầng phục vụ du lịch Tam Thanh, khu đô thị mới Tam Phú, khu công nghiệp-dân cư Trường Xuân- Thuận Yên, khu dịch vụ- dân cư An Sơn,...thành phố nên tập trung thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, vốn FDI (với các hình thức đề xuất ở trên); Hoặc triển khai thực hiện thông qua quỹ đầu tư phát triển của Thành phố, huy động cộng đồng tham bằng hình thức đóng góp cổ phần, trái phiếu công trình…

Đối với các lĩnh vực cần thiết cho sự phát triển KT-XH của thành phố nhưng hiệu quả kinh tế đầu tư rất thấp, không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi chậm, như xây dựng bãi xử lý rác thải, xây dựng hệ thống thóat nước và xử lý nước thải đô thị, kè chống sạt lở... Thành phố phải tập trung huy động từ các nguồn ODA, việc trợ không hoàn lại, NGO... đồng thời phải tranh

96

thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ về mọi mặt của Trung ương và Tỉnh để đầu tư xây dựng.

Thực chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm”, hoặc “dân làm, nhà nước hỗ trợ”, nhất là đối với các công trình chỉnh trang đô thị như: các tuyến giao thông nội thành, các đường kiệt hẽm, mương rãnh thóat nước, điện chiếu sáng công cộng, vỉa hè, công viên cây xanh, thu gom và vận chuyển rác thải trong nội bộ các khu dân cư... Để làm tốt công tác này, UBND thành phố cần sớm xây dựng đề án xã hội hóa đầu tư, trình HĐND thành phố thông qua làm cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện đúng theo quy định tại Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn do ủy ban Thường vụ Quốc Hội ban hành, sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01/7/2007.

Ngoài ra, Thành phố cần chú trọng thực hiện chính sách “lấy đô thị nuôi đô thị”. Bên cạnh nguồn lực quan trọng là đất đai đô thị, thì các công trình kiến trúc, kho bãi, các trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính Nhà nước...thuộc sở hữu toàn dân chính là tài sản hết sức to lớn của nhà nước, đây chính là nguồn vốn Thành phố cần triệt để sử dụng để “hoán đổi lấy” việc đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị bằng những hình thức thích hợp.

3.2.3. Nâng cao năng lực quản lý đầu tư và xây dựng đối với các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

3.2.3.1. Nâng cao tính khoa học và tính hệ thống của dự án Một số dự án đầu tư HTKT phải có mục tiêu đầu tư và căn cứ pháp lý

rõ ràng. Mục tiêu đầu tư phải được xác định trên cơ sở phân tích hiện trạng lĩnh vực dự kiến đầu tư, yêu cầu phát triển, xác định quy mô, số lượng cần thiết phù hợp và khả năng cân đối nguồn vốn, giảm tối đa chi phí cơ hội. Các căn cứ pháp lý và thực tiễn phải rõ ràng, có hệ thống, không mâu thuẫn với các giải pháp của dự án.

Tính khoa học của dự án đòi hỏi dự án phải được lập trên cơ sở nghiên cứu công phu, tỉ mỉ, nghiêm túc các khía cạnh của dự án như hiệu quả kinh tế, xã hội, dân sinh, tác động môi trường...Các tính toán, phân tích phải dựa trên

97

các dữ liệu cụ thể đảm bảo tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện thực tế. Tính hệ thống của dự án đòi hỏi các nội dung của dự án phải được xây

dựng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời toàn bộ dự án phải đặt trong tổng thể quá trình phát triển kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng của thành phố.

Các dự án phải được lập trên cơ sở các quy chuẩn chung (nhất là các dự án quốc tế, ODA hoặc FDI). Phải tuân thủ chặt chẽ chu trình của dự án đầu tư, bao gồm trình tự các bước nhằm thực hiện có hiệu quả một nguồn lực cho trước theo một trật tự thời gian xác định. Thông thường, một dự án phải qua 5 bước: ý tưởng về dự án, quyết định chủ trương đầu tư; chuẩn bị và lập dự án; thẩm định và phê duyệt dự án; triển khai thực hiện dự án; đánh giá nghiệm thu và thanh quyết toán dự án. Cả 5 bước này đều vô cùng quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với nhau. UBND thành phố và các cơ quan hữu quan cần hết sức chú trọng nâng cao chất lượng từng bước, tuyệt đối không được xem nhẹ bất cứ bước nào.

3.2.3.2. Phân tích và đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị

Để đánh giá dự án có hiệu quả hay không cần phải có những phân tích tài chính đối với dự án. Những phân tích này có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá các dự án khác nhau để ra quyết định đầu tư vào dự án nào mang lại hiệu quả KT-XH cao nhất. Về nguyên tắc dự án nào có chỉ số tài chính tốt hơn sẽ được đầu tư trước nhưng cũng cần căn cứ vào tổng vốn đầu tư của dự án, tiến độ đầu tư và khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư.

Khi phân tích kinh tế tài chính dự án đầu tư phát triển HTKT cần chú ý là các số liệu về lợi ích và chi phí của dự án rất phức tạp. Vấn đề là ở chỗ lợi ích và chi phí của các dự án đầu tư phát triển HTKT thường phải được cộng cả lợi ích (chi phí) “chìm”, dẫn đến tình trạng không tính toán hết, thậm chí không tính toán đến chúng trong phân tích tài chính dự án đầu tư.

Các chi phí “nổi” của dự án được tính toán như các dự án bình thường. Nhưng các chi phí “chìm” của dự án thường rất khó xác định chính xác, như ảnh

98

hưởng của dự án làm giảm giá trị của các danh lam thắng cảnh có liên quan, làm tăng độ ồn cho một khu phố, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái...

Các lợi ích “nổi” của dự án là sự đóng góp của dự án làm tăng mức sản xuất của các ngành có liên quan, làm giảm chi phí của các doanh nghiệp và cơ quan khác, làm cải tiến và nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm của các ngành khác...Còn các lợi ích “chìm” của dự án có thể là ích lợi của dự án tạo cơ hội tăng việc làm cho dân chúng, cải thiện sức khoẻ và môi trường, giảm thời gian đi lại...

Để tính được đầy đủ các lợi ích và chi phí cần phải so sánh giữa phương án "có dự án" và "không có dự án". Trên cơ sở giả định này mà tính toán lợi ích và chi phí càng đầy đủ càng tốt, nhất là chi phí “chìm”, chi phí cơ hội rất khó nhận biết. Sau khi tính toán các khoản lợi ích và chi phí của dự án đầu tư, cần tính toán ba chỉ tiêu cơ bản sau làm tiêu chuẩn để đánh giá tài chính dự án và ra quyết định đầu tư.

Để hạn chế những quyết định đầu tư mang tính chủ quan duy ý, kinh nghiệm chủ nghĩa, UBND tỉnh và thành phố Tam Kỳ cần phải sử dụng các phương pháp khoa học để đánh giá hiệu quả đầu tư các công trình HTKT đô thị. Điển hình như: tính tóan tổng chi phí đầu tư và chi phí sử dụng (Ct); tính toán giá trị hiện tại thuần (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), tỷ lệ lợi ích/chi phí (BCR hay B/C)… để phân tích, đánh giá lựa chọn và quyết định đầu tư các dự án kết cấu HTKT đô thị mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao [18, tr.31, 42].

3.2.3.3. Đổi mới tổ chức quản lý các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật

Đổi mới hình thức quản lý dự án đầu tư phát triển HTKT nhằm bảo đảm tiến độ, hiệu quả đầu tư đồng thời góp phần nâng cao năng lực điều phối trong kế hoạch hoá và quản lý đầu tư HTKT. Biện pháp quan trọng là áp dụng linh hoạt các hình thức quản lý dự án đã được các cơ quan nhà nước quy định, đặc biệt là Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14/02/2007 của Bộ Xây dựng. Theo đó, có thể vận dụng các hình thức tổ chức quản lý sau:

Hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án: đây là hình

99

thức đang được áp dụng phổ biến ở thành phố Tam Kỳ, tuy nhiên việc thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, để quản lý tốt các dự án đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị, UBND thành phố phải ra quyết định thành lập “Ban quản lý dự án”, mạnh dạn giao nhiệm vụ, quyền hạn cho các Ban quản lý dự án trực tiếp thực hiện tuyển chọn và ký hợp đồng với tổ chức tư vấn để thực hiện điều tra khảo sát, lập dự án đầu tư, thiết kế công trình, soạn thảo hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu hoặc chọn thầu; trực tiếp ký hợp đồng với các đơn vị trúng thầu xây lắp... thực hiện nhiệm vụ giám sát, quản lý thi công đảm bảo chất lượng và tiến độ công trình theo quy định. UBND thành phố chỉ được giao cho các cơ quan chuyên môn và UBND các xã, phường quản lý các dự án có tổng mức đầu tư dưới 1 tỷ đồng, mà không cần thành lập Ban quản lý dự án.

Hình thức thuê tư vấn quản lý dự án: Đây là hình thức mới mà UBND thành phố cần sớm nghiên cứu vận dụng. Bởi vì, nó góp phần thực hiện cải cách tổ chức bộ máy và cán bộ của thành phố giai đoạn hiện nay; “giảm tải” công việc cho các Ban quản lý dự án, tiến đến tinh giản biên chế và giải thể một số Ban quản lý theo lộ trình phù hợp; đồng thời hạn chế các tiêu cực phát sinh trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

Bất luận trong trường hợp nào thì tư vấn quản lý dự án hoặc Ban quản lý dự án và các ngành, địa phương được giao nhiệm vụ quản lý dự án đều là người duy nhất chịu trách nhiệm trước UBND thành phố và trước pháp luật khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, UBND thành phố phải có trách nhiệm chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn đó, đảm bảo dự án được thực hiện đúng nội dung và tiến độ đã được phê duyệt. Đồng thời, trên giác độ quản lý nhà nước, UBND thành phố phải chịu trách nhiệm toàn diện về những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, kể cả những công việc đã giao cho Ban quản lý dự án hoặc nhà thầu tư vấn quản lý dự án.

3.2.3.4. Đổi mới quản lý chất lượng công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

100

Hiện nay, quy mô của các dự án ngày càng lớn, giải pháp kiến trúc, kết cấu, vật liệu của các công trình kết cấu HTKT ngày càng phức tạp, trong khi đó trình độ, kỹ năng của cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu. Do vậy, UBND thành phố phải xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, hiểu biết pháp luật để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, phải đổi mới phương pháp quản lý, tránh can thiệp trực tiếp quá sâu về chuyên môn, mà xem nhẹ nhiệm vụ chính phải làm là hướng dẫn, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật; lập quy hoạch, kế hoạch và định hướng xây dựng các công trình phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng của địa phương.

Với tư duy đó, UBND thành phố cần tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các cơ quan, đơn vị hữu quan thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực đầu tư xây dựng. Quá trình quản lý chất lượng phải được thực hiện xuyên suốt từ khâu khảo sát, lập quy hoạch xây dựng, lập báo cáo đầu tư và thiết kế dự tóan thi công công trình đến công tác giám sát quá trình thi công, nghiệm thu thanh quyết toán công trình…

Chú trọng chỉ đạo thực hiện tốt công tác giám sát nhân dân theo quy định tại Nghị định 209 của Chính phủ, xem đây là một trong những chính sách xã hội hoá quản lý xây dựng công trình kết cấu HTKT. Để tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện việc giám sát này, UBND thành phố phải công khai dự án, quy mô công trình, thời gian thực hiện, đơn vị quản lý, đơn vị thi công, đơn vị chịu trách nhiệm giám sát... để nhân dân biết và thực hiện quyền giám sát của mình.

Có kế hoạch đào tạo (trong và ngoài nước) hoặc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về quản lý xây dựng kết cấu HTKT đô thị cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý. Khuyến khích, hỗ trợ đơn vị quản lý xây dựng nhập các thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý tiên tiến để quản lý xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; khuyến khích ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học- công nghệ và kỹ thuật hiện đại tiên tiến trên thế giới cũng như trong nước vào các quá trình khảo sát, thiết kế, thi công xây

101

dựng lựa chọn phương án xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Ban hành cụ thể các quy định về chế độ khen thưởng đối với những đơn vị thi công đảm bảo chất lượng tiến độ, gắn với xử lý nghiêm minh những vi phạm.

Để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống kết cấu HTKT, nâng cao hiệu quả trong xây dựng, tiết kiệm thời gian, kinh phí của nhà nước và nhân dân; Thành phố phải là “đầu mối duy nhất” quản lý quá trình đầu tư xây dựng kết cấu HTKT trên địa bàn, nhằm đảm bảo phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngành Điện lực, Bưu chính viễn thông, công ty Môi trường đô thị, đơn vị thi công công trình...

3.2.4. Đổi mới quản lý quá trình sử dụng và khai thác các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Việc quản lý và sử dụng hệ thống kết cấu HTKT đô thị giống như việc sử dụng một cỗ máy hoàn chỉnh đồng bộ, phải tuân thủ một chế độ quản lý nghiêm khắc và phải có những khoản kinh phí cần thiết để duy trì, bảo đảm cho sự hoạt động bình thường của nó. Do vậy cần có những chế độ thích hợp đối với việc quản lý và sử dụng kết cấu hạ tầng, một mặt giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mặt khác tạo ra lợi ích cho người trực tiếp quản lý, nâng cao ý thức trách nhiệm của những người được thụ hưởng những quyền lợi do kết cấu HTKT mang lại. Trên tinh thần đó, một số giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt đó là:

3.2.4.1. Nhóm giải pháp chung Đẩy mạnh thực hiện chính sách “xã hội hoá” trong quản lý kết cấu

HTKT đô thị, triển khai rộng rãi hình thức dịch vụ có thu theo hướng giao cho các tổ chức, cá nhân trách nhiệm quản lý gắn với quyền được khai thác các công trình hạ tầng công cộng một cách hợp lý; được thụ hưởng toàn bộ các sản phẩm được tạo ra từ quá trình khai thác, sử dụng kết cấu HTKT do mình quản lý vận hành... nguồn thu được hưởng 100%, không phải nộp thuế.

Nghiên cứu áp dụng chế độ khấu hao đối với công trình kết cấu HTKT đô thị. Việc thu khấu hao được thực hiện hàng năm thông qua việc

102

thu đóng góp tự nguyện đối với tổ chức, cá nhân hưởng lợi kết cấu HTKT (theo mức được cộng đồng dân cư bàn bạc thống nhất), hoặc trích một phần từ quỹ đầu tư phát triển... Cách làm này vừa tạo ra nguồn kinh phí duy tu, bảo dưỡng kết cấu HTKT; vừa tạo ra cho người dân ý thức giữ gìn, bảo vệ nó, vì họ xem đó là tài sản của bản thân mình, chứ không còn đơn thuần là tài sản công.

Ngoài ra, việc quản lý sử dụng hệ thống kết cấu HTKT đô thị đòi hỏi phải có những quy định chặt chẽ và cụ thể trong “Quy chế quản lý đô thị” của thành phố, đồng thời thường xuyên kiểm tra, xử lý nghiêm khắc

các vi phạm. Chính sách kinh tế và chế độ quản lý phải đồng bộ, thống nhất; luôn luôn coi trọng công tác hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục mọi người hiểu và chấp hành những quy định, quy chế quản

lý, sử dụng...từng bước tạo ra nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Các công trình đã xây dựng xong nhất thiết phải được nghiệm thu và bàn giao cho một đơn vị cụ thể có trách nhiệm trực tiếp quản lý quá trình sử dụng khai thác.

3.2.4.2. Đổi mới quản lý đối với những bộ phận cụ thể của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

a) Quản lý các công trình giao thông đô thị Chính quyền thành phố quản lý thống nhất, toàn bộ hệ thống đường giao

thông nội thành theo hồ sơ hoàn công được duyệt, bao gồm: đường đô thị được giới hạn bởi chỉ giới đường đỏ (lòng, lề đường và vỉa hè); các công trình kỹ thuật đầu mối giao thông được giới hạn trong ranh giới khu đất theo hồ sơ đăng ký địa chính và vùng bảo vệ xác định theo tiêu chuẩn quy phạm của Nhà nước.

UBND thành phố phải là cơ quan thẩm quyền duy nhất cho phép bố trí trên đường phố các công trình hạ HTKT đô thị khác như: chiếu sáng, cấp thóat nước, thông tin liên lạc, hệ thống cây xanh... nhằm đảm bảo yếu tố đồng bộ và mỹ quan đô thị. UBND thành phố nên phân cấp cho các ngành và UBND xã, phường thẩm quyền cho phép đặt các quầy sách báo, buồng điện

103

thoại, ATM, biển báo, thông tin quảng cáo, hoặc để phưong tiện giao thông, tổ chức các hoạt động văn hóa tuyên truyền trên đường phố, nhưng phải đúng quy định, sạch- đẹp- văn minh, đảm bảo an toàn giao thông. Đơn vị cấp phép chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý các hành vi vi phạm.

b) Quản lý các công trình cấp nước đô thị Thành phố Tam Kỳ sử dụng nguồn nước từ hồ chứa nước Phú Ninh

nằm trên địa huyện Phú Ninh, hiện đang được sử dụng cho nhiều mục đích như thủy lợi, điều tiết lũ và đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái hồ. Vấn đề đặt ra là phải phối hợp quản lý thật tốt môi trường sinh thái khu vực, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước, đảm bảo vệ sinh theo đúng tiêu chuẩn quy phạm của Nhà nước; thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ tài nguyên nước. UBND thành phố cần đề nghị UBND tỉnh ban hành quy định cụ thể về quy chế quản lý, sử dụng hồ Phú Ninh đảm bảo các yêu cầu này.

Đối với các khu vực dân cư sử dụng nguồn nước ngầm để sinh hoạt cần phải có xác nhận về mức độ an toàn của cơ quan chức năng (ít nhất là của Trung tâm Y học dự phòng Thành phố) mới được phép sử dụng, đồng thời lưu ý tránh làm cạn kiệt nguồn nước ngầm. Việc khai thác sử dụng nguồn nước ngầm có quy mô trên 50m3/h và các nguồn nước mặt phải được cân nhắc kỹ lưỡng và phải được phép của UBND Thành phố.

Tam Kỳ có tuyến đường ống nước thô đường kính 1,2 mét, dài 9,5 km dẫn nước từ hồ Phú Ninh về nhà máy nước Tam Kỳ và mạng lưới đường ống phân phối nước đô thị. UBND thành phố cần quy định trách nhiệm cụ thể, như: UBND xã, phường chịu trách nhiệm quản lý hệ thống đường ống; công ty Cấp thóat nước Tam Kỳ chịu trách nhiệm thực hiện chế độ kiểm tra, bảo dưỡng và vận hành, cung cấp nước đủ số lượng và chất lượng cho thành phố.

c) Quản lý thoát nước đô thị Dựa vào tiêu chuẩn quy phạm do Nhà nước ban hành, đề nghị UBND

tỉnh Quảng Nam xây dựng các quy định cụ thể về phạm vi bảo vệ các công trình thóat nước đô thị. Đẩy mạnh phân cấp quản lý các công trình thóat nước (đề cập ở phần dưới). Trường hợp nước thải có thể gây ô nhiễm môi trường

104

và gây bệnh (như chất thải ở khu cụm công nghiệp, bệnh viện...) thì đơn vị trực tiếp thải nước phải xử lý đúng tiêu chuẩn quy định và được UBND thành phố kiểm tra, cho phép trước khi cho thóat vào hệ thống chung.

Hiện tại, hệ thống thóat nước thành phố được xây dựng theo từng dự án đầu tư hạ tầng riêng lẻ (chủ yếu bám theo các tuyến giao thông), chưa có quy hoạch bài bản, nên việc khớp nối thóat nước toàn cục còn nhiều bất cập, tình trạng ngập úng đô thị khi có mưa thường xuyên xảy ra. Đây là vấn đề khá nan giải cần có giải pháp giải quyết dứt điểm.

Trước mắt, UBND thành phố cần tiếp tục ưu tiên đầu tư vốn giải quyết cho những khu vực trọng yếu, thường xuyên ngập lụt ảnh hưởng lớn đến đời sống dân sinh. Về lâu dài, cần quy hoạch hoàn chỉnh hệ thống thóat nước đô thị đến năm 2010 và 2025 làm cơ sở để quản lý và thực hiện. Quản lý thoát nước không đơn thuần là việc bố trí hệ thống cống rãnh mà phải nghĩ đến các điều kiện thoát nước tự nhiên khác đó là dành quĩ đất cho các vườn hoa, bãi cỏ, các hồ chứa nước. Đây là bài toán khá phức tạp, nhất là đối với Tam Kỳ có địa hình thấp trũng, lại xa cửa biển và mức chênh lệch thuỷ triều nhỏ; đòi hỏi UBND thành phố phải nghiên cứu khoa học, bài bản, công phu để có các giải pháp xử lý căn bản và lâu dài vấn đề thoát nước của thành phố.

d) Quản lý các công trình cấp điện Hiện nay, mạng lưới cấp điện trên địa bàn Thành phố do 2 cơ quan

cùng song song quản lý là Điện Lực Quảng Nam và Công ty phát triển hạ tầng (đối với hệ thống cấp điện được đầu tư từ nguồn ODA). Do vậy, đề nghị UBND tỉnh cần quy định cụ thể về cơ chế phối hợp trong thực hiện các chức năng quản lý một cách rạch ròi giữa hai đơn vị, đồng thời quy định về trách nhiệm phối hợp giữa 2 đơn vị với các địa phương, nhất là trong giải quyết các vấn đề vướng mắc phát sinh, hay đảm bảo hành lang an toàn lưới điện...

Hệ thống điện chiếu sáng công cộng hiện tại do ngân sách Thành phố đầu tư và trả tiền điện chiếu sáng hàng tháng cho ngành điện, nhưng lại do Xí nghiệp điện chiếu sáng quản lý, vận hành, làm phát sinh rất nhiều phức tạp. Do vậy đề nghị tỉnh bàn giao toàn bộ hệ thống điện chiếu sáng cho UBND

105

thành phố thống nhất quản lý.

e) Về quản lý vệ sinh môi trường đô thị Tam Kỳ là một đô thị trẻ, nhưng môi trường sinh thái phải luôn được

xem là vấn đề quan trọng hàng đầu. Vì thế trong quản lý, các giải pháp cho vấn đề môi trường đô thị phải đồng bộ và gắn liền với việc nghiên cứu quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT đô thị và các biện pháp quản lý của chính quyền các cấp.

Trên cơ sở hiện trạng của thành phố Tam Kỳ, những biện pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề môi trường đô thị là: xây dựng kết cấu HTKT đô thị phù hợp yêu cầu phát triển của một đô thị sinh thái theo hướng “phố làng” (như đã đề cập), vừa đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa vừa đảm bảo gìn giữ, cải thiện và phát triển môi trường sống ngày càng tốt hơn cho nhân dân. Tích cực cải tạo các khu cũ của đô thị, kết hợp chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân trong việc bảo vệ môi trường và vệ sinh công công tại đô thị.

Về qui hoạch khu xử lý chất thải (rác): để đảm bảo môi trường (do khí rác và nước rác hình thành) cần phải có biện pháp tổ chức quản lý tốt. Hiện nay, Công ty môi trường đô thị không đủ khả năng thu gom hết lượng rác thải đô thị, Thành phố cần có phương án giao trách nhiệm và khoán đến các tổ dân phố hoặc các cụm dân cư theo phương thức “xã hội hoá”, đồng thời xây dựng các bãi rác trung chuyển tại các tụ điểm nhiều rác để thuận lợi cho việc thu gom. Vấn đề xử lý rác phải đảm bảo đúng quy trình. Cần nghiên cứu triển khai mô hình đốt rác thải, đây là phương pháp tối ưu về xử lý môi trường nhưng tốn kém kinh phí lớn.

Tập trung ưu tiên cải tạo môi trường nơi làm việc, cải tạo ngay các khu đô thị có mức đô ô nhiễm lớn do chất thải như khu vực cảng cá hiện tại, khu dân cư dọc sông Bàn Thạch, phường Phước Hòa bằng cách xây dựng đường bao dọc 2 bên sông kết hợp chỉnh trang đô thị; Tất cả các công trình xây dựng mới nhất thiết phải có hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, chất thải mới cho phép khởi công hoặc hoạt động. Khói, bụi, chất thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp hiện có cần phải kiểm soát chặt chẽ

106

hơn. Thành phố cần chỉ đạo đưa tất cả các cơ sở này vào những khu công nghiệp tập trung và phải có lộ trình xử lý theo tiêu chuẩn môi trường Việt Nam trước năm 2010.

Có quy định cụ thể và chặt chẽ về trách nhiệm của chủ đầu tư và các đơn vị thi công về giải quyết bụi và chất thải trong quá trình thi công xây dựng các công trình mới. Đối với các dự án phát triển du lịch sinh thái như hồ Phú Ninh, biển Tam Thanh, cần đặc biệt chú trọng kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái.

Xúc tiến quy hoạch, xây dựng khu nghĩa địa tập trung tại phía Tây Thành phố (khu vực Tam Ngọc, Trường Xuân giáp huyện Phú Ninh) theo mô hình công viên vĩnh hằng đã được thực hiện ở Tỉnh Hà Tây, không cho phép chôn mới ở nội thị và khu vực vùng Đông Thành phố; về lâu dài, nên khuyến khích và vận động nhân dân từng bước chuyển sang hình thức hỏa thiêu (mô hình đã triển khai ở thành phố Cần Thơ).

Một trong những biện pháp bảo vệ môi trường truyền thống nhưng hiệu

quả cao là trồng cây xanh. Thành phố cần phát triển khu vực sông Đầm thành

công viên cây xanh lớn khoảng 500ha (xem đây là lá phổi của đô thị) và tận

dụng triệt để các vệt đất ven sông, các hồ điều tiết nước, các ao hồ sẵn có để

tạo nên các dải cây xanh nối vào các công viên trung tâm đô thị thành một

vành đai cây xanh hoàn chỉnh tạo môi trường trong lành cho Thành phố.

3.2.5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

3.2.5.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ trong quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật

Về bộ máy và cán bộ: phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong

bộ máy quản lý nhà nước của Thành phố, nhất là đội ngũ làm việc trên các

lĩnh vực thuộc kết cấu HTKT đô thị thật sự có trình độ chuyên môn, năng lực công tác, am hiểu sâu về quản lý nhà nước trên lĩnh vực kết cấu HTKT đô thị,

vừa có kiến thức về xã hội vừa có kiến thức về kinh tế, kỹ thuật; đồng thời có

107

phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng được yêu cầu xây dựng Thành phố trong tình hình mới.

Để thực hiện được nội dung này, việc quan trong đầu tiên là phải rà soát lại đội ngũ cán bộ công chức hiện có, kiên quyết xử lý những cán bộ yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức. Đồng thời, có kế hoạch cụ thể về tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại, bố trí sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy quản lý nhà nước. Tăng cường hơn nữa đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác chuyên môn trên các lĩnh vực thuộc kết cấu HTKT, như phòng Quản lý đô thị, các Ban Quản lý dự án, Ban Đền bù giải toả, cán bộ quản lý đô thị cấp xã - phường. Khẩn trương củng cố, kiện toàn Đội Quy tắc đô thị- đơn vị nhiều năm liền hoạt động cầm chừng, hiệu quả kém. Nghiên cứu bổ sung thêm nhiệm vụ quản lý xây dựng đô thị cho lực lượng dân quân xã phường (vì đây là lực lượng “không thóat ly sản xuất”) vừa tăng cường năng lực quản lý cho các địa phương vừa tạo thêm thu nhập cho lực lượng dân quân, trên cơ sở cho hưởng 100% kinh phí thu phạt các trường hợp vi phạm.

Sau khi chia tách tỉnh, xí nghiệp môi trường-đô thị của Thành phố được nâng cấp lên thành Công ty môi trường đô thị Quảng Nam và được bàn giao toàn bộ cho Tỉnh quản lý. Thiết nghĩ đây là việc làm chưa đúng, bởi vì theo quy định cũng như theo yêu cầu khách quan của quá trình quản lý, phát triển đô thị thì chính quyền đô thị tất yếu phải có Công ty môi trường đô thị Quảng Nam phục vụ riêng yêu cầu nhiệm của đô thị. Do vậy, đề nghị Tỉnh chuyển công ty hiện nay về cho Thành phố quản lý. Ngoài ra, Thành phố cần có kế hoạch lập dự án thành lập công ty công viên cây xanh và công ty điện chiếu sáng đô thị trình Tỉnh xem xét quyết định, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố trong những năm đến.

3.2.5.2. Đẩy mạnh việc phân cấp trong quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật

a) Về phân cấp quản lý: phân cấp quản lý cho các xã phường và các

108

ngành chức năng trong đô thị là việc làm hết sức cấn thiết, nhằm tăng cao tinh thần trách nhiệm, tăng tính chủ động, sáng tạo trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình trên các lĩnh vực được phân cấp, tránh chồng chéo, trông chờ ỷ lại hoặc đỗ lỗi lẫn nhau trong quản lý. Do vậy thành phố phải có phương án mạnh dạn, đột phá trong phân cấp quản lý đối với các lĩnh vực kết cấu HTKT thuộc thẩm quyền quản lý của mình, theo các hướng chủ yếu sau:

UBND thành phố quản lý, thực hiện các nội dung công việc: - Quản lý qui hoạch, kiến trúc: Điều tra thu thập tài liệu, số liệu phục

vụ cho việc lập các qui hoạch chung và quy hoạch chi tiết xây dựng Thành phố. Hướng dẫn việc lập hồ sơ xin cấp chứng chỉ qui hoạch, xin cấp giấy phép xây dựng công trình. Thẩm định và quyết định cấp phép sửa chữa, xây dựng mới công trình theo phân cấp của UBND Tỉnh. Tham gia xác định chỉ giới đất xây dựng công trình, và chỉ đạo thực hiện bồi thường- giải phóng mặt bằng, tái định những dự án lớn trên địa bàn.

- Quản lý xây dựng các công trình kết cấu HTKT: Lập kế hoạch phát triển các công trình kết cấu HTKT trên địa bàn và tổ chức thực hiện theo phân cấp của UBND tỉnh. Quản lý Nhà nước việc khai thác sử dụng các công trình kết cấu HTKT quan trọng (như các tuyến giao thông chính đô thị, bến xe, bến tàu, hệ thống điện chiếu sáng công cộng, cấp nước...). Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ của nhà nước trên lĩnh vực kết cấu HTKT, xử lý kịp thời và đúng pháp luật các vi phạm theo thẩm quyền.

Giao cho UBND các xã phường quản lý, thực hiện các nội dung sau: - Quản lý quy hoạch chi tiết được duyệt (gồm cả quy hoạch xây dựng

và quy hoạch sử dụng đất); chịu trách nhiệm kiểm tra, phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm về quy hoạch, xây dựng trên địa bàn mình quản lý.

- Quản lý quá trình sử dụng và khai thác toàn bộ hệ thống công trình kết cấu HTKT quy mô nhỏ: đường kiệt hẽm nội thị (kể cả điện chiếu sáng công cộng), vỉa hè tất cả các tuyến đường phố, mạng lưới cống rãnh thoát nước đã được xây dựng hoàn chỉnh theo quy hoạch và đưa vào sử dụng; thực

109

hiện thu gom rác thải trong nội bộ các khu dân cư; trồng, chăm sóc và bảo vệ hệ thống cây xanh đô thị.

- Chịu trách nhiệm thu nộp các khoản đóng góp của nhân dân để xây dựng và sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng các công trình kết cấu HTKT theo phân cấp (trừ những khoản thu thông qua một ngành chức năng khác như phụ thu tiền nước, thu lệ phí giao thông qua giá xăng dầu).

b) Về phối hợp thực hiện giữa các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực này: Một vấn đề hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị là đảm bảo sự phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, thống nhất giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, hạn chế thấp nhất những chồng chéo, lấn sân lẫn nhau. Muốn vậy, Thành phố cần chủ động xây dựng một quy chế phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân và các phòng ban của Thành phố với các sở ban ngành liên quan ở tỉnh như sở Xây dựng, TNMT, Giao thông vận tải... trong từng lĩnh vực quản lý kết cấu HTKT trên địa bàn thành phố.

3.2.5.3. Cải cách một số thủ tục hành chính liên quan đến quản lý quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Đây là việc làm hết sức quan trọng cần được tập trung thực hiện thường xuyên, theo hướng văn minh, hiện đại phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tỉnh Quảng Nam và thành phố Tam Kỳ cần khẩn trương xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào việc quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý quy trình thủ tục hành chính trong cấp phép xây dựng, thẩm định phê duyệt báo cáo đầu tư, thiết kế dự tóan thi công các công trình xây dựng nói chung và kết cấu HTKT đô thị nói riêng. Đây vừa là công cụ để thực thi nhanh chóng và đúng luật công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này đồng thời cũng là công cụ để kiểm tra lại tính hiệu quả của công tác quản lý. Nó không những có tác dụng nâng cao năng lực, chất lượng quản lý mà còn là cơ sở để nhân dân giám sát, kiểm tra đánh giá công tác quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, hạn chế thấp nhất phiền hà sách

110

nhiễu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thành phố cần sớm nghiên cứu thiết lập ứng dụng hệ thống tích hợp

thông tin địa lý (GIS), đây là một công cụ hiện đại và rất cần thiết trong quản lý đô thị, quản lý kết cấu HTKT. GIS sẽ lưu dữ đầy đủ các dữ liệu về đất đai, quy hoạch, tọa độ cao trình (các bản đồ nền hiện trạng, bản đồ quy hoạch xây dựng, bản đồ địa chính theo cùng hệ tọa độ), lưu giữ các thông tin cụ thể về từng thửa đất, từng tuyến đường, hệ thống thoát nước, cây xanh, các công trình ngầm đô thị (được cập nhật thường xuyên theo quy chế thống nhất)...không những giúp đẩy nhanh quá trình khảo sát mà còn là số liệu đáng tin cậy trong trong đánh giá thực trạng để quyết định nội dung quy hoạch cũng như quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị. Hệ thống này cũng sẽ giúp các tổ chức, cá nhân có nhu cầu có điều kiện truy cập (có điều kiện) để tìm hiểu các thông tin có liên quan đến lĩnh vực đô thị của Thành phố Tam Kỳ.

Tổ chức phát động mạnh mẽ phong trào thi đua với hình thức và chương trình thích hợp. Kịp thời tổng kết và khen thưởng những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất xuất sắc trong quản lý Nhà nước về kết cấu HTKT đô thị, gắn liền với phê phán và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm. Đồng thời định kỳ 6 tháng hoặc một năm, tổng kết rút kinh nghiệm, trong đó cần quan tâm mời các chuyên gia đầu ngành hoặc những cán bộ giỏi về quản lý cũng như kỹ thuật để tranh thủ sự đóng góp của họ cho quá trình xây dựng phát triển Thành phố trên lĩnh vực này.

3.2.5.4. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra trên lĩnh vực quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

a) Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động nhân dân và các tổ chức thực hiện tốt quy định của nhà nước về quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Triển khai có chiều sâu Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn vừa được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Có chính sách khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng quy ước, hương ước ở xã, phường hoặc cụm dân cư, quy định cụ thể dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát, kiểm

111

tra những nội dung gì, đồng thời mỗi công dân, mỗi hộ gia đình có trách nhiệm như thế nào, đóng góp tinh thần, vật chất ra sao đối với công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố. Phát huy vai trò của trung tâm học tập cộng đồng trong việc phổ biến, tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, biên pháp quản lý kết cấu HTKT của chính quyền.

Có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, Mặt trận và đoàn thể quần chúng trong công tác vận động nhân dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong quá trình xây dựng kết cấu HTKT, nhất là trong các bước chuẩn bị đầu tư, đền bù giải toả, huy động sự đóng góp của nhân dân...xem đây là

nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Hằng năm, nhân các ngày lễ lớn, Thành phố nên tổ chức các đợt sinh

hoạt chính trị rộng rãi nhằm tuyên tryền giáo dục, nâng cao dân trí cho nhân dân; thực hiện phổ biến quy chế quản lý đô thị đến từng hộ nhân dân, bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng... từng bước hình thành nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.

b) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Đây là nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về xây dựng kết cấu HTKT đô thị, đòi hỏi UBND thành phố Tam Kỳ cùng các ngành liên quan phải quan tâm đúng mức việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm trong xây dựng và sử dụng kết cấu HTKT. Vấn đề này cần đổi mới các nội dung sau:

Thứ nhất, củng cố, hoàn thiện bộ máy thanh tra nhà nước trên lĩnh vực xây dựng đô thị, trên cơ sở tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ngoài kiến thức về pháp luật, cần phải nắm rõ những vấn đề cơ bản về kỹ thuật. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả thanh tra trong lĩnh vực này.

Thứ hai, phải công bố công khai, rộng rãi cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn các quy định của Nhà nước về quản lý xây dựng kết cấu HTKT đô thị, nhằm một mặt làm cơ sở pháp lý thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý các vụ vi phạm, mặt

112

khác để mọi người dân biết, ủng hộ, giúp đỡ - đây cũng là một khâu quan trọng góp phần thực hiện tốt chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Thứ ba, kết hợp có hiệu quả các lực lượng thanh tra kiểm tra như Thanh tra Nhà nước, thanh tra chuyên ngành ở các cấp, cũng như vai trò của từng cán bộ làm công tác trên lĩnh vực này, nhằm phát huy tối đa hiệu quả cũng như hạn chế sự chồng chéo, tránh tình trạng một đơn vị phải “đón tiếp” nhiều đoàn thanh tra trong cùng khoảng thời gian.

Thứ tư, qua kiểm tra nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, đặc biệt là vi phạm về quy hoạch, thiết kế kỹ thuật, tham ô tiền vốn xây dựng, trốn lậu thuế trong xây dựng cơ bản... làm giảm chất lượng công trình, ảnh hưởng xấu đến môi trường đô thị, thiệt hại ngân sách nhà nước và tài sản của nhân dân. Chống mọi biểu hiện gượng nhẹ, nể nang, xuê xoa hay bao che cho các hành vi vi phạm và người vi phạm dưới bất kỳ hình thức nào. Ngoài ra, định kỳ hàng năm hoặc sau mỗi cuộc thanh tra cần tổ chức thông báo rộng rãi (công khai hoá) kết quả kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm cho mọi người dân biết.

MộT Số Đề XUấT, KIếN NGHị

Một là, đối với trung ương

Bộ máy chính quyền đô thị, nhất là đô thị tỉnh lỵ phải giải quyết những

nhiệm vụ hết sức nặng nề, phức tạp phát sinh trong đô thị. Vì vậy, để tạo điều

kiện thuận lợi cho các đô thị phát triển về mọi mặt, nhất là phát triển mạnh về kết

cấu HTKT, đề nghị Nhà nước xem xét giải quyết một số vấn đề sau:

- Bổ sung thêm số lượng thành viên Uỷ ban nhân dân từ 9 lên 11 thành

viên, và bổ sung thêm một Phó chủ tịch UBND phụ trách công tác quy hoạch-

xây dựng-quản lý đô thị.

- Tăng 10-15% biên chế hành chính sự nghiệp của các đô thị so với cấp

huyện. Hơn nữa, chế độ tiền lương và phụ cấp trách nhiệm của các vị trí chủ

chốt của UBND cũng như trưởng phó các phòng, ban chuyên môn hiện nay

113

đang được dùng theo khung lương chung cho cấp huyện là chưa hợp lý. Vì vậy

kiến nghị trung ương tăng phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ chủ chốt của chính

quyền đô thị (từ trưởng phó phòng trở lên) theo quy mô của từng đô thị. Đồng

thời, quy định cụ thể các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ

lý luận chính trị... cho các chức danh chủ chốt trong bộ máy chính quyền đô thị.

- Thống nhất về chủ trương cho phép thành phố Tam Kỳ được nghiên

lập đề án sáp nhập với một phần diện tích của huyện Núi Thành (như nêu ở

phần trên), nhằm hình một Thành phố loại I vào năm 2015.

- Nhà nước cần sớn ban hành một hệ thống pháp luật về quản lý xây dựng

kết cấu HTKT đô thị- đây là một đòi hỏi cấp bách để có cơ sở pháp lý cho công

tác quản lý. Trước mắt bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật trên một số

lĩnh vực còn thiếu như: Nghị định về thoát nước, Nghị định về cấp nước… sửa

đổi, bổ sung hoàn chỉnh các văn bản pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng và đất

đai.

- Nhà nước cần có chính sách về tài chính và ngân sách riêng cho các

đô thị để tập trung xây dựng KCHT kỹ thuật đô thị. Đổi mới công tác thu thuế

và phân cấp tài chính cho đô thị để tạo nguồn tài chính, xác định nguồn thu, tỷ

lệ điều tiết để phát triển đô thị. Theo hướng: phân cấp nguồn thu tương ứng

với nhiệm vụ chi và cho địa phương hưởng 100% các khoản thu theo phân

cấp (kể cả phần vượt thu), bỏ phần điều tiết theo tỷ lệ phần trăm giữa các cấp

ngân sách như hiện này (trừ các khoản đã được quy định trong Luật Ngân

sách)

- Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý đô thị có đủ

kiến thức và năng lực để đảm nhận quản lý các mặt công tác ở đô thị là một

yêu cầu bức bách, một đòi hỏi khách quan. Đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng

đô thị cần am hiểu chuyên môn sâu, lại có kiến thức rộng ở các lĩnh vực khác

thì mới có khả năng ứng phó nhanh với mọi tình huống trong quản lý. Vì vậy

114

đề nghị Chính Phủ có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng (mang tình thường xuyên

định kỳ) cho các nhà quản lý hành chính đô thị những kiến thức đô thị và

quản lý xây dựng đô thị, trong đó quy định rõ chế độ ưu đãi, nhất là việc cử đi

học đại học và sau đại học ở các nước tiên tiến.

Hai là, đối với tỉnh Quảng Nam

- Đề nghị tỉnh tập trung mức đầu tư từ các nguồn vốn trong vòng từ 3-5

năm đầu để đạt được một số tiêu chí cơ bản của đô thị loại II, mà chủ yếu là các

tiêu chí về kết cấu HTKT đô thị, đồng thời có cơ chế cho thành phố vay vốn tồn

ngân (khoảng 100 tỷ đồng/năm) để đầu tư tập trung các hạng mục công trình

trong kế hoạch được duyệt, ngân sách tỉnh bố trí trả dần theo chu kỳ vay.

- Đề nghị tỉnh để lại cho thành phố toàn bộ nguồn thu từ đất (kể cả tiền

thuê đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng). Bố trí kinh phí kiến thiết thị chính

(bao gồm KTTC mang tính chất thường xuyên và KTTC mang tính chất xây

dựng cơ bản) đảm bảo cho nhu cầu hàng năm của thành phố theo hướng mỗi

năm tăng 20% theo nhịp độ phát triển đô thị (theo đề nghị cụ thể nêu trên). Có

cơ chế điều tiết cho Thành phố từ các nguồn thu thuế tài nguyên, thuế giá trị

gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp nhà nước trên địa

bàn Thành phố để tăng vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đô thị.

- Chuyển giao công ty Môi trường đô thị Tam Kỳ cho Thành phố quản

lý để nâng cao hiệu lực quản lý điều hành, đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu

bức xúc của đô thị về các vến đề có liên quan đến môi sinh, môi trường. Xem

xét thành lập công ty công viên cây xanh và công ty điện chiếu sáng đô thị

trực thuộc Thành phố.

115

KếT LUậN

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho đất nước ta bước vững chắc vào thời trong thời kỳ phát triển mới- thời kỳ hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và quyết liệt. Cùng với cả nước, các đô thị Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, thật sự trở thành đầu tàu tăng trưởng kinh tế cho từng khu vực nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên bên cạnh những mặt được cơ bản thì cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, cũng làm này sinh nhiều vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi chính quyền các cấp phải không ngừng đổi mới, nâng cao trình độ, năng quản lý đô thị mới có thể đáp ứng được yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá.

Quản lý nhà nước về kết cấu HTKT là một phần, một bộ phận quan trọng trong công tác quản lý đô thị. Do đó cần có quan điểm đổi mới và tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, quản lý, cũng như cần có những chính sách quản lý, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức quản lý phù hợp, có hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển kết cấu HTKT đô thị. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, đòi hỏi phải hoàn thiện từng bước một. Thành phố Tam Kỳ là một thành phố tỉnh lỵ mới được tái lập cách đây 10 năm, được công nhận là thành phố thuộc tỉnh cuối năm 2006, việc xây dựng phát triển kết cấu HTKT đô thị đang được tập trung cao độ, đòi hỏi phải được sự quan tâm lãnh chỉ đạo, quản lý nhịp nhàng và có hiệu quả của các ngành, các cấp.

Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã trình những luận cứ khoa học và luận giải một cách có hệ thống các vấn đề sau:

Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Phân tích làm rõ đặc điểm và vai trò của kết cấu hạ tầng đô thị đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng của các đô thị.

Phân tích, đánh giá thực tiễn công tác quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Làm rõ vai trò

116

và các nội dung chủ yếu trong quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, đồng thời chỉ ra tính tất yếu khách quan phải đổi mới quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Nêu bật một số kinh nghiệm trong quản lý kết cấu HTKT ở một số đô thị, làm cơ sở để vận dụng hợp lý trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương, Luận văn đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này, với mong mỏi góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của thành phố Tam Kỳ, phấn đấu đến năm 2010 đạt được các tiêu chí cơ bản của đô thị loại II, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Tam Kỳ lần thứ XVIII, xây dựng thành phố Tam Kỳ ngày càng giàu đẹp, văn minh, thật sự trở thành Trung tâm chính trị-kinh tế-văn hóa, xã hội và khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Nam....

Đây là một đề tài phức tạp và mới mẻ, trong khi kiến thức và năng lực của bản thân người viết còn nhiều hạn chế, điều kiện nghiên cứu có hạn, chắc chắn luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong được người đọc tham gia góp ý xây dựng.

117

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Ban Đào tạo và Phổ biến kiến thức- Hội Khoa học kinh tế Việt Nam (1997), Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị, Tài liệu tập huấn lưu hành nội bộ, Hà Nội.

2. GS.TS Nguyễn Thế Bá (1997), Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

3. Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 70/2005/TT-BTC ngày 30 tháng 8 năm 2005 hướng dẫn Quy chế quản lý tài chính đối với quỹ Đầu tư phát triển thành phố Hà Nội, Hà Nội.

4. Bộ trưởng Bộ Xây dựng (1997), Quyết định số 682/BXD-CSXD ngày 14/12/1996 ban hành quy chuẩn xây dựng Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

5. Bộ Xây dựng (1999), Tài liệu hội nghị công bố và triển khai định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và định hướng phát triển cấp nước đô thị Việt Nam đến năm 2020, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

6. Bộ Xây dựng (1999), Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

7. Bộ Xây dựng (1999), Định hướng phát triển cấp nước đô thị đến năm 2020, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

8. Bộ Xây dựng (2007), Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày 14 tháng 02 năm 2007 hướng dẫn một số nội dung về: lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình; giấy phép xây dựng và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình quy định tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ, Hà Nội.

9. Bùi Trọng Cầu (1/2007), "Tiếp cận tổng thể trong quy hoạch các hệ thống cơ sở hạ tầng", Tạp chí Xây dựng, (467), tr.28.

10. Bảo Châu (2006), Kỹ xảo thiết kế cảnh quang kiến trúc đô thị, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

11. TSKH. Nguyễn Ngọc Châu (2001), Quản lý đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 12. Chính phủ (2005), Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm

2005 về quy hoạch xây dựng, Hà Nội.

118

13. Chính phủ (2007), Nghị định số 29/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2007 về quản lý kiến trúc đô thị, Hà Nội.

14. Chính phủ (2007), Nghị định số 41/2007/NĐ-CP ngày 22 tháng 03 năm 2007 về xây dựng ngầm đô thị, Hà Nội.

15. Trần Chủng (1/2007), "Nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng công trình xây dựng - nền tảng để hội nhập quốc tế", Tạp chí Xây dựng, (487), tr.4.

16. Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam (2001-2006), Niên giám thống kê thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, Phòng Thống kê thành phố Tam Kỳ.

17. TS. Võ Kim Cương (2004), Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

18. PGS. Trần Đức Dục (2000), Một số vấn đề cơ bản về kinh tế đầu tư quy hoạch và quản lý cơ sở hạ tầng đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

19. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (02/2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIX, Công ty in Quảng Nam, Tam Kỳ.

20. Đảng bộ thành phố Tam Kỳ (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XVIII, Công ty in Quảng Nam, Tam Kỳ.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Lê Văn Giang (2007), "Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản", Tạp chí Xây dựng, (471), tr.6.

23. Lưu Đức Hải (2003), "Vấn đề nghĩa trang - an táng trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị", Tạp chí Xây dựng, (9), tr.14.

24. Đinh Tuấn Hải (1/2007), "Vấn đề quản lý: một số khó khăn thường gặp trong các dự án đầu tư xây dựng", Tạp chí Xây dựng, (487), tr.12.

25. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (3/2002), Nâng cao năng lực quản lý đô thị, Kỷ yếu hội thảo, Mỹ Tho.

26. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (2003), Tổng hợp thông tin dự án nâng cao năng lực quản lý môi trường, Công ty in Thống kê và sản xuất bao bì Huế, Huế.

119

27. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (6/2004), Đô thị Việt Nam, Tài liệu lưu hành nội bộ, (số 1).

28. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (12/2004), Đô thị Việt Nam, Tài liệu lưu hành nội bộ, (số 2).

29. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (5/2005), Đô thị Việt Nam, tài liệu lưu hành nội bộ, (số 3).

30. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (2006), Quản lý quy hoạch và phát triển đô thị: Kinh nghiệm của liên minh Châu Âu, Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quản lý quy hoạch và phát triển đô thị, Hà Nội.

31. TS Vũ Ngọc Hoàng (12/01/2006), Phố làng, www.quangnam.gov.vn, Nguồn tin từ báo Thanh niên.

32. Yến Khanh (27/4/2007), Đề án củng cố và xây dựng quỹ đầu tư và phát triển đô thị TPHCM thành tổ chức đầu tư tài chính chủ lực của thành phố, WWW.hochiminhcity.gov.vn, thành phố Hồ Chí Minh.

33. GS. Nhiêu Hội Lâm (2004), Kinh tế học đô thị, người dịch Lê Quang Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. TS. Phạm Trọng Mạnh (2002), Quản lý đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 35. Nguyễn Đăng Sơn (2005), Phương pháp tiếp cận mới về quy hoạch và

quản lý đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 36. Tạp chí bộ Công nghiệp (22/11/2005), Nâng cao năng lực quản lý và sử

dụng hiệu quả nguồn vốn của các quỹ đầu tư địa phương, Hà Nội. 37. Trương Quang Thao (2003), Đô thị học những khái niệm mở đầu, Nxb

Xây dựng, Hà Nội. 38. Ngô Thế Thi (2006), "Bảo vệ môi trường trong phát triển khu công

nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí Quy hoạch xây dựng, (26), tr.82. 39. Ngô Thị Anh Thư (2006), "Đô thị hoá và lời cảnh báo về suy thoái môi

trường", Tạp chí Quy hoạch xây dựng, (19), tr.84. 40. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (1997), Phương hướng và giải pháp

120

cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế hoạch hoá đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật Hà Nội giai đoạn 1997-2000, Hà Nội.

41. ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (9/2005), Đề án nâng cấp thị xã Tam Kỳ lên đô thị loại III, Tam Kỳ.

42. ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Đề án thành lập thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Đồ án quy hoạch phát triển không gian đô thị Tam Kỳ đến năm 2025.

44. Uỷ ban nhân dân thành phố Tam Kỳ (12/2006), Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng năm 2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007, Tam Kỳ.

45. Uỷ ban nhân dân thành phố Tam Kỳ (01/2007), Báo cáo Đánh giá tình hình đầu tư XDCB của thành phố Tam Kỳ, Tam Kỳ.

46. Viện Quy hoạch Đô thị - Nông thôn, Bộ Xây dựng (2006), Năm mươi năm xây dựng và phát triển, Nxb Xây dựng, Hà Nội.