LỜI NÓI ĐẦU

59
ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ TIỂU LUẬN Đề tài : MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Giảng viên: PSG Tiến sĩ Nguyễn Vũ Hảo Học viên: Trần Thị Ngân Lớp: Cao học Tiếng

description

Tiểu luận triết học

Transcript of LỜI NÓI ĐẦU

Page 1: LỜI NÓI ĐẦU

ĐẠI HỌC QUỐC GIAĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ

TIỂU LUẬN

Đề tài: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ

Ý THỨC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI

MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên: PSG Tiến sĩ Nguyễn Vũ Hảo

Học viên: Trần Thị Ngân

Lớp: Cao học Tiếng Anh 23 C

Page 2: LỜI NÓI ĐẦU

Hà Nội, ngày 23 tháng 1 năm 2015

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................3

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA

VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC........................................................................................4

1.1.Vật chất..............................................................................................................4

1.1.1. Định nghĩa vật chất.....................................................................................4

1.1.2. Các đặc tính của vật chất...........................................................................5

1.2. Ý thức................................................................................................................9

1.2.1. Nguồn gốc của ý thức.................................................................................9

1.2.2. Kết cấu của ý thức....................................................................................11

1.2.3. Bản chất của ý thức..................................................................................13

1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức............................................14

1.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức............................................................14

1. 3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất...........................................................15

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận..............................................................................16

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT

CHẤT VÀ Ý THỨC ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN

NAY..........................................................................................................................18

2.1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng

giữa kinh tế và chính trị.........................................................................................18

2.2. Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế mới

của nước ta hiện nay..............................................................................................20

2.2.1. Sự thay đổi trước và sau thời kỳ đổi mới..................................................20

2.2.2.Thực tiên hội nhập kinh tế quốc tế qua gân 30 năm đổi mới.....................27

2.2.3. Nhưng han chế và kho khăn trong quá trinh hội nhập kinh tế quốc tế.....31

2.2.4. Một số giải pháp đê chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế............32

KẾT LUẬN..............................................................................................................35

2

Page 3: LỜI NÓI ĐẦU

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................36

LỜI NÓI ĐẦU

Trải qua gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được

những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Nhiều tiền đề cần thiết về công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được xác lập. Đồng thời mối quan hệ

giữa nước ta với các quốc gia khác trên thế giới cũng ngày càng được mở rộng.

Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc

đẩy quá trình dịch chuyển kinh tế và đời sống xã hội. Tuy nhiên, song song với

những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang phải đối diện với rất nhiều khó

khăn trước mắt.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt,

chủ đạo. Đồng thời với đổi mới kinh tế, những đổi mới về mặt chính trị cũng là một

vấn đề cấp bách bởi lẽ trên thực tế hai quá trình đó có mối liên hệ mật thiết, không

tách rời nhau. Đổi mới tư duy, đổi mới các quan điểm, quan niệm về phương thức

phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù trước hết trong kinh tế thì

cũng đã là đổi mới chính trị. Đổi mới các quan điểm chính trị chính là bước khởi

đầu cho đổi mới trong kinh tế và trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Với lẽ đó, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép ta

vận dụng nó vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của đất nước, góp phần xây

dựng một công cuộc đổi mới toàn diện, đưa đất nước ngày càng phát triển và vững

mạnh hơn.

Với vai trò là một giáo viên đồng thời là một công dân nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, muốn góp phần nhỏ vào công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước

thoát khỏi đói nghèo, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn

minh, em quyết định chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay”. Do kiến thức

3

Page 4: LỜI NÓI ĐẦU

bản thân còn hạn chế, thời gian có hạn, nên bài viết sẽ không thể tránh khỏi sai sót.

Chính vì vậy, em chân thành kính mong sự góp ý của thầy giáo và các bạn đọc.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1.1.Vật chất

1.1.1. Định nghĩa vật chấtVới tư cách là phạm trù triết học, vật chất đã có lịch sử phát triển lâu dài.

Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh

không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy

vật quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, được coi là những

chất “giới hạn tột cùng” đóng vai trò là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới. Từ thời cổ

đại, thuyết Ngũ hành của Trung Quốc đã cho rằng những chất tự có, đầu tiên đó là

kim – mộc – thủy – hỏa – thổ, hay ở Hy Lạp, phải Mile quan niệm vật chất là nước

(Quan niệm của Talet1), hay Anaximen2 quan niệm vật chất là không khí.

Nhìn chung, quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác

đã đặt nền móng cho khuy hướng lấy bản thân tự nhiên để giải thích về giới tự

nhiên. Tuy nhiên, bản thân những quan niệm đó còn thể hiện nhiều hạn chế, chỉ có

tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, nên nó tất yếu dẫn

đến quan điểm duy vật không triệt để.

Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống sự xuyên tạc của các nhà triết học duy

tâm, bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật, V.I Lênin kế thừa tư tưởng của

C.Mác và Ăngghen để đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất. Theo Lênin “vật

chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con

người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và

tổn tại không lệ thuộc vào cảm giác3.”

Rõ ràng, theo Lênin để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông

thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn vì

khá niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối

4

Page 5: LỜI NÓI ĐẦU

1. Talet (Thales, Khoảng 642 – 457 trước Công Nguyên): Nhà triết học, nhà toán học, nhà thiên văn

học, nhà chính trị

2. Anaximen (Anaximene, khoảng 589 – 547 trước Công Nguyên) (Người Hy Lạp): Nhà Triết học

3. V.I. Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.151

lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con

người trong cảm giác. Vật chất tồn tại độc lập so với cảm giác, với ý thức Ngược

lại, cảm giác, và ý thức thì lại phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.

Và nội dung cơ bản về định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm:

Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với

khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành.

Thứ hai, thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là tính tồn tại khách

quan, tức là tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con

người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

Thứ ba, vật chất dưới dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con người

khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con

người là sự phản ánh đối với vật chất; vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Như vậy, Lênin đã khẳng định “vật chất là thực tại khách quan, được đem lại

cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất là

tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác và ý thức. Và khi nhận thức

các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, Lênin đã xác định cái gì là vật chất trong lĩnh

vực xã hội, tìm ra sự vận động trong phương thức sản xuất. Do đó, định nghĩa của

Lênin đã bác bỏ quan điểm chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết và đã

khắc phục được hạn chế trong quan điểm chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất.

Hơn thế nữa, định nghĩa này còn giúp chúng ta xác định những nhân tố vật chất

trong đời sống xã hội, và nó có ý thức trực tiếp định hướng cho khoa học tự nhiên,

giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu các dạng cụ thể của vật

chất trong giới vi mô. Nó còn giúp chúng ta có thái độ khách quan và đỏi hỏi chúng

ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.

1.1.2. Các đặc tính của vật chấtTheo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật

chất; không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.

5

Page 6: LỜI NÓI ĐẦU

1.1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của

vật thể.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến

đổi nói chung chứ không phải chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong không gian.

Ăngghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại của vật chất là một thuộc

tính cố hữu của vật chất. Nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra

trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho tới tư duy. Vận động có nhiều hình

thức trong đó có năm hình thức cơ bản:

+ Thứ nhất là vận động cơ học. Đây là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong

không gian. Ví dụ như chim bay, tàu chạy, sự di chuyển của con lắc, hoặc trái đất

quay quanh mặt trời.

+ Thứ hai là vận động vật lý, là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận

động điện tử, các quá trình nhiệt, điện... Ví dụ của vận động vật lý đó là các điện

tích di chuyển tạo ra dòng điện, hoặc ma sát sinh ra nhiệt...

+ Thứ ba là vận động hóa học, chính là vận động của các nguyên tửm các quá trình

phân hợp và phân giải các chất. Ví dụ, cabon kết hợp với oxi tạo ra cabonic.

Thứ tư là vận động sinh học. Đây là sự trao đổi chất giữa các cơ thể sống và môi

trường, ví dụ như cây xanh quang hợp ánh nặng mặt trời, tạo ra tinh bột để nuôi

sống cơ thể.

+ Và cuối cùng là vận động xã hội, hay chính là mọi sự biến đổi, thay thế của các

hình thái kinh tế- xã hội. Ví dụ như sự thay đổi của xã hội loài người, từ chế độ

Phong kiến sang tư bản chủ nghĩa rồi vận động lên xã hội chủ nghĩa.

Các hình thức vận động tuy có đặc điểm riêng, nhưng lại có mối liên hệ chặt

chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong những điều kiện nhất định có thể chuyển

hóa cho nhau. Ví dụ như vận động cơ học tạo ra vận động vật lý trong trường hợp

sức nước tạo ra dòng điện.

Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là do sự tác động qua lại với

các hình thức vận động khác, trong đó hình thức vận động cao hơn luôn bao hàm

những hình thức vận động thấp hơn, nhưng cũng không thể coi hình thức vận động

cao là tổng số đơn giản của các vận động thấp. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự

6

Page 7: LỜI NÓI ĐẦU

vật đều có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau, song bản thân nó bao giờ

cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.

Ví dụ, trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học,

sinh học, song hình thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định

sự khác nhau giữa cơ thể sống với những dạng vật chất khác.

Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng,

không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận động và

thông qua vận động mà nó biểu hiện sự tồn tại của mình. Hay nói cách khác, vận

động chính là phương thức tồn tại của vật chất. Ăngghen nhận định rằng cách hình

thức khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, và

ngược lại chỉ có thể thông qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của vật

thể. Trong thế giới vật chất, từ các hạt cơ bản trong thế giới vi mô đến hệ thống các

hành tinh khổng lồ trong giới vĩ mô, từ vô cơ đến hữu cơ, đến xã hội loài người, tất

cả đều ở trong trạng thái vận động. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể

thống nhất có kết cấu xác định, gồm những nhân tố, những bộ phận, những xu

hướng khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Sự tác động qua lại

đó gây ra biến đổi. Nguồn gốc vận động là do những nguyên nhân bên trong, và vận

động của vật chất là tự thân vận động.

Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài

của vật chất. Vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được, do đó

vận động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh

được rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu

nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển

hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự

tồn tại vĩnh viễn của vật chất.

Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng, nhưng điều

đó không loại trừ mà còn bao hàm hiện tượng đứng im tương đối. Không có hiện

tượng đứng im tương đối thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự

vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật

hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật

hiện tượng, đứng im chỉ thể hiện một trạng thái vận động đó là vận động trong

7

Page 8: LỜI NÓI ĐẦU

thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Đứng im còn được biểu hiện như một quá

trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo

Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn

bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt".

1.1.2.2. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất

Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng

tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương

quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái) với những dạng

vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Không gian

phản ánh thuộc tính của các vật chất có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn,

cao thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau,

biểu hiện quán tính và trật tự phân bố của chúng.

Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh

hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời

gian. Thời gian biểu hiện tốc độ, trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính

tách biệt các giai đoạn khác nhau của quá trình đó.

Không gian và thời gian là hình thức cơ bản của vật chất vận động. Ăngghen

cho rằng: “các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại

ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian1”. Hơn nữa,

Lênin đã chỉ ra rằng không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận

động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và thời

gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan để sắp đặt các cảm

giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn nhưng những gì chủ nghĩa duy tâm quan

niệm, đồng thời nó cũng không thể đứng ngoài vật chất. Không có không gian trống

rộng và không gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối. Trái lại, không

gian và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.

1.1.2.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới

Chủ nghĩa duy tâm coi tinh thần, ý thức có trước, quyết định vật chất nên tính thống

nhất của thế giới là ở ý thức, ở các lực lượng tinh thần siêu nhiên.

8

Page 9: LỜI NÓI ĐẦU

Vấn đề tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản

của triết học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật

chất; các sự vật, hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Chủ nghĩa duy vật

biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất; các sự vật, hiện tượng

1. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t20, tr 78

thống nhất với nhau ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở :

Thứ nhất, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều có tính vật chất là tồn tại khách

quan, độc lập với ý thức của con người.

Thứ hai, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì

khác ngoài vật chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá theo những quy luật

khách quan chung của mình.

Thứ ba, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất;

chúng đều mang đặc tính chung của vật chất (tồn tại vĩnh viễn, nghĩa là không bao

giờ trở về số 0, không mất đi); đều được sinh ra từ vật chất (ý thức chẳng hạn).

Cuối cùng, tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện ở sự tồn tại của thế giới

thông qua giới vô cơ, giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa

chúng có sự liên hệ tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển.

Các quá trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống nhất vật chất của thế giới trong các

hình thức và giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử, từ phân tử đến các cơ

thể sống, từ các cơ thể sống đến con người và xã hội loài người.

1.2. Ý thức

1.2.1. Nguồn gốc của ý thức1.2.1.1. Nguồn gốc tự nhiên

Dựa trên những thành tự của khoa học tự nhiện. Nhất là sinh lý học thần

kinh, chủ nghĩa duy vật bieenjc hwungs khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của

một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc con người hiện đại

là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội và có cấu tạo rất

phức tạp. Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh

của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thwucs vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ

9

Page 10: LỜI NÓI ĐẦU

khi bộ óc bị tổng thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng

của bộ óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khác quan, nhưng ý thức

không diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý, thần kinh của bộ óc người.

Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc,

thần bí hóa hiện tượng tâm lý, ý thức. Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng

nhất vật chất với ý thức.

Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên

ngoài để bộ óc phản ánh lại động tác đó thì cũng không teher có ý thức.

Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh

là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ

thống vật chất khác. Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc

tính phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp tới cao với nhiều hình thức khác

nhau.

- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn gián nhất ở giới vô sinh, thể hiện qua

các quá trình biến đổi cơ, lý, hóa.

- Phản ánh sinh học: Trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức phản ánh khác

nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật

+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc trước

tác động của môi trường. Ví dụ như hoa hướng dương luôn xoay về hướng có ánh

nắng mặt trơi, ngọn cây luôn vươn về nơi có ánh sáng.

+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do những

tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó hoàn thiện hơn

tính kích thích, được thể hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển mối liên

hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.

Ví dụ, mùa đông trời lại, thời tiết tác động lên cơ thể những con chim, và chúng

phản ứng lại bằng cách bay về phương nam để tránh cái rét.

+Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các quá

trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua cảm giác, tri giác, biểu tượng ở

động vật có hệ thần kinh trung ương.

10

Page 11: LỜI NÓI ĐẦU

- Phản ánh ý thức: gắn liền với quá trình chuyển hóa từ vượn thành người. Đó là

hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ

óc con người.

Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn gốc tự

nhiên của ý thức.

1.2.1.2. Nguồn gốc xã hội

Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức trongd dó cơ bản nhất và

trực tiếp nhất là lao động vào ngôn ngữ

Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản

phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá

trình vừa làm thay đổi cấu trúc cở thể người vừa làm giới tự nhiên bộ lộ những

thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó thông qua những hiện

tượng mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt

động của các giác quan, tác động đến bộ óc người, thi thức nói riêng, ý thwucs nói

chung về thế giới khách quan hình thành và phát triển.

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý

thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang

tính xã hội. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh

ở họ nhu cầu phải có phương tiện giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm

ngôn ngữ này sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ mà

con người không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc rút thực tiễn,

truyền đạt kinh nghiệm, tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp nhất quyết định sự ra đời và phát triển

của ý thức là lao động. Sau lao động, và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là

hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc

đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người và khiến cho tâm lý động vật

dần dần chuyển hóa thành ý thức.

1.2.2. Kết cấu của ý thứcCũng như vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường phái

khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là đặc tính và

11

Page 12: LỜI NÓI ĐẦU

là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của

con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức

chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc của con người và được cải

biến đi.

Ý thức là một tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp, bao gồm tự ý thức, tri thức,

tình cảm, ý chí. Trong đó, tri thức là phương thức tồn tại quan trọng nhất của ý thức.

Tri thứ là phương thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của ý

thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức và cải biến thế giới tự

nhiên. Tri thức càng được tích lũy, con người ngày càng đi sâu vảo bản chất sự vật

và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng

hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng nhất và nó có ý nghãi

chống quan điểm đơn giản coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí.

Quan niệm đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí, của niềm tin mù

quáng, của sự tưởng tượng, chủ quan. Tuy nhiên, việc nhấn mạnh yếu tố tri thwucs

cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình

cảm, ý trí.

Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi

tự ý thức là một thực thể độc lập tự nó có sẵn trong các cá nhân. Trái lại, chủ nghĩa

duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hướng về bản thân mình thông qua

quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự

phân biệt mình, đối lập mình với thế giwosi đó và tự nhận thức mình như là một

thực thể hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong

xã hội. Mặt khác, sự giao tiếp trong xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con

người phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các

tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra, văn hóa cũng đóng vai trò là cái gương soi

giúp cho con người tự ý thức về bản thân.

Vô thức là một hiện tượng tâm lý nhưng có liên quan đến những hoạt động

xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loại vô thức, loại thứ nhất liên quan đến

các hành vi chưa được con người ý thức và loại thứu hai liên quan đến các hành vi

trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại đã trở thành thối quen và có thể diễn ra

“tự động” bên ngoài sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi

12

Page 13: LỜI NÓI ĐẦU

hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó giúp con người giảm bớt

căng thẳng trong hoạt động. Để biến những hành vi tích cực thành thói quen có vai

trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Trong con người, ý thức vẫn là cái

chủ đọa, cái quyết định hành vi cá nhân.

1.2.3. Bản chất của ý thứcTừ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản

ánh sang tạo và bản tính xã hội.

Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài, là biểu thị nội

dung nhận được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh.

Bản tính phản ánh quy định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy cái

khách quan làm tiền đề, bị khách quan quy định và có nội dung phản ánh là thế giới

khách quan.

Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến

và thống trị giới tự nhiên của con người, và trở thành mặt không thể thiếu được của

hoạt động đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, nó không chụp lại một cách

thụ động, nguyên gốc sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu thập

thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thực còn thể

hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ đông tác

động vào thế giới để phản ánh thế giới đó.

Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Không

có phản ánh thì không có sáng ạo vì phản ánh là điểm xuất phát, là cơ sở của sáng

tạo. Ngược lại, không có sự sáng tạo thì không phải là sự phản ánh ý thức. Đó là

mối quan hệ giữa hai quá trình thu nhận, xử lý thông tin, là sự thống nhất giữa mặt

khách quan và chủ quan trong ý thức.

Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của

con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Do

đó, ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. Ý thức trước hết là tri thức của

con người về hoàn cảnh và xã hội, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan,

về mối liên hệ giữa người với người trong xã hội. Do đó, ý thức xã hội hình thành

và bị chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các quy luật của sự tồn tại xã hội đó, và ý thức

của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức cũng

13

Page 14: LỜI NÓI ĐẦU

thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng

động chủ quan của ý thức và quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong

hoạt động cải tạo thế giới của con người.

1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thứcMối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối

quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,

quyết định ý thức. Song, ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở

lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa tuyệt đối

trong phạm vi hết sức hạn chế, trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận

thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước, cái gì là có sau. Ngoài giới hạn đó thì

không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tuowngd dối. Như vậy, để phân

ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và sự thống

nhất của thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức.

1.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thứcChủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất co trước, ý thức co sau,

vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vi

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên

chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới

vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là

sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển

hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng

mình quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Cụ thể, hoạt động ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý

thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ nạo người bị tổn thương thì hoạt động

của ý thức cũng bị rối loạn

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức hoặc chính bản

thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất đã khẳng định vật chất là

nguồn gốc của ý thức

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật

chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát

14

Page 15: LỜI NÓI ĐẦU

triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy

luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc

lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả

hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

Ví dụ, ở Việt Nam, nhận thức của các em học sinh tiểu học và trung học về

công nghệ thông tin còn kém. Sở dĩ như vậy là do vấn đề về máy móc cũng như đội

ngũ giáo viên giảng dạy còn thiếu. Nhưng nếu vần đề về cơ sở vật chất được đáp

ứng thì trình độ về công nghệ thông tin của các em sẽ được nâng cao hơn nhiều.

1. 3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chấtTrong mối quan hệ với vật chất, ý thức co thê tác động trở lai vật chất thông

qua hoat động thực tiên của con người

Ý thức là ý thức của con người cho nên khi nói đến vai trò của ý thức là nói

đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trược tiếp thay đổi được gì

trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt

động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò

của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị

cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy, con người xác định

mục tiêu, đề ra phương hướng xâu dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện

pháp, công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể

hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con

người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích

cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm

cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy

luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình

thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo. Đó chính là sự tác động tích cực

của ý thức; tuy nhiên, nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực

khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của

con người đã đi ngược các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu

cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

15

Page 16: LỜI NÓI ĐẦU

Ví dụ, từ nhận thức đúng đắn về thực tại nền kinh tế của đất nước, đại hội VI

đã chuyển nền kinh tế từ trị cung tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường nhiều

thành phần. Nhờ đó là sau gần 20 năm đổi mới, bộ mặt đất nước đã thay đổi rất

nhiều. Hoặc trường hợp của nhà máy xử lý rác thải Đồng Tháp cũng là một ví dụ

điển hình. Từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn là nhận thức

chưa đầy đủ về việc xử lý rác vô cơ và hữu cơ, nên khi vừa mới khai trương nhà

máy này đã không thể xử lý rác thải và cho đến nay, nó vẫn chỉ là một đống phế liệu

cần thanh lý.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể

quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay

sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, nguồn gốc, bản chất của ý thức về vai trò của vật chất,

của ý thức có thể thấy rằng vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và

khả năng sáng tạo của tri thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức. Bên cạnh

đó, ý thức chỉ có khả năng tác động người trở lại vật chất, sự tác động ấy không

phải là tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của

ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ

thâm nhập của ý thức vào các hành động,trình độ tổ chức của con người và những

điều kiện vật chất, hòan cảnh vật chất trong đó con người hành động theo định

hướng của ý thức.

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức nêu trên, chúng ta có thể

rút ra được một số phương pháp luận quan trọng và thiết yếu sau đây

Thế giới vật chất tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con

người.

Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan, có thể tác động trở

lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vì vậy trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ

thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phải phát huy tính năng động

chủ quan của con người.

16

Page 17: LỜI NÓI ĐẦU

Như vậy, vất chất và ý thức luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tuyệt đối

hóa bất cứ mặt nào cũng đều sai lầm. Điều đó có ý nghĩa phương pháp luận hết sức

to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người.

Vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, do đó trong hoạt động thực tiễn, chúng

ta phải xây dựng và tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc này thể hiện ở các

vấn đề sau:

- Một là đòi hỏi tư duy của chúng ta phải nhận thức sự vật với tư cách khách quan,

tồn tại và phát triển ngoài ý thức của con người.

- Hai là, ngoài việc tôn trọng sự vật, hiện tượng, cần coi trọng nhân tố chủ quan:

tính năng động, sáng tạo của ý thức trong việc tìm ra những con đường, những

phương pháp tốt nhất để cải cải tạo hiện thực.

- Ba là, đòi hỏi sự trung thực trong sự phản ánh, điều đó có tác dụng ngăn ngừa tư

duy của chúng ta vấp phải những sai lầm do việc chủ thể đưa vào khách thể một số

yếu tố khách quan vốn không có trong bản thể khách thể đó. Nguyên tắc khách quan

góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí. Nguyên nhân xuất phát từ việc

cường điệu tính sáng tạo của ý thức, tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan của ý

chí, bất chấp qui luật khách quan, vi phạm nguyên tắc khách quan là do xa rời thực

tiễn, do hạn chế về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận; do thiếu thông tin hoặc

của chủ thể nhận thức cố tình vi phạm nguyên tắc này.

Ý thức tác động trở lại thế giới vật chất. Vì vậy, trong nhận thức cũng như

trong hoạt động thực tiễn, nhất là khi đề ra chủ trương đường lối chính sách cần

phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, đồng

thời phải nâng cao tính năng động chủ quan. Để đạt được mục đích này, cần phải

nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin,

nâng cao lòng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện cả tài lẫn đức... Xuất phát từ ý nghĩa

đó, Đảng ta luôn xác định: Một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh

đạo đúng đắn của mình là phải luôn luôn đề ra các chủ trương chính sách xuất phát

từ các yêu cầu bức xúc cần giải quyết của thực tiễn, đồng thời trong quá trình thực

hiện phải tôn trọng và thực hiện đúng quy luật khách quan.

17

Page 18: LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN

NAY

2.1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị

Như chúng ta đã biết, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với

nhau. Nhân tố vật chất giữ vai trò cơ sở quyết định, còn nhân tố ý thức có tác dụng

trở lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố có tác dụng quyết

định đến sự thành bại của hoạt động cải tạo con người. Điều này thể hiện rõ trong

tác đông của đường lới, chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng. Song xét

đến cùng, tác động của ý thức chỉ có tính tương đối, có điều kiện. Vai trò tích cực

hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thê,r

vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo quy luật khách quan, đòi hỏi ý

thức phải biến đổi phù hợp với nó. Nếu là tiêu cực, ý thức sớm muộn gì cũng sẽ bị

đào thải. Mặt khác, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh, hơn nữa, vai trò của nó còn

tùy thuộc vào mức độ chính xác trong phản ánh hiên thực.

Do vậy, xét toàn bộ, ý thức vẫn là nhân tố thứ hai bị quyết định, cần chú ý

rằng vai trò của ý thức chỉ có được nếu nó thâm nhập vào quần hcusng và tổ chức

xã hội. Nếu như chúng ta đưa nó vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì chúng ta có thể

thấy rằng giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính trị (biểu hiện của ý thức)

cũng có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Bởi chúng ta thấy rằng tfinh hình kinh tế

của một nước là cơ bản quyết định còn chính trị là cơ bản, Nếu kinh tế của một

nước mà giàu mạnh nhưng chính trị luôn bất ổn, đấu tranh giai cấp, tôn giáo, giữa

các đảng phái khác nhau của một quốc gia thì cũng không thể tồn tại lâu dài được.

Cuộc sống của nhân dân sung túc, đầy đủ nhưng luôn phải sống trong lo âu, sợ hãi

vì chiến tranh và chết tróc. Do đó, chính trị của một nước mà ổn định, tuy nhiều

đảng khác nhau nhưng vẫn quy về một chính đảng thống nhất, đảng vẫn đem lại sự

18

Page 19: LỜI NÓI ĐẦU

yên ấm cho nhân dân, đất nước đó giàu mạnh cuộc sống nhân dân ấm no, hạnh

phúc.

Mối quan hệ giữa chính trình và kinh tế thay đổi theo từng hình thái kinh tế ,

chính trị, xã hội. Con người trải qua năm hình thái kinh tế xã hội. Thời kỳ nguyên

thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trình độ tổ chwucs

quản lý và tính chất hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ hiện

đại và mức sống của xã hội. Sản xuất vật chất là nền tảng hình thành tất cả các mối

quan hệ của đời sống bao gồm: quan hệ chính trị, nhà nước pháp quyền, đạo đức,

khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... Theo Mác, quan hệ giữa người với người trong quá

trình sản xuất (quan hệ kinh tế) là mối quan hệ cơ bản nhất quyết định tất cả các

mối quan hệ khác. Một khi sản xuất phát triển, cách thức sản xuất sẽ thay đổi, năng

xuất lao động tăng, mức sống được nâng cao, thì các mối quan hệ của mọi mặt đời

sống cũng được thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên, quan

trọng nhất tham gia vào quá trình phân hóa và hoàn thiện chức năng của con người,

thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội. Sản xuất vật chất môi trường tự nhiên,

điều kiện xã hội... đòi hỏi thể lực trí tuệ và nhân cách của con người phải phát triển

thích ứng với nó. Yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất

làm cho khoa học kỹ thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội ngày càng phát triển và

hoàn thiện. Đó chính là cơ sở quyết định sự phát triển hoàn thiện các kỹ năng của

con người, của chính trị, của xã hội là nhân tố quan trọng hàng đàu của lực lượng

sản xuất xã hội. Sự phong phú và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển

mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật

chất là cơ sở cho sự nảy sinh phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất và

năng lực tinh thần của con người.

Tóm lai, hoạt động của con người, những nhu cầu về vật chất hay kinh tế bao

giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục dích hoạt động bởi vì con

người trước hết phải ăn mặc, ở rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí. Hoạt động nhận

thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn

nhu cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối

và phụ thuộc vào việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật

chất hiện có.

19

Page 20: LỜI NÓI ĐẦU

Nền kinh tế của một nước là cơ sở để nước đó thực hiện những chủ trương,

biện pháp trong việc quản lý, đề ra những chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược

phát triển quân đội để đảm bao an ninh và chủ quyền quốc gia. Căn cứ vào thực

trạng của nền kinh tế, các tư tưởng và chính sách đổi mới, phát triển kinh tế được

đưa ra phù hợp và hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội, cho nhân

dân. Tác dụng ngược trở lại, thể chế chính trị hay chính là ý thức của một nước

đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định là điều

kiện tốt, tạo không khí yên ấm, thoải mái và tự do để người người, nhà nhà, các

công ty, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, xã hội cống hiến và phát triển

hết khả năng của mình để đem lại lợi ích cho bản thân mình và lợi ích cho xã hội.

Nguyên lý triết học Mác - Lênin là mối quan hệ biện chứng vật chất và ý

thức đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật tự thực tế khách quan, tránh

chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, phát huy nỗ lực hoạt động chủ quan trong hoạt động

của con người (Ví dụ như trong hoạt động kinh tế của nước ta, công cuộc đổi mới

do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng đã rất chú trọng trong việc đề cao yếu tố

con người, làm cho ý thức thay đổi, thâm nhập và cơ sở kinh tế và động viên quần

chúng).

2.2. Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế mới của nước ta hiện nay

2.2.1. Sự thay đổi trước và sau thời kỳ đổi mớiNhư chúng ta đã biết, sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nền

kinh tế miền Bắc còn nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ cấu

kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu

cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân,

nguyên liệu cho công nghiệp cũng như hàng hóa xuất khảo. Mặt khác, nền kinh tế

miền Bắc còn bị chiến tranh phá hoại nghiêm trọng bởi không quân của đế quốc

Mỹ. Ở miền Nam, sau 20 năm chiến tranh, kinh tế bị đảo lộ, suy sụp. Nông nghiệp

nhiều vùng bị hoang hóa, lạm phát trầm trọng.

Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế

hoạch năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất vượt khả năng của nền kinh tế.

Ví dụ, năm 1975 phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu

20

Page 21: LỜI NÓI ĐẦU

héc ta khai hoang... Đặc biệt là đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công

nghiệp nặng như cơ khí, đặt nhiệm vụ hoàn thành về cở bản cải tạo xã hội chủ nghĩa

ở miền Nam. Nhưng chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập trung quan

liêu bao cấp đã tác động xấu đến nền kinh tê,s ảnh hưởng không tốt tới đời sống

nhân dân. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề

ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp.

Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra đầy đủ được những nguyên nhân

đích thực của sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra được nhưng

chủ trương, chính sách và toàn diện về đổi mới nhất là về kinh tế.Trong năm năm kể

từ 1981 đến 1985, chsung ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí

cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm nhwungx sai

lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Nhìn chung, chúng ta

chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định

tình hình kinh kế xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã

nhận định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định đúng mục tiêu và phương

hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm

quy luật khách quan. Đó là sự nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay

nền kinh tế nhiều thành phần; nhiều lúc đẩy mạnh quá mức xây dựng công việc

nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ

trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.

Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên, còn có những

nguyên nhân khách quan như hậu quả, tàn dư của chiến tranh, bối cảnh quốc tế. Tuy

nhiên, nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm

cùng với những trì trệ trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất

và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.

Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (ở đây là các

chủ trương chính sách về quản lý) đối với vật chất và thấy tác động qua lại giữ knh

tế và chính trị khi tiến hành công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng

định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đào thải.

21

Page 22: LỜI NÓI ĐẦU

Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hôi ở

nước ta, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến

rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội lầ

thứ VI của Đảng đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn trong đó kinh nghiệm phải luôn xuất

phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra

đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích

đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế, xã hội, đề ra các định hướng

lớn và xác định chủ trương đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh tế, đã thwucj hiện

mục tiêu của ba chương trình kinh tế bao gồm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu

dùng, xuất khẩu; hình thành nèn kinh tế hàng háo nhiều thành phần, thừa nhận sự

tồn tại của tiểu tư sản sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân, đởi mới cơ chế

quản lý kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Trong quá trình thực

hiện nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc tế phức tạp đã ảnh hưởng xấu đến

tình hình kinh tế chính trị và xã hội nước ta nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới. Và đến

đại hội đại biểu toàn quốc lầ thứ VII, tình hình chính trị xã hội của đất nước ổn

định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà

nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được

hạn chế bớt: đời sống vật chất tinh thần của mét bộ phận nhân dân có phần được cải

thiện.

Không chủ quan với những thành tựu đã đạt được. Đại hội VII chỉ ra những

tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức cao

nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên... , đồng thời

còng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới, còn nhiều

núng túng và nhiều sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường

Như vậy, rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn

phương pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào

công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong

lĩnh vực chính trị. Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc

22

Page 23: LỜI NÓI ĐẦU

tế và trong nước đã đề ra mục tiểu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những phương

châm chỉ đạo trong năm năm 1991-1995, đặc biệt đáng chú ý là phương châm kết

hợp động lực kinh tế và động lực chính trị tinh thần.

Lạm phát được đẩy lùi tõ 67% năm 1991 xuống 17, 5% năm 1992 và còn 5, 2%

năm 1993. Tổng sản lượng trong nước GDP tăng bình quân 8, 2% (mức đề ra trong

năm 1991 - 1995 là 5, 5-6, 5%). Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn

diện, sản lượng lương thực năm năm qua đã tăng 26% so với năm năm trước, tạo

điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch

cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực được giải quyết tốt.

Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13, 3% (mức kế

hoách là 7, 5-8, 5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hoá và

đa phương hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn đầu tư

vốn từ nước ngoài tăng mạnh... tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991

- 1995 đạt trên 17 tỉ USD (kế hoạch 12 - 15 tỉ USD), đảm bảo nhập các loại vật tư,

thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện

cán cân thanh toán thương mại... Khoa học công nghệ có bứơc phát triển, đã tập

chung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát

triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Lĩnh vực văn hoá- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân

dân được cải thiện một bước. Quốc phòng an ninh được giữ vững.

Như vậy, ở đây lại càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính trị và xã

hội, đối với công tác đối ngoại và công tác quốc phòng an ninh... Đổi mới kinh tế

quyết định nhưng các nhân tố chính trị, xã hội, đối ngoại, ... còng ảnh hưởng tích

cực trở lại một cách biên chứng đối với kinh tế, vận dụng đúng đắn các quy luật của

phép biện chứng. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ cũng vạch ra những

yếu kém về mặt kinh tế như “Nền kinh tế còn mang đậm chất nông nghiệp lạc hậu,

công nghiệp nhỏ bé,kết cấu hạ tầng kém phát triển, kinh tế tuy tăng trưởng nhưng

năng suất, chất lượng và hiệu quả chưa cao” và những vấn đề tồn tại lớn về mặt văn

hóa- xã hội. Để có những chủ trương và biện pháp giải quyết, hội nghị dự đoán

những thách thức lớn và những cơ hội lớn trong thời gian tới, từ đó đề ra những

nhiệm vụ chủ yếu, nhằm thúc đẩy sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công

23

Page 24: LỜI NÓI ĐẦU

nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều

thành phần, xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, chăm lo các vấn đề văn hóa – xã hội, bảo đảm quốc

phòng an ninh, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; đổi mới

chỉnh đốn Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Sau hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, Trung Ương Đảng khóa VII

ra nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ mới đến năm 2000 theo hướng

công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Xây dựng giai cấp công nhân trong giai

đoạn mới. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Với nội dung của hội nghị

Trung Ương lần thứ VIII, có thể nói chúng ta đã hoàn thành chương trình cụ thể hóa

một bước cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội VII đã

thông qua.

Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười năm (1987-1995), chúng

ta càng có cơ sở để khẳng định rằng, công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là

hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử tức là

chúng ta phải thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường mà trước đấy chúng

ta đã phủ nhận nó mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản.

Trước đây, Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khahcs

quan, nóng vội. Và trên cơ sở nghiên cứu tình hình các nước tư bản chủ nghĩa trên

thế giới, những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội và tình hình thực tế của nước ta để

vận dụng một cách tổng hợp các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của chủ nghĩa tư

bản và đưa ra phương châm phát triển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, qua thực tiễn mười năm đổi mới, chúng ta

cũng nhận thức rõ là không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề

xã hội mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế

luôn phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội

Trên tinh thần đó, cùng với những kinh nghiệm đã thu được từ những năm

đổi mới, Đại hội VIII lần này cũng đã đi từ thực tế khách quan, đánh giá những đăc

điểm của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn,

thời cơ và thách thức. Đảng ta cũng đã nhận định thuận lợi và khó khắn, thời cơ và

24

Page 25: LỜI NÓI ĐẦU

thách thức luôn đan xen nhau vì vậy cúng ta phải chủ động nắm thời cơ, vươn lên

phát triển nhanh và vững chắc, tao ra thế và lực mới; đồng thời luôn luôn tỉnh táo,

kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ kể cả những nguy cơ mới nảy sinh,

đảm bảo phát triển đúng hướng. Xuất phát từ tình hình nói trên và căn cứ vào

Cương lĩnh của Đảng, chúng ta cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật

hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,

đảm bảo vững chắc an ninh quốc phòng, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đề ra là cho đến năm 2020, ra sức phấn đấu

đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Và thực tế trong những năm qua, với những chính sách, chương trình phát

triển kinh tế, chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được

những bước tiến rất quan trọng, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, là thành viên của

khối ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), đặc biệt, chúng ta đã trở thành

thành viên của khối APEC năm 1998 ( APEC là Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –

Thái Bình Dương). Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nay đất nước ta đã bình thường hóa

quan hệ ngoại giao với các nước, phát triển hòa bình với các nước láng giềng khu

vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, là

nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và

lãnh đạo ngày càng được cụ thể hóa và đi vào chiều sâu, được nhân dân nhiệt liệt

hưởng ứng và hăng hai tham gia. Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn,

sáng tạo phương pháp luận triết học toàn diện Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới

nhằm tăng trưởng kinh tế là rất rõ ràng.

Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu,

góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh

tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống

25

Page 26: LỜI NÓI ĐẦU

nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng

cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại

giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước và 70

vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng

với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước

trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh,

văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.

Xuyên suốt quá trình gần 30 năm đổi mới, có thể thấy quan điểm về đối

ngoại của Đảng và Nhà nước ta là:

Một là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa

phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác

tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát

triển.

Hai là, tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh

phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế

giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ba là, mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ

chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải

quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; chống mọi hành

động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.

Đối với hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta xác định:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền

kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và

chủ quyền đất nước; khẳng định mở cửa, hội nhập để khai thác các mặt có lợi cho

sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới.

26

Page 27: LỜI NÓI ĐẦU

Thứ ba, chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi

với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với

khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng

những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.

Thứ tư, chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ

thị trường trong nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường tiền tệ,

thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập với khu vực và hội nhập toàn cầu, xử

lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.

Thứ năm, song song với việc xây dựng, phát triển đồng bộ thị trường, chúng ta phải

nhanh chóng xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Doanh nghiệp là đội quân

xung kích vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế.

Thứ sáu, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích cực tham gia đàm

phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các hiệp định, định chế quốc

tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh táo và thích hợp.

2.2.2.Thực tiên hội nhập kinh tế quốc tế qua gân 30 năm đổi mớiThực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế

quốc tế, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả

vững chắc. Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định

Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập

WTO vào tháng 01-2007 và tham gia 8 Hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực

và song phương. Cụ thể, ta đã cùng với các nước ASEAN ký các Hiệp định thương

mại tự do giữa khối ASEAN với các đối tác như Trung Quốc vào năm 2004, với

Hàn Quốc vào năm 2006, Nhật Bản vào năm 2008, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân vào

năm 2009, Ân Độ năm 2009. Ngoài ra, ta đã ký 2 FTA song phương là FTA Việt

Nam - Nhật Bản năm 2008 và FTA Việt Nam - Chi-lê năm 2011.

Hiện nay, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán 6 FTA khác, gồm Hiệp

định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với

Liên minh thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ka-dắc-xtan, với Khối Thương mại tự do

châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sĩ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA

với Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Công, Trung Quốc. Ngoài ra,

Việt Nam cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu

27

Page 28: LỜI NÓI ĐẦU

Á - Thái Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai

APEC năm 2017 với hàng trăm cuộc họp từ cấp chuyên viên đến cấp cao.

Quá trình gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào

quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình

mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát

triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thể hiện trên những mặt chính sau:

Thứ nhất, về hoạt động xuất, nhập khẩu. Về xuất khẩu, quá trình tích cực, chủ động

tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã giúp Việt Nam có điều kiện

mở rộng thị trường xuất khẩu dựa trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên

phong phú, nguồn lực lao động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã

hội… Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu đã không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và

tốc độ, cũng như mặt hàng xuất khẩu chủ lực và trở thành động lực chính, quan

trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Về quy mô, kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một

phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất

khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2013 đã cao gấp 167,5 lần, trong đó thủy sản

gấp 63,4 lần; hạt tiêu gấp 42,9 lần; hạt điều gấp 200,8 lần; rau quả gấp 23,8 lần. Một

số mặt hàng tuy vào các thời kỳ sau mới xuất khẩu, nhưng năm 2013 đã đạt quy mô

lớn, trong đó có 22 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch

xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn tăng trung bình trên 15%/năm. Đặc biệt là thời

kỳ từ sau khi gia nhập WTO đến nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt quy mô

lớn và tốc độ tăng trưởng cao (trừ năm 2009 tốc độ tăng trưởng âm). Xuất khẩu

hàng hóa/GDP vào năm 1988 mới đạt 18,9%, thì năm 2013 đã đạt 77,6%, cao gấp

4,1 lần năm 1988 và thuộc loại khá cao trên thế giới. Nếu tính cả xuất và nhập

khẩu/GDP đã đạt 155,2%; nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt 169,1%, nằm trong

tốp 5 nước có tỷ lệ cao nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt

Nam thuộc loại khá rộng.

Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều

nhóm hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Cơ cấu mặt hàng mấy năm nay đã có sự

chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm (từ 55,8%

năm 2000 xuống còn khoảng 34% năm 2013), tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh

28

Page 29: LỜI NÓI ĐẦU

chế tăng (tương ứng từ 44,2% lên 66%); trong nhóm hàng chế biến, hoặc đã tinh

chế, hàng có kỹ thuật, công nghệ cao hơn (như điện thoại, máy vi tính, máy ảnh,

máy quay phim, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…) tăng cao hơn.

Về hàng hóa của Việt Nam, nếu năm 1986 hàng Việt Nam mới có mặt ở 33

nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt

trên thị trường 220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục, chủ yếu là châu Á.

Các thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, ASEAN, Nhật

Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Năm 2013, có 27 nước và vùng lãnh thổ đạt từ 1 tỷ

USD trở lên (Hoa Kỳ 23,87 tỷ USD, Nhật Bản 13,65 tỷ USD, Cộng hòa nhân dân

Trung Hoa 13,26 tỷ USD, Hàn Quốc 6,63 tỷ USD…).

Trong quan hệ với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước nhập siêu

lớn sang xuất siêu. Năm 1976, Việt Nam nhập siêu 801,4 triệu USD; tỷ lệ nhập siêu

so với xuất khẩu lên đến 360%. Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã xuất siêu hàng

hóa (năm 2012 là 749 triệu USD, năm 2013 là 9 triệu USD). Năm 2014 sẽ xuất siêu

tiếp ở quy mô cao hơn 2 năm trước. Cán cân thương mại được cải thiện, cùng một

số yếu tố khác đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, tăng

an toàn tài chính và thanh khoản của quốc gia.

Xuất khẩu dịch vụ năm 2013 đạt 10,5 tỷ USD, cao gấp gần 2,5 lần năm

2005, bình quân 1 năm tăng 12,1%, là tốc độ khá cao. Khả năng, quy mô xuất khẩu

dịch vụ sẽ tiếp tục tăng tốc do Việt Nam mở cửa, hội nhập nói chung và mở cửa, hội

nhập về dịch vụ ngày một sâu rộng hơn. Hiện nay, Việt Nam đã nhanh chóng phát

triển một số ngành dịch vụ, như: Bưu chính, viễn thông, hàng không, hàng hải, tài

chính, ngân hàng, du lịch… Phát triển xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm(1),

tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển

xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ của người lao

động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Về hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1995 so với

1985, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp gần 5 lần (8.155,4 triệu USD/1.857,4 triệu

USD); năm 1996 kim ngạch nhập khẩu là 11.143,6 triệu USD, đến năm 2006 là

44.981,1 triệu USD, tăng gấp khoảng gần 4 lần so với năm 1996. Năm 2012 so với

29

Page 30: LỜI NÓI ĐẦU

năm 2006, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp hơn 2,5 lần (113.792,7 triệu

USD/44.891,1 triệu USD).

Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chiếm đến trên

80%/kim ngạch nhập khẩu; hàng tiêu dùng khoảng 10%/kim ngạch nhập khẩu, còn

lại các hàng hóa khác. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu nhiều

hơn khu vực kinh tế trong nước.

Thứ hai, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA.Kể từ khi Luật Đầu

tư trước tiếp nước ngoài có hiệu lực (năm 1988), FDI vào Việt Nam ngày càng tăng

cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Tính đến hết năm 2013, đã có

khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 17.434 dự án, tổng

số vốn đăng ký hơn 268 tỷ USD, vốn thực hiện đạt xấp xỉ 112 tỷ USD. Xét tỷ lệ

trên GDP, Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lớn hơn 5 lần so với

Trung Quốc hay Ân Độ trong 5 năm qua.

Khu vực doanh nghiệp FDI là khu vực luôn năng động và có đóng góp đáng

kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. FDI đang tăng dần tỷ trọng

trong GDP. Báo cáo tổng kết 25 năm FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phân tích,

tỷ lệ đóng góp của FDI vào GDP đã tăng từ 2% GDP năm 1992 lên 12,7% năm

2000; 16,98% (năm 2006); 18,97% (năm 2011) và nay là 20%. Thu ngân sách trong

khối doanh nghiệp FDI tăng bình quân trên 20%/năm. Theo số liệu tại Bảng xếp

hạng V1000 - Top 1000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam, có tới

hơn 30% trong bảng này là các doanh nghiệp FDI với 20.000 tỷ đồng thuế thu nhập.

Các dự án FDI đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, góp phần làm giảm đáng kể

nạn thất nghiệp. Tính đến nay, khu vực FDI tạo ra gần 3 triệu việc làm và tiền lương

lao động của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình cả nước.

Trong hoạt động xuất khẩu, từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực FDI bắt đầu

vượt khu vực trong nước và dần trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, đóng

góp tới 66,87% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước vào năm 2013. Mười tháng

đầu năm 2014, khu vực FDI xuất khẩu 82,5 tỷ USD, tăng 13,6%, đóng góp 67% vào

tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vẫn liên tục xuất siêu.

Về thu hút ODA, tính từ năm 1993 đến hết năm 2013, tổng vốn ODA cam

kết đạt 80.776 triệu USD, giải ngân đạt 40.367 triệu USD, tương đương với 3,36%

30

Page 31: LỜI NÓI ĐẦU

GDP. FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư

phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội …

Thứ ba, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu

vực và thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản

lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp phần tăng

năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có

được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách thể

chế kinh tế thị trường, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tóm lại, sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh

đến sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và

ổn định mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình

quân đầu người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2013, GDP đầu người đạt 1.940 USD

so với 86 USD vào năm 1988. Chúng ta không những thoát khỏi khủng hoảng kinh

tế - xã hội, mà còn bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình.

2.2.3. Những hạn chế và kho khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

Nam trong những năm qua còn bộc lộ không ít những khó khăn và hạn chế. Cụ thể:

Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam hiện nay còn phát triển thiếu bền vững. Cơ

cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tình trạng phát triển

dàn trải, không có trọng tâm của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực hạn chế

đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền vững.

Thứ hai, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và

nền kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp. Cụ thể, năng lực cạnh tranh tổng hợp của

Việt Nam năm 2013/2014 chỉ xếp thứ 70/148, thấp hơn 11 bậc so với năm

2010/2011. Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn

rất khiêm tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của

đa số doanh nghiệp còn khá lạc hậu.

31

Page 32: LỜI NÓI ĐẦU

Thứ ba, mặc dù hoạt động thu hút nguồn vốn FDI đã đạt được những kết quả

khả quan và có những đóng góp nhất định đối với nền kinh tế, nhưng khu vực

doanh nghiệp FDI vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Thị trường và đối tác FDI của Việt

Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước châu Á. Đầu tư từ Hoa Kỳ,

EU và những nước OECD khác vào Việt Nam còn rất khiêm tốn nếu so với FDI của

các nước đó vào Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Sin-ga-po, Ma-lai-xi-a. Tình trạng chuyển

giá đã được phát hiện trong những năm gần đây gắn với tác động tiêu cực của kinh

tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có hiện tượng một số nhà đầu tư nước

ngoài nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, gây nên

tình trạng tiêu hao nhiều năng lượng, ô nhiễm môi trường, không đảm bảo an toàn

lao động. Việc chuyển giao công nghệ, sáng chế phát minh, giải pháp kỹ thuật từ

doanh nghiệp FDI vào Việt Nam chưa tương xứng với vốn đầu tư, nhất là trong

những ngành công nghệ cao như công nghiệp điện tử, ô tô, xe máy.

Thứ tư, các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các

lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng

thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ

Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng

nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ,

công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.

2.2.4. Một số giải pháp để chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành

công các mục tiêu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết, cần tiếp tục thực

hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để

nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức

Thương mại thế giới” trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại

nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Trước mắt, trên cơ sở nhận thức sâu rộng trong toàn Đảng, mọi tầng lớp

nhân dân về yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, về các cơ hội và thách thức, cần tập

trung vào các nhóm giải pháp cơ bản sau:

32

Page 33: LỜI NÓI ĐẦU

Thứ nhất là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò các cơ quan

quản lý nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, tập hợp sức mạnh toàn dân, bảo

đảm an ninh chính trị, an ninh cơ sở, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.Tiếp tục

thực hiện các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô một cách kịp thời, linh hoạt, hợp lý

và củng cố, ổn định hệ thống và thị trường tài chính. Lựa chọn mục tiêu tăng trưởng

hợp lý trong từng thời kỳ dựa trên thông tin tích cực và dự báo chính xác, có căn cứ

khoa học để từ đó đưa ra chính sách phù hợp.

Hai là, rà soát, củng cố, hoàn thiện một cách căn bản thể chế thực thi và

giám sát thực hiện các nghị quyết, chủ trương liên quan đến hội nhập kinh tế quốc

tế (như Nghị quyết số 22-NQ/TW, Nghị quyết số 31/NQ-CP), gắn các chủ trương

này với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và việc xử lý nhanh nhạy các vấn đề cấp

bách nảy sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng các cơ chế, chính

sách phù hợp, nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy hiệu

quả trong từng ngành, từng lĩnh vực. Tăng cường phổ biến và làm cho các doanh

nghiệp, người lao động nắm vững các chính sách, pháp luật, nhất là những nội dung

liên quan đến thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế, về những cơ hội và thách

thức khi gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế song phương và đa phương.

Ba là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối

tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa

khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích

giữa nước ta với các đối tác; chủ động và tích cực hơn trong việc tham gia các thể

chế đa phương. Chủ động trong việc lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm

phán với từng đối tác. Xu hướng đàm phán, ký kết FTA giữa các nước với nhau là

một xu hướng ngày càng phát triển trên toàn cầu, vì vậy, nếu Việt Nam không tham

gia các thỏa thuận này thì khả năng hàng hóa, dịch vụ của ta tiếp cận vào một số thị

trường sẽ gặp khó khăn.

Bốn là, đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia.

Tổ chức tốt công tác thông tin thương mại quốc tế, dự báo thị trường để có giải

pháp điều hành phù hợp, hiệu quả. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan

nhà nước và các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu; hỗ trợ các

33

Page 34: LỜI NÓI ĐẦU

doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xúc tiến thương mại, nâng cao khả

năng cạnh tranh sản phẩm.

Năm là, tiến hành cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách

nhiệm quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước. Nâng cao cả chất lượng,

hiệu quả thực thi các văn bản pháp quy. Tăng cường chế tài và áp dụng xử phạt

hành chính đối với các trường hợp vi phạm. Chú trọng hơn công tác kiểm tra, giám

sát quá trình thực hiện chính sách.

Sáu là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực. Phát triển mạnh hệ thống đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển

dịch lao động theo cung cầu của thị trường lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động,

khuyến khích người lao động tự kiếm việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về đào tạo và

lựa chọn việc làm cho người lao động.

Bảy là, rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi

thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa

giới hành chính. Trên cơ sở các quy hoạch và kế hoạch được phê duyệt, tập trung

các nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển hạ tầng

kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị và xây dựng nông thôn

mới; đồng thời cần tạo lập cơ chế, chính sách để thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hình thành và phát triển các chuỗi giá trị liên

kết vùng nhất là đối với những sản phẩm chủ lực. Chuyển đổi căn bản cấu trúc kinh

tế truyền thống theo hướng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực

hiện sản xuất và tiêu dùng sạch, bền vững, “từng bước phát triển năng lượng sạch…

Tám là, có chính sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt

Nam có tiềm năng và lợi thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các

ngành công nghiệp hỗ trợ để tránh phụ thuộc quá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu

và những cú sốc khi giá nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng, đồng thời, tiết

kiệm được một nguồn ngoại tệ lớn. Thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh

như tài chính, tín dụng, khoa học, công nghệ, ngành chế biến nông sản, có chính

sách thu hút đầu tư vào các ngành này.

34

Page 35: LỜI NÓI ĐẦU

Chín là, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với củng cố an ninh quốc phòng. Phát

huy tinh thần chủ động, nỗ lực của các cấp, các ngành để khắc phục những tiêu cực

của cơ chế thị trường, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu phá hoại của các thế lực

thù địch. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng

an ninh

KẾT LUẬN

Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó

là cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất.

Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con

người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao

năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan

trong hoạt động thực tiễn của con người.

Trong thời kì đổi mới của nước ta khi chuyển nền từ tập trung, bao cấp sang

nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn

trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này chúng ta đã giành

được một số thắng lợi to lớn tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu

hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó mới là một

vấn đề thực sự khó khăn.

35

Page 36: LỜI NÓI ĐẦU

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. V.I. Lênin toàn tập, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977

2. Đảng cộng sản Việt Nam – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên XHCN. NXB. Sự thật, 1991

3. Chiến lược ổn định và phát triên kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật

1991.

4. Giáo trinh Triết học Mác – Lênin, NXB Chính Trị Quốc Gia.

5. Văn kiện Đai hội đai biêu toàn quốc lân thứ VI.

6. Văn kiện Đai hội đai biêu toàn quốc lâ thứ VII

7. Văn kiện Đai hội đai biêu toàn quốc lân thứ VIII.

8. Thời báo kinh tế Việt Nam

9. Tap chí cộng sản

36