LNQ
description
Transcript of LNQ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
1
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
LỊCH SỬ
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN - THÁI NGUYÊN
( 1946 – 2011)
Sách xuất bản nhân dịp kỷ niệm
65 năm thành lập trƣờng
Thái Nguyên, tháng 3 - 2011
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
2
LỊCH SỬ Trƣờng Trung học Phổ thông
Lƣơng Ngọc Quyến - Thái Nguyên
( 1946 - 2011)
Thái Nguyên tháng 3- 2011
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
3
BAN TƢ VẤN:
- CHU VĂN CƢỜNG
- VŨ HỒNG BẮC
- LÊ XUÂN HÙNG
- ĐINH QUANG ẤN
- LƢƠNG ĐÌNH LŨNG
- TRƢƠNG VIỆT HẢI
BAN CHỈ ĐẠO:
- BÙI THỊ LOAN
* Trƣởng ban
- PHẠM LÀNH
- NGUYỄN TIẾN
BAN BIÊN SOẠN:
- NGUYỄN HUY ÁI
* Trƣởng ban
* Tổng luận
- ĐINH VĂN ĐỊNH
* Chƣơng I, II, III
- NGND TRỊNH TRÚC LÂM
* Chƣơng IV
* Chƣơng VI (mục 3)
- NGUT NGUYỄN ĐĂNG KỀN
* Chƣơng V
* Chƣơng VI (mục 1,2)
- NGND TRỊNH TRÚC LÂM
- ĐINH VĂN ĐỊNH
* Phụ lục
BIÊN TẬP: - NGND TRỊNH TRÚC LÂM
- ĐINH VĂN ĐỊNH
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
4
LỜI GIỚI THIỆU
Trƣờng Trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc
thành lập ngay sau Cách mạng Tháng Tám ở tỉnh Thái
Nguyên. 65 năm hình thành và phát triển của trƣờng là một
chặng đƣờng đầy thử thách và rất vẻ vang. Thành quả mà
nhà trƣờng đã mang lại cho đất nƣớc, cho cách mạng, cho
địa phƣơng là hết sức phong phú.
Sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng là nhân tố quan trọng
đảm bảo mọi thành công của trƣờng. Lịch sử của trƣờng là
lịch sử thực hiện thắng lợi đƣờng lối cách mạng nói chung
và đƣờng lối giáo dục nói riêng của Đảng CSVN ở một đơn
vị giáo dục.
Cuốn “Lịch sử trƣờng Trung học phổ thông Lƣơng Ngọc
Quyến” góp phần vào việc tìm hiểu và khẳng định lịch sử
nền giáo dục cách mạng của thành phố Thái Nguyên và
tỉnh Thái Nguyên thông qua lịch sử của một nhà trƣờng
tiêu biểu: trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến.
Cuốn sách nhằm giáo dục các thế hệ thầy và trò về lòng
biết ơn và tự hào với truyền thống tốt đẹp của nhà trƣờng,
tuyên truyền trong nhân dân các dân tộc của tỉnh để thêm tự
hào và tin tƣởng đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ mà
nhà trƣờng đang đảm nhiệm, tích cực tham gia xây dựng
trƣờng về mọi mặt làm cho trƣờng tiến lên không ngừng.
Cuốn “Lịch sử trƣờng Trung học phổ thông Lƣơng Ngọc
Quyến” là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc
đƣợc biên soạn dƣới ánh sáng đƣờng lối cách mạng của
Đảng Cộng Sản Viêt Nam về giáo dục, theo phƣơng pháp
luận sử học tiên tiến, đáp ứng nguyện vọng thiết tha và
chính đáng của đông đảo thầy và trò đã từng dạy và học ở
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
5
Trong quá trình biên soạn cuốn sách, chúng tôi luôn
nhận đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
và Ban Tuyên giáo Thành uỷ Thái Nguyên, nhận đƣợc
những ý kiến quí báu của các đồng chí trong Ban cố vấn, ý
kiến đóng góp và cung cấp tƣ liệu của nhiều thầy cô giáo
và cựu học sinh nhà trƣờng. Quá trình biên soạn cuốn sách
đƣợc sự tham gia đầy tâm huyết, trách nhiệm của các thành
viên trong Ban chỉ đạo, Ban biên soạn và sự giúp đỡ của
Ban đại diện phụ huynh học sinh... Nhân dịp cuốn sách
đƣợc xuất bản, chúng tôi xin chân thành cám ơn các đồng
chí.
Ghi lại lịch sử 65 năm phát triển và trƣởng thành của
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến là một công việc khó khăn. Do
điều kiện còn hạn chế nên cuốn sách không tránh khỏi
những khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận đƣợc sự đóng
góp ý kiến của cán bộ giáo viên, công nhân viên, các thế hệ
học sinh của nhà trƣờng và của bạn đọc để lần sau tái bản
cuốn sách đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Bùi Thị Loan
Bí thƣ Đảng uỷ - Hiệu trƣờng
Trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
6
Nền: Hoa sen cách điệu nét chìm
3 Huân chƣơng Lao động hạng 1,2,3
1 Huân chƣơng hữu nghị
1 bằng trƣờng Anh hùng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
7
Ảnh Đại biểu đang thắp hương tại đền thờ Bác Hồ
Trước “Di tích lịch sử cấp tỉnh – thành phố, điểm: Chủ tịch Hồ Chí
Minh thăm trường Lương Ngọc Quyến ngày 13-03-1960 ”.
Ảnh Bằng chứng nhận di tích
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
8
Chƣơng I
TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ SỰ THÀNH LẬP
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
I – Tỉnh Thái Nguyên – Sơ lƣợc về tình hình tự nhiên,
xã hội, văn hóa – giáo dục trƣớc tháng 8 năm 1945.
1. Thái Nguyên là tỉnh trung du – miền núi. Cho đến
những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) phần
diện tích thuộc địa hình miền núi chiếm phần lớn (3/4) bao
gồm các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lƣơng và
một phần Đồng Hỷ. Phần còn lại thuộc địa hình trung du
bao gồm một phần Đồng Hỷ, thị xã Thái Nguyên và đổ
xuôi xuống phía Nam với hai huyện Phổ Yên, Phú Bình.
Tuy nhiên ngay ở hai huyện này vẫn có những xã thuộc
vùng sâu vùng xa mang đặc trƣng địa hình miền núi.
Diện tích: 3541,67 km2.
Khoảng những năm 1940 – 1945 tổng dân số chừng hơn
80.000 ngƣời thuộc nhiều dân tộc: Kinh (75%), Tày (10%),
Nùng (5%) và các dân tộc khác nhƣ Dao, Sán Dìu,
H‟Mông, Hoa, Thái,… Ngƣời Kinh phần lớn sống ở vùng
trung du. Ngƣời các dân tộc khác chủ yếu sống ở các huyện
vùng núi và các xã vùng núi của các huyện trung du. Cƣ
dân bản địa sinh sống từ lâu đời, các di chỉ khảo cổ có niên
đại khoảng từ 30.000 năm đến 10.000 năm trƣớc đây đƣợc
phát hiện ở Thần Sa (Võ Nhai) đã minh chứng cho sự hiện
hữu liên tục của ngƣời nguyên thủy trên quê hƣơng Thái
Nguyên. Các nghiên cứu về lịch sử - văn hóa cũng cho biết
nhân dân Thái Nguyên hoàn toàn gắn bó số phận với toàn
thể dân tộc Việt Nam trên quá trình dựng nƣớc và giữ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
9
nƣớc. Ngƣời Thái Nguyên từng hòa chung dòng máu chống
xâm lƣợc trong cộng đồng Việt Nam suốt trƣờng kỳ lịch sử
từ cuộc kháng chiến đầu tiên với giặc Tần, cuộc khởi nghĩa
Hai Bà Trƣng, đánh thắng quân Tống thời nhà Lý, đặc biệt
có công rất lớn trong cuộc kháng chiến 10 năm chống giặc
Minh dƣới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Trong sự nghiệp chống
thực dân Pháp gần 100 năm, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
năm 1917 do Trịnh Văn Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh
đạo đáng ghi nhận nhƣ một mốc son sáng ngời cho cả nƣớc
và các xứ thuộc địa của Pháp trên thế giới.
Nghề nông và nghề rừng là nguồn sống truyền thống của
cƣ dân Thái Nguyên. Là tỉnh có nhiều mỏ vào loại nhất
Việt Nam, những triều đại phong kiến trƣớc kia đã từng
khai thác nhƣng kết quả còn ít. Dƣới thời thuộc Pháp, đặc
biệt từ sau thế chiến I, thực dân Pháp tiến hành khai thác ồ
ạt và bừa bãi các nguồn khoáng sản nhƣ than, sắt, kẽm…
Hàng ngàn phu mỏ hoặc lấy tại chỗ, hoặc phần lớn tuyển
mộ từ miền xuôi lên. Cùng với rất nhiều tá điền của hàng
trăm đồn điền của chủ Pháp và chủ Việt, lớp di dân này
không ngừng bổ sung cho Thái Nguyên cả về số lƣợng và
cơ cấu thành phần. Do nguồn tài nguyên tự nhiên của một
tỉnh trung du – miền núi thời đó còn rất phong phú, dồi
dào, Thái Nguyên cũng có tiếng là miền “đất hứa” không
chỉ với lớp ngƣời cùng khổ mà cả với tầng lớp thƣơng nhân
hay viên chức. Cảnh buôn bán tấp nập “trên bến dƣới
thuyền” nhờ con sông Cầu chảy dọc “sống lƣng” suốt chiều
dài từ Bắc tỉnh đến Nam tỉnh mà sử sách ngày xƣa từng
miêu tả, vẫn tiếp diễn đến mãi thời kỳ kháng chiến chống
Pháp 9 năm. Sự buôn bán trở nên nhộn nhịp, sầm uất hơn
khi trên quốc lộ số 3 Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn –
Cao Bằng đƣờng đi Tuyên Quang (nay là đƣờng 13A), đi
Lạng Sơn (nay là đƣờng 1B), đi Bắc Giang (nay là đƣờng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
10
19) không chỉ có từng đoàn ngƣời gánh bộ, ngựa thồ và xe
trâu, xe ngựa mà đã có cả ô tô chở hàng lâm thổ sản về
xuôi rồi chuyển ngƣợc hàng hóa nhu yếu phẩm cho dân
miền núi.
2. Về văn hóa – giáo dục, Thái Nguyên không phải là
đất khoa bảng nổi danh nhƣ nhiều tỉnh khác. Cũng là một
tỉnh trung du miền núi, Tuyên Quang vào đời Lê đƣợc chọn
làm 1 trong 9 địa điểm thi hƣơng (1)
, trong khi Thái Nguyên
chƣa từng có vinh dự ấy. Song truyền thống hiếu học của
ngƣời dân Thái Nguyên không phải là không có. Từ thời
Lê, Mạc, nơi đây từng xuất hiện nhiều vị đỗ đạt cao: 3 vị
hoàng giáp là Phạm Nhĩ, Trịnh Bá, Đồng Doãn Giai; các
tiến sĩ Nguyễn Cấu, Đỗ Cận, Đàm Sâm, Đàm Chí, Dƣơng
Ức, Trình Hiển (có sách ghi Trình Hiển là cử nhân). Tất cả
các vị xuất thân khoa bảng đó đều làm quan to, trong đó có
hai thƣợng thƣ là Đàm Sâm và Đỗ Cận. Đỗ Cận còn là một
tài năng văn thơ lớn, ông là một trong “nhị thập bát tú” của
Hội Tao Đàn mà vua Lê Thánh Tông là “Tao Đàn nguyên
súy”. Hiện ta chƣa tìm đƣợc nhiều trong sử sách những ghi
chép về tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc khi thực
dân Pháp đặt ách đô hộ. Biết rằng có nói đến trƣờng học ở
xã Phù Liễn nhƣng chƣa biết rõ công tích của ngôi trƣờng
đối với sự học ở địa phƣơng. Tuy nhiên ngay từ cuối đời
Trần nhà vua đã ban chiếu mở trƣờng công ở châu, huyện.
Sau đó, đến đời Lê quy mô mở rộng hơn, cho dù trƣờng
công còn ít, chủ yếu là trƣờng tƣ do dân tự lo liệu ở các
làng xã. Tình hình này hẳn phải sâu rộng và có truyền
thống lâu đời mới có thể gặt hái đƣợc thành quả đáng kể
mà các vị khoa bảng kể trên là tiêu biểu. ........................................................................................................................
(1) 9 địa điểm đó là: Hải Dƣơng, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, An
Bang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
11
Đến thời thuộc Pháp, Thái Nguyên cũng nhƣ cả nƣớc
chịu sự áp đặt của chính sách giáo dục nô dịch kiểu thực
dân cũ, tiêu biểu là chủ trƣơng “phát triển giáo dục theo
chiều nằm” (2)
– 1924.
Hệ thống giáo dục của Pháp cho ngƣời Việt bản xứ (gọi
là giáo dục Pháp – Việt) thực chất là sự mô phỏng theo mô
hình giáo dục phổ thông ở Pháp đƣơng thời (hình thành từ
thế kỷ XVIII, hoàn chỉnh ở thế kỷ XX). Cho đến những
năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, quy mô của hệ thống
giáo dục Pháp – Việt là rất nhỏ, vì bọn thực dân lo đào tạo
số ít tay sai hơn là nhằm nâng cao dân trí.
Thái Nguyên là tỉnh có quy mô giáo dục thuộc loại trung
bình thấp. Ở thị xã có 2 trƣờng tiểu học (trƣờng con trai
René Robin và trƣờng con gái). Ở huyện lỵ các huyện Phổ
Yên, Đồng Hỷ, Định Hóa mỗi nơi có một trƣờng tiểu học,
riêng huyện Phú Bình có 2 (ở Hà Châu và Phƣơng Độ).
Ngoài ra có mấy trƣờng tƣ với mấy lớp sơ học ở thị xã.
Ở những làng, xã hiếu học, dân tự tìm thầy đồ dạy trẻ học
chữ nho và chữ quốc ngữ (không cần theo chƣơng trình nhà
nƣớc) ngay trong nhà. Các gia đình học trò góp thóc trả
lƣơng hàng năm và thay nhau nuôi ăn hàng tháng cho thầy. ........................................................................................................................
(2) Tức chỉ hạn chế ở các lớp sơ học đầu bậc tiểu học.
- Ở Bắc kỳ đó là trƣờng hƣơng học,
- Ở Trung kỳ là trƣờng dự bị,
- Ở Nam kỳ là trƣờng phụ trợ dự bị.
Cấu trúc bậc tiểu học:
- Lớp đồng ấu (enfantin), còn gọi là lớp 5.
- Lớp dự bị (préparatoire) còn gọi là lớp 4 (tƣ).
- Lớp sơ đẳng (élémentaire) còn gọi là lớp 3.
- Lớp nhì năm thứ nhất (moyen 1 ère année).
- Lớp nhì năm thứ hai (moyen 2 ième année).
- Lớp nhất (supérieur).
Ba lớp đầu (5, 4, 3) đƣợc gọi là bậc sơ học.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
12
Tổng số học sinh toàn tỉnh chỉ trên dƣới 1500, chiếm tỉ
lệ dƣới 2% dân số (tỉ lệ trung bình của cả nƣớc khoảng
2.6% dân số).
II – Thái Nguyên thời gian đầu sau Cách mạng tháng
Tám và sự thành lập trƣờng trung học phổ thông
Lƣơng Ngọc Quyến.
1. Trƣớc ngày tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, trong
khu Giải phóng(3)
, Thái Nguyên là tỉnh có vị trí chiến
lƣợc đặc biệt. Tỉnh Thái Nguyên cần đƣợc quan tâm xây
dựng và phát triển mọi mặt để giữ vững vai trò tiên phong
trung tâm trong thời kỳ mới.
Chính vì vậy mà ngay sau khi cách mạng tháng Tám
thành công, đồng chí Phạm Văn Đồng đã được phân công
cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc một thời gian để tiếp tục
củng cố căn cứ địa. Biết tình thế khó tránh khỏi cuộc kháng
chiến chống Pháp nên ngay từ tháng 10 – 1946 đồng chí
Nguyễn Lương Bằng đã được giao nhiệm vụ trở lại Việt
Bắc chuẩn bị xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Liên tiếp
vào tháng 11, tháng 12 cùng năm, đồng chí Trần Đăng
Ninh và Đội công tác đặc biệt đã lên Việt Bắc xây dựng An
toàn khu (ATK) của Trung ương.
Nhiều địa điểm thuộc các huyện Đại Từ, Định Hóa, Phú
Lương, Võ Nhai đã được lựa chọn.
2. Trách nhiệm phải xây dựng Thái Nguyên về mọi mặt,
khiến cho các cấp lãnh đạo Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính ........................................................................................................................
(3) Khu Giải phóng thành lập ngày 4 – 6 – 1945 gồm 6 tỉnh: Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang do Ủy
ban chỉ huy lâm thời đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
13
tỉnh đề ra nhiều chủ trƣơng mới, trong đó có chủ trƣơng rất
sáng tạo và mạnh dạn về giáo dục. Cũng nhƣ các vùng khác
trên cả nƣớc, các trƣờng học ở Thái Nguyên năm học đầu
tiên sau cách mạng 1945 – 1946 đã khai giảng tƣng bừng
với không khí ngày hội mới thực sự, hồ hởi đón thƣ của
chủ tịch Hồ Chí Minh, và hoàn thành thắng lợi một năm
học thấm nhuần tinh thần nhiệm vụ của nền giáo dục mới.
Chỉ thị của BCH Trung Ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng
( 21 – 11 – 1945), các sắc lệnh 146/SL và 146/SL (8 –
1946) của Chủ tịch chính phủ về hệ thống giáo dục quốc
dân, nghị quyết Đại hội giáo dục lần thứ nhất (8 – 1946)
cùng với các sự kiện nổi bật của tình hình giáo dục tỉnh nhà
(và khắp nơi) chính là cơ sở cho những chủ trƣơng sáng tạo
và mạnh dạn của các cấp lãnh đạo Thái Nguyên.
Một trong những chủ trƣơng ấy là thành lập trƣờng
trung học đầu tiên ở thị xã Thái Nguyên. Đó là đòi hỏi tất
yếu của lịch sử, bởi chỉ có đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ nhất định mới mong đáp ứng
đƣợc nhiệm vụ trƣớc mắt và lâu dài cho sự nghiệp cách
mạng. Do trƣớc đó Thái Nguyên chƣa từng có trung học (4)
,
kể cả trƣờng lớp do tƣ nhân mở nên không có thầy, không
có cơ sở thiết yếu cho bậc học (ngay cả các trƣờng tiểu học ........................................................................................................................
(4) Vẫn do chính sách xây dựng giáo dục “theo chiều nằm” nên ở thời
gian đó thực dân Pháp chỉ cho lập trƣờng cao đẳng tiểu học (tƣơng
đƣơng trung học cơ sở bây giờ) ở một số tỉnh lỵ, thành phố: Hà Nội,
Huế, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Quy
Nhơn, Cần Thơ, Mỹ Tho, chỉ có Lạng Sơn là tỉnh lỵ miền núi (năm
học 1941 – 1942 có 16 trƣờng). Bậc học tú tài (tƣơng đƣơng Trung
học phổ thông bây giờ) chỉ có ở Hà Nội (trƣởng Bƣởi), Huế (trƣờng
Khải Định), Sài Gòn (trƣờng Pétrus Ký). Ở các trƣờng Pháp hoàn toàn
nhƣ Albert Sarraut (Hà Nội), Chasseloup – Laubat (Sài Gòn) dành cho
con em ngƣời Pháp có các lớp tú tài. Ngoài ra có một số trƣờng tƣ ở
thành phố và các tỉnh lớn.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
14
cũng đang thiếu giáo viên, trƣờng lớp, chƣơng trình tài liệu
giảng dạy). Bộ Quốc gia giáo dục nhất trí với chủ trƣơng
của tỉnh, cho phép mở trƣờng, nhƣng cấp phụ trách trực
tiếp là Nha Trung học vụ cũng không giúp đƣợc những
điều kiện cụ thể nói trên.
Ngoài việc triển khai sâu rộng trong ngành những chỉ thị,
sắc lệnh của Trung ƣơng, chính phủ, Bộ QGGD đã chỉ đạo
thực hiện những kết quả nghiên cứu đề xuất của Hội đồng
cố vấn học chính (thành lập 10 – 10 – 1945) về việc cải tổ
nền giáo dục cũ, xây dựng nên giáo dục mới. Hai tờ tập san
“Giáo dục tập san” Tiểu học và Trung học ra hàng tháng là
phƣơng tiện chỉ đạo quan trọng của Bộ.
Ở Thái Nguyên, lãnh đạo ngành giáo dục (chƣa có bộ
phận phụ trách Trung học, mới có Ty tiểu học vụ và Ty
bình dân học vụ) dựa trên tinh thần phƣơng hƣớng “vĩ mô”
nói trên để tham mƣu cho lãnh đạo Đảng và chính quyền
tỉnh, đồng thời tạo điều kiện giúp cán bộ đi sâu tìm hiểu về
giáo dục trung học để chuẩn bị thành lập trƣờng ở cấp này.
Trƣờng trung học ra đời ở Thái Nguyên là sự kiện có ý
nghĩa lớn trong lịch sử phát triển giáo dục của tỉnh. Đó là
biểu hiện đẹp đẽ, ƣu việt của chế độ mới, tạo thêm niềm
phấn khởi, tin yêu của nhân dân. (Trƣớc đó nhiều năm, con
em nhân dân trong tỉnh chỉ một số ít có điều kiện về Hà
Nội học lên trung học). Đây là quyết định sáng suốt với
tinh thần tự lực tự cƣờng trong hoàn cảnh tràn ngập khí thế
tiến công cách mạng lúc đó. Không kịp thành lập sớm hơn
để khai giảng đúng vào dịp năm học 1946 – 1947 bắt đầu,
nhƣng nhờ những cố gắng lớn, trƣờng đã thành lập vào
tháng 10 – 1946, tuy hơi muộn nhƣng vẫn trong biên chế
năm học. Trƣờng đƣợc mang tên nhà yêu nƣớc Lƣơng
Ngọc Quyến, ngƣời đã cùng với Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn)
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917. Ông
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
15
Phạm Duy Nhƣợng khi đó là Trƣởng ty bình dân học vụ
tỉnh Thái Nguyên đƣợc cử làm Hiệu trƣởng. Trƣờng mới có
một lớp đệ nhất (5)
với khoảng 40 học sinh ở thị xã và các
huyện về học, có một số con em của đồng bào ở mấy tỉnh
dƣới xuôi mới tản cƣ lên.
Lớp học phải đặt nhờ ở nhà ông Trần Bá Quán (thuộc
phƣờng Trƣng Vƣơng, TP Thái Nguyên bây giờ), số giáo
sƣ cơ hữu của trƣờng hầu nhƣ chỉ có thầy Phạm Duy
Nhƣợng vừa làm Hiệu trƣởng, vừa phụ trách lớp, vừa trực
tiếp dạy nhiều môn: Văn, Sử, Pháp văn, Anh văn, Nhạc,
Họa, có khi dạy cả toán thay thầy bộ môn vắng.
Các môn khoa học còn lại phải mời một số ngƣời có trình
độ dạy giúp: ........................................................................................................................
(5) Từ tháng 9 – 1945 đến 1950 hệ thống giáo dục ở vùng tự do nƣớc
ta vẫn áp dụng chƣơng trình do GS Hoàng Xuân Hãn – nguyên Bộ
trƣởng Bộ Giáo dục và Mỹ thuật trong chính phủ Trần Trọng Kim
(tháng 4 – tháng 8 năm 1945) chỉ đạo biên soạn. Cấu trúc và tên gọi
cấp học và lớp học trung học nhƣ sau:
A- Trung học phổ thông (4 năm)
- Đệ nhất (tƣơng đƣơng lớp 6 bây giờ).
- Đệ nhị (tƣơng đƣơng lớp 7 bây giờ)
- Đệ tam (tƣơng đƣơng lớp 8 bây giờ).
- Đệ tứ (tƣơng đƣơng lớp 9 bây giờ).
B- Trung học chuyên khoa (3 năm)
- Đệ nhất niên (tƣơng đƣơng lớp 10 bây giờ)
- Đệ nhị niên (tƣơng đƣơng lớp 11 bây giờ).
- Đệ tam niên (tƣơng đƣơng lớp 12 bây giờ).
Nội dung chƣơng trình có thay đổi tùy theo từng môn học. Nói
chung cơ bản giữ nhƣ cũ ở các môn khoa học tự nhiên, thay đổi nhiều
ở các môn khoa học xã hội (nhƣ quốc văn, quốc sử, công dân giáo dục
v.v…)
Thời gian đầu Hội đồng sách giáo khoa của Bộ chƣa biên soạn kịp
sách, giáo viên bộ môn tự soạn các bài giảng theo chƣơng trình.
Dùng tiếng Việt để giảng dạy ở tất cả các cấp học, bậc học.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
16
- Ông Lê Văn Chung, Trƣởng ty Kiểm lâm dạy Lý và
Hóa
- Ông Huệ Trƣởng ty Công chính dạy Toán;
- Ông Viêm Trƣởng ty Địa chính dạy Địa;
- Cụ Ký Ảnh, một nhà nho dạy chữ Hán;
- Thày giáo tiểu học Đào Trọng Dậu dạy Thể dục Thể
thao;
- V.v...
Do lãnh đạo Đảng và chính quyền tỉnh có tầm nhìn xa
rộng, chủ trƣơng hợp lòng ngƣời, khai thác đƣợc tiềm năng
xã hội nên trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến đã ra đời
và vƣợt qua bao nhiêu khó khăn để đảm bảo những hoạt
động cơ bản từ nội khóa đến ngoại khóa.
Ngày khai giảng trường trung học Lương Ngọc Quyến
đúng là một ngày hội. Học sinh tề chỉnh xếp hàng đón các
vị lãnh đạo tỉnh và thị xã, các vị quan khách, các đoàn đại
biểu cơ quan, đoàn thể, các thầy giáo, cô giáo đại diện các
trường tiểu học ở thị xã. Thầy Hiệu trưởng Phạm Duy
Nhượng đọc diễn văn khai mạc. Ông Lê Trung Đình Chủ
tịch Ủy ban hành chính tỉnh Thái Nguyên cắt băng khai
giảng. Cờ hoa rực rỡ. Tiếng trống ếch rộn ràng của đội
thiếu nhi thị xã đến chào mừng (chỉ 1, 2 năm nữa các em sẽ
vào trường với tư cách học sinh trung học như các anh các
chị hôm nay).
Trường trung học Lương Ngọc Quyến được khai sinh
trong vòng tay ưu ái trìu mến của nhân dân Thái Nguyên.
Học sinh phấn khởi, đi học đều, chăm chỉ cố gắng. Tuy mới
đang chập chững bước đầu của bậc học mới mẻ, chưa từng
quen với nề nếp quy chế trung học thực sự, nhưng các thầy
đã rất nghiêm túc, thực sự cầu thị, cố gắng truyền thụ kiến
thức theo sự hiểu biết của mình. Thầy Hiệu trưởng là con
người nhiệt tâm, hiểu biết sâu rộng, đa tài, rất năng động.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
17
Dưới sự phụ trách trực tiếp của thầy, lớp học sinh trung
học trở nên hoạt bát, tự tin trong học tập, và sôi nổi ở các
hoạt động xã hội. Trong những cuộc mít-tinh, diễu hành
lớn ở thị xã hồi ấy, tập thể học sinh trung học chỉ mấy chục
người mà vẫn nổi trội với phong cách khuấy động không
khí rất có tổ chức, với những bài hát hợp thời và mới mẻ do
chính thầy hiệu trưởng sáng tác. Có thời gian gần như
hàng ngày thầy Hiệu trưởng chỉ huy học sinh xếp hàng đôi
đi đều diễu qua các phố chính, hát vang, đồng thanh hô các
khẩu hiệu cổ động cho các chủ trương, chính sách, phong
trào (Bình dân học vụ, tiêu thổ kháng chiến v.v…). Do đó,
cùng với tác dụng tích cực trực tiếp đối với xã hội, lớp học
sinh trường trung học non trẻ đã tự khẳng định như một
nhân tố mới về giáo dục ở Thái Nguyên, được nhân dân ghi
nhận với nhiều thiện cảm và lòng tin.
Chỉ hai tháng sau, tiếng súng toàn quốc kháng chiến
bùng nổ ở Thủ đô Hà Nội. Chiến sự lan rộng dần. Máy bay
Pháp đã đe dọa thị xã Thái Nguyên. Nhân dân thị xã đã rục
rịch tản cƣ theo lời kêu gọi và sự tổ chức của các Ban tản
cƣ. Ban phá hoại của tỉnh đã thành lập, chuẩn bị kế hoạch
tiêu thổ kháng chiến. Trên 400 ngôi nhà ngói trong đó 10 %
là nhà cao tầng sắp sửa đƣợc phá hủy bởi chính bàn tay của
ngƣời dân địa phƣơng.
Trƣớc tình hình khẩn trƣơng đó, trƣờng trung học
Lƣơng Ngọc Quyến phải chuyển về làng Đồng Mỗ (cũng
thuộc phƣờng Trƣng Vƣơng bây giờ). Và cũng chỉ đƣợc
mấy tháng, khi thị xã Thái Nguyên rầm rộ tiến hành phá
hoại triệt để (6)
. Đến tháng 3 năm 1947, trƣờng giải thể. Học
sinh tản cƣ theo gia đình. .......................................................................... (6)
Đến giữa năm 1947, thị xã Thái Nguyên đã hoàn thành công cuộc
tiêu thổ kháng chiến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
18
Thầy hiệu trƣởng Phạm Duy Nhƣợng chuyển sang phụ
trách một đoàn tuyên truyền của tỉnh. Các thầy khác (thỉnh
giảng) đi sơ tán theo cơ quan của mình.
Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra kỷ nguyên mới trong
lịch sử đất nƣớc. Sau đó đúng một năm học (tháng 9/1945 –
tháng 9/1946), trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc
Quyến ra đời là một sự kiện quan trọng trong lịch sử giáo
dục của tỉnh Thái Nguyên.
Khai giảng muộn và sớm phải giải thể, trƣờng chƣa đi
hết biên chế chu kỳ một năm học trong hoàn cảnh khó khăn
về mọi phƣơng diện, nhƣng hiện tƣợng giáo dục này vẫn
mang nhiều ý nghĩa.
Đó là chủ trƣơng sáng suốt đúng thời cơ, hợp lòng dân
của cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền tỉnh Thái Nguyên,
là ý chí tự lực, tự cƣờng, tinh thần năng động sáng tạo, cố
gắng vƣợt bậc của cán bộ trong và ngoài ngành giáo dục, là
sự hƣởng ứng và ủng hộ vô tƣ, hào hiệp của nhân dân, thầy
tâm huyết và trò hiếu học.(trƣờng phổ thông, nhƣng có đôi
nét giống với lớp Bình dân học vụ - Bổ túc văn hoá:
Trƣờng sở nhờ nhà dân, thầy dạy là “ngƣời biết chữ dạy
ngƣời chƣa biết”...)
Thời gian tồn tại ngắn ngủi (10/1946 đến 3/1947) nhƣng
ít nhiều trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến
cho thấy dáng dấp một nhà trƣờng kiểu mới, nền giáo dục
dân chủ nhân dân. Quan hệ giữa nhà trƣờng và xã hội ở đây
là sự gắn bó chặt chẽ, vừa huy động sức mạnh tiềm năng
của xã hội, vừa phát huy tác dụng của trƣờng học đối với
xã hội, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ chính trị ở địa
phƣơng. Giáo dục nhà trƣờng đã kết hợp với giáo dục gia
đình và xã hội theo tinh thần nguyên lý giáo dục một cách
tự nhiên.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
19
Qua hình ảnh của lớp đệ nhất đầu tiên này, có thể thấy
thấp thoáng dáng nét mới mẻ của lớp ngƣời đang và sẽ là
sản phẩm tƣơng lai của nhà trƣờng đƣơng thời.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
20
Chƣơng II
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1947 – 1954)
A . Trƣờng trung học ở Cù Vân – Đại Từ
Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến tình hình đất nƣớc
biến chuyển rất mau lẹ. Địch âm mƣu tiến hành một cuộc
chiến tranh áp đảo hòng nhanh chóng chiếm lại nƣớc ta. Ta
phải ra sức sẵn sàng chống trả đồng thời tích cực chuẩn bị
kháng chiến trƣờng kỳ, bởi chỉ có nhƣ thế mới mong giành
đƣợc thắng lợi cuối cùng.
Ở thị xã Thái Nguyên, việc giải thể trƣờng trung học
Lƣơng Ngọc Quyến là việc bắt buộc vì không còn lựa chọn
nào khác. Tình hình các nơi khác cũng diễn ra nhƣ vậy.
Học sinh tản cƣ theo gia đình, thầy giáo cũng lo đƣa gia
đình di chuyển khỏi vùng đang hoặc sắp có chiến sự, do đó
các trƣờng đành tạm đóng cửa.
Trƣớc tình hình đó, Bộ Quốc gia giáo dục dƣới sự lãnh
đạo của Trung ƣơng Đảng và chính phủ, đã thực hiện chủ
trƣơng chuyển hƣớng giáo dục cho phù hợp với thời chiến.
Trƣớc hết là chuyển biến nhận thức, cần thấy rõ tính chất
toàn dân, toàn diện, trường kỳ của cuộc kháng chiến.
Nhiệm vụ khó khăn và vẻ vang của giáo dục là không
những giữ vững mà còn phát triển sự nghiệp giáo dục để
phụng sự xứng đáng cho công cuộc kháng chiến và kiến
quốc.
Đối với các trƣờng trung học, Bộ chủ trƣơng một mặt di
chuyển một số trƣờng (cả thầy và trò) từ thành phố và vùng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
21
có chiến sự ra vùng tự do, mặt khác mở thêm trƣờng mới (1)
.
Nhƣ vậy xét trên toàn cục, việc trƣờng trung học Lƣơng
Ngọc Quyến giải thể chỉ là tạm thời, vì lúc này cả Khu Một
không có trƣờng trung học. Quán triệt tinh thần đƣờng lối
giáo dục của Đảng trong thời chiến (và cả cho tƣơng lai lâu
dài), Thái Nguyên cần có ngay trƣờng trung học đặt nền
móng cho sự phát triển một mạng lƣới bậc học này trong
tƣơng lai gần, gắn liền với từng bƣớc đi lên của cuộc kháng
chiến trƣờng kỳ. Bộ (mà trực tiếp là Nha Trung học vụ)
cùng với Khu giáo dục Khu Một gấp rút xúc tiến mở
trƣờng trung học ở Thái Nguyên. Ông Dƣơng Xuân Nghiên (2)
nhận quyết định của Bộ cử làm Hiệu trƣởng, đến Khu
Một liên hệ với giám đốc Khu giáo dục – ông Nguyễn Hữu
Tảo chuẩn bị mở trƣờng.
Lần này trƣờng trung học đặt ở xã Cù Vân huyện Đại Từ
(gần với địa phận ATK) nên trƣờng đƣợc gọi theo tên xã. ------------------------------------------------------------------------------------
(1) Một loạt trƣờng nhƣ trƣờng Quốc học Huế (Khải Định) chuyển ra
Hà Tĩnh đổi tên thành trƣờng trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc
Kháng; trƣờng Quốc học Vinh chuyển về nông thôn huyện Nam Đàn
và mang tên Nguyễn Công Trứ; trƣờng Nguyễn Thƣợng Hiền đón học
sinh trung học ở các tỉnh khu III vào Thanh Hóa; trƣờng Bình Trị
Thiên, trƣờng Nguyễn Chí Diểu,… cũng ở Liên khu IV. Ở Liên khu V
có Phan Châu Trinh (Quảng Nam), Lê Khiết (Quảng Ngãi), Nguyễn
Huệ (Bình Định), Lƣơng Văn Chánh (Tuy Hòa). Ở Nam Bộ có trƣờng
trung học bình dân Nguyễn Công Mỹ, trƣờng Huỳnh Phan Hộ,…
Trƣờng trung học kháng chiến Việt Bắc khai giảng năm học 1947 –
1948 ở Đào Giã (Phú Thọ) đón nhận học sinh từ thủ đô Hà Nội.
Trƣờng Hùng Vƣơng (Phú Thọ), Hàn Thuyên (Bắc Ninh), Ngô Sĩ
Liên (Bắc Giang), v.v… (2)
Dƣơng Xuân Nghiên (1921 – 1999): Trƣớc Cách mạng tháng 8 –
1945 đậu bằng MG (Toán đại cƣơng) trƣờng Cao đẳng khoa học, tốt
nghiệp ban kỹ sƣ công chính trƣờng Cao đẳng công chính.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
22
Ở vùng này có nhiều cơ quan của Khu (Bƣu điện, Đoàn
Thanh niên, Giáo dục,…), của Trung ƣơng… sơ tán, vì vừa
kín đáo an toàn, vừa có đƣờng giao thông thuận tiện.
Trƣờng mƣợn đình làng làm lớp học, mƣợn nhà kho chứa
thóc cũ làm ký túc xá. Giáo sƣ và công nhân viên đều phân
tán ở nhờ nhà dân.
Những ngày đầu ngoài thầy Dƣơng Xuân Nghiên Hiệu
trƣởng và dạy các môn khoa học tự nhiên, có thầy Nguyễn
Văn Quý dạy các môn khoa học xã hội và Pháp Văn, thầy
Đào Trọng Dậu ở trƣờng tiểu học sở tại phụ trách môn
Thể dục thể thao. Nhân viên của trƣờng gồm có: bác Đỗ
Mộng Ngọc phụ trách văn phòng; cô Ngà (vợ thầy Nghiên)
phụ trách bếp ăn, sau chuyển sang cô Hiền (vốn là cô giáo
tiểu học ở Hà Nội tản cƣ lên). Hàng ngày học sinh cắt cử
nhau giúp việc nhà bếp. Bếp ăn là hình ảnh đầm ấm, nơi
thầy trò quây quần với bữa cơm đạm bạc. Số học sinh rất
ít, rồi đông dần (từ 2, 5, 6,…. rồi 30 học sinh, có cả Nữ và
học sinh ngƣời Tày). Trƣờng vẫn có đủ 4 lớp: đệ nhất, đệ
nhị, đệ tam, đệ tứ, phải học ghép hai lớp đầu cấp và hai lớp
cuối cấp. Học sinh nhiều ngƣời là con em cán bộ các cơ
quan đóng trong vùng, có cả ngƣời địa phƣơng, ngoài ra là
học sinh đến từ thị xã và các huyện khác, nhiều con em
đồng bào tản cƣ (3)
. Một số học sinh gia đình ở các tỉnh
khác.
Nha Trung học vụ cùng với Khu giáo dục rất quan tâm
đối với trƣờng. Lúc đó giáo viên của tất cả các cấp đều rất ........................................................................................................................
(3) Chỉ thị của Chủ tịch nƣớc và Sắc lệnh số 5 – SL của Chính phủ (31
– 12 – 1946): thành lập Ủy ban tản cƣ. Ủy ban hành chính kháng
chiến các cấp đều chỉ đạo tổ chức các Ủy ban tản cƣ và tiếp cƣ. Đến
tháng 2 – 1947 tỉnh Thái Nguyên đã tiếp đón 12000 đồng bào từ các
tỉnh tản cƣ đến, phân chia khu vực định cƣ, phân phối hàng triệu đồng
tiền cứu tế.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
23
thiếu, ngoài số giáo sƣ trung học từng dạy ở các trƣờng
công và tƣ nay chuyển theo kháng chiến, Bộ vận động
các trí thức, sinh viên các ngành khác về làm việc cho
ngành Giáo dục(4)
, Khu Giáo dục cũng giúp Bộ tìm nguồn
bổ sung tại chỗ(5)
.
Nếu trƣớc đó, năm 1946 ở thị xã Thái Nguyên, trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến ra đời mang những nhân tố
mới của giáo dục cách mạng, thì nay, năm 1947, trƣờng
trung học ở Cù Vân xuất hiện trong đời sống giáo dục
kháng chiến, bắt đầu một sự nghiệp lâu dài đầy thử thách.
Ngoài hoạt động đặc thù của ngành là dạy và học, thầy và
trò sống hòa mình cùng đồng bào địa phƣơng miền núi.
Cũng vào rừng kiếm củi, hái rau dại, đào sắn trên nƣơng,…
Cũng chặt cây, lấy nứa về sửa sang nơi ở, bếp ăn tập thể
của thầy trò. Cuộc sống gian khó, thiếu thốn vật chất,
nhƣng rất lạc quan, tƣơi vui. Tuy nhiên, bƣớc đầu ở miền
núi hoang vu, rắn độc, muỗi vắt, sốt rét, thƣơng hàn, ghẻ
lở,… đe dọa sức khỏe và tính mạng của những con ngƣời
mới hôm qua chỉ quen cuộc sống thị thành. Đã có học sinh
lâm bệnh nặng rồi qua đời vì không có thuốc men chạy
chữa.
Do mới bƣớc vào cuộc sống kháng chiến, tất cả còn bỡ
ngỡ, chƣa kịp thích nghi nhƣng vẫn phải tiến hành nhiệm
vụ khó khăn, lại có nhiều công việc do hoàn cảnh phát sinh,
không nhƣ một trƣờng phổ thông ở thời bình, nên hoạt
động của thầy và trò mới chỉ cố gắng duy trì đƣợc một nền ------------------------------------------------------------------------------------
(4) Nhƣ ngƣời đƣợc cử về trƣờng cùng với ông Dƣơng Xuân Nghiên là
ông Nguyễn Văn Quý – sinh viên trƣờng Luật. (5)
Nhƣ thầy giáo Đào Trọng Dậu, và sau này có các thầy Phạm Huy
Châu, Trần Văn Quốc, … nguyên là những ngƣời trong ngành giáo
dục Thái Nguyên từ trƣớc. G.S Nguyễn Hữu Tảo cũng tham gia dạy
môn Vạn vật.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
24
nếp cơ bản: sáng dậy đúng giờ, tập thể dục, sau đó tự học,
lao động; chiều lên lớp học các môn chính khóa; trƣớc khi
vào lớp học sinh xếp hàng chào cờ, hát quốc ca. Trƣờng
chƣa tổ chức đƣợc nhiều hoạt động chính trị, đoàn thể trong
trƣờng và ngoài xã hội. Chƣa có tổ chức Học sinh đoàn, chỉ
cử ra lớp trƣởng duy trì nề nếp chung. Anh Nguyễn Hoàn
lớp trƣởng đệ nhất – đệ nhị, anh Phạm Trí Thức lớp trƣởng
đệ tam – đệ tứ.
Trƣờng cũng chƣa có đảng viên Đảng cộng sản Đông
Dƣơng. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở đƣờng lối, chủ
trƣơng của Trung ƣơng, Chính phủ và các chủ trƣơng, hoạt
động của Bộ triển khai đƣờng lối của Chính phủ và Trung
ƣơng. Khi trƣờng chƣa có cơ sở Đảng thì tổ chức Đảng
ở địa phƣơng(6)
nơi trƣờng đóng vẫn phụ trách lãnh đạo
chính trị chủ yếu thông qua các tổ chức đoàn thể và chính
quyền.
Cách tổ chức trƣờng lớp, cách dạy và cách học là hết sức
linh hoạt, đặc biệt sáng tạo, không câu nệ quy tắc máy móc
mà căn cứ vào hoàn cảnh thực tế. Nhƣng chính nhờ bản
lĩnh đích thực của thầy và trò mà vào dịp bế giảng năm học
1946 – 1947 (theo lệ thƣờng), mặc dù mới học có mấy
tháng, trƣờng vẫn tổ chức đƣợc kỳ thi tốt nghiệp trung học
phổ thông cho hai lớp ghép đệ tam – đệ tứ. Kỳ thi tiến hành
làm 2 đợt, học sinh không đỗ đợt I đƣợc phép thi đợt II.
Đây là kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông đầu tiên ở tỉnh
Thái Nguyên. Dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo, vẫn có
những nỗi niềm muôn thuở của thi cử: ngƣời đỗ vui sƣớng
cực độ (chị Dƣơng Thị Ngọc – con GS Dƣơng Quảng Hàm ........................................................................................................................
(6) Ngay tổ chức Đảng trong các cơ quan Bộ QGGD những năm đầu
kháng chiến cũng sinh hoạt ghép vào các chi bộ địa phƣơng nơi cơ
quan sơ tán.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
25
đỗ thủ khoa), còn ngƣời trƣợt rất đau (anh Đ.V.P khóc “hết
nƣớc mắt”, may mà đỗ đợt II). GS Nguyễn Hữu Tảo đã chỉ
đạo kỳ thi này, và liền sau đó là kỳ thi tốt nghiệp tiểu học
(cũng tổ chức ở trƣờng) cho học sinh ở Đại Từ và các vùng
lân cận.
Trƣờng trung học phổ thông ở Cù Vân đƣợc xây dựng
và đứng vững trong hoàn cảnh hết sức gian khó, để tiếp tục
những bƣớc phát triển về sau. Đó chính là thành công lớn
rất có ý nghĩa trong việc thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối
chuyển hƣớng giáo dục trong thời chiến của Đảng(7)
, Chính
phủ.
B. Trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến
những năm học ở Phú Bình.
I. Trƣờng trung học phổ thông Cù Vân thành lập và hoạt
động trong rất nhiều khó khăn đƣợc mấy tháng thì có chủ
trƣơng chuyển địa điểm. Vùng Đại Từ đƣợc chọn làm khu
an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến, nhƣng không
thật thuận lợi cho yêu cầu phát triển của một trƣờng phổ
thông bậc trung học không chỉ của riêng tỉnh Thái Nguyên.
Trƣờng cần phải trở thành một trung tâm văn hóa – giáo
dục tiêu biểu của Khu Một, rồi Liên khu Việt Bắc. Các cấp
lãnh đạo trong và ngoài ngành Giáo dục hết sức chú ý đầu
tƣ về mọi mặt cho trƣờng trong khả năng có thể. Trƣờng
cần thu hút đông đảo học sinh kháng chiến, trở thành một
trung tâm đào tạo trí thức trẻ cho công cuộc kháng chiến,
kiến quốc. Nhƣ vậy chủ trƣơng di chuyển trƣờng đến một
địa điểm khác khả dĩ đáp ứng thuận lợi hơn đối với các yêu
cầu trên đây là hoàn toàn cần thiết. ........................................................................................................................
(7) Tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng Đảng cộng sản Đông
Dƣơng tháng 4 năm 1947.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
26
Ngay trong năm 1947, trƣờng chuyển về huyện Phú
Bình, đóng tại Phƣơng Độ. Trƣờng trung học ở Cù Vân giờ
mang tên mới là trƣờng trung học Phƣơng Độ (theo cách
gọi tên tự nhiên và đơn giản lúc ấy).
Đây là huyện vùng thấp của tỉnh, khá trù phú, dân cư
tương đối đông. Trước cách mạng, Phú Bình là huyện khá
hơn các huyện khác về mọi mặt, kể cả về giáo dục (có 2
trường tiểu học Hà Châu và Phương Độ). Phú Bình cũng
là một cửa ngõ về phía Nam của tỉnh, dễ dàng liên lạc
bằng đường thủy và đường bộ với các tỉnh khác như Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông rồi đến các tỉnh đồng
bằng khác, kể cả vùng Đông Bắc. Một trường trung học
kháng chiến thuộc loại trọng điểm của tỉnh căn cứ địa nằm
ở một nơi cách vùng quân Pháp kiểm soát không xa, ngay
cả đối với thủ đô Hà Nội, đã thực sự có sức hấp dẫn đối với
lớp thanh thiếu niên hướng về kháng chiến. Đồng bào ta ai
cũng yêu nước, một lòng theo cụ Hồ kháng chiến, nhưng
rất nhiều gia đình không thể rời bỏ phố phường, ruộng
vườn, nhà cửa để lên chiến khu. Họ tìm cách cho con em
mình đi và càng yên tâm khi biết ở vùng tự do có đủ trường
lớp cho tương lai chúng khỏi bị thiệt thòi vì thất học. Và
quan trọng hơn, với tâm lý đầy tin tưởng, họ hướng về nền
giáo dục cách mạng, tuy non trẻ nhưng đã tỏ rõ tính ưu việt
nhất định sau một năm học đầu tiên (1945 – 1946). Bước
vào kháng chiến trường kỳ không thể “xếp bút nghiên”
hoàn toàn dù là tạm thời. Bởi muốn “trường kỳ” phải
kháng chiến “toàn diện”, không thể thiếu sức mạnh của
Giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc, phải phát triển giáo dục ở vùng tự do,
vùng du kích,… thu hút học sinh vùng địch tạm chiếm ra
với kháng chiến”… Trường trung học phổ thông của Thái
Nguyên di chuyển về Phương Độ, Phú Bình là nằm trong
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
27
chủ trương chung của Trung ương, Chính phủ, Bộ Quốc
gia giáo dục, theo tinh thần chỉ thị của chủ tịch Hồ Chí
Minh (8)
.
Khác với trƣớc đây khi Thái Nguyên mới mở lại trƣờng
trung học ở Cù Vân thì chỉ vài học sinh cũ ở trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến thị xã có mặt, bây giờ tất cả thầy trò đều cùng
nhà trƣờng chuyển về Phƣơng Độ. Rồi dần dần, một số học
sinh cũ ở thị xã cũng tìm về trƣờng học tiếp. Số học sinh
tăng dần. Họ đến từ các nơi trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Đặc biệt, có một số học sinh địa phƣơng đã học qua tiểu
học, nay mới có trƣờng để học lên. Số thầy giáo cũng đƣợc
bổ sung thêm.
Đã có thể tổ chức học theo từng lớp (thay vì học ghép
từng hai lớp nhƣ dạo ở Cù Vân), có đủ 4 lớp: đệ nhất, đệ
nhị, đệ tam, đệ tứ. Hai lớp đầu cấp tƣơng đối đông, hai lớp
cuối cấp ít học sinh hơn, tổng số lúc này chƣa tới 100.
Lúc đầu trƣờng học nhờ các phòng học của trƣờng tiểu
học Phƣơng Độ. Sau cuộc tấn công của Pháp lên Bắc Kạn,
Chợ Mới, Thái Nguyên thu đông 1947, các làng ở Phú
Bình (và cả tỉnh Thái Nguyên) phá nốt các nhà gạch, kể cả
trƣờng tiểu học.
Trong khi chờ địa phƣơng sắp xếp nơi học cho các
trƣờng, thầy và trò trung học đã tự khắc phục bằng cách tổ
chức học ngoài trời. Bảng đen, bàn ghế kê dƣới gốc cây
khế ở sân trƣờng, thầy say sƣa giảng bài, học sinh chăm
chú lắng nghe, vẫn nghiêm túc và còn tràn đầy cảm hứng
lãng mạn kháng chiến cùng chất trí tuệ trong liên tƣởng đẹp
........................................................................................................................
(8) Ở vùng tự do Liên khu IV, Liên khu V, Nam Bộ cũng phát triển các
trƣờng trung học theo chủ trƣơng này.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
28
hãnh diện(9).
Ít ngày sau trƣờng đƣợc xã cho học ở đình. Các lớp đệ
nhất, đệ nhị đông học sinh thì học ở ngôi đình chính. Các
lớp đệ tam, đệ tứ học ở hai dãy nhà phụ hai bên tả, hữu sân
đình.
Đình Phƣơng Độ cũng là nơi học của trƣờng tiểu học
Phƣơng Độ. Hai trƣờng học vào hai buổi sáng và chiều
khác nhau trong ngày.
Sau thời gian đầu lo liệu về trƣờng lớp, đón nhận học
sinh, thu xếp nơi ăn ở cho thầy giáo, tổ chức dạy và học
trong mọi hoàn cảnh… trƣờng trung học đã tƣơng đối tạm
ổn định, khẩn trƣơng hoàn thành học kỳ I năm học 1947 –
1948. ........................................................................................................................
(9) Các thầy giáo và đa số học sinh trung học thời đó đều biết qua sách
vở:
- Những trƣờng học đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại là dƣới lùm cây, cánh
đồng, đền thờ, tu viện, sân chơi điền kinh,…
- Platon (428/427 – 347 TCN) giảng dạy các môn đệ ở cánh đồng, nên
từ đó có danh từ Campus chỉ khuôn viên đại học ngày nay.
- Aristote (384 – 322 TCN) mở lớp học dƣới các lùm cây gọi là
Lyceum. Từ Lycée trong tiếng Pháp chỉ trƣờng trung học là bắt nguồn
từ Lyceum.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
29
Lúc này càng thấy chủ trƣơng di chuyển trƣờng từ Cù
Vân Đại Từ về Phú Bình là hết sức sáng suốt, vì ngoài
những lý do đã nêu ở trên, còn là thực tế đã tránh xa vùng
chiến sự ác liệt do chiến dịch tấn công quy mô lớn lên Việt
Bắc thu đông 1947 của giặc Pháp(10)
. Chỉ đến khi chiến
dịch này kết thúc, một cánh quân Pháp trên đƣờng rút về
Hà Nội theo quốc lộ số 3 có càn rộng vào những xã gần
đƣờng, địa phƣơng nổi hiệu lệnh báo động, thầy trò phải
chạy giặc một ngày, rồi trở lại bình thƣờng.
Sang học kỳ II cho đến cuối năm học, trƣờng tiếp tục đón
nhận học sinh từ khắp nơi tìm đến vào tất cả các lớp. Cũng
từ học kỳ II, mọi hoạt động nội khóa, ngoại khóa đã đi vào
nền nếp, quy củ hơn, các phong trào đƣợc tổ chức tạo nên
không khí hào hứng sôi nổi không chỉ trong trƣờng mà lan
tỏa ảnh hƣởng tới cả nhân dân quanh vùng trƣờng đóng.
Thời gian này trƣờng chƣa có cơ sở Đảng. Số lƣợng học
sinh tăng lên nhiều, hoạt động dạy và học đảm bảo hoàn
thành chƣơng trình, tạo đƣợc khí thế mới trong trƣờng và
chiếm đƣợc lòng tin của nhân dân, kể cả gia đình học sinh
ở khắp nơi trong tỉnh và nhiều tỉnh khác.
Đạt đƣợc thắng lợi này trƣớc hết nhờ có chủ trƣơng
chuyển địa điểm trƣờng sáng suốt và đúng đắn, vừa chứng
tỏ tầm nhìn chiến lƣợc, vừa là sự thấu hiểu tâm nguyện ........................................................................................................................
(10) Trong chiến dịch này, liên tiếp trong 3 tháng cuối năm 1947, giặc
Pháp thực hiện các cuộc hành quân Lêa, Xanhtuya nhằm phá tan vùng
căn cứ, lùng bắt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực
của ta.
Trên địa bàn huyện Đại Từ, chiều 26 – 11 – 1947, 400 quân Pháp
(khoảng 1 tiểu đoàn) nhảy dù chiếm đóng làng Ngò (xã An Khánh) và
Ba Gò (xã Cù Vân). Từ đấy cho đến giữa tháng 12 – 1947, Đại Từ
cùng với các vùng ATK thuộc những huyện khác phải chống trả với
những cuộc hành quân càn quét rất ác liệt của địch.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
30
nhân dân của các cấp lãnh đạo. Sự chỉ đạo của Nha Trung
học vụ, của Khu Giáo dục (sau là Sở Giáo dục Liên khu)
thực sự đƣa một trƣờng trung học vừa mới thành lập đƣợc
điều hành bởi một vị Hiệu trƣởng chƣa từng có kinh
nghiệm giáo dục đi đúng quỹ đạo của nền giáo dục mới.
Đóng góp xuất sắc vào thắng lợi năm học là tài năng, tinh
thần, ý chí của thầy Hiệu trƣởng Dƣơng Xuân Nghiên,
ngƣời đã cảm hóa, đoàn kết, động viên tất cả đồng nghiệp
và các lớp học sinh đầu tiên xây dựng thành công một
trƣờng trung học vững vàng hứa hẹn sớm có bề thế.
***
II. Năm học 1948 – 1949 đánh dấu những chuyển biến
quan trọng. Địa điểm tƣơng đối ổn định, đƣợc củng cố khá
hơn về cơ sở vật chất do địa phƣơng tận tình giúp đỡ.
Trƣờng phát triển đột biến về số lƣợng học sinh, đã có 2
lớp đệ nhất, 2 lớp đệ nhị, một lớp đệ tam, một lớp đệ tứ. Bộ
và Khu Giáo dục đã cử về trƣờng những giáo viên mới. Các
thầy giáo, cô giáo là những giáo sƣ trung học từ trƣớc, hoặc
là giáo viên tiểu học đƣợc điều lên. Số khác là sinh viên
những trƣờng đại học hoặc cao đẳng thuộc nhiều ngành
khác nhau, đã hoặc chƣa tốt nghiệp. Do kháng chiến, không
có điều kiện tiếp tục học hoặc làm việc đúng theo ngành
nghề đƣợc đào tạo, họ tự nguyện tham gia ngành Giáo dục.
Trƣờng bƣớc vào khai giảng năm học mới với tầm vóc khá
tƣơng xứng của một đơn vị giáo dục thuộc loại trọng điểm
trong khu và có tên tuổi trong số các trƣờng trung học phổ
thông ở vùng tự do cả nƣớc thời kỳ đó. Tuy lễ khai giảng
diễn ra ở một làng trung du, không có ngôi trƣờng lộng lẫy
khang trang phù hợp, nhƣng vẫn đầy ắp không khí sƣ phạm
ấm áp và khí thế hào hứng, trẻ trung.
Bộ máy quản lý của trƣờng tuy chƣa thật hoàn chỉnh,
song đã có những bộ phận cần thiết nhất định nhƣ văn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
31
phòng (với 2 nhân viên), giám thị, tùy phái,.. đảm bảo khâu
hành chính sự vụ giúp cho việc quản lý lãnh đạo của Hiệu
trƣởng thuận lợi hơn.
Sau gần một năm học (1947 – 1948), quan hệ gắn bó
giữa trƣờng và địa phƣơng đã dần ổn định và đi vào chiều
sâu. Sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ trƣờng của các cấp
lãnh đạo huyện Phú Bình, địa bàn các thôn, xã trƣờng đóng
và có thầy giáo, học sinh đến ở đã thực sự tạo nên một thế
đứng vững vàng trong lòng dân, một kiểu nhà trƣờng khó
tìm thấy ở đâu trong lịch sử giáo dục thế giới.
Thầy và trò từng nhóm nhỏ ở ngay trong nhà dân (hình
thành các pô pốt), đƣợc dân sẻ chia từ tấm phản, manh
chiếu dƣới một mái rạ đơn sơ, từng củ khoai, củ sắn, nắm
rau mỗi khi cơ nhỡ. Ngoài giờ học, những “trí thức thành
phố” cũng giúp dân nhiều “việc nhà nông” trong nhà và
ngoài đồng ruộng.
Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đƣợc thực hiện rất tự nhiên, đẹp đẽ.
Cũng từ năm học này trƣờng chính thức mang tên
Lƣơng Ngọc Quyến (11)
nhƣ ngày đầu thành lập năm 1946.
Trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến là đơn vị giáo dục
lớn, tƣơng lai sẽ còn phát triển mạnh, nên rất cần có tổ
chức cơ sở Đảng. Hiện trƣờng có 2 đảng viên chƣa đủ ................................................................................................................
(11) Theo bài “Một vài tƣ liệu về những năm đầu của trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến” của thầy Dƣơng Xuân Nghiên (chƣa công bố):
Sự kiện trường mang tên Lương Ngọc Quyến là có ý kiến của Giám
đốc Sở Giáo dục Liên khu I Hoàng Ngọc Phách: Thứ nhất, trường cần
có tên chính thức (như các trường trung học lớn ở vùng tự do), thay
cho cách lấy tên địa phương trường đóng (tạm thời) làm tên trường.
Thứ hai, nên lấy tên danh nhân tiêu biểu đặt tên trường (như các
trường trung học lớn khác).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
32
thành lập một chi bộ, vẫn sinh hoạt với chi bộ Đảng xã
Phƣơng Độ. Huyện ủy Phú Bình (bí thƣ là đồng chí Trần
Lê Nhân), cấp phụ trách trực tiếp đã kết hợp việc đào tạo
cán bộ và xây dựng tổ chức Đảng ở trƣờng bằng quyết định
cử một cán bộ trẻ là đảng viên đang công tác ở Ban Tuyên
huấn huyện ủy về trƣờng đi học. Vậy là đã đủ điều kiện
thành lập chi bộ Đảng cho trƣờng. Chi bộ Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng ra đời ở trƣờng trung học phổ thông Lƣơng
Ngọc Quyến Thái Nguyên là sự kiện đƣợc tổ chức, xây
dựng một cách tài tình, khéo léo, đúng thời điểm quan
trọng, đúng nguyên tắc, trong ý thức chủ động của các cấp
lãnh đạo Đảng ở tỉnh và huyện lúc đó. Chi bộ đảng đầu tiên
gồm 3 đảng viên:
- Đồng chí Trần Văn Quốc là giáo viên;
- Đồng chí Đồng Văn Năng, học sinh năm đệ nhất,
ngƣời Phƣơng Độ;
- Đồng chí Nguyễn Huy, học sinh (bàng thính sinh)(12)
mới đƣợc cử về học năm đệ nhị.
Ngƣời bí thƣ chi bộ đầu tiên là đồng chí Trần Văn Quốc.
Chi bộ trực thuộc huyện ủy Phú Bình.
Vừa thành lập, chi bộ đã kịp thời đi vào hoạt động lãnh đạo
nhà trƣờng ngay từ đầu năm học 1948 – 1949.
Mọi việc tiến hành thuận lợi, vì sự kiện xuất hiện chi bộ
Đảng đƣợc chào đón đầy tin tƣởng, làm phấn chấn toàn
trƣờng(13)
. Hơn nữa, chính ngƣời Hiệu trƣởng đầy uy tín ................................................................................................................
(12) Chế độ “bàng thính sinh” áp dụng đối với những học sinh nhập
học không có đủ hồ sơ xác nhận trình độ. Học sinh đƣợc lên lớp nghe
giảng một thời gian thử thách, rồi qua sát hạch nếu đạt sẽ trở thành
học sinh chính thức. Tình hình này rất phổ biến. (13)
Đảng CSĐD rút vào hoạt động bí mật từ sau Cách mạng, nhƣng ở
môi trƣờng trí thức rất nhạy cảm về chính trị, ai nấy đều hiểu rõ vai
trò của Đảng, và định hƣớng phấn đấu theo Đảng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
33
hiện đang là đối tƣợng kết nạp Đảng(14)
. Các đoàn thể quần
chúng rộng rãi nhất lúc này là tổ chức Đoàn giáo giới của
thầy và Học sinh đoàn (Hiệu đoàn) của trò, Đảng ta luôn
coi trọng công tác thanh vận, nên đã chỉ đạo tổ chức Đoàn
thanh niên các cấp quan tâm lãnh đạo phong trào trong nhà
trƣờng, nhất là trƣờng trung học. Ngay từ sau Đại hội giáo
giới toàn quốc lần thứ nhất (8 – 1946) Đoàn Thanh niên
cứu Quốc đã tích cực giúp đỡ thành lập Học sinh đoàn ở
khắp nơi. Học sinh đoàn ở trƣờng trung học Lƣơng Ngọc
Quyến đặt dƣới sự chỉ đạo của Khu đoàn thanh niên Việt
Bắc và Tỉnh đoàn thanh niên Thái Nguyên. Hiệu đoàn (tức
Học sinh đoàn) đƣợc nhà trƣờng quan tâm phụ trách là một
tổ chức trong hệ thống từ trung ƣơng đến cơ sở, tổ chức
lãnh đạo, động viên mọi ngƣời thực hiện nhiệm vụ của
ngƣời học sinh. Toàn trƣờng có một Ban chấp hành Hiệu
đoàn do Đại hội toàn thể học sinh bầu ra, nhiệm kỳ một
năm, diễn ra vào đầu năm học. Đứng đầu Ban chấp hành là
Hiệu đoàn trƣờng(15)
và thƣờng có Hiệu đoàn phó. Các ủy
viên BCH đƣợc phân công phụ trách các mảng công tác
chính về nội khóa và ngoại khóa: học tập, tƣ tƣởng đạo
đức, tăng gia sản xuất, văn nghệ - thể thao, bình dân học
vụ, v.v… (tùy theo yêu cầu từng thời gian). Tổ chức Học
sinh đoàn ở lớp gọi là phân đoàn. Đại hội lớp bầu ra Ban
chấp hành phân đoàn, thƣờng gồm một phân đoàn trƣởng,
hai phân đoàn phó, phụ trách 3 mặt công tác: tƣ tƣởng ................................................................................................................
(14) Đồng chí Dƣơng Xuân Nghiên đƣợc chi bộ nhà trƣờng tổ chức kết
nạp Đảng ngay trong năm học 1948 – 1949. (15)
Ngƣời Hiệu đoàn trƣởng chính thức đầu tiên của trƣờng trung học
Lƣơng Ngọc Quyến là anh Nguyễn Hoàn (sinh năm 1931) năm học
1947 – 1948. Sang năm học 1948 – 1949 anh Nguyễn Đồng Thoại
mới từ quân đội về học lớp đệ tam đƣợc bầu thay anh Hoàn lên lớp đệ
tứ (dành thời gian học để thi tốt nghiệp THPT).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
34
chính trị, học tập, công tác ngoại khóa. Mỗi phân đoàn
(lớp) chia ra một số tổ, gồm khoảng hơn 10 ngƣời theo địa
bàn cƣ trú (trọ học), là đơn vị nhỏ nhất thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của trƣờng, lớp, hoặc nhiệm vụ do tổ
chức Hiệu đoàn đề ra. Tùy tình hình, tổ cũng là đơn vị học
tập dƣới hình thức tự quản tập thể, hoặc chia nhỏ hơn thành
nhóm học tập. Các đơn vị nhỏ này đƣợc tổ chức sao cho có
ít nhất một học sinh học khá, giỏi làm nòng cốt giúp các
bạn trong học tập. Tổ, nhóm học tập là hình thức sáng tạo
của nền giáo dục mới, chỉ có quan hệ đoàn kết, dân chủ,
yêu thƣơng tôn trọng con ngƣời mới làm đƣợc nhƣ vậy.
Thông qua hai đoàn thể rộng rãi của trò và của các thầy, chi
bộ nhà trƣờng đã triển khai công tác lãnh đạo nhằm đƣa các
hoạt động giáo dục đi đúng quĩ đạo của Đảng.
Những nét khái quát cơ bản nhất về đƣờng lối văn hóa –
giáo dục của Đảng đã đƣợc vạch ra trong bản “Đề cƣơng
văn hóa” (đồng chí Trƣờng Chinh viết năm 1943).(16)
Từ
sau Cách mạng 1945 đến 1948, tùy theo diễn biến thời
cuộc, Đảng ta đã từng lúc đề ra các chủ trƣơng, chính sách
sát hợp.
Dù dƣới hình thức sắc lệnh chính quyền, lời kêu gọi, bức
thƣ của Chủ tịch nƣớc, hay Nghị quyết Đại hội đoàn thể, ................................................................................................................
(16) Nói đầy đủ hơn: Quan điểm tƣ tƣởng về Văn hóa – Giáo dục của
Đảng CSĐD thể hiện ở các văn kiện của Đảng từ khi thành lập, ở tác
phẩm của các vị sáng lập và lãnh đạo Đảng từ trƣớc đó cho đến sau
này.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
35
Nghị quyết hội nghị Trung ƣơng Đảng(17)
... tất cả thể
hiện một hệ thống quan điểm tƣ tƣởng giáo dục cách mạng
tiến bộ. Nội dung chủ yếu thể hiện đặc trƣng và có ý nghĩa
chỉ đạo tƣ tƣởng và thực tiễn đối với nền giáo dục đó là các
vấn đề về:
- Mục đích
- Nguyên tắc
- Nội dung và phƣơng pháp.
Các trí thức cách mạng, và tất cả các nhà giáo có lƣơng
tri đều hiểu rõ (ở mức độ khác nhau) và bị hấp dẫn bởi điều
đó. Công tác Đảng trong nhà trƣờng lúc này là phấn đấu
làm cho thầy và trò trƣớc hết là thầy giáo thấm nhuần sâu
sắc quan điểm tƣ tƣởng giáo dục mới, nắm vững chủ
trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, vận dụng tốt trong thực tiễn
công tác giáo dục – giảng dạy và học tập.
Mục đích cao cả của nền giáo dục mới là “Tôn trọng nhân
phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng” (Tuyên bố của
Bộ Quốc gia giáo dục tháng 10 – 1945). Các thầy giáo
Lƣơng Ngọc Quyến nhận thức vấn đề này nhƣ một lẽ
đƣơng nhiên, và thực hiện rất giản dị, bình thƣờng. Cuộc
sống chung dƣới mái trƣờng kháng chiến từ ngày đầu ở Cù ................................................................................................................
(17) – Thƣ gửi học sinh nhân ngày khai trƣờng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (tháng 9 – 1945).
- Thƣ gửi Đại hội Giáo dục toàn quốc lần thứ hai của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (tháng 7 – 1948).
- Sắc lệnh 146/SL quy định các nguyên tắc của nền giáo dục mới
(dân tộc, khoa học, đại chúng), và cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
- Sắc lệnh 147/SL ấn định những điều khoản để thực hiện bậc học
cơ bản.
- Nghị quyết của hai Hội nghị Trung ƣơng Đảng CSĐD (4- 1947
và 1 – 1948).
- Nghị quyết các Đại hội giáo dục toàn quốc (lần thứ nhất 8 –
1946, lần thứ hai 7 – 1948).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
36
Vân – Đại Từ đến nay ở Phƣơng Độ - Phú Bình tuy mới là
năm học thứ hai, nhƣng bản chất chế độ mới cùng với thực
tiễn đời sống mới hòa mình với quần chúng nhân dân, gần
gũi gắn bó với học sinh… đã đem lại cho các nhà trí thức
giáo dục nhiều bài học nóng hổi, sâu sắc, bổ ích. Đó là cơ
sở thực tiễn góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức của
ngƣời thầy giáo đối với quan điểm tƣ tƣởng giáo dục của
Đảng.
Thực tế hiển nhiên là tất cả mọi ngƣời hội tụ về trƣờng
không phân biệt thầy hay trò, dù nguồn gốc xuất thân ra
sao, đều có chung lý tƣởng yêu nƣớc, chung một ý chí
kháng chiến để giành độc lập. Nét căn bản đó trong nhân
phẩm ngƣời học sinh hôm nay hẳn nhiên cần đƣợc tôn
trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn sâu sắc, sao cho
nƣớc Việt Nam mau chóng “sánh vai với các cƣờng quốc
năm châu”. Đất nƣớc chỉ đƣợc thế giới tôn trọng khi ngƣời
dân của nƣớc ấy đƣợc tôn trọng. Thực tế cuộc kháng chiến
cũng là cơ hội để các thanh thiếu niên học sinh thể hiện
những phẩm chất quí giá. Nhiều ngƣời trong số họ từng đã
tham gia công tác kháng chiến từ những ngày đầu khói lửa,
rất dũng cảm, và luôn sẵn sàng hy sinh khi cần (18)
. ................................................................................................................
(18) Năm 1949 có sự kiện đặc biệt: Quân đội gửi đến học nhờ trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến khoảng 80 em lứa tuổi từ 11 đến 15, là thiếu sinh
quân hoặc liên lạc viên từ các đơn vị trung đoàn Thủ đô, các tiểu đoàn
Lũng Vài, Bình Ca, Phủ Thông, Lũng Phầy… thuộc trung đoàn 308
tập trung về, biên chế thành 2 trung đội theo độ tuổi và trình độ học
lực. Họ đóng quân rải rác trong nhà dân dọc sông Cầu phía sau đình
Phƣơng Độ. Họ sống theo nền nếp và kỉ luật quân đội. Ngoài giờ lên
lớp học văn hóa nhƣ học sinh thƣờng, các “học sinh quân” còn luyện
tập quân sự theo chƣơng trình các khóa huấn luyện chặt chẽ. Tinh
thần, ý thức thật tuyệt vời, nhƣng việc học hành rất vất vả. Nhà trƣờng
đã dành cho họ sự quan tâm, ƣu ái hết sức.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
37
Họ xin vào học trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, hoặc một số
đƣợc cơ quan Nhà nƣớc, quân đội cử đến trƣờng tiếp tục
học, lúc này đƣợc hiểu là vì lợi ích chung.
Lƣơng Ngọc Quyến là nhà trƣờng con đẻ của nhân dân,
của kháng chiến, là nơi để thanh thiếu niên yêu nƣớc “rèn
luyện chí khí, phát triển tài năng”. Các giáo sƣ trung học kỳ
cựu (nhƣ thầy Trần Hữu Mai nguyên giám đốc trƣờng An –
Nam học đƣờng, Hà Nội; thầy Đào Hùng nguyên giáo sƣ
dạy Toán ở trƣờng Bƣởi, Hà Nội…, hai ngƣời từng là thầy
học của vị Hiệu trƣởng đƣơng nhiệm Dƣơng Xuân Nghiên)
đã rời bỏ không luyến tiếc cảnh sống đầy đủ, phồn hoa nơi
đô thành, đi theo lý tƣởng cao đẹp, chấp nhận cuộc sống
thiếu thốn gian khổ. Nhƣng chính hình ảnh lớp học sinh
mới đã giúp các thầy chuyển biến về tình cảm và nhận
thức. Với các trí thức trẻ mới tham gia ngành giáo dục, họ
hòa nhập với môi trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến ở đây có
phần thuận lợi hơn. Cùng sinh hoạt thanh niên, tham gia
các hoạt động ngoại khóa (văn nghệ, thể thao, làm công tác
xã hội…), sống chung với học sinh trong các nhà dân, họ
rất vui với cách xƣng hô tự nhiên, thân tình mà vẫn nguyên
thái độ kính trọng của lớp học sinh hôm nay (19)
.
Các “anh giáo”, “chị giáo” cũng tăng gia sản xuất, gánh
nƣớc, nấu cơm, dọn vệ sinh… với học trò. Tối tối, thầy
giáo xách đèn đến các “pô pốt” ở rải rác trong các xóm, ấp
giúp học sinh học bài. Có những học sinh do phải chạy tản
cƣ nhiều nơi, bỏ lỡ việc học hành nên khi tìm đến
................................................................................................................
(19) Thời đó học sinh gọi các thầy giáo, cô giáo là anh, chị, xƣng em
(khác với ngày trƣớc, các giáo viên trẻ thƣờng đƣợc gọi là “cậu giáo”,
“cô giáo”). Đối với các giáo sƣ lớn tuổi, học sinh vẫn giữ cách gọi là
“thầy”, xƣng “con” hoặc “em”. Nhƣng có khi thầy vẫn muốn yêu cầu
học sinh xƣng hô “anh”, “em” với mình!
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
38
trƣờng thì không theo kịp chƣơng trình. Thầy đã tận tình
giúp họ học thêm để đuổi kịp cả lớp, mà không hề tính toán
công sức. Trong công tác lãnh đạo tƣ tƣởng chính trị của
chi bộ Đảng nhà trƣờng, vấn đề nêu cao, làm sáng tỏ mục
đích cao cả của nền giáo dục mới trong nhận thức, và thể
hiện trong đời sống giáo dục toàn trƣờng, đã đƣợc triển
khai sôi nổi, hào hứng, có chiều sâu.
Cũng rất có khí thế là việc triển khai nhiệm vụ học tập về
nguyên tắc của nền giáo dục mới. Ba nguyên tắc Dân tộc,
Khoa học, Đại chúng(20)
đƣợc quy định trong Sắc lệnh
146/SL chính là sự vận dụng trực tiếp và sáng tạo nội dung
bản Đề cương văn hóa (1943) của Đảng. Trong cao trào
học tập chính trị của toàn dân thời kỳ đó, với hàng ngũ trí
thức, Đề cương văn hóa, Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa
Việt Nam. (Trƣờng Chinh, 1948) là tài liệu tiêu biểu, hàm
lƣợng lý luận rất cao nên có sức hấp dẫn mạnh.
Chi bộ không gặp nhiều khó khăn, trái lại đã tổ chức tốt
một phong trào học tập, thảo luận sâu rộng dƣới nhiều hình
thức trong Đảng, trong nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác,
trong giáo viên và học sinh(21)
.
Mục đích cao cả và nguyên tắc vàng đƣợc thể hiện ở nội
dung và phương pháp giáo dục. Nội dung có tính “muôn
thuở” của giáo dục chân chính vẫn là lựa chọn khai thác từ
thành tựu tri thức nhân loại. Còn phương pháp, ngay từ 10
– 1945 Bộ Quốc gia giáo dục (Bộ trƣởng Vũ Đình Hòe) đã
tuyên bố xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình thức, nhấn mạnh
khuynh hƣớng gắn với thực hành, đề cao vị trí phần học về ................................................................................................................
(20) Sau này đặt trong hệ thống khác, có thể coi đó là các tính chất.
(21) Chỉ riêng vấn đề 3 nguyên tắc này ở Đại hội văn hóa toàn quốc 10
– 1946 gặp sự chống đối của một số tri thức, đến Đại hội Văn hóa toàn
quốc 7 – 1948 thì đạt đƣợc sự nhất trí hoàn toàn.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
39
chuyên môn nghề nghiệp. Đối với trung học phổ thông,
những vấn đề trên đƣợc hiện thực hóa một cách tập trung
nhất ở chương trình, sách giáo khoa và việc tổ chức thực
hiện.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, trong chủ trƣơng mở lại
các trƣờng phổ thông Pháp – Việt, vẫn tạm thời sử dụng hệ
thống chƣơng trình cũ. Với bậc trung học, chương trình
Hoàng Xuân Hãn (nhƣ thƣờng quen gọi)
đƣợc Hội đồng cố vấn học chính (thành lập theo sắc lệnh
44/SL ngày 10 – 10 – 1945) chấp nhận với những sửa đổi
nhất định cho hợp với chế độ mới.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tập hợp một số trí thức, học
giả cấp tiến đang sống ở Huế lập Hội đồng biên soạn với
tham vọng xây dựng một chương trình trung học phổ thông
hoàn toàn Việt Nam. Các thành viên Hội đồng gồm có:
- GS Phạm Đình Ái (Lý, Hóa).
- Nguyễn Thúc Hào (Toán).
- Nguyễn Dương Đôn (Toán).
- Nguyễn Huy Bảo (Triết).
- LM Nguyễn Văn Hiền (Triết).
- Tạ Quang Bửu (Vật lý).
- Ưng Quả (Pháp văn).
- Hà Thúc Chính (Anh văn).
- Ngô Đình Nhu (Sử, Địa).
- Hoài Thanh (Việt văn)
- Đào Duy Anh (Việt văn).
- Lê Văn Căn (Vạn vật).
- Nguyễn Hữu Quán (Vạn vật)…
Nội dung đại cương của chương trình học:
- Các môn của toàn bậc trung học: Quốc văn, Hán
văn, Toán, Lý, Hóa, Vạn vật, Sinh ngữ 1, Sinh ngữ 2,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
40
Triết, Kinh tế, Sử, Địa, Vẽ, Thực hành, Thủ công,
Nhạc, Nữ công, nuôi trẻ.
- Cấp trung học phổ thông (4 năm) học 2 sinh ngữ:
Pháp (hoặc Anh) và Hán.
- Cấp trung học chuyên khoa (3 năm) có 4 ban:
1 – Ban A: Vật lý, Hóa học, Vạn vật.
2 – Ban B: Toán, Vật lý, Hóa học.
3 – Ban C: Văn Việt Nam, Anh văn, Pháp văn.
4 – Ban D: Văn Việt Nam, Hán Văn, Pháp văn (hoặc
Anh văn).
Học bằng tiếng Việt.
Chương trình được hoàn thành trong thời gian cực ngắn
(khoảng tháng 5 – 1945) được ban hành bởi Dụ số 67 ngày
3 – 6 – 1945 do Hoàng đế Bảo Đại ký, và được áp dụng
ngay cho khóa thi Tú tài niên học 1944 – 1945. Đó là khóa
thi Tú tài đầu tiên bằng tiếng Việt trong lịch sử giáo dục
Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Mỹ thuật của GS Hoàng Xuân Hãn mới
làm được mấy việc lớn là xây dựng hệ thống giáo dục và
soạn thảo chương trình, còn chưa biên soạn sách giáo
khoa. Các giáo sư lên lớp vẫn phải tự soạn sách. Tuy nhiên
để giúp cho việc giảng dạy bằng tiếng Việt được thuận lợi,
nhiều cuốn từ điển chuyên biệt đã được khuyến khích biên
soạn, đó là loại sách công cụ rất hữu ích. GS Hoàng Xuân
Hãn cùng các cộng sự có công lớn, đó là sự kế thừa thành
quả phấn đấu của nhân dân ta hàng nửa thế kỷ lịch sử.
Phong trào Duy Tân (1902 – 1910) do các nhà nho yêu
nước và tiến bộ đã nêu yêu cầu phổ biến chữ Quốc ngữ
trong giáo dục và các lãnh vực khác. Nguyễn Ái Quốc, rồi
Đảng CSĐD từ khi thành lập cũng có chủ trương đấu tranh
mạnh mẽ cho yêu sách này. Nhất là sau khi thế chiến II
bùng nổ, Pháp đầu hàng Đức, Nhật vào Đông Dương, Mặt
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
41
trận Việt Minh thành lập, phong trào yêu nước dấy lên
mạnh mẽ đã tạo nên khí thế và điều kiện hiện thực cho
những hoạt động đề cao vị thế tiếng Việt trong giáo dục,
khoa học, văn hóa nghệ thuật và đời sống mọi mặt.
Nội các Trần Trọng Kim thành lập 1945, chương trình
trung học Hoàng Xuân Hãn ban hành ngày 3 tháng 6 năm
1945. Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 14 – 8 – 1945, chính
phủ Trần Trọng Kim tuyên bố giải thể, chương trình Hoàng
Xuân Hãn không còn lý do tồn tại về mặt pháp lý chính
thống.
Ngày 10 – 8 – 1946 Chủ tịch Chính phủ ra sắc lệnh số
147/SL trong đó ấn định thêm những khoản pháp chế nhƣ:
“Các môn học dạy bằng tiếng Việt. Bởi không thể quan
niệm đƣợc “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” (Chủ
tịch Hồ Chí Minh) mà còn phải dùng tiếng nƣớc ngoài làm
chuyển ngữ. Thực tế là ngay từ năm học 1945 – 1946, các
trƣờng phổ thông đã nhất loạt dùng tiếng Việt. Dù đã qua
mấy năm nhƣng vấn đề này ở cấp trung học vẫn còn nhiều
khó khăn phức tạp, so với cấp tiểu học. Trƣớc kia trong nhà
trƣờng Pháp – Việt hầu hết các môn ở cấp trung học đều
dùng tiếng Pháp. Sách giáo khoa hầu hết là sách chuyển từ
bên Pháp qua (trừ vài quyển về văn học Việt Nam, lịch sử
Việt Nam, địa lý Đông Dƣơng). Các giáo sƣ trung học cũ
vốn quen dạy bằng tiếng Pháp, các học sinh bậc tú tài, các
sinh viên đại học cũ (nay gia nhập đội ngũ giáo viên trung
học) vốn học bằng tiếng Pháp. Chuyển qua dùng tiếng Việt
đòi hỏi một sự chuẩn bị kỹ càng, công phu, trong khi thiếu
thốn mọi bề. Bộ rất khẩn trƣơng nhƣng chƣa thể giải quyết
sớm bao nhiêu vấn đề phức tạp về chƣơng trình, sách giáo
khoa, đào tạo bồi dƣỡng giáo viên… Vấn đề này ở trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến cũng nằm trong tình trạng chung nhƣ
đối với tất cả các trƣờng trung học phổ thông kháng chiến ở
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
42
các nơi. Một số giáo sƣ cũ do đã có quá trình giảng dạy và
nghiên cứu, tìm hiểu chuyên môn, đƣợc tiếp xúc với những
công trình của các học giả tiến bộ nên ít nhiều quen với
cách chuyển dịch thuật ngữ khoa học từ tiếng nƣớc ngoài
(chủ yếu là tiếng Pháp) sang tiếng Việt(22)
. Bài giảng trên
lớp của các thầy cô có phần nhẹ nhàng thanh thoát hơn các
giáo viên trẻ, nhất là những ngƣời chƣa qua các khóa đào
tạo sƣ phạm. Đã có nhiều trƣờng hợp thầy trò phải dừng lại
giữa giờ học để tìm cách phiên dịch một danh từ, một khái
niệm khoa học (vì bài giảng đƣợc thầy soạn trực tiếp trên
nền kiến thức một cuốn sách Pháp). Tuy nhiên với nhiệt
huyết và đức tính cần cù ham học hỏi, lại thấm nhuần các
nguyên tắc Dân tộc, Khoa học, Đại chúng, các nhà giáo trẻ
đã phấn đấu làm tốt công việc, nhất là đƣợc sự ủng hộ chân
thành, trong sáng của học sinh. Vai trò của chi bộ trong
công tác lãnh đạo tƣ tƣởng, chính trị ở đây rất đáng kể, mặc
dù tổ chức Đảng lúc này chƣa xuất hiện công khai, phƣơng
thức lãnh đạo thông qua tổ chức chuyên môn, các đoàn thể
thầy và trò của chi bộ khiến cho các quan điểm tƣ tƣởng,
chủ trƣơng, chính sách của Đảng xuyên thấm qua các hoạt
động của nhà trƣờng một cách tự nhiên. Thầy không cảm
thấy có áp lực nào gò bó. Tập thể các thầy trao đổi chuyên
môn, giúp đỡ nhau trong không khí cởi mở, chân tình, cùng ................................................................................................................
(22) Trƣớc Cách mạng 8 – 1945, các ông Nguyễn Công Tiễn, Nguyễn
Xiển, Hoàng Xuân Hãn… đã xuất bản báo và tập san truyền bá kiến
thức khoa học thƣờng thức và khoa học chuyên sâu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
43
nhau tháo gỡ rất nhiều khó khăn do hoàn cảnh thực tại. (23)
Cuộc kháng chiến của ta có một khẩu hiệu được nêu cao
và phổ biến rất rộng rãi, được quán triệt trong mọi lãnh
vực, đó là Tự lực cánh sinh. Cái thế của đất nước phải như
vậy, nhất là những năm đầu, địch chiếm đóng hầu hết vùng
đồng bằng trù phú, các thành thị trung tâm kinh tế, đầu
mối giao lưu hàng hóa. Các chiến khu, cả vùng tự do của
ta bị bao vây chặt. Tự lực cánh sinh là dựa vào khả năng
của mình, tận dụng, phát huy hết tiềm lực mọi mặt của đất
nước và nhân dân để kháng chiến, kiến quốc.
Ở trường học, những gì tự lo được thì thầy, trò phát huy
sáng kiến tự làm.
Ngoài việc soạn giáo án, bài giảng lên lớp hàng ngày,
các thầy giáo còn cố gắng biên soạn tài liệu làm bài học
cho học sinh. Có thể coi đó là sách giáo khoa dùng trong
nội bộ.
Việc in sách cũng do học sinh tự làm, viết bằng mực tím,
in trên đất sét. Trường còn cho in cả học bạ, giấy khen (có
trang trí) bằng mực đen trên đá – in litô (24)
.
................................................................................................................
(23) Nhất là khó khăn vì thiếu tài liệu, sách, báo… Ngay cả sách công
cụ thiết dụng cho việc giảng dạy bằng tiếng Việt nhƣ các cuốn từ điển
thuật ngữ khoa học về Toán – Lý – Hóa (của Hoàng Xuân Hãn), về
Nông học (của Lê Văn Căn và Nguyễn Hữu Quán), về Thực vật học
(của Đào Văn Tiến), về Y học (của Lê Khắc Thiền)… không phải ai
cũng có và mang theo đầy đủ trong hành trang tản cƣ. (24)
Hai anh em Trịnh Long, Trịnh Hải đảm trách công việc in. Hiện
còn lƣu đƣợc giấy khen của học sinh Bùi Bích San lớp đệ nhị B với
chữ ký của thầy Hiệu trƣởng Dƣơng Xuân Nghiên năm 1948. (Theo
Trịnh Hải – “Một thời…để nhớ”, Ban liên lạc cựu học sinh trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến xuất bản năm 2000).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
44
***
Trong khi chờ đợi tiến tới một cuộc cải cách giáo dục
chính thức cơ bản, toàn diện (thực tế diễn ra vào năm
1950), các tổ chức giúp Bộ về chuyên môn khoa học (như
Hội đồng cố vấn học chính – thành lập 1945, Họi đồng
sách giáo khoa – thành lập 1946…) với các thành viên chủ
chốt như các GS Nguyễn Văn Huyên, Phạm Đình Ái, Ngụy
Như Kon Tum, Nguyễn Hữu Tảo, thạc sĩ Hồ Hữu Tường…
đã nghiên cứu, đề xuất một số nội dung đổi mới.
Cho đến Đại hội giáo dục toàn quốc lần thứ II (7 –
1948) đã có thể thông qua chương trình cải tổ. Có mấy
điểm chính:
- Đưa môn Giáo dục chính trị và đạo đức công dân
vào các lớp cuối bậc phổ thông trung học (đệ tam,
đệ tứ) và trung học chuyên khoa (đệ nhị niên, đệ tam
niên).
- Bỏ bớt phần Văn, Sử cổ kim Đông Tây để tập trung
dạy lịch sử cách mạng Việt Nam và văn học cách
mạng, kháng chiến.
- Dành mỗi tuần một buổi tăng gia sản xuất và hoạt
động xã hội.
- Bỏ ban Lý, Hóa, Sinh và ban Hán văn, Việt văn,
Pháp (hoặc Anh) văn, mở thêm ban Văn học (ở bậc
chuyên khoa).
Ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến thời gian này, các môn
học về chính trị, thời sự chính sách, đạo đức công
dân…chƣa có giáo sƣ riêng, các thầy kiêm nhiệm cũng
chƣa phải tất cả là đảng viên. Vì vậy chi bộ trƣờng đã
thƣờng xuyên liên hệ với huyện ủy Phú Bình để cập nhật
thời sự chính trị, chủ trƣơng chính sách, tạo điều kiện bồi
dƣỡng thầy giáo. Những cuộc thuyết trình của cán bộ nổi
tiếng có uy tín cao, có trình độ hiểu biết sâu rộng nhƣ ông
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
45
Trần Văn Giàu, ông Trần Huy Liệu… đều đƣợc chi bộ và
nhà trƣờng tổ chức cho thầy trò tham dự, dù có phải đốt
đuốc đi xa nhiều cây số.
Nội dung học chính trị xác định trên hai hƣớng: thứ nhất
là theo chƣơng trình của Bộ gồm những bài học cung cấp
một số kiến thức cơ bản tƣơng đối có hệ thống về cách
mạng thế giới và trong nƣớc, về nhà nƣớc dân chủ nhân
dân, về cuộc kháng chiến trƣờng kỳ… Nội dung giáo dục
công dân (chủ yếu dạy ở bậc tiểu học) cũng đƣợc nâng cao
theo hƣớng đạo đức học để dạy ở trung học. Các khái niệm
về lòng yêu nƣớc, đoàn kết hợp quần, bác ái, công lý, nghĩa
vụ công dân… đƣợc tiếp cận trên quan điểm tiến bộ. Thứ
hai là hƣớng tìm hiểu về thời sự, chú ý theo sát tình hình
địa phƣơng, về các chủ trƣơng chính sách của Chính phủ.
Trên hƣớng thứ nhất thầy căn cứ theo yêu cầu của chƣơng
trình mà soạn bài, tự tham khảo sách báo cần thiết. Trong
một số trƣờng hợp Bộ có tài liệu hƣớng dẫn dƣới dạng đề
cƣơng hoặc nội dung gợi ý về những vấn đề cần dạy. Tài
liệu loại này hoặc đƣợc biên soạn riêng cho các trƣờng
trung học cả nƣớc (thực tế là từ Liên khu V trở ra) hoặc
đăng tải trên tờ Giáo dục tập san Trung học. Hƣớng học
tập thời sự chính sách đòi hỏi sự lãnh đạo của chi bộ linh
hoạt hơn. Chi bộ nhà trƣờng đã dựa vào tổ chức Đoàn giáo
giới, Hiệu đoàn học sinh, tùy vấn đề cụ thể mà chỉ đạo cho
sát hợp.
Năm học 1948 - 1949 chính thức thực hiện chƣơng trình
cải tổ của Bộ. Phần thay đổi sâu sắc theo phƣơng châm
“dân tộc hóa” thuộc về các môn Văn, Sử, Địa Việt Nam,
vốn bị coi rất nhẹ ở nhà trƣờng thời Pháp.
Các thầy giáo phải tự bù lấp phần kiến thức sơ sài ấy
bằng cách nỗ lực bản thân, trao đổi với đồng nghiệp trong
trƣờng và các trƣờng bạn (ở các tỉnh xa), liên hệ với các cơ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
46
quan văn hóa, khoa học của trung ƣơng và Liên khu đóng ở
địa bàn Việt Bắc và Thái Nguyên… Với tinh thần dân tộc
đã trở thành truyền thống của ngƣời trí thức chân chính, với
nhiệt tình hăng hái muốn cống hiến thật nhiều cho Tổ quốc,
các thầy giáo Lƣơng Ngọc Quyến đã có nhiều sáng tạo
trong thực hiện chƣơng trình cải tổ. Sách và tạp chí chuyên
ngành là nguồn chất liệu để biên soạn bài giảng tuy thiếu
thốn nhƣng do có ý thức bỏ công sƣu tầm nên vẫn tìm
đƣợc, ngoài tờ Giáo dục tập san.
Riêng phần lịch sử cách mạng, phần văn học cách mạng
và kháng chiến, việc soạn giảng của các thầy gặp không ít
khó khăn nhƣng vô cùng hứng thú. Khó khăn vì nền tảng
thế giới quan phù hợp để chiếm lĩnh (nhận thức, lý giải,
khái quát, phán đoán…) lý luận và thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong bối cảnh cách mạng thế giới đƣơng thời
chƣa đƣợc trang bị đúng mức, phải tự lực, vừa học, vừa
làm. Nhƣng lại vô cùng hứng thú vì đó là những vấn đề
mới mẻ, có sức lôi cuốn trí tuệ và tình cảm mạnh mẽ. Nhất
là văn học cách mạng và kháng chiến, tuy chƣa đủ điệu
kiện đạt tới tầm kinh điển chiếm vị thế tối ƣu trong nhà
trƣờng, song đó là tiếng nói đầy sức sống về một dân tộc
quật cƣờng, tiếng nói hùng hồn và bi tráng có sức mạnh áp
đảo tức thời tiếng nỉ non kêu rên não nùng đầy rẫy trong
văn chƣơng cũ. Chƣơng trình đã dành chỗ cho thơ Tố Hữu,
Trần Huy Liệu, Sóng Hồng, Xuân Thủy, Xuân Miễn,
Hoàng Cầm, Xuân Diệu, Chính Hữu… Văn của Nguyên
Hồng, Nguyễn Huy Tƣởng, Nam Cao, Tô Hoài…
Nội dung mới mẻ mà trƣớc đây ngƣời ta không thể tƣởng
tƣợng lại có thể hiện diện ở chƣơng trình giáo dục trong
nhà trƣờng, đó là buổi lao động tăng gia sản xuất hàng
tuần. Có thầy giáo phụ trách, có học lý thuyết, rồi lao động
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
47
thực hành. Thời gian này thầy Trần Văn Học(25)
vừa dạy
môn Thể dục, vừa phụ trách môn Lao động sản xuất (có
thời gian tham gia dạy cả tiếng Anh). Thầy Học dạy khá
bài bản, đặc biệt rất nghiêm túc giáo dục học sinh không
chỉ kiến thức khoa học và kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng
lao động mà hết sức chú ý rèn luyện tinh thần ý thức và đạo
đức tác phong ngƣời lao động. Trừ số ít học sinh con em
nông dân, với đa số thanh, thiếu niên thành thị lúc đó, môn
Lao động sản xuất có ý nghĩa cải tạo con ngƣời về nhiều
phƣơng diện, từ tƣ tƣởng không ngại khó ngại khổ, biết quí
trọng ngƣời lao động đến khả năng lao động chân tay, có
thể sống hòa nhập với nhân dân địa phƣơng, và biết tăng
gia sản xuất góp phần tự cải thiện đời sống vật chất còn
nhiều thiếu thốn trƣớc mắt. Đó cũng là nhiệm vụ chính trị
quan trọng của trƣờng học kháng chiến, nhƣ tinh thần nghị
quyết Hội nghị cán bộ Trung ƣơng lần thứ IV (4- 1947):
Học sinh phải vừa học vừa tham gia sản xuất để tự túc một
phần lƣơng thực, thực phẩm.
Lao động sản xuất của học sinh ở đây là lao động chân
tay đơn giản, nhƣ cuốc đất, bón phân, thu hoạch sản
phẩm… Tất cả đều dựa vào dân, dân cho mƣợn ruộng đất,
cấp giống, cho phân bón, cho mƣợn công cụ, và hƣớng dẫn
kỹ thuật. Trong dịp thời vụ, học sinh đƣợc huy động giúp
dân một số việc nhƣ tập trung chống hạn, bắt sâu cứu lúa,
gặt hái thu hoạch mùa màng… Nhà trƣờng linh hoạt kết
hợp những việc này với chƣơng trình môn Lao động sản ..............................................................................................................
(25) Trần Văn Học là tên Việt Nam của một thầy giáo quốc tịch Nhật
Bản. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, ông là một nhà kinh doanh, là phó
giám đốc của hãng Đaimarƣi (Nhật) ở Hà Nội. Tình hình thay đổi, ông
đi theo kháng chiến. Cuối năm 1947 ông đƣợc Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh Thái Nguyên giới thiệu về công tác ở trƣờng trung
học Lƣơng Ngọc Quyến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
48
xuất rất thuận lợi. Cũng nhờ đƣợc giáo dục lao động mà khi
cần thầy trò đã có thể tự làm lấy lớp học, nhà ở sơ sài (vào
năm sau ở nơi sơ tán).
Sự cố gắng của tập thể nhà trƣờng trong việc thực hiện
đƣờng lối giáo dục của Đảng còn thể hiện rõ ở phƣơng
pháp giáo dục. Tất cả những vấn đề then chốt về mục đích,
nội dung, nguyên tắc, phương thức (dùng tiếng Việt)… đều
gắn liền hiệu quả với bản chất phƣơng pháp nhà trƣờng.
Nhận thức rất rõ điều đó, nên ngay từ 11 – 1945, Ban
chấp Trung ƣơng Đảng đã nêu trong chỉ thị “Kháng chiến
kiến quốc”: “…cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ
cách dạy học nhồi sọ”.
Do hoàn cảnh kháng chiến, Bộ Quốc gia giáo dục chƣa
tổ chức đƣợc việc nghiên cứu khoa học giáo dục một cách
khả thủ. Nhƣng chính sự tồn tại của nhà trƣờng giữa lòng
cuộc kháng chiến lại đƣa đến nhiều điều kiện thuận lợi để
khắc phục “cách dạy học nhồi sọ” của nhà trƣờng cũ.
Quan hệ dân chủ, đoàn kết giữa thầy và trò đã xóa đi
những định kiến giả dối trong dạy và học.
Những kiến thức kinh viện xa xôi vô bổ (hoặc tạm thời
chƣa hữu ích) đã đƣợc đƣa ra khỏi chƣơng trình cải tổ.
Trên lớp học, những gì chƣa thiết thực sẽ đƣợc xem xét
một lần nữa trong không khí dân chủ, thầy khuyến khích
tinh thần mạnh dạn chủ động tiếp thu và tích cực xây dựng
bài học ở trò.
Ở Phƣơng Độ không có phòng thí nghiệm, thiếu thiết bị
nên khó tránh tình trạng “dạy chay”, nhất là với các môn
Vật lý, Hóa học. Nhờ quan hệ gắn bó thân thiết với nhân
dân, đƣợc dân sẵn sàng giúp đỡ nên thƣờng dễ dàng khai
thác các sự vật, hiện tƣợng phong phú trong đời sống bình
thƣờng, chính là hình thái tồn tại tự nhiên hoặc là dạng
thức ứng dụng của tri thức khoa học lý thuyết trong thực
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
49
tế (26)
.
Đối với các môn khoa học xã hội, nhất là về chính trị,
đạo đức hoặc lao động sản xuất, vấn đề “học theo tinh thần
mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ” đƣợc xử lý thuận hơn.
Bản thân cuộc sống chính trị xã hội và đời sống thƣờng
ngày ở nơi trƣờng đóng luôn luôn là cái nôi, cũng đồng
thời, là môi trƣờng thực tiễn sinh động của bài học. Các cấp
lãnh đạo Bộ và Liên khu vẫn luôn theo dõi thực tiễn triển
khai chủ trƣơng ở cơ sở. Tổng giám đốc nha trung học vụ
Ngụy Nhƣ Kon Tum đến thăm trƣờng, dự lớp, kiểm tra học
sinh. Thứ trƣởng bộ QGGD Nguyễn Khánh Toàn từng ở
trƣờng mấy ngày. Các Giám đốc khu, Liên khu Việt Bắc
Nguyễn Hữu Tảo, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Lân thƣờng
xuyên đến trƣờng làm việc. Bộ trƣởng Nguyễn Văn Huyên
đã đến thăm và nói chuyện với thầy, trò toàn trƣờng.
Ngành giáo dục luôn đề ra các chủ trƣơng đúng đắn và
sáng tạo, chỉ đạo cơ sở coi trọng nâng cao chất lƣợng học
tập. Tùy tình hình cụ thể mà Bộ chỉ đạo các Sở Giáo dục
Liên khu, các Ty tiểu học tổ chức thi học sinh giỏi khu vực
ở cả bậc tiểu học và trung học.
Năm học 1948 – 1949 có kỳ thi học sinh giỏi liên trƣờng
do Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc tổ chức cho 4 trƣờng
trung học trong khu vực:
- Lƣơng Ngọc Quyến - Thái Nguyên.
- Ngô Sĩ Liên - Bắc Giang.
- Hàn Thuyên - Bắc Ninh (sơ tán lên Bắc Lý, Hiệp
Hòa, Bắc Giang). ................................................................................................................
(26) Thầy Nguyễn Tƣờng Lân kể lại trong bài hồi ký: Dạy bài Vật lý về
quang học, đã mời ông thợ ảnh đến chụp ảnh kỉ niệm cho học sinh,
nhân đó tận dụng ngay chiếc máy ảnh làm “giáo cụ trực quan”. Thầy
trò vừa xuống hầm tránh máy bay, vừa thao tác trên chiếc máy ảnh đó.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
50
- Ngô Quyền - Phúc Yên (sơ tán lên Phổ Yên, Thái
Nguyên).
Địa điểm: Trƣờng trung học Hàn Thuyên.
Các môn thi gồm: Văn, Toán, Pháp văn đệ tam và đệ tứ.
Mỗi môn ở mỗi lớp, trƣờng chọn cử đi một ngƣời, tức tổng
số thí sinh cả trƣờng là 6 ngƣời. Kỳ thi năm ấy trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến có những học sinh sau đây tham dự:
- Môn Văn:
Đệ tứ: Nguyễn Hoàn.
Đệ tam: Nguyễn Đồng Thoại.
- Môn Toán:
Đệ tứ: Nguyễn Bản.
Đệ tam: Vũ Ngọc Ngoạn.
- Pháp văn:
Đệ tứ: Bích Thuận.
Đệ tam: Nguyễn Thị Sơn Thủy.
Kỳ thi chỉ tuyên dƣơng và trao thƣởng cho giải nhất mỗi
môn, không lấy các giải khác.
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc giải nhất môn Văn đệ
tam với bài thi của anh Nguyễn Đồng Thoại(27)
.
................................................................................................................
(27) Tuy nhiên các học sinh giỏi ấy về sau đều thành đạt và có nhiều
đóng góp trên cƣơng vị công tác:
- Nguyễn Đồng Thoại là thiếu tƣớng QĐND Việt Nam.
- Nguyễn Hoàn là Tổng giám đốc Trung tâm triển lãm Hội chợ Việt
Nam.
- Nguyễn Bản là nhà văn.
- Vũ Ngọc Ngoạn là Viện phó Viện Mác - Lê Nin.
- Bích Thuận là Tổng biên tập báo phụ nữ Việt Nam.
- Nguyễn Sơn Thủy là trƣởng phòng kĩ thuật Xí nghiệp Dƣợc Hà Nội.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
51
Thi học sinh giỏi liên trƣờng cũng đồng thời có ý nghĩa
khuyến khích phát triển tài năng. Đây là mục đích thƣờng
xuyên, quán triệt trong nhiệm vụ tự nhiên, đƣơng nhiên của
nhà trƣờng. Vì thế không có hiện tƣợng tập trung bồi
dƣỡng đặc biệt, cá biệt, một sự chuẩn bị đột xuất… khác
bình thƣờng. Học sinh giỏi đƣợc nêu gƣơng, thầy sẵn sàng
giúp đỡ thêm, trò giỏi lại tích cực hỗ trợ bạn học. Sự phấn
đấu tự thân đã là ý thức sâu sắc, mạnh mẽ. Tự học là
phƣơng pháp tối ƣu, thích ứng với một quy chế thoáng và
năng động. Năm nào cũng có bàng thính sinh, họ rất nỗ lực
tự bù đắp chƣơng trình vì lý do thời cuộc mà không đƣợc
học liên tục ở trƣờng, để rồi nhanh chóng trở thành học
sinh chính thức qua sát hạch. Có những học sinh vừa học
lớp mình, vừa tự học chƣơng trình lớp trên để cuối năm thi
vƣợt lớp(28)
. Cho nên mặc dù thiếu rất nhiều điều kiện do
chiến tranh, nhƣng học sinh kháng chiến lại có kiến thức rất
vững chắc.
***
Những thành tựu nhiều mặt của nhà trƣờng nhìn từ phía tác
động tích cực có định hƣớng của chi bộ Đảng đầu tiên ở
năm học 1948 – 1949 đem lại niềm tin lớn cho trƣờng, cho
ngành và nhất là cho nhân dân.
Chi bộ mới thành lập, nhƣng chững chạc và phát triển
nhanh một phần do chủ động có kế hoạch xây dựng Đảng. ---------------------------------------------------------------------
................................................................................................................
(28) Nhƣ trƣờng hợp học sinh Nguyễn Huy:
- Năm học 1948 – 1949: Học kỳ I là bàng thính sinh, học kỳ II là học
sinh chính thức năm đệ nhị.
- Năm học 1949 – 1950: Mất 3 tháng vào quân đội. Đƣợc trở lại
trƣờng, vừa lo học bù chƣơng trình đệ tam, vừa tự học chƣơng trình đệ
tứ và thi đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông cuối năm học đó.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
52
Chấp hành chỉ thị của cấp trên(29)
chi bộ thành lập Nhóm
nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Anh Nguyễn Đồng Thoại, Hiệu
đoàn trƣởng, học sinh năm đệ tam làm trƣởng nhóm. Tổ
chức này thu hút khá đông thầy giáo và học sinh, đƣợc chia
thành phân nhóm ở các lớp (do phân đoàn trƣởng trong hệ
thống Hiệu đoàn phụ trách), các trí thức trẻ khát khao
tìm chân lý, muốn định hƣớng cuộc sống theo một lý tƣởng
cao cả, nghiêm túc, thiêng liêng. Họ tìm đƣợc điều đó nhờ
sự chỉ dẫn của các đảng viên, đƣợc các đồng chí ấy vận
động, tổ chức vào nhóm nghiên cứu và luôn theo sát giúp
đỡ.
Con đƣờng đến gần Đảng rồi gia nhập Đảng của thầy
giáo và học sinh trung học lúc đó thƣờng bắt đầu từ nhận
thức lý luận, rồi cùng với lý luận là sự giác ngộ qua hiểu
biết về các bài học kinh nghiệm trong lịch sử đấu tranh của
giai cấp công nhân và phong trào cộng sản thế giới. Gƣơng
hy sinh tranh đấu của các chiến sĩ cộng sản Việt nam có
sức cảm hóa mạnh. Tất cả các vấn đề trên đƣợc chi bộ đƣa
vào nội dung sinh hoạt của nhóm nghiên cứu. Một số tài
liệu đƣợc chú ý hồi đó là: “A,B,C du marxisme” (chủ nghĩa
Mác sơ giải), “Lịch sử tiến hóa nhân loại”, “Lịch sử Đảng ................................................................................................................
(29) – Trong bản chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của Trung ƣơng
Đảng CSĐD (25 – 11 – 1945) ghi rõ: “…Phải duy trì tổ chức bí mật
hay bán công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên… Phải tổ chức các
tổ nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác bao gồm tất cả các phần tử có
khuynh hƣớng cộng sản hay có tình cảm với cộng sản do ngƣời cộng
sản điều khiển… Phải phối hợp sự hoạt động bí mật với sự hoạt động
công khai”.
(Trích theo “Ba mƣơi lăm năm đấu tranh của Đảng” – NXB Sự thật,
4/1971, T1, tr.19, 20).
- Thái Nguyên có Hội Văn hóa macxit (ở thị xã), Ủy ban tuyên truyền
chủ nghĩa Mác (ở các huyện).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
53
cộng sản Liên Xô”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi” và
“Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” của đồng
chí Trƣờng Chinh, “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (ký tên X.Y.Z) v.v… Tờ báo “Sự thật” đƣợc theo
dõi thƣờng xuyên. Nhóm nghiên cứu sinh hoạt dƣới hình
thức đọc tài liệu (đọc chung hoặc chuyền tay nhau đọc),
phân công ngƣời thuyết trình, rồi thảo luận. Các chủ đề
“mới lạ” có sức cuốn hút mạnh mẽ bởi tính sâu sắc logic
khoa học, vừa tác động mở mang trí tuệ, vừa thôi thúc hành
động thực tiễn khiến các thành viên trong nhóm rất hứng
khởi. Đặc biệt sôi nổi là những cuộc thảo luận thƣờng diễn
ra vào buổi tối, khi tan họp vẫn tiếp tục tranh cãi trên
đƣờng về nhà trọ. Nhiều ngƣời còn chong đèn đọc thêm tài
liệu. Về mặt tổ chức, chi bộ vừa tập hợp, vừa phân loại đối
tƣợng, phân công đảng viên giúp đỡ rất tích cực và chặt chẽ
tiến tới kết nạp họ vào Đảng. Ngay trong năm học 1948 –
1949, chi bộ đã tổ chức kết nạp đƣợc một số đảng viên mới
trong đó có ngƣời Hiệu trƣởng đáng kính Dƣơng Xuân
Nghiên và ngƣời Hiệu đoàn trƣởng có uy tín có năng lực và
học giỏi Nguyễn Đồng Thoại. Liền trong hai năm 1949 và
1950, chi bộ kết nạp đƣợc 11 đảng viên mới. Đó là các
đồng chí:
- Tô Hào, học lớp đệ nhị, ngƣời Hiệp Hòa, Bắc
Giang;
- Vũ Đại, học lớp đệ nhị, ngƣời làng Xuân La xã
Phƣơng Độ, Phú Bình, Thái Nguyên;
- Đào Quang Thông, học lớp đệ nhị, ngƣời xã Kha
Sơn, Phú Bình, Thái Nguyên;
- Nguyễn Xuân Ban, ở Bộ Nông nghiệp về học năm
đệ tam;
- Lƣơng Thái Hà, nữ sinh năm đệ nhị;
- Vũ Văn Thanh, giáo viên dạy các môn khoa học xã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
54
hội.
- Nguyễn Thị Tâm (ngƣời trẻ nhất, trở thành đảng
viên khi chƣa đầy 18 tuổi).
Cũng trong khoảng 2 năm 1949, 1950 nhiều thanh, thiếu
niên trong quân đội hoặc ở các cơ quan cho về trƣờng học
tiếp. Trong số đó có những đảng viên từ văn phòng Trung
ƣơng Đảng, văn phòng Liên khu ủy Việt Bắc, huyện Phú
Bình về học. Năm học 1949 – 1950, có hai đảng viên là
giáo viên mới đƣợc cử về là đồng chí Phạm Huy Châu và
đồng chí Hà Thế Ngữ. Tổng số đảng viên thời điểm cao
nhất lúc đó là 27 đồng chí. Từ khi chi bộ phát triển thành 6
đảng viên, cấp ủy hình thành với 3 đảng viên ban đầu:
- Bí thƣ: đồng chí Quốc
- Phó bí thƣ: đồng chí Huy
- Chi ủy viên: đồng chí Năng.
Đến giữa năm 1949, đồng chí Quốc chuyển công tác đi
nơi khác, đồng chí Phạm Huy Châu đƣợc bầu làm bí thƣ,
chi ủy viên vẫn là hai đồng chí cũ.
Chi bộ nhà trƣờng bây giờ là một chi bộ lớn và vững
mạnh, đã có thể đƣa đảng viên ra nắm giữ hầu hết các vị trí
then chốt. Đồng chí Nguyễn Đồng Thoại lên lớp đệ tứ,
đƣợc cho rút công tác Hiệu đoàn trƣởng và trƣởng nhóm
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, chi bộ bố trí đồng chí Nguyễn
Huy thay. Chẳng những đảm bảo tốt việc thực hiện đƣờng
lối, chủ trƣơng của Đảng mà chi bộ với lực lƣợng mạnh cả
về số và chất đã thực sự lãnh đạo sâu về mọi mặt hoạt
động, đi tiên phong trong mọi phong trào.
***
III. Sang năm học 1949 – 1950, đề phòng giặc Pháp có
thể càn rộng ra vùng tự do giáp ranh, hoặc tấn công lên
Thái Nguyên từ phía Nam, trƣờng chuyển sang bên kia
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
55
sông đóng ở thôn Úc Kỳ và xã Nhã Lộng. Nếu chiến sự xảy
đến, thầy và trò sẽ tiện di tản lên hƣớng Bắc.
Đến địa điểm mới, trƣờng vẫn học nhờ ở đình và phân
tán vào các nơi có cây cao bóng cả cạnh miếu, nghè thờ
cúng của dân. Các lớp lớn chuyển trƣớc. Một số lớp khác
và nơi ở của thầy giáo cùng nhiều “pô pốt” học sinh ở
Phƣơng Độ một thời gian sau mới chuyển dần. Vì vậy để
đến lớp, thầy và trò vẫn phải hàng ngày đi đò ngang qua
sông. Có lần máy bay Pháp bắn chìm đò làm chết nhiều
ngƣời, may không có ngƣời nào của trƣờng. Mùa sông cạn
thì lội qua sông nƣớc lạnh buốt.
Số lớp tăng: 3 lớp đệ nhất, 2 lớp đệ nhị, 2 lớp đệ tam,
một lớp đệ tứ. Học sinh tăng thêm ở tất cả 4 khối lớp, tổng
số khoảng 300.
Những năm ở Phƣơng Độ, Úc Kỳ, Nhã Lộng có các thầy
Dƣơng Xuân Nghiên (Hiệu trƣởng), Nguyễn Văn Quý,
Trần Hữu Mai, Đào Hùng(30)
, Dƣơng Xuân Hảo (em trai
thầy Nghiên), Trần Văn Quốc, Nguyễn Tƣờng Lân, Vũ
Văn Thanh, Trần Văn Học, Hà Thế Ngữ, Nguyễn Hồng
(dạy vẽ), Nguyễn Duy Bình (giám thị).
Việc phân công phụ trách giảng dạy bộ môn ở các khối lớp
tùy thuộc năng lực, sở trƣờng thầy giáo, nhƣng cũng do yêu
cầu thực tế. Số giáo sƣ trung học cũ đƣợc đào tạo qua Cao
đẳng sƣ phạm, và giáo viên tiểu học (từng tốt nghiệp cao
đẳng tiểu học trƣớc khi đào tạo sƣ phạm hoặc vừa học
chƣơng trình cao đẳng tiểu học vừa học sƣ phạm) do có khả
năng đƣợc điều lên dạy trung học (“dạy kê” ở các năm đầu .................................................................................................................. (30)
Thầy Đào Hùng và một ngƣời con trai đã bị kẻ xấu sát hại ngay ở
gần cổng làng thầy ở trọ vào buổi sáng sau giờ tan học. Lý do có liên
quan đến chuyện chính trị trƣớc đây (Theo Dƣơng Xuân Nghiên, TL
đd).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
56
bậc học), khi cần có thể dạy các môn theo yêu cầu. Các
thầy khác xuất thân là sinh viên, là học sinh trung học
chuyên khoa (tú tài) cũng có thể đáp ứng yêu cầu phụ trách
bộ môn tƣơng đối linh hoạt (ngoài sở trƣờng).
Do hoàn cảnh kháng chiến, cuộc sống gần gũi chan hòa ở
cùng một địa bàn trƣờng đóng lại trở thành điều kiện để
sinh hoạt chuyên môn thƣờng xuyên, thuận tiện để các thầy
giúp nhau khắc phục những khó khăn trong nghề nghiệp.
Khó khăn, gian khổ về đời sống là tình trạng chung, đối với
giáo sƣ trung học đòi hỏi sự chịu đựng cao hơn bình
thƣờng. Để học hành tới trình độ ấy, kinh tế gia đình phải
vào loại khá giả. Bấy giờ, lƣơng tháng của thầy chỉ 40kg
gạo. Vậy mà nhiều thầy còn phải lo nuôi cả gia đình. Đã có
vài ngƣời “dinh tê” (31)
do không chịu đựng nổi (chứ không
phải phản bội Tổ quốc đi theo giặc). Chính sách “trí vận”
của Đảng và Chính phủ luôn đƣợc chú trọng. Ở Thái
Nguyên, điểm tập trung trí thức đông đảo chính là trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến. Tuy nhiên khả năng thực tế
của chúng ta cũng chỉ chăm lo đƣợc một cách hạn chế (32)
. ................................................................................................................
(31) Bỏ kháng chiến vào Hà Nội – vùng tạm bị chiếm (Cách đọc từ
“entrer” trong tiếng Pháp). (32)
Nhƣ trƣờng hợp gia đình thầy giáo ngƣời Nhật Trần Văn Học.
Thầy Dƣơng Xuân Nghiên thay mặt nhà trƣờng đề nghị tỉnh quan tâm.
Thầy Học đã đƣợc chủ tịch UBKCHC Lê Trung Đình gặp, thăm hỏi,
động viên, trao một khoản trợ cấp, một ít vải may mặc cho hai cháu
nhỏ và quà riêng cho hai vợ chồng. Thầy cảm động khóc nức nở, cảm
ơn chính phủ Việt Nam, và hứa sẽ ở với Việt Nam kháng chiến đến
thắng lợi cuối cùng. Thầy Học giữ trọn lời hứa, mãi sau hòa bình lập
lại 1954 mới đƣa vợ cùng 2 con sinh ở Phƣơng Độ (đặt tên Nghĩa) và
ở Quyên (đặt tên Quyên) về Nhật. Năm 1990, ngƣời con trai tên Nghĩa
đã trở lại tận nơi gia đình mình sống ngày ấy, hỏi thăm về chuyện
“ông giáo Học”, và tặng quà cho mọi ngƣời. (Theo Dƣơng Xuân
Nghiên, TL đd).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
57
Mặc dù vậy, các thầy vẫn giữ gìn phẩm chất trong sáng,
lành mạnh, vẫn đồng cam cộng khổ với nhân dân, vẫn giữ
lệ 10 ngày bớt một bữa ăn để dành lƣơng thực quyên góp
cho “hũ gạo kháng chiến” (toàn trƣờng đã thực hiện tốt
việc này theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Thỉnh thoảng hết gạo phải ăn cháo, cơm thì nấu loại gạo
mố thô, cứng, ít chất, thức ăn là thứ rau dễ trồng hoặc mọc
tự nhiên quanh nhà, với muối vừng. Có thời gian địch ráo
riết ngăn chặn giao thƣơng tiếp tế, đến hạt muối biển cũng
thiếu, phải ăn muối mỏ… Rồi bệnh tật, phổ biến là bệnh do
sinh hoạt gian khổ và môi trƣờng khắc nghiệt. Hầu nhƣ
không có ai tránh khỏi sốt rét, ghẻ lở, chấy rận, cho dù
trƣờng đã chuyển về miền trung du. Thuốc men quá thiếu
thốn, thƣờng phải dùng lá lảu, rễ cây… theo kinh nghiệm
dân gian.
Nhờ tinh thần đoàn kết thƣơng yêu đùm bọc nhau nhƣ
anh em một nhà, tập thể các thầy giáo đã cùng nhau chia sẻ
mọi nỗi sƣớng khổ vui buồn trong sinh hoạt thƣờng ngày,
hỗ trợ nhau trong công tác, đảm bảo chƣơng trình các môn
học.
***
Niềm lạc quan lớn của ngƣời thầy là ở công việc. Lắm
khi cơn sốt ban chiều chƣa dứt hẳn, thầy đã choàng chăn,
xách đèn đến tận “pô pốt” học sinh nhƣ đã hẹn. Giảng bài
phụ đạo xong, thầy trò lại đàn hát tƣng bừng vui vẻ! Nhiều
thầy hăng hái tham gia phong trào văn nghệ của trƣờng (33)
,
phụ trách dàn dựng và hƣớng dẫn tập luyện tiết mục ca .................................................................................................................. (33)
Cả thầy Học cũng biểu diễn điệu “Bắt cua” múa dân gian Nhật
Bản, rất vui nhộn với những động tác giống kiểu bắt cua bỏ giỏ của
Việt Nam.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
58
nhạc, kịch… rất công phu, có chất lƣợng và khí thế (34)
. Với
sự lãnh đạo của chi bộ, những phẩm chất và năng lực của
thầy giáo, vừa là biểu tƣợng của nhà trƣờng, vừa có ý nghĩa
nhƣ tấm gƣơng sống đối với học sinh. Từ đấy trƣờng đã
chủ động tổ chức một đời sống tinh thần lành mạnh, sôi
nổi, tác động sâu rộng trong trƣờng và trong vùng.
Vào những dịp kỷ niệm ngày lễ lớn, trƣớc khi nghỉ Tết, bế
giảng năm học, hoặc để cổ động cho phong trào thực hiện
chủ trƣơng, chính sách lớn… trƣờng tổ chức liên hoan biểu
diễn văn nghệ. Sân đình là nơi các “tài năng” văn nghệ của
trƣờng thể hiện những tác phẩm tự biên khôi hài và sâu
lắng, cùng những sáng tác mới của văn nghệ sĩ kháng
chiến. Có những buổi đƣợc chuẩn bị chu đáo trong thời
gian dài, ngƣời diễn luyện tập kỹ chẳng khác gì cách làm
chuyên nghiệp (35)
.
Sân đình cũng là nơi diễn ra các đêm lửa trại. Hình thức
liên hoan văn nghệ quần chúng, rất đậm tính dân chủ, bình
dị, lành mạnh, sôi động mà vẫn lắng đọng. Đáng nhớ nhất
là đêm lửa trại hoan tiễn đoàn học sinh đi bộ đội (năm học ................................................................................................................
(34) Thầy Thanh chỉ huy dàn đồng ca khá quy mô với cả ban nhạc đàn
dây (ghita, vi-ô-lông, măng-đô-lin, băng-giô…) hát những bài tự biên
về trƣờng, trình bày cả những bản hợp xƣớng lớn nhƣ “Hồng Hà” (Đỗ
Nhuận), “Trƣờng chinh ca” (Lƣơng Ngọc Trác)… (35)
– Nhƣ trƣờng hợp diễn vở kịch “Trở về” của nhà viết kịch, nhà
hoạt động sân khấu, nghệ sĩ danh tiếng Trần Hoạt. Có đạo diễn (anh
Nguyễn Đồng Thoại), có phân vai, có kế hoạch tập luyện, đặc biệt
chính tác giả nghe tin đã đến trƣờng cả chục ngày hƣớng dẫn và dự
buổi diễn. Vở diễn thành công đến mức có tiếng vang khắp các
trƣờng, các cơ quan văn nghệ Liên khu và tỉnh nhà, đƣợc Chủ tịch tỉnh
Lê Trung Đình hết sức khen ngợi.
- Điệu múa rất uyển chuyển, nhịp nhàng của nữ sinh trong vai đoàn
tiên nữ với áo dài, quần trắng, khăn voan (làm đôi cánh tiên) tƣơi đẹp,
sang, thanh cao, có cả đàn hát làm nhạc nền.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
59
1949 – 1950) ở sân đình Úc Kỳ, vui nhộn rầm rộ và đầy lƣu
luyến, cứ kéo dài không muốn dứt. Đội văn nghệ học sinh
thƣờng lƣu diễn quanh vùng phục vụ cho các cuộc vận
động thực hiện chủ trƣơng, chính sách lớn theo yêu cầu địa
phƣơng (thuế nông nghiệp, thi đua ái quốc, bình dân học
vụ, dân công, tòng quân…).
Tính chất chính nghĩa, thiêng liêng của cuộc kháng chiến
đã tập hợp hầu hết các tên tuổi hàng đầu ở tất cả các ngành
văn học nghệ thuật nƣớc ta thời đó. Họ đƣợc tổ chức thành
các hội, các đoàn công tác, lƣu động khắp tiền tuyến, hậu
phƣơng đến với bộ đội, dân công, cán bộ, trƣờng học, nhân
dân,… để phục vụ, động viên, tuyên truyền kháng chiến,
cũng để tự nuôi dƣỡng tƣ tƣởng, tình cảm, tâm hồn nghệ sĩ
của mình. Trong các đối tƣợng ấy, trƣờng trung học phổ
thông Lƣơng Ngọc Quyến là một địa chỉ khá lý tƣởng. Đó
là môi trƣờng công chúng có trình độ cao, có nền (cơ sở)
đời sống văn hóa tinh thần phong phú, một công chúng mà
khả năng rất nhạy cảm, đa dạng và có tầm. Tập thể công
chúng này còn là hạt nhân truyền bá rộng xa các sản phẩm
văn nghệ của đội ngũ chuyên nghiệp. Đó cũng là nguồn
tiềm ẩn khả năng và tài năng hứa hẹn bổ sung cho đội ngũ
văn nghệ sĩ, hay chí ít cũng trở thành lực lƣợng vệ tinh,
trong phong trào quần chúng trên mặt trận văn nghệ bao la.
Cho nên các cơ quan văn nghệ của trung ƣơng, Liên khu,
tỉnh… đều quan tâm đến trƣờng. Gần nhƣ tất cả các đoàn
văn nghệ tuyên truyền của tỉnh, của quân đội… đều từng
đến trƣờng biểu diễn. Sân khấu “dã chiến” dựng vội trƣớc
sân đình, dƣới ánh sáng tọa đăng, các nghệ sĩ làm say mê
hàng ngàn khán giả học sinh, bộ đội, nông dân… Nhiều
nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng hay ghé qua trƣờng trên
đƣờng đi công tác, nhân quen biết với thầy giáo, hay đơn
giản chỉ là muốn gặp gỡ với thầy và trò một trƣờng học
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
60
danh tiếng!(36)
Mối quan hệ đó tạo thuận lợi để học sinh
trƣờng tham gia phong trào chung nhƣ thi sáng tác văn học
do Hội nhà văn tổ chức(37)
, dự các lớp bồi dƣỡng ngắn ngày
về công tác tuyên truyền, văn nghệ, v.v…
Hình thức phổ biến bình thƣờng nhất, và là hoạt động
không thể thiếu ở mỗi lớp là bích báo. Đó là phƣơng tiện
thể hiện nhiều nội dung, từ học tập đến sinh hoạt tƣ tƣởng,
tình cảm, thể nghiệm sáng tác nghệ thuật v.v… Báo nội bộ,
nhƣng đƣợc tổ chức, trình bày rất nghiêm chỉnh, hấp dẫn
tuy điều kiện thiếu thốn. Chỉ riêng về phƣơng diện hoạt
động này cũng cho thấy trƣờng trung học Lƣơng Ngọc
Quyến có vị thế của một trung tâm văn hóa trong vùng.
Trƣờng đã đem tới địa phƣơng một loại hoạt động quen mà
mới lạ - hoạt động dạy và học ở bậc trung học. Kéo theo nó
là sự sống và sức sống trƣớc đây chƣa có. Sớm sớm từng
đoàn học sinh chạy thể dục, rầm rập bƣớc chân theo nhịp
còi, tiếng hô “Một! Hai! Ba! Bốn!” của thầy giáo “ngƣời
Việt Nam mới” khuấy động xóm làng!(38)
Xen lẫn với
ngƣời nông dân vác cày vác cuốc ra đồng, từng nhóm học ................................................................................................................
(36) - Nhạc sĩ Phạm Duy (em trai thầy Phạm Duy Nhƣợng) từng đi
cùng đoàn văn nghệ tuyên truyền của mình đến trƣờng biểu diễn.
- Nhà thơ Hoàng Cầm ngoài dịp đi với đoàn văn nghệ quân đội
phục vụ bộ đội, nhân dân địa phƣơng và trƣờng, vẫn hay ghé lại
trƣờng nhân về thăm các cụ thân sinh tản cƣ ở chợ Hanh, Phú Bình.
Mọi ngƣời có ấn tƣợng sâu với giọng ngâm thơ trầm ấm, xúc động và
truyền cảm của nhà thơ qua các bài: “Đứng gác đêm giao thừa”, “Bên
kia sông Đuống”, “Đêm liên hoan”, “Lửa Hồ”… (37)
Năm 1949, Nguyễn Đồng Thoại lớp đệ tứ đƣợc giải ba với tùy bút
“Chiếc ba lô”. (38)
Cách gọi phổ biến, dân dã nôm na chỉ tất cả những ngƣời ngoại
quốc (kể cả hàng binh) tình nguyện đứng vào hàng ngũ Việt Nam
kháng chiến. (Đây chỉ thầy Trần Văn Học ngƣời Nhật).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
61
sinh trai, gái ríu rít cắp sách “ra đình” (lớp học). Sáng sáng
tiếng hát Quốc ca vang lừng thôn xóm (hồi ấy lễ chào cờ
tiến hành hàng ngày trƣớc giờ vào lớp). Chiều chiều, học
sinh chơi bóng chuyền, đá cầu dƣới bóng rừng cơi ven sông
Cầu. Dòng sông Cầu, sông máng trong xanh là nơi tắm táp
vẫy vùng thỏa sức! Đêm đêm, những ngọn đèn dầu làm
sáng ấm thêm bao mái rạ. Học sinh thƣờng xuyên làm công
tác dân vận đến từng nhà dân vận động nếp sống vệ sinh, tổ
chức tổng vệ sinh thôn xóm hàng tuần. Trẻ em địa phƣơng
rất yêu quí các anh, các chị học sinh trung học, vì đƣợc chỉ
bảo học hành, dạy hát… Nhân dân địa phƣơng tự hào về
trƣờng, gửi vào thế hệ học sinh này một niềm tin mới.
Đây là thế hệ đang trƣởng thành hoặc mới lớn lên sau 1000
ngày kháng chiến(39)
. Nét đậm nhất trong tâm hồn, tính
cách học sinh mà nhà trƣờng mới đem đến là tinh thần yêu
nƣớc cách mạng. Nó đƣợc kiểm nghiệm qua thực tiễn hoạt
động nội, ngoại khóa; qua nếp sống thƣờng ngày; những
biểu hiện trung thực, tự nhiên, hồn nhiên của cuộc sống nội
tâm (đa dạng, phong phú mà vẫn chung một định hƣớng vì
Tổ quốc, vì dân tộc).
Họ dễ đồng cảm, hứng khởi trước tác phẩm của lớp
nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ thời kỳ đầu cách mạng và kháng
chiến. Những bản tráng ca của Xuân Diệu, thơ Chính Hữu
(và bài hát “Ngày về” Lương Ngọc Trác phổ nhạc), thơ
Hoàng Cầm, Quang Dũng… cho họ những cung bậc khác
nhau trong cảm xúc. Bài hát cũng vậy: vừa cất cao giọng
hùng tráng với “Tiếng gọi thanh niên”, “Lên đàng”(Lưu
Hữu Phước), .....................................................................................................................
(39) Giữa tháng 9 – 1949 (chính xác là ngày 13 – 9), có chủ trƣơng kỷ
niệm 1000 ngày kháng chiến. Thái Nguyên tổ chức rầm rộ dƣới nhiều
hình thức. Một đêm mít tinh lớn (có bắn đại bác) ở sân vận động thị
xã.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
62
“Nhạc tuổi xanh” (Phạm Duy), “Chiến sĩ Việt Nam” (Văn
Cao), “Đoàn vệ quốc quân” (Phan Huỳnh Điểu)… vừa
lắng sâu tha thiết với “Tiếng hát quay tơ” (Tử Phác), “Quê
hương anh bộ đội” (Xuân Oanh), “Đoàn quân đi” (Việt
Lang), “Sơn nữ ca” (Trần Hoàn), “Nụ cười sơn cước” (Tô
Hải)…
Bay bổng , lãng mạn trong tưởng tượng, suy tưởng nội tâm
có thể tô điểm cho thực tế khắc nghiệt gian lao bớt phần
ảm đạm. Họ cảm nhận nỗi buồn từ nghệ thuật như vẫn
từng kiên nhẫn, dũng cảm đứng vững trước những đau
thương tang tóc của quê hương và gia đình (ở vùng tạm
chiếm Bắc Ninh, Hà Nội, hay ở chính nơi tản cư Thái
Nguyên, ở chiến trường…).
Những thanh niên học sinh ấy sẵn sàng xếp bút nghiên
lên đường đánh giặc khi Tổ quốc cần.
***
Mọi ngƣời dân trong kháng chiến, ai có thể trực tiếp
chiến đấu khi giặc đến đều cần đƣợc luyện tập quân sự. Đó
là công việc trong nếp sống thƣờng ngày. Đàn ông, đàn bà,
cả cụ già, em thiếu niên khắp thôn xóm, phố phƣờng không
khi nào, không ở đâu không có.
Trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc huấn luyện
quân sự khá bài bản theo chƣơng trình một đợt kéo dài nửa
tháng. Lãnh đạo quân sự địa phƣơng cử ngƣời về trực tiếp
phụ trách. Học sinh đƣợc phiên chế thành các đơn vị tiểu
đội, trung đội, đại đội. Nội dung cũng khá đủ các khoa mục
cho bộ binh: tập đội ngũ, hành quân, sử dụng vũ khí thông
thƣờng nhƣ súng trƣờng, lƣỡi lê, lựu đạn, mìn (đã thực tập
nổ mìn ở trên đồi thôn Úc Kỳ). Luyện tập các động tác kỹ
thuật tác chiến cá nhân, tổ, tiểu đội, trung đội… Sau những
ngày lăn, lê, bò, toài, xung phong… trên đồi gò, bờ bụi, các
nam nữ học sinh đƣợc dịp thể nghiệm chút ít hiện thực của
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
63
“đời chiến sĩ” bổ khuyết cho cảm nhận trƣớc đây trên sách
vở thƣờng chỉ thấy “mộng mơ”, “oai hùng”! Mọi ngƣời rất
hào hứng và cố gắng, tiếp thu tốt, kết quả tập luyện khả
quan, đặc biệt là tác dụng rèn luyện tinh thần nền nếp kỷ
luật cao sau ít ngày tập làm ngƣời lính.
Cuộc kháng chiến đang ở cuối giai đoạn cầm cự, khẩu
hiệu lúc này là “Tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng
phản công”. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác
tuyển quân xây dựng bộ đội chủ lực. Năm 1949 có hai đợt
vào tháng 4 và tháng 9, động viên được 2367 thanh niên
nhập ngũ (40)
. Với tầm nhìn xa rộng, Đảng ta biết cách huy
động hợp lý lực lượng thanh niên học sinh trung học(còn
đang chưa nhiều) sao cho phục vụ tốt nhất đối với công
cuộc kháng chiến và kiến quốc hôm nay và ngày mai. Quân
đội tiến dần lên chính quy hiện đại, rất cần lớp người có
trình độ văn hóa nhất định để đáp ứng yêu cầu khoa học
quân sự cao, hiểu và nắm được nguyên lý về vũ khí, khí tài,
cùng nhiều vấn đề khác.
Học sinh Lƣơng Ngọc Quyến nhập ngũ hầu hết đƣợc đƣa
vào học Trƣờng Sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn và
Trƣờng Sĩ quan quân chính Bắc Sơn (thƣờng gọi tắt là
Trƣờng Lục quân và Trƣờng Quân chính). Họ trở thành
những sĩ quan chỉ huy về quân sự hay chính trị. Một số
khác, sau thời gian huấn luyện, đƣợc điều về công tác ở cơ
quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tƣ lệnh, Bộ Tổng tham
mƣu…
Những đợt tòng quân ở trƣờng đƣợc chi bộ Đảng lãnh đạo
rất tốt. Trƣớc hết là tuyên truyền, giáo dục nhận thức tƣ
tƣởng. Ý thức công dân, tinh thần dân tộc đƣợc nêu cao ................................................................................................................
(40) Theo “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên” tập I, xuất bản 2003,
tr.259.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
64
nhƣ một giá trị thời đại. Rồi tiến hành vận động sâu rộng từ
trong Đảng ra đến các đối tƣợng gần Đảng, dựa vào tổ chức
Hiệu đoàn. Một không khí náo nức chƣa từng thấy. Đảng
viên xung phong gƣơng mẫu (41)
, học sinh các lớp thi nhau
ghi tên, có lớp tất cả nam sinh xin đi hết. Nhiều học sinh
mới 16, 17 tuổi cũng tìm cách khai tăng cho đủ 18 tuổi (hạn
dƣới tuổi nhập ngũ).
Một số học sinh không kịp bàn bạc với gia đình (hoặc cố
ý làm thế vì sợ bố mẹ can ngăn), đã vội vàng viết đơn(42)
.
Sau đợt tuyển quân, trƣờng vắng hẳn, có lớp vắng quá nửa (43)
. Không khí nhất thời không sôi động nhƣ buổi tiễn đƣa.
Trong số ngƣời ra đi có những học sinh thuộc loại ƣu tú
nhất, những cốt cán của phong trào: Chi ủy viên, Hiệu
đoàn trƣởng, trƣởng nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác, cán
bộ Hiệu đoàn ở lớp (phân đoàn), học sinh xuất sắc về học
tập, học sinh có năng khiếu về nhiều mặt… Các thầy giáo
rất tự hào về họ, trƣớc đây họ là niềm hy vọng của nhà
trƣờng trong tƣơng lai. Bây giờ các thầy vẫn hoàn toàn tin
rằng họ sẽ trƣởng thành, tiến bộ nhanh, sẽ cống hiến xứng
đáng, vinh quang (44)
.
Các học sinh nam ở lại không tránh khỏi băn khoăn, thấy .....................................................................................................................
(41) Theo hồi ký của cựu học sinh nguyễn Huy: năm học 1949-1950 có
10 đồng chí trong tổng số 27 đảng viêncủa chi bộ đã nhập ngũ (Sdd tr
65) (42)
Hồi đó tuyển quân theo chế độ tự nguyện. (43)
Tiếc rằng chƣa thống kê thật chính xác số học sinh Lƣơng Ngọc
Quyến nhập ngũ ở những thời gian khác nhau. Theo cựu học sinh
Đồng Văn Năng, số ngƣời tòng quân đợt 1 (1949) khoảng 40 ngƣời
(Thƣ gửi cho Hiệu trƣởng trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến nhân
trƣờng tổ chức biên soạn sách lịch sử của trƣờng năm 2010). (44)
Trong số học sinh nhập ngũ năm học 1949 – 1950 sau này có 3
thiếu tƣớng, gần chục đại tá và nhiều sĩ quan cấp tá khác (Số liệu
không đầy đủ).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
65
tiếc vì mình không đƣợc nhƣ các anh, các bạn ra đi (bởi
nhiều lý do riêng). Các bạn nữ sinh đầy cảm tình và thiết
tha mến phục, chia tay lƣu luyến, không tỏ ra bịn rịn nhƣng
bâng khuâng…
Tuy nhiên nhìn chung trƣờng vẫn tràn đầy khí thế, nhất
là sau mấy tháng luyện tập ở trƣờng Lục quân, các anh
đƣợc phép về thăm lại trƣờng và chia tay thầy, bạn. Các
anh đem về trƣờng cũ một tinh thần mới: lạc quan một cách
tếu táo đậm chất lính, sôi nổi đến ồn ào, mạnh mẽ đến cứng
rắn… Đêm lửa trại ở sân đình Úc Kỳ đã thƣa vắng những
tiết mục khơi nguồn đề tài xƣa cũ trong sử sách của ta, của
Tàu với cảm xúc bi tráng, biểu tƣợng ƣớc lệ. Chiếm lĩnh
cuộc liên hoan là cảm hứng say sƣa tƣng bừng, vui nhộn cứ
bay lên, cuốn vào một tâm điểm là bài hát các anh lính mới
đem về:
“ Trường Lục quân đang cần lính đánh Tây
Tớ vội vàng bỏ nhà ra đi ngay
Bao công việc ấm ớ phó thác cho bu mày
Vào trường Lục quân (45)
Tập tành, bắn súng
Nghiêm! Đi đều! Đằng trước thẳng!
Đằng sau quay!” (46)
Giai điệu, nhịp điệu tƣơi trẻ, khỏe khoắn, lời ca dân dã,
.....................................................................................................................
(45) Lời ca nguyên văn của tác giả: “Thẳng đƣờng vào Trung”.
(46) Tô Hải sáng tác bài hát này nhƣ một tiết mục “tự biên tự diễn” theo
yêu cầu cấp trên khi ông là học viên trƣờng sĩ quan Lục quân ở miền
Trung – Khu IV. Bài hát nhanh chóng phổ biến, đƣợc bộ đội và nhân
dân ƣa thích.
(Sau này thành nhạc sĩ chuyên nghiệp, Tô Hải có những đóng góp
nhất định cho âm nhạc và nghệ thuật cách mạng. Bản hợp xƣớng
“Tiếng hát ngƣời chiến sĩ biên thùy” là sáng tác tiêu biểu của ông).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
66
“lính tráng” đã cuốn hút mọi ngƣời đồng thanh hát theo
hào hứng.
Phần lớn học sinh nhập ngũ đều lên đƣờng theo sự phân
bổ của quân đội ngay. Có một số học sinh lớp đệ tứ chỉ còn
vài tháng nữa thi tốt nghiệp nhƣng đã đầu quân. Xét trên lợi
ích chung và riêng, Quân đội và ngành giáo dục thống nhất
để họ đƣợc về trƣờng thi lấy bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông rồi trở lại quân ngũ. Một chủ trƣơng khác, cấp trên
cho tất cả học sinh trung học về trƣờng học tiếp, dù họ đã
qua mấy tháng huấn luyện trong quân đội.
***
IV. Năm học 1950 – 1951 trƣờng chuyển về làng Quyên
thuộc xã Bảo Lý sâu vào phía trong huyện Phú Bình. Đây
là một vùng đồi rừng còn khá hoang vắng rậm rạp. Dân
trong vùng phần lớn là tá điền, ruộng đất mới khai khẩn
chƣa lâu, cƣ ngụ và canh tác theo làng, ấp (47)
. Dân hiền
hòa, đời sống vất vả, ở rải rác khắp đồi, gò. Trƣờng di
chuyển dần xa nơi tƣơng đối đông vui sầm uất đến đây cho
an toàn hơn. Lớp học dựng bằng tranh tre trên các sƣờn
đồi. Thầy và trò hoặc ở nhờ nhà dân trong ấp, hoặc ở lán
tự làm gần lớp học. Hầm trú ẩn đào sẵn cho nơi ở và nơi
học.
Vùng này do ƣu điểm về địa hình và vị trí nên một số cơ sở
hậu cần của quân đội, xƣởng máy tƣ nhân, nhà máy in tiền
quốc gia, Cục quân y, một số cơ quan Khu ủy và Liên khu
ủy, cả cơ quan của tỉnh Bắc Giang đã chọn làm nơi đứng
chân. Vì thế máy bay địch luôn luôn nhòm ngó bắn phá.
Làng Quyên bị oanh tạc cháy rụi nhiều nóc nhà. Lớp học
của trƣờng cũng bị bắn cháy. May không có thiệt hại về .....................................................................................................................
(47) Các đồn điền: Bờ dạ…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
67
ngƣời. Thế là chi bộ và lãnh đạo trƣờng quyết định di
chuyển sâu hơn về phía rừng. Thầy và trò phải tự làm lớp
học, lán ở bằng vật liệu tự kiếm. Đây là một thử thách lớn.
Đƣợc chính quyền địa phƣơng ủng hộ, phụ huynh học sinh
hƣởng ứng chi bộ lãnh đạo Hiệu đoàn học sinh phát động
đợt lao động xây dựng trƣờng mới. Chủ trƣơng đƣợc bàn
bạc kỹ rồi triển khai qua tổ chức Hiệu đoàn – phân đoàn
lớp… rất sôi nổi. Tất cả đƣợc phân công khá hợp lý, ai từng
quen làm hoặc biết qua loa công việc gì, ai có thể phụ giúp,
ai chỉ có thể lao động đơn giản… Vất vả nhất là việc đi
rừng lấy cây. Cơm đùm cơm nắm, muối vừng, cá khô…
kéo quân đi từ hôm trƣớc đến tận rừng Yên Thế (Bắc
Giang) xa 15, 16 km lấy tre nứa, gỗ. Ngƣời khỏe vác chục
cây nứa; ngƣời yếu 5, 6 cây. Đƣờng núi khó đi, lại xa, nhất
là với đôi chân và đôi vai các cô cậu thị thành. Đã đƣợc
luyện rèn ít nhiều qua các giờ lao động sản xuất nội khóa
và các buổi hoạt động ngoại khóa, song công việc này đòi
hỏi một trách nhiệm khá rõ ràng. Nhiều ngƣời lúc đầu hăng
hái vác 10 cây nứa. Trên đƣờng về, cứ bỏ dần. Cuối cùng,
dù có cởi cả áo quần dài lót vai cũng chỉ tha về đƣợc vài ba
cây. Tuy nhiên rồi các lớp học cũng đƣợc dựng lên, bàn
ghế cũng tự làm bằng tre nứa, ai nấy đều phấn khởi, thấy tự
hào. Gian khó làm cho con ngƣời cứng cáp, trƣởng thành
hơn.
Chiến sự ngày một ác liệt. Ta mở chiến dịch biên
giới. Địch mở cuộc hành binh “Chó biển” đỡ đòn cho biên
giới Việt – Trung chúng đang thất bại, hy vọng “đổi Cao
Bằng lấy Thái Nguyên”. Trƣờng nằm giữa hai đƣờng tiến
quân của địch lên thị xã Thái Nguyên (một theo hƣớng
quốc lộ 3, một theo hƣớng sông Cầu lên Hà Châu – Phƣơng
Độ rồi theo đƣờng 19). Ngày 29 – 9 – 1950 cánh quân Pháp
từ Bắc Ninh, Bắc Giang qua Hiệp Hòa, theo sông Cầu lên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
68
tới Hà Châu thì bị chặn đánh, không đến đƣợc Phƣơng Độ,
phải tiến theo đƣờng bộ. Ngày 1 – 10 – 1950 địch cho quân
nhảy dù xuống sân bay Đồng Bẩm. Thị xã Thái Nguyên bị
chiếm đóng. Trƣờng tạm nghỉ để học sinh về với gia đình.
Chi bộ lãnh đạo tổ chức việc này tƣơng đối chặt chẽ. Ngoài
những học sinh lớn gia đình ở mấy tỉnh phía tây nam, hoặc
ở các địa phƣơng ngoài hƣớng tấn công của giặc, số khác
cần phải đi qua những con đƣờng nguy hiểm, nhất là các nữ
sinh, và học sinh nhỏ tuổi, trƣờng tổ chức thành từng đoàn
khoảng 7, 8 ngƣời, có ngƣời thông thạo, nếu cần cử thầy
giáo phụ trách.
Mất chừng 2 tuần xao động, học sinh trở lại tiếp tục học.
Để tránh máy bay khủng bố, trƣờng chuyển sang học đêm (48)
. Cứ khoảng chiều muộn, học sinh đến lớp, mang theo
chiếc đèn dầu cá nhân. Thƣờng đó là đèn tự tạo bằng hộp
thuốc đánh răng, trong nén chặt bông tẩm dầu hỏa (để
mang đi nhẹ nhàng lại không bị dầu lỏng tràn đổ), lấy chiếc
van cũ của săm xe đạp làm ống muống dẫn ngọn bấc đèn.
Bóng đèn là đoạn ống thủy tinh cắt từ ống tiêm hoặc ống
nghiệm.
Lớp có đèn bão treo ở góc cao chiếu sáng cho bảng.
Bảng cũng chỉ là tấm gỗ ghép, bào sơ sài, dùng lá khoai
lang và nhọ nồi thay sơn đen. Phấn là đất sét tự đập ra dùng
dần. Vào những tháng mặt trời lặn muộn, có thể sau tiết
học đầu mới phải lên đèn. Vào mùa đông, buổi tối sƣơng
lạnh, gió lùa lớp trống trải, cả thầy cả trò rét buốt thấu
xƣơng. Nhiều buổi trò trùm chăn nghe giảng, thầy cũng
khoác chăn lên lớp. .............................................................................................................. (48)
Những năm đó cho đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều
hoạt động chuyển về đêm để tránh máy bay: Họp chợ, phố xá bán
hàng, đò dọc, buôn bán đƣờng xa, vận tải đƣờng dài, bộ đội hành
quân, dân công làm đƣờng, tiếp tế phục vụ chiến dịch v.v…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
69
Tan học lúc gần nửa đêm, hàng trăm ngọn đèn tỏa theo
các ngả đƣờng đồi về xóm ấp, nhấp nhánh nhƣ hoa lửa, sao
sa (đã có nhiều bài hát, bài thơ hình thành giai điệu và cấu
tứ từ cảnh tƣợng này!). Nhiều đêm học xong, thầy trò dùng
ngay mặt bàn kê lại thành giƣờng ngủ luôn tại lớp.
***
Bƣớc tiến triển mạnh mẽ của tình hình đất nƣớc cho đến
1950 không chỉ biểu hiện ở mặt quân sự, chính trị, mà còn
đƣợc ghi nhận ở phƣơng diện văn hóa – giáo dục. Tháng 7
– 1950 Hội đồng chính phủ thông qua đề án cải cách giáo
dục và quyết định thực hiện.
Ta nói sau Cách mạng tháng 8 – 1945, xuất hiện một
nền giáo dục mới, thực ra mới là những thay đổi về bản
chất chính trị, là những định hướng chủ yếu về nội dung,
phương pháp theo yêu cầu thời cuộc. Do phải tiến hành
cuộc kháng chiến gian khó nên dự định cải cách giáo dục
không thực hiện được sớm hơn, mặc dù Đảng và Chính phủ
đã chỉ đạo hoạt động giáo dục về quan điểm tư tưởng, cơ
cấu tổ chức… từng bước hướng tới một cuộc cải cách
chính thức. Đây là sự kiện lớn đòi hỏi một quá trình chuẩn
bị nghiêm túc, chín muồi, nhưng tất yếu phải làm vì đất
nước đã bước qua thời đại cách mạng mới. Gần 1000 năm
phong kiến, tính trì trệ của xã hội không tạo nên một cuộc
cải cách giáo dục nào (xét trên các tiêu chí nghiêm ngặt),
ngoài những thay đổi ít nhiều về thể chế thi cử, về tổ chức
mạng lưới trường học dưới triều đại này hay triều đại
khác.
Chỉ có thể coi là cải cách giáo dục thực sự khi thực dân
Pháp tiến hành xóa bỏ nền giáo dục Nho học thay bằng
nền giáo dục Pháp – Việt ở nước ta.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
70
Đề án cải cách giáo dục (1950) chỉ rõ về bản chất và
mục đích: giáo dục dân chủ nhân dân, của dân, do dân, vì
dân (không có giáo dục phi giai cấp, trung lập về chính trị).
Về mục tiêu đào tạo: trƣờng phổ thông giáo dục, bồi dƣỡng
thế hệ trẻ thành những “công dân lao động tƣơng lai” trung
thành với chế độ dân chủ nhân dân, có đủ phẩm chất và
năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Phương
châm giáo dục là học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với
thực tiễn. Về nội dung giáo dục: Bồi dƣỡng tinh thần dân
tộc, lòng yêu nƣớc, chí căm thù giặc, tinh thần yêu chuộng
lao động, tôn trọng của công, tinh thần tập thể, phƣơng
pháp suy luận và thói quen làm việc khoa học.
Các vấn đề về quan điểm tƣ tƣởng tuy đã quán triệt từ
lâu, nhƣng đến giờ mới đƣợc trình bày một cách hệ thống,
đồng bộ cùng với những cải cách về cơ cấu nhà trƣờng, nội
dung chƣơng trình và kế hoạch giảng dạy, về sách giáo
khoa…
Về cơ cấu nhà trường: rút bớt số năm học cho phù hợp
hoàn cảnh kháng chiến, từ 12 năm thành 9 năm. Trƣờng
phổ thông 9 năm gồm 3 cấp học:
- Cấp I (lớp 1, 2, 3, 4): Bốn năm
- Cấp II (lớp 5, 6, 7): Ba năm
- Cấp III (lớp 8, 9): Hai năm.
Xóa bỏ các kỳ thi tốt nghiệp ở mỗi cấp, chỉ có kỳ thi tốt
nghiệp 9 năm tƣơng đối nhẹ nhàng.
Về nội dung chƣơng trình tuy về cơ bản vẫn giữ nhƣ
chƣơng trình cải tổ năm 1948, nhƣng đã qui định chi tiết,
cụ thể hơn. Ví dụ: tạm ngƣng dạy ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ
công gia chánh ở cấp II và cấp III; tăng gia sản xuất 3 giờ
chính khóa mỗi tuần; giờ sinh hoạt tập thể hàng tuần do
Hiệu đoàn học sinh phụ trách, thầy chỉ làm cố vấn.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
71
Kế hoạch giảng dạy cũng nhẹ, thoáng hơn (49)
, phù hợp
với tình hình kháng chiến đang chuyển vào giai đoạn quyết
liệt.
Trong thực tế do đƣợc Bộ, Khu (và Liên khu) quan tâm
nên trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến từ năm học 1948 – 1949 số
thầy giáo, cô giáo tƣơng đối đủ đảm bảo dạy hết các môn
trong chƣơng trình (trƣớc và sau cải cách giáo dục), kể cả
hai môn sinh ngữ Pháp văn và Anh văn. Giáo viên cũng
vốn quen với cách khắc phục khó khăn về tình trạng thiếu
sách giáo khoa, vẫn phải tự lo tìm tài liệu soạn bài lên lớp (50)
.
Trong khi triển khai cải cách giáo dục, chi bộ tiến hành
kiểm điểm quá trình thực hiện đƣờng lối chủ trƣơng của
Đảng ở trƣờng. Ngoài những cố gắng sáng tạo trong
chuyên môn của tập thể giáo viên, chi bộ đánh giá toàn
trƣờng đạt đƣợc nhiều thành tích thực sự qua các phong ................................................................................................................
(49) Số giờ dạy các môn chính:
Cấp II Cấp III
QuốcVăn 4 3
Toán 3 4
Lý, Hóa 2 2
Sinh ngữ 4 3
Các môn khác 1 1
Tổng cộng 20 giờ/tuần 21 giờ/tuần (50)
Mùa hè 1950, Bộ lập trại tu thƣ ở Phú Thọ gồm 30 giáo viên giỏi
các cấp quyết tâm khẩn trƣơng biên soạn sách giáo khoa để đƣa vào
thực hiện cải cách giáo dục. Do chiến sự ác liệt, trại viết hoạt động
gián đoạn, đến 1952 mới hoàn thành sách cấp I, còn cấp II và cấp III
mới chỉ soạn đƣợc một số tài liệu giảng dạy về Sử, Chính trị, Công
dân giáo dục. Nhiều môn khác chỉ cung cấp đƣợc bài mẫu phổ biến
qua tờ Giáo dục tập san.
Những thiếu sót về việc chuẩn bị và triển khai cải cách giáo dục
đƣợc đồng chí Trƣờng Chinh vạch rõ và nhắc nhở.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
72
trào hoạt động theo phƣơng châm “phục vụ kháng chiến
chủ yếu là tiền tuyến, phục vụ nhân dân chủ yếu là nông
nghiệp” (nhƣ tinh thần những đề nghị bổ sung đề án cải
cách giáo dục của Đại hội giáo dục toàn quốc 7 – 1951).
Là một chi bộ mạnh, tổ chức Đảng lãnh đạo tốt bộ máy
quản lý của trƣờng. Đề án cải cách giáo dục nhấn mạnh
nguyên tắc lãnh đạo tập thể và dân chủ
tập trung. Về chuyên môn, cấp trên bổ nhiệm thầy Hà
Thế Ngữ làm hiệu phó. Thầy Ngữ vẫn đặc trách giúp đỡ
phong trào hiệu đoàn(51)
. Trƣờng thành lập thêm Hội đồng
quản trị (ngoài Hội đồng chuyên môn và Hội đồng kỷ luật
đã có từ trƣớc cải cách giáo dục), bao gồm đại biểu giáo
viên, đại biểu phụ huynh học sinh và đại biểu Hiệu đoàn.
Đại biểu phụ huynh có vai trò thực sự, đƣợc hội nghị phụ
huynh cử ra. Tuy phần lớn gia đình học sinh ở xa hoặc rất
xa, nhƣng từ khi trƣờng về Phú Bình, khá đông con em
nhân dân trong vùng đã có cơ hội đi học. Cũng phải nói đến
một tình hình rất hay (mà khá phổ biến): nhân dân coi học
sinh trọ học ở nhà mình thân thiết nhƣ con, học sinh coi
chủ nhà nhƣ bố mẹ (52)
. Các “bố mẹ nuôi” đi họp hội nghị
phụ huynh với nhà trƣờng, vẫn có đủ tƣ cách đại diện gia
đình kết hợp với nhà trƣờng trong công tác giáo dục!
Từ 1950 phong trào Hiệu đoàn học sinh lên rất cao.
- Anh Nguyễn Huy là thành viên Ủy ban trung ƣơng
vận động thống nhất học sinh sinh viên Việt Nam
(1950). ................................................................................................................
(51) Cho đến trƣớc cải cách giáo dục ở nhiều nơi chức vụ Hiệu đoàn
trƣởng của Học sinh đoàn do một giáo viên phụ trách. Ở trƣờng trung
học Lƣơng Ngọc Quyến chức vụ này thuộc về học sinh từ lâu (1947 –
1948), nhà trƣờng cử một giáo viên theo dõi, làm cố vấn. (52)
Hiện vẫn tổn tại quan hệ thân thiết giữa thế hệ sau của các gia đình
địa phƣơng và học sinh trọ nhờ ngày ấy.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
73
- 1952 anh Nguyễn Ngọc Chƣơng (16 tuổi, là ngƣời
Hiệu đoàn trƣởng trẻ nhất trong Liên Khu) đƣợc
Tỉnh đoàn Thanh niên Cứu Quốc chỉ định làm
trƣởng Ban vận động thành lập Tỉnh đoàn học sinh
Thái Nguyên.
- Hàng năm có trại hè do Liên Khu đoàn học sinh tổ
chức cho các trƣờng trung học trong Liên khu Việt
Bắc.
Để phục vụ cho chủ trƣơng triển khai đề án cải cách
giáo dục, Bộ tiến hành đồng thời mấy công tác chuẩn bị về
cơ sở vật chất, chuyên môn kỹ thuật…tuy còn nhiều hạn
chế, bất cập (mà đồng chí Trƣờng Chinh đã vạch rõ và
phân tích sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở
phải “kiểm thảo”). Các thầy giáo trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến trông đợi nhiều ở sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy
và tham khảo do trại tu thƣ biên soạn, chờ đợi những tài
liệu hƣớng dẫn phƣơng pháp giảng dạy tiên tiến theo 3
nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng… Nhƣng sự đáp
ứng còn ít ỏi. Thiếu các điều kiện “chính thống chính quy”,
các thầy giáo tiếp tục phƣơng thức tự lực tự túc “du kích”
nhƣ những năm học vừa qua.
Nhƣng Bộ đã làm rất tốt một công tác lớn quan trọng, đó là
cuộc vận động “rèn cán chỉnh cơ” (rèn luyện cán bộ, chấn
chỉnh cơ quan) trong ngành giáo dục. Các cấp lãnh đạo
Đảng và chính quyền ở Liên
khu và tỉnh hết sức quan tâm và chỉ đạo trực tiếp, chỉ thị
cho cơ sở Đảng trực thuộc rõ về trách nhiệm của mình. Đợt
sinh hoạt tƣ tƣởng tập trung (khoảng một tháng) đã giải
quyết nhiều vấn đề cơ bản về nhận thức quan điểm tƣ
tƣởng, tính khuynh hƣớng chính trị tất yếu của giáo dục, đả
phá quan niệm chuyên môn thuần túy, xác định lý tƣởng
phục vụ nhân dân của nghề thầy giáo cao quý… Mấy năm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
74
sống dƣới mái trƣờng kháng chiến, cái nhìn của ngƣời trí
thức đối với nhân dân đã thay đổi nhiều về mặt cảm tính.
Trong đợt sinh hoạt tƣ tƣởng lớn đầu tiên này (kể từ sau
Cách mạng), hình ảnh nhân dân quen thuộc đời thƣờng
đƣợc trừu tƣợng hóa thành khái niệm “nhân dân” lý luận
với những thuộc tính vĩ đại, cao quý… mới mẻ, đã đi vào
nhận thức ngƣời thầy giáo một cách thuyết phục sau những
trăn trở vƣớng mắc. Trở lại trƣờng, ai ai cũng thấy mình có
gì thay đổi, vững vàng hơn, tin tƣởng hơn.
Đội ngũ các thầy càng vững mạnh sau khi tổ chức Công
đoàn ra đời (1951) thay thế cho tổ chức Liên đoàn giáo giới
(vốn không có tính chất giai cấp công nhân). Công đoàn
giáo dục có tôn chỉ, mục đích nghiêm túc, chân chính, cao
quý, toàn diện. Công đoàn trƣờng do thầy Nguyễn Hùng
làm thƣ ký.
Song song với đợt “rèn cán chỉnh cơ” là cuộc vận động
“cải tạo học tập” của học sinh trung học. Học sinh tập trung
sinh hoạt tƣ tƣởng khoảng 2 tuần lễ, dƣới hình thức nghiên
cứu, thảo luận, kiểm điểm cá nhân xung quanh các vấn đề
về mục đích, tinh thần, thái độ học tập; tính chất, nguyên
tắc của nền giáo dục nƣớc nhà; phải nêu cao lòng yêu nƣớc,
biết ơn nhân dân, phải học tốt để phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân… Đả phá nhận thức sai trái, mơ hồ về động cơ
học tập (vì lợi ích cá nhân…).
Không khí học tập hào hứng, nghiêm túc, có phần căng
thẳng khi bƣớc vào phần viết tự kiểm điểm, thu hoạch. Có
báo cáo điển hình trƣớc tập thể ở hội trƣờng, có phê phán
mạnh mẽ, phân tích sâu.
Cuộc vận động “rèn cán chỉnh cơ”, học tập “cải cách”
đối với các nhà giáo và cán bộ giáo dục, cùng với cuộc vận
động “cải tạo học tập” trong học sinh vào những năm 1950,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
75
1951(53)
làm chuyển biến tận gốc nhận thức, tƣ tƣởng của
giới trí thức giáo dục. Các cuộc vận động này đã đạt đƣợc
thành công tốt đẹp(54)
, trang bị cho đối tƣợng những quan
điểm tƣ tƣởng cách mạng sâu sắc. Mặt khác nó phân hóa
đối tƣợng: ai trung thành, ai xa lạ không muốn tiếp tục đi
với kháng chiến (số này ít).
***
Sau Đại hội lần thứ hai, Đảng cộng sản Đông Dƣơng ra
hoạt động công khai đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Các đoàn thể quần chúng của Đảng đƣợc chấn chỉnh hoàn
thiện. Đoàn Thanh niên Cứu Quốc trong nhà trƣờng đƣợc
thành lập dƣới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. Những học
sinh ƣu tú đƣợc tuyên truyền giáo dục (nhiều ngƣời đã
đƣợc sinh hoạt trong nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác) nay
trở thành lớp đoàn viên đầu tiên của chi đoàn Thanh niên
Cứu Quốc nhà trƣờng. Bí thƣ chi đoàn đầu tiên là anh Bùi
Xuân Bách, một đồng chí đảng viên trẻ đƣợc chi bộ phân
công. Nhiều đảng viên trong độ tuổi cũng tham gia sinh
hoạt Đoàn làm cho chi đoàn thêm vững mạnh (cô giáo trẻ
Đặng Thị Hạnh, đảng viên, đƣợc bầu làm phó bí thƣ phụ
trách công tác tuyên huấn chi đoàn).
Chi đoàn trở thành nòng cốt của tổ chức Hiệu đoàn, hoạt
động sôi nổi và có chiều sâu về mọi mặt, có sức thu hút
mạnh đối với lớp thanh niên học sinh tiên tiến. Hàng tháng
chi đoàn dành một ngày (chủ nhật) sinh hoạt (Khi đã thành .............................................................................................................. (53)
Đó là đợt “chỉnh huấn”, “cải tạo tƣ tƣởng” đầu tiên. Tiếp theo còn
nhiều đợt trong ngành giáo dục.
Với học sinh, khi bƣớc vào cấp II là đƣợc dự ngay một đợt “cải tạo
học tập”. (54)
Tuy nhiên có nhiều lúc nhiều nơi đã làm quá đà ít nhiều gây hậu
quả không hay. Vì nhiều lý do mà bệnh ấu trĩ tả khuynh còn lặp lại.
Việc khắc phục không đơn giản.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
76
nếp, mọi ngƣời gọi đó là “ngày Đoàn”). Đoàn viên chuẩn bị
nội dung họp, các “bạn Đoàn” quần chúng cảm tình thì
tham gia chuẩn bị phục vụ. Mọi ngƣời học bài đầy đủ từ
trƣớc, hôm đó góp gạo, tiền thức ăn, bát đũa… đến tập
trung ở một địa điểm (lớp hoặc nhờ nhà dân). Chi đoàn họp
rất nghiêm túc theo chƣờng trình chặt chẽ 3 phần:
1. Thủ tục: Chào cờ, mặc niệm, giới thiệu đại biểu, bầu
chủ tọa, thƣ ký…
2. Nghị sự: Báo cáo kiểm điểm công tác cũ, đề án công
tác mới…
3. Linh tinh: Đề nghị, chất vấn, phê bình…Bữa ăn tập
thể do nhóm “bạn Đoàn” chuẩn bị, giản dị nhƣng hết
sức vui vẻ (55)
.
Sau phần họp chính đến phần vui văn nghệ, cả “bạn
Đoàn” cùng dự. Hát tập thể, tốp, nhóm, cá nhân, đặt lệ chỉ
định ngƣời hát; biểu diễn các “tài” vặt vui nhộn. Rồi nhảy
múa, theo các điệu phổ thông châu Âu đã “dân dã hóa”
trong thời chiến. Đặc biệt sau khi giải phóng biên giới, các
điệu nhảy múa tập thể đơn giản của Trung Quốc “sol la
sol…” rất đƣợc ƣa chuộng trong giới trẻ. Hoạt động tuyên huấn của chi đoàn đƣợc tổ chức khá
sáng tạo. Ngoài một số cuộc học tập tài liệu chính thức (về
nội dung công tác Đoàn, về lịch sử Đoàn, những tấm gƣơng
hy sinh anh dũng của đoàn viên tiêu biểu…), chi đoàn
thƣờng tập trung nghe thuyết trình về văn học. Gây ấn
tƣợng và có tác dụng nhất là những buổi trình bày của phó .............................................................................................................. (55)
– Gõ bát, múa đũa, hát một bài theo điệu hát bình dân Pháp Frere
Jacques lời tự đặt: “Giờ ăn đến rồi/giờ ăn đến rồi…mời anh xơi/mời
chị xơi…Giơ bát lên ta xem nào…giơ đũa lên ta xem nào…Ta cùng
ăn…Ta cùng ăn…”
- Ăn giở đầu đũa: một đầu gắp thức ăn, đầu kia và cơm (giữ vệ
sinh theo phong trào tuyên truyền trên báo Vui sống).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
77
bí thƣ chi đoàn, cô giáo Đặng Thị Hạnh về tác phẩm văn
học Xô - Viết (Hồi đó chƣa có nhiều sách dịch tiếng Việt,
phải đọc bản tiếng Pháp dịch từ tiếng Nga). “Thép đã tôi
thế đấy” (N.Ôstrôvski) từng làm mê say, góp phần bồi
dƣỡng nhiệt huyết thanh niên học sinh ngày ấy. Đoàn viên,
cả học sinh ngoài Đoàn luôn háo hức chờ những đêm
thuyết trình nhƣ thế(56)
. Trƣớc đó một số thầy giáo vẫn
thƣờng nhiệt tình mở rộng hiểu biết cho học sinh bằng cách
kể lại tác phẩm mà các em ít có điều kiện đọc(57)
. Những
cuốn sách ấy hấp dẫn, không phải không bổ ích, nhƣng
không định hƣớng vào giáo dục nhân cách ngƣời thanh
niên hôm nay một cách trực tiếp nhƣ tác phẩm Xô - Viết.
Đôi khi có những lớp bồi dƣỡng về triết học tập trung 2
tuần ở Phúc Trìu, Đồng Hỷ. Đoàn viên và một số học sinh
ngoài Đoàn hào hứng đi học. Các học viên trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến có ấn tƣợng mạnh với những bài giảng của
giảng viên chính Nguyễn Hồng Phong, khúc chiết và hùng
biện.
Công tác phát triển Đoàn đƣợc chú ý, triển khai thận
trọng, chặt chẽ gần nhƣ quy trình phát triển Đảng. Đoàn
viên đƣợc nhìn nhƣ phần tử tiên tiến của phong trào, rất
vinh dự, chiếm tỉ lệ thƣờng từ khoảng 10 – 20% số học
sinh. .............................................................................................................. (56)
Nếp sinh hoạt lành mạnh này đã tồn tại qua nhiều năm, đến cả thời
kỳ Hòa bình (sau 1954). Các thầy có nhiều đóng góp: Hoàng Ngọc
Hiến, Phan Trọng Luân. Một số học sinh cũng tham gia kể lại tác
phẩm mình đọc đƣợc. (57)
Ví dụ: “Bí mật thành Paris” (Eugène Sue), “Nhà thờ Đức Bà Paris”
(V.Hugo), những chuyện hiện thực mộng ảo quái dị của Edgar Allan
Poe (Mỹ), truyện trinh thám ly kỳ nhƣ tập truyện về Serlock Holm
(Sir Althur Conan Doyl – nhà văn Anh) v.v…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
78
Chi đoàn TNCQ đƣợc xác định chức năng phụ trách Đội
thiếu nhi Tháng Tám (cũng vừa đƣợc thành lập cùng với tổ
chức Đoàn). Chi đoàn cử chị Nguyễn Thị Tâm (đảng viên
trẻ nhất) làm trƣởng ban phụ trách (có Đoàn Trung Giai,
Vũ Thanh, Lê Quốc Túy, anh Trung, chị Kim…). Ban chỉ
huy Đội có Đỗ Thụ (đội trƣởng), Lê Thị Loan, Lê Minh
Nguyệt, Dƣơng Thị Mai, Trần Đình Hỷ… Đó là ban phụ
trách và ban chỉ huy Đội Thiếu nhi Tháng Tám đầu tiên của
trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến (1952). Đội thuộc lứa
thiếu nhi đầu tiên của cả nƣớc đƣợc vinh dự quàng khăn đỏ
- một góc lá cờ Tổ quốc trên vai.
Tổ chức Đội mang tính chặt chẽ tƣơng đối, kết nạp những
thiếu niên tiên tiến theo thể thức nghiêm trang, khi hết tuổi
thiếu niên, Đội làm lễ trƣởng thành long trọng. Đội ca tự
sáng tác. Các em đƣợc học nghi thức Đội, đƣợc giáo dục về
tinh thần yêu nƣớc, yêu nhân dân, đoàn kết, học tập chăm
chỉ, yêu lao động… quan trọng là phải tiến hành tất cả các
nội dung đó theo một phƣơng thức phù hợp. Ban phụ trách
ở đây lúc đầu chƣa đƣợc tập huấn theo một chƣơng trình,
bài bản hoàn chỉnh, chỉ đƣợc gợi ý khái quát, nên đã chủ
động tổ chức hoạt động theo sự hiểu biết của mình. Khá
nhiều hình thức phong phú, sinh động. Những phân đội
thiếu nhi chia nhau đi giúp gia đình các thầy giáo, cô giáo
gặp khó khăn do neo đơn, đau ốm (58)
. Nhiều khi Đội còn
giúp đỡ cả nhân dân địa phƣơng - những gia đình gặp hoàn
cảnh không may bất ngờ. Ban phụ trách Đội gồm các
“Huynh trƣởng” huy động cả kinh nghiệm trƣớc đây từ ..............................................................................................................
(58) Nhƣ đi kiếm củi, dọn dẹp nhà cửa, gánh nƣớc, săn sóc ngƣời
ốm v.v…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
79
phong trào Hướng đạo sinh (59)
vào những hoạt động
cắm trại, đánh trận giả, dã ngoại… với ít nhiều sáng tạo ở
nơi cảnh quan núi đồi Phú Bình gợi màu sắc ly kỳ, phiêu
lƣu mạo hiểm vừa gây hứng thú, vừa giáo dục trí thông
minh, tính gan dạ quả cảm, đức hy sinh, lòng vị tha, tinh
thần đồng đội… Phong trào Đoàn, Đội của trƣờng có tiếng
vang tốt trong các trƣờng trung học Liên khu, đƣợc các cấp
lãnh đạo Đoàn thanh niên tỉnh, Liên khu và trung ƣơng chú
ý.
Năm 1952 Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế
giới (Festival) tổ chức tại Bucaret (Rumani). Đội viên Lê
Minh Nguyệt của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến vinh dự đƣợc
cử tham gia đoàn đại biểu nƣớc ta.
Ngoài công tác trọng tâm là giáo dục Đoàn viên, Đội viên
tinh thần học tập tốt, Đoàn và Đội luôn hăng hái tham gia
công tác xã hội. Các lớp Bình dân học vụ tồn tại lâu dài ở
khắp thôn làng, xóm ấp… xóa nạn mù chữ, rồi bổ túc văn
hóa cho đông đảo bà con nông dân địa phƣơng, có công
kiên trì vận động, cần mẫn dạy chữ của các cô cậu học sinh
nhỏ mà “giỏi giang, ngoan ngoãn, đáng yêu”! Những buổi
chiều muộn, tiếng loa cất lên giọng nói non trẻ mà rành rẽ
vang vang khắp xóm làng:
..............................................................................................................
(59)
“Hƣớng đạo sinh” khởi thủy là tổ chức Scout do viên trung tƣớng
quân đội Hoàng gia Anh tên là Robert Stephenson Smyth Baden –
Powell (1857 – 1941) sáng lập. Ở Việt Nam phong trào “Hƣớng đạo
sinh” phát triển mạnh vào những năm 1940 đến 1945, thu hút đông
đảo thanh thiếu niên học sinh trí thức vào những hoạt động lành mạnh,
bổ ích, hấp dẫn, lý thú. Nhiều tổ chức “Hƣớng đạo” có tinh thần yêu
nƣớc cao, tiêu biểu nhƣ Tráng đoàn Lam Sơn do Hoàng Đạo Thúy
lãnh đạo (“huynh trƣởng”), Tráng đoàn Bạch Đằng do Tạ Quang Bửu
lãnh đạo (“huynh trƣởng”).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
80
- Mời đồng bào đi nghe nói chuyện về chiến thắng
biên giới… nghe nói chuyện về vệ sinh phòng
bệnh,… đi dự mít tinh… mời đồng bào đi xem
kịch…
Đội thiếu nhi Tháng Tám của trƣờng đã góp phần làm
sống động không khí thôn quê.
***
Giữa 1951 Chính phủ ban hành chính sách thuế nông
nghiệp. Đây là chính sách lớn, liên quan tới tuyệt đại đa số
ngƣời dân thời đó. Thực hiện tốt chính sách này sẽ đảm bảo
nguồn lực quan trọng cho kháng chiến. Hội nghị Ban
thƣờng vụ tỉnh ủy Thái Nguyên quyết nghị phát động chiến
dịch thuế nông nghiệp, tập trung học tập và tuyên truyền
cho nông dân, huy động lực lƣợng tối đa xuống nông thôn
làm công tác thuế.
Trong chiến dịch này, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến tham
gia tích cực. Chi bộ lãnh đạo toàn trƣờng học tập để thông
hiểu, nắm vững chính sách, quán triệt chỉ thị cấp trên, vận
động học sinh tham gia trực tiếp vào một số công việc cụ
thể:
- Tuyên truyền, phổ biến, giải thích chính sách bằng
loa phát thanh, nói chuyện thân mật với các gia đình
nơi trọ học (sao cho nông dân hiểu rõ “thuế nông
nghiệp công bằng, hợp lý, giản tiện”, và hăng hái
“thi đua nộp mau, nộp đủ, nộp thóc tốt và nộp thóc
khô” (Chủ tịch Hồ Chí Minh)).
- Tổ chức học sinh đi giúp địa phƣơng tính thuế nông
nghiệp cho các hộ nông dân.
Tính thuế là công việc có khối lƣợng rất lớn và rất phức
tạp. Học sinh trung học Lƣơng Ngọc Quyến đã góp phần
xử lý giúp ban thuế các xã phía đông nam huyện Phú Bình
(quanh khu vực trƣờng đóng) rất có hiệu quả, nhanh, chính
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
81
xác. Trƣờng vẫn dạy và học bình thƣờng, học sinh tham gia
công tác thuế nông nghiệp phải thức khuya dậy sớm tranh
thủ học bài làm bài thầy cho về nhà. Bận và mệt hơn nhƣng
ai cũng vui vì thầy rõ ý nghĩa công tác “phục vụ nhân dân”!
Công tác này trƣờng còn tham gia nhiều năm sau đó.
Trong thời gian nghỉ mùa(60)
. Nhà trƣờng cùng chi đoàn,
Hiệu đoàn vận động những học sinh không có điều kiện về
gia đình (do ở tỉnh xa quá, hoặc ở vùng địch hậu), hoặc
không nhất thiết cần về nhà (không phải nhà nông) tham
gia công tác tính thuế nông nghiệp. Họ đƣợc tổ chức thành
từng đội trên dƣới 10 ngƣời về một xã (không chỉ trong
huyện Phú Bình), nhiệm vụ do ban thuế xã phân công.
Đoàn đƣợc chia nhỏ hơn, vài ba ngƣời về một thôn, trƣởng
thôn phụ trách. Họ “ba cùng” thực sự với dân để thâm nhập
thực tế. Sau đó tập trung làm công tác thuế. Kết thúc đợt có
bàn giao nghiêm túc, trang trọng, rồi liên hoan văn nghệ
chia tay. Thời gian ở xã, họ đƣợc làm công việc của ngƣời cán bộ.
Đoàn viên TNCQ tham gia sinh hoạt với tổ chức Đoàn ở
xã (theo giấy giới thiệu từ cơ sở của mình). Trở về chi đoàn
địa phƣơng có ghi nhận xét nghiêm chỉnh.
Mấy năm đầu thập kỷ 50 (Thế kỷ XX), đất nƣớc dồn dập
những sự kiện trọng đại. Ngành giáo dục cũng liên tiếp
triển khai nhiều chủ trƣơng lớn sau bƣớc ngoặt cải cách
giáo dục lần thứ nhất. Dƣới tác động của tình hình đó,
trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến đã chuyển biến mạnh
mẽ: về cơ cấu tổ chức (các hội đồng thuộc nhà trƣờng), về
thành phần và vai trò các đoàn thể (Công đoàn, Hiệu đoàn, ................................................................................................................
(60) Từ 1952, biên chế năm học theo năm tài chính và ứng với vụ cấy,
vụ gặt hàng năm: khai giảng 1 – 1 (dƣơng lịch), kết thúc 31 – 12 năm
đó. Gồm 2 học kỳ, mỗi học kỳ 4 tháng, xen giữa là 2 đợt nghỉ mùa 2
tháng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
82
chi đoàn TN, Đội thiếu nhi); về các cuộc vận động sôi nổi,
sâu sắc (có khi gay gắt quá đà) trong giáo giới và học sinh
v.v…
Đồng thời với việc triển khai những chủ trƣơng lớn của
Bộ, trƣờng còn tiến hành bao nhiêu công việc gian khó,
phức tạp để di dời địa điểm, xây dựng trƣờng lớp, nhà giáo
viên, học sinh… Thầy và trò đã phấn đấu tích cực, kiên trì
để thực hiện mọi chỉ đạo của cấp trên trong nội khóa và
ngoại khóa.
Sau những cuộc vận động “rèn cán chỉnh cơ”, “cải cách”,
“cải tạo học tập”, nhận thức nâng cao hơn,
hoạt động xã hội của thầy và trò đã mang tính tự giác chính
trị rõ hơn. Tham dự những cuộc mít tinh, biểu tình đòi trả
tự do cho các “chiến sĩ hòa bình” Pháp vì đấu tranh cực lực
phản đối chính phủ thực dân tiến hành chiến tranh xâm
lƣợc Việt Nam mà bị giam giữ (61)
, học sinh của trƣờng đã
chứng tỏ trình độ hiểu biết rộng và sâu về thời cuộc, thái độ
phân biệt bạn, thù minh bạch.
Đi dân công làm cầu, sửa đƣờng (mà ta đã đánh sập, phá
hoại ở giai đoạn đầu phòng ngự), không chỉ có học sinh
lớn, mà nhiều thiếu nhi học sinh cũng hăng hái tham gia.
Các em không chỉ giúp ban cấp dƣỡng đi chợ tiếp phẩm,
gánh nƣớc uống ra công trƣờng, hoặc ca múa phục vụ dân
công, mà còn trực tiếp lao động. Cũng xuống lòng suối vớt
sỏi đá, đào đất, chuyển đất… vất vả nhƣ các anh các chị.
Thời điểm triển khai cải cách giáo dục cũng là thời điểm .............................................................................................................. (61)
Anh Henri Martin – ngƣời luôn đi đầu đấu tranh đòi nhà cầm
quyền Pháp chấm dứt chiến tranh “bẩn thỉu” ở Việt Nam; chị Raymon
Dienne – ngƣời đã nằm ngang đƣờng sắt chặn đoàn tàu chở vũ khí cho
quân Pháp đánh Việt Nam; đồng chí Jaque Ducleau - ủy viên trung
ƣơng đảng cộng sản Pháp, ngƣời tích cực đấu tranh ủng hộ Việt Nam
kháng chiến…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
83
Bộ và Sở giáo dục Liên khu chủ trƣơng phát triển cấp III ở
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến(62)
. Năm học 1951 – 1952
trƣờng có lớp 8 đầu tiên, cũng là năm trƣờng tiếp nhận
một số đông học sinh chuyển đến từ các trƣờng Ngô Sĩ
Liên, Hàn Thuyên, Ngô Quyền của các tỉnh bạn do tình
hình chiến sự. Lúc đông nhất trƣờng có khoảng 450 học
sinh. Trƣờng đƣợc bổ sung thêm một số thầy giáo, cô giáo
(từ khi chuyển lên Quyên):Nguyễn Văn Đƣợc, Nguyễn Văn
Thu, Đỗ Thị Nhiệm, Nguyễn Thị Hiền, Đặng Thị Hạnh, Lê
Thị Bích, Trần Thị Tâm, Bùi Thị Phúc, Đỗ Xuân Tƣờng,
Hoàng Thiếu Sơn, Nguyễn Hùng, Lê Ngọc Bình, Nguyễn
Văn Nga, Đỗ Đức Hiểu…
Giữa năm 1951, thầy Dƣơng Xuân Nghiên đƣợc Bộ
QGGD bổ nhiệm làm Trƣởng ty Giáo dục Thái Nguyên,
chức vụ Hiệu trƣởng trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến
chuyển sang thầy Nguyễn Văn Đƣợc. Thế là sau 4 năm
thầy Nghiên đã lãnh đạo xây dựng trƣờng trung học phổ
thông Lƣơng Ngọc Quyến về mọi mặt, từ ngày đầu chƣa có
gì, đến hôm nay đã là một trƣờng bề thế, nổi tiếng của Liên
khu Việt Bắc, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp kháng
chiến và kiến quốc.
Thầy Dƣơng Xuân Nghiên chuyển lên Ty quản lý hành
chính nhà nƣớc theo ngành cấp tỉnh, có chức năng quản lý
cả trƣờng phổ thông cấp II, cấp III (theo sự phân cấp mới).
Ở cƣơng vị công tác này, thầy có điều kiện quan tâm với
những chủ trƣơng sát hợp với trƣờng cũ. Thầy Nghiên cũng
là ngƣời cộng tác đắc lực với giám đốc sở Giáo dục Liên
khu Việt Bắc Nguyễn Lân biên soạn tài liệu “ rèn cán chỉnh
.............................................................................................................. (62)
Theo thầy Dƣơng Xuân Nghiên (tài liệu chƣa công bố đã dẫn), lúc
này trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến nhập trƣờng cấp I ở Quyên và mở
thêm lớp 8 để thành một trƣờng phổ thông có cả 3 cấp học (9 năm).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
84
cơ” dùng cho các trƣờng học và cơ quan giáo dục trong
Liên khu.
Từ 1951, nhiều học sinh của trƣờng đƣợc chọn đi đào
tạo ở Khu học xá trung ƣơng (đóng nhờ bên đất Trung
Quốc), theo ngành khoa học cơ bản và sƣ phạm. Một số
đƣợc đi học tiếp (hoặc học thẳng) ở các nƣớc xã hội chủ
nghĩa (lúc ấy gọi là “dân chủ nhân dân” – gọi tắt là “các
nƣớc dân chủ”). Đây là những “hạt giống” cho sự nghiệp
lâu dài của đất nƣớc.
***
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng
cộng sản lãnh đạo nêu rõ hai nhiệm vụ: phản đế và phản
phong. Phản đế là cấp thiết, cần một mặt trận tập hợp lực
lƣợng theo tiêu chí dân tộc rộng rãi. Nhiệm vụ phản phong
tiến hành từng bƣớc theo sách lƣợc hợp lý, tùy từng lúc,
từng nơi.
Ở Thái Nguyên, cho đến trƣớc 11 – 1952 chính sách
ruộng đất của Đảng và Chính phủ triển khai thực hiện chủ
yếu theo phƣơng thức vận động, thuyết phục các đối tƣợng
thi hành. Từ cuối 1952, khi hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ
(huyện Đồng Hỷ) đƣợc chọn để thực nghiệm nghiên cứu thí
điểm toàn diện, triệt để thì mới áp dụng hình thức phát
động quần chúng đấu tranh quyết liệt, gay gắt, bạo lực.
Ngành Giáo dục đã tham gia cuộc đấu tranh “lay trời
chuyển đất” này một cách không thụ động. Bộ đã chỉ đạo
toàn ngành thực hiện nhiệm vụ trung tâm thƣờng xuyên của
ngành kết hợp với tham gia cuộc cách mạng ruộng đất cả
trong nội dung giảng dạy và hoạt động xã hội của thầy và
trò.
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến là một đơn vị giáo dục lớn,
đƣợc cấp trên triệu tập đi học chỉnh huấn chính trị ở ATK
và tham quan cuộc phát động quần chúng đấu tranh (thí
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
85
điểm) ở Đồng Bẩm. Tham dự lớp chỉnh huấn là các cán bộ
Hiệu đoàn và chi đoàn của trƣờng (mà đứng đầu và nòng
cốt là những đảng viên đƣợc chi bộ cử ra). Sang 1953, nhƣ
thƣờng lệ, trong dịp tiến hành đợt “cải tạo học tập” (chủ
yếu cho lớp học sinh mới nhập trƣờng), theo chỉ thị cấp
trên, toàn trƣờng triển khai chỉnh huấn chính trị (theo nội
dung đã học ở ATK).
Trƣớc đây thầy và trò Lƣơng Ngọc Quyến hiểu biết về
đấu tranh giai cấp qua học thuyết Mác (nhờ sinh hoạt ở
Nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác và các bài học chính
khóa, phụ khóa) còn khá trừu tƣợng, mà chủ yếu tập trung
ở “trận đấu cuối cùng của lịch sử” giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tƣ sản. Bây giờ qua chỉnh huấn, nhìn vào nông
thôn ngay nơi mình đang sống bằng nhãn quan giai cấp
bỗng thấy có sự phân hóa đáng suy nghĩ. Những thanh
thiếu niên học sinh rất nhạy cảm trong nhận thức cái mới,
nhƣng cũng khá non nớt trƣớc những vấn đề khó của lịch
sử. Trong khi ấy Thái Nguyên đang sôi sục “phóng tay phát
động quần chúng triệt để giảm tô thực hiện giảm tức”. Liên
tiếp các sự kiện đấu tranh rầm rộ, quyết liệt:
- 15/11/1952: 300 đoàn nông dân ở 2 xã Đồng Bẩm
và Dân Chủ đấu tranh với địa chủ Nguyễn Thị Năm;
- 20/12/1952: Đại hội tố khổ địa chủ Nguyễn Thị
Năm;
Tiếp đó Trung ƣơng chọn thêm 4 xã làm thí điểm, có 2
xã Đức Liên và Nhã Lộng huyện Phú Bình. Thế là làn sóng
cách mạng tràn đến địa bàn trƣờng đóng. Ngày 22/5/1953,
4000 nông dân xã Đức Liên đấu tranh với địa chủ Đào Ký.
Thầy và trò trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến không chỉ tham gia
vào các sự kiện bên ngoài theo chỉ thị cấp trên, mà còn tự
mình tiến hành đấu tranh trong trƣờng. Họ cũng học tập
chính sách, cũng liên hệ tố giác các học sinh con địa chủ,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
86
phân loại, bắt giam, tra hỏi, truy bức… bằng bạo lực. Rồi
thiết lập trƣờng đấu, tố cáo, xét xử… rất căng thẳng, dữ
dội! Rất may, lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên đã kịp thời cử cán
bộ xuống xem xét và xử lý. Đó là việc làm tự phát vô
nguyên tắc của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể
nhà trƣờng, mà BCH chi bộ phải chịu trách nhiệm chính.
Tùy theo sai lầm từng ngƣời mà cấp trên xử trí (63)
. Những
học sinh bị xúc phạm nhân phẩm và thân thể đƣợc bảo vệ
và an ủi động viên trở lại học tập bình thƣờng.
Tuy nhiên đây là một vụ việc nghiêm trọng tổn hại đến
thanh danh một trƣờng cấp II - III lớn trong Liên khu, một
trƣờng học lớn nhất tỉnh.
Bộ giáo dục, Sở giáo dục Liên khu Việt Bắc, Ty giáo
dục Thái Nguyên, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh Thái Nguyên thống nhất quyết định: chuyển
trƣờng phổ thông cấp II – III Lƣơng Ngọc Quyến lên sáp
nhập với trƣờng phổ thông cấp II Ngô Quyền đang đóng ở
xã Tân Cƣơng huyện Đồng Hỷ, lấy tên là Lƣơng Ngọc
Quyến. (Tên trƣờng Ngô Quyền nay đặt cho trƣờng phổ
thông cấp II Phú Lƣơng).
Thế là trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến không ở lại Phú Bình
chờ ngày kháng chiến thắng lợi để trở về thị xã Thái
Nguyên. Cuộc di chuyển lần này thực tế là bị động, tuy cấp
trên đã linh hoạt ra quyết định cần thiết, kịp thời, phƣơng
án lựa chọn là tối ƣu. Nhƣng dù sao, sự ra đi nhƣ vậy .............................................................................................................. (63)
Do vụ này Bí thƣ chi bộ Đảng (thời gian này đã trực thuộc tỉnh ủy
Thái Nguyên) bị đƣa đi cải tạo. Lãnh đạo trƣờng và các đoàn thể chi
đoàn, Hiệu đoàn cũng bị xử trí thích đáng.
Do liên tƣởng đến cuộc khởi nghĩa của nông dân đƣợc kể lại trong
truyện “Thủy hử” của Thi Nại An (1296 – 1370, nhà viết tiểu thuyết
Trung Quốc), nên học sinh gọi vụ biến động tự phát quá khích này là
Lƣơng Sơn Bạc.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
87
không tránh khỏi nỗi niềm bùi ngùi của thầy và trò. Ít nhiều
nƣớc mắt trong cuộc chia tay giữa dân làng với thầy giáo,
cô giáo, học sinh. Tâm trạng thật ngổn ngang, với sự bồi
hồi, luyến tiếc, nhất là tiếc, trong tình hình mà cả xã hội lẫn
lòng ngƣời đang xao động sôi trào.
***
C. Trƣờng phổ thông cấp II – III Lƣơng Ngọc Quyến
ở Tân Cƣơng – Đồng Hỷ.
Việc hợp nhất giữa hai trƣờng diễn ra thuận lợi. Hiệu
trƣởng là thầy Nguyễn Văn Thu (64)
, Hiệu phó là thầy Bùi
Quang Huy(65)
nguyên Hiệu trƣởng (trƣờng cấp II Ngô
Quyền). Giáo viên cũ của hai trƣờng nói chung vẫn dạy ở
trƣờng hợp nhất. Cho đến 1954, trƣờng có thêm các thầy
giáo, cô giáo (từ trƣờng Ngô Quyền nhập vào hoặc mới
đƣợc điều động đến): Nguyễn Văn Uyên, Trịnh Nhƣ Nghê,
Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Hữu Kim, Phạm Văn Kim,
Nguyễn Ngọc Phúc, Nguyễn Văn Thăng, Nguyễn Văn
Hoàn, Chu Thế Kỳ, Lƣơng Vĩnh Khang, Bùi Thị Hợi, Lê
Phƣơng Hồng.
Từ vài năm trở lại đây Bộ đã xây dựng đƣợc một số trƣờng
sƣ phạm trung cấp và cao cấp, các lớp dự bị Đại học (ở
trong nƣớc và ở Khu học xá trung ƣơng) nhằm đào tạo giáo
viên một cách chính quy đáp ứng nhu cầu các trƣờng cấp II
.............................................................................................................. (64)
Thầy Nguyễn Văn Thu dạy môn Toán, tốt nghiệp Toán học đại
cƣơng (năm thứ nhất của bằng cử nhân theo hệ thống Đại học trƣớc
Cách mạng tháng Tám). Năm 1946 theo lời kêu gọi của Bộ QGGD,
thầy Thu đi dạy học ở Phú Thọ, rồi đƣợc Bộ điều động tăng cƣờng
cho trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến (khi trƣờng chuyển về Quyên). (65)
GS trung học Bùi Quang Huy, tốt nghiệp trƣờng Cao đẳng Sƣ
phạm Đông Dƣơng, thầy giáo của nhiều trí thức, cán bộ cao cấp của
Đảng và nhà nƣớc sau này. Theo kháng chiến, trƣờng của thầy tản cƣ
lên Tân Cƣơng, Đồng Hỷ, Thái Nguyên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
88
và III ngày một tăng nhanh. Một số thầy giáo, cô giáo mới
về giảng dạy ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến từ những nguồn
đào tạo này (66)
. Tân Cƣơng là xã phía tây nam huyện Đồng Hỷ (nay thuộc thành phố
Thái Nguyên), trong vùng đồi rừng bát ngát tới tận thị xã (cách hơn
10km), có con sông Công chảy qua. Dân cƣ phần đông là ngƣời dƣới
xuôi lên khai khẩn, làm tá điền… từ vài đời trƣớc, sống chủ yếu nhờ
ruộng nƣơng, rừng đồi. Kháng chiến lan rộng đồng bào tản cƣ từ vùng
xuôi lên, từ thị xã vào đông, vừa tăng gia sản xuất (nông nghiệp), vừa
buôn bán nhỏ. Nhiều cơ quan nhà nƣớc, trƣờng học, trƣờng Lục quân
Trần Quốc Tuấn…đóng ở trong vùng. Khi trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến
chuyển lên, trƣờng Ngô Quyền đã có đến lớp 8. Trƣờng đóng ở xóm
Soi, nơi có những đồi chè của địa chủ Hạng. Thầy, trò ở nhờ nhà dân
hoặc tự làm nhà tranh tre đơn giản, tự lo việc ăn uống. “Cơ sở vật chất
của trường lúc đó là của trường Ngô Quyền cũ, còn rất đơn sơ, gồm
một văn phòng, một số lớp học, tất cả đều là nhà tường “trình”, mái
lợp rạ nằm rải rác – để tránh máy bay Pháp oanh tạc – trên các đồi
chè ven chân núi Guộc, một quả đồi cao mà địa chủ trước đây
khai thác trồng chè bên sườn thấp gần các xóm dân cư.
Bàn ghế, bục giảng đều làm từ những mảnh ván gỗ thô chưa bào
hoặc là những tấm giát nứa chẻ hoặc đập giập ra, đan ken lại, đặt
trên hàng chân đỡ bằng thân cây có chạc. Ghế của thầy trò cũng vậy,
là những thân cây rừng nhỏ, đặt trên hàng chân bằng cây có chạc…
Còn bảng thì là những tấm ván xẻ mỏng ghép lại. Sơn không có. Trực
nhật trước mỗi buổi học có nhiệm vụ đánh bảng bằng nhọ nồi và lá
khoai lang. Phấn viết không có. Tôi thực sự ngỡ ngàng khi lần đầu
tiên bước chân vào lớp giảng bài, thấy trên “bàn” thầy có một cục đá
phấn to tướng, một con dao rựa cùn và một nắm lá dây khoai lang đã
trộn nhọ nồi…”
(Trích: Lƣơng Vĩnh Khang – Tƣ liệu về lịch sử trƣờng PTTH Lƣơng ................................................................................................................
(66) - Nhƣ cô Lê Phƣơng Hồng tốt nghiệp Sƣ phạm trung cấp Khu học
xá trung ƣơng (Nam Ninh – Trung Quốc);
- Thầy Lƣơng Vĩnh Khang tốt nghiệp Sƣ phạm cao cấp Ban Toán,
Lý;
- Thầy Nguyễn Văn Hoàn tốt nghiệp Sƣ phạm cao cấp Ban xã hội;
- Thầy Chu Thế Kỳ tốt nghiệp Sƣ phạm cao cấp Ban Toàn, Lý.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
89
Ngọc Quyến, đơn vị anh hùng thời kỳ đổi mới, giai đoạn 1954 – 1959.
Tài liệu chƣa công bố)
Trƣờng nhanh chóng ổn định về mọi mặt và tập trung
trƣớc hết vào hoạt động nội khóa, tạo nề nếp để đảm bảo
thực hiện chƣơng trình (có bị ảnh hƣởng do biến động bất
thƣờng vừa qua).
Thời gian này ngành giáo dục đứng trƣớc đòi hỏi mới
của tình hình là phải phát triển mạnh về mạng lƣới trƣờng
học (về số lƣợng), đồng thời nâng cao chất lƣợng đào tạo.
Trƣờng phổ thông cần phải có những cố gắng mới về cải
tiến công tác giảng dạy và học tập. Tinh thần phƣơng châm
giáo dục tiếp tục đƣợc quán triệt, nêu cao nhƣ lời nhắc nhở
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giáo dục liên hệ với đời sống
nhân dân”, “phối hợp việc giáo dục của trƣờng học với việc
tuyên truyền giáo dục chính trị chung”.
Thầy và trò trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã có nhiều cố
gắng và thành tích trong thực tiễn vận dụng phƣơng châm
mới, song đã tỏ ra khá lúng túng và từng mắc sai lầm. Vấn
đề kết hợp hoạt động xã hội với nâng cao chất lƣợng giáo
dục đòi hỏi thầy và trò cần ra sức thi đua cải tiến phƣơng
pháp dạy và học nhiều hơn nữa. Về phía thầy, nhà trƣờng
chú ý xây dựng các tổ bộ môn, đẩy mạnh các hoạt động
nhƣ soạn bài tập thể, thăm lớp dự giờ thƣờng xuyên, tổ
chức các giờ dạy mẫu, rút kinh nghiệm chung… Sao cho
bài học thể hiện đƣợc tinh thần phƣơng châm giáo dục? Bài
học môn khoa học tự nhiên và bài học môn khoa học xã hội
có ƣu thế và hạn chế khác nhau thế nào khi thực hiện mỗi
khía cạnh nội dung phƣơng châm? v.v… Làm việc tập thể
ở thời điểm này quả thật là một phƣơng thức rất có hiệu
quả. Tập thể các nhà giáo Lƣơng Ngọc Quyến, sau bài học
ở Quyên, nay đã thận trọng, sao cho việc giáo dục tƣ tƣởng
chính trị thông qua môn học văn hóa, liên hệ thực tế địa
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
90
phƣơng từ bài học, kết hợp phần thực hành với tham gia
công tác địa phƣơng… đƣợc nhuần nhuyễn, tự nhiên, tránh
gò ép, khiên cƣỡng, mất cân đối. Sau những năm đầu
kháng chiến, các hội đồng chuyên môn của Bộ chƣa đủ
điều kiện nghiên cứu nhiều về khoa học giáo dục. Nay,
giao lƣu thế giới đã mở rộng hơn, Khu học xá trung ƣơng
với sự tập trung nhất định số lƣợng và trình độ các nhà giáo
dục đƣơng thời, Bộ đã cung cấp cho các nhà giáo nhiều tài
liệu lý luận và kinh nghiệm giáo dục bổ ích. Một số sách
dịch của các nƣớc bạn (nhƣ sách của nhà giáo dục Liên Xô
Kairôp do Võ Thuần Nho dịch rất đƣợc chú ý) đem đến cho
giáo dục nƣớc ta thêm nhiều hiểu biết phong phú. Tờ Giáo
dục nhân dân (thay tờ Giáo dục tập san cũ) đã có nhiều
chấn chỉnh, cải tiến. Đây cũng là nội dung mới mẻ, hứng
thú đƣợc các nhà giáo các tổ bộ môn của trƣờng quan tâm
trao đổi tìm hiểu.
Về phía học sinh, phong trào thi đua cải tiến phƣơng
pháp học tập đƣợc dấy lên sôi nổi. Nó có ý nghĩa hỗ trợ cho
phong trào thi đua của giáo viên, và chủ yếu nhằm nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả học tập của học sinh. Nổi bật là
cuộc vận động noi gƣơng chiến sĩ thi đua Hà Học Hợi, học
sinh gƣơng mẫu đƣợc đi dự Đại hội liên hoan anh hùng và
chiến sĩ thi đua toàn quốc 1952. Trƣớc giờ nghe giảng, các
lớp thƣờng hát vang bài hát về “ngọn đuốc sáng chói Hà
Học Hợi” nhƣ một niềm tự hào thế hệ, nhƣ một điều tâm
niệm hồn nhiên. Rồi một tấm gƣơng khác, bản lƣợc thuật
thành tích và kinh nghiệm học tập của một học sinh Khu
học xá trung ƣơng cũng đƣợc phổ biến sâu rộng, đƣợc học
sinh toàn trƣờng, nhất là các lớp lớn quan tâm.
***
Đến 1953, Thái Nguyên đã có một mạng lƣới trƣờng cấp II
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
91
ở các huyện. Riêng huyện Đồng Hỷ (bao trùm cả thị xã) đã
có 3 trƣờng công ở 3 xã: Hiệp Hòa, Đồng Tiến, Tích
Lƣơng và một trƣờng tƣ (sau giải thể theo chủ trƣơng
chung, đƣa học sinh vào trƣờng Hiệp Hòa). Trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến là trƣờng lớn nhất tỉnh, đóng ngay ở trong
huyện Đồng Hỷ nên Khu đoàn học sinh, Khu Đoàn TN cứu
quốc, Tỉnh đoàn học sinh, Tỉnh Đoàn TN cứu quốc coi là
một trọng điểm có vai trò trung tâm của phong trào (67)
. Vì
vậy các cấp lãnh đạo vẫn dựa vào tổ chức Hiệu đoàn và
Đoàn thanh niên của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến để triển
khai các chủ trƣơng công tác.
Ban chấp hành các đoàn thể học sinh của Lƣơng Ngọc
Quyến đƣợc phân công đứng ra tập trung học sinh các
trƣờng cấp II trong huyện để tiến hành các đợt “chỉnh
huấn”, “huấn luyện” (nhƣ “cải tạo học tập”, học các chính
sách của Đảng và Chính phủ).
Những dịp đó, anh chị em học sinh 3 trƣờng bạn ba lô
khăn gói đi bộ đến tập trung ở trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến. Hiệu đoàn, chi đoàn đã chuẩn bị chu đáo: phân phối
từng tốp vào nghỉ ở các nhà dân, phổ biến nội quy, chƣơng
trình học tập, sinh hoạt. Cuối đợt có liên hoan lửa trại tƣng
bừng. Trƣờng “anh cả” Lƣơng Ngọc Quyến trở thành chỗ
dựa tin cậy, là niềm mơ ƣớc của lứa học sinh cận kề.
Nhu cầu cán bộ có trình độ cao ngày càng cấp thiết.
Trƣờng trở thành nguồn cung cấp kịp thời mỗi khi ngành
nào đó cần ngƣời. Có những đợt bất kỳ tuyển chọn số
lƣợng ít, độ mƣơi ngƣời (không đợi qua kỳ thi tốt nghiệp)
đƣa đi đào tạo ở nƣớc ngoài. Sau khi Liên Xô, Trung Quốc .............................................................................................................. (67)
Đồng chí Kim Quế Đinh cán bộ Khu Đoàn, đồng chí Nguyễn
Khánh cán bộ Tỉnh Đoàn (sau này là Phó thủ tƣớng Chính phủ) luôn
theo sát chỉ đạo. Có thời gian đồng chí Kim Quế Đinh công tác dài
ngày tại trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
92
và các nƣớc trong “phe dân chủ” lần lƣợt chính thức công
nhận nƣớc Việt Nam DCCH, Đảng và Chính phủ chỉ thị
cho các cấp các ngành một mặt tranh thủ sự giúp đỡ quốc
tế, mặt khác tuyên truyền giáo dục sâu rộng để nhân dân ta
hiểu. Đối với hai ngƣời bạn lớn Liên Xô và Trung Quốc, ta
tiến hành một hoạt động đặc biệt trong suốt một tháng, gọi
là “Tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô”. Trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến hƣởng ứng sự kiện này nhƣ một nhiệm vụ
“phối hợp việc giáo dục của trƣờng học với việc tuyên
truyền giáo dục chính trị chung” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Ngoài việc tham gia các tổ tuyên truyền, phát thanh đi sâu
vào thôn xóm, trƣờng tổ chức một đội văn nghệ tuyên
truyền lớn (do anh Đào Thế Ngữ làm đội trƣởng) đi lƣu
diễn ở nhiều xã trong huyện từ Thịnh Đán, Thịnh
Đức…đến Tân Quang, Túc Duyên… Ý nghĩa chính trị của
sự kiện đƣợc tô đậm và sâu sắc thêm trong không khí văn
hóa – nghệ thuật – sôi nổi, sinh động mà trƣờng đem lại.
Học sinh ca hát vang lừng, say sƣa những bài hát ca ngợi
đất nƣớc và lãnh tụ Xô-viết (Lênin, Stalin), về cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, cả những ca khúc về tình yêu trong
chiến đấu và xây dựng của Liên Xô hoặc do nhạc sĩ Việt
Nam sáng tác. Cũng nhƣ vậy đối với Trung Quốc, thanh,
thiếu niên Lƣơng Ngọc Quyến ƣa thích giai điệu và hình
ảnh ngƣời chiến sĩ gang thép hùng tráng, kỳ vĩ trong các
bài hành khúc của Hồng quân Trung Hoa, các bản hợp
xƣớng quy mô, các điệu múa khỏe khoắn với những động
tác không cầu kỳ… Những trào lƣu nghệ thuật – chính trị
nhƣ vậy làm hƣng phấn đời sống tinh thần, tiếp sức cho
kháng chiến vào giai đoạn cuối.
Xét một cách toàn diện, những hoạt động của trƣờng
theo định hƣớng chỉ đạo của phƣơng châm giáo dục nhƣ
vậy đã nâng cao hiệu quả chất lƣợng đào tạo.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
93
Đầu 1954, hƣởng ứng khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”, học sinh Lƣơng Ngọc Quyến lại
tòng quân. Đợt này đi khá đông, vẫn những phần tử cốt cán
tiền phong, học giỏi, tài hoa, có cả những bạn mới cất khỏi
vai tấm khăn quàng đỏ chƣa lâu. Lễ tiễn đƣa ở sân trƣờng
trang nghiêm và xúc động. Đoàn “tân binh” xếp hàng ba
chỉnh tề, bƣớc đi hùng dũng, hiên ngang thẳng hƣớng núi
Guộc. Đi sau cùng là bí thƣ chi đoàn TNCQ, lên khỏi con
dốc cao còn giơ tay vẫy chào!
Chiến dịch Điện Biên Phủ thu hút một khối lƣợng khổng
lồ sức ngƣời sức của. Có tài liệu nêu con số tỉ lệ: cứ mỗi
ngƣời lính Việt Nam ở chiến trƣờng này thì có 4 dân công
phục vụ. Chiến dịch đƣợc chuẩn bị kĩ lƣỡng trên tầm xa cả
về thời gian và không gian. Đƣờng Tây Bắc cho chiến dịch
thực tế là những chặng cuối nối tiếp bao con đƣờng từ Việt
Bắc, Khu IV, Khu III. Mở đƣờng là nhiệm vụ của công
binh, thanh niên xung phong, và đông đảo nhất là dân công.
Ở hậu phƣơng có lệnh huy động trƣờng học cấp II – cấp III
(có khi cả học sinh lớn ở cấp 1).
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đóng góp 100 ngƣời, tức
một đại đội (biên chế theo kiểu quân đội) do thầy Lƣơng
Vĩnh Khang làm đại đội trƣởng (C trƣởng). Ban chỉ huy đại
đội còn có thêm 2 C phó là 2 học sinh lớp 9. C Lƣơng
Ngọc Quyến làm nhiệm vụ trên “đƣờng Bắc Sơn – Đình Cả
- Thái Nguyên”, đoạn từ đƣờng 1B bây giờ nối với đƣờng
số 3. Công việc vất vả: khai thông mặt đƣờng, vớt đá sỏi
dƣới lòng sông Cầu rải lên theo kỹ thuật rải “cấp phối”.
Tất cả bằng sức ngƣời. Đào đất, chuyển đất, san lấp, đầm
nén… Ngâm mình dƣới nƣớc vớt đá sỏi, lên rừng lấy nứa
đan sọt gánh sỏi… Nền nếp lao động, sinh hoạt tại công
trƣờng và nơi ở (nhà dân địa phƣơng) đều theo quy củ bán
quân sự. Hiệu lệnh giờ giấc dứt khoát, tập hợp hành quân ra
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
94
công trƣờng, làm việc theo sự phân công trƣớc, nghỉ giải
lao, nghỉ giữa ngày, cuối ngày, tránh máy bay… theo kẻng
hết. Mỗi đơn vị dân công tự lo về mọi mặt (trừ dụng cụ và
hƣớng dẫn kĩ thuật), từ tổ chức nhân sự đến hậu cần, nơi ăn
chốn ở.
Rất mệt nhọc, nhƣng ai cũng hăng hái thi đua lao động
hết mình. Đợt dân công một tháng (23/6 đến 25/7/1954) kết
thúc thắng lợi cùng với tin vui từ Hội nghị Giơ-ne-vơ về
Đông Dƣơng. Đại đội dân công Lƣơng Ngọc Quyến hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, đƣợc tuyên dƣơng tập thể và cá
nhân(68)
. Trở về trƣờng ai nấy cảm nhận nhƣ mình rắn rỏi
hơn một chút.
Trƣờng tiếp tục nhiệm vụ trung tâm năm học trong
không khí náo nức phấn khởi những ngày đầu hòa bình lập
lại. Cảnh tƣợng sao mà lạ lẫm: ngƣời đi nhƣ trảy hội giữa
ban ngày, trƣờng học ban ngày, chợ họp ban ngày… Hầm
trú ẩn trở nên thừa! Dân ở địch hậu đã có thể lên tận Tân
Cƣơng gặp gỡ ngƣời nhà đang dạy hay học ở trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến.
Trƣờng phát động đợt thi đua chào mừng hòa bình vừa
lập lại. Thầy tận tâm giảng dạy, đi sát giúp đỡ từng tổ,
nhóm học tập, phụ đạo thêm ngoài giờ chính khóa, góp ý
với các phân đoàn học sinh, phân đoàn thanh niên trong
việc lãnh đạo phong trào học tập của lớp. Có cô giáo thêu
cờ thi đua để làm giải thƣởng. Băng khẩu hiệu “Chăm học,
siêng làm, kính thầy, yêu bạn” dán trên tƣờng mỗi lớp.
Giúp nhau học tập, phê bình, tự phê bình trong sinh hoạt tƣ ................................................................................................................
(68) - Chị nữ sinh Dƣơng Thị Mai đƣợc bình bầu là chiến sĩ thi đua của
đại đội, đƣợc đi dự Đại hội thi đua của công trƣờng, đƣợc Ban chỉ huy
công trƣờng T118 tặng bằng khen.
- Thầy Lƣơng Vĩnh Khang đƣợc tuyên dƣơng danh hiệu “C trƣởng
xuất sắc nhất”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
95
tƣởng, khiến cho mọi ngƣời đoàn kết thân ái hơn, xóa bỏ
đƣợc những hiểu lầm, thành kiến giữa một số học sinh với
nhau. Đoàn Thanh niên Cứu quốc luôn luôn dẫn đầu.
Trung ƣơng Đoàn TNCQ đƣợc trao nhiệm vụ tổ
chức Đội thanh niên xung phong công tác tiếp quản Thủ đô
Hà Nội vào ngày 10 – 10 – 1954. Đội tập hợp một số học
sinh (chọn lọc theo một số tiêu chuẩn thích hợp) của các
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến (Thái Nguyên), Hùng Vƣơng
(Phú Thọ), Tân Trào (Tuyên Quang), Hàn Thuyên (Bắc
Ninh), Ngô Sĩ Liên (Bắc Giang). Lễ tiễn đƣa diễn ra vào
sáng 28 – 8 – 1954. 30 anh chị em tập trung nghe thầy
Nguyễn Văn Hoàn thay mặt nhà trƣờng, lãnh đạo Hiệu
đoàn, chi đoàn căn dặn và chúc lên đƣờng hoàn thành
nhiệm vụ.
Giữa lúc ấy một tin vui đến bất ngờ làm xôn xao, háo
hức toàn trƣờng: đồng chí Trƣờng Chinh, Tổng bí thƣ Đảng
LĐVN, “ngƣời anh cả của cách mạng Việt Nam” (nhƣ báo
chí dạo đó thƣờng gọi) đến thăm trƣờng. Tầng lớp trí thức
kính phục đồng chí nhƣ một nhà lý luận mác-xít Việt Nam
hàng đầu, ngƣời trực tiếp thay mặt Đảng vạch đƣờng lối
văn hóa giáo dục cách mạng. Đối với hầu hết thầy trò
Lƣơng Ngọc Quyến, đây là sự kiện đáp ứng mong chờ bấy
lâu, “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” (mới nghe tiếng tăm,
chƣa thấy ngƣời).
Cuộc đón tiếp diễn ra trọng thể nhƣng hết sức giản dị,
ấm cúng. Đồng chí hỏi han ân cần và chăm chú, xúc động
lắng nghe thầy và trò của trƣờng nói về tình hình mọi mặt,
từ đời sống vật chất, tinh thần, tình cảm đến những cố gắng
trong dạy và học. Nói chuyện với thầy giáo và học sinh
trƣờng, đồng chí nhắc lại truyền thống lịch sử của đất Thái
Nguyên, phân tích ngắn gọn tình hình thời sự trƣớc mắt,
biểu dƣơng thành tích nhà trƣờng, khẳng định vai trò của
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
96
trƣờng trong sự nghiệp chung của đất nƣớc, nhắc nhở
nhiệm vụ của thầy và trò. Đặc biệt, nhà lý luận mác-xít
Trƣờng Chinh đã nói về vấn đề quan hệ thầy – trò theo
quan niệm và đời sống cách mạng: đó là quan hệ đồng chí,
giữa thế hệ trƣớc và thế hệ sau, thế hệ những ngƣời anh,
ngƣời chị và thế hệ các em… Lập luận chặt chẽ khoa học
thuyết phục mà lời lẽ vẫn nhẹ nhàng ôn tồn.
Cho đến ngày đó, đồng chí Tổng bí thƣ của Đảng là vị
lãnh đạo cao nhất trong số những nhà lãnh đạo cấp cao đến
thăm trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến. Tiễn đồng chí Trƣờng
Chinh lên đƣờng tiếp tục chuyến công tác, thầy và trò
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến lại phấn khởi hăng hái thi đua
hoàn thành chƣơng trình năm học. Chi đoàn, Hiệu đoàn,
Đội thiếu nhi nhắc nhở ghi nhớ và thực hiện lời đồng chí
Trƣờng Chinh: “Chăm chỉ học tập là biểu hiện lòng yêu
nƣớc một cách thiết thực nhất”.
Năm học cuối cùng trong kháng chiến chống Pháp đã
diễn ra sôi động với nhiều sự kiện lớn và trong tâm trạng
học sinh, nhất là lớp cuối cấp II và cấp III. Họ đứng trƣớc
một ngƣỡng cửa mới dẫn vào tƣơng lai: các trƣờng chuyên
nghiệp, đại học mở thêm sau hòa bình lập lại.
Trong bộn bề công việc, trƣờng còn lo xúc tiến công tác
chuẩn bị chuyển địa điểm về thị xã Thái Nguyên.
***
- Trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến đã đi
trọn cuộc kháng chiến chống Pháp (1947 – 1954), bốn lần
di chuyển địa điểm, đứng chân trên 5 xã của ba huyện Đại
Từ, Phú Bình, Đồng Hỷ.
- Nhờ dựa vào dân và phát huy tinh thần tự lực cánh sinh,
nhất là đƣợc các cấp lãnh đạo từ trung ƣơng đến địa
phƣơng quan tâm thích đáng, trƣờng đã bắt đầu từ chỗ chƣa
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
97
có gì trải qua thăng trầm gian khó, kiên định, nay trở thành
một trƣờng phổ thông cấp II – III hoàn chỉnh thuộc hàng
ngũ các trƣờng lớn.
- Trƣờng đã đào tạo cho đất nƣớc các thế hệ thanh niên trí
thức có trình độ trung học phổ thông 4 năm (đệ tứ), rồi tốt
nghiệp phổ thông (lớp 9). Đó là lực lƣợng không thể thiếu
trong công cuộc “kháng chiến, kiến quốc” trƣớc mắt và lâu
dài.
- Quá trình phấn đấu tồn tại và phát triển của trƣờng cũng
đem lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị về ý chí tự lực
tự cƣờng, về tinh thần sáng tạo năng động, về ý thức và bản
lĩnh tự tin trong đào tạo và tự đào tạo hƣớng về những
phẩm chất nhân cách ngƣời công dân mới của đất nƣớc.
- Riêng ngành Giáo dục hẳn cũng xem đây nhƣ một thực
tiễn sinh động rất có ý nghia suốt 8 năm triển khai đƣờng
lối, chủ trƣơng giáo dục của Đảng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
98
Chi bộ Đảng LĐVN của trường (Quyên 1952)
Đình Úc Kỳ.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
99
Đình Phương Độ.
Nữ sinh Lương Ngọc Quyến ở Phú Bình
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
100
Ban văn nghệ Lương Ngọc Quyến ở Phú Bình.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
101
Chƣơng III
TRƢỜNG PHỔ THÔNG CẤP II – III
LƢƠNG NGỌC QUYẾN TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG NHÀ TRƢỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1955 – 1965)
I. Năm học 1955 trƣờng phổ thông cấp II – III Lƣơng
Ngọc Quyến chuyển về thị xã Thái Nguyên, đóng tại một
quả đồi thuộc khu vực Kép - le(1)
, cách điểm trung tâm thị
xã chừng hơn 1km về phía tây. Vùng này đang còn thƣa
dân, lác đác hàng quán, xung quanh bát ngát đồi sim, mua,
vắt qua sƣờn đồi là những con đƣờng mòn đất sỏi. Thầy,
trò phải leo một con dốc khá cao, xe đạp phải dắt để lên
trƣờng.
Trƣờng là 4 dãy phòng học 4 phía quay mặt vào mảnh
sân ở giữa. Phía gần cổng trƣờng là nhà văn phòng. Tất cả
làm bằng tranh, tre, nứa lá. Bàn ghế có khoảng 20 bộ bằng
gỗ loại xấu, còn toàn phải chôn cọc xuống đất đặt tấm ván
lên trên. Đơn sơ và có vẻ tạm bợ thế, nhƣng trƣờng cũng
có hàng rào nứa bao quanh chân đồi, có cổng trƣờng
(không có cánh cổng) dựng bằng những cây bƣơng to
cao… Quang cảnh đã khác thời kháng chiến hôm qua rất
nhiều.
Chuyển ra thị xã, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến sáp nhập
thêm các trƣờng cấp II Hiệp Hòa, Đồng Tiến, Tích Lƣơng
(đã có tới lớp 6), tuyển sinh lớp 5 mới, lớp 8 (có học sinh
từ huyện xa về). Khá nhiều học sinh tỉnh ngoài hồi hƣơng ................................................................................................................
(1) Kép-le là tên một chủ đồn điền ngƣời Pháp. Khu vực đồn điền này
rộng 1650.48 ha (trung tâm thuộc phƣờng Đồng Quang thành phố
Thái Nguyên ngày nay) cũng gọi theo tên của ngƣời chủ. Bây giờ là
địa điểm của Trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp của Sở giáo dục
và đào tạo Thái Nguyên.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
102
sau hòa bình, nhƣng lại có một số học sinh tỉnh khác chủ
yếu ở Cao Bằng, Bắc Kạn về học lớp 8 vì các tỉnh đó chƣa
có cấp III. Một số học sinh ở Hà Nội xin ra đây học vì
ngƣỡng mộ nhà trƣờng cách mạng. Tổng số học sinh
khoảng 600, với 13 lớp, cấp II mỗi khối 3 lớp, cấp III mỗi
khối 2 lớp.
Thầy giáo, cô giáo cũng đông hơn và có một số thay đổi.
Thầy Hiệu phó Bùi Quang Huy nghỉ hƣu, về Hà Nội. Một
số ít chuyển đi, nhiều thầy mới chuyển về:
- Lại Đức Thông, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Văn
Hạnh nguyên là giáo viên trƣờng cấp II Hiệp Hòa.
- Võ Trọng Vinh, Đào Trọng Dậu… dạy cấp II.
- Phan Trọng Luận, Lê Đình Kỵ, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Đình Khâm, Nguyễn Xuân Nam… dạy cấp
III.
Ngoài một số ít thầy có gia đình ở gần trƣờng, còn hầu hết
vẫn phải trọ nhờ nhà dân. Dân vẫn rất quý trọng thầy giáo
và sẵn lòng giúp đỡ chẳng khác những năm kháng chiến.
Tuy nhiên với những thầy giáo có gia đình đi theo thì
thƣờng phải tìm nhà dân có điều kiện thích hợp ở hơi xa,
mà không có phƣơng tiện đi lại nào khác ngoài đôi chân đi
bộ (2)
. Với học sinh, tình hình có khác hơn. Số anh chị em
ngƣời thị xã và các xã lân cận (cách trƣờng 5, 7, 10km) khá
đông, họ không phải trọ học. Số khác tìm nhà trọ ở các
xóm quanh trƣờng. Có nhiều anh chị em địa phƣơng rủ bạn
học về nhà mình ở cho vui và tiện hỗ trợ nhau học tập (3)
.
Khoảng hai chục anh chị em học sinh trung học từ Hà Nội .............................................................................................................. (2)
- Thầy Nguyễn Văn Uyên cùng con gái mới từ Hà Nội ra với bố để
học trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, đã ở nhà phụ huynh học sinh cách
trƣờng 3km;
- Thầy Võ Trọng Vinh cùng vợ ở nhà học sinh cách trƣờng 5km. (3)
Rất nhiều mối quan hệ nhƣ thế trở nên gắn bó tình nghĩa suốt đời.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
103
do có họ hàng thân thích đi kháng chiến ở Thái Nguyên,
nay có điều kiện theo học một trƣờng lớn có tiếng của
chiến khu, hy vọng bù đắp những thiệt thòi do quá khứ
sống trong vùng địch hậu và bị nhồi sọ bởi nền giáo dục nô
dịch. Họ rất hăm hở, hào hứng với tất cả những điều mới
mẻ, từ quy chế giáo dục, nội quy nhà trƣờng, phong cách
giảng dạy của thầy, quan hệ thầy trò, bè bạn, đến tổ chức
đoàn thể, hoạt động xã hội,… Họ không tỏ ra chán nản
trƣớc cảnh tƣợng đơn sơ, nghèo nàn của trƣờng sở,
thầy trò kháng chiến, trái lại rất khâm phục. Họ cũng muốn
tự rèn luyện mình qua sinh hoạt gian khổ, nam thì quần nâu
áo vải, dép lốp, mũ nan, nữ thì quần thâm áo cánh…
Cơm ăn cũng dƣa muối, cà chua. Họ trút lại sau lƣng không
luyến tiếc bộ ga-ba-đin Mỹ vừa đẹp vừa sang, bộ áo dài
quần trắng thƣớt tha yểu điệu… Nhiều ngƣời chấp nhận
học chậm lại một thời gian để phù hợp với năm học ở đây (4)
, cũng để học đuổi phần khoa học xã hội của chƣơng trình
kháng chiến vốn rất khác chƣơng trình của trƣờng địch.
Mặc dù ở năm đầu hòa bình, trƣờng chƣa đƣợc đầu tƣ
nhiều về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học (tất cả chỉ chứa
đầy đôi bồ ngƣời lao công gánh trên vai từ Tân Cƣơng ra
thị xã, gồm đồ thí nghiệm đơn giản: chai lọ, ống nghiệm,
lực kế, v.v…) nhƣng trong hoàn cảnh mới nhiều thuận lợi
nhƣ học ban ngày, trƣờng lớp tập trung, trƣờng về nơi
trung tâm của tỉnh và khu, đời sống có phần đỡ khó khăn .............................................................................................................. (4)
– Năm học trong vùng địch hậu từ tháng 9 năm này tới tháng 5 năm
sau, còn năm học của trƣờng cách mạng biên chế theo năm dƣơng
lịch.
- Cấp trung học phổ thông vùng địch hậu gồm 4 năm: đệ thất, đệ
lục, đệ ngũ, đệ tứ - tƣơng đƣơng với cấp II 3 năm; cấp trung học
chuyên khoa vùng địch hậu gồm 3 năm: đệ tam, đệ nhị, đệ nhất –
tƣơng đƣơng với cấp III 2 năm (trƣớc cải cách giáo dục 1956).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
104
hơn (nhu yếu phẩm đỡ khan hiếm, đơn điệu), nên việc
dạy và học có khởi sắc về phong trào và tốt lên về hiệu
quả. Đời sống văn hóa tinh thần đƣợc cải thiện rõ rệt. Sách,
báo phong phú hơn. Bãi chiếu bóng đổi phim mới sau 2
tuần hoặc mƣơi ngày.
Rạp hát tƣ nhân Quyết Tiến chuyên diễn kịch hát dân tộc
(cải lƣơng, tuồng, chèo) ra đời từ hồi kháng chiến nay có
điều kiện phát triển hơn.
Một số gánh hát, gánh xiếc tƣ nhân từ Hà Nội ra biểu
diễn. Thỉnh thoảng có đoàn nghệ thuật nƣớc ngoài (Triều
Tiên, Trung Quốc) sang nƣớc ta biểu diễn cũng dành một
số buổi cho Thái Nguyên. Tuy các đoàn nghệ thuật lớn của
trung ƣơng và quân đội thời gian này ƣu tiên phục vụ đồng
bào vùng mới giải phóng là chính, nhƣng các tiết mục lớn
đặc sắc bao giờ cũng công diễn ở Thái Nguyên trƣớc (vì
cần sự thƣởng thức và thẩm định của một công chúng có
quá trình tham gia cách mạng và kháng chiến để chỉnh lý
nếu cần). Môi trƣờng văn hóa đó ảnh hƣởng tốt đến quá
trình giáo dục của nhà trƣờng.
Năm học 1955 kết thúc đối với lớp 9, tốt nghiệp trƣờng
phổ thông 9 năm theo quy định phải học một năm dự bị
trƣớc khi vào đại học.
Nhƣng do tình hình và yêu cầu chung, họ đƣợc tuyển
vào đại học ngay, một số khoảng mƣời ngƣời đƣợc gửi đi
nƣớc ngoài. Ai cũng lo khó mà theo học đƣợc, nhƣng thực
tế họ đã vƣợt lên, và nhiều ngƣời đạt thành tích cao. Đó là
nhờ truyền thống cần cù, tinh thần khát khao vƣơn lên, nhất
là đã quen với phƣơng pháp tự học của ngƣời học sinh
kháng chiến.
Năm học 1955 có nhiều thay đổi về lãnh đạo trƣờng.
Thầy Nguyễn Văn Thu đƣợc Bộ điều động đi viết sách giáo
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
105
khoa một thời gian(5)
, công việc Hiệu trƣởng trƣởng do thầy
Nguyễn Văn Hoàn đảm nhiệm theo quyết định của Bộ.
Sang học kỳ II, thầy Hoàn chuyển ngành sang công tác
nghiên cứu Văn học, Ty Giáo dục Thái Nguyên chỉ định
thầy Chu Thế Kỳ phụ trách trƣờng. Sau đó thầy Kỳ có
quyết định chính thức cử làm Hiệu trƣởng.
***
Ngay từ khi chƣa phụ trách chung, thầy Chu Thế Kỳ đã
trực tiếp giúp thầy Hiệu trƣởng Nguyễn Văn Thu lo việc
tìm địa điểm mới và xây dựng trƣờng sở. Địa điểm không
hiểm trở, phải đủ không gian để đáp ứng yêu cầu về phòng
học, văn phòng, phòng thí nghiệm, nhà tập thể giáo viên,
ký túc xá học sinh nội trú, hội trƣờng, sân tập trung, sân bãi
thể thao v.v… Thầy Kỳ cùng các cộng sự đã bỏ nhiều công
sức.
“Sau nhiều buổi leo đồi lội suối nhễ nhại mồ hôi khảo sát
các vùng quanh thị xã, và sau nhiều lần trình báo, xét
duyệt, Khu tự trị Việt Bắc và tỉnh Thái Nguyên quyết định
cho trường được xây dựng tại địa điểm hiện nay mà lúc đó
chỉ là 3 quả đồi bát úp, lơ thơ sim, mua, cỏ dại và đây đó
lác đác vài cái mả nên nhiều thầy cũng sợ. Trường quyết
định ưu tiên dành quả đồi thấp cạnh con đường đất Kep-Le
và cạnh con đường mòn vào xóm Cầu Tre làm nơi dựng
các lớp học, Lúc đầu các lớp học đều làm bằng tranh, tre,
nứa, lá, nhưng làm chắc chắn, rộng rãi, thoáng đãng, cửa
sổ chấn song đều có cánh phên, xung quanh lớp có hiên .............................................................................................................. (5)
Hoàn thành công việc viết sách GK, 1956 thầy Nguyễn Văn Thu
trở lại trƣờng giảng dạy. Khoảng cuối học kỳ, thầy chuyển về Hà Nội
làm chuyên viên (sau làm giám đốc) thƣ viện Khoa học Nhà nƣớc.
Đƣợc hợp lý hóa gia đình (vợ, con đã chuyển từ Phú Thọ về), thầy có
điều kiện thuận lợi hơn để chăm sóc sức khỏe (chữa chứng đau đầu,
“vừa vất vả vừa đầu nhức” nhƣ thầy vẫn nói).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
106
rộng, lan can bao quanh. Văn phòng trường làm ở dưới
chân đồi…
…Hầu hết các thầy, cô giáo là người ở vùng xuôi, không
có gia đình ở thị xã Thái Nguyên. Khu tập thể giáo viên,
công nhân viên đầu tiên bằng tranh, tre, nứa, lá được xây
dựng ở quả đồi bên cạnh đồi lớp học… Nhiều người, nhất
là các cô rất e ngại ở trên đám “tha ma, mộ địa”.
…Khu tập thể học sinh cũng hình thành vì hồi bấy giờ
trường được giao nhiệm vụ tiếp nhận và nuôi dạy một số
học sinh miền Nam tập kết và vượt tuyến(6)
mà con số lúc
cao điểm là 75 người. Về sau lại cố gắng kết hợp tổ chức
nội trú cho học sinh cấp 3 miền núi ở các tỉnh trong Khu tự
trị như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn về học…” (Chu Thế Kỳ - “Một thời để nhớ” tập 2, Ban liên lạc cựu
học sinh trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến Thái Nguyên xuất bản
2005, tr. 28, 29).
“Trên đồi hoang vắng có một túp lều của hai bà cháu.
Cạnh túp lều có một cây mận. Túp lều dời đi nhưng cây
mận được giữ lại. Khi trường vừa dựng xong thì cũng là
lúc cây mận nở những bông hoa đầu tiên. Bà cụ đã ở trong
túp lều trước đó kể lại rằng bà đã trông đợi bao nhiêu năm
mà cây mận vẫn chưa ra hoa. Đến nay, trường vừa xây
dựng xong thì mới thấy những bông hoa đầu tiên đó. Thật
là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hàm chứa một tứ thơ rất
hay, tôi đã dựa vào tứ thơ đó để soạn ra bài “Cây mận nở
hoa”. Bài hát chỉ đơn giản kể lại câu chuyện về sự hòa hợp ................................................................................................................
(6) Học sinh miền Nam dƣới chế độ Ngô Đình Diệm không chấp nhận
hiện trạng nên đấu tranh đòi đƣợc ra miền Bắc. Chính quyền miền
Nam buộc phải chấp thuận theo điều khoản quy định trong Hiệp định
Giơ-ne-vơ. Học sinh vƣợt tuyến học ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đều
là nam giới, ngƣời Sài Gòn.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
107
giữa trời đất và con người hướng về một tương lai tốt
đẹp…” (Nguyễn Đình Khâm – Sđd tr.36,37).
(6a)
Năm học 1956 – 1957 khai giảng ở ngôi trƣờng mới,
phong quang, bề thế, khang trang. Trƣờng đƣợc sự quan
tâm rất lớn của tỉnh và Khu tự trị Việt Bắc, đƣợc giúp đỡ
kịp thời và trong giới hạn cao nhất mỗi khi trƣờng đề đạt
yêu cầu. Ty giáo dục luôn đi sát chỉ đạo về mọi mặt. Khu
Đoàn thanh niên, tỉnh Đoàn thanh niên coi trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến là cơ sở có phong trào nhạy bén, sôi nổi mạnh
mẽ nhất, là nơi chỉ đạo thí điểm điển hình các chủ trƣơng
lớn. Năm 1956, thầy Lƣơng Vĩnh Khang bí thƣ chi đoàn
thanh niên giáo viên đƣợc bầu vào Ban chấp hành tỉnh đoàn
Thái Nguyên (lúc này đồng chí Nguyễn Tiên Phong làm bí
thƣ). Đây cũng là thời gian trƣờng cấp II – III Lƣơng Ngọc
Quyến thực sự xây dựng về mọi mặt, từ bộ máy lãnh đạo,
cơ sở Đảng, biên chế giáo viên, công nhân viên, các tổ
chức, đoàn thể của thầy, của trò…
Việc xây dựng các tổ chức Hiệu đoàn và chi đoàn trong
học sinh đƣợc nhà trƣờng và tổ chức cơ sở Đảng quan tâm
đặc biệt. Dựa vào sự điều tra khảo sát nhiều nguồn, trƣờng
và đoàn thể chỉ định một hệ thống cán bộ lâm thời. Khoảng
1 tháng sau tiến hành dần các đại hội từ lớp đến trƣờng.
Không khí đại hội rất rầm rộ, sôi nổi, nhất là trong dịp bầu
Ban chấp hành Hiệu đoàn. Làm sao bầu đƣợc những ngƣời
đại diện xứng đáng cho nhiều thành phần học sinh, khả dĩ
không thua kém lắm so với lớp cán bộ Hiệu đoàn và chi
đoàn rất giỏi về mọi mặt, chững chạc về tƣ thế, gƣơng mẫu, .............................................................................................................. (6a)
Do quy hoạch xây dựng mới, cây mận không giữ đƣợc. Năm 2005,
Hội cựu HS LNQ ở Hà Nội đã trồng lại đƣợc “CÂY MẬN HUYỀN
THOẠI” này kịp đón mừng mùa xuân 2006, kỷ niệm 60 năm thành
lập trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
108
chuẩn mực về đạo đức tƣ cách – họ vừa tốt nghiệp ra
trƣờng cuối năm trƣớc(7)
? Qua những cuộc hội họp tuyên
truyền vận động bằng nhiều hình thức cuối cùng các đại hội
lần lƣợt diễn ra và thu đƣợc kết quả tốt.
Tất cả dần đi vào ổn định, hoạt động nền nếp, có chiều
sâu chất lƣợng, bắt đầu từ năm học thứ nhất thực hiện
chƣơng trình cải cách giáo dục (8)
.
Bƣớc đầu tiên chuẩn bị thực hiện cải cách giáo dục lần
thứ hai (1956) là các trƣờng học thêm một học kỳ chuyển
tiếp, coi nhƣ học kỳ III của năm học kéo dài 1955 – 1956,
để từ đó biên chế năm học trở lại nhƣ trƣớc 1952 (tức
không đồng nhất với năm tài chính dƣơng lịch). Trong học
kỳ này, các lớp sẽ học bổ sung một số kiến thức mà chƣơng
trình phổ thông 9 năm không có. Ngoài ra về căn bản quy
chế giáo dục vẫn nhƣ trƣớc. Cuối học kỳ các lớp đã tổ chức
thi tiến ích môn học do giáo viên bộ môn phụ trách. Hết
cấp II không có kỳ thi tốt nghiệp, học sinh đủ điểm đƣợc
lên thẳng lớp 8 của trƣờng.
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
ngành giáo dục đứng trƣớc tình hình có hai hệ thống nhà
trƣờng cùng tồn tại, mỗi hệ thống đều có những ƣu điểm,
nhƣợc điểm riêng, cần xử trí một cách hợp lý khi tiến hành
thống nhất lại (theo tinh thần nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng lần thứ 7 khóa 11, 3 – 1955). Lý do quan trọng tất .............................................................................................................. (7)
Nhƣ các anh Kiều Tuân, Chử Văn Tần, Nguyễn Đậu, Nguyễn Nha,
Trần Quán Anh; đảng viên Bàng Minh Châu, v.v…Sau này họ đều
phấn đấu học tập để có trình độ tri thức cao, giữ cƣơng vị công tác
tƣơng xứng và có đóng góp đáng kể. (8)
Đề án cải cách giáo dục đƣợc Chính phủ nƣớc VNDCCD thông qua
tháng 5 – 1956, triển khai thực hiện từ năm học 1956 – 1957 trở đi và
kết thúc vào khoảng 1960.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
109
yếu nữa của cuộc cải cách này là nhiệm vụ cách mạng đã
thay đổi. Cho nên cuộc CCGD (cải cách giáo dục) 1956
vừa mang tính cải cách thực sự, vừa bao gồm những điều
chỉnh có tính chất cải tiến.
Sau khi nghiên cứu (kể cả có tham khảo nền giáo dục
Liên Xô), đề án cải cách giáo dục đƣa ra mô hình trƣờng
phổ thông 10 năm thay cho loại hình trƣờng phổ thông 9
năm ở vùng tự do và trƣờng phổ thông 12 năm vùng tạm
chiếm cũ. Hệ thống 12 năm còn mang nhiều tàn tích giáo
dục thực dân. Hệ thống 9 năm thì kiến thức quá thấp, thiếu
cập nhật hiện đại, thiếu những môn cân thiết nhƣ ngoại
ngữ, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mĩ. Cấu tạo
chƣơng trình chƣa hợp lý lắm nhất là về mặt sƣ phạm.
Cấu trúc hệ thống 10 năm nhƣ sau:
* Vỡ lòng = 1 năm
* Cấp I = 4 năm
* Cấp II = 3 năm
* Cấp III = 3 năm
Cuối cấp I và cấp II học sinh phải thi hết cấp, cuối cấp III
thi tốt nghiệp phổ thông. Số tuần thực học từ 33 đến 35
tuần; số tiết học ở cấp II, III mỗi tuần là 29 – 30 tiết.
Chƣơng trình học đƣợc thiết kế theo quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, nhằm từng bƣớc bồi dƣỡng
cho học sinh thế giới quan khoa học và nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa, và quán triệt nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Chính phủ trong giai đoạn cách mạng mới.
Nội dung chƣơng trình mang tính toàn diện bao gồm bốn
mặt giáo dục: Đức, Trí, Thể, Mỹ. Phân tích mối quan hệ
giữa bốn mặt giáo dục này, Đại hội giáo dục phổ thông
toàn quốc họp tháng 3 – 1956 đã xác định: “Trí dục là cơ
sở”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
110
Công tác biên soạn sách giáo khoa đã đƣợc tiến hành
khẩn trƣơng, và thƣờng xuyên đƣợc bổ sung, chỉnh lý.
Đối với trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, việc triển khai cải
cách giáo dục không gặp những vấn đề phức tạp (nhƣ với
các trƣờng cũ ở vùng mới giải phóng). Vẫn là quan điểm tƣ
tƣởng cơ bản: giáo dục phục vụ chính trị, kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với
hành, kết hợp giáo dục nhà trƣờng với giáo dục gia đình và
hoạt động xã hội.
Những “điều chỉnh” lớn về nhiệm vụ chính trị và mục
tiêu giáo dục là tất yếu căn cứ trên hai nhiệm vụ chiến lƣợc
mà Đảng đề ra cho miền Bắc(9)
. Cụ thể là:
- Giáo dục có nhiệm vụ phục vụ đắc lực công cuộc
xây dựng miền Bắc vững mạnh, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà
(“Điều chỉnh” lớn so với nhiệm vụ mà Cải cách giáo
dục lần I, 1950 đề ra);
- Mục tiêu giáo dục: Đào tạo, bồi dƣỡng thế hệ trẻ
thành những ngƣời phát triển về mọi mặt, những
công dân trung thành, những ngƣời lao động tốt, có
tài, có đức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến lƣợc
của cách mạng nƣớc ta.
Là một nhà trƣờng sinh ra và trƣởng thành trong cách
mạng, trƣờng trải qua quá trình đấu tranh để xác định
nguyên lý, phƣơng châm giáo dục mới, loại trừ quan
niệm mơ hồ phi chính trị, phi giai cấp của giáo dục, đến
nay vấn đề quán triệt quan điểm tƣ tƣởng của cải cách giáo .............................................................................................................
(9) Đó là:
- Xây dựng miền Bắc thành hậu phƣơng lớn hậu thuẫn cho miền Nam
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,
- Chuẩn bị từng bƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
111
dục nói chung không xa lạ. Một số ít giáo viên mới vào
nghề trên nền giáo dục phổ thông vùng mới giải phóng,
khi đến trƣờng đƣợc sinh hoạt trong các tổ chuyên môn
gồm những đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm ở trƣờng
kháng chiến nên nhanh chóng bắt kịp yêu cầu, nhất là ý
thức và thao tác giáo dục tƣ tƣởng qua môn học, bài học,
cũng nhƣ khai thác, tận dụng cơ hội vận dụng tri thức khoa
học vào thực tiễn một cách hợp lý.
Tuy nhiên những năm đó tình hình trong nƣớc và thế giới có
những vấn đề phức tạp tác động xấu đến uy tín của Đảng ta và
chế độ XHCN ở các nƣớc bạn. Cụ thể là:
- Những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức, những va vấp trong cải tạo giai cấp tƣ sản thành
thị;
- Mất mùa, vỡ đê Mai Lâm;
- Không có hiệp thƣơng tổng tuyển cử sau 2 năm nhƣ
Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định (do Mỹ - Diệm phá hoại);
- Sự phá hoại, phản ứng của bọn phản động tay sai Mỹ -
Diệm còn lại ở miền Bắc;
- Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô công bố sai
lầm của lãnh tụ Stalin (tệ sùng bài cá nhân cùng những
hệ lụy) ; nêu vấn đề „quá độ hòa bình lên CNXH‟.
- Vụ Pô-zơ-nan (Ba Lan) và vụ chống đối ở Hunggari
(không muốn đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa)…
khiến một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ nƣớc ta (trong đó
có những phần tử lạc hậu phản động) tập hợp xung
quanh tờ báo “Nhân văn” và các tạp chí “Giai phẩm mùa
thu”, “Giai phẩm mùa xuân”, ở trƣờng đại học (Sƣ phạm
và Tổng hợp) có tờ “Đất mới”, tạo nên một trào lƣu
chống đối chế độ.
Do vậy ngành giáo dục và trong đó cả trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến không tránh khỏi những khó khăn nhất định.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
112
“Trào lƣu Nhân văn” tai hại hơn ở chỗ nó mở rộng nhân
sự chi phối nhiều cơ quan xuất bản, ngôn luận, truyền
thông, lũng đoạn dƣ luận, khiến cho không chỉ văn nghệ sĩ
mà cả giới trí thức, sinh viên, học sinh và nhân dân bị ảnh
hƣởng tiêu cực. Ngoại trừ một số sách báo có dụng ý chống
đối chính trị rõ ràng mà chúng ta dễ nhận biết và gạt bỏ,
còn rất nhiều sách báo, phim ảnh, tác phẩm văn nghệ trên
đài phát thanh… chứa đựng nội dung suy đồi, duy tâm thần
bí, gieo rắc tƣ tƣởng bi quan yếm thế, lãng mạn mộng mơ,
chủ nghĩa hƣởng thụ cá nhân ích kỷ…
Trong bối cảnh ấy, trƣờng cấp II – III Lƣơng Ngọc
Quyến, nhƣ một mảnh gƣơng, không quá lớn, nhƣng cũng
rất nhạy cảm để phản ánh ít nhiều dáng nét thời cuộc (10)
.
Thực ra không phải tất cả những biểu hiện đó đều là
xấu, mà chủ yếu chỉ vì xuất hiện vào thời điểm không thích
hợp. Trong giai đoạn đấu tranh phức tạp, cần tập trung tinh
lực cho hai nhiệm vụ chiến lƣợc của cách mạng thì bọn họ
lại gây tác động ngƣợc lại.
Giữa lúc đất nƣớc chia cắt đau thƣơng, nhân dân lao
động vất vả, thiếu đói, họ lại say sƣa với những khuynh
hƣớng tƣ tƣởng tình cảm xa lạ.
.............................................................................................................
(10) – Ví nhƣ khi ngoài rạp chiếu phim “Tiếng hát trái tim” (của nƣớc
ngoài) khá “ƣớt át tình cảm”, thì mấy hôm sau bài hát chính trong
phim vang lên rất thích thú đây đó trong trƣờng, và tờ báo tƣờng của
một lớp đã ngang nhiên lấy tên là “Tiếng hát trái tim” với hình vẽ
minh họa rất gợi cảm.
- Những sáng tác văn, thơ nghiệp dƣ của học sinh trên báo tƣờng,
hoặc đóng thành tập (chép tay) cũng xoay quanh những chủ đề tƣơng
tự nhƣ thấy ngoài xã hội: “Đêm”, “Trai gái yêu nhau”, “Mối tình đầu”
…
- Có sáng tác (bản thảo) nhìn xã hội bằng con mắt đen tối…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
113
Tất cả những biểu hiện của tình hình trên đều bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa là cách mạng nƣớc ta đã chuyển giai
đoạn, mục tiêu, đối tƣợng, nội dung, tính chất, phƣơng
pháp đấu tranh đã thay đổi. Những thế lực chống đối cần
loại trừ. Những gì chƣa thích nghi cần cải tạo, giáo dục.
Hàng ngũ cách mạng cần xốc lại nghiêm chỉnh. Vì vậy Bộ
chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ thị phải xử trí vụ
Nhân văn – Giai phẩm một cách triệt để, đồng thời tiến
hành những đợt giáo dục chính trị sâu rộng trong toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân, đặc biệt là tầng lớp văn nghệ sĩ,
trí thức các ngành có liên quan. Cuộc đấu tranh phê phán
tiến hành từ cuối 1956 đến cuối 1957 đã thu đƣợc kết quả
bƣớc đầu, tiếp tục và căn bản kết thúc thắng lợi vào năm
1958.
***
II. Trong ngành giáo dục, cuộc đấu tranh tƣ tƣởng diễn
ra trong khuôn khổ cuộc vận động xây dựng nhà trƣờng xã
hội chủ nghĩa (từ năm học 1958 - 1959). Hè 1958, Bộ tổ
chức lớp học chính trị tập trung cho 3200 giáo viên cấp II
và cấp III toàn miền Bắc tại Hà Nội, tài liệu học tập là:
“Phấn đấu xây dựng nhà trƣờng XHCN” (NXB Giáo dục
1958), nhằm xác định dứt khoát lập trƣờng tin theo Đảng
Lao động Việt Nam, con đƣờng tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, nhà trƣờng phải là công cụ của chuyên chính vô
sản phục vụ cho cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Lớp học
mang tính chất chỉnh huấn, một cuộc đấu tranh tƣ tƣởng
thực sự.
Tham dự lớp học hè 1958, giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến
đã liên hệ phân tích tình hình thực tế của trƣờng mình trong
những năm qua dƣới ánh sáng tƣ tƣởng chính trị và quan
điểm giáo dục đã xác định. Tuy không có sai lầm nghiêm
trọng, nhƣng mọi ngƣời đều nhận rõ những biểu hiện thiếu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
114
lành mạnh, lệch lạc đây đó trong một bộ phận thầy và trò,
phê phán mạnh, có lí có tình.
Từ năm học 1958 – 1959, cùng với toàn ngành giáo dục,
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã chuyển biến sâu sắc. Một
khí thế rầm rộ chƣa từng có, sôi động ở cƣờng độ cao, duy
trì suốt thời kỳ dài. Bồng bột trào sôi (1958 - 1960), định
hƣớng tập trung (1960 - 1964), đặc biệt bốc cao (1964 -
1972), tiếp tục nhiệt tình (1975 - 1980).
Biểu hiện rõ rệt nhất là khí thế đấu tranh cho công cuộc
thống nhất đất nƣớc, lúc này là hƣớng vào chủ đề nóng hổi:
tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm ở
miền Nam. Từ những vụ Hƣớng Điền, Duy Xuyên trả thù
hàng loạt ngƣời kháng chiến cũ, vụ tra tấn hành hạ tàn bạo
điển hình đối với chị Trần Thị Lý, đến đỉnh cao là vụ đầu
độc dã man thảm sát hơn 1000 tù nhân ở trại giam Phú Lợi.
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã phát động đấu tranh chính
trị dƣới nhiều hình thức. Mít tinh, biểu tình tuần hành trong
trƣờng và ngoài thị xã Thái Nguyên. Hát, đọc thơ (về từng
chủ đề cụ thể) trên Đài truyền thanh tỉnh. Treo băng d‟rôn,
biểu ngữ ở trƣờng, lớp, đính khẩu hiệu bƣớm trên vai áo,
mũ nón. Tất cả các lớp đều dùng tiết “thời sự văn học” để
giảng 2 bài thơ Tố Hữu: “Ngƣời con gái Việt Nam” (về chị
Trần Thị Lý) và “Thù muôn đời muôn kiếp không tan!” (về
Phú Lợi). Nhiều tiết giảng gây đƣợc hiệu quả cao trong
việc truyền cảm xúc đau thƣơng sâu và ý chí căm thù
mạnh, nhất là với anh chị em học sinh miền Nam. Toàn
trƣờng luôn xúc động hƣớng về miền Nam, day dứt về tình
trạng cắt chia đất nƣớc vì tội ác của Mỹ Diệm ngày càng
gia tăng từ khi luật 10/59 ra đời. Nhà trƣờng đã thực sự
quán triệt nhiệm vụ chính trị cơ bản của cách mạng trong
giáo dục nội khóa và ngoại khóa theo tinh thần các chỉ thị
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
115
của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng (số 125 CT/TW ngày 30
– 1 - 1959) và của Bộ giáo dục.
Biểu hiện lớn thứ hai trong cuộc vận động xây dựng nhà
trƣờng XHCN ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến là cao trào
thực hiện một nội dung của nguyên lý giáo dục: học tập kết
hợp với lao động sản xuất. Đã có sự thông suốt từ các cấp
lãnh đạo Đảng, nhà nƣớc, ngành giáo dục đến cơ sở trƣờng
đối với vấn đề này. Đó là nhận thức sáng tỏ và niềm tin dứt
khoát rằng, đây là hạt nhân cơ bản của toàn bộ nguyên lý
giáo dục. Học tập kết hợp với lao động sản xuất là phƣơng
pháp duy nhất để hình thành con ngƣời toàn diện (theo tinh
thần ý kiến của K. Mác). Chính vì vậy nên việc đƣa lao
động vào trƣờng cấp II, cấp III đã trở thành phong trào
rộng khắp toàn miền Bắc với khí thế rầm rộ. Với trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, cao trào lao động, sản xuất vừa có
chiều sâu, vừa có bề nổi, vừa đƣợc duy trì dài lâu. Từ chủ
trƣơng chung của lãnh đạo nhà trƣờng, triển khai qua tổ
chức phân công xác định chức năng phụ trách, qua hệ
thống giáo viên chủ nghiệm, phối hợp nhịp nhàng với tổ
chức Hiệu đoàn, chi đoàn học sinh... Có thể xem nhƣ một
phong trào quần chúng đƣợc phát động, khơi dậy mọi khả
năng tiềm tàng của thầy và trò trong trƣờng. Tinh thần làm
chủ đƣợc đánh thức, bao nhiêu nghĩ suy trăn trở ngày đêm,
bao nhiêu sáng kiến bùng nổ, bao nhiêu việc làm âm thầm
bền bỉ hoặc táo bạo đột xuất đem lại những kết quả bất ngờ
làm nức lòng thầy trò và niềm phấn khởi ngỡ ngàng của xã
hội!
Về tổ chức, năm 1958 thầy Hiệu trƣởng Nguyễn Đình
Khâm đi học nƣớc ngoài, thầy Hiệu phó Lƣơng Vĩnh
Khang phụ trách thay đã liên hệ chặt chẽ, đúng nguyên tắc
với các tổ chức Đảng (do đồng chí Bùi Đình Khoát làm tổ
trƣởng), Công đoàn (do thầy Nguyễn Nhƣ Ất làm thƣ ký)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
116
để điều hành mọi công việc. Nhận thức rõ tầm quan trọng
của công tác lao động, lãnh đạo trƣờng đã phân công thầy
Vũ Đình Liên làm giáo viên chủ nhiệm lớp 10C thay thầy
Trịnh Văn Vải chuyển sang phụ trách lao động. Thầy Vải
đã chỉ huy bao quát và sâu sát hoạt động lao động ở quy mô
trƣờng cũng nhƣ từng đơn vị lớp.
Hàng tuần các lớp đều có buổi lao động xây dựng trƣờng
sở. Theo quy hoạch nội tại, trƣờng phải tự làm đƣờng đi
rộng rãi, ngay ngắn, hợp lý, phải tạo sân vận động rộng lớn
đủ kích thƣớc sân bóng đá bằng phẳng (sân vận động của
trƣờng chính là địa điểm bến ô tô Thái Nguyên hiện nay),
phải trồng cây hai bên đƣờng mới, quanh lớp học, xen với
ô đất trồng hoa... Tất cả đều do công sức, mồ hôi của thầy
và trò suốt mấy năm liền từ ngày trƣờng chuyển về địa
điểm này. Rất vất vả nhƣng học sinh lao động trong không
khí hội hè. Ngày hoàn thành một đợt lao động dài chẳng
khác ngày đại lễ hội: 2 đoàn học sinh ở hai bờ đất do thầy
Hiệu trƣởng và thầy trƣởng ban lao động dẫn đầu, trống
giong cờ mở, cả nghìn ngƣời reo hò ùa ra vùng đất đồi mới
đƣợc san bằng hòa vào nhau tƣợng trƣng Nam – Bắc đã nối
liền.
Trƣớc năm học 1958 – 1959, trƣờng mới dựa vào lợi thế
gần vùng đồi hoang nên tiến hành lao động sản xuất nông
nghiệp theo đặc điểm trung du là vỡ đất trồng sắn, trồng
dứa. Nay hoạt động lao động có bƣớc nhảy vọt với rất
nhiều hình thức phong phú, đạt hiệu quả kinh tế nhất định,
và chủ yếu mang ý nghĩa giáo dục – đào tạo. Sẵn trình độ
tri thức sinh học, thầy Nguyễn Nhƣ Ất cùng với một số
thầy giáo và học sinh nghiên cứu làm ruộng thí nghiệm cao
sản ở Đồng Quang. Biện pháp kỹ thuật lúc đó là cấy dày
5x5x20cm, thẳng hàng theo hƣớng đông – tây (gọi là “song
long quá hải” – đôi rồng qua biển). Kỹ thuật này đƣợc nông
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
117
dân xã Đồng Quang học tập và áp dụng. Gặp trời hạn,
trƣờng huy động gần nhƣ toàn thể học sinh gánh nƣớc từ
sông Cầu đổ vào ruộng tƣới lúa (quãng đƣờng phải vƣợt
chừng 3km), mệt nhọc mà rất vui. Nhân dân thán phục
trƣớc một việc chƣa từng thấy bao giờ! Trời đông rét mƣớt,
các thầy giáo cùng học sinh vẫn xắn quần lội ruộng, xắn tay
áo bón phân cho mạ. Thầy Ất hƣớng dẫn một nhóm phụ
trách trồng, chăm sóc cây trong vƣờn trƣờng. Có đủ loại
cây đại diện các họ, các chủng loại. Cũng thực hành chiết,
ghép, thực nghiệm khoa học (lúc đó đang thịnh hành lý
thuyết Lwssenco và kinh nghiệm Mitsurin). Thầy Hồ Đình
Đăng dạy Địa lý đã hƣớng dẫn học sinh lao động xây dựng
vƣờn địa lý, bao gồm những thiết bị chuyên dùng và tự tạo.
Hàng ngày thầy trò làm việc ở vƣờn: quan sát mây, hƣớng
gió, đo tốc độ gió, đo độ ẩm không khí... rất hào hứng.
Học sinh khối cấp III còn đi lao động ở mỏ than Quán
Triều và mỏ than Làng Cẩm. Tuy chỉ tham gia trực tiếp vào
những công việc chân tay giản đơn nhƣ “bóc” đất đá tầng
trên, hoặc khai thác than lộ thiên, nhƣng cơ hội thâm nhập
vùng mở, gần gũi ngƣời công nhân mỏ đã đem lại cho học
sinh những bài học tƣ tƣởng, tình cảm mới mẻ.
Hàng năm vào vụ gặt mùa, trƣờng đƣa học sinh đến giúp
dân các xã thu hoạch lúa. Đồng bào vùng huyện Phú Lƣơng
hồi đó trồng nhiều nƣơng sắn. Thời vụ đến cần thu hoạch
gấp, nếu để quá thời gian củ sắn sẽ cho ít bột. Thế là trƣờng
lại đƣợc huy động đi gúp đồng bào xã Cổ Lũng cả tuần lễ.
Đƣợc sự chỉ đạo và giúp đỡ của đồng chí Bí thƣ tỉnh ủy
Phan Văn Tỉnh, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã kết nghĩa
với trƣờng dạy nghề quân đội 382. Từ đó, một số lớp học
sinh hàng tuần đến học các nghề gò, hàn, nguội, tiện, cơ
khí, điện... Nhiều học sinh rất ham mê và đã rèn luyện đƣợc
tay nghề bƣớc đầu, về dạy lại cho các bạn ở trƣờng và tự
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
118
làm đƣợc một số việc có ý nghĩa. Đồng chí Bí thƣ tỉnh ủy
cũng giúp đỡ việc thành lập một xƣởng trƣờng với những
thiết bị thủ công thông thƣờng làm cơ sở giáo dục lao động
cho học sinh, lại cấp cho một chiếc xe Jeep (ô tô chiến lợi
phẩm) cũ để học về máy nổ. (Thầy dạy Hóa Phạm Khang
cùng mấy học sinh miền Nam đã tu sửa cho chạy thử trong
khu vực trƣờng rồi cao hứng chạy thẳng ra thị xã lƣợn một
vòng qua mấy phố reo hò phấn khích!) Có thể nói chính
đồng chí Phan Văn Tỉnh là ngƣời lãnh đạo Đảng cao nhất
tỉnh đã quan tâm rất sâu sắc và chỉ đạo sát sao vấn đề thực
hiện đƣờng lối giáo dục của Đảng trong nhà trƣờng. Có
những việc làm chủ động của các lớp rất đáng ghi nhận,
một khi đƣờng lối xây dựng nhà trƣờng XHCN đã thấm
nhuần, biến thành ý chí của thầy trò.
Lớp 10A (1958 - 1959), do thầy Lê Văn Bài làm chủ
nhiệm, thầy rất nhiệt tình, khơi dậy và khuyến khích mọi
sáng kiến cá nhân, tạo điều kiện để thực hiện đến cùng
những việc làm hay. Sáng kiến táo bạo mà anh Lê Công
Thanh đề xuất trƣớc phân đoàn Thanh niên Lao động là
làm một lò đúc gang. Trong lớp không có ai hay biết gì về
công việc, không hình dung đƣợc cái lò ấy ra sao. Bàn bạc
sôi nổi trong khí thế tiến công, cuối cùng phân đoàn thanh
niên 10A quyết định làm. Lê Công Thanh xung phong đảm
trách. Anh loay hoay vẽ bản thiết kế, sùng sục lao đi tìm
ngƣời tƣ vấn. Rồi tự tay chế tạo các bộ phận của bễ thổi lửa
bằng cánh quạt quay tay. Có nhiều việc phân đoàn cử đoàn
viên cùng anh Thanh đến xƣởng cơ khi quân đội xin vật
liệu và nhờ máy móc, dụng cụ của xƣởng, nhờ cán bộ kỹ
thuật và công nhân hƣớng dẫn làm. Cuối cùng một lò đúc
thủ công rất nhỏ nhƣ một mô hình giáo cụ trực quan ra đời
và hoạt động ngay trong khuôn viên trƣờng. Cũng có đủ: lò
nấu gang, bễ thổi lửa, khuôn cát, gang vụn, than cốc... Tuy
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
119
vậy còn rất nhiều khó khăn. Mất nhiều ngày vất vả với 3, 4
lần thất bại. Cả trƣờng động viên. Tổ đảng của trƣờng quan
tâm, đến tận nơi chỉ đạo, khích lệ. Không ai nản lòng, tất cả
hạ quyết tâm: đúc thành công một lƣỡi cày trƣớc khi nghỉ,
nếu cần ở lại ăn tết ngay bên lò đúc! Kiên trì tham khảo sự
hƣớng dẫn kỹ thuật của cán bộ chuyên môn, mẻ đúc thứ 5
đã thành công nhƣ ý! Sau 3 ngày đêm liên tục thay nhau
quay bễ, thao tác nấu gang, đổ khuôn... chiếc lƣỡi cày 51
hiện ra trong tiếng reo vui đến nổ trời của tập thể lớp 10A!
Lớp 10B, thầy chủ nhiệm Hoàng Mạnh Kha cùng học
sinh xây dựng một lò rèn thủ công, cũng làm đƣợc những
dụng cụ lao động đơn giản. Lớp 10C với sự hƣớng dẫn trực
tiếp của thầy phụ trách lao động toàn trƣờng Trịnh Văn Vải
đã xây lò thủ công cải tiến và luyện than cốc thành công.
Nhƣ vậy là toàn khối lớp 10 anh cả của trƣờng đã hăng hái
đi đầu phong trào học kết hợp với lao động sản xuất.
Các lớp khác tùy theo điều kiện mà tổ chức những hoạt
động sản xuất riêng. Khối cấp II hƣớng vào việc làm phân
bón từ rác thải hoặc phân đất hun để trồng khoai, sắn. Học
sinh lớp 9C đọc báo hay tin Trung Quốc làm bơm nƣớc
chạy bằng sức gió, liên hệ đến cảnh toàn trƣờng gánh nƣớc
sông Cầu tƣới ruộng, bèn đề xuất với thầy giáo chủ nhiệm
Phạm Khang cho chế tạo máy bơm nƣớc nhƣ thế. Nhân
chuyến tham quan xƣởng quân giới, các anh xin hai chiếc
vỏ đạn đại bác và một số ống thép về chế tạo kiểu bơm hai
xi-lanh, có hệ thống van, có cần đẩy tay, cánh quạt gió...
Đem chạy thử bơm nƣớc vào ruộng thí nghiệm, cánh quạt
gió quay, nhƣng nƣớc không lên. Nhờ một đồng chí ở
xƣởng quân giới góp ý, các anh đã chỉnh lại. Đây cũng là
sản phẩm của óc sáng tạo đầy tính lãng mạn, của lòng kiên
nhẫn trong lớp học sinh say mê, tin tƣởng hƣớng vào sự
nghiệp xây dựng nhà trƣờng XHCN.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
120
Nhìn chung trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến từ năm học 1958
– 1959 có bƣớc chuyển đột biến trong việc thực hiện
nguyên lý, phƣơng châm giáo dục mà hạt nhât cơ bản là kết
hợp học tập với lao động sản xuất. Hiệu quả giáo dục là rất
lớn, đã tạo đƣợc niềm tin trong nhận thức, tinh thần quý
trọng và làm quen với một số kỹ năng lao động chân tay, có
vận dụng tri thức đã học về các mặt nông nghiệp, công
nghiệp thông thƣờng. Họ nhận rõ lao động có ý nghĩa cơ
bản trong việc bồi dƣỡng, đào tạo con ngƣời mới XHCN.
Tuy nhiên chúng ta đã không tránh khỏi những sai lầm,
hạn chế (có tính lịch sử). Quan niệm về nguyên lý giáo dục
có phần cực đoan, cƣờng điệu, và thực hiện lại giáo điều,
đơn giản hóa, áp dụng đồng loạt ... nhất là việc học tập kinh
nghiệm các nƣớc xã hội chủ nghĩa (gần nhất là phong trào
“cần, công, kiệm, học” của Trung Quốc) một cách máy
móc. Thực tế là ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến nhiều khi
hoạt động lao động lấn át hoạt động dạy và học (cả về thời
gian, cƣờng độ và khí thế. Lắm khi học sinh vắng mặt giờ
lên lớp chính khóa tới ¼ số lƣợng, và dùng tất cả thời gian
ban ngày còn lại để lao động). Muốn đảm bảo chất lƣợng
trí dục, thầy trò chỉ còn cách tăng cƣờng độ dạy và học, lấn
thời gian nghỉ đêm... một cách không bình thƣờng đối với
nền nếp hoạt động nhà trƣờng. Nhiều loại hình lao động
không nằm trong nội dung của nguyên lý giáo dục đã bị
lạm dụng tràn lan. Đây là tình trạng chung của hầu hết các
trƣờng cấp II – III toàn miền Bắc, trƣờng càng lớn, phong
trào càng mạnh thì sự lệch lạc, mất cân đối giữa các mặt
giáo dục càng rõ. (Ví nhƣ trƣờng phổ thông cấp III A Hà
Nội đã trao tặng trƣờng kết nghĩa Lƣơng Ngọc Quyến một
chiếc nồi nhôm đúc từ xƣởng trƣờng. Anh Hiệu đoàn
trƣởng báo cáo trong buổi giao lƣu: tất cả học sinh đều
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
121
trồng trọt tại gia đình, nhà ở phố thì treo đất lên trong
thùng, trong chậu mà trồng rau).
Chính vì vậy, sang năm học 1959 – 1960, Bộ Giáo dục
đã chỉ đạo các trƣờng điều chỉnh theo thông tƣ ngày 6-8-
1959: Hợp lý hóa công tác giáo dục lao động, đặt vấn đề
lao động theo hƣớng giáo dục kỹ thuật tổng hợp, khắc phục
khuynh hƣớng chỉ thấy lợi ích kinh tế; Điều hòa các mặt
học tập, lao động, sinh hoạt và công tác trong nhà trƣờng
(ngoài 25 tiết lên lớp chính khóa, mỗi tuần chỉ có 1 buổi lao
động, 1 buổi hoạt động ngoại khóa, 1 buổi dạy bổ túc văn
hóa).
***
Từ cuối năm học 1958 – 1959, Bộ đầu tƣ cho trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến một ban lãnh đạo xứng tầm với một
đơn vị tiêu biểu của khu vực (trong chủ trƣơng chung tăng
cƣờng cho cơ sở những cán bộ nòng cốt). Thầy Nguyễn
Huy Ái về làm Hiệu trƣởng (tháng 3 - 1959), thầy Nguyễn
Quang Ân về làm Hiệu phó cùng thời gian này. Kế thừa
một di sản đang chuyển động tích cực, Ban giám hiệu mới
đã sáng suốt hƣớng các hoạt động đầy khí thế cách mạng
vào nền nếp hợp lý. Ban lãnh đạo mới của trƣờng đang ở
độ tuổi 30, rất hăng hái, năng động, và từng qua công tác
quản lý chuyên môn, từng tham gia cấp ủy trong công tác
Đảng. (Thầy Nguyễn Huy Ái có thời gian làm việc ở Khu
giáo dục Liên khu IV, Nha giáo dục phổ thông của Bộ, Phó
trƣởng ty giáo dục tỉnh Hà Tĩnh).
Việc rất quan trọng cần tiến hành ngay là xây dựng cơ sở
Đảng. Vấn đề xây dựng chi bộ Đảng ở các trƣờng phổ
thông, đặc biệt ở trƣờng cấp III đƣợc Trung ƣơng Đảng đặt
ra nhƣ một yêu cầu cấp bách. Hàng năm, các cấp tỉnh ủy,
huyện ủy vẫn chủ trì các hội nghị chuyên đề “chi bộ lãnh
đạo toàn diện trƣờng học”. Mấy năm qua các đảng viên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
122
giáo viên thuyên chuyển công tác hết, đảng viên học sinh
thì tốt nghiệp ra trƣờng, nên không đủ số lƣợng ổn định cho
một chi bộ. Bây giờ, trƣờng đã có 4 đảng viên, hai đồng chí
cũ: Bùi Đình Khoát – nhân viên văn phòng, Lam Điền – nữ
y tá miền Nam tập kết phụ trách trạm xá trƣờng, hai đồng
chí mới trong Ban giám hiệu. Đƣợc sự quan tâm của tổ
chức Đảng Ty giáo dục, đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp của
Tỉnh ủy Thái Nguyên, chi bộ Đảng trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến thành lập, bầu đồng chí Nguyễn Quang Ân làm bí
thƣ. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện trở lại
của tổ chức cơ sở Đảng, giữ vai trò lãnh đạo mọi mặt ở một
trƣờng lớn. Hƣớng tới kỷ niệm 30 năm đấu tranh của Đảng
Lao động Việt Nam, Trung ƣơng Đảng đề ra cuộc vận động
kết nạp đảng viên mới. Chi bộ trƣờng coi đây là nội dung
sinh hoạt chính trị trọng tâm, tích cực phát triển Đảng, đẩy
mạnh phong trào phấn đấu gia nhập Đảng đối với giáo viên
và học sinh.
Khác với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bây giờ số
học sinh từng tham gia công tác cách mạng đã hoặc sắp
đƣợc kết nạp Đảng trƣớc khi về trƣờng học tiếp là rất ít. Vì
vậy, cuộc vận động kết nạp đảng viên ở trƣờng phổ thông
kể cả đối tƣợng học sinh là một chủ trƣơng mạnh dạn, tạo
ra tinh thần, khí thế mới rất sôi nổi, phấn khởi. Chỉ một thời
gian ngắn, chi bộ đã phát triển nhanh chóng trong hàng ngũ
thầy và trò. Bên cạnh đảng viên mới là giáo viên trẻ ở độ
tuổi trên 20, có cả thầy giáo đã trên 40 tuổi, từng dạy học từ
trƣớc cách mạng tháng Tám 1945, gắn bó nhiều năm với
công tác giáo dục Thái Nguyên và Lƣơng Ngọc Quyến –
đồng chí Lại Đức Thông. Một số học sinh ƣu tú là cán bộ
Đoàn thanh niên, Hiệu đoàn học sinh đƣợc gia nhập Đảng
nhƣ các anh Nhâm Chấn Hƣng, Lê Tân Khoa, chị Nguyễn
Thị Phơn... và anh Phạm Quốc Chính (cán bộ chuyên trách
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
123
công tác Đoàn). Các đồng chí giáo viên môn chính trị đƣợc
phân công về trƣờng (theo tinh thần chỉ thị 125 CT/TW
ngày 30/1/1959 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng) cũng
làm cho chi bộ tăng thêm về số lƣợng và chất lƣợng.
Công tác Đoàn thanh niên Lao động đƣợc chú ý hơn. Từ
1958 về trƣớc, trƣờng có một chi đoàn giáo viên và một chi
đoàn học sinh (mấy năm đó anh Lại Đình Cƣơng làm bí
thƣ). Từ 1959, theo chủ trƣơng tăng cƣờng công tác Đoàn
trong trƣờng cấp III, Trung ƣơng Đoàn Thanh niên lao
động phối hợp với Bộ giáo dục tổ chức hệ thống cán bộ
Đoàn chuyên trách. Anh Lại Đình Cƣơng đƣợc lấy đi huấn
luyện để tham gia công tác này. Về trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến là anh Phạm Quốc Chính làm Bí thƣ Đoàn trƣờng –
gồm nhiều chi đoàn của các khối lớp (mỗi khối một chi
đoàn) và chi đoàn giáo viên.
Ngoài vai trò làm nòng cốt và phối hợp với Hiệu đoàn
trong công tác tự quản của học sinh, Đoàn thanh niên còn
giữ vai trò chính phụ trách Đội thiếu niên. Tinh thần chỉ thị
số 197 CT/TW ngày 19 – 3 – 1960 của Trung Ƣơng Đảng
và nghị quyết Hội nghị lần thứ V Trung Ƣơng Đoàn xác
định rõ vai trò chủ đạo của nhà trƣờng trong công tác giáo
dục thiếu niên, nhi đồng, đƣa công tác Đội vào trƣờng học,
biến Đội thành trƣờng học cộng sản chủ nghĩa của tuổi trẻ.
Ban chấp hành Đoàn trƣờng cử ra Ban phụ trách Đội thiếu
niên gồm các đoàn viên ở những lớp lớn có đạo đức, tƣ
tƣởng chính trị tốt, lại có năng khiếu văn nghệ thể thao.
Những năm đó Đội thiếu niên đã hoạt động sôi nổi, có nền
nếp trong phong trào “kế hoạch nhỏ”, tham gia công tác xã
hội, cùng những việc làm có ý nghĩa giáo dục tuổi trẻ. Đội
thiếu niên tạo đƣợc dấu ấn có màu sắc riêng đáng ghi nhận.
Đoàn TNLĐ thời kỳ này nêu cao khẩu hiệu: cống hiến
thật nhiều cho CNXH. Trung ƣơng Đoàn xây dựng và quản
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
124
lý một số cơ sở sản xuất mang danh hiệu riêng, một phần
vốn cơ bản huy động từ phong trào lao động XHCN của
thanh niên và thiếu niên. Hè 1959, Đoàn TNLĐ trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến tổ chức một đợt lao động XHCN lấy
tiền ủng hộ quỹ xây dựng nhà máy nhựa Tiền Phong (chủ
yếu sản xuất đồ dùng và đồ chơi phục vụ thiếu nhi). Lực
lƣợng tham gia là thanh thiếu niên học sinh từ lớp 6 đến lớp
9, tự nguyện dành một phần thời gian nghỉ hè đi lao động
không nhận thù lao riêng. Tất cả tổ chức thành một công
trƣờng, đơn vị lao động là các trung đội (khoảng 30 ngƣời
một), nòng cốt là những đoàn viên TNLĐ. Công việc là mở
một con đƣờng mới, nhằm phục vụ việc vận chuyển đá vôi
khai thác từ Núi Voi đến khu gang thép Thái Nguyên –
nguyên liệu cần cho yêu cầu sản xuất của khu công nghiệp
lớn nhất miền Bắc mới khởi công xây dựng trƣớc đó. Khi
đó khu vực này còn hoang vu, dân ở thƣa thớt. Các trung
đội dựng lán tranh, tre, nứa, lá để ở. Một số phân tán ở nhờ
nhà dân. Cơm tập thể thƣờng xuyên có rau muống, cá khô,
đôi khi có đậu phụ, thịt kho lấy nƣớc chấm rau là chính.
Nƣớc uống là nƣớc lá rừng – một thứ lá có mùi thơm tựa
mùi cơm nếp, hoặc lá vối tƣơi. Công việc đào đất, gánh đất,
san lấp mặt đƣờng... nặng nhọc giữa trời hè tháng 6 nắng
nhƣ đổ lửa. Các trung đội nhận mức giao khối lƣợng từng
ngày, thi đua hoàn thành vƣợt mức. Ai nấy đều tự giác làm
việc hết mình. Gian khổ nhất là mấy em nữ sinh Lào, từ bé
đƣợc nuôi ăn học ở trƣờng nội trú, không quen lao động
với cƣờng độ cao. Chỉ qua vài ngày gánh đất, đôi vai sƣng
tấy, trầy xƣớc bật máu, phải dùng thuốc đỏ sát trùng và áo
quần quấn vào đòn gánh lót vai. Nhƣng không ai kêu ca,
vẫn kiên nhẫn lao động hết đợt. Đoàn thanh niên lo tổ chức
cuộc sống tinh thần vui tƣơi lành mạnh. Một nền nếp trẻ
trung, có văn hóa đƣợc hình thành với “công trƣờng thanh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
125
niên học sinh”: sáng tập thể dục theo đội hình cố định,
chiều tan ca chơi thể thao, tối tập trung ca hát... Không ai
xin về giữa chừng, không ai nản chí phải nhờ đến tập thể
động viên. Không khí đoàn kết, thƣơng yêu nhau chân
thành, cởi mở biểu hiện rõ nhất trong những buổi tối sinh
hoạt tƣ tƣởng. Kết thúc đợt lao động là đêm liên hoan lửa
trại tƣng bừng, rộn ràng, phấn khởi.
Đoàn thanh niên trƣờng luôn làm nòng cốt trong phong
trào thi đua học tập tốt. Trung ƣơng Đoàn đề xƣớng cuộc
vận động xây dựng phong cách học tập mới, triển khai sâu
rộng đến các trƣờng phổ thông và đại học. Đoàn TNLĐ
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến sau khi lĩnh hội chủ trƣơng từ
cấp trên về mở hội nghị cán bộ Đoàn, hội nghị các chi đoàn
thảo luận nội dung, kế hoạch vận dụng thực hiện. Khái
niệm phong cách học tập mới đƣợc xác định một cách đại
cƣơng:
1 – Học có mục đích;
2 – Học có kế hoạch;
3 – Học có độc lập suy nghĩ.
Ý kiến hội thảo sôi nổi nhất và hào hứng nhất tập trung
quanh điểm thứ 3: độc lập suy nghĩ. Vấn đề này từng là ƣu
điểm của các thế hệ học sinh Lƣơng Ngọc Quyến từ thời
kháng chiến chống Pháp, nhƣ là ý thức phản kháng đối với
lối học nhồi sọ thời nô lệ. Nay vấn đề đó càng cần khẳng
định nhƣ là nhân tố làm nên phẩm chất sáng tạo trong nhân
cách con ngƣời mới XHCN. (Cuộc vận động rất có ý nghĩa
này chẳng những đạt đƣợc hiệu quả thiết thực trong thành
tích học tập của học sinh Lƣơng Ngọc Quyến, mà còn đem
lại lợi ích lâu dài khi họ trở thành những cán bộ trong nhiều
ngành quan trọng của xã hội).
Năm học 1959 – 1960 đánh dấu bƣớc chuyển biến về cơ
cấu hệ thống tổ chức của trƣờng. Một Ban giám hiệu chính
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
126
thức có trình độ sƣ phạm và năng lực, kinh nghiệm công
tác tốt. Một hệ thống giáo viên chủ nhiệm nhiệt tình, năng
động, có uy tín cao.
Chi bộ vững mạnh bao gồm các đảng viên nằm trong bộ
máy lãnh đạo chuyên môn, đoàn thể, có giáo viên, có cán
bộ nhân viên, có học sinh.
Hệ thống các đoàn thể Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội
thiếu niên, Hiệu đoàn học sinh đƣợc kiện toàn.
Tất cả đi vào hoạt động nhịp nhàng, ổn định, có bề nổi,
có chiều sâu ngày càng đúng hƣớng.
***
III. Ngoài chức năng bình thƣờng, trƣờng cấp II – III
Lƣơng Ngọc Quyến còn có những nhiệm vụ có tính đặc
biệt. Đó là dạy dỗ học sinh miền Nam, học sinh Lào, học
sinh dân tộc thiểu số miền núi.
Từ 19 – 8 – 1956 Khu tự trị Việt Bắc thành lập, lấy thị
xã Thái Nguyên làm Thủ phủ. Các chính sách về dân tộc
thiểu số của Đảng đƣợc ban hành và thực hiện trong điều
kiện đƣợc chiếu cố thỏa đáng hơn. Nhiều học sinh dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, và các
huyện Định Hóa, Phú Lƣơng, Võ Nhai, Đại Từ trong tỉnh
về học đƣợc trƣờng tiếp nhận vào ăn ở nội trú, một số đƣợc
cấp học bổng hàng tháng. Nhà trƣờng hiểu rất rõ đây là
thành phần quý hiếm mà Cách mạng cần đào tạo thật nhiều
cho tƣơng lai “miền núi tiến kịp miền xuôi”. Phần nhiều họ
lớn hơn độ tuổi trung bình của lớp, do hoàn cảnh địa
phƣơng thƣờng phải đi học muộn. Nhiều ngƣời có gia đình
riêng ở quê, cá biệt có ngƣời nhƣ anh Ma Ngọc Huê lớp
10A (1958 - 1959) từng làm “quan lang” hồi ở nhà. Lúc
mới đến trƣờng ai cũng ngại ngùng, rụt rè do những khó
khăn riêng: tài chính eo hẹp, vốn tiếng Việt hạn chế, nhịp
sống và lối sống phố thị xa lạ... Họ dần hòa nhập với cuộc
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
127
sống mọi mặt ở trƣờng, đƣợc các thầy, các bạn quí mến,
không hề kỳ thị, phân biệt đối xử. Nhờ quan hệ lành mạnh
trong sáng đó, anh chị em thấy tự tin, ra sức cố gắng. Họ
rất cần cù, chăm chỉ, thật thà, khiêm tốn học hỏi, riêng về
lao động thì rất giỏi, đặc biệt tháo vát đối với công việc
chân tay cơ bắp. Nhiều ngƣời phát huy đƣợc năng lực trí
tuệ, và sở trƣờng, năng khiếu riêng, học khá, giỏi, cả sau
khi ra trƣờng. Có những anh học rất giỏi, tƣ tƣởng chính trị
và khả năng hoạt động công tác tốt nhƣ Bàng Minh Châu
dân tộc Cao Lan, Nguyễn Đậu dân tộc Tày (tốt nghiệp hệ
phổ thông 9 năm 1955).
Những năm sau có chính sách tuyển thẳng vào đại học
đối với học sinh dân tộc thiểu số, ngành và trƣờng tự chọn
theo nguyện vọng riêng. Một số ngƣời đƣợc gửi đi nƣớc
ngoài đào tạo. Nhƣ vậy, từ 1955 – 1956 đến 1964 (sau hòa
bình lập lại đến cuối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất) mỗi năm
có một vài chục học sinh dân tộc miền núi tốt nghiệp cấp
III Lƣơng Ngọc Quyến rồi học lên đại học, một số học lên
cao nữa. Từ Lƣơng Ngọc Quyến đi lên có hàng trăm trí
thức ngƣời Tày, ngƣời Nùng, ngƣời Dao, ngƣời Cao Lan,
ngƣời Sán Chí... có bằng tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sƣ các ngành
địa chất, lâm nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, vô tuyến
điện, kiến trúc sƣ, luật sƣ, bác sĩ, có học vị phó giáo sƣ. Có
đủ cả nhà văn (Vi Hồng), nhà báo (Nông Thị Nhuận,
Hoàng Văn Thể), nhà giáo (PGS.TS Hoàng Chung, các
giảng viên đại học Tô Phi Hổ, Lâm Xuân Đình, Nông Thị
Thu...), nhà nghiên cứu (Lục Văn Pảo), nghệ sĩ (Vi Chi)...
Nhiều ngƣời giữ cƣơng vị phụ trách cấp cục, vụ (TS Ma
Chƣơng Thọ), giám đốc một bệnh viện lớn của quân đội
(đại tá, tiến sĩ, bác sĩ Phan Văn Hỏn), phó tổng giám đốc
đài phát thanh tiếng nói Việt Nam (TS Phan Văn Nho),
Hiệu trƣởng trƣờng đại học Y Thái Nguyên (Phan Văn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
128
Các). Một số nữa phục vụ trong quân ngũ sau khi tốt
nghiệp đại học, có ngƣời hy sinh ở mặt trận phía Nam (Hứa
Xiên, Vi Nghĩa Hỷ). Riêng với Thái Nguyên, nhiều anh chị
em học xong đại học trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài lại có
may mắn trở về phục vụ quê hƣơng (kỹ sƣ Nông Thái
Nghiệp – chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, luật sƣ Phan
Sum – viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái
Nguyên).
***
Tiếp nhận học sinh miền Nam là một chủ trƣơng lớn của
Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm. Khoảng 10.000 học sinh đƣa về một số tỉnh miền
Bắc, số đông vào các trƣờng tập trung (ở Hải Phòng, Hà
Đông, Đông Triều). Ở Thái Nguyên chỉ có trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến đƣợc giao một số lƣợng phù hợp với khả năng
tiếp nhận của mình. Đó là vinh dự, là trách nhiệm trực tiếp
góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh thống nhất nƣớc nhà mà
trƣờng phải cố gắng thực hiện. Ngay sau những chuyến tàu
tập kết sớm, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã đón tiếp khoảng
20 học sinh miền Nam (Liên khu V) do Bộ và Ban thống
nhất trung ƣơng gửi đến. Trong số họ có em rất trẻ, có 4
nữ, có mấy ngƣời từng tham gia công tác kháng chiến một
vài năm. Họ là hình ảnh “bằng xƣơng bằng thịt” của
“Thành đồng Tổ quốc”, “Khu V dằng dặc khúc ruột miền
Trung”, “nửa Việt Nam yêu quí”, “đau thƣơng và anh
dũng”. Âm sắc là lạ trong tiếng nói, một số từ ngữ và cách
nói đặc biệt của địa phƣơng…đem đến trƣờng nét mới mẻ,
ngồ ngộ và dễ thƣơng. Anh chị em rất chăm học, sinh hoạt
cực kỳ giản dị, đƣợc nhà trƣờng quan tâm nhiều, các bạn
miền Bắc mến phục. Những năm sau, trƣờng đón nhận tiếp
một số lƣợng đông, có lúc 50, 70 học sinh (trƣớc sau
khoảng gần 100 học sinh miền Nam đã học ở Lƣơng Ngọc
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
129
Quyến). Họ bao gồm hai thành phần chính: học sinh Liên
khu V tập kết ra Bắc theo tiêu chuẩn bản thân hoặc con em
bộ đội, cán bộ kháng chiến; học sinh Nam bộ, chủ yếu là
Sài Gòn, không chấp nhận chế độ Mỹ (theo điều khoản
Hiệp định Giơ-ne-vơ, gọi là học sinh “vƣợt tuyến”). Liên
khu V là vùng tự do thời chống Pháp, các trƣờng trung học
Phan Châu Trinh (Quảng Nam), Lê Khiết (Quảng Ngãi),
Nguyễn Huệ (Bình Định) đã đào tạo nhiều thanh niên trí
thức cho địa phƣơng và đất nƣớc. Nay Đảng và Chính phủ
thấy cần đƣa số học sinh đủ tiêu chuẩn ra Bắc tiếp tục đào
tạo ở nhà trƣờng cách mạng để phục vụ đất nƣớc hiện tại,
và nhất là chuẩn bị cho chiến lƣợc cán bộ tƣơng lai khi
thống nhất Nam – Bắc. Họ đƣợc tôi luyện trong kháng
chiến gian khổ, khi ra Bắc, trừ số ít, hoặc các em nhỏ tuổi,
phần nhiều họ gia nhập Thanh niên xung phong, có vài
năm lao động nặng nhọc vất vả. Cũng nhƣ vậy đối với học
sinh vƣợt tuyến, tuy tình hình có khác đôi chút vì anh em
vốn ngƣời thành phố chƣa quen lao động gian khổ. Tuy
nhiên tổ chức Thanh niên xung phong thực sự là một
trƣờng học dũng cảm đã thử thách, đào luyện tuổi trẻ học
sinh trở thành lớp ngƣời cứng cáp.
Trở lại với cuộc sống học trò, ai nấy đều có vẻ chững
chạc. Họ ý thức sâu sắc về trách nhiệm trong hiện tại và
tƣơng lai. Họ già dặn trong các nhiệm vụ đƣợc phân công
trong lớp, trong trƣờng, và sôi nổi, mạnh mẽ, chắc chắn
trong các hoạt động nội khóa, ngoại khóa.
Tuy vậy, có một số vấn đề mà nhà trƣờng phải quan tâm
giải quyết. Trƣớc hết là chuyện đoàn kết. Điều bất ngờ là
hầu nhƣ không có khúc mắc gì, trái lại giữa học sinh miền
Bắc và học sinh miền Nam có sự thân mến, quí trọng lẫn
nhau rất chân tình. Bạn miền Nam không mặc cảm, để từ
đó sinh ghen ghét, ác cảm với bạn miền Bắc vì cảnh ngộ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
130
khác nhau, một đằng xa gia đình, quê hƣơng, một đằng tình
cảm quê hƣơng, gia đình đầy đủ. Chuyện rắc rối lại xảy ra
trong nội bộ tập thể học sinh miền Nam, giữa anh em Liên
khu V và anh em Nam bộ. Do đặc điểm tính cách địa
phƣơng, do quá khứ cuộc sống và học tập khác nhau, do sự
quản lý có phần khắc khổ, nghiêm nghị quá mức của một
số cán bộ (ngƣời Liên khu V), lại có khi thiếu công bằng và
khéo léo, tế nhị khiến anh em Nam bộ và anh em Liên khu
V không hòa thuận với nhau. Nhà trƣờng, chi bộ, Đoàn
thanh niên sau khi đi sâu tìm hiểu, dựa vào số anh em cán
bộ Đoàn, đoàn viên TNLĐ cốt cán đã dần dần giải tỏa vấn
đề. Anh em đã thông cảm với nhau, gạt bỏ những chuyện
hiểu lầm, chấp nhận sự khác biệt tất nhiên do đặc điểm
vùng miền, cùng đoàn kết hƣớng tới nhiệm vụ chung trong
tình thế chung:
“Ngày Bắc đêm Nam”
“Quên buồn nhớ học”
Tình thế ấy là một thử thách không bình thƣờng, nhất là
tình trạng chia cắt đất nƣớc kéo dài, tội ác Mỹ - Diệm ngày
càng chồng chất, tin tức đau thƣơng của ngƣời thân, gia
đình, quê quán cứ dồn dập. Những dịp nghỉ học, đặc biệt
vào tết Nguyên đán, thật khó tránh cho anh em miền Nam
tâm trạng buồn nhớ có khi nặng nề, đƣa đến phản ứng bất
thƣờng tiêu cực.
“Một tết nọ, đúng vào đêm 30 tết, sau khi tổ chức liên
hoan xong, mọi người đi nghỉ để chuẩn bị đón giao thừa thì
có tin khẩn báo là một số học sinh miền Nam đã kéo nhau
ra cầu Gia Bảy chắn 2 bên đầu cầu không cho dân qua lại
và diễn văn nghệ ngay trên cầu, người hát hò, kẻ khóc
mếu… Thì ra gặp dịp tết nhớ nhà quá, lại thiếu tình cảm
nên đã sinh ra như vậy. Lại một cuộc thuyết phục vận động
anh chị em trở về trường đón giao thừa. Đồng chí chủ tịch
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
131
Ủy ban tỉnh đã đến thăm hỏi chúc tết và tặng quà giao thừa
cho anh chị em”… (Chu Thế Kỳ - Sđd tr.30)
Tổ chức giáo dục học sinh miền Nam trong các nhà
trƣờng miền Bắc vào những năm tháng ấy là cả một nhiệm
vụ có tính đặc thù, đòi hỏi sự quan tâm toàn diện của Nhà
nƣớc và xã hội.
Học sinh miền Nam đƣợc hƣởng một chế độ chính sách
lúc ấy có thể coi là ƣu đãi. Ngoài số ít anh em trƣớc đây đã
là cán bộ, nay vẫn hƣởng lƣơng theo chế độ, số học sinh
phổ thông (thuần túy) đƣợc trợ cấp hàng tháng trung bình
bằng 75% lƣơng của nhân viên hành chính sơ cấp. Họ còn
đƣợc cấp phát định kỳ quần áo, chăn, màn, áo rét… đầy đủ.
Ở Thái Nguyên, các đồng chí Bí thƣ Tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh
luôn quan tâm săn sóc tỉ mỉ, chu đáo, Ty giáo dục thƣờng
nhận đƣợc chỉ thị cấp trên nhắc nhở phải chăm lo. Nhà
trƣờng cử giáo viên đặc trách công tác học sinh miền Nam.
Các thầy Đỗ Bình Trị, Trần Minh Trân, Vũ Đình Liên đƣợc
phân công phụ trách, học sinh miền Nam coi nhƣ ngƣời
ruột thịt vì các thầy cƣ xử rất tận tình (mà đối với những
học sinh miền Nam thiếu tình cảm gia đình, điều đó có ý
nghĩa rất lớn, có sức cảm hóa, thuyết phục rất sâu sắc). Mãi
mãi về sau họ vẫn ghi đậm trong tâm khảm hình ảnh các
thầy. Học sinh lỡ thiếu tiền ăn, thầy Liên dùng tiền riêng
đóng cho nhà bếp, rồi nhắc nhở phải giữ nền nếp ăn uống
bình thƣờng để bảo đảm sức khỏe học tập. Nhà thầy ở Hà
Nội, nhƣng tết vẫn ở lại trƣờng để chia sẻ cảnh xa nhà của
học sinh miền Nam. Nhiều anh em coi nhà thầy Trân nhƣ
mái ấm của mình. Mỗi khi có ai ốm đau, nhất là gặp dịch
cúm lúc chuyển mùa, Ban giám hiệu, bộ phận y tế cùng
thầy phụ trách lo săn sóc ân cần. Một mùa đông nọ trời đột
ngột rét dữ, sƣơng muối đọng trắng mái nhà, học sinh xứ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
132
nóng quanh năm không sao chịu nổi. Nhà trƣờng bèn liên
hệ với bên quân đội giúp cho hai xe tải chăn bông chống
rét.
Vào dịp tết Nguyên đán 1958, Hội phụ huynh học sinh
có nhã ý đề xuất với trƣờng để các gia đình ở thị xã Thái
Nguyên đón học sinh miền Nam về ăn tết. Sau khi bàn bạc,
nhà trƣờng nhất trí. Số học sinh miền Nam ở đây ít hơn số
gia đình có thiện ý muốn đón tiếp rất nhiều. Thƣờng các
bạn (Nam – Bắc) thân nhau nên rủ nhau về nhà. Từ đó, anh
em học sinh miền Nam thực sự coi Thái Nguyên là quê
hƣơng thứ hai, đồng bào thị xã là ruột thịt. Nhân dân Thái
Nguyên thƣơng yêu, đùm bọc rất mực chân tình đối với
những đứa con miền Nam, chính là biểu hiện giản dị, sinh
động của chân lý “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là
thịt của thịt Việt Nam…” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Tất cả học sinh miền Nam ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến
đã phấn đấu vƣợt qua mọi thử thách gian khó, hòa đồng với
môi trƣờng. Họ tham gia Ban chấp hành các tổ chức Đoàn
thanh niên (anh Lê Quảng), Hiệu đoàn (các anh Cao Văn
Thử, Lê Công Thanh), có mặt trong mọi hoạt động của
trƣờng, đóng góp vào thành tích chung. Đội bóng đá của
trƣờng với sự tham gia của các cầu thủ giỏi Vĩnh Giáp,
Quang Ngọ, Lâm…từng thi đấu nhiều trận hay với các đội
mạnh khu vực nhƣ đội Quân khu, đội thị xã, và rất hào
hứng trong trận giao hữu với đội học sinh trƣờng phổ thông
cấp III A, Hà Nội (kết nghĩa). Đội bóng chuyền có Cao
Văn Thử, Bá Tùng, Tấn Giáo… thi đấu ngang ngửa với các
đội bóng hạng A của thanh niên thị xã và của các cơ quan
Khu và tỉnh. Anh Hiếu nhờ chăm chỉ tập luyện nên có thể
hình khỏe đẹp nhất trƣờng, là ngƣời đƣợc chọn cầm cờ dẫn
đầu đoàn diễu hành trong các cuộc lễ hội chính trị, cũng là
một đô vật có hạng. Anh em miền Nam đem đến Thái
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
133
Nguyên đôi nét đặc sắc về văn nghệ: đàn và ca cải lƣơng
Nam bộ, một số điệu nhảy sôi động của châu Âu, châu Mỹ
Latinh.
Nhìn chung học sinh miền Nam ở trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến đều học đƣợc, cả tinh thần thái độ và khả năng trí
tuệ. Nhiều ngƣời học giỏi, đã đi xa trên đƣờng học vấn. Đa
số đều thành công trên đƣờng phấn đấu trở thành cán bộ
nòng cốt cho miền Nam (và cả nƣớc) sau ngày thống nhất
nƣớc nhà. Thƣờng các anh làm cán bộ quản lý, lãnh đạo
các sở, ban, ngành chuyên môn cấp tỉnh khi trở lại tiếp
quản miền Nam quê hƣơng. Anh Trần Anh Kiệt làm Chủ
tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi. Anh Phạm Khánh Toàn và
anh Trƣơng Nghĩa Tiến là 2 nhà báo cốt cán tiếp quản và
xây dựng cơ sở phát thanh, truyền hình Sài Gòn sau giải
phóng. Anh Lê Quảng là Vụ trƣởng trong Ủy ban KT và
KH nhà nƣớc, anh Nguyễn Bửu Quyền là Vụ trƣởng ở Bộ
kế hoạch và đầu tƣ. Anh Nguyễn Minh Tuân, tiến sĩ Khoa
học, công tác ở Viện Khoa học Việt Nam…
***
Trƣờng phổ thông cấp II – III Lƣơng Ngọc Quyến từng
đảm nhận một nhiệm vụ quốc tế đặc biệt: giáo dục học sinh
nƣớc bạn Lào.
“Năm 1955, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương,
bạn Lào đã gửi 150 cán bộ, chiến sĩ và thanh thiếu niên
sang Việt Nam học văn hóa. Khu ủy Việt Bắc được Trung
ương giao trọng trách chăm lo vốn quý đó của nhân dân
các dân tộc Lào. Cán bộ, chiến sĩ tập trung ở phân hiệu 2,
thanh thiếu niên ở phân hiệu 1, cả 2 phân hiệu đều đặt tại
Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Từ 1958, các em thanh thiếu niên đều là con em cán bộ
cao cấp Lào, ngày ngày rời trú xá về học tập tại trường
cấp II – III Lương Ngọc Quyến. Mãi đến năm 1961 cả 2
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
134
phân hiệu mới rời Thái Nguyên chuyển về trường mới xây
dựng riêng cho lưu học sinh Lào tại Kim Tràng, Tân Yên
(Bắc Giang).
Những năm ở Lương Ngọc Quyến, các em học sinh Lào
sống trong vòng tay chăm lo đầy tình cảm ấm cúng và
trách nhiệm sâu sắc mà nhóm cán bộ đặc trách là cô giáo
Ngọc, chú Nhuệ và cô Điền. Các em đoàn kết, tôn trọng
thầy cô, học tập cần cù và thông minh, nói tiếng Việt rất
tốt, nổi trội đặc biệt về văn nghệ, thể thao”. (Nguyễn Huy Ái – “Một thời để nhớ” tập 2, Ban liên
lạc cựu học sinh trƣờng trung học Lƣơng Ngọc
Quyến Thái Nguyên xuất bản, 2005, trang 502).
Về trƣờng, các em đƣợc đƣa vào các lớp theo trình độ
khác nhau, chủ yếu học cấp II, chỉ có mấy em vào lớp 8.
Học cùng với các bạn Việt Nam, có Bắc, có Nam, có dân
tộc thiểu số miền núi, nhƣng học sinh Lào hòa hợp rất tự
nhiên về mọi mặt. Chỉ trừ chế độ quản lý nhân sự, ăn ở…
theo quy định riêng, còn việc học tập hoàn toàn theo quy
chế nhà trƣờng. Các em đƣợc hƣởng mọi quyền lợi học
hành, rèn luyện toàn diện, đồng thời thực hiện nhiệm vụ
nhƣ đối với học sinh Việt Nam. Không có phân biệt đối xử
trong hoạt động nội khóa và ngoại khóa. Các em tham gia
đấu tranh chính trị, tham gia lao động, hoạt động xã hội,
hoạt động thể thao, văn nghệ… theo sự tổ chức của nhà
trƣờng, của đoàn thể học sinh, và đƣợc xác định rõ về nhận
thức: tất cả đều thuộc nội dung và phƣơng thức giáo dục
của nhà trƣờng cách mạng. Các em đƣợc quyền gia nhập
Đoàn thanh niên lao động và Đội Thiếu niên Tiền phong
Việt Nam. Có em đƣợc bầu vào BCH Hiệu đoàn và phụ
trách mảng công tác quan trọng do khả năng nổi trội của
mình (em Minh – con trai lớn của Hoàng thân Xu-pha-nu-
vông chủ tịch nƣớc CHDCND Lào, cán bộ Hiệu đoàn phụ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
135
trách văn nghệ). Em Ngọc, cô gái xinh xắn, học giỏi và có
giọng hát rất hay. Em Kiều Nga (em ruột anh Minh) múa
giỏi, từng đoạt giải cao nhất trong một cuộc thi văn nghệ ở
hội trƣờng Khu với điệu múa Lào “Hoa Chăm Pa”. Các em
rất ham thích thể thao, nhất là môn bóng chuyền.
Sống, học tập chan hòa thân thiết với các bạn Việt Nam
dƣới một mái trƣờng, các em lƣu giữ mãi hình ảnh những
ngƣời bạn tri kỷ đầy tình nghĩa Lƣơng Ngọc Quyến.
Sau này, từ những năm cuối thập kỷ 60 (thế kỷ XX) trở
đi, các em đều trở thành cán bộ cốt cán trung cao cấp của
Đảng và Nhà nƣớc Lào: Đavon Vôông Xắc (tên Việt Nam
là Ngọc) - ủy viên dự khuyết TW Đảng NDCM Lào, Thứ
trƣởng Bộ y tế; tiến sĩ Uđôm Xý-cha-lơn (tên Việt Nam là
Hoàng) – Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội nƣớc
CHDCND Lào; Bua Phết (tên Việt Nam là Hải Âu) – vụ
trƣởng, phó trƣởng ban nghiên cứu tổng hợp và thanh tra
giáo dục thuộc Bộ giáo dục Lào; Bun Năm Phay Đang (tên
Việt Nam là Duy Liên) – Phó hiệu trƣởng trƣờng ĐHSP
Viên Chăn; Chăn Tha Nom (tên Việt Nam là Hồng) – Hiệu
trƣởng trƣờng y sĩ trung ƣơng; Nhọt Kẹo Xu Pha Nu Vông
(tên Việt Nam là Kiều Nga) – Vụ trƣởng; Đuông Chăn
Vông Vi Chit (tên Việt Nam là Kim Vân) trƣởng ban biên
tập kịch bản Bộ tuyên truyền báo chí; Bác sĩ Thắng (con
chủ tịch Nu Hắc Phun Xa Vẳn); các anh Minh, Nguyễn
Trung…đều thành đạt; có ngƣời hy sinh trong chiến trận:
trung úy Nguyễn Văn Khƣơng… Ngoài ra, còn những em
đã trở thành bác sĩ, kỹ sƣ, nhà giáo, cán bộ chính trị, sĩ
quan quân đội…Tất cả dù ở cƣơng vị nào cũng luôn ghi
nhớ những kỉ niệm đẹp ở Lƣơng Ngọc Quyến một thời, và
nhất là không bao giờ quên công ơn dạy dỗ của các thầy
giáo, cô giáo cùng ân nghĩa sâu nặng của nhân dân Thái
Nguyên, Khu ủy khu tự trị Việt Bắc, Đảng Cộng sản và nhà
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
136
nƣớc Việt Nam. Tình nghĩa đó đƣợc thể hiện rất chân
thành, sâu sắc và cảm động qua sự giao lƣu (trực tiếp hoặc
gián tiếp) giữa học sinh Lào thời ấy với thầy cũ, bạn cũ
Lƣơng Ngọc Quyến, hoặc những cuộc viếng thăm của họ
trên cƣơng vị công tác sau này đối với trƣờng cũ.
Đặc biệt thầy Nguyễn Huy Ái và thầy Lƣơng Vĩnh
Khang trong thời gian là chuyên gia giúp Lào xây dựng và
phát triển ngành giáo dục (những năm 1960 - những năm
đầu 1970) từng gặp lại các học sinh Lào ở Lƣơng Ngọc
Quyến hồi đó. Các cuộc gặp gỡ tình cờ ở giữa rừng Lào,
trong hang đá vùng kháng chiến, trên đƣờng công tác gian
khó, hiểm nguy, hay trong những cuộc đón tiếp trọng thể
giữa Thủ đô Viêng Chăn, các học sinh Lào ngày ấy giờ đã
giữ những trọng trách khác nhau đều nhận ra hai thầy Hiệu
trƣởng trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, và bày tỏ lòng kính yêu
vô cùng cảm kích.
***
Tháng 7 – 1961, trong một bài viết trên báo Nhân dân,
chủ tịch Hồ Chí Minh gợi ý:
“Năm học này đúng vào năm đầu kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất của chúng ta. Đồng bào ta đang có phong trào thi
đua sôi nổi “Đại phong”, “Duyên hải”, “Ba nhất”, “Thành
công”. Vậy các trƣờng cũng nên phát động một phong trào
thi đua “Hai tốt”, tức là dạy thật tốt, học thật tốt”.
Xem đó nhƣ một chỉ thị, Bộ giáo dục và Công đoàn giáo
dục Việt Nam đã quyết định mở cuộc vận động thi đua
“Hai tốt” trong toàn ngành. Hội nghị phát động thi đua
tháng 10 – 1961 đã công nhận trƣờng cấp II Bắc Lý (Lý
Nhân, Hà Nam) là lá cờ đầu của toàn ngành.
(Nhƣ vậy hòa nhịp với phong trào “Gió Đại phong” của
nông nghiệp, “Sóng Duyên hải” của công nghiệp, “Cờ Ba
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
137
nhất” của quân đội, “Lửa Thành công” của tiểu thủ công
nghiệp, ngành Giáo dục đã góp mặt với “Trống Bắc Lý”).
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến với đà phát triển mạnh mẽ,
đã hƣởng ứng phong trào thi đua “Hai tốt” một cách sôi
nổi. Tuy nhiên rút kinh nghiệm những năm qua, Ban lãnh
đạo giàu bản lĩnh của trƣờng đã tỉnh táo, sáng suốt nhìn
nhận vấn đề cốt tử của một nhà trƣờng – vấn đề chất lƣợng
giáo dục. Không xem nhẹ chất lƣợng giáo dục chính trị và
giáo dục lao động (mà trƣờng đã từng thực hiện có phần
quá đà), nhƣng cần phải điều chỉnh vấn đề giáo dục toàn
diện một cách cân đối biện chứng, trên quan điểm coi trí
dục là cơ sở.
Để nâng cao chất lƣợng trí dục, trƣờng đã có nhiều cố
gắng trong suốt những năm qua từ khi chuyển đến địa điểm
mới. Đầu tiên là tăng cƣờng cơ sở vật chất. Phòng thí
nghiệm Lý-Hóa-Sinh là nhà xây đầu tiên của trƣờng,đƣợc
cung cấp một số lƣợng đồ dùng, thiết bị chứa đầy 5 xe vận
tải cỡ lớn (mà thầy Hiệu trƣởng Chu Thế Kỳ cùng thầy
Đức, thầy Tuân, anh Hoài trong BCH Hiệu đoàn về Hà Nội
tiếp nhận). Đây là sự kiện có tính chất “bƣớc ngoặt” khiến
toàn trƣờng phấn khởi, cả nhân dân thị xã Thái Nguyên
cũng hết sức vui và tin tƣởng (trƣờng đã tổ chức triển lãm
giới thiệu, mở cửa phòng thí nghiệm mời nhân dân vào
tham quan).
Năm 1963, thời gian thầy Chu Thế Kỳ trở lại làm Hiệu
trƣởng, trƣờng đƣợc xây tòa nhà 3 tầng – nhà cao tầng đầu
tiên, thay dần những dãy lớp học cũ.
Trong mọi hoàn cảnh, nhà trƣờng luôn khuyến khích các
thầy bộ môn phát huy tinh thần tự lực cánh sinh làm đồ
dùng dạy học. Cô Hồng, thầy Tuân, thầy Đức… là những
ngƣời rất chịu khó về mặt này. Tiêu biểu nhất là thầy Lại
Đức Thông. Ngay từ những năm kháng chiến chống Pháp,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
138
ngƣời dân thiếu từng tấc vải may mặc, thầy đã chắt chiu thu
xếp để có đƣợc những mảnh vải diềm bâu quí giá, vận động
học sinh có khả năng đến vẽ thành những tấm bản đồ dƣới
sự chỉ dẫn của thầy. Cho đến thời gian này, thầy Thông vẫn
tiếp tục tạo những tấm bản đồ đơn sơ nhƣng rõ ràng, bền,
tiện sử dụng khi lên lớp.
Các thầy bộ môn lập ra các nhóm sinh hoạt, đi vào các
chuyên đề, giúp đỡ học sinh tự thuyết trình về các nội dung
mở rộng tri thức môn học. Nhiều buổi sinh hoạt hứng thú
về văn học, sử học, sinh học. Có tập san của nhóm Toán
học đƣợc học sinh hoan nghênh.
Từ 1957, trƣờng đƣợc tiếp đón nhiều giáo viên tốt
nghiệp các trƣờng sƣ phạm đại học và trung cấp chính quy.
Để giúp giáo viên trẻ nhanh chóng tiếp thu kinh nghiệm
của lớp trƣớc, các tổ bộ môn tăng cƣờng hoạt động dự giờ,
thăm lớp, tổ chức giờ dạy mẫu, trao đổi, góp ý rộng rãi,
thiết thực. Nhà trƣờng còn tạo điều kiện cho chi đoàn thanh
niên giáo viên tổ chức về tham quan dự giờ tại các trƣờng
lớn của Thủ đô nhƣ trƣờng Phổ thông cấp III A, Hà Nội,
trƣờng cấp III Trƣng Vƣơng.
Bộ và Công đoàn giáo dục Việt Nam khuyến khích hình
thức tự học và nêu gƣơng, giới thiệu kinh nghiệm giáo viên
giỏi, vƣơn lên không ngừng về văn hóa và nghiệp vụ xứng
đáng với danh hiệu “kỹ sƣ tâm hồn” (mà các đồng chí Lê
Duẩn, Phạm Văn Đồng vẫn đề cao). Ở trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến, lịch sử cho thấy: tự học là phƣơng thức để tồn tại
(rõ nhất ở thời chống Pháp) và phát triển (thời kỳ 1954 –
1965). Tất cả các giáo viên dù ở độ tuổi nào, dù trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, kinh nghiệm nghề nghiệp nhƣ thế
nào, ai ai cũng chăm chỉ, cần cù tự học.
Có thể nói giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến thời kỳ này dấy
lên một phong trào tự học sôi nổi. Chƣa có trƣờng lớp
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
139
chính quy đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ quản lý lãnh đạo, các
thầy đƣợc đề bạt giữ chức vụ Hiệu trƣởng, Hiệu phó đã tự
học qua sách vở, tài liệu, nhƣ SGK Giáo dục học của Kai-
rôp, “Quản lý và lãnh đạo nhà trƣờng” của Pô-pôp (Liên
Xô). Các giáo viên trẻ học tiếng Nga qua sách dạy bằng
tiếng Pháp (Le Russe), tiếng Anh (Russian) v.v…
Giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến rất tích cực tham gia công
tác xã hội, nhƣ dạy bổ túc văn hoá cho cán bộ khu và tỉnh,
thuyết trình phổ biến khoa học ở địa phƣơng... Đặc biệt là
chủ động tham gia công tác đổi tiền (1958).
Từ năm học 1956 – 1957, theo chƣơng trình cải cách
giáo dục, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến dạy hai môn tiếng
Nga và tiếng Trung (lúc đó gọi là Nga văn, Trung văn).
Môn giáo dục thể chất đƣợc tăng cƣờng với số giáo viên
trẻ, khỏe, hăng hái, nhiệt tình. Tuy nhiên trƣờng vẫn chƣa
có giáo viên để triển khai giáo dục thẩm mỹ, nghệ thuật. Để
đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện, trƣờng đã tăng cƣờng
hoạt động ngoại khóa.
Ngay từ sau khi trƣờng chuyển về thị xã Thái Nguyên,
hoạt động văn nghệ đƣợc tổ chức rất sôi nổi. Tham gia
phong trào chung của Khu tự trị Việt Bắc và tỉnh nhà, trong
các cuộc “lễ hội chính trị”, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến luôn
là một đơn vị đƣợc chú ý. Ban ca nhạc của trƣờng thƣờng
xuyên đóng vai trò “dàn nhạc sống” giúp phòng truyền
thanh của thị xã. Đặc biệt, khi thầy Nguyễn Đình Khâm và
thầy Hoàng Ngọc Hiến về trƣờng thì phong trào văn nghệ
có bƣớc đột biến về chất lƣợng. Thầy Khâm tổ chức các đội
ca, múa, nhạc rất quy mô, tập hợp đƣợc tất cả các khả năng
trong học sinh. Dàn hợp xƣớng cả trăm ngƣời với ban nhạc
dây, sáo trúc, áo quần đồng phục tƣơi trẻ đƣợc chính thầy
dàn dựng và chỉ huy từng có tiếng vang trong và ngoài
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
140
trƣờng, cán bộ các cơ quan Khu và tỉnh, nhân dân và bộ đội
rất ngợi ca, khâm phục.
Ca nhạc là loại hình nghệ thuật nhạy cảm, các bài hát
thời thƣợng đƣợc ban văn nghệ trƣờng thể hiện vừa góp
phần nâng cao tình cảm, tƣ tƣởng học sinh, vừa nhƣ một
tiếng nói nêu cao niềm phấn khởi hòa bình, tự hào chiến
thắng(11)
. Đội kịch do thầy Hoàng Ngọc Hiến lãnh đạo,
đã diễn rất thành công một số vở kịch hay của Việt Nam và
nƣớc ngoài(12)
. Thầy Hiến đã có công khơi dậy khả năng
của một lớp học sinh làm sân khấu nghiệp dƣ rất đáng
khẳng định: Dƣơng Hoàng (học sinh miền Nam, đạo diễn),
Trần Quán Anh (tác giả vở “Tiền tuyến gọi”, nổi tiếng thời
chống Mỹ), Nguyễn Vĩnh, Nguyễn Thị Kim Vĩnh, Đào
Nga, Mộng Nga, Phan Đức Tỉnh, Doãn Long, Vân Long…
Khi hai thầy phụ trách văn nghệ đã chuyển đi, một số anh,
chị ra trƣờng, phong trào văn nghệ theo đà cũ vẫn tiếp tục
phát triển và thu hút thêm những nhân tố mới. Về ca nhạc,
hầu nhƣ lớp nào cũng có đội, hoặc cá nhân tham dự những ...................................................................................................................
(11) – Các bài hát đƣợc biểu diễn: “Giữ mãi tuổi xuân” (của Hoàng
Hà?) ca ngợi hòa bình và tuổi trẻ; “Hà Nội – Bắc Kinh – Mạc Tƣ
Khoa”; “Hành khúc thanh niên”; “Bài ca thanh niên quốc tế”; “Sinh
viên Mạc Tƣ Khoa”… (của Liên Xô); “Hoa nở tƣơi hai bờ sông
Hoài”, “Tôi cƣỡi ngựa qua thảo nguyên” (của Trung Quốc),
“Li…li…li…” (của Triều Tiên)…
- Các bài hát của thầy Nguyễn Đình Khâm chào đón hòa bình, chào
đón con tàu đƣa ngƣời của ta ra Bắc tập kết…
- Nhiều bài hát đƣợc ƣa thích về chủ đề miền Nam, miền Bắc, bài
hát quốc tế (Ba Lan, Indonesia…) (12)
Nhƣ vở “Lửa cháy lên rồi” nói về em Nguyễn Văn Tám lấy thân
mình làm đuốc sống đốt cháy kho xăng của giặc thời kháng chiến
chống Pháp; Vở “Dôi-a” của Liên Xô nói về nữ anh hùng Xô Viết
Dôi-a trong chiến tranh vệ quốc chống phát xít Đức; “Chuyến xe tự
do”, “Biệt thự bỏ hoang”…
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
141
cuộc thi sôi nổi, hào hứng (nhƣ dịp chào mừng các ngày lễ
lớn hàng năm, nhƣ phong trào “Cất cao tiếng hát dâng
Đảng ” v.v... Trƣờng lại thành lập cả đội múa rối với nhiều
tiết mục vui nhộn, lý thú, sinh động.
Về hoạt động thể thao, Đoàn thanh niên và Hiệu đoàn
học sinh liên tục tổ chức phong trào thi đấu bóng chuyền,
bóng đá giữa các lớp. Trƣờng có đội bóng chân giày mạnh,
có thứ hạng, tên tuổi ở khu vực, có đội bóng chuyền hạng
A và nhiều đội hạng B. Đội bóng rổ có sự tham gia của
thầy Hạnh, thầy Kỳ (Hiệu trƣởng). Các giáo viên thể dục
luôn duy trì nền nếp tập thể dục giữa giờ, tổ chức, điều
hành hoạt động thể thao sao cho hợp lý trên cơ sở sân bãi
của trƣờng.
Năm 1959, lần đầu tiên trƣờng tổ chức một cuộc triển lãm
trƣng bày các sản phẩm đƣợc xem nhƣ một phần bề nổi
thành tích giáo dục của nhà trƣờng. Nhiều hiện vật trong
cao trào kết hợp giáo dục với lao động (lò gang, xƣởng rèn,
nguội, máy bơm nƣớc, giống cây trồng…), những đồ dùng
dạy học cải tiến v.v… rất có ấn tƣợng. Những ảnh chụp,
tranh vẽ cổ động ghi lại hình ảnh các cuộc đấu tranh chính
trị của thầy trò toàn trƣờng. Ảnh chụp, hiện vật trong phong
trào thể thao, văn nghệ tƣơi vui, cùng những lá cờ giải
thƣởng, bằng khen… rất đỗi tự hào. Khách tham quan có
thể dừng lại trầm trồ trƣớc những bài làm xuất sắc đạt điểm
5(13)
các môn Toán, Lý, Hóa, Văn, Ngoại ngữ…mà lớp nào
cũng có. Khu trƣng bày báo tƣờng, tập san thật phong phú
đa dạng. Đây là những bức chân dung tâm hồn do chính
học sinh tự vẽ: cảm xúc, suy tƣ về mọi mặt cuộc sống quan .................................................................................................................
(13) Theo thang điểm Liên Xô: điểm 1: kém nhất; điểm 2: kém; điểm 3:
trung bình; điểm 4: khá; điểm 5: giỏi nhất (áp dụng từ CCGD 1956).
Từ CCGD 1950 đến 1956: điểm cho từ 0 đến 10. Từ 1950 về trƣớc ở
bậc trung học: điểm cho từ 0 đến 20.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
142
thiết đến ngƣời học sinh Lƣơng Ngọc Quyến hôm nay.
Triển lãm là một hình thức báo cáo sinh động công việc của
nhà trƣờng trƣớc các cấp lãnh đạo và nhân dân. Cũng là dịp
để thầy và trò nhìn lại mình, rút ra những bài học cần thiết
cho bƣớc đƣờng đi tới.
(Đồng chí Bí thƣ tỉnh ủy Phan Văn Tỉnh đã đến thăm
trƣớc vì mắc đi Hà Nội họp vào đúng ngày khai mạc. Hôm
về, đồng chí gửi tặng bó hoa).
Năm 1960, ngày hội trƣờng lần đầu của Lƣơng Ngọc
Quyến đƣợc tổ chức. Ngày hội đƣợc đón tiếp trọng thể các
vị lãnh đạo địa phƣơng, và rất vui với sự trở lại thăm
trƣờng của đông đảo thầy giáo, học sinh nhiều thế hệ hơn
mƣời năm qua. (Thầy Bùi Quang Huy nguyên Hiệu phó của trƣờng đã nghỉ
hƣu từ 1954 cũng về lại với rất nhiều xúc động).
Hội trƣờng càng vui, càng thêm tự hào với chiếc huy
hiệu chính thức biểu trƣng đặc sắc của trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến đƣợc trao tặng cho mọi ngƣời. (Đây là kết quả cuộc
thi sáng tác từ năm trƣớc. Khá đông học sinh hƣởng ứng và
đƣợc giải, tiêu biểu là các mẫu vẽ của anh Vũ Hƣng, anh
Đào Văn Hanh… Trƣờng đã tổ chức tập hợp, chỉnh sửa để
có đƣợc mẫu huy hiệu này).
***
Thời kỳ 1954 – 1965, đất nƣớc đã trải qua nhiều biến
động lịch sử to lớn, nhân dân ta đã tiến hành các nhiệm vụ
chiến lƣợc trọng đại dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Cùng với toàn ngành Giáo dục, trƣờng phổ thông cấp II
– III Lƣơng Ngọc Quyến đã nghiêm chỉnh thực hiện cuộc
cải cách giáo dục lần thứ 2, ra sức phấn đấu xây dựng nhà
trƣờng XHCN, đã gặt hái đƣợc nhiều thành quả tốt đẹp.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
143
Những lứa học sinh thuộc nhiều thành phần (trong đó có
cả học sinh miền núi, miền Nam, Lào) đƣợc hƣởng sự giáo
dục của nhà trƣờng chính là thành phẩm mà xã hội có thể
nhìn vào để phán xét, có tin tƣởng, tự hào, cũng cần rút ra
những kinh nghiệm điều chỉnh.
Học sinh Lƣơng Ngọc Quyến thời kỳ này đã xác định
dứt khoát lý tƣởng XHCN cao đẹp, một lòng tin tƣởng và
ra sức phấn đấu trong thực tiễn cuộc sống. Họ quá tin và
hết lòng hƣớng về hình ảnh một xã hội mà trong đó tất thảy
đều tuyệt vời, trƣớc hết là quan hệ “ngƣời với ngƣời là
bạn”. Cho nên họ đã phấn đấu tận lực, cống hiến hết mình,
tất cả cho xã hội, rất trong sáng, vô tƣ,(14) Quan niệm ấy thật
đẹp, và đã biến thành sức mạnh vật chất thật sự đƣa đến
những thành công nhất định (có khi rất cao). Trƣờng khi đó
đa số là học sinh nghèo, một số rất nghèo. Họ tự túc hoàn
toàn, hoặc là lao động chính trong gia đình khó khăn (tỉ lệ
học sinh nghèo so với thế hệ thời kháng chiến chống Pháp
cao hơn nhiều). Vậy mà họ học đƣợc, nhiều ngƣời khá, giỏi
theo yêu cầu giáo dục khá căng thẳng của nhà trƣờng.
Ra trƣờng, họ sẵn sàng chấp nhận sự phân chia vào ngành
học, trƣờng đại học của tổ chức dù trái với nguyện vọng
ban đầu của họ. Họ đã học tốt, và thành đạt trong công tác.
Số ngƣời có học vị tiến sĩ, học hàm giáo sƣ, phó giáo sƣ
ƣớc tính hàng trăm. Có những cống hiến đáng kể về khoa
học (anh Nguyễn Mộng Hùng đã nghiên cứu nhân giống vô
tính thành công con cá trê khi đang học ở Nga, trƣớc hiện
tƣợng cừu Dolly khoảng 30 năm; anh Nguyễn Tiến Nguyên ........................................................................ (14)
Gia đình một học sinh lớp 10A (1958 – 1959) gặp tai nạn cháy
nhà. Cả lớp tổ chức một ngày lao động lấy tiền giúp bạn. Nhìn khẩu
hiệu bƣớm trên vai áo, mũ, nón: “TÌNH BẠN CAO CẢ” của cả một
lớp học sinh, Ban chỉ huy công trƣờng rất cảm động và dành cho họ
nhiều ƣu đãi.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
144
– Viện trƣởng Viện nghiên cứu Năng lƣợng nguyên tử đầu
tiên của Việt Nam). Các anh các chị phát huy tốt khả năng
nghiên cứu và giảng dạy ở các cơ quan khoa học và trƣờng
đại học, các cơ sở của quân đội khắp đất nƣớc.
Số ngƣời làm công tác quản lý lãnh đạo cấp cục, vụ (và
tƣơng đƣơng) cũng khoảng hàng chục. Anh chị em đƣợc đề
bạt vào cƣơng vị lãnh đạo ở các địa phƣơng cấp tỉnh có
hàng chục, cấp huyện thì gấp nhiều lần hơn. Những hạn chế
trong công tác giáo dục của trƣờng là thực tế. Nó bắt nguồn
từ hạn chế của lịch sử, khi mô hình xã hội XHCN mới chỉ
là sản phẩm lý trí, chƣa từng hiển hiện thành công trong
thực tế. Do vậy, trong khuôn khổ đó, mô hình nhà trƣờng
XHCN và mẫu hình con ngƣời mới theo mục tiêu đào tạo
của nhà trƣờng không tránh khỏi tính chất duy ý chí, ảo
tƣởng. Phần khô cứng, thô ráp trong tính cách bắt nguồn từ
nhận thức, niềm tin đơn giản, công thức (mà càng trong
sáng vô tƣ thì những nét đó càng đậm). Trong một ít trƣờng
hợp tình trạng đó dễ đƣa ngƣời ta đến chỗ cực đoan, chệch
hƣớng trong hành động (ví nhƣ trong cuộc tranh luận sôi
nổi và gay gắt, trên báo tƣờng lớp 10A 1958 – 1959, có ý
kiến đánh giá thấp xu thế thi vào đại học, và đề cao hƣớng
đi vào giai cấp công nhân để rèn luyện vƣơn lên theo con
đƣờng mà các lãnh tụ vô sản đã đi! Và thực tế đã có mấy
ngƣời đi vào mỏ than Làng Cẩm – Thái Nguyên sau khi tốt
nghiệp phổ thông năm ấy. Tất nhiên sai lầm của lịch sử sẽ
do lịch sử giải quyết).
Đánh giá toàn cục sẽ thấy cả tập thể giáo viên, cán bộ,
công nhân viên nhà trƣờng là một khối đoàn kết, vững
mạnh, tiến bộ đồng đều. Đồng chí Bùi Đình Khoát là một
đảng viên lâu năm, có vai trò đáng kể đối với việc xây
dựng cơ sở Đảng trong trƣờng. Bác Hoàng Ngọc Quế,
ngƣời lao công duy nhất từ trƣờng cấp II Ngô Quyền, đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
145
theo trƣờng cho đến ngày về hƣu là một con ngƣời rất đáng
yêu mến và quí trọng đối với tất cả những ai đã làm việc,
học tập ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến. Các cô, chú, anh chị
công nhân viên khác rất thƣơng yêu, hết lòng phục vụ thầy
giáo và học sinh, đƣợc mọi ngƣời biết ơn thành thực. Trong
hàng ngũ giáo viên, nhờ phấn đấu vƣơn lên không ngừng,
nên nhiều thầy giáo, cô giáo đƣợc bố trí ở vị trí công tác
cao hơn.
Thầy Chu Thế Kỳ, trƣởng phòng phổ thông Sở giáo dục
Khu TT Việt Bắc, Trƣởng ty giáo dục Bắc Thái.
Thầy Nguyễn Đình Khâm, Hiệu trƣởng Phân viện 5
HVCTQG Hồ Chí Minh, vụ trƣởng Vụ các trƣờng Đảng
của Ban TW.
Thầy Lại Đức Thông, Phó hiệu trƣởng trƣờng trung học
phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
Thầy Nguyễn Huy Ái, từ 1962 đến 1974 làm trƣởng
đoàn chuyên gia giáo dục TW ở Lào, Phó trƣởng đoàn
chuyên gia giáo dục tại Campuchia, Phó vụ trƣởng Vụ quan
hệ quốc tế Bộ giáo dục và đào tạo.
Thầy Lƣơng Vĩnh Khang, chuyên gia giáo dục tại Lào,
Ăng-gô-la, Hiệu trƣởng trƣờng Sƣ phạm 10+3 Bắc Thái, cố
vấn bậc 2/3 Bộ giáo dục và đào tạo.
Thầy Nguyễn Huy Khánh, Hiệu trƣởng trƣờng phổ
thông dân tộc nội trú Việt Bắc.
Các thầy Đỗ Minh Tuấn, Vũ Đình Liên, Tạ Kỷ, Triệu
Vinh, Nguyễn Tiết Long, Võ Trọng Vinh, Phạm Khang,
Trần Minh Trân đƣợc bổ nhiệm làm Hiệu trƣởng các
trƣờng trong tỉnh hoặc tỉnh khác.
Thầy Trịnh Trúc Lâm học lên ĐHSP (hàm thụ) rồi làm
Hiệu trƣởng trƣờng cấp III vừa học vừa làm Thái Nguyên,
Nhà giáo nhân dân.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
146
Thầy Nguyễn Văn Hoàn trở thành giáo sƣ Phó viện
trƣởng Viện văn học Việt Nam.
Thầy Đỗ Bình Trị, giáo sƣ Cục trƣởng cục đào tạo – Bồi
dƣỡng Bộ GD&ĐT.
Thầy Hoàng Mạnh Kha, Phó giám đốc Sở Giáo Dục
Khu TTVB.
Các thầy Lê Đình Kỵ, Đỗ Đức Hiểu, Phan Trọng Luận,
Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Xuân Nam đều trở thành giáo
sƣ.
Thầy Nguyễn Nhƣ Ất, thầy Nguyễn Thế Hùng đỗ bằng
Tiến sĩ.
Các thầy giáo cấp II đều đi học tập trung hoặc hàm thụ
ĐHSP: Lƣu Ngọc Lợi, Đặng Nhật Tân, Đặng Đức Thƣởng,
Nguyễn Đức Hùng.
Các thầy giáo cấp III đều trở thành cốt cán ở các trƣờng
hoặc cơ quan nghiên cứu, chỉ đạo: Nguyễn Văn Quý,
Nguyễn Triệu Căn, Nguyễn Đan Quế, Phạm Long, Nguyễn
Tiến Đĩnh, Trịnh Văn Vải, Lê Khánh Kiểm, Phạm Huy
Khánh, Cáp Trọng Thức, Hồ Đình Đăng, Bùi Tiến Hoa,
Đàm Thị Đoài, Nguyễn Văn Kiên, Phan Lạc Châu, Nguyễn
Văn Đào, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Thịnh, Lê Văn
Bài.
Trong số giáo viên, từ 1957 có những học sinh cũ của
trƣờng: Cáp Trọng Thức, Trịnh Văn Vải, Đặng Đức
Thƣởng, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Đỗ Am, Lê Thị Bảy,
nhiều ngƣời sau đƣợc đề bạt lên chức vụ quản lý lãnh đạo:
Phan Văn Dũng (Hiệu phó), Nguyễn Vân Long (Hiệu phó,
Phó phòng phổ thông Sở GD Thái Nguyên), Lƣơng Đình
Lũng (Giám đốc Sở văn hóa Thái Nguyên), Nguyễn Thị
Phơn (Hiệu phó).
Quá trình thực hiện vai trò chủ đạo trong công tác đào
tạo học sinh cũng đồng thời là quá trình ngƣời giáo viên tự
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
147
đào tạo để phát triển, trƣởng thành. Ý chí tự lực tự cƣờng
đó của ngƣời thầy vừa là tấm gƣơng, vừa chuyển hóa thành
nội dung và phƣơng pháp giáo dục học sinh. Chính vì vậy
học sinh thời kỳ này đƣợc hình thành nét phẩm chất và
năng lực khá đậm là ý thức tự giác học tập, khả năng tự
học, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Nó
cắt nghĩa một thực tế là tuy chƣơng trình giáo dục phổ
thông của ta (9 năm rồi 10 năm) chƣa cao, chƣa thật sự
hiện đại, nhƣng học sinh Lƣơng Ngọc Quyến học lên Đại
học trong nƣớc hay nƣớc ngoài đều tự cố gắng vƣơn lên
theo kịp yêu cầu.
Về mặt phát huy vai trò của một trung tâm văn hóa khoa
học ở địa phƣơng, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến thời kỳ này
đã làm tốt, nhất là trong các hoạt động ngoại khóa. Thầy và
trò của trƣờng đã có nhiều việc làm cụ thể nhằm phổ biến
khoa học trong cán bộ các cơ quan Khu, tỉnh và nhân dân
địa phƣơng, đƣợc hoan nghênh và đánh giá cao.
Trƣờng mở rộng quan hệ đối ngoại, vừa nhằm nâng cao
vị thế, vừa thu nhận tác động tích cực từ bên ngoài đối với
yêu cầu giáo dục. Đáng kể nhất ở thời gian này là hai quan
hệ kết nghĩa khá sâu sắc, với Trung đoàn Sông Lô (từng
tham gia chiến dịch Điện Biên) đang đóng quân ở Thái
Nguyên và với trƣờng trung học Banka Bitslitka của Tiệp
Khắc. Sự giao lƣu này góp phần làm phong phú hoạt động
giáo dục của trƣờng.
Trƣờng đạt đƣợc thành tựu nhƣ vậy trong sự phấn đấu
thực hiện đƣờng lối giáo dục của Đảng còn do sự lãnh đạo
đúng đắn chặt chẽ của các cấp chuyên môn và Đảng, Chính
quyền. Từ ngày trƣờng về thị xã, các đồng chí Bí thƣ Tỉnh
ủy, Chủ tịch tỉnh Thái Nguyên nhƣ Lê Dục Tôn, Phan Văn
Tỉnh, Vũ Hƣng, Chu Quốc Hƣng, Lê Đức Chỉnh rất quan
tâm. Đồng chí Phan Văn Tỉnh dành cho trƣờng một sự ƣu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
148
ái đặc biệt. Đồng chí Bí thƣ Khu ủy Chu Văn Tấn từng đến
trƣờng giảng cho thầy và trò nghe về Nghị quyết của Đảng
cả buổi sáng.
Các vị lãnh đạo ngành Giáo dục luôn đặt trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến ở vị thế cao nhất khu vực miền núi, và ở hàng
đầu của miền Bắc. Do vậy Bộ chú ý đầu tƣ cho trƣờng về
nhân sự và cơ sở vật chất. Năm 1958, Thứ trƣởng Nguyễn
Khánh Toán đến thăm trƣờng. Cuối 1959, Bộ trƣởng
Nguyễn Văn Huyên lên thăm trƣờng.
Đặc biệt ngày 13- 3- 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
chuyến công tác với Khu TT Việt Bắc và tỉnh Thái Nguyên
đã có chƣơng trình thăm trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến. Dù
chỉ trong khoảng một giờ, Bác vẫn đi thăm đủ cả: nhà trẻ,
nhà bếp, vƣờn trƣờng, lớp học, nói chuyện với thầy giáo,
cán bộ, nhân viên, và căn dặn học sinh:
“Các cháu phải học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt”.
Rồi Bác chụp ảnh kỉ niệm cùng mọi ngƣời.
Từ đó, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến lấy ngày 13 -3 hàng
năm làm Ngày truyền thống của nhà trƣờng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường Lương Ngọc Quyến 13/03/1960
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
149
Chi bộ Lương Ngọc Quyến 1960
Những học sinh Miền nam đầu tiên của trường
(1955 – 1957)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
150
Trong giờ dạy môn hoá học của thầy Trịnh Văn Vải.
Ruộng thí nghiệm trồng Lúa cao sản của trường
(1958 – 1959)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
151
“Quay suốt đêm ngày” Lò Gang lớp 10A
(1958 – 1959)
Hai đội bóng chuyền (A+B)
(1957 – 1959)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
152
Một bộ phận đội văn nghệ của trường
(1956 – 1957)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
153
Chƣơng IV
TRƢỜNG PHỔ THÔNG CẤP III LƢƠNG NGỌC
QUYẾN TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƢỚC
(1965 - 1975) .
Sau hiệp định Giơnevơ (1954), để quốc Mỹ thay chân
thực dân Pháp, dựng chế độ Ngô Đình Diệm cai trị miền
Nam, rồi tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt, hòng dập tắt
phong trào đấu tranh thống nhất đất nƣớc của nhân dân ta.
Bị thất bại trong chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt, đế quốc
Mỹ ồ ạt đổ hàng chục vạn quân vào miền Nam, tiến hành
chiến tranh cục bộ trên qui mô lớn.
Để cứu vãn cho những thất bại nặng nề, liên tiếp diễn ra
trong chiến tranh cục bộ, ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân,
ồ ạt đánh phá vào miền Bắc nƣớc ta, nhằm phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và ngăn chặn
sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Cả
nƣớc lúc này đã ở trong trạng thái có chiến tranh và chống
Mỹ cứu nƣớc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn thể dân tộc
ta.
Thực hiện Nghị quyết số 111/NQ-TW ngày 10/4/1965 của
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng và Nghị quyết
số103/NQ-TVQH ngày 21/4/1965 của Uỷ ban Thƣờng vụ
Quốc hội, tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn chính thức hợp
nhất thành tỉnh Bắc Thái kể từ ngày 1/7//1965. Mục đích của
việc hợp nhất là nhằm khai thác hiệu quả hơn các điều kiện
thuận lợi về tự nhiên và xã hội, để xây dựng nền kinh tế hoàn
chỉnh, cân đối về mọi mặt,vững về chính trị, mạnh về an ninh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
154
quốc phòng trong tình hình mới.(1)
Thành phố Thái Nguyên từ đó vừa là tỉnh lỵ tỉnh Bắc Thái,
vừa là thủ phủ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Khu
tự trị Việt Bắc.(2)
Tháng 3-1965 Hội nghị Ban chấp Trung
ƣơng Đảng lần thứ 11 đề ra nhiệm vụ mới:
“Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ xây
dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ
miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong
toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn
sàng để đánh địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến
tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội ” ............................................................................... (1)
“Từ ngày 4 đến ngày 6/6/1965, tại thành phố Thái Nguyên., Tỉnh uỷ
Bắc Kạn và Tỉnh uỷ Thái Nguyên họp Hội nghị để quyết đinh một số
vấn đề về hợp nhất. Hội nghị nhất trí tán thành hợp nhất hai tỉnh làm
một, gọi là tỉnh Bắc Thái và bầu Ban Thƣờng vụ gồm 11 đồng chí. Đồng
chí Lê Hoàng (Uỷ viên dự khuyết Trung ƣơng Đảng, Phó Bí thƣ Khu uỷ
Khu tự trị Việt Bắc đƣợc Trung ƣơng điều động tăng cƣờng cho Bắc
Thái) đƣợc bầu làm Bí Thƣ Tỉnh uỷ.
Hội nghị chỉ rõ: Với diện tích 8.600 km2 , dân số 60 vạn ngƣời, Bắc
Thái là một tỉnh lớn, có thành phố Thái Nguyên là thủ phủ khu Khu tự trị
Việt Bắc,, Có Khu Công nghiệp Gang thép Thái Nguyên, (con chim đầu
đàn của Ngành luyện kim nƣớc ta), có hệ thống giao thông chiến lƣợc (
cả đƣờng sắt và đƣờng bộ ) nối liền thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng
với các tỉmh vùng Việt Bắc lên biên giới Việt Trung. Bắc Thái cũng là
tỉnh có nhiều cơ sở quốc phòng quan trọng, bao gồm hệ thống các nhà
máy (Z) chuyên sản xuất, sửa chữa vũ khí, máy móc quốc phòng”
(Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên 1965 – 2000 - tập II tr. 8 - 9). (2)
Do sự kiện trên, trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến cũng tiếp nhận
đƣợc nhiều học sinh là con em các gia đình cán bộ, viên chức từ tỉnh Bắc
Kạn trƣớc đây thuyên chuyển công tác về các cơ quan của tỉnh Bắc
Thái, đóng tại thành phố Thái Nguyên; nhất là lớp toán đặc biệt (chuyên
Toán) đầu tiên của trƣờng thời kỳ đó, đã thu hút đƣợc một số học sinh
giỏi ở rất xa thành phố Thái Nguyên nhƣ ở các huyện Chợ Đồn, Chợ Rã,
Na rì, Ngân Sơn, Bạch Thông, thị xã Bắc Kạn đƣợc tuyển về học.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
155
Đứng trƣớc yêu cầu, nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên trong
tình hình mới, thay vì tổ chức lớp bồi dƣỡng về chuyên môn
và học tập nhiệm vụ năm học mới trong mỗi dịp hè nhƣ mọi
năm, ty Giáo dục kết hợp với Tỉnh đội Bắc Thái đã kịp thời
tổ chức “Trại hè quân sự” ở xã Ký Phú, huyện Đại Từ cho tất
cả giáo viên cấp II và cấp III trong toàn tỉnh vào cuối tháng
6-1965, để học tập và quán triệt tinh thần Nghị quyết XI
tháng 3/1965 của Trung ƣơng Đảng. Nghị quyết số 111/NQ-
TW ngày 10 – 4 - 1965 của Bộ Chính trị và tiến hành huấn
luyện quân sự, học tập cấp cứu, tải thƣơng...Giáo viên đƣợc
phiên chế thành các tiểu đội, trung đội, đại đội và sinh hoạt
theo nếp sống quân sự hoá.
Các giáo viên trƣờng phổ thông cấp II - III Lƣơng Ngọc
Quyến đƣợc chi bộ và ban giám hiệu xác định tƣ tƣởng và
động viên tinh thần tham gia học tập, nên ai nấy đều phấn
khởi tham gia đầy đủ, nghiêm túc học tập chính trị, quân sự
và rèn luyện nếp sống quân sự hoá. Thông qua đợt học tập,
nhận thức về tình hình nhiệm vụ cách mạng cũng nhƣ về ý
thức trách nhiệm của mỗi đảng viên, giáo viên trong trƣờng
đã đƣợc nâng lên rõ rệt, tất cả đều chuẩn bị tinh thần sẵn sàng
bƣớc vào năm học mới đầy thách thức trong chiến tranh.
Trƣớc tình hình giặc Mỹ tăng cƣờng cho máy bay hoạt
động trinh sát, chuẩn bị đánh phá vào địa bàn tỉnh, ngày 8-7-
1965 Uỷ ban hành chính (UBHC) tỉnh Bắc Thái ra Chỉ thị về
các biện pháp cơ bản trong công tác phòng không nhân dân,
chia địa bàn Thái Nguyên thành 2 vùng:
“Vùng ở trạng thái bị uy hiếp gồm thành phố Thái Nguyên,
các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Bình và các thị trấn ở các
huyện. Vùng trong trạng thái phòng thủ là các huyện còn lại.
Chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của các huyện, thành phố, thị trấn
trong vùng ở trạng thái bị uy hiếp và vùng ở trạng thái phòng
thủ ”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
156
Thực hiện Chỉ thị của UBHC tỉnh, đến đầu tháng 8/1965,
tại thành phố Thái Nguyên, đa số cán bộ nhân viên trong các
cơ quan, đơn vị hành chính đã sơ tán cách xa trung tâm thành
phố từ 8 km trở lên, số còn lại cũng phân tán cách các trọng
điểm có thể bị địch đánh phá ít nhất 1 km.(3)
1. Tiến hành nhiệm vụ triệt để sơ tán, chia tách trƣờng và
hình thành trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến
Chấp hành Chỉ thị số 8 - NC và Chỉ thị số 483 - NC của
UBHC tỉnh về tổ chức phòng không, sơ tán, sáng ngày 10-8-
1965, lãnh đạo Chi bộ và Ban giám hiệu trƣờng phổ thông
cấp II - III Lƣơng Ngọc Quyến đã tiến hành cuộc họp triển
khai kế hoạch sơ tán và chia tách trƣờng đã đƣợc UBHC tỉnh,
ty Giáo dục, và UBHC thành phố nhất trí chuẩn y cho thực
hiện. Để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ phòng không, sơ
tán trong thời chiến, UBHC tỉnh đồng ý với đề nghị của Ty
Giáo dục cho tách trƣờng PT cấp II-III Lƣơng Ngọc Quyến
thành 2 trƣờng: Trƣờng PT cấp II trực thuộc Phòng Giáo dục
thành phố, trƣờng PTcấp III trực thuộc Ty Giáo dục.
Vì trƣờng PT cấp II - III Lƣơng Ngọc Quyến là một nhà
trƣờng đã có bề dày lịch sử, với truyền thống phấn đấu vẻ
vang trong 20 năm qua (1946 - 1965), trong quá trình đó đã
có sự đóng góp của cán bộ giáo viên và học sinh nhiều thế hệ ......................................................................................................................
(3) “Trƣớc tình hình trên, Đảng bộ Thành phố Thái Nguyên kịp thời đề ra
những chủ trƣơng mới thích hợp, ngay từ năm 1964, công tác phòng
không nhân dân đã đƣợc tổ chức triển khai, bƣớc sang năm 1965, quán
triệt tinh thần nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ II
(12/2/1965) và lần III(19/6/1967) công tác phòng không sơ tán, chuẩn bị
chiến đấu đƣợc tiến hành khẩn trƣơng. Các cơ quan, kho tàng, ngƣời già,
trẻ em đƣợc tổ chức rời khỏi thành phố đến các khu vực an toàn”
(Lịch sử Đảng bộ thành phố Thái Nguyên 1930-1975. tr 113)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
157
của cả 2 cấp. Vì vậy căn cứ vào đề nghị của nhà trƣờng,
UBHC tỉnh quyết định vẫn giữ tên nhà yêu nƣớc Lƣơng Ngọc
Quyến cho cả 2 trƣờng và đặt tên là: Trƣờng phổ thông cấp II
Lƣơng Ngọc Quyến và Trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng
Ngọc Quyến.
Ty Giáo dục cùng với Thành uỷ Thái Nguyên thống nhất
cử Đ/c Đỗ Minh Tuấn nguyên là phó Hiệu trƣởng trƣờng phổ
thông cấp II - III Lƣơng Ngọc Quyến, làm Hiệu trƣởng
trƣờng cấp II Lƣơng Ngọc Quyến. Đ/c Dƣơng Văn Tài
nguyên là bí thƣ chi bộ, quyền Hiệu trƣởng trƣờng PT cấp II -
III Lƣơng Ngọc Quyến, làm Hiệu trƣởng trƣờng PT cấp III
Lƣơng Ngọc Quyến. Việc phân chia tài sản chung khi tách
trƣờng, đã đƣợc xử lý thấu đáo nhƣ sau:
Về tài sản vì trƣờng có một phòng thí nghiệm do Trung
Quốc viện trợ từ năm 1956 để phục vụ việc dạy - học theo
chƣơng trình đào tạo của cả cấp II và cấp III nên lãnh đạo hai
nhà trƣờng lúc đó đều thống nhất giải pháp: trang thiết bị thí
nghiệm dùng cho cấp nào thì chuyển giao cho trƣờng cấp đó
sử dụng.
Công việc đƣợc giao cho thầy giáo Nguyễn Văn Tuân,
ngƣời phụ trách phòng thí nghiệm, tiến hành việc phân loại
để thực hiện bàn giao cho từng trƣờng.
Về xƣởng trƣờng cũng đƣợc chia ra nhƣ sau: Xƣởng mộc
giao cho trƣờng cấp II, Xƣởng cơ khí giao cho trƣờng cấp III.
Phòng truyền thống giao cho trƣờng cấp III bảo quản. Bàn
ghế, bảng đen đƣợc chia đầy đủ cho 8 lớp của trƣờng cấp II,
còn lại dùng cho các lớp của trƣờng cấp III.
Từ sau ngày 10 – 8 - 1965 cả hai trƣờng bắt đầu hoạt động
độc lập, dƣới sự lãnh đạo của chi bộ, Ban Giám hiệu mới.
Sau khi chia tách, cả hai trƣờng đều khẩn trƣờng tiến hành kế
hoạch sơ tán trong vòng tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1965.
Trƣờng PT cấp II Lƣơng Ngọc Quyến sơ tán vào xã Thịnh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
158
Đán, thuộc huyện Đồng Hỷ và bố trí các phòng học phân tán
rải rác trên một số quả đồi guột.
Trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến cũng vừa phải tiến
hành việc tháo dỡ trƣờng lớp cũ, vừa làm công tác vận động
các cơ quan đã đi sơ tán nhƣ Toà án tỉnh, Viện Kiểm sát, Ty
Bƣu điện... ủng hộ những căn nhà tre gỗ cũ, để thầy trò dỡ
lấy vật liệu, mang vào khu sơ tán dựng thành lớp học. Công
việc trên do thầy Cáp Trọng Thức phụ trách. Nhà trƣờng
còn đƣợc Công ty Gang thép điều cho một chiếc xe tải lớn
trong 7 ngày và Ty Công nghiệp cũng ủng hộ 3 chuyến xe tải,
để chuyên chở vật liệu bàn ghế...vào nơi sơ tán nên công việc
vận chuyển đƣợc tiến hành khẩn trƣơng, nhanh chóng.
Trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến, lúc đầu sơ
tán vào xã Thịnh Đức, huyện Đồng Hỷ, nhƣng mới dựng
xong lớp học, đào xong hầm trú ẩn và giao thông hào, tiến
hành khai giảng năm học mới (1965 - 1966) và học tập đƣợc
ít ngày thì lại đƣợc lệnh phải chuyển đi vì ở nơi đó chuẩn bị
xây dựng trận địa tên lửa bắn máy bay Mỹ. Thầy trò nhà
trƣờng một lần nữa lại phải tháo dỡ lớp học, khuân vác tre,
nứa, lá, bàn ghế... chuyển sang địa điểm mới ở xã Phúc Trìu,
huyện Đồng Hỷ để dựng trƣờng. Các lớp học đƣợc phân tán
thành 3 khu vực cách nhau. Học sinh và một số giáo viên ở
trong các nhà dân, phân tán trong xóm Chùa, xóm Khuôn,
xóm Na Lải... Trụ sở làm việc của lãnh đạo trƣờng đƣợc bố
trí ở nhà cụ Đinh Văn Ứng xóm Lai Thành. Công việc bộn
bề, mọi việc dựng trƣờng lớp, thầy trò phải làm cả ngày lẫn
đêm để nhanh chóng kịp có phòng học cho 12 lớp phục vụ
cho năm học mới.
“Giữa tháng 10/1965, đế quốc Mỹ mở một chiến dịch lớn
cho không quân đánh phá ác liệt các tuyến giao thông phía
Bắc và Đông Bắc thủ đô Hà Nội. Cầu Gia Bẩy thành phố
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
159
Thái Nguyên là một trong những mục tiêu đánh phá chủ yếu
của không quân Mỹ trong chiến dịch này.
Cầu Gia Bẩy bắc qua sông Cầu, nối Quốc lộ 3 với Quốc
lộ 1B, có chiều dài khoảng 100m, được chia làm 3 nhịp, với
lưu lượng xe ôtô các loại qua cầu mỗi ngày khoảng1.000 lần
chiếc. Đây là một chiếc cầu lớn nằm trên tuyến vận chuyển
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược cả về quốc phòng và kinh
tế. Các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh và hàng hoá do
Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa anh em
viện trợ cho nước ta từ biên giới Việt- Trung theo Quốc lộ 1B
qua cầu Gia Bẩy về thành phố Thái Nguyên, xuôi theo Quốc
lộ 3 về Hà Nội để chuyển tới các chiến trường.
Từ 9 giờ 55 phút đến 10 giờ 30 phút ngày 17/10/1965,
giặc Mỹ huy động 29 lần chiếc máy bay, ném 116 quả bom
phá xuống khu vực cầu Gia Bẩy và bắn nhiều loạt đạn tên
lửa xuống trận địa pháo cao xạ của bộ đội Trung đoàn 210 ở
xóm Xuân Quang ( xã Gia Sàng) mở đầu cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân của chúng vào địa bàn Thái
Nguyên. Cầu Gia Bẩy bị hỏng 2 mố, dầm chủ và dầm bên
thượng lưu bị đứt 3 chỗ, giao thông hoàn toàn bị ngưng trệ ;
147 người bị chết và bị thương ;45 ngôi nhà ở 2 bên đầu cầu
bị cháy, đổ ; 3 cơ sở sản xuất thủ công nghiệp, 2 xe ôtô và 19
xe đạp bị phá huỷ. ” (Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tr. 15 - 16)
Tính đến thời điểm sáng ngày 17-10-1965, khi đế quốc Mỹ
mở đầu đợt ném bom phá hoại xuống địa bàn thành phố Thái
Nguyên, thì thầy trò trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến
cũng đã kịp rút khỏi thành phố, sơ tán an toàn vào xã Thịnh
Đức rồi Phúc Trìu, tiến hành khai giảng năm học mới dƣới
tán rừng và bƣớc vào năm học đầu tiên trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc (1965 - 1975).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
160
2. Trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến trong thời kì
sơ tán lần thứ nhất (1965 - 1969)
Sau khi tiến hành tách trƣờng và tách chi bộ (10 - 8 -
1965). Chi bộ Đảng trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến do
thầy Lại Đức Thông làm Bí thƣ chi bộ, thầy Dƣơng Văn Tài
làm chi uỷ viên. Từ năm 1967 thầy Lại Đức Thông là bí thƣ
chi bộ, thầy Lƣơng Đình Lũng là chi uỷ viên.
Đội ngũ đảng viên trong thời kì đó (1965 - 1968) ngày
càng phát triển, gồm các đồng chí: Bùi Đình Khoát, Lƣơng
Đình Lũng, Nguyễn Vân Long, Dƣơng Văn Loan, Nguyễn
Phúc Lộc, Lại Thị Mỹ, Nguyễn Minh Nguyệt, Dƣơng Văn
Tài, Lại Đức Thông, Nguyễn Văn Thƣ, Cáp Trọng Thức.
Từ năm học 1965 - 1966 đến năm 1970 thày Dƣơng Văn
Tài, giáo viên chính trị, uỷ viên ban cán sự giáo dục của tỉnh
làm Hiệu trƣởng.
Cũng nhƣ các nhà trƣờng phổ thông hồi đó, trƣờng phổ
thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến luôn tôn trọng việc lãnh
đạo của “bộ tứ” (gồm Bí thƣ Chi bộ, Hiệu trƣởng, Bí thƣ
Đoàn, Thƣ ký Công đoàn). Các đoàn thể chính trị trong nhà
trƣờng đã lãnh đạo tổ chức mình phát huy vai trò trong việc
thực hiện các nội dung chủ yếu mà nghị quyết Đại hội chi bộ
đầu năm học 1965 - 1966 đã đề ra là:
“- Quan tâm hàng đầu đến công tác phòng không, đảm
bảo an toàn tuyệt đối cho thầy và trò.
- Chú trọng rèn luyện tư tưởng đạo đức, kỷ luật và tác
phong quân sự hoá.
- Duy trì và đẩy mạnh thường xuyên phong trào thi đua
“dạy tốt, học tốt”.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ giáo
viên và học sinh nhất là đối với học sinh sơ tán theo trường.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
161
- Thực hiện tốt mối quan hệ với nhân dân. Phối hợp chặt
chẽ với địa phương trong công tác bảo mật, tuần tra canh
gác.”
Chi bộ Đảng đã phát huy đƣợc vai trò lãnh đạo toàn diện
tuyệt đối mọi hoạt động của nhà trƣờng.
Mặc dù điều kiện tiến hành dạy và học trong hoàn cảnh sơ
tán, lại phải chuyển đổi nhiều địa điểm, nhƣng chi bộ vẫn
kiên trì chỉ đạo nhà trƣờng giữ vững đƣờng lối, quan điểm
giáo dục của Đảng và thực hiện đầy đủ nghị quyết của đảng
bộ cấp trên cũng nhƣ nghị quyết Đại hội chi bộ trƣờng hàng
năm đề ra. Các đảng viên đều gƣơng mẫu về mọi mặt, luôn đi
đầu trong việc thực hiện nghị quyết của Chi bộ và các chủ
trƣơng, kế hoạch của nhà trƣờng đề ra.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác Đoàn Thanh
niên. Năm 1965 - 1966 Chi bộ Đảng đã phân công đồng chí
Nguyễn Vân Long làm bí thƣ Đoàn trƣờng thay đồng chí Đỗ
Am đƣợc điều động lên công tác tại Tỉnh Đoàn. Năm 1967
đồng chí Nguyễn Vân Long đƣợc tuyển vào đơn vị Bộ đội tên
lửa thì Chi bộ cử chi uỷ viên là thầy giáo Lƣơng Đình Lũng
làm Bí thƣ Đoàn trƣờng. Từ 1968 là thầy Nguyễn Phúc Lộc,
một đảng viên trẻ làm Bí thƣ Đoàn trƣờng.
Đoàn Thanh niên nhà trƣờng luôn là lực lƣợng xung kích
trong mọi phong trào. Từ việc lao động chuyển trƣờng, dựng
lớp, đào hầm hào, tuần tra canh gác đến công tác dân vận,
tham gia cùng nhân dân địa phƣơng chống hạn, làm bèo hoa
dâu, gặt lúa, hái chè, dỡ sắn...
Đoàn đẩy mạnh mọi hoạt động trong phong trào “tự quản”
của học sinh và tổ chức các hoạt động thi đua tập trung vào
chủ đề “dạy tốt, học tốt”.
Thông qua việc phổ biến về tình hình thời sự và giới thiệu
về các tấm gƣơng điển hình trong thanh niên cả nƣớc trên các
mặt trận chiến đấu, sản xuất và học tập, Đoàn trƣờng đã xây
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
162
dựng cho đoàn viên và học sinh về lý tƣởng sống và niềm tin
chiến thắng. Các đoàn viên đều đăng ký “3 sẵn sàng” theo
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Học sinh toàn trƣờng đều
tự giác rèn luyện nếp sống quân sự hoá, tôn trọng tổ chức, kỷ
luật. Xây dựng đƣợc tình đoàn kết, thân thiết, yêu thƣơng bạn
bè cùng lớp, cùng trƣờng.
Bộ phận học sinh đi sơ tán theo trƣờng đƣợc bố trí ở theo
nhóm trong các nhà dân trong xã. Học sinh đều chịu khó vào
rừng kiếm củi, trồng sắn, trồng rau, tự tổ chức nấu ăn, sống
cần kiệm và có tinh thần giúp đỡ nhau trong cuộc sống xa gia
đình.
Năm nào Đoàn trƣờng cũng tổ chức đợt “Hành quân cắm
trại” theo hình thức “quân sự hoá” với mũ cứng, gậy tre, áo
sẫm mầu, vai khoác lá nguỵ trang...Trên đƣờng hành quân,
học sinh phải giải các bài tập khó mới đƣợc vƣợt qua các
“cửa ải” để tiếp tục “hành quân”. Trại đƣợc cắm dƣới chân
núi Cốc. Cả trƣờng đi lấy củi về chất thành đống lớn. Tối
đến, ngọn lửa trại bập bùng rực cháy, Thầy trò hào hứng cùng
nhau quây vòng, sôi nổi vỗ tay theo nhịp và hát vang các bài
“Đêm Trƣờng Sơn nhớ Bác”, “Chiếc gậy Trƣờng Sơn”...Trại
rất vui và mang một không khí trang nghiêm nhƣ trƣớc giờ
xuất trận...
Về Công đoàn trƣờng, đồng chí Nguyễn Đức Lực tiếp đó
là đồng chí Nguyễn Thị Phơn đƣợc Chi bộ phân công đảm
nhiệm chức vụ Thƣ ký Công đoàn.
Công đoàn trƣờng tập trung động viên phong trào thi đua
dạy tốt và chăm lo ổn định cuộc sống của cán bộ giáo viên
nơi sơ tán.
Công đoàn làm tốt công tác giáo dục tƣ tƣởng cho đoàn
viên, giới thiệu những đoàn viên ƣu tú để cho chi bộ Đảng
xét kết nạp. Công đoàn phối hợp chặt chẽ với chuyên môn, tổ
chức phong trào dự giờ, dự lớp, tổ chức các cuộc thi dạy giỏi,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
163
góp phần làm cho tập thể giáo viên khắc phục khó khăn, hăng
hái hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn. Công đoàn trƣờng
cũng đã chú trọng chỉ đạo phong trào tăng gia tự túc, động
viên bác Bẩy và chị Phƣợng xây dựng tốt bếp ăn tập thể của
cán bộ giáo viên và của học sinh lớp toán đặc biệt. Ban chấp
hành Công đoàn cùng với Ban Chi uỷ và Hiệu trƣởng còn
tích cực làm công tác dân vận, do vậy trong những năm tháng
sơ tán, thầy trò nhà trƣờng đƣợc bà con địa phƣơng quí mến,
đùm bọc, giúp đỡ rất tận tình.
Năm học 1965 -1966, năm học đầu tiên của thời kỳ sơ tán,
trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến có 12 lớp: 4 lớp 8, 4
lớp 9, 4 lớp 10, mỗi lớp có khoảng 45 - 47 học sinh, với tổng
số trên 500 học sinh .
Việc dạy và học trong thời kỳ này cũng đầy ấn tƣợng và rất
đỗi tự hào. Để đảm bảo việc học tập, ngay trong những ngày
đầu sơ tán ở xã Thịnh Đức, trong khi thầy trò chƣa dựng
xong các lớp học tại nơi sơ tán, thì học sinh đã tập trung ngay
dƣới những gốc cây to có tán lá rộng hoặc ven bụi tre ở các
sƣờn đồi, làm địa điểm để học.
Các ghế băng dài thƣờng ngồi hàng ngày, trở thành bàn
viết; còn dép, guốc trở thành “ghế” ngồi. Học sinh chăm chú
nghe các thầy cô giáo giảng bài và ghi chép vào vở đặt trên
ghế băng. Khó khăn gian khổ là vậy, nhƣng không khí học
tập vẫn nghiêm túc, hăng say.
Tại Phúc Trìu, thầy trò nhà trƣờng cũng đã trải qua những
ngày đêm ra sức đào hầm hào để tránh bom đạn. Xung quanh
lớp đƣợc đắp lũy đất dày, bốn phía hiên lớp học có lá cọ che
giáp tới mặt lũy. Trƣớc các cửa lớp, có các đƣờng hào dẫn ra
các tuyến hào dích dắc chạy quanh quả đồi, ẩn dƣới các tán
rừng cây rậm rạp.
Mỗi lớp có độ 40 học sinh, đƣợc bố trí có một khoảng hào
nhất định, trong khoảng hào lại đào các ngách đủ chỗ cho tất
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
164
cả học sinh từng lớp xuống hào trú ẩn tránh bom đạn.
Có những ngày chỉ trong một buổi học, học sinh và thầy cô
phải tạm ngừng đến 3 - 4 lần để khẩn trƣơng thoát ra hầm
hào, đến khi máy bay địch đã bay xa, có kẻng báo yên, thì
thầy trò lại từ các căn hầm, các ngách giao thông hào, khẩn
trƣơng kéo về lớp, tiếp tục học tập.
Ngay trong năm đầu đi sơ tán, trƣờng đã quyết tâm tuyển
một lớp toán đặc biệt (thời đó chƣa gọi là lớp chuyên toán) và
đây cũng là lớp toán đặc biệt đầu tiên trong lịch sử nhà
trƣờng cũng nhƣ của ngành giáo dục tỉnh Bắc Thái.
Vƣợt qua hiểm nguy do máy bay Mỹ bắn phá, các thầy
giáo trong tổ toán ngày ấy đã phân công nhau đạp xe tỏa đi
khắp các huyện trong tỉnh, tuyển đƣợc hơn 40 em học sinh
giỏi về học. Thầy Lƣơng Đình Lũng là giáo viên chủ nhiệm
lớp toán đặc biệt đầu tiên. Hệ lớp toán đặc biệt đƣợc duy trì
đến năm 1971 - 1972 do thầy Bùi Kính Hùng, cô Lại Thị
Mỹ, thầy Đào Thế Hƣng là những thầy, cô dạy toán đầy nhiệt
huyết và dày kinh nghiệm dẫn dắt các em. Đến năm 1972 do
chiến tranh ác liệt, trƣờng lại phải chia nhỏ ra để dễ hoạt
động, do vậy lớp toán đặc biệt này cũng không duy trì đƣợc,
(cho đến năm học 1982-1983 trƣờng mới mở lại các “Lớp
Chọn”).
Ủy ban hành chính tỉnh và Ty Giáo dục Bắc Thái cũng đã
có chế độ ƣu đãi dối với học sinh của lớp toán đặc biệt. Trong
khi đó miền Bắc chúng ta với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền
tuyến”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc” nên còn vô
vàn khó khăn, nhƣng học sinh lớp toán đặc biệt của trƣờng
Phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến cũng đƣợc hƣởng tiêu
chuẩn nhƣ dân thành phố: Một tháng đƣợc mua 15 kg lƣơng
thực (gạo, mỳ hoặc ngô, sắn), đƣợc cấp tem phiếu mua vải,
đƣờng, thịt và học bổng hàng tháng là 9 đồng 6 hào ( lúc đó
chỉ có 4 hào 1kg gạo )
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
165
Cuộc sống sinh hoạt và học tập của học sinh lớp toán đặc
biệt đƣợc cán bộ, giáo viên nhà trƣờng chăm sóc và dạy dỗ
chu đáo. (4)
............................................................ (4)
“Tuy phải ở trọ nhà dân nhƣng thầy Bùi Kính Hùng luôn dành thời
gian, đến từng nhóm chúng tôi trọ để hƣớng dẫn chúng tôi phƣơng pháp
học, chỉ bảo thực hiện nền nếp trong sinh hoạt, tác phong quân sự phù
hợp với thời chiến và làm tốt công tác dân vận.
Hàng ngày, chúng tôi lên lớp nghe giảng buổi sáng, buổi chiều tự học
theo nhóm trọ ở nhà dân. Các môn khác chúng tôi đều tự học, riêng môn
toán thầy Hùng tự ra và sƣu tầm trong báo “Toán học tuổi trẻ” hoặc dịch
từ sách tiếng Nga cho chúng tôi rất nhiều bài tập về nhà, để học sinh tìm
đƣợc phƣơng pháp hay, đồng thời rèn luyện tính kiên trì, ham học và kỹ
năng tính toán. Nhiều bài toán hay, có nhiều phƣơng pháp giải để đi đến
đáp số, chúng tôi lại có dịp trao đổi , tranh luận từ trong nhóm trọ đến
các nhóm gần nhau và nhiều khi phải nhờ thầy Hùng phân xử mới đi đến
kết luận thoả đáng.
Trong điều kiện thời chiến nhƣ vậy nhƣng chúng tôi vẫn duy trì nền
nếp sinh hoạt và hoạt động tập thể : Thứ bảy hàng tuần sinh hoạt lớp để
lớp trƣởng và bí thƣ chi đoàn nhận xét, kiểm điểm. Hàng tháng, thầy chủ
nhiệm họp với các nhóm ở trọ nhà dân để lắng nghe phản ảnh của các
gia chủ, nắm bắt diễn biến tƣ tƣởng cũng nhƣ tâm tƣ, nguyện vọng và
hoàn cảnh của từng học sinh, động viên chúng tôi hoàn thành tốt nhiệm
vụ học tập nhƣng không quên công tác dân vận để “ đi dân nhớ, ở dân
thƣơng ”.
Từ đầu năm học lớp 9, chúng tôi tiếp quản khu nhà ở tập thể và lớp
học của các anh chị 10A tốt nghiệp phổ thông, bƣớc vào các trƣờng đại
học trong và ngoài nƣớc. Nhà tập thể mà thầy trò chúng tôi đến ở là hai
nhà cột tre mái lợp cỏ tranh, ở bên các đồi sim, mua của thôn Lai Thành,
xã Phúc Trìu...
Lớp học của chúng tôi cũng rất giản đơn đƣợc làm theo kiểu nhà hầm
cho phù hợp với thời chiến để chống đƣợc bom đạn của giặc Mỹ, đó là
“ngôi nhà ” không cột, chỉ có kèo để mái lá cỏ tranh úp lên căn hầm to
đào chìm dƣới đất, bốn phía có lối thoát ra giao thông hào đứng ngập
đầu đến các hầm kèo trú ẩn xung quanh, mỗi khi có còi báo động của
KhuGang thép hoặc kẻng báo động của địa phƣơng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
166
Thông thƣờng, buổi tối chúng tôi học đến 9 -10 giờ dƣới ánh đèn dàu
tù mù thì bụng đã đói cồn cào. Ở tuổi chúng tôi khi đó thiếu thốn nên ăn
gì cũng thấy ngon, chả thế mà ngồi vui sau những giờ học căng thẳng,
thầy trò chúng tôi tranh luận đi đến thống nhất kê ra thứ tự các món ƣa
thích “Ngon nhất là mỳ, thứ nhì cà muối...”
Đời sống khó khăn nhƣ vậy nhƣng không ảnh hƣởng đến việc dạy và
học của thầy trò chúng tôi: Có những buổi lên lớp thầy say sƣa giảng, trò
chăm chú nghe đến khi thầy tựa lƣng vào bảng (đƣợc chúng tôi xoa bằng
nhọ nồi và lá khoai lang cho đen để dễ nhìn) làm lƣng áo thầy đen
nhẻm.
Sau buổi học đáng nhớ đó, thày Hùng thay đổi phƣơng pháp dạy toán
cho chúng tôi tiếp thu bài thật thoải mái: Thầy đƣa ra cách giải bài mới,
sau đó thầy giải ngắn gọn, hay nhất.trò cùng tranh luận để tìm ra phƣơng
pháp và cách Không phụ nhiệt huyết của thầy, trong kỳ thi học sinh giỏỉ
toán lớp 10 toàn tỉnh năm 1969-1970 các bạn Chính, Văn, Ban, Bình,
Minh lớp tôi đều đạt giải nhất , nhì của tỉnh và đƣợc cử đi thi học sinh
giỏi toán toàn miền Bắc đạt giải ba và khuyến khích...”
Trích bài hồi ký của anh Nguyễn Đăng Thắng,
Nguyên học sinh lớp toán đặc biệt khoá 1957 - 1970..
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
167
Trƣớc tình hình đế quốc Mỹ tăng cƣờng mở rộng chiến
tranh ra cả hai miền Nam, Bắc nƣớc ta. Ngày 17- 07-1966
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chống Mỹ cứu nƣớc:
“... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do. Đến
ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (5)
Hƣởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nƣớc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Nhà trƣờng đã kịp thời tổ chức đợt sinh hoạt
chính trị đặc biệt cho cán bộ giáo viên và học sinh, học tập
“Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nƣớc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và liên hệ tƣ tƣởng, xác định tinh thần ý chí quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ chống Mỹ cứu nƣớc trên mặt trận giáo dục.
Giữa lúc nhà trƣờng đang gặp phải hoàn cảnh có nhiều khó
khăn, vừa lo phòng không sơ tán, vừa tiếp tục đẩy mạnh hoạt
động dạy và học, lo tăng gia sản xuất, lo giữ vững sinh họat
đời sống cho cán bộ và học sinh, thì ngày 16-10-1968 thầy
trò nhà trƣờng rất phấn khởi đƣợc đón nhận thƣ của Hồ Chủ
tịch gửi cho cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học
sinh, sinh viên nhân dịp năm học mới, trong đó Bác đã căn
dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy
tốt, học tốt” Lời dặn của Bác đã giữ vững tinh thần để thầy
trò quyết tâm khắc phục khó khăn dạy và học thật tốt. Lời
Bác dặn từ đó đã trở thành khẩu hiệu hành động của nhà
trƣờng. Tuy dạy và học trong hoàn cảnh sơ tán có nhiều khó
khăn, phức tạp, nhƣng vẫn giữ vững tinh thần quyết tâm thực
hiện lời Bác dạy. .............................................................................
(5) ( Hồ Chí Minh- Vì độc lập tự do ví chủ nghĩa xã hội, NXB Sự
thật,1970, tr.282)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
168
Không khí bao trùm trong nhà trƣờng lúc đó là tinh thần
rèn luyện phấn đấu “vừa hồng vừa chuyên”. Thầy cô say sƣa
miệt mài soạn giáo án dƣới ánh đèn dầu. Trò miệt mài học
bài và làm cho hết bài tập với khẩu hiệu đề ra là “Chƣa làm
hết bài tập thì chƣa đi ngủ”. Trong học sinh có phong trào
truy bài theo nhóm và giúp đỡ nhau trong học tập. Tháng nào
trƣờng cũng tổ chức thi giảng dạy. Mỗi tuần, mỗi tháng đều
có chủ điểm thi đua riêng. Việc rèn luyện quân sự và phong
trào cất cao “Tiếng hát át tiếng bom” rất sôi nổi.
Do việc dạy và học đƣợc duy trì với khí thế sôi nổi và
quyết tâm, nên trƣờng vẫn luôn đứng đầu về viên dạy giỏi
trong tỉnh. tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp, về số học sinh giỏi.
Đội ngũ giáo viên của trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến
cũng dần đƣợc tăng cƣờng (trong đó có nhiều thầy cô dạy
giỏi).
Giáo viên dạy toán gồm có: các thầy Bùi Kính Hùng, Đào
Thế Hƣng, Lƣơng Đình Lũng, Phạm Đan Quế, Hồ Ngọc Vân
và các cô Lại Thị Mỹ, Trần Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Thuý
Khảm. Lê Kim Cƣơng
Dạy lý gồm các thầy Vũ Ngọc Du, Nguyễn Xuân Hải,
Dƣơng Trực Sỹ và cô Hoan.
Dạy hoá có các cô Nguyễn Thị Phơn, Đỗ Thị Thân, Phạm
Thị Trinh Mai, và thầy Trịnh Văn Vải
Dạy sinh có : Thầy Phan Tiến Dũng,
Dạy văn gồm: các thầy Hạnh, thầy Vũ Ngọc Nhâm, thầy
Phẩm, thầy Phúc Lộc, thầy Lê Huy Linh, Cô Chung, cô Vũ
Thị Minh Hƣơng.
Dạy sử gồm: cô Châu, thầy Hoàng, thày Lê Trọng Hồng,
cô Nguyễn Thị Ngọc Nhi, thầy Cáp Trọng Thức.
Dạy địa có: cô Tuyết.
Dạy chính trị có: thầy Dƣơng Thế Lƣơng, thầy Lại Đức
Thông.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
169
Dạy Nga có: thầy Lƣu Giầu, thầy Chuyền, thầy Vân Long,
thầy Kỳ Tài.
Dạy Trung văn có: thầy Lực.
Dạy thể dục có: thầy Trần Mạnh Chƣơng.
Buổi tổng kết năm học đầu tiên (1965-1966) diễn ra dƣới
tán cây đồi Trám. Giấy khen cho học sinh giỏi chỉ là một tờ
giấy pơ luya đánh máy, vậy mà học sinh đều nâng niu trân
trọng, sung sƣớng và cảm thấy vinh dự vô cùng.
Đến nay, thế hệ học sinh thời kì sơ tán lần đầu tiên ấy rất
tự hào khi đƣợc biết, trong số học sinh đó có nhiều ngƣời sau
này đã phấn đấu rất thành đạt nhƣ:
Nguyễn Văn Vỵ tiến sỹ vật lý là Giám đốc sở Công nghệ
- Môi trƣờng tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Văn Bền Giám đốc
sở Giáo dục - Đào tạo Bắc Kạn, Ma Khánh Bào giám đốc
Công an tỉnh Thái Nguyên, Tô Đức Long tiến sỹ cơ khí tại
Cục Đăng kiểm, Đặng Thị Đáp Giáo sƣ tiến sỹ sinh hoá
(UBKHKT VN), Nguyễn Văn Toàn đại tá Học viện Quân sự,
Nguyễn Cƣơng tổng Cục phó Kiểm Lâm, Vũ Thụy Hùng tiến
sỹ giảng viên Đại học Thái Nguyên, Trần Đình Động tiến sỹ
vật lý, giảng viên trƣờng Đại học Nông nghiệp I, Nguyễn Thị
Sở giảng viên Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, Lê Minh
Chính tiến sỹ y khoa Đại học y khoa Thái Nguyên và còn
nhiều sĩ quan cao cấp trong quân đội, nhiều tiến sĩ các ngành
khoa học và nhiều chuyên viên, kĩ sƣ, bác sỹ đầy tài năng...
3. Thời kì trở lại hoạt động tại địa điểm trƣờng cũ
(1969 - 1972) Trƣớc thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Nam - Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc và sau chiến
thắng xuân Mậu Thân 1968, chiến lƣợc chiến tranh cục bộ
của Mỹ bị phá sản. Ngày 31/3/1968 đế quốc Mỹ phải “xuống
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
170
thang”, tạm ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20
trở ra.
Từ sau ngày hiệp định Pari đƣợc kí kết, bƣớc vào năm học
1969 - 1970, trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến cũng đã
đƣợc lệnh từ nơi sơ tán chuyển về địa điểm trƣờng cũ. Thầy
trò lại khẩn trƣơng tu sửa, xây dựng cơ sở vật chất, nhanh
chóng ổn định hoạt động dạy và học.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân
dân ta đang thu đƣợc nhiều thắng lợi trên cả hai miền Nam
Bắc thì hồi 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969. Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của nhân dân ta đã từ
trần, để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta một tổn thất
vô cùng lớn lao, một nỗi đau thƣơng vô hạn.
“Với niềm thương tiếc và lòng biết ơn sâu sắc, Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ họp phiên đặc biệt, ra Nghị quyết lãnh đạo tổ
chức lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tỉnh và các huyện,
thành phố, xã, thị trấn, cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học
trong toàn tỉnh” (Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tập II tr. 87)
Trƣờng phổ thông Cấp III Lƣơng Ngọc Quyến đã kịp thời
tổ chức trang nghiêm, trọng thể Lễ truy điệu và để tang Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong niềm tiếc thƣơng vô hạn.
Biến đau thƣơng thành hành động, thầy trò nhà trƣờng đã
hạ quyết tâm nhanh chóng tháo dỡ các lớp học tre nứa, rồi
khiêng, gánh, thồ bằng xe đạp, chuyển hơn 10 cây số về khu
trƣờng cũ, thầy trò lại cùng nhau khẩn trƣơng dọn vệ sinh
trƣờng sở, ( lúc ấy khu nhà tầng đang là kho chứa đầy thuốc
trừ sâu DDT, thầy trò phải xúc chuyển đi nơi khác, rồi gánh
nƣớc rửa sạch nền các lớp học, để nhanh chóng bƣớc vào
năm học mới.)
Thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc của
Ngƣời, thầy trò nhà trƣờng quyết tâm thực hiện việc cải tiến
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
171
nội dung, phƣơng pháp giảng dạy và học tập. Năm học 1969-
1970 trƣờng đƣợc Ty Giáo dục đánh giá chất lƣợng giáo dục
đạt cao nhất trong các trƣờng cấp III toàn tỉnh.
Năm học 1970 - 1971, nhà trƣờng cũng đã đón nhận thêm
các học sinh từ Đồng Hỷ chuyển sang học, làm cho số lớp và
học sinh trƣờng thêm đông. Qui mô đã lên tới 21 lớp, với gần
1000 học sinh, trong đó vẫn có hệ thống các lớp của khối học
sinh toán đặc biệt
Từ năm 1970 Thầy Phạm Khang đƣợc bầu là Bí thƣ chi bộ.
Hiệu trƣởng nhà trƣờng vẫn là thầy Dƣơng Văn Tài. Đội ngũ
giáo viên của trƣờng cũng có nhiều biến động, Theo yêu cầu
củng cố đội ngũ giáo viên của trƣờng, một số thầy cô giáo
đƣợc điều chuyển đi công tác ở trƣờng khác và một số thầy
cô giáo nơi khác đƣợc tăng cƣờng về trƣờng nhƣ các thầy Bùi
Quang Bảo, Vũ Hƣng, Trần Hùng, các cô Phan thị Hạnh,
Nguyễn Thị Phục...Ngoài ra trƣờng còn có nhiều sinh viên
mới tốt nghiệp Đại học sƣ phạm hệ hoàn chỉnh 4 năm về
trƣờng công tác nhƣ thầy Nguyễn Văn Thƣ, Chu Thôn, Hà
Đức Lục, Nguyễn Thành Luận, Dƣơng Văn Loan, cô Lê Thị
Nga. (hai thầy Thư và Loan đã là đảng viên được kết nạp từ
trường Đại học sư phạm).
Khó khăn đặt ra lúc này là cơ ngơi trƣờng sở lại chỉ có một
dãy nhà 3 tầng với 12 phòng học, một nhà thí nghiệm và hai
dãy nhà tập thể giáo viên.
Trƣớc tình hình đó, nhà trƣờng đã nhanh chóng tìm cách
kịp thời làm thêm phòng học tạm (cột mai mái lá) để đảm bảo
cho yêu cầu của dạy và học.
Hƣởng ứng cuộc phát động của Công đoàn, giáo viên của
trƣờng có phong trào làm “đồ dùng trực quan” bổ sung đồ
dùng dạy học bị hƣ hỏng trong khi di chuyển sơ tán và có
thêm nhiều đồ dùng dạy học trên lớp.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
172
Những ngày đầu trở lại trƣờng cũ, song song với việc ổn
định đời sống cho các gia đình cán bộ giáo viên, nhà trƣờng
đã đƣa hoạt động dạy - học nhanh chóng đi vào nền nếp.
Phong trào thi đua “Hai tốt” vẫn đƣợc giữ vững và liên tục
đƣợc đẩy mạnh bằng nhiều hình thức và biện pháp tích cực.
Thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo gƣơng điển
hình tiên tiến lúc đó là trƣờng cấp II Bắc Lý, trƣờng Thanh
niên Dân tộc xã hội chủ nghĩa tỉnh Hoà Bình do Bộ Giáo dục
phát động. Việc đƣa lao động sản xuất vào nhà trƣờng, đã trở
thành một vấn đề trọng tâm trong công tác của nhà trƣờng.
Hàng tuần, mỗi lớp đều có một buổi lao động, sửa sang
trƣờng lớp, tiến hành trồng cây, làm vƣờn ƣơm giống cây,
vƣờn cây ăn quả. Thầy trò nhà trƣờng hăng hái đào móng,
san nền, dựng thêm những phòng học bằng tre lá, phòng họp
Hội đồng giáo dục, phòng làm việc của Ban giám hiệu... Dẫu
còn là nhà tre mái lá đơn sơ, nhƣng cũng đã làm đủ số phòng
cho học sinh học theo hai ca.
Mỗi năm nhà trƣờng đều tổ chức 1-2 đợt lao động công ích
xã hội chủ nghĩa. Nhà trƣờng đã tổ chức cho học sinh tham
gia lao động gặt mùa, rỡ sắn, đắp đê, san lấp hố bom...
Từ năm 1971, thầy Dƣơng Văn Tài đƣợc điều ra làm
trƣởng phòng Giáo dục thành phố, thầy Bùi Quang Sang, cán
bộ miền Nam tập kết, nguyên là cán bộ tổ chức của ty Giáo
dục Bắc Thái và là uỷ viên Ban cán sự giáo dục tỉnh, đƣợc cử
về làm Hiệu trƣởng.
Năm học 1970 - 1971 của trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc
Quyến kết thúc hết sức thắng lợi, không chỉ là kết quả khôi
phục lại trƣờng sở sau chiến tranh mà cả phong trào thi đua
“Hai tốt” cũng diễn ra sôi nổi. Năm học đã kết thúc với tỷ lệ
chất lƣợng các mặt giáo dục của các khối lớp đạt khá cao,
học sinh tốt nghiệp đạt tỷ lệ cao so với toàn tỉnh.
Thời kỳ 1969 -1972 đối với trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
173
Quyến là thời kỳ có nhiều ý nghĩa:
Năm 1969 là năm mở đầu cho thời kỳ khôi phục lại trƣờng
sở sau chiến tranh phá hoại lần I, đồng thời cũng là năm tiếp
tục thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
III (6 - 1967)
Năm 1971 trở đi là năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ thành phố khoá IV (tháng 4 -1971) về phát triển kinh tế -
văn hoá - xã hội. Nhà trƣờng đã đề ra phƣơng hƣớng nâng
cao chất lƣợng giáo dục toàn diện nhằm góp phần đào tạo con
ngƣời lao động mới cho địa phƣơng và đất nƣớc sau chiến
tranh.
4. Thời kì sơ tán lần thứ II (1972 - 1973)
Tháng 3 năm 1972, trên đà thắng lợi, quân giải phóng miền
Nam mở cuộc tiến công chiến lƣợc, chọc thủng 3 tuyến
phòng thủ mạnh nhất của Mỹ- nguỵ trên những địa bàn chiến
lƣợc quan trọng. Chiến lƣợc “Việt Nam hoá” chiến tranh của
đế quốc Mỹ, đứng trƣớc nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.
Nhằm cứu vãn tình thế thất bại, đế quốc Mỹ thực hiện việc
“Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh xâm lƣợc miền Nam, đồng
thời chúng liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
2, đối với miền Bắc nƣớc ta.
Từ tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ đã huy động một khối
lƣợng lớn máy bay hiện đại và hải quân, tăng cƣờng ném
bom nhằm phá hoại hệ thống giao thông, các cơ sở kinh tế
quốc phòng. Thành phố Thái Nguyên cũng là một trọng điểm
bắn phá của không quân Mỹ lần này.
Ngày 25/4/1972 Ban Thƣờng vụ Tỉnh uỷ họp ra Nghị quyết
chỉ rõ: “Cần phải tiến hành gấp việc tổ chức sơ tán, phân tán,
giãn bớt mật độ dân số quá đông ở các khu vực trọng điểm
để hạn chế thiệt hại xuống mức thấp nhất nếu địch đánh phá;
đồng thời vẫn phải đảm bảo sản xuất và phục vụ chiến đấu
tốt”
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
174
Đến cuối tháng 4/1972, các cơ quan, bệnh viện, trƣờng học,
những ngƣời già, trẻ em, phụ nữ có thai... đƣợc lệnh sơ tán
gấp ra khỏi thành phố Thái nguyên.
Trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến đã đƣợc lệnh
tiếp tục sơ tán sang xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ, bên kia
sông Cầu, phía đông thành phố,
Thầy Dƣơng Văn Loan là đảng viên, Bí thƣ Đoàn trƣờng
cùng với số đông nam học sinh lớn, có sức khoẻ, đã thức
trắng nhiều đêm, hì hục ghép tre nứa thành mảng, chở các vật
liệu: tranh tre nứa lá, bảng, bàn ghế qua sông Cầu để dựng
trƣờng lớp. Chẳng bao lâu 12 phòng học tranh tre, một dãy
nhà tập thể giáo viên đã đƣợc thầy trò dựng xong, hệ thống
hầm kèo, giao thông hào và lũy đất bao quanh lớp đƣợc
nhanh chóng hoàn thành.
Thời gian này(6)
không quân Mỹ đã dùng cả Pháo đài bay
B52 và máy bay F111A ném bom ác liệt xuống những vị trí
gần nơi sơ tán của trƣờng. Có nhiều buổi học phải bỏ dở,
nhiều tiết học bị gián đoạn nhƣng giáo viên, học sinh vẫn
không nao núng. Máy bay địch đến đánh phá thì nhanh chóng
xuống hầm trú ẩn, máy bay đã bay xa, lại trở vào lớp, tiếp tục
học tập. Giờ dạy bị gián đoạn, lại đƣợc dạy bù, dạy đuổi cho
kịp chƣơng trình năm học, vì vậy nhà trƣờng đã đảm bảo
đúng tiến độ năm học và đạt kết quả cao trong kỳ thi tốt
nghiệp. ..................................................................................................................
(6) “Từ tháng 10/1972, trên địa bàn Thái Nguyên giặc Mỹ tăng cƣờng sử
dụng máy bay F111A đánh phá ban đêm. Chỉ trong 22 ngày ( từ ngày 1
đến ngày 22/10/1972 khi Mỹ ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra) máy bay địch đã bắn phá Thái Nguyên 46 trận ( có 32
trận đánh đêm chủ yếu bằng máy bay F111A) ném 738 quả bom phá,
bắn nhiều loạt đạn rốc két, tên lửa xuống Thái Nguyên, làm hơn 200
ngƣời chết và bị thƣơng”
( Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập II tr.107)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
175
5. Trở lại hoạt động tại địa điểm trƣờng cũ sau khi
chiến tranh phá hoại chấm dứt.
Ngày 7-11-1972, hơn một tháng sau khi thắng cử, tiếp tục
làm tổng thống Hoa Kỳ, Ních xơn lại ra lệnh tăng cƣờng
đánh phá Miền Bắc, chúng huy động một lực lƣợng tới 729
lần chiếc máy bay B52, 1900 lần chiếc máy bay cƣờng kích,
tập kích 12 ngày đêm vào Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Mô,
Kép, Thái Nguyên.
Do bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam - Bắc nhất là
sau chiến thắng Điện Biên Phủ trên không tại Hà Nội 12 ngày
đêm cuối tháng 12/1972, ngày 27/1/1973, Đế quốc Mỹ buộc
phải chính thức ký Hiệp định Pa ri về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Việt Nam, cam kết công nhận các quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút hết quân đội viễn
chinh, quân chƣ hầu và các nhân viên, cố vấn quân sự Mỹ ra
khỏi miền Nam nƣớc ta. Hoà bình đƣợc lập lại trên miền Bắc.
Sau ngày hiệp định Pa ri đƣợc ký kết, trƣờng PT cấp III
Lƣơng Ngọc Quyến lại đƣơc lệnh từ xã Linh Sơn trở về địa
điểm trƣờng cũ. Thầy trò phấn khởi, khẩn trƣơng vừa vận
chuyển vật liệu, bàn ghế về ngôi trƣờng cũ, vừa bắt tay xây
dựng lớp học, lại vừa tiếp tục khẩn trƣơng hoàn thành chƣơng
trình học kì II năm học 1972-1973. Kỳ thi tốt nghiệp năm đó
trƣờng vẫn giữ đƣợc tỷ lệ học sinh đỗ cao.
Năm học 1974 - 1975, thầy Đỗ Nhƣ Hiện, Hiệu trƣởng
trƣờng PT cấp III Đại Từ, đƣợc cử về làm Hiệu trƣởng nhà
trƣờng, thay cho thầy Bùi Quang Sang, đƣợc Bộ Giáo dục
điều đi công tác miền Nam.
Lãnh đạo Chi bộ do thầy Lại Đức Thông làm Bí thƣ và Chi
uỷ viên là thầy Đỗ Nhƣ Hiện.
Trƣờng sở lúc đó vẫn chỉ có 1 dãy nhà 3 tầng và 1 phòng
thí nghiệm, xây dựng từ năm 1956. Qua nhiều năm chiến
tranh, tƣờng lớp bong lở, cánh cửa sổ và cửa ra vào cũng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
176
không còn! Trƣờng cũng còn vài lớp học tranh tre xiêu vẹo
và văn phòng nhà trƣờng chỉ là 3 gian nhà lá. Bàn ghế không
đủ, học sinh phải ngồi 5 em một bàn dài.
Trƣớc hoàn cảnh khó khăn trên, các đồng chí giáo viên là
đảng viên nhƣ các thầy Vũ Hƣng, Bùi Quang Bảo, cùng anh
Truyền, anh Lân là cán bộ văn phòng. đƣợc cử phụ trách tổ
chức học sinh lao dộng tu sửa và xây dựng lại trƣờng sở.
Đƣợc tỉnh cấp kinh phí, nên cơ sở vật chất nhà trƣờng cũng
nhanh chóng đƣợc sửa sang.Trƣờng sở đƣợc kiến thiết ngày
càng khang trang hơn, tạo đà cho thầy trò phấn khởi hào
hứng thi đua dạy và học.
Học kì II năm học 1974-1975 diễn ra trong không khí thầy
trò hết sức vui mừng phấn chấn trƣớc tin chiến thắng vang
dội từ chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Niềm phấn khởi cứ
dâng trào trƣớc đà tiến công giải phóng các tỉnh duyên hải
miền Trung và náo nức mừng vui, dõi theo bƣớc tiến quân
thần tốc của năm cánh quân trong “Chiến dịch Hồ Chí Minh”
bao vây tổng tiến công giải phóng Sài gòn.
Phấn khởi trƣớc bƣớc tiến công nhƣ vũ bão của các chiến sĩ
giải phóng, học sinh các lớp có phong trào thi đua giành
nhiều điểm giỏi. Các lớp qui ra và cộng các điểm 10 lại thành
cây số để theo kịp bƣớc các anh tiến quân. Năm học 1974 -
1975 đƣợc kết thúc thắng lợi đúng vào thời điểm chiến dịch
Hồ Chí Minh đang khép chặt vòng vây, năm mũi tiến công
nhƣ vũ bão tiến thẳng vào giải phóng Sài gòn.
Ngày 2 – 5 -1975, sân trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến rực đỏ
cờ hoa, thầy trò hân hoan trong niềm vui sƣớng tràn ngập,
mừng ngày toàn thắng đã về ta, non sông đất nƣớc từ nay đã
thu về một mối. Bài ca “ Nhƣ có Bác Hồ trong ngày vui đại
thắng” vang lên khắp khu trƣờng, vang mãi không ngớt.
Trong không khí phấn khởi mừng chiến thắng moị ngƣời lại
nhớ tới trong suốt cả thời kì chống Mỹ cứu nƣớc, từ mái
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
177
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến lớp lớp học sinh đã tạm biệt quê
hƣơng và mái trƣờng xung phong ra mặt trận, trong đó có
nhiều học sinh tuy đã vào học các trƣờng Đại học, nhƣng
cũng tiếp tục tình nguyện tòng quân vào Nam chiến đấu. Các
anh đã chiến đấu dũng cảm và trở thành những Dũng sĩ diệt
Mỹ. Nhiều ngƣời trong các anh đã hy sinh dũng cảm trên các
chiến trƣờng ở trong nƣớc và quốc tế, cống hiến tuổi xuân
cho đất nƣớc mà tiêu biểu là liệt sỹ Vũ Xuân. Các anh đã để
lại những bài học tinh thần vô giá về lý tƣởng, đạo đức và
những tình cảm cao đẹp của thế hệ thanh niên thời chống Mỹ
và trở thành những tấm gƣơng sáng cho các thế hệ thanh niên
hôm nay và mai sau noi theo.
Cùng với lớp lớp học sinh lên đƣờng ra tiền tuyến, một số
thày giáo của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến cũng đã tạm biệt
mái trƣờng và gia đình lên đƣờng tham gia quân đội nhƣ thầy
Nguyễn Vân Long, thầy Phạm Khang, hay vào chiến trƣờng
B nhƣ các thầy Nguyễn Tiết Long, Bùi Quang Sang, Nguyễn
Ngọc Tám, Đặng Đức Thƣởng, Trần Ngọc Vĩnh.
Những năm 1965-1975, trong hoàn cảnh ác liệt của chiến
tranh, Trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc
cấp uỷ và chính quyền của tỉnh và thành phố Thái Nguyên, ty
Giáo dục Bắc Thái lãnh đạo và chỉ đạo sát sao đƣợc các cơ
quan, đoàn thể sẵn lòng hỗ trợ, giúp cho nhà trƣờng phấn đấu
vƣợt qua khó khăn, trở ngại để giữ vững và phát triển cả về
qui mô số lƣợng học sinh và chất lƣợng đào tạo.
Nhà trƣờng đã nghiêm chỉnh chấp hành lệnh phòng không,
sơ tán, bảo đảm an toàn tuyệt dối cho thày và trò qua suốt
cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ
Chi bộ Đảng, Ban Giám hiệu, Đoàn Thanh niên, Công
đoàn và toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trƣờng đã nắm vững
và kiên trì vƣợt khó thực hiện sáng tạo những nguyên lý,
phƣơng châm giáo dục của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
178
Minh. Trong quá trình hoạt động, trong bất cứ hoàn cảnh nào
vẫn luôn kiên trì đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai tốt”.
Đội ngũ giáo viên của trƣờng bằng nhiều hình thức khác
nhau, đã tự nâng cao đƣợc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, luôn nêu
gƣơng sáng trƣớc học sinh. Nhiều thầy cô đƣợc công nhận là
chiến sĩ thi đua, giáo viên dạy giỏi.
Trong khó khăn gian khổ, tình đoàn kết giữa các thầy giáo
cô giáo, giữa giáo viên với các em học sinh càng thêm thân
thiết, gắn bó.
Cơ sở vật chất của trƣờng đƣợc tạo dựng với tinh thần “tự
lực” rất cao: 10 năm 4 lần dỡ trƣờng, chuyển trƣờng, đổi thay
địa điểm. Khó khăn là vậy, nhƣng thầy trò luôn đồng lòng
chung sức, tạo dựng nên trƣờng sở, đảm bảo cho hoạt động
dạy tốt, học tốt.
Có thể nhận định rằng thời kì 1965 - 1975 của Đảng bộ và
nhà trƣờng phổ thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến đã ghi dấu
ấn về một thời hào hùng trong lịch sử trƣờng.
Đó là một thời kì thầy trò quyết tâm thực hiện lời Bác dạy
“Dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua
dạy thật tốt, học thật tốt” và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ vẻ
vang của mình.
Thời kỳ thầy trò đoàn kết và gắn bó với bà con nhân dân
địa phƣơng, tạo nên sức mạnh tinh thần để vƣợt qua những
khó khăn gian khổ của chiến tranh.
Thời kì nhà trƣờng luôn giữ đƣợc niềm tin đối với phụ
huynh học sinh và trong nhân dân.
Thời kỳ để lại những tình cảm không phai mờ của các thế
hệ học sinh đối với các thày cô và với mái trƣờng thân yêu.
Thời kỳ trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyên luôn giữ
vững đƣợc danh hiệu “Trƣờng tiên tiến xuất sắc” trong phong
trào thi đua “Hai tốt” trƣớc biết bao cam go thử thách.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
179
Chƣơng V
TRƢỜNG LƢƠNG NGỌC QUYẾN
TỪ SAU NGÀY ĐẤT NƢỚC THỐNG NHẤT
(1975 – 1986)
Công cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của nhân
dân ta kéo dài trên 20 năm đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn
bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày
30/04/1975, miền Nam đƣợc giải phóng hoàn toàn, “Non
sông đƣợc thu về một mối”. Cách mạng nƣớc ta chuyển
sang thời kỳ mới, với hai nhiệm vụ chiến lƣợc: xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau chiến tranh, Đảng và nhân dân ta còn bộn bề trăm
ngàn công việc, không giải quyết hậu quả chiến tranh,
không công tác hậu phƣơng quân đội, lo ổn định đời sống
nhân dân… Công việc chƣa làm đƣợc bao nhiêu thì chúng
ta lại phải đƣơng đầu với hai cuộc chiến tranh không kém
phần ác liệt, đó là cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và
cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc, trong khi nguồn viện
trợ quốc tế, một nguồn lực rất quan trọng lại bị cắt giảm
quá nhiều. Chúng ta một lần nữa lại phải huy động sức
ngƣời, sức của gửi ra tiền tuyến.
Thực hiện Nghị quyết số 40 NQ-TU Ngày 5 – 5 – 1975
của Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy về phát động đợt thi đua ngắn
ngày “Mừng đất nƣớc Việt Nam hoàn toàn giải phóng”,
trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến đã khẩn trƣơng vừa
tìm cách sữa chữa khôi phục và xây dựng mới trƣờng sở,
vừa tiếp tục giải quyết những khó khăn nhiều mặt để sớm
ổn định nền nếp hoạt động của nhà trƣờng.
Tháng 12 – 1976, Đại hội toàn quốc lần thứ tƣ của Đảng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
180
vạch ra con đƣờng tiến lên CNXH của cả nƣớc. Vị trí của
nền giáo dục phổ thông đƣợc Đại hội xác định là “…nền
tảng văn hóa của đất nƣớc, là sức mạnh tƣơng lai của dân
ta. Nó đặt cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển của
con ngƣời Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 11 – 1 – 1979, Bộ chính trị TW Đảng ra nghị
quyết số 14/NQTW về cải cách giáo dục, hƣớng vào xây
dựng nền giáo dục XHCN mang tính dân tộc và hiện đại
Việt Nam (1)
.
Trong bối cảnh xã hội nƣớc ta đang lâm vào khủng
hoảng, các trƣờng phổ thông nói chung và trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến nói riêng phải cố gắng gấp bội để vƣợt qua vô
vàn khó khăn trên con đƣờng từng bƣớc thực hiện CCGD.
Thời gian này thầy Lại Đức Thông vẫn là Bí thƣ chi bộ
Đảng, sau khi thầy Thông nghỉ hƣu, chi bộ Đảng bầu thầy
Lƣu Giầu là giáo viên môn Nga văn làm Bí thƣ.
Năm 1982, đồng chí Lƣu Giầu chuyển công tác về
UBMT Tổ quốc thành phố Thái Nguyên, đồng chí Nguyễn
Vân Long phó Bí thƣ thay làm Bí thƣ, sau đó từ năm 1983
Đ/C Hiệu trƣởng Nguyễn Đăng Kền đƣợc bầu làm Bí thƣ
chi bộ.
Năm 1981 chi bộ cũng mới có 10 đảng viên, các đồng
chí đều là những ngƣời có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm .................................................................................. (1)
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 này sẽ tiến hành làm 2 vòng, kéo dài
12 năm, bắt đầu từ năm học 1981 – 1982 trên cơ sở thực hiện tốt hơn và
phù hợp hơn với thời đại mới những nguyên lý giáo dục đã khẳng định
từ 2 cuộc CCGD trƣớc: Học đi đoi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với gia đình và xã hội. Đề án CCGD
lần này có quy mô rất lớn, có tham vọng giải quyết rất nhiều yêu cầu
trọng đại của nền giáo dục nƣớc nhà trong tƣơng lai lâu dài. Riêng về
giáo dục phổ thông có việc thống nhất 2 hệ thống 10 năm của miền Bắc
và 12 năm của miền Nam (Ngụy) thành hệ 12 năm.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
181
chất đạo đức trong sáng và một lòng một dạ trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Gia đình các đảng viên đều
nghiêm chỉnh thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nƣớc.
Tuy nhiên tỉ lệ đảng viên trong nhà trƣờng còn rất thấp, chi
bộ ngoài 3 đồng chí trong Ban giám hiệu còn có 1 đồng chí
phụ trách thí nghiệm, 1 đồng chí là kế toán, 1 đồng chí phụ
trách công nghệ phẩm và văn phòng phẩm (tất cả đều sinh
hoạt ở tổ hành chính) và chỉ có 4 đồng chí là giáo viên.
Trong khi đội ngũ giáo viên thì đông, trong đó có nhiều
đồng chí không những chỉ là cốt cán bộ môn của trƣờng mà
là của toàn tỉnh nhƣ đồng chí Chu Văn Thôn, Trần Hùng,
Phan Tiến Dũng, Lê Thị Nga, Trần Thị Bảy, Nguyễn Thúy
Bình, ... nhƣng tất cả lại đều chƣa phải là Đảng viên. Các tổ
chuyên môn gồm Văn, Toán, Lý, Hóa không có ai là đảng
viên cả. Chỉ có tổ xã hội có 2 đảng viên dạy chính trị đó là
đồng chí Dƣơng Thế Lƣơng, Trần Bích Thiện, 2 đồng chí
này tuổi đã cao; tổ Ngoại ngữ có đồng chí Lƣu Giầu dạy
Nga văn là Bí thƣ chi bộ; tổ Sinh – Kĩ thuật có đồng chí
Đặng Đình Nguyên. Các thầy cô làm Thƣ ký công đoàn, Bí
thƣ đoàn trƣờng, bí thƣ chi đoàn giáo viên cũng đều chƣa
phải là Đảng viên. Nhƣ vậy là cả một bộ phận hùng hậu,
quyết định nhất trong công việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, trung tâm trong nhà trƣờng là “dạy tốt học tốt” lại trống
vắng đảng viên.
Để phát huy vai trò lãnh đạo của chi bộ trong nhà
trƣờng. Chi ủy nhất trí chọn phƣơng án trƣớc hết cần xây
dựng chi bộ vững mạnh để làm tiền đề xây dựng đội ngũ
giáo viên: xây dựng chi bộ phải tiến hành song song hai
nhiệm vụ là nâng cao chất lƣợng đảng viên và đẩy nhanh
việc phát triển đảng viên.
Chi bộ đƣa ra quyết định các đồng chí trong Ban giám
hiệu không sinh hoạt với tổ hành chính mà tỏa về sinh hoạt
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
182
gắn với các tổ chuyên môn: đồng chí Nguyễn Đăng Kền
Hiệu trƣởng sinh hoạt với tổ toán và theo dõi tổ Lý, Hóa.
Đồng chí Hiệu phó Lê Duy Sơn sinh hoạt với tổ văn và
theo dõi tổ Xã hội. Đồng chí Hiệu phó Nguyễn Vân Long
sinh hoạt với tổ ngoại ngữ và theo dõi tổ Sinh – Kĩ thuật
nông nghiệp.
Chi bộ nhất trí công tác phát triển đảng phải nhằm vào
các CBGV xuất thân từ thành phần cơ bản, gia đình cách
mạng, gia đình chính sách nhƣng trƣớc hết phải là những
giáo viên có trình độ chuyên môn khá giỏi, có tinh thần
trách nhiệm cao, có uy tín với đồng nghiệp. Những giáo
viên đƣợc chi bộ chọn đầu tiên để tuyên truyền vận động
giáo dục và tổ chức kết nạp là các đồng chí: Vũ Thị Thắm
tổ trƣởng tổ Toán, là vợ liệt sỹ. Phan Tiến Dũng thƣ ký hội
đồng nhà trƣờng là con bác Phan Văn Tỉnh nguyên phó chủ
tịch UBHC khu tự trị Việt Bắc, Bí thƣ tỉnh ủy Thái Nguyên
cùng các giáo viên cốt cán khác nhƣ Chu Thôn tổ trƣởng tổ
Lý Hóa, Trần Hùng tổ trƣởng tổ Lý KTCN (tách ra từ tổ Lý
Hóa), Phan Thị Hạnh bí thƣ Đoàn trƣờng. Nguyễn Ngọc
Kim tổng chủ nhiệm…
Từ năm học 1974 – 1975 thầy Đỗ Nhƣ Hiện làm hiệu
trƣởng. Kết thúc năm học 1980 – 1981 thầy Đỗ Nhƣ Hiện
đƣợc nghỉ hƣu theo chế độ.
Ngày 25 – 8 – 1981 thầy giáo Nguyễn Đăng Kền đƣợc
Ty giáo dục Bắc Thái ra quyết định bổ nhiệm làm Hiệu
trƣởng.
Vào giữa tháng 8 năm 1981, thầy Hiệu trƣởng Đỗ Nhƣ
Hiện ốm phải nằm bệnh viện nên 3 lần tổ chức bàn giao (do
đồng chí Nguyễn Anh Tuấn trƣởng phòng tổ chức chủ trì)
đều không thực hiện đƣợc.
Ngày 1-9-1981 theo chỉ đạo của đồng chí trƣởng ty La
Văn Ngâm, đồng chí Nguyễn Đăng Kền cùng đồng chí
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
183
Nguyễn Anh Tuấn là trƣởng phòng tổ chức cán bộ Ty giáo
dục về trƣờng, gặp 2 đồng chí Hiệu phó đƣơng nhiệm là
Nguyễn Vân Long và Lê Duy Sơn. Đồng chí Tuấn công bố
quyết định bổ nhiệm Hiệu trƣởng và yêu cầu 2 đồng chí
phó hiệu trƣởng phối hợp với Hiệu trƣởng mới để tổ chức
thật tốt lễ khai giảng năm học 1981-1982 và sớm ổn định
nhà trƣờng để hoạt động dạy và học đi vào nề nếp.
Hai đồng chí Hiệu phó đều còn trẻ, rất có trách nhiệm.
đồng chí Long lúc đó là phó bí thƣ chi bộ, Hiệu phó phụ
trách cơ sở vật chất, đồng chí Sơn phụ trách chuyên môn đã
cùng với đồng chí Hiệu trƣởng nhanh chóng triển khai các
công việc một cách suôn sẻ.
Từ sau ngày đất nƣớc thống nhất, chi bộ Đảng đã chỉ đạo
nhà trƣờng tập trung vào việc kiến thiết lại trƣờng sở.
Trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến năm ấy vẫn chỉ có 2
công trình bằng gạch: 1 nhà 3 tầng có 12 phòng học và 1
nhà thí nghiệm, qua bao nhiêu năm chiến tranh bị bỏ
hoang, có thời kỳ là nhà trọ của khách đi ôtô, đến khi trở lại
thì tƣờng bị lở loét mốc meo, nhà không còn 1 cánh cửa sổ.
Phòng thí nghiệm cũng đã dột nát, trần nhà rơi rụng hết,
ngói vỡ lung tung, mƣa xuống dột cả vào những tủ đựng
dụng cụ thí nghiệm và nƣớc lênh láng dƣới nền. Còn lại là
những dãy nhà tranh nóc rách, vách lở, cột xiêu vẹo. Bàn
ghế học sinh không đủ; có lớp 5, 6 học sinh chen chúc nhau
trên cùng 1 chiếc ghế băng. Văn phòng của Hiệu trƣởng,
Hiệu phó, nhân viên Hành chính và nơi tiếp khách của
trƣờng cũng chỉ là một chỗ. Đồ dùng dạy học và thƣ viện
cũng rất ít ỏi…
Với sự cố gắng của tập thể CBNV nhà trƣờng, cơ sở vật
chất dần dần đƣợc bổ sung thêm một cách nhanh chóng.
Nhiều dãy nhà tranh đƣợc làm lại, nhà 3 tầng đƣợc lắp cửa
kính, cửa ra vào, từng nhà đƣợc nề đắp lại và quét vôi, rồi
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
184
phòng thí nghiệm, nhà thƣ viện, hai dãy lớp học, nhà hành
chính, 1 dãy nhà ở của giáo viên… đƣợc xây dựng bằng
gạch ngói. Sách của thƣ viện cũng phong phú lên nhiều,
công tác quản lý sách giáo khoa của thƣ viện đã đƣa vào nề
nếp. Đồ dùng dạy học cũng đƣợc ty giáo dục cấp với số
lƣợng lớn, chất lƣợng cao. Trƣờng lớp thay da đổi thịt
nhanh chóng. Cơ quan Ty giáo dục đã chuyển đi, nhà
trƣờng lại có đƣợc một mặt bằng rộng lớn.
Lúc này tƣờng rào của trƣờng chƣa có, nhân viên làm
công tác bảo vệ trƣờng cũng chƣa, nên có rất nhiều khó
khăn trong việc bảo vệ trật tự an ninh. Trong khi đó nhà
trƣờng lại phải đối phó với tình trạng lộn xộn của một số
học sinh chậm tiến trong trƣờng và số thanh thiếu niên hƣ
ngoài nhà trƣờng đến quấy phá. Có nhiều biểu hiện tiêu cực
đã thƣờng xảy ra nhƣ:
Dịp kết thúc năm học 1980 - 1981, trong buổi liên hoan,
một lớp 8 ở tầng 3 đã đem rƣợu đến nhậu, rồi thi nhau nhảy
rốc-en-rôn đến tận khuya, làm gãy một loạt bàn ghế.
Đáng nhớ nhất là sự việc xảy ra ngày kết thúc năm học
1980 – 1981. Khi lễ bế giảng mới kết thúc chƣa đƣợc 10
phút, trên sân trƣờng xảy ra vụ đâm chém nhau: 4 học sinh
của trƣờng bị thanh niên ngoài phố xông vào đâm bị
thƣơng phải đƣa đi cấp cứu tại bệnh viện.
Trong các buổi họp, anh chị em giáo viên đã có nhận
xét: “Học sinh có biểu hiện lƣời học!”. Mọi ngƣời đều băn
khoăn “Cơ sở vật chất rõ ràng tốt hơn. Anh chị em cán bộ
quản lý cũng nhƣ giáo viên đều tự thấy có tinh thần trách
nhiệm, có kinh nghiệm quản lý và giảng dạy, mà sao chất
lƣợng giáo dục lại sút kém?”. Đây cũng là tình hình chung
của các trƣờng phổ thông cả nƣớc, nhất là ở miền Bắc. Vì
vậy, để bắt đầu thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3,
Ủy ban CCGD trung ƣơng ra Quyết định số 1 phát động
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
185
phong trào “Tăng cƣờng giáo dục đạo đức cách mạng trong
trƣờng học”, nhằm nâng cao sức chiến đấu chống những
hiện tƣợng tiêu cực, làm lành mạnh, trong sáng môi trƣờng
giáo dục. Chi bộ Đảng đã nghiêm túc nghiên cứu và triển
khai thực hiện Quyết định số 1 của Ủy ban CCGD trung
ƣơng, đề ra chủ trƣơng cần tăng cƣờng hơn nữa công tác
giáo dục đạo đức nhất là công tác giáo dục học sinh cá biệt,
song song với việc đó nhà trƣờng cần phải nhanh chóng có
nhân viên bảo về để gìn giữ trật tự an ninh.
Nhà trƣờng đã kịp thời liên hệ với Công an và đƣợc đơn
vị Công an Cứu hỏa ở gần nhà trƣờng bố trí 1 - 2 chiến sĩ
công an đến bảo vệ giúp nhà trƣờng vài tháng để sớm ổn
định tình hình. Tiếp đó và cho đến nhiều năm sau này Bộ
chỉ huy Quân sự tỉnh giới thiệu những chiến sĩ tốt đã xuất
ngũ tham gia hợp đồng bảo vệ nhà trƣờng. Hội đồng phụ
huynh học sinh biểu quyết khoản đóng tiền hợp đồng bảo
vệ trƣờng để giúp nhà trƣờng giữ đƣợc trật tự trị an.
Thực hiện chủ trƣơng của chi bộ, đoàn Thanh nhiên đã
xây dựng chế độ tự quản của học sinh. Tổ chủ nhiệm cùng
với Đoàn thanh niên phối hợp theo dõi sâu sát việc thực
hiện nội qui và nền nếp học tập của học sinh. Mỗi Chi đoàn
cử 2 thanh niên cờ đỏ, thƣờng xuyên theo dõi kiểm tra chéo
các lớp, việc kiểm tra đƣợc ghi vào sổ sách hàng ngày và
đƣợc điểm hóa. Ngoài ra mỗi tuần có 1 lớp trực tuần thực
hiện việc tổng kết điểm theo nội dung thi đua đã đề ra. Với
những giải pháp nhƣ trên, tình hình trật tự trị an ở chung
quanh khu vực nhà trƣờng cũng nhƣ nền nếp của học sinh
trong trƣờng đã có những chuyển biến rõ rệt.
Để sinh hoạt nhà trƣờng vào nền nếp, điều rất quan trọng
cần giải quyết việc chống “rỗng giờ”. Có nhiều tiết rỗng
cũng có nghĩa là có nhiều lớp không những không thực
hiện đƣợc tiến độ chƣơng trình, mà còn gây nên việc mất
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
186
trật tự trong trƣờng, thiếu bầu không khí học tập nghiêm
túc. Tránh đƣợc giờ rỗng tức là đã tránh đƣợc sự lộn xộn
của lớp học, bớt đi sự bức bối của các thầy cô giáo, bớt đi
sự hoang mang lo lắng của cha mẹ học sinh.
Trong những lúc khó khăn, sáng kiến đƣợc xuất hiện.
Đầu tiên là tổ Toán do đồng chí Vũ Thị Thắm làm tổ
trƣởng, đề xuất với ban giám hiệu là hãy bố trí thời khóa
biểu làm sao mỗi ngày trong tuần có 1 giáo viên Toán
không có giờ lên lớp. Giáo viên nào không có giờ hôm ấy
đƣợc phân công “trực tổ” có nghĩa là có mặt tại trƣờng suốt
cả buổi học, nếu không may có giáo viên vắng đột xuất thì
sẵn sàng lên lớp dạy thay đồng nghiệp và đƣợc tính ngay
vào tiết dạy thừa giờ, hôm nào không có đồng nghiệp nào
vắng thì soạn bài, chấm bài tại trƣờng. Sau tổ Toán và tổ
Lý - Hóa do đồng chí Chu Văn Thôn làm tổ trƣởng cũng áp
dụng hình thức “trực tổ” nhƣ tổ Toán, cái khó của tổ này là:
nếu ngƣời trực là giáo viên Vật lý mà lại rỗng tiết Hóa thì
buộc phải dạy Lý và tuần sau đó trả lại 1 tiết Lý cho giáo
viên Hóa dạy bù. Chỉ trong vòng không đầy 1 tháng, lần
lƣợt các tổ: Văn do đồng chí Vũ Thị Việt làm tổ trƣởng, tổ
Xã hội (Sử, Địa, Chính trị) do đồng chí Nguyễn Thị Nga
làm tổ trƣởng, tổ Ngoại ngữ - Thể dục do đồng chí Nguyễn
Thúy Bình làm tổ trƣởng lần lƣợt “đăng kí” quyết tâm
không “để giờ rỗng”. Ngƣời xếp thời khóa biểu phải làm
việc khá vất vả. Vì ngoài nguyện vọng cá nhân ra, còn có
nguyện vọng chung của các tổ, nhƣng rồi đồng chí Lê Duy
Sơn hiệu phó phụ trách chuyên môn và đồng chí Phan Tiến
Dũng thƣ ký hội đồng đã hoàn thành xuất sắc các yêu cầu
này. Tổng kết năm học hầu nhƣ mọi ngƣời đều ghi nhận
điểm tiến bộ rất lớn của nhà trƣờng là chống đƣợc rỗng giờ
làm cho nền nếp dạy và học đã đƣợc chấn chỉnh lại.
Nhận thức đƣợc ý nghĩa và giá trị của lao động sản xuất
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
187
trong nhà trƣờng và việc trồng cây, nên ngay từ năm 1981 -
1982 nhà trƣờng đã qui hoạch trồng cây, giao đất và khoán
cho các lớp đào hố, tự túc cây giống để trồng, từng học sinh
tự đào hố trồng cây. Cách làm khoán trắng xô bồ nhƣ trên
kém hiệu quả. Sau nhiều lần bàn bạc rút kinh nghiệm, để
đảm bảo có chất lƣợng nhà trƣờng quyết định trồng thí
điểm, mỗi lớp hãy trồng 1 cây nhƣng phải chăm sóc bảo vệ
cẩn thận, học sinh trực nhật phải tƣới cây hàng ngày. Cuối
năm xét thi đua về kết quả cây trồng. Kết quả là 100% cây
trồng thí điểm đều sống và mọc xanh tốt.
Khi đã rút đƣợc kinh nghiệm trồng cây rồi, thì vấn đề
khó khăn nhất lúc này là cây giống. Thời gian này ở Bắc
Thái chỉ có 2 cơ sở có cây giống là Lâm trƣờng Đồng Hỷ
và trƣờng Đại học Nông lâm Việt Bắc. Tuy vậy 2 cơ sở này
cũng không bán cây giống, muốn có cây giống, nhà trƣờng
phải đƣa hàng ngàn lƣợt học sinh đến Đại học Nông lâm
lao động để đổi lấy 50 cây phƣợng về trồng. Gian khổ nhất
là đƣa hơn 3000 học sinh đến Lâm trƣờng Đồng Hỷ lao
động 3 - 4 ngày liền. Nhiều em ở xa đến 15km, cự ly các
lớp lao động cũng cách nhau 3 - 4km. Phƣơng tiện đi lại
chủ yếu là xe đạp, tuy vậy nhiều giáo viên và học sinh cũng
không có xe đạp, nên phải đi nhờ xe của nhau, chỉ sau khi
kết thúc đợt lao động, không xảy ra tai nạn giao thông, tai
nạn lao động, không có vụ va chạm đánh nhau giữa học
sinh với thanh thiếu niên các địa phƣơng trên đƣờng đi và
nơi lao động thì cả trƣờng mới thở phào nhẹ nhõm. Sau đợt
lao động, Lâm trƣờng Đồng Hỷ đã tặng trƣờng 3 ha đồi đã
trồng cây (để làm vốn), vài trăm cây giống (cây mỡ) về
trồng tại trƣờng, giúp phƣơng tiện vận chuyển (xe chuyên
dụng), giúp thủ tục lấy về trƣờng trên 20m3 gỗ. Số gỗ này
đã đóng đƣợc hơn 100 bộ bàn ghế 2 chỗ ngồi cho học sinh,
giảm đáng kể tình trạng 3 - 4 học sinh phải ngồi chung một
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
188
bộ. Nhà trƣờng còn đóng tặng mỗi giáo viên 1 tủ đứng cao
1,2m. Số cây giống đem về trồng tại trƣờng vì không hợp
thổ nhƣỡng nên cây cứ chết dần. Vấn đề nan giải lúc này
vẫn lại là cây giống. Đƣợc 2 anh Nguyễn Mộng Hùng và
Nguyễn Tiến Nguyên giới thiệu chúng tôi đã liên hệ đƣợc
với các anh ở Tổng cục lâm nghiệp là Bùi Xuân Yên vụ
trƣởng Vụ đối ngoại, anh Nguyễn Tôn Quyền vụ trƣởng Vụ
công nghiệp rừng, anh Ma Chƣơng Thọ trƣởng ban định
canh định cƣ, các anh đã giúp cho trƣờng 2kg hạt bạch đàn
Australia.
Khi đã có hạt giống, trƣờng tổ chức gieo ƣơm dƣới sự
điều hành của các cô giáo Vũ Thị Thắm, Hồ Thị Nhung,
Đoàn Bích Liên, Nguyễn Thị Quang và một số học sinh lớp
chuyên môn sinh. Tuy gieo hạt lần đầu tiên nhƣng kết quả
đạt đƣợc thật không ngờ: Tỉ lệ nảy mầm trên 90% , cây con
mọc đều. Khi có cây giống nhà trƣờng bố trí phần đất cho
các lớp đào hố, mỗi em đào 1 hố cho đủ phân, đất mùn, chờ
khi mƣa xuống mới đƣợc mang cây con đến trồng. Với sự
chăm sóc cẩn thận, nên cây nào cũng sống khỏe, mới sau
một năm mà cây đã cao trên 1 mét đến 2 mét.
Ngày 9/1/1986 Bộ trƣởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị
Bình, thứ trƣởng Trần Xuân Nhĩ, Bộ trƣởng Bộ Lâm
nghiệp Phan Xuân Đợt, thứ trƣởng Trần Sơn Thủy, chủ tịch
UBND tỉnh Nông Đức Mạnh cũng với các giám đốc, phó
giám đốc 18 tỉnh thành phía Bắc từ Bình Trị Thiên trở ra
đến tham quan và trồng cây lƣu niệm tại trƣờng.
Trong lời phát biểu của mình đồng chí Bộ trƣởng
Nguyễn Thị Bình tỏ ý hài lòng và khen ngợi nhà trƣờng về
thành tích chủ động tìm hạt ƣơm cây giống, áp dụng các
biện pháp kĩ thuật đảm bảo đƣợc tỉ lệ cây sống cao. Thành
tích chủ yếu của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến trong việc
trồng cây là đã tiên phong đi đầu trong việc áp dụng kĩ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
189
thuật sản xuất cây giống, trồng kín khu vực trƣờng và cung
cấp cây giống cho các trƣờng bạn và nhân dân địa
phƣơng…
Các đồng chí đại biểu đến tham quan đã trồng 18 cây Lát
hoa để làm lƣu niệm với nhà trƣờng.
Trƣờng cấp III Lƣơng Ngọc Quyến với sự lãnh đạo của
chi bộ đảng nhà trƣờng từ sau khi đất nƣớc thống nhất 1975
đến năm 1986 đã khắc phục biết bao khó khăn để kiến thiết
lại trƣờng sở và khôi phục nền nếp dạy và học của nhà
trƣờng. Tiếp đó từ năm 1981 trƣờng tạo nên sự chuyển biến
bƣớc đầu trong việc thực hiện phƣơng châm gắn giáo dục
với lao động sản xuất, hoạt động trên không chỉ mang lại
hiệu quả về giáo dục mà còn có lợi ích thiết thực trong việc
đổi mới bộ mặt của trƣờng.
Sau một thời gian phấn đấu tập thể cán bộ giáo viên đã
đƣa sinh hoạt dạy và học của nhà trƣờng vào nền nếp, các
sinh hoạt chính trị, sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt chuyên
môn đã dần nâng cao đƣợc chất lƣợng. Thầy trò đã yêu
mến gắn bó với nhà trƣờng. Số giáo viên đăng ký là chiến
sĩ thi đua, số tổ đăng ký thi đua xây dựng tổ đội lao động xã
hội chủ nghĩa ngày càng nhiều.
Hai năm liền 1982 - 1983 và 1983 - 1984 trƣờng đƣợc
công nhận là trƣờng tiên tiến cấp tỉnh, đƣợc UBND tỉnh
Bắc Thái tặng bằng khen.
Cuối năm 1982 – 1983 có hai tổ chuyên môn đạt tổ Lao
động XHCN và 5 cán bộ giáo viên đạt danh hiệu Chiến sỹ
thi đua cấp cơ sở, có 5 học sinh đạt giải Học sinh giỏi quốc
gia, năm 1983 - 1984 có 14 em đạt giải học sinh giỏi quốc
gia.
Năm 1984 trƣờng đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ tặng bằng
khen, cuối năm 1984 – 1985 đƣợc Sở GD – ĐT, UBND
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
190
Tỉnh thống nhất với Bộ GD - ĐT đề nghị, Nhà nƣớc đã
tặng Huân chƣơng Lao động hạng III.
Năm 1985, 100% tổ đăng ký xây dựng tổ LĐXHCN, số
học sinh khá giỏi đã tăng, tốt nghiệp phổ thông thƣờng đạt
trên 90%, đỗ đại học bình quân trên 40%, học sinh lớp
chọn đỗ đại học 80 – 90% (cao nhất tỉnh). Nhƣ vậy nếu tính
từ năm học 1980 – 1981, sau những khó khăn ban đầu, với
sự nỗ lực của thầy và trò, có sự chung tay góp sức của toàn
xã hội, kỷ cƣơng học đƣờng đã đƣợc thiết lập lại. Thành
tích thi đua 2 tốt đã đƣợc cấp ủy chính quyền và ngành giáo
dục khẳng định, uy tín của trƣờng ngày một lên cao, số học
sinh cấp 2 thi tuyển vào trƣờng ngày một đông thì cơ sở vật
chất càng ngày càng thiếu. Đứng trƣớc tình hình đó, nhà
trƣờng xin đƣợc xây thêm phòng học. Kinh phí không có
đã đành, mặt bằng xây dựng cũng không có. Trong một
cuộc họp phụ huynh học sinh toàn trƣờng, 1 vị phụ huynh
đã hiến kế là san quả đồi ở phía sau nhà 3 tầng 12 lớp học
xuống khu ao trũng, nhƣ vậy vừa có mặt bằng xây lớp học,
vừa có sân chơi bãi tập. Căn cứ vào đề xuất của trƣờng, bác
Đôn Văn Cƣớc Phó CT UBND tỉnh đã cấp cho trƣờng đủ
số xăng dầu, công ty xây dựng thủy lợi Bắc Thái đã ủng hộ
trƣờng 3 ca máy ủi, sau đó là hàng chục ngàn công lao
động của thấy và trò đã góp phần san đồi, và bƣớc đầu hình
thành 1 sân vận động. Việc làm này đã tiết kiệm hàng trăm
triệu đồng (thời kỳ 85 – 86), đủ điều kiện xây nhà 3 tầng 18
phòng học ở phía sau, tạo điều kiện thuân lợi cho việc giáo
dục thể chất (các giờ TD, TT đã có thể tiến hành trong nhà)
giáo dục quốc phòng, cắm trại, quân sự và góp phần nâng
cao chất lƣợng giáo dục toàn diện. Từ khi có thêm 18
phòng học nhà trƣờng không phải học ca 3, không phải lo
tổ chức bảo vệ an toàn trật tự cho thầy và trò trong các đêm
học. Trƣớc khi có sân vận động việc tổ chức hành quân
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
191
cắm trại quân sự (Thƣờng vào dịp 22 - 12) hoặc việc tổ
chức lửa trại truyền thống của Đoàn thanh niên (Thƣờng
vào dịp 26 - 3). Nhà trƣờng phải tổ chức cho các em đi rất
xa, tận Phúc Trìu, Khe Mo - Đoàn Kết hoặc Chùa Hang,
Cao Ngạn... Có năm hội trại tại đồi cây các cụ trồng ở
Đồng Bẩm. Đây là dịp tốt để giáo dục ý thức tổ chức kỷ
luật, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, óc sáng tạo, tinh thần
tập thể cho học sinh, giáo dục tình bạn, tình thầy trò và
cũng là bƣớc đầu để các em làm quen với công tác dân vận.
Trong dịp này, các chi đoàn tổ chức kết nạp đoàn viên mới
ngay trong đêm lửa trại. Ban chỉ huy trại thƣờng tổ chức thi
văn nghệ, thi thể dục thể thao nhƣ bóng chuyền, bóng đá,
thi ném vòng cổ chai, thi ném bóng bàn vào chậu, thi kéo
co, thi xếp đội hình đội ngũ và các động tác quân sự cơ
bản. Năm nào Thành đội Thái Nguyên cũng cử các sĩ quan,
chiến sĩ đến huấn luyện giúp các nội dung quân sự học
đƣờng theo chƣơng trình. Có năm Đoàn còn kết hợp với
Công đoàn tổ chức các cuộc thi khéo tay kỹ thuật nhƣ cắt
tỉa hoa, cắm hoa, thi trang trí, thi nấu ăn, thi ứng xử, thi học
sinh thanh lịch. Đƣợc tham gia các hoạt động này các em sẽ
không bao giờ quên. Từ khi có thêm 18 phòng học, có thêm
sân chơi, bãi tập có cây cao, bóng mát, đƣờng đi phẳng
rộng, sân chào cờ lát gạch, trải bê tông, dƣới các tán cây có
nhiều ghế đá thì các giờ thể dục thể thao, những phút nghỉ
giữa giờ, các em không còn ngồi lì hoặc nô đùa trong lớp
nữa mà cùng nhau ùa ra sân trƣờng hít thở khí trời, vui chơi
nhộn nhịp khác hẳn so với các năm học trƣớc. Sau giờ giải
lao là bƣớc vào giờ học mới hứa hẹn có chất lƣợng cao. Có
thể nói giai đoạn 1975 – 1986 là giai đoạn mà nhà trƣờng
đã phải phấn đấu vƣợt bậc để lập lại nền nếp kỷ cƣơng học
đƣờng, đảm bảo an ninh an toàn trong các tiết học, gắn kết
chặt chẽ giữa công tác xây dựng Đảng với việc phát hiện
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
192
bồi dƣỡng giáo viên trở thành chiến sĩ thi đua giáo viên dạy
giỏi, thi đua yêu nƣớc trở thành động lực to lớn trong giáo
viên học sinh. Nhiều tổ LĐ XHCN, tập thể học sinh XHCN
đã đƣợc suy tôn. Nhiều cơ quan ban ngành giúp đỡ tạo nên
sự phong phú về cơ sở vật chất mà không tốn kém!
Ngày 13 tháng 3 năm 1986, ngày Hội truyền thống đầu
tiên của trƣờng kỷ niệm 40 năm xây dựng và trƣởng thành,
anh chị em cán bộ giáo viên hết sức phấn khởi và tự hào là
những ngƣời đã nối tiếp đƣợc truyền thống phấn đấu của
các thế hệ cán bộ giáo viên đi trƣớc, tiếp tục giữ vững, luôn
đổi mới Nhà trƣờng xã hội chủ nghĩa với qui mô tới 40 lớp
và hơn 2400 học sinh.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
193
Chƣơng VI
TRƢỜNG LƢƠNG NGỌC QUYẾN
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1987 – 2010)
1. Trƣờng PTTH Lƣơng Ngọc Quyến trong giai đoạn
1987 – 2000
Trải qua 10 năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong cả nƣớc, nhân dân ta đã giành đƣợc những thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực, cải biến đƣợc một phần cơ
cấu kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp nhiều khó
khăn và khuyết điểm, sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lƣơng,
tiền cuối năm 1985, đã đƣa nền kinh tế của đất nƣớc đến
những khó khăn mới… Tình hình đất nƣớc đòi hỏi, Đảng
đang tích cực chuẩn bị và tiến hành Đại hội theo yêu cầu
đổi mới.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986.
Đại hội tiếp thu ý kiến xây dựng của toàn Đảng, toàn dân
và tỏ rõ trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, Đại hội đã khẳng định những thành tựu, kiểm
điểm sâu sắc những sai lầm về chỉ đạo chiến lƣợc và tổ
chức thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội trong những
năm qua và đề ra đƣờng lối đổi mới, coi đổi mới là sự
nghiệp sống còn của cách mạng nƣớc ta.
Dƣới ánh sáng nghị quyết Đại hội VI, ngành giáo dục
đào tạo đã có những chuyển biến tích cực. Trƣớc hết là đổi
mới tƣ duy giáo dục.
- Về quan điểm tƣ tƣởng: giáo dục không chỉ nằm
trong phạm vi cách mạng tƣ tƣởng văn hóa, mà nó
giữ vị trí trọng yếu trong chiến lƣợc con ngƣời –
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
194
trung tâm của toàn bộ chiến lƣợc kinh tế - xã hội của
đất nƣớc.
- Do đó đến Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ tƣ khóa
VII (1993), quan điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu” đƣợc xác định.
( Đầu tư cho giáo dục chính là nhằm xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội. Cho nên cần tạo nguồn đầu tư
theo hướng “Nhà nước và nhân dân cùng làm” (sau
này là chủ trương “xã hội hóa giáo dục”).
- Về quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục: thực hiện
đa dạng hóa. Các loại hình trƣờng lớp nhƣ dân lập,
bán công, chuyên ban… dần dần đƣợc phép xuất
hiện theo quy chế hợp pháp.
Chuyển hƣớng theo sự nghiệp Đổi mới, trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến đã có nhiều việc làm tích cực, nhƣ đẩy mạnh
việc thực hiện ngói hóa trƣờng sở, mở hệ B trong giáo dục
PTTH, phát triển trƣờng theo hƣớng gắn giáo dục với lao
động sản xuất, đẩy mạnh giáo dục hƣớng nghiệp, từng
bƣớc khắc phục tình trạng thất học trong thanh thiếu niên…
Về sự phát triển của chi bộ Đảng, năm 1983 chi bộ mới
có 10 đảng viên, đồng chí Nguyễn Đăng Kền là bí thƣ, năm
1986 chi bộ có một số đảng viên đƣợc điều chuyển đi đơn
vị khác nhƣ đồng chí Lê Duy Sơn sang làm hiệu trƣởng
trƣờng PT cấp III Đồng Hỷ, đồng chí Nguyễn Vân Long
lên làm phó phòng phổ thông Ty giáo dục, đồng chí
Nguyễn Ngọc Kim sang làm Hiệu phó trƣờng PT cấp III
Ngô Quyền, các đồng chí Mạc Thị Chung, Trần Văn Hùng
đƣợc điều về trƣờng THPT Năng khiếu tỉnh. Do tích cực
làm công tác phát triển đảng viên mới nên đến năm 2000 số
đảng viên đã lên tới 31 đồng chí.
Trong quá trình hoạt động, chi bộ Đảng luôn đƣợc xác
định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt nên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
195
trong lúc thuận lợi cũng nhƣ lúc khó khăn không một đảng
viên, cán bộ nào trong nhà trƣờng dao động, nao núng, nghi
ngờ. Tất cả đều có niềm tin vào Đảng, và thực hiện tốt các
chủ trƣơng chính sách của Đảng.
Về công tác phát triển Đảng, Chi bộ đã lãnh đạo Đoàn
Thanh niên và Công đoàn qua phong trào thi đua phát hiện
những đoàn viên ƣu tú để bồi dƣỡng. Năm 1998 đã mở
đƣợc 1 lớp cảm tình với 20 đồng chí từ đó kết nạp đƣợc
nhiều cán bộ giáo viên ƣu tú vào Đảng. Năm 1999 kết nạp
đƣợc 4 đảng viên, đầu năm 2000 kết nạp 7 đảng viên mới.
Việc bồi dƣỡng giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua đã đƣợc
các tổ chuyên môn hết sức coi trọng. Hàng năm cứ vào đầu
năm học, các đồng chí giáo viên cùng bộ môn thống nhất
chọn ra 10 bài khó dạy, tất cả giáo viên đều phải sƣu tầm
tài liệu, soạn giáo án (kể cả các bài giải thực hành thí
nghiệm) để đến lúc phải thao diễn giảng dạy nhân các ngày
lễ 20 -11, 8 - 3… Các giáo viên lần lƣợt bốc thăm, ai gặp
bài nào dạy bài ấy để tổ dự giờ cho điểm xếp loại bài giảng.
Đây là 1 trong các căn cứ đánh giá các danh hiệu thi đua
cuối năm học.
Việc bồi dƣỡng học sinh giỏi cũng có nhiều sáng tạo.
Căn cứ vào nội dung yêu cầu chung, các đồng chí tổ trƣởng
chuyên môn chọn một số chuyên đề, phân công các giáo
viên của tổ nghiên cứu và xếp lịch giảng dạy, bồi dƣỡng
học sinh giỏi. Do vậy các em đƣợc học nhiều thầy cô, học
nhiều chuyên đề, và các giáo viên ai cũng có trách nhiệm
học tập tích lũy phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi. Vì
thế số giáo viên giỏi hàng năm cứ tăng lên, có nhiều giáo
viên trẻ sớm trở thành giáo viên dạy giỏi.
Chi bộ cũng rất quan tâm và có những chủ trƣơng cụ thể
đối với hoạt động của đoàn Thanh niên và Công đoàn.
Trong BCH Công đoàn có 2 đồng chí chi ủy trực tiếp tham
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
196
gia chỉ đạo, vì thế hoạt động của Công đoàn đạt nhiều kết
quả tốt.
Ban chi ủy đã quan tâm xây dựng cơ sở Đảng trong sạch
vững mạnh, đề ra kế hoạch bồi dƣỡng đối tƣợng Đảng, tạo
điều kiện thuận lợi cho những quần chúng tích cực có
nguyện vọng, động cơ phấn đấu đúng đắn đƣợc đứng trong
hàng ngũ của Đảng. Việc thẩm tra kết nạp đảng viên đƣợc
tiến hành kịp thời.
Trong quá trình hoạt động, có đồng chí mắc sai lầm
khuyết điểm đã đƣợc chi bộ góp ý phê bình chân tình thẳng
thắn để cho đồng chí sửa chữa tiến bộ.
Từ năm 1986 đến năm 2000 chi bộ nhà trƣờng luôn
đƣợc công nhận là trong sạch vững mạnh. Trƣờng đã có
chuyên đề “Công tác xây dựng đảng trong trƣờng học”
đƣợc sở Giáo dục và Thành ủy đánh giá cao. Trong nhiệm
kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố, đồng chí Nguyễn Đăng Kền
đƣợc bầu vào ban chấp hành Thành ủy. Từ đó đến nay
Đảng bộ trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến có đại diện
tham gia ban chấp hành Thành ủy.
Ngày 3 -7 - 1991 đồng chí Nông Đức Mạnh ủy viên
Trung ƣơng Đảng, Bí thƣ Tỉnh ủy (nay là Tổng bí thƣ Đảng
CSVN) đã thăm trƣờng và ghi trong sổ vàng những lời
động viên và căn dặn sau:
“Là một trong những trường được Bác Hồ đến thăm, là
một trong những trường trung học lớn, nếu không nói là
đầu đàn của tỉnh Bắc Thái. Đã từng là trường trong nhiều
năm liền tiên tiến được tặng thưởng nhiều huân chương
cao quý.
Tôi nghĩ rằng, tự hào về truyền thống, về những thành
tựu đã đạt được, không thể không nghiêm túc nhìn thẳng
vào những thiếu sót khuyết điểm để tự khẳng định mình.
Làm được như vậy tôi tin rằng trường Lương Ngọc Quyến
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
197
sẽ mãi mãi xứng với truyền thống đã có và sẽ tạo ra những
bước tiến mới trong tương lai…”
Đối với công tác của Đoàn Thanh niên, suốt thời kỳ
1986 – 2000, năm nào Đoàn Thanh niên nhà trƣờng cũng
đƣợc Chi bộ Đảng chỉ đạo chặt chẽ và tập trung vào 2
nhiệm chủ yếu đó là công tác giáo dục truyền thống và xây
dựng các “Tập thể học sinh Xã hội chủ nghĩa”.
Về giáo dục truyền thống: từ “Ngày cắm trại hành quân
theo chân Bác” năm 1986 – 1987 nhân kỷ niệm ngày thành
lập Đoàn cho đến ngày hội trại nhân kỷ niệm 45 năm ngày
thành lập trƣờng 13 – 3 – 1991, đều có những nội dung đáp
ứng với yêu cầu giáo dục nói chung. Qua giáo dục truyền
thống đoàn viên thanh niên đƣợc củng cố thêm về kiến
thức, hiểu thêm về Đảng và Bác Hồ, về lịch sử dân tộc, về
mái trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến. Hình thức giáo dục truyền
thống ngày càng phong phú hấp dẫn, từ việc tổ chức nghe
nói chuyện, cắm trại, đọc sách báo, đến xem phim và còn
đƣợc lồng vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao…
Bên cạnh nội dung giáo dục truyền thống, Đoàn trƣờng
cũng đẩy mạnh các hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp thông
qua việc học tập ở Trung tâm hƣớng nghiệp kỹ thuật tổng
hợp, 100% đoàn viên thanh niên đã tham gia học ở các lớp
cắt may, mộc, vô tuyến, hàn điện… có nhiều học sinh tham
gia vào đội thi khéo tay kỹ thuật của tỉnh và toàn quốc.
Xây dựng tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa cũng đã trở
thành điểm mạnh của Đoàn trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến. Bằng những việc làm cụ thể nhƣ 100% chi đoàn
học sinh đều tổ chức nhóm học tập, có tổ trƣởng và cán sự
bộ môn phát huy tác dụng quản lý và giúp nhau trong học
tập rất hiệu quả. Nhiều chi đoàn còn tổ chức câu lạc bộ 20
điểm 10, 60 điểm khá giỏi… Đoàn đã đƣa ra khẩu hiệu “3
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
198
không” (không đi học muộn, không bị điểm kém, không
nói chuyện trong lớp) đã có tác dụng thiết thực tới phong
trào học tập, đem đến kết quả cao cho nhiều năm học.(1)
Đoàn trƣờng liên tục đạt tiêu chuẩn Đoàn vững mạnh
đƣợc Trung ƣơng Đoàn tặng cờ luân lƣu mang chân dung
Bác Hồ.
Với Công đoàn trƣờng, thời kỳ 1986 – 2000 là thời kỳ
Công đoàn phải làm nhiều việc và trên thực tế đã có nhiều
đóng góp rất thiết thực nhƣ đã cùng với nhà trƣờng triển
khai kế hoạch xây dựng “Làng giáo viên”, cùng tham gia .............................................................
(1) Năm học 1987 – 1988 có 6 học sinh giỏi, 203 học sinh tiên
tiến, thi học sinh giỏi cấp tỉnh đội Lý và Ngoại ngữ xếp thứ nhất đội
toán xếp thứ nhì, đội văn xếp thứ 5. Trƣờng có 8 học sinh tham gia thi
toàn quốc, học sinh Bùi Xuân Trƣờng, Đào Việt Chiến đoạt giải nhì
môn Vật Lý, Lê Tuấn Ngọc và Ngô Nhƣ Khoa đoạt giải ba môn Lý.
Năm học 1988 – 1989 có 4 học sinh giỏi toàn diện, 215 học sinh
tiên tiến, có 5 em đoạt giải nhì toàn tình và 5 em đoạt giải nhì toàn
quốc.
Năm học 1989 – 1990 có 232 học sinh tiên tiến, 8 học sinh giỏi
tham gia kỳ thi toàn quốc.
Năm học 1997 – 1998 nhà trƣờng có 18 học sinh giỏi toàn diện,
651 học sinh tiên tiến. 42 học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh, 3
học sinh dự thi học sinh giỏi quốc gia. Tốt nghiệp THPT đạt 94%
(toàn tỉnh đạt 92%).
Năm học 1998 – 1999 nhà trƣờng có 94 học sinh giỏi toàn diện,
1143 học sinh tiên tiến, 42 học sinh đoạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh, có
4 học sinh dự thi học sinh giỏi quốc gia, tốt nghiệp THPT 95% (toàn
tỉnh 82%). Toàn trƣờng có 14 tập thể học sinh XHCN.
Năm học 1999 – 2000 trƣờng đã có 149 học sinh giỏi toàn diện,
1152 học sinh tiên tiến, 82 học sinh đoạt giải học sinh giỏi tỉnh, 12
học sinh dự thi học sinh giỏi quốc gia trong đó có 3 học sinh đạt giải
quốc gia, tốt nghiệp THPT đạt 97.17% (toàn tỉnh 91%). Toàn trƣờng
có 15 tập thể XHCN.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
199
quản lý các hoạt động sản xuất của trƣờng ở xƣởng hàn,
xƣởng xay sát gạo. Cùng nhà trƣờng có phƣơng án chi tiền
phúc lợi, tiền học phí khối C hàng tháng.
Công đoàn đã phát động thi đua, vận động và giúp đỡ
anh chị em giáo viên đăng ký và phấn đấu thành giáo viên
dạy giỏi, chiến sĩ thi đua. Ban CHCĐ cũng giới thiệu đƣợc
nhiều giáo viên ƣu tú để Chi bộ xét kết nạp vào hàng ngũ
của Đảng. Là một nhà trƣờng có tỉ lệ nữ rất cao nên công
tác nữ công luôn đƣợc đặt thành trọng tâm trong công tác
của Công đoàn trƣờng. Cán bộ Công đoàn là những đồng
chí rất gần gũi với đoàn viên để tìm hiểu tâm tƣ nguyện
vọng và có những giúp đỡ cụ thể thiết thực. Năm 1998
đồng chí Lƣu Thị Toan chủ tịch Công đoàn đã vinh dự
đƣợc Nhà nƣớc phong tặng danh hiệu Nhà giáo ƣu tú.
Nhờ hoạt động tích cực của chi bộ Đảng và các đoàn thể
Thanh niên, Công đoàn nên trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến đã có nhiều chuyển biến năng động và đầy sáng tạo.
Năm 1986 tỉnh thành lập trƣờng Phổ thông cấp III Đồng
Hỷ, đặt tại khu vực gần núi Voi, thu hút các học sinh từ
Đồng Bẩm đến Khe Mo, từ Đoàn Kết tới Trại Cau, nông
trƣờng Sông Cầu…
Năm học 1986 – 1987 trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến tách 8
lớp (4 lớp 11, 4 lớp 12) về học tại Đồng Hỷ, các lớp 10
trƣờng Đồng Hỷ tự tuyển sinh theo kế hoạch.
Thời gian này cùng với uy tín của trƣờng ngày một tăng
thì số học sinh thi vào trƣờng ngày càng đông. Chi bộ đã
họp bàn và thống nhất chủ trƣơng để tạo điều kiện đáp ứng
cho số học sinh có nhu cầu tiếp tục đƣợc học lên cấp III
đồng thời cũng tạo điều kiện cho giáo viên có thu nhập
chính đáng bằng nghề nghiệp của mình, Nhà trƣờng dự tính
mở thêm một số lớp ngoài kế hoạch (gọi là khối C).
Trƣờng lúc ấy đã có 36 lớp công lập đƣợc chia làm 2 khối.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
200
Khối A học buổi sáng là những lớp học có môn Pháp văn.
Khối B học buổi chiều là những lớp học có môn Nga văn.
Thời gian đầu vì học 2 buổi nên họp hội đồng phải bố trí
vào sau tiết 5 buổi chiều (từ 18 đến 20 giờ) nên cũng có
nhiều khó khăn nhất là đối với chị em ở xa có con nhỏ.
Việc mở thêm khối C, theo phƣơng án: học theo chƣơng
trình chính qui, học phí thu theo thỏa thuận với hội cha mẹ
học sinh. Tiền thu một phần để gây quĩ phúc lợi cho Công
đoàn quản lý, phần còn lại chia đều cho các tiết dạy, đã
đƣợc cán bộ giáo viên nhất trí hƣởng ứng. Chủ trƣơng mở
khối C nhƣ trên đã đƣợc phụ huynh học sinh hoan nghênh
tuy có phải đóng mức học phí cao hơn. Chủ trƣơng này
cũng đƣợc Ty Giáo dục phê duyệt và chỉ đạo sát sao từ việc
xây dựng qui chế, cách thức tuyển sinh, bố trí đội ngũ giáo
viên giảng dạy, phƣơng án sử dụng tiền học phí, và đặc biệt
là vấn đề thi tốt nghiệp đối với học sinh khối C…
Năm học 1986 – 1987 tổ chức đƣợc 4 lớp khối C, các
năm sau cứ tăng dần đến 8 lớp mỗi khối, toàn trƣờng có tới
24 lớp khối C và vì không đủ phòng học nên khối C đành
phải học vào buổi tối.
Từ khi mở khối C, nhiều giáo viên đã có thu nhập thêm
từ 1/3 suất lƣơng chính đến hơn cả suất lƣơng chính của
mình, mọi giáo viên đều phấn khởi. Nhà trƣờng chọn
những giáo viên Nam khỏe có nhiều kinh nghiệm dạy học
để dạy khối C và đồng thời phải làm cả bảo vệ, vì lúc đó
trƣờng chỉ có 20 phòng học không có hàng rào bao quanh,
trƣờng lại gần bến xe nên cũng có nhiều phức tạp.
Để giáo viên yên tâm đứng lớp thì nhất thiết buổi học nào
cũng phải có mặt ít nhất 1 đồng chí trong Ban giám hiệu,
đồng chí Phan Tiến Dũng phó hiệu trƣởng nhà trƣờng lúc
đó đƣợc phân công phụ trách thƣờng trực khối C.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
201
Vì học ban đêm nên vấn đề ánh sáng là khâu thiết yếu.
Nhà trƣờng đã vận động đƣợc các đồng chí ban Giám đốc
nhà máy điện Cao Ngạn thông cảm với khó khăn của
trƣờng và hết lòng giúp đỡ đã đồng ý cấp điện, lại cấp pha
ƣu tiên, ủng hộ cả cột điện, đƣờng dây để phục vụ cho khối
C.
Nét nổi bật trong hoạt động của trƣờng là bên cạnh việc
duy trì nền nếp việc dạy và học, nhà trƣờng đã có chuyển
hƣớng nhằm thực hiện phƣơng châm giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất. Gắn kết nhà trƣờng với nhiều xí nghiệp
để cho học sinh đƣợc tham quan, tham gia lao động tại nhà
máy để vừa có kiến thức thực tế, vừa làm sinh động thêm
bài học, nhà trƣờng lại có thu nhập để làm phong phú thêm
cơ sở vật chất.
Nhà trƣờng đã trăn trở tìm tòi nhiều phƣơng án để tổ
chức hoạt động lao động sản xuất. Lúc đầu, mới chỉ chọn ra
một nghề dễ làm, ít tốn kém, đó là nghề làm gạch nung.
Trƣờng tổ chức cho học sinh đào đất, làm nhuyễn, đóng
khuôn. Đất làm gạch lúc đó lấy ngay ở khu sân vận động
bây giờ. Sau đó trƣờng lại đặt ra chế độ cho học sinh làm
khoán gạch mộc ở nhà. Các em phải nộp đủ 10 viên/tuần.
Nhà trƣờng tập kết số gạch mộc và nhờ bác Thắng là phụ
huynh học sinh đến hƣớng dẫn cách xây lò và nung gạch.
Mẻ gạch đầu tiên ra lò thì viên chín, viên non, viên to, viên
nhỏ! Nhƣng rồi cũng đủ để xây đƣợc 4 khu vệ sinh cho học
sinh và bán đƣợc một số gạch tốt, thu về đủ tiền than. Sau
này nhà trƣờng thấy việc làm gạch hiệu quả thấp nên lại
tìm hƣớng chuyển sang các việc lao động khác nhƣ:
Liên hệ và đƣợc Nhà máy điện Cao Ngạn ủng hộ xỉ lò
của nhà máy để chuyển về cho học sinh đóng gạch “Pa
Panh”. Loại gạch không nung, dùng để xây dựng công trình
phụ nhà trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
202
Liên hệ với nhà máy luyện cán thép Gia Sàng, hàng năm
cho thầy trò vào tham quan và tham gia một số buổi làm vệ
sinh nhà máy để gây quỹ trƣờng. Đƣợc lãnh đạo nhà máy
đồng ý, nhà trƣờng còn tiến hành chiến dịch thu dọn sắt phế
liệu do thầy giáo Nguyễn Ngọc Kim chỉ huy và chọn một
số lớp 12 thực hiện. Làm gần 1 tuần lễ, số thép phế thu
đƣợc có đến hàng chục tấn. Trƣờng liên hệ với Hợp tác xã
Cộng Lực mua lại số thép phế đó và đổi lại cho trƣờng
bằng cột bê tông, vì kèo sắt để về xây dựng một số khu nhà
cấp 4 (cột bê tông vì kèo sắt và lợp ngói) chấm dứt thời kỳ
giáo viên, học sinh phải ở và học trong những nhà tạm bợ.
Cũng từ tiền bán số sắt thép phế liệu mà mua đƣợc 1 số sắt
thép chính phẩm để làm đƣợc 200 bộ bàn ghế sắt 2 chỗ
ngồi. Nhà máy cơ khí 3 – 2 cho chỉ tiêu mua tôn làm mặt
bàn mặt ghế và cử công nhân đến gia công giúp. 200 bộ
bàn ghế sắt đã giải quyết thêm 800 chỗ ngồi cho học sinh
trên 2 ca. Có thể nói thời kỳ này cơ bản giải quyết tốt việc
trang bị bàn ghế trên lớp học. Nhƣ vậy là bằng sức lao
động của thầy và trò, có sự giúp đỡ của các nhà máy xí
nghiệp, nhà trƣờng đã tiết kiệm cho nhà nƣớc hàng trăm
triệu đồng.
Ngày ấy nhà máy Z159 còn tặng trƣờng 1 máy hàn có
công suất lớn, cử cán bộ công nhân đến lắp đặt và hƣớng
dẫn giáo viên học sinh cách vận hành sửa chữa các thiết bị
trong trƣờng nhất là số bàn ghế sắt bị hƣ hỏng rất kịp thời
mà lại không tốn kém. Các nhà máy Z127, Z159, Z115 còn
cử cán bộ kĩ thuật giúp trƣờng dạy môn kỹ thuật công
nghiệp.
Nhà máy xay xát gạo Mỏ Bạch bán lại cho trƣờng một
máy xay xát gạo cũ với giá thanh lý và cho công nhân đến
trƣờng hƣớng dẫn vận hành. Hoạt động của xƣởng xay xát
cũng hết sức nhộn nhịp và bà con nông dân lân cận thƣờng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
203
mang thóc đến xay. Tiền thu về nhập quĩ phúc lợi của Công
đoàn cũng khá, số cám đƣợc phân phối, bán rẻ cho giáo
viên chăn nuôi lợn, gà.
Do có quan hệ gắn bó với trƣờng, nhà máy Z159 đề nghị
trƣờng tổ chức lớp học ngay trong nhà máy, cơ sở vật chất,
xƣởng thực hành, giáo viên kỹ thuật do nhà máy đảm nhận,
còn giáo viên bộ môn văn hóa cơ bản do nhà trƣờng phụ
trách. Đƣợc Sở giáo dục đồng ý việc mở “lớp bán công”
ngay trong nhà máy đã tạo cơ hội cho hầu hết con em công
nhân cán bộ nhà máy đƣợc học cấp III. Việc này duy trì
đƣợc 2 năm, sau lại phải rút về học tại trƣờng, do yêu cầu
bí mật quốc phòng.
Năm 1987, tình hình kinh tế đời sống của nhân dân còn
nhiều khó khăn. Số giáo viên ở trong khu tập thể phải tận
dụng từng mảnh đất nhỏ để trồng rau tự túc cho bữa ăn, rau
nuôi lợn. Cả tập thể giáo viên trên 40 hộ chỉ có 1 giếng
nƣớc ăn. Về nhà ở mới chỉ có 14 hộ ở nhà cấp 4, còn hơn
20 hộ và số độc thân phải ở trong các gian nhà tranh tre nứa
lá.
Mặc dù công cuộc đổi mới đã tiến hành đƣợc hơn một
năm, đất nƣớc có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên
tình hình kinh tế - xã hội trong nƣớc nói chung và của tỉnh
Bắc Thái nói riêng còn có những khó khăn gay gắt. Mức
sống thực tế của cán bộ giáo viên nhà trƣờng tiếp tục giảm
sút; tiền lƣơng chƣa đủ đảm bảo mức sống cần thiết nhất
cho cán bộ giáo viên và gia đình họ. Hầu hết cán bộ giáo
viên lúc đó ngoài việc dạy học phải tìm cách làm nhiều
việc khác nhau bằng sức lao động của mình.
Nhận thức rõ khó khăn đó, chi bộ Đảng, ban Giám hiệu
một mặt động viên cán bộ giáo viên đề cao tinh thần khắc
phục khó khăn, khuyến khích các gia đình phát triển tăng
gia, chăn nuôi, làm nghề phụ… mặt khác đồng chí bí thƣ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
204
chi bộ, Hiệu trƣởng nhà trƣờng cùng với đồng chí thƣ ký
Công đoàn, bàn cách phải tìm đất, mƣợn đất để chia cho
giáo viên tăng gia sản xuất, tự cải thiện cuộc sống. Ngƣời
giúp giải quyết việc này là bác Vũ Ngọc Lan chủ nhiệm
hợp tác xã Đồng Quang (sau này là chủ tịch xã Đồng
Quang). Bác đã gợi ý nhà trƣờng nên xin đất làm nhà cho
cán bộ giáo viên. Khu đất mà bác Lan giới thiệu chính là
khu “Làng giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến” hiện nay. Đƣợc
bác Lan chỉ dẫn, lãnh đạo trƣờng và Công đoàn đến gặp
bác Tƣ là trƣởng ban kiểm soát hợp tác xã, và đƣợc bác sẵn
sàng ủng hộ. Bác Tƣ còn chỉ cho cách xin chuyển đổi từ đất
canh tác sang đất thổ cƣ. Có giấy tờ của Hợp tác xã Đồng
Quang trong tay, lãnh đạo nhà trƣờng lên UBND tỉnh gặp
đồng chí Mai Phúc Toàn chủ tịch, đồng chí Nguyễn Ân phó
chủ tịch để trình bày. Đồng chí Nguyễn Ân là phó chủ tịch
UBND tỉnh, phụ trách nông nghiệp đã nhất trí ngay và cho
thảo công văn, giao cho UBND thành phố làm thủ tục cấp
đất.
Việc quy hoạch, việc chia đất, cấp cho ai, tỉnh và thành
phố ủy nhiệm cho lãnh đạo nhà trƣờng và Công đoàn giải
quyết sao cho công khai, công bằng. Với mục đích là xin
đất để giáo viên làm nhà ở và cải thiện đời sống nên hộ nào
cũng đƣợc cấp trên 100m2. Sau này nhà trƣờng còn tiếp tục
xin đƣợc đất làm nhà cho hơn một chục hộ phía cổng
trƣờng và gần chục hộ ở phía sau nhà 3 tầng, phía bến ô tô
đi lên, nên đã gần nhƣ đáp ứng đầy đủ nơi ăn chốn ở của
giáo viên, tạo điều kiện cho nhiều giáo viên “an cƣ lạc
nghiệp”. Lần đầu tiên trƣờng đã xóa bỏ đƣợc việc bao cấp
chỗ ở tập thể cho cán bộ, giáo viên.
Trong lần Bộ trƣởng Bộ Giáo dục – Đào tạo đột xuất đến
thăm trƣờng giữa lúc nhà trƣờng đang tổ chức hội thảo về
“Phong cách giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến”. Bộ trƣởng đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
205
chú ý nghe ý kiến thảo luận. Kết thúc buổi họp, Bộ trƣởng
đi thăm trƣờng lớp, thăm làng giáo viên, Bộ trƣởng đã ghi
vào sổ lƣu niệm của trƣờng:
“Tôi rất vui mừng hôm nay được dự buổi họp của hội
đồng nhà trường, nghe đồng chí Giám đốc Sở Giáo dục,
đồng chí Hiệu trưởng và nhiều đồng chí giáo viên phát
biểu ý kiến. Rất mong các đồng chí gắng sức tiến lên xây
dựng tập thể giáo viên và cán bộ nhà trường thành tập thể
sư phạm đoàn kết, mẫu mực, cùng nhau đưa trường ta phát
huy truyền thống Lương Ngọc Quyến. Thật sự trở thành
một trường dạy tốt kiến thức cơ bản, lao động, kỹ thuật
hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông.
Thay mặt Bộ Giáo dục, tôi nhiệt liệt hoan nghênh và
biểu dương những cố gắng to lớn của trường ta và mong
các đồng chí tiến lên, xứng đáng là trường tiên tiến xuất
sắc của tỉnh, tiến lên là trường mô hình đẹp chào mừng Đại
hội VI”.
Năm 1990 Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Tâm lý hoang
mang, lo lắng, tác động vào nhà trƣờng. Hiện tƣợng giáo
viên bỏ nghề, học sinh bỏ học diễn ra ở nhiều nơi rất đáng
lo ngại. Trong bối cảnh đó, để ổn định tƣ tƣởng, lấy lại sự
cân bằng trong các hoạt động, chi bộ chỉ đạo nhà trƣờng tổ
chức một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng lấy tên là xây
dựng “Phong cách giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến”.
Phong cách giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến lúc đầu đƣợc
xác định có 5 tiêu chí “Đoàn kết, trách nhiệm, dân chủ, kỷ
cƣơng, hiệu quả”. Khi vào dự khai giảng năm học 1991 –
1992 đồng chí Nguyễn Ngô Hai lúc đó là ủy viên Trung
ƣơng Đảng, Bí thƣ Tỉnh ủy, đồng chí góp ý kiến nhất trí 4
tiêu chí đầu, riêng tiêu chí “hiệu quả” nên đổi thành “Trí
tuệ”. Lƣơng Ngọc Quyến là phải trí tuệ. Từ đó trở đi tiêu
chí phong cách của trƣờng đƣợc ghi là “ Đoàn kết, trách
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
206
nhiệm, dân chủ, kỷ cƣơng, trí tuệ ”.
Khẩu hiệu trên đã thôi thúc động viên mọi ngƣời tự học,
tự bồi dƣỡng, hỗ trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tổ Văn của
trƣờng luôn là một tổ mạnh, nhiều đồng chí đƣợc giáo viên
văn của các trƣờng bạn biết tới, lớp cao tuổi có các cô Vũ
Thị Việt, Nguyễn Thị Tuất, Hà Thị Đào, Đàm Minh
Thuận… lớp tiếp theo là các cô Nguyễn Thu Dông, Lê Kim
Thoa… Các cô Nguyễn Tú Minh, Nguyễn Việt Hà, là giáo
viên lần đầu tiên dự thi đã đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh. Riêng
cô Nguyễn Tú Minh vốn là giáo viên văn, vì muốn hợp lý
hóa gia đình, đồng chí nhận dạy môn GDCD, tuy “trái tay”,
nhƣng thi giáo dục công dân lần đầu đã đạt giáo viên giỏi
cấp tỉnh loại xuất sắc. Trƣớc khi đƣợc đề bạt phó hiệu
trƣởng, thầy Bùi Anh Tuấn cũng nhiều năm đạt giáo viên
dạy giỏi văn cấp tỉnh. Về môn Lý tiếp theo thầy Trần Hùng
là các thầy cô Lại Đức Kế, Nguyễn Cảnh Tiến, Lƣơng Tú
Thủy, Phạm Thanh Nga, Trần Thị Thuận, Dƣơng Xuân
Hải. Về môn Địa có thầy cô Lê Thị Nga, Nguyễn Thị Lệ
Diễm, Nguyễn Tiến Việt, Giang Văn Kham, môn Sử có cô
Nguyễn Thị Thắng, Nguyễn Thị Oanh, Phan Thị Mai. Môn
Hóa có cô Bùi Thị Loan, Nguyễn Thị Phƣơng Dung, Ma
Thị Bạn, Ma Quỳnh Nga, Bùi Bích Thủy, tiếp bƣớc thầy
Chu Văn Thôn. Môn Sinh có cô Trần Thị Bảy, Đoàn Bích
Liên, tiếp đấy là Chu Thị Quỳnh, Ninh Thị Thanh Vân, Vũ
Hoàng Yến. Môn Toán có các thầy cô Nguyễn Trần
Nguyên, Nguyễn Huy Tuyển, Phan Yến Lan, Lê Thúy
Ngần, Nguyễn Việt Hƣơng, Đào Bình Minh, Nguyễn Thị
Hƣơng Xạ, Bùi Hồ Thủy, Tống Thị Liên Hoan, Lý Hồng
Hạnh. Môn Thể dục thể chất có thầy cô Nguyễn Thanh
Giang, Đinh Xuân Sinh, Nguyễn Ngọc Cƣờng… Môn Giáo
dục công dân có các cô Trần Minh Nguyệt, Ngô Thị Hòa
Bình (cô Ngô Hòa Bình vốn là giáo viên văn). Các thầy cô
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
207
trên, mỗi ngƣời có một hoàn cảnh riêng nhƣng có cùng
chung một quyết tâm, trách nhiệm, một tình yêu nghề, yêu
trƣờng lớp, yêu học sinh.
Năm 1994 nhân Bộ giáo dục tổ chức Festival cho các
trƣờng dân tộc nội trú ở Bắc Thái, vì trƣờng có sân vận
động, có thể tổ chức đƣợc một số môn, nên đƣợc chọn là
một trong các địa điểm thi đấu, lúc này Thái Nguyên chƣa
có nhà đa năng nên Sở Giáo dục đã đầu tƣ xây dựng nhà đa
năng để phục vụ trƣớc mắt cho hội thi, tiếp đó đầu tƣ xây
dựng phòng thƣ viện, phòng thí nghiệm.
Vì đoạn đƣờng từ ngã tƣ Đồng Quang vào trƣờng còn lầy
lội, trƣờng báo cáo việc này với đồng chí Mai Phúc Toàn,
chủ tịch UBND tỉnh. Đồng chí Chủ tịch đã giao cho sở
Giao thông khảo sát thiết kế thi công ngay. Nhân có
Festival mà hệ thống lƣới điện trong trƣờng đƣợc UBND
tỉnh lắp đặt hơn chục đèn cao áp, chạy xung quanh trƣờng.
Năm 1986 trong dịp lễ hội kỷ niệm 40 năm thành lập
trƣờng và đón nhận huân chƣơng lao động hạng Ba, nhiều
thầy, cô giáo và học sinh cũ nêu ý tƣởng cần có tấm ảnh
Bác Hồ ngày về thăm trƣờng treo trong phòng truyền
thống, có tƣợng Bác đặt tại gốc cây xà cừ - nơi Bác đã nói
chuyện với thầy cô giáo, cán bộ nhân viên và học sinh. Ý
tƣởng đó cũng là nguyện vọng chung của các thế hệ thầy,
trò, kể cả phụ huynh học sinh. Ban lãnh đạo trƣờng đã tích
cực xúc tiến công việc với mong muốn đến kỳ hội trƣờng
1991 (kỷ niệm 45 năm thành lập và đón huân chƣơng lao
động hạng nhì) nguyện vọng đó sẽ thành hiện thực.
Nhƣng thực tế có rất nhiều khó khăn: tìm tấm ảnh ấy ở
đâu? Làm sao có đƣợc tấm ảnh đẹp và chuẩn mực? Vấn đề
đặt tƣợng Bác trong khuôn viên trƣờng còn nan giải hơn, vì
trƣờng không phải là di tích lịch sử đã đƣợc xếp hạng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
208
Ngay việc đúc tƣợng Bác cũng phải trải qua một qui trình
thủ tục chặt chẽ và công đoạn kỹ thuật nghiêm ngặt.
Theo qui định chung: Nhà lƣu niệm Bác Hồ chỉ đƣợc
xây ở nơi di tích lịch sử đã đƣợc xếp hạng. Để đảm bảo tính
giáo dục tƣ tƣởng chính trị, tính khoa học và tính thẩm mỹ,
việc đúc tƣợng Bác nhất thiết phải trải qua các công đoạn
bắt buộc và đƣợc các cấp chức năng thẩm định đầy đủ
- Hình mẫu 1: cao 20 cm.
- Hình mẫu 2: kích thƣớc bằng ngƣời thật.
- Tƣợng chính thức có kích thƣớc phù hợp với khuôn
viên đặt tƣợng.
Để có tấm ảnh Bác nhƣ ý, trƣờng đã liên hệ với nhiều
nơi: Bảo tàng Việt Bắc; Bảo tàng quân khu I; Bảo tàng Hồ
Chí Minh... Cuối cùng đến Thông tấn xã Việt Nam xin
đƣợc tấm ảnh tƣ liệu nội bộ, muốn trƣng bày phải phục chế.
(Chị Tâm học sinh cũ của trƣờng đã giúp công việc phục
chế này)
Nhƣ vậy, để xây đƣợc nhà lƣu niệm Bác Hồ, trƣờng đã
tiến hành một quá trình phấn đấu bền bỉ liên tục cả về
phong trào thi đua “ Dạy tốt, học tốt” và cố gắng làm tốt
mọi thủ tục để đáp ứng các qui định chung. Quá trình này
kéo dài qua 2 kỳ hội trƣờng kỷ nịêm ngày truyền thống 13
– 3 ( 1991: đón nhận huân chƣơng lao động hạng nhì, 1996:
đón nhận huân chƣơng lao động hạng nhất) mà chƣa có nhà
lƣu niệm Bác Hồ.
Tuy nhiên, nhà trƣờng quyết tâm và năng động, biết huy
động các nguồn ủng hộ, từ UBND tỉnh, Sở giáo dục, Sở
văn hóa, Tổng cục chính trị QĐNDVN… qua sự giúp đỡ
chí tình chí nghĩa của các cựu học sinh nhƣ thiếu tƣớng Lê
Ngọc Thủy, đại tá Đặng Đức Kim… cuối cùng mọi khó
khăn đã vƣợt qua. Công việc xây dựng nhà lƣu niệm đƣợc
tiến hành rất khẩn trƣơng với nhiệt tình ủng hộ của Công ty
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
209
xây dựng số 1 của tỉnh (có 2 cựu học sinh của trƣờng là
kiến trúc sƣ Báu, đội trƣờng đội thi công Điệp). Hội cha mẹ
học sinh góp một phần kinh phí cùng với khoản tiền trích
từ lãi suất tiết kiệm của quĩ phúc lợi (học phí khối C gửi
ngân hàng).Công trình đƣợc hoàn thành trong vòng 1 tháng
mà không cần đến tiền từ ngân sách nhà nƣớc!
Chỉ có một điều đáng tiếc: lẽ ra khuôn viên đặt tƣợng
Bác phải rộng, thoáng, cảnh quan xanh tƣơi với vƣờn cọ,
cây cao bóng cả, hài hòa với cổng tƣờng cao rộng mở ra
đƣờng Lƣơng Ngọc Quyến… Tƣợng bác vừa toát lên tính
trang trọng linh thiêng, vừa mang dáng dấp hiền hòa, giản
dị gần gũi rất hợp với phong thái của Bác.
Ban giám hiệu đã bảo vệ luận chứng qui hoạch. Nhƣng
rồi mọi chuyện đã diễn ra không nhƣ ý.
Ngày 13 - 3 - 2001, ngày mà nhà trƣờng đón nhận danh
hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. Các đồng chí
lãnh đạo tỉnh, thành phố, các thế hệ thầy cô giáo và học
sinh đƣợc vinh dự thắp nén nhang tƣởng niệm đầu tiên,
kính cẩn nghiêng mình trƣớc anh linh của Bác tại nhà
tƣởng niệm để nguyện phấn đấu sống, học tập, lao động
theo gƣơng Bác Hồ vĩ đại.
Trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc
phong tặng danh hiệu thi đua cao quý nhƣ vậy là nhờ đạt
đƣợc nhiều thành tích nổi bật. Từ một trƣờng ở thứ hạng
trung bình, sau 10 năm phấn đấu nhà trƣờng đã có một đội
ngũ giáo viên có tình cảm thiết tha yêu nghề, yêu trƣờng,
luôn phấn đấu theo Đảng. Từ một chi bộ có 10 đảng viên
đã phấn đấu thành một đảng bộ có hơn 30 đảng viên và hơn
10 đảng viên khác đƣợc điều động làm chuyên viên cho các
cơ quan nhƣ Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Tỉnh đoàn, Hiệu trƣởng,
Hiệu phó một số trƣờng bạn. Một số giáo viên giỏi đƣợc
điều động bổ sung cho trƣờng chuyên của tỉnh. Số giáo
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
210
viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua ngày một nhiều. Các năm
học trƣớc không có chiến sĩ thi đua, không có tổ lao động
xã hội chủ nghĩa thì đến giai đoạn này chiến sĩ thi đua cấp
cơ sở chiếm 40% trên tổng số giáo viên, nhiều ngƣời là
chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, nhiều ngƣời đƣợc bằng khen của
Bộ giáo dục, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Trung
ƣơng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Thủ tƣớng
Chính phủ. Hai cán bộ giáo viên đƣợc phong tặng danh
hiệu nhà giáo ƣu tú. Số tổ lao động Xã hội chủ nghĩa cứ
tăng dần. Có nhiều năm cả 6/6 tổ chuyên môn đƣợc công
nhận là tổ lao động Xã hội chủ nghĩa . Đoàn viên giỏi của
trƣờng đi thi giáo viên giỏi của tỉnh đƣợc xếp thứ hạng cao,
nhiều năm đạt giải nhất, nhì toàn đoàn.
Về phía học sinh, từ 36 lớp tăng lên 60 lớp, từ khi chƣa
có học sinh giỏi toàn quốc, đã vƣơn lên là trƣờng có số học
sinh tham gia đội tuyển của tỉnh nhiều nhất. Ngay cả khi có
trƣờng năng khiếu thì trƣờng vẫn có học sinh tham gia đội
tuyển và đƣợc giải quốc gia. Số học sinh tốt nghiệp phổ
thông và thi đỗ vào các trƣờng Đại học, Cao đẳng luôn
đứng ở tốp nhất nhì của tỉnh.
Trong các kỳ hội khoẻ Phù Đổng và thi giọng hát hay
khối Trung học phổ thông, đoàn của trƣờng thƣờng xếp thứ
nhất, luôn là trƣờng dẫn đầu có các em tham gia đội của
tỉnh, nhiều em đƣợc huy chƣơng vàng và bằng khen, một
số em đƣợc ƣu tiên tuyển vào các trƣờng năng khiếu Thể
dục thể thao, các trƣờng Văn hoá nghệ thuật trong và ngoài
quân đội. Từ những năm 1980 - 1981, tình trạng học sinh
hƣ và nhiều hiện tƣợng tiêu cực gây bức xúc và trở thành
nỗi ám ảnh đối với nhà trƣờng, gia đình và xã hội. Dần dần
bằng nhiều biện pháp tích cực, tình trạng trên đã bị đẩy lùi,
trong trƣờng không có em nào nghiện hút, đánh nhau, trốn
học hoặc vô lễ với thầy cô giáo.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
211
Công đoàn nhà trƣờng nhiều năm là đơn vị dẫn đầu khối
các trƣờng Trung học phổ thông đƣợc Liên đoàn lao động
tỉnh, Công đoàn giáo dục Việt Nam tặng bằng khen cho
tập thể và cá nhân.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh nhà trƣờng, có
một đội ngũ thạo việc, biết tập hợp đoàn kết đoàn viên
thanh niên có nhiều hoạt động sáng tạo, nắm bắt đƣợc tâm
lý và nguyện vọng của thanh niên, kết hợp tốt các hoạt
động hàng ngày với giáo dục lý tƣởng, truyền thống. Nhiều
đoàn viên giáo viên đã đƣợc kết nạp vào Đảng. Nhiều chi
đoàn học sinh đƣợc công nhận là tập thể học sinh Xã hội
chủ nghĩa, tập thể “Học tập và rèn luyện vì ngày mai lập
nghiệp”. Đoàn trƣờng đã đƣợc Trung ƣơng đoàn nhiều năm
tặng cờ Nguyễn Văn Trỗi và cờ thƣởng luân lƣu mang chân
dung Bác Hồ. Nhiều đoàn viên đƣợc tỉnh đoàn và Trung
ƣơng đoàn khen thƣởng.
Trƣờng đã có nhiều thành tích trong việc thực hiện chủ
trƣơng xã hội hoá giáo dục. Bằng nhiều biện pháp khắc
phục khó khăn, thiếu thốn về cây giống, kỹ thuật ƣơm trồng
và cố gắng huy động công sức thầy, trò. Nhà trƣờng đã dần
dần thay đổi bộ mặt, khiến cho toàn bộ khuôn viên nhà
trƣờng (36.000 m2) đã đƣợc phủ xanh. Hiệu quả cây sống
trên 90%, đƣợc coi là điển hình của toàn quốc, đƣợc Bộ
trƣởng Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ trƣởng Bộ lâm nghiệp
biểu dƣơng, đƣợc giám đốc các Sở giáo dục, các Sở Lâm
nghiệp của các tỉnh từ Bình Trị Thiên trở ra đến tham quan
và tham khảo kinh nghiệm. Từ một cơ ngơi chỉ có 20
phòng học, không có điện nƣớc, phải học 3 ca, từ chỗ học
sinh tập thể dục, tập quân sự học đƣờng phải ra ngoài
trƣờng, không an toàn, không giữ đƣợc kỷ cƣơng, nền nếp,
nay trƣờng đã phấn đấu để có một mặt bằng xây đƣợc 18
phòng học (nhà 3 tầng), có sân vận động để học và chơi thể
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
212
dục, thể thao, học tập quân sự học đƣờng, cắm trại và các
hoạt động tập thể khác. Cũng từ việc thực hiện chủ trƣơng
xã hội hoá giáo dục nhà trƣờng đã huy động đƣợc nhiều
nguồn lực bên ngoài để cùng với sức lao động của thầy và
trò đã tự túc đƣợc 100 bộ bàn ghế gỗ 2 chỗ ngồi, đồng thời
tình trạng lớp học, nhà giáo viên bằng tranh tre, nứa lá tạm
bợ đã đƣợc xoá bỏ. Đặc biệt cần ghi nhận thành tích tận
dụng đƣợc nguồn lực trí tuệ, tay nghề và thiết bị chuyên
dụng của xã hội vào nhiệm vụ giáo dục kỹ thuật tổng hợp
cho học sinh (nhƣ đã nói ở phần trên) Trƣờng hết sức chăm
lo đời sống của cán bộ giáo viên và học sinh. Thực hiện
chủ trƣơng đa dạng hoá giáo dục, đƣợc Sở giáo dục cho
phép trƣờng mở thêm các lớp khối C (Sau này là lớp bán
công) và tổ chức hợp lý để giáo viên nào cũng phát huy
đƣợc khả năng chuyên môn, vừa giải quyết nhu cầu xã hội,
vừa tăng thu nhập chính đáng (nhƣ đã trình bày ở phần
trên). Ở trƣờng, các tổ chuyên môn có phòng họp riêng, lúc
giải lao hoặc chờ lên lớp có phòng chờ giáo viên, có nƣớc
uống, nhà vệ sinh tự hoại, có đèn sáng, quạt điện, có báo
chí, sách tham khảo, có phòng y tế ... tất cả nhằm tạo điều
kiện để giáo viên đƣợc giảng dạy và sinh hoạt tại trƣờng
một cách thuận lợi nhất. Mỗi kỳ hè Công đoàn nhà trƣờng
còn tổ chức tham quan du lịch ở hầu hết các nơi có danh
tiếng của đất nƣớc.
Tuy vậy giáo viên của trƣờng vẫn còn rất khó khăn về nơi
ăn, chốn ở. Nhà tập thể theo chế độ bao cấp trƣớc đây giờ
trở nên quá chật chội và bí bách. Lãnh đạo nhà trƣờng đã
làm đƣợc một việc có ý nghĩa đột biến nhằm cải thiện đời
sống giáo viên là vận động xin đất làm nhà ở cho các thầy
giáo, cô giáo. Mỗi ngƣời đƣợc cấp khoảng 100m2 đất , 60
hộ lập thành “Làng giáo viên” Đây là “Làng giáo viên”
ra đời sớm nhất và cho đến nay vẫn là duy nhất trong các
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
213
trƣờng trung học phổ thông toàn tỉnh.
Với những thành tích nổi bật nhƣ trên trƣờng Trung học
phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến đã đƣợc nhà nƣớc phong
tặng danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”.
Từ năm học 1994 – 1995, nhà trƣờng đã dấy lên cao trào
xây dựng cơ sở vật chất, đầu tiên là Hội cha mẹ học sinh
đóng góp kinh phí cải tạo nâng cấp nhà thí nghiệm thành
nhà 2 tầng. Thƣ viện và dụng cụ thí nghiệm đƣợc chuyển
lên tầng 2, tầng dƣới đƣợc chia thành 6 phòng cho 6 tổ
chuyên môn sinh hoạt, rồi làm nhà bảo vệ, khoan giếng lấy
nƣớc, sau khi đã chủ động đƣợc nƣớc, nhà trƣờng đã mua
bình lọc cho học sinh uống. Bình lọc nƣớc đƣợc đặt ở
phòng y tế học đƣờng, thùng nƣớc có nắp đậy có khóa, theo
dõi gần 1 tháng, không thấy có em nào việc gì, từ đấy trở đi
trực nhật các lớp đem ca lấy nƣớc lọc, đem về lớp cho thầy
và trò dùng, học sinh không còn lý do xin ra ngoài uống
nƣớc nữa. Ngoài ra trƣờng còn tiếp tục xây 2 khu vệ sinh tự
hoại gần phòng giáo viên.
Trong những năm 1992 – 1995 nạn đốt pháo trong trƣờng
đã thành nỗi ám ảnh các thầy cô giáo và các nhà dân xung
quanh trƣờng, phải tốn nhiều công sức lắm mới dẹp đƣợc.
Nhƣng một tệ nạn mới lại xuất hiện nguy hiểm hơn, làm
tăng nỗi lo lắng của toàn xã hội, đó là tệ nạn ma túy trong
trƣờng học. Để giải quyết tệ nạn này, nhà trƣờng đã có
nhiều giải pháp. Trƣớc hết tiến hành tuyên truyền giáo dục.
Tổ chức dạy lồng ghép trong các bộ môn nhƣ giáo dục
công dân, địa lý, sinh học, văn học… mời chuyên gia tƣ
vấn về nói chuyện chuyên đề cho toàn thể giáo viên học
sinh, tổ chức các hòm thƣ kín nhằm phát hiện các em bị
nghi vấn. Quản lý chặt chẽ việc học sinh vào, ra trƣờng
trong các giờ nghỉ giải lao. Đầu năm học cha mẹ học sinh
cam kết với giáo viên chủ nhiệm là sẽ phối hợp chặt chẽ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
214
trong việc quản lý con em mình, không để các em bị lôi
kéo vào con đƣờng xấu. Đặc biệt nhà trƣờng đã đƣợc Sở
công an, Sở y tế, Bệnh viện A hết lòng giúp đỡ trong việc
kiểm tra đột xuất bằng que thử đối với những em bị nghi
vấn (việc thử phải bí mật bất ngờ để các em trong diện
không kịp đối phó). Lần thử đầu tiên 10/65 em có phản ứng
dƣơng tính. Các em nhiễm nặng gia đình tự nguyện xin
nghỉ học để tự cai tại nhà. Các em nhẹ hơn thì vừa đi học
vừa tự cai. Số các em bị dƣơng tính cứ giảm dần. Đến
những năm 1999 – 2000 thì không phát hiện em nào dƣơng
tính nữa. Do làm tốt công tác giáo dục phòng chống nghiện
hút ma túy, phòng chống HIV AIDS nên nhà trƣờng đã
đƣợc UBND tỉnh tặng 2 bằng khen.
Phòng y tế học đƣờng ra đời trong một hoàn cảnh trƣờng
rất quyết tâm, nhà trƣờng đã mạnh dạn báo cáo với Sở Giáo
dục cho ký hợp đồng với cô: Nguyễn Thị Hồng - tốt nghiệp
trung cấp Y, tiền lƣơng lấy từ quỹ khối C. Lúc đầu chỉ
trang bị đƣợc một cơ số thuốc tối thiểu, phục vụ cho học
sinh bị cảm cúm, tiêu chảy cấp hoặc sơ cứu các trƣờng hợp
bị ngã bị ngất do tập thể dục, tập quân sự. Nhƣng sau này
trƣờng liên hệ thêm với trƣờng Đại học y khoa và Bệnh
viện đa khoa Thái Nguyên tổ chức cho học sinh khám mắt,
khám răng miệng định kỳ, tổ chức cho Nữ giáo viên khám
phụ khoa v.v...
Phòng y tế học đƣờng còn kết hợp với tổng chủ nhiệm,
đoàn TNCS Hồ Chí Minh tích cực vận động tuyên truyền
việc mua bảo hiểm y tế cho học sinh. Những năm đầu do
chƣa hiểu mục đích, ích lợi của việc mua bảo hiểm nên các
em còn mua ít, nhất là các em có hoàn cảnh gia đình khó
khăn. Sau này dần dần các em tham gia đông hơn. Tiền hoa
hồng mà bảo hiểm trích lại (10%) một phần để tái đầu tƣ,
mua trang thiết bị y tế, trang thiết bị cho việc lọc nƣớc máy
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
215
thành nƣớc tinh khiết phục vụ thầy trò, số còn lại mua bảo
hiểm y tế cho các em học sinh nghèo. Do cách làm này mà
nhiều năm liền 100% học sinh có thẻ BHYT, luôn dẫn đầu
khối THPT. Các đoàn kiểm tra y tế học đƣờng khi về
trƣờng đều có nhận xét là phòng thuốc phong phú, cán bộ y
tế có trình độ chuyên môn tốt, có tinh thần trách nhiệm cao.
Khu vực công cộng đảm bảo đƣợc vệ sinh không gây ô
nhiễm môi trƣờng.
Cũng năm 1997 nhà trƣờng đƣợc cấp kinh phí xây dựng
cổng trƣờng, xây dựng cải tạo lại khu văn phòng, phòng
truyền thống, trang bị phòng họp cho giáo viên bằng toàn
bộ bàn ghế Xuân Hòa. Khu sân trƣờng thì thay bạch đàn
bằng các cây phƣợng, bằng lăng, cây anh đào, dƣới tán cây
có khá nhiều ghế đá do học sinh các khóa và Hội cha mẹ
học sinh tặng.
Nhà trƣờng còn đƣợc đầu tƣ kinh phí xây 4 phòng học vi
tính với trên 40 máy 1 phòng học tiếng cho 40 học sinh,
đƣợc xây thêm một phòng chờ cho giáo viên 2 tầng, tầng
trên là thƣ viện, phòng đọc, phòng khách, đƣợc hỗ trợ kinh
phí cải tạo các phòng học cấp 4 thành nhà 2 tầng, tăng thêm
đƣợc 8 phòng học.
Năm 1998, 3 trƣờng: Lƣơng Ngọc Quyến; Hàn Thuyên
(Bắc Ninh); Ngô Sĩ Liên (Bắc Giang) lần đầu tiên tổ chức
giao lƣu văn hóa tại trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến. Nội dung
cuộc thi là một chƣơng trình văn nghệ, thi học sinh giỏi các
môn văn, toán, thi đơn nam, đơn nữ, đôi nam nữ, đôi nữ hai
môn cầu lông, bóng bàn. Hội thi giao lƣu văn hóa đã đƣợc
các Sở giáo dục, lãnh đạo UBND các huyện thành, lãnh
đạo UBND các tỉnh đến dự, cổ vũ động viên, có giấy khen
ngay lần đầu tiên đã để lại nhiều dấu ấn, nhiều cảm xúc cho
các đại biểu, cho thầy và trò trƣờng bạn. Từ đó trở đi các
trƣờng luân phiên nhau đăng cai tổ chức, số thành viên lúc
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
216
đầu chỉ là 3, nay có thêm các trƣờng: THPT Việt Bắc (tỉnh
Lạng Sơn), THPT Trần Phú (tỉnh Vĩnh Phúc), THPT thị xã
Cao Bằng (tỉnh Cao Bằng).
Từ năm 1986 đến 2001, nhà trƣờng đã tổ chức 4 lần lễ
hội truyền thống và đón nhận các danh hiệu cao quí đƣợc
Đảng và Nhà nƣớc phong tặng:
* 13 - 3 - 1986 Kỷ niệm 40 năm truyền thống và đón
nhận Huân chƣơng lao động hạng Ba.
* 13 - 3 - 1991 Kỷ niệm 45 năm truyền thống và đón
nhận Huân chƣơng lao động hạng Nhì.
* 13 - 3 - 1996 Kỷ niệm 50 năm truyền thống và đón
nhận Huân chƣơng lao động hạng Nhất.
* 13 - 3 - 2001 Kỷ niệm 55 năm truyền thống và đón
nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Có thể nói đây là những mốc son, những thời điểm quan
trọng để nhà trƣờng tổ chức thi đua, tạo ra sự chuyển biến
về chất trong hoạt động dạy và học, trong việc giáo dục
lòng yêu nghề, yêu ngƣời, giáo dục lòng tự hào về quê
hƣơng, về mái trƣờng thân yêu, từ đó phấn đấu rèn luyện
để trở thành chiến sĩ thi đua, giáo viên dạy giỏi, trở thành
những đảng viên ƣu tú của Đảng. Cũng nhân những ngày lễ
này, bằng xã hội hóa giáo dục, bằng lao động của thầy và
trò, bằng sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, cơ sở vật chất của trƣờng
ngày một khang trang và phong phú, từng bƣớc đáp ứng
yêu cầu của dạy và học trong nền giáo dục hiện đại. Bàn đi
tính lại mãi trƣờng đƣợc Sở giáo dục và UBND tỉnh nhất trí
cho chọn ngày 13 – 3, ngày Bác Hồ đến thăm trƣờng (13 -
3 - 1960) làm Ngày truyền thống của nhà trƣờng.
Ngày 13 - 3 - 1986 cũng là ngày trƣờng tổ chức ngày Hội
truyền thống đầu tiên, nên việc tổ chức đƣợc chuẩn bị khá
sôi nổi và kỹ càng.
Để lập thành tích chào đón ngày hội lớn, thầy và trò đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
217
phấn khởi đẩy mạnh phong trào thi đua Hai tốt, chuẩn bị
cho học sinh dự thi kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, chuẩn bị cho
kỳ thi tốt nghiệp lớp 12, phấn đấu để năm học đạt thành
tích cao với nhiều chiến sĩ thi đua, nhiều tổ lao động xã hội
chủ nghĩa, nhiều tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa.
Mọi việc điều hành chuyên môn trong trƣờng đều do thầy
Phan Tiến Dũng, phó hiệu trƣởng chủ trì, có sự hỗ trợ đắc
lực, hiệu quả của thầy Chu Văn Thôn lúc đó là thƣ ký hội
đồng.
Đồng chí Hiệu trƣởng lúc đó tập trung lo công tác “đối
ngoại”, lo nhất lúc ấy vẫn là kinh phí tổ chức, phƣơng án
mời và tiếp đón đại biểu, cũng nhƣ giáo viên, học sinh cũ…
Khi nhà trƣờng báo cáo kế hoạch với UBND tỉnh, đồng
chí Nguyễn Ngô Hai (lúc ấy là Phó Chủ tịch UBND tỉnh)
chủ trì. Đồng chí nêu ý kiến cho phép trƣờng mời Chính
phủ, Bộ Giáo dục, TW Đoàn, Đại sứ quán Tiệp Khắc, Đại
sứ quán Lào. Việc ăn ở đi lại của các vị khách trên sẽ do
UBND tỉnh lo. Trƣờng lo đón tiếp các cán bộ giáo viên cũ.
Với học sinh cũ của trƣờng thì Câu lạc bộ cựu học sinh ở
Thái Nguyên và Hà Nội góp phần lo tiếp đón.
Riêng phần học sinh cũ ở xa về, Ban Giám hiệu trƣờng
rất băn khoăn, nhƣng rồi có các anh Đinh Quang Ấn, Chu
Văn Cƣờng, Nguyễn Tiến Huân (ban liên lạc cựu học sinh
ở Thái Nguyên) các anh Lại Đình Cƣơng, Nguyễn Đăng
Long,… (ban liên lạc cựu học sinh ở Hà Nội) thống nhất
phƣơng án đón tiếp, lo nơi ăn chốn ở chu đáo.
Sau Tết âm lịch 1986, cả trƣờng gồm thầy, trò, Hội cha
mẹ học sinh, câu lạc bộ Nhà giáo hƣu trí Lƣơng Ngọc
Quyến, câu lạc bộ Học sinh cũ Lƣơng Ngọc Quyến Thái
Nguyên và Hà Nội sôi nổi chuẩn bị cho ngày Hội truyền
thống đầu tiên 13 – 3 – 1986. Ở trƣờng việc dạy và học
vẫn tiến hành bình thƣờng, không để giờ rỗng, các lớp đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
218
sửa chữa và sơn lại bàn ghế, lắp đặt lại cánh cửa, vá tƣờng
và nền lớp, quét vôi ve, trang trí lớp theo qui định, làm vệ
sinh khu vực đƣợc phân công cho từng lớp. Yêu cầu giữ
cho trƣờng lúc nào cũng sạch, cũng đẹp đã đƣợc các đồng
chí Nguyễn Ngọc Kim, Bùi Quang Bảo, Phan Tiến Dũng,
Vũ Thị Thắm,… phối hợp tổ chức điều hành rất nhịp
nhàng, hiệu quả. Tối 12 - 3 - 1986 việc chuẩn bị đã hoàn
tất, chu đáo. Lễ đài đã đƣợc trang trí hoành tráng, sân khấu
đã chuẩn bị xong, cờ khẩu hiệu đã căng lên đỏ rực sân
trƣờng. Ngoài phố đã có băng rôn, áp phích và treo đèn
trang trí. Mấy ngày trƣớc đó, chƣơng trình, kịch mục đã
đƣợc duyệt đi duyệt lại, màn đồng diễn múa nón và thể dục
nhịp điệu cũng đƣợc diễn thử đến mấy lần (phần này đồng
chí Bùi Quang Bảo có nhiều kinh nghiệm chỉ huy). Tập san
kỷ niệm 40 năm đã nghiệm thu và đóng dấu kính biếu. Hoa
tặng đại biểu đã đặt, các giáo viên nữ đƣợc phân công tặng
hoa đã đƣợc tập huấn… Đêm đó cả Ban giám hiệu, lãnh
đạo Công đoàn, đoàn Thanh niên và tổng chủ nhiệm, chủ
nhiệm lớp trực tuần không ngủ.
6h sáng 13 - 3 - 1986 đồng chí Nguyễn Văn Tuất chánh
văn phòng UBND tỉnh và đồng chí Hiệu trƣởng đƣợc cử về
cầu Đa Phúc (địa đầu của tỉnh) đón Đại sứ quán Tiệp Khắc,
Đại sứ quán Lào, cùng tháp tùng có 1 xe của cảnh sát giao
thông… Theo lễ nghi các Đại sứ quán đã tới UBND tỉnh để
chào xã giao.
7h30‟ đoàn xe đến trƣờng, có đồng chí Vũ Ngọc Linh,
Nguyễn Ngô Hai, các đại sứ quán, các đồng chí lãnh đạo
khác của tỉnh ủy, UBND tỉnh… Thầy trò hết sức phấn khởi,
xúc động, đồng loạt đứng vỗ tay theo nhịp đi để nồng nhiệt
chào đón khách quí.
Phần lễ hội diễn ra đúng chƣơng trình, trong đó ấn tƣợng
nhất là phần đón nhận Huân chƣơng lao động hạng Ba.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
219
Riêng phần văn nghệ có phát sinh đặc biệt là khi 2 cô:
Nguyễn Thúy Bình; Bế Hồng Minh lên hát và múa một bài
dân ca Nga, nửa chừng bài hát thì vợ chồng đại sứ quán
Tiệp Khắc Bôhuxlaphanđơli, Đ/c Đại sứ quán Lào rồi đồng
chí Vũ Ngọc Linh; Nguyễn Ngô Hai; Vũ Đức Thịnh chủ
tịch UBND thành phố, cũng lên sân khấu múa theo. Tiếp
theo các học sinh cũ nhƣ anh Đinh Văn Định; Trâm Anh
cũng lên hát các bài về nhà trƣờng do thầy trò lứa các anh
sáng tác, trong đó ấn tƣợng nhất là bài “Cây mận nở
hoa”… Không khí buổi lễ càng trở nên vui tƣơi rộn ràng,
ấm cúng nghĩa tình.
Ngày 13 - 3 -1991 nhà trƣờng đã tổ chức kỷ niệm 45
năm truyền thống. Đồng chí Đàm Quang Trung Bí thƣ TW
Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng nhà nƣớc đã đến dự và thay
mặt Hội đồng nhà nƣớc trao tặng Huân chƣơng lao động
hạng nhì cho nhà trƣờng. Đồng chí đã ghi vào sổ vàng của
trƣờng:
“Ngày 13 – 3 – 1991,
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập trường
PHTH Lương Ngọc Quyến (13/3/1946 – 13/3/1991) 45 năm
qua nhà trường đã đạt được nhiều thành tích góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo được nhiều
thế hệ nhân tài trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc
cũng như làm nghĩa vụ quốc tế.
Mong nhà trường giữ vững truyền thống tốt đẹp đã qua,
một trường điển hình tiên tiến của tỉnh, xứng đáng với tên
tuổi nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến – Một người đã
chiến đấu kiên cường và hy sinh đời mình cho nền độc lập
của dân tộc Việt Nam.
Tôi mong lại có dịp để đến chúc mừng nhà trường đón
nhận huân chương cao quí hơn nữa.
Chúc nhà trường tiếp tục phát triển theo hướng Đại hội
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
220
Đảng VI đã vạch ra và Nghị quyết Đại hội Đảng VII sắp
tới về chiến lược xây dựng và phát triển con người. Chiến
lược trăm năm trồng người như Bác Hồ đã dạy…”
Ngày 13 - 3 - 1996, nhà trƣờng đã tổ chức trọng thể Lễ
kỷ niệm 50 năm thành lập trƣờng. Buổi lễ đƣợc phó Thủ
tƣớng Nguyễn Khánh đến dự và thay mặt Nhà nƣớc trao
tặng Huân chƣơng lao động hạng nhất cho trƣờng phổ
thông cấp III Lƣơng Ngọc Quyến.
Với niềm vui mới, toàn trƣờng sôi nổi hoàn thành nhiệm
vụ năm học, kết quả là Nhà trƣờng đƣợc công nhận là
Trƣờng tiên tiến, số chiến sỹ thi đua, giáo viên dạy giỏi, lớp
tiên tiến tăng hơn năm trƣớc, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp cao nhất
tỉnh, Hội khỏe Phù Đổng luôn đứng nhất toàn đoàn. Cuộc
thi tiếng hát hay PTTH có nhiều giải vàng, bạc, đoàn giáo
viên tham gia thi giáo viên giỏi cũng đạt kết quả tốt.
Năm 1996 đồng chí Nguyễn Đăng Kền hiệu trƣởng nhà
trƣờng đã vinh dự đƣợc Hội đồng Nhà nƣớc phong tặng
danh hiệu: Nhà giáo ƣu tú.
Trong quá trình phát triển trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến, trƣờng luôn nhận đƣợc những sự chỉ bảo ân cần,
những tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc,
Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo, Bộ Lâm nghiệp; các
đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Thành ủy, UBND
Thành phố khi đến thăm trƣờng nhƣ các đồng chí Nông
Đức Mạnh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Thị Bình, Đàm Quang
Trung, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Minh Hạc, Vũ Ngọc
Linh, Đặng Quốc Tiến, Nguyễn Ngô Hai, Mai Phúc Toàn,
Lƣơng Đức Tính, Nguyễn Ân, Đôn Văn Cƣớc, Hồ Đức
Việt, Doanh Hằng, Phan Thế Duệ, Lê Xuân Hùng, Phạm
Xuân Đƣơng… các đồng chí mang đến nguồn động viên
khích lệ hết sức lớn lao đối với thầy trò cùng cha mẹ học
sinh toàn trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
221
Nhà trƣờng cũng rất cảm ơn các cơ quan ban ngành, đoàn
thể, các hội cha mẹ học sinh đã giúp sức cho trƣờng vƣợt
qua những khó khăn trong những bƣớc đi từng bậc, từng
bậc lên cao đó là các phần thƣởng: Bằng khen của Thủ
tƣớng Chính phủ 1984, Huân chƣơng lao động hạng Ba
1986, Huân chƣơng lao động hạng Nhì 1991, Huân chƣơng
lao động hạng Nhất 1996, Anh hùng lao động thời kỳ đổi
mới năm 2000.
Trong báo cáo tổng kết tại Đại hội đảng bộ trƣờng lần
thứ nhất (30 - 9 - 2000) đã nêu:
“Sau 15 năm đổi mới đặc biệt là 5 năm trở lại đây, từ
một trường ở thứ hạng trung bình đã phấn đấu trở thành
trường tiên tiến xuất sắc của tỉnh, được Bộ Giáo dục tặng
Bằng Khen là trường tiên tiến điển hình xuất sắc toàn
quốc. Từ một chi bộ có trên 1 chục đảng viên nay đã là một
đảng bộ với trên 30 đảng viên. Công tác giáo dục toàn diện
đã thu được kết quả tốt đẹp. Đảng bộ nhà trường nói riêng
và trường THPT Lương Ngọc Quyến nói chung đã xứng
đáng với sự tin yêu của cấp ủy Đảng, các cơ quan, ban
ngành và nhân dân địa phương. Tuy nhiên nghiêm túc kiểm
điểm, đảng bộ vẫn còn có một số thiếu sót sau:
Trình độ của đảng viên nói riêng, cán bộ giáo viên nói
chung chưa ngang tầm với yêu cầu mới. Chưa thành thạo
trong các giờ thực hành, chưa đủ trình độ tư vấn nghề
nghiệp cho học sinh. Thiếu kế hoạch chủ động trong việc tự
bồi dưỡng, còn lúng túng trong việc nghiên cứu khoa học
và đổi mới phương pháp dạy học.
Trường còn chưa có phòng thực hành thí nghiệm, chưa
có thư viện và kho sách điều đó hạn chế đến chủ trương
xây dựng tủ sách giáo khoa dùng chung và việc đọc thêm
của học sinh; ảnh hưởng đến việc gắn lý luận với thực tiễn,
lý thuyết với thực hành; ảnh hưởng đến việc đào tạo cán bộ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
222
kĩ thuật công nhân lành nghề cho sự nghiệp Công nghiệp
hoá – Hiện đại hoá đất nước”.
2. Trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến trong nhiệm kỳ
I của Đảng bộ trƣờng (2000 – 2005)
Căn cứ vào chất lƣợng và số lƣợng 31 đảng viên, ngày
11 - 8 - 2000 Thành ủy Thái Nguyên có quyết định số 143 -
QĐ/TY về việc thành lập Đảng bộ cơ sở và chỉ định ban
chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm đồng chí Nguyễn Đăng
Kền bí thƣ, đồng chí Lƣu Thị Toan phó bí thƣ, các đồng chí
Lại Đức Kế, Nguyễn Cảnh Tiến, Trần Thị Nhuần là Đảng
ủy viên.
Ngày 5 – 9 – 2000 đồng chí Nguyễn Phú Trọng ủy viên
Bộ Chính trị đã đến dự lễ khai giảng năm thứ 54 của nhà
trƣờng, mang đến cho thầy trò nhà trƣờng nguồn động viên
khích lệ lớn lao.
Ngày 30 - 9 - 2000 Đảng bộ nhà trƣờng đã tiến hành Đại
hội lần thứ nhất và đã bầu ra ban chấp hành Đảng bộ gồm
các đồng chí Nguyễn Đăng Kền bí thƣ, Lại Đức Kế phó bí
thƣ, các đồng chí Bùi Thị Loan, Trần Thị Nhuần, Nguyễn
Cảnh Tiến, Lƣu Thị Toan, Bùi Anh Tuấn là đảng ủy viên.
Có thể nói đây cũng là một thời điểm lịch sử rất quan trọng,
vì lần đầu tiên một trƣờng THPT của tỉnh Thái Nguyên
thành lập Đảng bộ để lãnh đạo hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của nhà trƣờng.
Năm 2005 Đảng bộ đã có 45 đảng viên sinh hoạt tại 2
chi bộ (chi bộ khoa học tự nhiên và chi bộ khoa học xã hội)
đây là những hạt nhân quan trọng luôn là đầu tầu gƣơng
mẫu trong mọi phong trào, nhất là phong trào thi đua “Hai
tốt” (dạy tốt – học tốt). Đội ngũ giáo viên là đảng viên cũng
là những nhân tố đi đầu trong việc tự học, tự bồi dƣỡng để
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, cũng nhƣ việc đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy, trong số 108 cán bộ giáo viên đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
223
có 30% giáo viên có trình độ thạc sỹ trở lên (trong đó có
8/45 đảng viên có trình độ trên đại học). Đặc biệt trong 41
giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh 2 - 3 lần, có 24
đồng chí là đảng viên.
Từ năm 2001 đến 2005 Đảng bộ đã kết nạp đƣợc 22
đảng viên, riêng năm 2005 đã có 7 quần chúng ƣu tú đƣợc
đứng trong hàng ngũ của Đảng, đây là điều kiện tốt nhất để
đóng góp sức mình xây dựng Đảng bộ trong sạch vững
mạnh. Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ nhà trƣờng,
Công đoàn đã tổ chức chỉ đạo phong trào “Giỏi việc trƣờng
– Đảm việc nhà” (2)
một cách có hiệu quả, giúp cho chị em ................................................................................ (2)
Đoàn chủ tịch Tổng LĐLĐVN vừa ban hành Chỉ thị số 03/CT-TLĐ
về việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nƣớc, đảm
việc nhà” trong nữ CNVCLĐ. Gồm 6 nhiệm vụ chủ yếu sau:
1/- Tiếp tục quán triệt NQ số 11/NQ-TW ngày 22/4/2007 của Bộ
chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nƣớc,
Luật bình đẳng giới, chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2010 – 2020. Lồng ghép phong trào với thi đua “LĐ giỏi, LĐ sáng
tạo”, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí
Minh”.
2/- Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung, tiêu chuẩn thi đua “Giỏi việc nƣớc,
đảm việc nhà”
3/- Chủ động tham gia với chính quyền, ngƣời SDLĐ tạo việc làm cho
nữ CNVCLĐ.
4/- Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, nhân đạo, duy trì và phát triển các
quỹ “Vì nữ CNLĐ nghèo”, “Trợ vốn”, “Mái ấm CĐ”, “Bảo trợ trẻ em
của CĐVN”.
5/- Phát hiện, giới thiệu những nữ CĐVCLĐ ƣu tú, trƣởng thành từ
phong trào để đào tạo, bồi dƣỡng, giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp
hoặc tham gia vào các cấp ủy, bộ máy lãnh đạo CĐ, chính quyền các
cấp.
6/- Tăng cƣờng sự chỉ đạo của các cấp CĐ, tiếp tục kiện toàn ban nữ
công các cấp đủ về số lƣợng, nâng cao chất lƣợng để làm tốt việc
tham mƣu về công tác vận động nữ CNVCLĐ.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
224
cán bộ, giáo viên, công nhân viên phấn khởi hăng say làm
tốt cả hai nhiệm vụ: việc trƣờng và việc nhà.
Ban chấp hành Công đoàn luôn lắng nghe tâm tƣ nguyện
vọng của chị em để làm tham mƣu với Công đoàn và nhà
trƣờng về tổ chức thi đua cho phù hợp.
Với nguyên tắc chỉ đạo sát sao và có tính kế hoạch của
BCHCĐ cộng với sự phối hợp chặt chẽ cùng các tổ chuyên
môn đồng cấp, các phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” và
phong trào “Tự học - tự rèn” trong Nữ cán bộ giáo viên đã
phát triển sôi nổi. Trong 5 năm (2001 – 2005) đã có 31 nữ
giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. Tiêu biểu là các chị Bùi Hồ
Thủy, Đào Bình Minh, Phạm Bích Thủy, Nguyễn Thị Tuất,
Lê Thị Kim Thoa, Nguyễn Thu Dông, Nguyễn Thị Phƣơng
Dung, Trần Thị Thuận, Nguyễn Lệ Diễm, Nguyễn Thị
Oanh, Nguyễn Việt Hà…
Không chỉ làm tốt việc trƣờng nhiều chị đã giáo dục con
cái trở thành những học sinh đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp
quốc gia, một số cháu đã đỗ thủ khoa vào các trƣờng Đại
học, Cao đẳng, tiêu biểu là các chị: Nguyễn Thúy Hiền,
Nguyễn Thị Tiến, Lê Kim Thoa, Trần Thị Thuận, Đào
Thúy Nga, Vũ Bích Liên, Nguyễn Lệ Diễm, Ngô Kim
Thúy, Phạm Bích Thủy, Đào Bình Minh, Nguyễn Thị Tuất,
Lê Thị Lai…
Tổng kết 5 năm phong trào “Giỏi việc nƣớc, đảm việc
nhà” trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến đã có 48 chị đạt
“Giỏi việc trƣờng, đảm việc nhà” cấp cơ sở, 15 chị cấp
tỉnh, 9 chị cấp trung ƣơng.
Ban chấp hành Công đoàn đã đƣợc nhận Bằng khen của
Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên về thành tích “Giỏi
việc trƣờng, đảm việc nhà” 5 năm giai đoạn 2001 – 2005.
Đƣợc sự quan tâm lãnh đạo của Đảng ủy, ban Giám hiệu,
sự cộng tác phối hợp của các đồng chí giáo viên chủ nhiệm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
225
và với sự năng động sáng tạo của các cán bộ Đoàn, Đoàn
Thanh niên đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất
lƣợng đoàn viên nhằm bồi dƣỡng lý tƣởng cách mạng, củng
cố niềm tin, giúp các đoàn viên thanh niên trong nhà trƣờng
xác định đúng đắn mục tiêu, thái độ, động cơ học tập, có ý
chí tự giác phấn đấu rèn luyện học tập và thấy đƣợc vai trò
trách nhiệm của mình đối với tập thể.
Thông qua các hoạt động thực tiễn, đoàn Thanh niên đã
góp phần rèn luyện, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
cho thanh niên. Đoàn trƣờng đã tham gia diễn đàn nhƣ
“Thanh niên sống đẹp”, “Thanh niên nói, thanh niên nghe”;
những buổi ngoại khóa “Hình tƣợng Hồ Chủ tịch trong thơ
ca cách mạng”; thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ xung
kích tình nguyện giữ gìn trật tự an ninh giao thông”; tham
gia cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật”, “Bảo vệ môi trƣờng và
bài trừ tệ nạn ma túy”, “Giáo dục sức khỏe sinh sản vị
thành niên” do TW Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Tỉnh Đoàn, Thành Đoàn và Sở GD – ĐT phát động.
Đƣợc Đảng ủy và Ban Giám hiệu quan tâm lãnh đạo nên
phong trào “Học tập vì ngày mai lập nghiệp” mà Đoàn
trƣờng phát động đã thu đƣợc nhiều kết quả tốt, tạo đƣợc
động lực thúc đẩy thanh niên say mê rèn luyện học tập.
Đoàn trƣờng đã phát huy tính năng động, ham thích hoạt
động văn nghệ, thể thao của thanh niên học sinh đã thƣờng
xuyên duy trì đội văn nghệ xung kích tham gia các hoạt
động của trƣờng và dự thi văn nghệ của thành phố, của
tỉnh. Trong “Liên hoan tiếng hát học sinh sinh viên toàn
quốc” Đoàn trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến đã giành đƣợc huy
chƣơng vàng, huy chƣơng bạc.
Với những hoạt động tích cực và có hiệu quả, Đoàn trƣờng
THPT Lƣơng Ngọc Quyến đã liên tục đƣợc đánh giá là đơn
vị thi đua xuất sắc của Thành đoàn đƣợc nhận Bằng khen
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
226
của Tỉnh Đoàn và Trung ƣơng Đoàn.
Năm học 2000 – 2001, qui mô của trƣờng đã lên tới 57
lớp và tiếp tục phát triển, (năm học có số học sinh đông
nhất là 1997 – 1998, số lớp lên tới 60 với trên 3000 học
sinh).
Bƣớc vào nhiệm kỳ thứ nhất của Đảng bộ nhà trƣờng,
đồng chí bí thƣ đảng uỷ - Hiệu trƣởng: Nguyễn Đăng Kền
đƣợc Thủ tƣớng chính phủ trao tặng danh hiệu chiến sĩ thi
đua toàn quốc (Quyết định số 997/QĐ TTG )
Ngày 12 – 10 – 2000, nhà trƣờng đã vinh dự đƣợc Chủ
tịch nƣớc kí quyết định số 528/KT-CTN phong tặng danh
hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. Đón nhận niềm
vui, niềm vinh dự to lớn mà Nhà nƣớc phong tặng, thầy trò
trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến càng thấy rõ trách nhiệm
của mình, đã ra sức phấn đấu để xứng đáng với danh hiệu
cao quí đó. Đảng bộ, Ban giám hiệu đã xác định nhiệm vụ
trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên có chuyên
môn sâu, có học vấn cao hơn, phấn đấu đạt chuẩn và vƣợt
chuẩn. Đến năm 2005 nhà trƣờng đã có 12 thạc sĩ và 10
ngƣời đang tiếp tục theo học các lớp đào tạo thạc sĩ. Giáo
viên của trƣờng sử dụng thành thạo các thiết bị phƣơng tiện
dạy học hiện đại, đổi mới phƣơng pháp dạy học.
Một nét đẹp đã trở thành truyền thống của trƣờng THPT
Lƣơng Ngọc Quyến đó là sự đoàn kết nhất trí trong tập thể
giáo viên. Khẩu hiệu hành động “Đoàn kết, trách nhiệm,
dân chủ, kỉ cƣơng, trí tuệ” đã trở thành tâm niệm, thành
phƣơng hƣớng hành động hàng ngày của mỗi đảng viên,
cán bộ giáo viên.
Tinh thần phấn đấu vƣơn lên đã ăn sâu vào từng tổ
chuyên môn của nhà trƣờng.
Tổ xã hội có 6/10 giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh từ
1 đến 3 lần, trong đó có cô Phan Thị Mai, Nguyễn Thị Lệ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
227
Diễm, thầy Giang Văn Kham đạt 2 – 3 lần. Nhiều thầy cô
giáo đạt chiến sĩ thi đua các cấp liên tục 5 năm liền. Có 7
em đạt học sinh giỏi quốc gia, 120 em học sinh giỏi cấp
tỉnh.
Tổ Văn học nổi rõ tinh thần vƣơn lên để nâng cao trình
độ học vấn, đã có 3 đồng chí đạt bằng thạc sỹ ngữ văn, 2
đồng chí học xong chƣơng trình sau đại học và 3 đồng chí
đang theo học lớp đào tạo thạc sỹ khóa 12 và 13 tại trƣờng
Đại học sƣ phạm. Tổ liên tục đạt tổ Lao động giỏi xuất sắc.
Tổ Ngoại ngữ - Thể dục 5 năm liền (2000 – 2005) là tổ
lao động giỏi xuất sắc có 6 đồng chí đạt giáo viên dạy giỏi
cấp tỉnh, 8 đồng chí đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua, giáo
viên giỏi các cấp, còn lại đều là giáo viên giỏi cấp cơ sở.
Trong 5 năm đã có 97 học sinh giỏi cấp tỉnh môn Tiếng
Anh và 170 học sinh giỏi cấp tỉnh môn Giáo dục thể chất.
Đặc biệt có 6 học sinh đạt huy chƣơng đồng môn Karate,
12 học sinh tham gia môn bóng đá đạt huy chƣơng vàng
trong “Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc”.
Tổ Toán – Tin với 21 thành viên, nữ có 15 đồng chí, tổ
luôn là tập thể tiên phong trong giảng dạy và các hoạt động
ngoại khóa của nhà trƣờng. Trong tổ đã có 7 đồng chí đạt
danh hiệu Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 3 đồng chí đạt danh
hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh, 11 đồng chí là Chiến sỹ thi
đua cấp cơ sở. Hai đồng chí: Bùi Hồ Thủy; Đào Bình Minh
đƣợc Bộ GD&ĐT tặng Bằng khen, 2/3 giáo viên trong tổ là
Nữ nhƣng các chị em đều hoàn thành tốt vai trò làm thầy,
làm vợ, làm mẹ của mình. 100% chị em đạt danh hiệu
“Giỏi việc trƣờng, đảm việc nhà”, trong đó 30% chị em
đƣợc Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam công nhận “Giỏi
việc nƣớc, đảm việc nhà” giai đoạn 2000 – 2006. Ở địa
phƣơng gia đình các chị đều là những “Gia đình văn hóa”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
228
Tổ Vật lý có 10 giáo viên trong đó có 5 đồng chí đảng
viên, trong tổ đã có một nửa số thành viên phấn đấu trở
thành chiến sỹ thi đua, giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. 100%
chị em trong tổ đã phấn đấu trở thành “Phụ nữ hai giỏi”.
Tổ Hóa – Sinh có 14 giáo viên trong đó có 10 đảng viên,
mỗi thành viên trong tổ không ngừng trau dồi chuyên môn
nghiệp vụ, chú ý đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, rèn luyện
nếp tƣ duy độc lập, sáng tạo, khoa học cho học sinh, áp
dụng phƣơng tiện hiện đại, phƣơng pháp tiên tiến vào quá
trình dạy học để đạt chất lƣợng cao. Từ năm 2000 – 2005
tổ liên tục đạt tổ Lao động xuất sắc có 31 lƣợt giáo viên đạt
danh hiệu Chiến sỹ thi đua, có 2 đồng chí đạt CSTĐ cấp
tỉnh 3 năm liền là các đồng chí Nguyễn Thị Phƣơng Dung
giáo viên Hóa, Ninh Thanh Vân giáo viên Sinh. Tổ đã có
115 giải học sinh giỏi cấp tỉnh môn Hóa, 91 giải học sinh
giỏi cấp tỉnh môn Sinh.
Tổ Hành chính từ lúc còn là một bộ phận nhỏ dƣới sự
điều hành trực tiếp của Ban giám hiệu đến nay đã trở thành
một tổ độc lập, tham gia vào hầu hết các công việc của nhà
trƣờng. Tổ không chỉ chăm lo chu đáo chế độ cho tập thể
cán bộ, giáo viên mà còn góp phần mình vào công việc đổi
mới giáo dục. Những thành viên trong tổ luôn hoàn thành
xuất sắc những công việc đảm nhận nhƣ: Xây dựng đƣợc
một thƣ viện có qui mô đủ để đáp ứng nhu cầu mƣợn và
đọc của tập thể cán bộ giáo viên và học sinh toàn trƣờng;
Xây dựng phòng y tế học đƣờng có đủ phƣơng tiện và
thuốc đảm bảo cho việc điều trị và sơ cứu ban đầu cho thầy
cô giáo và các em học sinh; Tu sửa, sƣu tầm, sắp xếp lại
phòng truyền thống để lƣu giữ những hiện vật, hình ảnh về
sự phát triển của nhà trƣờng qua 60 năm xây dựng và
trƣởng thành. Ngoài những đóng góp trên, tổ hành chính
còn góp phần xây dựng, tu sửa cảnh quan môi trƣờng, tạo
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
229
cho nhà trƣờng có cảnh quan xanh, sạch, đẹp. Với những
đóng góp trên, tổ Hành chính liên tục đƣợc công nhận là tổ
Lao động xuất sắc, quá nửa số thành viên luôn đạt danh
hiệu chiến sỹ thi đua các cấp.
Hội cha mẹ học sinh có một hệ thống ban đại diện từ
trƣờng tới các khối lớp, đã phối hợp với Ban giám hiệu,
đoàn Thanh niên, các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn, quản lý chặt chẽ các hoạt động học tập và rèn luyện
đạo đức của học sinh, nắm bắt kịp thời những ƣu khuyết
điểm của học sinh để động viên giáo dục, ngăn chặn kịp
thời những biểu hiện yếu kém về đạo đức.
Hội đã lập ra quĩ khuyến học, ân cần thăm hỏi giúp đỡ
từng học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên học sinh
phấn đấu học giỏi, rèn luyện đạo đức tốt. Động viên khen
thƣởng kịp thời những học sinh có thành tích cao, quan tâm
đến các hoạt động văn hoá; văn nghệ; thể dục; thể thao; tổ
chức tham quan ngoại khóa.
Hội cha mẹ học sinh đã đóng góp có hiệu quả trong việc
xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trƣờng. Mỗi năm nguồn
thu từ tiền học phí, tiền xây dựng, tiền quĩ lớp, quĩ khuyến
học… tạo điều kiện để nhà trƣờng có thuận lợi trong hoạt
động giáo dục cũng nhƣ trong việc xây dựng cơ sở vật chất
của một trƣờng chuẩn quốc gia. Ngoài ra còn đóng góp cho
nhà trƣờng những công trình có ý nghĩa lƣu niệm nhƣ:
vƣờn hoa, nhà thực hành, phòng thƣ viện, nhà để xe…đã
làm cho mối quan hệ với nhà trƣờng ngày càng gắn bó,
thực hiện tốt sự kết hợp giáo dục giữa nhà trƣờng – gia
đình – xã hội.
Nhiệm kì thứ nhất của Đảng bộ nhà trƣờng (2000 – 2005)
bắt đầu vào thời điểm thật đáng ghi nhớ, bởi năm 2000
trƣờng đƣợc vinh dự nhận danh hiệu “Anh hùng lao động
thời kỳ đổi mới”. Trong cả nhiệm kỳ, Đảng bộ nhà trƣờng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
230
liên tục đƣợc công nhận là trong sạch vững mạnh xuất sắc.
Năm 2003 – 2004 trƣờng đƣợc UBND tỉnh trao cờ thi đua
xuất sắc cho đơn vị dẫn đầu khối các trƣờng THPT toàn
tỉnh.
Sau 5 năm phấn đấu toàn diện từ xây dựng cơ sở vật chất,
nâng cao trình độ đào tạo, phát huy vai trò của các tổ chức
đoàn thể trong nhà trƣờng đến nâng cao chất lƣợng giáo
dục toàn diện…đến năm 2005 đƣợc công nhận là trƣờng
đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I năm 2005 – 2010.
3. Trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến trong nhiệm kỳ II
của Đảng bộ trƣờng (2005 - 2010)
Năm 2005 diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân phấn
khởi phát huy thành quả của 20 năm đổi mới, quyết tâm vƣợt
mọi khó khăn thách thức, giữ vững độc lập chủ quyền, đảm
bảo an ninh xã hội.
Đây cũng là thời kỳ Đảng và Nhà nƣớc đã có những Nghị
quyết, Quyết định, Chỉ thị nhằm thúc đẩy và nâng cao chất
lƣợng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo (2)
Năm 2006 tỉnh Thái Nguyên bƣớc vào giai đoạn phát triển
mới, năm bắt đầu đƣa nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần
thứ XVII vào cuộc sống, là năm bắt đầu thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. ....................................................................................
(2) Nghị quyết TW 2 khoá VIII về “Định hƣớng phát triển giáo dục đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.”
Chỉ thị số 40-CT/TƢ ngày 15/4/2004 của Ban Bí thƣ TW Đảng về
“Xây dựng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục”.
Ngày 11/1/2005 Thủ tƣớng Chính phủ ra Quyết định số 09/2005 QĐ-
TTg phê duyệt đề án “ Xây dựng, nâng cao chất lƣợng xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005- 2010”.
Ngày 20/5/2005 Quốc hội đã thông qua bộ luật giáo dục(sửa đổi)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
231
Đối với trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến, sau quá trình
xây dựng và trƣởng thành, năm 2005 nhà trƣờng đã đƣợc
công nhận là “trƣờng đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2005 -
2010”, đó thực sự là một năm đầy ý nghĩa, năm bản lề thực
hiện chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001- 2010 của nhà
trƣờng..
Năm 2005 Đảng bộ trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến đã
có 52 đồng chí đảng viên, sinh hoạt theo 2 chi bộ (chi bộ I
gồm đảng viên dạy các môn khoa học tự nhiên, chi bộ II là
đảng viên dạy các môn xã hội và hành chính quản lý).
Đại hội Đảng bộ trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến khoá II,
nhiệm kỳ 2005 - 2010 tiến hành vào ngày 15/8/2005 đã bầu
ra BCH gồm 07 đồng chí. Hội nghị BCH lần thứ nhất đã bầu
đồng chí Đồng Văn Đạt, làm Bí thƣ Đảng bộ.
Tháng 9/2005 do sự điều động của cấp trên, đồng chí Bí thƣ
Đảng bộ đã chuyển công tác sang làm hiệu trƣởng trƣờng
trung học Sƣ phạm 12 + 3 Thái Nguyên. Ban chấp hành Đảng
bộ đã đề nghị và đƣợc ban Thƣờng vụ Thành uỷ Thái Nguyên
phê chuẩn cho kiện toàn chức danh Bí thƣ, đồng chí Bùi Thị
Loan đã đƣợc bầu làm Bí thƣ .
Trong suốt nhiệm kỳ, BCH Đảng bộ đã tăng cƣờng chỉ đạo
thực hiện nghị quyết của Đảng bộ nhà trƣờng, trong đó đã
xác định mục tiêu nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt.
Trong từng năm học, Đảng bộ đã kịp thời đề ra các nghị
quyết để tập trung lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của nhà trƣờng. Các nghị quyết của Đảng bộ đã
đƣợc ban Giám hiệu và các tổ chức đoàn thể cụ thể hoá thành
những chƣơng trình hành động nhằm hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ năm học.
Đảng bộ đã thƣờng xuyên chỉ đạo nhà trƣờng và các đoàn
thể quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên vừa vững
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
232
vàng về lập trƣờng tƣ tƣởng và đạo đức nhà giáo, vừa giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ. Mỗi đảng viên, cán bộ, giáo viên
phấn đấu để thực sự là tấm gƣơng sáng cho học sinh noi theo.
Nhà trƣờng đã nghiêm túc thực hiện cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với
các cuộc vận động “Hai không”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gƣơng đạo đức, tự học và sáng tạo” và phong
trào thi đua “Xây dựng trƣờng học thân thiện, học sinh tích
cực” của ngành Giáo dục.
Dƣới sự lãnh đạo tập trung của chi bộ, nhà trƣờng đã có
bƣớc chuyển biến đáp ứng yêu cầu các cuộc vận động lớn
trong toàn ngành. Nhà trƣờng cũng đã tăng cƣờng việc xây
dựng cơ sở vật chất phục vụ cho yêu cầu giáo dục nói chung
trong đó chú trọng đến cơ sở vật chất giáo dục truyền thống
nhƣ đã hoàn thành việc tôn tạo và tổ chức lễ đón Bằng công
nhận Di tích lịch sử - điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm
trƣờng Lƣơng Ngọc quyến ngày 13 – 3 – 1960 và hoàn thành
việc xây dựng công trình nhà truyền thống.
Đảng uỷ đã tăng cƣờng chỉ đạo nhà trƣờng luôn quan tâm
làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và chủ động đấu tranh
ngăn ngừa với những biểu hiện về tƣ tƣởng và hành động trái
với quan điểm đƣờng lối của Đảng.
Trong nhiệm kỳ II (2005 - 2010) Đảng bộ trƣờng THPT
Lƣơng Ngọc Quyến đã liên tục đạt danh hiệu “Đảng bộ trong
sạch vững mạnh”, trong đó năm 2009 đƣợc công nhận “Đảng
bộ trong sạch vững mạnh xuất sắc tiêu biểu”.
Đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của Đảng uỷ, tổ chức Công
đoàn trƣờng đã tích cực vận động cán bộ giáo viên thực hiện
thắng lợi nghị quyết của hội nghị cán bộ viên chức hàng năm
và kế hoạch hoạt động của Công đoàn ngành.
Trƣờng có tỷ lệ nữ chiếm tới 80%, Công đoàn đã chú trọng
tổ chức chỉ đạo phong trào “Giỏi việc trƣờng, đảm việc nhà”
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
233
giúp chị em cán bộ giáo viên, công nhân viên phấn khởi hăng
say thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn và việc gia đình.
Công đoàn trƣờng coi đây là hoạt động thƣờng xuyên vì sự
tiến bộ của phụ nữ và sự phát triển của nhà trƣờng (3)
.
Xuất phát từ thực tế hoạt động của nữ cán bộ giáo viên
trong trƣờng học, Công đoàn đã đổi mới phƣơng thức hoạt
động, ban chấp hành Công đoàn đã đi sát lắng nghe tâm tƣ
nguyện vọng của chị em để đề ra chủ trƣơng biện pháp sát
hợp nhất, Công đoàn cũng phối hợp với chuyên môn động
viên phong trào “tự học - tự rèn” nên các chị em đã chăm lo
tự bồi dƣỡng, các chị em tự sƣu tầm tài liệu, sách báo hàng
ngày, tranh thủ đọc trong các giờ nghỉ hay miệt mài nghiên
cứu trong thƣ viện của trƣờng. kết quả là đa số giáo viên nữ
đã vƣơn lên trở thành những giáo viên có chuyên môn vững
vàng đƣợc học sinh tin yêu và phụ huynh đánh giá cao.
Công đoàn vận động 100% đảng viên cán bộ, giáo viên
nhiệt tình tham gia các cuộc vận động ủng hộ ngƣời nghèo,
quĩ chất độc da cam, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt...
ngoài ra còn tham gia cuộc thi “Báo cáo viên tuyên truyền
pháp luật giỏi” do sở GD-ĐT tổ chức. Công đoàn cũng vận
động đoàn viên tham gia các hoạt động văn nghệ thể thao và
đã đạt giải nhất toàn đoàn tại cuộc thi tiếng hát giáo viên
ngành giáo dục nhân ngày 20/11/2007.
Giai đọan 2005 – 2010 Công đoàn nhà trƣờng luôn đạt
danh hiệu Công đoàn vững mạnh hàng năm.
Đảng uỷ nhà trƣờng rất quan tâm chỉ đạo sát sao các hoạt
động của Đoàn Thanh niên, tạo điều kiện về thời gian, kinh
phí để Đoàn hoạt động có hiệu quả cao. ............................................................. .............. (3) Trong 5 năm 2005-2010 đã có 350 lƣợt nữ cán bộ giáo viên “ Giỏi
việc trƣờng, đảm việc nhà” cấp cơ sở trong đó có 67 chị đạt cấp cơ sở
tiêu biểu và 9 chị đạt cấp tỉnh.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
234
Đƣợc Đảng uỷ, Ban Giám hiệu rất quân tâm nên phong
trào “Học tập rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp” mà Đoàn
phát động đã thu đƣợc những kết quả rất tốt.
Đoàn Thanh niên nhà trƣờng đã triển khai và thực hiện tốt
cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác” phong trào “Xây dựng trƣờng học thân thiện, học sinh
tích cực”. Hoạt động của Đoàn Thanh niên đã lôi cuốn đƣợc
đông đảo học sinh học tập với thái độ nghiêm túc, đấu tranh
với những biểu hiện tiêu cực trong học tập và trong thi cử.
Tuổi trẻ vốn năng động, nhanh nhạy ham thích hoạt động cho
nên các hoạt động văn nghệ thể thao luôn hấp dẫn đoàn viên
thanh niên. Đoàn trƣờng đã động viên đƣợc thanh niên tham
gia đội Văn nghệ xung kích, tham gia cuộc thi tiếng hát học
sinh THPT cấp tỉnh đạt kết quả cao; tham gia các kế hoạch
hoạt động của Tỉnh Đoàn nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn nhƣ
Hội trại Thanh niên kỷ niệm 45 năm ngày thành lập thành
phố Thái Nguyên (đạt giải A), Hội trại nhân “Ngày toàn dân
phòng chống ma tuý 21/6/2008” do Bộ Giáo dục và Bộ Công
An phối hợp tổ chức (đạt giải nhất). Tham gia cuộc thi tiếng
hát học sinh với chủ đề “Giai điệu tuổi hồng” năm 2009 do
Sở GD-ĐT tổ chức (đạt giải nhất). Tham gia cuộc thi “Ca
nhạc - vũ quốc tế dâng Đảng tiếng hát niềm tin” do thành
Đoàn tổ chức nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (đạt giải nhất khối THPT) Trƣờng cũng
có 1 học sinh đạt huy chƣơng vàng “Giai điệu tuổi hồng” do
Bộ GD-ĐT tổ chức. Trong liên hoan tiếng hát học sinh và
sinh viên toàn quốc tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh tháng
8 năm 2005 nhiều tiết mục dự thi của Đoàn trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến đã giành đƣợc huy chƣơng vàng; huy chƣơng
bạc.
Ban chấp hành Đoàn trƣờng với tƣ cách là ngƣời đại diện
nòng cốt của tuổi trẻ Lƣơng Ngọc Quyến đã có những biện
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
235
pháp tích cực sáng tạo, thƣờng xuyên thay đổi hình thức và
nội dung hoạt động để phù hợp với nhu cầu của đoàn viên
thanh niên đồng thời đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội, góp
phần thiết thực vào việc nâng cao chất lƣợng học tập, tạo
niềm tin, ý chí phấn đấu cho từng đoàn viên thanh niên và
đặc biệt là góp phần xây dựng đƣợc một phong cách học sinh
Lƣơng Ngọc Quyến.
Với những hoạt động sôi nổi và có hiệu quả, Đoàn trƣờng
THPT Lƣơng Ngọc Quyến đã liên tục đƣợc BCH TW Đoàn
tặng bằng khen trong suốt 13 năm liền về thành tích dẫn đầu
phong trào thi đua khối THPT.
Nghị quyết của Đảng bộ lần thứ II nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã
xác định mục tiêu là:
“Phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong
đó tập trung nâng cao chất lượng dạy và học là nhiệm vụ
chính trị trọng tâm xuyên suốt của nhà trường trong từng
năm học.”
Năm học 2005 - 2006 trƣờng đã phát triển tới 45 lớp, 2052
học sinh với 97 cán bộ giáo viên công nhân viên. Đây là năm
nhà trƣờng thực hiện có hiệu quả cuộc vận động
“Dân chủ - Kỷ cƣơng - Tình thƣơng - Trách nhiệm”.
Điểm nổi bật trong năm 2005 - 2006 là nhà trƣờng đã khắc
phục mọi khó khăn tổ chức thành công lễ kỷ niệm 60 năm
ngày truyền thống 13/3/2006. Tổ chức rất sôi nổi và hiệu quả
....Hội nghị giao lƣu văn hoá giữa 6 trƣờng THPT kết nghĩa
gồm:
Trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến (Thái Nguyên)
THPT Ngô Sỹ Liên (Bắc Giang)
THPT Hàn Thuyên (Bắc Ninh)
THPT Việt Bắc (Lạng Sơn )
THPT Trần Phú (Vĩnh Phúc)
THPT Thị xã Cao Bằng (Cao Bằng).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
236
Nhà trƣờng cũng đã tổ chức thành công đêm giao lƣu
“Tiếp lửa truyền thống mãi mãi tuổi 20 - Vũ Xuân thắp sáng
niềm tin”.
Những hoạt động trên mang lại cho thầy trò dấu ấn mạnh
mẽ, có tác động rất sâu sắc đến hoạt động giáo dục của nhà
trƣờng.
Hoạt động giảng dạy của giáo viên và phong trào học tập
trong học sinh, đã duy trì đƣợc phong trào thi đua “Hai
tốt”,(4)
luôn đảm bảo thực hiện qui chế chuyên môn với chất
lƣợng cao. Trƣờng đã thƣờng xuyên tổ chức các cuộc thi
giảng vào các ngày lễ lớn, bên cạnh đó cũng thƣờng xuyên
kiểm tra công tác chuẩn bị của giáo viên về hồ sơ giáo án, đồ
dùng giảng dạy... Ngoài ra còn chú trọng đến việc bồi dƣỡng
nâng cao trình độ áp dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy của giáo viên góp phần làm cho năm học đạt kết quả cao.
Năm học 2005 - 2006 trƣờng đã đạt “Trƣờng tiên tiến xuất
sắc cấp tỉnh” và đƣợc công nhận là “Trƣờng chuẩn quốc gia
giai đoạn I (2005 - 2010).
Nhà trƣờng đã đƣợc Hội cha mẹ học sinh, các tổ chức
chính trị xã hội, các thành phần kinh tế... thƣờng xuyên quan
tâm và dành cho nhà trƣờng sự hỗ trợ, giúp đỡ hết sức hiệu ............................................................... (4)
Năm học 2005-2006 toàn trƣờng đã có 100% giáo viên đƣợc đánh giá
xếp loại khá, giỏi. 96% hồ sơ giảng dạy đƣợc xếp loại A. Trƣờng có 8
giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. 37% cán bộ giáo viên đạt chiến
sĩ thi đua, giáo viên giỏi cấp cơ sở.
Về phía học sinh, đã có 100% lớp đạt tập thể “Học tập và rèn luyện vì
ngày mai lập nghiệp”. Trƣờng đã có 189 học sinh đạt giải nhất, nhì, ba
trong kỳ thi học sinh giỏi về văn hoá cấp tỉnh, 130 em đạt giải cao trong
Hội khoẻ Phù Đổng tỉnh. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 100%.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
237
quả, hiệu lực quản lý, khắc phục mọi tiêu cực trong thi cử,
đánh giá học sinh và kiên quyết xây dựng môi trƣờng giáo
dục
Nhà trƣờng đã có đủ 45 phòng học cho học sinh học 1 ca.
Có đủ các phòng chức năng, thƣ viện, phòng tin học, phòng
thí nghiệm, phòng nghe nhìn, phòng học tiếng, phòng y tế,
sân chơi, nhà thi đấu, bãi tập...
Năm học 2006 - 2007 là năm nhà trƣờng đẩy mạnh việc
chấn chỉnh nền nếp, kỷ cƣơng nhằm thực hiện chủ đề là năm
học: “Kỷ cƣơng và phát triển”.
Trƣờng tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý theo tinh thần Chỉ thị 40/CT-TW
của Ban Bí thƣ và quyết định số 09/2005/QD-TTg của Thủ
tƣớng Chính phủ.
Đây cũng là năm học thực hiện chƣơng trình phân ban
mới, từng bƣớc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục
toàn diện trong đó đã tăng cƣờng giáo dục tƣ tƣởng đạo đức
cho học sinh, nâng cao chất lƣợng giáo dục hƣớng nghiệp.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, các đoàn thể phối hợp cùng
nhà trƣờng đã tăng cƣờng động viên tinh thần lao động sáng
tạo, nhiệt tình và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ giáo viên để
xứng đáng là một nhà trƣờng đạt chuẩn quốc gia và là trƣờng
“Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.
Năm học 2006 - 2007 cuộc vận động Dân chủ, kỷ cƣơng,
tình thƣơng, trách nhiệm”, “Nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào
tạo và Công đoàn Giáo dục Việt Nam thống nhất lồng ghép
cuộc vận động “Dân chủ hoá trƣờng học” với cuộc vận động
“Kỷ cƣơng - Tình trhƣơng - Trách nhiệm” thành cuộc vận
động “Dân chủ - Kỷ cƣơng - Tình thƣơng - Trách nhiệm” với
nội dung sâu rộng hơn. đã đƣợc thầy trò nhà trƣờng tích
..................
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
238
cực thực hiện.(5)
Chuẩn bị bƣớc vào năm học 2007- 2008, Một sự kiện đầy ý
nghĩa đối với nhà trƣờng đó là sự viếng thăm trƣờng của
đồng chí: Bun nhăng Volachit - Uỷ viên Bộ Chính trị,
Thƣờng trực Ban Bí thƣ Đảng NDCM, Phó Chủ tịch nƣớc
CHDCND Lào. Đồng chí đã ghi trong cuốn “sổ vàng” của
nhà trƣờng những dòng ân nghĩa, những lời động viên sâu sắc
đối với nhà trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến xin đƣợc dịch
ra tiếng Việt nhƣ sau:
“ Tôi là Bun Nhăng Volachít- Uỷ viên Bộ Chính trị,
Thường trực Ban Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Hôm nay tôi rất vui mừng có cơ hội cùng với đoàn cán bộ
cao cấp của Lào đến thăm trường nơi tôi đã từng học trong
giai đoạn 1955 - 1965.
Tôi thấy được thành tích to lớn của nhà trường đã đóng
góp phần vào việc xây dựng tình đoàn kết, hợp tác hữu nghị
giữa hai nước trong suốt 45 năm qua.
Xin kính chúc nhà trường thành công rực rỡ trong sự
nghiệp đào tạo con người.
Tôi mong muốn Trường tiếp tục hợp tác giúp đỡ đất nước
tôi trong sự nghiệp giáo dục cho Đảng và cho Nhân dân các
bộ tộc Lào.
Cầu chúc cho Nhà trường có sự phát triển đời đời bền vững.
Ngày 18-7-2007
Bun- Nhăng Volachít ................................................................... (5)
Kết thúc năm học đã có 40/43 lớp đạt danh hiệu tập thể “Học tập, rèn
luyện vì ngày mai lập nghiệp”.
Tỷ lệ học sinh giỏi toàn diện và học sinh tiên tiến đạt trên 60%.
Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 93%.
Về phía giáo viên cũng đã có 20% tổng số CBGV đạt danh hiệu
CSTĐ.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
239
Ngài: Bun Nhăng Volachít Ủy viên Bộ Chính Trị - Thường trực
Ban Bí Thư CHDCND Lào thăm trường
Đoàn đại biểu trường THPT Pạc Xan – tỉnh Bô-ly-khăm-xay
Nước CHDCND Lào thăm trường
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
240
Năm học 2007- 2008 trƣờng lên tới 43 lớp với tổng số
2022 học sinh và 102 đồng chí CBGV. Đây cũng là năm nhà
trƣờng gắn kết việc thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chỉ thị
số 06 CT/TW của Bộ Chính trị về “Cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh” và chỉ thị số
32/2006 CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về “chống tiêu
cực và bệnh thành tích trong giáo dục”. Nhà trƣờng đã tiếp
tục triển khai quyết liệt cuộc vận động “Hai không” của
ngành đƣợc mở rộng với 4 nội dung
“ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục, nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và
việc học sinh ngồi nhầm lớp”.
Tiếp tục thực hiện đổi mới chƣơng trình, nội dung, phƣơng
pháp giáo dục, trọng tâm là tổ chức thực hiện tốt chƣơng
trình phân ban lớp 10, lớp 11.
Phát triển và ứng dụng rộng rãi hệ thống công cụ phục vụ
đổi mới phƣơng pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá.
Đẩy mạnh giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục đạo đức,
lối sống, giáo dục hƣớng nghiệp và pháp luật.
Thực hiện hƣớng dẫn của Sở GD-ĐT, Giáo viên và học
sinh đã tổ chức việc ký cam kết đẩy lùi những hiện tƣợng tiêu
cực trong quá trình dạy và học.
Từ đầu năm học 2007- 2008, toàn trƣờng đã hƣởng ứng
cuộc vận động
“ Mỗi thầy giáo cô giáo là một tấm gƣơng đạo đức tự học và
sáng tạo”,
Trƣờng đã tổ chức học tập từng chuyên đề về tƣ tƣởng,
tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, cùng
với đó đã triển khai “Hội thi kể chuyện về tấm gƣơng đạo
đức Hồ Chí Minh” và vận động tuyên truyền để mọi ngƣời tự
giác học tập và tự nguyện và làm theo. Cuộc vận động đƣợc
triển khai trên cơ sở lồng ghép với việc thực hiện các nhiệm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
241
vụ chính trị và công tác chuyên môn trong nhà trƣờng.(6)
Năm 2007 Đảng bộ nhà trƣờng đƣợc công nhận “Đảng bộ
trong sạch vững mạnh”.
Năm 2008 - 2009, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo nhà trƣờng
khởi động phong trào thi đua “xây dựng trƣờng học thân
thiện học sinh tích cực” do Bộ GD& ĐT phát động có nội
dung:
“1. Đảm bảo trường, lớp an toàn, xanh, sạch, đẹp. Thi đua
xây dựng lớp đẹp, trường đẹp, an toàn. Tổ chức trồng cây vào
thời điểm thích hợp ở từng địa phương. Vận động và hỗ trợ
cho học sinh đi học an toàn, khắc phục hiện tượng bỏ học,
đảm bảo không có trẻ em bỏ học vì thiếu ăn, thiếu mặc hoặc
thiếu sách vở.
2. Đổi mới phương pháp dạy học, đẩy mạnh triển khai áp
dụng các phương pháp dạy học hiệu quả, ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học. Chuẩn hóa các nội dung về
quản lí, tổ chức dạy học và hoạt động của nhà trường. Tăng
cường vai trò của Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm, Bí thư
Đoàn, Tổng phụ trách Đội trong việc thực hiện phong trào
thi đua. Phát huy tính tích cực của học sinh, tăng cường rèn
luyện thóiquen và năng lực tự học, làm việc theo nhóm, hỗ
trợ nhau trong nhóm học tập, rèn luyện ở trường, ở nhà và ở
cộng đồng.
3. Triển khai giáo dục kỹ năng sống theo chương trình của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, chủ động phối hợp giữa các ngành,
các tổ chức ở địa phương và gia đình học sinh trong việc
giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động của học sinh. ....................................................................................... (6)
Năm học 2007 – 2008: Tỷ lệ HS đỗ tốt nghiệp THPT = 97,5%.
Trƣờng có: - 01 HS đạt giải Ba quốc gia môn ngữ văn;
- 221 HS giỏi tỉnh các giải nhất, nhì, ba.
(trong đó:141 giải các môn văn hoá; 80 giải các môn thể dục, thể thao)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
242
Thành lập tổ cán bộ, giáo viên tư vấn cho học sinh. Xây
dựng văn hóa học đường. Kiên quyết ngăn chặn học sinh
tham gia trò chơi điện tử có nội dung bạo lực hoặc không
lành mạnh khác ở trong và ngoài trường học.
4. Đưa trò chơi dân gian, hát dân ca và các loại hình sinh
hoạt văn hóa dân gian khác vào trường học một cách bền
vững.
5. Chủ động hỗ trợ chăm sóc, phát huy giá trị văn hóa của
các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng. Tổ chức Ngày Di sản
văn hóa - Ngày về nguồn (23/11/2010), hướng tới và phát
huy giá trị văn hóa của 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.”
Nhà trƣờng đã nâng cao trình độ nhận thức và năng lực
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lí chuyên môn cũng
nhƣ các đoàn thể chính trị trong nhà trƣờng về công tác chỉ
đạo và tổ chức phong trào một cách có hiệu quả.
Ngày 13/3/2009 thầy trò trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến
đã phấn khởi tổ chức trọng thể Lễ đón bằng “Di tích lịch sử
cấp tỉnh – Di tích: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến – TP. Thái Nguyên, ngày 13/3/1960”, từ
đó càng tăng cƣờng quyết tâm thực hiện lời dạy của Bác Hồ
kính yêu khi Ngƣời đến thăm trƣờng đó là “...đoàn kết tốt,
dạy và học tốt, lao động tốt”.
Nhà trƣờng đã tiến hành việc đổi mới phƣơng pháp dạy
học, đổi mới cách đánh giá để tạo nên sự chủ động tích cực
trong học tập của học sinh. Chỉ đạo việc kiểm tra, khảo sát
đầu năm học để kịp nắm bắt tình hình chất lƣợng đầu năm,
trên cơ sở đó có kế hoạch và phƣơng pháp dạy học phù hợp
với từng đối tƣợng học sinh. Chú trọng phụ đạo học sinh yếu
kém, khắc phục hoàn toàn tình trạng bỏ học. Đổi mới hình
thức và nội dung kiểm tra, thi học kỳ nhằm đòi hỏi học sinh
tự giác nghiêm túc trong kiểm tra, thi cử.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
243
Nhà trƣờng đã huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để tăng cƣờng cơ sở vật chất trƣờng lớp học trang thiết bị
dạy học tạo điều kiện cần và đủ đáp ứng các tiêu chí đề ra của
một trƣờng học thân thiện. Nhà trƣờng đã phấn đấu có đủ
công trình vệ sinh và đƣợc vệ sinh sạch sẽ, bố trí nƣớc uống
tinh khíết cho học sinh. Đảng bộ đã chỉ đạo chặt chẽ việc
xây dựng quĩ khuyến học để khuyến khích những học sinh có
hoàn cảnh khó khăn vƣơn lên học tốt. Phát động các lớp tổ
chức quyên góp sách vở, quần áo, đồ dùng học tập, tiền để
giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn (7)
.
Năm học 2009 - 2010, qui mô của trƣờng tới 43 lớp với
1943 học sinh và 104 cán bộ giáo viên. Đảng bộ đã chỉ đạo
nhà trƣờng triển khai kế hoạch thực hiện chủ đề năm học:
“Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”;
và cùng với toàn ngành tiếp tục thực hiện cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
tiếp tục thực hiện 3 cuộc vận động: “ Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” cuộc vận
động “Mỗi thầy giáo cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự ..........................................................................
(7)
Theo tổng kết của Sở Giáo dục - Đào tạo, chất lƣợng hạnh kiểm và
văn hoá của trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến năm học 2008 - 2009
đều cao hơn so với bình quân chung của các trƣờng THPT toàn tỉnh, tỷ
lệ so sánh nhƣ sau:
* Hạnh kiểm: tốt: LNQ 85,1%/51,08
% trường khác;
khá: LNQ14,23%
/34,71%
trường khác;
TB: LNQ 0,76%
/12,85%
trường khác;
yếu: LNQ 0%
/1,36.%
trường khác;
* Học lực: giỏi+ khá: LNQ 71,34%
/52,37% trường khác;
trung bình: LNQ 28,15%
/ 54,74% ; trường khác;
yếu: LNQ 0,61%
/ 12,39%; trường khác;
kém: LNQ 0% /0,60
%. trường khác;
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
244
học và sáng tạo”(8)
và phong trào thi đua “ Xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực” Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhà trƣờng, thầy trò đã khắc
phục mọi khó khăn ra sức thi đua dạy tốt, học tốt. Giáo viên
của trƣờng luôn cải tiến nội dung sinh hoạt các tổ, nhóm
chuyên môn nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả việc tự
học tự rèn. Tăng cƣờng ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác quản lý và giảng dạy.
Nhà trƣờng tổ chức tập huấn ứng dụng những phần mềm
tin học, tổ chức hội thảo chuyên đề về ứng dụng công nghệ
thông tin nhằm nâng cao trình độ tiếp cận những công nghệ
thông tin mới. Tổ chức cho giáo viên các tổ chuyên môn
hƣởng ứng phong trào làm đồ dùng, thiết bị dạy học.
Năm học 2009 - 2010 Đảng bộ và nhà trƣờng đã có những
thành tích nổi bật góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
năm học, lập thành tích chào mừng kỷ niệm 65 năm thành lập .................................................... (8)
Ngày 8/9/2006 Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 33/2006/CT-
TTg về “Chống tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”, ngày
7/11/2006 Bộ chính trị đã ra Chỉ thị số 06-CT/TƢ về tổ chức cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực
hiện theo 2 Chỉ thị trên, Công đoàn giáo dục VN đã phối hợp với Bộ
GD&ĐT phát động cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gƣơng
đạo đức, tự học và sáng tạo” trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục. Cuộc vận động đã chính thức đƣợc phát động vào ngày
20/11/2007 nhân dịp kỷ niệm 25 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam và tổng
kết vào ngày 20/11/2012.
Cuộc vận động gồm 3 nội dung chính:
1. Về đạo đức của nhà giáo:
- Có ý thức tổ chức kỷ luật, trách nhiệm thực thi pháp luật và tinh thần
phục vụ nhân dân trong các hoạt động giáo dục, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các tiêu cực trong giáo dục.
- Yêu ngành, yêu nghề, yên tâm công tác, mô phạm với nhân dân, phụ
huynh học sinh, đồng nghiệp, thƣơng yêu học sinh. .
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
245
- Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ, đấu
tranh, ngăn chặn nhà giáo vi phạm pháp luật và những qui định nghề
nghiệp.
2. Về việc tự học của nhà giáo:
- Không ngừng học tập để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính
trị, chuyên môn, ngoại ngữ và tin học để phục vụ cho công tác và hoạt
động giáo dục đáp ứng yêu cầu về chuẩn nghề nghiệp nhà giáo và chuẩn
cán bộ quản lý giáo dục với nhiệm vụ đƣợc giao, theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
- Khắc phục khó khăn, có kế hoạch tự học và ý chí vƣơn lên rèn luyện kỹ
năng, phƣơng pháp tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức khoa
học, công nghệ và nghệ thuật làm sƣ phạm.
- Về tự học của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, vừa là quá trình để
tự hoàn thiện mình vừa để nêu gƣơng cho ngƣời học.
3. Về tính sáng tạo của nhà giáo:
- Sáng tạo của nhà giáo là sự đổi mới, tạo ra cái mới trong hoạt động
giáo dục và quản lý giáo dục, góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục -
đào tạo.
- Sáng tạo trong vận dụng tri thức và công nghệ mới vào quá trình giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
- Tích cực nghiên cứu tự làm thêm đồ dùng dạy học mới cải tiến đồ dùng
dạy học đã có phù hợp với điều kiện cụ thể của bài dạy, của lớp học và
ngƣời học.
- Đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, áp dụng công nghệ thông tin vào bài
giảng và xử lý tốt các tình huống sƣ phạm. Quan tâm phát hiện và biết
bồi dƣỡng những ngƣời học có năng khiếu, học giỏi, đồng thời biết phụ
đạo những ngƣời học yếu kém.
- Đổi mới, cải tiến phƣơng pháp quản lý nhà trƣờng, quản lý học sinh,
nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục - đào tạo.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
246
trƣờng 13 – 3 - 2011(9)
Năm 2009 Đảng bộ trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc
Thành uỷ Thái Nguyên công nhận “Đảng bộ trong sạch vững
mạnh xuất sắc tiêu biểu.” Đảng bộ đƣợc thành uỷ tặng giấy
khen về thành tích xuất sắc thực hiện cuộc vận động “ Học
tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh”.
Kết thúc năm học 2009 - 2010 trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến đã vinh dự đƣợc nhận cờ thi đua xuất sắc của UBND
tỉnh. ..................................................................... (9)
Trong phong trào thi đua Dạy tốt, đoàn giáo viên nhà trƣờng đƣợc
xếp thứ Ba toàn tỉnh tại Hội thi giáo viên giỏi các môn khoa học xã hội
và giáo dục quốc phòng an ninh với 9/9 giáo viên đạt danh hiệu giáo
viên giỏi cấp tỉnh, trong đó có 1 đồng chí đạt xuất sắc.
Tại hội thi giáo viên giỏi sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, đoàn giáo
viên của trƣờng đã xếp thứ nhì toàn tỉnh ( cả 4/4 đồng chí đạt danh hiệu
giáo viên giỏi cấp tỉnh, 1 đồng chí đạt xuất sắc).
Trong hội thi VH-TT-VN giữa 6 trƣờng THPT khu vực Đông bắc tổ
chức tại trƣờng Trần Phú tỉnh Vĩnh Phúc, trƣờng đƣợc xếp giải nhất toàn
đoàn..
Tại hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc lần thứ XII- năm 2010, nhà trƣờng
xếp thứ nhất toàn tỉnh khối THPT. Học sinh toàn trừơng đạt tổng số 450
giải học sinh giỏi trong đó 246 giải Học sinh giỏi tỉnh về các môn văn
hoá và 204 giải TDTT. Đặc biệt trƣờng dành đƣợc 01 giải Ba Quốc gia
khu vực I thi sử dụng máy tinh cầm tay môn hoá học.
Tỷ lệ tốt nghiệp năm học 2009-2010: 99,84%. Tỷ lệ đỗ đại học
nguyện vọng I năm 2009 là 53,13 % đặc biệt em Đỗ Ngọc Cƣờng đã đỗ
thủ khoa trƣờng ĐH Kinh tế quốc dân với số điểm tuyệt đối 30/30 điểm.
Đào Ngọc Cƣờng học sinh lớp 12A10 trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến. Nhà nghèo, Đào Ngọc Cƣờng đã phải làm phụ gíúp với bố trong
xƣởng mộc. Thời gian mẹ điều trị bệnh ung thƣ, Cƣờng tất bật vừa lo
chăm sóc mẹ, vừa thay bố quán xuyến việc nhà, tối đến mới tập trung
vào học và làm bài tới đêm khuya.
Với ý chí vƣợt khó học tập Cƣờng đã giành trọn ba điểm 10 tuyệt đối
của trƣờng ĐH Kinh tế quốc dân ”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
247
Trường THPT Lương ngọc Quyến trước nhiệm kỳ III của
Đảng bộ ( 2010 - 2015) Đại hội nhiệm kỳ III của Đảng bộ trƣờng THPT Lƣơng
Ngọc Quyến tiến hành vào 24/4/2010. Đảng bộ gồm 64 đảng
viên trong đó có 5 đồng chí đảng viên dự bị, nữ đảng viên có
50 đồng chí. Đại hội đã bầu đồng chí Hiệu trƣởng Bùi Thị
Loan là Bí thƣ Đảng bộ, đồng chí phó Hiệu trƣởng Phạm
Lành là phó Bí thƣ. BCH gồm 09 đồng chí.
Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ III (2010-
2015) là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn
Đảng bộ; tiếp tục đổi mới toàn diện, phát huy truyền thống vẻ
vang của “Đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”,
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; quyết tâm xây dựng
trường lên tầm cao mới.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI
của Đảng. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ
XVIII. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XVI. Xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện
cụ thể của nhà trường.
Xác định khâu đột phá là: Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống
cho học sinh. Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lí, xây dựng
đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về
chất lượng. Chú trọng đổi mới chương trình, nâng cao
phương pháp dạy và học tập, phát huy mọi nguồn lực, đảm
bảo công bằng trong giáo dục.
Tổ chức các phong trào thi đua trong năm học nhằm hoàn
thành toàn diện các chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ đề ra.
Trường tiếp tục thực hiện các tiêu chí để sớm đạt trường
chuẩn quốc gia giai đoạn II
Về công tác Đảng:
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
248
- Đảng bộ phấn đấu luôn đạt tiêu chuẩn tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch vững mạnh. 100% đảng viên đủ tư cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
- Tăng cường công tác phát triển đảng viên. Trong nhiệm
kì III kết nạp từ 15 đảng viên mớí trở lên.
Về chính quyền và công tác đoàn thể:
- Nhà trường phấn đấu Đạt “Tập thể lao động xuất sắc”, ít
nhất có 1 năm là lá cờ đầu khối các trường THPT trong tỉnh.
- Công đoàn: phấn đấu đạt Công đoàn cơ sở vững mạnh
xuất sắc. Có trên 30% giáo viên có trình độ thạc sĩ. Có 30%
CBGV đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở trở lên; 70%
đạt lao động tiên tiến trở lên.
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đạt thành tích xuất sắc, là lá
cờ đầu trong công tác Đoàn các trường THPT tỉnh Thái
Nguyên”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
249
Hội thi cán bộ nữ công gia chánh 8 - 3 – 2005
Giờ Hoá Học của Cô Vũ Thị Bích Liên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
250
Giờ Văn Học của Cô Nguyễn Thu Dông
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
251
Học sinh lao động công ích
Hội nghị đại biểu Ban đại diện Cha mẹ học sinh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
252
Hội trại “Nói không với Ma túy”học đường
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
253
Giao lưu trao đổi kinh nghiệm tại trường trung học phổ thông
Hà Nội - AMSTERDAM
Đội bóng đá của trường vô địch năm 2005
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
254
Giao đấu Cầu lông
Đêm văn nghệ góp quỹ ủng hộ học sinh nghèo
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
255
Bà Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHDCND Lào tại Việt Nam
Sủn thon Xay nha chắc. Thay mặt chính phủ Lào trao huân
chương hữu nghị cho nhà trường.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
256
TỔNG LUẬN
1. “Lƣơng ngọc Quyến” đã có một khởi đầu đầy ý
nghĩa, ở thời điểm hết sức khẩn trƣơng bùng nổ cuộc
kháng chiến trƣờng kỳ. Trƣớc sức hút ghê gớm của sự
nghiệp toàn dân chống giặc ngoại xâm, một trƣờng trung
học với những điều kiện sơ khai vẫn sớm khiêm tốn xuất
hiện để góp phần chống giặc dốt.
Tháng 10 – 1946, khi ông chủ tịch UBHC tỉnh Thái
Nguyên long trọng khai giảng năm học mở đầu của trƣờng
trung học đầu tiên tỉnh Thái Nguyên: “Lƣơng Ngọc Quyến”,
đã gióng lên không chỉ hồi trống cần cù hiếu học, mà còn là
hồi trống tập hợp, đoàn kết trí thức, thanh niên; hồi trống của
niềm tin son sắt vào Đảng, Bác Hồ, vào đƣờng lối chính sách
văn hoá giáo dục sáng suốt của chế độ mới.
Cũng nhƣ không nhiều trƣờng trung học khác vào lúc ấy
trong toàn vùng tự do, “Lƣơng Ngọc Quyến” có vị trí đắc địa,
tọa lạc tại Thủ đô kháng chiến Thái Nguyên.
Là thủ đô “gió ngàn”, là quần thể di tích quan trọng vào
bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc vào thế
kỷ XX, là địa phƣơng hết sức phong phú về địa danh, sự kiện
và nhân vật lịch sử, là vùng rất đa dạng về sinh thái, về văn
hoá dân tộc, về di tích khảo cổ, về những sản phẩm có thƣơng
hiệu nổi tiếng lâu đời.
Qua 65 năm phát triển “Lƣơng Ngọc Quyến” đã cùng với
đất nƣớc và nhân dân, trải qua bƣớc khởi đầu đột phá đầy ý
nghĩa, liên tục phát triển, vƣợt qua gian khổ thăng trầm, ngày
một tiến bộ thắng lợi; Qua kháng chiến trƣờng kỳ chống
Pháp, chống Mỹ, đến hòa bình thống nhất đất nƣớc, bƣớc vào
nền kinh tế thị trƣờng và thời kỳ đổi mới.
Từ những bƣớc đi ban đầu và liên tục đến tận nay, “Lƣơng
Ngọc Quyến” luôn đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam các cấp
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
257
dìu dắt và thúc đẩy: Từ chủ trƣơng sáng suốt và mạnh dạn
thiết lập trƣờng, đến bảo toàn trong kháng chiến, xây dựng
phát triển Đảng từ vài ba đảng viên đến đảng bộ ngày nay...
Từ một trƣờng trung học mà số lƣợng học sinh đếm trên
đầu ngƣời, di chuyển qua hàng chục địa phƣơng, cơ sở vật
chất rất thiếu thốn, đến đâu cũng đƣợc nhân dân đùm bọc,
dƣới tác động sâu sắc của nền giáo dục cách mạng, trƣờng đã
liên tục phát triển về cấp học, về qui mô, chất lƣợng hoạt
động nghề nghiệp, đã tích lũy đƣợc kinh nghiệm, tạo đƣợc vị
thế lan toả và vai trò của một trong những cơ sở giáo dục đầu
đàn của Khu Việt Bắc trƣớc đây và tỉnh Thái Nguyên “Thủ
đô gió ngàn” ngày nay.
65 năm qua của “Lƣơng Ngọc Quyến” là sự phản ảnh chân
thực những nét cơ bản của nền giáo dục cách mạng “dân tộc,
khoa học, đại chúng”,của nhà trƣờng kiểu mới trung thành
với Đảng với Dân tộc.
Tóm lại “Lƣơng Ngọc Quyến” đã ra đời và phát triển trong
thiên thời, địa lợi và nhân hoà, đã là một trung tâm văn hoá
có tích lũy kinh nghiệm và có sức lan tỏa, một mẫu mực đáp
ứng yêu cầu của cách mạng, đƣờng lối chính sách giáo dục
của Đảng.
2. Thành quả mà 65 năm qua “Lƣơng Ngọc Quyến” đã
mang lại cho đất nƣớc, cho cách mạng, cho địa phƣơng là
hết sức phong phú, liên tục.
Con số học sinh tốt nghiệp phổ thông góp phần nâng cao
mặt bằng dân trí, vào xoá đói giảm nghèo. Số học sinh vào
trƣờng đại học trong và ngoài nƣớc góp phần quan trọng vào
sự nghiệp đào tạo cán bộ cho quốc kế dân sinh. Tỷ lệ học
sinh con em các dân tộc ít ngƣời mang lại hạnh phúc thực sự
cho bà con. Số ngƣời đã thành danh trong quốc gia và trên
quốc tế là niền tự hào sâu sắc của “ Lƣơng Ngọc Quyến”. Chỉ
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
258
tính những cán bộ tỉnh có xuất thân trong vòng đời “Lƣơng
Ngọc Quyến”, và những ngƣời đã tham gia các chiến trƣờng
B,C,K là con số không nhỏ.
Đặc biệt nhất là “Lƣơng Ngọc Quyến” đã có thời kỳ đƣợc
vinh dự nhận nhiệm vụ nuôi dƣỡng đào tạo học sinh miền núi
các tỉnh lân cận, học sinh miền Nam và học sinh Lào. Đào tạo
đúng là chiều sâu của Hữu nghị: Các em Lào không bao giờ
quên Thái Nguyên, quên “Lƣơng Ngọc Quyến”, quên các
thầy cô và nhân dân đã đùm bọc, chăm sóc dạy dỗ mình.
Qua 65 năm phát triển và trƣởng thành, cái đẹp của
“Lƣơng Ngọc Quyến” là sự tái lập liên tục những thành quả
trong giáo dục con ngƣời. Những danh hiệu cao quí: Anh
hùng lao động, Di tích đƣợc xếp hạng, những tấm huân
chƣơng quốc gia và quốc tế, các chuẩn giáo dục đạt đƣợc và
những đánh giá thuận chiều của công luận, cũng nhƣ biết bao
công sức tâm huyết của thầy trò và cha mẹ học sinh đã dần
dần tích lũy hình thành truyền thống
“Học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt” đúng theo lời chỉ
dạy của Bác Hồ kính yêu.
Trong quá trình vƣơn lên khắc phục khó khăn, thầy trò và
nhân dân địa phƣơng đã sớm thực hiện những yếu tố nổi trội
nhƣ: trƣờng gần dân và xã hội; tự lực cánh sinh; tự giác xung
phong trong công việc và đời sống; thầy trò thân ái, đồng
cam cộng khổ; tự tạo cho mình những kỹ năng sống cần thiết
cho trƣớc mắt và lâu dài. Những thành quả của “Lƣơng Ngọc
Quyến” cũng đã tranh thủ đƣợc sự tín nhiệm và có sức lan tỏa
trong phong trào giáo dục địa phƣơng.
3. Nguyên nhân sâu xa của những thành quả trong hơn
nửa thế kỷ phát triển của “Lƣơng Ngọc Quyến”
Là sự lãnh đạo soi đƣờng của Đảng, thể hiện ở đƣờng lối
chính sách giáo dục, ở sự quan tâm ƣu ái đặc biệt của các cấp
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
259
đối với trƣờng, ở tổ chức trong sạch vững mạnh của Đảng,
trên tất cả các lĩnh vực chính trị cũng nhƣ chuyên môn, tập
trung ở chất lƣợng con ngƣời học sinh phổ thông, đáp ứng
các nhu cầu của cách mạng, của xã hội, làm cho “Lƣơng
Ngọc Quyến” trừ xuất phát điểm rất thấp, lúc thuận lợi cũng
nhƣ khi khó khăn vấp váp, đã từng bƣớc trƣởng thành.
Nhân dân Thái Nguyên từ thị xã đến thành phố, từ Phú
Bình, Đại Từ về Đồng Hỷ...đã đùm bọc che chở an toàn tuyệt
đối cho thầy trò, Một nhà trƣờng trong khói lửa bom đạn ác
liệt, trong đấu tranh gian khổ mà không chịu tổn thất là nhờ
dân. Một nhà trƣờng khởi đầu trong thiếu thốn, không có dân
thì không có trƣờng lớp bàn, ghế.
Nguyên nhân trực tiếp của những thành quả là các thế hệ
thầy cô, học sinh và cán bộ viên chức “Lƣơng Ngọc Quyến”.
Thầy, những trí thức yêu nƣớc, có đức độ và trách nhiệm,
vƣợt khó và có lòng nhân ái. Trò rất tự giác tự lực, vƣợt khó,
đoàn kết thƣơng yêu, giúp đỡ nhau. Thầy và trò gần gũi thông
cảm. Thầy và trò dù đã rời trƣờng vẫn mãi lƣu giữ tình cảm
gắn bó dƣới nhiều hình thức độc đáo, thậm chí hiếm có, với
nhiều hồi ký sâu đậm về tình cảm và quí báu về tƣ liệu. Họ đã
làm theo nhịp đập con tim và theo niềm tin ở “Lƣơng Ngọc
Quyến” nhà trƣờng kiểu mới. Không thể quên thế hệ nối tiếp
các thầy hiệu trƣởng: bao nhiêu thầy là bấy nhiêu tấm gƣơng
cố gắng, trách nhiệm để vƣợt khỏi chính mình trong công
việc chƣa hề đƣợc học. Nhiều thầy giỏi và nổi tiếng, đã để lại
dấu ấn của mình.
4. Càng tự hào về lịch sử phát triển của “Lƣơng Ngọc
Quyến”, càng phải nghiêm túc soát xét các thách thức đã
qua và sẽ gặp trên chặng đƣờng mới. Thách thức bao trùm là chất lƣợng đào tạo, một đòi hỏi có
tính lâu dài thƣờng xuyên, quan hệ hữu cơ với cả hai lực
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
260
lƣợng thầy - trò, với tất cả các mặt hoạt động chính trị,
nghiệp vụ, nội ngoại khoá , với tất cả các khâu trong quản lý
trƣờng học, quan hệ với các cấp lãnh đạo chính trị, chuyên
môn, và quan hệ ngoài xã hội. Chất lƣợng đào tạo có tính
tổng hợp phổ quát, nhƣng thể hiện chủ yếu ở sản phẩm đào
tạo: Những nam, nữ học sinh mà trƣờng “Lƣơng Ngọc
Quyến” cung cấp cho xã hội, cho các trƣờng đại học, cho các
ngành nghề, cho quê hƣơng Thái Nguyên.
Ngành giáo dục nƣớc nhà - cùng với nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới đang đi vào các chuẩn nghiệp vụ. “Lƣơng Ngọc
Quyến” chúng ta, đã đƣợc công nhận đạt chuẩn quốc gia giai
đoạn 2001 - 2010 nay phải phấn đấu trong giai đoạn mới.
Đồng thời phải đi sâu vào triển khai chuẩn nghề nghiệp
giáo viên THPT và chuẩn hiệu trƣởng. Đi vào chuẩn là đi vào
pháp quy, đi vào lao động đặc thù nghề nghiệp.
Đƣợc sự quan tâm của địa phƣơng, sự cố gắng của trƣờng,
cơ sở vật chất của “Lƣơng Ngọc Quyến” ngày một đƣợc cải
thiện nhƣng vẫn còn chƣa đủ trƣớc sự phát triển của khoa học
công nghệ. Nói chất lƣợng, nói chuẩn là nói đến cơ sở vật
chất. “Lƣơng Ngọc Quyến” vẫn phải tiếp tục ráo riết phấn
đấu về mặt này và khi nói “học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để tồn tại” “Uỷ ban quốc tế về phát triển GD
thế kỷ XXI” thì cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục ngày càng
quan trọng, đặc biệt là máy vi tính, đi vào công nghệ thông
tin là cánh cửa của nền kinh tế tri thức.
5. “Lƣơng Ngọc Quyến” tiếp tục trau dồi truyền thống,
giữ vững vị trí, mạnh bƣớc tiến lên.
Dƣới ánh sáng các nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ
XVIII của tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII của
thành phố Thái Nguyên. “Lƣơng Ngọc Quyến” và Đảng bộ
trƣờng tiếp tục trau dồi truyền thống “Học tập tốt, lao động
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
261
tốt, đoàn kết tốt” tiếp tục trau dồi “Phong cách giáo viên
Lƣơng Ngọc Quyến”, ra sức phấn đấu đƣa chất lƣợng tổng
thể trƣờng “Lƣơng Ngọc Quyến” lên một mức cao hơn, đạt
chuẩn các trƣờng trung học giai đoạn mới, các chuẩn hiệu
trƣởng và chuẩn giáo viên ở mức cao theo qui định của Bộ
GD-ĐT và chỉ đạo của sở GD-ĐT Thái Nguyên, giữ vững vị
trí là một trong những trƣờng đầu đàn của tỉnh.
Sản phẩm đào tạo của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến phải tiếp
tục phục vụ đắc lực yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của xã
hội, của địa phƣơng. Với Thái Nguyên thân thƣơng “Lƣơng
Ngọc Quyến” phải sẵn sàng góp phần thu hút mọi nguồn lực
xây dựng Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp. Mỗi thanh niên
học sinh rời khỏi “Lƣơng Ngọc Quyến” đều có sẵn những kỹ
năng hoạt động xã hội để nếu vào hoặc không vào trƣờng đại
học đều có thể là nhân tố tích cực trong hoà nhập cộng đồng.
Bài học xây dựng Đảng bộ trƣờng “Lƣơng Ngọc Quyến”
vẫn nóng hổi, dƣới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng các
cấp, Đảng bộ “Lƣơng Ngọc Quyến” vẫn tiếp tục phấn đấu,
động viên toàn trƣờng giƣơng cao lá cờ “Anh hùng lao động
thời kỳ đổi mới”, tiếp tục xây dựng và phát triển Đảng, tiếp
tục giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Lịch sử phát triển trƣờng “Lƣơng Ngọc Quyến” tiếp tục
sang trang, với niềm quyết tâm và tin tƣởng mới cùng với các
trƣờng bạn trong tỉnh, phấn đấu thực hiện lời dạy trực tiếp
của Bác Hồ kính yêu “Học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết
tốt” một cách toàn diện, sáng tạo, đổi mới, chất lƣợng hơn.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
262
LỊCH SỬ
Trƣờng trung học phổ thông
Lƣơng Ngọc Quyến Thái Nguyên
( 1946 - 2011)
PHỤ LỤC
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
263
TÓM TẮT TIỂU SỬ NHÀ YÊU NƢỚC
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
Lƣơng Ngọc Quyến (1885- 1917) tự là Lập Nham, là
một chí sỹ Việt Nam thời cận đại. Quê gốc của ông ở làng
Nhị Khê, huyện Thƣờng Tín, Thành phố Hà Nội. Ông sinh
ra tại Hà Nội, Là con thứ của chí sỹ Lƣơng Văn Can – một
nhà nho thức thời yêu nƣớc, một trong những ngƣời sáng
lập phong trào Đông Kinh Nghĩa thục nổi tiếng.
Lƣơng Ngọc Quyến và anh trai Lƣơng Trúc Đàm là
những thanh niên đầu tiên hƣởng ứng phong trào Đông Du,
sang Nhật tìm đƣờng làm cách mạng (năm 1905). Năm
1911 ông về Trung Quốc cùng Phan Bội Châu tổ chức Việt
Nam Quang Phục hội. Ông đƣợc cử làm Uỷ viên quân sự
trong bộ chấp hành của tổ chức này.
Năm 1914, Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc cử về nƣớc gây cơ
sở cách mạng tại Nam Kỳ. Bị tay sai của Pháp phát hiện.
Để tránh bị bắt, ông phải trốn sang Hƣơng Cảng rồi Hồng
Kông. Năm 1914 ông bị cảnh sát Anh bắt tại Hồng Kông,
chuyển cho Pháp và bị giải về Hà Nội.
Biết là một yếu nhân của phong trào yêu nƣớc lúc đó,
Toàn quyền Đông Dƣơng và Chánh mật thám Đông Dƣơng
ra sức dụ dỗ, mua chuộc nhƣng không đƣợc nên chúng
tuyên án “cấm cố chung thân” và đƣa lên nhà tù ở thị xã
Thái Nguyên. Mặc dù bị đầy đoạ tàn nhẫn, cơ thể suy
nhƣợc nhiều nhƣng ông không sờn lòng nản chí. Trong tù
ông đã giác ngộ đƣợc nhiều binh lính bằng quan điểm cách
mạng, tinh thần bất khuất và bằng cả đạo đức, nếp sống
giản dị, thái độ hoà nhã của mình. Chí quật cƣờng của nhà
ái quốc Lƣơng Ngọc Quyến đã khíến ông cùng với Trịnh
Văn Cấn tiến hành “cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên”.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
264
Quân khởi nghĩa Thái Nguyên dƣới sự lãnh đạo của
Trịnh Văn Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến, đã nổi dậy, đập tan
chính quyền thực và làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên từ 30- 8
cho đến 5 - 9 năm 1917. Các lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa
đã hiên ngang tuyên bố “Thái Nguyên độc lập”, đặt quốc
hiệu là “Đại Hùng”, lấy lá cờ 5 sao làm quốc kỳ, tổ chức ra
đội “Việt Nam Quang phục quân” với lá cờ “Nam Binh
Phục Quốc”…
Lƣơng Ngọc Quyến đã hy sinh anh dũng trong lúc chỉ
huy chiến đấu vào sáng 4-9-1917 khi quân Pháp phản công
chiếm lại tỉnh lỵ Thái Nguyên, khi đó ông mới 32 tuổi.
Tại thành phố Thái Nguyên ngày nay đã có hai nhà
trƣờng, một tuyến đƣờng phố đƣợc vinh dự mang tên
Lƣơng Ngọc Quyến điều đó đã nói lên lòng biết ơn, tự hào
của nhân dân Thái Nguyên đối với nhà yêu nƣớc Lƣơng
Ngọc Quyến.
Bình luận về tấm gƣơng xả thân vì nƣớc của lƣơng Ngọc
Quyến, cụ Phan Bội Châu đã viết những lời thật trân trọng.
“Thân không đầy bảy thước mà lòng mạnh bằng muôn
người, tuổi không quá tứ tuần mà tinh thần suốt muôn
thủa, người như thế lại không khó lắm ru! Lương Ngọc
Quyến gần như thế đấy”
CẢM TÁC
Lương Ngọc Quyến
Học hải cầm thủ lịch kỷ thu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
265
Nam quan(1)
hồi thủ tứ du du
Bách niên tổ quốc qui Hồ lỗ(2)
Thất xích tàn khu phó bích lƣu
Tƣ thế bất phùng minh thánh hữu
Lai sinh thả bảo phụ huynh cừu(3)
!
Thử hành hoạch yết Lam sơn đế
Hoán khởi trùng tiêm Pháp tặc đầu
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 – 1930
NXB Văn Hoá, H. 1963)
Dịch thơ:
Bể học xông pha trải bấy lâu
Thân tù ngoảnh lại nghĩ mà đau
Trăm năm đất tổ về quê mọi
Bảy thước thân tàn mắc nước sâu
Bạn tốt đời nay sao vắng cả
Thù nhà kiếp khác dễ quên đâu!
Hồn ta gặp được Lam sơn đế
Quyết mượn oai linh chém Pháp đầu. Đào Trinh Nhất dịch
.....................................................................
* Bài này làm lúc ông bị giam ở Hoả Lò Hà Nội.
(1) Nam quan : Cái mù của người phương Nam. Bắt nguồn từ tích
Chung Nghi bị Vua nước Tấn bắt bỏ tù vẫn đội cái mũ của người
nước Sở (ở phương Nam). Nam quan sau có nghĩa chỉ người tù.
(2) Hồ lỗ : Rợ Hồ, đây chỉ giặc Pháp.
(3) Câu thơ nhắc đến cha là Lương Văn Can lãnh tụ phong trào Duy
Tân, mở trường Đông Kinh nghĩa thục, bị Pháp bắt đày đi Côn đảo
rồi đưa đi an trí ở Phnôm Pênh (Cămpuchia).
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
266
Lương Ngọc Quyến
(1885 – 1917)
Đoàn cựu giáo viên và học sinh LNQ viếng mộ nhà yêu nước
Lương Ngọc Quyến và Bà Hồng Đính tại Nhị Khê
Cuối năm 2001
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
267
NIÊN BIỂU TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
(MỐC THỜI GIAN VÀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT)
Tháng 10-1946:
* Thành lập trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến ở thị xã
Thái Nguyên có 1 lớp đệ nhất khoảng 40 học sinh, Hiệu
trƣởng là ông Phạm Duy Nhƣợng
Tháng 3- 1947:
* Trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến giải thể.
Tháng 4-1947:
* Thành lập trƣờng trung học đặt ở xã Cù Vân huyện Đại
Từ, số học sinh: 30 của cả 4 lớp trung học phổ thông. Ông
Dƣơng Xuân Nghiên là Hiệu trƣởng.
Năm 1947-1948:
* Trƣờng chuyển về xã Phƣơng Độ huyện Phú Bình.
Năm 1948-1949:
* Trƣờng có chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên (với 3 đảng
viên) Bí thƣ chi bộ là đồng chí Trần văn Quốc.
* Chính thức lấy tên là Lƣơng Ngọc Quyến.
* Trƣờng chuyển sang thôn Úc Kỳ và Nhã Lộng.
* Chi bộ Đảng có 27 đảng viên
(đông nhất trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp).
* Trong 2 năm ( 1949-1950) số học sinh tòng quân vào
khoảng gần 100.
Năm 1950-1951:
* Trƣờng chuyển lên làng Quyên xã Bảo Lý. số học sinh
khoảng 400 (đông nhất thời gian ở Phú Bình)
* Bí thƣ chi bộ là đồng chí Nguyễn Kiên (học sinh)
* Thực hiện cải cách giáo dục lần thứ nhất, chuyển trƣờng
thành trƣờng cấp 2.
Năm 1951-1952:
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
268
* Trƣờng có lớp cấp III đầu tiên (lớp 8), thầy Nguyễn Văn
Đƣợc làm hiệu trƣởng thay thầy Dƣơng Xuân Nghiên lên
làm Trƣởng ty giáo dục Thái Nguyên.
* Bí thƣ chi bộ là đồng chí Nguyễn Văn Đƣợc.
Năm 1953:
* Trong trƣờng đã diễn ra sự việc đấu tố tự phát quá khích
của học sinh đối với những học sinh là con địa chủ. Lãnh
đạo tỉnh Thái Nguyên đã xử lý đúng mức vụ này.
* Trƣờng chuyển lên xã Tân Cƣơng huyện Đồng Hỷ, sáp
nhập với trƣờng cấp II Ngô Quyền thành trƣờng cấp II-III
Lƣơng Ngọc Quyến.
Từ 1947-1953:
* Các ông Giám đốc khu giáo dục Liên khu I, Liên khu
Việt Bắc là Nguyễn Hữu Tảo, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn
Lân thƣờng đến thăm trƣờng.
* Các ông Thứ trƣởng Nguyễn Khánh Toàn, Bộ trƣởng
Nguyễn Văn Huyên đã đến thăm trƣờng.
Năm 1954:
* 100 thầy giáo và học sinh lập thành một đại đội đi dân
công tham gia làm đƣờng, đoạn nối đƣờng Bắc Sơn - Thái
Nguyên với quốc lộ 3.
* Đồng chí Trƣờng Chinh Tổng bí thƣ Đảng Lao động
Việt Nam đã đến thăm trƣờng.
Năm 1955:
* Trƣờng chuyển ra thị xã Thái Nguyên, đóng trên một
quả đồi ở Képle, sau đó chuyển sang địa điểm hiện nay.
* Thầy Nguyễn Văn Hoàn thay thầy Nguyễn Văn Thu làm
Hiệu trƣởng.
* Sang học kỳ II Thầy Chu Thế Kỳ thay thầy Nguyễn Văn
Hoàn làm Hiệu trƣởng.
* Các trƣờng cấp II Hiệp Hoà, Đồng Tiến, Tích Lƣơng
sáp nhập vào trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
269
* Trƣờng thực hiện nhiệm vụ có tính chất đặc biệt: đào tạo
cả học sinh dân tộc miền núi, học sinh Miền Nam, học sinh
Lào.
Năm 1956-1957:
* Thực hiện cải cách giáo dục lần thứ 2.
* Trƣờng có thêm một học kỳ chuyển tiếp ( học kỳ III) để
thực hiện biên chế năm học từ tháng 9 năm này tới tháng 5
năm sau.
Năm 1957 - 1958:
* Thầy Nguyễn Đình Khâm làm Hiệu trƣởng.
* Hè 1958 tất cả giáo viên trƣờng tham gia lớp học chính
trị tập trung 3.200 giáo viên cấp II-III toàn miền Bắc theo tài
liệu: “Phấn đấu xây dựng nhà trƣờng xã hội chủ nghĩa”
Năm 1958 - 1959:
* Thầy Lƣơng Vĩnh Khang Hiệu phó phụ trách trƣờng thay
thầy Nguyễn Đình Khâm đi học ở nƣớc ngoài.
* Thứ trƣởng Bộ Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn đến thăm
trƣờng.
* Trƣờng có bƣớc chuyển biến mạnh mẽ theo nguyên lý,
phƣơng châm giáo dục mới, biểu hịện rõ nét nhất ở nội dung
học tập kết hợp với lao động sản xuất.
* Thầy Nguyễn Huy Ái và thầy Nguyễn Quang Ân đƣợc
Bộ giáo dục phân công về làm Hiệu trƣởng ( thầy Ái) và
Hiệụ phó (thầy Ân).
* Trƣờng tổ chức triển lãm thành tích giảng dạy và học tập.
Năm 1959 - 1960:
* Chi bộ trƣờng thành lập lại, đồng chí Nguyễn Quang Ân
làm bí thƣ.
* Bộ trƣởng Nguyễn Văn Huyên đến thăm trƣờng.
* 13-3-1960 Chủ tịch Hồ chí Minh đến thăm trƣờng. Về
sau, ngày 13-3 trở thành ngày truyền thống của trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
270
Năm 1963:
* Trƣờng kết nghĩa với trƣờng Banska Bistrixa ( Tiệp
Khắc cũ)
Tháng 8 - 1965:
* Trƣờng cấp II-III Lƣơng Ngọc Quyến thực hịện chỉ thị
của UBHC tỉnh Bắc Thái về tổ chức phòng không, sơ tán.
Ngày 10 – 8 - 1965:
* Tiến hành chia tách trƣờng cấp II - III Lƣơng Ngọc
Quyến thành hai trƣờng: Trƣờng Cấp II Lƣơng Ngọc Quyến
và Trƣờng Cấp III Lƣơng Ngọc Quyến. Thày Dƣơng Văn
Tài đƣợc cử làm hiệu trƣởng trƣờng PT cấp III LNQ.
Tháng 8 – 9 - 1965:
* Trƣờng Cấp III Lƣơng Ngọc Quyến sơ tán vào xã Thịnh
Đức huyện Đồng Hỷ tổ chức khai giảng năm học mới (1965-
1966)
Cuối Năm 1965:
* Trƣờng chuyển sang xã Phúc Trìu và bố trí phân tán vào
xóm Chùa, xóm Khuôn, xóm La Nải, xóm Lai Thành.
* Hình thành lớp toán đặc biệt ( lớp chọn ) do thày Lƣơng
Đình Lũng là giáo viên chủ nhiệm đầu tiên. Hệ thống lớp
toán đặc biệt đƣợc duy trì tới năm học 1971-1972, cho đến
năm học 1982-1983 mới mở lại các lớp chọn.
Năm 1969:
* Từ sau ngày hiệp định Pa ri đƣợc ký kết, trƣờng trở về
hoạt động ở địa điểm trƣờng cũ tại Thành Phố Thái Nguyên
Năm 1969:
* Năm mở đầu cho thời kỳ khôi phục lại trƣờng sở sau
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lần thứ nhất.
Năm 1970:
* Thầy Bùi Quang Sang đƣợc cử về làm Hiệu trƣởng thay
thầy Dƣơng Văn Tài đƣợc điều đi làm trƣởng phòng giáo
dục thành phố Thái Nguyên.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
271
Năm 1969-1970:
* Nhà trƣờng đón nhận thêm các học sinh từ Đồng Hỷ
chuyển sang học. Qui mô trƣờng l lên tới 21 lớp với gần
1000 học sinh.
Tháng. 4 -1972:
* Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai,
Trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến sơ tán sang xã Linh
Sơn huyện Đồng Hỷ.
Tháng 1-1973:
* Sau hiệp định Pa ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Việt Nam, Trƣờng PT cấp III Lƣơng Ngọc Quyến lại
chuyển từ Linh Sơn về địa điểm trƣờng cũ.
Năm học 1974:
* Thày Đỗ Nhƣ Hiện Hiệu trƣởng trƣờng cấp III Đại Từ
đƣợc điều động về làm Hiệu trƣởng trƣờng cấp III LNQ thay
thầy Bùi Quang Sang đƣợc Bộ điều đi công tác miền Nam.
Ngày 2-5-1975:
* Trƣờng tổ chức Mít tinh chào mừng ngày đại thắng giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nƣớc.
Ngày 25-8-1981:
* Thầy giáo Nguyễn Đăng Kền đƣợc bổ nhiệm làm Hiệu
trƣởng thay thầy Đỗ Nhƣ Hiện đƣợc nghỉ hƣu.
Ngày 13-3-1986:
* Ngày hội truyền thống đầu tiên của trƣờng nhân kỷ niệm
40 năm xây dựng và trƣởng thành. Trƣờng cấp III Lƣơng
Ngọc Quyến đƣợc vinh dự đón nhận Huân chƣơng lao động
hạng Ba.
Năm 1986-1987:
* Trƣờng cấp III Lƣơng Ngọc Quyến tách 8 lớp ( 4 lớp 11
và 4 lớp 12) về học tại trƣờng cấp III Đồng Hỷ.
Năm 1987:
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
272
* Bắt đầu xin đƣợc đất, cấp cho giáo viên làm nhà, hình
thành khu “Làng giáo viên Lƣơng Ngọc Quyến”
Năm 1986-1987:
* Trƣờng bắt đầu tổ chức đƣợc 4 lớp khối C, rồi tăng dần
lên 24 lớp khối C vào những năm sau.
Ngày 9-1-1989:
* Bộ trƣởng Bộ Giáo Dục, thứ trƣởng Trần Xuân Nhĩ, Bộ
trƣởng Bộ Lâm nghiệp, thứ trƣởng Trần Xuân Thuỷ, Chủ
tịch UBND tỉnh Nông Đức Mạnh cùng với các đồng chí
Giám đốc, phó giám đốc 18 tỉnh, thành phía Bắc từ Bình Trị
Thiên trở ra đến tham quan việc trồng cây của trƣờng.
Năm 1990:
* Xây dựng “Phong cách giáo viên Lƣơng Ngọc quyến”
với 5 tiêu chí: “Đoàn kết, trách nhiệm, dân chủ, kỷ cƣơng, trí
tuệ”
Ngày 13-3-1991:
* Tổ chức trọng thể kỷ niệm 45 năm thành lập trƣờng.
Đồng chí Đàm Quang Trung, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, phó
Chủ tịch Hội đồng Nhà nƣớc đã đến dự và thay mặt Hội
đồng Nhà Nƣớc trao tặng Huân chƣơng lao động hạng nhì
cho nhà trƣờng
Ngày 3-7-1991:
* Đồng chí Nông Đức Mạnh, Uỷ viên Trung Ƣơng Đảng,
Bí thƣ Tỉnh uỷ đã đến thăm trƣờng, đã ghi những lời động
viên và căn dặn thầy trò trong cuốn sổ vàng của nhà trƣờng.
Ngày 5-9-1991:
* Phó thủ tƣớng Nguyễn Khánh đến dự lễ khai giảng năm
học thứ 45 của nhà trƣờng.
Năm1994-1995:
* Trƣờng dấy lên cao trào xây dựng cơ sở vật chất theo
phƣơng châm xã hội hoá.
Năm 1995:
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
273
* Nhân kỷ niệm 55 năm Bác Hồ về thăm trƣờng tiến hành
xây dựng “ Nhà lƣu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Ngày 13-3-1996:
* Tổ chức trọng thể Lễ kỷ nịêm 50 năm thành lập trƣờng.
Phó thủ tƣớng Nguyễn Khánh đến dự và thay mặt nhà nƣớc
trao tặng Huân chƣơng lao động hạng nhất cho trƣờng THPT
Lƣơng Ngọc Quyến.
Ngày 11-8-2000:
* Thành lập Đảng bộ cơ sở trƣờng đồng chí Nguyễn Đăng
Kền đƣợc chỉ định làm là bí thƣ lâm thời,
Ngày 5-9-2000:
* Đồng chí Nguyễn Phú Trọng Uỷ viên Bộ Chính trị đã
đến dự lễ khai giảng năm học thứ 54 của nhà trƣờng.
Ngày 30-9-2000:
* Đảng bộ trƣờng tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Đại hội
bầu đồng chí Nguyễn Đăng Kền là bí thƣ, Lại Đức Kế phó bí
thƣ, các đồng chí Bùi Thị Loan, Trần Thị Nhuần, Nguyễn
Cảnh Tiến, Lƣu Thị Toan, Bùi Anh Tuấn là đảng uỷ viên.
Năm 2000:
* Trƣờng đƣợc vinh dự nhận danh hiệu “ Anh hùng lao
động thời kỳ đổi mới”. Trƣờng đƣợc Bộ Giáo dục đào tạo
tặng bằng khen là Trƣờng tiên tiến xuất sắc toàn quốc.
Năm 2001:
* Công đoàn trƣờng phát động và chỉ đạo phong trào thi
đua “ Giỏi việc trƣờng, đảm việc nhà”.
Năm 2002:
* Thầy Đồng Văn Đạt đƣợc quyết định cử làm Hiệu trƣởng
thay thầy Nguyễn Đăng Kền nghỉ hƣu.
Ngày 15-8-2005:
* Đại hội Đảng bộ trƣờng khoá II, nhiệm kỳ 2005-2010 đã
bầu ra ban chấp hành gồm 7 đồng chí. Hội nghị BCH lần thứ
I đã bầu Đồng chí Đồng Văn Đạt làm bí thƣ Đảng bộ.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
274
Năm 2005:
* Đƣợc UBND tỉnh công nhận là trƣờng đạt chuẩn quốc
gia giai đoạn 2001-2010.
Năm 2006:
* Đồng chí Bùi thị Loan đƣợc thành uỷ Thái nguyên quyết
định làm bí thƣ Đảng bộ thay đồng chí Đồng Văn Đạt đƣợc
điều động làm Hiệu trƣởng trƣờng Sƣ phạm 13+3 Thái
Nguyên.
* Đồng chí Bùi Thị Loan đƣợc Quyết định cử làm Hiệu
trƣởng nhà trƣờng.
Ngày 13-3-2006:
* Tổ chức thành công lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập
trƣờng.
* Tổ chức rất sôi nổi và hiệu quả Hội nghị giao lƣu văn
hoá giữa 6 trƣờng kết nghĩa gồm: trƣờng THPT Lƣơng
Ngọc Quyến (Thái Nguyên), THPT Ngô Sỹ Liên (Bắc
Giang); THPT Hàn Thuyên (Bắc Ninh); THPT Việt Bắc
(Lạng Sơn); THPT Trần Phú (Vĩnh Phúc), THPT Thị xã
Cao Bằng (Cao Bằng).
Năm 2006-2007:
* Trƣờng đẩy mạnh việc xây dựng nền nếp, kỷ cƣơng
nhằm thực hiện chủ đề năm học là “Kỷ cƣơng và phát triển”.
* Năm học thực hiện chƣơng trình phân ban mới, từng
bƣớc nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục toàn diện.
* Năm học tiến hành cuộc vận động “Dân chủ, kỷ cƣơng,
tình thƣơng, trách nhiệm” lồng ghép với cuộc vận động
“Dân chủ hóa trƣờng học”. tiến hành cuộc vận động “Nói
không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục”.
Năm 2007-2008:
* Đồng chí Bun Nhăng Volachít, Uỷ viên Bộ chính trị,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
275
Thƣờng trực Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng NDCM, phó Chủ
tịch nƣớc CHDCND Lào đến thăm trƣờng.
* Nhà trƣờng thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chỉ thị số
06 CT/TW của Bộ Chin trị về “ cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh”.
* Trƣờng thăm tỉnh Bô-ly-khăm-xay (CHDCND Lào) và
kết nghĩa với trƣờng THPT Pạc xan, thuộc tỉnh Bô-ly-khăm-
xay (CHDCND Lào)
* Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Hai không” của
ngành đƣợc mở rộng với 4 nội dung.
* Tiếp tục thực hiện đổi mới chƣơng trình, nội dung,
phƣơng pháp giáo dục, trọng tâm là thực hiện tốt chƣơng
trình phân ban.
Năm 2008-2009:
* Khởi động phong trào thi đua “ Xây dựng trƣờng
học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ GD - ĐT phát động.
Ngày 13-3-2009:
* Trƣờng tổ chức trọng thể lễ đón bằng “Di tích lịch sử
cấp tỉnh - điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến ngày 13 – 3 - 1960”.
Ngày 5-9-2009:
* Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên đến dự lễ khai
giảng và lễ trao tặng Huân chƣơng Hữu nghị của nƣớc Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào cho trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến.
Ngày 14-4-2010:
* Đại hội nhiệm kỳ III của Đảng bộ. Đại hội đã bầu ban
chấp hành gồm 9 đồng chí, BCH đã bầu đồng chí Bùi Thị
Loan làm bí thƣ Đảng bộ, đồng chí Phạm Lành là phó bí thƣ.
Năm 2009-2010:
* Trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến đã vinh dự đƣợc nhận
Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh Thái Nguyên.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
276
* Năm 2009 Đảng bộ trƣờng đƣợc công nhận “Đảng bộ
trong sạch vững mạnh xuất sắc tiêu biểu”
* Đƣợc Thành uỷ tặng giấy khen về thành tích xuất sắc
thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấmgƣơng
đạo đức Hồ Chí Minh”
* Em Đỗ Ngọc Cƣờng đã đỗ thủ khoa trƣờng Đạị học kinh
tế quốc dân với số điểm tối đa 30/30 điểm.
Năm 2010:
* Tiến hành biên soạn cuốn sách
“Lịch sử trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến.”
* Chuẩn bị kỷ niệm 65 năm thành lập trƣờng
* Triển khai học tập về chuẩn Hiệu trƣởng và giáo viên
trung học.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
277
NHỮNG VINH DỰ LỚN
* Năm 1954 Tổng Bí Thƣ Trƣờng Chinh đến thăm
trƣờng.
* Ngày 13-3-1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm
trƣờng.
* Ngày 9-1-1986 Phó chủ tịch nƣớc Nguyễn Thị Bình
(nguyên bộ trƣởng bộ Giáo dục) đến thăm.
* Ngày 30-7-1991 Đồng chí Nông Đức Mạnh nguyên bí
thƣ tỉnh ủy đến thăm.
* Ngày 5-9-1991 Phó thủ tƣớng Nguyễn Khánh đến dự lễ
khai giảng năm học thứ 45.
* Đồng chí Bun Nhăng Volachít, Uỷ viên Bộ chính trị,
Thƣờng trực Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng NDCM, phó
Chủ tịch nƣớc CHDCND Lào đến thăm trƣờng.
* Ngày 13-3-1991 Phó chủ tịch nƣớc, thƣợng tƣớng Đàm
Quang Trung đến thăm và trao tặng Huân chƣơng lao động
hạng nhì.
* Ngày 13-3-1996 Phó thủ tƣớng Nguyễn Khánh đến
thăm và trao tặng Huân chƣơng lao động hạng nhất.
* Ngày 5-9-2000 Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên
Bộ Chính trị đến dự lễ khai giảng năm học lần thứ 54.
* Ngày 5-9-2009 Phó chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Đức
Kiên đến dự lễ khai giảng và lễ trao tặng Huân Chƣơng
Hữu nghị của nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cho
trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
278
NHỮNG PHẦN THƢỞNG CAO QUÍ
Trong quá trình xây dựng và trƣởng thành, nhà trƣờng đã
nhận đƣợc nhiều bằng khen, cờ thƣởng của Thủ tƣớng
chính phủ, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung
ƣơng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục
- Đào tạo, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
* Năm 1986 đƣợc thƣởng Huân chƣơng lao động hạng
ba.
* Năm 1991 đƣợc thƣởng Huân chƣơng lao động hạng
nhì
* Năm 1996 đƣợc thƣởng Huân chƣơng lao động hạng
nhất
* Năm 2000 đƣợc chủ tịch nƣớc phong tặng danh hiệu
Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.
* Năm 2009 đƣợc tặng Huân chƣơng hữu nghị của Nhà
nƣớc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
* Năm 2005 đƣợc UBND tỉnh công nhận là Trƣờng đạt
chuẩn quốc gia - giai đoạn 2001-2010.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
279
BÍ THƢ CHI BỘ VÀ BÍ THƢ ĐẢNG UỶ
TRƢỜNG THPT LƢƠNG NGỌC QUYẾN
QUA CÁC THỜI KỲ
1 Đồng chí Trần Văn Quốc 1948 - 1949
2 Đồng chí Phạm Huy Châu 1949 - 1950
3 Đồng chí Nguyễn Kiên (học sinh) 1950 - 1951
4 Đồng chí Nguyễn Huy (học sinh) 1951 - 1952
5 Đồng chí Nguyễn Văn Đƣợc 1952 - 1953
6 Đồng chí Nguyễn Quang Ân 1960 - 1961
7 Đồng chí Nguyễn Huy Ái 1961 - 1962
8 Đồng chí Dƣơng Văn Tài 1963 - 1965
9 Đồng chí Lại Đức Thông 1965 - 1970
10 Đồng chí Phạm Khang 1970 - 1974
11 Đồng chí Lƣu Giầu 1974 - 1981
12 Đồng chí Nguyễn Vân Long 1982 - 1983
13 Đồng chí Nguyễn Đăng Kền
Bí thƣ chi bộ
Bí thƣ đảng bộ
1983 - 2002
14 Đồng chí Đồng Văn Đạt
Bí thƣ đảng bộ
2002 - 2005
15 Đồng chí Bùi Thị Loan
Bí thƣ đảng bộ
2006 - 2011
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
280
CÁC THẾ HỆ HIỆU TRƢỞNG
VÀ QUYỀN HIỆU TRƢỞNG
TRƢỜNG THPT LƢƠNG NGỌC QUYẾN (XẮP XẾP THEO TRÌNH TỰ THỜI GIAN)
1 Thầy Phạm Duy Nhƣợng 10/1946 - 3/1947
2 Thầy Dƣơng Xuân Nghiên 1947 - 1951
3 Thầy Nguyễn Văn Đƣợc 1951 - 1953
4 Thầy Nguyễn Văn Thu 1953 - 1954
5 Thầy Nguyễn Văn Hoàn 1954 - 1955
6 Thầy Chu Thế Kỳ 1955 - 1957
7 Thầy Nguyễn Đình Khâm 1957 - 1958
8 Thầy Lƣơng Vĩnh Khang 1958 - 1959
9 Thầy Nguyễn Huy Ái 1959 - 1962
10 Thầy Lại Đức Thông 1962 - 1963
11 Thầy Chu Thế Kỳ 11/1963 - 2/1964
12 Thầy Dƣơng Văn Tài 1964 - 1970
13 Thầy Bùi Quang Sang 1970 - 1974
14 Thầy Đỗ Nhƣ Hiện 1974 - 1981
15 Thầy Nguyễn Đăng Kền 1981 - 2002
16 Thầy Đồng Văn Đạt 2002 - 2005
17 Cô Bùi Thị Loan Từ 2006
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
281
CHÂN DUNG CÁC VỊ ĐÃ TỪNG LÀ HIỆU TRƢỞNG
VÀ QUYỀN HIỆU TRƢỞNG (XẮP XẾP THEO TRÌNH TỰ THỜI GIAN)
Thầy: Thầy: Thầy:
Phạm Duy Nhƣợng Dƣơng Xuân Nghiên Chu Thế Kỳ
(10/1946 – 03/1947) ( 1947 – 1951) (1955 – 1957)
Thầy: Thầy: Thầy:
Nguyễn Đình Khâm Lƣơng Vĩnh Khang Nguyễn Huy Ái
(1957 – 1958) (1958 – 1959) (1959 – 1962)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
282
Thầy: Thầy: Thầy:
Bùi Quang Sang Đỗ Nhƣ Hiện Nguyễn Đăng Kền
(1970 – 1974) (1974 – 1981) (1981 – 2002)
Thầy: Thầy: Cô :
Dƣơng Văn Tài Đồng Văn Đạt Bùi Thị Loan
(1964 – 1970) (2002 – 2005) Từ 2006
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
283
CÁC THẾ HỆ PHÓ HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LƢƠNG NGỌC QUYẾN
Theo thứ tự thời gian có các thầy cô Phó hiệu trƣởng:
1- Thầy Bùi Quang Huy
2- Thầy Hà Thế Ngữ
3- Thầy Lƣơng Vĩnh Khang
4- Thầy Nguyễn Quang Ân
5- Thầy Dƣơng Văn Tài
6- Thầy Lại Đức Thông
7- Thầy Đỗ Minh Tuấn
8- Thầy Lê Duy Sơn
9- Thầy Nguyễn Vân Long
10- Thầy Nguyễn Quang Hiền
11- Thầy Phan Tiến Dũng
12- Cô Nguyễn Thị Phơn
13- Cô Vũ Thị Thắm
14- Cô Phan Thị Yến Lan
15- Cô Trần Thị Minh Nguyệt
16- Thầy Bùi Anh Tuấn
17- Cô Bùi Thị Loan
18- Thầy Phạm Lành
19- Cô Nguyễn Thị Việt Hà
20- Cô Nguyễn Thị Phƣơng Dung
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
284
NHỮNG LƢU BÖT TRONG SỔ VÀNG
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
Đồng chí: NÔNG ĐỨC MẠNH (Chủ tịch Quốc hội)
So với lịch sử phát triển của xã hội, 45 năm chưa phải là
dài. Nhưng đối với một trường như Trường Lương Ngọc
Quyến là thử thách qua các bước thăng trầm của thời gian
kể từ khi hình thành, tồn tại và phát triển, là cái mốc đánh
dấu sự trưởng thành vượt bậc, sự nỗ lực phấn đấu không
mệt mỏi, sự kế tục các thế hệ thầy cô giáo và học sinh. Từ
mái trường này hàng ngàn học sinh đã bước vào đời, nhiều
người đã là anh hùng chiến sĩ, là những cán bộ công nhân,
nông dân, cán bộ quản lý lãnh đạo các cấp và không ít nay
là thầy cô giáo đã và đang giảng dạy ở tại trường này.
Là một trong những trường được Bác Hồ đến thăm, là
một trong những trường trung học lớn, nếu không nói là
đầu đàn của tỉnh Bắc Thái. Đã từng là trường trong nhiều
năm lên tiên tiến được tặng thưởng nhiều huân chương cao
quí.
Tôi nghĩ rằng, tự hào về truyền thống, về những thành
tựu đã đạt được, không thể không nghiêm túc nhìn thẳng
vào những thiếu sót khuyết điểm để tự khẳng định mình.
Làm được như vậy tôi tin rằng trường Lương Ngọc Quyến
sẽ mãi xứng đáng với truyền thống đã có và sẽ tạo ra
những bước tiến mới trong tương lai.
Xin gửi các đồng chí, các thầy cô giáo và toàn thể học
sinh nhà trường tự đáy lòng mình những lời chúc mừng tốt
đẹp nhất. Với tinh thần mới sẽ đạt được nhiều thành tích to
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
285
lớn hơn góp phần vào sự trồng người của địa phương và
đất nước.
30/7/1991
Chào thân ái Nông Đức Mạnh
Đồng chí: ĐÀM QUANG TRUNG (Bí thƣ TW Đảng cộng sản Việt Nam
Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nƣớc)
Nhân kỉ niệm lần thứ 45 ngày thành lập trường Phổ
thông trung học Lương Ngọc Quyến (13.3.1946-13.3.1991)
45 năm qua nhà trường đã đạt được nhiều thành tích góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo được
nhiều thế hệ nhân tài trong công cuộc bảo vệ và xây dựng
Tổ Quốc cũng như làm nghĩa vụ quốc tế.
Mong nhà trường giữ vững truyền thống tốt đẹp đã
qua, một trường điển hình tiên tiến của tỉnh, xứng đáng với
tên tuổi nhà yêu nước dân tộc Lương Ngọc Quyến – một
con người đã chiến đấu kiên cường và hy sinh cả đời mình
cho nền độc lập của nhân dân Việt Nam.
Tôi mong lại có dịp để đến chúc mừng nhà trường
đón nhận huân chương cao quí hơn nữa.
Chúc nhà trường tiếp tục phát triển theo hướng hiện
đại Đảng VI đã vạch ra và đại hội VII sắp tới về chiến lược
xây dựng và phát triển con người, chiến lược trăm năm
trồng người như Bác Hồ đã dạy.
Chào thân ái Đàm Quang Trung
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
286
Đồng chí: NGUYỄN KHÁNH (Phó chủ tich Hội đồng Bộ trƣởng)
Tôi rất vui mừng được biết trường Lương Ngọc Quyến
từ mấy chục năm nay luôn luôn giữ được truyền thống dạy
tốt, học tốt và đoàn kết nhất trí trong nhà trường.
Nhưng tự hào về truyền thống thì phải hết sức cố gắng
phát huy truyền thống, để trường Lương Ngọc Quyến có
những bước tiến bộ mới mạnh hơn nữa trong năm học mới
1990-1991 và những năm tới.
Chúc tất cả các đồng chí giáo viên, nhân viên nhà
trường mạnh khỏe, hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học mới.
5 - 9 - 1990 Nguyễn Khánh
Đồng chí: NGUYỄN BẮC SON (Bí thƣ tỉnh ủy Thái Nguyên)
Trường THPT Lương Ngọc Quyến có bề dày truyền
thống 60 năm xây dựng và trưởng thành, được Đảng và
Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý đơn vị Anh hùng
lao động trong thời kỳ đổi mới, Với sự nỗ lực phấn đấu của
tập thể giáo viên, cán bộ, công nhân viên chức và học sinh
nhà trường, tôi tin tưởng rằng sẽ tiếp tục hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Giáo dục-
Đào tạo của tỉnh nhà.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
287
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống vẻ vang của
Nhà trường, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến các thế hệ
thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công nhân viên chức và các thế
hệ học sinh của Nhà trường.
Chúc trường THPT Lương Ngọc Quyến không ngừng
phát triển mãi mãi xứng đáng với danh hiệu Anh hùng Lao
động – xứng đáng là ngôi trường được mang tên Nhà yêu
nước Lương Ngọc Quyến- xứng đáng với tầm vóc của một
trong những nhà trường được thành lập sớm nhất của nước
ta trong chế độ dân chủ nhân dân .
Ngày 13-3-2006 Nguyễn Bắc Son
Đồng chí: PHẠM XUÂN ĐƢƠNG (Bí thƣ thành ủy Thái Nguyên)
Trường THPT Lương Ngọc Quyến là nhà trường lớn
nhất ở Thái Nguyên trong bậc học phổ thông. Nhà trường
có bề dày thành tích 60 năm qua đào tạo các thế hệ học
sinh trưởng thành toàn diện trên mọi lĩnh vực phục vụ đất
nước. Ngày nay trong công cuộc đổi mới của Đảng của đất
nước, chúc nhà trường ngày càng phát triển vững mạnh
toàn diện, luôn giành được đơn vị lá cờ đầu của ngành
giáo dục đào tạo Thái Nguyên, xứng đáng với danh hiệu
anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới và trường chuẩn
quốc gia.
Phạm Xuân Đƣơng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
288
Đồng chí: BUN NHĂNG VOLACHÍT (Ủy viên Bộ Chính Trị, Thƣờng trực Ban Bí thƣ
Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào )
Tôi là Bun Nhăng Volachít - Uỷ viên Bộ Chính trị,
Thường trực Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Hôm nay tôi rất vui mừng có cơ hội cùng đoàn cán bộ cao
cấp của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đến thăm trường,
nơi tôi đã từng học trong giai đoạn 1955 – 1965.
Tôi thấy được thành tích to lớn của nhà trường đã góp
phần vào việc xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị hợp tác
giữa hai nước trong suất 45 năm qua.
Xin kính chúc nhà trường thành công rực rỡ trong sự
nghiệp đào tạo con người.
Tôi mong muốn trường tiếp tục hợp tác giúp đỡ đất
nước tôi trong sự nghiệp giáo dục cho Đảng và cho nhân
dân các bộ tộc Lào.
Cầu chúc cho nhà trường có sự phát triển đời đời bền
vững. 18 – 7 – 2007 Bun Nhăng Volachít
ĐẠI SỨ CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
TẠI VIỆT NAM
Nhân danh Đại sứ sứ nước CHDCND Lào tại Việt Nam,
tôi rất vinh hạnh đến dự lễ khai giảng năm học 1998 - 1999
tại trường PTTH Lương Ngọc Quyến, Tỉnh Thái Nguyên.
Chúng tôi rất vui mừng trước bước phát triển và không
ngừng lớn mạnh của nhà trường nhất là trong công tác dạy
và học. Đặc biệt nhà trường đã giúp đào tạo nhiều cán bộ,
học sinh Lào và hiện nay, không ít đồng chí đã ở những
cương vị lãnh đạo quan trọng của Đảng và Chính phủ Lào.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
289
Chúng tôi xin nhiệt liệt hoan nghêng và chúc mừng
những thành tích mà nhà trường đã giành được. Kính chúc
các thầy, cô giáo và các em học sinh mạnh khoẻ, bước và
năm học mới thắng lợi.
Chúc quan hệ đặc biệt Lào -Việt đời đời bền vững.
Vilayvăn Phômkhê
Ngài: BRANISLAV HRADSKY (Tuỳ viên Đại Sứ Quán Xlôvakia)
Tôi chúc năm học mới 1998 - 1999 nhiều thành tích
trong công tác sư phạm. Trường của các bạn là tượng
trương cho tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta và chúng
tôi rất mừng là các mội quan hệ hữu nghị và kết nghĩa, hợp
tác với trường học Xlovakia sẽ được tiếp tục và phát triển.
Chúc các bạn nhiều sức khoẻ và hạnh phúc !
5.9.1998 Branislav Hradsky
Ngài: VATAKA
(Đại sứ quán CHLB Séc và Xlôvakia tại Việt Nam)
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo trường
về lời mời tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập
trường phổ thông trung học Lương Ngọc Quyến. Chúng tôi
xin chúc Ban lãnh đạo trường, các thầy cô giáo và học sinh
trong những năm tới nhiều sức khỏe và thành công trong
việc thực hiện những nhiệm vụ và đào tạo thế hệ học sinh
mới. Vataka
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
290
TRANG TƢ LIỆU VỀ SỰ TRƢỞNG THÀNH
CỐNG HIẾN CỦA THẦY GIÁO VÀ HỌC SINH
TRƢỜNG THPT LƢƠNG NGỌC QUYẾN
A - THẦY TIÊU BIỂU
I. Những thầy cô giáo vinh dự đƣợc hội đồng Nhà
nƣớc phong tặng danh hiệu cao quí.
* Danh hiệu Nhà giáo nhân dân:
1- Thầy Hoàng Thiếu Sơn
2- Thầy Lê Đình Kị
3- Thầy Trịnh Trúc Lâm
* Danh hiệu Nhà giáo ƣu tú:
1. Thầy Dƣơng Xuân Nghiên
2. Thầy Nguyễn Văn Nga
3. Thầy Phan Trọng Luận
4. Thầy Bùi Kính Hùng
5. Thầy Nguyễn Đăng Kền
6. Cô Lƣu Thị Toan
II. Những thầy cô giáo đã từng tham gia công tác tại
các chiến trƣờng B; C; K. 1. Thầy Nguyễn Huy Ái
2. Thầy Lƣơng Vĩnh Khang
3. Thầy Nguyễn Tiết Long
4. Thầy Trần Ngọc Vĩnh
5. Thầy Đặng Đức Thƣởng
6. Thầy Bùi Quang Sang
7. Thầy Đỗ Minh Tuấn
8. Thầy Nguyễn Ngọc Tám
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
291
B - TRÒ TIÊU BIỂU
I - Những học sinh là Liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.
1/- Liệt sĩ: Vũ Xuân - Tốt nghiệp lớp 10 năm học 1962
- 1963, Sĩ quan QĐND Việt Nam, tác giả cuốn Nhật ký Vũ
Xuân (NXB QĐND - 2005)
2/- Liệt sĩ: Nguyễn Trọng Định - Tốt nghiệp lớp 10
năm học 1960 - 1961 nhà thơ trẻ, tác giả nhiều bài thơ hay
về quê hƣơng đất nƣớc.
Và rất nhiều học sinh Lƣơng Ngọc Quyến đã trở thành
những liệt sĩ vô danh, hy sinh trong chiến tranh giành độc
lập, tự do cho Tổ quốc.
II - Học sinh thành đạt trên mọi lĩnh vực.
* Nguyễn Đồng Thoại: Học sinh thời kháng chiến
chống Pháp, Thiếu tƣớng QĐND Việt Nam.
* Lê Ngọc Thuỷ: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Thiếu tƣớng QĐND Việt Nam.
* Đỗ Văn Phúc: Học sinh thời kháng chiến chống Pháp,
Thiếu tƣớng QĐND Việt Nam.
* Bạch Vân (bí danh, tên thật là Viên): Học sinh thời
kháng chiến chống Pháp, Thiếu tƣớng QĐND VN.
* Trần Anh Kiệt: Tốt nghiệp lớp 10 – 1959, Chủ tịch
UBND Tỉnh Quảng Ngãi
* Chu Văn Cƣờng : Tốt nghiệp lớp 10 – 1962, Phó bí
thƣ thƣờng trực Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
* Nguyễn Thị Phƣơng Thảo: Phó chủ tịch UBND
Tỉnh Thái Nguyên
* Lê Xuân Hùng : Tốt nghiệp lớp 10 – 1963, Thƣờng
vụ Tỉnh uỷ, Bí thƣ Thành uỷ Thái Nguyên.
* Nguyễn Ân: Ban thƣờng vụ tỉnh uỷ, Phó chủ tịch
UBND tỉnh Thái Nguyên.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
292
* Vũ Hồng Bắc: Ban thƣờng vụ Tỉnh uỷ, Phó chủ tịch
UBND tỉnh Thái Nguyên.
* Nguyễn Trọng Yêm: Học sinh thời kháng chiến
chống Pháp, Viện trƣởng viện Địa chất, Trung tâm KHTN-
CN quốc gia, Viện sĩ Viện hàn lâm KHTN Cộng hoà Liên
Bang Nga.
* Vũ Đình Bách: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Giáo sƣ TSKH, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao
động thời kỳ đổi mới, nguyên Hiệu trƣởng trƣờng Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
* Hà Minh Trung: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Giáo sƣ TSKH, Phó Viện trƣởng viện bảo vệ thực
vật.
* Trần Quán Anh: Tốt nghiệp lớp 9 năm học 1955 -
1956, Giáo sƣ, Tiến sĩ Y khoa.
* Phạm Văn Thục: Tốt nghiệp lớp 9 năm học 1955 -
1956, Giáo sƣ, Tiến sĩ
* Đặng Thu: Học sinh thời kháng chiến chống Pháp,
GS,TS.
* Đỗ Bá Chƣơng: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, GS,TS.
* Nghiêm Phú Ninh: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, GS, TS.
* Nguyễn Mộng Hùng: Tốt nghiệp lớp 10 - 1960,
GS,TS
* Nguyễn Tiến Nguyên: Tốt nghiệp lớp 10 - 1960, GS,
TS Viện trƣởng Viện năng lƣợng nguyên tử.
* Đỗ Bính: Học sinh thời kháng chiến chống Pháp,
Nhà giáo nhân dân, Đại tá, trƣờng Đại học an ninh.
* Nguyễn Đăng Mạnh: Học sinh thời kháng chiến
chống Pháp, GS Nhà giáo nhân dân.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
293
* Trần Phƣơng: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Nghệ sỹ nhân dân, Đạo diễn Điện ảnh.
* Nguyễn Thụ: Học sinh thời kháng chiến chống
pháp, Hoạ sỹ , Hiệu trƣởng trƣờng ĐH Mỹ thuật Hà Nội.
* Phùng Thị Nhạn: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Nghệ sỹ nhân dân.
* Nguyễn Bản: Học sinh thời kháng chiến chống
Pháp, Nhà văn.
* Vi Hồng: Tốt nghiệp lớp 10 - 1958, Nhà văn.
* Hà Đức Toàn : Tốt nghiệp lớp 10 - 1958, Nhà văn.
* Nguyễn Bình Phƣơng: Nhà văn.
III Học sinh đặc biệt xuất sắc:
* Đào Ngọc Cƣờng: Học sinh tốt nghiệp lớp 12 năm
2010, đỗ Thủ khoa kỳ thi tuyển vào trƣờng Đại học kinh tế
quốc dân, đạt điểm tuyệt đối (30 điểm) năm 2010.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
294
TRANG HỒI KÝ VÀ KÝ SỰ
CỦA CỰU GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
-------------------------------------
TRƢỜNG LƢƠNG NGỌC QUYẾN
NHỮNG NGÀY ĐẦU MỚI THÀNH LẬP
Đào Trọng Dậu
Trƣờng khai giảng vào tháng 10 năm 1946. Hôm đó, học
sinh tập hợp tại một ngôi nhà ở cuối khu phố Trƣng Vƣơng
cùng với các giáo viên tiểu học (ông Phạm Huy Châu, ông
Trần Quốc, ông Nguyễn Văn Hạ… có cả cô Mão, cô Giá).
Ông Lê Trung Đình đã long trọng cắt băng khai giảng. Ông
Phạm Duy Nhƣợng (trƣớc là Trƣởng Ty bình dân học vụ)
đƣợc cử làm hiệu trƣởng đồng thời trực tiếp giảng dạy một
số môn: văn, sử, ngoại ngữ… còn một số môn khác phải
nhờ một số cán bộ có trình độ đang công tác ở các cơ quan
khác đảm nhiệm (ông Chung ở Ty Kiểm lâm, ông Huệ ở
Ty Công chính, cụ Ký Ảnh dạy chữ Hán, tôi dạy thể dục
thể thao…). Lớp học đông vui náo nhiệt, các em phấn khởi
đến lớp đúng giờ, môn nào cũng có ngƣời phụ trách. Từ
những nơi xa, học sinh nghe tin có trƣờng trung học ở Thái
Nguyên cũng đổ về. Đây là trƣờng trung học đầu tiên của
Thái Nguyên đồng thời của cả khu I. Nó nhƣ một bó đuốc
sáng sau 80 năm trƣờng tối tăm.
Lễ khánh thành xong, chúng tôi đƣợc triệu tập tới Ủy
ban kháng chiến hành chính tỉnh để dự chiêu đãi. Phố xá
lúc ấy chƣa bị phá, nhà cửa còn khang trang, nhất là trụ sở
của Ủy ban tỉnh, trƣớc là nơi ở và làm việc của tên công sứ
Pháp, là một ngôi nhà cao tầng nguy nga tráng lệ. Chúng
tôi bƣớc theo những bậc đá vào phòng tiếp đón. Ai nấy đều
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
295
phấn chấn vui vẻ. Có ngƣời bàn tới việc chuyển trƣờng khi
cuộc kháng chiến bùng nổ. Ông Lê Trung Đình nói: "Nếu
xảy ra chiến tranh tất phải tiêu thổ kháng chiến. Trƣờng sẽ
không giải tán mà chuyển theo lòng ngƣời. Tất cả chúng ta
đều muốn đi lên, muốn tiến về phía trƣớc, muốn học hỏi để
tiếp sức cho cuộc kháng chiến…".
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhà Ủy ban bị phá
trƣớc tiên, trƣờng phải tạm nghỉ. Học sinh tản cƣ mỗi
ngƣời một nơi theo gia đình. Giáo viên chúng tôi, tùy theo
khả năng, nhiều ngƣời nhập ngũ, còn lại đƣợc bổ nhiệm về
các vùng nông thôn mở trƣờng. Tôi đƣợc cử về xã Cù Vân,
là một xã bán sơn địa thuộc huyện Đại Từ, có núi, có rừng
rậm lại gần đƣờng quốc lộ. Do địa điểm thuận lợi nên một
số cơ quan cũng sơ tán về đó: Bƣu điện khu, Khu Đoàn
thanh niên, Khu giáo dục Việt Bắc…
Tôi đƣợc phân công giảng dạy ở trƣờng tiểu học Cù Vân
đồng thời làm huấn luyện viên thể thao ở trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến. Vì trƣờng mới thành lập nên học sinh chƣa
đông. Trƣờng khi đó có 4 lớp, phải chia làm 2 lớp ghép
(lớp 5 và 6, lớp 7 và 8). Phần đông học sinh là con em các
huyện lân cận đến học nhƣ Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên…
và thêm một số con em mấy tỉnh khác. Thầy Dƣơng Xuân
Nghiên làm hiệu trƣởng kiêm dạy các môn tự nhiên, thầy
Quý dạy các môn xã hội. Sau này số học sinh tăng dần lên
số lớp và số giáo viên cũng tăng. Trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến học buổi chiều, lớp học ở trong đình. Các em học
sinh ở xa phải ăn ở tại trƣờng. Ký túc xá của trƣờng là một
kho thóc cũ, đƣợc học sinh quét dọn sạch sẽ. Giƣờng của
học sinh là những tấm gỗ ghép kại. Giáo viên và công nhân
viên của trƣờng cũng nhƣ của Khu giáo dục đều phân tán ở
nhờ nhà dân. Một số ngƣời có gia đình thì ăn riêng, số còn
lại ăn cùng với tập thể học sinh. Bếp núc do một bà giáo
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
296
quản lý, bà giáo Hiền, có thêm 2 cấp dƣỡng phục vụ. Vì
chợ Cù Vân học theo phiên (5 ngày 1 phiên), hơn nữa tiền
đóng góp cũng ít nên ăn uống của thầy trò có phần kham
khổ. Có hôm phải ăn rau tàu bay, loại cây mọc hoang, có
hôm ăn lá sắn luộc hấm muối vừng. Ấy thế mà những bữa
đầu, ăn lạ miệng ai cũng thấy bùi ngậy, tấm tắc khen ngon.
Thƣờng những lúc rỗi rãi, các em rủ nhau đi mót sắn về
nƣớng ăn thêm. Tôi còn nhớ có những buổi trƣa, cụ chủ
nhà thấy chúng tôi không có gì ăn, bèn lững thững ra vƣờn
cuốc sắn, bóc vỏ rồi đem đồ chín, khao chúng tôi. Tình dân
thật đậm đà khó quên.
Những ngày nghỉ, thầy trò chúng tôi lại tổ chức vào rừng
lấy củi. Củi khô rất nhiều, mang về bếp là đun ngay đƣợc.
Nhiều khi gặp rắn, gặp cả trăn. Nguy hiểm nhất là gặp loại
rắn xanh, chúng không to, chỉ nhỉnh hơn đầu xe điếu nhƣng
nọc của chúng độc vô cùng. May mà thầy trò chúng tôi
nhắc nhở nhau cẩn thận nên không ai bị tai nạn gì. Tuy
sống vất vả nhƣ vậy nhƣng thầy trò chúng tôi rất vui, vẫn
hát hò vang núi rừng. Những ngày sống gian khổ ấy sao mà
khó quên.
Nhịp sống của trƣờng cứ thế trôi chảy. Sáng tập thể dục,
sau là những giờ tự học hoặc lao động: trƣa ăn bữa cơm
thanh đạm, nhƣng không vắng tiếng cƣời đùa vui nhộn;
chiều lên lớp. Cuộc sống khó khăn xa gia đình, thiếu thốn
đủ thứ song các em học sinh thì vẫn hăng say học tập dù
mƣa dù nắng, dù rét mƣớt không ai vắng buổi học nào.
Đào Trọng Dậu
(Trích Một thời để nhớ - tập 2, BLL cựu HS trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến - Thái Nguyên (1955-1965)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
297
NHỚ BUỔI ĐẦU TỰU TRƢỜNG
Đỗ Bá Chƣơng
1946,
Thị xã Thái Nguyên, những ngày cuối thu, buổi sớm
sƣơng dầy đặc trên mặt sông Cầu dƣới chân cầu Gia Bẩy.
Cảnh vật thêm êm đềm đối với một thị xã miền trung du
nhƣng tình hình thời sự lại vô cùng nóng bỏng, ngay cả với
lớp trẻ chúng tôi thời ấy.
Bao sự kiện vừa xảy ra, Quân giải phóng kéo về giải
phóng thị xã rồi tiến về Thủ đô. Cụ Hồ tuyên bố độc lập,
ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên…
Lại còn bao lo âu, Nam Bộ bƣớc vào kháng chiến, thủ đô
rục rịch tản cƣ… Khiến bọn trẻ chúng tôi, tuy vui đấy,
đƣợc tập hợp, diễu hành, đƣợc hát: "Ai yêu Bác Hồ Chí
Minh…" cũng lo âu mà dỏng tai nghe câu chuyện ngƣời
lớn.
Đất nƣớc vừa thoát khỏi cảnh nô lệ, chính quyền vừa
thành lập đã ập đến bao lo toan. Bất cứ ai trong hoàn cảnh
ấy, nhìn toàn diện mới thấy cái quyết định thành lập trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến có một ý nghĩa đúng đắn,
mạnh bạo. Chúng tôi không bao giờ quên cái "ân tình" ấy
của chính quyền cách mạng. Buổi ban đầu ấy, một đời tôi
(đúng là cả đời và tôi đã về hƣu), không nhạt phai..
Từ sáng sớm, chúng tôi đã tới bãi cỏ trƣớc trƣờng -
trƣờng đƣợc thành lập nhƣ thế nào, ai đề nghị tên trƣờng,
chúng tôi không đƣợc rõ. Những khó khăn của chính quyền
tỉnh, chúng tôi cũng không biết. Nhƣng dân ở thị xã Thái
Nguyên rất đồng tình và rất ủng hộ trƣờng.
Lễ công bố quyết định thành lập trƣờng không đông,
nhƣng vui và trang trọng. Con trai, con gái chỉnh tề quần
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
298
sẫm màu, áo cộc tay trắng. Trống rong cờ mở… Chủ tịch
tỉnh là ông Lê Trung Đình đọc quyết định thành lập và
công bố tên trƣờng. Sau đó là cắt băng khai mạc, ngƣời đƣa
khay, kéo cho chủ tịch tỉnh là chị Quý, mặc áo dài rất chỉnh
tề. Sau lễ khai trƣờng là vào học ngay.
Thầy Phạm Duy Nhƣợng làm Hiệu trƣởng, không có một
nhân viên văn phòng nào. Các thầy khác đều là các công
chức thuộc các ngành trong thị xã: thầy Huệ, dạy Toán là
giám đốc Sở Lục Lộ; thầy Chung dạy Hóa làm Kiểm lâm;
thầy Ảnh dạy Hán tự (sau này có thêm thầy Nguyễn Hữu
Tảo, dạy Vật lý là thầy của ngành giáo dục).
Thầy Nhƣợng kiêm dạy nhiều môn: văn, sử, địa, tiếng
Anh, tiếng Pháp, nhạc lý.
Bài tiếng Pháp đầu tiên là bài tập đọc "L'amour de
I'humanité" mà anh Trƣơng, con trai thầy Huệ, đọc giọng
Pháp hay đến nỗi thầy cũng phải khen. Bài hình học đầu
tiên về đƣờng thẳng, nhƣng môn học là kỷ hà học, thầy có
kèm tiếng Pháp géométrie và chúng tôi phải viết thêm cả
tiếng Hán.
Bài Hán tự đầu tiên là "Nam nhi chí ƣ tứ phƣơng, Phụ nữ
tâm duy thuần nhất". Thầy gọi tôi lên bảng. Tôi ghé qua vai
thày nên chép đƣợc giáo án của thầy. Thầy khen đúng
nhƣng chữ xấu quá, chỉ có 6/10 điểm. Cả lớp ồn lên: Thƣa
thày, ở trung học cho survingt (trên 20) chứ không surdix
(trên mƣời). Thầy gật gù và anh sau, giỏi hơn tôi thì thầy
cho 8 nhƣng lại trên 20.
Tất cả đều đang dò tìm chập chững… Nhƣng bao trùm
tất cả là nhiệt tình. Thầy nhiệt tình dạy, trò nhiệt tình học
và chúng tôi rất ngoan.
Trƣờng kéo dài khoảng 2 tháng đến 19/12/1946 thì
kháng chiến toàn quốc. Trƣờng mƣợn nhà ông Trần Bá
Quán rồi lại mƣợn cả nhà thờ Thái Nguyên để có chỗ học,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
299
cuối cùng chúng tôi phải nghỉ học, theo gia đình đi tản cƣ.
Cuộc sống trôi đi. Lớp học sinh ấy đã trƣởng thành, góp
phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Bản thân
tôi, sau này đƣợc đứng trên giảng đƣờng của nhiều trƣờng
đại học, trong nƣớc và ngoài nƣớc; từng dự nhiều lần khai
giảng. Các giáo sƣ phẩm phục theo ngạch bậc và theo
ngành nghề long trọng chờ tổng thống khai giảng… cũng
không cho tôi nhiều kỷ niệm, nặng ân tình nhƣ một nghi lễ
đơn sơ, lễ trao tên cho trƣờng tôi - trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến.
Ngày 20/7/2000 (Trích Một thời...để nhớ - Sđd )
CÁI NÔI DÂN TRÍ CỦA NGƢỜI THỊ XÃ
Trần Trọng Chi
Ngày ấy, nhà tôi ở số 24 phố Bắc Kạn, trông sang "xít
ga" (hình nhƣ là cái ngôi nhà to có 6 gian để chứa ô tô lớn
nên Tây gọi thế chăng). Trƣớc nhà có cây bàng, thỉnh
thoảng hai anh em tôi lại ra chọc những quả bàng chín, ăn
rất ngon.
Bấy giờ, tôi còn bé quá, chỉ mới vừa đƣợc vào học lớp
đồng ấu (tƣơng đƣơng lớp 1 bấy giờ), tục gọi là lớp bét, ở
Trƣờng Con Giai Thái Nguyên (Tây đặt là trƣờng René
Robin), lớp thầy giáo Ân.
Tôi vẫn nhớ rõ, vào hôm ấy là buổi sáng mùa thu, trời
mát và tạnh ráo. Vào khoảng đã hơi muộn, mấy bà bạn của
mẹ tôi, nhà ở phía trong vƣờn hoa tròn te tái chạy ra nói với
mẹ tôi:
Bà có biết hôm nay tỉnh ta mở trƣờng thành chung rồi
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
300
không? Mấy ngƣời đang kéo nhau xuống dƣới Chín gian
xem đấy! (Chín gian là đoạn phố nối tiếp phố Bắc Kạn).
Các bà có vẻ mừng lắm.
Mẹ tôi bảo: "Thế là từ nay về sau, mấy đứa nhỏ không
phải về Hà Nội trọ học nhƣ bọn anh nó nữa. Giá cô Học
(tức chị gái tôi) và cô Dậu (tức chị gái bạn Nhái) nhà mình
không bị hoàn cảnh thì cũng đƣợc vào kỳ này đấy nhỉ".
(Hình nhƣ lớp này con gái chỉ có chị Mỹ, chị bạn Lƣu
Bích Hồ, chị Lƣơng Thái Hà và một số chị nữa. Con giai
hình nhƣ có anh Trạch "trấu" nhà bác xã Mùi, anh Minh
"Mộc" nhà cô giáo Xuân, anh Tinh Tú nhà ông Ngọc Đắc,
anh Hoàn, anh Hoành, anh Hội nhà bác Trƣởng Điền, anh
Đỗ An…, tôi không chắc lắm).
Sau này lớn lên, tôi mới nhận thấy rõ đƣợc những điều
sâu lắng của ngƣời lớn qua thái độ hồ hởi của các bà và qua
mấy lời nói đơn giản kia của mẹ tôi.
Cho đến tận bây giờ, đầu đã hai thứ tóc, trong tâm khảm
tôi vẫn còn khắc sâu hình ảnh yên ấm, êm đềm của cái thị
xã Thái Nguyên xinh xắn 60 năm về trƣớc.
Một cái chợ vuông vức, ba phía đông tây và nam là ba
phố nhà ngói kiểu chia lô. Riêng phía bắc có một bãi trống
hẹp cỏ dại mọc, rồi mới đến bức tƣờng rào khu "xít ga" để
ô tô.
Trong cái tỉnh lỵ bán sơn cƣớc này, hình nhƣ tất cả mọi
ngƣời đều quen biết nhau, đều là chỗ bà con thân thiết, đều
có việc này việc kia phải nhờ vả hoặc giúp đỡ lẫn nhau. Có
thể do chỗ gần nhƣ nhà nào cũng từ Thái Bình, Nam Định,
Hƣng Yên, Bắc Ninh, Hải Phòng... từ dƣới xuôi lên và có
cả Cao Bằng, Bắc Kạn từ miền núi xuống. Nhà lên sớm có
thể 80-90 năm nhƣ nhà anh Bách. Nhà vừa vừa nhƣ nhà tôi
là 45-50 năm. Sống xa quê, họ "bán anh em xa, mua láng
giềng gần", "tối lửa tắt đèn có nhau". Và cũng vì là dân
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
301
đồng bằng lên nên ngƣời ta đều rất chú trọng đến sự học
hành của con cái.
Hầu nhƣ mọi nhà có con giai, khi học hết chữ ở trƣờng
tỉnh, đều phải gửi con về Hà Nội học. Tính cả tỉnh, con số
này có lẽ lên tới hàng trăm.
Lứa đầu là những anh sinh 1920-1925 nhƣ anh Nguyên,
anh Vỹ nhà cụ nghị Ái, anh Trụ nhà cụ Ba Thung, hai anh
em Thi, Phúc con cụ đồ Lang, hai anh em Quân, Quát nhà
cụ cai Phùng (anh Quát sau này là anh rể tôi), anh Nguyên,
anh Thông, anh Phƣơng "giồ"… (tôi rất xin đƣợc các anh
đại xá vì đã dùng những tên "cúng cơm" nhƣ thế này, chỉ
cốt để chứng minh cho cái không khí đầm ấm và đặc biệt
thân thiết của những ngày ấy). Những ông học trò này có lẽ
phải đƣợc liệt vào hàng ngũ các bậc "sĩ phu" lứa đầu tiên
của tỉnh Thái Nguyên.
Rồi lứa sau (1926-1930) đến lớp các anh Nguyễn Thụ
nhà cụ bếp Tây, anh Nguyễn Ngọc Khánh nhà cụ Tƣ Phòng
(sau này là Phó Thủ tƣớng Nguyễn Khánh), anh Lộc nhà cụ
lang Vạn An, anh Bống, anh Lân, anh Cần "tù và"… (tôi bé
quá, không sao biết hết đƣợc tất cả các anh).
Một đoạn phố ngắn tẹo cạnh nhà tôi mà đã có đến sáu
ông con giai tuổi sửu, tuổi thìn và tuổi tỵ (trong đó có anh
giai tôi) cũng đều phải về Hà Nội trọ học. Khốn nỗi, tiếng
là học thành chung rồi (lớp 6, lớp7 bây giờ) nhƣng cũng chỉ
mới 15, 16 tuổi đầu. Vì vậy, các bậc cha mẹ thƣờng phải
cắt lƣợt nhau đi Hà Nội xem mấy ông con ăn ở học hành ra
sao. Cái năm Ất Dậu đúng thời đói kém còn thêm biết bao
điều lo âu khác. Lúc chiến sự xảy ra ở Hà Nội, có anh lên
sớm, anh lên muộn, các bậc cha mẹ cứ nháo cả lên…
Bởi thế cho nên, có chỗ để cho con em mình học lên, thì
sự vui mừng của mọi ngƣời dân thị xã là điều dễ hiểu và
thật đáng trân trọng. Từ đây, trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
302
trở thành cái nôi dân trí bậc cao đầu tiên của ngƣời thị xã
và của cả tỉnh Thái Nguyên.
Và thầy Hiệu trƣởng đầu tiên của cái lớp đầu tiên ở cái
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến năm 1946 ấy là thầy Phạm Duy
Nhƣợng, anh ruột nhạc sỹ Phạm Duy - ngƣời đã viết bài
"Nhạc tuổi xanh" rất nổi tiếng trong những năm đầu cách
mạng.
Thế rồi, chỉ vài tháng sau, kháng chiến. Các ông con giai
Thái Nguyên trở thành tự vệ, suốt ngày đi phá nhà, tiêu thổ
kháng chiến. Thị xã tan hoang. Mọi ngƣời đều rời nhà đi
tản cƣ.
Đến khoảng năm 50 - 51, lần đầu tiên, tôi đƣợc gặp thầy
Phạm Duy Nhƣợng. Khi đó, thầy không còn dạy học nữa,
mà mang cây đàn ghi-ta đến dạy chúng tôi hát. Thầy dạy
bài "Trƣờng chinh ca" của nhạc sĩ Lƣơng Ngọc Trác, hát 2
bè. Đến nay mình đã già gấp rƣỡi tuổi thầy ngày ấy rồi mà
vẫn có thể dạy cho ngƣời khác hát 2 bè bài hát này một
cách ngon lành, không quên.
Năm 1950, học hết lớp nhất (tƣơng đƣơng lớp 4 bây giờ)
của thầy Cao Duy Chính ở Tân Cƣơng, chúng tôi háo hức
chuẩn bị xuống Quyên để vào học đệ nhất trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến. Một trong số các anh học viên trƣờng Lục
quân khóa 4 (trƣờng đóng tại Tân Cƣơng từ ngày khai
giảng đến ngày bế giảng) rất cƣng chiều tôi và anh Cung
Văn Ngài đã viết sẵn cho tôi lá thƣ giới thiệu gửi cho ngƣời
bạn của anh là thầy giáo Nguyễn Lân (tôi nghĩ có thể là
thầy Nguyễn Tƣờng Lân chăng?). Sau này, tôi đƣợc nghe
nói lại, anh Ngài đã hy sinh sau ngày tốt nghiệp trƣờng Lục
quân đƣợc 2,3 năm. (Chao ôi, hồn anh giờ ở đâu xin hãy về
nhận lấy tình thƣơng nhớ anh vô hạn của đứa em bé bỏng!).
Chừng một tháng sau, ông bà luật sƣ Đinh Thúc Giang -
Tô Ái Trinh đứng ra mở trƣờng tƣ thục ở ngay Tân Cƣơng,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
303
chúng tôi không về Quyên nữa, nên mãi năm 1953 tôi mới
đƣợc chính thức trở thành học sinh của trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến, khi trƣờng chuyển từ Phƣơng Độ lên Tân Cƣơng
sáp nhập với trƣờng Ngô Quyền của cụ Bùi Quang Huy.
Những ngày Tân Cƣơng năm ấy đã để lại trong mỗi
ngƣời chúng ta biết bao kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò:
học đêm, chân chẳng dép chẳng giầy, hai đứa chung nhau
một ngọn đèn dầu hỏa làm từ vỏ hộp thuốc "camin" xanh
xanh, cƣa hai đầu cái "xơranh" cũ chụp lên làm bóng đèn.
Rồi làm báo lớp, báo tƣờng, kẻ khẩu hiệu, múa hát, đốt lửa
trại. Rồi đi dân công đắp đƣờng, thầy Uyên suýt bị trôi
sông… Rồi đón tin chiến thắng Điện Biên Phủ, đón ông
Tổng bí thƣ Trƣờng Chinh về thăm…
Nhƣng ấn tƣợng sâu nặng nhất trong tôi có lẽ vẫn là mấy
ngày đầu năm 1954, cả trƣờng sôi động tiễn ngƣời ra trận.
Những ngƣời ra đi sao mà hiên ngang, hùng dũng thế! Họ
xếp hàng ba, rời sân trƣờng đi về phía núi Guộc. Cả trƣờng
đứng tần ngần dõi theo. Anh Viên, bí thƣ chi đoàn thanh
niên trƣờng (nghe anh Hoằng nói sau này là thiếu tƣớng
tình báo, lấy tên là Bạch Vân) đi sau cùng, lên hết dốc Ba
Hạng, còn giơ tay vẫy. Nhiều chị rút khăn lau nƣớc mắt.
Đúng là "ngƣời ra đi đầu không ngoảnh lại" ("Đất nƣớc" -
Nguyễn Đình Thi). Hoành tráng vô cùng!
Trong số này có Hỷ, Tài, Tại, Đức Minh, bốn đứa vừa gỡ
khỏi vai bốn chiến khăng quàng đỏ! Trần Đình Hỷ có nụ
cƣời hiền từ, nhe cái răng khểnh rất dễ thƣơng. Nhà anh ở
bên Bình Định, gia cảnh rất khó khăn, nhƣng luôn đứng
đầu lớp về mọi mặt. Anh là học sinh gƣơng mẫu số 1 của
toàn khu Việt Bắc năm lớp 7.
Tài, Tại là tác giả bài Đội ca rất đƣợc yêu thích, bài hát
chính thức của đội thiếu nhi Tháng Tám trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến cho đến nay vẫn còn đƣợc các "cụ" thiếu nhi
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
304
hát say sƣa mỗi khi có dịp gặp nhau. Trƣớc ngày ra đi ít
lâu, Tại và Tài còn sáng tác một bài hát khá hay, hình nhƣ
bài "Tung cờ đón chim bồ câu khắp nơi bay về…". Bài này
chắc các bạn Bích Thu, Lê Thị Loan, Dƣơng Thị Mai,
Dƣơng Thúy Chi, các anh chị phụ trách Lê Thị Tiệp, Vũ
Thanh nhớ rõ hơn tôi.
Sau này Tài vào Nam chiến đấu bị thƣơng rất nặng,
tƣởng đã chết nên dân làng đem chôn. Đến phút chót lại
bỗng có ngƣời phát hiện thấy xác này còn thở, anh mới
đƣợc cứu sống. Hỷ, Tài đều đã mất cách đây 10 năm vì
bệnh hiểm nghèo.
Năm 1955, trƣờng rời Tân Cƣơng để về lại thị xã Thái
Nguyên. Tôi lên lớp 9, mới đầu trọ phía gần "Nhà Bò",
cùng với Phạm Hồng Cự. Gần đấy là "pôpốt" của Thịnh,
Phú, Thể cùng lớp, mới từ trên ngƣợc chuyển về. Bên kia
đƣờng là nhà bà thuốc lá Việt Hoa, có bé Tuyết học sau
chúng tôi 2,3 lớp, trông kháu đáo để, anh nào cũng lấm lét.
Rồi chúng tôi chuyển vào xóm trong, cùng ở với Tô Phi
Hổ, Nguyễn Văn Hiệt. Đến khi có học sinh miền Nam tập
kết ra thì đón thêm Nguyễn Văn Giai (ngƣời Quảng Ngãi)
về ở cùng. Nhà hàng xóm có cô bé làm ruộng, mắt lá dăm
đen lay láy, lông mày lá liễu, nhìn vào thấy đắm đuối.
Bữa cơm của chúng tôi chỉ toàn rau muống, cà chua, cá
mắm và rất nhiều muối ớt.
Lúc này, trƣờng vẫn còn nghèo lắm. Nhà cửa chỉ toàn tre
nứa. Các gian lớp học chỉ thuê thợ cƣa đục dựng lên cái
khung, còn lại học trò phải tự hoàn thiện. Ôi nhớ xiết bao
những ngày cùng nhau xe đất đắp nền, buộc dứng, trộn rơm
trát vách trên quả đồi "bổ túc công nông". Lúc kê xong loạt
bàn gỗ ghế băng vào lớp mới, thấy sƣớng đến mấy tuần
liền. (Hồi ở Tân Cƣơng chỉ có bàn tre, ghế bằng thân gỗ
bắc trên 2 cọc có chạc. Tôi ngồi cùng bàn cuối lớp với anh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
305
Trần Quán Anh, chị Kim Sa, chị Ninh Hải, sau mỗi tối học,
mông đau nhừ).
Chúng tôi không hề đƣợc biết đến bất cứ một thí nghiệm
lý hóa nào, một mẫu đá quặng hay bộ xƣơng động vật nào.
Tất cả là "chay tịnh"! Chƣa có cả thƣ viện. Các thầy
Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Văn Uyên, Lƣơng Vĩnh Khang,
Lê Đình Kỵ, Hoàng Ngọc Hiến, cô Nguyễn Thị Hồng…
đều phải "diễn nôm" thay cho tất cả các thứ phòng thí
nghiệm và thƣ viện ấy.
Đến đầu năm 1956, trƣờng mới bắt đầu xây ngôi nhà
gạch nho nhỏ một tầng đầu tiên làm phòng thí nghiệm. Oai
lắm!
Nhà chƣa xây xong thì mấy đứa lớp 9 đƣợc trƣờng chọn
đi Hà Nội chỉnh huấn để đi học nƣớc ngoài, trong đó có
Phạm Minh Hoằng, Đỗ Thanh Quả, Trần Sỹ Sinh (cả hai
đều đã mất đầu năm 2004), có Nguyễn Văn Giai, Võ
Thuộc, Đỗ Thanh Quả, Nguyễn Khanh (học sinh miền
Nam. Anh Khanh sau khi đỗ bác sĩ ở Matxcơva đã về Nam
chiến đấu và hi sinh ở chiến trƣờng), có Nguyễn Nha, Chử
Văn Tần và tôi.
Và cũng chẳng ngờ rằng, từ cảnh học chay dƣới những
ngọn đèn dầu leo lét, chân đi đất, trƣờng sở nứa lá tranh tre,
chỉ vài tháng sau, mấy anh em chúng tôi đã đƣợc bƣớc qua
cửa quay 4 để vào học trƣờng đại học Tổng hợp
Lômônôxốp ở thủ đô nƣớc Nga cao ba chục tầng, chiếm
trọn ngọn đồi Lênin rộng hàng trăm hécta, nơi có những
giảng đƣờng, những phòng thí nghiệm lý hóa hết sức hiện
đại, những bảo tàng sinh vật và địa chất hết sức phong phú.
Còn hơn cả nằm mơ!
Mới đó mà đã hơn nửa thế kỷ, sắp qua một đời ngƣời!
Lứa "sĩ phu" đầu tiên của Thái Nguyên, ngƣời đi lính
đánh giặc, ngƣời làm Phó thủ tƣớng, ngƣời làm thợ may,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
306
thợ chữa xe đạp nhì nhằng. Ngƣời trở thành giáo sƣ, họa sĩ,
nghệ sĩ nhân dân, nổi danh khắp nƣớc (nhƣ họa sĩ Nguyễn
Thụ, nguyên Hiệu trƣởng trƣờng Mỹ thuật Yết Kiêu Hà
Nội, ngƣời vẽ tranh lụa đẹp nhất Việt Nam, sau Nguyễn
Phan Chánh; nhƣ Nghệ sĩ Nhân dân Trần Phƣơng, chú tôi,
ngƣời đóng vai A Phủ trong phim "Vợ chồng A Phủ", vai
Vũ Khiêm trong "Tiền tuyến gọi" của Trần Quán Anh).
Một số anh, chị nay đã thành ngƣời thiên cổ, trong đó có
anh giai và chị gái tôi.
Lớp sinh sau 1935, hầu hết đều là học sinh trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến. Cả đến thế hệ con cái họ, cháu chắt họ, nhiều
ngƣời cũng từ nơi này tỏa đi làm ăn sinh sống khắp nơi: Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… sang cả châu Âu, châu Phi.
Có ngƣời trở thành Nhà giáo Nhân dân nhƣ anh Đỗ Bính
(đã mất cách đây vài năm). Có ngƣời là giáo sƣ, tiến sĩ
khoa học nhƣ các anh Vũ Đình Bách (Anh hùng lao động,
nguyên Hiệu trƣởng trƣờng ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội),
Hà Minh Trung, Trần Quán Anh, Phạm Văn Thục… Nhiều
tiến sĩ, phó giáo sƣ, nhà lãnh đạo, nhà bán quán, nhà
thƣờng dân, nhà giáo, nhà báo, nhà xe ôm, kỹ sƣ, bác sĩ,
nhà văn, nhà nông dân, nhà doanh nghiệp, nhà cán bộ, nhà
Việt kiều… đã trƣởng thành từ mái trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến.
Nhƣng dù ở đâu, làm nghề gì, dù sự giàu nghèo sang hèn
trong xã hội có ít nhiều khác nhau, dù gặp may nhiều hay ít
trong cuộc đời, thì tôi vẫn tin rằng, tuyệt đại đa số các học
trò cũ đã "không hề làm ô danh trƣờng" nhƣ lời thầy Hiệu
trƣởng trƣờng Ngô Quyền Bùi Quang Huy từng căn dặn từ
những ngày còn ở Tân Cƣơng.
Ngày nay, Thái Nguyên đã đƣợc mở mang hơn trƣớc rất
nhiều. Thành phố đã trở thành một trong những trung tâm
đào tạo đại học lớn của cả nƣớc. Nhƣng cái ngọn lửa dân trí
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
307
đƣợc nhen lên từ những ngày đầu tiên của mùa thu cách
mạng năm 1946 ấy vẫn có cái thi vị riêng, vẫn có một chỗ
đứng riêng, một giá trị lịch sử riêng, đặc biệt là đối với
những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở cái thị xã miền sơn
cƣớc êm đềm và bé nhỏ.
Và chắc chắn rằng, mỗi một ngƣời trong chúng ta vẫn có
chung một nơi chốn để nhớ về, một khung cảnh, một đội
ngũ các bạn bè thân thiết qua một thời ấu thơ đầy vô tƣ và
khờ dại, để yêu quý nhau, để nghĩ đẹp và tự hào về nhau,
cho đến tận khi đành phải nhắm mắt xuôi tay để về theo
ông bà, tiên tổ.
Những tình cảm đó, có phải chăng, là một nguồn lực tinh
thần vô giá.
Nó vẫn luôn tiếp thêm sức mạnh cho mỗi ngƣời học trò
cũ trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến của cái tỉnh lẻ Thái Nguyên
thủ đô kháng chiến đầy gian khổ và đáng yêu này.
Những tình cảm thật sáng trong và cao quý, mà không
một điều gì có thể thay thế đƣợc.
Làng Bồ Đề, Gia Lâm
Đêm 26 tháng 9 năm 2005 Trần Trọng Chi (Trích Một thời để nhớ - tập 2, Sđd)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
308
THỦA BAN ĐẦU CỦA TRƢỜNG TRUNG HỌC
Ở CÙ VÂN
Dƣơng Xuân Nghiên
Thầy Dƣơng Xuân Nghiên sinh ngày 4 – 5 - 1924. Đậu bằng
Toán đại cƣơng rồi học Ban kỹ sƣ công chính (Trƣờng cao đẳng
công chính) 1947 – 1951: Hiệu trƣởng trƣơng trung học Lƣơng
Ngọc Quyến; 1951 - 1952: Trƣởng ty giáo dục Thái Nguyên; 1952
- 1956: Hiệu trƣởng các trƣờng học sinh Việt nam ở Nam Ninh (
Trung Quốc ); 1959 – 1961: Trƣởng Ty giáo dục Hà Đông; 1961 -
1974: Công tác ở Bộ giáo dục; vụ trƣởng vụ tổ chức cán bộ, cục
trƣởng cục đào tạo bồi dƣỡng, Trƣởng ban thanh tra; 1975 -
1986: Chủ tịch Công đoàn giáo dục Việt Nam, mất năm 1999.
Mùa xuân năm 1947, Phú Thọ nhộn nhịp và đông vui.
Các cơ quan, trƣờng học từ Hà Nội tản cƣ lên sau ngày 19-
12, ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp. Chợ
búa đầy ắp ngƣời và hàng hoá. Cán bộ, bộ đội, sinh viên đi
lại tấp nập. Giữa dòng ngƣời đó, tôi tình cờ gặp thầy giáo
cũ tôi, thầy Nguỵ Nhƣ Kon Tum lúc đó là giám đốc Nha
Trung học vụ. Thầy khuyên tôi đến Bộ quốc gia Giáo dục
nhận công tác. Ngay ngày hôm sau, tôi đƣợc ông Nguyễn
Văn Huyên, Bộ trƣởng tiếp. Trái với nguyện vọng của tôi
muốn đƣợc công tác ở Phú Thọ để gần bạn bè, gần thầy cũ
và biết bao ngƣời quen…Bộ trƣởng giao nhiệm vụ cho tôi
sang Thái Nguyên, thuộc Khu I lúc đó, xây dựng cơ sở
trƣờng Trung học- Đến nay tôi vẫn còn nhớ lời ân cần chỉ
dẫn của Bộ trƣởng và tôi đã nhận nhiệm vụ một cách rất
thoải mái, không chút đắn đo, mặc dầu tôi chả hiểu Khu I là
gì, càng chƣa hề biết Thái Nguyên là gì cả.
Cho đến tận bây giờ cứ mỗi lần có việc lên Thái
Nguyên, khi xe ô tô bắt đầu đi vào huyện Đa Phúc, thẳng
đƣờng số 3 lên thành phố Thái Nguyên, là trong lòng tôi
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
309
dâng lên một cảm giác bâng khuâng, hồi hộp lạ thƣờng.
Nhớ khi tôi “thồ hòm xiểng” bằng chiếc xe đạp cũ, với
ngƣời vợ đi sau, trên mặt đƣờng đào hố chi chít để chống
xe cơ giới của giặc Pháp. Trƣớc mặt tôi dần dần đồi núi
hiện lên, và rồi đến các khu rừng, cỏ lau mọc cao vút, rừng
nứa dày đặc, ngọn cây rủ cả xuống đƣờng. Lần đầu tiên tôi
thấy rừng sát ngay đƣờng cái nên không khỏi băn khoăn, e
ngại…Nhƣng với khí thế kháng chiến đang bốc lên cuồn
cuộn của cả nƣớc, chúng tôi thẳng bƣớc tiến tới, không ngờ
rằng mình sẽ đƣợc làm một việc lớn rất ý nghĩa sau này,
một việc làm quyết định cả hƣớng đi trong suốt cuộc đời
mình.
Tôi đến Sở giáo dục khu I và đƣợc ông Giám đốc tiếp.
Gọi là Sở nhƣng đó là một căn nhà ở rìa cánh đồng làng
Cù Vân. Giám đốc là thầy Nguyễn Hữu Tảo, sau này về
làm chủ nhiệm khoa Tâm lý giáo dục trƣờng Đại học sƣ
phạm. Sở chỉ có 3-4 cán bộ, trong đó thầy Đỗ Ngọc là
thanh tra Tiểu học, một nhân viên văn phòng, một nhân
viên kế toán và 1 cấp dƣỡng.
Tôi nhận nhiệm vụ tổ chức trƣờng Trung học của Thái
Nguyên cùng với anh Nguyễn Văn Quý, một sinh viên
trƣờng Luật, anh Dậu, một huấn luyện viên thể dục
BSEPIC. Trƣờng sở là đình làng Cù Vân, bàn ghế dùng
chung với trƣờng Tiểu học sở tại.
Ngày ngày anh em họp bàn những công việc cần thiết,
chia nhau đi sƣu tầm sách giáo khoa ở một vài nhà ở thị xã
Thái Nguyên, đi mua phấn, mua giấy, bút mực…, phân
công tôi làm Hiệu trƣởng dạy các môn khoa học tự nhiên từ
năm thứ 1 đến năm thứ 4 Trung học, anh Quý dạy tất cả bộ
môn xã hội, còn anh Dậu dạy thể dục…
Chờ mòn mắt chả thấy học sinh nào đến học, chúng tôi
ngày ngày vào rừng kiếm củi, nấu ăn…nuôi hy vọng sẽ có
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
310
học sinh đến học. Hàng tháng trôi qua mà học sinh thì
không có. Thỉnh thoảng một vài bạn cùng học Đại học đi
bộ đội đến thăm tôi, quần áo Kaki, dày bốt, súng nặng bên
hông. Tôi chạnh lòng so sánh, suy nghĩ, mình cứ “ăn chực
nằm chờ” thế này, biết bao giờ có học sinh. Trong lúc Tổ
quốc lâm nguy, nhƣ vậy có xứng danh nam nhi thời chiến
không? Trong lòng tôi đã nhú lên ý định xin đổi công tác,
chớ mãi không chịu nổi…
Thế rồi bỗng nhiên một buổi chiều, pin.. pin… một chiếc
xe ô tô tải đỗ xịch ven đƣờng. Hai chú bé nhảy xuống, tay
xách cặp, lƣng đeo ba lô…ngơ ngác hỏi đến trƣờng – Đó là
em Hoàn, em Lƣơng…cho đến tận giờ tôi vẫn nhớ tên. Chả
là hai em có anh ở một đơn vị bộ đội gần đó, nghe tin có
trƣờng Trung học mở ở Cù Vân nên tiện xe theo đến.
Cả trƣờng nhộn nhịp đón hai em. Ngƣời lo nấu cơm ngay
cho các em ăn. Ngƣời lo thu xếp chỗ nghỉ. Rồi xúm quanh
hai em hỏi han, tìm hiểu…Sáng sớm hôm sau, anh Dậu đã
thức các em dậy sớm tập thể dục, rồi sau đó rửa mặt, ăn
sáng…Chúng tôi cứ rối rít nhƣ là đã có hàng trăm, hàng
nghìn học đến học ấy.
Từ khi hai em đến, dần dần một số em khác nghe tin
cũng kéo đến. Đó là em San, em Sán con một gia đình tản
cƣ lên gần trƣờng, em Chƣơng con một ông giáo ở gần đấy,
mấy em ở Từ Sơn tản cƣ lên rồi mấy em nữ: em Ngọc, em
Ngà, em Sử rủ nhau đến xin học…Trƣờng học đã “hòm
hòm” đƣợc hơn 30 em chia làm 4 lớp, học làm 2 ca. Vì chỉ
có 2 buồng học. Đình Cù Vân bắt đầu vang lên những tiếng
nói xa lạ của các bộ môn khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên lại thêm những tiếng Pháp do anh Quý kiêm
dạy…xen lẫn là những hồi còi tập thể dục của anh Dậu.
Hình dáng các cô cậu học sinh trung học, những tiếng nô
đùa ồn ào ngoài giờ học đã thu hút sự chú ý của nhân dân,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
311
bộ đội qua lại…
Hồi đó trƣờng trực tiếp đƣợc sự chỉ đạo của khu giáo
dục, vì ở tỉnh chỉ có Ty thanh tra Tiểu học và Ty Bình dân
học vụ. vì vậy mà chúng tôi có nhiều kỷ niệm sâu sắc về
từng ông giám đốc. ông Nguyễn Hữu Tảo nổi tiếng là cần
kiệm, liêm khiết, Ông Hoàng Ngọc Phách nhƣ một văn
nhân, ông cƣỡi ngựa khi đi kiểm tra, thăm các cơ sở. Ông
Nguyễn Lân nổi tiếng là ngƣời chính trực, rất chú ý đến
việc viết đúng chính tả, ông đã cùng với tôi biên tập tài liệu
rèn cán chỉnh cơ dùng để nghiên cứu trong các trƣờng học
cơ quan giáo dục trong liên khu Việt Bắc. Nhiều lần ông
nói với tôi rằng ông rất tiếc không còn lƣu lại tài liệu này.
Mãi sau khi thành lập Ty giáo dục ở tỉnh, trƣờng mới
đƣợc Ty trực tiếp chỉ đạo theo sự phân cấp của khu.
TRONG TÔI THẦY NHƢỢNG, THẦY NGHIÊN
Trịnh Hổ - Trịnh Hải
Thầy Phạm Duy Nhƣợng sinh năm 1919 - tốt nghiệp trƣờng sƣ
phạm, dạy học ở Hƣng Yên, Thái Nguyên; 1946 - 1947: Hiệu
trƣởng trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến thị xã Thái Nguyên.
Cuối năm 1946, Hà Nội đầy lính viễn chính Pháp hung
hăng khiêu khích. Ngƣời Hà Nội một mặt khẩn trƣơng
chuẩn bị chiến đấu, một mặt tản cƣ các gia đình. Gia đình
tôi chọn hƣớng Thái Nguyên. Thế là từ một học sinh Lycée
Gia Long (Hà Nội), tôi trở thành học sinh trƣờng trung học
Lƣơng Ngọc Quyến, mà chẳng biết Lƣơng Ngọc Quyến là
ai. Gọi là trƣờng trung học nhƣng chỉ có một lớp đệ Nhất.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
312
Đó là một ngôi nhà lợp rạ ở phía bên phải cửa vào nhà thờ
thiên chúa giáo tại làng Đồng Mỗ, mới từ thị xã Thái
Nguyên chuyển về tránh máy bay Pháp oanh tạc. Khác với
trƣờng cũ ở Hà Nội, ở đây có nhiều môn chỉ do một thầy
dạy: Thầy Phạm Duy Nhƣợng. Thầy vừa là giáo viên chủ
nhiệm, vừa là hiệu trƣởng. Từ Toán, Anh văn, Pháp văn,
Nhạc, Họa… thầy dạy môn nào cũng dễ hiểu, lại vui nữa.
Quên sao đƣợc những lời dí dỏm để lại nụ cƣời trên khóe
miệng hơi lệch của thầy! Cuối buổi học nào, thầy cũng dạy
chúng tôi những bài hát do thầy mới sáng tác từ khi cách
mạng thành công. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ.
Chiến tranh đã có dấu hiệu lan đến Thái Nguyên. Thầy
Nhƣợng hƣởng ứng cuộc kháng chiến bằng cách hàng ngày
huy động cả lớp chúng tôi xếp hàng đôi theo thày diễu qua
các phố chính của thị xã Thái Nguyên, vừa đi vừa hát vang
những bài hành khúc. Có những bài nay tôi chỉ còn nhớ
lõm bõm đôi câu, nhƣ:
"Nào bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành…"
Đến khi thị xã Thái Nguyên tiêu thổ kháng chiến, triệt
để tản cƣ, thầy trò chúng tôi mỗi ngƣời mỗi ngả. Thầy
chuyển sang công tác thông tin văn nghệ. Đám chúng tôi,
một số xin theo thầy Nguyễn Hữu Tảo làm danh sách đi
học ở Cù Vân, một số đi bộ đội, số còn lại theo gia đình
chuyển đi nơi khác tiếp tục cuộc kháng chiến, trong đó có
tôi theo bố lên tận Cao Bằng. Kháng chiến thành công, tôi
về công tác ở Báo Nhân dân một thời gian khá dài nhƣng ít
gặp đƣợc bạn học cũ. Mãi đến năm 1992, đám đệ Nhất
ngày ấy của chúng tôi khoảng 10 ngƣời có mặt tại Hà Nội
mới có dịp gặp nhau. Chúng tôi tuổi đã trên dƣới 60, gặp
lại sao mà vui, mà cảm động, nhắc lại kỉ niệm xƣa. Bạn học
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
313
gái nay chỉ còn Lƣơng Thái Hà và Lƣu Khánh Mỹ. Chúng
tôi mời đƣợc cả cụ Lê Trung Đình, nguyên là Chủ tịch ủy
ban hành chính tỉnh Thái Nguyên, ngƣời khai sinh Trƣờng
trung học Lƣơng Ngọc Quyến và anh Nguyễn Khánh,
nguyên cán bộ phụ trách thanh niên của tỉnh, lúc này là Phó
Thủ tƣớng Chính phủ, đến sự. Anh đến với tƣ cách cán bộ
cũ, lại là chồng của Lƣu Khánh Mỹ. Anh kể rằng suốt 80
năm nô lệ, cả thị xã Thái Nguyên chỉ có hai trƣờng tiểu
học. Bản thân anh muốn học lên bậc trung học phải về Hà
Nội. Nhân dân Thái Nguyên rất phấn khởi trƣớc việc tỉnh
"đồng rừng" của mình đã có trƣờng trung học cho con em,
càng thấm thía về giá trị của nền độc lập. Cụ Lê Trung
Đình cho biết, đƣợc phép mở trƣờng học, Ủy ban tỉnh mời
thầy Phạm Duy Nhƣợng làm hiệu trƣởng. Chính thầy
Nhƣợng đề nghị lấy tên trƣờng là Trƣờng trung học Lƣơng
Ngọc Quyến. Cho tới nay qua 55 năm xây dựng và phát
triển, trƣờng vẫn giữ tên gọi này. Có điều kiện sƣu tầm tài
liệu, biết thân thế và sự nghiệp của nhà yêu nƣớc Lƣơng
Ngọc Quyến, tôi rất khâm phục sự hiểu biết của thày
Nhƣợng về tỉnh Thái Nguyên, đã đề nghị gắn tên tuổi của
ngƣời lãnh tụ tinh thần của cuộc khởi nghĩa năm 1917 cho
trƣờng trung học đầu tiên của tỉnh một thời đƣợc mang bí
danh Đội Cấn.
Cho đến nay, có lẽ nhiều bạn học của tôi thời kỳ trƣờng
đóng ở Phƣơng Độ, Úc Kỳ không thể biết ngày đó sách
giáo khoa cho các bạn mua dùng, là ở đâu ra. Xin thƣa:
Sách giáo khoa in bằng nét chữ mực tím và các giấy khen,
học bạ của trƣờng in bằng mực đen là do tôi, chính xác hơn
là do hai anh em tôi in đấy. Nay tôi vô cùng vui mừng đƣợc
thấy lại nét chữ của anh tôi là Trịnh Long (đã quá cố từ
năm 1974) trên tờ giấy khen của bạn Bùi Bích San (đệ Nhị
B) do thầy hiệu trƣởng Dƣơng Xuân Nghiên ký từ năm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
314
1948, nhờ dịp chúng ta cùng đóng góp công sức, tƣ liệu để
làm cuốn sách thân thƣơng này. Anh tôi viết và vẽ khá đẹp.
Viết bằng nét chữ trái trên mặt đá để in, gọi là in li-tô. Anh
viết song, tôi in. Còn sách giáo khoa, chúng tôi viết bằng
mực tím, in trên đất sét, gọi là in đất.
Gia đình tôi rời Hà Nội tản cƣ tƣơng đối muộn, hầu nhƣ
bỏ lại toàn bộ tài sản, lại không quen buôn bán, cho nên bị
sa vào cảnh nghèo khó một cách đột ngột. Tôi may mắn
đƣợc vào học ở Phƣơng Độ là nhờ có sự cƣu mang của thầy
Dƣơng Xuân Nghiên. Ngày ấy gia đình tôi tản cƣ về làng
Phƣơng Sơn La, cách Phƣơng Độ chừng 5 - 6km. Sở Bình
dân học vụ Liên khu I, nơi cha tôi công tác đóng ở đó. Ông
Phó giám đốc Sở thông cảm với gia đình tôi, trong một
cuộc họp liên tịch, nói với thầy Nghiên cho anh em tôi
đƣợc học. Đầu tiên, tôi vào học theo chế độ "bàng thính
viên", nghĩa là chỉ đƣợc dự nghe giảng. Do sự cố gắng của
tôi, sau một thời gian, thầy chủ nhiệm là Dƣơng Xuân Hảo
có nhận xét tốt, tôi đƣợc chuyển vào học chính thức. Biết
anh em tôi có khả năng, thầy Nghiên tổ chức các thầy giáo
biên soạn tài liệu giảng dạy rồi giao cho anh em tôi in thành
sách giáo khoa, nhằm dáp ứng nhu cầu cho học sinh. Cũng
nhờ vậy chúng tôi có tiền để ăn học, đồng thời lại có tủ
sách giáo khoa nhƣ các bạn khác. Từ đó chúng tôi trở thành
cơ sở in ấn loạt của trƣờng.
Dƣới tôi còn 3 em nữa ở bậc tiểu học. Để bớt gánh nặng
cho cha mẹ tôi, chúng tôi xin thầy Nghiên cho làm việc ở
văn phòng (khi đó trƣờng đã chuyển về Quyên), giúp chúng
tôi đƣa hai em trai nhỏ lên cùng, nuôi cho chúng ăn học.
Thầy Nghiên cũng nhận lời, giao cho anh tôi làm Trƣờng
phòng hành chính, còn tôi làm nhân viên. Nhƣng vì tôi
chƣa đủ tuổi, phải ăn lƣơng dƣới cái tên trong sổ là Dƣơng
Văn Thƣờng, một nhân viên mới thôi việc. Thế là chúng tôi
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
315
có điều kiện vừa làm việc vừa tự học. Thầy Nghiên ở nhà
ông Chánh Bẹ, thôn Đồng Trầu. Thầy lại bảo anh em chúng
tôi về ở cùng để có điều kiện giúp đỡ thêm anh em chúng
tôi. Sống gần thầy, gƣơng làm việc nghiêm túc, sống trung
thực, giản dị và giầu lòng nhân ái của thầy ảnh hƣởng sâu
sắc đến sự trƣởng thành của tôi sau này. Ngay cả khi tôi về
hƣu, vẫn đƣợc sự quan tâm, động viên của thầy. Giữa năm
1999, tôi đƣợc Nhà nƣớc tặng thƣởng Huân chƣơng Lao
động hạng Nhì. Thật bất ngờ, thầy xem báo biết tin, lại là
ngƣời đầu tiên gọi điện thoại chúc mừng tôi.
Cuối tháng 10/1999, đƣợc tin thầy ốm nằm trong bệnh
viện Hữu Nghị, tôi rủ Nguyễn Sơn Giang vào thăm thầy.
Thầy còn chuyện trò vui vẻ và cho biết năm tới thầy tròn
80 tuổi. Thầy kể các bệnh nhân cùng phòng "tị" là thầy
đƣợc nhiều học trò luôn luôn đến thăm, sƣớng chẳng ai
bằng. Tôi đã mừng lắm thấy thầy sắc thái hồng hào, nhanh
nhẹn. Chúng tôi đều cùng ý nghĩ sẽ bàn với các bạn tổ chức
làm lễ mừng thọ cho thầy thật vui vẻ và thật ý nghĩa. Vậy
mà chỉ mấy ngày sau, xót xa thay, thầy đột ngột ra đi mãi
mãi. Có lẽ hai chúng tôi có phúc là những học sinh may
mắn đƣợc gặp thầy lần cuối cùng và chụp ảnh với thầy.
Thầy cƣời tƣơi lắm mà chẳng kịp xem!
(Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
316
THẦY DƢƠNG XUÂN NGHIÊN,
MỘT NHÂN CÁCH LỚN
Nguyễn Đồng Thoại
Anh kĩ sƣ cầu đƣờng trẻ Dƣơng Xuân Nghiên vừa tốt
nghiệp quê ở Hƣng Yên bƣớc vào cuộc kháng chiến chống
Pháp mới qua tuổi 25. Làm gì để phục vụ kháng chiến tốt
nhất? Lúc đó cả nƣớc đều thực hiện "tiêu thổ kháng chiến".
Các thị xã, thị trấn, cầu, đƣờng đều phải đào phá hết để
ngăn bƣớc quân thù, đâu có cần đến nữa kiến thức xây
dựng cầu đƣờng mới. Thế là anh Nghiên nhanh chóng
quyết định đem kiến thức học đƣợc thời thuộc Pháp sang
phục vụ công việc "trồng ngƣời", một công việc hết sức
mới mẻ đối với anh.
Tháng 1/1947, tròn một tháng sau ngày toàn quốc kháng
chiến, đƣợc sự động viên nhiệt tình của giáo sƣ Ngụy Nhƣ
Kon Tum, giám đốc Nha trung học vụ thời đó, anh về xã
Cù Vân (Đại Từ) với quyết tâm mở lại Trƣờng trung học
Lƣơng Ngọc Quyến của tỉnh Thái Nguyên.
Lúc đó, ba điều kiện cơ bản cho việc dạy và học là thầy
giáo, giáo trình - sách giáo khoa và trƣờng sở đều là con số
không. Kinh phí giáo dục của thời kháng chiến chẳng đáng
là bao. Vậy mà với ý chí "tay không bắt giặc", anh bắt tay
vào làm việc ngay: Trƣờng sở mƣợn đình làng, bàn ghế
đơn giản nhờ địa phƣơng đóng, ván gỗ đi xin. Tài liệu
giảng dạy về khoa học tự nhiên thì dịch từ thời Tây rồi biên
soạn lại thành sách theo chƣơng trình chung. Thầy giáo chỉ
có ba ngƣời. Ngoài anh Nghiên là hiệu trƣởng trực tiếp dạy
học, có hai giáo viên khác là sinh viên chƣa tốt nghiệp,
trong đó có thầy Dƣơng Xuân Hảo, em trai ruột của anh.
Rồi anh làm ngay "thông báo chiêu sinh" khắp chiến khu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
317
Việt Bắc. Gần đến ngày khai trƣờng, ngƣời Hiệu trƣởng trẻ
rất hồi hộp không biết có ai đến học không? Khi nhận bảy
học sinh đầu tiên, anh mừng rơi nƣớc mắt.
Chỉ có bảy ngƣời, vẫn phải chia làm hai lớp đệ nhất và
đệ nhị dạy học ngay. Dần dà, số học sinh tăng lên, ngƣời
Kinh có, ngƣời Tày có. Rồi cán bộ trẻ, bộ đội, thiếu sinh
quân đƣợc cơ quan, đơn vị cử về học. Niên khóa 1948-
1949, khi trƣờng rời về thôn Phƣơng Độ, huyện Phú Bình,
trƣờng đã có sáu lớp, trong đó có một lớp Đệ tam, một lớp
Đệ tứ. Niên khóa 1949 -1950, trƣờng phát triển tám lớp,
nên lại phải chuyển về hai thôn Úc Kỳ, Nhã Lộng. Niên
khóa 1950-1951, địch ném bom ác liệt, trƣờng lại phải rời
về làng Quyên và chuyển sang học ban đêm. Từ con số
không, trong 4 năm phải di chuyển bốn lần. Thầy Nghiên
đã xây dựng trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến thành một trƣờng
trung học kháng chiến nổi tiếng của Liên khu Việt Bắc.
Về đội ngũ thầy giáo, từ ba ngƣời lúc đầu dần dần đông
lên. Có những thầy giáo đã nổi tiếng từ lâu là lớp trƣớc của
thầy Nghiên. Có một số là sinh viên trẻ, học sinh mới đỗ tú
tài. Một số nữa là Hiệu trƣởng các trƣờng tiểu học đã tự
học thêm để giảng dạy ở cấp trung học. Đặc biệt có một
nhà doanh nghiệp Nhật Bản giỏi tiếng Anh, sau khi đế quốc
Nhật bại trận, ở lại nƣớc ta rồi tản cƣ lên Việt Bắc đồng
cam cộng khổ với nhân dân ta. Thầy Nghiên cũng mời
đƣợc về làm thầy giáo tiếng Anh và dạy thể dục. Tất cả các
thầy, già trẻ, cũ mới, Việt hay Nhật đều vô cùng kính trọng
ngƣời Hiệu trƣởng trẻ đầy tài năng, nhƣng trƣớc hết là vì
đức độ của thầy. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia
đình quá khó khăn nhƣng ham học, thầy thƣờng tìm cách
giúp đỡ. Với ý chí quyết tâm kháng chiến và tấm lòng nhân
hậu, đƣợc Đảng giác ngộ, tháng 11-1949, thày đã vinh dự
đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
318
Là lớp học trò đầu tiên của thầy Nghiên, lại là đồng chí
cùng một chi bộ Đảng, chúng tôi nhớ mãi kỷ niệm sâu sắc
về ngày kết nạp thầy vào Đảng. Lúc đó Đảng ta còn chƣa
hoạt động công khai. Trƣớc Đảng kỳ và Quốc kỳ, sau khi
long trọng tuyên thệ theo đúng Điều lệ Đảng, thầy rút cặp
kính cận ra lau và xúc động phát biểu thêm:
"Về đạo đức, tƣ cách, cá nhân tôi xin nguyện làm đúng
lời Cụ Hồ dạy: Cần, kiệm, liêm, chính. Chí công vô tƣ". Cả
chi bộ lặng đi vì lời thề tâm huyết đó của thầy.
Sau năm 1952, thầy đƣợc cấp trên điều sang Trung Quốc
làm Hiệu trƣởng Trƣờng Thiếu nhi Việt Nam ở Quế Lâm
rồi làm Giám đốc Khu học xá trung ƣơng ở Nam Ninh. Từ
năm 1959 đến hết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc,
thầy lần lƣợt đƣợc trao những trọng trách lớn về công tác
giáo dục: Trƣởng ty giáo dục Hà Đông, Vụ trƣởng vụ tổ
chức cán bộ, Vụ trƣởng vụ Sƣ phạm, Cục trƣởng cục đào
tạo, bồi dƣỡng và Trƣởng ban thanh tra thuộc Bộ Giáo dục.
Sau năm 1975, thầy đƣợc bầu làm Chánh thƣ ký Công đoàn
giáo dục Việt Nam hai nhiệm kỳ 7 và 8, và đƣợc Đại hội
Công đoàn Việt Nam bầu làm ủy viên Ban chấp hành Tổng
công đoàn Việt Nam nhiệm kỳ 5 và 6. Những thành tựu của
ngành giáo dục bao năm qua, thầy Nghiên đều góp phần
xứng đáng.
Sau khi hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của Đảng và
Tổng công đoàn Việt Nam giao phó, thầy Nghiên đƣợc
nghỉ chế độ hƣu trí tại phƣờng Trung Tự, quận Đống Đa
(Hà Nội) vẫn đƣợc anh em đồng sự bầu làm Phó trƣởng
ban thứ nhất Ban liên lạc cán bộ hƣu trí cơ quan Bộ giáo
dục - đào tạo. Ở địa phƣơng, phát huy tinh thần cách mạng,
theo phƣơng châm "sống vui khỏe, sống có ích", thầy
không một chút nghỉ ngơi, gánh vác trách nhiệm Bí thƣ chi
bộ Đảng, Ủy viên Ban chấp hành MTTQ quận Đống Đa và
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
319
còn là một thành viên tích cực của tổ thơ ngƣời cao tuổi.
Biết thầy từ thời còn trẻ, hàn vi, sau này đƣợc nhiều lần
gặp lại thày lúc đƣơng chức đƣơng quyền cũng nhƣ khi đã
nghỉ hƣu, thầy vẫn nhƣ xƣa: kiên quyết và rất sáng tạo để
hoàn thành mọi nhiệm vụ của đất nƣớc, nhƣng vẫn toát lên
một tâm hồn trong sáng và một đức độ cao cả: trung thực,
giản dị, khiêm tốn và rất thƣơng yêu mọi ngƣời. Với chúng
tôi, thầy Nghiên còn là đồng chí, một ngƣời anh lớn. Thầy
ra đi đột ngột ở tuổi 78 khi còn 10 ngày nữa là tròn 50 năm
tuổi Đảng.
Vĩnh biệt thầy, chúng tôi vô cùng kính phục vì qua việc
làm thực tế chứng tỏ thầy Nghiên - Anh Nghiên, luôn nhớ
và thực hiện trọn vẹn lời thề khi vào Đảng cho tới phút cuối
cùng. Thật là một tấm gƣơng sáng về đạo đức, lối sống
"cần, kiệm, liêm, chính. chí công vô tƣ". Học trò các thế hệ
của thầy mãi mãi biết ơn thầy, không phải chỉ vì các kiến
thức đƣợc thầy dạy dỗ, truyền đạt, mà trên hết là vì đã học
đƣợc nhiều và sâu sắc nhân cách của thầy.
Thầy Nghiên - Anh Nghiên, nhà giáo ƣu tú, thật xứng
đáng là một trong những nhà giáo có nhân cách lớn.
(Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
NHỚ LẠI 50 NĂM VỀ TRƢỚC
Phạm Huy Châu
Tôi vốn là giáo viên, dạy học ở tỉnh Thái Nguyên, đón
Cách mạng tháng Tám cũng ở Thái Nguyên. Sau khi cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ tháng 12/1946, cả thị xã
Thái Nguyên bỏ "vƣờn không nhà trống" và tản cƣ về vùng
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
320
rừng núi. Tôi say sƣa với những hoạt động mới: dạy bình
dân học vụ, viết báo (báo "Ánh sáng" của Khu I), làm công
tác thông tin - tuyên truyền, công tác dân quân, công tác
dân vận của tỉnh. Mùa hè 1949, tôi đƣợc cử về dạy học ở
tại Trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến, lúc ấy đóng ở
Phƣơng Độ (huyện Phú Bình).
Trƣớc đó, trƣờng đóng ở Cù Vân, thuộc an toàn khu Đại
Từ, nơi có cơ quan Sở Giáo dục khu I. Giáo viên mới chỉ
có 2 ngƣời, còn học trò thì lèo tèo đếm đƣợc trên đầu ngón
tay, học nhờ bàn ghế của trƣờng tiểu học. Nhƣng rồi cuộc
hành binh thu đông 1947 của giặc Pháp với mƣu đồ "bắt
sống Chính phủ kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực Việt
Nam" đã thất bại; chúng buộc phải co cụm lại tại Hà Nội và
một số đô thị, dồn sức hòng "bình định đồng bằng". Thế là
cả một vùng thƣợng du mênh mông phía bắc trở thành
vùng tự do, "dƣới còn hùm soi nhục nhân gian, trên đã
thanh bình không vó giặc!" (lời thơ Xuân Diệu). Việt Bắc
trở thành căn cứ địa vững chắc của toàn quốc. Trƣờng có
điều kiện đƣợc tổ chức ở nơi dân cƣ đông đúc, vừa thuận
lợi về mặt sinh hoạt, vừa có thể tiếp nhận học sinh ở các
vùng du kích, vùng tạm chiếm đổ về vùng tự do.
Về Phƣơng Độ, tôi gặp lại thầy Hiệu trƣởng Dƣơng
Xuân Nghiên đã biết từ hồi cùng ở Cù Vân, và thầy Thanh,
bạn cũ; tôi làm quen với các bạn đồng nghiệp mới: các thầy
Mai, Quý, Hảo, Lân, Ngữ, lại có cả một thầy ngƣời Nhật
theo ta, lấy tên là Trần Văn Học, dạy Tiếng Anh. Mới có
một năm học ở địa điểm mới (48-49), mà trƣờng đã thành
trƣờng hẳn hoi, tức là đã có nhiều lớp, đủ các lớp từ đệ nhất
đến đệ tứ, mỗi lớp đều đông học sinh. Bộ máy quản lí cũng
đã đủ bộ sậu: có hiệu trƣởng, có văn phòng (2 nhân viên),
có giám thị, có cả một tùy phái. Học sinh đƣợc tổ chức
thành hiệu đoàn, chi đoàn. Ngay năm đầu, trƣờng cũng đã
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
321
có chi bộ trực thuộc Huyện ủy Phú Bình, gồm 3 đảng viên:
1 giáo viên là Trần Văn Quốc, 2 học sinh là Đồng Văn
Năng ngƣời xã Phƣơng Độ và Nguyễn Huy là đảng viên do
Huyện ủy cử về học. Chi bộ dần dà đƣợc bổ sung những
đảng viên trẻ đƣợc cho đi học, lại tiến hành kết nạp đảng
viên mới nên năm 1950 đã có tới 20 đảng viên, xung phong
trong mọi việc, có uy tín. Năm học 49-50, do số học sinh
tăng lên một cách tự nhiên nên địa bàn trƣờng mở rộng
thêm sang thôn Úc Kì phía bên kia sông Cầu, tiện cho
trƣờng có thể di tản về hƣớng bắc nếu vạn nhất giặc có cơ
hội nống ra càn quét vùng biên của khu giải phóng (điều
này cho đến ngày hòa bình lập lại, thực tế đã không xảy ra).
Đa số các thầy giáo, có ngƣời trƣớc đã là giáo sƣ trung
học, có ngƣời đã đỗ bằng tú tài hay đã học mấy năm cao
đẳng thời Pháp thuộc. Đi theo kháng chiến, các thày dứt bỏ
lối sống trong "tháp ngà" của lớp trí thức thành thị, hòa
đồng vào cuộc sống nơi thôn dã. Về chuyên môn, tuy có
kiến thức cũ nhƣng trƣớc đây đƣợc học bằng tiếng Pháp,
nay phải giảng dạy bằng tiếng Việt. Về khoa học tự nhiên
thì có thể dựa vào cuốn "Danh từ khoa học" của Hoàng
Xuân Hãn tìm ra những thuật ngữ khoa học tiếng Việt.
Riêng về những bộ môn thuần túy Việt Nam nhƣ địa lý,
lịch sử, nhất là văn học Việt Nam thì vốn cũ thu đƣợc trong
trƣờng Pháp quá sơ sài, phải tìm tòi nghiên cứu sâu rộng
hơn, dựa vào vốn văn hóa rộng rãi khai thác từ những sách
và tạp chí nghiên cứu chuyên đề mà soạn ra bài giảng mới.
Công việc đó biểu hiện tinh thần dân tộc tự lực tự cƣờng
đáng trân trọng. Còn học sinh thì một bộ phận là con em
thành thị đi tản cƣ, một bộ phận là con em nông dân địa
phƣơng. Bộ phận này lúc đầu còn ít, vì đi học trung học thì
đã phải học qua tiểu học có bằng trƣớc kia gọi là xéc-ti-phi-
ca, vốn không có nhiều ở một tỉnh miền núi mà trƣớc cách
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
322
mạng, 2 trƣờng tiểu học của tỉnh lị đƣợc coi là nhà trƣờng
có bậc học cao nhất, quy mô lớn nhất của cả tỉnh! Song bất
kể thành phần xuất thân nhƣ thế nào, tất cả đều là những
thanh niên mới lớn, đã từng đƣợc tổ chức vào những đoàn
thể cứu quốc, tính ham học và nhiệt tình yêu nƣớc phơi phới.
Các em vừa học, sinh hoạt lớp, sinh hoạt đoàn sôi nổi, vừa
giúp chủ nhà tham gia sản xuất, làm công tác tuyên truyền cổ
động theo yêu cầu từng thời kỳ của địa phƣơng theo đúng lời
dạy của Bác Hồ "tuổi nhỏ làm việc nhỏ", những em lớn thì
sẵn sàng "xếp bút nghiên" nhập ngũ khi có lệnh.
Các thầy thảo luận với nhau sôi nổi về những chủ đề
"mới lạ" rút ra từ trong nội dung của bộ sách nhỏ tiếng
Pháp tên là "chủ nghĩa Mác sơ giải" (A, B, C du
marxisme); buổi liên hoan Tết ở trƣờng, học trò biểu diễn
văn nghệ, thầy Học cũng tham gia giới thiệu một điệu múa
dân gian của Nhật Bản, điệu "bắt cua", động tác sao mà
giống động tác bắt cua bỏ giỏ của Việt Nam đến thế; đêm
lửa trại hoan tống đợt học sinh đầu tiên của trƣờng nhập
ngũ có cả đội tuyên truyền của Thanh niên tỉnh về góp vui,
dân mấy làng kéo đi xem đông nghịt khuya về trò chuyện
râm ran khắp ngõ xóm… Đó là những hình ảnh đẹp của
một thời, thầy và trò sống chan hòa trong hoàn cảnh nhƣ
nhau: đều ở nhờ nhà dân (trừ một vài học sinh quê ở ngay
làng sở tại) và đều đƣợc nhân dân đùm bọc. Không có sự
cách biệt giữa dân địa phƣơng và ngƣời tản cƣ, mọi ngƣời
gắn bó với nhau bằng tình nghĩa "đồng bào", y nhƣ trong
truyền thuyết: đều sinh ra từ trong bọc của một mẹ Âu Cơ.
Xã hội đã đổi đời. Hai lớp nhân vật đối nghịch với dân
trong mọi thời đại cũ là quân lính và quan lại nay đều
không còn. Thế vào đó, bây giờ là bộ đội Cụ Hồ, là cán bộ
nhân dân đều từ dân mà ra, đối với dân có tình nghĩa ruột
rà. So với dân, cán bộ Nhà nƣớc hay của Đảng không có
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
323
đặc quyền đặc lợi gì, có khác chăng chỉ là ở chỗ cán bộ thì
có tổ chức nghiêm ngặt hơn. Toàn dân đoàn kết. Trên dƣới
một lòng. Ngƣời với ngƣời là bạn, không quen biết cũng bà
con. Mọi ngƣời sống tự do, lành mạnh, hiền hậu. Nơi thôn
cùng xóm vắng, lỡ đêm hôm cổng ngõ có quên cài then
cũng vẫn yên bình không có cái gọi là tệ nạn xã hội. Xã hội
đẹp nhƣ tranh. Chân lí cách mạng hệt nhƣ một nguồn sáng
tƣơi mát tràn ngập không gian, nhuộm hồng tất cả, tô thắm
cả quang cảnh núi sông cây cỏ, làm rạng rỡ các khuôn mặt.
Năm học 49-50 trôi qua - tháng 8/1950 tôi đƣợc chuyển
công tác lên cơ quan Nha tiểu học vụ. Từ biệt các bạn đồng
nghiệp, từ biệt mái trƣờng (lúc ấy học sinh đang nghỉ hè)
tôi "nhổ neo" cả gia đình trở lại thị xã Thái Nguyên, từ đó
vƣợt Đèo Khế sang địa hạt Tuyên Quang nhận nhiệm vụ
mới. Tôi hình dung ra chúng tôi hồi đó. Trên con đƣờng
liên tỉnh, một gia đình nhà giáo gồm vợ chồng, con cái bìu
díu nhau đi, mỗi ngƣời một ba lô khoác vai nhẹ nhõm.
Đƣờng thì dài, không nhớ rõ đi mấy hôm thì đến, chỉ nhớ là
ngày đi, đêm nghỉ, cảm nhận thấm thía rằng ở vùng tự do,
đâu cũng là nhà. Thỉnh thoảng lại gặp một toán bộ đội trẻ
băng qua đƣờng rồi biến mất hút theo dòng suối. Bầu trời
trong trẻo, không khí trong lành, trong lòng nhƣ ca hát.
Đường trần, yêu biết mấy mươi,
Bước chân nhịp bước chân người muôn phương.
Đến đâu cũng nghĩa xóm làng,
Chân trời đã sáng nẻo đường tự do.
Tháng 8-2000 (Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
324
TRƢỜNG "QUYÊN" THỦA ẤY
Đỗ Thị Nhiệm
Nhắc đến thời kì kháng chiến chống Pháp, tôi thƣờng
nói: "Hồi ấy tôi dạy ở trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến…" với
một niềm tự hào nho nhỏ…Cứ nhƣ thể tôi đã dạy ở đó
nhiều năm, chứ không phải chỉ một niên học 1950-1951 và
chƣa có đóng góp gì mấy cho trƣờng cả. Niềm tự hào nhỏ
của tôi chỉ là vì tôi đã có mặt ở một tƣờng tiên tiến mà đã
nhiều ngƣời biết đến nhƣ một điển hình của phong cách
giáo dục mới thời kháng chiến.
Giờ đây, nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày tôi mới tới
trƣờng Quyên (chúng tôi vẫn quen gọi nhƣ thế vì trƣờng
nằm trên đồi Quyên gần thị xã Thái Nguyên). Ký ức về thời
xa xƣa đó đã phai mờ đi nhiều lắm, nhƣng vẫn còn lại trong
tôi vài hình ảnh đẹp…
Thời gian đầu tôi đã sống chung với gia đình hai nữ sinh
Hà (lớp 7) và Yến (lớp 6) tản cƣ ở nhà bà Tràng. Hà, Yến
là hai cô gái xinh đẹp, rất hiếu học và lại đảm đang. Hàng
ngày lo đi chợ, cơm nƣớc cho cả nhà. Hàng tuần thay phiên
nhau đi cắt guột làm củi. Các bữa ăn thanh đạm lấy rau cải
làm chất tƣơi, còn thƣờng là lạc, vừng, cá khô. Nhƣng
không khí gia đình thật đầm ấm vui vẻ. Tối đến, mấy chị
em lại lúi húi học bài, làm toán. Sáng, dậy sớm, xếp lại ba
lô đâu đấy rồi đi học…
Giống nhƣ Hà, Yến, các học sinh nam cũng nhƣ nữ sống
ở Quyên đều tất bật suốt ngày lo ăn, lo học, lo tránh máy
bay, có em hết tháng chƣa đƣợc tiền nhà gửi cho, lại lo
chạy gạo. Có các bạn tƣơng trợ lo giùm, không đến nỗi
thiếu thốn, nên vẫn học tốt. Em nào cũng luôn luôn tƣơi vui
hóm hỉnh, không rầu rĩ thở than.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
325
Tôi dạy Anh văn ở lớp 6 và 7, Pháp văn ở lớp 8. Các em
học sinh khá thích thú với môn tiếng Anh lạ tai nên rất hào
hứng nghe bài cố gắng phát âm cho đúng, không ngại phát
biểu, thƣờng nêu thắc mắc với một thái độ cởi mở, hồn
nhiên. Lớp học sôi nổi tƣơi vui với đôi lúc ít câu lời ngộ
nghĩnh, dí dỏm để cả lớp đƣợc dịp cƣời rộ lên vui vẻ. Nhìn
những gƣơng mặt sáng sủa vô tƣ ấy, tôi thƣờng nghĩ rằng
những cô cậu dễ thƣơng này sau buổi học lại tất tƣởi đi
chợ, gánh nƣớc, lụi thụi thổi cơm… đâu đƣợc nhƣ chúng
tôi, lớp học sinh thời bình chỉ miệt mài với sách vở, biết gì
đến chợ búa, bếp núc.
Hiệu đoàn học sinh gồm những cán bộ thanh niên ƣu tú
làm cốt cán cho phong trào học tốt, lao động tốt, sống vui
tƣơi lành mạnh cho nên các học sinh trƣờng Quyên mặc
dầu gian khổ vất vả nhƣng vẫn sống hết mình, học ra học,
chơi ra chơi, lao động tích cực giúp trƣờng giúp dân trong
những buổi lao động cực nhọc, vẫn không thiếu vắng tiếng
cƣời, những câu pha trò dí dỏm, những pha đùa tếu mua vui
làm quên đi nỗi mệt nhọc…
Có những buổi trƣa các em sinh hoạt lớp với nhau, cùng
ôn bài, làm bài, rút kinh nghiệm học tập, cũng kiểm điểm
nhau thẳng thừng về thái độ học tập hay lao động. Rồi giải
lao vui đùa dƣới bóng cây trên đồi lộng gió. Các cô cậu hào
hứng đàn, hát những bài ca cách mạng hay những điệu
nhảy sol..la..sol.. vui nhộn, tƣởng nhƣ chiến tranh còn ở
mãi đâu xa…
Nhƣng thực tại thì máy bay địch vẫn luẩn quất quanh
vùng. Có lần xóm Quyên đã bị oanh tạc, cháy rụi nhiều nóc
nhà. Nhân dân hay vào núi sơ tán. Và chúng tôi phải một
phen lận đận chuyển chỗ ở cạnh đâu đó quanh trƣờng. Tôi
phải rời xa hai em Hà, Yến để trú tạm trong một túp lều
gần đình Quyên. Rồi trƣờng chuyển sang học đêm. Thế là
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
326
tối tối, với những ngọn đèn dầu nhảy nhót trên đƣờng lên
đồi, các em í ới gọi nhau đến lớp. Giờ văn, thầy Thanh vẫn
sang sảng bình giảng thơ phú, thầy Ngữ dạy toán rất say
sƣa, thầy Bình giảng lý hóa. Học sinh vẫn chăm chú nghe
giảng, quên hết mọi ƣu tƣ lo phiền…
Nhắc đến các thầy, tôi còn nhớ có anh Thanh đƣợc gọi
đùa là "thánh phán" với tài bình giảng thao thao lƣu loát rất
lôi cuốn học sinh, anh Bình nhiệt tình sôi nổi, anh Hảo
trông giống một nhà thông thái đãng trí nhƣng dễ gần dễ
mến, anh Hà Thế Ngữ một bí thƣ chi bộ gƣơng mẫu, tích
cực gắn bó với phong trào học sinh và giỏi dạy toán. Nổi
bật là anh hiệu trƣởng Dƣơng Xuân Nghiên, một lãnh đạo
năng động hăng hái đã góp công lớn trong cuộc cách mạng
giáo dục ở trƣờng Quyên, tạo dựng phong cách giảng dạy
dân chủ, bình đẳng…
Khó khăn lớn đối với anh chị em giáo viên là thiếu sách
giáo khoa, tƣ liệu nghiên cứu. Đành phải tự biên soạn giáo
trình theo những cuốn sách ít ỏi đã mang theo và bổ sung
bằng những kiến thức mà bản thân còn tích lũy đƣợc sao
cho bài giảng dễ dàng đến với học sinh.
Cũng nhƣ các em, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống hàng ngày với những bữa ăn đạm bạc,
những tiện nghi sinh hoạt còn thiếu thốn nhƣ ngọn đèn
điện, chiếc xe đạp… Mặc dầu vậy chúng tôi luôn sẵn sàng
chấp nhận gian khổ, hòa mình vào cuộc sống của các em để
giúp đỡ nhau cùng học tốt, dạy tốt. Học sinh gọi các thầy
cô là "anh, chị" xƣng "em". Với lời xƣng hô gia đình ấy,
khoảng cách giữa thầy và trò trƣớc đây còn xa đƣợc rút
ngắn lại rất nhiều. Thầy đến với trò nhƣ anh đến với em,
thật tình cảm, thật tự nhiên thoải mái. Trong những buổi
trao đổi về tình hình học tập, giáo viên lắng nghe những
thắc mắc của học sinh về bài giảng để cố gắng rút kinh
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
327
nghiệm sửa lại giáo trình sao cho phù hợp với trình độ tiếp
thu của từng lớp, mà vẫn nghiêm khắc phê bình những lỗi
lầm của một vài cá nhân học sinh nào đó…
Phải chăng đó là nét nổi bật của trƣờng Quyên với phong
cách giao tiếp dân chủ, với phƣơng pháp giảng dạt bám sát
với thực tiễn cách mạng. Tôi đã có cảm nghĩ nhƣ vậy về
trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến thuở ấy.
NHỚ MÁI TRƢỜNG XƢA
Nguyễn Tƣờng Lân
Ngày ấy - cách đây đã hơn 1/2 thế kỷ, khi nhận đƣợc
quyết định của Nha trung học vụ, tôi háo hức nhiệt tình đến
nhận công tác tại Trƣờng trung học Lƣơng Ngọc Quyến
(Thái Nguyên).
Trƣờng nằm bên bờ sông Cầu trong xanh và lặng lẽ, có
bến phà nhỏ, có con đò ngang, có đình Phƣơng Độ cổ kính
mà đồ sộ, có dòng ngƣời qua lại khi nhộn nhịp tấp nập, lúc
tháo vát mau lẹ tránh máy bay Pháp đến khủng bố.
Bƣớc vào nghề dạy học ở độ tuổi 21 trong chiến tranh,
tôi ôm ấp những hoài bão, hi vọng của tuổi trẻ tuy hăng say
phấn khởi song hồi hộp bỡ ngỡ vì kinh nghiệm đƣờng đời
và ngành nghề còn quá ít ỏi.
Tháng 10 năm học 48 - 49, vừa đặt chân tới trƣờng, tôi
bị cuốn hút ngay bởi giọng nói sôi nổi, ấm áp, đầy sức
thuyết phục của anh Dƣơng Xuân Nghiên (Hiệu trƣởng)
khi anh đọc diễn văn khai giảng. Anh nhắc lại thành tích
của trƣờng từ ngày thành lập, nhắc lại kỷ niệm ngày khai
trƣờng của nhà văn hào Pháp Anatole France… "Vào
những ngày đầu tháng 10 hàng năm, khi đi qua vƣờn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
328
Luxembourg, tôi trông thấy một cậu bé khôi ngô, hai tay
đút túi, cặp sách trên lƣng, vừa đi đến trƣờng, vừa nhảy
nhót nhƣ con chim sẻ…" và xúc động biết bao, ngay buổi
đầu gặp tôi, tay bắt mặt mừng, anh vui vẻ giới thiệu với tôi
đồng nghiệp và học sinh của trƣờng. Sau đó dẫn tôi về nhà
riêng, bố trí chỗ ăn, ở, làm việc cho tôi.
Rồi những buổi lên lớp đầu tiên của tôi, cho đến nay vẫn
để lại những dấu ấn đẹp đẽ: Một lần dạy Hóa học ở lớp đệ
nhị B, không có sách giáo khoa và tài liệu tiếng Việt, tôi
lên lớp dạy chay, vừa dịch ở sách Pháp cũ (Billard Touren)
vừa giảng cho học sinh. Thấy thầy bỡ ngỡ, lúng túng, các
em học sinh của lớp (lúc đó tuổi xấp xỉ bằng tuổi tôi) vẫn
cố gắng phải trật tự tập trung theo dõi và ghi chép cho đến
hết tiết học.
Vào một buổi sáng mùa đông, lớp học phải sơ tán trong
đình làng Úc Kỳ, dạy về "máy ảnh" (quang học) ở lớp Đệ
Tam, không có đồ dùng dạy học để minh họa bài, tôi phải
tìm kiếm ông thợ chụp ảnh đem máy đến lớp chụp ảnh kỷ
niệm cho học sinh, qua đó tận dụng máy ảnh để thao tác
giảng giải từng bộ phận của máy cho học sinh. Giảng bài
nửa chừng, máy bay Pháp đến khủng bố, thầy và trò vừa
đem máy ảnh xuống hầm, vừa trao đổi bài.
Lại có những buổi tối giá rét, dƣới ánh đèn dầu, anh Hà
Thế Ngữ (giáo viên của trƣờng) đang cơn sốt rét, vẫn cố
gắng rủ tôi đến các tổ học tập ở gia đình học sinh, vừa thăm
hỏi tình hình, vừa trao đổi giải đáp thắc mắc về các bài
giảng trên lớp. Sau đó thầy trò chúng tôi văn nghệ, đàn hát
vui vẻ, quên đi những giờ phút nhọc nhằn, khó khăn trong
cuộc sống vật chất thƣờng ngày.
Không dừng ở tình thầy trò, tình cảm đồng nghiệp giữa
chúng tôi cũng rất thắm thiết. Những năm công tác ở
trƣờng, và chƣa có gia đình riêng, tôi ăn ở chung với gia
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
329
đình anh chị Nghiên (Hiệu trƣởng), đƣợc sự đùm bọc giúp
đỡ của gia đình bác Mai, gia đình anh chị Quý (kiêm thầy
dạy văn, dạy Pháp văn và Anh văn của trƣờng) vui buồn,
gian khổ, khó khăn cùng chia sẻ với nhau, coi nhau nhƣ
anh em một nhà. Hàng ngày, bữa cơm gia đình tuy giản dị,
đạm bạc, chỉ có "cà bung" hoặc có bữa hết gạo, ăn cháo và
bánh cuốn trừ cơm - có tối đang soạn bài thì hết dầu thắp,
có buổi vừa ở trƣờng về nhà lên cơn sốt rét - lạc quan, yêu
đời cùng nhau khắc phục khó khăn, chúng tôi vẫn say sƣa,
nhiệt tình lên lớp, đảm bảo chƣơng trình môn học; Tiếng
hát, tiếng đàn (guitare, mandoline) "Trƣờng ca Sông Lô",
"Quay tơ", "Em hãy đợi anh về" là những giây phút thƣ
giãn, động viên chúng tôi sau những giờ làm việc căng
thẳng.
Hơn 50 năm qua, lịch sử đã sang trang, đất nƣớc đã đổi
mới mọi mặt, hôm nay thầy trò chúng tôi (của những năm
tháng kháng chiến gian khổ) lại có dịp hội ngộ, ôn lại
những kỉ niệm xƣa. Trong đội ngũ thầy trò chúng tôi, có
ngƣời đã đi xa, có ngƣời dầu đã điểm bạc, có ngƣời còn
đƣơng chức, có ngƣời đã nghỉ hƣu tuổi cao sức yếu - từ các
nẻo đƣờng của đất nƣớc, từ các lĩnh vực công tác khác
nhau có giáo sƣ, bác sỹ, kĩ sƣ - có nhà giáo, nhà báo, phóng
viên, có cán bộ cao cấp trong quân đội, nhà quản lý kinh
doanh, nhà ngoại giao, cán bộ khoa học, nhà văn, nhà thơ,
nghệ sĩ… gặp nhau tay bắt mặt mừng, vui vẻ, phấn chấn,
thân tình kể cho nhau nghe, trao đổi với nhau nào chuyện
công tác, chuyện gia đình, riêng tƣ… Vẫn những gƣơng
mặt nhƣ cách đây hơn 1/2 thế kỷ, tuổi tuy đã cao, tóc đã
bạc nhƣng tâm hồn rộng mở và vẫn tƣơi trẻ nhƣ thuở nào!
(Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
330
Pô pốt xóm trại
Đỗ Thanh
Tiếng kẻng báo động vang lên, lẫn tiếng xé rít không khí
của máy bay. tiếp theo là một loạt tiếng bom nổ rền. Tôi
hút chết. Và vội chuyển đến nơi ở mới cùng các anh Huy,
Thu, Bách, Cao Tiễu và Vũ Thanh.
Nơi ấy là xóm trại với vài ba nóc nhà nghèo nàn, nằm
chơ vơ giữa cánh đồng đầy nắng, thật dung dị và thanh
bình, toát lên một vẻ tự nhiên thôn dã, mặc cho máy bay
địch suốt ngày dòm ngó.
Dƣới mái nhà tranh vách đất sơ sài ấy, đã diễn ra một nét
sinh hoạt hết sức đơn giản về vật chất, nhƣng lại rất phong
phú về tinh thần của lớp học sinh kháng chiến chống pháp.
Cuộc sống mải miết trôi, thấm thoát đã gần 50 năm.
Nhƣng cái thời của tuổi đèn sách không bao giờ phai mờ
trong ký ức. Nó là sự tiếp nối của ngày nay, thật nên thơ và
tự hào, khoẻ khoắn và huyền diệu, vinh hạnh và tình ngƣời,
dƣờng nhƣ vẫn cuốn quýt bên nhau. Khi gặp là tay bắt mặt
mừng vẫn phong cách đó, vẫn giọng nói đó, chẳng hề phôi
pha bởi thời gian, và bởi không gian đầy biến động với
nhiều sắc thái, kiểu sống mới thời hiện đại.
Ngồi cùng gia đình ăn bữa cơm bình thƣờng ngày nay,
một bữa cơm mà trong suốt đời học sinh trong kháng chiến
không bao giờ có, tôi liên tƣởng đến và thèm muốn cái
hƣơng vị ngọt bùi của đĩa muối rang, mắm tôm khô nƣớng
lá chuối và mùi thơm phức của bát cơm gạo quê Phú Bình
nấu bằng cỏ guột. Ấy vậy, học sinh thi thoảng nhịn bữa để
góp gạo cho kháng chiến.Ăn uống thiếu bữa là bình thƣờng
vì trong tổ có bạn quá nghèo không góp đủ tiền và gạo.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
331
Thế mà tình bạn vẫn chan hoà chân thật, không tính toán
thiệt hơn.
Quần áo có vài 3 miếng vá mà vẫn sang. Kể chuyện cho
gia đình nghe, cả nhà đều cƣời ngạc nhiên.
Sinh hoạt gian khổ lần hồi, nhƣng học tập vẫn miệt mài,
hăm hở. Ban ngày, tổ học tập dƣới các lùm cây. Ban đêm
học sinh tụ về các quả đồi, trong các phòng học tự tay lao
động sáng tạo nên. Ánh sáng các phao đèn đủ kiểu, đủ mầu,
làm bằng vỏ chai, lọ và ống thuỷ tinh. Muốn bảng cho đen
và nhìn rõ trong ánh sáng của ngọn đèn dầu lúc tỏ lúc mờ
thì phải có lá khoai và nhọ nồi. Tiếng hát giữa giờ của các
lớp vang lên rộn ràng và cởi mở…Đâu đó, tiếng dô tả… dô
ta…tiếng hát vì nhân dân quên mình,…tiếng sol lá sol vang
vọng…Tiếng thầy Hiểu giảng văn rõ ràng, mạch lạc, nhấn
mạnh nhƣ cuốn hút tâm hồn. Giọng nói của thầy khoẻ
khoắn, ấm cúng nhƣ muốn gieo cấy tình yêu thƣơng và hy
vọng cho lớp lớp học trò. Không khí im phăng phắc khi
thầy Bình vào lớp, có phút lặng lẽ nhƣ chân không; nhƣng
lại chan hoà, ân cần, vui vẻ, hồn nhiên sau khi tan lớp.
Trong cái lao xao đó thi thoảng còn nghe thấy tiếng phát
âm là lạ của thầy giáo dạy tiếng Anh. Đó là tiếng của thầy
Học - một thầy “Việt Nam mới” rất hiền từ.
Tất cả…mọi sự uốn nắn mềm dẻo của khoa học xã hội
và những chứng minh chân lý khách quan của khoa học tự
nhiên của các thầy cô cứ truyền cảm dần, mở dần tâm hồn
và tri thức, tạo cho học sinh những hành trang ban đầu rất
cơ bản cho tƣơng lai.
Đêm tối làng Quyên sống động đến tận khuya. Tan học
về, học sinh còn chong đèn đọc sách. Tuổi trẻ bấy giờ thiếu
thốn đủ bề, ngay cả lời bảo ban của gia đình xem ra cũng
hiếm; nhƣng làm đƣợc tất cả: học tập giỏi, lao động tốt,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
332
phong độ và tƣ chất; ngẫm đến ngày nay, sao mà đẹp và
trong sáng đến thế!
Ban ngày, bóng dáng làng Quyên êm đềm bao quanh phố
nhỏ - Ở đấy có cây đa tán xoà to che nắng, có cô bé học
giỏi, dịu hiền, từng đi dự đại hội thanh niên sinh viên thế
giới ở Bucaret.
Cuộc kháng chiến của dân tộc vào giai đoạn ác liệt. Nhà
trƣờng và xã hội quyện vào nhau nhƣ thể thống nhất. chí
quật cƣờng của dân tộc đƣợc nhà trƣờng hun đúc đã thúc
đẩy nhiều bạn ra đi chiến đấu. có bạn đã ngã xuống ở mặt
trận Điện Biên Phủ. Có bạn đã ra nƣớc ngoài trau dồi kiến
thức để xây dựng đất nƣớc khi kháng chiến thành công.
mọi ngƣời đều cảm nhận đƣợc trách nhiệm của bản thân
đối với tổ quốc, đối với nhân dân trong hiện tại và tƣơng
lai.
Tự hào và vinh dự thay đƣợc học tập dƣới mái trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến! Có thể có nhiều bạn đôi chút thờ ơ vì
nhiều lẽ. tuy vậy, trong hoàn cảnh nào chúng ta mãi mãi là
bạn.
Cái tập thể học sinh trong pôpốt xóm trại làng Quyên ở
nhà Ông Khƣơng cũng hoà quyện trong cuộc sống chung
của nhà trƣờng lúc đó. Cái đích của nhà trƣờng và mong
muốn của gia đình phần nào đƣợc giải đáp. Tất cả các
thành viên trong pôpốt đều thành đạt trong học tập và phấn
đấu. Ngày nay họ đều là các đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam quang vinh. Có ngƣời trong số họ đã trở thành Chánh,
Phó giám đốc, Tổng giám đốc, Trƣởng, Phó các Vụ, Viện
thuộc các cơ quan của Đảng và Nhà nƣớc.
Đã tuổi hƣu rồi, việc gia đình cũng bộn bề lắm! Tôi ngồi
viết lại vài dòng đơn sơ này mà thấy bồi hồi nhớ lại cái tuổi
cắp sách đến trƣờng thật thi vị - Cái tuổi quyết đạp bằng
gian khó, luôn ƣớc mơ và hy vọng, cái tuổi trỗi dậy, xuất
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
333
hiện nhiều tình cảm đẹp mà lại ngỡ ngàng khi nhận thức
vạn vật xung quanh!
Đẹp lắm, đẹp về sự bình dị, thản nhiên đi vào cuộc sống
của lớp trẻ đƣợc đào tạo, rèn luyện cách cống hiến; đẹp về
tình bạn, tình thầy trò; đẹp cả về phong cảnh làng Quyên
êm đềm và dung dị! - Một ký ức không thể nào quên!
(Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
NHỮNG DẤU ẤN THEO TÔI SUỐT ĐỜI
Nguyễn Ngọc Chƣơng
Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp đã
chuyển sang một giai đoạn có ý nghĩa quyết định. Cả nƣớc
tổng động viên toàn lực “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để
chiến thắng”. Tôi quyết định lên đƣờng nhập ngũ để trực
tiếp đánh giặc. Tôi và anh tôi là Nguyễn Ngọc Thuyên
cùng lên Tỉnh đoàn thanh niên Thái Nguyên gặp đồng chí
Kim Quế Đinh để xin giấy giới thiệu sang Tỉnh đội đăng ký
nhập ngũ. Khi đó tôi vừa tròn 17 tuổi. Ngày 12-9-1953
chúng đƣợc biên chế vào trung đoàn 77. Hành quân lên Phú
Thọ luyện tập quân sự 2 tháng và chỉnh quân chính trị 1
tháng. Đầu tháng 12 năm 1953 tôi cùng đơn vị hành quân
lên Tây Bắc tham gia tiễu phỉ và mở đƣờng vào chiến dịch.
Tôi tham gia đợt kéo pháo vào Điện Biên Phủ và đƣợc bổ
sung vào đội pháo cao xạ . Anh Thuyên đƣợc bổ sung vào
đại đoàn 312, đơn vị chủ công đánh vào Him Lam và khu
đông.
Đêm 30-3-1954 anh Thuyên đã hy sinh trong trận đánh
thọc sâu vào sân bay Mƣờng Thanh.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
334
Tôi đƣợc biết có rất nhiều học sinh Lƣơng Ngọc Quyến
đã tham gia chiến đấu ở mặt trận Điện Biên Phủ lịch sử
năm ấy và lập đƣợc nhiều chiến công xuất sắc...
(Trích Một thời... để nhớ - Sđd )
NHỚ MÃI TRƢỜNG XƢA
Nguyễn Văn Thu
Thầy Nguyễn Văn Thu sinh ngày 7 - 3 - 1922. 1945 - 1946: dạy
trƣờng trung học Chu Văn An, Hà Nội; 1947 - 1950: dạy trƣờng
trung học Hùng Vƣơng, Phú Thọ; 1950 - 1951: Hiệu trƣởng
trƣờng cấp 2 Bắc Kạn; 1951 -`956: dạy, làm Hiệu trƣởng (từ 1953)
trƣờng cấp 2-3 Lƣơng Ngọc quyến, Thái Nguyên; 1956 - 1958: dạy
trƣờng ĐHSP Hà Nội; 1958 - 1979: Cán bộ, Phó giám đốc , Quyền
giám đốc Thƣ viện KHKT trung ƣơng; mất năm 2006.
Mừng trường nay đã tuổi“Năm nhăm”
Vẫn như cô gái tuổi đang xuân
Trẻ già họp mặt ôn chuyện cũ
Bao niềm hạnh phúc thủa gian truân .
Thế đấy, tình yêu một mái trường
Tự hào biêt mấy tiếng “Anh hùng”
Con đường cách mạng nay “Đổi mới”
Mãi mãi thời gian vẫn nhớ thương.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
335
MỘT VỊ HIỆU TRƢỞNG ĐÁNG KÍNH
Lƣơng Vĩnh Khang
Thầy Lƣơng Vĩnh Khang sinh ngày 1-12-1933. Tốt nghiệp thủ
khoa Ban Toán-lý trƣờng dự bị Đại học sƣ phạm cao cấp LK4;
1954-1959: giáo viên, Phó hiệu trƣởng trƣờng cấp 3 Lƣơng Ngọc
Quyến, Thái Nguyên.
Đã kinh qua các chức vụ công tác: Phó hiệu trƣởng phụ trách
trƣờng SP trung cấp Khu TT Việt Bắc( 1959 - 1962), Hiệu trƣởng
trƣờng SP Bắc Thái ( 1968 - 1989); Chuyên gia giáo dục tại Lào
(1963 - 1968), Angola (1986 - 1989); cán bộ giảng dạy và nghiên
cứu trƣờng ĐHSP Việt Bắc (1990 - 1993). Nghỉ hƣu năm 1993.
... Rất may mắn cho tôi, anh Thu cùng dạy với tôi các môn
toán, lý là một thầy giáo giỏi, mẫu mực cả trong giảng dạy
và đời thƣờng. Anh tốt nghiệp toán học đại cƣơng , đang
học dở cử nhân thì kháng chiến bùng nổ, anh rời Thủ đô đi
kháng chiến và trở thành giáo viên toán. Anh có kiến thức
khoa học rộng và vứng vàng, có phƣơng pháp dạy học rất
sƣ phạm, làm Hiệu trƣởng nhƣng anh vẫn dạy nhiều giờ
không kém chúng tôi những giáo viên thƣờng mấy (thời ấy,
thật ra công tác quản lý nhà trƣờng có phần đơn giản hơn
ngày nay: không phải lo chỉ đạo đời sống, làm kinh tế phức
tạp hơn bây giờ). Anh ít nói nhỏ nhẹ, hay cƣời nụ, song
nói chuyện rất dí dỏm, rất tình cảm. Khi có điều gì thật vui,
phải cƣời cho thành tiếng, anh thƣờng lấy tay che miệng
lại. Không ai nghe thấy anh to tiếng nặng lời gắt gỏng quở
trách ai bao giờ kể cả với học sinh có khuyết điểm nặng.
Anh bao giờ cũng đúng giờ trong các buổi họp và lên lớp.
Các buổi họp anh truyền đạt ngắn gọn , không nói nhiều,
nói dài. Tuy vậy mọi ngƣời từ giáo viên học sinh, nhân dân
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
336
đều quý mến anh thực sự, công việc nhà trƣờng răm rắp,
đâu ra đấy. Tuy dạy nhiều giờ, anh vẫn bố trí dự lớp chúng
tôi đều đặn, sau đó góp ý trao đổi xác đáng, tận tình nhƣng
rất ngắn gọn và anh biết đi vào điểm mấu chốt. Anh rất
động viên và thông cảm với những tật xấu của các giáo
viên mới vào nghề chúng tôi, còn thiếu kinh nghiệm hay
nói nhiều, nói nhanh, tham lam trong truyền thụ kiến thức,
không sát với trình độ và hoàn cảnh học sinh, ra nhiều bài
tập khó, học sinh hay kêu ca, phản ảnh lên nhà trƣờng.
Giáo viên trẻ chúng tôi mong đƣợc anh dự lớp và rất
thích dự lớp của anh. Có thể nói qua anh, chúng tôi đã tiến
bộ nhanh trong chuyên môn và xây dựng đƣợc phong cách
dạy học sƣ phạm. Lúc ấy chƣa có sách giáo khoa, giáo viên
phải tự soạn lấy bài giảng theo chƣơng trình.
Các bài soạn của anh đều rất súc tích, sáng sủa, vừa là
giáo án vừa là bài học cho học sinh. Anh sau này đƣợc Bộ
mời về ban thƣ soạn sách giáo khoa và sách anh soạn vẫn
dùng cho hệ 9 và 10 năm sau này. Tuy đã dạy lâu năm,
năm nào anh cũng sửa lại bài soạn cho hoàn chỉnh ; trƣớc
giờ lên lớp vẫn dành thì giờ nhẩm giáo án, chính vì thế giờ
giảng nào của anh cũng thành công tốt đẹp. Anh nói vừa
đủ, diễn đạt chính xác, viết bảng vẽ hình chậm cẩn thận
nhƣng khẩn trƣơng, không lời thừa, động tác thừa, tạo cho
học sinh một nề nếphọc tập ở lớp: Họ biết rõ khi nào thì
chú ý lên bảng nghe giảng, khi nào thì ghi, tự ghi không đợi
anh đọc, khi nào vẽ hình không đợi thầy nhắc. Do không
phải đọc chép nên dôi 5, 10 phút của tiết học, thầy trò làm
đƣợc nhiều việc: nghe giảng, thảo luận, luyện tậpv.v...hiệu
quả rất cao, học sinh hiểu bài tiến bộ nhanh. Đặc biệt anh
làm chủ thời gian rất chính xác - trong bất kỳ giờ lên lớp
nàodù là chữa bài tập, luyện tập, giảng bài mới, khi anh đã
làm xong mọi việc, nói câu cuối cùng, buông viên phấn viết
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
337
xuống bàn, xoa hai bàn tay thì là kẻng đánh báo hết tiết học
; bản thân anh cũng tỏ ra rất thích thú với tính chính xác và
sự chủ động trong việc kết thúc giờ giảng, ra lớp hết sức
đúng giờ Lƣơng Vĩnh Khang
(Trích Một thời để nhớ - tập 2. Sđd)
MỘT THẦY GIÁO GIỎI MẪU MỰC
Lƣơng Vĩnh Khang
Thầy Uyên (Nguyễn Văn Uyên), Tú tài Toán - nguyên
Thƣ ký Phủ Toàn Quyền Pháp, nguyên phóng viên một tờ
báo tiếng Pháp về phong trào TDTT do Toàn quyền
Ducoroyx phát động các năm 40 - 44, sau CMT8/45, thày
rời gia đình ở Hà Nội đi hoạt động theo cách mạng. Kháng
chiên toàn quốc chống pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của
Bộ Gíáo dục, thầy cùng một số tri thức đã đi dạy học, chiến
tranh lan rồng, trƣờng Ngô Quyền của thầy chuyển lên Thái
Nguyên, vùng Tân Cƣơng, Đồng Hỷ, trong khi đó gia đình
vẫn ở lại vùng tạm chiếm Hà Nội. Tại xã Tân Cƣơng lúc
đầu thầy ăn ở tại một nhà dân (pôpốt) cùng với các học trò
thân thiết của mình. Sau đó các học trò đã dựng cho thầy
một mái nhà nhỏ tƣờng trình, lợp rạ, đứng một mình trên
một sƣờn đồi thấp, cỏ mọc xanh tƣơi ...để thầy có điều kiện
đọc sách, nghiên cứu...Năm đó đầu 1954 kháng chiến
chống Pháp đang ở giai đoạn cuối, tôi về trƣờng dạy học,
đã đến thăm ngƣời đồng nghiệp đàn anh, lớn tuổi tại căn
nhà đơn sơ nhƣng đầy ắp sách, báo tiếng Pháp, tiếng Việt
và những bức tƣợng cổ bằng đá thuộc nền văn hoá Chămpa
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
338
do thầy công phu sƣu tầm, lƣu trữ. Cạnh nhà thầy một chú
bê vàng đang chăm chú gặm cỏ trên bãi cỏ non
xanh...,niềm mơ ƣớc của thầy mong sau này bê lớn thành
bò sẽ có sữa uống hàng ngày...! Thầy Uyên vóc ngƣời cao
lớn, vẫn mặc chiếc áo vét-tông nâu kẻ sọc cũ, đầu có lúc
còn đội chiếc mũ phớt đã sờn, nƣớc da nâu vẻ phong trần,
bộ mặt thì rất linh lợi toát lên một vẻ trí thức thông minh
“uyên bác”, nhất là những khi thầy cƣời, miệng lấp lánh
mấy chiếc răng vàng, trông thầy vẫn lịch sự, duyên dáng,
oai vệ ... nhƣ các ông tham, ông cử ngày xƣa. Tuy nhiên
thầy rất hiền, ân cần tốt bụng, rất quý các học trò nghèo của
mình, ăn ở cùng với họ, giúp họ học hành tiến bộ và rất
thân ái, thông cảm với các giáo viên trẻ chúng tôi.
Mỗi lần đi dự giờ chúng tôi để rút kinh nghiệm, thầy góp
ý rất thận trọng, thân ái, chân thành và xây dựng. Học sinh
và giáo viên trẻ chúng tôi rất quý thầy.
Hoà bình lập lại, trƣờng chuyển ra Thị xã, gia đình vợ
con ra gặp thầy, cả nhà đoàn tụ đƣợc ít lâu..., rồi về Hà Nội,
mình thầy ở lại Thị xã Thái Nguyên với một ngƣời con gái
nhỏ học cuối cấp 2 tại trƣờng, trong một nhà dân, tiếp tục
dạy học. Một ngày cuối năm ấy (1955) sau đám tang của
em Phƣớc, một học sinh Miền Nam tập kết đang học lớp 8
mất vì bị nhiễm uốn ván ( bàn chân vô ý đá phải một thanh
tre trên công trƣờng đang xây dựng các lớp học trên đồi...)
thì thầy phải nhập viện vì căn bệnh kiết lỵ và đã ra đi quá
đột ngột có lẽ do suy tim mà không biết.
Hai cái tang đến cách nhau khoảng một tuần lễ của một
ngƣời trò thân yêu và một ngƣời thầy đáng kính đã là một
kỷ niệm buồn mà bất cứ ai đang dạy và học tại trƣờng ngày
đó không thể nào quên đƣợc.
Lƣơng Vĩnh Khang (Trích Một thời để nhớ - tập 2. Sđd)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
339
NHỚ TRƢỜNG XƢA
NGÔ QUYỀN - LƢƠNG NGỌC QUYẾN
NHỚ THẦY NGUYỄN VĂN UYÊN
Phạm Hồng Cự
Năm 1953, khi chúng tôi tốt nghiệp cấp 2 thì cũng vừa
lúc trƣờng cấp 2-3 Lƣơng Ngọc Quyến về sáp nhập với
trƣờng Ngô Quyền lấy tên là trƣờng cấp 2 - 3 Lƣơng Ngọc
Quyến.
Không hiểu vì sao, theo quy định nào mà lúc này học
sinh gọi thày giáo là “anh”, cô giáo là “chị” và xƣng “tôi”
(?), mặc dù có những thầy nhƣ thầy Bùi Quang Huy Hiệu
trƣởng, Thầy Nguyễn Văn Ngà dạy Pháp văn đã rất già.
Còn một việc thể hiện “tính dân chủ” là cứ cuối mỗi tuần
sau buổi học cả lớp lại họp để nhận xét phê bình giáo viên.
Viết đến đây, những kỷ niệm vô cùng thân thƣơng về
thầy Nguyễn Văn Uyên lại trở về trong tôi. Nhà tôi vốn ở
Tân Cƣơng, nên khi trƣờng Ngô Quyền chuyển về đây, cha
mẹ tôi đã đón thầy Uyên về ở trong nhà. Vốn ngƣời Hà
Nội, nhƣng thầy đã đƣa cả gia đình lên Việt Bắc theo
kháng chiến. Nhƣng rồi cuộc sống quá khó khăn, thầy đành
phải gửi gia đình về Hà Nội, chỉ giữ lại anh con cả Nguyễn
Nhật Quang ở lại cùng thầy. Năm 1949, anh Quang xung
phong đi bộ đội, nhƣng sức anh quá yếu nên ít lâu sau anh
quay về Thái Nguyên sống bên thầy và tiếp tục đi học.
Tôi còn nhớ mãi hình ảnh thầy trên lớp, đặc biệt là thầy
không bao giờ phải cầm sách vở, giáo án. Nhƣng thầy vẫn
dạy đầy đủ, giờ giấc chính xác đến từng phút. Lần nào cũng
vậy, khi thầy vừa nói xong câu “lần này ta dừng ở đây” thì
tiếng kẻng báo hết giờ cũng vừa điểm, anh em chúng tôi vỗ
tay ầm lên. Cũng vì cuộc sống thiếu thốn đủ đƣờng , nên
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
340
quần áo thầy mang theo trở nên rộng thùng thình, khiến
thầy thƣờng luôn phải tay cầm phấn, tay xốc quần... và thế
là trong những biên bản nộp lên trƣờng , tuần nào cũng có
ý kiến phê bình thầy.
Vào học kỳ II (1951)đƣợc mấy tuần rồi mà không thấy
thầy. Mọi ngƣời đều xôn xao...
Rồi một ngày, bỗng nhiên thầy xuất hiện trở lại. Tôi còn
nhớ, thầy đứng trƣớc lớp, vừa nói, nƣớc mắt thầy rơm rớm,
đại ý : “Những ngày qua, tôi đã cố gắng để hoà mình với
cuộc sống kháng chiến, với các anh, các chị. Nhƣng đời
sống vật chất thì thiếu thốn, đời sống tinh thần thì lại quá
nặng nề, đau khổ...Vì thế, tôi đã định về với gia đình. Tôi
đã đứng bên hàng rào, chỉ cần một bƣớc là qua bên kia!
Nhƣng tình cảm của tôi với kháng chiến, với các anh, các
chị đã gọi tôi quay trở lại...Tôi sẽ cố gắng hết sức mình,
còn tất cả những gì khác là tuỳ thuộc ở các anh, các chị ”.
Cả lớp chúng tôi lúc ấy cùng gục xuống bàn khóc. Và
cũng từ đấy, chúng tôi đều trở lại gọi tiếng “Thầy” với thầy
Uyên, thầy Huy, Thầy Kim với sự ngƣỡng mộ và lòng kính
trọng.
Năm 1954, trƣờng có hơn 100 học trò nhập ngũ. Những
ngƣời ở lại cũng đi dân công đắp đƣờng
Đường ta rộng thênh thang ...tám thước (!)
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên...
Tôi còn nhớ, đúng vào chiều ngày 7/5/1954, khi chúng
tôi hoàn thành nhiệm vụ từ nơi làm đƣòng vừa trở về đến
Thị xã Thái Nguyên thì nhận đƣợc tin chiến thắng Điện
Biên Phủ. Rồi hoà bình lập lại, trƣờng lại tiễn hơn 30 bạn
đi thanh niên xung phong tiếp quản thủ đô.
Sang đầu năm 1955, trƣờng về thị xã, lúc đầu còn ở quả
đồi trên đƣờng từ ngã tƣ Kép Le đi Mỏ Bạch, đến năm sau
mới rời về vị trí hiện nay. Chúng tôi lên lớp 9, cũng là năm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
341
cuối cùng của cải cách giáo dục giai đoạn ấy, và cũng là
năm hoc có 3 học kỳ để trở lại với niên học bình thƣờng,
bắt đầu từ tháng 9.
Tháng 6/1956, chúng tôi tốt nghiệp khoá phổ thông 9 năm
cuối cùng của trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến để cuối năm đó
vào học khoá I của các trƣờng Đại học Bách Khoa, Tổng
hợp, Sƣ phạm, Nông Lâm.
Thầy Uyên, ngƣời thầy rất đỗi kính mến đã khắc phục
mọi khó khăn để đi cùng với kháng chiến, với trƣờng để
dạy dỗ nhiều lớp học sinh trƣởng thành. Vậy mà chỉ ít
tháng sau ngày trở về Thị xã, thầy đã lâm bệnh rồi qua đời,
để lại cho các lớp học sinh ngày ấy bao tình cảm kính trọng
và những kỷ niệm không bao giờ mất về một ngƣời thầy
tận tuỵ và đức độ.
Những kỷ niệm về thầy, về bạn, về trƣờng đã luôn đi
cùng tôi đến ngày nay và sẽ còn mãi mãi đi cùng với thời
gian, đi suốt cả cuộc đời.
Hà Nội, 2/10/2005 Phạm Hồng Cự
(Trích Một thời để nhớ- tập 2. Sđd )
BÁC HOÀNG NGỌC QUẾ
Lương Vĩnh Khang
Cán bộ công nhân viên của trƣờng, thời kỳ ở Tân Cƣơng,
chỉ có một ngƣòi, vốn là công nhân viên của trƣờng Ngô
Quyền chuyển sang, đó là Bác Quế (Hoàng Ngọc Quế).
Bác trƣớc đi lính khố đỏ, thuộc một binh đoàn do Pháp chỉ
huy, đã từng tham gia đánh nhau với Đức trong Đại chiến
thế giới lần thứ I (1914 - 1918) bên Pháp. Bác ngƣời cao,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
342
lớn, khoẻ mạnh, theo cụ Huy từ trƣờng Ngô Quyền chuyển
đến Tân Cƣơng Đồng Hỷ Thái Nguyên. Ngay từ những
ngày đầu bác là một nhân viên Lao công, kiêm thƣờng trực
bảo vệ... thực chất là một “khán trƣờng”, đánh trống, đƣa
chuyển thông báo của Ban giám hiệu tới các lớp, đi nhận
công văn và thƣ báo từ Bƣu điện hoặc Ty Giáo dục đóng ở
xã khác...Bác có một gia đình nhỏ gồm vợ, nghe nói là một
“cô đào” và một ngƣời con gái - con riêng của bác gái. Cả
gia đình sống trong một căn nhà tre, lá nhỏ tự dựng lấy ở
gần văn phòng trƣờng để tiện làm việc. Khi tôi mới về Ty
giáo dục Thái Nguyên nhận công tác, chính Bác Quế lên
Ty nhận công văn, đã đƣa tôi về trƣờng, anh Thu bố trí cho
tôi ở ngay văn phòng và cùng ăn cơm ở nhà bác Quế với
anh, do Bác gái nấu cho hàng ngày. Tuy là một lính khố đỏ
cũ đã từng trận mạc tận bên Tây, nhƣng Bác tính thật thà,
chất phác nhƣ một nông dân. Bác ít nói, nhƣng vui tính, cởi
mở, dễ gần. Đặc biệt bác làm việc gần nhƣ luôn chân luôn
tay, không mấy khi ngồi không: Việc trƣờng, việc nhà... có
thể nói Bác luôn tìm việc để làm ; đánh trống ra vào lớp
xong- Bác đánh rất chính xác - thì tranh thủ đƣa thông báo
tới các lớp, hoặc xếp sắp lại bàn ghế của một lớp học, cất
vào kho những bàn, bảng không dùng đến...Bác cứ cắm cúi
làm việc một mình, có khi Bác cõng hẳn một chiếc bàn trên
lƣng. Ra thị xã, trƣờng dựng ngay cho bác một căn nhà nhỏ
ở cạnh cổng trƣờng để ở kiêm phòng thƣờng trực. Giờ
nghỉ, học sinh qua lại đến nhà bác khá đông để tìm thƣ từ,
một vài thầy giáo ghé vào uống chén nƣớc hút điếu thuốc
lào...Bác vui vẻ tiếp mọi ngƣời...Cả trƣờng, ai cũng quý nể
bác ngƣời lao công cần mẫn - ngƣời đảng viên mẫu mực,
làm việc ở trƣờng cho đến khi đƣợc về hƣu...Rời trƣờng,
bác cùng gia đình sống khi thì ở xã Tân Cƣơng, coi nhƣ
quê hƣơng thứ hai, khi thì ở Thị xã với con cháu...Về hƣu,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
343
chẳng biết từ nguồn tin nào, bác chỉ tha thiết, gặp ai trong
các giáo viên cũ quen thân của trƣờng cũng hỏi cách thức
để về sứ quán Pháp tại Hà Nội khai báo, đòi lại “lƣơng hƣu
(?)” do chính phủ Pháp bồi hoàn cho những tháng năm Bác
đi lính, tham gia chiến trận tại Pháp... Tuy nhiên, không có
ai biết và giúp Bác Quế, ngƣời nhân viên thân quý của thầy
trò Lƣơng Ngọc Quyến một thời, đạt đƣợc ƣớc nguyện
cuối đời này. Lương Vĩnh Khang ( tài liệu chƣa công bố)
CẢM XÖC “CÂY MẬN NỞ HOA”
(Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến ngày ấy)
Nguyễn Đình Khâm
Thầy Nguyễn Đình Khâm sinh năm 1930. tốt nghiệp Ban sinh-
hoá Sƣ phạm cao cấp 1953; dạy cấp 2,3 ở Nghệ An; 1954 - 1955;
1955 – 1958: giáo viên, Phó hiệu trƣởng, Hiệu trƣởng trƣờng cấp
2-3 Lƣơng Ngọc Quyến, Thái Nguyên; Hiệu trƣởng Phân viện 5
HVCTQG Hồ Chí Minh; Vụ trƣởng vụ các trƣờng Đảng của Ban
tuyên giáo trung ƣơng.
...Ấy là những năm tháng đầu tiên khi hoà bình mới đƣợc
lập lại trên đất nƣớc. Chiến tranh đã lùi về phía sau, hoà
bình, xây dựng đã hiện rõ trƣớc mắt. Tôi đến trƣờng
LƣơngNgọc Quyến tháng 10 năm 1955, sau khi tốt nghiệp
khoá sƣ phạm cao cấp đầu tiên ở trong nƣớc ta và đã giảng
dạy gần 2 năm ở Nghệ An. Đƣợc đào tạo chuyên về sinh
vật và Hoá học , thế mà ở trƣờng tôi đã phải dạy thêm cả
toán, cả lý và ...cả nhạc nữa. Dạy ở cấp 2 và cấp 3. Dạy học
mới đƣợc một năm thì đã phải làm Hiệu phó; Hiệu phó
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
344
đƣợc một năm thì đã phải làm Hiệu trƣởng; Hiệu trƣởng
chƣa đƣợc nửa năm học thì đã phải ra đi để tiếp tục học
thêm ở nƣớc ngoài. Nhƣ vậy , tôi ở trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến chỉ chƣa đến hai năm rƣỡi. Cuối tuổi 25 đến trƣờng
và chƣa hết tuổi 27 đã phải xa trƣờng. Nhƣng đó là thời
gian mà tôi còn nhớ mãi.
Vừa ra khỏi chiến tranh, lại ở một nƣớc kinh tế lạc hậu
nhƣ nƣớc ta thì thiếu thốn trăm bề là lẽ thƣờng. Thiếu từ
cơm ăn, áo mặc cho đến sách vở, giấy bút, trƣờng sở...
Nhƣng - thật là lạ mà cũng thật là bình thƣờng- lòng ngƣời
thì luôn luôn phơi phới , tràn đầy tin tƣởng, tràn trề khát
vọng tƣơng lai.Tôi còn nhớ rõ trong lễ bế giảng năm học
1956- 1957 có tổ chức ở hội trƣờng khu tự trị Việt Bắc(có
cả Bí thƣ, Chủ tịch khu tự trị Việt Bắc và Giám đốc sở
Giáo dục khu tự trị Việt Bắc đến dự), khi bài nói của tôi
nêu lên khá cụ thể rằng trong những hoàn cảnh rất éo le của
học sinh, thiếu cơm, thiếu áo, thiếu chỗ ở, gia đình quá khó
khăn... đã nảy nở nhiều tấm gƣơng vƣợt khó, thƣơng yêu,
đùm bọc nhau để đạt đƣợc nhiều thành tích tốt trong học
tập và lao động xây dựng trƣờng... khi tôi nói đến đó, nhiều
thầy giáo và phụ huynh đã không cầm đƣợc nƣớc mắt,
những giọt nƣớc mắt xúc động, cảm thông, thƣơng yêu xen
lẫn với tự hào, tin tƣởng.
Học tập tốt, mà hoạt động ngoại khoá cũng hăng say sôi
nổi. Những buổi biểu diễn kịch và hát của thầy và trò đã
góp phần không nhỏ làm cho trƣờng nổi lên nhƣ một trung
tâm văn hoá củakhu tự trị Việt Bắc lúc bấy giờ.
Trƣờng đƣợc xây dựng ở địa điểm hiện nay là vào năm
1956. Học sinh là những ngƣời đã đặt những viên gạch đầu
tiên xây dựng trƣờng, nói đúng hơn là cuốc những nhát
cuốc đầu tiên vì các lớp học đều toàn là tre, nứa, lá. Học
sinh đã san đất đồi làm nền cho gần 20 lớp học. Mỗi lớp
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
345
học là một ngôi nhà lá riêng, các lớp cách nhau một quãng
vừa phải để tiếng thầy giảng ở lớp này không gây ảnh
hƣởng đến lớp khác (một kiểu thiết kế khá sáng tạo!)
Khu vực đồi núi mà trƣờng chuyển đến xây dựng là một
quả đồi trọc. Trên đồi hoang vắng có môt túp lều của hai bà
cháu. Cạnh túp lều có môt cây mận. Túp lều đƣợc dời đi
nhƣng cây mận đƣợc giữ lại. Khi trƣờng vừa dựng xong thì
cũng là lúc cây mận nở những bông hoa đầu tiên. Bà cụ đã
ở trong túp lều trƣớc đó kể lại rằng bà đã trông đợi bao
nhiêu năm mà cây mận vẫn chƣa ra hoa. Đến nay trƣờng
xây dựng xong thì thấy những bông hoa đầu tiên đó. Thật
là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hàm một tứ thơ rất hay.
Vốn có một ít hiểu biết về âm nhạc, tôi đã dựa vào tứ thơ
đó để soạn ra bài “Cây mận nở hoa”. Bài hát chỉ đơn giản
kể lại một câu chuyện về sự hoà hợp giữa trời đất và con
ngƣòi hƣớng về một tƣơng lai tốt đẹp.
Thật vậy, đoạn đầu của bài hát nêu lên những hình ảnh:
Nắng hồng, ngày xuân, mái trƣờng thơm mùi lá mới, cây
mận nở hoa. Đó là cảnh rất thực, cảnh, mà cũng là lòng
ngƣời thời đó.
Đoạn hai kể lại câu chuyện nở hoa đúng nhƣ thật, không
thêm bớt, không trau chuốt gì.
Cảnh thực, ngƣời thực, chuyện thực là nhƣ thế. Đúng
nhƣ lớp học sinh trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến thời đó là nhƣ
thế: Trong gian khó vẫn vui tƣơi, sống hết mình, tâm hồn
luôn “phơi phới dậy tƣơng lai”, cái tƣơng lai mà họ đã nắm
chắc, không mảy may nghi ngờ. Và tƣơng lai mơ ƣớc của
ngày đó đã là hiện thực ngày nay cũng nhƣ chắc chắn sẽ là
hiện thực ngày mai còn đẹp đẽ hơn gấp nhiều lần.
Xuân 2001 Nguyễn Đình Khâm
(Trích Một thời để nhớ - Sđd.)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
346
MỘT PHẦN TƢ THẾ KỶ GẮN BÓ VỚI TRƢỜNG
LƢƠNG NGỌC QUYẾN THÂN YÊU
Lại Đức Thông
Suốt 26 năm 5 tháng công tác và giảng dạy ở trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến (từ tháng 1/1955 đến tháng 6/1981 về
nghỉ hƣu), tôi đã có rất nhiều lần vui với cái vui của trƣờng,
lo với cái lo của trƣờng. Trƣớc hết, cái vui lớn nhất của tôi
là đƣợc đón Bác Hồ về thăm trƣờng ngày 13 tháng 3 năm
1960 mà tôi đã kể tỉ mỉ trong tập san kỷ niệm 50 năm thành
lập trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến.
Tôi đã vui vì đƣợc chứng kiến sự ra đời của trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến (tháng 10 năm 1946) mà tới ngày nay
tôi vẫn đƣợc gặp một số học sinh lớp đầu tiên nhƣ Đỗ Bá
Chƣơng, Đỗ Ân, Lƣơng Thái Hà, Trịnh Hải, Nguyễn Tinh
Tú, Lƣu khánh Mỹ, Lƣơng Bạch Yến…Chúng tôi gặp nhau
trong tình cảm của những ngƣời đã sống ở Thái Nguyên
thời xa xƣa và cả những ngƣời đã gắn bó với trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến thân yêu.
Trong hơn 26 năm làm việc và giảng dạy ở trƣờng, năm
nào tôi cũng đƣợc đón mấy trăm học sinh mới, mấy trăm
phụ huynh mới, tiễn đi mấy trăm học sinh tốt nghiệp phổ
thông. Và cứ dăm ba năm lại đƣa đi và đón về hàng chục
giáo viên. Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu kỷ niệm!
Tôi lại đƣợc giảng dạy cho gần 100 học sinh miền Nam
ra Bắc học tập , cho những học sinh dân tộc từ Cao Bằng,
Bắc Kạn về học cấp 3 và cả những học sinh của nƣớc bạn
Lào. Những học sinh nay đã trên dƣới 60 tuổi và đều rất
trƣởng thành và tiến bộ. Trong số này nhiều học sinh đã giữ
những trọng trách trong một số cơ quan trung ƣơng của ta
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
347
và của Lào.
Chúng tôi không thể không nhắc đến những học sinh cũ
Lƣơng Ngọc Quyến rất thuỷ chung, rất tình nghĩa. Những
ngƣời thầy giáo già nhiều lúc rất xúc động trƣớc tình cảm
của ngƣời học trò, nay đa số cũng đã trên dƣới 60 tuổi rồi,
có cả một số đang đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo tỉnh,
thành phố Thái Nguyên và một số cơ quan xí nghiệp lớn ở
địa phƣơng và trung ƣơng. Lại Đức Thông
( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
NHỚ LẠI MỘT THỜI
Nguyễn Huy Ái
Thầy Nguyễn Huy Ái sinh ngày 16 – 11 - 1928. Đã kinh qua các
công tác: Giáo viên, Hiệu trƣởng, Trƣởng phòng chuyên môn khu
giáo dục liên khu IV; Phó trƣởng ty giáo dục tỉnh Hà Tĩnh; Nha
giáo dục phổ thông; Hiệu trƣởng trƣờng cấp 2-3 Lƣơng Ngọc
Quyến ( 1959 – 1962 ); Trƣởng đoàn chuyên gia giáo dục TW ở
Lào ( trƣớc 1975); Phó trƣởng đoàn chuyên gia giáo dục tại
Campuchia, Phó vụ trƣởng Vụ quan hệ quốc tế Bộ Giáo dục &
Đào tạo. Đã nghỉ hƣu.
1958. Tôi ở địa phƣơng lên phòng cấp 2,3 Nha giáo dục
phổ thông đã 2 năm. Phòng cấp 2,3 tập hợp nhiểu cán bộ
giáo viên từ các địa phƣơng lên: các anh Huỳnh Lý,
Nguyễn Đức Nam, Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Kỳ…Đầu năm 1958,
một loạt các lớp chỉnh huấn đƣợc tiến hành. Do nhu cầu
bức thiết của việc xây dựng nền giáo dục mới , của việc cụ
thể hóa đƣờng lối quan điểm giáo dục cách mạng, Nha giáo
dục phổ thông thành lập bộ phận kiểm tra nghiên cứu gồm
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
348
các anh Nguyễn Kỳ, Huỳnh Lý, Hoàng Ngọc Di, Hà Sĩ Hồ,
Nguyễn Hữu Tƣởng và tôi. Tôi còn nhớ, công trình đầu
tiên của bộ phận nghiên cứu là xây dựng văn bản về giáo
dục lao động trong trƣờng học.
Ngành giáo dục đang ở vào thời điểm có nhiều chuyển
biến tích cực. Trung ƣơng Đảng ra quyết định về tăng
cƣờng cán bộ xuống cơ sở. Anh Nguyễn Kỳ đƣợc đƣa vào
Nghệ An, Anh Hà Sĩ Hồ về trƣờng cấp 3 Bắc Ninh. Tôi về
trƣờng cấp 2, 3 Lƣơng Ngọc Quyến, Thái Nguyên.
Trƣớc khi về Bộ cho tôi xuống trƣờng kiểm tra nắm tình
hình vào cuối năm 1958. Lần đầu tiên lên đoạn dốc đất đỏ
ở cổng trƣờng, tôi gặp bác Quế. Hai vợ chống bác mời tôi
uống chè Tân Cƣơng ƣớp hoa sói. Xƣa nay tôi vẫn chỉ
uống nƣớc lã đun sôi, thế mà đã bị chinh phục ngay bởi
chén trà nƣớc trong xanh phảng phất hƣơng thơm là lạ.
Và ngày 25 tháng 3 năm 1959, tôi trở lại cơ sở chính
thức nhận nhiệm vụ làm Hiệu trƣởng cấp 2,3 Lƣơng Ngọc
Quyến.
Nhƣ trên tôi đã viết: “trở lại cơ sở” là có lý do. Trƣớc khi
lên Bộ, tôi đã có thời gian dài ở cơ sở ngành. Và thế là tôi
về Lƣơng Ngọc Quyến với tâm trạng háo hức, mong áp
dụng đƣợc những gì làm đƣợc và những gì chƣa làm đƣợc
trong những năm đầu vào nghề, thử nghiệm những gì đã
thu nhận đƣợc qua những cuộc bàn luận về chuyên môn ở
Nha giáo dục phổ thông. Đó là hành trang của một nhà giáo
dục trẻ, ở độ tuổi 30, về một địa phƣơng mà câu thơ “Rét
Thái Nguyên rét về Yên Thế” vẫn đọng lại trong tôi qua
bài thơ bất hủ của Tố Hữu mà tôi đã dạy cho học sinh.
Tôi thích nghề dạy học, nhƣng “số” tôi cứ bị dịch dần
khỏi việc dạy học! Tôi trở lại đƣợc cơ sở, tôi sung sƣớng và
hăm hở, cái động hình tâm lý rất cần thiết cho sự tiến bộ.
Trƣớc khi về Lƣơng Ngọc Quyến tôi đã dạy ở 2 trƣờng,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
349
làm Hiệu trƣởng ở một trƣờng, làm lãnh đạo phòng chuyên
môn khu giáo dục liên khu IV, lãnh đạo ở một ngành giáo
dục tỉnh. Thời gian ở Bộ, tuy không dài nhƣng rất bổ ích.
Tôi về Lƣơng Ngọc Quyến với một hành trang vốn liếng
nhƣ vậy.
Và cái vốn đó đƣợc nhân lên gấp bội trong bối cảnh xã
hội của những năm 60: quyết tâm và hăm hở cua thời kỳ
khôi phục sau chiến tranh, quyết tâm khẳng định đƣờng lối
giáo dục mới cửa những con ngƣời xung quanh tôi, thầy
giáo có, học sinh có, lãnh đạo có.
Những thầy giáo trẻ, lứa đào tạo đầu tiên của cách mạng
xuất phát của họ có khác nhau, nhƣng đều chung một nhiệt
tình của tuổi trẻ sẵn sàng đi theo đƣờng lối quan điểm mới.
Những học sinh, tồn lƣu lại từ những năm đầu lập lại hoà
bình, phần lớn có khó khăn trong cuộc sống, nay đàng
hoàng bƣớc vào những lớp cuối cùng của phổ thông, cánh
cửa của đào tạo đang mở rộng: cái chất của học sinh này là
tiền đề rất quan trọng, làm cho khẩu hiệu “Tất cả vì học
sinh thân yêu ” có điều kiện để trở thành hiện thực.
( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
BÁC VẪN CÕN MÃI
Nguyễn Huy Ái
Sáng ngày 13-3-1960 phía cổng lớn của trƣờng, đã nghe
tiếng ô tô và tiếng ngƣời lao xao. Theo một cảm tính rất tự
nhiên, chúng tôi muốn chạy ùa ra cổng. Nhƣng đoàn xe đã
từ từ lên dốc thoai thoải rợp bóng cây bạch đàn vào sân
trƣờng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
350
Mọi ngƣời đã xuống xe. Ngoài Bác và Bác Chu Văn Tấn
ra , tôi không còn nhận ra ai đƣợc nữa. Tôi lúng túng, mời
Bác vào nghỉ ở phòng khách….Bác hiền từ bảo nhỏ: “Đi
thôi cháu. Bác không nghỉ, cháu đƣa Bác đi xem trƣờng”
Trƣớc tiên Bác vào nhà trẻ. Bác cầm tay các cháu bé, hỏi
han các chị giữ trẻ. Sang nhà bếp xem một lƣợt, bác hỏi:
“Nhà bếp hôm nay sạch. thƣờng ngày có sạch thế này
không hay hôm nay Bác đến mới sạch” Bác cƣời, mọi
ngƣời đều cƣời theo, hoà với tiếng cƣời gần gũi, thoải mái
của Bác.
Bác tiếp tục đi xem vƣờn trƣờng và các cơ sở khác. Trời
hơi nắng, sợ Bác mệt, bác Tấn đề nghị Bác về nghỉ. Bác trả
lời: “Chƣa về đƣợc. Còn phải nói chuyện và chụp ảnh với
các cháu đã”. Quay trở lại sân trƣờng, Bác dừng ngắm nhìn
toàn cảnh xung quanh: ven các đƣờng đi, cạnh các lớp học,
cây cối mọc xanh um. Hai bên đƣờng “Kết nghĩa Khánh
Hoà”, những rặng phi lao thẳng tắp. Hai bên đƣờng “Thanh
niên” là những cây bạch đàn với dáng dấp to khoẻ. Bác gật
đầu tỏ vẻ hài lòng – Bác rất quan tâm đến trồng cây – và
quay lại nói chuyện với các học sinh và các cô giáo. Bác
căn dặn: “Các cháu phải học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết
tốt”. Bác với tay bế một cháu bé vào lòng, ngồi xuống và
quay về phía các đồng chí nhiếp ảnh và quay phim, Bác
bảo: “Chờ Bác đếm một, hai, ba, cƣời rồi hãy chụp”.
Bức ảnh còn đó, và Bác vẫn còn mãi trong tâm trí chúng
tôi, Bác hiền hậu, ân cần, gần gũi vô cùng! Đây là lần Bác
thăm trƣờng cấp 2 – 3 Lƣơng Ngọc Quyến, tỉnh Thái
Nguyên.
Từ đó, ngày 13-3 trở thành ngày truyền thống của trƣờng.
Tháng 1 năm 1970 Nguyễn Huy Ái
( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
351
MẤY KỶ NIỆM VỀ NHỮNG NGÀY ĐẦU
CỦA “MỘT THỜI LƢƠNG NGỌC QUYẾN”
Trịnh Trúc Lâm
Vào năm 1957, trƣờng có thêm khá nhiều anh chị
em giáo viên mới về công tác, trong số đó có một số anh
em gia đình ở Hà Nội.
Những ngày đầu, công tác xa nhà, xa Hà Nội đâu dễ
đã quen ngay, nên nhiều ngƣời trong số chúng tôi thƣờng
tranh thủ về nhà vào chủ nhật. Thật chết cƣời với anh Thế
Hùng - quần áo cả tuần thay ra cuộn đấy, để chủ nhật mang
về, đƣa ra hiệu giặt là !..Còn bác Nguyễn Ngọc Dự thì tuần
nào ở nhà lên cũng có thức ăn bác gái làm dự trữ cho cả
tuần!....
Hồi đó, đƣờng tầu chƣa có, ôtô cũng ít, vả lại cũng
không phù hợp với kiểu giờ “tranh thủ” đi về nên chúng tôi
phải tranh thủ đạp xe đạp. Thế là trong tập thể tự nhiên
hình thành một “Đội đua xe đạp đƣờng trƣờng”, chúng tôi
tôn bác Dự làm đội trƣởng vì tuy tuổi cao (năm mƣơi hai)
nhƣng trông bác còn trai tráng lắm, vả nữa bác nhờ có
chiếc xe đạp “Pơgiô” loại “đờ luých” nên cứ đạp phăng
phăng, luôn dẫn đầu đội đua, anh em khó mà vƣợt đƣợc.
Đội chúng tôi khá là đông, ngoài “Kiện tƣớng” Nguyễn
Thế Hùng ra còn có Vũ Đình Liên, Triệu Quang Vinh, Tạ
Kỷ, Nguyễn Phi Hùng, rồi Nguyễn Đức Hùng, Quang Sán,
Trúc Lâm…Hàng tuần, chúng tôi khởi hành sau khi tan học
buổi sáng thứ bẩy. Với nƣớc “mã hồi” lại đi có đoàn,
chuyện trò vui vẻ nên chỉ bốn giờ chiều là đã về đến “Hà
Nội thân yêu”. Chiều chủ nhật, chúng tôi lại đạp xe lên
Thái Nguyên và độ bẩy, tám giờ là đã có mặt đông đủ tại
khu tập thể trƣờng rồi tiếng cƣời, tiếng hát lại vang vang….
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
352
Vào những buổi tối hội tụ ấy, mấy anh em giáo viên
“thổ công” ở tập thể đều đến vây quanh và
chọc đùa.
- Bác Dự ơi. Tuần nào cũng thế, bác mệt chết!
- Ấy khoẻ lên là đàng khác, đấy các anh thấy không? đội
chúng tôi có anh nào gục đâu, chƣa ai lên muộn, chƣa ai
rỗng giờ đấy nhé.
Thế rồi, ngày tháng trôi qua, anh em chúng tôi đã nguôi
dần nỗi nhớ nhà và cũng vui với công việc, với không khí
ngày càng đoàn kết ấm cúng của tập thể giáo viên nhà
trƣờng. Những chuyến rủ nhau đi về cũng thƣa dần, chỉ còn
lại có dẻo dai nhất vẫn là bác Dự vì bác gái ở nhà đau yếu
luôn. Thế là thay vào cảnh “cắt cơm bơm xe” vào thứ 7
hàng tuần là cảnh “đồng đội” ra hiên nhà tiễn bác Dự một
mình đạp xuôi về Hà Nội.
Một buổi tối chủ nhật, chúng tôi lại đón bác Dự trở lại
trƣờng. Vẫn lỉnh kỉnh nào lọ, nào túi. Vừa gặp anh em,
bác đã hổn hển nói với anh Đặng Nhật Tân là tổ trƣởng:
- Anh Tân ơi. Anh thông cảm với tôi, chứ hết hơi rồi.
Anh giúp cho tôi không có giờ thứ 6 thứ 7 vậy. Tôi về còn
chăm sóc đƣợc bà ấy ốm. Chứ nhƣ thế này thì hoá ra ngƣời
ốm ở nhà lại chăm sóc ngƣời khoẻ về thăm mất.
Đƣợc thể chúng tôi trêu bác:
- Hay bác đón bác gái lên đây ở tập thể!
Anh Tân cƣời hóm hỉnh:
Bác muốn có thời khoá biểu “nhƣ ý”, hay là có tờ giấy
quyết định này, nói xong anh vui vẻ giơ tờ giấy quyết định
(tiếp nhận của Sở giáo dục Hà Nội). Chúng tôi vội giằng
lấy và đọc to cho bác Dự nghe về việc Hà Nội chấp nhận
đơn xin chuyển của Bác.
...Thế là tối hôm đó, bên ấm trà ngon trong phòng bác Dự
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
353
chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau và ôn lại những “giai
thoại đƣờng về “ mà cƣời đến chảy nƣớc mắt. ( Báo Thái Nguyên )
NGƢỜI ĐÁNH TRỐNG TRƢỜNG NĂM ẤY
Trịnh Trúc Lâm
Bác Quế làm nhiệm vụ đánh trống trƣờng, sống đơn sơ
trong mái tranh nhỏ nơi góc cổng trƣờng. Hồi đó, tuy đã có
tuổi nhƣng thân hình bác còn to chắc lừng lững, quanh năm
mùa hè chỉ mặc một bộ áo cánh nâu bạc màu, mùa đông
bác khoác thêm cái áo dạ cũ của “lính tây” màu “cứt ngựa”,
rộng thùng thình, dài chấm gót với hai hàng khuy bằng
đồng vàng chéo. Bác cù mỳ, ít nói và hình nhƣ bác muốn
nói qua tiếng trống, tiếng trống của bác gióng lên nhƣ có
hồn, làm cho bao lớp thầy trò chúng tôi nghi nhớ và bình
luận.
- Trống báo thì khoan thai thúc giục……
- Trống vào lớp thì dứt khoát, đanh như lệnh.
- Trống ra chơi là nhịp trống vui.
- Trống tan học- trải dài như mãn nguyện……
Tôi quên sao đƣợc những sớm còn mờ xƣơng của ngày
đông gió bấc, trong khi cánh giáo viên trẻ chúng tôi còn vùi
đầu trong chăn ấm, thì từ văn phòng đã cất lên hồi trống
gọi, tiếng trống lúc đầu còn nhè nhẹ, khoan thai nhƣng rồi
mạnh dần lên và vội vàng nhƣ thúc giục.
Tác phong đánh trống của bác cũng rất “nhà binh”, bao
giờ Bác cũng “điểm binh” rồi mới giơ cao dùi trống điểm
từng tiếng rứt khoát nhƣ ra lệnh. Tôi thú nhất là dịp dồn
trong “3 hồi 9 tiếng” của bác, nhịp trống đến là nẩy nghe
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
354
vui mà nhƣ dồn nén thúc dục mọi ngƣời!
Sau hồi trống vào lớp, trƣờng lặng trong không khí tôn
nghiêm. Bác Quế lại bắt đầu đi dạo quanh khu trƣờng để
nhặt về kho mấy tàu lá cọ rơi qua đêm gió bấc hay vác
chiếc bàn gẫy mà học sinh mới chuyển ra hiên.
Giữa ngày đông giá, cũng có lúc mặt trời ló dạng, những
tia nắng ấm chiếu qua kẽ lá bạch đàn in thành những đốm
vàng nhảy nhót trên sân, bác Quế ra ngồi ánh nắng lung
linh, tay cầm dao, pha mấy thanh lạt để rồi khi tan học, học
sinh về hết, bác mới đi tìm buộc lại hàng lá cọ mới bị xô
nơi hiên lớp và mấy cái phên liếp đậy cửa sổ bung ra.
Bác cứ sống lẳng lặng, cần mẫn nhƣ thế nhƣng đâu có
phải là lầm lì; sự việc sau đây làm tôi cũng phát hiện ra bác
cũng “hóm” và “nhộn” lắm!
Hôm đó, tôi có giờ “thao diễn” trƣớc tổ. Khi chuẩn bị
lên lớp, tôi đến bên bác:
- Bác ơi, cháu có giờ thao diễn, bác trống “duyn” vào
nhé.
- Anh yên trí - bác mỉm cƣời nhìn tôi.
Thật không ngờ trong giờ giảng ấy, khi đã gần hoàn tất
bài dạy, bỗng tôi nghe thấy từ văn phòng tiếng dùi gõ vào
tang trống đến “cắc” một tiếng, tôi thầm mỉm cƣời hiểu ý
và thế là tôi “gói gém” kết thúc bài giảng vừa lúc bác điểm
một hồi trống vừa nhanh vừa vui.
Ra khỏi lớp, tôi vội vàng xuống văn phòng và thấy bác
mỉm cƣời.
- Đƣợc chứ anh Lâm?
- Bác ơi, sao bác lại sáng tác ra tiếng “cắc” tuyệt vời
đến thế, từ trƣớc đến giờ có bao giờ bác đánh theo kiểu đó
đâu.
Bác mỉm cƣời hiền từ và vui với đƣờng nheo khoé mắt.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
355
Thế rồi, năm 1962 tôi phải tạm biệt mái trƣờng Lƣơng
Ngọc Quyến để đến nhận công tác tại một trƣờng khác.
Mấy năm sau, tôi đƣợc tin dữ: bác Quế bị mù và hỏng cả
hai mắt! Tin đó làm tôi càng thƣơng và nhớ bác da diết.
Tôi cứ ân hận mãi là khi tìm đến thăm đƣợc bác thì cũng
là lúc bác đã chữa khỏi bệnh. Những “Bác sĩ - Học trò” đã
chụm đầu vào để trả lại ánh sáng cuộc đời cho đôi mắt của
bác.
Đến hôm nay, khi trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến gọi đàn
con từ bốn phƣơng về tụ hội, chúng tôi ai nấy cũng đều
mong đƣợc gặp lại bác, để đôi mắt ấy đƣợc vui thấy những
mái ngói đã thay cho mái là ngày nào mà bác đã từng góp
nhặt gìn giữ từng tàu lá, để bác thấy những anh giáo trẻ
chúng tôi ngày ấy nay đều đã mái đầu tóc bạc và để chúng
tôi đƣợc chạy đến ôm lấy bác trong nghẹn ngào xúc động…
Nhƣng những mong ƣớc ấy không còn thực hiện đƣợc nữa
rồi. Bác Quế đã vĩnh viễn đi xa, để lại trong chúng tôi một
niềm thƣơng tiếc và âm vang một tiếng trống trƣờng ....
( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
VẾ VỚI “MẸ CHỮ” THÂN YÊU
LƢƠNG NGỌC QUYẾN
Vi Hồng
Chúng tôi những đứa học sinh Dân tộc thiểu số với con
số ít ỏi của trƣờng phổ thông cấp ba Lƣơng Ngọc Quyến
cách đây đã trên ba mƣơi hai năm. Hôm nay chúng tôi trở
lại với trƣờng - với bà mẹ của chữ nghĩa rất thân yêu
Lƣơng Ngọc Quyến, chúng tôi nhớ lại những gì đã gần trọn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
356
đời mà không thể nào quên đƣợc của một thời học sinh cấp
3… Hôm nay trở lại với mẹ chữ thân yêu Lƣơng Ngọc
Quyến, đầu chúng tôi đã bạc, đã lên kính lão. Ở tuổi này -
cái tuổi năm muơi “ít lầm lẫn” (nhi bất hoặc) khi gặp lại
nhau thƣờng hay ôn lại một đoạn đời đẹp nhất. Chúng tôi
không hẹn nhau mà ai cũng thống nhất cho rằng đoạn đời
đẹp nhất của chúng tôi là những năm tháng làm học sinh
Lƣơng Ngọc Quyến. Chứ không phải nhƣ lứa tuổi vừa rời
ghế đại học thƣờng cho rằng: đời đẹp nhất là những năm
làm sinh viên.
Đoạn đời chúng tôi cho là đẹp nhất ấy lại là những ngày
đầy gian khó! Gian khó vô cùng mà lại vƣợt qua đƣợc để
đạt tới đích. Đó chẳng phải là điều đáng tự hào? Cho nên
chúng tôi cho nó là đẹp nhất, là đoạn đời đáng ghi nhớ
nhất.
Để có thể trở thành đứa con của mẹ chữ Lƣơng Ngọc
Quyến chúng tôi đã phải bƣớc bộ vƣợt qua một chặng
đƣờng rừng trên ba trăm cây số. Và để trẩy chữ ấy chúng
tôi đã gặp biết bao vất vả, gian nan, nguy hiểm… Nhiều
bận chúng tôi đã tự hỏi rét mƣớt thế này, khổ sở thế này,
sao chúng mình lại phải đi học nhỉ? Bố không bắt học, mẹ
cũng chẳng ép”? Đó là câu hỏi mùa đông, trên con đƣờng
về tết. Sau vài ngày tết lại đi xuống trƣờng cái tết miền núi,
ngày ấy thiêng liêng là vậy : - Mùa hè khi gặp mƣa lở ngàn,
dông bão rung rừng già, nhổ cổ thụ, nƣớc ngập suối cản lối
đi …chúng tôi lại hỏi nhau và tự hỏi mình bằng những câu
hỏi của mùa oi ả….
Sức mạnh nào đã làm chúng tôi vƣợt qua ba trăm cây số
đƣờng rừng để đến với bà mẹ chữ Lƣơng Ngọc Quyến thân
yêu? Ngày ấy việc đi học xa, vƣợt qua nhiều gian khó cũng
là chuyện đơn giản nhất. Vì chúng tôi rất thích học. Thích
học thì xa mấy, gian khó mấy chúng tôi vẫn cứ đi. Bởi còn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
357
rất nhiều bạn bè của chúng tôi, họ không vƣợt gian khó
cùng chúng tôi, để đến với mẹ chữ Lƣơng Ngọc Quyến thì
họ đã không đi.
Mấy anh em chúng tôi vƣợt mọi gian khó để đi học theo
một câu ca ngƣời Tày. Suốt dọc đƣờng ba trăm cây số,
những lúc mệt mỏi, gian khổ nhất câu ca ấy đã đến với
chúng tôi nhƣ một lời an ủi động viên tha thiết. Và chúng
tôi cất tiếng ngân nga giữa rừng sâu, núi thẳm:
“Anh đội nắng đội mưa đến trường học, Bụng nhiều
sách, nhiều chữ càng nhiều nghĩa nhân...”
Ngày ấy chúng tôi không hiểu ý nghĩa câu ca mà chỉ
thuộc ở cửa miệng, nhƣng chúng tôi hiểu và nghĩ: ngƣời có
nghĩa nhân chắc là ngƣời rất tốt. Muốn vậy thì phải học,
phải tìm đến mẹ chữ, dù mẹ chữ ở tận chân trời, góc biển.
Hơn nữa, ngày ấy các bậc cha mẹ, ông bà đã giúp
chúng tôi nghĩ thêm: hãy đi học lấy chữ cách mạng, chữ
của Bác Hồ. Chữ cách mạng, chữ Bác Hồ chứa nghĩa nhân
nhiều hơn tất cả mọi chữ cũ, chữ xƣa. Bấy nhiêu suy nghĩ,
bấy nhiêu nhân nghĩa đã nâng những bƣớc chân tuổi trẻ
chƣa thoát vòng thơ ngây của chúng tôi vƣợt ba trăm cây số
đầy gai góc đến với mẹ chữ thân yêu Lƣơng Ngọc Quyến.
Những học sinh ngƣời dân tộc ở Cao Bằng là những
ngƣời xa nhất, trừ hai anh học sinh lớp trƣớc bọn chúng tôi
một năm, ngoài những gian khổ nhƣ chúng tôi các anh ấy
còn phải vƣợt qua bom đạn của thực dân Pháp thì nhóm
chúng tôi là những học sinh cấp ba gian khổ cuối cùng.
Năm 1954, hoà bình vừa lập lại, chúng tôi cũng cất bƣớc
lên đƣờng về Thái để tìm thầy, tìm trƣờng để học chữ.
Chúng tôi nhận đƣợc giấy báo thi tuyển vào lớp 8. Tám anh
em, không có chị - chúng tôi, sau lƣng đeo ba lô, bên vai
khoác túi gạo, Túi gạo nặng gấp mấy cái ba lô hành trang
của những học sinh rất nghèo mà.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
358
Sáng, loài chim chƣa thức, chúng tôi đã đặt chân lên
đƣờng “trẩy chữ”.
Tối “khuất” mặt ngƣời chúng tôi tìm vào bản ngủ trọ,
nấu cơm, gói cơm nắm cho ngày hôm sau. Đôi chân non trẻ
lâu nay chỉ quen leo núi quanh quẩn một góc trời nhỏ hẹp
của quê hƣơng, nay bỗng ruổi trên đƣờng dài, từng khớp
xƣơng, từng đốt xƣơng nhƣ muốn rời khỏi cơ thể: đau
nhức, tê dại tƣởng nhƣ không còn là bàn chân, đôi cẳng của
mình nữa. Nhƣng chúng tôi vẫn động viên nhau cố ruổi
trên đƣờng dài, tƣởng nhƣ vạn dặm. Chúng tôi cứ đi nhƣ lê
nhƣ bò trên đƣờng. Và, chúng tôi đếm từng đêm, từng
ngày, chúng tôi đếm đến ngày thứ chín- kể từ ngày tập kết
xuất phát từ thị xã Cao Bằng- chiều vào choạng vạng thì
chúng tôi đặt chân lên thị xã ATK (an toàn khu) Thái
Nguyên. Đến thị xã rồi, nhƣng lại phải ngƣợc lên Đu để
đến địa điểm thi.
Địa điểm thi ở giữa một rừng nứa ngút ngàn. Nhƣng mấy
hôm sau lại hoãn đến tháng sau mới thi tuyển vào lớp 8.
Chúng tôi lại ruổi ngƣợc đƣờng về Cao Bằng, rồi chỉ ở nhà
dăm hôm lại ruổi về ATK để thi. Thi xong lại ngƣợc để đợi
kết quả.
Trong số tám anh em Cao Bằng chúng tôi dự thi, kết quả
rớt một, còn một nữa bỏ học vì gia đình không thể kham
nổi tổn phí cho con đi học. Khoá học lớp 8 năm 1954 –
1955 có 6 học sinh ngƣời dân tộc thiểu số quê Cao Bằng,
hai là ngƣời Bắc Kạn và hai nữa là ngƣời Lạng Sơn. Vậy là
riêng lớp 8 năm đó có mƣời học sinh dân tộc thiểu số. Ở
hai lớp 9 ngày ấy chƣa có lớp 10 có thêm 3 học sinh thiểu
số ngƣời Thái Nguyên, ba nữa là ngƣời Bắc Kạn, hai nữa là
ngƣời Cao Bằng. Vậy là tổng số học sinh thuộc ngƣời dân
tộc thiểu số cả trƣờng ngày ấy chƣa quá hai mƣơi.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
359
Ngƣời đi học xa nhất là anh Phan Văn Hỏn, dân tộc
Nùng, quê ở Trùng Khánh – Cao Bằng, sát biên giới Việt
Trung. Anh Hỏn rẽ mây biên giới trở về đây với Mẹ chữ
thân yêu Lƣơng Ngọc Quyến đúng mƣời một ngày đƣờng
bộ. Anh cũng là con ngƣời khá đặc biệt: cao hai mét, nặng
trên tám mƣơi cân. Bây giờ anh là Phó tiến sĩ quân y, giữ
chức trung tá, phụ trách một bệnh viện quân đội.
Sau cái lần đầu chúng tôi đi mất chín ngày đƣờng bộ
ròng rã, những chuyến sau thƣờng chỉ mất tám ngày hoặc
gần tám ngày. Nhƣng đó là nói chuyện những chuyến đi
bình thƣờng. Còn thƣờng thì có ngƣời ốm, hoặc gặp những
bất trắc dọc đƣờng, cho nên mỗi chuyến đi thƣờng mất trên
10 ngày. Không kể về chuyện ốm đau, chúng tôi còn gặp
phải biết bao chuyện bất trắc dọc đƣờng – con đƣờng dài
trên 300 cây số, thì trên 200 cây số phải luồn rừng già. Có
bao nhiêu chuyện bất trắc trên con đƣờng “trẩy chữ” khiến
chúng tôi gian truân, vất vả đến nhƣờng nào.
( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
THƢ CỦA CỰU HỌC SINH LÀO
NHÂN NGÀY TRUYỀN THỐNG 13 - 3
Viêng chăn, ngày 09 tháng 3 năm 2001
Kính gửi: Ông Nguyễn Đăng Kền.
Hiệu trưởng trường THPT Lương Ngọc Quyến Thành phố
Thái Nguyên
Đồng kính gửi: Ông Nguyễn Huy Ái
Nguyên hiệu trưởng trường phổ thông cấp 2-3 Lương Ngọc
Quyến.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
360
Chúng tôi, những học sinh Lào đã từng học ở trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến những năm 1958 – 1961 đã nhận đƣợc
thƣ và giấy mời của quí trƣờng mời về dự lễ hội truyền
thống hàng năm (ngày 13 tháng 3, ngày Bác Hồ đến thăm
trƣờng) và đón nhận danh hiệu Anh hùng lao động.
Song do thời gian này ở CHDCND Lào đang diễn ra
nhiều sự kiện quan trọng của tổ quốc Lào và Đảng NDCM
Lào mà nhiều đồng chí trong chúng tôi phải tham gia nên
không thể sang dự lễ hội truyền thống của trƣờng ta đƣợc,
xin hẹn hàn huyên vào một dịp khả dĩ trong tƣơng lai.
Nguyên học sinh Lào trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến, xin
chúc lễ hội thành công tốt đẹp! Chúc các đồng chí và các
bạn vui vẻ hạnh phúc và thành đạt hơn nữa ở thế kỷ XXI!
Chúc tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt
Nam đời đời bền vững!
Kính thƣ
TM các bạn Lào
TS Uđôm Xichalơn
Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội CHDCND Lào
Nơi nhận:
Đ/C Viêng Kẹo Mahayxay
Tham tán văn hoá đại sứ quán
CHDCND Lào tại Hà Nôi
( Nhờ chuyển cho ông Nguyễn Huy Ái)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
361
NGÀY VỀ
TS Uđôm Xichalơn Phó chủ nhiệm văn phòng
Quốc hội CHDCND Lào
Thầy cũ đâu rồi bạn xưa đâu?
Ước chi lại tắm nước sông cầu
Ước chi trở lại thời thơ ấu
Thầy cũ bạn xưa lại gặp nhau
Kỷ niệm lần về thăm
Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến
Năm 1989 ( Trích Một thời để nhớ, tập2, Sđd)
NHẬT KÝ VŨ XUÂN
(Trích)
25-4-1969
Kỷ niệm của những năm tháng ấu thơ còn đọng lại đậm
nét trong mình, những ngày xuân nắng ấm, những ngày hè
chói chang, những ngày thu dìu dịu cảnh sắc nƣớc, trời,
mây, cỏ cây…gieo vào lòng mình nhiều cảm xúc, những
ngày đông mƣa rét, cứ tuần tự nhƣ thế nó đến rồi lại qua đi
với mình trên mảnh đất thân thƣơng và mình lớn lên bƣớc
vào cuộc sống.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
362
Mảnh đất Thái Nguyên xa lắc tuy cách mình có đến 8,9
trăm cây số rồi mà ngồi đây, mình vẫn mƣờng tƣơng ra nó
đậm nét đến thế. Đây cái gốc dã hƣơng cổ thụ cạnh ngôi
nhà mà mình đã sinh ra. Đây những đƣờng phố với những
hàng phƣợng vĩ đỏ chói trong mùa hè khẳng khiu đeo
những quả khô đen nhƣ bao kiếm trong mùa đông, những
rặng bàng mà năm nào cũng thay áo mới xanh biếc. Đây
con sông Cầu nƣớc lững lờ trôi chẩy xanh trong, từng góc
phố, từng căn nhà mình đều gắn bó với nó bằng những kỷ
niệm vui buồn…
Rồi con ngƣời Thái Nguyên, những đứa bạn cùng lứa
giờ đều đã trƣởng thành lên cả, đứa bay xa sang tận Ba
Lan, cũng có đứa lặn lội trên chiến trƣờng tận chân trời
phƣơng nam của tổ quốc.
Cái sân trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến gom góp bao nhiêu
đứa trẻ thơ của thị xã Thái Nguyên để rồi lại từ đó tỏa đi
muôn phƣơng những đứa con ngoan…
01-8-1972
...Tháng 8 tới lại nhớ lũ bạn bè nhiều…Xa tụi bay quá
chừng rồi…Cuộc sống dẫn dắt ngƣời ta đi…Cầu mong cho
chúng mày hạnh phúc đủ đầy và trọn vẹn. Không ít những
đêm trăng, không ít những trƣa hè tao nằm mơ màng và
sống dậy trong ký ức những kỷ niệm của tuổi ấu thơ, những
ngày tựu trƣờng, và có lẽ rằng đó là những giây phút mà
tao thấy hạnh phúc nhất ….
(NKVX, nhà xuất bản Quân đội nhân dân 2005, TR. 23,24,189)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
363
CÓ MỘT THỜI NHƢ THẾ
NGUT Bùi Kính Hùng GV dạy các lớp toán đặc biệt
1967- 1970, 1969 - 1972
Mỗi con ngƣời đều có một thƣ viện tinh thần. Nó đƣợc
cấu thành bởi vô khối những ẩn ức với những gam mầu đủ
loại, nó lƣu trữ thông tin về quá khứ, nó cất giữ tƣ liệu về
sự trƣởng thành của con ngƣời, nó lƣu giữ những tấm huân
huy chƣơng của tƣ tƣởng, nó dựng đài kỷ niệm về một thời
quá vãng thân thƣơng. Theo dòng chảy thời gian 39 năm
dạy học trên đất Thái Nguyên, thƣ viện tinh thần của tôi
nâng niu gìn giữ ấn tƣợng chẳng bao giờ phai mờ về 6 năm
dạy học tại trƣờng cấp 3 LNQ (1967-1973). Là ngƣời dạy
toán tôi quen nếp tƣ duy “trừu tƣợng”, vì lẽ đó tôi muốn
nói về những “ấn tƣợng” nhiều hơn là : “kỷ niệm”cho dù
những kỷ niệm đó rất tƣơi tắn và đầy mầu sắc lãng mạn.
1. Các lớp toán đặc biệt - vai trò và sứ mệnh của nó.
Trƣờng cấp 3 LNQ đã từng đƣợc uỷ thác trách nhiệm đi
đầu trong việc khai phá nội dung và phƣơng pháp đào tạo
bồi dƣỡng học sinh giỏi.
Năm 1967, miền Bắc nƣớc ta bƣớc vào giai đoạn đánh
trả quyết liệt cuộc chiến tranh phá hoại man rợ của đế quốc
Mỹ. Tiếng súng gầm vang trên các mâm pháo. Cả cộng
đồng nhộn nhịp khẩn trƣơng và quyết liệt, hào hùng và anh
dũng. Dàn đại hợp xƣớng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng thúc giục cổ xuý mọi ngƣời vừa dũng cảm bảo vệ tổ
quốc XHCN vừa tiếp tục chi viện cho miền Nam máu lửa.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Đảng và chính phủ đã lo ngay
việc đào tạo bồi dƣỡng hiền tài cho tƣơng lai. Hệ thống các
lớp “toán đặc biệt” đƣợc hình thành ở miền Bắc với sự ƣu
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
364
ái rất quan tâm đặc biệt của thủ tƣớng Phạm Văn Đồng và
hai bộ trƣởng Tạ Quang Bửu. Nguyễn Văn Huyên. Tại tỉnh
ta, các lớp toán đặc biệt đƣợc đặt tại trƣờng cấp 3 LNQ
1965-1972, và chúng tôi gồm có Lƣơng Đình Lũng, Lại
Thị Mỹ, Bùi Kính Hùng, Đào Thế Hƣng đƣợc giao nhiệm
vụ đi trên con đƣờng chƣa đƣợc khai phá. Không có tài
liệu, không đƣợc đào tạo cơ bản, chúng tôi chỉ có lòng say
mê khoa học và tinh thần trách nhiệm trƣớc thế hệ trẻ mà tự
học tự nghiên cứu để vừa chuyển tải nội dung chƣơng trình
vừa phát hiện bồi dƣỡng trí thông minh của học sinh. Cứ
thế, hàng năm chúng tôi cung cấp hàng chục học sinh đi
học ở nƣớc ngoài (những em này đều phải qua kỳ thi
nghiêm ngặt của bộ do đích thân bộ trƣởng Tạ Quang Bửu
ra đề). Thành quả ấy còn lƣu lại ở sự thành đạt của cả một
thế hệ học sinh trƣởng thành về chính trị và trong quân đội
và chính quyền còn giữ nguyên lòng tự hào về những năm
tháng học tại lớp toán đặc biệt. các anh chị đó đều có chung
một suy nghĩ rằng "cái lớn nhất là đƣợc thấy cô trao cho
phƣơng pháp tƣ duy và ngọn lửa nhiệt tình của của sự đam
mê khoa học” và vì thế sau này dù là sĩ quan cao cấp, nhà
khoa học, hay nhà doanh nghiệp, các vị đó đều có chung
một thói quen tìm kiếm, phát hiện, tranh luận và phản biện.
Đành rằng sự thành đạt của một con ngƣời phụ thuộc vào tỉ
thứ, sự đóng góp của chúng tôi còn khiêm tốn, song nghĩ về
những việc làm thời đó lòng chúng tôi cảm thấy dạt dào
niềm vui. Các anh chị cựu học sinh toán đặc biệt thân mến!
Xin gửi tới các anh chị những tình cảm thân thƣơng, xin
cùng những anh chị lƣu giữ những năm tháng đồng cam
cộng khổ, xin hãy dành cho những kỷ niệm ấy một vị trí
xứng đáng trong tâm hồn chúng ta. Xin chúc các anh chị
sức khoẻ, hạnh phúc, giầu có và sang trọng.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
365
2. Trƣờng LNQ, tấm gƣơng phản chiếu nguyên lý
phƣơng châm giáo dục của thời đại
Trƣờng cấp 3 LNQ trong những năm 60,70 là một địa
chỉ đỏ rèn tài, thể hiện sinh động nguyên lí phƣơng châm
giáo dục của một thời đại, thầy cô là những hậu duệ tƣ
tƣởng Paven Coocsaghin.
Năm tháng trôi đi ngày nay nhiều vấn đề đặt ra và xử lý
một cách mềm mỏng và uyển chuyển hơn, Nhƣng lúc đó
dân tộc ta đang tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh cho
nên nếu nhƣ trong giáo dục chất thép có nhiều hơn chất thơ
thì âu cũng là sự cần thiết vậy. Còn nhớ lúc đó các thầy cô
giáo đều thấm nhuần tƣ tƣởng “trƣờng học là pháo đài của
CNXH, giáo dục là công cụ của chuyên chính vô sản” Hình
mẫu của nhà giáo dục tài ba Macarencô là khuôn vàng sƣ
phạm để chúng tôi học tập. Thanh niên học sinh lúc đó
thƣờng đƣợc ghi nhớ câu nói nói nổi tiếng của Paven
Coocsaghin (một nhân vật lý tƣởng trong tiểu thuyết Thép
đã tôi thế đấy): “cái quí nhất của con ngƣời là cuộc sống.
Đời ngƣời chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót
xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí…” Vậy
đó thầy trò chúng tôi đã đƣợc rèn đúc nhƣ thế để vững vàng
về chính trị và chuyên môn. Nguyên lý học đi đôi với hành,
lí luận đi đôi với thực tế đã giúp chúng tôi gắn bó với nhân
dân, yêu lao động, yêu lí tƣởng. Trên nền tảng tri thức,
chúng tôi (thầy và trò) đƣợc giáo dục về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, về lý tƣởng cao đẹp của thanh niên, về
trách nhiệm công dân trƣớc những vấn đề đại sự của tổ
quốc.
Thủa ấy các sân chơi của thanh niên dù trong hoàn cảnh
chiến tranh vẫn vui trẻ thi vị mơ mộng nhƣng luôn gắn liền
với cái cao đẹp không thực dụng không nhuốm màu hƣởng
thụ. Chính vì thế mà những con ngƣời trƣởng thành thủa ấy
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
366
vẫn mang trên mình những dấu ấn riêng trong cuộc sống
hiện nay.
3. Chất thơ và chất thép của CON NGƢỜI - THẦY -
TRÒ - Trƣờng Lƣơng Ngọc Quyến.
Con ngƣời là sản phẩm của thời đại, nhớ về thầy trò
trƣờng LNQ thời đó trong tôi luôn luôn nâng niu trân trọng
những ấn tƣợng chẳng thể phai mờ sau:
- Thầy cô yêu nghề say mê chuyên môn, tận tụy chăm
chút cho từng tiết học.
Lấy sự thoả mãn niềm vui trí tuệ và sự tiến bộ của học sinh
làm động cơ thúc đẩy chuyên môn, không vụ lợi không
hãnh tiến.
- Vƣợt qua muôn vàn khó khăn, các em học sinh nêu
cao tấm gƣơng khổ công học tập, miệt mài học tập, tự
lực cánh sinh trong cuộc sống, tin tƣởng vào tƣơng lai.
Mỗi học sinh đều có ƣớc mơ và tình yêu cao thƣợng.
- Thầy cô giáo đều hiếu học, ham tự học, ham hiểu biết,
thích tranh luận, yêu lí tƣởng, phấn đấu vào Đảng với
động cơ trong sáng của ngƣời tri thức.
- Các đồng chí lãnh đạo nhà trƣờng tận tụy với công tác
quản lí, chăm lo đến tâm tƣ tình cảm của thầy trò, tôn
trọng nhân cách của giáo viên và học sinh. Cả cộng
đồng giáo dục của nhà trƣờng đều thƣơng yêu chăm sóc
hoc sinh với một tình cảm thân thƣơng đặc biệt.
- Các đồng chí đảng viên là những ngƣời anh trong cả
tâm trí của thanh niên giáo viên thời đó.
So với sau này có thể chúng tôi hơi mơ mộng pha chút
ảo tƣởng tiểu tƣ sản, nhƣng đoán chắc là chân thành và
trong sáng. Chính điều đó thắp lên trong trái tim chúng tôi
ngọn lửa nhiệt tình dẫn dắt chúng tôi đồng hành với dân tộc
trong cuộc Trƣờng chinh vĩ đại.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
367
4. Đôi điều suy nghĩ:
Lịch sử vốn thô ráp cuồn cuộn sức sống. Nó không cần sự
trau chuốt, nó có sự mạch lạc, minh triết riêng của nó. Nhớ
về trƣờng LNQ thân thƣơng trong tôi dâng trào những cảm
xúc mãnh liệt. Tôi chỉ e những cảm xúc đó khiến tôi không
khắc hoạ hết đƣợc sức sống cuồn cuộn đầy cảm hứng thi ca
của thời đó. Trong tôi vẫn còn in đậm nét hình ảnh các vị
lãnh đạo tiền bối khả kính, các anh chị ,các bạn đồng
nghiệp với mỗi ngƣời một vẻ, hào hoa, lịch thiệp, uyên bác,
nhân hậu đảm đang, thuần phác, trung thực. Con ngƣời và
sự kiện thời ấy luôn luôn chiếm lĩnh một vị trí trang trọng
trong thƣ viện tinh thần của tôi, nó khiến tôi bƣớc đi trong
hiện tại với một tâm thế vững vàng tiếp cận với hiện thực.
Lịch sử của trƣờng THPT LNQ là lịch sử của một đơn vị
anh hùng và thực sự đã là đơn vị anh hùng, mà cái chất anh
hùng ấy đã đƣợc các thế hệ tiền bối hình thành từ những
năm tháng chống thực dân Pháp. Dàn hợp xƣớng nào, hùng
tráng bao nhiêu cũng là sản phẩm lịch sử của một thời.
Cuộc đời sẽ đơn điệu biết bao nhiêu nếu chỉ có một bản
hợp xƣớng. Rất mong các thế hệ thân yêu sau này viết tiếp
những bản hùng ca phản ánh chất anh hùng của trƣờng ta
trong thời đại mới.
Thay cho lời kết cho phép tôi trải lòng cùng các bậc đàn
anh và các bạn đồng nghiệp qua những vần thơ sau. Đây là
chân dung của thế hệ chúng tôi thời đó.
KÝ ỨC
Thủa ấy cái gì cũng đọc.
Á âu kim cổ đều say.
Sự đời việc gì cũng dễ.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
368
Chân lí trong lòng bàn tay.
Thủa ấy tâm hồn rộng mở.
Anh em bè bạn đông vui.
“Tớ cậu” “tao mày” “đồng chí”
Hồn nhiên lí sự rung trời.
Thủa ấy lòng thường xao xuyến,
Du dương khúc nhạc tình yêu
Xốn Xang một tà áo tím,
Bâng khuâng một áng mây chiều.
Thủa ấy có đêm không ngủ,
Một mình thức dậy làm thơ,
Nắn nót những dòng kỷ niệm,
Mong sao sớm đứng dưới cờ.
Thủa ấy trống trường rộn rã.
Chàng trai hăm hở tới trường,
Đam mê với từng tiết giảng,
Lòng đầy chứa yêu thương.
Tháng năm trải cùng tuổi tác.
Cuộc đời bãi biển nương dâu.
Lòng ta chẳng hề đổi khác,
Dù cho “thủa ấy” còn đâu.
Bùi kính Hùng Mùa thu năm 2010
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
369
NIỀM VUI XEN LẪN TỰ HÀO
Thanh Hải
1.Tin vui đến với mọi nhà
Tin Đào Ngọc Cƣờng (lớp 12A10, THPT Lƣơng Ngọc
Quyến - Thái Nguyên) giành trọn ba điểm 10 tuyệt đối, trở
thành thủ khoa trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân trong kỳ
tuyển sinh năm 2009 đã lan rất nhanh. Không chỉ thầy cô
cùng tất cả các bạn trong trƣờng ai nấy cũng đều hết sức phấn
khởi và tự hào về học trò và bạn bè của mình. Không chỉ bà
con trong tổ phố của phƣờng Quang Trung, khi biết tin, ai ai
cũng đều vui mừng. Bà con láng giềng đều sang nhà bác Đào
Ngọc Hùng bố em Đào Ngọc Cƣờng để chia vui, mừng cho
ba cha con.
Sau khi Đài, Báo đƣa tin thì trong nhiều gia đình đều trao
đổi với nhau về chuyện một học sinh nghèo của trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến đã đỗ thủ khoa với 30 điểm tuyệt đối. Từ
trong các gia đình khá giả đến gia đình còn nghèo khó, nhiều
ông bố bà mẹ đều đƣa chuyện “Cậu thủ khoa nghèo” “Cậu
thủ khoa mồ côi” để nêu gƣơng khích lệ và răn dạy con
cháu...
Ngày 19-9-2009, tại Đại hội thi đua Khuyến học tỉnh Thái
Nguyên lần thứ nhất. Hội Khuyến học tỉnh đã kịp thời tôn
vinh và khen thƣởng em Đào Ngọc Cƣờng - gƣơng hiếu học
xuất sắc mang lại niềm tự hào cho gia đình, cho nhà trƣờng
Lƣơng Ngọc Quyến và cho cả tỉnh Thái Nguyên.
Tin vui cũng đã sớm loan xa, Báo chí cả nƣớc đã kịp thời
đƣa những hàng chữ đậm nét:
Báo Giáo dục - Thời đại :“Trường THPT Lương Ngọc
Quyến bước vào năm học thứ 64, Đào Ngọc Cường học sinh
lớp 12A10 đỗ thủ khoa .” Tiền Phong trực tuyến với
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
370
học sinh nghèo thông báo nhanh: “Đào Ngọc Cường (lớp
12A10, THPT Lương Ngọc Quyến-Thái Nguyên... cùng làm
với bố trong xưởng mộc. Thời gian mẹ điều trị, Cường tất
bật vừa lo chăm sóc mẹ, vừa thay bố quán xuyến việc nhà, tối
đến mới tập trung vào học và làm bài tới đêm khuya. Cường
đã giành trọn ba điểm 10 tuyệt đối của trường ĐH Kinh tế
quốc dân ”
Vn Express.net, chạy tin: “Năm nay, cả nước có 11 thủ
khoa điểm 30 (6 em được điểm tuyệt đối) nằm ở 5 trường...
Trong đó Đại Học Kinh tế Quốc dân với 2 thí sinh Đào Ngọc
Cường (Thái Nguyên) và Đàm Văn Đông (Bắc Ninh).”
Net Cố Đô Huế: “ Đào Ngọc Cường xin tặng mẹ cha ba
điểm 10 tròn trịa, đỗ thủ khoa vào ngành thương mại quốc tế
- ĐH Kinh tế quốc dân ...
2.Vƣợt lên từ ý chí và tinh thần học tập.
Trƣớc những lời thăm hỏi và chia vui của bà con tổ phố,
thầy cô và bạn bè, Đào Ngọc Cƣờng vẫn còn nhƣ có vẻ trầm
lặng, ít cƣời; hơn lúc nào hết trong niềm vui mới này em lại
chạnh nghĩ đến mẹ thân yêu đã không còn để chứng kiến phút
giây hạnh phúc nhƣ mẹ hằng mong đợi...Mọi ngƣời bỗng xúc
động khi thấy mắt Cƣờng ngấn lệ...
Hai năm trƣớc, mẹ Cƣờng phát bệnh ung thƣ máu. Đào
Ngọc Cƣờng vừa lo chăm sóc mẹ, vừa thay bố chăm lo việc
nhà. Khi Cƣờng mới đỗ vào lớp 10 trƣờng cấp III Lƣơng
Ngọc Quyến thì cũng là lúc căn bệnh hiểm nghèo đã cƣớp
mất ngƣời mẹ hiền! Cƣờng cố nén nỗi đau mồ côi mẹ, nhƣng
lúc nào cũng nghĩ đến lời mẹ dặn trong cơn đau dữ dội: “Con
vững vàng , bản lĩnh, làm chỗ dựa cho em Mai là điều mẹ
mong mỏi từng ngày”.
Mặc dầu ông Hùng, giành hết phần việc ở xƣởng mộc để
Cƣờng toàn tâm lo cho học tập. Nhƣng ngày nào đi học về,
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
371
Cƣờng cũng lăn vào cùng làm việc với bố. tối đến mới dành
cho học tập.
Bác Hùng, bố em Cƣờng cho chúng tôi biết:
“Cường đã sớm có ý thức học tập từ khi còn nhỏ, Tôi nhớ mãi
hình ảnh hồi học tiểu học, khi về nhà, Cường thường làm hết
bài tập rồi mới đi chơi với bạn bè trong xóm. Có hôm gặp
phải bài khó không làm được cháu ngồi khóc, nhưng cháu
cũng rất kiên trì, gặp phải những bài như vậy cháu tìm bằng
được cách giải bằng được mới chịu đi ngủ”
Khi lên cấp III, Việc học của cháu càng thành nếp. Cứ ăn
tối xong là cháu lên học một mạch từ 19 giờ tới 21 giờ mới
xuống nhà uống nước rồi lại học tiếp đến 23 giờ đêm. Tôi xót
ruột lên giục con nhưng nếu chưa học xong cháu chưa chịu
đi ngủ...”.
Cô giáo viên chủ nhiệm Phạm Bích Hồng cũng kể:
-“Khi nhận làm chủ nhiệm lớp, tôi đã phát hiện ra em có tố
chất của một học sinh khá các môn khối A. Tôi không bất ngờ
về kết quả này, vì ngoài bố mẹ, tôi là người hiểu Cường rất
rõ, ngay khi học Lớp 5, Cường đã đạt giải nhì thành phố Thái
Nguyên môn Toán, Văn. Lớp 10, em đạt giải nhất môn Hoá.
Sang lớp 11, em đạt giải khuyến khích môn Lý.”
Cô giáo Hồng còn cho biết thêm:
-"Đào Ngọc Cường là học sinh rất ngoan, thông minh và
chăm chỉ. Tuy hoàn cảnh gia đình em gặp nhiều khó khăn
nhưng em rất cố gắng học tập.
Thực vậy, từ năm lớp 12, Cƣờng đều dành tất cả thời gian
các buổi tối cho việc ôn thi đại học 3 môn Toán, Lý, Hóa.
Ngoài học các cuốn sách hƣớng dẫn, em còn mƣợn các tập đề
thi từ những năm trƣớc để làm. Đồng thời rèn luyện kỹ năng
làm bài thi trắc nghiệm.
Đƣợc biết, khi chị Thuý Hằng nữ phóng viên Báo Thái
Nguyên hỏi về việc học tập, Đào Ngọc Cƣờng cƣời nói:
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
372
-“Không có gì to tát chị ạ. Chuyên tâm tích tiểu thành đại,
nắm thật chắc kiến thức từ đơn giản đến phức tạp thì mọi vấn
đề khó đến đâu cũng tìm ra chìa khóa hết.”
Khi đƣợc hỏi tiếp về kinh nghiệm và phƣơng pháp học tập
để dạt tới đỉnh cao nhƣ vậy, Cƣờng đã trả lời chị Thuý Hằng:
-“Vì em thi vào khối A nên em cũng phải “cởi nút thắt” ở
các dạng khó nhất của 3 môn này. Tất nhiên, để có thể hiểu
rõ, cần phải làm nhiều bài tập từ dễ đến khó, để làm nền tảng
kiến thức trước khi học các dạng khó. “
-“Đó là kinh nghiệm học, còn khi làm bài thi thì sao?” -
Chị Thuý Hằng hỏi tiếp về kinh nghiệm làm bài thi, Cƣờng
đã vui vẻ tự tin và trả lời:
-“Thưa chị, đề thi thường ra cả câu khó và câu dễ. Nếu
người làm bài mà chỉ làm được câu dễ và bỏ qua những câu
khó thì sẽ bị "tâm lý" dẫn đến điểm không cao. Khi các bài
khó cũng có thể làm được thì tâm lý luôn ổn định. Lúc ấy,
người thi sẽ làm lần lượt vì thi trắc nghiệm sẽ rất dễ bị bỏ sót
câu hoặc nhầm theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia".
Trong buổi lễ Khai giảng trọng thể năm học 2009-2010
của trƣờng Đại học kinh tế quốc dân. GS. TS Nguyễn Văn
Nam - Hiệu trƣởng nhà trƣờng đã nhiệt liệt chúc mừng các
tân sinh viên đã vƣợt qua kỳ thi để trở thành sinh viên Đại
học Kinh tế quốc dân. Giáo sƣ căn dặn:
-“Đây là một vinh dự, tự hào không chỉ của mỗi sinh viên
mà còn là vinh dự, tự hào của gia đình, bạn bè và người thân.
Từ các vùng miền khác nhau các em tề tựu về đây dưới mái
trường Đại học Kinh tế quốc dân để rèn đức luyện tài. Trước
mắt các em còn rất nhiều thử thách, nhiệm vụ của các em
phải vượt qua thử thách đó...
Tiếp đó nhà trƣờng đã vinh danh những tân sinh viên có kết
quả cao trong kỳ thi tuyển vào trƣờng vừa qua và mong muốn
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
373
các tân sinh viên tiếp tục phát huy thành tích trong học tập,
Giáo sƣ Hiệu trƣởng Nguyễn Văn Nam, PGS.TS Phó Hiệu
trƣởng Phan Công Nghĩa đã trao phần thƣởng của trƣờng cho
4 thủ khoa, 10 á khoa. Sinh viên thủ khoa Đào Ngọc Cƣờng
khoa Thƣơng mại quốc tế - thủ khoa tuyệt đối khối A, đã
vinh dự và xúc động lên đón nhận phần thƣởng động viên
đầu tiên trong đời sinh viên của mình.
Đào Ngọc Cƣờng tuy đã rời mái trƣờng Lƣơng Ngọc
Quyến để tiếp tục thực hiện nguyện vọng và hoài bão của
mình, nhƣng tấm gƣơng về ý chí tự học, tự rèn vƣợt qua hoàn
cảnh đầy khó khăn trong cuộc sống đã để lại cho các thầy cô,
các bạn học sinh niềm vui, niềm hãnh diện, tự hào và cũng để
lại bài học đối với các bạn học sinh vƣợt khó, vƣơn lên trong
học tập.
Thanh Hải
(Bài đăng Báo Thái Nguyên)
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
374
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Một thời để nhớ, BLL cựu HS trƣờng trung học Lƣơng
Ngọc Quyến Thái Nguyên (1946 – 1954), Hà Nội 2001.
2- Một thời để nhớ (tập 2), Hội cựu HS trƣờng THPT
Lƣơng Ngọc Quyến Thái Nguyên – Hội VHNT tỉnh Thái
Nguyên xuất bản năm 2005.
3- Các tập san kỉ niệm thành lập trƣờng THPT Lƣơng Ngọc
Quyến, Thái Nguyên 1991, 1996, 2001, 2006.
4- Tập kỷ yếu của CLB cựu giáo viên trƣờng THPT Lƣơng
Ngọc Quyến ở Hà Nội 2001. (Lƣu hành nội bộ).
5- Tài liệu của các cựu thầy giáo, cựu học sinh của trƣờng
trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến gửi cho trƣờng
(chƣa công bố): Dƣơng Xuân Nghiên, Lƣơng Vĩnh Khang,
Nguyễn Đồng Thoại, Đồng Văn Năng, Nguyễn Thạc
Chỉnh…
6- Nhớ mái trường kháng chiến, nhiều tác giả, NXB Văn
hóa thông tin, 2004.
7- Trường THPT Ngô Sĩ Liên 60 năm xây dựng và phát
triển, Hoàng Hồng Thái chịu trách nhiệm xuất bản, Bắc
Giang 2006.
8- 40 năm truyền thống trường PTDT nội trú Hòa Bình
(1958 – 1998) NXB Chính trị quốc gia, 1998.
9- Trường Liên Việt – Hà Tĩnh (1949 – 1950), BLL trƣờng
LV – HT, 2004. (Lƣu hành nội bộ).
10- Lư Sơn – Quế Lâm một thời để nhớ, BLL trƣờng Thiếu
nhi VN Lƣ Sơn – Quế Lâm xuất bản 2003.
11- Giáo dục Việt Nam (phần 2) Lê Minh Quốc, NXB Trẻ
2001.
12- 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông,Võ
Thuần Nho (chủ biên), Viện KHGD xuất bản 1980.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
375
13- 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, NXB
Giáo dục, 1995.
14- Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt
Nam, Lê Văn Giạng, NXB Chính trị quốc gia, 2003.
15- Từ Bộ QGGD đến bộ GD&ĐT, Lê Văn Giạng, Hồ
Trúc, Dƣơng Xuân Nghiên và các cộng sự. NXB Giáo dục,
1995.
16- Hệ thống giáo dục phổ thông mới, Hoàng Ngọc Di,
NXB Sự thật, 1981.
17- Phong trào học sinh, sinh viên và Hội sinh viên Việt
Nam (1945 – 1993), Hội SVVN xuất bản 1994.
18- Phong trào đấu tranh chống Mỹ của giáo chức, học
sinh, sinh viên Sài Gòn, NXB TP Hồ Chí Minh, 1984.
19- Thấu suốt đường lối của Đảng, đưa sự nghiệp giáo dục
tiến lên mạnh mẽ, vững chắc, NXB Sự thật, 1992.
20- Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Phạm
Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, 1999.
21- Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nghiêm Đình
Vỳ - Nguyễn Đắc Hƣng, NXB Chính trị quốc gia, 2002.
22- Xây dựng mô hình xã hội học tập ở Việt Nam, Phạm
Tất Dong (chủ biên), Hà Nội 2009.
23- Học tập suốt đời, Phạm Tất Dong – Đặng Quốc Bảo –
Nguyễn Khắc Hùng (sƣu tầm và biên soạn), NXB Thanh
niên, 2009.
24- Những bài nói và viết về giáo dục, Nguyễn Văn Huyên,
NXB Giáo dục, 1990.
25- 20 năm xây dựng giáo dục, Nguyễn Khánh Toàn, NXB
Giáo dục, 1965.
26- Một số Tập san, Tạp chí của Bộ giáo dục và Bộ Giáo
dục và đào tạo.
27- Ba mươi lăm năm đấu tranh của Đảng, NXB Sự thật, 4
– 1971.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
376
28- Một số văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IV, V, VI,
VII, VIII, IX, X của Đảng CSVN.
29- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1 – 2003, tập 2
– 2005, BCH Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên xuất bản.
30- Lịch sử Đảng bộ thành phố Thái Nguyên, tập 1 – 1991,
tập II – 2002, Thành ủy TP Thái Nguyên xuất bản.
31- Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình, Huyện ủy Phú Bình
xuất bản, 2005.
32- Thái Nguyên đất và người, Sở văn hóa thông tin Thái
Nguyên xuất bản, 2003.
33- Ký ức và hiện tại, UBND TP Thái Nguyên – Báo Thái
Nguyên xuất bản, 10 – 2007.
34- Một số tài liệu của Unesco xuất bản trong những năm
2000 - 2010.
35- Các văn bản của Bộ Giáo dục đào tạo về vấn đề chuẩn
hiệu trƣởng và chuẩn giáo viên trung học phổ thông ban hành 2000 - 2010.
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
377
MỤC LỤC
Lời giới thiệu.................................................................
Chƣơng I
Tỉnh Thái Nguyên và sự thành lập .......................
trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến
I. Tỉnh Thái Nguyên - sơ lƣợc về tình hình tự
nhiên, xã hội, văn hoá giáo dục trƣớc tháng 8-1945
II. Thái Nguyên thời gian đầu sau CM tháng 8 và sự
thành lập trƣờng THPT Lƣơng Ngọc Quyến
Chƣơng II.
Trƣờng THPT LNQ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1947-1954)
I. Trƣờng TH ở Cù Vân - Đại Từ.
II. Trƣờng TH LNQ những năm ở Phú Bình..........
Chƣơng III.
Trƣờng PTcấp 2,3 LNQ trong sự nghiệp xây
dựng nhà trƣờng XHCN (1955-1965)
Chƣơng IV.
Trƣờng PTcấp 3 LNQ trong thơi kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc ( 1965-1975)
1. Tiến hành triệt để sơ tán và chia tách...............
trƣờng hình thành trƣờng cấp III LNQ
2. Trƣờng cấp III LNQ thời kỳ sơ tán lần ...........
nhất ( 1965-1969)
3. Thời kỳ trở lại địa điểm cũ.............................
4. Thời kỳ sơ tán lần thứ hai...............................
5. Trở lại địa điểm trƣờng cũ sau chiến ..............
tranh phá hoại chấm dứt.
Chƣơng V.
Trƣờng THPT LNQ từ sau ngày đất nƣớc thống nhất
Chƣơng VI.
Trƣờng THPT LNQ trong thời kỳ đổi mới
1. Thời kỳ 1987-2000........................................
2. Trong nhiệm kỳ 2000-2005................. ..........
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
378
3. Trong nhiệm kỳ 2005-2010..........................
Tổng luận.......................................................................
PHỤ LỤC................................................
Lịch sử trƣờng trung học phổ thông Lƣơng Ngọc Quyến.
379
Lịch sử Trƣờng Trung học Phổ thông
Lƣơng Ngọc Quyến- Thái Nguyên ( 1946-2011)
_____________________________________
Chịu trách nhiệm xuất bản
* Bùi Thị Loan
Biên tập nội dung
* Trịnh Trúc Lâm
* Đinh Văn Định
Chế bản vi tính và sửa bản in
* Đào Minh Tuấn
Trình bày bìa
* Trịnh Trúc Lâm
__________________________________________
In 600 cuốn khổ 14,5 x 20,5
Tại Doanh nghiệp in Tiến Dậu
Giấy phép xuất bản số....................do sở Thông tin
và Truyền thông Thái Nguyên cấp ngày - 2 - 2011
In xong và nộp lƣu chiểu tháng 3 - 2011