Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ”...

144
Li nói đầu -- -- Căn cvào quy hoch báo chí đã được Thtướng Chính phphê duyt, theo văn bn đề nghca BGiáo dc và Đào to, ngày 25 tháng 11 năm 2002, BVăn hoá - Thông tin đã ra Quyết định s510/GP-BVHTT, cp giy phép hot động báo chí cho Tp chí “Khoa hc và Công nghĐại hc Đà Nng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cc Báo chí BVăn hoá - Thông tin đã có Công văn s816/BC đồng ý cho phép Tp chí “Khoa hc và Công nghĐại hc Đà Nng được tăng kxut bn t03 tháng/klên thành 02 tháng/k. Ngày 6 tháng 2 năm 2007, Trung tâm Thông tin Khoa hc và Công nghQuc gia thuc BKhoa hc và Công nghđã có Công văn s44/TTKHCN-ISSN đồng ý cp mã chun quc tế: ISSN 1859-1531 cho Tp chí “Khoa hc và Công ngh”, Đại hc Đà Nng. Ngày 5 tháng 3 năm 2008, Cc Báo chí, BThông tin và Truyn thông đã có Công văn s210/CBC cho phép Tp chí “Khoa hc và Công nghĐại hc Đà Nng, ngoài ngôn ngđược thhin là tiếng Vit, được bsung thêm ngôn ngthhin bng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngày 15 tháng 9 năm 2011, BThông tin và Truyn thông đã có Quyết định s1487/GP-BTTTT cp Giy phép sa đổi, bsung cho phép Tp chí Khoa hc và Công ngh, Đại hc Đà Nng được tăng khn xut bn t02 tháng/klên 01 tháng/kvà tăng strang t80 trang lên 150 trang. Ngày 07 tháng 01 năm 2016, BThông tin và Truyn thông đã có Quyết định s07/GP-BTTTT cp Giy phép hot động báo chí in cho Tp chí Khoa hc và Công ngh, Đại hc Đà Nng được xut bn 15 k/01 năm (trong đó, có 03 kxut bn bng ngôn ngtiếng Anh). Tp chí “Khoa hc và Công nghĐại hc Đà Nng ra đời vi mc đích: Công b, gii thiu các công trình nghiên cu khoa hc trong lĩnh vc ging dy đào to; Thông tin các kết qunghiên cu khoa hc trong và ngoài nước nhm phc vcho công tác đào to ca nhà trường; Tuyên truyn, phbiến đường li chính sách ca Đảng và Nhà nước trong lĩnh vc giáo dc, đào to và nghiên cu khoa hc, công ngh. Tp chí “Khoa hc và Công nghĐại hc Đà Nng ra đời là skế tha và phát huy truyn thng các tp san, thông báo, thông tin, kyếu Hi tho ca Đại hc Đà Nng và các trường thành viên trong gn 40 năm qua. Ban Biên tp rt mong sphi hp cng tác ca đông đảo các nhà khoa hc, nhà giáo, các cán bnghiên cu trong và ngoài nhà trường, trong nước và ngoài nước để Tp chí “Khoa hc và Công ngh” ca Đại hc Đà Nng ngày càng có cht lượng tt hơn. BAN BIÊN TP

Transcript of Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ”...

Page 1: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

Lời nói đầu -- --

Căn cứ vào quy hoạch báo chí đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, theo văn bản đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 25 tháng 11 năm 2002, Bộ Văn hoá - Thông tin đã ra Quyết định số 510/GP-BVHTT, cấp giấy phép hoạt động báo chí cho Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá - Thông tin đã có Công văn số 816/BC đồng ý cho phép Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng được tăng kỳ xuất bản từ 03 tháng/kỳ lên thành 02 tháng/kỳ. Ngày 6 tháng 2 năm 2007, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã có Công văn số 44/TTKHCN-ISSN đồng ý cấp mã chuẩn quốc tế: ISSN 1859-1531 cho Tạp chí “Khoa học và Công nghệ”, Đại học Đà Nẵng. Ngày 5 tháng 3 năm 2008, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Công văn số 210/CBC cho phép Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng, ngoài ngôn ngữ được thể hiện là tiếng Việt, được bổ sung thêm ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngày 15 tháng 9 năm 2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 1487/GP-BTTTT cấp Giấy phép sửa đổi, bổ sung cho phép Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng được tăng kỳ hạn xuất bản từ 02 tháng/kỳ lên 01 tháng/kỳ và tăng số trang từ 80 trang lên 150 trang.

Ngày 07 tháng 01 năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 07/GP-BTTTT cấp Giấy phép hoạt động báo chí in cho Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng được xuất bản 15 kỳ/01 năm (trong đó, có 03 kỳ xuất bản bằng ngôn ngữ tiếng Anh). Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng ra đời với mục đích:

− Công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giảng dạy và đào tạo;

− Thông tin các kết quả nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước nhằm phục vụ cho công tác đào tạo của nhà trường;

− Tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ.

Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng ra đời là sự kế thừa và phát huy truyền thống các tập san, thông báo, thông tin, kỷ yếu Hội thảo của Đại học Đà Nẵng và các trường thành viên trong gần 40 năm qua. Ban Biên tập rất mong sự phối hợp cộng tác của đông đảo các nhà khoa học, nhà giáo, các cán bộ nghiên cứu trong và ngoài nhà trường, trong nước và ngoài nước để Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” của Đại học Đà Nẵng ngày càng có chất lượng tốt hơn.

BAN BIÊN TẬP

Page 2: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá
Page 3: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

MỤC LỤC ISSN 1859-1531 - Tạp chí KHCN ĐHĐN, Số 2(111).2017-Quyển 1

KHOA HỌC XÃ HỘI Áp dụng phương pháp dạy - học tích cực trong giảng dạy thực hành ngành kỹ thuật điện tử truyền thông Applying active learning-teaching method to teaching lab courses in electronic and telecommunication engineering Lương Vinh Quốc Danh, Trần Hữu Danh, Trương Phong Tuyên, Nguyễn Thị Trâm, Huỳnh Kim Hoa 1Đặc điểm tính cách của kỹ sư xây dựng Việt Nam Personality traits of construction engineers in Vietnam Võ Đăng Khoa, Lê Hoài Long, Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu 7Nhận thức của công chúng đối với thương hiệu Đại học Đà Nẵng Audience perception toward the UD’s brand Trần Thị Yến Minh, Phạm Thị Hương 12Quản lý hoạt động đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn theo định hướng hình thành, phát triển năng lực học sinh ở trường trung học phổ thông Management of renovation activities of testing and evaluating in Philology teaching towards forming and developing students’ capacities at high schools Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Văn Ca 18Nghiên cứu thống kê thực trạng sử dụng thuốc lá của người dân và giải pháp kiểm soát, phòng chống tác hại thuốc lá tại thành phố Đà Nẵng Statistical research of tobacco usage of the citizens and recommend measures to control and prevent the harms of tobacco at Danang city Nguyễn Bá Thế, Ngô Tân 24Sử dụng voice blog trong việc phát triển kỹ năng nói cho sinh viên năm 3 tại khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Use of voice blog to improve speaking skill for third year students of English department, University of Foreign language studies, Danang university Nguyễn Nữ Thùy Uyên 28Giải pháp đào tạo lao động du lịch Phú Quốc giai đoạn 2016 – 2020 Measures for traning tourism labor force in Phu Quoc 2016-2020 Nguyễn Vương 33

KHOA HỌC NHÂN VĂN Ảnh hưởng của yếu tố quyền lực lên chiến lược từ chối lời yêu cầu trong thư điện tử viết bởi người Việt sử dụng tiếng Anh như ngoại ngữ ở môi trường làm việc Effect of power on refusal strategies to a request in email written by Vietnamese EFL learners at workplace Nguyễn Thị Lan Anh 38Luận thuyết tự sự - bước đệm đầu tiên trong quá trình hiện đại hóa văn học Triều Tiên Narrative treatise - a springboard for modernization of Korean literature Trần Thị Lan Anh 43Loss and Gain in the Vietnamese translation of stylistic devices used in uncle Tom’s cabin by Harriet Beecher Stowe Được và mất trong bản dịch tiếng Việt của các biện pháp tu từ sử dụng trong tác phẩm túp lều bác Tôm của Harriet Beecher Stowe Nguyen Thi Quynh Hoa, Tran Thi Yen Nhi 47Vấn đề biên giới trong lịch sử quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ (1949 – 1991) Border issues in the history relations between China - India (1949 - 1991) Nguyễn Thế Hồng 53Về đặc điểm ngữ nghĩa của các từ láy biểu đạt màu sắc kiểu "yếu tố chỉ màu + yếu tố láy " trong tiếng Việt About the semantic characteristics of reduplicative words of color in pattern “expressive color elements + reduplicative factors” in Vietnamese Nguyễn Thị Liên 58An investigation into lexical choices in narrations of American cartoon trailers Nghiên cứu các cách dùng từ vựng trong các lời tường thuật của các đoạn phim quảng cáo hoạt hình Mỹ Pham Thi Thanh Nga, Nguyen Thi Quynh Hoa 61

Page 4: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

Phân tích đối chiếu các biện pháp tu từ trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt A contrastive study of rhetorical devices in children’s songs in English and Vietnamese Hồ Thị Kiều Oanh, Nguyễn Đỗ Hà Anh 67Kiểu người trung nghĩa trong văn học nhà nho Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX qua trường hợp Phan Thanh Giản Type of loyal people in literature by southern Vietnam’s confucian scholars in the second half of the XIX century through the case of Phan Thanh Gian Nguyễn Ngọc Phú 71Nạn cướp biển trên vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng dưới triều Nguyễn (1802- 1884) Sea-robbery on sea areas of Quang Nam Da Nang under Nguyen dynasty Nguyễn Duy Phương 74Ứng dụng mỹ thuật truyền thống Việt Nam vào thiết kế nội thất cho căn nhà ở hiện đại An application of Vietnamese traditional fine art to interior design of contemporary houses Lê Minh Sơn, Trần Văn Tâm, Trương Phan Thiên An 79Dạy học điển cố trong tác phẩm văn học trung đại ở trường phổ thông Teaching literary allusion in medieval literature at secondary schools Đoàn Thị Tâm 85Khảo sát việc thể hiện âm nối của sinh viên năm hai, khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng An investigation into the performance of linkng sounds by sophomores at English department, the University of Foreign language studies - University of Danang Nguyễn Thị Kim Thanh, Hồ Thị Kiều Oanh 89Các phương thức dịch sang tiếng Việt danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn tương quan với biện pháp tu từ Procedures in the Vietnamese translation of English famous sayings expressing friendship in terms of rhetorical devices Lâm Quốc Thịnh, Hồ Thị Kiều Oanh 94Ngôn ngữ mang chức năng phán xét trong truyện ngắn của Nam Cao bản tiếng Việt và tiếng Anh Language of judment in Nam Cao’s short stories and their English translational equivalents Võ Nguyễn Thùy Trang 99Aesthetic frames from texts to literary works – in search of “the different” for the artistic fate Khung thẩm mĩ từ văn bản đến tác phẩm văn học - một sự tìm kiếm “cái khác” cho bản mệnh nghệ thuậtAesthetic Nguyen Thanh Truong, Phan Vi Phuong Uyen 104Quảng Nam – Nơi mở đầu phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Quang Nam province – The birthplace of the Duy Tan movement in Vietnam in the early twentieth century Huỳnh Văn Tuyết 108

KHOA HỌC KINH TẾ Nhận dạng các nhân tố quản lý tác động đến năng suất lao động của công nhân xây dựng tại Campuchia Identification of management factors affecting labour productivity of construction workers in Cambodia Phạm Minh Ngọc Duyên, Ry Sopheap, Lê Hoài Long, Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu 114Hiệu quả kỹ thuật và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của các hộ trồng lúa ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế Technical efficiency and its determinants in rice farming in Huong Tra town, Thua Thien Hue province Trần Hạnh Lợi 119Nghiên cứu nguồn gốc sự tăng trưởng ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh Phú Yên Research on the growth of aquaculture in Phu Yen province Đoàn Thị Nhiệm 124Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam Restructuring economic sector of Quang Nam Nguyễn Hồng Quang 129Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi Study of factors affecting human resource development in tourism in Quang Ngai province Trần Thị Trương 134

Page 5: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 1

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY THỰC HÀNH NGÀNH KỸ THUẬT ĐIỆN TỬ TRUYỀN THÔNG

APPLYING ACTIVE LEARNING-TEACHING METHOD TO TEACHING LAB COURSES IN ELECTRONIC AND TELECOMMUNICATION ENGINEERING

Lương Vinh Quốc Danh, Trần Hữu Danh, Trương Phong Tuyên, Nguyễn Thị Trâm, Huỳnh Kim Hoa Trường Đại học Cần Thơ; {lvqdanh, thdanh, tptuyen, nttram, hkhoa}@ctu.edu.vn

Tóm tắt - Bài viết trình bày một số đề xuất cải tiến phương phápgiảng dạy các học phần Thực tập Mạch Tương tự và Thực tậpViễn thông thuộc ngành Điện tử Truyền thông. Việc áp dụngphương pháp dạy - học tích cực giúp sinh viên phát triển kỹ năngmềm, khả năng giải quyết vấn đề thông qua việc kết hợp thựchiện bài tập mô phỏng, bài thực hành và đồ án. Bên cạnh đó, hệthống hỗ trợ thí nghiệm viễn thông từ xa cung cấp một công cụhữu hiệu giúp sinh viên củng cố kiến thức và phát triển khả năngtự học. Cách tiếp cận hoạt động dạy - học tích cực này nhằmtrang bị cho người học các kỹ năng cơ bản như giao tiếp, làm việcnhóm và khả năng tự học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thịtrường lao động.

Abstract - This paper presents some proposals for the renovation of the teaching methods for the Analog Electronic Circuits Lab course and the Telecommunication Lab course in Electronics and Telecommunication Engineering, Can Tho University. The application of the active teaching-learning method helps students develop their soft skills and problem-solving ability through a combination of pre-lab simulation exercises, hands-on lab activities and design projects. Besides, the remote support system for telecommunication experiments provides students with an effective tool for reinforcing their technological knowledge and developing their self-study ability. This active teaching-learning approach is aimed at equipping learners with basic skills concerning communication, team work and self-study ability for the purpose of satisfying increasingly demanding requirements of the current workforce market.

Từ khóa - dạy học tích cực; giải quyết vấn đề; học phần thực hành;kỹ năng mềm; tự học.

Key words - active learning and teaching; problem-solving; lab courses; soft skills; self-study.

1. Đặt vấn đề

Sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ trong những năm gần đây đòi hỏi các trường đại học liên tục cải tiến chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy để có thể đào tạo nguồn nhân lực trình độ kỹ sư không chỉ có kiến thức chuyên môn tốt, có khả năng tự học, mà còn phải được trang bị các kỹ năng cơ bản như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm [1].

Tuy nhiên, theo một nghiên cứu công bố năm 2009 của Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, hơn 80% sinh viên tốt nghiệp bị các nhà tuyển dụng đánh giá là thiếu kỹ năng mềm [2]. Số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo (năm 2011) cho thấy hơn 63% sinh viên ra trường thất nghiệp do thiếu các kỹ năng cần thiết [3]. Do vậy, nhiều trường đại học ở Việt Nam đã và đang tiến hành việc cải tiến chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát triển các kỹ năng cần thiết cho sinh viên, đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động.

Tại Bộ môn Điện tử Viễn thông, Khoa Công nghệ, Trường Đại học Cần Thơ, với sự hỗ trợ của chương trình Giáo dục Đại học ngành Kỹ thuật HEEAP (Higher Engineering Education Alliance Program), từ năm 2011 chúng tôi đã bắt đầu thực hiện cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động dạy và học, cụ thể là áp dụng phương pháp dạy - học tích cực vào các học phần thực tập, thực hành tại phòng thí nghiệm.

Nội dung bài viết này giới thiệu việc cải tiến phương pháp giảng dạy các học phần Thực tập Mạch Tương tự và Thực tập Viễn thông theo hướng tích cực hóa hoạt động dạy và học. Mục tiêu của phương pháp giảng dạy mới này nhằm phát triển kỹ năng mềm, kỹ năng giải quyết vấn đề

và khả năng tự học của sinh viên thông qua việc kết hợp bài tập làm trước ở nhà (pre-lab), bài thực hành tại phòng thí nghiệm với đồ án thiết kế. Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình phòng thí nghiệm từ xa ở học phần Thực tập Viễn thông, cho phép người học thực hiện các bài thực hành ngay tại nhà, tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên rèn luyện khả năng tự học.

2. Giải quyết vấn đề 2.1. Phương pháp truyền thống trong giảng dạy thực hành/thực tập

Trong chương trình đào tạo ngành Kỹ thuật Điện tử nói chung, các học phần thực hành tại phòng thí nghiệm giữ vai trò hết sức quan trọng, ngoài việc giúp kiểm chứng các kiến thức đã được học còn giúp trang bị cho người học các kỹ năng cơ bản cần thiết cho nghề nghiệp tương lai.

Với phương pháp giảng dạy truyền thống, sinh viên được chia thành các nhóm nhỏ với tổng số 15 - 20 sinh viên/buổi thực hành. Mỗi nhóm nhỏ gồm có 2 - 3 sinh viên thực hiện các bài thí nghiệm trên các board mạch được thiết kế sẵn và thiết bị đo đạc tương ứng. Các nhóm thực hành sẽ nộp bản phúc trình thí nghiệm cho giảng viên hướng dẫn vào cuối buổi thực hành. Trong mỗi buổi thực hành, giảng viên đóng vai trò người hướng dẫn sinh viên thực hiện lắp ráp, đo đạc mạch điện và giải thích các vấn đề có liên quan của bài thực hành. Qua đó, người học có thể kiểm chứng các kiến thức lý thuyết đã được học thông qua các thí nghiệm thực tế.

Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp giảng dạy nói trên là người học có ít cơ hội để rèn luyện các kỹ năng cơ bản như kỹ năng giao tiếp, phối hợp làm việc theo nhóm, kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề. Người học không

Page 6: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

2 Lương Vinh Quốc Danh, Trần Hữu Danh, Trương Phong Tuyên, Nguyễn Thị Trâm, Huỳnh Kim Hoa

có điều kiện trải nghiệm làm việc cùng với nhau để giải quyết một vấn đề kỹ thuật cụ thể. Bên cạnh đó, nội dung bài thực hành thiếu các bài tập làm trước ở nhà đã dẫn đến tình trạng sinh viên thiếu sự chuẩn bị cần thiết trước khi đến phòng thí nghiệm. 2.2. Phương pháp dạy tích cực áp dụng trong dạy thực hành/thực tập

Nhằm đạt được mục tiêu phát triển kỹ năng mềm, khả năng tự học và kỹ năng giải quyết vấn đề cho sinh viên, các phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động của người học đã được áp dụng vào quá trình giảng dạy các học phần thực hành/thực tập tại Bộ môn Điện tử Viễn thông. Đây cũng là các kỹ năng cần thiết được yêu cầu trang bị cho người học bởi các bộ tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng như CDIO và AUN – QA [4]. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày việc đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực đối với 2 học phần: Thực tập Mạch Tương tự và Thực tập Viễn thông. 2.2.1. Tăng cường kỹ năng mềm cho người học

Để cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy học phần Thực tập Mạch Tương tự, ngoài nội dung thực hành tại phòng thí nghiệm, các phần bài tập mô phỏng mạch điện làm trước ở nhà (pre-lab) và đồ án thiết kế đã được bổ sung vào nội dung giảng dạy môn học [5]. Theo cách thức dạy - học mới này, mỗi nhóm thực tập được chia thành nhiều nhóm nhỏ gồm 2 - 3 sinh viên. Việc tạo nhóm được thực hiện theo phương pháp trắc nghiệm tính cách MBTI (Myers-Briggs Type Indication) [6] để đảm bảo sinh viên với tính cách khác nhau có cơ hội được làm việc cùng nhau.

Hình 1. Cấu trúc của phương pháp dạy - học tích cực áp dụng

cho học phần Thực tập Mạch Tương tự

Hình 1 mô tả cấu trúc của phương pháp dạy - học cải tiến. Nội dung của học phần được chia thành 3 hoạt động chính diễn ra ở cả trong và ngoài phòng thí nghiệm. Nội dung gồm có 5 bài thực tập tại phòng thí nghiệm và 2 đồ án thiết kế. Sinh viên được yêu cầu nộp bài tập mô phỏng làm trước ở nhà vào đầu mỗi buổi thực tập.

Bài tập ở nhà (pre-lab): Người học được yêu cầu thực

hiện các bài tập mô phỏng mạch điện trên máy tính trước khi đến phòng thí nghiệm để thực tập. Sinh viên được khuyến khích sử dụng phần mềm mô phỏng mạch điện NI Multisim [7] nhằm tận dụng môi trường mô phỏng 3D ảo của breadboard NI ELVIS II (Educational Laboratory Virtual Instrument Suite) [8]. Tính năng mô phỏng NI ELVIS II ảo này cho phép người học chuyển đổi dễ dàng giữa 2 môi trường: mô phỏng trên máy tính và đo đạc mạch thực tế trên breadboard. Điều này giúp người học hiểu rõ nguyên lý hoạt động của mạch điện trước khi tiến hành thí nghiệm và nhận thức được mối liên hệ giữa mô phỏng và thực tiễn.

Thực hành tại phòng thí nghiệm: Trong phần này, sinh viên được yêu cầu thực hiện việc lắp ráp và đo đạc mạch điện. Trong mỗi buổi thực tập, người học tiến hành thí nghiệm theo nhóm để hoàn thành các bài thí nghiệm sử dụng bộ thiết bị NI ELVIS II. Người học cần phải phân tích các kết quả đo đạc, so sánh với số liệu tương ứng ở phần mô phỏng và viết báo cáo kết quả thí nghiệm. Các hoạt động thực tập tại phòng thí nghiệm giúp sinh viên hiểu rõ hơn các kiến thức lý thuyết đã được học và rèn luyện các kỹ năng lắp ráp, đo đạc mạch điện. Danh mục các bài thí nghiệm được liệt kê ở Bảng 1.

Đồ án thiết kế: Sau khi hoàn thành các bài thực hành tại phòng thí nghiệm, mỗi nhóm sinh viên được chỉ định thực hiện 2 đồ án thiết kế một số mạch điện cơ bản như: mạch lọc, mạch dao động và mạch khuếch đại theo các yêu cầu được xác định trước và mỗi đồ án có thể được xem như một vấn đề kỹ thuật nhỏ cần phải giải quyết. Các sinh viên trong nhóm làm việc cùng nhau để phân tích, chia nhỏ vấn đề và đưa ra lời giải cho bài toán đặt ra. Để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của đồ án, người học phải tiến hành mô phỏng, lắp ráp, đo đạc và tinh chỉnh mạch điện. Các hoạt động này được diễn ra cả tại nhà và tại Phòng thực tập Mở vì đây là nơi sinh viên có thể sử dụng các thiết bị để thực hiện đo đạc mạch điện của mình. Các kiến thức và kỹ năng tiếp thu được trước đó ở 2 phần bài tập ở nhà và thực hành tại phòng thí nghiệm sẽ giúp người học hiện thực hóa các ý tưởng thiết kế của đồ án. Sau cùng, các nhóm sẽ báo cáo kết quả thực hiện đồ án trong khoảng 10 phút trước giảng viên và các nhóm khác. Việc đánh giá kết quả chủ yếu được dựa trên 03 tiêu chí, đó là: mức độ hoàn thành của thiết kế, mức độ nắm vững vấn đề thể hiện qua việc trả lời các câu hỏi của giảng viên, sinh viên trong lớp và kỹ năng trình bày vấn đề của nhóm. Nội dung và yêu cầu của các đồ án được trình bày ở Bảng 2.

Bảng 1. Các bài thực hành tại phòng thí nghiệm

Thí nghiệm Nội dung

Tuần 1 – Thí nghiệm 1: Giới thiệu board NI ELVIS II.

Ở nhà: + Đọc tài liệu hướng dẫn thí nghiệm

và ôn tập lý thuyết mạch điện tương tự.

Tại phòng thí nghiệm: + Sinh hoạt về các nguyên tắc an toàn

trong quá trình làm thí nghiệm. + Làm quen với các tính năng cơ bản

của board NI ELVIS như: DMM, SCOPE, VPS và FGEN.

Page 7: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 3

Tuần 2 – Thí nghiệm 2: Diode và ứng dụng

Ở nhà: + Mô phỏng mạch điện của bài thí

nghiệm số 2 bằng Multisim. + Viết báo cáo pre-lab. Tại phòng thí nghiệm: + Lắp ráp và đo đạc mạch chỉnh lưu,

mạch nhân đôi điện áp, mạch ghim áp.

+ Phân tích kết quả đo đạc; so sánh kết quả đo đạc với kết quả mô phỏng.

+ Viết báo cáo thí nghiệm. Tuần 3 – Thí nghiệm 3: Mạch khuếch đại tín hiệu nhỏ sử dụng BJTs và FETs

Ở nhà: + Mô phỏng mạch điện của bài thí

nghiệm số 3 bằng Multisim. + Viết báo cáo pre-lab. Tại phòng thí nghiệm: + Lắp ráp và đo đạc mạch khuếch đại BJT và FET. + Phân tích kết quả đo đạc; so sánh

kết quả đo đạc với kết quả mô phỏng.

+ Viết báo cáo thí nghiệm. Tuần 4 – Thí nghiệm 4: Khuếch đại thuật toán (Op-Amp)

Ở nhà: + Mô phỏng mạch điện của bài thí

nghiệm số 4 bằng Multisim. + Viết báo cáo pre-lab. Tại phòng thí nghiệm: + Lắp ráp và đo đạc mạch khuếch đại,

mạch tích phân dùng Op-Amp. + Phân tích kết quả đo đạc; so sánh

kết quả đo đạc với kết quả mô phỏng.

+ Viết báo cáo thí nghiệm. Tuần 5 – Thí nghiệm 5: Op-Amp: Mạch dao động và mạch so sánh

Ở nhà: + Mô phỏng mạch điện của bài thí

nghiệm số 5 bằng Multisim. + Viết báo cáo pre-lab. Tại phòng thí nghiệm: + Lắp ráp và đo đạc mạch dao động,

mạch so sánh dùng Op-Amp. + Phân tích kết quả đo đạc; so sánh

kết quả đo đạc với kết quả mô phỏng.

+ Viết báo cáo thí nghiệm.

Bảng 2. Đồ án thiết kế

Đồ án Nhiệm vụ

Tuần 6 – Đồ án 1: Mạch khuếch đại, mạch nguồn dòng điện, mạch so sánh, mạch vi phân - tích phân

+ Thiết kế mạch điện theo các yêu cầu cho trước.

+ Chuẩn bị báo cáo (file PowerPoint) và trình bày kết quả trước giảng viên và các nhóm; Trả lời câu hỏi của giảng viên và sinh viên.

Tuần 7 – Đồ án 2: Mạch dao động

+ Thiết kế một mạch dao động thỏa mãn các yêu cầu cho trước.

+ Chuẩn bị báo cáo (file PowerPoint) và trình bày kết quả trước giảng viên và các nhóm; Trả lời câu hỏi của giảng viên và sinh viên.

2.2.2. Rèn luyện khả năng tự học của sinh viên Hoạt động tự học giữ vai trò hết sức quan trọng trong

quá trình học ở đại học vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Tuy nhiên, sự hạn chế về số lượng trang thiết bị thí nghiệm và các khó khăn gặp phải trong việc bố trí các buổi thực tập ngoài giờ là một trong những trở ngại chính của việc triển khai hoạt động tự học của sinh viên đối với các học phần thực hành/thực tập.

Một trong những giải pháp cho vấn đề trên là khai thác công nghệ điều khiển từ xa và mạng viễn thông để thiết lập phòng thí nghiệm từ xa (Remote Laboratory) cho phép người học tiến hành các bài thực hành trên thiết bị đặt tại phòng thí nghiệm ngay từ nhà của mình thông qua mạng internet.

Hình 2. Cấu trúc tổng quát của Tele-Lab

Ý tưởng xây dựng phòng thí nghiệm từ xa được tác giả Jesus del Alamo giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1998 với Dự án iLab tại Viện Công nghệ MIT, Hoa Kỳ [9]. Kể từ đó đến nay, đã có nhiều dự án nghiên cứu nhằm xây dựng các phòng thí nghiệm từ xa phục vụ giảng dạy, chẳng hạn như dự án “iLab Shared Architecture” tại MIT [10], dự án Netlab tại Đại học Nam Úc [11] và dự án iLabRS tại Đại học Bách khoa Catalunya (Tây Ban Nha) [12].

Tại Bộ môn Điện tử Viễn thông, Trường Đại học Cần Thơ, một phòng thí nghiệm từ xa, có tên gọi Tele-Lab (Telecommunication Laboratory), phục vụ giảng dạy học phần Thực tập Viễn thông đã được xây dựng trên cơ sở kết hợp board mạch ELVIS II với bộ thí nghiệm viễn thông DATEx ETT-202 (Digital and Analog Telecommunications Experimenter) của hãng Emona (Úc) [13] và phần mềm LabVIEW [14]. Với Tele-Lab, người học có thể thực hiện các bài thực hành viễn thông trên bộ thí nghiệm DATEx ngay từ nhà mình thông qua mạng internet [15].

Page 8: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

4 Lương Vinh Quốc Danh, Trần Hữu Danh, Trương Phong Tuyên, Nguyễn Thị Trâm, Huỳnh Kim Hoa

Hình 2 mô tả cấu trúc tổng quát của phòng thí nghiệm viễn thông từ xa Tele-Lab. Thông qua công cụ Webserver của LabVIEW, người học truy cập vào máy chủ (Lab server) và điều khiển giao diện ma trận rơ-le chuyển mạch (Switch matrix) để đóng/ngắt các đường kết nối tín hiệu đã được thiết lập sẵn trên board mạch Emona DATEx ETT-202 đặt tại phòng thí nghiệm.

Emona DATEx là một bộ thí nghiệm viễn thông có thể được gắn vào board NI ELVIS II. Được thiết kế dưới dạng tập hợp các khối chức năng, board Emona DATEx cho phép người học dễ dàng kết nối các mô-đun lại với nhau để thực hiện bài thí nghiệm viễn thông. Board Emona DATEx bao gồm hơn 20 khối mạch viễn thông cơ bản như: mạch cộng tín hiệu (adder), mạch đa hợp (multiplexer), mạch trộn tín hiệu (mixer), khối phát tín hiệu, mạch dịch pha… Những khối mạch này có thể được sử dụng để thực hiện hàng chục bài thí nghiệm viễn thông bằng cách kết hợp các mô-đun lại với nhau. Board NI ELVIS II cung cấp đầy đủ các thiết bị giúp kiểm tra, đo đạc mạch điện và mô tả dữ liệu qua đồ thị. NI ELVIS II còn hỗ trợ các thiết bị đo, hiển thị kết quả phân tích tín hiệu và điều khiển từ xa trên nền tảng phần mềm LabVIEW.

Một board vi điều khiển Arduino [16] kết nối với máy chủ tại phòng thí nghiệm thông qua cổng USB được sử dụng để điều khiển ma trận rơ-le chuyển mạch cho phép thiết lập các đường kết nối tín hiệu cần thiết giữa các mô-đun trên board DATEx trong quá trình thực hiện một bài thí nghiệm nào đó. Người học có thể thay đổi trạng thái (đóng/ngắt) của các kết nối trong ma trận bằng cách sử dụng một giao diện phần mềm điều khiển rơ-le trong môi trường LabVIEW. Thông qua giao diện DATEx SFP (Soft Front Panels), người học có thể điều chỉnh các nút vặn (volume) và công-tắc (switch) trên board DATEx. Các bộ phận phần cứng của Tele-Lab được trình bày ở Hình 3.

Hình 3. Phần cứng của Tele-Lab

Để việc sử dụng Tele-Lab được thuận tiện, nhóm tác giả cũng đã xây dựng một trang web học phần nhằm hỗ trợ sinh viên đăng ký thời gian thực hiện bài thí nghiệm, hỗ trợ giảng viên quản lý phòng thí nghiệm và tương tác giữa giảng viên với người học. Việc kết hợp triển khai các bài thực hành tại phòng thí nghiệm với các bài tập thực hành từ xa qua hệ thống Tele-Lab có thể là một phương thức hữu hiệu để củng cố kiến thức và rèn luyện khả năng tự học của sinh viên.

3. Phản hồi của người học Để đánh giá mức độ hiệu quả của việc áp dụng phương

pháp giảng dạy mới, vào cuối học kỳ, sinh viên tham gia

lớp học phần Thực tập Mạch Tương tự được yêu cầu trả lời bảng khảo sát gồm có 8 câu hỏi với 7 câu hỏi mang tính định lượng và 1 câu hỏi mở. Nội dung chi tiết các câu hỏi được trình bày ở Bảng 3. Một số kết quả khảo sát tiêu biểu được trình bày ở các Hình 4, 5 và 6.

Bảng 3. Nội dung các câu hỏi khảo sát

Câu hỏi Nội dung

1 Bạn có hài lòng với cấu trúc của học phần này?

2 Bạn có hài lòng với cách phân chia nhóm thực tập dựa trên đặc điểm tính cách?

3 Bạn có được cung cấp đầy đủ tài liệu học tập và dụng cụ, thiết bị thí nghiệm không?

4 Giảng viên có nêu rõ các kiến thức và kỹ năng sinh viên cần đạt được sau khi hoàn tất môn học không?

5 Nội dung của học phần này có đáp ứng được mục tiêu của môn học không?

6 Bạn có đủ thời gian để thực hiện các bài thực hành không?

7 Bạn có hài lòng với phương pháp giảng dạy được sử dụng trong môn học này không?

8 Những đề xuất của bạn để cải tiến, nâng cao chất lượng dạy - học môn học này là gì?

Hình 4. Kết quả khảo sát ý kiến 103 sinh viên lớp học phần

Thực tập Mạch Tương tự ở học kỳ I năm học 2011-2012

Hình 5. Kết quả khảo sát ý kiến 106 sinh viên lớp học phần

Thực tập Mạch Tương tự ở học kỳ I năm học 2012-2013

40.78%

33.98%

35.92%

47.57%

40.78%

31.07%

64.08%

57.28%

62.14%

63.11%

50.49%56.31%

62.14%

34.95%

1.94%

3.88%

0.97%

1.94%

2.91%

6.80%

0.97%

0.00% 20.00% 40.00% 60.00% 80.00%

Q7Q6Q5Q4Q3Q2Q1

Unsatisfied Satisfied Very Satisfied

64.15%40.57%

61.32%40.57%

46.23%

41.51%

58.49%

34.91%56.60%

37.74%57.55%

52.83%56.60%

40.57%

0.94%

2.83%

0.94%

1.89%

0.94%

1.89%

0.94%

0.00% 20.00% 40.00% 60.00% 80.00%

Q7Q6Q5Q4Q3Q2Q1

Unsatisfied Satisfied Very Satisfied

Page 9: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 5

Hình 6. Kết quả khảo sát ý kiến 152 sinh viên lớp học phần

Thực tập Mạch Tương tự ở học kỳ I năm học 2013-2014

Kết quả khảo sát thực hiện ở học kỳ I năm học 2011-2012 (Hình 4) cho thấy hầu hết sinh viên cho rằng phương pháp dạy học mới này giúp khắc sâu kiến thức và cải thiện các kỹ năng cơ bản của người học (các câu hỏi 1, 2, 3, 4 và 7). Mặc dù có 2 sinh viên cho rằng cần thêm thời gian để thực hiện đồ án thiết kế (câu hỏi 6), phần lớn sinh viên hài lòng với việc áp dụng phương pháp dạy - học mới này (câu hỏi 1, 5 và 7). Các kết quả khảo sát ở học kỳ I năm học 2012 - 2013 (Hình 5) và học kỳ I năm học 2013 - 2014 (Hình 6) cũng cho thấy tỷ lệ sinh viên được hỏi hài lòng với nội dung các câu hỏi từ 1 đến 7 đạt từ 97% trở lên.

Chúng tôi cũng đã tiến hành áp dụng thử nghiệm hệ thống Tele-Lab vào việc giảng dạy học phần Thực tập Viễn thông để đánh giá mức độ khả thi của phương pháp trong điều kiện thực tế cũng như đánh giá hiệu quả tác động đến hoạt động tự học của sinh viên ở học phần này. Kết quả khảo sát nhanh tiến hành ở học kỳ I năm học 2012 - 2013 trên một nhóm 16 sinh viên được yêu cầu thực hiện bài thí nghiệm Điều chế biên độ AM thông qua hệ thống Tele-Lab. Kết quả phản hồi ý kiến của sinh viên như sau: 100% sinh viên cho rằng Tele-Lab là một phương thức tiên tiến giúp ôn lại các kiến thức đã được học; 100% sinh viên đồng ý rằng phòng thí nghiệm từ xa là một phương pháp phù hợp để hỗ trợ việc tự học nhờ tính linh hoạt và cơ động của nó. Tiếp theo đó, một nhóm gồm 18 sinh viên ở học kỳ II năm học 2014 - 2015 và một nhóm gồm 15 sinh viên ở học kỳ I năm học 2015 - 2016 thực hiện bài thí nghiệm Điều chế và giải điều chế FSK thông qua hệ thống Tele-Lab và được yêu cầu trả lời bảng khảo sát gồm có 8 câu hỏi với 7 câu hỏi mang tính định lượng và 1 câu hỏi mở. Nội dung chi tiết các câu hỏi được trình bày ở Bảng 4.

Bảng 4. Nội dung các câu hỏi khảo sát thực hành từ xa

Câu hỏi Nội dung

1 Sự thuận tiện, dễ dàng khi sử dụng hình thức thực hành từ xa.

2 Sự hữu ích của phòng thí nghiệm Tele-Lab trong thực tập.

3 Bạn có hài lòng với cách thực hành từ xa của phòng thí nghiệm Tele-Lab?

4 Tài liệu thực hành và tài liệu hướng dẫn thực hành ở phòng thí nghiệm Tele-Lab được cung cấp đầy đủ không?

5 Cho biết mức độ tiện lợi và dễ sử dụng của phòng thí nghiệm Tele-Lab.

6 Tele-Lab có giúp bạn hiểu rõ hơn về các chủ đề lý thuyết được học ở lớp không?

7 Sự cần thiết duy trì Tele-Lab song song với hình thức thực hành tại phòng thí nghiệm.

8 Điều gì khiến bạn chưa hài lòng khi sử dụng Tele-Lab?

Hình 7. Kết quả khảo sát ý kiến sinh viên về Tele-Lab

Hình 7 trình bày kết quả khảo sát ý kiến của sinh viên. Kết quả ý kiến phản hồi cho thấy hơn 74% sinh viên cho rằng sự hữu ích, tiện lợi và dễ dàng sử dụng của hình thức thực hành từ xa và phòng thí nghiệm Tele-Lab trong học tập là tốt và rất tốt; 80% cho rằng hài lòng và rất hài lòng với cách thực hành của phòng thí nghiệm Tele-Lab và là một phương thức tiên tiến giúp ôn lại các kiến thức lý thuyết ở lớp cũng như phần thực hành tại phòng thí nghiệm đã được học; trên 93% sinh viên đồng ý rằng phòng thí nghiệm từ xa tiện lợi, tài liệu thực hành và tài liệu hướng dẫn thực hành ở phòng thí nghiệm Tele-Lab được cung cấp đầy đủ. Nhìn chung, 94% sinh viên mong muốn mô hình phòng thí nghiệm từ xa này được áp dụng trong chương trình học.

4. Kết luận Trong bài viết này, chúng tôi đã trình bày việc cải tiến

phương pháp dạy - học theo hướng tích cực hóa hoạt động dạy và học của 2 học phần Thực tập Mạch Tương tự và Thực tập Viễn thông tại Bộ môn Điện tử Viễn thông, Trường Đại học Cần Thơ. Việc kết hợp các bài tập ở nhà, bài thực hành ở phòng thí nghiệm và đồ án thiết kế giúp kích thích động lực học tập của người học, phát triển kỹ năng cần thiết để có thể biến ý tưởng thành giải pháp cho

54%43%

53%39%

45%

43%

51%

45%55%

46%59%

54%

55%

47%

1%

3%

1%

1%

1%

3%

2%

0% 20% 40% 60% 80%

Q7Q6Q5Q4Q3Q2Q1

Unsatisfied Satisfied Very Satisfied

Page 10: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

6 Lương Vinh Quốc Danh, Trần Hữu Danh, Trương Phong Tuyên, Nguyễn Thị Trâm, Huỳnh Kim Hoa

các vấn đề kỹ thuật, rèn luyện kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm. Bên cạnh đó, việc triển khai áp dụng mô hình phòng thí nghiệm từ xa Tele-Lab trong giảng dạy học phần Thực tập Viễn thông cho thấy rằng đây là một phương thức tiên tiến và hiệu quả để hỗ trợ hoạt động tự học của sinh viên. Các mô hình dạy - học này cũng có thể được áp dụng cho các học phần thực hành của các ngành kỹ thuật khác. Trong thời gian sắp tới, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện các chức năng của mô hình Tele-Lab để đưa vào sử dụng trong việc giảng dạy ở phòng thí nghiệmViễn thông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Educating the Engineer of 2020.Adaping Engineering Education to the

New Century. National Academies Press, Washington DC., 2005. [2] Thanh Hùng, “Sinh viên với kỹ năng sống: Bài học chưa được dạy”,

URL: http://www.sggp.org.vn/giaoduc/2009/12/211757/ [3] Kim Ngân, “63 % sinh viên thất nghiệp, chất lượng giáo dục có vấn

đề?”, URL: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/63--sinh-vien-that-nghiep-chat-luong-giao-duc-co-van-de-post88908.gd

[4] Gia Nhu Nguyen, Nguyen Bao Le, and Thanh Trung Nguyen, CDIO as the Foundations for International Accreditations. Proceedings of the 9th International CDIO Conference, Massachusetts Institute of Technology and Harvard University School of Engineering and Applied Sciences, Cambridge, Massachusetts, June 9 – 13, 2013.

[5] Luong V. Q. Danh, Truong P. Tuyen, Nguyen T. Tram, and Huynh K. Hoa, Integrating Basic Skills into Analog Electronic Circuits Lab Courses at Cantho University, Journal of Science and Technology,

The University of Da Nang, Vol.1, No. 12 (73), pp. 7-11, 2013. [6] Trắc nghiệm tính cách MBTI. URL:

http://www.tracnghiemmbti.com/ [7] NI Multisim 3D Environment. URL: http://www.ni.com/white-

paper/10554/en/ [8] NI ELVIS. URL: http://www.ni.com/ni-elvis/ [9] Achelengwa, E., M.Emona-based interactive amplitude

modulation/demodulation iLab. Master’s Thesis. URL: http://dspace.mit.edu/handle/1721.1/66402

[10] Oluwapelumi, O. A., et al. Remote realistic interface experimentation using the Emona DATEx board. 2012 ASEE Annual Conference, Texas, pp. 25.1117.1 – 25.1117.17, June 2012.

[11] Jan, M., Zorica, N., & Özdemir, G.Collaborative Learning in the Remote Laboratory NetLab. International Multi-Conference on Society, Cybernetics and Informatics, 2007.

[12] Bragos, R. et al. A Remote Laboratory to Promote the Interaction between University and Secondary Education. 2010 IEEE EDUCON Education Engineering 2010 – The Future of Global Learning Engineering Education, pp. 345-350, April 2010.

[13] Emona Telecoms Trainer ETT-202. URL: http://www.tims.com.au/emona-telecoms-trainer-ett-202

[14] LabVIEW system design software. URL: http://www.ni.com/labview/

[15] Luong V. Q. Danh, Nguyen C. Qui, and Vo D. Tin, Implementation of a Remote Telecommunications Laboratory Using Emona-DATEx Trainer at Cantho University. Second International Engineering and Technical Education Conference (IETEC’13), Ho Chi Minh City, Vietnam, pp. 13-22, Nov. 2013.

[16] Arduino. URL: https://www.arduino.cc

(BBT nhận bài: 24/04/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 11/12/2016)

Page 11: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111) 2017-Quyển 1 7

ĐẶC ĐIỂM TÍNH CÁCH CỦA KỸ SƯ XÂY DỰNG VIỆT NAM PERSONALITY TRAITS OF CONSTRUCTION ENGINEERS IN VIETNAM

Võ Đăng Khoa1, Lê Hoài Long2, Nguyễn Văn Châu3, Đặng Ngọc Châu1 1HVCH ngành Quản lý Xây dựng, Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh; [email protected],

[email protected] 2Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh; [email protected]

3Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình 525; [email protected]

Tóm tắt - Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong sự pháttriển và gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanhnghiệp xây dựng đang đối mặt với vấn đề sử dụng hiệu quả nguồnnhân lực. Vì thế, nghiên cứu về đặc điểm tính cách của các kỹ sưxây dựng sẽ góp phần vào sự hiểu biết về đặc điểm cá nhân củakỹ sư, giúp các doanh nghiệp tuyển dụng và sử dụng hiệu quảnguồn nhân lực. Bài báo tập trung vào việc nhận dạng các đặcđiểm tính cách của kỹ sư xây dựng làm việc tại Việt Nam. Nghiêncứu tiến hành khảo sát các đối tượng gồm kỹ sư xây dựng làmviệc tại vị trí là tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, kỹ sư thi công, vàquản lý dự án bằng công cụ đo lường tâm lý KTS-II (KeirseyTemperament Sorter-II). Dữ liệu thu về gồm 120 bảng khảo sáthợp lệ và được tiến hành phân tích. Các kết quả của phân tích chỉra đặc điểm tính cách nổi trội của nhóm kỹ sư thi công là ST (cảmgiác - suy nghĩ).

Abstract - Human resources play a key role in developing and increasing the competitiveness of enterprises. Construction companies are facing challenges of how to use human resourceseffectively. Undoubtedly, a study which focuses on personality traits of construction engineers could provide a better understanding of personal characteristics of construction engineers and, therefore, help construction companies to recruit and use human resources better. This paper focuses on identifying personality traits of construction engineers in Vietnam. A survey is conducted among design consultants, supervisors, site engineers, and project managers with a psychological measurement tool,namely KTS-II (Keirsey Temperament Sorter-II). Analysis is conducted based on 120 valid collected survey questionnaires. The results of analysis show that the dominant personality characteristics of on-site construction team is ST (sense - thinking).

Từ khóa - đặc điểm tính cách; nguồn nhân lực; ngành công nghiệpxây dựng; doanh nghiệp xây dựng; kỹ sư xây dựng.

Key words - personality traits; human resources; constructionindustry; construction company; construction engineer.

1. Đặt vấn đề

Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của dự án và sự phát triển của tổ chức. Quản lý nhân sự, động viên và thúc đẩy hoạt động của nhân viên là một trong những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong lĩnh vực quản lý dự án. Trong đó, hiệu quả và sự thành công của những nhà quản lý dự án là chìa khóa thúc đẩy sự thành công của dự án [1 - 3], hiệu quả làm việc của những kỹ sư làm việc trong tổ chức [4, 5], và đều chịu sự tác động của đặc điểm tính cách.

Lý thuyết về đặc điểm tính cách phát triển dựa trên nền tảng tâm lý học, nó giúp dự đoán được xu hướng thái độ, hành vi của con người. Đặc điểm tính cách được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nhằm định hướng, dự đoán tiềm năng phát triển của một cá nhân. Nó được biết đến nhờ sự phổ biến của những công cụ kiểm tra đặc điểm tính cách và ứng dụng của nó vào trong quản lý nhân sự. Đặc điểm tính cách được chia thành 16 dạng với công cụ MBTI [6], chia thành 5 xu hướng lớn theo công cụ Big Five, chia thành 4 nhóm lớn với công cụ KTS-II (Keirsey Temperament Sorter II) [7], và chia thành 3 xu hướng chính trong lý thuyết của Jung [8].

Đặc điểm tính cách là một xu hướng nghiên cứu gia tăng hiệu quả hoạt động của tổ chức dựa trên việc gia tăng hiệu quả hoạt động của nguồn nhân lực. Trong ngành công nghiệp xây dựng, các nghiên cứu về đặc điểm tính cách đã được thực hiện tại Mỹ [4, 5, 9], Anh [10] và được xem như là một cơ sở để dự đoán hiệu quả hoạt động của các kỹ sư và nhà quản lý trong ngành xây dựng. Trong xu thế phát triển và gia nhập thị trường chung, ngành xây dựng Việt Nam vẫn phải chịu sự đánh giá kém về hiệu quả lao động.

Nghiên cứu về đặc điểm tính cách sẽ tạo ra thêm cơ sở đánh giá và dự đoán hiệu quả lao động của các kỹ sư ngành xây dựng. Bài báo này sẽ trình bày sự phát triển của lý thuyết và các công cụ đo lường đặc điểm tính cách. Công cụ KTS-II sẽ được sử dụng để xác định đặc điểm tính cách của các kỹ sư xây dựng làm việc ở các nhóm ngành tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, thi công, và quản lý dự án. Xu hướng đặc điểm tính cách của các kỹ sư làm việc tại các nhóm chuyên ngành khác nhau sẽ được xác định dựa trên phân bố đặc điểm tính cách của tổng thể. Xu hướng tính cách nổi trội trong nhóm chuyên ngành chiếm phần lớn sẽ được phân tích và bàn luận.

2. Tổng quan nghiên cứu Lý thuyết về đặc điểm tính cách Jung (nhà tâm lý học người Thụy Sĩ) đã đặt nền tảng

cho tâm lý học phân tích. Ông cho rằng trong mỗi con người đều có nhiều thiên hướng, khuynh hướng tinh thần, và nó có thể điều khiển con người từ bên trong. Chúng ta có thể bị ảnh hưởng lớn hơn từ một khuynh hướng tinh thần so với xu hướng tinh thần còn lại trong một cặp xu hướng tinh thần đối đầu [8]. Con người sẽ thể hiện hành vi và thái độ của mình thông qua ba cặp xu hướng đối đầu nhau. Đối với khuynh hướng tự nhiên, có thể hướng nội hoặc hướng ngoại sẽ vượt trội hơn, đối với sự yêu thích của bản thân trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin như suy nghĩ đối đầu với cảm xúc hay cảm giác đối đầu trực giác sẽ có hai xu hướng nổi trội hơn trong hai cặp chức năng tâm lý đối đầu trên. Các chức năng tâm lý đó có thể xác định và phân loại dựa trên xu hướng riêng của mỗi người. Tổng hợp những xu hướng tâm lý sẽ tạo thành một dạng đặc điểm tính cách.

Page 12: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

8 Võ Đăng Khoa, Lê Hoài Long,Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu

Lý thuyết về những nét đặc trưng của tính cách con người trong tâm lý học có khuynh hướng nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tập trung, ít thay đổi của các thông số chỉ đặc điểm tính cách con người đã tạo tiền đề cho sự phát triển công cụ đo lường nó [11]. Lý thuyết Jung đã được rất nhiều nhà nghiên cứu kế thừa và phát triển thành các công cụ đo lường và phân tích tâm lý con người. Các lý thuyết được các nhà nghiên cứu quan tâm như là lý thuyết “Big Five Personality Traits” - đặc điểm năm tính cách, lý thuyết “Keirsey’s Temperament Theory” - đặc điểm tính cách của Keirsey [7] và công cụ đo lường tính cách “Myers-Briggs Type Indicator (MBTI)” [6].

Lý thuyết về đặc điểm tính cách của Keirsey Keirsey dựa trên nền tảng lý thuyết của Jung và phát

triển công cụ đo lường tính cách KTS-II. Công cụ này được trình bày trong quyển sách Please Undestand Me II. 70 câu hỏi trong công cụ sẽ xác định được đặc điểm tính cách của người tham gia làm bài kiểm tra đặc điểm tính cách với dạng trắc nghiệm. KTS-II hiện đang được sử dụng bởi các công ty trong nhóm Fortune 500, Global 1000, Chính phủ Hoa Kỳ, quân đội, viện hàn lâm, các tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức dựa trên đức tin trên toàn thế giới [12].

Các dạng đặc điểm tính cách Theo lý thuyết của Keirsey, tính cách con người được

thể hiện thông qua bốn nhóm chính. Các nhóm tính cách bao gồm: Artisan - nhóm nghệ thuật; Guadian - nhóm bảo vệ; Rational - nhóm lý trí và Idealist - nhóm lý tưởng hóa. Mỗi nhóm người có những đặc trưng riêng biệt và mỗi nhóm bao gồm 4 loại tính cách (Bảng 1).

Bảng 1. Phân loại tính cách

ARTISAN Thợ thủ

công

GUARDIAN Người bảo vệ

RATIONAL Người lý trí

IDEALIST Người lý

tưởng hóa

Promoter (ESTP)

Người khởi tạo

Supervisor (ESTJ)

Người giám sát

Fieldmarshal (ENTJ)

Người điều hành

Teacher (ENFJ)

Người dạy bảo

Crafter (ISTP)

Thợ lành nghề

Inspector (ISTJ)

Người trách nhiệm

Mastermind (INTJ)

Người có trí tuệ cao

Counselor (INFJ) Người

khuyên bảo

Performer (ESFP)

Người trình diễn

Provider (ESFJ)

Người quan tâm

Inventor (ENTP)

Ngườicó tầm nhìn

Champion (ENFP) Người

truyền cảm hứng

Composer (ISFP)

Người nghệ sĩ

Protector (ISFJ)

Người nuôi dưỡng

Architect (INTP)

Nhà tư tưởng

Healer (INFP)

Người lý tưởng hóa

(Nguồn http://keirsey.com/aboutkts2.aspx)

Các thang đo xác định tính cách Đặc điểm tính cách được KTS-II phân loại dựa trên bốn

thang đo, mỗi thang đo là một cặp đối đầu nhau về xu hướng tâm lý (Bảng 2). Mỗi thang đo đại diện cho một đặc điểm tâm lý thể hiện thái độ, hành vi của mỗi con người.

Bảng 2. Các thang đo tính cách

Thuật ngữ Ý nghĩa Thuật ngữ Ý nghĩa

(E) Extroversion Hướng ngoại

Expressive Tính cới mở

vs (I)

Introversion Hướng nội

Attentive Tính thận

trọng

(S) Sensing

Cảm giác

Observant Tính quan

sát vs

(N) Intuiting Trực giác

Introspective Tính nội

tâm

(T) Thinking

Lý trí

Tough-Minded

Tính nguyên tắc

vs (F)

Feeling Tình cảm

Friendly Tính thân

thiện

(J) Judging

Nguyên tắc

Scheduled Tính lịch

trình vs

(P) Perceiving Linh hoạt

Probing Tính thăm

(Nguồn http://keirsey.com/aboutkts2.aspx)

Thang đo (E-I) Là thang đo về xu hướng tự nhiên cho thấy việc lấy cảm

hứng làm việc từ môi trường bên ngoài, bao gồm hai xu hướng là hướng nội (thể hiện cho việc bạn lấy cảm hứng làm việc của bạn từ bên trong bản thân bằng sự ân cần, chăm chút của mình, môi trường làm việc ít có sự tương tác với người khác sẽ tạo động lực làm việc cho bạn) và hướng ngoại (thể hiện cho việc bạn lấy cảm hứng làm việc từ bên ngoài, bạn lấy cảm hứng từ sự trao đổi, thích nói ra, viết ra và chia sẻ với đồng nghiệp những gì xung quanh, môi trường làm việc năng động, có nhiều sự tương tác sẽ truyền cảm hứng cho bạn).

Thang đo (S-N) Là thang đo về cách bạn tiếp nhận thông tin từ môi

trường bên ngoài. Cảm giác - Sensing (S) chỉ xu hướng bạn thu thập thông tin bằng giác quan của cơ thể bằng cách nghe, quan sát. Trực giác - Intuiting (N) chỉ xu hướng bạn thu thập thông tin bằng trực giác, cảm nhận, và phán đoán của mình.

Thang đo (T-F) Là thang đo về cách xử lý thông tin, và ra quyết định.

Suy nghĩ -Thinking (T) chỉ xu hướng bạn sử dụng suy luận logic của mình, và các khuôn khổ tiêu chuẩn có sẵn để ra quyết định. Cảm xúc - Feeling (F) chỉ xu hướng bạn ra quyết định dựa trên tình cảm, những mối quan hệ liên quan khác, thường quyết định sẽ không bị bó chặt trong tiêu chuẩn đã định sẵn.

Thang đo (J-P) Là thang đo thể hiện xu hướng tác phong, cách bạn làm

việc trong môi trường công việc. Phán xét, đánh giá - Judging (J) thể hiện xu hướng bạn cảm thấy thoải mái khi làm việc với những thông tin được định sẵn và được lên lịch cụ thể. Linh hoạt - Perceiving (P) thể hiện xu hướng bạn thích làm những việc mới, và có ít thông tin về nó. Bạn làm việc như một nhà thám hiểm, tìm kiếm thứ mới và không thích bị ràng buộc bởi thời gian, và lịch trình.

Vai trò và ứng dụng của đặc điểm tính cách Ngành xây dựng được phân chia thành nhiều nhóm

chuyên ngành nhỏ và mỗi nhóm chuyên ngành nhỏ lại mang những nét đặc trưng riêng biệt trong công việc. Đại diện

Page 13: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111) 2017-Quyển 1 9

trong đó là bốn nhóm chuyên ngành: tư vấn thiết kế; tư vấn giám sát; thi công và quản lý dự án. Với sự khác biệt về môi trường làm việc và đặc thù công việc của mỗi nhóm chuyên ngành đã tạo nên sự khác biệt trong sự phối hợp làm việc, quan điểm cá nhân, và hiệu quả làm việc của những kỹ sư thuộc những nhóm chuyên ngành khác nhau. Những nghiên cứu về đặc điểm tính cách được thực hiện để tối ưu hiệu quả hoạt động của từng kỹ sư trong nhóm chuyên ngành, và giảm xung đột ngành nghề giữa các nhóm chuyên ngành giúp hiểu rõ hơn về thái độ và hành vi của những kỹ sư.

Tại Mỹ, một cuộc nghiên cứu đặc điểm tính cách của các kỹ sư xây dựng và kỹ sư thiết kế làm việc tại các cơ quan nhà nước công trong các tổ chức xây dựng dân dụng toàn quốc đã được thực hiện bởi Johnson và Singh, nhằm hiểu rõ hơn đặc điểm tính cách của các kỹ sư, góp phần giải thích cho sự mâu thuẫn giữa các chuyên ngành khác nhau trong tổ chức xây dựng bằng cách khám phá cách nhìn nhận thế giới xung quanh của họ thông qua công cụ phân loại đặc điểm tính cách MBTI [4]. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng kỹ sư xây dựng và kỹ sư thiết kế có những điểm giống nhau trong đặc điểm tính cách là cả hai đều có khuynh hướng tự nhiên hướng nội - lấy năng lượng, động lực làm việc từ bên trong bản thân với những ý tưởng, khả năng của mình. Cả hai đều có cách thu thập thông tin từ những sự việc, hiện tượng có thật bằng cảm giác (nghe thấy, nhìn thấy,…), có thiên hướng nghiêng về sự thật và những con số. Xu hướng ra quyết định của cả hai đều dựa trên giá trị con người và tổ chức thay vì tư duy logic. Bên cạnh những điểm giống nhau, kỹ sư xây dựng và kỹ sư thiết kế có điểm khác nhau trong phong cách giải quyết vấn đề, ở kỹ sư thiết kế chiếm phần trăm cao hơn với xu hướng cảm giác - cảm xúc (SF), còn đối với kỹ sư xây dựng chiếm phần trăm cao ở cảm giác - suy nghĩ (ST) [4].

Sự khác biệt về đặc điểm công việc trong lĩnh vực xây dựng, và sự khác biệt về đặc điểm tính cách của những kỹ sư phụ trách công việc đó có thể tạo ra sự khác biệt về hiệu quả công việc. Nghiên cứu về đặc điểm tính cách và hiệu quả công việc của cá nhân làm trong các dịch vụ thiết kế trong ngành xây dựng và kiến trúc được Carr và nhóm nghiên cứu thực hiện. Nghiên cứu chỉ ra rằng những cá nhân có đặc điểm tính cách MBTI, P (khuynh hướng làm việc với sự linh hoạt, mềm dẻo) và MBTI, N (khuynh hướng thu thập thông tin bằng trực giác), sẽ làm việc vượt trội hơn MBTI, S (khuynh hướng thu thập thông tin bằng cảm giác như nghe, nhìn) và MBTI, J (khuynh hướng làm việc có kế hoạch cụ thể, rõ ràng), trong giai đoạn nghiên cứu và báo cáo, thiết kế sơ bộ, xây dựng. Mặt khác, cá nhân có đặc điểm tính cách MBTI, J lại làm tốt hơn trong nhiệm vụ thiết kế thi công [5]. Sự khác biệt về tính cách của kỹ sư đã tạo nên hiệu quả làm việc vượt trội cho những nhóm đặc điểm tính cách phù hợp với đặc điểm công việc.

Đặc điểm tính cách sẽ là cơ sở dự đoán cho hiệu quả công việc dựa trên sự phù hợp giữa hành vi, thái độ cá nhân và đặc điểm của công việc mà họ sẽ được phụ trách. Khả năng làm việc và hiệu quả công việc của nhà quản lý dự án ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của dự án. Nên việc nghiên cứu và dự đoán hiệu quả làm việc của họ dựa trên những đặc điểm cá nhân, trong đó có đặc điểm tính cách được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nhà nghiên cứu

đã đề xuất một chương trình phát triển nghề nghiệp dựa trên đặc điểm tính cách, năng lực của người quản lý và đặc điểm của vị trí việc làm. Các năng lực bao gồm tư duy phân tích, tư duy theo ngữ cảnh, tìm kiếm thông tin là rất cần thiết cho người quản lý dự án. Và tiềm năng cho ba năng lực trên được xác định thông qua các xu hướng tinh thần là: cảm giác, trực giác và sự nhận thức. Thông qua đó, các phân loại đặc điểm tính cách của MBTI và Keirsey được Madter và các nhà nghiên cứu đề xuất để dự đoán tiềm năng phát triển các năng lực cho nhà quản lý dự án trong ngành công nghiệp xây dựng tại Anh [10].

Sự phù hợp của đặc điểm tính cách của nhà quản lý dự án tương lai với những đặc điểm công việc và loại dự án họ phụ trách sẽ giúp họ phát huy khả năng làm việc của họ và mang lại sự thành công. Đặc điểm tính cách của các nhà quản lý dự án là một biến ảnh hưởng đến sự thành công của toàn dự án, nó được thể hiện trong mô hình nghiên cứu của Todd Creasy, Vittal S. Anantatmula [1]. Các đặc điểm tính cách được xác định bởi công cụ MBTI như ISTJ, INFJ, INTJ, ENTP, ESTJ, ENFJ, ENTJ và INTJ, ESTJ, ENTJ là những đặc điểm tính cách có sự hỗ trợ cho khả năng lãnh đạo dự án của các nhà quản lý dự án được tìm thấy bởi Gehring [13].

Bên cạnh sự phù hợp về loại đặc điểm tính cách thông qua các thang đo phân loại như MBTI và KTS-II, thang đo về mức độ của những xu hướng trong đặc điểm tính cách (Big Five) có thể dùng để dự đoán sự thành công của nhà quản lý dự án. Bedingfield & Thal nghiên cứu về đặc điểm tính cách của những nhà quản lý dự án thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ bằng công cụ Big Five. Nghiên cứu đã chỉ ra hai thang đo Conscientiousness - sự tận tâm và Openness - sự cởi mở là thước đo dùng để dự đoán nhà quản lý dự án thành công [9]. Và kết quả của nghiên cứu rất hữu ích, nó đóng góp như là một sự cân nhắc dùng trong tuyển dụng, lựa chọn người quản lý dự án.

Bên cạnh những nghiên cứu về quy mô trong một ngành, đặc điểm chung về tính cách của những nhà quản lý dự án còn được thực hiện ở quy mô đa ngành. Xu hướng chung về đặc điểm tính cách của những nhà quản lý thuộc các ngành nghề khác nhau sẽ góp phần hiểu rõ hơn về đặc điểm tính cách của các nhà quản lý dự án và sự thành công của dự án. Phân bố đặc điểm tính cách của các nhà quản lý dự án được Cohen và nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát trên 280 nhà quản lý dự án có kinh nghiệm trong các lĩnh vực: phần mềm, xây dựng, ngân hàng, viễn thông, thực phẩm, kỹ thuật, an ninh, giao thông, và giáo dục. Nghiên cứu tập trung phân tích hai thang đo bao gồm thang đo về khuynh hướng cách thu thập thông tin từ môi trường, và thang đo về khuynh hướng cách xử lý thông tin (cách ra quyết định) của người quản lý dự án. Mối quan hệ giữa hai khuynh hướng và sự thành công của các dự án được tìm thấy. Các nhà quản lý dự án có đặc điểm NT (dùng trực giác, suy luận của mình để thu thập thông tin chiếm đa số và xử lý thông tin chính xác, quyết đoán bằng những tiêu chuẩn, những phân tích), nhưng lại không có sự thành công bằng các nhà quản lý dự án có đặc điểm SF (dùng cảm giác để thu thập thông tin - nghe, nhìn,… những sự việc, và xử lý thông tin mềm dẻo dựa trên tình cảm và mối quan hệ ) [11].

Page 14: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

10 Võ Đăng Khoa, Lê Hoài Long,Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu

Mỗi con người đều khác nhau từ thái độ đến hành vi của họ như: cách tư duy, cách sáng tạo, cách giao tiếp, cách làm việc, những thứ họ muốn học hỏi, những thứ họ muốn làm đều khác nhau. Vì vậy, sự vượt trội và thành công hơn sẽ đến nếu họ được thực hiện đúng những điều họ mong muốn và theo cách của chính mình. Đặc điểm tính cách là một nhân tố có tiềm năng cho việc dự đoán sự phát triển hiệu quả công việc của một cá nhân, và hiệu quả công việc của toàn tổ chức thông qua sự phù hợp của đặc điểm tinh thần, các xu hướng tự nhiên của những cá nhân làm việc trong tổ chức, công ty nói chung và trong ngành xây dựng nói riêng. Những nghiên cứu về đặc điểm tính cách giúp việc dự đoán hiệu quả làm việc của nhân viên trước khi họ tiếp nhận nhiệm vụ, và sự phù hợp của đặc điểm tính cách của họ với vị trí công việc mới trở thành cơ sở cho việc phân công nhiệm vụ hoàn chỉnh và phù hợp, đem lại hiệu quả cho nhân viên và công ty.

3. Kết quả nghiên cứu Cuộc khảo sát được thực hiện trên các đối tượng là kỹ

sư đang làm việc trong ngành Công nghiệp xây dựng. Có tất cả 120 bảng câu hỏi có giá trị được thu về trong tổng số 170 bảng câu hỏi được phát ra. Với phương pháp lấy mẫu phi xác suất, các bảng câu hỏi được phát ra bằng hai cách: thư điện tử và khảo sát trực tiếp. Các bảng câu hỏi được tổng hợp và xử lý trước khi đưa vào phân tích, những bảng câu hỏi sai sót sẽ bị loại bỏ.

Hình 1. Tỷ lệ % theo vị trí việc làm của các kỹ sư

Đa số kỹ sư nam đã tham gia trả lời bảng câu hỏi trong cuộc khảo sát, chiếm tỉ lệ 107/120 phản hồi hợp lệ. Các kỹ sư được khảo sát đa số làm việc ở vị trí kỹ sư thi công, chiếm 48% mẫu quan sát (Hình 1). Số năm kinh nghiệm của các kỹ sư trong mẫu quan sát được đại diện với tỷ lệ 61% là < 5 năm kinh nghiệm (Hình 2). Đối tượng kỹ sư thi công là đối tượng chiếm phần lớn trong mẫu, cũng là đối tượng chính hướng đến trong nghiên cứu. Các kỹ sư thi công luôn chịu nhiều tác động từ môi trường làm việc trên công trường, và thể hiện rất rõ nhưng đặc điểm cá nhân về cách làm việc, lối suy nghĩ thông qua đặc điểm tính cách của họ. Đặc điểm tính cách chung của phần lớn các kỹ sư thi công có số năm kinh nghiệm nhỏ hơn 5 năm sẽ là một định hướng tham khảo cho các kỹ sư xây dựng mới tốt nghiệp lựa chọn vị trí thi công khi bắt đầu công việc của mình.

Đặc điểm chung của mẫu là gồm có 120 kỹ sư với phần lớn là các kỹ sư thi công và quản lý dự án. Kết quả khảo sát thể hiện đặc điểm tính cách chung cho tất cả vị trí việc làm của kỹ sư xây dựng sẽ được xem xét. Nhưng với kết quả khảo sát ban đầu sẽ cho ta thấy được những dấu hiệu khác biệt giữa đặc điểm tính cách của những kỹ sư làm việc

ở những vị trí việc làm khác nhau.

Hình 2. Tỷ lệ % theo năm kinh nghiệm của các kỹ sư

Đặc điểm tính cách của các kỹ sư ở tất cả các vị trí việc làm có xu hướng nghiêng về E, hướng ngoại (56%) hơn so với I, hướng nội (22%); nghiêng về S, cảm giác (61%) hơn so với N, trực giác; nghiêng về T, suy nghĩ (74%) hơn so với F, cảm xúc (16%) (Bảng 3). Thang đo J-P ít cho thấy sự phân biệt lớn với J, nguyên tắc (46%) và P, linh hoạt (44%) (Bảng 3). Trong đó, nhóm vị trí kỹ sư thi công và quản lý dự án mang đặc điểm tính cách ESTJ, nhóm vị trí tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát mang đặc điểm tính cách ESTP.

Bên cạnh các xu thế đặc điểm tinh thần chung, những thang đo vẫn tồn tại những điểm không phân biệt tính cách như ở thang đo E-I, thang đo S-N, thang đo T-F, thang đo J-P lần lượt là 15%, 6%, 3%, 7% (Bảng 3). Những quan sát có những điểm không phân biệt tính cách cho biết tính cách của những kỹ sư không được xác định rõ với công cụ KTS-II.

Kết quả về đặc điểm tính cách của nhóm đối tượng kỹ sư thi công có điểm tương đồng với kết quả nghiên cứu của Johnson và Singh [4]. Đặc trưng ST chỉ ra đặc điểm tính cách của các kỹ sư thi công. Họ có xu hướng thu thập thông tin dựa trên những giác quan của họ, và họ tin những gì hiện diện trước mắt (có thể nhìn, nghe, và chạm được) hơn những trực giác, phán đoán từ bên trong bản thân. Bên cạnh đó, cách các kỹ sư thi công ra quyết định dựa trên suy luận logic, và những tiêu chuẩn sẵn có chiếm ưu thế hơn những giá trị tình cảm và mối quan hệ. Kết quả phân tích từ đặc điểm tâm lý cho thấy sự phù hợp của đặc điểm tâm lý của nhóm kỹ sư thi công với môi trường làm việc của ngành nghề thi công tại Việt Nam. Các kỹ sư thi công sử dụng tiêu chuẩn và những hướng dẫn kỹ thuật để thực hiện triển khai, hướng dẫn và kiểm tra kỹ thuật đối với công nhân. Những kết luận đúng hay sai dựa trên những đặc trưng thể hiện qua sản phẩm do các công nhân thực hiện. Với môi trường làm việc như thế những kỹ sư mang đặc điểm ST sẽ chiếm ưu thế trong việc thực hiện công việc của mình hơn những kỹ sư không mang đặc điểm tính cách ST. Bên cạnh đó, với đặc điểm tính cách E có xu hướng lấy động lực làm việc từ môi trường bên ngoài và J có xu hướng làm việc nguyên tắc,rất phù hợp với môi trường làm việc của các kỹ sư thi công trên công trường.

Nhóm 58 kỹ sư thi công trong mẫu quan sát đã thể hiện được một phần của xu hướng trội hơn trong những xu hướng tinh thần của nhóm nghề nghiệp thi công. Và đặc điểm tinh thần ESTJ có thể là đặc trưng chung của nhóm nghề nghiệp thi công.

10%

48%11%

23%

8%

VỊ TRÍ VIỆC LÀM CỦA CÁC KỸ SƯ

Tư vấn thiết kế

Kỹ sư thi công

Tư vấn giám sát

Quản lý dự án

Khác

61%30%

9%

NĂM KINH NGHIỆM CỦA CÁC KỸ SƯ

< 5 năm

Từ 5 - 10 năm

> 10 năm

Page 15: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111) 2017-Quyển 1 11

Những hướng nghiên cứu cần được phát triển Đặc điểm tính cách đặc trưng của những nhóm ngành

nghề quản lý dự án, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và mối quan hệ của chúng với môi trường làm việc cần được thực hiện với kích cỡ mẫu lớn hơn. Bên cạnh những đặc điểm tính cách đặc trưng của nhóm ngành nghề, sự ảnh hưởng của đặc điểm tính cách đến hiệu quả hoạt động của những cá nhân mang đặc điểm tính cách đặc trưng cần được chứng minh thông qua một nghiên cứu thực nghiệm.

Bảng 3. Bảng thống kê xu hướng đặc điểm tính cách theo vị trí việc làm của kỹ sư

Thang đo

Tư vấn thiết kế

Kỹ sư thi công

Tư vấn giám sát

Quản lý dự án Tổng Tỷ lệ

E 9 33 9 16 67 56% I 2 16 1 7 26 22% K 1 9 3 5 18 15% S 6 38 10 19 73 61% N 5 18 2 6 31 26% K 1 2 1 3 7 6% T 9 46 9 25 89 74% F 3 10 4 2 19 16% K 0 2 0 1 3 3% J 3 30 6 16 55 46% P 7 22 7 12 48 40% K 2 6 0 0 8 7%

K: không phân biệt

Hình 3. Đặc điểm tính cách của các kỹ sư

4. Kết luận Đặc điểm tính cách của nhân viên trong tổ chức sẽ trở

thành chìa khóa gia tăng hiệu quả lao động của từng cá nhân, và của toàn tổ chức. Những nghiên cứu về đặc điểm tính cách tại các quốc gia trên thế giới đã trở thành tiền đề và cơ sở cho việc thúc đẩy nghiên cứu về đặc điểm tính cách của các kỹ sư trong ngành xây dựng tại Việt Nam.

Trong bài báo này lý thuyết của Keirsey và kết quả khảo sát ban đầu của nhóm 120 kỹ sư xây dựng tại Việt Nam với công cụ KTS-II được trình bày. Kết quả khảo sát cho thấy những kỹ sư thi công mang những đặc điểm tính cách đặc trưng vượt trội là ESTJ.

Hiểu rõ đặc điểm tính cách của các kỹ sư trong ngành công nghiệp xây dựng sẽ tạo ra cơ hội ứng dụng vào trong hoạt động sản xuất xây dựng, đào tạo và tuyển dụng kỹ sư xây dựng. Những thông tin tham khảo về xu hướng đặc điểm tính cách của một nhóm vị trí việc làm trong ngành xây dựng sẽ có thể trở thành một trong những cơ sở lựa chọn vị trí việc làm phù hợp cho những sinh viên xây dựng. Ngoài ra, đặc điểm tính cách có thể trở thành một cơ sở dự đoán hiệu quả lao động của kỹ sư, góp phần gia tăng hiệu quả trong công việc thông qua việc phân công và tuyển dụng nhân sự phù hợp với vị trí việc làm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] T. Creasy, V.S. Anantatmula, "From every direction - How

personality traits and dimensions of project managers can conceptually affect project success", Project Management Journal, 44, pp.36-51, 2013.

[2] M. Esa, A.B. Alias, "Preparing Project managers to achieve project success-human related factor", International Journal of Research in Management & Technology,4(2), pp.104-110, 2014.

[3] E. Muneera, A. Anuar, A. Zulkiflee, "Preparing project managers to achieve project success-human management perspective", in Proceedings of World Academy of Science, Engineering and Technology, p. 366, 2013.

[4] H.M. Johnson, A. Singh, "The personality of civil engineers", Journal of Management in Engineering, 14(4), pp.45-56, 1998.

[5] P.G. Carr, J.M. De La Garza, M.C. Vorster, "Relationship between personality traits and performance for engineering and architectural professionals providing design services", Journal of Management in Engineering, 18(4), pp. 158-166, 2002.

[6] I.B. Myers, M.H. McCaulley, N.L. Quenk, A.L. Hammer, "MBTI manual: A guide to the development and use of the Myers-Briggs type indicator", 3, Palo Alto, CA: Consulting Psychologists Press, 1998.

[7] D. Keirsey, M.M. Bates, Please understand me, Prometheas Nemesis, 1984.

[8] C.G. Jung, Psychological types, Routledge, 2014. [9] J.D. Bedingfield, A.E.Jr. Thal, "Project manager personality as a

factor for success", in Management of Engineering & Technology, PICMET 2008, Portland International Conference, pp. 1303-1314, 2008.

[10] N. Madter, D.A. Bower, B. Aritua, "Projects and personalities: A framework for individualising project management career development in the construction industry", International Journal of Project Management, 30(3), pp. 273-281, 2012.

[11] Y. Cohen, H. Ornoy, B. Keren, "MBTI personality types of project managers and their success: A field survey", Project Management Journal, 44(3), pp. 78-87, 2013.

[12] D. Keirsey, The Keirsey Temperament Sorter-II (KTS-II), (http://keirsey.com/aboutkts2.aspx)

[13] D. Gehring, "Applying traits theory of leadership to project management", IEEE Engineering Management Review, 3(35), p. 109, 2007.

(BBT nhận bài: 10/10/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 22/12/2016)

Page 16: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

12 Trần Thị Yến Minh, Phạm Thị Hương

NHẬN THỨC CỦA CÔNG CHÚNG ĐỐI VỚI THƯƠNG HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

AUDIENCE PERCEPTION TOWARD THE UD’S BRAND

Trần Thị Yến Minh, Phạm Thị Hương Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng; [email protected], [email protected]

Tóm tắt - Là một trong những Đại học trọng điểm của cả nước,nhưng thương hiệu ĐH Đà Nẵng vẫn chưa được xem là một thươnghiệu giáo dục hàng đầu. Điều tra mức độ nhận biết, cảm nhận, liêntưởng và trung thành thương hiệu của các đối tượng công chúngmục tiêu: học sinh cấp ba, sinh viên, cán bộ - giảng viên thông quacác bảng hỏi tự ghi, nghiên cứu nhận thấy nhận thức của công chúngđối với hình ảnh và danh tiếng của ĐH Đà Nẵng chỉ đạt mức trungbình. Để nâng cao giá trị tài sản thương hiệu, ĐH Đà Nẵng cần xâydựng chiến lược thương hiệu, thống nhất cấu trúc và hoàn thiện bộnhận diện thương hiệu, đồng thời vận dụng các công cụ truyền thôngmarketing như quảng cáo, quan hệ công chúng để đẩy mạnh hoạtđộng giới thiệu và quảng bá thương hiệu ĐH Đà Nẵng.

Abstract - Despite its primary postiton as a leading and long-standing regional university in Vietnam, the University of Danang is not perceived as a strong education brand. Based on a survey on the target audience’ brand awareness, the study reveals that the audience perception toward the UD’s brand and image is just average. In order to increase the brand equity, it is necessary for the UD to build a brand strategy to unite the UD’s brand architecture and identity as well as to employ marketing communication tactics such as advertising and public relation to promote the image and fame of UD.

Từ khóa - thương hiệu; thương hiệu đại học; công chúng mục tiêu;tài sản thương hiệu; truyền thông marketing

Key words - brand; university brand; target audience; brand equity; marketing communication

1. Đặt vấn đề

Đại học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định số 32/CP ngày 04 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất các cơ sở đào tạo Đại học, Cao Đẳng và Trung học chuyên nghiệp công lập trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Với trọng trách của một Đại học vùng trọng điểm Quốc gia, đa ngành, đa cấp, Đại học Đà Nẵng xác định sứ mệnh “Đào tạo lực lượng cán bộ ưu tú đa ngành, có trình độ chuyên môn cao và tư duy hiện đại, có tinh thần yêu nước và cống hiến trí tuệ cho sự phát triển của nhân loại”1 và đặt mục tiêu xây dựng nhà trường trở thành Đại học Nghiên cứu vào năm 2020, trở thành nơi đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao, trung tâm nghiên cứu khoa học, giao lưu quốc tế lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Để hiện thực hoá sứ mệnh và mục tiêu đó, bên cạnh nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, ĐH Đà Nẵng cần đẩy mạnh xây dựng hình ảnh thương hiệu – học hiệu Đại học Đà Nẵng. Bởi, theo nhiều nhà nghiên cứu, chiến lược xây dựng thương hiệu đại học là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển và mỗi trường đại học đều phải xây dựng chiến lược và cách thức quản trị thương hiệu một cách hiệu quả nhằm tạo ra danh tiếng bền vững, góp phần tạo ra xung lực cạnh tranh lành mạnh cho sự phát triển của giáo dục đại học nước nhà. Tuy nhiên, cũng như nhiều trường ĐH công lập khác ở Việt Nam, hiện nay, ĐH Đà Nẵng chưa quan tâm đúng mức đến chiến lược thương hiệu. Nhận thức của công chúng đối với hình ảnh và danh tiếng của ĐH Đà Nẵng, vì vậy, chưa thực sự tương xứng với vị thế của đơn vị. Để đẩy mạnh hoạt động quản trị thương hiệu, ĐH Đà Nẵng cần xác định giá trị tài sản thương hiệu hiện tại của đơn vị - tức là tìm hiểu nhận thức của công chúng đối với thương hiệu ĐH Đà Nẵng. Dựa trên hiểu biết về mức độ nhận thức thương hiệu của học sinh cấp ba, sinh viên, cán bộ - giảng viên những đối tượng công chúng mục tiêu của ĐH Đà Nẵng đối với hình ảnh thương hiệu, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện giá

1Nguồn: Website Đại học Đà Nẵng, http://www.udn.vn/menus/view/19, Truy cập: 13/1/2015

trị tài sản thương hiệu ĐH Đà Nẵng, để ĐH Đà Nẵng thực sự là một thương hiệu giáo dục mạnh – “nơi hun đúc trí tuệ và tài năng vì sự phát triển của miền Trung và Tây Nguyên”.

2. Giải quyết vấn đề Nghiên cứu tìm hiểu giá trị tài sản thương hiệu hay mức

độ nhận thức của công chúng đối với thương hiệu ĐH Đà Nẵng thông qua kĩ thuật điều tra điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket. 200 bảng hỏi trực tuyến và bảng giấy đến 200 cán bộ, giảng viên đang công tác tại ĐH Đà Nẵng theo phương thức chọn mẫu phân xuất, định ngạch. Hiện, tổng số cán bộ, giảng viên đang công tác tại ĐH Đà Nẵng là khoảng 1600, vì vậy số lượng 200 đáp viên được chọn tham gia cuộc điều tra, chiếm 1/8 tổng số viên chức của đơn vị, có thể đảm bảo đại diện cho tổng thể mẫu. Tuy nhiên, sau khi phát 200 phiếu, số lượng phiếu hợp lệ thu về chỉ đạt 142. Tuy vậy, số lượng mẫu có sự phân bổ khá đều ở các trường thành viên và các đơn vị trực thuộc ĐH Đà Nẵng. Đối với nhóm công chúng sinh viên, cách thức chọn mẫu được tiến hành tương tự và kết quả thu được là 361 phiếu điều tra. Mặc dù số lượng mẫu không lớn nhưng đảm bảo tính phân bổ cân bằng ở các đơn vị thành viên. Đối với nhóm công chúng học sinh cấp ba, bảng hỏi giấy được gửi đến học sinh ở ba địa phương tỉnh Quảng Nam, TP. Đà Nẵng và Tỉnh Quảng Bình - những địa phương có số lượng lớn công chúng mục tiêu của ĐH Đà Nẵng. 300 phiếu điều tra được chia đều cho học sinh cấp ba đang học ở các trường THPT thuộc cả các khu vực miền núi, nông thôn, thành thị của ba tỉnh thành trên. Ngoài ra, bảng hỏi online cũng được gửi đến một số diễn đàn, nhóm kín của học sinh cấp ba ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên nhằm tìm hiểu nhận thức của nhóm công chúng này đối với thương hiệu ĐH Đà Nẵng. Kết quả thu thập được 399 phiếu điều tra hợp lệ. Dữ liệu của điều tra bảng hỏi được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0 để thống kê tần số, giá trị trung bình và sự khác biệt trong nhận thức của các thành phần công chúng đối với hình ảnh ĐH Đà Nẵng.

Page 17: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 13

3. Kết quả nghiên cứu và khảo sát 3.1. Mức độ nhận biết thương hiệu

Đối với mức độ nhận biết chung về ĐH Đà Nẵng, đa số học sinh và sinh viên có đều có hiểu biết tương đối rõ về ĐH Đà Nẵng (hơn 80%). Mức độ hiểu biết của hai nhóm này có sự khác biệt (sig = 0,01 < 0,05), trong đó nhóm sinh viên hiểu biết rõ hơn nhóm học sinh cấp ba về thương hiệu ĐH Đà Nẵng (89,8% so với 63,6%). Đây là điều khá dễ hiểu bởi sinh viên là nhóm công chúng bên trong, đã có sự gắn bó, tìm hiểu và tương tác với ĐH Đà Nẵng thông qua nhiều kênh truyền thông khác nhau nên mức độ nhận biết chung về thương hiệu tương đối cao và ổn định. Mặc dù mức độ hiểu biết giữa các năm có sự khác biệt tuy nhiên phân tích sig của các năm đạt mức 0,171 (>0,05), tức mức độ khác biệt về nhận thức của sinh viên các năm chưa có ý nghĩa về mặt thống kê học. Trong 399 học sinh tham gia cuộc khảo sát, mức độ hiểu biết về trường ĐH Kinh tế chiếm tỉ lệ cao nhất (22,3%), tiếp sau đó là trường ĐH Sư phạm (21,8%). Trường ĐH Bách khoa và ĐH Ngoại ngữ giữ những vị trí tiếp theo với mức dao động 18% Các đơn vị khác không được học sinh cấp ba chú ý về thương hiệu. Trường CĐ Công nghệ mặc dù có bề dày lịch sử nhưng chỉ có 2,5% học sinh cho rằng mình hiểu biết về trường. Nguyên nhân có thể xuất phát từ thực tế học sinh cấp ba có xu hướng quan tâm tìm hiểu các trường đại học hơn là trường Cao đẳng (88,2% học sinh cấp ba quan tâm đăng kí các trường ĐH công lập và bán công, trong khi chỉ có 11,8% dự kiến đăng kí các trường CĐ và trung cấp) và trong các đơn vị thành viên của ĐH Đà Nẵng, trường ĐH Kinh tế và trường ĐH Sư phạm là những đơn vị sớm ý thức và có kế hoạch truyền thông xây dựng và quảng bá thương hiệu. Trong khi đó, Viện Nghiên cứu và đào tạo Việt Anh, Khoa Y Dược trực thuộc là những đơn vị mới thành lập nên mức độ nhận biết hình ảnh đơn vị khá thấp (3,8%) cũng là điều khá dễ hiểu. Đối với đối tượng công chúng cán bộ - giảng viên, mức độ hiểu biết về thương hiệu ĐH Đà Nẵng được thể hiện khá tốt, với 56,3% đáp viên tự đánh giá hiểu biết tương đối rõ trở lên về môi trường mình đang công tác. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng còn hơn 40% đáp viên chia sẻ rằng bản thân mới hiểu biết phần nào về ĐH Đà Nẵng. Đặc biệt, khi được hỏi về số lượng đơn vị thành viên trực thuộc ĐH Đà Nẵng, 88% cán bộ trả lời chưa chính xác. Đa phần (49/57) những người chọn chưa hiểu nhiều về ĐH Đà Nẵng là cán cán bộ trẻ, có kinh nghiệm công tác dưới 10 năm.

Bảng 1. Mức độ hiểu biết về thương hiệu ĐH Đà Nẵng

Đối với tỉ lệ nhận diện thương hiệu, mức độ nhận biết của nhóm công chúng học sinh – sinh viên đạt mức trung bình (3,440), trong đó học sinh có mức độ nhận diện thấp hơn sinh viên (3,249 so với 3,650). Trong các đặc tính thuộc về nhận diện thương hiệu ĐH Đà Nẵng, đối tượng học sinh – sinh viên có nhận thức khá cao về tính chất “lâu đời, có truyền thống”, “đại học vùng trọng điểm quốc gia” của ĐH Đà Nẵng. Đây là đặc điểm quan trọng và dễ dàng phát

triển trở thành bản sắc đặc trưng giúp công chúng nhận diện thương hiệu ĐH Đà Nẵng. Trong các yếu tố nhận biết thương hiệu, logo và slogan của ĐH Đà Nẵng lại không được học sinh và sinh viên nhận biết và đánh giá cao, trong đó, logo dễ nhận biết nhưng chưa đẹp và gây ấn tượng, slogan khó nhận diện, khó nhớ và chưa nêu bật được đặc tính thương hiệu. Tỉ lệ nhận biết thương hiệu của cán bộ, giảng viên ĐH Đà Nẵng khá cao với giá trị trung bình 3,597. Đa số (95,8%) cán bộ giảng viên nhận dạng được logo của ĐH Đà Nẵng. Tuy nhiên, chỉ có 61,9% đồng ý rằng logo của ĐH Đà Nẵng logo dễ nhận biết, phân biệt, 36,6% đồng ý rằng logo đẹp và gây ấn tượng. So với tỉ lệ nhận biết logo, tỉ lệ đáp viên nhận biết slogan của ĐH Đà Nẵng thấp hơn với các giá trị trung bình dưới 3,0 – cũng là giá trị trung bình thấp nhất so với các yếu tố nhận biết thương hiệu khác. Kết quả này cho thấy ĐH Đà Nẵng nên có sự điều chỉnh về slogan, đảm bảo ý nghĩa nhưng súc tích và dễ nhớ, giúp công chúng dễ dàng nhận biết đặc tính của thương hiệu.

Bảng 2. Mức độ hiểu biết của cán bộ - giảng viên về thương hiệu ĐH Đà Nẵng

Bảng 3. Trung bình mức độ nhận biết của HSSV đối với thương

hiệu ĐH Đà Nẵng

Bảng 4. Trung bình mức độ nhận biết của CBGV đối với thương

hiệu ĐH Đà Nẵng

3.2. Mức độ cảm nhận thương hiệu So sánh với mức độ nhận biết thương hiệu, mức độ cảm

nhận thương hiệu của học sinh – sinh viên ở mức tương đương (3,432), trong đó mức trung bình cảm nhận của sinh

Page 18: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

14 Trần Thị Yến Minh, Phạm Thị Hương

viên cao hơn so với học sinh. Xét trên từng tiêu chí cảm nhận, đặc tính về vị trí địa lý thuận lợi là là đặc tính được nhóm công chúng này cảm nhận rõ ràng nhất về ĐH Đà Nẵng (3,983), cảm nhận về chương trình giảng dạy tiên tiến chưa được học sinh – sinh viên thể hiện rõ (3,293). So với sinh viên, học sinh cấp 3 chưa hình thành cảm nhận rõ rệt về ĐH Đà Nẵng. Đa số trung bình cảm nhận thương hiệu của học sinh thấp hơn mức 3,2 trong khi đa số trung bình cảm nhận thương hiệu của sinh viên cao hơn 3,5. Mặc dù đây là thực tế hiển nhiên nhưng kết quả cảm nhận thương hiệu của học sinh cấp ba chưa cao cũng đặt ra thách thức cho ĐH Đà Nẵng trong công tác tuyên truyền, quảng bá. Nếu khắc sâu được cảm nhận tích cực cho đối tượng học sinh cấp ba, những thách thức của công tác tuyển sinh sẽ được giảm tải khá nhiều. Đối với sinh viên, quá trình gắn bó, thấu hiểu môi trường và tính chất của đơn vị đã hình thành nên cảm nhận tương đối sắc nét về thương hiệu ĐH Đà Nẵng. Thời gian gắn bó cũng chi phối mức độ cảm nhận thương hiệu của sinh viên. 10/12 tính chất khái quát mức độ cảm nhận thương hiệu của sinh viên từ năm 1 đến năm cuối đều thể hiện sự khác biệt về số liệu thống kê (sig. <0,05). Nhìn chung, thời gian gắn bó với đơn vị càng lâu, mức độ cảm nhận về thương hiệu càng có xu hướng gia tăng.

Bảng 5. Trung bình mức độ cảm nhận của HSSV với thương hiệu ĐH Đà Nẵng

Đối với cán bộ giảng viên, mức độ cảm nhận thương

hiệu ĐH Đà Nẵng khá tốt. Phần lớn đáp viên đều đánh giá tích cực về hệ thống cơ sở vật chất, chương trình giảng dạy, đội ngũ nhân sự, lãnh đạo và cơ chế chính sách của ĐH Đà Nẵng (trung bình cảm nhận 3,592). Tuy nhiên, kết quả khảo sát ghi nhận mức độ cảm nhận về chính sách lương, phụ cấp và chính sách thăng tiến, các hoạt động kết nối cán bộ - giảng viên và quan tâm đến đời sống cán bô giảng viên thấp hơn giá trị trung bình cũng như các trung bình cảm nhận khác. Mặc dù tỉ lệ không đồng ý vẫn thấp hơn tỉ lệ đồng ý nhưng so sánh với các tiêu chí khác, có thể thấy cán bộ - giảng viên có cảm nhận chưa tích cực về chế độ đãi ngộ và lương thưởng của ĐH Đà Nẵng. Đối với nhóm công chúng bên trong, bên cạnh việc tạo ra một môi trường làm việc phù hợp, năng động, người lao động còn kì vọng ở chế độ lương thưởng và các cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Khi nhắc đến thương hiệu ĐH Đà Nẵng, cán bộ - giảng viên tham gia cuộc khảo sát vẫn chưa định nghĩa ĐH Đà Nẵng như một môi trường làm việc thoả mãn đầy đủ các nhu cầu và yêu cầu để họ gắn bó và cống hiến. Điều này có thể xuất phát từ hai nguyên nhân: (1) thực tế chế độ lương thưởng và đãi ngộ, thăng tiến chưa thực sự thoả đáng; (2) thông

điệp về chế độ lương thưởng và đãi ngộ, thăng tiến chưa minh bạch, rõ ràng thoả mãn nhu cầu thông tin của đối tượng tiếp nhận.

Bảng 6. Trung bình mức độ cảm nhận của CBGV với thương hiệu ĐH Đà Nẵng

3.3. Mức độ liên tưởng thương hiệu

Kết quả khảo sát về mức độ liên tưởng thương hiệu của nhóm học sinh – sinh viên đạt mức trung bình với 3,427, trong đó kết quả cao nhất thuộc về liên tưởng thương hiệu ĐH Đà Nẵng giúp người học “trưởng thành và tự tin hơn về kiến thức” (3,513). Liên tưởng thương hiệu ĐH Đà Nẵng với những cơ hội nghề nghiệp trong tương lai có tỉ lệ thấp nhất với 3,363. Tỉ lệ này giảm dần ở cả hai nhóm nhưng lại có sự chênh lệch giữa học sinh và sinh viên. Mức bình quân liên tưởng của sinh viên cao hơn mức bình quân liên tưởng của học sinh. Trong nội bộ nhóm sinh viên cũng có sự khác biệt trong liên tưởng những đặc tính thuộc về ĐH Đà Nẵng. Tuy nhiên, cả hai nhóm học sinh, sinh viên và nội bộ sinh viên đều không đánh giá cao ĐH Đà Nẵng với vai trò là một môi trường đào tạo hỗ trợ tích cực cho việc tìm kiếm nghề nghiệp trong tương lai. Kết quả này có thể xuất phát từ việc ĐH Đà Nẵng chưa có công bố chính thức về tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp. Nếu tỉ lệ sinh viên có việc làm cao và những câu chuyện về cựu sinh viên ĐH Đà Nẵng có khả năng truyền cảm hứng được truyền thông rộng rãi, hình ảnh thương hiệu ĐH Đà Nẵng sẽ được liên tưởng với một cơ sở đào tạo hữu ích cho tương lai của học sinh. Rất nhiều trường ĐH trên thế giới lựa chọn đặc điểm này làm thế mạnh để xây dựng liên tưởng và củng cố chất lượng thương hiệu.

Bảng 7. Trung bình mức độ liên tưởng của HSSV với thương hiệu ĐH Đà Nẵng

Đối với mức độ liên tưởng thương hiệu, kết quả khảo

sát nhóm đáp viên cán bộ - giảng viên cho thấy đa số đáp viên thuộc nhóm công chúng này có liên tưởng thích cực về hình ảnh ĐH Đà Nẵng với mức trung bình đánh giá 3,683. Trong đó, liên tưởng cao nhất thuộc về yếu tố “Công việc tại ĐH Đà Nẵng thể hiện vị trí xã hội”, tiếp sau đó là liên tưởng “Công việc tại ĐH Đà Nẵng thể hiện năng lực

Page 19: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 15

chuyên môn, trình độ học vấn”. Như vậy, có thể thấy, đặc điểm tiêu biểu giúp nhóm công chúng cán bộ - giảng viên hình dung về ĐH Đà Nẵng là một môi trường làm việc giúp thể hiện vị trí, năng lực chuyên môn. ĐH Đà Nẵng cần tiếp tục phát huy những đặc điểm này trong quá trình xây dựng thương hiệu và văn hoá đơn vị. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh “Công việc tại ĐH Đà Nẵng thú vị”, có 10,6% không chắc hoặc không thể đánh giá. Trong đó, đa số các đáp viên (12/15 chọn câu trả lời này) có dưới 20 năm công tác tại ĐH Đà Nẵng và mức độ đánh giá thấp dần theo thời gian gắn bó với đơn vị. Đối với đội ngũ cán bộ trẻ - nòng cốt phát triển của ĐH Đà Nẵng trong tương lai – môi trường làm việc thú vị là một trong những yếu tố cần thiết để tạo sự gắn kết và cống hiến. Vì vậy, ĐH Đà Nẵng cần lưu ý đến việc tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp, nơi người lao động có cơ hội được thể hiện và tôn trọng năng lực, làm việc và cống hiến một cách thoải mái, vui vẻ và tích cực. Để thực hiện được điều này, bên cạnh việc đảm bảo cơ sở vật chất làm việc đạt quy chuẩn, chính sách và chế độ đãi ngộ thoả đáng, ĐH Đà Nẵng cần thấu hiểu tâm lý người lao động và gầy dựng được văn hoá đơn vị. Các công cụ truyền thông nội bộ, trong đó có PR, được xem là phương thức hữu hiệu góp phần giúp định hình và củng cố giá trị văn hoá ĐH Đà Nẵng, tạo ra một môi trường làm việc thú vị, nơi người lao động có thể toàn tâm cống hiến và gắn bó.

Bảng 8. Trung bình mức độ cảm nhận của CBGV với thương hiệu ĐH Đà Nẵng

3.4. Mức độ trung thành thương hiệu

Về lý thuyết, so với nhóm công chúng bên ngoài và nội bộ công chúng bên trong thì cán bộ giảng viên là đối tượng công chúng bên trong có sự gắn kết ổn định với thương hiệu nhất. Thực tế khảo sát cũng cho thấy mức độ trung thành của nhóm học sinh – sinh viên đối với thương hiệu ĐH Đà Nẵng chỉ đạt trung bình 3,339 so với mức 3,605 của cán bộ giảng viên. Điều đó có nghĩa những đáp viên thuộc nhóm cán bộ - giảng viên tham gia cuộc khảo sát có mức độ trung thành khá cao đối với ĐH Đà Nẵng. Tuy nhiên, tỉ lệ cũng có sự chênh lệch đáng chú ý khi so sánh với tiêu chí “Tôi sẵn sàng giới thiệu, tư vấn cho người than đăng ký dự tuyển” và “Tôi sẽ giới thiệu ĐH Đà Nẵng cho bạn bè, người thân, người quen tìm kiếm cơ hội việc làm cho ĐH Đà Nẵng”. Với vai trò là thành tố trực thuộc khối thống nhất của ĐH Đà Nẵng, các đáp viên có mức độ rung thành khá cao (3,880) nhưng khi thể hiện vai trò là “đại sứ thương hiệu” để giới thiệu, quảng bá cho người thân đăng kí dự tuyển thành sinh viên hoặc tìm

kiếm cơ hội việc làm tại ĐH Đà Nẵng thì tỉ lệ giảm còn 3,542 và 3,394. Sự phân vân trong việc giới thiệu ĐH Đà Nẵng là một điểm đến đáng tin cậy chứng tỏ ĐH Đà Nẵng chưa thực sự tạo được niềm tin và sự tự hào thương hiệu cho chính những thành phần hạt nhân cấu trúc nên đơn vị. Để thiết lập được sự trung thành thương hiệu – tầng sâu nhất của cấu trúc thương hiệu – cho đối tượng này, ĐH Đà Nẵng cần tạo ra cảm nhận tích cực hơn ở cả ba tầng nhận biết, cảm nhận và liên tưởng. Nếu nhận thức lý tính lẫn tư duy cảm tính đối với thương hiệu được củng cố, mức độ trung thành thương hiệu gia tang, nhóm công chúng bên trong được kì vọng sẽ là nhân tố quan trọng nhất trong việc tạo dựng nên những sản phẩm đào tạo và khoa học chất lượng, đồng thời trở thành những đại sứ thương hiệu nhiệt thành và lan toả.

Bảng 9. Trung bình mức độ trung thành của CBGV với thương hiệu ĐH Đà Nẵng

3.5. Một số giải pháp nâng cao giá trị thương hiệu ĐH Đà Nẵng

Thứ nhất, hiện tại, chưa có các tuyên bố chính thức của Đại học Đà Nẵng về chiến lược phát triển thương hiệu Đại học Đà Nẵng. Vấn đề xây dựng hình ảnh ĐH Đà Nẵng chỉ mới được lồng ghép trong Chiến lược phát triển của ĐH Đà Nẵng giai đoạn 2016-2025“Mục tiêu chiến lược của Đại học Đà Nẵng là xây dựng một đại học vùng thống nhất bao gồm nhiều trường đại học và các đơn vị thành viên dựa trên một mô hình quản trị đại học tiên tiến; là đại học đa cấp, đa ngành, đa lĩnh vực với môi trường học tập, nghiên cứu năng động, sáng tạo nhằm đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước; là trung tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ đủ sức giải quyết tất cả các vấn đề chuyên ngành và đa ngành đặt ra trong thực tế, tạo động lực phát triển bền vững cho khu vực; là cầu nối quan trọng trong hợp tác quốc tế để hỗ trợ quá trình hội nhập toàn diện của khu vực trong quá trình toàn cầu hóa; tham gia các hệ thống kiểm định, xếp hạng các trường đại học trong nước và quốc tế để Đại học Đà Nẵng luôn nằm trong nhóm đầu các trường đại học trong nước và khu vực”. Do đó, nghiên cứu cho rằng ĐH Đà Nẵng cần xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu giai đoạn 2016-2025 hướng đến từng nhóm đối tượng cụ thể.

Thứ hai, ĐH Đà Nẵng và các đơn vị thành viên đều đã xây dựng bộ nhận dạng thương hiệu riêng, tuy nhiên, các bộ nhận dạng thương hiệu chưa có sự thống nhất chung giữa các thương hiệu con và thương hiệu mẹ. Các thiết kế nhận dạng thương hiệu của ĐH Đà Nẵng và các đơn vị thành viên khá rời rạc, không có tính nhận diện chung, không có cấu trúc đặt tên,quy chuẩn cấu trúc thiết kế kiến trúc và màu sắc thương hiệu và phông chữ đồng nhất cũng như các quy tắc thiết kế chung cho hệ thống nhận dạng thương hiệu (logo được chụp từ website và banner chính thức, thời điểm chụp tháng 11/2016).

Page 20: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

16 Trần Thị Yến Minh, Phạm Thị Hương

Thậm chí, logo “Khoa Giáo dục thể chất” được lưu trữ, hiển thị tại Website ĐH Đà Nẵng và Website Khoa giáo dục thể chất là hoàn toàn khác nhau, điều này cho thấy sự cần thiết phải chuyên nghiệp hoá các khâu trong công tác quản trị truyền thông và quan hệ công chúng tại ĐH Đà Nẵng.

Hình ảnh hiện thị logo Khoa GDTC tại phần Giới thiệu đơn vị thành viên website ĐHĐN

(Thời điểm truy cập 30/10/2016)

Hình ảnh hiển thị logo Khoa GDTC tại Trang chủ Website Khoa GDTC

(Thời điểm truy cập 30/10/2016) URL: http://udn.vn/menus/view/463 URL: http://fpe.udn.vn/

ĐH Đà Nẵng cần có sự chuẩn hoá hệ thống nhận dạng giữa các đơn vị để tạo tính đồng nhất, dễ nhận diện. Theo định hướng và thực trạng phát triển hiện tại, thương hiệu ĐH Đà Nẵng nên được định hướng theo cấu trúc thương hiệu Branded House – Ngôi nhà thương hiệu (Đức Sơn, 2012). Trong mô hình này, thương hiệu mẹ (ĐH Đà Nẵng) bảo trợ cho các thương hiệu con (các trường thành viên), uy tín của thương hiệu mẹ sẽ tạo nên sự tin cậy cao trong nhận thức của người dùng (giảng viên, sinh viên, học sinh cấp 3…) đối với các thương hiệu con. Ngoài ra, cần ban hành các hướng dẫn, quy tắc sử dụng bộ nhận dạng thương hiệu để tạo tính nhất quán và chuyên nghiệp cho các chiến dịch triển khai. Bên cạnh việc xây dựng cấu trúc thương hiệu, để đạt hiệu quả cao và mang tính chuyên nghiệp cho công tác truyền thông và quan hệ công chúng, ĐH Đà Nẵng cần xây dựng Bộ hướng dẫn sử dụng cẩm nang thương hiệu, bao gồm các thiết kế và các hướng dẫn sử dụng cụ thể.

Thứ ba, ĐH Đà Nẵng cần đẩy mạnh các hoạt động truyền thông marketing như quảng cáo và quan hệ công chúng nhằm gia tăng độ phủ của ĐH Đà Nẵng đến các đối tượng công chúng mục tiêu. Đối với quảng cáo,ĐH Đà Nẵng cần có sự đầu tư nhất định cho các hoạt động quảng cáo nhằm gia tăng mức độ nhận biết đối với thương hiệu của ĐH Đà Nẵng. Do ngân sách không lớn nên các hoạt động quảng cáo báo in có thể tập trung vào nhóm đặc thù như quảng cáo phi định kì trên các ấn phẩm báo in dành cho độ tuổi cấp 3 có lượng đọc lớn như báo Hoa Học Trò dành cho gói phát hành tại thị trường miền Trung tránh gây lãng phí và không hiệu quả; quảng cáo trên chuyên trang miền Trung của các ấn phẩm có lượng phát hành lớn tại miền Trung như Báo Công An TP. Đà Nẵng, báo Thanh niên, báo Tuổi trẻ trong các dịp tuyển sinh, các sự kiện lớn. Đối với Quảng cáo truyền hình, do chi phí sản xuất và phát sóng các TVC quá lớn nên hình thức quảng cáo truyền hình có thể áp dụng ở ĐH Đà Nẵng là các hình thức Voice ads (quảng cáo theo hình thức đọc bản tin) phát trên các đài truyền hình địa phương trong các đợt tuyển sinh. Tuy khá đơn giản về mặt hình thức và tương tác, đây là phương án có chi phí rất thấp, nội dung linh hoạt, truyền tải thông tin trên diện rộng ở các khung giờ xem truyền hình cao điểm. Quảng cáo trực quan thông qua pano, phướn, băng rôn trong các đợt cao điểm tuyển sinh để tạo độ phủ thông tin

trên diện rộng và trong các sự kiện lớn, cần khuyếch trương để gia tăng các giá trị cảm nhận thương hiệu như: lễ trao học bổng, lễ đón nhận các danh hiệu, lễ vinh danh…hay quảng cáo ngoài trời thông qua hệ thống nhà chờ xe buýt cũng là phương án quảng cáo dễ dàng tiếp cận các đối tượng tiềm năng. Đây là nhóm giải pháp có chi phí quảng cáo thấp hơn so với các giải pháp quảng cáo khác nhưng lại mang lại hiệu quả khá cao và phù hợp với đối tượng công chúng mục tiêu của ĐH Đà Nẵng. Đặc biệt, quảng cáo trên hệ thống nhà chờ xe buýt độ phủ rộng và có khả năng lan toả đến không gian sinh hoạt của các đối tượng mục tiêu nên đây vẫn có thể là một giải pháp nên xem xét để kết hợp với các hoạt động quan hệ công chúng nhằm đạt các hiệu quả tối đa. Trong thời đại công nghệ số, quảng cáo trực tuyến là hình thức hữu hiệu nhất để tiếp cận đối tượng công chúng trẻ. ĐH Đà Nẵng có thể áp dụng các gói quảng cáo banner ads trên các website thông tin dành cho đối tượng học sinh cấp 3, có lượng truy cập lớn; quảng cáo Facebook Ads trên các trang Facebooks chính thức của ĐH Đà Nẵng để tăng lượng tương tác với các fan; quảng cáo dựa trên hashtag: Với lợi thế số lượng sinh viên đông đảo, khi triển khai các kế hoạch quảng cáo trực tuyến phục vụ cho các chương trình truyền thông và quan hệ công chúng, ĐH Đà Nẵng cần khai thác các tính năng quảng cáo hashtag để tạo hiệu ứng truyền thông trên diện rộng trong thời gian ngắn cho các chiến dịch của mình, lan truyền thông điệp một cách mạnh mẽ đến các đối tượng tiếp nhận. Đối với quan hệ công chúng (PR), đơn vị cần chú trọng xây dựng tình cảm và niềm tin đối với các đối tượng công chúng mục tiêu thông qua các hoạt động quan hệ công chúng cụ thể, tương ứng với từng giai đoạn của kế hoạch thương hiệu. Tuy nhiên, xét một cách chung nhất, đối với nhóm công chúng học sinh, ĐH Đà Nẵng có thể tăng cường tổ chức các sự kiện như là “UD Open day 2017”; xây dựng chuỗi các câu chuyện về ĐH Đà Nẵng; thành lập quỹ học bổng “UD – Tương lai của bạn” hỗ trợ cho học sinh cấp ba trên địa bàn miền Trung – Tây Nguyên. Đối với nhóm đối tượng sinh viên, ĐH ĐàNẵng có thể tổ chức các chương trình “Nhà trọ UD”, cuộc thi thiết kế lịch “My year in UD”; Bản tin “Phụ huynh UD”; Xây dựng chuyến xe bus “UD bus” vừa phục vụ cho sinh viên vừa gia tăng độ phủ cho hình ảnh thương hiệu Đại học Đà Nẵng. Đối với đối tượng cán bộ - giảng viên, ĐH Đà Nẵng có thể gầy dựng văn hoá nội bộ thông qua các hoạt động giao tiếp trực tiếp, giao tiếp trực tuyến bằng các ứng dụng nội bộ (application), hệ thống email hay phần mềm công việc nội bộ, tổ chức các sự kiện phù hợp tâm tư nguyện vọng của cán bộ, xuất bản newsletter định kì, xây dựng “Quỹ một ngày lương UD” để hỗ trợ các trường hợp cán bộ nhân viên gặp khó khăn. Đối với báo chí, ĐH Đà Nẵng xây dựng mạng lưới danh sách nhà báo, phát hành thông cáo báo chí trong các sự kiện mời báo chí tham gia, tổ chức họp báo định kì hoặc phát hành newsletter hàng quý để thông tin về những hoạt động của ĐH Đà Nẵng, phối hợp hoặc thông qua các đơn vị báo chí quảng bá hình ảnh của ĐH Đà Nẵng, tổ chức gặp gỡ, thăm hỏi các đơn vị báo chí trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, ĐH Đà Nẵng còn cần chú ý đến công tác quản trị rủi ro và có kế hoạch ứng phó khủng hoảng truyền thông gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của đơn vị.

Page 21: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 17

4. Kết luận Là một trong những trường đại học có bề dày truyền

thống và chất lượng giáo dục, ĐH Đà Nẵng được vinh danh là nơi ươm mầm tri thức và là mái nhà chung của các thế hệ sinh viên miền Trung và Tây Nguyên cũng như cả nước. Năm học 2015 và 2016 vừa qua, thương hiệu giáo dục đại học Đà Nẵng một lần nữa được khẳng định với Chứng nhận công nhận kiểm định chất lượng giáo dục quốc gia được trao cho các trường thành viên trực thuộc ĐH Đà Nẵng. Chất lượng đào tạo và môi trường học thuật của ĐH Đà Nẵng là bệ phóng vững chắc để đơn vị phát huy thế mạnh trong các hoạt động truyền thông và quảng bá hình ảnh về một thương hiệu đại học hàng đầu khu vực. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn phát triển, nghiên cứu nhận thấy ĐH Đà Nẵng chưa có sự chủ động trong việc xây dựng các chiến lược thương hiệu cũng như chiến lược truyền thông quảng bá thương hiệu. Nhận thức của công chúng về hình ảnh và danh tiếng của ĐH Đà Nẵng vì vậy chưa thực sự tương xứng với tầm vóc và bản sắc của một đại học vùng danh tiếng. Vì vậy, về lâu dài, để xác lập vị thế của thương hiệu ĐH Đà Nẵng, bên cạnh tiếp tục khẳng định chất lược đào tạo và nghiên cứu khoa học, ĐH Đà Nẵng cần xác lập bản sắc và đặc tính thương hiệu và có chiến lược xây dựng thương hiệu bền vững. Căn cứ vào chiến lược thương hiệu, ĐH Đà Nẵng cần xây dựng các kế hoạch truyền thông phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thương hiệu. ĐH Đà Nẵng cần phối hợp các công cụ truyền thông marketing khác như hoàn thiện bộ nhận dạng và quy định nhận dạng thương hiệu, đầu tư vào các hoạt động quảng cáo phù hợp ngân sách và đối tượng mục tiêu, xây dựng các kế hoạch quan hệ công chúng và duy

trì trách nhiệm xã hội để xác lập, củng cố và phát triển hình ảnh thương hiệu ĐH Đà Nẵng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chapleo, C. (2002), Is Branding in UK Universities Real? Education

Marketing, June. [2] Chapleo, C. (2009), External perceptions of successful university

brands, International Journal of Educational Advancement, 8, tr. 126-135.

[3] Chapleo, C. (2010), What defines “successful” university brands? International Journal of Public Sector Management, 23, tr. 169-183.

[4] Chapleo, C. (2015), Brands in Higher Education; Challenges and Potential Strategies’. International Studies of Management & Organization, 45 (2), tr. 150-16.

[5] Doyle, C. (2016), Dictionary of marketing, The Oxford University Press, Oxford.

[6] Kotler, P. and Fox, K. F. (1985), Strategic marketing for educational institution, Prentice Hall, Englewood Cliffs.

[7] Jay Colonbatto (2008), Building a Strategic University Brand: Positioning California State Universit, University Communications, USA.

[8] Trần Tiến Khoa (2013), Quản trị thương hiệu trường đại học trong bối cảnh Việt Nam: từ góc nhìn theo lý thuyết đặc trưng thương hiệu (brandidentity), Tạp chí Phát triển Khoa học công nghệ T.16 S 2Q, tr. 117 – 126.

[9] Bùi Văn Quang (2015), Quản trị thương hiệu: Lý thuyết và thực tiễn, Nxb Lao động – Xã hội, TP. Hồ Chí Minh.

[10] Nguyễn Trần Sỹ và Nguyễn Thuý Phương (2014), Quảng bá thương hiệu trong lĩnh vực giáo dục đại học: Lý thuyết và mô hình nghiên cứu, Tạp chí Giáo dục và Đào tạo 15(25), trang 81- 86.

[11] Lê Đức Tiến (2011), Quan hệ công chúng trong các trường thành viên thuộc ĐH Đà Nẵng – Trường hợp nghiên cứu của trường ĐH Kinh tế Đà Nẵng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp sơ sở, trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng.

(BBT nhận bài: 21/02/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 28/02/2017)

Page 22: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

18 Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Văn Ca

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MANAGEMENT OF RENOVATION ACTIVITIES OF TESTING AND EVALUATING

IN PHILOLOGY TEACHING TOWARDS FORMING AND DEVELOPING STUDENTS’ CAPACITIES AT HIGH SCHOOLS

Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Văn Ca Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Một trong những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghịquyết 29/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là:Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giáKTĐG) kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan[2, tr 5]. Chính vì vậy, quản lý hoạt động đổi mới KTDG nói chung,quản lý hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn nói riêng, theo địnhhướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học phổthông (THPT) là biện pháp đáp ứng xu thế đổi mới giáo dục và đàotạo của Việt Nam và xu thế hội nhập thế giới. Vận dụng lý thuyếtquản lý sự thay đổi, lý thuyết về dạy học môn Ngữ văn theo địnhhướng hình thành, phát triển năng lực học sinh,… vào thực tế nhàtrường một cách phù hợp, bài viết đề xuất các biện pháp khả thitrong quản lý hoạt động KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng hìnhthành, phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT hiện nay.

Abstract - One of the tasks and measures to implement the Resolution No.29/TW on Radical and comprehensive renovation of education and training is: Radically renovating the forms and methods of tests, exams, and evaluation of educational results, guaranteeing integrity, objectivity. Therefore, management of renovation activities of testing and evaluating in general, and Philology teaching in particular towards developing students’ capacities is the measure that meets the general trend of renovation of education and training in Vietnam and the trend of international integration. Appropriately applying the theory of Change management, theory of teaching Philology towards forming and developing students’ capacities o… to the reality of schools, the article proposes possible measures for management of renovation activities of testing and evaluating in Philology teaching at high schools nowadays.

Từ khóa - quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá môn ngữ văn; hìnhthành, phát triển năng lực học sinh; trung học phổ thông; rubrics;tự đánh giá.

Key words - management of testing and evaluating activities in philology teaching; forming and developing students’ capacities ; high schools; rubrics; self-evaluation.

1. Đặt vấn đề

Trong định hướng phát triển Chương trình (CT) giáo dục phổ thông (GDPT) sau 2015, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt và năng lực cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực chuyên biệt, ngoài ra, năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học (là các năng lực chung) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học.

Việc đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực (PTNL) có mục đích chủ yếu là đánh giá những NL mà môn học có nhiệm vụ phát triển cho HS sau mỗi giai đoạn học tập. Khi chuyển từ ĐG theo chuẩn kiến thức và kĩ năng (đánh giá theo nội dung kiến thức, kĩ năng của môn học) sang ĐG theo năng lực, giáo viên (GV) cần nhận ra được khả năng tiềm ẩn của HS, quan tâm nhiều hơn đến sự tiến bộ và mức độ năng lực của mỗi cá nhân được bộc lộ trong quá trình học tập, qua đó có sự điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học phù hợp [1, tr 6].

Đã có một số nghiên cứu về KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL, do đó quản lý hoạt động này chưa đạt kết quả như mong đợi. Nghiên cứu của chúng tôi đề xuất các biện pháp quản lý đổi mới KTĐG môn Ngữ văn (NV) theo định hướng PTNL, nhằm góp phần vào việc giải quyết những yêu cầu của thực tiễn giáo dục ở trường THPT hiện nay.

2. Các năng lực hình thành, phát triển năng lực học sinh THPT trong dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn 2.1. Năng lực chung

Năng lực là khả năng làm chủ và vận dụng hợp lí các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. (Theo Québec - Ministere de l’Education, 2004). Mức độ và chất lượng hoàn thành công việc sẽ phản ánh mức độ năng lực của người học. Để hình thành và phát triển NL cần xác định các thành phần và cấu trúc năng lực của chúng. Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể [1, tr 19].

Theo đó, năng lực chung cần hình thành và phát triển trong môn Ngữ văn:

- Năng lực giải quyết vấn đề: + Phát hiện và lí giải những vấn đề nhập nhằng, mơ hồ, hàm ngôn, đa nghĩa, khó hiểu trong nội dung (ND), nghệ thuật (NT) văn bản (VB); + Phát hiện, liên hệ và giải quyết những vấn đề thực tiễn đời sống được gợi ra từ tác phẩm; +Phát hiện và giải quyết những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình tạo lập VB nói và viết.

- Năng lực tư duy sáng tạo: + Có cách tiếp cận và cắt nghĩa độc đáo về ND, giá trị của tác phẩm (TP); + Phát hiện những nét nghĩa mới, giá trị mới của VB, TP văn học; + Có cách nói và viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả.

Page 23: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 19

- Năng lực hợp tác: + Cùng tìm hiểu, cắt nghĩa, thảo luận về ND, NT của TP; + Cùng giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra từ TP; + Tương tác trong quá trình tạo lập VB, chỉnh sửa VB và đánh giá chéo; + Hỗ trợ nhau về kinh nghiệm, tri thức đọc hiểu, tạo lập VB.

- Năng lực tự quản bản thân: + Điều chỉnh thái độ, cách ứng xử, hành vi của bản thân trong và sau khi học tác phẩm; + Độc lập, chủ động khám phá giá trị của tác phẩm; + Thích ứng với các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau; 2.2. Năng lực chuyên biệt môn Ngữ văn

- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt:Sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt phù hợp, hiệu quả trong quá trình đọc hiểu; qua các bài học Tiếng Việt và qua các bài học tạo lập văn bản…

- Năng lực cảm thụ thẩm mĩ:+ Cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ, hình tượng văn học; + Đánh giá được ý nghĩa, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm VH; + Có quan điểm sống và hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện.

Ví dụ: Năng lực đọc - hiểu văn bản là sự vận dụng phù hợp kiến thức về bối cảnh xã hội, đặc điểm các thể loại văn bản; các kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá và các cảm xúc thẩm mĩ, niềm đam mê sáng tạo, quan điểm đánh giá riêng… để tiếp cận và kiến tạo nghĩa và ý nghĩa, giá trị của văn bản cho chính mình.

3. Thực trạng kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn theo định hướng hình thành năng lực học sinh ở các trường THPT 3.1. Những kết quả bước đầu

- Hoạt động đổi mới KTĐG môn NV ở các trường THPT đã có những chuyển biến đáng ghi nhận. Hầu hết GV đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của đổi mới KTĐG, sự cần thiết phải đổi mới đồng bộ PPDH và KTĐG kết quả dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

- Sự đổi mới về đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn kể từ năm 2014, đổi mới về hình thức thi tuyển sinh đại học môn NV của Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm 2015, Cuộc thi ra đề NV đổi mới theo hướng mở của Tạp chí Văn học & Tuổi trẻ, đề thi học sinh giỏi (HSG) cấp quốc gia, đề thi tuyển sinh vào trường THPT chuyên của các tỉnh thành trên cả nước…cũng đã mở ra hướng mới, tác động tích cực đến hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các nhà trường.

- Hoạt động đổi mới KTĐG môn NV ở các trường THPT tỉnh Quảng Nam cũng đã chuyển biến rõ nét. Việc xây dựng ma trận đề kiểm tra đã được thực hiện nghiêm túc. Kết quả tập huấn cán bộ quản lý, giáo viên Ngữ văn về đổi mới KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh được tổ chức từ năm 2014 đã làm thay đổi cơ bản quan niệm và tổ chức thực hiện kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các nhà trường. 3.2. Những hạn chế cơ bản

- Chưa xác định rõ mục đích KTĐG là hạn chế lớn nhất của hoạt động KTĐG trong các nhà trường hiện nay: ĐG để làm gì, tại sao phải ĐG; ĐG nhằm thúc đẩy khả năng gì ở học sinh…

KTĐG là để thông báo cho từng HS biết được trình độ tiếp thu kiến thức và những kỹ năng của mình đạt được so

với yêu cầu của chương trình cũng như sự tiến bộ của họ trong học tập; để phát hiện những sai sót và nguyên nhân sai sót giúp HS điều chỉnh hoạt động học; giúp GV nắm được năng lực, trình độ HS cũng như chẩn đoán nguyên nhân sai sót, qua đó quyết định điểm bắt đầu hay tiếp theo trong quá trình giảng dạy. KTĐG nhằm mục đích định hướng và thúc đẩy quá trình học tập [5, tr7].

- Thiếu sự phản hồi cho HS cũng là hạn chế trong ĐG (chấm điểm) HS hiện nay. Khi chấm bài KT, GV cho điểm kèm lời phê khái quát (đối với bài luận đủ dài), còn với những bài KT tiếng Việt, bài KT kiến thức văn học thì hầu như không có lời phê; GV chưa giải thích đầy đủ để HS hiểu rõ vì sao bài làm chưa đạt, phải làm như thế nào cho đạt, cho đúng,…vì thế HS thiếu phương hướng, không có động lực để sửa chữa.

- Sử dụng rất hạn chế các hình thức ĐG mới, hiện đại. Hiện nay, quá trình KTĐG của GV Ngữ văn còn mang tính truyền thống: viết bài luận, viết đoạn nghị luận, làm các bài tập kết hợp hình thức trắc nghiệm và tự luận. Khi chưa đa dạng hóa các kiểu đánh giá sẽ làm cho hoạt động này trở nên nhàm chán, sẽ khó phát triển NL bậc cao (như NL giải quyết vấn đề, NL tư duy sáng tạo). Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới KTĐG theo hướng PTNL còn phải áp dụng đa dạng các hình thức đánh giá: đánh giá thông qua sản phẩm, qua hồ sơ người học, qua thuyết trình/trình bày, thông qua tương tác nhóm, thông qua các sản phẩm của nhóm…

- KTĐG mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Việc đánh giá còn mang nặng tính chủ quan do chưa xác định rõ mục tiêu KTĐG nên kết quả đánh giá của mỗi GV, mỗi trường thường khác biệt nhau.

- GV chỉ thường quan tâm đến điểm số của người học sau mỗi bài kiểm tra để lên bảng điểm, xếp loại đánh giá chứ không phân tích ĐG chất lượng đề kiểm tra để rút kinh nghiệm… đồng thời phát hiện những thiếu hụt gì ở người học để điều chỉnh hoạt động dạy học.

- Cán bộ quản lý và tổ trưởng chuyên môn chưa xây dựng kế hoạch KTĐG và tổ chức thực hiện kế hoạch KTĐG môn Ngữ văn ở trường THPT theo định hướng PTNL từ chương trình môn Ngữ văn hiện hành nhằm tạo tiềm lực đổi mới KTĐG cho đội ngũ giáo viên Ngữ văn khi thực hiện CT GDPT sau 2015.

4. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh ở trường THPT

Xuất phát từ thực trạng về công tác quản lí đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học ở các trường THPT ở Quảng Nam, bài viết đề xuất một hệ thống biện pháp quản lí hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh, góp phần nâng cao chất lượng quản lý, tổ chức dạy và học ở các nhà trường, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện GDPT. 4.1. Tổ chức cho GV đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn theo định hướng hình thành, phát triển NL học sinh 4.1.1. Nhận thức ý nghĩa của đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh ở các trường THPT

Page 24: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

20 Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Văn Ca

CBQL và TTCN cần tổ chức cho đội ngũ GV Ngữ văn hiểu rõ: Khi PPDH đã thay đổi thì các hình thức KTĐG cũng phải đổi mới cho phù hợp. ĐG kết quả học tập môn Ngữ văn của HS theo định hướng hình thành NL có các ý nghĩa sau đây:

a. Hỗ trợ sự phát triển của HS: ĐG kết quả học tập Ngữ văn của HS theo hướng tiếp cận NL là việc đánh giá dựa trên khả năng thực hiện một nhiệm vụ ở một mức độ phức tạp thích hợp để tìm ra cách giải quyết một hoặc nhiều vấn đề để đạt tới mục tiêu có được kiến thức có thể áp dụng trong nhiều tình huống phức tạp khác nhau trong thực tế cuộc sống. Việc ĐG như vậy sẽ hỗ trợ tích cực cho sự phát triển năng lực của HS.

b. Xác định được mức độ phát triển NL của HS ở từng giai đoạn học tập: ĐG kết quả học tập Ngữ văn của HS theo định hướng phát triển NL là ĐG dựa trên việc miêu tả rõ một sản phẩm đầu ra cụ thể mà cả hai phía GV và HS đều biết và có thể đánh giá được sự tiến bộ của học sinh dựa vào mức độ mà các em thực hiện sản phẩm. Vì thế, khi ĐG kết quả học tập của HS theo định hướng PTNL với việc sử dụng kết quả ĐG quá trình với ĐG cuối kỳ, cuối năm học, có thể xác định được mức độ phát triển của HS ở từng giai đoạn học tập, khi các em học xong môn NV ở từng lớp học, cấp học.

c. Góp phần hướng dẫn, điều chỉnh cách dạy và cách học môn Ngữ văn: ĐG kết quả học tập của HS có ảnh hưởng rất lớn đến cách dạy và cách học. Khi ĐG kết quả học tập của HS chuyển sang hướng tiếp cận NL, hoạt động dạy học (HĐDH) môn Ngữ văn cũng phải chuyển sang hướng tiếp cận này. ĐG kết quả học tập Ngữ văn của HS theo định hướng PTNL là động lực thúc đẩy sự đổi mới HĐDH Ngữ văn trong trường THPT. 4.1.2. Xây dựng quy trình đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của HS theo định hướng phát triển NL

Quy trình ĐG kết quả học tập của HS theo định hướng hình thành NL bao gồm các bước:

a. Xác định mục tiêu đánh giá Khi tiếp cận đánh giá kết quả học tập môn học Ngữ văn

theo hướng PTNL trước hết cần căn cứ vào mục tiêu môn học. Các NL cơ bản cần đánh giá trước hết chính là các NL chuyên môn (năng lực học tập Ngữ văn). Từ các NL chuyên môn mang tính tổng quát (NL đọc – hiểu văn bản và NL tạo lập văn bản) có thể xác định và đánh giá các NL chung. Đối với môn Ngữ văn THPT thì một trong những nội dung rất quan trọng mà việc ĐG cần hướng tới là năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học nghệ thuật một cách chủ động, tích cực của mỗi HS cũng như năng lực tư duy và giao tiếp bằng tiếng Việt.

b. Lựa chọn các phương pháp, hình thức đánh giá - Đặc trưng của ĐG theo tiếp cận NL là sử dụng nhiều

phương pháp, hình thức khác nhau như quan sát, phỏng vấn sâu và hội thảo, hồ sơ học tập, ĐG thực hành... Theo quan điểm dạy học tích cực thì việc đánh giá phải diễn ra đa chiều: kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò, có thể tham chiếu thêm sự đánh giá lẫn nhau giữa trò và trò. Việc đánh giá nên được diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình học chứ không chỉ mang tính chất định kì như kiểm tra học kì hoặc giữa kì. Căn cứ vào quá trình

tổ chức dạy học, có các hình thức đánh giá: đánh giá quá trình (thường xuyên), đánh giá tổng kết; căn cứ vào quy mô tổ chức hoạt động đánh giá có các hình thức: đánh giá trên lớp học và đánh giá ngoài lớp học.

- Một số hình thức biên soạn câu hỏi kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn: Kiểm tra miệng (vấn đáp), Kiểm tra viết. Trong hình thức kiểm tra viết có 2 dạng thiết kế câu hỏi: Câu hỏi trắc nghiệm tự luận (TNTL) và Câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ).

- Về lựa chọn phương pháp và hình thức đánh giá, chúng tôi đề xuất việc vận dụng rubrics để xây dựng các tiêu chí đánh giá môn học Ngữ văn. Rubrics là một công cụ dùng để đánh giá kết quả học tập của người học được thể hiện bằng bảng mô tả các tiêu chí đánh giá theo các cấp độ khác nhau trên cơ sở các yêu cầu, mục tiêu cần đạt của môn học. Rubrics giúp người dạy có thể hình dung được các yêu cầu về chất lượng cụ thể ở từng bài học, từng chuyên đề, từng môn học, để từ đó người dạy có thể thiết kế bài giảng, tổ chức giảng dạy và hướng dẫn người học một cách hiệu quả. Ngoài ra, Rubrics còn làm cho việc đánh giá trở nên khoa học, minh bạch và thuyết phục hơn. Đối với người học, Rubrics được thiết kế để giúp cho người học hiểu rõ hơn các mong đợi của người dạy, của yêu cầu môn học đối với bản thân. Từ đó, người học có động cơ học tập tốt hơn, chủ động hơn, tích cực hơn, có trách nhiệm hơn, có thể tự giám sát, tự đánh giá việc học tập của mình và có biện pháp tự cải tiến để đạt được kết quả học tập như mong muốn. Đối với nhà quản lí, Rubrics sẽ là cơ sở để các cán bộ quản lí KTĐG chất lượng đào tạo, nắm được những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong nhà trường để có thể chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến để thực hiện tốt mục tiêu dạy học cũng như mục tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường [4, tr 147].

Một trong những nguyên tắc của KTĐG là phải công khai. Công khai cả mục tiêu và yêu cầu KTĐG. Người dạy cần phải phổ biến các tiêu chí đánh giá cho người học biết ngay từ đầu để người học có thể chủ động trong quá trình học tập: đặt ra mục tiêu phấn đấu của cá nhân, lựa chọn phương pháp học tập phù hợp bộ môn, tự đánh giá mức độ đạt được của bản thân so với yêu cầu của các tiêu chí đánh giá trong suốt quá trình học tập, để từ đó có kế hoạch tự cải tiến chất lượng học tập kịp thời và hiệu quả. Ví dụ Tiêu chí kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Các tiêu chí này có hai chức năng: hướng dẫn HS cách tạo lập văn bản theo thể loại và đánh giá NL tạo lập văn bản của HS. Tiêu chí có thể được sử dụng để giáo viên (GV) ĐG, HS tự ĐG và ĐG lẫn nhau trong suốt quá trình học. GV gởi cho HS trước khi làm bài; HS căn cứ vào những tiêu chí để nỗ lực làm bài, thực hiện các yêu cầu; tự đánh giá bài làm theo tiêu chí; lập hồ sơ học tập để theo dõi kết quả học tập [4, tr 138].

c. Triển khai đánh giá Khi triển khai ĐG, việc đầu tiên cần phải làm là xây

dựng hệ thống bài tập theo định hướng phát triển NL. Hệ thống bài tập này là công cụ cho HS luyện tập để hình thành NL, đồng thời cũng là công cụ để GV và CBQL nhà trường ĐG sự phát triển NL của HS, ĐG mức độ đạt chuẩn của QTDH. Hoạt động đánh giá chủ yếu của môn Ngữ văn hiện

Page 25: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 21

nay là đánh giá kĩ năng đọc và viết của HS. Để đổi mới đánh giá kỹ năng đọc hiểu của HS, bài tập cần đưa ra những VB mới (bao gồm cả văn bản văn học và văn bản nhật dụng), có cùng đề tài, chủ đề hoặc thể loại với VB đã học trong CT, SGK), yêu cầu HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ VB mới này. Các câu hỏi đánh giá kĩ năng đọc hiểu và cảm thụ nên được thiết kế theo cách làm của PISA, bao gồm: câu hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn; câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài; câu hỏi đóng yêu cầu trả lời dựa trên những trả lời có sẵn; câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn; câu hỏi có – không, đúng –sai phức hợp.

Để đổi mới đánh giá kĩ năng viết của HS, cần ra đề theo hướng mở.Đề mở chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những câu trả lời đối ngược nhau miễn là HS bộc lộ được nhận thức và lập luận lôgic trong quá trình đi đến câu trả lời. Trong quá trình làm bài, HS cần vận dụng các kiến thức, kĩ năng của các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học để giải quyết vấn đề. Đáp án không áp đặt nội dung trả lời mà nên nêu được các phương án mà HS có thể trình bày, phân tích được sự hợp lí của các phương án đó; đồng thời, nêu được những yêu cầu về kĩ năng làm bài của HS, khuyến khích HS sử dụng nhiều kĩ năng, thao tác khác nhau trong giải quyết vấn đề; khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, quan điểm riêng của mình, chấp nhận nhiều cách hiểu và giải quyết vấn đề khác nhau; khuyến khích HS vận dụng được những điều đã học vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một cách có sức thuyết phục, hợp lí, tự nhiên, phù hợp với trình độ của các em. Khi xây dựng bài tập, cần đảm bảo sự phân hóa theo các bậc trình độ nhận thức (tái hiện; hiểu và vận dụng; xử lý, giải quyết vấn đề) để có thể đánh giá được mức độ phát triển NL của từng HS, từng giai đoạn học tập.

d. Xử lý kết quả đánh giá: Mục đích của việc xử lý kết quả ĐG là xác định được mức độ phát triển NL của HS sau mỗi giai đoạn học tập; chỉ ra mối liên hệ giữa phát triển NL với độ khó của nhiệm vụ hoặc bài tập mà HS đã hoàn thành. Kết quả ĐG cần được xử lý về mặt định tính (nhận xét, phân loại) và về mặt định lượng (biểu đồ, đường biểu diễn về tỷ lệ đạt được/từng yêu cầu đánh giá) để cung cấp một bức tranh toàn cảnh về sự phát triển NL của HS trong QTDH.

e. Phản hồi thông tin đến HS và các đối tượng liên quan:Trong QTDH môn Ngữ văn ở trường THPT, ĐG có chức năng cung cấp những thông tin “ngược” đến HS và các đối tượng liên quan (GV, CBQL, phụ huynh…). Nhờ những thông tin “ngược” này mà HS tự điều chỉnh hoạt động học; GV tự điều chỉnh hoạt động dạy; CBQL tự điều chỉnh hoạt động quản lý; phụ huynh tự điều chỉnh sự quan tâm, giúp đỡ con cái trong học tập, rèn luyện… Để ĐG có thể phản hồi thông tin đến HS và các đối tượng liên quan, bản thân nó phải được công khai hóa và phải dựa trên những tiêu chí cụ thể, tường minh, có thể đo đếm được như đã trình bày ở trên. 4.2. Bồi dưỡng giáo viên, giáo viên tự bồi dưỡng năng lực đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh

Nhận thức về KTĐG và quản lý hoạt động KTĐG theo định hướng hình thành NLHS của TTCM và GVNV

trường THPT chưa đầy đủ mà nguyên nhân chủ yếu là do cách thức tập huấn, tổ chức bồi dưỡng chưa đồng bộ, chưa đạt về chất lượng tập huấn. Bởi thế, nhu cầu được bồi dưỡng của TTCM và GVNV trường THPT hiện nay rất lớn, nhất là những lĩnh vực về đổi mới chương trình, SGK; PPDH, phương pháp KTĐG theo định hướng PTNL học sinh. 4.2.1. Bồi dưỡng nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn ở trường THPT

Hiệu quả hoạt động KTĐG môn Ngữ văn trường THPT phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là năng lực quản lý của TTCM và năng lực thực hiện hoạt động KTĐG của GV trong vai trò người tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Khi được bồi dưỡng nâng cao năng lực, TTCM và GVNV trường THPT sẽ tổ chức, chỉ đạo và thực hiện hoạt động KTĐG Ngữ văn một cách bài bản, đảm bảo cho hoạt động này đáp ứng yêu cầu PTNL học sinh. 4.2.2. Bồi dưỡng nhằm tạo tiềm lực để TTCM và GVNV trường THPT có thể thích ứng với quản lý và thực hiện CT và SGK Ngữ văn mới

Chương trình và SGK Ngữ văn mới được xây dựng theo tiếp cận phát triển NLHS. Việc tổ chức KTĐG và quản lý hoạt động KTĐG theo định hướng PTNL học sinh trên chương trình và SGK hiện hành là bước chuẩn bị cho đội ngũ TTCM và GVNV tổ chức dạy học theo Chương trình và SGK mới. Để có thể thích ứng với CT và SGK Ngữ văn mới, đòi hỏi TTCM và GVNV phải có NL KTĐG và quản lý hoạt động KTĐG theo định hướng PTNL học sinh. Việc bồi dưỡng nâng cao NL quản lý cho TTCM và GVNV là tạo tiềm lực để họ có thể thích ứng với quản lý CT và SGK Ngữ văn mới. 4.2.3. Xác định rõ mục tiêu bồi dưỡng nâng cao NL quản lý hoạt động KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh cho TTCM và GVNV trường THPT

- Việc bồi dưỡng nâng cao NL quản lý hoạt động KTĐG theo định hướng PTNL học sinh cho TTCM và GVNV phải hướng đến nhiều mục tiêu khác nhau. Trước mắt, việc bồi dưỡng tập trung vào kỹ năng xây dựng kế hoạch dạy học, trong đó thể hiện rõ việc điều chỉnh nội dung, tổ chức dạy học chương trình hiện hành theo địnhhướng PTNL học sinh; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ PP dạy và học; hình thức. Tiếp đó là bồi dưỡng PP kiểm tra và ĐG kết quả học tập của HS... đồng thời giúp họ sớm tiếp cận được với việc tổ chức, thực hiện chương trình và SGK Ngữ văn mới.

- Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý hoạt động KTĐG Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh cho TTCM và GVNV trường THPT.

- Nội dung bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý HĐDH theo định hướng PTNL học sinh cho TTCM và GVNV trường THPT phải thiết thực, toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng cho từng đối tượng.

4.3. Ứng dụng CNTT trong KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh

Để ứng dụng CNTT vào hoạt động đổi mới KTĐG, lãnh đạo nhà trường cần quan tâm về cơ sở vật chất và hạ tầng

Page 26: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

22 Nguyễn Bảo Hoàng Thanh, Lê Văn Ca

CNTT như trang bị phòng máy vi tính, máy chiếu (Projector) hoặc màn hình TV cỡ lớn…, thiết lập wesite, cấp tài khoản biên tập nội dung cho GV; học sinh và giáo viên tạo lâp hộp thư điện tử, tìm kiếm các phần mềm hỗ trợ hình thức KTĐG…

Việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi mới công tác quản lý KTĐG là một trong những hướng đi tích cực nhất, hiệu quả nhất, hướng vào mục tiêu phát triển năng lực học tập của học sinh. Với đặc thù môn Ngữ văn (Đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt, Làm văn), nếu khai thác, ứng dụng CNTT và TT hợp lý cũng sẽ đem lại những hiệu quả tích cực, và cũng là hoạt động thực hiện chỉ đạo của Bộ GD&ĐT về việc đa dạng hóa hình thức học tập, hình thức KTĐG: không chỉ diễn ra trong lớp học, trong nhà trường mà còn ở ngoài lớp học, ngoài nhà trường.

Bằng các phần mềm chuyên dụng, GV có thể quản lý đề kiểm tra và cho HS tương tác ngay trong giờ học trên lớp hay các hoạt động ngoại khóa hoặc tích hợp vào bài giảng trình chiếu, bài giảng e-Learning.

Dựa trên đặc điểm các dạng bài KTĐG môn Ngữ văn, bài viết đề cập đến một công cụ phù hợp với hoạt động dạy học, hoạt động tương tác tự học, tự kiểm tra đánh giá trực tuyến của học sinh trên internet (website nhà trường) mà GV có thể kiểm soát được (biết được thông tin học sinh, kết quả chi tiết bài làm qua email GV, Tổ trưởng và cả CBQL nhà trường). Học sinh có thể tự kiểm tra, đánh giá mọi lúc mọi nơi bằng điện thoại thông minh của mình. Đó là iSpring Quiz Marker (http://www.ispringsolutions.com/ispring-suite). Đây là phần mềm tạo ra nhiều loại hình thức trắc nghiẹm kiểm tra tương tác như bài tập nhiều lựa chọn, bài tập hỏi trả lời ngắn, bài tập sắp xếp trình tự (thứ tự, quy trình, bố cục…), điến vào chỗ trống… GV Ngữ văn có thể sử dụng bài tập cho nhiều mục đích khác nhau: chuẩn bị bài mới, ôn tập bài cũ, học sinh tự học không phụ thuộc thời gian, tổ chức kiểm tra trên máy tính tại trường hoặc công bố thời điểm mở đề để HS ở nhà làm bài hoặc kết hợp với học sinh khác cùng làm bài khi được GV đồng ý khi sắp xếp theo khả năng tiếp nhận của các nhóm HS.

Thực sự, với những sản phẩm KTĐG trực tuyến môn Ngữ văn, đã tạo hứng thú học tập, làm giảm áp lực học tập trên lớp, cải thiện chất lượng học tập môn Ngữ văn một cách rõ rệt. (Tham khảo tại địa chỉ http://thpt-lequydon.edu.vn, Tổ Ngữ văn/Tự học, tự kiểm tra đánh giá Ngữ văn)

Hơn nữa, từ các sản phẩm này, HS có thể ôn tập thường xuyên, bất cứ lúc nào; có thể làm bài nhiều rất nhiều lần đẻ nắm thật vững bài học, điều này khắc phục tình trạng HS chờ đợi hướng dẫn ôn tập kiểm tra học kỳ từ GV, khắc phục hiện tượng quá tải trong quá trình học tập.

4.4. KTĐG hoạt động đổi mới kiểm tra, đánh giá của giáo viên Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh

Đổi mới KTĐG kết quả học tập môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh là công việc khó, cần kiên trì thực hiện mới đạt hiệu quả. Vì thế lãnh đạo nhà trường cần tham gia sinh hoạt thường xuyên với tổ chuyên môn, chia sẻ những khó khăn, cùng bàn luận tìm ra biện pháp thực hiện. Hơn nữa, cần xây dựng bộ công cụ với các tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện hoạt động KTĐG năng lực HS theo

hướng PTNL của GV Ngữ văn một cách phù hợp nhằm tạo nên sự thống nhất hành động, đưa KTĐG của nhà trường đi vào quỹ đạo đổi mới.

Tổ chức KTĐG hoạt động đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn của GV nhằm: 4.4.1. Giúp cho CBQL, TTCM đánh giá khách quan chất lượng hoạt động KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh

Hiện nay trường THPT tổ chức cho GV tự đánh giá và đánh giá GV hằng năm theo Quy định Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THPT (Thông tư Số: 30/2009/TT-BGDĐT); sử dụng phiếu đánh giá tiết dạy mới; sử dụng tiêu chí phân tích bài học đổi mới PPDH và KTĐG sau khi dự các tiết dạy theo hướng nghiên cứu bài học (Công văn Số: 5555/BGDĐT-GDTrH do Bộ GD&ĐT ban hành) nhưng vẫn chưa thể đánh giá được mức độ thực hiện hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn ở tổ chuyên môn và cá nhân giáo viên. Vì vậy, CBQL, TTCM và cần bộ công cụ để đánh giá khách quan chất lượng hoạt động KTĐG Ngữ văn ở trường THPT. 4.4.2. Tạo động lực cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn ở trường THPT

Trong QTDH, đánh giá vừa điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học, hoạt động QLGD vừa tạo động lực cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng của các hoạt động này. Khi chất lượng hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh đánh giá bằng bộ công cụ thì hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn ở trường THPT cũng sẽ được đổi mới theo định hướng PTNL học sinh. 4.4.3. Khắc phục được những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động đổi mới KTĐG môn Ngữ văn theo định hướng PTNL học sinh

Chất lượng hoạt động đổi mới KTĐG theo định hướng PTNL học sinh được tạo nên từ nhiều yếu tố. Dựa trên bộ công cụ đánh giá chất lượng chất lượng hoạt động đổi mới KTĐG, có thể chỉ ra hạn chế của từng yếu tố, làm cơ sở cho sự khắc phục của TTCM và GVNV trường THPT.

Bên cạnh việc đổi mới thi đua; đổi mới cách đánh giá giờ dạy của giáo viên theo hướng tập trung tổ chức hoạt động học của học sinh; đổi mới việc sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, việc đổi mới KTĐG mức độ thực hiện hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS của giáo viên Ngữ văn theo hướng PTNL cũng là hoạt động bình thường, là một trong những hoạt động có ý nghĩa nhất trong quá trình dạy học.

5. Kết luận KTĐG năng lực học sinh là một khâu hết sức quan

trọng trong quá trình dạy học, việc đánh giá nhằm thu thập thông tin về học sinh, giúp GV và HS nhận ra những chỗ thiếu, những yếu điểm nào để điều chỉnh hoạt động dạy và học. Bên cạnh đó, HS sẽ hình thành nên NL thực hiện của cá nhân, đáp ứng nhu cầu về nhân lực của xã hội. Từ đó người học sẽ giải quyết những vấn đề đặt ra trong học tập cũng như những vấn đề phức tạp đặt ra trong cuộc sống, bằng năng lực của chính mình: biết vận dụng kiến thức, kỹ năng nào để giải quyết vấn đề.

Page 27: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 23

Thực hiện những biện pháp được đề xuất sẽ góp phần khắc phục những hạn chế trong quản lý hoạt động KTĐG ở trường phổ thông. Nếu được thực hiện đồng bộ sẽ nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Các biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có tính cần thiết và khả thi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ GD&ĐT (2014), Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá

kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông, Hà Nội (trang 6).

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa 11 Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Hà Nội (trang 5).

[3] Nguyễn Thị Hồng Nam và Mai Bích Huyền (2014), Tiêu chí đánh giá bài luận - một trong những công cụ phát triển năng lực tạo lập văn bản cho học sinh, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, số 62 (trang 138)

[4] Lê Thị Ngọc Nhẫn, (2014), Vận dụng rubrics để xây dựng các tiêu chí đánh giá môn học, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, số 62, (trang 147)

[5] Nguyễn Bảo Hoàng Thanh (2011), Kiểm tra đánh giá trong giáo dục, NXB Đà Nẵng (trang 7) .

(BBT nhận bài: 03/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 10/01/2017)

Page 28: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

24 Nguyễn Bá Thế, Ngô Tân

NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC LÁ CỦA NGƯỜI DÂN VÀ GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT, PHÒNG CHỐNG TÁC HẠI

THUỐC LÁ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG STATISTICAL RESEARCH OF TOBACCO USAGE OF THE CITIZENS AND RECOMMEND

MEASURES TO CONTROL AND PREVENT THE HARMS OF TOBACCO AT DANANG CITY

Nguyễn Bá Thế, Ngô Tân Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

[email protected]; [email protected]

Tóm tắt - Hút thuốc lá là nguyên nhân gây ra 90% các ca ung thưphổi, 75% các ca bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và 25% ca bệnhtim thiếu máu cục bộ [8]. Ước tính ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng40.000 ca tử vong do các bệnh liên quan đến hút thuốc. Mặc dù đãcó sự cam kết của chính phủ đối với vấn đề kiểm soát thuốc lá vàđặc biệt là đã có luật phòng, chống tác hại hút thuốc, nhưng hiệulực và sự tuân thủ vẫn còn yếu. Bài báo sử dụng các phương phápthống kê mô tả và thống kê suy diễn như phân tích phương sai,kiếm định thống kê để đánh giá thực trạng sử dụng thuốc lá củangười dân tại thành phố Đà Nẵng,đồng thời đề xuất các giải phápkiểm soát và phòng chống tác hại thuốc lá tại thành phố Đà Nẵng.

Abstract - Smoking is the cause of 90% of lung cancer cases, 75% of cases of chronic obstructive pulmonary disease and 25% of cases of ischemic heart disease [8]. The Estimation in Vietnam has shown that there are about 40,000 deaths from diseases relating to smoking every year. Although the government has had commitments to control tobacco issues, and especially has enforced the law on preventing the harms of tobacco, the effectiveness and compliance still remain weak. This article uses the methods of descriptive and inference statistics such as variance analysis and statistical tests to assess the current status of tobacco usage of the citizens in Danang city, recommend measures to control and prevent the harms of tobacco in Danang city.

Từ khóa - hút thuốc; tác hại thuốc lá; thống kê; kiểm định giảthuyết; phân tích phương sai (ANOVA); giải pháp; Đà Nẵng.

Key words - smoking; the harms of tobacco; statistics; hypothesistest; analysis of variance (ANOVA); solution; Da Nang

1. Đặt vấn đề

Báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy bên cạnh những tiến bộ trong công tác kiểm soát thuốc lá đã đạt được, thì vẫn còn có quốc gia chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các biện pháp và vạch ra một hướng tiếp cận để Chính phủ áp dụng, nhằm ngăn chặn tác hại thuốc lá [3].

Ngày 21/8/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1315/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá [4]. Kế hoạch đưa ra các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng các sản phẩm thuốc lá song song với việc giảm cung cấp các sản phẩm thuốc lá tiêu thụ trong nước. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế nhằm ngăn chặn nạn dịch hút thuốc lá. Tại Đà Nẵng, Uỷ ban Nhân dân (UBND) thành phố phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá (Ban hành kèm theo Quyết định số 1338/UBND-QĐ ngày 22/2/2010 của UBND thành phố Đà Nẵng) với mục tiêu hạ thấp tỷ lệ sử dụng thuốc lá và các sản phẩm thuốc lá, nâng cao nhận thức và sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách và cộng đồng về việc thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá tại thành phố, xây dựng môi trường không khói thuốc tại những nơi công cộng, các cơ quan hành chính, các cơ sở y tế và các trường học trên địa bàn thành phố [2].

Tháng 09/2012, Quốc hội thông qua Luật phòng, chống tác hại thuốc lá và Thủ tướng chính phủ ra Nghị định số 176/NĐ - CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó có các quy định về phòng chống tác hại thuốc lá [5], [6].

Mặc dù đã có sự cam kết của chính phủ đối với vấn đề kiểm soát thuốc lá và đặc biệt là đã có luật phòng, chống

tác hại hút thuốc, nhưng hiệu lực và sự tuân thủ vẫn còn yếu.Việt Nam nằm trong số những nước có tỷ lệ hút thuốc cao nhất trên thế giới. Sự chấp nhận của xã hội đối với hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng, và tỷ lệ hút thuốc thụ động của Việt Nam cũng tương đối cao. Thực trạng này vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cho đến khi sự thực hiện và thi hành chính sách không khói thuốc được cải thiện.

Bài báo được thực hiện nhằm mục tiêu mô tả thực trạng hút thuốc lá, đồng thời đề xuất các giải pháp kiểm soát và phòng chống tác hại thuốc lá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Người dân từ 18 tuổi trở lên đã từng hút thuốc lá hoặc đang sử dụng thuốc lá. 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Nghiên cứu được tiến hành tại 7 quận huyện thuộc thành phố Đà Nẵng.

- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5/2015 đến tháng 12/2015. 2.3. Phương pháp nghiên cứu

- Nội dung: Xác định qui mô, cơ cấu về thực trạng hút thuốc lá, đồng thời nghiên cứu kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng về các chinh sách phòng chống tác hại thuốc lá.

- Công cụ: Bảng điều tra cá nhân. - Xác định kích thước mẫu n = 300. Hoàng Trọng &

Chu Nguyễn Mộng Ngọc [10] cho rằng, số lượng mẫu cần gấp 4 hay 5 lần so với số lượng biến; theo Tabachnick G &

Page 29: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 25

Fidell L.S. (2001) [11] thì lại đưa ra công thức tính mẫu là N>=50 + 8m (m là số biến). Vì vậy với nghiên cứu này xác định kích thước mẫu tối thiểu n = 300 là phù hợp.

- Nhóm tác giả đã phát ra 300 bảng điều tra. Trong 300 bảng diều tra có 299 bảng hợp lệ và 1 bảng không hợp lệ

Mẫu điều tra được thu thập tại 7 quận huyện theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Tại mỗi địa bàn chọn ngẫu nhiên một số hộ gia đình, trong mỗi hộ chọn một người từ 18 tuổi trở lên (chỉ điều tra những hộ có người đã từng hút thuốc hoặc đang hút thuốc).

3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Mô tả mẫu nghiên cứu

Bảng 1. Đặc điểm của nhóm đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm Nhóm đối tượng n

tỷ lệ

(%)

Giới tính

- Nam 155 51,8

- Nữ 144 48,2

Tình trạng hôn nhân

- Độc thân (chưa bao giờ kết hôn) 76 25,4

- Đã lập gia đình 199 66,6

- Ly thân/ ly hôn 7 2,3

- Góa 16 5,4

- Sống như vợ chồng không hôn thú 1 0,3

Học vấn

- Không đi học đến hết cấp 2 4 1,3

- Hết Cấp 3 206 68,9

- Trung học nghề, trung cấp, CĐ 58 19,4

- Đại học 30 10

- Sau đại học thạc sĩ, tiến sĩ 1 0,3

Nghề nghiệp

- Cán bộ công nhân viên 76 15,5

- Nhân viên doanh nghiệp tư nhân và người buôn bán nhỏ 30 10

- Lao động tự do 106 35,5

- Nội trợ 13 4,3

- Không làm gì, đi học, thất nghiệp, già, hưu 74 24,7

Số lượng nam nữ được điều tra tương đương nhau. Độ tuổi các đối tượng được điều tra trung bình là 40,82, độ tuổi thấp nhất là 19, cao nhất là 87. Về tình trạng hôn nhân gia đình, đa số đã lập gia đình và sống đủ vợ chồng chiếm 66,6%. Về trình độ học vấn, tập trung chủ yếu là nhóm hết cấp 3 và trung cấp cao đẳng chiếm tỉ lệ 88,3% , tỷ lệ đại học và sau đại học là 10,3%. Về nghề nghiệp, 25,5% là cán bộ công nhân viên chức lao động (CNVCLĐ) Nhà nước và không phải Nhà nước, 24,7% không hoặc chưa đi làm. Về thu nhập (được tính bằng tổng số thu nhập của gia đình chia cho tổng số nhân khẩu trong gia đình), trung bình 1,253 triệu/tháng và có sự chênh lệch giữa các hộ (độ lệch chuẩn 992.700 đồng). 3.1.1. Tình hình sử dụng thuốc lá

Nghiên cứu này đánh giá tình hình sử dụng thuốc lá theo 2 tiêu chí là “đã từng hút thuốc” và “hiện đang hút thuốc”.

3.1.2. Tỷ lệ nam, nữ hiện đang hút thuốc lá Bảng 2. Tỷ lệ nam, nữ hiện đang hút thuốc lá

Tần số %

Nam Nữ Tổng

77 30

107

25,8 10,0 35,8

Trong số 299 người điều tra sử dụng thuốc là có 107 người hiện đang sử dụng thuốc lá chiếm tỉ lệ 35,8%, trong đó ở nam là 77 người chiếm tỉ lệ 25,89%, nữ là 30 người chiếm tỉ lệ là 10%. 3.1.3. Mối liên hệ giữa hút thuốc lá theo tình trạng hôn nhân Bảng 3. Mối liên hệ giữa hút thuốc lá theo tình trạng hôn nhân

ANOVA Sum of

Squares Df Mean Square F Sig.

Between Groups Within Groups Total

0,622 20,967 21,589

4 102 106

0,156 0,206

0,757

0,556

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc thì đa số là nhóm đã lập gia đình 77 người chiếm tỉ lệ 71,96%, tiếp đến là nhóm đối tượng độc thân 20 người chiếm tỉ lệ là 18,69%.

Với kết quả phân tích ANOVA ta thấy: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc lá giữa các nhóm theo tình trạng hôn nhân Sig>0,05. 3.1.4. Mối liên hệ giữa hút thuốc látheotrình độ học vấn

Bảng 4. Mối liên hệ giữa hút thuốc látheotrình độ học vấn ANOVA

Sum ofSquares df Mean

Square F Sig.

Between Groups Within Groups Total

0,488 21,100 21,589

3 103 106

0,163 0,205

0,795

0,500

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc thì đa số là nhóm học hết cấp 3 và trung học, trung cấp và cao đẳng 98 người chiếm tỉ lệ 91,59%, tiếp đến là nhóm đại học 7 người chiếm tỉ trong là 6,54%.

Với kết quả phân tích AVNOVA ta thấy: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc giữa các nhóm theo trình độ học vấn Sig>0,05. 3.1.5. Mối liên hệ giữa hút thuốc lá theonghề nghiệp

Bảng 5.Mối liên hệ giữa hút thuốc lá theo nghề nghiệp ANOVA

Sum of Squares

df Mean Square

F Sig.

Between Groups Within Groups Total

3,521 18,068 21,589

4 102 106

0,880 0,177

4,969

0,001

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc thì đa số

Page 30: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

26 Nguyễn Bá Thế, Ngô Tân

là nhóm lao động tự thân 53 người chiếm tỉ lệ 49,53 %, tiếp đến là nhóm không làm gì, đi học, thất nghiệp, già, hưu 26 người chiếm tỉ trong là 24,3%.

Với kết quả phân tích AVNOVA ta thấy: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc lá giữa các nhóm theo nghề nghiệp Sig<0,05. 3.1.6. Mức độ sử dụng thuốc lá

Bảng 6. Loại thuốc lá được sử dụng

Tần số %

1. Có đầu lọc ngoại 109 36,4

2. Có đầu lọc nội 278 92,9

3. Không đầu lọc 11 3,6

4. Thuốc lào 0 0

5. Thuốc rê quấn bằng tay 28 9,4

Với kết quả phân tích, ta thấy đa số người dân sử dụng thuốc có đầu lọc nội 92,9%.

Bảng 7. Số lượng hút và tiền mua thuốc hàng ngày

Trung bình (đồng) Sai số chuẩn Trung vị Mode Độ lệch chuẩn Phương sai Minimum Maximum

6758,44 570,203 5000,00 3000(a) 5003,508 25035092,276 500 26000

Với kết quả phân tích, ta thấy trung bình 1 ngày 1 người hút thuốc chi 6.758,44 đồng.Người chi nhiều nhất là 26.000 đồng, người chi thấp nhất là 500 đồng.

Kết luận: Qua nghiên cứu thực trạng hút thuốc lá và nhận thức thực hiện chính sách phòng chống tác hại thuốc lá trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, chúng tôi rút ra những kết luận sau:

Trong số 299 người điều tra sử dụng thuốc là có 107 người hiện đang sử dụng thuốc lá chiếm tỉ lệ 35,8%, trong đó ở nam là 77 người chiếm tỉ lệ 25,89%, nữ là 30 người chiếm tỉ lệ là 10%.

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc thì đa số là nhóm đã lập gia đình 77 người chiếm tỉ lệ 71,96%, tiếp đến là nhóm đối tượng độc thân 20 người chiếm tỉ trong là 18,69%. Với kết quả phân tích AVNOVA ta thấy: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc lá theo tình trạng hôn nhân (Sig>0.05).

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc thì đa số là nhóm học hết cấp 3 và trung học, trung cấp và cao đẳng 98 người chiếm tỉ lệ 91,59%, tiếp đến là nhóm đại học 7 người chiếm tỉ lệ là 6,54%. Với kết quả phân tích AVNOVA ta thấy: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc lá theo trình độ học vấn (Sig>0,05).

Trong số 107 người hiện đang sử dụng thuốc lá thì đa số là nhóm lao động tự thân 53 người chiếm tỉ lệ 49,53 %, tiếp đến là nhóm không làm gì, đi học, thất nghiệp, già, hưu

26 người chiếm tỉ trong là 24,3%. Với kết quả phân tích AVNOVA ta thấy: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về tình trạng hút thuốc theo nghề nghiệp (Sig<0,05).

Với kết quả phân tích, ta thấy đa số người dân sử dụng thuốc có đầu lọc nội 92,9%. trung bình 1 ngày 1 người hút thuốc chi 6.758,44 đồng. Người chi nhiều nhất là 26.000 đồng, người chi thấp nhất là 500 đồng.

4. Đề xuất các giải pháp 4.1. Giải pháp ưu tiên:

(1) Theo dõi và cập nhật các thông tin về sử dụng thuốc lá và kiểm soát thuốc lá, bao gồm: Sử dụng công cụ điều tra của nghiên cứu này hằng năm để theo dõi các chỉ số liên quan đến sử dụng thuốc lá; Tìm hiểu và lưu trũ các thông tin về kiểm soát và phòng chống tác hại thuốc lá trên thế giới, tại Việt Nam và các tỉnh thành; Tìm hiểu các thủ đoạn quảng cáo, khuyến mại, tài trợ trá hình của ngành công nghiệp thuốc lá; Phổ biến các thông tin thu thập được cho lãnh đạo thành phố, các sở ban ngành, tổ chức, đoàn thể và người dân.

(2) Tăng cường thông tin, giáo dục, truyền thông về kiểm soát thuốc lá, tập trung vào 4 nội dung: Truyền thông vận động hoàn thiện các chính sách phòng chống tác hại thuốc lá; Tuyên truyền chính sách phòng chống tác hại thuốc lá, bao gồm các chính sách được chính phủ, các bộ ngành có liên quan và lãnh đạo chính quyền các địa phương ban hành; Truyền thông thay đổi hành vi hút thuốc đối với các nhóm đối tượng đặc biệt là học sinh, sinh viên, người nghiện thuốc lá; Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân đối với việc in cảnh báo sức khoẻ bằng hình ảnh.

(3) Nhân rộng các mô hình cộng đồng không thuốc lá đã thực hiện bao gồm: “Nơi làm việc không thuốc lá”, “Trưòng học không thuốc lá”, “Cơ sở y tế không thuốc lá” và “Cộng đồng dân cư không thuốc lá”. 4.2. Giải pháp quan trọng:

(4) Thực hiện luật phòng, chống tác hại thuốc lá quyết liệt. Có quy định và lộ trình thực hiện chính sách và chế tài xử phạt về phòng chống tác hại thuốc lá một cách cụ thể trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước đã thực hiện thành công ở Châu Âu, cũng như Châu Á. Các cơ quan quản lý cần xây dựng chế tài xử phạt, trong đó quy định rõ mức phạt cao theo kinh nghiệm các nước bạn về chế tài xử phạt và có những quy định cứng rắn về mặt đạo đức xã hội khiến cho người hút thuốc phải suy nghĩ, cân nhắc trước khi hút... Quy định cụ thể lực lượng có chức năng xử phạt tại mỗi đơn vị, có mẫu hóa đơn xử phạt nhanh tại chỗ.

(5) Giao trách nhiệm thực hiện nơi công cộng không khói thuốc lá cho người quản lý nơi đó, họ phải tổ chức thực hiện mọi biện pháp theo quy định của pháp luật để không có người hút thuốc lá tại nơi mình quản lý mà gây ảnh hưởng đến người không hút thuốc, kể cả các biện pháp chế tài hay cưỡng chế khác, và chịu trách nhiệm với Nhà nước nếu có hiện tượng hút thuốc lá tại nơi mình quản lý.

(6) Chương trình quốc gia tư vấn điều trị hỗ trợ cai nghiện thuốc lá cần: Nâng cao chất lượng các dịch vụ điều trị cai nghiện thuốc lá đã có sẵn thông qua huấn luyện kỹ năng tư vấn sâu cho cán bộ y tế tại các cơ sở đó. Soạn thảo

Page 31: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 27

và phổ biến giáo trình lồng ghép dịch vụ điều trị hỗ trợ cai nghiện vào các cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu (trung tâm y tế quận huyện và trạm y tế). Chính thức nhập và phân phối rộng rãi các loại thuốc thay thế Nicotine (NRT) cũng như các loại thuốc hỗ trợ cai nghiện thuốc lá khác (Bupropion, Varenicline). Đưa nội dung tư vấn hỗ trợ cai nghiện thuốc lá cũng như các thông tin liên quan đến kiểm soát thuốc lá thành chương trình đào tạo chính quy cho sinh viên y khoa. Thực hiện các nghiên cứu sâu ứng dụng các liệu pháp mới trong các cơ sở dịch vụ điều trị cai nghiện thuốc lá.

(7) Ngành y tế thành phố cần: Triển khai thực hiện Hướng dẫn quốc gia về tổ chức tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá. Bổ sung vào phần khai thác tiền sử của bệnh án điều trị nội trú và ngoại trú nội dung “sử dụng thuốc lá” tại tất cả các cơ sở điều trị. Đảm bảo tất cả bệnh nhân có hút thuốc lá được nhận lời khuyên bỏ thuốc lá từ cán bộ y tế. Bổ sung các loại thuốc hỗ trợ cai nghiện thuốc lá vào danh mục thuốc của ngành y tế và danh mục bảo hiểm y tế. Đào tạo và đạo tạo lại kỹ năng tư vấn điều trị hỗ trợ cai nghiện thuốc lá cho mọi cán bộ y tế trong và ngoài ngành.

(8) Chính phủ cần nhanh chóng ban hành quy định và lộ trình thực hiện việc in cảnh báo sức khoẻ bằng hình ảnh trên vỏ bao thuốc lá phù hợp với các khuyến cáo của Công ước Khung và xu thế chung của thế giới.

(9) Quy định chặt chẽ việc trưng bày tủ thuốc khi đăng ký bán thuốc lẻ. Tất cả các tủ thuốc không được trưng bày một hình ảnh nào mô phỏng bao bì thuốc lá, mà chỉ được in những cảnh báo tác hại thuốc lá bằng hình ảnh và dòng chữ “Không bán thuốc lá cho trẻ em dưới 18 tuổi”.

(10) Tăng thuế thuốc lá đến mức tăng giá thuốc lá gấp 3-4 lần hiện nay. 4.3. Giái pháp đột phá và riêng có ở Đà Nẵng

(11) Quy hoạch mạng lưới bán lẻ thuốc lá thưa thớt gây

bất lợi cho người hút thuốc lá khi tìm mua thuốc lá. (12) Tổ chức một hệ thống điều trị hỗ trợ cai nghiện

nghiện thuốc lá trong và ngoài Ngành y tế mà Trung tâm đào tạo là 3 cơ sở điều trị các bệnh lý liên quan đến thuốc lá: Bệnh viện Lao và bệnh Phổi Đà Nẵng, Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng.

(13) Cung cấp đường dây nóng báo cáo hiện tượng quảng cáo, tiếp thị thuốc lá dưới mọi hình thức trên toàn thành phố.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bảo Châu, Bài toán khó giải, Báo Sức khỏe và Đời sống, số 21/98

ngày 27/5/1998, trang 7. [2] UBND thành phố Đà Nẵng. Quyết định số 1338/QĐ-UBND ngày

22/02/2010 ban hành Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá tại thành phố Đà Nẵng.

[3] Vinacosh, Tờ rơi tình hình thực thi môi trường không khói thuốc lá tại Việt Nam.

[4] Thủ tướng chính phủ (2009). Quyết định số 1315/QĐ-TTg ngày 21/8/2009 về việc phê duyệt kế hoạch thực hiên Công ước khung về kiểm soát thuốc lá.

[5] Quốc hội (2012). Luật số 09/2012/QH13 của Quốc hội : LUẬT PHÒNG, CHỐNG TÁC HẠI CỦA THUỐC LÁ.

[6] Thủ tướng chính phủ (2013). Nghị định số 176/NĐ - CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó có các quy định về phòng chống tác hại thuốc lá.

[7] Levy D, bales, S, Nguyen TL, The role of public policies in reducing smoking and deaths causes by smoking in Vietnem (2006).

[8] Mackay J, Ericken M, Shafey O. Tobacco Atlas. Second Edition 2006, p.35.

[9] Peto R. Lopez AD, Borehan J, Thun M, Health C. Mortality from Smoking in Developed Countries, 1950-2000: Indirect Estimates from National Statistics (Oxford Medical Publications), 1994.

[10] Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.

[11] Tabachnick B.G. & Fidell L.S. (2001), Using multivariate statistic (4th ed.), Boston, MA: Allyn & Bacon.

(BBT nhận bài: 09/5/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 15/12/2016)

Page 32: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

28 Nguyễn Nữ Thùy Uyên

SỬ DỤNG VOICE BLOG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NÓI CHO SINH VIÊN NĂM 3 TẠI KHOA TIẾNG ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC

NGOẠI NGỮ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG USE OF VOICE BLOG TO IMPROVE SPEAKING SKILL FOR THIRD YEAR STUDENTS

OF ENGLISH DEPARTMENT, UNIVERSITY OF FOREIGN LANGUAGE STUDIES, DANANG UNIVERSITY

Nguyễn Nữ Thùy Uyên Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Sự tiến bộ của những ứng dụng Web 2.0, cụ thể là voiceblog đã cung cấp cho giáo viên một công cụ hữu ích nhằm giảiquyết những thách thức trong việc dạy và học ngoại ngữ ở Khoatiếng Anh (KTA), Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Đà Nẵng. Vìsố lượng lớp đông, cơ hội thực hành để phát triển kỹ năng, đặcbiệt là kỹ năng nói cho sinh viên khá hạn chế. Bài báo này khảosát tính hiệu quả của việc sử dụng voice blog để phát triển kỹ năngnói cho sinh viên năm 3 và nhận thức của sinh viên về việc sử dụngcông cụ này. Bài đăng của sinh viên trên trang blog chung của lớpđược thu thập trong một kỳ học và được phân tích bằng công cụcặp đôi t-test và MANOVA. Thái độ và nhận thức của sinh viênđược thu thập qua phiếu điều tra gồm 15 câu hỏi theo thang điểmLikert và 3 câu hỏi mở. Kết quả cho thấy rằng mặc dù sinh viênkhông đạt được tiến bộ rõ rệt về kỹ năng nói sau khi sử dụng voiceblog nhưng có thái độ tích cực đối với việc sử dụng công cụ này.

Abstract - The advancement of such Web 2.0 applications as voice blog has offered language teachers a useful teaching tool to solve some challenges in the practice of teaching and learning in English Department, University of Foreign Language Studies, University of Danang. Due to big class size, students have limited opportunities to enhance their speaking skill. Accordingly, this study explores the use of voice blog to improve speaking skill for third year students and discover their perceptions towards the application of this tool. During one-semester long experiment, students' entries are collected and analyzed by paired-sample t-test and MANOVA. Students’ attitudes and perceptions are examined through a survey, including 15 Likert-scale questions and 3 open questions. The findings show that even though students do not gain considerable improvement in their speaking skill, they have positive attitude towards the use of voice blog.

Từ khóa - voice blog; phát triển kỹ năng nói cho sinh viên năm 3;bài đăng của sinh viên; hiệu quả của việc sử dụng voice blog; nhậnthức của sinh viên đối với voice blog

Key words - voice blog; enhancing speaking skill for third- year students; students’ entries; effectiveness of voice blog application; students’ perceptions towards voice blog use

1. Đặt vấn đề

Kỹ năng nói là một kỹ năng thiết yếu, tuy nhiên, cũng là một trong những kỹ năng khó để thành thạo đối với người học tiếng Anh. Trong chương trình học của sinh viên chính quy năm 3, khoa tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng sinh viên học tích hợp các kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết và ngữ pháp) với thời lượng học 3 tiết (150 phút)/ 1 tuần và kéo dài trong vòng 15 tuần. Ngoài ra, sĩ số lớp tương đối đông từ 35 đến 40 sinh viên/ lớp học phần. Thời lượng trung bình dành cho kỹ năng nói hàng tuần chỉ được 30 phút. Vì vậy, sinh viên có rất ít cơ hội để thực hành kỹ năng nói trong và ngoài lớp học. Việc tích hợp voice blog vào việc dạy và học hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội thực hành tiếng cho sinh viên. Ở Việt Nam, hiện nay có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về việc sử dụng blog trong việc dạy và học ngoại ngữ nói chung và về voice blog trong việc phát triển kỹ năng nói nói riêng và do đó, voice blog vẫn còn là một công cụ khá mới và chưa được khai thác nhiều.

2. Giao tiếp qua công nghệ không đồng thời và voice blog

Giao tiếp qua công nghệ trong ngôn ngữ được phân thành hai loại: giao tiếp đồng thời (synchronous) như phòng nói chuyện (chat room); hội nghị truyền hình (video conferencing) và không đồng thời (asynchronous) như diễn đàn thảo luận (discussion forums), emails và blogs. Giao tiếp không đồng thời, cho phép người học chuẩn bị cách diễn đạt và ngôn ngữ phát ra và phù hợp với tất cả các trình

độ ngôn ngữ khác nhau (Huang, 2015). Blog là nhật ký trực tuyến của cá nhân hoặc xuất bản như trang web, giúp cá nhân hướng đến đối tượng khán giả toàn cầu trên mạng Internet. Những đặc tính của blog bao gồm việc xuất bản nhanh và dễ, bài đăng được lưu trữ theo trình tự thời gian, tương thích với nhiều loại phương tiện như audio, video và hình ảnh và có sự tương tác giữa tác giả và người sử dụng Người sử dụng có thể tạo ra, chia sẻ và tương tác trong không gian ảo, thông qua việc đăng bài, viết bình luận và nhận phản hồi từ những bài đăng của các thành viên khác. Nhờ vào tính chất mở trên blog, người dùng có thể thoải mái diễn đạt bản thân, tham gia vào một môi trường học hợp tác, chia sẻ kiến thức và thảo luận ngoài lớp học (Campbell, 2003).

Voice blog hay còn gọi là audioblog là một hình thức khác của giao tiếp qua công nghệ không đồng thời bằng giọng nói (asynchronous voice-based CMC). Huann và Thong (2006) chỉ ra rằng voice blog cho phép người dùng sử dụng giọng nói, có thể đăng file nhạc và gửi qua RSS feeds cho người nghe và voice blog có tính tương tác khá cao.

Đến nay đã có một số ít nghiên cứu về việc sử dụng voice blog trong việc học ngoại ngữ nói chung và phát triển kỹ năng nói nói riêng. Nổi bật nhất là công trình nghiên cứu của Hsu, Wang và Comac (2008) về sử dụng voice blog để quản lý bài tập môn nói và tăng cường sự tương tác với người học, Sun (2009) sử dụng voice blog để tăng cường các hoạt động nói và Huang (2015) cung cấp cho sinh viên cơ hội thực hành kỹ năng nói ngoài lớp học. Kết

Page 33: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 29

quả cho thấy voice blog được xem như là một tập hồ sơ điện tử (electronic portfolio) lưu trữ các bài đăng, giúp giáo viên và sinh viên quan sát được sự tiến bộ về kỹ năng nói của sinh viên (Hsu và cộng sự, 2008), nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng tự diễn đạt, trao đổi thông tin và tăng tính liên kết xã hội (Sun, 2009) và tạo một môi trường học tương tác và xoá bỏ sự lo lắng khi nói của sinh viên (Huang, 2015). Vì những lợi ích đã được nêu trên, bài báo này nhằm khám phá hiệu quả của việc sử dụng voice blog và nhận thức của người sử dụng trong môi trường giáo dục Việt Nam.

Bài nghiên cứu này được định hướng bởi hai câu hỏi như sau:

1. Việc thực hành nói thông qua voice blog có giúp sinh viên cải thiện khả năng nói hay không?

2. Sinh viên có nhận thức và thái độ như thế nào về việc sử dụng voice blog để phát triển kỹ năng nói?

3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu và mô tả khoá học

Người tham gia nghiên cứu gồm 60 sinh viên năm thứ 3 (9 nam, 51 nữ), có trình độ tiếng Anh ở mức trên trung cấp, từ hai lớp học phần kỹ năng tiếng C1.1 của khoa tiếng Anh, Đại học Ngoại Ngữ. Học phần kỹ năng tiếng C1.1 được thiết kế tích hợp bốn kỹ năng nghe, nói, đọc và viết và hướng đến việc phát triển kỹ năng tiếng chung cho sinh viên. Khoá học kéo dài 15 tuần và sinh viên tham dự 3 tiết học (150 phút) một tuần. Thời gian trung bình dành cho các hoạt động phát triển kỹ năng nói là 30 phút/ 1 tuần. Những hoạt động nói thường được thực hiện trên lớp học gồm thảo luận cặp, thảo luận nhóm, thực hiện một bài trình bày về một chủ đề và có khả năng tranh luận để bảo vệ quan điểm. Sinh viên cần hiểu biết và có kiến thức về những chủ đề mang tính xã hội như giáo dục, lợi ích và tác hại của quảng cáo, cuộc sống người nổi tiếng, việc nuôi dưỡng con cái, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái...Voice blog được tích hợp vào khóa học giúp sinh viên có cơ hội thực hành kỹ năng nói sau giờ học và việc đăng bài trên voice blog của sinh viên được tính như một điểm thành phần đánh giá kỹ năng nói trong suốt khoá học. 3.2. Quy trình nghiên cứu

Vào đầu học kỳ, giáo viên lập ra một trang blog cho cả lớp nhằm tăng khả năng chia sẻ, lắng nghe và tương tác của sinh viên trên một môi trường blog chung.

Sinh viên được hướng dẫn thực hiện quy trình đăng bài và bình luận trong buổi học đầu và được gửi bảng hướng dẫn qua địa chỉ email riêng. Trang blog chung của lớp được truy cập tại địa chỉ http://nguyennuthuyuyen.blogspot.com. Các bài đăng được sắp xếp theo trật tự thời gian và được phân loại theo những chủ đề phù hợp. Trên trang voice blog, giáo viên cung cấp đường link đến hai công cụ ghi âm trực tuyến Vocaroo (www.vocaroo.com) và Soundcloud (www.souncloud.com) - hai công cụ được dùng phổ biến hiện nay và cho phép người dùng có thể lưu tất cả các bài thu âm trên mạng hoặc tải về máy tính cá nhân.

Mỗi tuần, giáo viên đăng những bài đọc hoặc những đoạn giáo viên ghi âm về chủ đề tương ứng với chủ đề của

tuần trong chương trình học. Sinh viên được yêu cầu đăng ít nhất 3 bài nói thể hiện ý kiến và quan điểm về những chủ đề được đăng trên trang blog chung của lớp và 3 lần bình luận dưới dạng nói về bài đăng của sinh viên khác trong suốt học kỳ. Sinh viên có thể bình luận về nội dung, ý tưởng, độ chính xác ngữ pháp của bài đăng của những sinh viên khác. Những sinh viên thực hiện nhiều hơn số lượng bài đăng và bài bình luận sẽ được cộng thêm điểm.

Hình 1. Giao diện tổng quan trang blog chung của lớp

Bài đăng của sinh viên được chấm điểm theo thang điểm đánh giá dành cho kỹ năng nói được áp dụng tại Khoa tiếng Anh, bao gồm sự lưu loát, độ chính xác về ngữ pháp, sự đa dạng về từ vựng, khả năng tổ chức và sắp xếp ý tưởng và việc phát âm. Việc đăng bài trên blog được tính điểm cho kỹ năng nói trong suốt quá trình và chiếm 20% tổng số điểm cho một học phần trong học kỳ của sinh viên. Những quy định về việc chấm điểm và tiêu chí đánh giá được phổ biến cho sinh viên vào đầu học kỳ. Đầu mỗi giờ học, giáo viên dành 10 – 15 phút để nhận xét nội dung bài đăng và tiến trình đăng bài trên blog. 3.3. Quy trình xử lý số liệu

Người khảo sát và một giáo viên khác sẽ chấm điểm một bài đăng đầu, một bài đăng giữa và một bài đăng cuối trên trang blog cho từng sinh viên. Sau đó, người nghiên cứu dùng phép tính t-test cặp đôi (paired-sample t-test) để tính sự khác nhau về giá trị trung bình (mean difference) giữa bài đăng đầu và bài đăng cuối và dùng kỹ thuật phân tích phương sai đa chiều (Multivariate analysis of variance – MANOVA) để so sánh sự khác nhau về giá trị trung bình giữa 5 tiêu chí chấm điểm cho voice blog (độ lưu loát, sự đa dạng về từ vựng, sự chính xác về ngữ pháp, khả năng tổ chức và sắp xếp ý tưởng và phát âm). Kết quả từ hai kỹ thuật tính trên sẽ giúp xác định được sự tiến bộ về kỹ năng nói của sinh viên sau một kỳ học có sử dụng voice blog.

Cuối kỳ, người nghiên cứu phát một phiếu khảo sát gồm hai phần. Phần đầu gồm 15 câu hỏi được thiết kế theo thang điểm Likert với 5 mức độ (1= hoàn toàn không đồng ý, 2= không đồng ý; 3= trung lập; 4= đồng ý; 5= hoàn toàn đồng ý) nhằm khám phá thái độ và quan điểm của sinh viên về việc sử dụng voice blog trong học kỳ. Phần 2 gồm 3 câu hỏi mở để khám phá trải nghiệm của người học về lợi ích voice blog mang lại, khó khăn khi sử dụng voice blog và đề xuất của người học để voice blog được hoàn thiện hơn.

Page 34: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

30 Nguyễn Nữ Thùy Uyên

4. Kết quả 4.1. Việc thực hành nói thông qua voice blog có giúp sinh viên cải thiện khả năng nói hay không?

Trong một kỳ học 15 tuần, 60 sinh viên từ hai lớp kỹ năng tiếng đã đăng tổng cộng 184 bài đăng và 154 bài bình luận trên blog chung của lớp. Trung bình, một sinh viên có 3.06 bài đăng và 2.5 bài bình luận trên trang voice blog của lớp. Độ dài của mỗi đoạn đăng từ 55 giây đến 589 giây (giá trị trung bình M = 187, độ lệch chuẩn SD = 68.22). Độ dài của mỗi đoạn bình luận từ 25 giây đến 296 giây (M = 108, SD = 50). Bảng 1 thể hiện tổng hợp về độ dài của những bài đăng và bài bình luận.

Bảng 1. Số lượng bài đăng và bài bình luận trên trang voice blog chung của lớp

Độ dài Bài đăng

Phần trăm

Bài bình luận

Phần trăm

< 1 phút 1-2 phút 2-3 phút 3-4 phút 4-5 phút 5-6 phút 6-7 phút 7-8 phút 8-9 phút >9 phút

2 12 83 63 11 8 4 0 0 1

1 7

45 34 6 4 2 0 0 1

14 86 38 13 0 0 0 0 0 0

9 57 25 9 0 0 0 0 0 0

Phép tính cặp đôi t-test (paired-sample t-test) được sử dụng để xác định có sự khác nhau về giá trị trung bình của bài đăng đầu và bài đăng cuối hay không. Kết quả cho thấy giá trị Sig hay p =.039 < 0.05 (giá trị mặc định trong phép tính). Điều đó thể hiện có sự khác biệt có ý nghĩa về giá trị trung bình hay nói cách khác có sự chênh lệch về độ dài giữa các bài đăng đầu (M =173.20 giây, SD =57.06) và bài đăng cuối (M =147.47 giây, SD =97.12), t(59) = 2.16, p =0.39.

Phép tính phân tích phương sai đa chiều (MANOVA) được sử dụng để so sánh liệu có sự khác nhau về giá trị trung bình giữa năm tiêu chí nhỏ để chấm điểm cho voice blog (độ lưu loát, sự đa dạng về từ vựng, sự chính xác về ngữ pháp, khả năng tổ chức và sắp xếp ý tưởng và phát âm) lên các biến phụ thuộc khác nhau. Kết quả cho thấy giá trị Wilk là .969 và giá trị F (10, 346) = 0.54, p = .85. Vì giá trị p lớn hơn giá trị được đặt ra trong phép tính là .05, điều này thể hiện không có sự khác biệt về giá trị trung bình của 5 tiêu chí chấm điểm. Hay nói cách khác, điểm số giữa bài đăng đầu, bài đăng giữa và bài đăng cuối, và nói chung là khả năng nói của sinh viên thể hiện qua bài đăng đầu tiên không khác biệt nhiều so với khả năng nói của sinh viên ở bài đăng cuối. 4.2. Sinh viên có nhận thức và thái độ như thế nào về việc sử dụng voice blog để phát triển kỹ năng nói? 4.2.1. 15 câu hỏi theo thang điểm Likert

Phiếu điều tra gồm 15 câu hỏi được thiết kế theo thang điểm Likert được phân tích. 66.7% sinh viên cho rằng sử dụng voice blog giúp họ phát triển kỹ năng nói nói chung, đặc biệt là sự lưu loát. Trên 60% sinh viên cảm thấy hứng

thú khi thực hiện các hoạt động sử dụng voice blog, nhất là nhận bình luận từ các bạn. Trên 63% sinh viên có trải nghiệm tích cực khi sử dụng voice blog,đặc biệt nâng cao khả năng tự diễn đạt.

Bảng 2. Thái độ và nhận thức của sinh viên về hiệu quả của việc sử dụng voice blog (N =60)

4.2.2. Câu hỏi mở

Bảng 3. Phản hồi của sinh viên đối với câu hỏi mở (N = 60)

Phản hồi Số lần phản hồi

o Lợi ích khi sử dụng voice blog + Học được cách nói, cách tổ chức ý tưởng và cách kết hợp từ qua các nguồn tư liệu trên mạng và các bài đăng của các bạn + Tích luỹ nhiều kiến thức và từ vựng liên quan đến chủ đề thông qua việc đọc + Tạo môi trường học cộng đồng + Lưu giữ và nghe lại được bài thu âm, từ đó nhận ra được ngữ điệu, lỗi phát âm để cải thiện + Cảm thấy tự hào khi đăng bài và vui khi nhận bình luận

o Khó khăn khi sử dụng voice blog + Tốn nhiều thời gian cho việc đọc lấy ý tưởng và sắp xếp ý tưởng + Tốn nhiều thời gian để thu âm lại + Tìm chỗ phù hợp để thu âm + Chất lượng đường truyền không tốt, ảnh hưởng đến việc thu âm và tải bài đăng lên blog + Không thành thạo khi sử dụng công nghệ nên gặp khó khăn với việc đăng bài và bình luận

o Đề xuất + Giáo viên tương tác nhiều hơn, sửa lỗi hoặc cung cấp phản hồi cho mỗi bài đăng + Xây dựng hoạt động tranh luận trực tuyến giữa các thành viên + Giáo viên nên đăng nhiều chủ đề hơn ngoài nội dung trong giáo trình + Hiện thông báo về những bài đăng mới và bình luận mới trên trang blog + Cần có thêm công cụ ghi âm nhúng trực tiếp (embedded) trên trang + Cần có sự tương tác với người bản ngữ

35

31

27 20

19

25

23 21 19 7

27

25

23

18 3 1

Bảng câu hỏi mở cho thấy rằng một trong những lợi ích lớn nhất mà voice blog đã mang lại là việc đọc các tài liệu trên mạng và nghe bài đăng của các bạn giúp sinh viên học được cách trình bày ý tưởng theo một cấu trúc hợp lý và học được cách kết hợp từ trong tiếng anh (58,33%). Tuy nhiên, 41,67% số sinh viên cho rằng việc tìm và đọc những bài báo liên quan đến chủ đề, lựa chọn thông tin, sắp xếp

Page 35: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 31

và tổ chức ý tưởng tốn khá nhiều thời gian. Và 45% sinh viên mong muốn nhận được sự tương tác với giáo viên nhiều hơn thông qua việc sửa lỗi và bình luận từng bài đăng của sinh viên.

5. Bàn luận 5.1. Hiệu quả và lợi ích của voice blog

Kết quả khảo sát cho thấy không có sự khác nhau lớn giữa ba bài đăng ở ba khoảng thời gian đầu, giữa và cuối về độ lưu loát, sự đa dạng về từ vựng, sự chính xác về ngữ pháp, khả năng tổ chức và sắp xếp ý tưởng và phát âm. Hay nói cách khác, không có sự tiến bộ đáng kể về khả năng nói của sinh viên sau một kỳ học sử dụng voice blog. Kết quả này trùng với kết quả nghiên cứu của Sun (2009). Điều này có thể bắt nguồn từ việc môi trường học trên blog khá tự do và thoải mái, khác với lớp môi trường học để phát triển kỹ năng nói ở lớp học tuyền thống, nơi mà giáo viên thường có yêu cầu cao hơn về mặt phát âm và độ chính xác về ngữ pháp. Sinh viên có xu hướng mạo hiểm hơn trong việc tìm kiếm các cách diễn đạt ý tưởng nên sinh viên sẽ đầu tư hơn về nội dung và cách diễn đạt và ít sự tập trung về độ chính xác về mặt hình thức, do vậy có thể giải thích cho sự ít tiến bộ trong các bài đăng của sinh viên.

Thời gian cũng là yếu tố cần xem xét trong nghiên cứu này. Việc thực hành kỹ năng nói trên blog trong thời gian một học kỳ (15 tuần) có thể không đủ để dẫn đến sự tiến bộ đáng kể về kỹ năng nói. Một vấn đề khác liên quan đến thời gian cần phải xem xét nữa là nhiều sinh viên vội vã đăng bài vào gần cuối kỳ thay vì đăng bài đều và xuyên suốt trong quá trình. Kết quả của việc đăng bài vội vã như vậy sẽ dẫn đến sự giảm sút cả về chất lượng và số lượng của các bài đăng.

Một lý do khác dẫn đến sự thiếu tiến bộ trong việc phát triển kỹ năng nói khi sử dụng voice blog là hiệu ứng Hawthorne như đã được quan sát trong ngữ cảnh giáo dục (Sun, 2009). Sự hứng thú và nhiệt tình của người tham gia nghiên cứu khi sử dụng voice blog giảm dần khi sự mới mẻ dần mất đi. Do vậy, càng gần về cuối học kỳ, sinh viên càng không còn nhiều động lực và thích thí khi thu âm, đăng bài hay bình luận bài của các bạn trên blog. Ngoài ra, kỹ năng nói chỉ là một kỹ năng được đánh giá trong cả khóa học trong khi đó sinh viên cần phải hoàn thành phần bài tập để đánh giá của các kỹ năng khác như viết portfolio cũng như hoàn thành bài tập cho các khoá học khác. Nhiều sinh viên vội vã đăng đủ số bài theo quy định trước khi hết hạn thay vì sử dụng blog với sự cố gắng và nỗ lực nhất quán để cải thiện kỹ năng nói.

Thêm vào đó, nhiều sinh viên chỉ ra rằng họ không thể duy trì sự đều đặn của các bài đăng vì những hoạt động liên quan đến việc chuẩn bị bài nói trước khi đăng chiếm khá nhiều thời gian hơn là việc đăng bài. Một số sinh viên chỉ ra rằng họ dành khá nhiều thời gian để đọc tài liệu về chủ đề, sắp xếp ý tưởng, kiểm tra từ vựng và ngữ pháp, hoặc thậm chí là thực hành việc nói nhiều lần trước khi đăng bài. Do vậy, thời gian thực sự dành cho việc phát triển kỹ năng nói bị hạn chế và dẫn đến việc dùng voice blog không có tác dụng nhiều trong việc cải thiện khả năng nói của sinh viên. Ngoài ra, việc thiếu sửa lỗi (corrective feedback) và phản hồi từ giáo viên đối với các bài đăng của sinh viên

cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ít tiến bộ về kỹ năng nói vì nhiều sinh viên không nhận biết được lỗi về phát âm, cách kết hợp từ hoặc về cách diễn đạt ý tưởng.

Kết quả của việc điều tra nhận thức và thái độ của sinh viên đối với hiệu quả của việc sử dụng voice blog để phát triển kỹ năng nói cho thấy rằng phần lớn sinh viên có thái độ tích cực đối với trải nghiệm học có sử dụng voice blog như là một phần hỗ trợ của khoá học và nhận thấy voice blog giúp họ cải thiện kỹ năng nói nói chung. Thực hành trên voice blog giúp giảm áp lực, loại bỏ sự lo lắng khi nói trước đám đông và nâng cao sự thoải mái và tự tin khi nói tiếng Anh. Điều này khuyến khích sinh viên thực hành nói nhiều hơn và hứng thú thể hiện ý tưởng nhiều hơn so với môi trường học kỹ năng nói trong lớp học truyền thống, sinh viên thường ngại nói và không dám trình bày quan điểm và ý kiến.

Sinh viên cũng nhận thấy sự tiến bộ về khả năng tổ chức và sắp xếp ý tưởng. Điều này có thể được giải thích dựa trên phương pháp học kiến tạo mà người nghiên cứu hướng đến. Để chuẩn bị cho đoạn đăng trên voice blog, sinh viên cần đọc và nghiên cứu các tài liệu trên mạng liên quan đến chủ đề giáo viên đưa ra, sau đó tổng hợp và sắp xếp các ý tưởng. Sinh viên trở thành nhân tố chủ động trong quá trình học hơn là tiếp nhận kiến thức một cách bị động. Sinh viên cho rằng họ có thể truy cập vào để nghe lại bài đăng của mình trên voice blog, tự phân tích những lỗi phát âm, diễn đạt và tránh những lỗi trước đây. Ngoài ra, sinh viên còn có thể nghe bài đăng của giáo viên và những sinh viên khác về cùng chủ đề và được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Voice blog được xem như là một hồ sơ điện tử (electronic portfolio) giúp giáo viên quan sát sự quá trình học của sinh viên và giúp sinh viên kiểm soát được quá trình học và dễ dàng tiếp cận tài liệu khi cần và điều này hỗ trợ cho việc tự học của sinh viên.

Kết quả từ phiếu điều tra cũng cho thấy phần đông sinh viên hứng thú với việc sử dụng voice blog và cho rằng voice blog giúp tạo ra môi trường học cộng đồng. Sinh viên cho rằng họ cảm thấy vui khi đăng bài và nhận bình luận về bài đăng của mình trên trang blog. Họ cảm thấy có động lực và học hỏi nhiều từ bài đăng của các bạn khác. Việc đăng bài và bình luận trên trang blog tạo ra một môi trường học hợp tác (Hsu và cộng sự, 2008), những sinh viên có khả năng tốt hơn có thể làm mẫu cho những sinh viên yếu hơn. Ngược lại, những sinh viên yếu hơn cần phải cố gắng hơn nữa, học hỏi để có thể đạt đến trình độ của những bạn tốt hơn. Trong nghiên cứu này, một số sinh viên bình luận rằng, họ thường tìm một người bạn tốt hơn để có thể làm mẫu cho mình. Mục tiêu của sinh viên là những bạn cùng lớp mà họ muốn học hỏi. Việc tương tác giữa các thành viên trong lớp cung cấp hình mẫu cho sinh viên, và môi trường học tương tác giúp thúc đẩy việc học và tăng động lực để sinh viên cải thiện khả năng của mình. Việc các bài đăng và bình luận trên blog được tập hợp dưới một chủ đề giúp sinh viên hiểu nhiều hơn và nghe được nhiều quan điểm về cùng một chủ đề và có cảm hứng từ các bài đăng của các bạn. Quá trình sinh viên chọn chủ đề, bài đăng để nghe và bình luận giúp phát triển tư duy phê phán. 5.2. Thách thức và đề xuất

Ngoài những phản hồi tích cực, sinh viên cũng đưa ra

Page 36: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

32 Nguyễn Nữ Thùy Uyên

một số đề xuất để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng voice blog. Quan tâm lớn nhất của sinh viên là giáo viên cần tương tác nhiều hơn thông qua việc sửa lỗi và cung cấp phản hồi cho các bài đăng của sinh viên. Mục tiêu ban đầu khi thiết kế nghiên cứu sử dụng voice blog này là cung cấp cơ hội cho sinh viên tương tác với nhau, thực hành kỹ năng nói và nâng cao sự tự tin cho sinh viên. Nghiên cứu này khuyến khích sinh viên học từ bình luận của các bạn trong lớp hơn là chỉ dựa vào giáo viên. Sinh viên có thể nhận biết được lỗi và khả năng của mình khi so sánh bài đăng của mình và các bạn khác và khi nghe bình luận của các bạn. Cơ chế tự sửa lỗi này sẽ giúp sinh viên nhớ lâu hơn và nâng cao sự hiểu biết. Để cân bằng nhu cầu cần có phản hồi của giáo viên và việc nâng cao sự tự học của sinh viên, giáo viên có thể phản hồi và đưa ra những lỗi cơ bản cho một số bài đăng đầu. Khi sinh viên đã hình thành sự kiểm soát nhiều hơn, giáo viên sẽ chỉ đăng lên những chủ đề và định hướng cho sinh viên. Thêm vào đó, lớp học với số lượng sinh viên ít hơn sẽ giúp cho giáo viên dễ dàng đăng phản hồi hơn, như Hsu và cộng sự (2008) đã đề nghị.

Một số sinh viên đề xuất nên xây dựng các hoạt động tranh luận trực tuyến trên mạng để nâng cao sự tương tác giữa các thành viên trong lớp và cần có sự tương tác với người bản ngữ. Điều này có thể được thực hiện khi sinh viên đã quen với việc sử dụng công nghệ để thực hành và phát triển kỹ năng nói và khi sinh viên đủ tự tin vào khả năng nói của mình. Giáo viên có thể lập ra những diễn đàn trên mạng, như sử dụng công cụ Voxopop để nâng cao sự tương tác với một cộng đồng lớn hơn và có thể có sự tham gia của người bản ngữ.

6. Kết luận Việc cung cấp cho sinh những cơ hội thực hành kỹ năng

nói trên voice blog ngoài lớp học và giáo viên cần có những biện pháp để giúp duy trì động lực và tăng sự hứng thú của sinh viên đối với việc sử dụng voice blog trong suốt một học kỳ.

Về giao diện, giáo viên có thể thiết kế trang voice blog có biểu tượng like hoặc các biểu tượng cảm xúc như trên trang facebook. Việc này sẽ tăng tính sống động trên trang

voice blog. Ngoài ra, để tạo độ cạnh tranh, giáo viên có thể thiết kế thêm chức năng bình chọn bài đăng nào phổ biến nhất hoặc được xem nhiều nhất. Giáo viên cần khai thác triệt để các nguồn tài nguyên đa phương tiện trên Internet như kết hợp một cách nhuần nhuyễn và hiệu quả giữa việc sử dụng video, audio, hình ảnh và nguồn tài liệu văn bản. Một điểm khác cần lưu ý là thêm chức năng RSS (Really Simple Indication) – chia sẻ nội dung qua website đơn giản hoặc chức năng hiện thông báo và thông báo qua email mỗi khi có bài đăng hoặc bình luận mới để giúp sinh viên cập nhật nội dung trên trang voice blog và nhận được phản hồi ngay tức thì. Cuối cùng, giáo viên có thể mời nhiều khách tham gia vào trang blog, trong đó có những người bản xứ, hướng đến đối tượng khán giả lớn hơn và đa dạng hơn.

Thêm vào đó, khi quyết định tích hợp voice blog vào khoá học, giáo viên nên xem xét những khía cạnh liên quan đến voice blog như điểm thành phần của các hoạt động trên blog so với toàn khoá học hay voice blog được dùng như là thành phần trọng tâm hay chỉ là phần thêm vào của khoá học. Những nghiên cứu theo thời gian (longitudinal study) trong tương lai với thời gian dài hơn có thể sẽ khảo sát được những ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn của việc sử dụng voice blog ngoài lớp học để phát triển kỹ năng nói.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Campbell, A. P. (2003). Weblogs for use with ESL classes. The

Internet ESL Journal, 4(2). Retrieved August 18, 2016 from http://iteslj.org/Techniques/Campell-Weblogs.html.

[2] Hsu, W., Wang, S., & Comac, L. (2008). Using audioblogs to assist Enligsh-language learning: An investigation into student perception. Computer Assisted Language Learning, 21(2), 181-198.

[3] Huang, H. C. (2015). From web-based readers to voice bloggers: EFL learner’s perspectives. Computer Assisted Language Learning, 28(2), 145-170. doi: 10.1080/09588221.2013.803983.

[4] Huann, T. Y. & Thong, M. K. (2006). Audioblogging and podcasting in education. In IT Literature Review, 1-14 (pp.1-14). Singapore: Educational Technology Division, Ministry of Education.

[5] Sun (2009). Sun, Y. C. (2009). Voice blog: An exploratory study of language learning. Language Learning & Technology, 13(2), 88-103.

(BBT nhận bài: 03/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 13/01/2017)

Page 37: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 33

GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO LAO ĐỘNG DU LỊCH PHÚ QUỐC GIAI ĐOẠN 2016 – 2020

MEASURES FOR TRANING TOURISM LABOR FORCE IN PHU QUOC 2016-2020

Nguyễn Vương Trường Đại học Kiên Giang; [email protected]

Tóm tắt - Nguồn lao động du lịch là một yếu tố quan trọng, có tácđộng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanhnghiệp, cũng như sự phát triển bền vững của ngành du lịch. Thựctế hiện nay, lực lượng lao động du lịch Phú Quốc có trình độ taynghề còn yếu, tính chuyên nghiệp chưa cao, phần lớn là lao độngphổ thông chưa qua đào tạo,...từ đó làm cho chất lượng dịch vụthấp, sự hài lòng của du khách không cao. Một khảo sát đã đượcthực hiện với 158 lao động nghành du lịch, 75 lãnh đạo doanhnghiệp du lịch để đánh giá thực trạng lao động du lịch Phú Quốchiện nay, nhằm đưa ra các giải pháp đào tạo lao động du lịch tạiPhú Quốc. Kết quả khảo sát đã cho thấy, hiện nay nhu cầu laođộng du lịch là rất lớn, tuy nhiên chất lượng lao động chưa đảmbảo đáp ứng yêu cầu thực tế công việc. Nghiên cứu đã gợi ý mộtsố giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo lao động du lịch để pháttriển bền vững du lịch Phú Quốc.

Abstract - Tourism labor force is an important factor with a direct impact on the business performance of a tourism enterprise as well as on the sustainable development of tourism industry. Indeed, at present, tourism workforce of Phu Quoc is unskilled and unprofessional because most of the tourism workers have not had any training. This makes the quality of service low, the satisfaction of tourists not high. A survey was carried out through surveying 158 tourism workers, 75 tourism business leaders in Phu Quoc in order to analyze the current state of tourism labor here. The results of the study show that tourism labor needs are great; however, the quality of tourism labor of Phu Quoc currently is not enough to meet the real requirements of the job. The study has suggested measures to improve the quality of tourism employment training for tourism in Phu Quoc island to develop sustainably.

Từ khóa - lao động; du lịch; lao động du lịch; đào tạo du lịch; PhúQuốc.

Key words - labor; tourism; tourism labor; tourism training; Phu Quoc island.

1. Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, Phú Quốc nổi lên như một điểm đến hấp dẫn hàng đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long về du lịch và lòng hiếu khách, đón tiếp 873.619 lượt khách năm 2015, trong đó có 151.719 lượt khách quốc tế; bình quân mỗi năm tăng 29,51% giai đoạn 2010-2015; đóng góp hơn 38,93% cho GDP của huyện,... Những con số ấn tượng này đã khẳng định nhu cầu lớn về nguồn lao động trong lĩnh vực du lịch ở Phú Quốc hiện nay.

Theo số liệu thống kê 2015 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Kiên Giang, Phú Quốc hiện có hơn 150 khu resort, khách sạn, nhà nghỉ với trên 4.500 phòng lưu trú; trong khi đó tổng số lao động trong ngành du lịch của huyện chỉ hơn 2.000 người, thấp hơn nhiều so với chuẩn chung (từ 1,3 - 1,8 lao động/phòng). Sau khi hoàn thành tuyến cáp điện ngầm đưa điện lưới quốc gia ra Phú Quốc tháng 02/2014 và đưa vào sử dụng cảng hàng không quốc tế Phú Quốc tháng 12/2012, vấn đề nguồn lao động phục vụ du lịch càng “nóng” hơn. Trong bối cảnh nguồn lao động du lịch Phú Quốc hiện nay đã có sự cải thiện nhưng vẫn được đánh giá là trẻ, thiếu và yếu; tính chuyên nghiệp chưa cao, thiếu tính đồng bộ. Nhiều người, nhiều công việc thiếu những tiền lệ và sự trải nghiệm, đang trong quá trình tìm tòi, tiếp cận để học hỏi, bổ sung, hoàn thiện mình. Nhu cầu xã hội tăng nhanh, qui mô đào tạo mở rộng dẫn đến tình trạng cạnh tranh đôi khi thiếu lành mạnh làm giảm chất lượng đào tạo chung của toàn ngành (Dương Văn Sáu, 2015). Nguồn lao động chính là yếu tố quyết định thành quả của bất kỳ một ngành kinh tế nào, đồng thời nguồn lao động chất lượng cao trong du lịch sẽ là động lực tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc để đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của du khách; khai thác hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch, từ đó góp phần đưa ngành du lịch vươn tới sự phát triển bền vững.

Xuất phát từ những thực tiễn trên và nhằm nâng cao chất lượng phục vụ góp phần quan trọng vào việc thắng lợi nhiệm vụ phát triển du lịch Phú Quốc nên việc thực hiện nghiên cứu: “Giải pháp đào tạo lao động du lịch Phú Quốc giai đoạn 2016-2020” vô cùng quan trọng và cần thiết. Kết quả của nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học giúp lãnh đạo địa phương đề ra chính sách định hướng và giải pháp đào tạo, cung ứng lao động đáp ứng cơ cấu lao động huyện Phú Quốc giai đoạn 2016-2020 để phát triển ngành du lịch tỉnh nhà ngày càng bền vững.

2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng lao động du

lịch Phú Quốc, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp đào tạolao động đáp ứng nhu cầu lao động ngành du lịch của Phú Quốc giai đoạn 2016 – 2020.

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã xây dựng bảng câu hỏi được thiết kế riêng cho từng đối tượng để thu thập số liệu sơ cấp theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện ở các doanh nghiệp du lịch tại Phú Quốc trong khoảng thời gian từ tháng 09/2015 đến 12/2015. Cụ thể, tác giả tiến hành khảo sát 158 nhân viên du lịch và 75 nhà quản lý doanh nghiệp du lịch để thực hiện trong nghiên cứu.

Phương pháp phân tích thống kê: Nghiên cứu nàythu thập và sử dụng dữ liệu thứ cấp có sẵn từ Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Kiên Giang, cục Thống kê tỉnh Kiên Giang, Viện nghiên cứu và phát triển du lịch, Tổng cục du lịch để đánh giá thực trạng của nguồn lao động du lịch ở Phú Quốc

Phương pháp chuyên gia: gặp gỡ phỏng vấn và trao đổi thông tin trực tiếp với những chuyên gia, những nhà quản lý và sử dụng lao động trong ngành du lịch ở Phú Quốc,… để xin ý kiến đánh giá, kiểm định về tính thực tiễn, khả dụng của bản câu hỏi để dùng để khảo sát.

Page 38: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

34 Nguyễn Vương

Phương pháp suy diễn quy nạp: Qua các tài liệu, các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực du lịch tại Việt Nam,… tác giả hệ thống lại các nội dung từ thực tiễn cũng như lý luận làm cơ sở cho việc phân tích, suy đoán, diễn giải, xây dựng các giải pháp và lập kế hoạch hành động và bước đi thích hợp

3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Mô tả đặc điểm lao động du lịch Phú Quốc 3.1.1. Giới tính

Theo số liệu điều tra 158 lao động du lịch của tác giả thực hiện vào tháng 12/2015, cho thấy số lượng lao động du lịch tại Phú Quốc có cơ cấu về giới tính như Biểu đồ 1: nữ chiếm tỷ lệ 58,2% trong tổng số lao động, tương đương 92 người), nam chỉ chiếm 41,8% (tương đương 66 người). Nhân viên nữ tập trung chủ yếu ở các bộ phận như buồng, bàn, lễ tân.

Biểu đồ 1. Cơ cấu số lượng lao động du lịch Phú Quốc

năm 2015 phân theo giới tính Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015

3.1.2. Độ tuổi Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh

Kiên Giang (2015), số lượng lao động du lịch Phú Quốc dưới 30 tuổi là 2.453 người, tăng 13,6% so với năm 2013 và gấp 1,9 lần so với năm 2011. Trong cơ cấu lao động du lịch huyện Phú Quốc năm 2015, số lao động có độ tuổi dưới 30 và trong khoảng 30 đến 50 chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm, lần lượt là 40,9% và 31,1% kế đến là nhóm có độ tuổi từ 51 đến 55 chiếm 24,6%, nhóm trên 55 tuổi chiếm 3,4%. Điều này có thể giải thích bởi đặc trưng của ngành du lịch đòi hỏi lao động trẻ trung, năng động, có sức khoẻ nhằm đảm bảo tốt các yêu cầu của công việc.

Bảng 1. Kết cấu lao động du lịch theo độ tuổi

Độ tuổi Số lượng Tỷ lệ (%)

Dưới 30 2.453 40,9

30-50 1.865 31,1

50-55 1.476 24,6

Trên 55 206 3,4

Tổng 6.000 100,0

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang, 2015 3.1.3. Kinh nghiệm làm việc

Thâm niên là một tiêu chí để phản ánh kinh nghiệm trong công tác của người lao động trong lĩnh vực du lịch huyện Phú Quốc. Những lao động có thâm niên càng cao sẽ có những hiểu biết cần thiết để giải quyết công việc tốt trong những tình huống nhất định.

Biểu đồ 2 biểu diễn kết quả thống kê về thâm niên của người lao động du lịch Phú Quốc. Kết quả, người lao động du lịch huyện Phú Quốc phần lớn chưa có nhiều kinh

nghiệm, thâm niên dưới 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất với 78,8%, nhóm những lao động mới thường hăng hái với công việc, tràn đầy nhiệt huyết, họ thường muốn thể hiện năng lực của mình, năng động, sáng tạo, đem lại hiệu quả công việc cao. Tỷ lệ số lượng nhân viên có thâm niên lao động cao giảm dần khi số năm kinh nghiệm tăng dần. Cụ thể, nhóm lao động có thâm niên từ 5 -10 năm chiếm 18,9% và thấp nhất là những nhân viên có thâm niên trên 10 năm, chiếm 2,3%.

Biểu đồ 2. Thâm niên lao động du lịch huyện Phú Quốc

Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015 3.1.4. Trình độ chuyên môn

Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang (2015), trình độ sau đại học chiếm 0,1% và trình độ đại học đạt 4,9%, trình độ cao đẳng 7,7%, trình độ trung cấp đạt 14,3%, trình độ khác đạt 23,8%; tổng số lao động du lịch chưa qua đào tạo chiếm 49,2% (tăng nhanh so với các năm khác). Điều này diễn ra đúng với thực tế là Phú Quốc đang cần rất nhiều lao động để phục vụ cho các khu du lịch, vui chơi giải trí khép kín vừa ra đời trong năm 2015. Bảng 2. Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực phục vụ du lịch

Phú Quốc giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: Người

Danh Mục 2011 2012 2013 2014 2015

Sau đại học 0 1 2 4 5

Đại học 62 74 150 251 295

Cao đẳng 142 192 213 264 462

Trung cấp 198 225 285 397 857

Khác 168 187 225 368 1430

Chưa qua đào tạo 1.608 1.691 2.095 3.043 2.951

Tổng nhân lực 2.178 2.370 2.970 4.327 5

Tỷ lệ % LĐ qua đào tạo 26,17 28,65 29,46 29,67 49,2

Nguồn: Sở Văn hoá Thể thao & Du lịch tỉnh Kiên Giang,2015 Trong giai đoạn năm 2011 - 2015, tỷ lệ lao động đã qua

đào tạo tăng thêm 5,16%. Trong đó, tốc độ tăng của nhóm nhân viên có trình độ Đại học và Cao đẳng khá cao lần lượt là 376% và 225%. Số lượng các lao động chưa qua đào tạo mặc dù còn chiếm số lượng lớn nhưng tốc độ tăng lại có dấu hiệu chậm dần qua các năm. Điều này chứng tỏ, công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên trong ngành đã được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát nhằm nâng dần chất lượng phục vụ của ngành du lịch. 3.1.5. Trình độ ngoại ngữ, tin học.

Với việc gia nhập vào các tổ chức thế giới cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi nhân viên phục vụ cần có những kiến thức cơ bản về ngoại ngữ cũng như tin học, đặc biệt là trong ngành du lịch.

58.20%41.80% Nam

Nữ

78.83%

18.92%2.25% Dưới 5 nămTừ 5-10 nămTrên 10 năm

Page 39: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 35

Theo số liệu điều tra thực tế của nhóm tác giả được thể hiện ở Bảng 3, cho thấy lượng lao động du lịch Phú Quốc có chứng chỉ B ngoại ngữ chiếm tỷ lệ cao nhất đạt là 49,55%, và 68,32% tổng số nhân viên có chứng chỉ A tin học. Các chứng chỉ A, B quốc gia chiếm tỷ trọng rất cao (93,69% đối với trình độ ngoại ngữ; 95,05% đối với trình độ tin học), các loại chứng chỉ cao hơn chỉ chiếm một phần nhỏ, dao động trong khoảng từ 0,99% đến 3,60%. Bên cạnh đó, vẫn còn có một bộ phận lao động du lịch vẫn chưa có các chứng chỉ về ngoại ngữ và tin học, với tỷ lệ lần lượt là 1,80% và 2,97%.

Với trình độ chỉ hiểu biết cơ bản về ngoại ngữ và tin học như hiện nay, lao động du lịch Phú Quốc chỉ có thể giao tiếp trong phạm vi chuyên môn của mình. Khi được hỏi về những vấn đề khác, họ không thể giải quyết được vấn đề, không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Mặt khác, số lượng khách du lịch quốc tế đến đây mỗi năm rất lớn và có xu hướng ngày càng tăng (chủ yếu là khách đến từ Nga và Đức) nhưng số lượng lao động biết những ngoại ngữ khác (ngoài tiếng Anh) rất ít.

Bảng 3. Trình độ ngoại ngữ, tin học của lao động du lịch Phú Quốc

Tiêu chí Ngoại Ngữ

Tiêu chí Tin học

Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ

(%)

Chứng chỉ A 70 44,14 Chứng chỉ A 108 68,32

Chứng chỉ B 78 49,55 Chứng chỉ B 42 26,73

Chứng chỉ C 6 3,60 Trình độ trung cấp 2 0,99

Chứng chỉ Quốc tế 3 1,80 Trình độ

CĐ/ĐH 5 2,97

Chưa qua đào tạo 1 0,90 Chưa qua đào tạo 2 0,99

Nguồn: Khảo sát của nhóm tác giả tháng 12/2015 3.2. Đánh giá chất lượng đào tạo lao động du lịch địa phương 3.2.1. Chất lượng nhân viên khối lưu trú

Biểu đồ 3.Mức độ hài lòng về chất lượng phát triển kỹ năng tại

các cơ sở đào tạo du lịch địa phương Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015

Các cơ sở lưu trú là nơi tạo việc làm cho sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình đào tạo về du lịch và khách sạn từ các cơ sở đào tạo về du lịch ở địa phương. Cuộc đánh giá nhu cầu đào tạo lao động du lịch ở Phú Quốc đã đánh giá nhận thức của doanh nghiệp du lịch về những kỹ năng mà sinh viên tốt nghiệp thể hiện ở nơi làm việc như

là kết quả của quá trình đào tạo. Các sinh viên tốt nghiệp ngành du lịch được đánh giá một cách tích cực về các lĩnh vực dịch vụ khách hàng, kỹ năng giao tiếp và khả năng ngoại ngữ nhưng bị đánh giá ở mức thấp hơn nhiều trong mảng kỹ thuật, lãnh đạo và quản lý, lập kế hoạch về môi trường.

Nghiên cứu này tìm kiếm thông tin từ khối cơ sở lưu trú về những lỗ hổng kĩ năng quan trọng cần có và các nhu cầu đào tạo tương ứng đối với khối cơ sở lưu trú tại Phú Quốc. Các ưu tiên được đặt ra trong toàn khối từ các cơ sở chưa được phân loại đến các cơ sở 2-5 sao đều liên quan đến những gì được gọi là "kỹ năng mềm", những năng lực không liên quan đến các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm khách sạn nhưng tập trung vào giao tiếp bao gồm ngôn ngữ, dịch vụ liên quan đến khách hàng và bán hàng/năng lực tiếp thị. Đây là một phát hiện quan trọng của nghiên cứu này và có ý nghĩa quan trọng đối với các chương trình đại học và đào tạo nghề hiện có và đối với sự quan tâm dành cho các tiêu chuẩn nghề như VTOS. Cũng có bằng chứng về nhu cầu kĩ năng dành cho các khu vực hỗ trợ kĩ thuật quan trọng như vệ sinh thực phẩm, quản lý chất lượng, y tế và an toàn. Đây là những mảng kĩ năng quan trọng, có tính trụ cột và việc các kĩ năng của nhân viên được đánh giá cao có ảnh hưởng lớn đối với các chương trình đào tạo của Giáo dục và đào tạo Nghề Du lịch tại các cơ sở đào tạo lao động du lịch địa phương. Ngược lại, những mảng kỹ năng liên quan đến sản phẩm quan trọng như món ăn Việt Nam và món Âu không nằm trong những mảng kĩ năng ưu tiên, mặc dù trải nghiệm về ẩm thực tinh tế rất quan trọng đối với khách du lịch ngày nay.

Biểu đồ 4. Đánh giá về các kĩ năng chủ chốt trong khối cơ sở lưu trú

Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015 Nghiên cứu này đã khảo sát nhận thức của những người

được hỏi liên quan đến các nhu cầu kỹ năng trong tương lai dành cho lao động khối cơ sở lưu trú. Các câu trả lời đều nhấn mạnh rõ ràng 2 yếu tố – kĩ năng giao tiếp và ngoại ngữ. Ưu tiên này cho thấy đây là những lĩnh vực mà những người được hỏi tin rằng bản thân các doanh nghiệp không có khả năng để phát triển các kỹ năng cần thiết, trong khi các lĩnh vực khác có thể được đào tạo trong nội bộ, chỉ cần người lao động đã có kĩ năng giao tiếp và ngoại ngữ phù hợp. Phát hiện này có ý nghĩa lớn đối với các chương trình đào tạo nghề và đào tạo đại học cũng như đối với trọng tâm của các kĩ năng đào tạo chính dành cho khối cơ sở lưu trú. 3.2.2. Khối công ty lữ hành và điều hành tour

Biểu đồ 5, đánh giá mức độ hài lòng của doanh nghiệp

82%75%

62%60%

58%52%

41%40%

38%36%

28%

0% 20% 40% 60% 80% 100%

Kỹ năng dịch vụ khách hàngKỹ năng giao tiếp

Kỹ năng ngôn ngữKỹ năng bán hàng

Kỹ năng IT/WebKỹ năng làm việc nhóm

Kỹ năng lãnh đạoKỹ năng vận hành/kỹ thuật

Kỹ năng quản lýKỹ năng quản lý môi trường

Kỹ năng lập kế hoạch3.82

3.783.72

3.683.63

3.523.43

3.43.39

3.28

3 3.5 4

Tiếng AnhGiao tiếp

Dịch vụ khách hàngTiếp thị và Quảng bá

Bán hàngQuản lý Chất lượngVệ sinh thực phẩm

Lãnh đạo/Quản lý nhân sựY tế và An toàn

Thương mại điện tử

Page 40: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

36 Nguyễn Vương

về các kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp trong lĩnh vực lữ hành cho thấy mức độ hài lòng cao nhất với các kỹ năng của họ trong các mảng năng lực mềm như giao tiếp, ngôn ngữ và dịch vụ khách hàng. Xếp hạng thấp nhất dành cho quản lý môi trường và các kỹ năng về hoạt động/kỹ thuật trong khối công ty lữ hành/điều hành tour du lịch.

Biểu đồ 5.Mức độ hài lòng của doanh nghiệp về các kỹ năng

của sinh viên lữ hành Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015

Biểu đồ 6, khảo sát về các nhu cầu kỹ năng trong tương lai của khối các công ty lữ hành/ điều hành tour xác định bốn mảng kĩ năng riêng biệt, mặc dù mức độ của mỗi mảng là không giống nhau.

Biểu đồ 6. Nhu cầu kỹ năng trong tương lai của lao động du lịch Nguồn: Số liệu tự khảo sát, 2015

Mảng các kỹ năng chi phối tương lai của khối này, là giao tiếp, ngoại ngữ, một loạt các khả năng kỹ năng mềm, dịch vụ khách hàng và cá tính. Tầm quan trọng thứ hai thuộc về một loạt các năng lực cá nhân bao gồm làm việc độc lập, kỹ năng về cuộc sống và xã hội, giải quyết vấn đề và làm việc nhóm. Thứ ba là kĩ năng liên quan đến công nghệ, bao gồm cả thương mại điện tử, bán hàng trực tuyến và xử lý các phương tiện truyền thông mạng xã hội. Cuối cùng, ít quan trọng nhất là các kỹ năng hoặc năng lực kỹ thuật trong các lĩnh vực như thiết kế tour du lịch, các chuyến đi thực tế và các lĩnh vực thể thao quan trọng.

4. Giải pháp đào tạo nguồn lao động du lịch Phú Quốc giai đoạn 2016-2020

Đào tạo và phát triển là các hoạt động trực tiếp nâng cao chất lượng phục vụ du lịch của nhân viên trong địa bàn huyện, là điều kiện để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng

cao của các du khách. Do đó, công tác này cần được thực hiện một cách có tổ chức và kế hoạch: 4.1. Chuẩn hoá nội dung, chương trình đào tạo

- Nội dung, giáo trình đào tạo được xây dựng cho các nhóm chuyên ngành, nghề du lịch theo tiêu chuẩn quốc gia.

- Gắn đào tạo lý thuyết với thực hành; bảo đảm thời lượng thực hành; tổ chức thực hành tại nhiều loại hình cơ sở để bảo đảm chất lượng thực hành sát với thực tế, yêu cầu công việc.

- Chương trình đào tạo hướng đến việc áp dụng tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam và học viên được Hội đồng Cấp chứng chỉ nghề du lịch Việt Nam (VTCB) thẩm định, cấp chứng chỉ Nghiệp vụ du lịch Việt Nam.

- Sử dụng thang chuẩn Tiếng Anh TOEIC để đánh giá, chuẩn hoá trình độ ngoại ngữ Anh Văn trong đào tạo Tiếng Anh chuyên ngành du lịch.

- Sử dụng triệt để các kỹ thuật đa dạng (công cụ trực quan, video clip, phần mềm chuyên ngành,…) trong quá tŕnh giảng dạy giúp người học tiếp cận với thực tế ngay trong quá trình học lý thuyết, khắc phục tình trạng đơn vị sử dụng phải đào tạo lại mới đáp ứng yêu cầu công việc. 4.2. Đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn lao động du lịch

- Đối với nhân viên khối lữ hành: “kỹ năng vận hành/kỹ thuật” và “Kỹ năng quản lý” là một những kỹ năng mà theo khảo sát của các doanh nghiệp thì nhân viên khối lữ hành phải được đào tạo thêm. Bên cạnh đó, theo khảo sát về nhu cầu kỹ năng trong tương lai của khối lữ hành, cần đào tạo thêm các kỹ năng về:kỹ năng hành chính, kỹ năng viết, đổi mới và sáng tạo, lịch sử văn hóaViệt Nam, ASEAN; coi trọng việc phát triển trình độ ngoại ngữ giao tiếp.

- Đào tạo đội ngũ chuyên môn tiếp thị, nghiên cứu thị trường. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ về tiếp thị và nghiên cứu thị trường cho các doanh nghiệp.

- Đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên về mảng kỹ năng vận hành/kỹ thuật, quản lý, lập kế hoạch về môi trường và kỹ năng làm việc nhóm,…tại các cơ sở khối lưu trú.

- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ hướng dẫn viên về các kỹ năng:

4.3. Thực hiện đa dạng hoá hình thức đào tạo Để bảo đảm đáp ứng đủ nguồn lao động du lịch, bên

cạnh việc đào tạo mới theo chương trình đào tạo chính quy ở các cơ sở đào tạo, cần đẩy mạnh h́nh thức đào tạo đại học, cao đẳng tại chức; bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ngắn hạn, huấn luyện tại chỗ. Hình thức đào tạo, huấn luyện tại chỗ cần được công nhận chính thức, lao động được đào tạo lại, bồi dưỡng, huấn luyện tại chỗ được kiểm tra, cấp giấy chứng nhận đã qua đào tạo.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nguồn lao động du lịch sẵn có tại đơn vị được tiếp tục học tập nâng cao trình độ, năng lực quản lý ở trình độ cao hơn về chuyên ngành quản trị kinh doanh du lịch bằng các hình thức đào tạo từ xa, qua mạng,…

,3.72 ,3.68

,3.64 ,3.58

,3.56 ,3.55

,3.52 ,3.50 ,3.49

,3.47 ,3.45

,3.44 ,3.42

,3.40 ,3.38

,3.30 ,3.28

,3.26 ,3.24

,3.22 ,3.21

,3.20 ,3.19

,2.90 ,3.00 ,3.10 ,3.20 ,3.30 ,3.40 ,3.50 ,3.60 ,3.70 ,3.80Dịch vụ khách hàng

Giao tiếpBán hàng

Kỹ năng tổ chứcGiải quyết vấn đề

Nhận thức về môi trườngThể hiện óc sáng tạo

Lịch sử văn hóa VN/ASEANQuản lý rủi ro

Đổi mới và sáng tạoKỹ năng viết

Kỹ năng hành chính

Page 41: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 37

Mở rộng các hình thức đào tạo tại chức, huấn luyện không chính quy; đa dạng hoá loại hình đào tạo như: doanh nghiệp tự đào tạo, đào tạo tại chỗ, đào tạo tập trung, đào tạo từ xa, đào tạo qua mạng (e-learning). 4.4. Tăng cường liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế về đào tạo lao động du lịch

- Đối tượng liên kết, hợp tác là các Trung tâm du lịch lớn trong nước có các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch, có nguồn giáo viên mạnh, có kinh nghiệm trong công tác quản lý, phát triển lao động du lịch như: thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Hà Nội và các nước, các tổ chức quốc tế mà Tổng cục Du lịch đã ký hiệp định hợp tác du lịch.

- Các hoạt động liên kết, hợp tác đào tạo chủ yếu là thu hút dự án đầu tư về đào tạo; trao đổi kinh nghiệm; đổi mới chương trình, giáo trình giảng dạy, thực hành; hỗ trợ giảng viên chuyên ngành; hỗ trợ chuyên gia quốc tế; hỗ trợ đào tạo, tu nghiệp tại nước ngoài; tư vấn, tài trợ kinh phí, kỹ thuật, kinh nghiệm, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý đào tạo và phát triển lao động du lịch với các hình thức như mời các các tổ chức quốc tế đến Phú Quốc nghiên cứu, khảo sát, tư vấn và tài trợ kinh phí đào tạo và phát triển nguồn lao động du lịch thông qua các dự án quốc tế về du lịch.

- Thông qua hợp tác trong nước và quốc tế để hỗ trợ phát triển đội ngũ chuyên gia, người dạy, tiếp cận nguồn kiến thức, kinh nghiệm của các Trung tâm du lịch lớn trong nước và quốc tế,... 5. Kết luận

Du lịch huyện Phú Quốc trong thời gian qua phát triển khá nhanh, thu hút nhiều lao động các nơi. Lượng lao động du lịch tăng bình quân trên 28,8% trong giai đoạn 2011-2015. Các dự án du lịch có quy mô lớn và cơ sở lưu trú du lịch hạng sao cao đi vào hoạt động đã thúc đẩy hình thành đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, nhân viên nghiệp vụ lành nghề ở huyện. Mặt khác, các dự án du lịch có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút về tỉnh một số lao động người nước ngoài có tay nghề cao, trình độ chuyên nghiệp và kinh nghiệm quản lý kinh doanh du lịch ở tầm quốc tế. Tuy nhiên, lao động trong lĩnh vực kinh doanh du lịch tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh du lịch thiếu, không theo kịp nhu cầu. Chất lượng lao động nghiệp vụ ở

các doanh nghiệp du lịch còn nhiều hạn chế. Lao động chưa được đào tạo chiếm tới 40,04% trong tổng số lao động. Trình độ ngoại ngữ nói chung còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu 72,21% không biết ngoại ngữ trong tổng số lao động. Số lao động chỉ qua bồi dưỡng ngắn ngày và huấn luyện tại chỗ khá cao, chiếm 14,28% trong tổng số lao động. Độ tuổi lao động 19 – 29 là 46,37%, chứng tỏ Phú Quốc có một đội ngũ lực lượng trẻ trong ngành du lịch nhưng kinh nghiệm dưới 3 năm là 56,56% cũng rơi vào lực lượng trẻ này.

Trong thời gian tới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động du lịch cần có sự hành động tích cực của các cơ sở đào tạo du nghề du lịch, doanh nghiệp du lịch và người lao động trong lĩnh vực du lịch. Các cơ sở đào tạo cần đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, gắn với những lợi thế của địa phương, đào tạo gắn liền với nâng cao kỹ năng thực hành cho sinh viên, đáp ứng các theo tiêu chuẩn quốc gia. Cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch cần đẩy mạnh hợp tác nhằm đảm bảo đào tạo gắn với nhu cầu phát triển của ngành, xã hội và thị trường. Người lao động trong lĩnh vực du lịch cần chủ động học hỏi, trau dồi, nâng cao trình độ để đạt được sự chuyên nghiệp và các tiêu chuẩn mang tầm khu vực và quốc tế về kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, trình độ ngoại ngữ,…để được công nhận năng lực, trở thành lao động có kỹ năng bậc cao, đáp ứng yêu cầu công việc và hội nhập quốc tế. Khi có bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia, sự hợp tác hiệu quả giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch và lao động du lịch hội đủ năng lực tiêu chuẩn thì nhân lực du lịch của Phú Quốc hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu cung ứng nguồn lao động du lịch của Phú Quốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cục Thống Kê tỉnh Kiên Giang, Niên giám thống kê, năm 2010. [2] Cục Thống Kê tỉnh Kiên Giang, Niên giám thống kê, năm 2015. [3] Dương Văn Sáu,“Đào tạo nhân lực du lịch ở Việt Nam – những vấn

đề lý luận và thực tiễn”, ĐHKG, 2015,<http://huc.edu.vn/vi/spct/id87/DAO-TAO-NHAN-LUC-DU-LICH-O-VIET-NAM---NHUNG-VAN-DE-LY-LUAN-VA-THUC-TIEN/

[4] Phòng thống kê huyện Phú Quốc, Báo cáo số liệu thống kê, năm 2010.

[5] Phòng thống kê huyện Phú Quốc, Báo cáo số liệu thống kê, năm 2015.

(BBT nhận bài: 25/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 16/02/2017)

Page 42: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

38 Nguyễn Thị Lan Anh

ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ QUYỀN LỰC LÊN CHIẾN LƯỢC TỪ CHỐI LỜI YÊU CẦU TRONG THƯ ĐIỆN TỬ VIẾT BỞI NGƯỜI VIỆT SỬ DỤNG

TIẾNG ANH NHƯ NGOẠI NGỮ Ở MÔI TRƯỜNG LÀM VIỆC EFFECT OF POWER ON REFUSAL STRATEGIES TO A REQUEST IN EMAIL WRITTEN

BY VIETNAMESE EFL LEARNERS AT WORKPLACE

Nguyễn Thị Lan Anh Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng của biến số quyền lựclên chiến lược từ chối lời yêu cầu trong thư điện tử tại chỗ làm bởingười Việt sử dụng tiếng Anh như ngoại ngữ. Thư điện tử từ chốilời yêu cầu được viết bởi 18 người tham gia trong ba tình huốngđược mã hoá và phân tích bằng Chi bình phương. Kết quả chothấy khác biệt có ý nghĩa thống kê trong cách từ chối yêu cầu củađồng nghiệp có quyền lực hoặc cao hơn hoặc ngang bằng hoặcthấp hơn. Xét ba chiến lược được sử dụng thường xuyên nhất,khác biệt quyền lực giữa người từ chối và người yêu cầu cũng tạonên khác biệt trong nội dung chiến lược. Từ chối người có quyềnlực cao hơn thì lý do/cớ thể hiện sự khẩn cấp và cần thiết của cáccam kết trước đó được sử dụng nhiều hơn lý do/cớ gia đình. Giảipháp thay thế được sử dụng với đối tượng này thường là trì hoãnđể thực hiện tại nhà vì cách nhìn nhận rằng không thể từ chối hẳnngười có quyền lực cao hơn.

Abstract - The research investigates effects of power on refusal strategies to a request in email written by Vietnamese EFL learners at workplace. Refusal email to three request scenarios written by 18 participants is coded and analyzed by Chi-square. The findings show that there is statically significant difference in refusal strategies employed to refuse a coworker whose power is higher or equal or lower. In terms of content of the three most frequently-used indirect strategies, it is found that power has an influence on the invented content. When refusing a higher-power requester, requestees often use reason/excuse which refers to the importance of prior commitments. In contrast, family-related reason/excuse is used more frequently in refusing a lower-power requesters or a requester with equal power. Alternatives which suggest doing the request later at home are used in refusing a boss because participants believe that refusing a boss’ request straightaway is impossible.

Từ khóa - ngữ dụng học; thư điện tử; hành ngôn; chiến lược từchối; biến số quyền lực

Key words - pragmatics; e-mail; speech act; refusal strategies; power

1. Đặt vấn đề

Những thập kỉ vừa qua, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ trong nhu cầu giao tiếp liên văn hoá với phương tiện là tiếng Anh cùng với xu hướng toàn cầu hoá. Trong giao tiếp liên văn hoá rất dễ xảy ra sai sót trong ngữ dụng, đặc biệt trong những tình huống đòi hỏi sự tinh tế như từ chối thì ngôn ngữ sử dụng cần được cân nhắc kĩ bởi bản chất đe doạ thể diện đối tượng giao tiếp của hành ngôn (Brown & Levinson, 1978).

Cùng với sự bùng nổ của việc sử dụng Internet, thư điện tử đã nhanh chóng trở thành phương tiện giao tiếp phổ biến, đặc biệt trong môi trường công việc nơi yếu tố nhanh và hiệu quả của giao tiếp được cho là cần thiết thì thư điện tử càng khẳng định được vị trí của nó.

Barron (2003) cho rằng từ chối là một hành ngôn đòi hỏi sự khéo léo vì phản hồi tích cực (chấp thuận hoặc đồng ý) được mong chờ vì vậy người từ chối cần xem xét sao cho lịch sự và tránh ảnh hưởng mối quan hệ đôi bên và khi thực hiện hành động ngôn từ thì người ta thường xem xét khoảng cách xã hội (D), khác biệt quyền lực (P) và mức độ áp đặt (R):

- khoảng cách xã hội: mức độ quen biết giữa hai bên tham thoại

- khác biệt quyền lực: khác biệt về địa vị giữa hai bên tham thoại

- mức độ áp đặt: mức độ tác động tiêu cực của hành ngôn

Đối với hành ngôn từ chối thì sự hành vi giữ thể diện càng được cân nhắc vì hành ngôn chắc chắn sẽ khiến người từ chối cảm thấy bị mất thể diện tích cực (thể diện này mất

đi khi bị từ chối thoả mãn mong muốn). Chính vì vậy cần nâng cao yếu tố lịch sự trong hành ngôn. Có 2 quan điểm về lịch sự, trong đó vai trò của quyền lực thể hiện khác nhau. Từ quan điểm lịch sự chuẩn mực, Idle (1989) và Gu (1990) nhấn mạnh hình ảnh xã hội, tức uy tín và danh dự của một cá nhân trong cộng đồng. Quyền lực được xác định thông qua sự tôn trọng trật tự thứ bậc trong quan hệ xã hội và sự thừa nhận vị thế xã hội của người đối thoại. Từ quan điểm lịch sự chiến lược, Brown và Levison (1978) xây dựng khái niệm thể diện (face) gồm có hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập nhau: thể diện tích cực và thể diện tiêu cực. Mọi hành vi giao tiếp đều tiềm tàng khả năng đe dọa thể diện. Đe dọa càng lớn thì nỗ lực bù đắp càng cao, và phát ngôn sẽ có giá trị lịch sự lớn. Các nhà ngữ dụng học trên dường như khá thống nhất ở luận điểm: nhìn nhận đúng đắn về vai trò của quyền lực đối với việc đảm bảo điều kiện thuận lợi cho thực hiện hành động ngôn từ; đảm bảo lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ trong từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, ta có thể xây dựng những chiến lược giao tiếp phù hợp.

Nghiên cứu quan trọng nhất khảo sát về hành vi từ chối trong ngôn ngữ có lẽ là nghiên cứu bởi được thực hiện bởi Beebe, Takahashi và Uliss-Weltz (1990). Đây là nghiên cứu về chuyển dịch ngữ dụng của người sử dụng tiếng Anh nhưng ngôn ngữ thứ nhất là tiếng Nhật. Phiếu khảo sát diễn ngôn được sử dụng để lấy dữ liệu và bảng phân loại các chiến lược từ chối đã được đề xuất sử dụng để phân tích dữ liệu. Đây là nghiên cứu quan trọng vì rất nhiều nghiên cứu sau này đã sử dụng bảng phân loại để mã hoá và phân tích dữ liệu.

Nelson và cộng sự (2002) đã khảo sát sự giống và khác

Page 43: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 39

giữa lời từ chối bằng tiếng Anh của người Ai Cập và người Mỹ. Thú vị là nghiên cứu đã chỉ ra cả hai nhóm đều sử dụng chiến lược từ chối cũng như tần suất sử dụng là giống nhau.

Wang (2003) đã thực hiện nghiên cứu đối sánh chiến lược từ chối trong tiếng Trung được sử dụng bởi người đến từ các nước nói tiếng Anh và người Trung Quốc. Wang nhận thất là khi từ chối lời yêu cầu, người Trung Quốc sử dụng chiến lược có tính ổn định hơn và các chiến lược này bị ảnh hưởng bởi quy định xã hội và biến số khoảng cách xã hội. Trong khi đó những người đến từ các nước nói tiếng Anh từ chối trong tiếng Trung thì sử dụng đa dạng chiến lược hơn.

Johnson, Roloff và Riffee (2004) và Johnson (2007) khảo sát mối quan hệ giữa nguy cơ đe doạ thể diện và lời từ chối. Trong nghiên cứu đầu tiên, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng khi từ chối một lời yêu cầu, nguy cơ đe doạ ‘thể diện tiêu cực’ của người từ chối thì cao hơn so với người từ chối. Johnson (2007) tìm hiểu mối quan hệ giữa nguy cơ đe doạ nhu cầu thể diện của người yêu cầu và người từ chối cũng như quan niệm về tính hiệu quả cũng như phù hợp của lời từ chối. Kết quả chỉ ra rằng hiệu quả từ chối có sự liên hệ tiêu cực với nguy cơ đe doạ ‘thể diện tiêu cực’ của người từ chối nhưng lại liên hệ tích cực với nguy cơ đe doạ ‘thể diện tích cực’ của người từ chối. Taguchi (2013) kết luận rằng những người tham gia có năng lực ngôn ngữ cao hơn thì sử dụng các hình thức ngôn ngữ phù hợp hơn và cũng có khả năng phản ứng nhanh hơn. Tuy nhiên, cả hai nhóm khác biệt về năng lực ngôn ngữ đều sử dụng chiến lược trực tiếp nhiều hơn người bản xứ. Đặc biệt là nhóm có cấp độ tiếng Anh thấp thể hiện sự hạn chế trong việc sử dụng phương tiện rào cản và các chiến lược gián tiếp.

Nghiên cứu chiến lược từ chối được sử dụng bởi người Việt, Hồ Thị Mỹ Hậu (1999) đã thực hiện so sánh lời từ chối giữa người Việt và người Úc. Nguyễn Thị Minh Phương (2006) cũng thực hiện nghiên cứu tương tự với kết quả đối lập với nghiên cứu trước. Phương (2006) phát hiện ra người Úc sử dụng từ chối trực tiếp nhiều hơn người Việt Nam khi từ chối bằng tiếng Anh.

Như vậy, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về cách thức từ chối được thực hiện nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào khảo sát về ảnh hưởng của biến số quyền lực lên cách thức từ chối của người Việt sử dụng tiếng Anh như ngoại ngữ trong thư điện tử. Do đó, nghiên cứu này thực hiện nhằm đóng góp vào cơ sở lý thuyết của hành ngôn này.

2. Giải quyết vấn đề Đối tượng nghiên cứu là chiến lược từ chối lời yêu cầu

được thực hiện trong thư điện tử của các đối tượng khảo sát. Đối tượng tham gia khảo sát trong nghiên cứu này là 18 người đang đi làm trong môi trường có sử dụng tiếng Anh giao tiếp ở hình thức thư điện tử ở độ tuổi từ 22-30 và không có chênh lệch nhiều về trình độ ngôn ngữ.

Vì nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng biến số quyền lực lên cách thức từ chối lời yêu cầu nên sẽ có ba tình huống được đưa ra dưới dạng ba bức thư điện tử. Trong đó một tình huống người gửi sẽ có quyền lực cao hơn người nhận, một tình huống người gửi sẽ có quyền lực ngang bằng người nhận và một tình huống người gửi sẽ có quyền lực

thấp hơn người nhận. Trong phạm vi của nghiên cứu này, quyền lực sẽ được hiểu là sự khác biệt về địa vị xã hội. Các tình huống sẽ được cụ thể hoá trong ba bức thư điện tử gửi đến địa chỉ thư điện tử người tham gia cung cấp. Các biến số khoảng cách xã hội và mức độ áp đặt sẽ được giữ ở mức trung bình nhằm tránh ảnh hưởng của hai biến giá trị này lên lời từ chối của người tham gia. Các tình huống này cũng giả định không có sự khác biệt lớn về tuổi tác giữa người từ chối và người yêu cầu.

- Tình huống thứ nhất: Cấp trên của bạn yêu cầu bạn ở lại làm thêm giờ để hoàn tất báo cáo.

- Tình huống thứ hai: Đồng nghiệp của bạn yêu cầu bạn làm số liệu gấp và việc này có thể khiến bạn phải về trễ.

- Tình huống thứ ba: Cấp dưới của bạn yêu cầu bạn gửi số liệu trong ngày để người đó có thể hoàn tất báo cáo cho ngày mai.

Những người tham gia được cho thời gian từ 1-2 ngày để phản hồi thư điện tử nhận được. Không có giới hạn về số từ cũng như phong cách viết dành cho người tham gia.

Sau khi nhận được thư trả lời của những người tham gia, người thực hiện nghiên cứu phỏng vấn những người tham gia nhằm tìm hiểu lý do cho chiến lược họ sử dụng trong từng tình huống cụ thể. Phỏng vấn sẽ được soạn dưới dạng câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc trong đó người trả lời có thể thoải mái thể hiện quan điểm của mình.

Số liệu thu được từ các thư điện tử được mã hoá dựa vào công thức ngữ nghĩa được đề xuất bởi Beebe và Takahashi (1990). Beebe và Takahashi (1990,) đã khái quát hoá chiến lược từ chối thành công thức ngữ nghĩa (semantic formulas) và bổ sung từ (adjuncts) (được hiểu là những ngữ đi kèm với lời từ chối nhưng bản thân nó không có chức năng như lời từ chối).

Sau khi được mã hoá, số liệu sẽ được đếm tần suất xuất hiện và dùng Chi bình phương để xác định sự khác biệt trong chiến lược từ chối giữa các tình huống. Phần số liệu thu được từ phỏng vấn sẽ được phân tính định tính.

3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 3.1. Câu hỏi nghiên cứu 1: Có sự khác biệt nào trong cách thức từ chối lời yêu cầu được đưa ra bởi người có quyền lực xã hội hoặc thấp hơn hoặc ngang bằng hoặc cao hơn trong tiếng Anh? 3.1.1. Sự khác biệt trong việc sử dụng các chiến lược

Kết quả thu được từ 18 người tham gia là 54 thư điện tử từ chối lời yêu cầu. Các thư từ chối này được mã hoá thành 242 chiến lược từ chối. Trong đó, đáng chú ý là số lượng chiến lược có khuynh hướng tăng dần khi khác biệt quyền lực giữa người từ chối và người yêu cầu tăng dần. Khoảng cách quyền lực càng thấp thì số lượng chiến lược sử dụng càng giảm. Cụ thể là trả lời cho người có quyền lực thấp hơn thì chỉ sử dụng trung bình 3,6 chiến lược từ chối trong khi đó người có quyền lực xã hội cao hơn thì trung bình cần đến 5,5 chiến lược. Điều này cho thấy với những trường hợp từ chối người có quyền lực cao hơn người từ chối có khuynh hướng trả lời dài hơn và sử dụng đa dạng chiến lược nhằm giảm thiểu khả năng mất thể diện cho đối phương.

Page 44: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

40 Nguyễn Thị Lan Anh

Khi trả lời phỏng vấn tiếp sau thư điện tử những người tham gia nói rằng với người có quyền lực cao hơn họ cảm thấy khó từ chối vì yêu cầu được đưa ra có tính chất công việc và không phải là đòi hỏi quá đáng nên việc từ chối là do được yêu cầu chứ trên thực tế nếu trường hợp tương tự xảy ra họ sẽ tìm cách sắp xếp các công việc khác để đáp ứng yêu cầu được đưa ra. Chính vì vậy họ có khuynh hướng sử dụng nhiều chiến lược kết hợp nhằm giảm thiểu nguy cơ gây mất thể diện của lời từ chối.

Bảng dưới tóm tắt chiến lược từ chối khi xét theo các nhóm cơ bản (bao gồm: chiến lược trực tiếp, chiến lược gián tiếp và bổ sung từ) được sử dụng bởi 18 người tham gia trong các tình huống mà quyền lực giữa người từ chối và người yêu cầu là cao hơn, thấp hơn và ngang nhau.

Bảng 1. Tóm tắt chiến lược sử dụng trong ba tình huống

TH1 TH2 TH3 n

Chiến lược trực tiếp

10 3 2 15

Chiến lược gián tiếp

76 72 56 204

Bổ sung từ 13 3 7 23

n 99 78 65 242

χ2(4) = 9,54, p =0,0489*, V =0,1404, ϕ=0,199 Sau khi phân tích bằng Chi bình phương, ta thấy rằng

có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các tình huống.Kết quả cũng cho thấy từ chối trực tiếp dù được sử dụng khá nhiều nhưng câu trả lời trên thực tế hoàn toàn không có trường hợp nào “No” (không) được sử dụng. Thay vào đó chỉ cụm từ “I can’t” nhằm thể hiện việc không có khả năng chấp nhận lời yêu cầu được sử dụng.Hơn nữa, khi khảo sát thứ tự những chiến lược được sử dụng thì chiến lược từ chối trực tiếp thường được sử dụng kết hợp với các chiến lược từ chối gián tiếp và bổ sung từ và không có thư nào chiến lược này được lựa chọn sử dụng đầu tiên. Nó được sử dụng sau ít nhất một chiến lược từ chối gián tiếp.

Chiến lược được sử dụng phổ biến nhất là đưa ra lý do hoặc là cớ cho sự không chấp thuận của mình. Trên thực tế, chiến lược này chiếm gần 1/5 tổng số chiến lược được sử dụng. Chiến lược phổ biến thứ hai được sử dụng là đưa ra giải pháp thay thế. Tiếp theo sau là các ngữ thể hiện sự lấy làm tiếc. Rào đón, giải thích và ngôn ngữ thể hiện sự mong ước cũng được sử dụng thường xuyên. Bổ sung từ được sử dụng chủ yếu ở tình huống người yêu cầu có quyền lực cao hơn.

Bản thân bổ sung từ không có chức năng từ chối nhưng bổ sung từ lại là từ đệm cho lời từ chối. Thực ra việc sử dụng bổ sung từ một cách linh hoạt giữa các đối tượng cho thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển của những người tham gia nghiên cứu. Việc này có thể lý giải vì những người tham gia nghiên cứu đều có làm việc với người bản ngữ tại chỗ làm của mình trên thực tế. Hơn nữa việc tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện và những người tham gia đều biết rõ mình sẽ được yêu cầu làm gì trước khi đồng ý tham gia nên ta có thể thấy những người tham gia đều là những người tự tin sử dụng tiếng Anh. Việc tiếp xúc với người bản ngữ cũng giúp họ có nhận thức hơn

về cách sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp và tự nhiên ở mức có thể. 3.1.2. Khác biệt trong nội dung của các chiến lược thường được sử dụng nhất

Cớ và lý do là chiến lược gián tiếp được sử dụng phổ biến nhất. Mặc dù những người tham gia được tự do đưa ra cớ và lý do cho lời từ chối của mình nhưng thú vị là hầu hết đều có chung ý tưởng. Mọi người có khuynh hướng sử dụng các chiến lược có liên quan đến gia đình, ví dụ như “con tôi đang ốm nên tôi không thể hoàn thành được báo cáo trong ngày vì không thể ở lại sau giờ làm” hoặc “hôm nay tôi có việc gia đình gấp nên không thể ở lại sau giờ làm” hoặc “hôm nay là sinh nhật của bố tôi nên tôi phải về sớm”. Tuy nhiên nếu nhìn vào bản tóm tắt dưới ta có thể thấy trong trường hợp từ chối người có quyền lực cao hơn thì các lý do hay cớ liên quan đến gia đình lại không được sử dụng nhiều như các trường hợp khác. Trong phỏng vấn, những người tham gia cho rằng dùng các yếu tố gia đình để từ chối trong công việc họ cảm thấy sẽ không được đánh giá cao bởi người có địa vị cao hơn vì những người đó sẽ cho rằng họ không tận tuỵ đúng mức cho công việc. Tuy nhiên, với đồng nghiệp và người có quyền lực thấp hơn, các lý do/cớ có liên quan đến gia đình sẽ dễ tạo được sự thông cảm.

Bên cạnh lý do hay cớ liên quan đến gia đình được thì những cớ phổ biến khác thường đề cập đến là tính khẩn cấp hoặc cần thiết của những cam kết trước đó. Ví dụ có hứa với bạn từ xa đến là sẽ đón bạn hoặc có cuộc hẹn quan trọng từ trước không thể huỷ. Trong phỏng vấn, những người đưa ra các câu trả lời này thừa nhận rằng họ cảm thấy nếu như đưa lý do cụ thể kèm theo yếu tố khẩn cấp hoặc cam kết thì lời từ chối của họ sẽ giảm thiểu được sự mất thể diện cho cả họ lẫn người yêu cầu. Đó cũng là lý do vì sao loại cớ/lý do này được sử dụng nhiều với đối tượng có quyền lực cao hơn người từ chối.

Bảng 2. Tóm tắt nội dung dùng trong chiến lược cớ/lýdo

TH1 TH2 TH3 Tổng số (%)

Lý do/cớ liên quan đến gia đình

6 9 7 23 (51,1%)

Lý do/cớ thể hiện sự khẩn cấp hoặc cam kết với những kế hoạch từ trước

5 2 2 9 (20,9%)

χ2 = 2,27, p =0,321, df = 2 Tuy vậy, kết quả Chi bình phương cho thấy không có

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các tình huống khi xét về khía cạnh nội dung lý do / cớ.

Sau lý do / cớ thì giải pháp thay thế là chiến được được sử dụng nhiều thứ hai. Phân tích nội dung của các chiến lược đưa giải pháp thay thế thì kết quả cho thấy các tình huống đưa ra thường được từ chối kèm giải pháp: thực hiện yêu cầu đưa ra vào thời gian khác tại chỗ làm hoặc làm việc đó ở nhà hoặc giới thiệu một người khác có thể làm việc

Page 45: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 41

đó. Giải pháp đầu tiên (ví dụ, tôi sẽ làm nó vào ngày mai được không? ) là giải pháp được đưa ra phổ biến nhất. Giải thích cho việc sử dụng giải pháp thay thế đó, những người tham gia cho rằng lý do là vì:

- họ muốn giải quyết những việc liên quan đến công việc tại chỗ làm vì không muốn nghĩ đến vấn đề công việc sau khi hết giờ làm;

- làm việc tại chỗ làm thì hiệu quả hớn là làm việc tại những nơi khác như ở nhà;

- đây là cách họ muốn thể hiện họ có ý thức hoàn tất công việc.

Tuy nhiên nếu xem xét giữa ba tình huống thì giải pháp này chỉ được dùng nhiều trong tình huống từ chối người có quyền lực ngang bằng và thấp hơn. Trong khi đó với người có quyền lực cao hơn thì giải pháp được đưa ra là sẽ thực hiện yêu cầu tại nhà. Khi được hỏi tại sao lại như vậy thì những người sử dụng chiến lược này nói rằng họ không muốn từ chối hẳn người có quyền lực cao hơn mình và muốn thể hiện sự cam kết với công việc nên đem việc về nhà làm và vẫn hoàn thành được trong giới hạn thời gian cho phép là điều họ nghĩ sẽ tạo được ấn tượng tốt và người yêu cầu sẽ không cảm thấy bị từ chối hoàn toàn.

Giải pháp đề xuất người khác thực hiện yêu cầu cũng hay được sử dụng và phổ biến nhất là đối với người có quyền lực ngang bằng. Giải pháp này không được sử dụng cho trường hợp người có quyền lực cao hơn vì những người tham gia cho rằng tình huống đặt ra khiến họ đặt giả thiết là họ là người duy nhất người yêu cầu có thể hỏi nên lựa chọn giải pháp này dường như không hợp lý trong ngữ cảnh đưa ra. Bên cạnh đó với người có quyền lực cao hơn thì giải pháp này không được đề cập vì họ không muốn người có quyền lực cao hơn có cảm giác rằng họ đùn đẩy công việc cho người khác vì lý do cá nhân.

Kết quả từ Chi bình phương cũng khẳng định là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong việc sử dụng ba nội dung của chiến lược giữa ba tình huống.

Bảng 3. Tóm tắt nội dung chiến lược giải pháp thay thế

TH1 TH2 TH3 Tổng số (%)

Đề xuất hoàn thành vào lúc khác tại chỗ làm

4 7 9 54,1

Đề xuấthoàn thành lúc khác tại nhà

6 1 0 18,9

Đề xuất yêu cầu người khác

3 5 2 27

χ2 = 11,9, p =0,018*, df = 4

Đối với chiến lược phổ biến thứ ba là Lấy làm tiếc thì cần lưu ý là cụm “I’m sorry” được hiểu trong tiếng Việt vừa có hàm ý lấy làm tiếc (regret) vừa có hàm ý xin lỗi (apology). Do vậy, khi người Việt nói “I’m sorry” có thể người đó có hàm ý xin lỗi. Khi trả lời phỏng vấn, có nhiều người thừa nhận khi sử dụng “I’m sorry” họ cũng có ý trách bản thân đã không đảm nhận được yêu cầu được đưa

ra. Một vài người tham gia còn cho rằng, với hàm ý xin lỗi họ muốn chuyển tải tỉnh thần trách nhiệm và sự thẳng thắn thừa nhận lỗi của mình. Trong chiến lược này, chỉ có hai cụm được sử dụng là “I’m sorry” và “I’m afraid” (Tôi e rằng). 3.2. Câu hỏi nghiên cứu 2: Yếu tố nào tạo nên sự khác biệt trong cách thức lời từ chối giữa các tình huống?

Qua phỏng vấn, những người tham gia cho thấy họ đều ý thức được sự khác biệt về quyền lực giữa ba tình huống giả định và tất cả đều thừa nhận yếu tố khác biệt này ảnh hưởng lớn đến cách thức từ chối được sử dụng. Tất cả những người tham gia đều cho rằng khác biệt quyền lực là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến ngôn ngữ sử dụng khi từ chối. Sự khác biệt về mức độ áp đặt hầu như không có ảnh hưởng lên cách thức từ chối trong ba trường hợp vì theo những người tham gia, họ không thấy có sự khác biệt nào đáng kể giữa ba tình huống. Khoảng cách xã hội đã được lưu ý giữ ở mức trung bình trong cả ba tình huống trước khi người tham gia trả lời thư yêu cầu nhận được. Tuổi tác cũng được giả định là không có sự khác biệt lớn về tuổi tác giữa người yêu cầu và người từ chối. Trong phỏng vấn chỉ số ít người tham gia nói rằng giới tính được họ cân nhắc đến khi đưa ra lời từ chối.

Khi được hỏi nếu trên thực tế nếu gặp phải những tình huống tương tự thì khả năng đưa ra lời từ chối có cao không thì tất cả đều nói sẽ không từ chối trong tình huống được yêu cầu bởi người có quyền lực cao hơn vì:

- lời yêu cầu hợp lý trong ngữ cảnh công việc (ý kiến của 55,6% người tham gia);

- nội dung công việc được yêu cầu có liên quan đến trách nhiệm công việc của người tham gia (ý kiến của 22,2% người tham gia);

- thực tế là yêu cầu được đưa ra bởi cấp trên liên quan đến công việc thì họ cảm thấy trên thực tế mình không thể từ chối nên chỉ có thể trì hoãn (ý kiến của 77,8% người tham gia).

Chính vì vậy tất cả người được hỏi đều cho rằng từ chối người có quyền lực cao hơn là khó hơn cả và chiến lược sử dụng vẫn là đưa ra lý do cụ thể nhằm giải thích cho người bị từ chối biết được hoàn cảnh bất khả kháng của mình. Giải pháp thay thế là một lựa chọn phổ biến vì nó

Đối với trường hợp là đồng nghiệp hoặc cấp dưới thì khả năng từ chối cao hơn. Những người được phỏng vấn nói rằng:

- đã từng gặp trường hợp tương tự và họ có lý do chính đáng để từ chối nên họ không thấy quá khó khăn để từ chối (ý kiến của 22,2% người tham gia);

- từ chối trong những trường hợp bất khả kháng không chứng tỏ rằng họ là người vô trách nhiệm với công việc có liên quan (ý kiến của 16,7% người tham gia);

- trường hợp công việc được yêu cầu không trực tiếp liên quan nhiệm vụ công việc của họ thì họ cảm thấy việc từ chối hoàn toàn bình thường (ý kiến của 66,7% người tham gia).

Nói chung những người tham gia nghiên cứu có chung quan điểm rằng từ chối cấp trên là khó khăn nhất trong ba tình huống đề ra. Những người tham gia cũng cho rằng từ

Page 46: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

42 Nguyễn Thị Lan Anh

chối tại chỗ làm khác so với từ chối với môi trường giao tiếp khác vì chỗ làm là nơi họ cần thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự cam kết với trách nhiệm công việc của mình. Nếu từ chối ở môi trường ngoài họ không ngại việc bị đánh giá hình ảnh nhưng ở chỗ làm thì lại khác.

Giới tính chỉ được 4 trong số 18 người được phỏng vấn nói là có ảnh hưởng. Tuy vậy họ không cân nhắc đến yếu tố này trên thực tế khi viết thư trả lời trong ba tình huống. Từ đó ta có thể thấy mặc dù giới tính là một trong những yếu tố tác động lên câu trả lời nhưng đây không phải là yếu tố những người tham gia nghiên cứu thực sự để ý đến. Họ chỉ để ý đến yếu tố này khi được hỏi và chỉ ảnh hưởng trong ngữ cảnh cụ thể nào đó.

Nói tóm lại, trong ba trường hợp từ chối này thì yếu tố quyền lực là nhân tố chính chi phối cách thức và nội dung chiến lược từ chối trong các tình huống đặt ra.

4. Kết luận Qua kết quả thu được ta có thể thấy biến số quyền lực

có ảnh hưởng đến cách người Việt từ chối một đồng nghiệp bản ngữ có chức vị hoặc thấp hơn, hoặc ngang bằng hoặc cao hơn. Khi từ chối cấp trên, sồ chiến lược trung bình được sử dụng cao hơn so với hai trường hợp còn lại và đây cũng là tình huống từ chối được cho là khó nhất. Tuy vậy nhưng đâu cũng là tình huống chiến lược trực tiếp “I can’t” (tôi không thể) được sử dụng nhiều nhất. Nhưng khi được sử dụng chung với các chiến lược gián tiếp khác thì nó tính trực tiếp và nguy cơ gây mất thể diện cũng đã được giảm thiểu. Trong các chiến lược thì ba chiến lược Cớ/Lý do, Giải pháp thay thế và Lấy làm tiếc được sử dụng nhiều nhất. Các lý do liên quan đến gia đình được dùng phổ biến khi từ chối người đồng cấp hoặc người cấp dưới trong khi đó các lý do/cớ thể hiện sự khẩn cấp hoặc các cam kết trước đó được sử dụng chủ yếu với cấp trên. Tuy vậy nhưng để thể hiện tinh thần trách nhiệm thì người từ chối lại đưa ra đề nghị thực hiện yêu cầu ở thời điểm khác tại nhà. Trong ba tình huống đưa ra thì khác biệt quyền lực giữa hai bên là lý do chính dẫn đến chiến lược từ chối và nội dung chiến lược khác nhau.

Từ chối là một quá trình thương lượng và thuyết phục đối phương hoặc chấp nhận phương án khác hoặc chấp nhận việc yêu cầu không được thoả mãn, nhưng trong tình

huống này, thư điện tử chỉ mới thể hiện được một lượt của giao tiếp. Việc người yêu cầu phản hồi lại như thế nào và cuối cùng kết quả từ chối như thế nào lại không được bao gồm trong nghiên cứu. Đây cũng là điểm hạn chế của nghiên cứu và những nghiên cứu sau này có thể khai thác tìm hiểu thêm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Barron, A. (2003). Acquisition in Interlanguage Pragmatics:

Learning how to do things with words in a study abroad context: John Benjamins Publishing Company.

[2] Beebe, L.M., Takahashi, T., &Uliss-Weltz , R.(1990). Pragmatic transfer in ESL refusals. In R.C. Scarcella, E.S. Andersen, & S.D. Krashen (Ed.), Developing communicative competence in second language (pp. 55-73). New York: Newbury House.

[3] Brown, P. & Levinson, S. (1978). Universals in language usage: Politeness phenomena. In E. Goody (Ed.), Question and Politeness: Strategies in social interaction (pp. 56-311). Cambridge: Cambridge University Press.

[4] HồThịMỹHậu (1999) Australian and Vietnamese ways of refusing. (MA thesis). La Trobe University, Australia

[5] Gu, Y. (1990). Politeness phenomenon in modern Chinese. Journal of Pragmatics, 14, 237-257.

[6] Johnson, D., Roloff, M., vàRiffee, M. (2004). Responses to refusals of requests: Face threat and persistence, persuation and forgiving statements. Commuication Quarterly, 52(4), 347-357.

[7] Johnson, D. I. (2007). Politeness theory and converstional refusals: Associations between various types of face threat and pereceived competence. Western Journal of Communication, 71 (3), 196-215

[8] Idle, S. (1989). Formal forms and discerment: Two neglected aspescts of universals of linguistic politeness. Multilingua, 8, 223-248

[9] Nelson, Gayle L.vàcộngsự (2002). Cross-cultural pragmatics: Strategy use in Egyptian Arabic and American English refusals. Applied Linguistics, 23 (2),163-189.

[10] NguyễnThị Minh Phương (2006). Cross-cultural Pragmatics: Refusals of requests by Australian Native Speakers of English and Vietnamese Learners of English. (MA thesis). The University of Queensland, Australia.

[11] Taguchi, N. (2013). Refusals in L2 English: Proficiency effects on appropriateness and fluency. Utrecht Studies In Language & Communication, 25101-119.

[12] Wang, Y. (2003). Refusal strategies in American and Chinese cultures: A comparative study. Paper presented at the Midwest Conference on Asian History and Culture, The Ohio State Universisty.

(BBT nhận bài: 16/02/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/02/2017)

Page 47: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ðẠI HỌC ðÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 43

LUẬN THUYẾT TỰ SỰ - BƯỚC ðỆM ðẦU TIÊN TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ðẠI HÓA VĂN HỌC TRIỀU TIÊN

NARRATIVETREATISE - A SPRINGBOARD FOR MODERNIZATION OF KOREAN LITERATURE

Trần Thị Lan Anh

Trường ðại học Ngoại Ngữ, ðại học ðà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Cột mốc của văn học cận ñại Triều Tiên ñược xác ñịnh là năm 1890. Căn cứ quan trọng nhất ñể xác ñịnh xuất phát ñiểm của văn học cận ñại Triều Tiên ñó chính là sự xuất hiện của loại hình văn học tự sự mới trong thời kỳ này - Luận thuyết tự sự. Luận thuyết tự sự là loại hình văn học quá ñộ, phát triển lên từ truyện lịch sử hư cấu trong văn học truyền thống Triều Tiên, do có ñặc ñiểm là tác phẩm ñăng báo nhiều kỳ nên có tính thời sự cao, và mục ñích sáng tác của loại hình này là truyền tải tính giáo huấn, truyền bá tư tưởng giáo dục khải mông khai sáng, văn hóa văn minh phương Tây ñồng thời phổ cập chữ Hàn ñại chúng. Luận thuyết tự sự ñược xem là bước ñệm ñầu tiên của quá trình hiện ñại hóa văn học Triều Tiên khi có sự chuyển ñổi loại hình sáng tác từ mô hình văn học văn học truyền thống sang mô hình văn học hiện ñại chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây.

Abstract - In 1980, the early modern literature of Korea marked a milestone. The appearance of this type of new literature which is called narrative treatise in this period is an important base to determine the starting-point of the early modern literature in Korea. The narrative treatise is a kind of literature in transition which is developed from historical fiction stories in traditional Korean literature. However, this type of literature is compositions in serial form published on newspapers with a wide variety of subjects of topical interest. Moreover, its purposes are to transmit instructions and spread the thought of enlightenment as well as universalize Hangeul . It is believed that the narrative treatise is a springboard for the modernization of Korean literature when there is a conversion from traditional literary model to modern literary model under the influence of Western literature.

Từ khóa - luận thuyết tự sự; văn học cận ñại Triều Tiên; bước ñệm; văn học quá ñộ; quá trình hiện ñại hóa văn học Triều Tiên

Key words - narrative treatise; modern literature of Korea; a springboard; literature in transition; modernization of Korean literature.

1. ðặt vấn ñề

Trong lịch sử phát triển của văn học Triều Tiên, giai ñoạn cuối thế kỷ 19 ñầu thế kỷ 20 ñược xem là giai ñoạn văn học có tính chất giao thời, là giai ñoạn chuẩn bị cho một nền văn học mới ra ñời [1]. Văn học thời kỳ này ñược biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền văn học: văn học cổ ñiển và văn học hiện ñại, có hiện tượng ñan xen giữa hai yếu tố cũ và mới trong cùng một tác phẩm văn học cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Việc nghiên cứu chuyên sâu ñể phân biệt rạch ròi các yếu tố cũ và mới là một việc không dễ dàng, cho ñến hiện nay vẫn chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn ñề này mà chỉ tập trung nghiên cứu loại hình Tiểu thuyết mới của Triều Tiên. Theo chủ trương của người viết, hơn cả việc tách bạch phân biệt rạch ròi giữa các yếu tố truyền thống hay là yếu tố du nhập ngoại lai thì việc nghiên cứu tính kế thừa, tính liên tục, cũng như những ñặc thù của nền văn học cũ tồn tại và ảnh hưởng ñến quá trình hiện ñại hóa văn học Triều Tiên là cần thiết. Trên cơ sở nhận thức như vậy, mục tiêu của bài viết này là ñề cập ñến Luận thuyết tự sự - một loại hình văn học ñộc ñáo của Triều Tiên - vừa kế thừa và phát huy những ñặc ñiểm ñặc thù của văn học truyền thống, ñồng thời thâu nhận những giá trị tư tưởng cận ñại do ảnh hưởng từ văn minh phương Tây mang lại, ñóng vai trò là bước ñệm trong quá trình hình thành nền văn học mới, bên cạnh ñó quan sát những ñặc ñiểm liên quan ñến loại hình này như: bối cảnh xuất hiện, ñội ngũ sáng tác, các ñặc ñiểm nổi bật về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.

2. Bối cảnh lịch sử văn hóa Triều Tiên giai ñoạn cuối thế kỷ 19 ñầu thế kỷ 20 ảnh hưởng ñến tư tưởng cận ñại và sự hình thành nền văn học mới

Xã hội Triều Tiên giai ñoạn cuối thế kỷ 19 ñầu thế kỷ 20 ñã có những biến ñổi sâu sắc về nhiều mặt và một trong

những tác nhân gây nên sự biến ñộng ñó không thể không ñề cập ñến sự ảnh hưởng của hai nước Trung Quốc (nhà Thanh) và Nhật Bản. Cho ñến năm 1870, hai nước Trung Quốc và Nhật Bản với mục ñích tranh giành quyền lợi trên bán ñảo Triều Tiên cùng với các nước Anh, Mỹ, Pháp thực hiện hàng loạt chính sách bành trướng ñế quốc của mình, ñã gây áp lực buộc Triều Tiên phải mở cảng thông thương. Nhân cơ hội này, Nhật Bản liên tục buộc Triều Tiên ký các ñiều ước bảo hộ năm 1876, hiệp ước Ất Tý năm 1905. Qua hiệp ước này Triều Tiên mất hoàn toàn chủ quyền, bị Nhật Bản ñô hộ áp bức theo kiểu chủ nghĩa quân phiệt thông qua cơ quan Tổng ñốc phủ. Thông qua Tổng ñốc phủ, Nhật Bản ñộc chiếm nhiều ñặc quyền như lập pháp, tư pháp, hành chính, ngoại giao, nội chính, thực hiện chính sách triệt tiêu dân tộc với ý ñồ biến dân tộc Triều Tiên trở thành một phần của Nhật Bản [2]. Về mặt giáo dục, Nhật Bản mở rộng chính sách Hoàng dân hóa(황민화, 皇民化) nhằm giáo dục người dân Triều Tiên trung thành với Thiên Hoàng, tiêm nhiễm tư tưởng Thiên Hoàng, dạy dỗ phẩm tính giống người Nhật Bản. Về mặt kinh tế, Nhật Bản tiến hành hàng loạt các chính sách bóc lột nhằm chiếm ñoạt nền sản xuất công nghiệp, chiếm ñoạt lương thực, ñất ñai, tài nguyên nhân lực và vật chất ñồng thời biến Triều Tiên thành nước thuộc ñịa cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của Nhật Bản. Về mặt chuyển biến văn hóa tư tưởng, có 3 nhân tố chi phối văn hóa tư tưởng ở Triều Tiên cuối thế kỷ 19 ñầu thế kỷ 20, ñó là: Chính biến Giáp Thân (1884), Phong trào Donghak (1896) và Cải cách Giáp Ngọ (7/1894~8/1895). Chính biến Giáp Thân là cuộc ñảo chính tiến hành cải cách chính trị nhằm xây dựng quyền tự chủ của Triều Tiên ñối với nhà Thanh Trung Quốc do các nhà xã hội ưu tú phái thực học chủ trương tích cực khai hóa và lãnh ñạo cách mạng theo thể chế chủ nghĩa dân chủ phương

Page 48: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

44 Trần Thị Lan Anh

Tây cận ñại. Tuy nhiên cuộc ñảo chính thất bại chỉ sau 3 tháng do không có ñược sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Sau khi cuộc Chính biến Giáp Thân thất bại, trong bối cảnh bành trướng kinh tế của Nhật Bản và sự hỗn loạn chính trị do các nước ngoại bang (Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc) can thiệp, thì xuất hiện phong trào Cách mạng nông dân Donghak. ðây ñược xem là phong trào nổi dậy của quần chúng nông dân chống lại sự hủ bại và bất công của xã hội, nỗi bất an trước sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai và thế lực ngoại xâm. ðể ñối phó với khí thế sôi sục của phong trào cách mạng này, triều ñình Joseon ñã phải yêu cầu viện trợ từ nhà Thanh Trung Quốc. Mặt khác, Nhật Bản nhân cơ hội này ñể ñoạt quyền cai trị Triều Tiên từ Trung Quốc, cũng phái binh ñến Triều Tiên. Kết quả phong trào Cách mạng nông dân Donghak thất bại và nó dẫn ñến cuộc chiến tranh Thanh-Nhật (1/8/1894~17/4/1895). Dù thất bại, nhưng không thể phủ nhận mặt tích cực của cuộc Cách mạng này ñó là khắc phục ñược chủ nghĩa bảo thủ thủ cựu và phương Tây hóa một cách mù quáng trong nhận thức của quần chúng. Trong hoàn cảnh như vậy, giai cấp cầm quyền bất ñắc dĩ tiến hành Cải cách Giáp Ngọ. Cải cách Giáp Ngọ mang lại các tư tưởng chính trị bình dân, tự do và bình ñẳng, có cái nhìn tích cực ñối với văn hóa phương Tây, ñồng thời sự xuất hiện các cơ quan giáo dục kiểu mới, các tạp chí quốc văn, việc thực thi lối viết xen lẫn giữa chữ Hán và chữ Hàn, v.v... những nhân tố này ñã dẫn ñến sự ñổi mới hoàn toàn môi trường văn học của Triều Tiên. Thông qua các nhân tố trên, ñã dần hình thành ñộng cơ tiếp cận khách quan về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa cận ñại, ñặc biệt nó có ảnh hưởng quyết ñịnh ñến tư tưởng cận ñại và sinh hoạt ngôn ngữ ở Triều Tiên giai ñoạn cuối thế kỷ 19 ñầu thế kỷ 20.

3. Luận thuyết tự sự - bước ñệm ñầu tiên của thể loại Tiểu thuyết mới Triều Tiên

Cột mốc của văn học cận ñại Triều Tiên ñược xác ñịnh là năm 1890 [3]. Căn cứ quan trọng nhất ñể xác ñịnh xuất phát ñiểm của văn học cận ñại Triều Tiên ñó chính là sự xuất hiện của loại hình văn học tự sự mới trong thời kỳ này - Luận thuyết tự sự. Luận thuyết tự sự bắt ñầu xuất hiện vào năm 1890 và ñược ñánh giá là một loại hình văn học ñộc ñáo chỉ có riêng trong lịch sử văn học cận ñại Triều Tiên.

Nhà nghiên cứu văn học Triều Tiên Kim Yong Min ñịnh nghĩa ‘Luận thuyết tự sự là loại hình văn học quá ñộ có vai trò ñặt viên ñá ñầu tiên trong việc hình thành tiểu thuyết cận ñại Triều Tiên’ [4]. Nói là loại hình văn học quá ñộ thì chúng ta có thể suy luận rằng loại hình Luận thuyết tự sự có mối liên quan với văn học truyền thống. Kim Yong Min cũng cho rằng Luận thuyết tự sự ñược sáng tác tập trung trong vòng 10 năm từ năm 1890 ñến năm 1900. Thời kỳ này ñược các nhà nghiên cứu lịch sử Triều Tiên gọi bằng các tên gọi như thời kỳ khai sáng, thời kỳ khải mông, thời kỳ khải mông yêu nước, thời kỳ chuyển ñổi cận ñại. Xét về bối cảnh lịch sử, như ñã ñề cập ở trên, thời kỳ này là thời kỳ Triều Tiên ñang lâm vào hoàn cảnh phải ñối mặt với nguy cơ bị xâm lược của ngoại bang, và ñể bảo vệ chủ quyền, Triều Tiên nỗ lực hướng ñến thành lập quốc dân cận ñại và quốc gia cận ñại. Những tư tưởng phản ánh thời ñại này ñã trở thành chủ ñề mới so với nền văn học cũ trước ñó, và ñương nhiên nó cũng trở thành chủ ñề ñược phản

ánh trong Luận thuyết tự sự. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Luận thuyết tự sự ñoạn tuyệt hẳn với các loại hình văn học cổ ñiển, mà ngược lại, nó gắn kết chặt chẽ với các loại hình văn học truyền thống. Về cơ bản thì Luận thuyết tự sự ñược phát triển lên từ loại hình truyện hư cấu dã sử (야담) trong văn học truyền thống của Triều Tiên, có nội dung phản ánh những mặt thay ñổi của xã hội trung ñại Triều Tiên. ðiểm khác biệt so với loại hình truyện truyền thống ñó là thông qua nghệ thuật tự sự ñể truyền tải tư tưởng khai hóa khải mông và tính ñạo lý. ðặc ñiểm này ñược xem là mục ñích sáng tác của Luận thuyết tự sự. Trên cơ sở ñó, Luận thuyết tự sự truyền tải những chủ ñề như: Tính giáo huấn ñạo ñức, tính dân tộc; Phản ánh hiện thực ñương thời; Truyền bá tư tưởng giáo dục khai sáng khải mông [5]. Về chủ ñề giáo huấn ñạo ñức có tác phẩm Truyện con voivà con khỉ ñược ñăng trên báo ‘Cơ ñốc giáo tân văn’ ngày 7 tháng 5 năm 1897. Tác phẩm mong muốn truyền ñạt ý nghĩa rằng: mỗi một người ñều có những ưu ñiểm của bản thân, nhưng thay vì ghen tỵ với nhau thì nên cùng hợp sức hợp lực ñể ñạt ñược thành công. Về truyền bá tư tưởng giáo dục, nhấn mạnh ñến giáo dục, học tập có tác phẩm Hỏi ñáp với cây Sồi ñược ñăng trên báo ‘ðộc lập tân văn’ ngày 2 tháng 12 năm 1898. Ngoài ra, còn có vô số tác phẩm không có tựa ñề ñược ñăng trên các tờ báo ñương thời, gọi chung là Luận thuyết báo ‘ðộc lập tân văn’, Luận thuyết báo ‘Cơ ñốc tân văn’, Luận thuyết báo ‘ðế quốc tân văn’, Luận thuyết báo ‘Hoàng thành tân văn’, v.v… . Chủ ñề truyền bá tư tưởng giáo duc khải mông khai sáng lần ñầu tiên xuất hiện trong Luận thuyết tự sự và ñược xem là chủ ñề xuyên suốt trong các tác phẩm văn học thuộc loại hình Tiểu thuyết mới sau này của Triều Tiên.

ðối với ñội ngũ sáng tác, Luận thuyết tự sự không ghi chép tên tác giả rõ ràng. Các tác phẩm của Luận thuyết tự sự ñương thời ñều ñược ñăng báo nhưng phần ghi chú tác giả lại là người biên tập hoặc là nhà phát hành của tờ báo nên dễ dẫn ñến suy ñoán họ là tác giả của các tác phẩm Luận thuyết tự sự, hoặc có mối liên quan nào ñó ñến tác giả của Luận thuyết tự sự. Các tác phẩm Luận thuyết tự sự ñược ñăng trên các phương tiện truyền thông ñại chúng ñương thời có thể kể ñến như: ‘Nhật báo’, ‘ðộc lập tân văn’, ‘Cơ ñốc tân văn’, ‘Hoàng Thành tân văn’, ‘ðế quốc tân văn’. Vì thế các nhà nghiên cứu văn học ở Triều Tiên ñều cho rằng tác giả của Luận thuyết tự sự có thể là các nhà biên tập hoặc các nhà phát hành các tờ báo trên, hoặc có mối liên hệ nhất ñịnh nào ñó với các nhân vật này, và ñương nhiên họ thuộc tầng lớp tri thức ñương thời.

Việc xuất hiện và ñược ñăng trên các tờ báo và tạp chí, có thể thấy một trong những ñặc trưng ñáng chú ý của Luận thuyết tự sự chính là tính thời sự. ðặc tính thời sự của Luận thuyết tự sự không phải là một ñặc tính mới mẻ, thực ra ñặc trưng này ñược kế thừa từ loại hình truyện hư cấu dã sử trong văn học truyền thống của Triều Tiên. Ví dụ như tác phẩm Thanh Khâu Dã ðàm là một tập gồm 20 truyện viết bằng chữ Hán, miêu tả hiện thực ñương thời và xây dựng mẫu hình nhân vật mới ñáp ứng nhu cầu hiện thực thời kỳ ñó. Ngoài lý do kế thừa từ truyện hư cấu dã sự thì Luận thuyết tự sự mang tính thời sự cao còn thể hiện ở những lý do sau: Một là, những tác phẩm Luận thuyết tự sự ñược ñăng trên các phương tiện truyền thông ñương thời, ñiển

Page 49: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ðẠI HỌC ðÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 45

hình là báo chí; Hai là, thời kỳ này là thời kỳ lịch sử biến ñộng mạnh mẽ, buộc văn học phải ñối mặt với việc cần tăng cường giáo dục khải mông khai sáng; Ba là, các tác giả của Luận thuyết tự sự ñều sử dụng chữ Hàn thay cho chữ Hán ñể sáng tác, là nguyên nhân quan trọng làm biến ñổi văn thể, giúp cho tác phẩm văn học ñạt ñược tính hiện thực cao. Một ñiều không thể phủ nhận là nội dung có tính thời sự của Luận thuyết tự sự bị chi phối bởi những chủ trương, quan ñiểm về hiện thực của những nhà biên tập báo chí lúc bấy giờ. Họ ñược xem là tầng lớp tri thức tiêu biểu ñương thời, ña số ñược ñi du học ở Nhật Bản, và trong quá trình du học, họ tiếp thu văn hóa văn minh phương Tây cũng như thâu nhận những ảnh hưởng của tiểu thuyết chính trị Nhật Bản. Do ñó quan ñiểm và chủ trương của họ ñối với hiện thực Triều Tiên ñương thời ñó là tập trung vào các vấn ñề khai sáng khải mông và chủ trương truyền tải giá trị ñạo ñức, ñặc biệt với ñặc thù bối cảnh lịch sử của Triều Tiên lúc bấy giờ thì mục ñích cụ thể của tư tưởng khai sáng khải mông chính là ñộc lập tự chủ của dân tộc.

Về mặt văn thể của Luận thuyết tự sự, với mục ñích sử dụng chữ viết mới ñáp ứng nhu cầu thời ñại mới, các tác giả của Luận thuyết tự sự ñã sử dụng chữ Hàn và tạo nên một thể loại văn thể mới khác hẳn với văn thể chữ Hán thường ñược sử dụng ñể sáng tác trong văn học truyền thống. Yếu tố mang lại sự thay ñổi về văn thể, sử dụng chữ viết Hangul thay cho chữ Hán chính là báo chí - ñược xem là phương tiện khai hóa ñương thời. Tuy vẫn còn phải sử dụng xen lẫn giữa chữ Hán và chữ Hàn, chứ chưa hoàn toàn chuyển sang sử dụng chữ Hàn ñể sáng tác, nhưng thông qua Luận thuyết tự sự, lịch sử văn học Triều Tiên ñã bước ñầu ghi nhận một loại văn thể sáng tác mới, dễ ñọc, có khả năng truyền ñạt cao, và là nền tảng ñể tạo nên văn thể mới hoàn toàn so với văn học truyền thống, góp phần tạo nên loại hình tiểu thuyết hiện ñại.

Về mặt hình thức, vì Luận thuyết tự sự là những tác phẩm ñược ñăng ở mục luận thuyết của tờ báo, cho nên hình thức của loại hình văn học này có thể là một bài luận bàn bạc về một vấn ñề nào ñó của hiện thực ñương thời, hoặc theo phương thức luận thuyết lồng ghép nghệ thuật tự sự. Vì thế có nhiều tác phẩm Luận thuyết tự sự có hình thức của tiểu thuyết hơn là bàn bạc về một sự kiện hay một biến cố xã hội nào ñó. Mặc dù Luận thuyết tự sự có những ñiểm hạn chế như: vẫn còn chịu ảnh hưởng văn biền ngẫu của tiểu thuyết Hán văn, câu văn viết bằng chữ Hàn vẫn chưa ñược lưu loát, ñôi lúc cũng còn thể hiện tư duy của văn học cũ, tuy nhiên Luận thuyết tự sự ñã có những thay ñổi nhất ñịnh như:phản ánh ñược tinh thần thời ñại, chủ ñề theo sát hiện thực xã hội, có hình thức ñăng báo nhiều kỳ, sử dụng hình thức chữ viết mới là chữ Hàn thay thế chữ Hán, không còn lời bình của nhà biên tập trên mỗi bài ñăng nữa, v.v... những thay ñổi như vậy cho thấy hình thức sáng tác của Luận thuyết tự sự khác hẳn các loại hình văn học cũ. Yếu tố này ñược xem là biểu hiện manh mún hình thành loại hình Tiểu thuyết mới trong lịch sử văn học Triều Tiên.

Hơn nữa, một yếu tố ảnh hưởng ñến quá trình ñi lên từ Luận thuyết tự sự ñến tiểu thuyết mới cận ñại ñó là sự xuất hiện của các Ký sự tự sự báo chí và văn thể sử dụng ngôn từ ñối thoại. Các Ký sự tự sự ñược phát triển lên từ Luận thuyết tự sự, do ñó về mặt nội dung và hình thức không

khác gì so với Luận thuyết tự sự. Các Ký sự tự sự ñương thời ñược ñăng trên ‘Nhật báo tân văn’, bên cạnh tính thời sự, giáo huấn ñạo ñức và tinh thần khải mông khai sáng thì còn có các ký sự viết về các mẩu tin hoặc các sự kiện sử dụng ngôn từ ñối thoại. ðây là yếu tố quan trọng có vai trò quyết ñịnh trong quá trình chuyển ñổi ñi lên tiểu thuyết cận ñại. Kiểu kể chuyện từ ngôi thứ ba, duy trì khoảng cách giữa nhân vật và người trần thuật miêu tả nhân vật bằng những hành vi trào phúng, những yếu tố này cho thấy các sáng tác Luận thuyết tự sự ñược ñánh giá gần với hình thức tiểu thuyết hơn là ký sự sự kiện. Ký sự dạng này có tác phẩm Tài vật là mối lo [6] ñược ñăng trên báo ‘Kinh hướng tân văn’ năm 1907. Tác phẩm này ñược ñánh giá là chỉ tập trung vào hình thức tự sự, có cốt truyện, có tình tiết, hoàn toàn không còn lời bình của chủ bút hoặc của biên tập tờ báo. Những ký sự viết về nhân vật như vậy cùng với việc phản ánh chủ ñề tư tưởng cận ñại, giáo dục khải mông khai hóa ñã dần biến chuyển, ñược phát triển lên thành loại hình tiểu thuyết lịch sử, và ñược xem là bước ñệm ñầu tiên của loại hình Tiểu thuyết mới trong văn học hiện ñại Triều Tiên.

Như vậy, mặc dù Luận thuyết tự sự vẫn còn có những mặt hạn chế do ảnh hưởng của văn học truyền thống cổ ñiển, nhưng nó cũng có những ñặc ñiểm mới như: sử dụng loại hình chữ viết mới là Hangul, xuất hiện ngôn từ ñối thoại, nội dung có tính thời sự, phản ánh hiện thực ñương thời, có cốt truyện kể gây hứng thú với ñộc giả, chủ ñề mang tính cận ñại, truyền bá tư tưởng giáo dục khải mông. Vì vừa có ñặc ñiểm của loại hình tiểu thuyết truyền thống cổ ñiển, vừa mang những ñặc ñiểm mới như vậy, nên có thể nhận thấy Luận thuyết tự sự có vai trò trung gian và nhờ vai trò trung gian của Luận thuyết tự sự có thể khẳng ñịnh tính liên tục phát triển từ loại hình tiểu thuyết truyền thống cổ ñiển ñi lên loại hình Tiểu thuyết mới trong lịch sử văn học Triều Tiên. Do chịu ảnh hưởng từ Luận thuyết tự sự mà Tiểu thuyết mới xuất hiện sau này ñược ñánh giá là có những ñặc ñiểm khác hẳn so với loại hình tiểu thuyết truyền thống trước ñó, nhanh chóng hướng ñến loại hình tiểu thuyết hiện ñại Triều Tiên.

4. Kết luận

Sự phát triển nhanh của ñô thị cận ñại, tinh thần dân chủ cùng những tiền ñề vật chất cần thiết như sự phát triển của ngành in, xuất bản, báo chí ñã tạo ñiều kiện cho sự ra ñời và phát triển của loại hình tiểu thuyết hiện ñại Triều Tiên. Bên cạnh ñó, khi ñánh giá quá trình vận ñộng và triển khai của tiểu thuyết hiện ñại Triều Tiên, không thể không kể ñến sự góp mặt của loại hình Luận thuyết tự sự. Nó như một bước quá ñộ tất yếu của quá trình hiện ñại hóa văn học Triều Tiên khi có sự chuyển ñổi loại hình sáng tác từ mô hình văn học truyền thống sang mô hình văn học hiện ñại chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây.

CHÚ THÍCH

[1] Văn học Triều Tiên: bao gồm cả nền văn học Nam Hàn và Bắc Hàn trước khi ñất nước Triều Tiên bị chia cắt.

[2] Luận thuyết có từ gốc tiếng Hàn là 논설, từ gốc Hán là論說, ñược dịch sang tiếng Anh trong từ ñiển Hàn - Anh là editorial có nghĩa là Xã luận, tuy nhiên người viết dịch sang tiếng Việt là Luận thuyết. Theo ý kiến của người viết, luận thuyếtkhông chỉ là các bài xã luận thể hiện chủ trương quan ñiểm của người viết mà còn‘là những

Page 50: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

46 Trần Thị Lan Anh

truyện kể có cốt truyện, là một loại hình văn xuôi tự sự thể hiện tư tưởng của tầng lớp trí thức ñương thời, là loại hình văn học có ảnh hưởng lớn ñến ñộc giả ñương thời, và theo thời gian ñược phân hóa chuyển biến thành loại hình tiểu thuyết(Song Seon Ryong, Nghiên cứu luận thuyết tự sự thời kỳ khai hóa, Luận vănthạc sĩ, ðH Ewha,

1998, tr.12. 송선령, 「개화기에나타난서사적논설연구」, 석사논문,

이화여대, 1998.)’ hơn nữa xét theo nghĩa chữ gốc Hán, người viết cho rằng dịch sang tiếng Việt là Luận thuyết sẽ ñảm ñảo hiểu ñầy ñủ vềkhái niệm, ñịnh nghĩa, và hìnhthức của loại hình văn học Triều Tiên này.

[3] Tiểu thuyết mới là một loại hình văn học quá ñộ, xuất hiện vào ñầu thế kỷ 20 trong lịch sử văn học Triều Tiên.Tên gọi Tiểu thuyết mới dùng ñể phân biệt với loại hình tiểu thuyết cũ trong văn học truyền thống. Những tác phẩm thuộc loại hình Tiểu thuyết mới ñược ñánh giá là có những ñặc ñiểm mới mẻ, khác biệt hẳn so với các tác phẩm của loại hình tiểu thuyết truyền thống cổ ñiển. Những ñặc ñiểm mới mẻ, khác biệt ñược thể hiện rõ nhất ở hai yếu tố: một là, Tiểu thuyết mới dần cởi bỏ cốt truyện với nội dung ở hiền gặp lành, khuyến thiện trị ác, chú trọng tình cảm cá nhân con người; hai là Tiểu thuyếtmới bắt ñầu tập trung miêu tả tính cách và tâm lý của nhân vật. Tác giả Lee In-jik (1862~1916) ñược xem là người tiên phong, và tác phẩm Nước mắt của máu (1906) của ông ñược xem là cột mốc ñánh dấu sự xuất hiện của loại hình tiểu thuyết mới này.

[4] Joseon: Tên gọi quốc gia phong kiến Triều Tiên.

[5] Việc phổ cập chữ Hàn ñược triều ñình Joseon ñốc thúc thực hiện, sau năm 1894 những văn bản, giấy tờ công ñều ñược lập bằng chữ

Hàn và ñược pháp chế hóa. Năm 1907 Viện nghiên cứu Quốc văn ñược thành lập cho thấy tầm quan trọng của việc phổ cập và sử dụng chữ Hàn trong xã hội Triều Tiên ñương thời. Cùng với tầng lớp tri thức ñương thời, các tờ báo lớn như ‘Hán Thành tuần báo’, ‘Tây du kiến môn’, ‘ðộc lập tân văn’, v.v… cũng ñóng vai trò tiên phong trong việc phổ cập và truyền bá chữ Hàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Kim Yoon Sik, Lịch sử văn học hiện ñại Hàn Quốc, Văn học Hiện

ñại, 2014, tr. 45 (김윤식, 『한국현대문학사』, 현대문학, 2014).

[2] Ban biên soạn giáo trình, Lịch sử Hàn Quốc, ðại học Quốc gia Seoul, 2005, tr. 195.

[3] Hong Mun Byo, Lịch sử văn học hiện ñại Hàn Quốc, tr. 66.

(홍문표, 『한국현대문학사』, 창조문학사, p. 66)

[4] Kim Yong Min, Quá trình hình thành tiểu thuyết cận ñại Hàn

Quốc, NXB So Myol, 2005, tr.16. (김영민, 『한국근대소설의 형성과정』, 소멸출판, 2005)

[5] Go Cha Yeon, Nghiên cứu so sánh văn học cận ñại Mông Cổ và

Hàn Quốc, Luận văn thạc sĩ, ðH Inha, 2010, tr. 25.(고자연,

「몽골과한국근대문학비교연구」, 석사논문,인하대학교, 2010.)

[6] Tài vật là mối lo (재물이근심거리) ñăng trên báo ‘Kinh hướng tân văn’ ngày 11 tháng 1 năm 1907.

(BBT nhận bài: 29/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 27/02/2017)

Page 51: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 47

LOSS AND GAIN IN THE VIETNAMESE TRANSLATION OF STYLISTIC DEVICES USED IN UNCLE TOM’S CABIN BY HARRIET BEECHER STOWE

ĐƯỢC VÀ MẤT TRONG BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT CỦA CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ SỬ DỤNG TRONG TÁC PHẨM TÚP LỀU BÁC TÔM CỦA HARRIET BEECHER STOWE

Nguyen Thi Quynh Hoa1, Tran Thi Yen Nhi2 1University of Foreign Language Studies, The University of Danang; [email protected]

2Master Student Course 30, English Language Major

Abstract - Many linguists and researchers have paid muchattention to stylistic devices (SDs) with their characteristics andfunctions. Using SDs effectively and skillfully contributes to thesuccess of literary works in general and novels in particular.However, to help people worldwide understand the roles andvalues of SDs in the novels, the translational versions areextremely important. This article attempts to identify and analyzeLoss and Gain in the Vietnamese translation of SDs used in UncleTom’s Cabin by Harriet Beecher Stowe. The article is aimed atfiguring out two types of SDs namely lexical SDs and syntacticalSDs as well as loss and gain in terms of lexis, structure andmeaning in the Vietnamese translational version of these SDs.These findings can help language learners apply SDs withconfidence in their own writing, especially in producing interestingand effective English-Vietnamese translations.

Tóm tắt - Đặc điểm và chức năng của các biện pháp tu từ đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ và nghiên cứu. Sử dụng khéo léo và hiệu quả các biện pháp tu từ đã đem đến sự thành công cho tác phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Tuy nhiên, để giúp độc giả hiểu được vai trò và giá trị của chúng trong các cuốn tiểu thuyết, các bản dịch đóng vai trò hết sức quan trọng. Bài viết này trình bày những hiện tượng được và mất trong bản dịch tiếng Việt của các biện pháp tu từ thường dùng trong tác phẩm Túp lều bác Tôm của Harriet Beecher Stowe. Các biện pháp tu từđã được phân tích theo hai loại: từ vựng và cú pháp, đồng thời khai thác các hiện tượng được- mất về mặt từ vựng, cấu trúc, và nghĩa khi dịch chúng sang tiếng Việt. Các phát hiện này có thể giúp người học tự tin áp dụng các biện pháp tu từ vào việc viết văn, đặc biệt trong việc tạo ra các bản dịch Anh-Việt hay và hiệu quả hơn.

Key words - stylistic device; Uncle Tom’s cabin; loss and gain;translation; Harriet Beecher Stowe

Từ khóa - biện pháp tu từ; túp lều Bác Tôm; được và mất; dịch thuật; Harriet Beecher Stowe

1. Rationale

There is no doubt that nowadays, together with the development of the society and the world, the need for interaction among human beings is rapidly widened because they aim at getting knowledge, transmitting information, exchanging experience and more importantly, gaining some relationships. In reality, language enables people in every corner of the world to communicate, share information and gain experience through various means of interaction. However, what enables us to access information originally written in different source languages easily? Without a shadow of doubt, we get an answer immediately: that is translation.

Nevertheless, translating a text from a language into another is always a difficult task because translators will have to face linguistic, literary, socio-cultural problems which require them to have suitable translation methods. One of the greatest difficulties of translators is translating SDs. They are often used and crafted for emphasis, freshness of expression, or clarity. Nonetheless, in order to translate these SDs from one language to another language effectively to help readers gain an accurate insight into their meaning is really a big challenge. During producing his/her translation, he (or she) has to cope with many problems. The most frequent but unavoidable one in translating process is loss and gain.

As Mcguire (1980:12) in Translation Studies concludes, “Once the principle is accepted that sameness cannot exist between two languages, it becomes possible to approach the question of loss and gain in the translation process”.

The novel Uncle Tom’s Cabin (UTC), which is chosen

for my study was translated by Đỗ Đức Hiểu, a meritorious teacher, a writer as well as a scholar of literature. However, when translated into Vietnamese, the translational version cannot help avoiding loss and gain phenomena, especially basically elaborate lexical, meaning and syntactic features of the phenomena of loss and gain in their translation of SDs.

In reality, it cannot be denied that loss and gain in translation may be among the most common phenomena that deserve much attention. It is advisable for translators to choose and make use of appropriate translational technique and/or methodology to gain significant translational version. In this sense, the translators are required to have not only good language competence but also good knowledge on cultural aspects which can be used as instruments to obtain successful translation version.

From this novel, the examples of SDs namely metaphor, repetition, simile, rhetorical questions and personification and loss and gain phenomena in translating them into Vietnamese will be carefully taken into consideration, which is hoped that the result of the study can, to some extent, help us to better deal with this aspect of the English language in order to make a small contribution to the learning and teaching of the English writing skill as well as American novels and help Vietnamese learners of English and translators manage better when they translate the SDs from English into Vietnamese.

2. Theoretical background 2.1. Definition of Stylistic Devices

Up to now, there have been a number of studies relating to SDs used in language done by a lot of English

Page 52: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

48 Nguyen Thị Quynh Hoa, Tran Thi Yen Nhi

and Vietnamese researchers. SDs, also called rhetorical devices, are considered as distinctive linguistic expressions which make writings more effective, persuasive and successful for various purposes. In Galperin’s famous book entitled “Stylistics” [5, p. 57], he wrote: “Stylistics is a domain where meaning assumes paramount importance. This is so because the term “meaning” is applied not only to words, word- combination, sentences but also to the manner of expression into which the writer is cast”.

Galperin [5, p.89] stated that there are three main levels of SDs distinguished: phonetic, lexical and syntactical ones. In detail, some SDs often used are simile, metaphor, repetition, personification etc.

In summary, SDs in language can be defined as distinctive linguistic expressions that serve their own purposes and effects with their own inventory of tools, make language colourful and mysterious. There are a lot of SDs often employed in writing texts, but based on Galperin’s theory presented in his famous book “Stylistics”, this article focuses on two types of SDs: lexical SDs and syntactical ones. 2.2. Loss and Gain in Translation 2.2.1. Loss in Translation

Loss is the disappearance of certain features in the TL text which are presented in the SL text. In translation there is more probability of loss than gain. This is largely attributed to the lack of immediate equivalence between concepts, words, phrases and syntax in the TL, which are in the SL. This process is termed linguistic distance.

Loss in translation is expressed by Bassnett (2005, p.15) as “a situation in which terms or concepts in the SL text do not find their substitutes in the TL text”. 2.2.2. Gain in Translation

Gain is a concept that relates to translation as a finished product. It is the enrichment or clarification of the SL. Gain enables a language to be flexible and usable in any social circle.

As McGuire (1980: 30) concludes, “Gain as the enrichment or clarification of the source language text in the process of translation”. 2.3. Research methods

The study makes use of the descriptive method as the main method for the analysis of SDs in UTC. The descriptive method is used to pick out the samples and sort them into different categories of SDs. The analysis of common SDs under investigation is based on Galperin’s theory.

In order to prepare for the research, the samples are collected based on three criteria:

- The English sample must be a sentence containing a SD based on the definition of SDs mentioned in 2.1.

- The Vietnamese sample must be a translational equivalent of the English sample.

- The samples must be taken from the English version UTC by Harriet Beecher Stowe and the Vietnamese

translational version TLBT by Đỗ Đức Hiểu, a meritorious teacher, a writer as well as a scholar of literature.

After being well-investigated and checked with such criteria, 278 samples of SDs which belong to 5 SDs namely: simile, repetition, rhetorical questions, metaphor and personification are collected from UTC for detailed study.

The descriptive method is used to describe, give more details, explanations and clarify characteristics of loss and gain in terms of lexical, syntactic and meaning fields in SDs in the Vietnamese version of UTC, which was based on the theories of Bassnett and McGuire.

3. Findings and discussion 3.1. Frequency of SDs Used in Uncle Tom’s Cabin

It can be realized from the analysis of the data collected from the novel UTC by Harriet Beecher Stowe that there are 5 SDs used and they belong to two types: lexical and syntactical ones namely simile, metaphor, repetition, rhetorical questions and personification.

Table 1. Frequency of Two Types of SDs Used in the Novel Uncle Tom’s Cabin

Type Percentage

Lexical SDs 79.1%

Syntactical SDs 20.9%

Figure 1. Frequency of Two Types of SDs Used in the Novel Uncle Tom’s Cabin

Table 2. Frequency of SDs Used in the Novel UTC

No. Type Uncle Tom’s Cabin

Occurrence Percentage

1 Simile 95 34.2%

2 Repetition 67 24.1%

3 Rhetorical questions 58 20.9%

4 Metaphor 46 16.5%

5 Personification 12 4.3%

From the tables above, it can be seen that the highest percentage for the SD used in the UTC is simile (34.2%). This is followed by repetition, which accounts for 24.1%. Rhetorical questions are the SD used with 20.9%, followed by metaphor with 16.5%. Personification has the smallest number accounting for 4.3%. In short, it is discovered that compared to the syntactical SDs, the occurrences of lexical SDs in the novel namely simile,repetition, personification and metaphor are more frequent with the percentage of over 79.1% in total.

Lexical SDsSyntactical SDs

Page 53: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 49

3.2. SDs Used in the Novel Uncle Tom’s Cabin 3.2.1. Lexical SDs 3.2.1.1. Simile

Simile is one of the devices referring to the practice of drawing parallels or comparisons between two unrelated and dissimilar things, people, beings, places and concepts.

(3.1) ‘I’s older, ye know,’ said Tom, stroking the boy’s fine, curly head with his large, strong hand, but speaking in a voice as tender as a woman’s, ‘ and I sees all that’s bound up in you. (7, p.95)

In the above example, Stowe used the similar comparison “as…as” to compare the voice of Uncle Tom (UT) with a woman’s with the aim of emphasizing that UT is a gentle person who always has good behavior with other people, especially speaks softly to others. 3.2.1.2. Repetition

Repetition is one of the SDs of using some sounds, words or phrases consciously with the aims of emphasizing the expansion attention, impressing or eliciting in the hearts of readers, listeners.

(3.2) Well, I grew up – long years and years – no father, no mother, no sister, not a living soul that cared for me more than a dog: nothing but whipping, scolding, starving. (7, p.105)

It can be seen that the repetition of “no” aims at fixing the attention of the readers on it. It remarks George’s pitiful condition. He grew up without his father, mother, sister standing by him. 3.2.1.3. Metaphor

Metaphor is defined the imaginative use of a word or phrase to describe something else, to show that the two images have the same qualities.

(3.3) If you an’t the devil, Tom Loker, you’s his twin brother; I’ll say that for ye!’ (7, p.62)

In this case, the metaphors “the devil” and “his twin brother” are used to describe the manner of the character, specifically here is Tom Loker, the trader, who is extremely crude, barbarous, and violent. 3.2.1.4. Personification

Personification is the act of presenting objects or qualities as human beings.

(3.4) The silver, fair-browed moon rose in the purple sky, and looked down, calm and silent, as God looks on the scene of misery. (7, p.324)

It can be seen that personification is used skillfully and naturally. The verb “looked down” is to describe humans’ actions, however, Stowe used them to refer to actions of the moon: it has the empathy with the scene of misery and oppression the slaves had to suffer. 3.2.2. Syntactical SDs

Through the analysis of the data collected, only one syntactical SD was found: rhetorical questions.

A rhetorical question is a figure of speech in the form of a question that is asked in order not to elicit a specific

answer, but rather to encourage the listeners to consider a message or a viewpoint.

(3.5) ‘My master! And who made him any master? That’s what I think of- what right has he to me? What right has he to make a dray-horse of me–to take me from things I can do, and do better than he can, and put me to work that any horse can do? (7, p.16)

The questions are made with the aims of expressing the fit of George’s anger toward his boss’s cruelty and a hard heat. In addition, he wants to raise his voice in defence of human rights that he might have had.

3.3. Loss and gain in the Vietnamese translation of SDs used in UTC 3.3.1. Loss and gain in the Vietnamese translation of simile used in UTC 3.3.1.1. Loss

a. Loss in Structure: Relative Clauses English Vietnamese

(3.6a) Just as a chair or table, which once decorated the superb saloon, comes, at last, battered and defaced, to the bar-room of some filthy tavern, or some low haunt of vulgar debauchery. (7, p.312)

(3.6b) Cũng gần như một chiếc ghế hay một chiếc bàn trước bày trong một phòng khách lộng lẫy, nay kê trong một quán rượu ô uế, bị những khách hàng bê tha lôi, kéo, phá hoại. (8, p.355)

b. Loss in Meaning: Caused by Omission English/ Vietnamese Sameness Loss in Meaning

a big dog a dog

dog + big

một con chó ∅

3.3.1.2. Gain

a. Gain in Structure + In terms of Idiomatic Structure English Literal meaning Literal translation

a feather một chiếc lông nhẹ như bấc

c. Gain in Meaning: Addition of Words/ Word Phrases English/ Vietnamese Sameness Loss in Meaning

a tiger a tiger ∅ một con hổ cái một con hổ + cái

3.3.1.3. Frequency of loss and gain in the Vietnamese translation of simile used in UTC

Table 3. Samples and percentage of loss and gain in the Vietnamese translation of simile

Loss and Gain Occurrence Percentage

Loss Structure Relative

Clauses 14 14.7%

Meaning Caused by Omission 13 13.7%

Gain Structure Idiomatic Structure 30 31.6%

Page 54: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

50 Nguyen Thị Quynh Hoa, Tran Thi Yen Nhi

Addition of words/

words phrases

15 15.8%

Meaning

Addition of Word/

Word Phrases

23 24.2%

Total 95 100%

3.3.2. Loss and gain in the Vietnamese translation of repetition used in UTC 3.3.2.1. Loss

Loss in Structure: Loss Phenomenon in terms of Lexis English Vietnamese Omission

(3.7a) I do; then see if ye won’t drink-drink–drink – yerself into torment; and serve yer right, too – ugh!’ (7, p.199)

(3.7b) Chị sẽ uống, uống cho kỳ đến ngày xuống âm phủ, tha hồ mà sướng. (8, p.246)

drink

3.3.2.2. Gain a. Gain in Structure: Addition of Equivocal Subject

English Vietnamese Addition

(3.8a) ‘Oh, Mr Symmes! – save me – save me – do hide me!’ said Eliza. (7, p.57)

(3.8b) Chị thở hổn hển: -Ông Xim! Ông cứu cháu với! Cứu cháu với! Ông cho cháu đi trốn với. (8, p.86)

ông

3.3.2.3. Frequency of loss and gain in the Vietnamese translation of repetition used in UTC

Table 4: Samples and percentage of loss and gain in the Vietnamese translation of repetition

Loss and Gain Occurrene Percentage

Loss Lexis Reduction of Word/ Word

phrases 23 34.3%

Gain

Structure Addition of Equivocal

Subject 16 23.9%

Lexis Addition of Vietnamese

Buffer Words 28 41.8%

Total 67 100%

3.3.3. Loss and gain in the Vietnamese translation of rhetorical questions used in UTC 3.3.3.1. Loss

a. Loss in Structure: Relative Clauses

English Vietnamese

(3.9a) Who could see that all this smiling outside was but a hollowed shell over a heart that was a dark and silent sepulcher? (7, p.278)

(3.9b) Ai có thể đoán biết được rằng cái bề ngoài tươi vui ấy che dấu một trái tim nặng nề, u buồn như một nấm mộ? (8, p.321)

b. Loss in Meaning + Caused by Omission

English/ Vietnamese Sameness Loss in Meaning

precious soul soul

soul + precious

linh hồn ∅

+ Caused by using Unrelated Words/ Phrases (3.10a) head (in: What business had his slave to be marching

round the country, inventing machines, and holding up his head among gentlemen? (7, p.13)

→ (3.10b) mặt (in: Một thằng nô lệ của hắn có quyền gì mà lại có thể đi khắp đó đây, mặt thì vênh lên, và lại sáng chế máy móc nữa? (8, p.25) 3.3.3.2. Gain

a. Gain Phenomenon in terms of lexis: Addition of Vietnamese buffer words

English Vietnamese Addition

(3.11a) Had not this man braved him-steadily, powerfully, and resistlessly-ever since he bought him? (7, p.379)

(3.11b) Con người ấy chẳng đã lúc nào cũng thách thức nó từ ngày nó mua hay sao? (8, p.430)

sao

b. Gain in Meaning: Addition of Words/ Word Phrases

English/ Vietnamese Sameness Gain in Meaning

a runaway một người bỏ trốn

một nô lệ bỏ trốn một nô lệ + bỏ trốn

3.3.3.3. Frequency of loss and gain in the Vietnamese translation of rhetorical questions used in UTC

Table 5. Samples and percentage of loss and gain in the Vietnamese translation of rhetorical questions

Loss and Gain Occurrence Percentage

Loss

Structure Relative Clauses 5 8.6%

Meaning

Caused by Omission 6 10.3%

Using Unrelated

Words/ Phrases 4 6.9%

Gain

Lexis Addition of Vietnamese

Buffer Words 24 41.4%

MeaningAddition of

Words/ Word Phrases

19 32.8%

Total 58 100%

3.3.4. Loss and gain in the Vietnamese translation of metaphor used in UTC 3.3.4.1. Loss

a. Loss in Meaning + Loss in Meaning in terms of Structure

Structural shifts ( Article + Adj + N → N + Adj)

flashing eyes con mắt nảy

lửa

Page 55: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 51

+ Loss in Meaning caused by Omission

English/ Vietnamese Sameness Loss in Meaning

precious soul soul

soul + precious

linh hồn ∅

3.3.4.2. Gain

a. Gain in Structure + Addition of Words/ Word Phrases

English/ Vietnamese Sameness Gain in Meaning

Crying tiếng khóc

tiếng khóc xé ruột xé gan

tiếng khóc + xé ruột xé gan

3.3.4.3. Frequency of loss and gain in the Vietnamese translation of metaphor used in UTC

Table 6. Samples and percentage of loss and gain in the Vietnamese translation of metaphor

Loss and Gain Occurrence Percentage

Loss Meaning

Structure 5 10.9%

using Unrelated Words/ Phrases 6 13%

Caused by omission 8 17.4%

Gain Structures Idiomatic

Structure 12 26.1%

Meaning Addition of Words 15 32.6%

Total 46 100%

3.3.5. Loss and gain in the Vietnamese translation of personification used in UTC

3.3.5.1. Loss

Loss in Meaning: Omission of Words/ Word Phrases

English Vietnamese Omission

(3.12a) Then he thought he felt that hair twining round his fingers; and then, that it slid smoothly round his neck, and tightened and tightened, and he could not draw his breath. (7, p.350)

(3.12b) Nó tưởng như thấy một món tóc cuốn vào ngón tay, rồi lêu lên cổ. Những sợi tóc quấn chặt lấy cổ đến ngạt thở. (8, p.397)

smoothly tightened

3.3.5.2. Gain

Gain in meaning: Addition of Words/ Word Phrases

English Vietnamese Addition

(3.13a) Cassy sat in the corner, sullenly looking into the fire. (7, p.372)

(3.13b) Cátxi ngồi bên lò sưởi buồn rầu nhìn ngọn lửa nhảy múa. (8, p.419)

nhảy múa

3.3.5.3. Frequency of loss and gain in the Vietnamese translation of personification used in UTC

Table 7. Samples and percentage of loss and gain in the Vietnamese translation of personification

Loss and Gain Occurrene Percentage

Loss Meaning Caused by omission 5 41.7%

Gain Meaning Addition of Phrases 7 58.3%

Total 12 100%

3.4. Causes of Loss and Gain in the Vietnamese translation of SDs used in UTC

It is clear that loss and gain are unavoidable phenomena in the process of translation because of many reasons: translators’ ability to use language, translators’ choice of translation method and differences between the source language (SL) and the target language (TL). It can be noticed that sameness between two languages does not always exist because “meaning is a property of a language. A SL has a SL meaning, and a (TL) has a TL meaning” [3, p35]. Because of this feature, the appearance of loss or gain of meaning in translation cannot be avoided. And it is the last cause - differences between languages that affect translational equivalents. Therefore, loss and gain cannot be considered as mistakes but they are inevitable phenomena in the process of translation that each translator should be aware of in order to make his/ her product better.

4. Conclusion The study reveals that there are 5 SDs commonly used

in UTC which are categorized on the basis of linguistic levels in which lexical SDs consist of simile, repetition, metaphor and personification; syntactical SDs include only rhetorical questions. In the novel UTC, these SDs were used skillfully and flexibly.

It is found that there are in total 278 English samples demonstrating the 5 SDs. A number of the samples (197 English samples) are translated into Vietnamese with the features of SDs retained. However, the remaining (81 English samples) are translated into Vietnamese through the use of other language expressions in Vietnamese. In these two cases, both loss and gain are found in the translation of the original samples. More clearly, this research explores, describes and analyzes the cases of loss and gain in terms of syntax, lexis and meaning in the Vietnamese translational version of these SDs used in UTC. Among them, the phenomena of loss and gain in terms of lexis and meaning are dominant.

More clearly, owing to the differences between the two languages, sometimes the translators cannot express in accuracy the true meaning of the SL by using an exact equivalent in the TL. Although loss and gain in translation process are unavoidable and commonly seen as a phenomenon, not a mistake, the translators should try their best to convey as the same meaning as the SL does.

It is suggested that English language teachers should

Page 56: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

52 Nguyen Thị Quynh Hoa, Tran Thi Yen Nhi

know that it is very important to help students realize the usefulness and necessity of learning and employing SDs in literary works. Proper uses of SDs in writing certainly help to enhance confidence in students in using the language for communicative purposes. Besides, due to the situational context or cultural context, learners as well as language users can add more information to the target sentence to make its meaning clearer, or omit some components to make the translated sentences more acceptable and understandable to readers.

REFERENCES [1] Bassnett. (1991). Translation Studies. London: Routledge. [2] Bazerman, C. (1988). Shaping Written knowledge: The Genre and

Activity of the Experimental Article in Science. Madison: University of Winson Press.

[3] Catford, J. C. (1965). A Linguistics Theory of Translation. Oxford University Press, London.

[4] Đinh Trọng Lạc (2003). 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nhà xuất bản GD Hà Nội.

[5] Galperin, I. R. (1977). Stylistics, Moscow Higher School Publishing House.

[6] Mcguire, S.B. (1980). Translation Studies. New York, Methuen.

SOURCES OF DATA [7] Uncle Tom’s Cabin, (1952), The National Era (as a serial) & John p.

Jewett and Company, the United States. [8] Túp lều bác Tôm, (1990), Đỗ Đức Hiểu dịch. Hà Nội: Nhà xuất bản

Văn học.

(The Board of Editors received the paper on 12/12/2016, its review was completed on 15/12/2016)

Page 57: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 53

VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI TRONG LỊCH SỬ QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ (1949 – 1991)

BORDER ISSUES IN THE HISTORY RELATIONS BETWEEN CHINA - INDIA (1949 - 1991)

Nguyễn Thế Hồng Trường Đại học Đồng Tháp; [email protected]

Tóm tắt - Trong suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc và Ấn Độ đãtồn tại nhiều tranh chấp và bất đồng về lãnh thổ, mà đỉnh điểm làcuộc xung đột biên giới năm 1962. Cuộc chiến đã gây nên tổn thấtvề người và của cho cả hai nước. Tâm điểm mâu thuẫn giữa hainước Trung Quốc và Ấn Độ là đường ranh giới kiểm soát thực tế(còn gọi là đường Mc- Mahon), một đường ranh giới không chínhxác được các quan chức về thuộc địa của Anh và đại diện của nhànước Tây Tạng vẽ ra vào năm 1914. Trải qua nhiều vòng thươnglượng, đàm phán, hai nước Ấn Độ, Trung Quốc đã đạt được nhữngthành tựu quan trọng giải quyết vấn đề Tây Tạng và Sikkim. Tuynhiên, khu vực biên giới giữa hai nước vẫn luôn ở tình trạng căngthẳng và nguy cơ xung đột vẫn chưa hề mất đi.

Abstract - Throughout their long history, between China and India there have existed many disputes and disagreements over territory, culminating in the border conflict in 1962. The war caused the loss of lives and property to two countries. Focus of conflict between the two sides was the actual control border (Mc-Mahon), an incorrect boundary drawn by officials of the British colonial government and representatives of Tibet in 1914. After rounds of negotiations, India and China have made significant achievements ,resolving the issue of Tibet and Sikkim. However, the border area between the two countries has always been in tension and the risk of conflict still remains .

Từ khóa - Ấn Độ; Trung Quốc; biên giới; tranh chấp; đàm phán. Key words - India; China; border; dispute; negotiations.

1. Đặt vấn đề Trung tuần tháng 10/1962, một cuộc tấn công bất ngờ

từ nhiều phía của quân đội Trung Quốc lấn át lực lượng quân đội Ấn Độ. Trong thời gian ngắn, Trung Quốc kiểm soát được cao nguyên Aksai thuộc Kashmir về phía Tây và phía Đông tiến đến gần vùng Assam của Ấn Độ. Đến ngày 21/11 Trung Quốc tuyên bố đơn phương ngừng bắn và rút khỏi quân đội khỏi khu vực Đông Bắc Ấn Độ nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát khu vực Aksai. Sau cuộc chiến năm 1962, hai nước tiến hành đàm phán, thương lượng giải quyết tranh chấp biên giới. Kết quả đạt được nhiều thành tựu, bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều khác biệt và thách thức.

2. Nội dung

2.1. Nguồn gốc vấn đề tranh chấp biên giới trong lịch sử quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ

Vấn đề Tây Tạng được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc trong lịch sử. Thực dân Anh, sau cuộc chiến tranh nha phiến với triều đình Mãn Thanh, từ phía nam dãy Hymalaia đánh chiếm Khuyết Khẩu của Tây Tạng “âm mưu hoạt động lâu dài, hòng chia cắt Tây Tạng ra khỏi bản đồ Trung Quốc. Thực hiện giấc mộng thực dân địa. Giai đoạn lịch sử này đã tạo nên sự bất hòa trong quan hệ giữa người Hán và người Tây Tạng” [9, tr.170]. Lúc này, Ấn Độ còn là thuộc địa của Anh, trong hệ thống an ninh của họ Tây Tạng chiếm vị trí chiến lược rất quan trọng. Tây Tạng với tầm cao nóc nhà thế giới nhìn thẳng xuống bán đảo Ấn Độ, khống chế được Tây Tạng cũng có nghĩa là khống chế được căn cứ tiến quân của Ấn Độ. Nhằm ngăn ngừa thế lực bên ngoài khống chế Tây Tạng, đe dọa an ninh của Ấn Độ nên Anh đã coi việc tách Tây Tạng và vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ thuộc Anh. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế lực của thực dân Anh ở Nam Á suy yếu dần nên Anh có ý đồ chia cắt Tây Tạng khỏi bản đồ Trung

Quốc, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất, ảnh hưởng và sự khống chế của chính phủ Trung Quốc. Vì thế, Anh – Ấn lấy việc ủng hộ những nhân vật có thế lực mang sắc tộc khác nhau làm nhiệm vụ đối ngoại, thúc đẩy chính giáo thượng tầng tại Tây Tạng. Đồng thời, lợi dụng cuộc nội chiến giữa Quốc dân Đảng – Đảng cộng sản Trung Quốc đang diễn ra để gạt bỏ quan hệ giữa chính quyền địa phương Tây Tạng và chính quyền Trung ương. Sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập tháng 10/1949, Mao Trạch Đông tuyên bố Tây Tạng thuộc về Trung Quốc và quyết tâm đặt Tây Tạng dưới quyền kiểm soát hành chính và quân sự. Đối với Trung Quốc, sự quan tâm của Ấn Độ đến vùng này là can thiệp vào nội bộ, Ấn Độ thì“tự coi mình là chính quyền kế thừa chính quyền thực dân Anh trước đây” [2, tr.192 – 193]. Thủ tướng Nehru tuyên bố “Ấn Độ không có tham vọng chính trị hay đất đai gì ở Tây Tạng và cũng không đòi hỏi đặc quyền gì ở đó, nhưng mong muốn duy trì các quyền lợi thương mại cố hữu” [3]. Trên thực tế, sau khi thực dân Anh rút khỏi Nam Á, Ấn Độ vẫn không hoàn toàn bỏ chiến lược khống chế Tây Tạng. Vấn đề Tây Tạng trở thành động lực vô hình và không chính thức trong quan hệ hai nước.

Trung Quốc không chấp nhận lằn ranh giới kiểm soát thực tế. Lằn ranh này được ký kết tại Hội nghị Siemla ở Ấn Độ, do Anh tổ chức để giải quyết vấn đề Tây Tạng một cách hợp pháp vào năm 1914. Ấn Độ cho rằng đường biên giới Ấn – Trung đã được hoạch định theo giới tuyến ranh giới kiểm soát thực tế.Vấn đề biên giới trở nên phức tạp khi Trung Quốc công bố bản đồ với đường ranh lấn sâu vào lãnh thổ Ấn Độ, tổng diện tích tranh chấp là 125.000 km2, trong đó 90.000 km2 ở đoạn phía Đông (là ranh giới kiểm soát thực tế), 2000 km2 ở đoạn giữa và 330.00 km2 ở đoạn phía Tây (được gọi là vùng Aksai Chin). Khu vực tranh chấp mà Trung Quốc gọi là Nam Tây Tạng, phía Ấn Độ gọi là Aksai Chin. Mùa hè năm 1962, quan hệ Ấn – Trung đã diễn biến theo chiều hướng phức tạp, đầy căng thẳng

Page 58: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

54 Nguyễn Thế Hồng

đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới. Trung Quốc cho rằng tấn công Ấn Độ mục đích chính để chấm dứt những nỗ lực của Ấn Độ nhằm làm suy giảm sự kiểm soát của Trung Quốc ở vùng Tây Tạng, khôi phục lại hiện trạng “chủ quyền” trước năm 1949 và răn đe Ấn Độ có ý định xâm nhập vượt qua biên giới Trung Quốc. Chiến lược răn đe ngụ ý một sự tích tụ của các lực lượng quân sự đủ trong nhận thức hay thực tế để ngăn chặn tình trạng đe doạ an ninh từ các quốc gia khác. Về phía Ấn Độ, họ sẵn sàng tham chiến với Trung Quốc vì lợi ích an ninh quốc gia và vị thế quốc tế. Nếu Ấn Độ không thể bảo vệ cũng như không xác định được biên giới thì các quốc gia khác có thể bắt đầu đặt câu hỏi về vị trí của Ấn Độ trên trường chính trị thế giới. Mối đe dọa Trung Quốc đến biên giới gây ra ảnh hưởng sự độc lập, tự quyết và vị trí của Ấn Độ như là một cường quốc ở châu Á. 2.2. Những diễn biến chính về tranh chấp biên giới trong lịch sử quan hệ Trung Quốc – Ấn Độ (1949 – 1991)

Với chiều dài 3.550km biên giới chung giữa hai nước, có ba điểm nóng thường trực sẵn sàng gây nên sự căng thẳng trong quan hệ Ấn – Trung là “Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ”, “Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại”. Ngược lại, “Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan” [8, tr.201]. Khu vực vùng Kashmir mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành. Aksai Chin có vị trí chiến lược trong tam giác quan hệ Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc. Trong lịch sử, vùng này thuộc vương quốc Ladakh, nhưng theo Hiệp định 1904 ký giữa Anh với Tây Tạng, khi đó còn độc lập, Aksai Chin được sát nhập vào Ấn Độ thuộc Anh. Biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ được xác định theo đường ranh giới Mac-Mahon. Khi độc lập, Trung Quốc tuyên bố không công nhận Tây Tạng thuộc Ấn Độ đồng nghĩa với việc không công nhận đường ranh giới kiểm soát thực tế.

Tháng 1/1950, chính phủ Trung Quốc đề nghị nhà cầm quyền Tây Tạng cử đại diện đến Bắc Kinh nhằm thương lượng việc giải phóng Tây Tạng bằng con đường hòa bình, nhưng do sự chia rẽ của các thế bên ngoài là Anh và Mỹ nên quan nhiếp chính Tây Tạng khi đó là Dagzhag Ngawang Sungrab đã bác bỏ lời đề nghị. Sau đó,chính phủ Trung Quốc cho quân vượt sông Jinsha vào tháng 10/1950 để giải phóng Tây Tạng bằng vũ lực. Mỹ thúc giục một số nước khác đưa ra các kiến nghị ở Liên hiệp quốc nhằm can thiệp vào Tây Tạng nhưng không thành công. Trước các cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc, đến tháng 5/1951 Tây Tạng buộc phải ký Hiệp định 17 điểm và công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên lãnh thổ nhưng được duy trì hệ thống chính trị và xã hội của mình “Tây Tạng là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Vấn đề Tây Tạng hoàn toàn là vấn đề nội bộ của Trung Quốc.Quân đội giải phóng

nhân dân Trung Quốc phải tiến vào Tây Tạng, giải phóng nhân dân Tây Tạng và bảo vệ biên giới Trung Quốc. Đây là quyết tâm của chính phủ nhân dân Trung ương…Sự can thiệp của nước ngoài là không thể dung nhận” [2, tr.192]. Mặc dù, thừa nhận chính quyền trung ương Trung Quốc nằm quyền nhưng Tây Tạng luôn tồn tại tư tưởng muốn độc lập.Vì thế, tháng 3/1959, ở Tây Tạng cuộc nổi dậy do Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo. Hậu quả của các cuộc nổi dậy ở Lhasa, Đảng cộng sản Trung Quốc quyết định giải thể chính quyền địa phương Tây Tạng, khẳng định quyền quản lý trực tiếp và bắt đầu thực hiện chính sách cách mạng xã hội ở Tây Tạng. Đạt Lai Lạt Ma và những người cộng sự tị nạn sang vùng Tây Bắc của Ấn Độ. Trung Quốc yêu cầu Ấn Độ trục xuất các nhà lãnh đạo Tây Tạng và có biện pháp ngăn chặn các hoạt động hỗ trợ các lực lượng đối lập với chính sách của Trung Quốc trong vấn đề Tây Tạng.

Tháng 8 và tháng 10/1959, đã xảy ra hai cuộc xung đột vũ trang đẫm máu ở cả phía Đông và Tây biên giới hai nước. Xuất phát từ những căng thẳng, đối đầu về vấn đề tranh chấp biên giới đã làm cho mối quan hệ giữa hai nước đi xuống mức thấp nhất, cắt đứt các quan hệ chính trị ngoại giao, kinh tế, văn hóa. Tháng 7/1961, hai bên đã rút đại sứ về nước, dẫn đến việc 15 năm tiếp theo quan hệ hai nước chỉ còn cấp đại diện lâm thời. Ngày 20/10/1962, quân Trung Quốc xâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ ở nhiều nơi dọc theo biên giới. Quân Trung Quốc vượt qua lằn ranh giới kiểm soát thực tế ở khu vực phía Đông, có những nơi lấn sâu vào đến 100km.Ở khu vực phía Tây, Trung Quốc đánh chiếm các cứ điểm quân sự của Ấn Độ và tiến sâu vào lằn ranh. Quân Trung Quốc tiến qua các vị trí của quân Ấn Độ tại cả hai mặt trận, đánh chiếm được Rezangla tại Chushul ở mặt trận phía Tây và Tawang ở mặt trận phía Đông. Kết quả, Trung Quốc giành được thắng lợi trong cuộc chiến thì Ấn Độ lại chịu thất bại nặng nề. Số tử trận và tù binh phía Trung Quốc không được thông báo còn phía Ấn Độ “chết 1.383 người, bị bắt làm tù binh 3.968 người và mất tích 1.696 người” [3].Chiến tranh kết thúc khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngừng bắn vào ngày 20/11/1962 và rút quân ra khỏi phần lớn các khu vực chiếm được. Trung Quốc đề nghị đàm phán, Ấn Độ đồng ý thỏa thuận ngừng bắn và tổ chức cuộc gặp gỡ giữa những người đứng đầu chính phủ, nhưng đòi quân lính hai nước tái phối trí dọc theo lằn ranh của ngày 8/9/1962, vì theo New Dehli lằn ranh này mới phù hợp với nguyên trạng năm 1959. Cuộc gặp gỡ giữa hai bên diễn ra nhưng không mang lại kết quả như mong đợi.

Nhìn chung, cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 kết thúc đánh dấu một sự chuyển hướng triệt để trong đường lối ngoại giao và quân sự của Ấn Độ. Sau thất bại, Ấn Độ rút ra bài học phải xây dựng sức mạnh quân sự và tự bảo vệ nếu muốn có chỗ đứng trên thế giới, đồng thời Ấn Độ quay sang phía Liên Xô và bắt đầu ra sức trang bị vũ khí. Cuộc chiến tranh cũng thể hiện rõ những yếu tố chính trong học thuyết chiến lược quân sự của Trung Quốc. Thứ nhất, chiến thuật bất ngờ, đó là tấn công đối phương và kết thúc một cách đột ngột nhằm lấn áp đối thủ về mặt chính trị, tâm lý. Thứ hai, tập trung toàn diện là phải tấn công nhanh chóng và mạnh mẽ hết sức có thể. Mục tiêu ở đây là buộc đối phương phải giao chiến với kết cục nhanh. Thứ ba,

Page 59: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 55

chiến thuật tấn công phủ đầu nhằm thể hiện quan điểm cứng rắn sẵn sàng để “dạy một bài học” cho đối phương, nếu như đối phương dám thách thức. Thứ tư, chiến thuật chớp thời cơ tức là chờ đợi và khai thác thời điểm thích hợp, cuộc chiến biên giới với Ấn Độ diễn ra đồng thời với cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cu ba năm 1962, đưa thế giới đứng bên bờ vực của chiến tranh hạt nhân đứng đầu là Liên Xô và Mỹ, mục đích khi quyết định tấn công Ấn Độ của Trung Quốc là phân tán sự chú ý của những quốc gia, đồng minh có thể hỗ trợ cho Ấn Độ. Thứ năm, đề cao chiến lược “tấn công phòng thủ” của Trung Quốc để phá thế bị động khi đối phương có những hành động đe dọa an ninh quốc gia, nhằm lí giải cho “mục đích tự vệ” mà Trung Quốc đưa ra. Thứ sáu, sẵn sàng mạo hiểm nhằm mang lại kết quả cần thiết và có lợi nhất.

Bên cạnh đó, nhân tố Pakistan trong quan hệ tam giác Ấn Độ –Pakistan–Trung Quốc càng làm cho mâu thuẫn hai nước thêm căng thẳng dẫn đến hệ lụy trong đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới. Kể từ những năm 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và Pakistan có những bước phát triển mạnh mẽ “mối quan hệ quân sự gần gũi của Trung Quốc với Pakistan đưa đến tư tưởng chiến tranh và thù địch đối với Ấn Độ của Pakistan và những nổ lực sở hữu thêm vũ khí hạt nhân của nước này” [10, tr.79]. Năm 1965, chiến tranh Pakistan - Ấn Độ lần thứ hai. Cuộc chiến không chỉ làm cho mối quan hệ hai nước xấu đi mà còn kéo theo quan hệ của những đồng minh hai nước, quan trọng nhất là Trung Quốc, Mỹ và Liên Xô trở nên bất ổn và căng thẳng với nhau. Đứng về phía Pakistan, giữa tháng 9/1965 Trung Quốc gửi tối hậu thư yêu cầu Ấn Độ dỡ bỏ các pháo đài trên biên giới Trung - Ấn, lập trường đó bị Liên Xô phản đối. Việc làm của Trung Quốc không chỉ làm cho quan hệ của hai nước Trung - Ấn thêm căng thẳng mà còn làm cho mối quan hệ Trung - Xô thêm xấu đi.Tháng 12/1971, lần thứ ba diễn ra chiến tranh giữa Pakistan - Ấn Độ, lần này không xuất phát từ vấn đề Kashmir, mà từ việc Ấn Độ ủng hộ Đông Pakistan độc lập, tách khỏi Pakistan. Cuộc xung đột này còn kéo theo những đồng minh của họ. Mỹ, Trung Quốc tăng cường viện trợ về kinh tế, vũ khí, cố vấn và quân sự cho Pakistan. Trước tình hình đó ngày 9/8/1971 chính phủ Ấn Độ kí với Liên Xô “Hiệp ước hòa bình, hữu nghị, hợp tác”. Cuối tháng 12 cuộc chiến kết thúc thắng lợi thuộc về Ấn Độ bằng Hiệp định Simla được kí ngày 2/7/1972. Với thắng lợi này vị thế của Ấn Độ được tăng cường trên trường quốc tế và liên minh Xô - Ấn ngày càng được củng cố. Trái lại, mâu thuẫn Trung – Xô, Trung - Ấn ngày càng diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn.

Từ đầu thập niên 70 quan hệ quốc tế bước vào giai đoạn hòa dịu, cùng với những thay đổi trong quan hệ Xô – Mỹ. Từ nửa sau thập niên 80, khi M.Goócbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô, quan hệ Xô – Mỹ chuyển từ đối đầu sang đối thoại để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nước và quan hệ quốc tế. Trải qua một chặng đường dài khó khăn, quá trình đàm phán cắt giảm vũ khí chiến lược giữa Liên Xô và Mỹ đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo cơ sở quan trọng thúc đẩy cuộc Chiến tranh lạnh đi vào giai đoạn kết thúc. Trước những thay đổi của tình hình quốc tế, với mong muốn có một môi trường hòa bình ổn định tại châu Á và tránh việc hướng về Liên Xô, Ấn Độ từng bước

cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc đã có một số động thái đáp lại mong muốn bình thường hóa quan hệ của Ấn Độ trong xu thế hòa dịu của thế giới cũng như khu vực Nam Á, nhất là sau khi Trung Quốc và Mỹ ra Thông cáo Thượng Hải năm 1972. Mặc dù còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết trọn vẹn nhưng với nỗ lực từ hai phía, tháng 4/1976 Trung - Ấn thỏa thuận khôi phục đại diện ngoại giao ở cấp đại sứ sau 15 năm gián đoạn. Tiếp đó, hai nước tăng cường trao đổi các đoàn ngoại giao, báo chí, nối lại quan hệ kinh tế, thương mại. Ấn Độ có một bước tiến mang tính chất đột phá trong mối quan hệ với Trung Quốc, đó là chuyến viếng thăm Trung Quốc của Thủ tướng Rajiv Ganhdi từ ngày 19 đến 23/12/1988. Sau 30 năm gián đoạn, chuyến viếng thăm này đã mở đầu cho một thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước vào đầu thập niên 90. Nhìn chung, trong thời kỳ thập niên 70 đến đầu thập niên 90, xuất phát từ bối cảnh quốc tế và nhu cầu của hai nước, Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu có những bước cải thiện mối quan hệ đầy mâu thuẫn và căng thẳng sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1962. Dù vậy, sau cuộc chiến năm 1962, giữa Trung Quốc và Ấn Độ còn xảy ra các cuộc đụng độ như năm 1967 tại Nathu La, năm 1987 tại Sumdorong Chu Valley. 2.3. Nhận xét về quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ – Trung Quốc trước 1991

Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ về vấn đề biên giới trãi qua nhiều cung bậc lúc hoà dịu xen lẫn căng thẳng, xung đột. Những thế kỉ trước Ấn Độ và Trung Quốc rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Sau khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc thì mối quan hệ ngoại giao mới bắt đầu có những dấu ấn. Về cơ bản vấn đề biên giới chưa là nhân tố thách thức và chi phối quan hệ hai nước trong thập niên 50 vì cả hai có cùng mục tiêu ủng hộ chống đế quốc, chống chiến tranh, đoàn kết các nước phụ thuộc, thuộc địa, bảo vệ hòa hình thế giới. Nhưng bắt đầu từ năm 1959, hàng loạt động thái của hai bên có liên quan đến khu vực biên giới chung đã làm mối quan hệ Trung - Ấn ngày càng xấu đi.

Các cuộc chiến tranh, xung đột giữa hai nước đỉnh cao là cuộc chiến năm 1962 xuất phát từ nhiều nhân tố tác động. Trong đó nổi bật là môi trường an ninh chiến lược, chính vị trí địa lý của Ấn Độ khiến Ấn Độ nhạy cảm trong việc lo sợ về những gì bao quanh. Phía Tây là Pakistan – được xem là đồng minh của Trung Quốc từ khi trở thành một quốc gia độc lập mà Ấn Độ đã có nhiều cuộc xung đột chính trị lẫn quân sự. Ấn Độ và Pakistan luôn ở trong tình trạng quan hệ thù địch bắt nguồn từ nguyên nhân tôn giáo và lịch sử. Cuộc tranh chấp ngày càng phức tạp hơn vì có thêm những thế lực bên ngoài tham gia, tranh chấp nổi bật là quyền kiểm soát khu vực Kashmir. Khi đó, Trung Quốc trong thời kì này lo lắng về sự chia rẽ, mất ổn định trong nước với bối cảnh Chiến tranh lạnh và thù địch với Mỹ. Sau khi chính quyền địa phương Tây Tạng bị giải thể, lãnh đạo và những cộng sự phải tị nạn sang vùng Tây Bắc của Ấn Độ. Chính phủ Trung Quốc không hài lòng về chính sách tị nạn chính trị của Ấn Độ cho những phần tử chống đối Trung Quốc vì thế họ luôn thận trọng đối với mọi nguy cơ đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ từ phía bên kia biên giới. Như vậy, những lo lắng chiến lược tương đồng giữa

Page 60: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

56 Nguyễn Thế Hồng

hai quốc gia bên sườn núi Himalaya trở thành một trong nhiều nguyên nhân chính gây ra các cuộc xung đột giữa hai nước.

Mặc dù luôn trong tình trạng căng thẳng nhưng các cuộc đối thoại trực tiếp của đại diện hai nước trở nên cần thiết, những bước đột phá trong đàm phán thực sự cần đến lòng dũng cảm, sáng suốt của các nhà lãnh đạo. Đến những cuối thập niên 60 thì hai nước cơ bản đã đạt được sự đồng thuận nhưng vẫn còn tiềm ẩn yếu tố mang tính bùng nổ về biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại. Từ năm 1969, ông Narayanan giữ cương vị là Đại sứ đầu tiên của Ấn Độ ở Trung Quốc sau một thời gian dài gián đoạn bởi cuộc chiến năm 1962. Năm 1976, Ấn Độ cử Đại sứ Narayanan sang Bắc Kinh, sau đó phía Trung Quốc thông báo việc cử Đại sứ của họ sang New Dehli. Đây được xem là bước khởi đầu trong việc hàn gắn lại mối quan hệ hai nước và đi đến những thỏa thuận tiếp theo trong việc giải quyết tranh chấp biên giới. Đến năm 1980, Indira Gandhi trở lại cầm quyền và tiếp tục ủng hộ quan điểm việc cải thiện tốt quan hệ với Trung Quốc đã tạo điều kiện để tiến tới một sự hòa giải trong vấn đề biên giới, không phải dùng vấn đề biên giới làm “lá bài” mặc cả trong việc cải thiện quan hệ hai nước. Bước tiến quan trọng trong quan hệ Trung – Ấn được đánh dấu bằng chuyến thăm Bắc Kinh từ ngày 19 – 21/12/1988 của Thủ tướng Rajiv Gandhi. Tại Bắc Kinh, Thủ tướng Rajiv Gandhi đã 4 lần hội đàm với Thủ tướng Lý Bằng và gặp gỡ Đặng Tiểu Bình. Trong chuyến thăm này, hai bên đạt được thỏa thuận là nhất trí cho rằng 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình cần được coi là cơ sở trong quan hệ quốc tế và xây dựng một trật tự chính trị – kinh tế quốc tế mới. Trên cơ sở đó, khôi phục, cải thiện và phát triển quan hệ láng giềng, hai bên quyết định thành lập nhóm công tác liên hợp về biên giới để từng bước giải quyết những vấn đề biên giới do lịch sử để lại. Từ tháng 9/1989 đến tháng 2/1992 nhóm công tác liên hợp về vấn đề biên giới của hai nước đã tiến hành bốn vòng đàm phán. Tháng 8/1990, tại vòng hội đàm lần thứ hai được tiến hành tại Ấn Độ, hai nước đồng ý cho các nhân biên phòng hai nước tiến hành gặp gỡ không định kì. Tuy cả hai bên vẫn không thể chính thức giải quyết những khác biệt nhưng những căng thẳng tại vùng biên giới đang tranh chấp của họ đã giảm đáng kể, nhờ những thỏa thuận xây dựng lòng tin và cắt giảm quân đội được ký kết vào những năm 1990.

Bên cạnh đó, những thách thức và khó khăn còn tồn động. Thực tế, Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước lớn duy nhất trên thế giới chưa xác định xong đường biên giới, sau gần 19 năm thương lượng New Dehli vẫn không thể thuyết phục được Bắc Kinh hoạch định đường ranh giới kiểm soát thực tế. Hơn 4000km đường ranh giới phân chia dãy Hymalaya tiếp tục để ngỏ. Trung Quốc không chỉ né tránh việc phê chuẩn ranh giới kiểm soát thực tế mà còn tuyên bố chủ quyền đối với một diện tích lớn lãnh thổ Ấn Độ, trên bản đồ mới nhất của Trung Quốc, ba bang của Ấn Độ bị tách rời khỏi Ấn Độ. Bang Arunachal Pradesh thuộc Trung Quốc, bang Sikkim là khu vực độc lập và bang Giammu và Kashmir vùng tranh chấp, đồng thời trên bản đồ Trung Quốc lại coi Aksai Chin và thung lũng Shaksgam ở Kashmir thuộc về Trung Quốc. Sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1962, trong thời kỳ đầu thập niên 70 đến đầu thập

niên 90, Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu có những động thái nhằm cải thiện quan hệ hai bên. Nhưng việc đường ranh giới kiểm soát thực tế không được phân định rõ ràng gây lo ngại cho Ấn Độ, khi đường ranh giới chưa được thống nhất thì cả hai nước điều không thể tiến hành các hoạt động kiểm soát thực sự nhằm ngăn chặn sự xâm nhập cũng như các hoạt động khác vào ranh giới này.Trong đàm phán giải quyết vấn đề biên giới với Ấn Độ, Trung Quốc luôn dịch chuyển giữa hai lập trường cơ bản: thứ nhất, phải kiên nhẫn; thứ hai, phải tìm ra “giải pháp trọn gói” cho những mâu thuẫn chủ quyền. Khi vấn đề đường ranh giới kiểm soát thực tế bị đẩy xuống hàng thứ yếu thì Trung Quốc có lợi thế trong thương lượng tranh chấp lãnh thổ và quay lại đề nghị ban đầu là từ bỏ tuyên bố chủ quyền vùng Đông Bắc Ấn Độ nếu New Dehli chấp nhận sự kiểm soát của Bắc Kinh đối với những vùng đã chiếm của Ấn Độ trước đây. Vào thời điểm diễn ra xung đột Kargil với Pakixtan, Ấn Độ cố gắng làm dịu những sự kiện xảy ra tại vùng tranh chấp với Trung Quốc. Nhưng trong thời gian đó, quân đội Trung Quốc tăng cường gia tăng những cuộc xâm nhập vào khu vực Ladakh của Ấn Độ. Qua hành động này, Trung Quốc muốn gửi đến Ấn Độ thông điệp ngoài việc phải bảo vệ Kargil, Siachen và Quốc lộ 1A, Ấn Độ không bao giờ được quay lưng hay bỏ qua Trung Quốc.Ấn Độ cố gắng theo đuổi một chính sách đối ngoại thực tế hơn, nhưng đối với họ, Trung Quốc vẫn được xem là một mối lo ngại lớn. Động thái diễn ra trong bối cảnh Ấn Độ và Trung Quốc tiếp tục căng thẳng do tranh chấp dai dẳng về vùng Aksai Chin đang do Bắc Kinh kiểm soát và bang Arunachal Pradesh thuộc sự quản lý của New Delhi. Ấn Độ tuyên bố Aksai Chin là một phần của Ladakh và cáo buộc Trung Quốc lợi dụng việc kiểm soát vùng này để tiếp tục lấn vào Ladakh. Trong khi Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền đối với Arunachal Pradesh và gọi bang này bằng tên Nam Tây Tạng thuộc Khu tự trị Tây Tạng.

Từ tranh chấp, giải quyết vấn đề biên giới giữa Ấn Độ với Trung Quốc trong lịch sử có thể thấy:

Một là, vấn đề biên giới quốc gia là một vấn đề liên quan tới tương quan lực lượng giữa các nước trong quan hệ quốc tế. Khi quốc gia mạnh, biên giới, lãnh thổ được mở rộng và ngược lại khi suy yếu lãnh thổ, biên giới của một nước thường bị thu hẹp lại. Một phần nguyên nhân chính xuất phát từ hệ lụy do chủ nghĩa thực dân để lại, cả Ấn Độ và Trung Quốc khi còn là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây phải chấp nhận chính sách chia để trị và biên giới quốc gia bị “vẽ” theo ý đồ của các nước thống trị.

Hai là, sau khi giành độc lập vấn đề biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia của hai nước. Chính do đặt lợi ích về biên giới quốc gia nói riêng cũng như lợi ích quốc gia dân tộc nói chung cả Ấn Độ và Trung Quốc đã không nhân nhượng nhau và không giải quyết được tranh chấp về biên giới chung giữa hai nước, để xảy ra xung đột dẫn đến chiến tranh biên giới năm 1962 và nhiều cuộc xung đột nhỏ khác dọc theo biên giới hai nước.

Ba là, vấn đề biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc không giải quyết trọn vẹn trước khi Chiến tranh lạnh kết thúc do có sự tác động, can thiệp từ các yếu tố bên ngoài, cụ thể là các nước đồng mình của hai nước như Liên Xô,

Page 61: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 57

Mỹ, Pakistan. Điều quan trọng, Ấn Độ và Trung Quốc đều muốn thiết lập quan hệ đồng minh để đối trọng, gây sức ép nhằm có lợi cho họ trên bàn đàm phán về giải quyết tranh chấp biên giới.

3. Kết luận Từ những năm 50 thế kỉ XX do những bất đồng trong

vấn đề Tây Tạng và biên giới chưa hoạch định đã làm cho quan hệ hai nước thêm căng thẳng dẫn đến hậu quả là diễn ra các cuộc chiến tranh biên giới. Đến đầu những năm 70, hai nước có những động thái cải thiện quan hệ song phương vì lợi ích quốc gia. Hiện nay, Ấn Độ và Trung Quốc tích cực cải thiện mối quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là tiếp tục giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới trong lịch sử còn tồn động. Ấn Độ – Trung Quốc đạt được những thành tựu quan trọng về vấn đề Tây Tạng, Sikkim nhưng tranh chấp ở vùng Kashmir và Arunachal Pradesh vẫn chưa được giải quyết. Trong lương lượng, giải quyết vấn đề biên giới, đôi khi xảy ra những bất đồng và không thống nhất vì lợi ích, quan điểm giữa các nước khác nhau là điều khó tránh. Điều quan trọng là xử lý thế nào cho thoả đáng, Trung Quốc đã từng giải quyết vấn đề biên giới do lịch sử để lại với nhiều nước, nhưng còn vấn đề biên giới với Ấn Độ thì chưa giải quyết xong. Vì thế, hai nước cần tăng cường hơn nữa việc xây dựng được lòng tin lẫn nhau, nhìn nhận lại quá khứ để giải quyết tốt vấn đề biên giới còn tồn động trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Brahma Chellaney, How China fights: Lessons from the 1962 Sino

– Indian war, Newsweek International, Vol.160, No.19, 2012, rus.ruvr, 30.10.2012, http://www.newsweek.com/how-china-fights-lessons-1962-sino-indian-war-65429.

[2] Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, tập 1: 1945 – 1975, Nxb ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, 2009.

[3] Đỗ Tuyết Khanh, Quan hệ hợp tác cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong thế giới đa cực, Tạp chí Nghiên cứu & thảo luận, số 12 – tháng 11/2007, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_DTKhanh.htm

[4] Trần Thị Lý, Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến 2000, Nxb KHXH, 2002.

[5] Lorenz Lüthi, Sino-Indian Relations, 1954-1962, Eurasia Border Review Special Issue on China’s Post-Revolutionary Borders, 1940s-1960s, page 95 – 119, http://srch.slav.hokudai.ac.jp/publictn/eurasia_border_review/Vol3SI/luthi.pdf\

[6] Ivan Lidarev, History's Hostage: China, India and the War of 1962, August 21, 2012, http://thediplomat.com/2012/08/historys-hostage-china-india-and-the-war-of-1962/.

[7] Maxwell, Neville, Sino-Indian Border Dispute Reconsidered, in Economic and Political, Weekly , April 10, 1999.

[8] Lê Văn Mỹ, Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở cửa (1978 – 2008), Nxb KHXH, Hà Nội, 2009.

[9] Khuất Thạch, Những sự kiện quan trọng của nước CHND Trung Hoa, Nxb Thanh Hóa, 2003.

[10] Võ Xuân Vinh, Quan điểm của Ấn Độ về sự trỗi dậy của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 8 (96), 2009.

(BBT nhận bài: 30/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 28/02/2017)

Page 62: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

58 Nguyễn Thị Liên

VỀ ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ LÁY BIỂU ĐẠT MÀU SẮC KIỂU "YẾU TỐ CHỈ MÀU + YẾU TỐ LÁY" TRONG TIẾNG VIỆT

ABOUT THE SEMANTIC CHARACTERISTICS OF REDUPLICATIVE WORDS OF COLOR IN PATTERN “EXPRESSIVE COLOR ELEMENTS + REDUPLICATIVE FACTORS”

IN VIETNAMESE

Nguyễn Thị Liên Trường Đại học Phú Yên; [email protected]

Tóm tắt - Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt thu hút sựquan tâm của các nhà ngôn ngữ học nói chung và các nhà Việtngữ nói riêng. Ở cấp độ từ, phạm trù màu theo cách tri nhận củangười Việt bao gồm các thuộc tính được từ vựng hóa bởi một sốlượng từ biểu thị cụ thể thuộc tính của màu sắc. Các đơn vị biểuđạt màu sắc trong tiếng Việt tuy rất phong phú, rất đa dạng songvẫn tuân theo các phương thức tạo từ. Phát hiện và nắm được cácquy luật, mô hình biểu đạt này chính là hướng sáng tạo nên nhiềucách biểu đạt màu sắc gắn liền với sự vật hiện tượng vốn vô cùngđa dạng, phát triển không ngừng trong thực tế. Mỗi đơn vị, kiểucấu trúc biểu đạt màu đều ẩn chứa cách nhìn, quan niệm củangười Việt về thế giới xung quanh. Tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩacủa các từ láy biểu đạt màu sắc kiểu “yếu tố chỉ màu + yếu tố láy”tiếng Việt là mong muốn của chúng tôi trong bài viết này.

Abstract - Much attention has been paid to the word system denoting color in Vietnamese by philologists in general and Vietnamese philologists in particular. At the level of words, color categories in the Vietnamese cognitive way includes the properties lexicalised by a number of the words specifically indicating the attribution of color. The expressive color units in Vietnamese are not only plentiful and diverse but also adhere to the method of forming words. Discovering and deeply understanding the rules and expression patterns are making color expression innovations associated with phenomena which are extremely diverse, and continuously developing in practice of life. Each unit and expressive color structure type contain views and notions ofVietnamese people about the world around them. Therefore, researching deeply on the semantic characteristics of reduplicative words of color in the pattern "expressive color elements + reduplicative factors” in Vietnamese is our focus in this article.

Từ khóa - từ ngữ; màu sắc; hệ thống; ngữ nghĩa; cấu trúc biểu đạt Key words - words; color; system; semantics; structure of indication

1. Đặt vấn đề

Cùng với một số tiểu hệ thống từ vựng ngữ nghĩa khác, hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Giải thích điều này, các nhà ngôn ngữ học thường hay nhắc đến lý thuyết ngôn ngữ về mảng hiện thực được tri nhận thông qua việc định danh từ vựng, tức việc xác định các trường từ vựng ngữ nghĩa trên cơ sở quy chiếu hiện thực mà ngôn ngữ đó cảm nhận. Bởi lẽ, màu sắc, như chúng ta biết, là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan trong thế giới vật chất. Song sự nhận thức và phân biệt màu sắc lại có tính chủ quan đối với từng cộng đồng người nhất định, với những nét văn hoá nhất định.

Ở cấp độ từ, phạm trù màu theo cách chia cắt của người Việt bao gồm một số thuộc tính được từ vựng hóa bởi một số lượng từ đủ để biểu thị cụ thể thuộc tính của màu ấy. Do vậy, mặc dù đã có tên gọi “xanh” chỉ màu xanh nói chung, tiếng Việt, đồng thời lại có cả các hình thức: xanh da trời, xanh lá cây, xanh lá mạ… để gọi tên các màu được coi là màu phụ của màu xanh. Mặt khác, các thuộc tính về màu cũng được ghi nhận hết sức cụ thể bằng phương thức ghép một yếu tố chỉ phạm trù và một yếu tố chỉ sắc độ, hoặc ghép một yếu tố chỉ phạm trù và yếu tố láy kiểu “trắng lôm lốp, “xanh biêng biếc”… hai phương thức cấu tạo từ vốn được xem là không thể thiếu khi nghiên cứu các lớp từ tiếng Việt về mặt cấu tạo. Với cách biểu đạt ấy, số lượng từ biểu đạt màu sắc trong tiếng Việt có khả năng phát triển không ngừng theo sự tri nhận các sắc độ khác nhau của từng phạm trù màu nói riêng và thế giới màu sắc nói chung được ghi nhận dựa trên cảm nhận thị giác và quan điểm truyền thống của người Việt, vốn tồn tại và luôn luôn biến đổi không ngừng. Với mong muốn đem lại một cái nhìn tương đối "trọn vẹn" về đặc điểm ngữ nghĩa của hệ thống từ ngữ biểu đạt màu sắc

trong tiếng Việt, ở bài viết này, chúng tôi hướng sự quan tâm vào một phạm vi nhỏ, tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của cấu trúc biểu đạt màu sắc kiểu "yếu tố chỉ màu + yếu tố láy" trong tiếng Việt.

2. Giải quyết vấn đề Cấu trúc biểu đạt màu kiểu “yếu tố chỉ màu + yếu tố láy”

bao gồm hàng loạt các từ biểu đạt màu sắc hình thành trên cơ sở láy lại hình thức ngữ âm của các tính từ biểu đạt màu sắc như: xam xám, đo đỏ, tim tím, trăng trắng, hồng hồng, đen đen và các từ có hình thức láy lại các yếu tố chỉ sắc độ của các từ biểu đạt màu sắc kiểu: trắng lôm lốp, trắng phau phau, đỏ hây hây, đỏ hây hẩy, đỏ hon hỏn, đỏ đòng đọc… Đây là những đơn vị “được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay lặp lại có kèm theo những biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có, chúng vừa có sự hài hoà về ngữ âm, vừa có giá trị gợi, cảm gợi tả” [4, tr.126].

Như vậy, đặc điểm nổi bật của các từ biểu đạt màu sắc có cấu trúc kiểu "yếu tố chỉ màu + yếu tố láy” là sự hài hoà về mặt ngữ âm giữa hai yếu tố bộ phận: “yếu tố chỉ màu”, "yếu tố chỉ màu + sắc độ" và “yếu tố láy”. Cụ thể là phương thức láy lại toàn bộ hay một bộ phận hình thức âm tiết với thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh, tức quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm: nhóm cao (thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang) và nhóm thấp (thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của đơn vị có nghĩa. Nếu căn cứ vào hình thức và ý nghĩa của yếu tố láy trong cấu trúc biểu đạt màu sắc kiểu này, có thể chia các từ láy biểu đạt màu sắc có cấu trúc láy thành hai nhóm nhỏ:

+ Nhóm thứ nhất: bao gồm các từ được cấu tạo theo phương thức láy, lặp lại toàn bộ hoặc có sự biến đổi ngữ âm hình thức âm tiết của các tính từ biểu đạt màu trong tiếng

Page 63: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 59

Việt - vốn hầu như đều có khả năng “nhân đôi” tạo nên hàng loạt các từ biểu đạt màu sắc với ý nghĩa giảm nhẹ, “loang” ra của độ màu. Chẳng hạn: tim tím, đo đỏ, trăng trắng, xanh xanh, nâu nâu, hồng hồng, hung hung, vàng vàng, đen đen, xam xám, lam lam, ngà ngà, nâu nâu…

Các từ thuộc nhóm này chỉ bao gồm hai âm tiết, trong đó, âm tiết “có nghĩa” tức âm tiết chỉ màu có một vị trí tương đối linh động: có thể đứng trước yếu tố láy (vàng vàng, đen đen, hung hung) đồng thời cũng có thể đứng sau yếu tố láy (xam xám, đo đỏ, trăng trắng...)

Ví dụ: “Bầu trời tắt gió càng về quá trưa càng đặc sánh. Thấy nghẹn thở. Trời vàng vàng cái mặt màu da đồng”.

“Hòn đảo gần hòn đảo xa, chỉ còn mờ mờ xam xám cái chót đỉnh, còn chân đảo thì đã mất trong cái mịt mùng của bụi muối ẩm”.

(Cô Tô – Nguyễn Tuân) “Hoa cà tim tím Hoa mướp vàng vàng Hoa lựu chói chang Đỏ như đốm lửa”

(Hoa kết trái – Thu Hà) + Nhóm thứ hai: bao gồm các từ được cấu tạo theo

phương thức láy, có hình thức lặp lại toàn bộ hoặc có sự biến đổi hình thức ngữ âm của yếu tố chỉ sắc độ trong các hình thức biểu đạt màu kiểu: trắng phau phau, trắng lôm lốp, xanh thăm thẳm, đỏ hon hỏn, đỏ quành quạch, đỏ chon chót, đỏ đòng đọc, đỏ hoen hoét, đỏ hây hây, đỏ lòm lom, đen nhưng nhức, đen nhem nhẻm, đen thui thủi, đen lay láy, đen kìn kịt, xanh biêng biếc, xanh ngăn ngắt, xanh roi rói …xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm văn học

“Xanh cây xanh cỏ xanh đồi Xanh rừng xanh núi da trời cũng xanh Áo chàm cô mán thanh thanh Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư” (Vài nét rừng –Nguyễn Bính) “Buổi chiều vàng đùng đục trên hòn đảo, cũng như

biển bão đang đục ngầu quanh trụ sở hợp tác xã Tô Bắc” (Cô Tô – Nguyễn Tuân) Nếu ở nhóm một, vị trí của “yếu tố chỉ màu” có thể bắt

gặp hầu hết các từ đơn biểu đạt màu sắc trong tiếng Việt, thì trong các từ biểu đạt màu sắc kiểu láy lại yếu tố sắc độ này chỉ có một số lượng hữu hạn các từ biểu đạt màu sắc có yếu tố chỉ sắc độ có thể đảm nhiệm vị trí này. Màu "trắng" chẳng hạn, có rất nhiều sắc độ khác nhau được biểu đạt bằng hàng loạt các từ: trắng bạch, trắng bệch, trắng bong, trắng dã, trắng nuột, trắng ngần, trắng ởn, trắng nõn, trắng phếch, trắng tinh, trắng toát, trắng xoá,… nhưng chỉ có các sắc độ "phau", "lốp” mới có khả năng đảm nhiệm vị trí “yếu tố chỉ màu” trong cấu trúc biểu đạt màu có hình thức láy lại hình thức âm tiết của yếu tố chỉ sắc độ. Tương tự, tiếng Việt có hàng loạt các từ biểu đạt màu đỏ với các sắc độ khác nhau: đỏ chói, đỏ au, đỏ bừng, đỏ cạch, đỏ chóe, đỏ chót, đỏ thắm, đỏ gay, đỏ hoe, đỏ hỏn, đỏ khè, đỏ lòm, đỏ lự… nhưng chỉ có các sắc độ “quạch”, “đọc”, “hoét”, “hỏn”, “hây” có khả năng láy lại để trở thành yếu tố láy trong các từ láy biểu đạt màu sắc có hình

thức láy lại yếu tố chỉ sắc độ: đỏ hoen hoét, đỏ hon hỏn, đỏ hây hây, đỏ đòng đọc, đỏ quành quạch…

Láy, như chúng ta biết, là một phương thức tác động vào hình vị, tạo từ mới từ một từ tố gốc. Sự lặp lại từng phần và toàn phần diễn ra dưới ba dạng chuyển đổi có quy tắc của ba bộ phận: âm đầu, khuôn vần và thanh điệu. Chính sự lặp lại từng phần, còn để dành chổ cho sự chuyển đổi của các phần âm đầu và khuôn vần đã làm rộng mở những sắc thái ý nghĩa mới, khác biệt, làm “bung ra” những sắc thái ý nghĩa phong phú và đa dạng.

Chính vì vậy, đề cập đến đặc trưng cũng như giá trị ngữ nghĩa của lớp từ láy nói chung, các nhà Việt ngữ đều thừa nhận rằng, về cơ bản, ngữ nghĩa của các từ thuộc nhóm này là sự cụ thể hoá, sắc thái hóa ý nghĩa từ cơ sở. Bằng cách áp dụng phương pháp phân tích nét nghĩa trong định nghĩa về màu của của các từ biểu đạt màu sắc có hình thức láy trong từ điển, chúng tôi nhận thấy rằng:

Hầu hết các từ biểu đạt màu sắc kiểu “Yếu tố chỉ màu + Yếu tố láy” dù tồn tại dưới dạng nào (láy từ, láy âm tiết) có thể được phân tích thành các nét nghĩa sau:

+ Nét nghĩa phạm trù. + Nét nghĩa miêu tả (nét nghĩa cụ thể, nét nghĩa so sánh). + Nét nghĩa đánh giá. + Nét nghĩa chỉ phạm vi. Chẳng hạn: đỏ hon hỏn (có màu) (đỏ) (như màu da đứa trẻ). đỏ hây hây (có màu) (đỏ phơn phớt) (với vẻ mỡ màng)

(chỉ màu da). Như vậy, sự lặp lại toàn phần ý nghĩa của một từ tố gốc

có thể đem đến cấu trúc ngữ nghĩa hoàn toàn khác biệt giữa các từ trong nhóm với nhau. Đó là sự thiếu hụt nét nghĩa, thay đổi nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của mỗi từ. Có từ bao gồm các nét nghĩa tương ứng với các từ biểu đạt màu sắc khác trong hệ thống từ vựng biểu đạt màu sắc kiểu: “Yếu tố chỉ màu + Sắc độ”. So sánh “đỏ quành quạch” và “đỏ quạch”, ta thấy về cơ bản chúng có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau ngoại trừ việc yếu tố chỉ sắc độ trong cấu trúc ngữ nghĩa của “đỏ quành quạch” được đẩy đến mức độ cao hơn trong “đỏ quạch”. Điều này cho thấy, các từ biểu đạt màu sắc trong nhóm này đều mang nét nghĩa so sánh, đồng thời một số từ lại bao gồm cả hai thành phần:

+ Thành phần nghĩa miêu tả: với các nét nghĩa (có màu), (độ màu).

+ Thành phần nghĩa đánh giá: gây cảm giác nào đó được cảm nhận qua chủ quan của con người.

Các kiểu ngữ nghĩa này, ngoài ra còn được “ấn định” trong một phạm vi cụ thể, phạm vi hoạt động của từ. Chẳng hạn, những hình thức như: xanh ngăn ngắt, trắng muôn muốt, vàng hoe hoe… có thể được dùng để miêu tả, ứng với nhiều sự vật hiện tượng khác nhau (đồng lúa, nương dâu, bầu trời, nước da, tóc…) nhưng các hình thức như: đen lay láy, bạc phơ phơ… lại được sử dụng giới hạn ở một phạm vi cụ thể. Song, sự giới hạn này vẫn không làm mất đi sắc thái ngữ nghĩa mà cấu trúc nghĩa của các từ biểu đạt màu kiểu “Yếu tố chỉ màu + Yếu tố láy” mang lại, ấn tượng ngữ nghĩa đặc thù. Nói khái quát, cơ cấu ngữ nghĩa này thể hiện ở yếu tố gốc và các khuôn vần cấu tạo nên từ láy.

Page 64: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

60 Nguyễn Thị Liên

Với cơ cấu ngữ nghĩa như trên, ngữ nghĩa của các từ láy biểu đạt màu sắc thuộc nhóm này, về cơ bản là sự cụ thể hoá, sắc thái hóa ý nghĩa của từ tố gốc với tác dụng biểu cảm và biểu niệm khá rõ rệt.

Trước hết, cấu trúc ngữ nghĩa của các từ biểu đạt màu sắc kiểu này thường nghiêng về khuynh hướng sắc thái hoá ý nghĩa của từ tố gốc theo hướng tăng cường hoặc giảm nhẹ thuộc tính về màu - hai thế đối lập phản ánh cái mâu thuẫn thống nhất trong tự nhiên, xã hội và con người.

Nếu tính chất “đỏ” được tăng cường ở mức độ cao trong “đỏ chót” thì trong “đỏ chon chót” lại có khuynh hướng giảm nhẹ. Nói cách khác, đây là hình thức giảm nhẹ của “đỏ chót”. Tương tự một tính chất “xanh” chẳng hạn, có thể được đẩy đến mức độ cao với hình thức xanh ngăn ngắt, xanh biêng biếc…Và ngược lại được thể hiện với khuynh hướng giảm nhẹ thông qua hình thức: xanh xanh. Mặt khác, sắc thái giảm nhẹ trong cấu trúc nghĩa của các từ láy biểu đạt màu sắc ngoài giá trị biểu cảm còn có tác dụng thu hẹp hoặc giảm bớt mức độ của tính chất. Ví dụ: trắng trăng trắng.

Ngược lại, sắc thái tăng cường lại nhấn mạnh về mặt nghĩa.

Ví dụ: bạc phếch bạc phênh phếch. đỏ lòm đỏ lòm lòm (đỏ lòm lom).

Như vậy, tất cả cho thấy rằng, khuynh hướng tăng cường hoặc giảm nhẹ thuộc tính về màu là một trong những đặc điểm cơ bản trong khuynh hướng ngữ nghĩa của hình thức biểu đạt màu sắc kiểu “Yếu tố chỉ màu + Yếu tố láy”. Khuynh hướng ấy được thể hiện cụ thể bằng các nét nghĩa tăng cường, nhấn mạnh vào mức độ của thuộc tính màu. Các nét nghĩa này được cụ thể hóa bằng sự lặp lại hình thức ngữ âm của yếu tố chỉ màu - các từ biểu đạt màu cơ bản.

So sánh: đen sì và đen sì sì. xanh lè và xanh lè lè.

Ta có thể thấy các hình thức láy lại đều mang nét nghĩa tăng cường, nhấn mạnh ý nghĩa về màu được biểu thị ở từ cơ sở. Nói cách khác, ý nghĩa của các từ láy chỉ màu sắc về cơ bản, sắc thái hoá ý nghĩa của từ tố gốc, “thêm cho ý nghĩa của hình vị cơ sở một số sắc thái nào đó chứ không thay đổi hẳn nó” [2, tr. 42]. Và kết quả của sự sắc thái hóa là sự phong phú trong nội dung biểu đạt của lớp từ này: sự mở rộng hoặc thu hẹp thuộc tính về màu.

Khuynh hướng sắc thái hoá ý nghĩa trong các hình thức láy biểu đạt màu sắc “không chỉ có tác dụng gia tăng ý nghĩa” cho các hình thức biểu đạt màu sắc cụ thể mà còn cụ thể hóa ý nghĩa của từ tố gốc. Bởi lẽ, “sự cụ thể hoá nảy sinh do phạm vi biểu vật của hình vị cơ sở bị thu hẹp lại” [3, tr.42]. Tính từ chỉ màu “xanh” chẳng hạn, có thể được dùng để chỉ đặc điểm về màu sắc của nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Người Việt có thể ghi nhận màu sắc các sự vật hiện tượng này với cùng một tính chất về màu kiểu: nước xanh, trời xanh, da xanh… mặt khác, các tính chất xanh này còn

được ghi nhận gắn liền với từng sự vật hiện tượng cụ thể. Xanh xanh chẳng hạn, “không thay đổi về phạm vi biểu vật. Song, độ đậm nhạt có giảm đi theo ấn tượng về sự lan rộng trên bề mặt của màu xanh” [3, tr. 42]. Trong khi đó, với hình thức biểu đạt màu “xanh xao” thì phạm vi biểu vật của xanh đã bị thu hẹp hẳn - chỉ được dùng để nói về màu da con người. Và vì phạm vi biểu vật đã bị thu hẹp, “xanh xao” lại có thể gợi ra những ấn tượng, nhưng hình ảnh cụ thể mang đậm sắc thái biểu cảm - ấn tượng nhợt nhạt, thiếu sức sống.

Cùng với những ấn tượng về thuộc tính, ngữ nghĩa của hình thức biểu đạt màu sắc này còn gợi ra ấn tượng về tình cảm, thể hiện cảm nhận chủ quan của con người. Do vậy, cùng với ấn tượng về nước da nhợt nhạt, thiếu sức sống, “xanh xao” thường gợi lên lòng ái ngại, thương xót… trước sự vật hiện tượng mang thuộc tính về màu này. Tương tự, nếu “đỏ’ diễn đạt mức độ và sắc thái trung tính của màu thì hình thức “đỏ hon hỏn” lại có ý nghĩa biểu đạt màu đỏ với mức độ cao, kèm theo đó là sắc thái biểu cảm rõ rệt. Mặt khác, cùng với sự sắc thái hoá ý nghĩa, phạm vi biểu vật của “đỏ” cũng bị thu hẹp hẳn, “đỏ hon hỏn” chỉ nói về nước da trẻ mới sinh. Điều này cũng có nghĩa là nó có thể gợi ra ấn tượng đặc thù về màu da đứa trẻ cùng với lòng thương yêu trìu mến kèm theo… Nói khái quát, “cùng với ấn tượng cụ thể có các ấn tượng biểu thái (sự đánh giá, tình cảm, thái độ, cảm thị chủ quan của người nói) trong các từ láy” biểu đạt màu sắc [3, tr.43].

3. Kết luận Hình thức biểu đạt màu sắc kiểu “Từ chỉ màu + Yếu tố

láy” có thể nói là một sản phẩm cụ thể của phương thức láy. Mỗi một từ là một “nốt nhạc” chứa đựng trong mình một “âm điệu" cụ thể về thế giới màu sắc được cảm nhận thông qua thị giác kèm theo những ấn tượng về sự cảm thụ chủ quan, những cách đánh giá, thái độ… của người Việt. Có thể nói, “các từ láy nói chung và các từ láy biểu đạt màu sắc nói riêng là những công cụ tạo hình đắc lực của nghệ thuật văn học, nhất là của thơ ca” [3, tr.45].

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đinh Văn Đức, "Về một cách hiểu ý nghĩa của các từ loại tiếng Việt",

Ngôn ngữ, (2), 1978, tr.14-18. [2] Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, NxB Giáo dục, Hà Nội,

1981. [3] Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học Tiếng Việt, NxB Giáo dục, Hà

Nội, 1999. [4] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học Tiếng Việt, NxB Giáo dục, Hà Nội,

1999. [5] Hoàng Văn Hành, "Về cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt"

(Trong sự so sánh với tiếng Nga), Ngôn ngữ, (3), 1982, tr. 2-10. [6] Hoàng Phê, "Phân tích ngữ nghĩa", Ngôn ngữ, (2), 1973, tr.10 -16. [7] Nguyễn Thị Thành Thắng, "Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính", Ngôn

ngữ và đời sống, (11), 2001, tr. 11-12. [8] Chu Bích Thu, "Cơ sở trái nghĩa của một số nhóm tính từ tiếng Việt",

Ngôn ngữ, (2), 1991, tr. 47-55.

(BBT nhận bài: 13/02/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/02/2017)

Page 65: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 61

AN INVESTIGATION INTO LEXICAL CHOICES IN NARRATIONS OF AMERICAN CARTOON TRAILERS

NGHIÊN CỨU CÁC CÁCH DÙNG TỪ VỰNG TRONG CÁC LỜI TƯỜNG THUẬT CỦA CÁC ĐOẠN PHIM QUẢNG CÁO HOẠT HÌNH MỸ

Pham Thi Thanh Nga1, Nguyen Thi Quynh Hoa2 1Master Student Course 29, English Language Major

2University of Foreign Language Studies, The University of Danang; [email protected]

Abstract - Thanks to the rapid spread of the Internet, the processof advertising forthcoming cartoons has become easier and moreimpressive. Apart from using posters, filmmakers make use ofanother effective and attractive tool–trailer, which is commonlyknown as a short video about an upcoming film shown in advancefor the purpose of advertising it. To convince viewers, appropriatestrategies of using language are employed. Therefore, thecopywriter must pay great attention to choice of words in narrationsof trailers. This paper is aimed at examining the striking lexicalchoices employed in the transcriptions of narrations of Americancartoon trailers (NACTs). These cartoons cover a variety of themeswhich are love and sacrifice, youth and beauty, friendship, nature’sbeauty, adventures, science fiction, etc. It is hoped that the findingsof the paper, to some extent, will be useful for creating English textsadvertising animated films as well as for writing English forVietnamese learners.

Tóm tắt - Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của Internet, việc quảng cáo các phim hoạt hình đã trở nên dễ dàng và ấn tượng hơn. Ngoài việc dùng các áp phích, nhà làm phim còn sử dụng một phương pháp hiệu quả và hấp dẫn, đó là trailer, một video ngắn để quảng cáo cho phim mới. Để thuyết phục khán giả, các nghệ thuật sửdụng ngôn từ phù hợp cần được vận dụng. Do đó, người viết phải hết sức lưu ý đến cách dùng từ trong lời tường thuật của trailer. Bài viết này trình bày các đặc điểm từ vựng nổi bật của bài tường thuật trong các đoạn quảng cáo phim hoạt hình Mỹ. Chủ đề của những bộ phim này rất đa dạng, bao gồm tình yêu và sự hi sinh, tuổi trẻ và sắc đẹp, tình bạn, vẻ đẹp thiên nhiên, các cuộc phiêu lưu, khoa học viễn tưởng, v.v… Hi vọng rằng các kết quả của bài báo này sẽ giúp ích cho việc áp dụng viết các lời tường thuật tiếng Anh cho quảng cáo phim hoạt hình cũng như trau dồi kỹ năng viết tiếng Anh của học viên người Việt.

Key words - narrations of cartoon trailers; lexical choices; propernames; time expressions; descriptive adjectives; pronounsdenoting first and second persons

Từ khóa - bài tường thuật trong đoạn quảng cáo phim hoạt hình; các lựa chọn từ vựng; tên riêng; từ ngữ chỉ thời gian;tính từ miêu tả; đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai

1. Rationale

Nowadays, cartoons have become one of the essential sources of entertainment. Considered as an effective tool of advertising cartoons, trailers, also known as “coming attractions” or “previews”, bring great help in forming, impressing, and persuading audience. Let us take the example of a narrative transcription of the trailer in “The Smurfs” (2011) which is a beloved cartoon centering on a fictional colony of small blue humanoids who live in mushroom-shaped houses in the forest:

“In a faraway land, there is a village filled with mysterious creatures who have lived happily for hundreds of years.

Until today, Now those have to escape to a world they never

imagine. This summer, From Columbia Pictures and Sony Pictures

Animation, The chase is on the first true blue 3D adventure of the

year. The Smurfs in 3D Summer 2011”

(http://www.sonypicturesanimation.com/...smurfs) It can be seen that in a short text, there are a lot of

lexical choices illustrated in italic words. Proper names (e.g., Smurfs, Columbia Pictures, and Sony Pictures Animation) are indispensable in narrations of American

cartoon trailers (NACTs). The copywriter also uses descriptive adjectives to describe and highlight striking features of characters to make the new film more attractive. Besides, the phrase This summer and Summer 2011 are employed to inform the time for the film release.

There have been several studies on trailers and the language for advertising films. Nevertheless, to the best of my knowledge, there has not been any research on lexical choices of narrations of American cartoon trailers. Therefore, I have decided to conduct this research in an attempt to clarify the choices of lexical items used in advertising cartoons to achieve filmmakers’ goals.

2. Theoretical background 2.1. Cartoon

Cartoon is also called animated cartoon. Animated and related words, to animate, animation, and animator, all derive from the Latin verb, animare, which means “to give life to”. In Oxford Advanced Learner’s Dictionary 8th [1], cartoon is defined as “a film/movie made by photographing a series of gradually changing drawings or models, so that they look as if they are moving”. Discussing the notion of cartoon (or animated film or animation), the author of the book Understanding Animation, Wells [9, p. 10], argues that an animated film largely means an artificial creation of the illusion of movement in inanimate lines and forms.

In this paper, cartoon is viewed as a film/movie for

Page 66: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

62 Pham Thi Thanh Nga, Nguyen Thi Quynh Hoa

cinema, television or computer screen, which is made by playing a series of gradually changing drawings or models in a quick succession, so that they look as if they are moving. 2.2. Trailer

Katz [3, p. 1145] regards a trailer as “… a short publicity film, shown as part of a regular program at a theater, advertising the merits of a forthcoming motion picture…” and “the trailer consists of highlight scenes appropriately cut to create an impression of excitement…”. Kernan [4] claims that trailers or previews of coming attractions are both praised and criticized by film scholars and regular moviegoers alike.

Following the concepts mentioned above, I take the view that a trailer is a short publicity film shown as part of a regular program at a theatre, which advertises the merits of a forthcoming motion picture to attract the spectator’s attention. A trailer usually consists of two main parts which are images and narration. 2.3. Narration in Cartoon Trailer

According to Longman Academic e-Tutor 2nd [6], narration is a spoken description or an explanation that someone gives during a movie, play etc. In Oxford Advanced Learner’s Dictionary 8th [1], narration is “a description of events that is spoken during a film/movie, a play, etc. or with music”.

In this paper, a narration which is an explanation of the film’s story or a description of background information such as the name of the film, the place and time the action is set, characters, the names of narrators, the director or the producer and their previous works, the film’s release, etc. is orally presented during a cartoon trailer. Some parts of a narration are in written words showed on the screen.

In brief, a narration is a combination of spoken and written form which appears along with animated pictures in a cartoon trailer. 2.4. Lexical Choices

Fundamentally, a language is composed of several lexical items. A writer must have wide knowledge of language and is able to exploit those vast linguistic resources for his compositions. Lexical items help the writer to create images and convey his/her thoughts and emotions. That is the reason why the writer must take extreme care when making lexical choices so that he/she can effectively express the intended meaning and thus achieve the writing targets.

In short, lexical choice is the way writers choose the appropriate words to obtain their communicative purposes in the best possible way .

3. Methodology 3.1. Data Sources

The data of the study is written forms of narrations from official trailers of American cartoons. These trailers came from the official websites of six major American cartoon film companies which are Walt Disney Animation Studio,

Dream works Animation, 20th Century Fox Animation, Warner Bros. Animation, Sony Pictures Animation, and Universal Pictures. The trailers were released in the period of 2010-2015. The number of narrations of trailers employed in this paper is 83. For the sake of convenience in doing the research, the narrations were transcribed into written forms. 3.2. Research Design

The paper is carried out based on a combination of qualitative and quantitative approaches.

The qualitative approach is employed to highlight the core lexical choices in NACTs.

The quantitative approach is useful for measuring the frequencies, percentages of lexical choices in NACTs. 3.3. Research Methods

In this paper, descriptive, analytic and inductive methods are employed simultaneously.

The descriptive method is a useful tool to describe and characterize the lexical choices of NACTs.

The analytic method is also essential in this research; it helps the researcher clarify and justify certain lexical choices.

The inductive method is helpful in drawing out the generalizations from the findings.

4. Findings and Discussion 4.1. Proper Names

Proper names are some of the most popular lexical choices in NACTs. According to Huddleston and Pullum [2], proper names are expressions which have been conventionally adopted as the name of a particular entity or a collection of entities. They include the names of particular persons or animals, places of many kinds, institutions, historical events. Most proper names, in their primary use, are noun phrases. The category also covers the names of days of the week, months of the year, and recurrent festivals, public holidays, etc. In this paper, the proper names denoting time are analyzed in part 4.2; therefore, they are not mentioned in this part.

In the light of Huddleston and Pullum’s theory, in this paper, an examination of the usage of proper names is conducted. The table below illustrates the distribution of proper names in NACTs:

Table 4.1. Proper names in NACTs

Proper names Occurrence Rate

Names of particular persons

Names of characters

168 56.6%

Names of staff members

46 15.5%

Names of places 23 7.7%

Names of institutions (Names of film companies)

60 20.2%

Total 297 100%

Table 4.1 shows that proper names are primarily used

Page 67: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 63

to refer to the names of particular persons. The use of proper names denoting the names of film companies ranks second in NACTs. Lastly, proper names referring to the names of places take up the lowest rate.

It is obvious that in trailers the producers must inform audiences of the names of main characters in the new movies introduced in trailers so that spectators can know who the films talk about. Here is an example:

(4.1) This summer, Hiccup and Toothless are back. (https://www.howtotrainyourdragon.com/....trailer)

In addition, the usage of proper names denoting places is important in narrating the plots in trailers to inform audiences where the stories take place. Here is an illustration:

(4.2) Summer in the city Arendelle, it couldn’t be warmer, it couldn’t be sunnier but that’s about to change forever.

(https://www.youtube.com/watch.....index=3) The names of film companies producing forthcoming

films are common elements presented in NACTs. Let us take a look at an instance taken from the samples:

(4.3) 20thFox Century presents Schoeder, Sally Linus, Peppermint Patty, Pigpen, Lucy Snoopy and Charlie Brown.

(https://www.youtube.com/watch......6u5g) In some cases, if the upcoming cartoons are produced

by well-known staff, the names of these famous producers or directors, or talented narrators are often presented in NACTs to exert positive effects on viewers’ psychology. For instance:

(4.4) Come an all new movie that will take from other space to the jungle of Africa featured with the voices of Angela Bassett and John Goodman.

(https://www.youtube.com/watch.....index=1) [24]

In brief, the proper name is one of the most crucial lexical choices of NACTs. They are mainly utilized to express names of the cartoons, the characters and places in introduced films as well as the names of film companies and staff members making the films. By using proper names, the producers provide audiences with the core information about the new cartoons. 4.2. Time Expressions

In “Cognitive English Grammar”, Radden and Dirven [8, p. 332] state, “time expressions are used to specify a situation’s location in time or its duration”. As mentioned above, trailers are used to advertise the merits of a forthcoming motion picture to attract the spectator’s attention. Therefore, it is very important that NACTs include time expressions. In NACTs, time expressions are considered some words or numbers presenting the time when the films are released. By using time expressions, the advertisers can create anticipation and expectation about the films. The employment of time expressions is presented in the table below:

Table 4.2. Time Expressions in NACTs

Time Expressions Occurrence Rate

Nouns/noun phrases denoting holidays

14 18.4%

Nouns/Noun phrases denoting seasons

16 21.1%

Nouns/Noun phrases denoting dates

17 22.3%

Nouns/Noun phrases months, months and years

16 21.1%

Noun phrases “this year”/Adverb “soon”

13 17.1%

Total 76 100%

The percentages for which types of time expressions account are quite equal. There are no types which are more dominant than the others. It can be explained that the time expressions chosen in NACTs are deeply affected by the time when filmmakers create trailers. In other words, the choices of words expressing time depend on the fact that if the filmmakers have decided the releasing time of the full films or have not yet.

The following are some examples of time expressions collected from NACTs:

(4.5) This Christmas, experience the adventure so real you believe you’re there.

(https://www.youtube.com/watch....BDqeS) (4.6) Disney Pixar presents a new world of

adventure.Disney Pixar The Good DinosaurThanksgiving.

(https://www.youtube.com/watch....Y3ev3TY) In the above examples, the copywriters utilize noun

phrases denoting holidays or vacations as time expressions. They indirectly express a message that the movies are produced for the purpose of serving these special occasions. The existence of such time expressions as this Christmasand Thanksgiving make audiences tend to think that the movies are the most suitable for relaxing on days off.

In some cases, the expressions of time are the words expressing seasons. Sometimes, these words are combined with numbers denoting the years. Below is an example:

(4.7) This spring, join the crew and kick some booty. The Pirates! Band of Misfits in 3D (https://www.youtube.com/watch....F02WvY) (4.8)The Smurfs 2 Summer 2013. (http://www.sonypicturesanimation.com/...murfs2) More specifically, the copywriters use expressions of

month, or month and year to notify spectators of the time when cartoons are available as in the instance below:

(4.9) Disney Tinker Bell Legend of the Neverbeast in Cinema December 2014.

(http://www.disneymovieslist.com/.....neverbeast)

Page 68: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

64 Pham Thi Thanh Nga, Nguyen Thi Quynh Hoa

In case the producers have decided exactly when the movies are published, expressions of date are shown in NACTs. Let us take a look at the following example:

(4.10) The Croods in Cinemas March 22 in 3D (http://www.thecroodsmovie.co.uk/) Let us consider other examples: (4.11) Dreamworks Home in 3D coming soon. (http://www.dreamworks.com/home/) (4.12) This year, take a chance and chase your dream. Dreamworks Turbo. (http://www.turbomovie.co.uk/#/videos) In the above instances, the expressions this year and

soon are commonly found because the time for the film release has not been fixed yet. The advertisers only inform audiences that the cartoons are about to be published in the near future. 4.3. Descriptive Adjectives

Leech [5] claims that language used in advertising is marked by a wealth of adjective vocabulary. Because the trailer is also a type of advertising, the copywriters utilize descriptive adjectives as essential devices in almost NACTs to make their advertising more persuasive and impressive to audiences. Let us take a look at the following instance:

(4.13) In an all new original movie, an all new feature live musical: Scooby-Doo! Music of the Vampire.

The legend lives on this awesome musical adventure. (https://warnerbros.com.au/titles....vampire) In above examples, the descriptive adjectives new and

awesome are used to highlight the salient characteristics of the coming movies. Particularly, the adjective new is used as the most popular one. It occurs in a large number of NACTs and is repeated many times in order to emphasize that the movies advertised are completely different from the previous ones. This evokes audiences’ curiosity and urges them to find out more about the films.

Let us consider other examples: (4.14) He is handsome. He is charming. (https://www.youtube.com/watch....SHPk) (4.15) Welcome to the magical world of the Boxtrolls

where one lucky boy grows happily with his unusual family.

(http://www.theboxtrolls.com/page/trailers) In the above cases, the copywriters employ a variety of

descriptive adjectives such as handsome and charming, when revealing striking features of characters or events in trailers. Moreover, in example (4.15) such descriptive adjectives as magical, lucky, and unusual carry an important function in helping narrate a detailed and vivid story designed to introduce the movie. In short, all of those descriptive adjectives play a crucial role in creating impression and attracting audiences’ interest.

Apart from the base form, in NACTs, descriptive adjectives are sometimes used in comparative form to

increase audiences’ attraction. Below is an example: (4.16) It is more hilarious, more exciting, and filled

with even more minion’s fun with 3 all mini-movies. (https://www.youtube.com/watch....3k5e) In these examples, the copywriters make use of

comparative form so that they can convince the audiences that these new movies are better, more fascinating than previous movies.

In particular, another dominant lexical characteristic in NACTs is the use of superlatives. Let us review some examples collected from data in this paper:

(4.17) Get ready for the most irresistible, funniest, completely feeling Madagascar yet.

(http://madagascar.dreamworks.com/....madagascar) (4.18) All of words for the funniest adventure. The Little Engine That Could (https://www.youtube.com/....qaGE) [73] (4.19) This March, the most amazing dog in the history

is taking family time to a whole new dimension. (http://www.mrpeabodyandsherman.com/) By using superlative forms of descriptive adjectives,

the copywriters convey the message that the movies introduced in trailer are the best ones as in example (4.17), the characters in the movies are unique and interesting ones as in example (4.19), and the contents of the movies are more excellent than ever before as in example (4.18). The copywriters want to convince audiences that it is worth spending time and money watching these movies because there is no other alternative film that is better than these ones. As a result, the advertisers can create good effect on viewers’ psychology and establish a positive attitude toward the upcoming movies.

The distribution of the descriptive adjectives in base form, comparative and superlative form is illustrated in Table 4.3:

Table 4.3. Forms of descriptive adjectives in NACTs

Descriptive adjectives Occurrence Percentage

Base form 192 82.7%

Comparative form 10 4.3

Superlative form 30 13%

Total 232 100%

As can be seen from Table 4.3, the base form of descriptive adjective appears with very a high frequency in NACTs. This means that the copywriters have a great tendency of using descriptive adjectives since these adjectives carry a significant role in helping the advertisers narrate the content or the plot and highlight striking features of the forthcoming cartoons to attract viewers. The use of comparative adjectives accounts for a low frequency whereas the superlative form takes up the higher percentage. Although comparative and superlative forms do not occur frequently, they belong to notable lexical features that contribute to the success of NACTs.

Page 69: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 65

4.4. Pronouns Denoting First and Second Persons According to Quirk et al [7:345], “personal, possessive,

and reflexive pronouns may be called the central pronouns” which come in various forms in the table below:

Table 4.4. Personal, reflexive, and possessive pronouns

PERSONAL PRONOUNS

REFLEX-IVE PRONO-UNS

POSSESSIVE PRONOUNS

Subject-ive case

Object-ive case

Determinat-ive function

Independ-ent function

1st person

Singular I me myself my mine

Plural we us ourselves our ours

2nd person

Singular you you yourself your yours

Plural you you yourselves your yours

In NACTs, the use of pronouns denoting first and second persons is very common. This use can be interpreted as an imitation of a dialogue because they create the impression of an individual interaction between the advertisers and audiences. The distribution of first and second pronouns is tabulated as follows:

Table 4.5. Pronouns denoting first and second persons in NACTs

Pronouns Occurrence Rate

First 24 28.2%

Second 61 71.8%

Total 85 100%

The total number of first and second pronouns found in data of the paper is quite large. However, it can be seen that the copywriters of NACTs tend to use second pronouns. The presence of second person pronouns occupies a dominant percentage while first person pronouns take up a small proportion. Although theyappear with different frequencies, both first and second pronouns are important devices in introducing new cartoons. They make the NACTs sound warm, cordial, and more convincing and help to narrow the distance between the filmmakers and spectators.

Here are some examples: Pronouns denoting first persons: (4.20) This holiday, get ready for us. (http://www.barbie.com/en-us/video....Trailer) (4.21) Moms have inside voices.Dads have them too.We

all have little voices in our heads. (https://www.youtube.com/watch....Vg7pgd) In NACTs, pronouns denoting first persons are

employed in plural forms in most cases. They only appear in the forms of personal pronouns and possessive pronouns (determinative function). By using first person pronouns, the advertisers create texts in their own voice. The producers emphasize that they are personally placed in the stories. Besides, they also include or engage the audiences closely with the events in trailers. In the above examples,

the first person pronouns are utilized to integrate the filmmakers and viewers, thus there is no distance between the senders and receivers.

The singular forms of pronouns denoting first persons sometimes occur in NACTs when the narrators play the role of one character to brief his/her stories and introduce the cartoons. For example:

(4.22) It was the time of giants, when dinosaurs like me ruled the earth. My dad is the guy that everyone looks up to, to protect the herb, but I was the smallest. I had no way of knowing that my whole world was about to change. One day that was my turn to protect my family and to lead the herb.

(https://www.youtube.com/watch?.....mBDqeS) Pronouns denoting second persons: (4.23) Imagine if you heard a real fairy, you saw a real

fairy, you caught a real fairy. (http://www.disneymovieslist.com/movie....fairy) (4.24) Start your digital collection today and all the fun

will be yours (http://www.epicthemovie.com/epic......-dhd)

(4.25) Now prepare yourself for something even scarier.

(https://www.youtube.com/watch....FsS-0) In these examples, the pronouns denoting second

persons are used to address the audience personally and are therefore more persuasive. Using this type of pronoun, the advertisers engage the audiences and ask them to participate in the feelings or events in trailers. The art of using these pronouns creates friendliness between the advertisers and viewers. Pronouns denoting second persons in NACTs include all three forms which are personal, reflexive, and possessive pronouns (determinative function and independent function). The use of such terms as “you”, “your”, “yours” and “yourself” makes audiences feel that she/he is the particular person that the advertisers are talking with and the NACTs are friendly conversations between close friends. As a result, the forthcoming cartoons are more acceptable because they seem to be recommended by friends of audiences.

Page 70: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

66 Pham Thi Thanh Nga, Nguyen Thi Quynh Hoa

5. Conclusions The main lexical choices of NACTs can be illustrated

in the following table: Table 4.5. Lexical choices of NACTs

Lexical choices Occurrence Rate

Proper Names 297 43,1%

Time Expressions 76 11%

Descriptive Adjectives 232 33.6%

Pronouns Denoting First and Second Persons

85 12.3%

Total 690 100%

Table 4.5 above shows that there are a large number of descriptive adjectives, time expressions, proper names and first and second pronouns utilized in NACTs. Among them, proper names appear with the highest proportion. Thanks to these proper names, the filmmakers can notify to audiences essential points of the new films. Moreover, we can see that the copywriters use descriptive adjectives as an important tool to create convincing and impressive NACTs. They occupy a relatively high percentage in that of main lexical choices. In order to make NACTs friendly and reduce the gap between the producers and audiences, the copywriters make use of pronouns denoting first and second persons. Expressions of time, which contribute to creating the anticipation about the upcoming cartoons, take up the lowest proportion.

The results of the study indicate that in NACTs there are four commonly used types of lexical choices with different functions, namely proper names, time expressions, descriptive adjectives and pronouns denoting first and second persons. As a whole, they all play an important role in helping the copywriters make fascinating NACTs.

It is hoped that this paper can provide Vietnamese learners with some useful knowledge about lexical choices in order that they can apply this effectively to their writing as well as enhance their English writing skill.

REFERENCES [1] Hornby, A.S. (2010), Oxford Advanced Learner’s Dictionary- 8th

Edition, Oxford Press. [2] Huddleston, R. and Pullum, G.K. et al (2012), The Cambridge

Grammar of the English Grammar, Cambridge University Press. [3] Katz, E. (1980), The International Film Encyclopedia, London:

Macmillan Press Ltd. [4] Kernan, L. (2004), Coming Attraction Reading American Movie

Trailers, University of Texas Press. [5] Leech, G. (1966), English in Advertising: A Linguistic Study of

Advertising in Great Britain, London: Longman [6] Longman Academic e-Tutor 2nd(2010), Pearson Longman. [7] Quirk, R. et al (1985), A Comprehensive Grammar of the English

Language, London: Longman. [8] Radden G. & Dirven R. (2007), Cognitive English Grammar, John

Benjamins Publishing. [9] Wells, P. (1998), Understanding Animation, Routledge.

(The Board of Editors received the paper on 04/8/2016, its review was completed on 15/12/2016)

Page 71: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 67

PHÂN TÍCH ĐỐI CHIẾU CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG CÁC BÀI HÁT THIẾU NHI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

A CONTRASTIVE STUDY OF RHETORICAL DEVICES IN CHILDREN’S SONGS IN ENGLISH AND VIETNAMESE

Hồ Thị Kiều Oanh1, Nguyễn Đỗ Hà Anh2 1Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

2Học viên Cao học Khóa 30, ngành Ngôn ngữ Anh, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Bài viết nhằm nghiên cứu các biện pháp tu từ trong cácbài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt. Ngữ liệu gồm 500 mẫubiện pháp tu từ (250 trong tiếng Anh và 250 trong tiếng Việt) đượcthu thập từ 100 bài hát thiếu nhi ở thế kỉ 20 trong tiếng Anh và 100bài hát thiếu nhi ở thế kỉ 20 trong tiếng Việt. Qua đó, tác giả bàinghiên cứu so sánh đối chiếu nhằm tìm ra sự tương đồng và khácbiệt về biện pháp tu từ trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếngViệt. Kết quả nghiên cứu có thể giúp người dạy và học hiểu rõ hơnvề các biện pháp tu từ được sử dụng trong các bài hát thiếu nhitiếng Anh và tiếng Việt và sử dụng chúng một cách hiệu quả vàhợp lý trong giảng dạy và học tập.

Abstract - This article is designed to study the rhetorical devices in children’s songs in English and Vietnamese. A corpus of 500 rhetorical devices (250 in English and 250 in Vietnamese) is taken from one-hundred 20th- century children’s songs in English and one-hundred 20th- century children’s songs in Vietnamese. The article describes and compares the data to point out the similarities and differences in rhetorical devices between children’s songs in English and Vietnamese. The results of the study could help teachers and learners understand more about rhetorical devices used in English and Vietnamese children’s songs and how to use them properly and effectively in teaching and learning English and Vietnamese.

Từ khóa - biện pháp tu từ; bài hát; thiếu nhi; bài hát thiếu nhi; tiếngAnh và tiếng Việt.

Key words - rhetorical devices; songs; children; children’s songs; English and Vietnamese.

1. Đặt vấn đề

Từ thời xa xưa, âm nhạc đã hiện hữu và tồn tại trong cuộc sống của mỗi con người. Âm nhạc đã gắn liền với mọi khoảnh khắc, mọi giai đoạn của đời người, từ lúc chào đời đến khi giã từ cuộc sống. Đó là những khúc hát ru thuở lọt lòng; những bài đồng dao khi khôn lớn, những bài hát vui, dí dỏm trong các trò chơi trẻ thơ; những bài hát giao duyên, tỏ tình khi trưởng thành; những bài ca sinh hoạt; những bài nhạc hiệu xuất trận; những bài hát trong lao động học tập và những khúc hát tiễn đưa con người trở về với cát bụi. Hiểu được tầm quan trọng của âm nhạc, về mặt giáo dục, âm nhạc đã trở thành một môn học chính khóa trong các trường học. Đặc biệt, theo Gardner [2], tài năng về âm nhạc cũng quan trọng như tài năng về tư duy toán học; tài năng về ngôn ngữ; tài năng về thị giác - không gian; tài năng về các động tác vận động của thân thể và tài năng về tương tác. Chính vì vậy, để giúp trẻ em phát triển tài năng của mình, trẻ em nên được cho tiếp xúc với âm nhạc ngay từ khi còn nhỏ. Bằng việc nghe những bài hát dành cho thiếu nhi, trẻ em có thể phát triển trí tuệ, trí nhớ, khả năng ngôn ngữ và vốn từ vựng của mình. Tuy nhiên, chỉ mới nghe và hát những bài hát dành cho thiếu nhi vẫn chưa mang lại tính hiệu quả cao bởi lẽ trong từng bài hát thiếu nhi đều hiện diện các biện pháp tu từ mà chỉ khi phân tích, nghiên cứu kĩ lưỡng mới có thể giúp cho trẻ em, cũng như người dạy và người học hiểu được ý nghĩa và thông điệp mà tác giả bài hát muốn truyền tải.

Trên thực tế, đã có không ít các công trình nghiên cứu về các biện pháp tu từ như “Việc sử dụng các biện pháp tu từ trong quảng cáo” của Tom và Eves [5], “Nghiên cứu về các biện pháp tu từ thường được sử dụng trong các bài thơ trong tiếng Anh và tiếng Việt” của Trịnh Thị Quỳnh Châu [6]. Hay gần đây nhất là công trình nghiên cứu được thực hiện bởi Phạm Thị Hồng Loan [8] với đề tài “Nghiên cứu các đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát thiếu nhi trong

tiếng Anh và tiếng Việt”. Tuy nhiên, công trình này chỉ mới dừng lại ở các đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của các bài hát thiếu nhi mà chưa đi sâu vào việc phân tích các biện pháp tu từ để làm rõ những nét nghĩa tiềm ẩn bên trong. Đó chính là lý do chúng tôi chọn vấn đề Phân tích đối chiếu các biện pháp tu từ trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt để nghiên cứu.

2. Giải quyết vấn đề

2.1. Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Khái niệm về trẻ em Theo Điều 1 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, “Trẻ

em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, theo Điều 1, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “trẻ em là người dưới mười tám tuổi”. Như vậy, trẻ em được xác định là người dưới mười tám tuổi.

2.1.2. Khái niệm về bài hát thiếu nhi và ngôn ngữ đặc trưng của bài hát thiếu nhi

Bài hát thiếu nhi, theo Opie [3], được hiểu là những bài hát được sáng tác dành cho thiếu nhi và được hát bởi thiếu nhi. Theo Pai [4], những bài hát thiếu nhi, bỏ qua những khác biệt về mặt văn hóa, đều có những đặc trưng như sau: lặp đi lặp lại, ngắn gọn và theo tiết tấu.

2.1.3. Khái niệm và chức năng của biện pháp tu từ Theo Galperin [1], biện pháp tu từ là sự cường điệu hóa có

chủ đích các đặc trưng về cấu trúc hay ngữ nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ. Đinh Trọng Lạc [7] thì định nghĩa biện pháp tu từ là những ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa của sự vật – logic), chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ. Chức năng của phương tiện tu từ thay đổi tùy theo mục đích sử dụng của người nói và người viết. Theo Đinh Trọng

Page 72: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

68 Hồ Thị Kiều Oanh, Nguyễn Đỗ Hà Anh

Lạc [7], chức năng chính của phương tiện tu từ là hướng người đọc đến những khía cạnh thẫm mỹ của văn bản nghệ thuật. 2.1.4. Phân loại biện pháp tu từ

Trên cở sở lý thuyết của Galperin [1] và Đinh Trọng Lạc [7], các bài hát thiếu nhi chứa biện pháp tu từ được chia thành hai nhóm chính bao gồm Biện pháp tu từ từ vựng (Ẩn dụ, hoán dụ, so sánh hiển ngôn, nhân hóa) và Biện pháp tu từ ngữ âm (Phép lặp). 2.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, phương pháp miêu tả và so sánh được kết hợp với phương pháp định tính và định lượng. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các sách Âm nhạc chính khóa trong nhà trường và Tuyển tập các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt. Mẫu ngữ liệu gồm 500 biện pháp tu từ (250 trong tiếng Anh và 250 trong tiếng Việt) được thu thập từ 100 bài hát thiếu nhi ở thế kỉ 20 trong tiếng Anh và 100 bài hát thiếu nhi ở thế kỉ 20 trong tiếng Việt.

3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 3.1. Kết quả nghiên cứu 3.1.1. Biện pháp tu từ từ vựng

a. Biện pháp tu từ ẩn dụ Ẩn dụ được sử dụng trong các bài hát thiếu nhi bởi với

lượng từ hạn chế, chúng không thể diễn tả hết được ý nghĩa hình tượng.

(1) Ohmy mum is a very special mum, [12] She’s my best friend of all is she Ohmy dad is a very special dad

He’s my best friend of all is he. (My best friend - Edith S. Tillotson)

“Mum” và “Dad” được ẩn dụ với hình ảnh “best friend” bởi lẽ ở phương Tây, quan hệ giữa cha mẹ và con cái là bình đẳng. Vai trò của cha mẹ cơ bản chỉ hướng dẫn là chính, rất ít khi cha mẹ lấy quyền uy để ép trẻ làm những việc trẻ không muốn. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái giống như những người bạn.

(2) Ba mẹ là lá chắn [16] Che chở suốt đời con.

(Cho con - Phạm Trọng Cầu) Khác với phương Tây, “ba mẹ” được so sánh với “lá

chắn” bởi sự tương đồng về chức năng giữa hai hình tượng này ở Việt Nam. Thật vậy, “ba mẹ” là trụ cột của gia đình, luôn bao bọc che chở con cái ngay cả khi con đã trưởng thành, và có vai trò tiên quyết trong mọi quyết định, kể cả đó là những quyết định của riêng con cái như người xưa thường có câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.

b. Biện pháp tu từ hóan dụ Theo mẫu ngữ liệu của bài nghiên cứu, biện pháp tu từ

hoán dụ, tuy có xuất hiện trong các bài hát thiếu nhi tiếng Việt, nhưng không xuất hiện trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh.

(3) Bàn tay mẹ bế chúng con [12] Bàn tay mẹ chăm chúng con

(Bàn tay mẹ - Bùi Đình Thảo)

“Bàn tay mẹ” ở (3) được hiểu như người mẹ- người đã chăm sóc và nuôi dưỡng con khôn lớn. Đây là dạng thức bộ phận thay thế cho toàn thể trong biện pháp tu từ hoán dụ.

c. Biện pháp tu từ so sánh hiển ngôn (4) I’d like to be a busy little bee, [12] Being as busy as a bee can be.

(Busy bee - Kenneth Blain) “Ong” là một loài côn trùng tượng trưng cho sự chăm

chỉ. Bằng việc sử dụng hình ảnh “as busy as a bee”, tác giả đã truyền tải bài học đạo đức rằng trẻ con phải chăm chỉ, năng động và không được biếng nhác từ khi còn nhỏ.

(5) Ngày đầu như thế đó, cô giáo như mẹ hiền. [15] (Ngày đầu tiên đi học, Nguyễn Ngọc Thiện)

Sự so sánh “cô giáo” với “mẹ hiền” đã giúp trẻ con hiểu được sự ân cần và chu đáo của cô giáo với học sinh vào ngày đầu tiên đi học.

d. Biện pháp tu từ nhân hóa Những hình ảnh vô tri, vô giác đã được biểu thị những

thuộc tính, dấu hiệu của con người để đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn.

(6) The air, soft and free, [10] Is telling a message

(Arbor day - Kate Louise Brown) “The air” đã mang thuộc tính của con người thông qua

cụm động từ “is telling a message”. Điều này giúp cho người nghe cảm thấy “the air” gần gũi và sinh động hơn, như đang nói chuyện với mình.

(7) Nắng cùng em hát và cùng chơi múa vòng [13] (Nắng sớm, Hàn Ngọc Bích)

Tương tự, “nắng” đã được ví như con người để có thể cùng “hát” và “chơi” với trẻ con. 3.1.2. Biện pháp tu từ ngữ âm: Phép lặp

Đây là phương tiện tạo ra hiệu ứng về mặt âm thanh tác động đến người nghe.

(8) Autumn leaves are a-falling, red and yellow and brown; [11]

Autumn leaves are a-falling, see them fluttering down.

(Autumn leaves are a-falling - Folk song) Cụm từ “Autumn leaves are a-falling” được lặp lại ở

đầu câu nhằm nhấn mạnh mùa thu đang đến. Trẻ conkhi nghe cụm từ này nhiều lần sẽ có thể cảm nhận được rằng mùa thu đến với những chiếc lá vàng rơi.

(9) Tạm biệt búp bê thân yêu [13] Tạm biệt gấu mi-sa nhé Tạm biệt thỏ trắng xinh xinh

(Tạm biệt búp bê - Hoàng Thông) “Tạm biệt” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người

nghe không khỏi xúc động khi chứng kiến cảnh chia tay. 3.2. Bàn luận

Thông qua việc phân tích mẫu ngữ liệu, chúng tôi nhận

Page 73: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 69

thấy các biện pháp tu từ được sử dụng trong các bài hát thiếu nhi trong tiếng Anh và tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Bảng 1. Hình ảnh được sử dụng trong biện pháp tu từ từ vựng

trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt

Hình ảnh

Tiếng Anh Tiếng Việt

Tần số(NA)

Tần suất (%)

Tần số (NV)

Tần suất(%)

1. Thiên nhiên 8 29% 29 42%

2. Loài vật thân thiện 4 14% 8 11%

3. Loài vật ít thân thiện 3 11% 1 2%

4. Vật vô tri, vô giác 6 20% 12 17%

5. Bộ phận cơ thể 1 4% 8 11%

6. Con người 3 11% 7 10%

7. Quê hương 3 11% 5 7%

Tổng cộng 28 100% 70 100%

Qua bảng 1, chúng ta có thể thấy một số biện pháp tu từ từ vựng được sử dụng trong tiếng Việt phổ biến hơn trong tiếng Anh, với tần số trong tiếng Việt là NV=70 và trong tiếng Anh NA=28. Trong số các hình ảnh nêu trên, chủ đề về Thiên nhiên xuất hiện nhiều nhất trong các bài hát thiếu nhi ở cả hai ngôn ngữ. Hầu hết các hình ảnh được sử dụng trong các bài hát thiếu nhi trong tiếng Anh và tiếng Việt đều gần gũi và thân thiện với trẻ con như thiên nhiên, loài vật, những vật vô tri, vô giác, bộ phận cơ thể,…bởi lẽ trẻ con vẫn còn nhỏ và non nớt. Chúng nên được nghe những gì tốt đẹp và mang tính giáo dục cao. Chính những hình ảnh này giúp mang lại những bài học luân lý đạo đức cũng như có tính giáo dục cao cho trẻ con. Bên cạnh hình ảnh về những loài vật thân thiện, những loài vật ít thân thiện hơn (rắn, gián, chuột) cũng xuất hiện trong các bài hát thiếu nhi. Tuy nhiên, tác giả không nhằm mục đích dạy cho trẻ những điều xấu từ tên các loài vật này. Thật ra, những loài vật này chỉ bị xem là ít thân thiện bởi vẻ bề ngoài của nó chứ không phải ở đặc điểm tính cách. Thông qua những loài vật này, tác giả muốn truyền tải một thông điệp rằng hầu hết những loài vật xung quanh ta đều thân thiện và không gây hại cho các em

Bảng 2. Tần số và tần suất xuất hiện của các biện pháp tu từ trong các bài hát thiếu nhi trong tiếng Anh và tiếng Việt

Biện pháp tu

từ

Tiếng Anh Tiếng Việt

Tần số

(NA)

Tần suất (%)

Tần số

(NV)

Tần suất (%)

Biện pháp tu từ từ vựng

Ẩn dụ 10 4% 28 11%

Hoán dụ 0 0% 5 2%

So sánh hiển ngôn

11 5% 20 8%

Nhân hóa 7 3% 17 7%

Biện pháp tu từ ngữ âm

Phép lặp 222 88% 180 72%

Tổng cộng 250 100% 250 100%

Qua nghiên cứu và khảo sát các mẫu dữ liệu, chúng tôi nhận thấy có 5 loại biện pháp tu từ thường được sử dụng trong các bài hát thiếu nhi trong tiếng Anh và tiếng Việt. Trong đó, ẩn dụ, hóan dụ, so sánh và nhân hóa thuộc về biện pháp tu từ từ vựng và phép lặp thuộc về biện pháp tu từ ngữ âm. Qua bảng 2, chúng ta có thể thấy phép lặp là biện pháp tu từ được sử dụng phổ biến nhất trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt, lần lượt chiếm 88% (NA=222) và 72% (NV= 180). Điều này có thể do đối tượng mà những bài hát thiếu nhi hướng đến chính là trẻ con. Và đặc trưng của trẻ con là còn non nớt, chưa đủ trưởng thành; vì vậy, khá khó khăn cho trẻ để hiểu được những biện pháp tu từ từ vựng. Chính vì thế, nhiều nhà soạn nhạc chọn biện pháp tu từ ngữ âm, mà cụ thể là biện pháp lặp để thu hút sự chú ý của trẻ nhỏ bởi lẽ biện pháp lặp giúp cho bài hát có vần điệu hơn và giúp trẻ dễ nhớ hơn.

Về biện pháp tu từ từ vựng, bốn biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, so sánh hiển ngôn và nhân hóa đều xuất hiện với tần số cao hơn trong các bài hát thiếu nhi tiếng Việt so với tiếng Anh. Trong đó, biện pháp tu từ từ vựng phổ biến nhất trong bài hát thiếu nhi tiếng Việt là ẩn dụ, chiếm 11% (NV= 28). Đứng ở vị trí thứ 2 trong tiếng Việt là biện pháp so sánh hiển ngôn, 8% (NV= 20) so với chỉ 5% (NA=11) trong tiếng Anh. Có thể thấyso sánh hiển ngôn là biện pháp tu từ từ vựng gần như phổ biến nhất trong các bài hát thiếu nhi tiếng Việt. Hóan dụ là biện pháp tu từ từ vựng ít phổ biến nhất trong tiếng Việt, chiếm 2% (NV= 5); trong khi đó trong mẫu ngữ liệu của bài nghiên cứu, không có biện pháp tu từ hoán dụ nào được tìm thấy trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh.

Lý do dẫn đến tần số sử dụng các biện pháp tu từ từ vựng trong các bài hát thiếu nhi trong tiếng Việt cao hơn trong tiếng Anh là do khác biệt giữa hai nền văn hóa Việt và Anh. Theo Trần Ngọc Thêm [9], Việt Nam hay các nước phương Đông là xứ nóng sinh ra mưa nhiều và ẩm, tạo nên những vùng đồng bằng nằm trong lưu vực các con sông lớn. Còn phương Tây lại là xứ lạnh với khí hậu khô, tạo nên những vùng đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình đồng bằng và đồng cỏ dẫn đến chỗ cư dân của hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồng trọt bắt buộc người Việt phải sống định cư để chờ thu hoạch. Trong khi đó, lối sống chăn nuôi mang tính du cư và phụ thuộc vào đồng cỏ. Do vậy, văn hóa nông nghiệp thì trọng tình và trọng tĩnh; văn hóa du mụcthì trọng động. Vì lẽ đó, người phương Đông, cụ thể là người Việt Nam thường sử dụng lối nói ẩn ý, ẩn dụ nhằm giữ thể diện cho người đối diện để duy trì mối quan hệ hòa hợp với những người khác trong cộng đồng. Ngược lại; ở phương Tây, văn hóa du mục khiến người phương Tây coi trọng tính cá nhân và coi trọng quyền tự do cá nhân. Do vậy, các biện pháp tu từ từ vựng không được sử dụng phổ biến như trong các bài hát thiếu nhi tiếng Việt.

Ngoài ra, theo Trần Ngọc Thêm [9], Việt Nam thuộc nền văn hóa ngữ cảnh cao. Chính vì vậy, tác giả Việt Nam thường sử dụng lối diễn đạt gián tiếp, ẩn ý, ẩn dụ trong các bài hát thiếu nhi tiếng Việt. Ngược lại, phương Tây là nền văn hóa ngữ cảnh thấp. Do vậy, các biện pháp tu từ từ vựng ít được sử dụng phổ biến trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh.

Page 74: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

70 Hồ Thị Kiều Oanh, Nguyễn Đỗ Hà Anh

4. Kết luận Với những kết quả rút ra từ bài nghiên cứu này, chúng

tôi hy vọng bài viết góp phần giúp người học, người dạy tiếng Anh và tiếng Việt hiểu sâu hơn về những biện pháp tu từ trong các bài hát thiếu nhi tiếng Anh và tiếng Việt để có thể dạy và học tiếng Anh và tiếng Việt cho trẻ con tốt hơn. Hơn nữa, qua bài báo này, chúng tôi hi vọng sẽ giúp các độc giả hiểu rõ sự khác biệt về đặc trưng văn hóa cũng như ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Galperin, I. R., Stylistics. Higher School Publishing House, 1977. [2] Gardner, H., Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences,

Basic Books Publishing House, 1983. [3] Opie, P., The Oxford Dictionary of Nursery Rhymes, Oxford

University Press, 1951. [4] Pai, S. J., Discovering Musical Characteristics of Children’s

Songsfrom Various Parts of the World, Master of Arts, Queen’s University, 2005.

[5] Tom, G., & Eves, A., “The Use of Rhetorical Devices in Advertising”, Journal of Advertising Research, 39(4), 1999, 39-43.

[6] Trịnh Thị Quỳnh Châu, An Investigation into Stylistic Devices Commonly Used in English and Vietnamese Poems, Master thesis, The University of Da Nang, 2012.

[7] Đinh Trọng Lạc, 99 Phương tiện và Biện pháp Tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1994.

[8] Phạm Thị Hồng Loan, An Investigation into Linguistic Features of Songs for Children in English and Vietnamese, Master thesis, The University of Da Nang, 2014.

[9] Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999.

[10] Chen, H.M., Zhu, A.L., Zhang, Z.P., & Zhang, H.C., Music Primary 1, Pearson Education South Asia Pte Ltd, 2008.

[11] Chen, H.M., Zhu, A.L., Zhang, Z.P., & Zhang, H.C., Music Primary 3, Pearson Education South Asia Pte Ltd, 2008.

[12] Chen, H.M., Zhu, A.L., Zhang, Z.P., & Zhang, H.C., Music Primary 4, Pearson Education South Asia Pte Ltd,2008.

[13] Đoàn Đăng Đức & Phương Loan, Tuyển tập các ca khúc thiếu nhi hay nhất - Ngày đầu tiên đi học, Nhà xuất bản Âm nhạc, 2015.

[14] Hoàng Long, Âm nhạc 4, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2014. [15] Hoàng Long & Đàm Luyện, Âm nhạc và Mĩ thuật 6, Nhà xuất bản

Giáo dục Việt Nam, 2016. [16] Song Minh, Tuyển tập bài hát hay dùng trong trường Tiểu học, Nhà

xuất bản Thanh niên, 2016.

(BBT nhận bài: 12/12/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 30/12/2016)

Page 75: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017 71

KIỂU NGƯỜI TRUNG NGHĨA TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO NAM BỘ NỬA SAU THẾ KỶ XIX QUA TRƯỜNG HỢP PHAN THANH GIẢN

TYPE OF LOYAL PEOPLE IN LITERATURE BY SOUTHERN VIETNAM’S CONFUCIAN SCHOLARS IN THE SECOND HALF OF THE XIX CENTURY THROUGH THE CASE

OF PHAN THANH GIAN

Nguyễn Ngọc Phú Trường Đại học Đồng Tháp; [email protected]

Tóm tắt - Phan Thanh Giản là một kiểu nhà nho yêu nước ở NamBộ nửa sau thế kỷ XIX. Ông là tấm gương đạo đức, một nhân cách cao đẹp với những thăng trầm, mâu thuẫn, bế tắc. Thơ ông thể hiện nỗi niềm u uất trước thời cuộc và luôn hết lòng vì nước vì dân.Đó là hình tượng con người chính trực, nhân nghĩa - một cái tôi trữtình giàu cảm xúc, con người trung nghĩa luôn vì nước, vì dân. Conngười mang tâm trạng mâu thuẫn, bế tắc của một nhân cách lớn.Ông là người luôn nêu cao lẽ sống, đạo đức, sự chính trực, nhânnghĩa và tư tưởng canh tân, đóng góp to lớn trong việc củng cố,xây dựng nền độc lập dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệpphát triển đất nước. Thơ ông phản ánh nhân cách, tư tưởng củamột kiểu nhà nho chính thống luôn luôn nặng lòng vì nước, vì dân.

Abstract - Phan Thanh Gian belonged to a type of patriotic Confucian scholars in Southern Vietnam in the second half of the nineteenth century. He was a moral example, a noble personality associated with ups and downs, contradictions and deadlocks. His poetry demontrated his speenful melancholy in the face of the contemporary situation and his whole-hearted dedication to his people and his country. It showed a human image of integrity and humanity - a lyrical ego brimming with emotions, a faithful man who always devoted himself to his people and his country, a man who bore a contradictory mood and stalemate of a great personality. He always upheld reasons for living, ethics, integrity, humanity and renovation thinking, thereby making a great contribution to the reinforcement and construction of the nation's independence in the cause of developing the country. His poetry reflected the personality and thoughts of a type of mainstream Confucian scholars who were always deeply attached to his people and his country.

Từ khóa - Phan Thanh Giản; văn học; nhà nho; trung nghĩa;Nam Bộ.

Key words - Phan Thanh Gian; literature; confucian scholar; loyalty; Southern Vietnam.

1. Mở đầu

Xã hội phong kiến Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tư tưởng “trung quân” đã không còn như thời kỳ trước đó. Chữ “trung” đã mất hết ý nghĩa, “trung quân” mâu thuẫn với “ái quốc”. Nho giáo dạy “thần sự quân dĩ trung”, quân đã không minh thì thần khó mà có thể giữ lòng trung. Nhà nho xem vua cũng chẳng ra gì, chứng tỏ chữ “trung” đã mất giá trị nên có những nhà nho chống lại vua, nhân dân chống lại vua. Triều đình chấp nhận đầu hàng thì các nhà nho thà chết chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Vấn đề đặt ra cho các nhà nho lúc này là bề tôi có nhất thiết phải trung thành nữa không? Khi đức vua đi ngược lại quyền lợi của dân tộc thì bề tôi phải làm sao đây? Một số nhà nho không rời bỏ triều đình, đặt yêu nước lên trên vua, không tuân lệnh vua. Có nhiều nhà nho nghiêng về tư tưởng yêu nước nhưng họ cũng chưa thể vứt bỏ chữ trung quân. Ngoài một số người chấp nhận hợp tác với chính quyền thực dân, ta thấy một số nhà nho phó mặc cho thời thế, tìm đường tránh né để giữ khí tiết và một số khác chờ thời, nuôi chí để phục thù. Trước vận mệnh dân tộc, nhiều sĩ phu rút về thành lập các đội quân chống giặc, cũng có kẻ chạy về phần đất còn lại của triều đình để ẩn náu chờ thời. Bên cạnh phần đông sĩ phu có lòng yêu nước, là những kẻ vì danh lợi quyền tước mà bán rẻ lương tâm cho giặc. Trong bối cảnh đó, tư tưởng trung nghĩa luôn đặt ra đối với các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Theo thời gian và bối cảnh lịch sử, nội dung của tư tưởng trung nghĩa có biến dịch, đổi thay. Điều này được thể hiện rõ qua sáng tác của nhà nho Phan Thanh Giản. Ông là kiểu con người trung nghĩa - một nhà nho Nam Bộ yêu nước luôn hết lòng vì nhân dân.

2. Con người mang nặng những nỗi niềm trước thời cuộc

Lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX đã xảy ra nhiều biến cố, thăng trầm. Các triều đại phong kiến đã có những đóng góp to lớn trong việc củng cố và xây dựng nền độc lập dân tộc và góp phần quan trọng cho sự phát triển của đất nước, nhưng từ nửa sau thế kỷ XIX đã không còn đóng vai trò tích cực tích cực trong việc bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Nhà nho Phan Thanh Giản rất lo lắng cho vận mệnh của dân tộc trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Với tấm lòng vì dân, vì nước, ông luôn trăn trở và mong muốn chấn hưng đất nước trước sự xâm lăng của ngoại bang. Đức tính cương trực, suốt đời lo cho dân cho nước, đã thể hiện rõ phẩm chất cao đẹp, tấm gương sáng của một nhà nho yêu nước đất Nam Kỳ. Ông thể hiện một sự nhận thức sâu sắc trước thời cuộc, với mong muốn làm cho đất nước thoát khỏi sự lạc hậu. Tuy nhiên, tư tưởng của ông đã không được triều đình coi trọng. Nó khiến ông mang nặng những nỗi niềm: “Từ ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [3: 178].

Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc và tiếp đó là ba tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản càng u uất hơn khi phải chứng kiến và thừa hành một đường lối sai lầm của Tự Đức. Nỗi niềm u uất ông đã được nhân dân thấu hiểu. Yêu nước thương dân nhưng ông không thể làm trái tư tưởng trung quân. Ông nhận thấy mình có tội với dân với nước và đã kết liễu đời mình để bày tỏ nỗi lòng với hậu thế. Đó là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tấm lòng trung nghĩa, vì nước, vì dân. Theo cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, “Phan Thanh Giản vẫn còn là con người đáng kính trọng, đáng

Page 76: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

72 Nguyễn Ngọc Phú

tôn vinh, một danh nhân của dân tộc ta, phải coi Phan Thanh Giản là người yêu nước thương dân, không phản quốc hại dân”. Ông nói: “Phan Thanh Giản là người yêu nước, thương dân, một phẩm cách đáng kính trọng”.

3. Con người chính trực, nhân nghĩa - một cái tôi trữ tình giàu cảm xúc

Phan Thanh Giản là nhà văn, nhà thơ lớn của Nam Bộ và Việt Nam đương thời. Tác phẩm của ông chứa đựng nỗi niềm u uẩn. Ông để lại một di sản khá phong phú. Đó là các tác phẩm: Lương Khê thi thảo, Lương Khê văn thảo, Sứ Thanh thi tập, Tây phù nhật kí, Ước Phu thi tập, Tích Ung canh ca hội tập, Sứ trình thi tập. Trong đó, tác phẩm được chú ý nhất là Lương Khê thi thảo và Lương Khê văn thảo. Tập Lương Khê thi thảo gồm 18 quyển, với khoảng 455 bài thơ; tập Lương Khê văn thảo có 3 quyển, khoảng 60 bài văn với nhiều thể loại như: biểu, sớ, ký, thư,… Qua tập Lương Khê thi thảo, ta thấy sự chân thành, trung thực của một con người chính trực, nhân nghĩa, yêu nước và thương dân. Thế giới thơ Phan Thanh Giản chứa đựng một cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, yêu thương bạn bè, gia đình và làng xóm. Văn thơ của ông phản ánh chân thực nhân cách, tư tưởng của một nhà nho yêu nước, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, yêu thương con người sâu sắc và không hề khuất phục trước bọn cướp nước. Ông sáng tác nhiều trong những năm đi thi, đi sứ sang Trung Quốc, Pháp. Sáng tác của ông thể hiện những nỗi niềm của người dân mất nước, một bi kịch của vị đại thần suốt đời lận đận trong vòng trói buộc của hai chữ “trung quân”. Ông bị trói buộc bởi đường lối “chủ hòa” của triều đình với tâm trạng đầy mâu thuẫn, bế tắc. Bế tắc trong việc thực thi nhiệm vụ chính trị ở chốn quan trường, ông muốn quay về làm bạn với Đào Uyên Minh để có thể tẩy sạch bụi trần trên khăn đầu già: “Khâu viên quy bạn Đào Bánh Trạch/ Khẳng trục trần ai lão mạch đầu” (Mạch liễu). Ta thấy cuộc đời Phan Thanh Giản có nhiều điểm tương đồng với Tăng Quốc Phiên ở Hồ Nam, Trung Quốc. Tăng Quốc Phiên là nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của Trung Quốc thời cận đại, ông đồng thời là một nhà nho lỗi lạc, một quan lại người Hán tiêu biểu, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị lớn về nhiều mặt như: Tăng Văn Chính Công toàn tập (174 cuốn), Tăng Văn Chính Công thủ thư nhật kí (40 cuốn). Phan Thanh Giản và Tăng Quốc Phiên có tầm vóc lớn, có ảnh hưởng tầm quốc gia nhưng bị đánh giá một cách thiếu công bằng trong thời gian dài. Tuy nhiên, nhưng họ vẫn sống trong lòng nhân dân vì sự chính trực, nhân nghĩa, hết lòng vì nước, vì dân.

Mang tâm trạng u buồn nơi đất khách, ông chỉ muốn quay về phương Nam xa diệu vợi, trở về với đồng quê để sớm hôm hầu hạ cha già, bên cạnh bạn tri âm để xướng họa thơ văn hơn là tham gia vào triều chính. Nói như Cao Tự Thanh: “cái số phận nhiều cay đắng mà ít vinh quang”: “… Phan Thanh Giản đã chết bốn lần. Lần thứ nhất là Phan uống thuộc độc tự tử. Lần thứ hai, Phan bị thực dân ám sát... Lần thứ ba, Phan bị triều đình Tự Đức bức tử với bản án “truy đoạt tất cả chức hàm, đục tên trong bia Tiến sĩ, giữ mãi cái án trảm giam hậu”. Lần thứ tư… nền sử học… đương thời đã xử tử ông, gây ra một công án đau lòng khiến những trí thức đương thời như Ca Văn Thỉnh day dứt và các chính khách như Võ Văn Kiệt hiện nay trăn trở…” [6]. Năm 1836, trong bức sớ can vua Minh Mạng ngự giá Quảng Bình, ông viết: “Hạ thần là kẻ giữ đất, chăn dân, gội

đức vua, không làm cho dân được hạnh phúc, thật là có tội... hạ thần xin bệ hạ đình chỉ ngự giá đợi đến trời đất khí hòa, mùa được dân no. Xin bệ hạ thẩm xét” [6]. Ông là vị quan thanh liêm, đạo đức, mọi sự nghĩ suy đều vì dân, vì nước: “Lo nỗi nước kia cơn phiến biến/ Thương bề dân nọ cuộc giao chinh” [2: 851]. Nhiều nhà nho nghĩa khí đã chia sẽ cùng ông nỗi niềm ấy. Nguyễn Thông nhiều lần đề xuất những việc có lợi cho dân nhưng vua không nghe và cũng tỏ ra chán nản, nỗi u uất của ông cũng bộc lộ ra lời thơ một cách buồn bã: “Phù tung vô địa tán cơ cầu” (Đi lang thang chưa tìm được nơi nào để giải mối sầu). Hoặc: “Ngã cùng ná tỵ lâm hác tiếu!” (Tôi nay gặp bước đường cùng, không thể tránh được sự cười chê của núi khe) [5: 76-77]. Có lúc ông không tránh khỏi bi quan, chán nản khi đối mặt với những câu hỏi mang ý nghĩa của thời đại: “Bao thuở đem về cơ nhất thống?” (Phan Văn Trị), “Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng/ Bốn biển âu ca hiệp một nhà” (Nguyễn Đình Chiểu),… Hiểu nỗi niềm của ông, con người ông, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ thái độ thương tiếc và trân trọng khi nghe tin Phan Thanh Giản mất: “Minh sinh chín chữ lòng son tạc/ Trời đất từ rày mặc gió thu” [4: 282].

4. Con người trung nghĩa luôn vì nước, vì dân Trong cuộc đời làm quan, Phan Thanh Giản cảm thấy thẹn

vì chưa làm được gì cho quê hương, ông gắng sức trau dồi, tu dưỡng đạo đức và luôn băn khoăn về gánh nặng nợ nước, ơn vua mà nghĩ đến sự báo đáp. Trong bài Trú trực, ông bày tỏ: “Quốc ân hà tự sùng thâm báo/ Độc ỷ nguy lan tọa tịch dương” [2: 353]. Ơn của vua không biết làm thế nào để đền đáp cho xứng đáng, ngồi một mình tựa lan can dưới ánh chiều tà mà ngẫm nghĩ về mình. Ở bài Đăng Bảo Định đồn, ông bày tỏ: “Ngọc Quan mạn đạo lao đầu bút/ Bạch thủ trường kham báo quốc ân” (Dùng ngòi bút luận bàn đến việc ra biên ải/ Đầu bạc vẫn còn có thể báo đáp ơn nước) [2: 359]. Lòng yêu nước của Phan Thanh Giản lúc nào cũng gắn với tình thương yêu dân nghèo. Trong bài Tòng quân, ông nói về nỗi khổ của dân hai huyện như sau: “Ai thử nhị huyện dân/ Hướng chuyển diệc lao lục/ Thu quý thuộc vũ lạo/ Sơn khê thậm du mạc” (Thật thương cho dân hai huyện này/ Khổ cực vì chuyển vận lương thảo/ Mùa thu là mùa mưa lụt/ Đường núi nhiều suối khe rất xôi xa cách trở) [2: 246]. Tấm lòng ông luôn nghĩ về nhân dân, quan tâm đến nỗi khổ của dân trước thiên tai khắc nghiệt. Ông không ngủ được khi thấy nhân dân đói khổ: “Bát nguyệt thượng viêm nhiệt/ Nam mẫu khát dư ba/ Tiết hậu tùy niên dị/ Tinh thần vận khí hòa/ Trung dạ chính độc khởi/ Kiểu thủ vọng minh hà/ Vi vân động thiên tế/ Hoàn khủng phong vũ đa” (Thu dạ độc khởi) [2: 574]. Tháng tám trời còn nóng, ruộng đồng khô thiếu nước, thời tiết mỗi năm mỗi khác. Lẽ tuần hoàn chuyển vận nên giữa đêm một mình thức giấc, ngẩng đầu trông trời đất, thấy mây chuyển động khắp trời, lại sợ mưa to, gió lớn. Nỗi niềm của Phan Thanh Giản càng ngày càng thêm chất chứa, khi phải đối mặt với sự phức tạp của thời cuộc mà đành bất lực. Điều đó khiến ông cảm thấy xót xa: “Lăm trả ơn vua đền nợ nước/ Đành cam gánh nặng ruổi đường xa/ Lên ghềnh, xuống thác thương con trẻ/ Vượt biển, trèo non cám phận già/ Cũng tưởng một lời an bốn cõi/ Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!” (Việc nước không thành) [3: 264].

Việc đánh giá Phan Thanh Giản còn nhiều ý kiến khác biệt, thậm chí mâu thuẫn. Tuy nhiên, điều mà nhiều người đã nhận ra ở con người ông là nhân cách, nghĩa khí của một

Page 77: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017 73

nhà nho Nam Bộ, và tấm lòng đối với dân với nước. Suốt đời làm quan, ông thể hiện một nhân cách lớn, một tầm nhìn xa rộng với tư tưởng canh tân đất nước. Ông đã được nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Vĩnh Long, Bến Tre, quê hương nói riêng, tôn thờ: “Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đời thanh sạch, thật đáng để lại gương soi cho hậu thế…” [6]. Phan Thanh Giản là nhà trí thức, lòng ông luôn mang nặng những nỗi niềm vì nước, vì dân nhưng đã rơi vào bế tắc, bất lực. Đó cũng là bế tắc của cả một thế hệ nhà nho. Ông được người đời kính trọng vì tính cương trực, thanh liêm. Nỗi niềm của ông đã được người đời thấu hiểu, tấm lòng ông vẫn sáng cùng non sông đất nước.

5. Con người mang tâm trạng mâu thuẫn, bế tắc của một nhân cách lớn

Phan Thanh Giản làm quan các triều Minh Mạng, Triệu Thị, Tự Đức. Từ năm 1826 - 1867, qua ít nhất 58 chức vụ lớn nhỏ, ông không vì chức tước, bổng lộc, không hề ham muốn cao sang danh vọng. Ông làm quan với mong muốn làm thay đổi cuộc sống khốn khổ của dân nghèo. Ông sống một cuộc đời thanh bạch, với nhà tranh, vách lá. Vua Tự Đức đã kết tội ông hết sức phi lý và lịch sử nhất thời đánh giá thật bất công nên Phan Thanh Giản đã tuẫn tiết (01/08/1867), sau 17 ngày nhịn ăn. Trước sự chứng kiến của gia đình, ông đã hướng về phương Bắc lạy vua năm lạy rồi bình tĩnh mượn chén thuốc độc kết liễu đời mình. Đương thời đã mấy ai hiểu được ông, người đã không tiếc mạng sống của mình để bày tỏ sự tận trung vời triều đình? Cái chết của Phan Thanh Giản là cái chết của lòng quả cảm, không tham sống sợ chết và không hề nhu nhược. Nguyễn Đình Chiểu đã đánh giá Phan Thanh Giản rất cao: “Lịch sử tam triều độc khiết thân” (Một người từng trải ba triều vua duy nhất còn trong sạch) [4: 39]. Ông mất đi nhưng nhân dân Nam Bộ vẫn tôn thờ ông, có những đánh giá cao và xóa cho ông tội oan “bán nước”.

Phan Thanh Giản để lại nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau. Qua thơ văn của ông chúng ta nhận thấy: “một con người cương trực, khảng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm và được người đời xưng tụng”. “Phan Thanh giản còn là nhà thơ, nhà văn, một học giả uyên bác đã để lại nhiều tác phẩm làm phong phú cho kho tàng văn hiến của nước nhà” [2: 6]. Thơ văn Phan Thanh Giản thể hiện những bôn ba trong suốt cuộc đời làm quan, từ lúc đi thi, từ biệt gia đình ra kinh đô chờ bổ dụng làm quan. Những sáng tác trong lúc làm quan cho ta thấy Phan Thanh Giản đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời. Có khi là khóc bạn, thể hiện nỗi niềm trong lúc làm nhiệm vụ, sáng tác trong lúc đi sứ… Những sáng tác ấy đã cho thấy, ở ông có một tâm hồn thơ, một tài năng văn chương đa dạng. Nhà thơ nổi tiếng đương thời Nguyễn Miên Thẩm cho rằng, ông đã: “quán triệt đạo lý, tu dưỡng đức hạnh”, “miệt mài nấu sử sôi kinh, bác cổ thông kim, hiểu sâu vận luật”, nên văn chương của ông: “câu chữ rất thanh cao, bài nào cũng trau chuốt, như gió cuộn, tuyết bay, như lầu hoa cầu ngọc”, “tứ thơ cao siêu như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên sống lại; ngôn ngữ sắc sảo như các ông Đỗ Phủ, Hàn Dũ thuở nào; có khi ngụ tư tưởng sâu sắc như thơ Khuất Nguyên, có khi tựa Trang Sinh cuồn cuộn lời thơ, phóng túng…” [2: 15]. Đọc thơ văn

Phan Thanh Giản, ta luôn gặp những nỗi niềm trăn trở, như: “Ly nhân chính khổ như niên dạ/ Thư dạ hà kham cánh nhị niên” (Xa nhà đêm khổ tựa năm/ Làm sao chịu nổi đã hai năm rồi!) (Trừ tịch) [2: 109]. “Trường Giang hạo hạo tương vô hạn/ Nhất phiến cô phàm hà xứ qui” (Mênh mông sông rộng không bờ bến/ Buồn côi một mảnh biết về đâu!) (Văn điếu) [2: 16]. Nỗi niềm tha hương thường gây cho nhà thơ nhiều tâm sự, khi nhớ về quê hương, về gia đình trong mỗi chuyến đi xa. Có khi lênh đênh trên biển, khi mượn cảnh, mượn người xa xứ để gửi tâm sự rất khó nói của mình. Khi qua sông Sa Hà, bụi cuốn và gió lạnh làm nhà thơ bộc bạch: “Sở quý tại công nghiệp/ Khởi vi du lịch đa?” (Điều quý nhất là ở sự nghiệp/ Chứ đâu phải ở chỗ du lịch nhiều) (Quá Sa Hà) [2: 503]. Nhà thơ đã thể hiện chí của mình khi qua cửa quan Vũ Thắng, nhà thơ khẳng định rằng: “Hồ thỉ nhân do tráng/ Hà tu trướng viễn du…” (Chí tang bồng vẫn mạnh/ Đâu phải sợ đường xa) [2: 18], tới ghềnh Ngũ Hiễm, nhờ Mã Viện, nhà thơ cảm thấy nỗi khó khăn của một bề tôi trung thành: “Thao thao sàm khẩu tương hà chỉ?” (Nhao nhao miệng lưỡi gièm pha, khi nào mới ngớt?) [2: 18]. Và rồi, một câu hỏi ngàn năm cứ day dứt nơi nhà thơ: “Thiên niên thị phi gian/ Thùy năng khấu chân đế?” (Ngàn năm đúng hay sai/ Ai biết tìm chân lý?) [2: 18].

6. Kết luận Phan Thanh Giản - một kiểu nhà nho trung nghĩa Nam

Bộ luôn mang nặng những nỗi niềm trước thời cuộc, một con người cương trực, nghĩa khí giàu xúc cảm, hết lòng vì nước, vì dân. Ông mang một tâm trạng mâu thuẫn, bế tắc của một nhân cách lớn. Người đời sau lật lại những trang thơ của ông mới thấy rõ những nỗi lòng sâu kín trước thời cuộc ông, tự hào về ông, một danh sĩ đất Nam Bộ thời cận đại. Văn thơ ông phản ánh nhân cách, tư tưởng của một nhà nho chính thống luôn luôn nặng lòng vì nước, vì dân. Đã hơn thế kỷ nay, ông luôn được nhân dân Nam Bộ nói riêng, nhân dân cả nước nói chung ngưỡng mộ nhân cách và tư tưởng. Lịch sử đã có cái nhìn công bằng hơn về ông, không ai xem Phan Thanh Giản là một kẻ phản bội, đầu hàng hay bán nước. Người đời sau hiểu hơn về cái chết của Phan Thanh Giản - sự lựa chọn của một kiểu con người trung nghĩa, chấp nhận cái chết để người khác được sống. Người Nam Bộ rất tự hào về ông, một nho sĩ mẫu mực hiếm có trong giai đoạn suy tàn của chế độ thời phong kiến Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Huy Lê (2002), “Phan Thanh Giản: con người, sự nghiệp và bi

kịch lịch sử”, www.namkyluctinh.org, Ngày 15/6/2014. [2] Phan Thị Minh Lễ, Chương Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản,

Nxb Hội Nhà văn. [3] Nguyễn Duy Oanh (1973), Chân dung Phan Thanh Giản, Tủ sách

Sử học, Bộ Văn hóa - Giáo dục và Thanh niên (miền Nam). [4] Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Thạch Giang (1982),

Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, Tập 2, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

[5] Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang (1984), Nguyễn Thông con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Huỳnh Công Tín (2008), “Phan Thanh Giản - Vị tiến sĩ đầu tiên đất Nam Kỳ”, http://www.baocantho.com.vn/?mod=detnews&catid=302&p=0&id=18450, Ngày 20/5/2014.

(BBT nhận bài: 14/9/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 21/12/2016)

Page 78: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

74 Nguyễn Duy Phương

NẠN CƯỚP BIỂN TRÊN VÙNG BIỂN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802- 1884)

SEA-ROBBERY ON SEA AREAS OF QUANG NAM DA NANG UNDER NGUYEN DYNASTY

Nguyễn Duy Phương Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Từ bao đời, cướp biển luôn là nỗi kinh hoàng của ngưdân khi ra khơi. Chúng không chỉ cướp bóc, giết người, gây ra baothiệt hại về kinh tế mà còn là mối đe dọa đến an ninh chủ quyền quốc gia trên biển. Dưới triều Nguyễn, cướp biển xuất hiện trênvùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng nhiều hơn, mức độ cướp phátrắng trợn và thường xuyên hơn. Để đối phó với lực lượng này,vương triều Nguyễn cùng với quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã có những biện pháp hữu hiệu phòng chống nạn cướp biển, bảo vệngư dân cũng như an ninh, chủ quyền biển đảo. Hiện nay, trongđiều kiện hội nhập quốc tế, vùng biển và hải đảo được Đảng, Nhànước đặc biệt quan tâm.Nghiên cứu truyền thống quốc phòng, anninh nói chung, bảo vệ biển nói riêng của triều Nguyễn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lịch sử và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tácphòng chống cướp biển hiện nay.

Abstract - For many years, sea-robbery has always been horrors of fishermen while at sea. Robbers plunder, murder, cause not only many economic losses but also a threat to national security and sovereignty at sea. Under Nguyễn dynasty, sea-robbers appeared on the sea areas of Quang Nam Da Nang more, plundering and looting more blatantly and more frequently. To cope with this force, Nguyen dynasty and Quang Nam Da Nang residents had effective measures to prevent sea-robbers and protect the fishermen as well as security and maritime sovereignty. At present, in the context of international integration, seas and islands are the big concern of the Party and the State. Research on traditional defense and security in general, sea protection in particular of the Nguyen Dynasty Sea will contribute to further elucidating the historical issues and hence we can draw out lessons for the prevention of pirates today.

Từ khóa - cướp biển; triều Nguyễn; Quảng Nam Đà Nẵng; ngưdân; biển

Key words - sea-robbery; Nguyen dynasty; Quang Nam Da Nang; fishermen; sea

1. Đặt vấn đề

Biển đảo giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, là nơi ẩn chứa nhiều tiềm năng phát triển đất nước, nhưng những nguy cơ, thách thức đến từ biển cũng không ít, mà nạn cướp biển là một trong số đó. Vùng biển đảo Quảng Nam - Đà Nẵng với nhiều thuận lợi về giao thông, giàu có về nguồn lợi thủy hải sản, tài nguyên khoáng sản... đã trở thành điểm đến hấp dẫn của cướp biển. Chúng không chỉ là nỗi kinh hoàng của ngư dân và cư dân ven bờ, gây ra bao thiệt hại về kinh tế cho địa phương mà nó còn đe dọa đến an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển.

2. Giải quyết vấn đề 2.1. Vài nét về nguồn gốc cướp biển trên vùng biển Việt Nam

Trong các nguồn thư tịch của Việt Nam, cướp biển được nhắc đến với nhiều tên gọi khác nhau như: giặc biển, hải tặc, giặc Tề Ngôi, Thanh phỉ, giặc Tàu Ô, giặc Bồ Đà, giặc Chà Và... Dựa trên các cách gọi này, có thể nhận thấy cướp biển hoạt động trên hải phận Việt Nam khá đa dạng gồmcảcướp biển có nguồn gốc từtrongnước (cướp biển trong nước) và cướp biển có nguồn gốc từ nước ngoài (cướp biển nước ngoài), cướp biển chính trị và cướp biển đơn thuần.

Cướp biển mang mục đích chính trị chủ yếu là cướp biển trong nước như tàn quân Tây Sơn hay các lực lượng muốn khôi phục quyền lực của vua Lê, chúa Trịnh. Còn các nhóm cướp biển người Việt khác chỉ là một vài nhóm lẻ tẻ, vặt vãnh nổi lên mặt biển, hoạt động cướp bóc cũng chỉ để kiếm chút mưu sinh. Trong loại cướp biển chính trị, đáng kể nhất là cướp biển Tề Ngôi với một số lượng khá lớn và hoạt động khá mạnh. Cướp biển Tề Ngôi vốn được

quân Tây Sơn thu nạp và trở thành một bộ phận quan trọng trong lực lượng hải quân Tây Sơn, từng giao chiến quyết liệt với quân thủy Nguyễn Ánh và đã giúp thủy quân Tây Sơn trở nên hùng mạnh. Sau khi Tây Sơn sụp đổ, dưới con mắt của triều Nguyễn, Tề Ngôi trở về thân phận cướp biển chính trị chống đối triều đình để khôi phục nhà Tây Sơn. Vì vậy, đây là mối đe dọa lớn đối với ngôi vị vương triều và cần phải bị tập trung tiêu diệt. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, nhà nước đã tốn rất nhiều công sức trong việc truy quét nhóm cướp biển này. Sau một thời gian dài, dù thu được những kết quả nhất định song triều đình vẫn không thể tiêu diệt hoàn toàn, Tề Ngôi vẫn hoạt động dai dẳng trong suốt 4 triều vua đầu nhà Nguyễn.

Cướp biển nước ngoài hoạt động trên vùng biển nước ta có quốc tịch cũng khá đa dạng như cướp biển người Thanh (Trung Quốc), cướp biển Chà Và (Malaixia), cướp biển Gia Va (Inđônêxia). Trong các nhóm đó, cướp biển Trung Quốc có quy mô, tổ chức lớn nhất, địa bàn hoạt động rộng nhất, tung hoành từ Bắc đến Nam Đại Nam, song vẫn tập trung nhiều hơn ở phận biển miền Bắc và miền Trung, nhất là phận biển Quảng Yên. Thành phần xuất thân ban đầu của cướp biển Trung Quốc có một bộ phận quan trọng là những người bất hợp tác với chính quyền Mãn Thanh hoặc những người từ các tổ chức chống đối Mãn Thanh bị thất bại, tan rã do hoàn cảnh đã mưu sinh bằng nghề ăn cướp trên biển. Về sau, tình hình Trung Quốc ngày càng loạn lạc, kinh tế xã hội suy thoái và bất ổn, số dân nghèo ly tán ở các vùng ven biển gia nhập cướp biển ngày càng đông. Trong số đó có cả số giang hồ lưu manh và bọn tay chân của các bang đảng, hội kín… mang màu sắc chính trị, tôn giáo đã thoái chí, bỏ ra biển ăn cướp. Vì vậy mà hoạt động của cướp biển Trung Quốc trên vùng biển Đông ngày càng táo tợn về tính chất và lớn về quy mô, cường độ.

Page 79: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 75

Còn giặc biển Chà Và và Gia Va chỉ đến mùa gió nước thuận tiện mới kéo đến phận biển nước ta, đi lại cướp bóc trên mặt biển hoặc lẩn trốn tạm trên các đảo phía Nam như Phú Quốc, Côn Lôn mà không dám trú ẩn lâu dài. Nhưng địa bàn hoạt động của chúng cũng khá rộng trải dài dọc duyên hải Nam bộ và Nam Trung bộ, nhiều khi kéo lên tận duyên hải Bắc Trung bộ và thậm chí đôi lúc còn hiện diện cả ở vịnh Bắc Bộ. Sử triều Nguyễn chép: “Giặc biển Chà Và thường nương tựa các cù lao thuộc Hà Tiên để đón cướp thuyền buôn. Trấn thần phát binh tuần xét, bắt được rất nhiều. Sai đóng gông tướng giặc đưa về Kinh để giết”(tháng 7 năm 1817) [8: tr 958]. 2.2. Cướp biển trên vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng dưới triều Nguyễn

Vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵnggiáp với biển Đông, có chiều dài bờ biển gần 200 km, trong đó có một số đảo, quần đảo lớn như quần đảo Hoàng Sa, bán đảo Sơn Trà, cụm đảo ven bờ Cù lao Chàm... Nằm ngay vị trí trung điểm của đất nước, trên đường giao thông quốc tế từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, vùng biển này có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Từ đây có thể giao thông dễ dàng với các vùng khác trong nước cũng như các nước trong khu vực. Đồng thời, đây cũng là nơi rất giàu tiềm năng về khoáng sản và nguồn hải sản. Với vị trí chiến lược cũng như nhiều giá trị về mặt giao thương, kinh tế và quân sự, vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵngtừ sớm đã phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó thường trực nhất vẫn là nạn cướp biển.

Dưới thời Nguyễn, hoạt động trên vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng chủ yếu là cướp biển Trung Quốc. Chúng thường xuất hiện trên các hải phận Đại Chiêm (biển Cửa Đại, Hội An ngày nay), Hải Vân (Đà Nẵng), Hoàng Sa (Đà Nẵng) quấy phá vùng biển, cướp bóc của cải thuyền buôn, và cả thuyền công, thậm chí lên bờ đốt phá nhà dân. Sử triều Nguyễn cho biết: “Năm Minh Mạng 19 (1838), thuyền giặc nước Thanh ngầm nổi lên ở phận biển cửa Hải Vân, cướp lấy của cải đồ vật trong thuyền ở bến đò Thanh Khê rồi đi” [10: tr 289]; năm 1834: “Có 2 thuyền giặc Thanh lén lút nổi lên ở hải phận Đại Chiêm, đón cướp của cải những người đi buôn, lại lên bờ đốt phá nhà dân” [9: tr 435]. Ngày 8/5/1851, tiễu trừ thuyền của bọn Thanh phỉ xâm nhập hải phận thuộc cửa biển Hoàng Sa, Quảng Ngãi, cướp thuyền buôn và đổ bộ lên bờ” [5: tr 40]. Châu bản triều Nguyễn cũng nhiều lần phản ảnh vấn nạn này. Châu bản ngày 24/4/1838 cho biết tỉnh Quảng Nam đã tâu về việc “ghe buôn Nguyễn Văn Triêm bị cướp tại hải phận Quảng Nam” [2: tr 114].

Trong thời gian triều Nguyễn phải đối phó với các cuộc tấn công xâm lược của thực dân Pháp, cướp biển lại càng hoành hành dữ tợn hơn, tần suất xuất hiện thường xuyên hơn. Chỉ trong mấy năm đã ghi nhận nhiều trường hợp thuyền buôn bị chúng cướp phá. Tháng 3.1864, giặc biển cướp thuyền buôn ở cửa biển Đại Chiêm, Quảng Nam; tháng 4.1864, giặc đốt cướp các thuyền tải, thuyền buôn ở địa phận các cửa biển Quảng Nam, trong 8 ngày đến 5 lần; tháng 3.1865, giặc biển cướp bóc ấp An Cư ở cửa biển Hải Vân; tháng 4.1872, bọn giặc quấy nhiễu hải phận tỉnh Quảng Nam [12], [15].

Thời gian hoạt động của cướp biển cũng như các hoạt

động của thuyền bè trên biển phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên. Nếu điều kiện gió nước thuận lợi, người lái thuyền có thể lợi dụng xuôi theo hướng gió, thuận theo dòng nước để giảm hao phí về sức người. Nếu ngược gió nước, không những thuyền không thể đi nhanh mà việc chèo chống cũng khó khăn không như ý muốn.Vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng vào tháng 3, tháng 4 cho đến tháng 8 tháng 9 thường khá tĩnh lặng, có gió Tây Nam thuận lợi cho tàu thuyền di chuyển nên đây cũng là lúc hoạt động buôn bán, tàu thuyền qua lại diễn ra nhiều và nạn cướp biển cũng theo đó gia tăng hoạt động. Sử triều Nguyễn cho biết: “Gần đây giặc biển quấy rối, phần nhiều là từ cuối xuân đến đầu thu, quãng ấy chúng dựa vào các đảo ngoài biển làm sào huyệt…” [10; tr 125].

Cướp biển ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng, nếu so sánh về tần suất, quy mô cũng như mức độ cướp phá, hung tợn của chúng thì vẫn không bằng cướp biển ở các vùng biển phía Bắc, đặc biệt là vùng Quảng Yên. Thống kê từ Đại Nam thực lực, có 57 lần tài liệu này nhắc đến việc cướp biển ở các vùng biển trong cả nước, trong đó cướp biển vùng Quảng Nam - Đà Nẵng được nhắc đến 8 lần, nhưng vùng Quảng Yên có đến 26 lần. Trong những lần xuất hiện ở phần biển Quảng Nam - Đà Nẵng, cướp biển thường đi với lực lượng nhỏ, khoảng vài ba chiếc thuyền và cũng chưa thấy sử sách ghi chép về sự đụng độ căng thẳng nào giữa bọn cướp biển với quan quân triều đình. Lí do có lẽ do vùng biển này gần với Kinh đô Huế, nơi tập trung toàn bộ quân đội chính quy của nhà Nguyễn nên bọn giặc cướp cũng phải e dè. Trong khi đó, khu vực phía Bắc, đặc biệt là ở tỉnh Quảng Yên, cướp biển Trung Quốc lại thường tụ tập đông đảo để cướp phá, có khi cướp biển và thổ phỉ còn phối hợp với nhau làm cho quan quân nhiều phen vất vả mới dẹp yên. Năm Tự Đức thứ 25 (1872), “thuyền giặc ở Quảng Yên lọt lưới chạy thoát (hơn 60 chiếc), không thể đuổi bắt được...”. Những chiếc thuyền chạy thoát này “cả thủy và bộ họp lại với nhau thành một toán (thuyền giặc hơn 60 chiếc, giặc trên bộ hơn 1000 đứa), đường thủy đi từ huyện Nghiêu Phong, đường bộ đi từ huyện Hoành Bồ, đi đến đâu đốt nhà cướp của đến đấy, rồi kéo đến tỉnh thành quấy rối” [7: tr 1337]. “giặc biển ở Quảng Yên là Ba Công Dụng họp hơn 50 chiếc thuyền ăn cướp châu Tiên Yên. Trấn thủ Nguyễn Đăng Khánh và Tham hiệp Lê Đạo Quảng thân đem binh thuyền đến đánh bắt…” [7: tr 587].

Tuy có khác nhau về tần suất, quy mô, nhưng phương thức hoạt động của cướp biển trên các vùng biển ở Việt Nam là khá giống nhau. Một trong các thủ đoạn chúng thường sử dụng là giả dạng các thuyền đánh cá của dân thường hoặc thuyền đi buôn hợp pháp để khi có cơ hội là chúng ra tay cướp bóc và chém giết, chúng đã gây nhiều khó khăn cho quan quân trong việc tiểu trừ. Một viên Lãnh sự Pháp trong một lá thư gửi Thống đốc Nam Kỳ đề ngày 4 tháng 4 năm 1879 đã mô tả phương thức tấn công cướp bóc của bọn cướp biển: “…Bởi vì người Việt Nam bị cấm mang vũ khí, nếu vi phạm sẽ bị trừng trị rất khắc nghiệt, nên chỉ cần vài khẩu súng cũng có thể dễ dàng khuất phục những người trên ghe và chiếm ghe. Bọn hải tặc có một thuyền buồm, y hệt như những thuyền buồm bình thường của người Hoa. Thuyền này dùng làm kho chứa hàng, nó ngược xuôi ven bờ biển và phóng những chiếc ghe nhỏ kiểu

Page 80: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

76 Nguyễn Duy Phương

Việt Nam đi khắp mọi hướng, mỗi chiếc có vài người mang vũ khí. Nhìn từ xa, những chiếc ghe này không có gì đáng nghi ngờ. Khi thấy một chiếc ghe có thể bị đánh cướp, chúng tới gần, yêu cầu ghe kia dừng lại, và nếu chủ ghe không lập tức vâng lời, bọn cướp nổ súng, dẫu có người bị thương hay không, người trên ghe bị tấn công kinh hoàng, cảm thấy bị uy hiếp, đành phải từ bỏ mọi ý đồ kháng cự. Chiếc ghe bị chiếm cùng những người trên ghe lập tức được đưa đến chiếc thuyền buồm. Nghe súng nổ, thuyền buồm cũng xáp lại gần nơi giao chiến. Hàng hóa có giá trị bị bọn cướp đem lên thuyền, sau đó chiếc ghe và người trên ghe được thả tự do…”[16: tr 171].

Trong lá thư đề ngày 30 tháng 5 năm 1877, viên Lãnh sự Pháp ở Hà Nội là Kergaradec cũng đã cho thấy sự ma mãnh của bọn cướp biển cũng như những khó khăn trong việc đối phó lực lượng này: “…Theo kinh nghiệm chúng tôi biết, việc truy kích hải tặc ở vùng biển này, than ôi, đối với tàu tuần tiểu của ta là công việc tế nhị biết dường nào, trừ khi bắt chúng được quả tang. Thật vậy, phần lớn thuyền buồm của hải tặc đều có vũ trang, tất cả đều hợp lệ: nếu chỉ nhìn vào giấy tờ càng khó phân biệt, bởi vì nhiều chiếc chỉ thỉnh thoảng gặp dịp mới cướp bóc…” [16: tr 185].

2.3. Chính sách phòng chống cướp biển của triều Nguyễn

Trước những hoạt động ngày càng mạnh mẽ và tinh vi của các nhóm cướp biển, vua quan triều Nguyễn đã có nhiều biện pháp thiết thực nhằm trấn áp và hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại mà cướp biển gây ra cho tàu thuyền và cuộc sống của ngư dân sống vùng ven biển.

Ngay khi cướp biển xuất hiện trên vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng, các vua Nguyễn, nhất là vua Minh Mạng đã tỏ rõ quyết tâm loại triệt lũ giặc cướp này. Vua Minh Mạng đã dụ bộ Binh: “trước kia vùng Thanh Hóa và Nam Định bọn giặc bể thường có vài ba chiếc thuyền đón các thuyền buôn mà cướp bóc, sau đều bị quan quân vây bắt, địa phương được yên bình, nay tỉnh Quảng Nam lại có tin báo này, liệu những hồn ma lũ chuột không thể để lâu, cần bắt giết ngay, tức thì sai quan vệ úy là Nguyễn Đức Trường quản lĩnh binh thuyền ra bể dò thám, vây bắt; lại khiến các quan từ Quảng Trị trở ra bắc, từ Quảng Nam trở vào nam, đều theo địa phận thuộc hạt, sai quân đi tuần tiễu, nếu gặp thuyền buôn người tàu có hình dạng khác thường, mà trong thuyền chứa đồ binh khí, súng đạn, tình bính nghi ngờ, bắt mà trị tội [7: tr 121].

* Tuần tra, kiểm soát vùng biển Công tác tuần tra trên biển nhằm đảm bảo an ninh vùng

biển, phát hiện, ngăn chặn sự quấy phá, cước bóc của bọn cướp biển cũng như hạn chế những thiệt hại do lực lượng này gây ra được triều Nguyễn hết sức quan tâm. Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lưu tâm đến việc phòng ngừa nạn cướp biển. Năm 1803, nhà vua đã ra chỉ dụ: “từ nay về sau, hễ thấy đích thực có giặc biển qua lại ngoài biển, thì một mặt chạy báo tin hỏa tốc báo cho quan công đường chuyển, tâu, một mặt chạy báo tin hỏa tốc cho các đồn vân thủ ở ven biển vào miền trong, phía Nam đến Bình Định. Lại một mặt chạy tin hỏa tốc báo cho các đồn phân thủ ven biển ra miền ngoài, phía Bắc, đến sứ Bắc thành, để tiện sức cho tàu thuyền công, tự phòng bị” [6, tr. 424]. Về sau,

những quy định cụ thể về tuần phòng cướp biển được mở rộng phạm vi hơn trước. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua giao Bộ Binh bàn định thể lệ binh thuyền các tấn phận đi tuần biển từ tấn Thuận An vào đến Đà Nẵng thuộc Quảng Nam, phía Bắc đến Việt Yên thuộc Quảng Trị. Hàng năm, tháng 2 mùa xuân, tháng 8 mùa thu, khi có thuyền công vận tải và thuyền buôn đi lại, thì cứ theo số lính, dân, phu và thuyền ở tấn phận, chia ra hai lần, thay đổi lẫn nhau. Mỗi lần đi tuần thì “một chiếc thuyền ô, 15 lính và phu đem theo súng, khí giới và hỏa khí, theo tấn phận mình đi lại tuần tiễu, đủ 1 ngày đêm thì về… Nếu tấn phận nào gặp có giặc biển hoặc thuyền có dáng lạ, ngày thì bắn 3 phát đại bác, đêm thì phóng 5 chiếc pháo thăng thiên làm hiệu… Còn không ở vào những tháng ấy, chuẩn cho viên giữ tấn phân vát lấy 1-2 chiếc thuyền đánh cá, dăm ba người phu ra biển tuần tra các giới phận tiếp giáp: gặp có dịp quan trọng khẩn cấp, lập tức phi báo” [8, tr. 192-193].

Nhờ sớm chú trọng công tác tuần tra, kiểm soát vùng biển nên việc trấn áp cướp biển, cứu hộ thuyền dân của triều Nguyễn cũng đã có nhiều kết quả tích cực. Điển hình như năm năm 1838 “... ghe buôn Nguyễn Văn Nhơn bị hải tặc người Thanh cướp tại hải phận Quảng Ngãi, ghe buôn Nguyễn Nguyễn Văn Triêm bị cướp tại hải phận Hải Vân. May có ghe tuần dương nên khỏi bị mất tất cả” [2: tr 114].Năm 1839, “giặc lại ở cửa Đại Chiêm, đón cướp thuyền công giải của kho Quảng Ngãi, Suất đội Nguyễn Văn Trí ra sức đuổi bắt, đâm chết 4 tên giặc, cứu được 2 chiếc thuyền buôn. Vua nghe tin, ngợi khen, thưởng cho quan quân ở chuyến đi ấy được kỷ lục và tiền có từng bậc. Lại phái một Quản vệ bộ binh hai Suất đội Thủy sư ở Kinh và trên 90 biền binh, chia ngồi thuyền phòng dương, thuyền hiệu Tuần hải, đi ngay đuổi bắt, định cứ bắt được một chiếc thuyền giặc, thưởng cho 500 quan tiền”[11: tr 1327]. Tháng 4.1872, “bọn giặc quấy nhiễu hải phận tỉnh Quảng Nam. Thuyền binh đi tuần tiễu cứu hộ được một chiếc thuyền buôn, thuyền của đồn cửa biển Đại Chiêm cứu hộ được 2 chiếc thuyền buôn chở hàng và 1 chiếc thuyền chở dầu, than đều vào được cửa biển, giặc không thể đuổi được. Các thuyền đi cứu ấy đều được thưởng” [11: tr 228].

* Ban hành chính sách thưởng, phạt trong việc chống cướp biển

Để việc phòng chống cướp biển và bảo vệ an ninh biển đảo được hiệu quả, triều Nguyễn đã có những chính sách thưởng, phạt rõ ràng. Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ có chép quy định: “hải phận nào giặc nổi lên một lần, mà viên tấn thủ và bộ biền hoặc sơ suất không nghe biết, hoặc là xét bắt không nhanh, để đến nỗi bọn giặc chạy thoát được, thì đem viên thủ ngự ở hải phận sở tại giáng 4 cấp; quản vệ, quản cơ do tỉnh phái điều giáng 2 cấp, suất đội đều giáng 1 cấp… Còn như thuyền binh Kinh phái qua hạt ấy mà không biết đánh dẹp, thì quản vệ cũng đều giáng 2 cấp, suất đội đều giáng 1 cấp” [6, tr. 433].

Đối với những trường hợp bắt được cướp biển, nhà vua đều tán dương và thưởng lớn. Chẳng hạn: “Tháng 7 năm 1823, giặc biển Chà Và cướp đảo Lại Dữ (Hòn Rái) ở Hà Tiên. Binh hai đội An hả, Thanh châu đánh, bắt sống và chém được mấy tên. Giặc chạy về phía Đông. Việc đến tai vua. Thưởng cho 100 quan tiền. Tháng 9 năm 1828, giặc

Page 81: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 77

biển Chà Và nổi lên ở hải phận Hà Tiên. Cai đội cai quản các đội Phú cường sở Phú Quốc là Nguyễn Văn Xương đem binh dân đuổi bắt, giết hết cả bọn. Việc tâu lên, vua rất khen thưởng – Dẫn theo Đại nam thực lục [7, tr. 780]

Nhưng những trường hợp để cho giặc biển hoạt động lén lút trong hải phận thì cả viên tấn thủ và quan đầu tỉnh cũng sẽ bị hỏi tội. Năm 1843, cướp biển người Thanh đến quấy phá vùng biển Cù Lao Chàm. Phó Quản cơ Lê Văn Hưu chỉ huy đội tuần thám địch không nổi. Phó lãnh binh Nguyễn Nghĩa được tin báo liền đem quân ra chặn đánh. Nhận được tin khẩn cấp, vua Thiệu Trị liền chỉ dụ lấy thuyền đậu ở cửa biển Đà Nẵng và thủy sư pháo thủ cùng với biền binh của tỉnh đóng giữ ở các đồn điển ra tiếp ứng, đồng thời chỉ lệnh cho các thuyền Kinh đang đi tuần ở phía Nam quay ngược trở ra để ngăn đường rút chạy của giặc. Cũng trong năm này, chúng còn quay lại vùng biển này một lần nữa, nhưng cũng bị lực lượng thủy quân triều Nguyễn cùng với lực lượng thủy binh Quảng Nam do Lê Văn Pháp vây đánh tại Cù Lao Chàm [5: tr 19].

* Phối hợp giữa quân đội triều đình với nhân dân vùng duyên hải

Cùng với sự chủ động trong công tác tuần phòng do lực lượng thủy quân đảm trách, triều đình còn có sự phối hợp với nhân dân các địa phương để phòng bị. Để huy động ngư dân vào việc tuần thám biển đảo, vua Minh Mạng đã dụ cho quan đầu tỉnh phải sức dân sữa chữa nâng cấp một vài thuyền đánh cá, đảm bảo chèo nhanh, chở được nhiều người để dùng vào việc vây bắt hải tặc khi cần điều động. Chi phí sửa chữa và trang bị vũ khí giáo mác, súng trường, thuốc đạn cho các thuyền này sẽ do nhà nước cấp. Những người canh giữ và tuần phòng trên biển được miễn thuế. Châu bản ngày 8/2 năm Minh Mạng thứ 7 (1826) cho biết điều này: “Bọn Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Tuân, Ngô Văn Tính, Nguyễn Văn Thoái ở phường Cù lao Tân Hiệp (Quảng Nam) tâu xin miễn binh đao và thuế lệ để canh giữ đài Hỏa Phong và tuần phòng ngoài bể”. Vua phê: “Chuẩn y lời tâu xin” [3: tr 369 – 370].

* Phát triển thủy quân, trang bị phương tiện và vũ khí cho quân đội

Nhằm tạo ra một lực lượng thủy quân tinh nhuệ đủ sức đối phó với sự chống phá quyết liệt của cướp biển. Các vua Nguyễn đều rất chú trọng đến vấn đề xây dựng, phát triển thủy quân. Do đặc thù của lực lượng này là hoạt động thường xuyên trên vùng sông nước nên ngoài số lính được tuyển theo quy định chung, thì thủy quân phần lớn là sử dụng những người thành thạo địa hình sông nước hoặc sống ở các vùng ven sông, biển. Thủy quân ở kinh kỳ chủ yếu được tuyển từ dân đinh tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tại các tỉnh ven biển thì thủy quân tỉnh nào tuyển lính tại tỉnh đó, nếu chưa đủ thì mộ dân ngoại tịch. Về vấn đề này, sử triều Nguyễn có chép: “Năm Gia Long thứ 8, đã ra lệnh tuyển lính thủy ở các địa phương: sai bốn dinh trực lệ trấn Quảng Ngãi kén dân phụ giữ các cửa biển, người nào khỏe mạnh, giỏi lội nước, cứ 5 đinh lấy 1 người, cho lệ vào thủy quân” [7, tr. 722].

Việc huấn luyện và thao diễn thủy binh cũng được tiến hành thường xuyên tại kinh kỳ và các địa phương. Trong

các lần tổng duyệt binh và thao diễn thủy quân, đích thân các vua tham dự và kiểm tra. Vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đều là những vị vua am hiểu binh pháp, mỗi thời vua lại có thêm những quy định về phép thao diễn, nhằm phát huy tối đa kĩ thuật của thủy binh.

Triều Nguyễn cũng ý thức được vai trò quan trọng của thuyền chiến đối với vấn đề xây dựng thủy quân. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, thời đầu triều Nguyễn có 3 loại thuyền được sử dụng cho thủy quân là thuyền bọc đồng, thuyền máy hơi nước và thuyền công cấp phát. Hầu hết, các tàu thuyền đảm nhận việc tuần tra, kiểm soát trên vùng biển phải hoạt động thường xuyên nên luôn được trang bị đầy đủ các phương tiện, vũ khí như: súng ống, đại bác, pháo thăng thiên, thuốc nổ…. Theo tài liệu của một tác giả nước ngoài, các thuyền chiếc dưới thời vua Gia Long được trang bị như sau: “200 chiếc thuyền mang 16, 18, 20, 22 đại bác; 500 tiểu chiến thuyền có đến 40 đến 44 tay chèo, vũ trang bằng nhiều tiểu bác và đại bác; 200 đại chiến thuyền với 50 đến 70 tay chèo, vũ trang bằng các đại bác và tiểu bác; 3 tàu chiến kiểu Châu Âu là Phụng Phi, Ưng Phi, Long Phi… mỗi thuyền có đến 30 đại bác” [7, l14].

Những chính sách trên đã cho thấy nỗ lực của triều Nguyễn trong công tác phòng chống cướp biển. Tuy nhiên, đến hết triều Nguyễn và thậm chí cho đến hôm nay cướp biển vẫn là mối đe doạ thường trực đối với an ninh vùng biển.

3. Kết luận Như vậy, dưới triều Nguyễn, vùng biển Quảng Nam -

Đà Nẵng luôn phải thường xuyên đối mặt với nạn cướp biển nhưng về quy mô, mức độ cướp phá của chúng thì không bằng cướp biển ở các vùng phía Bắc. Nguồn gốc của cướp biển ở đây cũng chỉ chủ yếu là cướp biển đến từ Trung Quốc với mục đích kinh tế là chính. Tại vùng biển này, chúng ta cũng đã thấy quyết tâm của triều Nguyễn trong việc tiễu trừ cướp biển, bảo vệ an ninh biển đảo.

Cho đến hôm nay, cướp biển vẫn là nỗi ám ảnh đối với các ngư dân ngoài biển khơi, là mối đe dọa thường trực đối với chủ quyền biển đảo của đất nước nên những nỗ lực của triều Nguyễn trong đối phó với loại giặc cướp này cũng sẽ làbài học kinh nghiệm quý cho hậu thế trong công cuộc bảo vệ vùng biển đảo, phát triển đất nước. Đó là bài học phải luôn quan tâm đến công tác tuần tra, kiểm soát vùng biển, chú trọng phát triển hải quân, luôn phải phối hợp chặt chẽ với nhân dân và có chính sách thưởng, phạt đúng đắn trong phòng chống cướp biển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Bang (Chủ biên) (2014), Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ

biển đảo Tổ Quốc thế kỷ XIX, Nxb Đà Nẵng. [2] Lê Tiến Công (2015), “Tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng

biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

[3] Cục Lưu trữ nhà nước – Đại học Huế - Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa: Mục lục châu bản Triều Nguyễn, tập 2, Nxb Văn hóa, 1998, tr 369-370.

[4] Huỳnh Ngọc Đáng (2014), “Hải tặc Trung Hoa thời vương triều Nguyễn”, Tạp chí Sử học, Hội khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương.

[5] Ngô Văn Minh (2016), “Thành tích công vụ tuần phòng mặt biển,

Page 82: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

78 Nguyễn Duy Phương

đánh đuổi hải tặc của người Quảng Nam (Qua châu bản và sắc, bằng ban cấp của triều Nguyễn)”, Kỉ yếu HTKH Một số vấn đề lịch sử, chính trị - xã hội trong phát triển kinh tế biển: nhìn từ Quảng Nam – Đà Nẵng, Đà Nẵng.

[6] Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 5, (viện sử học dịch), Nxb Thuận Hóa, Huế.

[7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[8] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[9] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 4, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[10] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 5, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 6, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[12] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 7, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[13] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 8, Nxb Giáo dục Hà Nội.

[14] Trần Đức Anh Sơn (2010), Ngành đóng tàu thuyền ở Việt Nam thời Chúa Nguyễn và thời Nguyễn, http://www.vinabook.com/nganh-dong-thuyen-va-tau-thuyen-o-viet-nam-thoi-nguyen-p59995.html

[15] Nguyễn Quang Trung Tiến (2013), “Hải tặc trên vùng biển Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (99).

[16] Yoshiharu Tsuboi (2011), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, Nguyễn Đình Đầu dịch, NXB Tri Thức.

(BBT nhận bài: 14/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 11/01/2017)

Page 83: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 79

ỨNG DỤNG MỸ THUẬT TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀO THIẾT KẾ NỘI THẤT CHO CĂN NHÀ Ở HIỆN ĐẠI

AN APPLICATION OF VIETNAMESE TRADITIONAL FINE ART TO INTERIOR DESIGN OF CONTEMPORARY HOUSES

Lê Minh Sơn, Trần Văn Tâm, Trương Phan Thiên An Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Thiết kế nội thất là một công đoạn rất quan trọng để tạo ramột căn nhà ở đẹp và hoàn chỉnh. Các xu hướng thiết kế nội thấtđương đại tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là rất đa dạng.Chúng ta không phủ nhận tính hiệu quả và sự ảnh hưởng lớn củacác phong cách kiến trúc ngoại lai lên các mẫu thiết kế trong nước.Tuy nhiên, việc áp dụng các yếu tố trang trí mỹ thuật truyền thốngvào trong thiết kế nội thất mới là vấn đề đáng được quan tâm. Bàiviết này sẽ làm một nghiên cứu đánh giá nhằm nhận dạng và phânloại những kiểu mẫu trang trí mỹ thuật của kiến trúc truyền thống ViệtNam, từ cơ sở đó sẽ đề xuất các mẫu thiết kế nội thất tham khảo đểáp dụng cho những không gian nhà ở hiện đại.

Abstract - Interior design is a very important step to build a beautiful and complete home. The contemporary interior design trends in Vietnam are very diverse. We do not deny the effectiveness and the great influence of the exotic architecture on national designs. However, the application of traditional decorative art to the new interior design is an issue of great concern. This study will identify and classify the decorative patterns of Vietnamtraditional architecture. Based on that, we propose decorative patterns to apply to modern interior design.

Từ khóa - kiến trúc truyền thống; mỹ thuật truyền thống; họa tiếttrang trí; Việt nam; thiết kế nội thất.

Key words - traditional architecture; traditional art; decorative patterns; Vietnam; interior design.

1. Đặt vấn đề Trải qua hàng ngàn năm văn hiến, mỹ thuật Việt Nam

chứa đựng một kho tàng phong phú về các thể loại. Cùng với thời gian, sức sáng tạo cộng với sự giao thoa văn hóa đã tạo nên một nền mỹ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.

Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam người ta thường lầm tưởng nó là kiến trúc Trung Hoa, có người còn gọi đó là sự sao chép vụng về của nghệ thuật Trung Quốc. Sai lầm nghiêm trọng này sẽ biến mất nếu quan sát cẩn thận một chút về những di tích lịch sử văn hóa và truyền thống trên các vùng miền địa phương Việt Nam.

Chúng ta không thể nghĩ rằng nghệ thuật Việt Nam không chịu một ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa nào, thực tế những ảnh hưởng ấy là khá rõ ràng khiến chúng ta không thể nào phủ nhận được. Song cũng không nên quan niệm rằng mỹ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam lại không có những nét đặc sắc riêng [1].

Với những tính chất đặc sắc vốn có của mỹ thuật truyền thống, nghiên cứu này nhằm làm nổi bật chúng để mọi người có thể đón nhận cũng như gìn giữ bằng cách ứng dụng rộng rãi vào các không gian nhà ở của mình.

Nội dung của bài viết này được phân chia thành các phần sau: Thứ nhất là lược trình về lịch sử của mỹ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam; thứ hai: nhận dạng và phân loại các trang trí mỹ thuật của kiến trúc truyền thống; thứ ba: đề xuất thiết kế mẫu nhà ờ hiện đại và áp dụng các kiểu mẫu trang trí của mỹ thuật truyền thống để thiết kế các không gian nội thất.

Với khuôn khổ của bài báo, chúng tôi giới hạn phạm vi ứng dụng mẫu thiết kế nội thất cho hai thể loại nhà ở: nhà chia lô và biệt thự.

Có ba mục tiêu mà nghiên cứu này mong muốn đạt được, thứ nhất: nhận dạng kiểu mẫu trang trí của mỹ thuật truyền thống Việt Nam; thứ hai: đề xuất các mẫu thiết kế

nội thất tham khảo cho căn nhà ở hiện đại; thứ ba: giữ gìn và phát huy các giá trị của mỹ thuật truyền thống Việt Nam.

Để giải quyết các mục tiêu đặt ra, bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, đó là cách tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của các đối tượng tiếp cận từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Các phương pháp cơ bản được giới thiệu trong bài viết này là: Nghiên cứu tàng thư (Archival Research), liệt kê phân loại và nghiên cứu trường hợp.

2. Lược trình lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam Giai đoạn thứ nhất: Trải qua thời nguyên thủy với thời

kì đồ đá và nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc bắt nguồn từ thời đại đồng thau đến sơ kì đồ sắt là sự phát triển mạnh về trang trí trên gốm, đá và đồ trang sức, đồ đồng của văn hóa Đông Sơn; tiếp đó là sự tiếp thu chọn lọc tinh hoa mỹ thuật Trung Quốc thời Bắc thuộc. Khi vua Lê Đại Hành lên ngôi, nền nghệ thuật dân tộc bắt đầu trỗi dậy sau 1000 năm dưới áp lực của Hán hóa, phát triển mạnh với kiến trúc, mỹ thuật thành trì, cung điện, đền, chùa. Cộng thêm ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm Pa do sự giao thoa văn hóa với phương Nam đem lại, nền Mỹ thuật Việt Nam có những bước tiến đáng kể.

Hình 1. Các họa tiết điêu khắc ở thời Lý

Page 84: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

80 Lê Minh Sơn, Trần Văn Tâm, Trương Phan Thiên An

Giai đoạn thứ 2: Từ nhà Lý đến cuối thời Hậu Lê. Giai đoạn này là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật dân tộc, đặc biệt là mỹ thuật Phật giáo: tiêu biểu như con Rồng thời Lý với hình dạng mềm mại và thân thuộc, v.v…

Giai đoạn thứ 3: Từ thời nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam đã để lại nhiều di tích kiến trúc còn nguyên vẹn và có giá tri nhất trong lịch sử. Đó là một điều may mắn hiếm có cho nền nghệ thuật kiến trúc Việt Nam, đặc biệt là về kiến trúc Thành trì và Cung đình. Những đặc điểm chính của mỹ thuật trong giai đoạn này là: Kĩ thuật tinh xảo trong trang trí nội thất, kết hợp điêu khắc và hội họa khéo léo. Các tác phẩm phù điêu khảm bằng sành sứ pha trộn màu sắc sinh động, thể hiện được nhiều đề tài hoa văn truyền thống: cỏ cây, hoa lá, bát bửu, tứ linh, tứ quý, v.v… [2]

Thời kỳ Pháp thuộc: với sự thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, giai đọan này hình thành một thế hệ nghệ sỹ tranh sơn dầu rất tài hoa được đào tạo bởi những bậc thầy người Pháp và cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật thuần Việt. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của những thiết kế kết hợp hài hòa giữa những yếu tố phương Đông và phương Tây dựa trên những cảm hứng như là: cửa sổ tròn, họa tiết trang trí bằng thạch cao hoặc đá hoa giả [3].

Hình 2. Trang trí ở mặt đứng thành Ngọ Môn (Huế)

3. Nhận dạng mỹ thuật truyền thống Việt Nam Về bố cục Bố cục ngôi nhà truyền thống phổ biến nhất là 2 kiểu:

Bố cục hình thước thợ (L) và bố cục chữ Môn [4]. Ngoài ra còn có nhiều kiểu nhà khác dùng theo chiết tự Hán nhưng không được phổ biến như: kiểu chữ Đinh (丁), chữ Nhất (一), chữ Nhị (二), chữ Công (工). Đối với bố cục trong không gian mặt bằng nhà ở truyền thống thường thấy nhất là bố cục đối xứng: Nhà ở kết hợp thờ cúng; nhà ở tiền khách - nội tư; tiền tế - hậu tư; tiền khách – hậu tư.

Đối với bài viết này, nhóm nghiên cứu chủ yếu sử dụng lối bố cục đối xứng của kiến trúc truyền thống để vận dụng bài trí vào mặt bằng của các căn phòng ở, ví dụ như bố cục phòng thờ cúng.

Hình 3. Hai dạng bố cục đối xứng kiến trúc truyền thống: Nhà ở kết hợp thờ cúng và nhà ở tiền khách – nội tư

Về màu sắc Màu sắc tạo nên nét đặc sắc cho từng dân tộc, thể hiện

đời sống tinh thần của dân tộc đó. Màu sắc trong kiến trúc

truyền thống Việt Nam là ngôn ngữ riêng phản ánh rõ đặc trưng tâm lý và văn hóa Việt. Bằng tư duy sáng tạo của mình, thế hệ người Việt trước đây đã sử dụng các màu sắc hài hòa với thiên nhiên. Những màu phổ biến như là: màu đỏ trong tín ngưỡng dân gian tượng trưng cho lửa và danh vọng; màu vàng đậm tượng trưng cho giàu sang, sung túc, thịnh vượng, đặc biệt chỉ dành cho vua chúa quan lại trong thời kỳ phong kiến; màu nâu đất trong truyền thống tượng trưng cho đất và gỗ, rất mộc mạc và gần gũi với thiên nhiên.

Về vật liệu Kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam được tạo dựng phần

lớn bằng vật liệu có sẵn do thiên nhiên ưu đãi. Con người lao động khai thác, gia công với tre, đá, gạch, ngói v.v…

Gỗ: là vật liệu chính trong các công trình truyền thống, như là hệ khung kết cấu và console của mái, hệ thống cửa, lát sàn và trần nhà, trang thiết bị, chi tiết trang trí, tượng tròn, phù điêu... Gỗ truyền thống được sử dụng luôn để mộc, sơn phủ rất hạn chế.

Gạch nung (gạch đỏ): là một loại vật liệu xây dựng được làm từ đất sét nung. Do đặc tính bền bỉ theo thời gian. Trong kiến trúc các ngôi nhà ở truyền thống thường hay sử dụng các mảng tường bằng gạch nung mộc, không tô trát, mang lại một cảm giác rất đầm ấm và gần gũi trong lòng mỗi con người Việt Nam.

Gốm sứ: Có thể xem gốm là dấu ấn của một nền văn minh lúa nước, của một nền văn hóa thuần Việt. Gốm trang trí kiến trúc truyền thống thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà. Còn như gốm gia dụng, thì đủ thể loại: bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò, v.v…

Ngoài ra trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam còn có các vật liệu đáng kể đến như: đá ong, ngói, tre, đồ đất nung, v.v…

Về họa tiết trang trí Yếu tố mỹ thuật truyền thống Việt Nam được thể hiện

rõ nét nhất trong các hoa văn họa tiết. Thời Đông Sơn với những nét kỷ hà đơn giản cách điệu từ hoa lá, cách thể hiện tỷ mỉ và chi tiết. Thời An Nam, hoa văn họa tiết được tổng hợp và cách điệu lại từ những hình ảnh khác như: hình cây, hình tĩnh vật, với đường nét và cách thể hiện tinh tế hơn. Những hoa văn này được ứng dụng để xử lý các chi tiết: tường, trần, vách ngăn, vật dụng trang trí, đem lại giá trị nghệ thuật rất cao.

Họa tiết kỷ hà: Họa tiết mắt lưới hình thoi dài ngắn khác nhau, cạnh thẳng hơi cong nhẹ. Họa tiết mắt lưới lục giác giống vẩy trên mai rùa. Họa tiết mắt lưới tam giác có hình chữ Nhân.

Họa tiết vòng tròn hình đồng tiền vàng: hai vòng tròn đồng tâm tạo gờ mép bên ngoài và trong các vòng tròn khác chia cắt vòng ngoài bốn phần, tâm là một lỗ hình vuông. Họa tiết hoa thị, các vòng tròn cắt lẫn nhau và đi qua cùng một chỗ tạo ở tâm một ngôi sao bốn cánh. Họa tiết hai vòng trong, nhiều vòng tròn liên kết với nhau.

Họa tiết hồi văn, các chữ Hán Việt gấp khúc vào nhau,

Page 85: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 81

bẻ gập lại, kéo dài ra, hoặc vuốt thon ngẫu hứng. Họa tiết hồi văn gợi dáng các chữ: chữ Thập, chữ Vạn, chữ Công.

Họa tiết hình chữ nhật: Gồm các chữ Hán: Phúc, Lộc, Thọ, Hỷ, được cách điệu đơn giản liền nét theo đường kỷ hà, đan xen chống lớp, nằm gọn trong một ô vuông hoặc tự do theo nét.

Hình 4. Ví dụ về một số kiểu họa tiết trang trí kỷ hà trong

mỹ thuật truyền thống Việt Nam

Họa tiết tĩnh vật: Trái châu (thường được trang trí ở nóc đền chùa), họa tiết gồm trái châu và hai con rồng cách điệu ở hai đầu góc mái. Bát bửu: nhiều hình tĩnh vật, bộ bát bửu thường thấy gồm: quả bầu, quạt, gươm, đàn, quyển sách, bút, v.v… Họa tiết hoa lá, quả là biểu tượng bốn mùa gồm: tùng, cúc, trúc, mai, sen. Họa tiết hình thú được cách điệu từ những con vật mà theo quan niệm của người Việt cổ đem lại những điều may mắn tốt lành. Lưu ý họa tiết hình thú không đứng riêng lẻ mà kết hợp với những họa tiết kỷ hà, hồi văn, tứ linh.

Hình 5. Một số hình dáng họa tiết hình thú kết hợp, như Dơi

và Hồi văn

Về vật dụng trang trí: Nơm tre: hình ảnh thân thuộc của người dân Việt Nam

gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, mang đậm hồn quê hương.

Hình 6. Tranh Đông Hồ trong mỹ thuật truyền thống

Mành: luôn gắn liền với hình ảnh mái nhà tranh của các làng quê Việt.

Chum nước: hình ảnh gắn bó thân thiết với cuộc sống hằng ngày của hầu hết các người dân ở các vùng quê.

Gạch bông gió: trước đây những ô gạch bông gió được cách điệu khá đơn giản để thực hiên chức năng thông gió, tuy nhiên trường tồn qua thời gian, gạch bông gió đóng vai trò rất quan trọng không chỉ về chức năng sử dụng mà còn được biết đến với chức năng trang trí, gợi lại một cảm giác hoài cổ.

Tranh Đông Hồ: hình ảnh được sử dụng như một phần trang trí, tô điểm nét truyền thống văn hóa dân gian trong ngôi nhà ở truyền thống Việt Nam. Mô tả chi tiết đời sống sinh hoạt của các vùng quê, các phong tục tập quán một cách cách chân thực qua các nét vẽ [5].

Ngoài những yếu tố trang trí được nêu bên trên, mỹ thuật truyền thống còn có những bố cục hình ảnh đặc sắc khác như là: ao sen, hàng chuối (chuối sau, cau trước), dậu mồng tơi, v.v… Tất cả các yếu tố này đều góp phần tạo nên một bức tranh quê hương Việt Nam dân dã, đậm chất trữ tình.

4. Đề xuất ứng dụng vào thiết kế không gian nội thất nhà ở hiện đại 4.1. Trường hợp 1: biệt thự 3 tầng, diện tích 12x25

Hình 7. Mặt bằng tầng 1,2,3 của biệt thự đề xuất

Page 86: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

82 Lê Minh Sơn, Trần Văn Tâm, Trương Phan Thiên An

Hình 8. Mặt cắt và mặt đứng biệt thự đề xuất

Hình 9. Không gian bếp và ăn sử dụng chất liệu gỗ mộc; gạch trần; các họa tiết hình chữ Triện cách điệu; chụp đèn cách điệu

từ hình tượng cái nơm cá.

Hình 10. Không gian phòng khách sữ dụng mảng tường gạch trần; rèm mành che cửa; màu vàng mây tre truyền thống

ở kệ tủ.

Hình 11. Không gian 2 phòng ngủ với nền và giường chất liệu

gỗ mộc; tranh trang trí quê hương; mành che sáng; hoa gió sân trong.

Hình 12. Không gian sân trong với bố cục ao sen, các cột

chống miết tròn kiểu nhà truyền thống.

Hình 13. Không gian thờ cũng được bố cục đối xứng; chất liệu

gỗ mộc màu nâu; các họa tiết Hồi văn cách điệu.

Page 87: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 83

4.2. Trường hợp 2: nhà chia lô 3 tầng, diện tích 5x21.5

Hình 14. Mặt đứng của nhà ở chia lô đề xuất

Hình 15. Mặt bằng tầng 1,2,3 của nhà ở chia lô đề xuất

Hình 16. Mặt cắt nhà chia lô đề xuất

Hình 17. Nội thất không gian phòng khách và bếp: sử dụng thanh tre đứng trang trí ước lệ, tranh hoa sen, bộ bàn ăn gỗ mộc truyền thống, hay các đèn lồng trang trí được cách điệutừ nơm cá.

Hình 18. Nội thất phòng làm việc với hệ lam trang trí ngăn chia không gian được cách điệu từ hình chữ Thọ

Page 88: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

84 Lê Minh Sơn, Trần Văn Tâm, Trương Phan Thiên An

Hình 19. Phòng ngủ được thiết kế với chất liệu gỗ mộc; các

hoa văn trang trí truyền thống cách điệu, vật dụng mây tre và hoa sen.

Hình 20. Phòng thờ được thiết kế với chất liệu gỗ mộc sẫm

màu tự nhiên, tuân thủ lối bố cục đối xứng truyền thống

5. Kết luận Mỹ thuật truyền thống Việt Nam đặc trưng cho văn hóa

thẩm mỹ của người Việt Nam, trường tồn và trải qua qua bao nhiêu thời gian thì nét văn hóa đó vẫn không thay đổi và luôn khẳng định được giá trị đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Việc nhận dạng và ứng dụng trang trí của mỹ thuật truyền thống Việt Nam để thiết kế các không gian nội thất này của chúng tôi nhằm giúp cho độc giả có thêm được những tư liệu tham khảo chuyên môn về kiến trúc truyền thống, để rồi từ đó có thể sử dụng chúng như là một tập thiết kế mẫu.

Cuối cùng, với những nhà thiết kế kiến trúc nội thất trong nước, chúng ta không thể không đón nhận các phong cách thiết kế ngoại lai, thậm chí phải thường xuyên sử dụng chúng như là một thị hiếu đương thời. Tuy nhiên việc sử dụng các trang trí của mỹ thuật truyền thống để áp dụng vào trong các thiết kế đương đại mới là vấn đề đáng được trân trọng, qua đó giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Louis Bezacier, "L'Art Vietnamien", Edition de l'Union Française,

Paris, 1954, tr.14. [2] Vũ Tam Lang, “Kiến trúc cổ truyền Việt Nam”, NXB Xây dựng,

1999, tr.125. [3] Christian Pédelahore, "Hanoi, miroir de l’architecture coloniale",

Architecture francaises outre-mer, Paris, Mardaga, 1992, tr.312. [4] chữ Môn (門) trong tiếng Hán; dùng để tả kiểu nhà cửa xây cất theo

lối cổ, gồm một ngôi ở giữa và hai ngôi ở hai bên. [5] Nét độc đáo tranh dân gian Đông Hồ:

http://review.siu.edu.vn/my-thuat-kien-truc/net-doc-dao-cua-tranh-dan-gian-dong-ho/333/1541

(BBT nhận bài: 14/12/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 16/01/2017)

Page 89: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 85

DẠY HỌC ĐIỂN CỐ TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

TEACHING LITERARY ALLUSION IN MEDIEVAL LITERATURE AT SECONDARY SCHOOLS

Đoàn Thị Tâm Trường Đại học Tây Nguyên; [email protected]

Tóm tắt - Điển cố góp phần tạo sự cô đọng, hàm súc “ý tại ngônngoại” cho văn học trung đại Việt Nam. Sử dụng điển cố trong sángtác thơ văn là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc thù của vănhọc trung đại. Do đó, khi tiếp cận các tác phẩm văn học trung đạiViệt Nam, chúng ta cần phải hiểu chính xác nghĩa của các điển cố thìmới có thể nắm được nội dung và tư duy nghệ thuật mà tác giả đã gửigắm vào trong tác phẩm, để hiểu tác phẩm một cách toàn diện hơn.Bài viết đề cập đến khái niệm điển cố, đặc điểm của điển cố và mộtsố đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học điển cố trong tácphẩm văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn ởnhà trường phổ thông.

Abstract - Literary allusion contributes mainly to the brevity, “illocutionary act” of Vietnamese medieval literature. Using literary allusion in literary writing is one of the prime artistic characteristics of medieval literature. Therefore, when approaching Vietnamese medieval literature, it is necessary for us to exactly understand literary allusion so as to work out more comprehensively the contents and artistic thinking that the authors intend to express. This article aims to understand the definitions of literary allusion and its the typical features . Besides, the article puts forward some suggestions to enhance the efficiency of teaching literary allusion in Vietnamese medieval literature when teaching literature at secondary schools.

Từ khóa - dạy học; điển cố; văn học; thơ văn; trung đại. Key words - teaching; literary allusion; literary; poetry; medieval.

1. Đặt vấn đề

Do quan niệm sáng tác chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, văn thơ trung đại được sáng tác với mục đích chính trị và giáo huấn về cách ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Mặt khác, lời văn, lời thơ trong văn học trung đại (VHTĐ) đòi hỏi phải trang nhã, tránh sự dung tục, tầm thường. Vì vậy, sự góp mặt của điển cố trong tác phẩm VHTĐ Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên, “điển cổ Hán học không xa lạ với người có học thời xưa thì lại khó hiểu với đa số bạn đọc ngày nay” [3, tr.5]. Có lẽ vì thế mà giáo viên và học sinh còn lúng túng và có phần e ngại khi phải dạy và học những tác phẩm văn học có liên quan đến điển cố.

Bài viết này đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học điển cố trong tác phẩm văn học trung đại ở nhà trường phổ thông.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm “điển cố”

Trong một số cuốn từ điển, sách giáo khoa (SGK) hoặc trong giao tiếp hằng ngày, hai khái niệm điển tích, điển cố thường được dùng chung không phân biệt nghĩa. Vì vậy, cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm này.

Theo Hán Việt từ điển [4] của Nguyễn Văn Khôn thì điển cố là “điển cũ tích xưa, sự tích hay luật lệ cũ”, còn điển tích là “tích chép trong sách vở xưa”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng điển cố là khái niệm rộng hơn điển tích. Điển cố không chỉ là sự tích, luật lệ cũ mà bao gồm cả những sự tích chép trong sách xưa. Trong khi đó, Từ điển tiếng Việt định nghĩa điển cố là "Sự việc hay câu chữ trong sách đời trước được dẫn trong thơ văn” và điển tích là "Câu chuyện trong sách đời trước, được dẫn lại một cách cô đúc trong tác phẩm” [6, tr.318]. Với cách định nghĩa trên thì khái niệm điển tích và điển cổ cùng chung một nghĩa.

Theo Việt Nam văn học sử yếu [2], thì “điển (nghĩa đen là

việc cũ) là một chữ hay một câu có ám chỉ đến một việc cũ, một tích xưa khiến cho người đọc sách phải nhớ đến việc ấy, sự tích mới hiểu ý nghĩ và cái lý thú của câu văn”. Dùng điển chữ Nho gọi là “dụng điển” hoặc “sử sự” (sai khiến việc) ý nói sai khiến việc đời xưa cho nó có thể ứng dụng vào bài văn của mình”.

Theo Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX [1]: Điển cố là “thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa. Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của những người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là trích dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và dùng chữ".

Trong các thư tịch cổ của Trung Hoa không thấy xuất hiện từ điển tích với tư cách là một thuật ngữ văn học. Do đó, trong bài viết này chúng tôi thống nhất sử dụng khái niệm chung là điển cố.

Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn điển cố là những sự việc thật được chép trong sử, truyện cổ tích, ngụ ngôn, có khi là một vài chữ từ câu văn, câu thơ cổ, hoặc những câu chuyện hoang đường... được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc trong quá trình sáng tác thơ văn. 2.2. Đặc điểm của điển cố 2.2.1. Tính cô đọng, hàm súc

Điển cố hàm chứa nội dung và ý nghĩa sâu sắc nhưng được thể hiên hết sức cô đọng, mang tính khái quát, gợi ra nhiều liên tưởng cho người đọc vì đằng sau lớp vỏ từ ngữ ấy là cả một câu chuyện cùng với nghĩa biểu trưng của nó.

Điển cố trong VHTĐ được xem như biện pháp tu từ đặc

Page 90: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

86 Đoàn Thị Tâm

biệt giúp nhà văn, nhà thơ xây dựng hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, tượng trưng mà sinh động, làm cho việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật được cô đọng, hàm súc, đạt được “ý tại ngôn ngoại”, bảo đảm cho tác phẩm có kết cấu ngắn gọn, súc tích, hợp lý, nhất là khi làm các thể thơ có niêm luật chặt chẽ (như Đường luật, thi phú), hoặc câu đối.

Khi đọc câu thơ, câu văn có sử dụng điển cố, chúng ta mới thấy hết giá trị sử dụng điển cố nhằm tạo sự cô đọng, hàm súc cho câu văn. Trong bài thơ Loạn hậu cảm tác (Ức Trai thi tập) của Nguyễn Trãi có hai câu “Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt; Bá Nhân chan lệ Tấn sơn hà” (Tử Mỹ giữ lòng cô trung đối với ngày tháng nhà Đường; Bá Nhân ứa nước mắt hai hàng mà khóc non sông nhà Tấn). Hai câu thơ trên đã sử dụng hai điển“Tử Mỹ” và “Bá Nhân”. Tử Mỹ tức là Đỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng đời Đường, được giữ một chức quan nhỏ triều vua Đường Huyền Tông. Khi An Lộc Sơn nổi loạn dẫn quân tấn công quân triều đình và bao vây kinh đô Trường An, vua Đường Huyền Tông và triều thần phải bỏ chạy đến Ba Thục, Đỗ Phủ thì bị bắt giam. Trong ngục tù, Đỗ Phủ luôn đau đớn ôm lòng cô trung với nhà Đường. Bá Nhân tức Chu Nghĩ người thời Tây Tấn, làm quan đến chức Thượng thư Tả Bộc Xạ. Khi Tây Tấn bị quân Ngũ Hồ bao vây tiêu diệt, triều đình phải bỏ kinh thành Lạc Dương chạy xuống phương Nam. Ông đã cùng các danh sĩ nhà Tây Tấn chạy sang Giang Đông, tụ hội ở Tân Đình bàn thế sự, nhìn về non sông nhà Tấn ở phía bắc mà chứa chan hai hàng lệ. Nhưng rồi Tử Mỹ và Bá Nhân, mỗi người đều tìm đường phò giúp giang san. Đằng sau hình ảnh Tử Mỹ, Bá Nhân, phải chăng chính là tấm lòng Nguyễn Trãi đối với non sông Đại Việt đang bị quân Minh giày xéo, muôn dân loạn lạc, lầm than mà bản thân ông chưa tìm được một hướng đi để giúp nước? Thật đúng như Bùi Duy Tân đã nhận xét: “Nguyễn Trãi đã ký thác tấm lòng cô trung và hai hàng lệ nhỏ vào chuyện cũ người xưa” [8, tr.343]. 2.2.2. Tính trang nhã, uyên bác

Một trong những đặc trưng cơ bản của VHTĐ là tính trang nhã. Điều này đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật của VHTĐ nói chung và nghệ thuật sử dụng điển cố nói riêng. Hệ thống ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm VHTĐ phải đảm bảo tính quy phạm chặt chẽ, phản ánh một cách chính xác các giá trị tôn nghiêm, cao quý, thanh nhã của xã hội và con người thời bấy giờ.

Chẳng hạn, khi nói đến việc trả ơn, người ta thường dùng cách diễn đạt như: “Lệ thường: vay mận trả đào; Người đưa quả ấy ta trao quỳnh này" (Phạm Thái). Cụm từ “vay mận trả đào” dịch từ “đầu đào báo lí”. Trong Kinh Thi, Phần Đại Nhã, có câu: “đầu ngã dĩ đào, báo chi dĩ lý” (ném cho ta quả đào, báo lại ta cho quả mận). Điển cố trên có dụng ý nói quà tặng biếu có đi có lại, hoặc tình nghĩa báo đền trong quan hệ nam nữ.

Khi nói về việc gặp gỡ, ăn ở với nhau, hoặc chuyện dâm loạn của trai gái, các tác giả VHTĐ thường mượn điển cố để diễn tả để tránh sự khiếm nhã, dung tục. Nguyễn Du sử dụng sử dụng điển cố “trên Bộc trong dâu” (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Thì con người ấy ai cầu làm chi). Do chữ Bộc trong Kinh Thi: "tang trung Bộc thượng" là trong ruộng dâu và trên bờ sông Bộc, là nơi trai gái hẹn hò nhau để tình tự hay bày chuyện mây mưa. Đời Xuân Thu, có một lần vua nước Vệ đi qua sông Bộc nghe một khúc đàn không rõ do ai đánh mà âm thanh đầy vẻ dâm dật. Nhà vua hỏi ra thì biết trước đây có

quan Thái Sử của vua Trụ đã trầm mình tại khúc sông ấy. Quan Thái sử lúc sinh tiền thường đàn những bản có tính cách dâm ô cho vua Trụ nghe. Những bản đàn ấy được lưu truyền trên sông Bộc mãi về sau. Và sau đó, những trai gái của nước Trịnh và nước Vệ cũng thường hẹn hò nhau ở trên bờ sông Bộc hay trong ruộng dâu gần sông để tình tự với nhau.

Điển cố “mưa Sở mây Tần” trong câu: “Mặc người mưa Sở mây Tần” (Ngữ văn 10, tập 1). Điển cố này lấy từ chữ mây mưa (vân vũ) trong tích truyện: Vua Sở Tương Vương ban ngày thường đến chơi ở Cao Đường. Khi ngủ, vua nằm mộng thấy một người đàn bà cùng chung chăn gối. Hỏi thì nàng tự xưng là Thần Nữ ở núi Vu Sơn đến chơi. Công việc của nàng là buổi sáng làm mây, buổi chiều làm mưa ở chốn Dương Đài. Từ đó, người ta thường dùng từ “mây mưa” để chỉ cảnh tình tự của trai gái.

Sử dụng điển cố “mưa Sở mây Tần” trong đoạn trích Nỗi thương mình (Ngữ văn 10, tập 1), tác giả đã làm nổi bật cảnh sống ở lầu xanh đầy nhơ nhớp, mối quan hệ ân ái giữa nam nữ, cảnh ăn chơi trác táng của khách làng chơi nhưng không gây khiếm nhã cho người đọc mà vẫn giữ được sự trang trọng, tao nhã cho câu thơ và bảo toàn được chân dung cao đẹp của Thúy Kiều - nhân vật mà ông hết lòng yêu quý.

Nói tóm lại, vận dụng điển cố trong quá trình sáng tác sẽ đem lại giá trị lớn cho tác phẩm văn chương. Khi tác phẩm văn chương có sử dụng điển cố, ta thấy nó không còn vẻ mộc mạc, dân dã nữa, mà đã thể hiện tính bác học, đó là sự uyên bác và tài năng nghệ thuật của tác giả. Tuy nhiên, khi sử dụng điển cố cần phải tạo sự đa dạng mới mẻ, biến hóa trong hình thức và nội dung, nếu dùng quá cầu kỳ, lạm dụng sẽ làm cho câu văn, câu thơ bị sáo mòn, nhiều khi lời văn vì thế mà tối nghĩa. Dùng điển cố phải đích đáng, nghĩa là “lời xưa hoặc việc xưa mình lấy làm điển cổ phải hợp ý mình muốn nói phải cho tự nhiên, không nên câu nệ cầu kì quá” [2, tr.186]. Các điển cố được đưa vào trong câu văn, câu thơ phải phù hợp với lời văn, giọng văn, mạch văn đồng thời diễn tả được ý đồ của nhà văn, có như vậy mới nâng cao được giá trị sử dụng điển cố trong tác phẩm văn chương. 2.2.3. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả khi dạy điển cố trong tác phẩm VHTĐ

Khi dạy học tác phẩm VHTĐ có sử dụng điển cố, ngoài một số phương pháp dạy học truyền thống như PP diễn giảng, PP đàm thoại (sử dụng hệ thống câu hỏi như: câu hỏi tái hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi gợi mở, câu hỏi tổng hợp…), GV phải biết kết hợp hài hòa các phương pháp trong đó có một số phương pháp đóng vai trò chủ đạo. Sau đây là một số gợi ý khi dạy học tác phẩm văn học có chứa điển cố.

a. Thiết kế bài giảng trên phần mềm Powerpoint Sử dụng bài giảng điện tử trong dạy đọc - hiểu văn bản

VHTĐ, giúp GV tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc ghi bảng, thuyết giảng và không quá vất vả khi giới thiệu, giải thích, phân tích, thể hiện những nội dung kiến thức mới của bài học. Trong giờ học, GV không còn thuyết giảng mà có nhiều thời gian để tổ chức cho HS trao đổi thảo luận. Mặt khác, trong tiết học, GV có thể hướng dẫn cho HS tiếp cận một lượng kiến thức phong phú, sâu rộng và sinh động, đặc biệt là những tác phẩm có nhiều điển cố. Chẳng hạn, khi dạy bài Lẽ ghét thương (Ngữ văn 11, tập 1), GV có thể trình chiếu các điển cố song song với việc trình chiếu các tranh ảnh về các

Page 91: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 87

nhân vật như: Vua Trụ, Kiệt, U, Lệ, Khổng Tử, Nhan Tử, Đổng Tử... để minh họa nhằm tạo điều kiện cho HS được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu phong phú. HS sẽ cảm thấy hứng thú hơn khi chủ động nắm bắt kiến thức từ đó các em sẽ hiểu TP sâu sắc hơn.

Như vậy, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy đọc - hiểu VH nói chung và VHTĐ rất hữu ích. Nhờ đó, giờ học không còn khô cứng và mang tính áp đặt, giáo điều. HS sẽ cảm thấy thích học văn, không còn cảm thấy môn văn nhàm chán nữa. Đây chính là điều kiện cần thiết để văn chương thực thi sứ mênh giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho HS.

b. Phương pháp thảo luận nhóm Muốn tổ chức hoạt động thảo luận nhóm cho HS đạt hiệu

quả, GV cần định hướng cho nhóm hoạt động theo yêu cầu công việc được giao, quy định thời gian làm việc. Các thành viên trong nhóm cùng trao đổi, thảo luận tập trung giải quyết vấn đề dưới sự điều hành của nhóm trưởng. Trong khi HS làm việc, GV nên đến từng nhóm hỗ trợ, động viên, đôn đốc các thành viên của nhóm tập trung làm việc, đảm bảo thời gian, tránh tình trạng dựa dẫm, chỉ một cá nhân làm việc, đồng thời GV hướng dẫn HS tập trung thảo luận vấn đề đi vào trọng tâm bài học. Chẳng hạn, khi dạy bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão (SGK Ngữ văn 10, tập 1), GV yêu cầu HS thảo luận: Câu thơ cuối của bài thơ tác giả đã sử dụng điển cố gì? Từ đó em hiểu gì về nhân cách của tác giả?

Đối với bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (SGK Ngữ văn 10, tập 1), GV đặt câu hỏi thảo luận: Trong hai câu thơ “Rượu đến cội cây ta sẽ uống; Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”, tác giả đã sử dụng điển cố gì? Thông qua đó tác giả muốn nói lên quan niệm sống của mình như thế nào?

Khi dạy bài Lẽ ghét thương (SGK Ngữ văn 11, tập 1), GV có thể yêu cầu HS thảo luận về vấn đề sau: Trong đoạn thơ từ câu 7 đến câu 16 tác giả đã sử dụng những điển cố gì? Những điển cố ấy đã nói lên quan điểm gì của tác giả về lẽ ghét?

Cũng trong tác phẩm trên: Trong đoạn thơ từ câu 17 đến câu 30 tác giả đã sử dụng những điển cố gì? Những điển cố ấy đã nói lên quan điểm gì của tác giả về lẽ thương?

Sau khi các nhóm hoàn thành công việc, GV hoặc lớp trưởng yêu cầu đại diện báo cáo kết quả bằng phần trình bày phải kết hợp hài hoà giữa kiến thức và cách trình bày, đảm bảo đúng thời gian. Các nhóm khác bổ sung, thống nhất ý kiến. Sau đó, GV đưa đáp án (ở màn hình, ở bảng phụ...) để HS đối chiếu, đúc kết vấn đề và nhận xét chung.

Như vậy có thể nói, thảo luận nhóm là PPDH tích cực góp phần đắc lực thực hiện quan điểm DH thông qua giao tiếp, đây là một yêu cầu mới trong DH Ngữ văn hiện nay. Tuy nhiên để đạt hiệu quả cần một quá trình rèn luyện lâu dài vì thế GV cần cố gắng để trong mỗi tiết học, HS được tham gia hoạt động thảo luận nhiều hơn, và chủ động trên con đường chiếm lĩnh kiến thức mới.

c. Sử dụng phiếu học tập dành cho học sinh Sử dụng phiếu học tập trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản

VHTĐ sẽ tiết kiệm thời gian trong việc tổ chức các hoạt động học tập của HS, đồng thời cùng một lúc, GV có thể kiểm tra được nhiều kiến thức, kĩ năng của nhiều HS và chữa những lỗi cơ bản, phổ biến của các em. Để phiếu học tập phát huy được hiệu quả trong giờ học thì GV phải nghiên cứu bài dạy

thật kĩ để có thể thiết kế được những phiếu học tập phù hợp với nội dung bài học, kiến thức cần đạt, đảm bảo thời gian của tiết học.

Loại phiếu này tùy thuộc vào yêu cầu mà GV có thể để HS hoàn thành trong giờ học hoặc yêu cầu các em hoàn thành phiếu này thay cho việc soạn bài ở nhà. Và cũng tùy từng câu hỏi trong phiếu học tập mà GV yêu cầu HS làm nhóm hay cá nhân. Nếu làm theo nhóm GV nên phân chia HS theo địa bàn dân cư để thuận tiện cho hoạt động nhóm của các em. Đối với các phiếu làm ở nhà, GV nên giao nhiệm vụ cho các em ở tiết học trước để các em có thời gian chuẩn bị, tìm tài liêu.

Ví dụ, trước khi dạy bài Trao duyên (SGK Ngữ văn 10, tập 1), GV yêu cầu HS hoàn thành phiếu học tập sau ở nhà (làm việc theo nhóm).

Cách 1: Yêu cầu HS thống kê các điển cố có sử dụng trong các câu văn của VB, tìm nghĩa biểu trưng và giá trị sử dụng của các điển cố đó trong VB.

Bảng 1. Tìm các điển cố trong văn bản

STT Điển cố Câu văn sử dụng điển cố

Nghĩa biểu trưng

Giá trị sử dụng

1

2

Cách 2: GV đưa ra các điển cố trong văn bản, yêu cầu HS tìm nghĩa biểu trưng và giá trị sử dụng của các điển cố đó trong VB. Khi dạy bài Trao duyên (SGK Ngữ văn 10, tập 1), GV có thể dùng cách này. Vì Trao duyên là VB mà trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có nhiều điển cố nhưng SGK chú thích chưa rõ ràng, một số khác chưa chú thích. Vì vậy, việc yêu cầu HS về nhà tìm hiểu trước là cần thiết để khám phá bài học dễ hơn. Bảng 2. Tìm nghĩa biểu trưng và giá trị sử dụng của các điển cố

trong văn bản

STT Điên cố

Câu văn sử dụng điên cố

Nghĩa biểu

trưng

Giá trị sử dụng

1 Keo loan

2 Tơ

3 Lời nước non

4 Chín suối

5 Bồ liễu

6 Trâm gãy gương tan

7 Tơ duyên

3. Kết luận “Cách nói điển cổ là cách nói thâm thuý, chỉ gợi ý để

người đọc tự mình liên tưởng, cảm nhận và tìm đến ý nghĩa đúng đắn nhất, xác thực nhất. Điển cố với khả năng khơi dậy óc liên tưởng và suy ngẫm của người đọc sẽ tạo một sức mạnh đưa họ đến ngọn nguồn chân lý của vấn đề, dẫn đến kết quả thú vị hơn” [5]. Người đọc phải có kiến thức, hiểu biết nhất

Page 92: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

88 Đoàn Thị Tâm

định về các điển cố thì mới hiểu được ý nghĩa của điển cố cũng như thấy được tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm thông qua các điển cố được sử dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lại Nguyên Ân (1999), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến

hết thế kỉ XIX, NXB Giáo dục. [2] Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Trung

tâm Học liệu, Hà Nội.

[3] Đinh Gia Khánh (2001), Điển cố văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4] Nguyễn Văn Khôn (1974), Hán Việt từ điển, NXB Khai Trí Sài Gòn. [5] Đoàn Thị Ánh Loan (1999), “Ảnh hưởng của quan niệm triết

học Trung Hoa trong điển cố”, Tập san KHXH&NV, ĐHQG TPHCM.

[6] Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. [7] Nguyễn Ngọc San (2010), Từ điển giải thích điển cổ văn học, NXB

Giáo dục, Hà Nội. [8] Bùi Duy Tân (2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ

X - XIX), NXB GD, tập 3.

(BBT nhận bài: 04/12/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/12/2016)

Page 93: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 89

KHẢO SÁT VIỆC THỂ HIỆN ÂM NỐI CỦA SINH VIÊN NĂM HAI, KHOA TIẾNG ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

AN INVESTIGATION INTO THE PERFORMANCE OF LINKING SOUNDS BY SOPHOMORES AT ENGLISH DEPARTMENT, THE UNIVERSITY OF FOREIGN

LANGUAGE STUDIES - UNIVERSITY OF DANANG

Nguyễn Thị Kim Thanh1, Hồ Thị Kiều Oanh2 2Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

1Sinh viên lớp 14SPA02, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Bài viết này nhằm khảo sát việc thể hiện âm nối trong lốinói liên kết của sinh viên năm hai, Khoa tiếng Anh (KTA), TrườngĐại học Ngoại ngữ (ĐHNN), Đại học Đà Nẵng (ĐHĐN). Nghiên cứuđược tiến hành bằng phương pháp mô tả định tính và định lượng.Dữ liệu được thu từ 108 sinh viên (SV) năm hai KTA, ĐHNN-ĐHĐNthông qua bảng câu hỏi và bài kiểm tra chẩn đoán về phương diệnnhận biết và phát âm âm nối.Kết quả nghiên cứu cho thấy phầnlớn SV năm hai, KTA, ĐHNN-ĐHĐN đều mắc lỗi nối âm. Nhữngkhó khăn và lỗi sai về nối âm của sinh viên cũng được xác định vàphân tích để có thể tìm ra nguyên nhânnhằm có biện pháp khắcphục. Cuối cùng, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp SV cải thiệnsự thể hiện âm nối để có thể giao tiếp lưu loát, tự nhiên và có thểnâng cao khả năng nghe hiểu.

Abstract - This article attempts to investigate the performance of linking sounds in connected speech by sophomores at English Department (ED), the University of Foreign Language Studies (UFL), University of Danang (UD). The study was conducted with qualitative and quantitative methods. The data wá collected from 108 sophomores at ED, UFL-UD through the questionnaire and the diagnostic test onthe students’ perception and production of linking sounds. The study results show that most of the sophomores at ED, UFL-UD make errors in linking sounds. Their difficulties and errors in linking sounds are detected and analyzed in order to find out the causes and solutions. Finally, the article suggests some solutions to help these students improve their performance of linking sounds to communicate fluently and to improve their listening skills.

Từ khóa - thể hiện; âm nối; nhận biết; phát âm; khó khăn; lỗi sai;giải pháp.

Key words - performance; linking sounds; perception; production; difficulties; errors; solutions

1. Đặt vấn đề

Đạt được khả năng giao tiếp tốt với cách nói tự nhiên, trôi chảy là một trong những mục tiêu hàng đầu của người Việt học tiếng Anh. Thực vậy, khi giao tiếp tiếng Anh, người học không nên phát âm các từ rời rạc mà cần thể hiện tính liên kết cao như cách phát âm quen thuộc của người nói tiếng Anh bản ngữ. Trên thực tế; trong mỗi lời nói của họ, hiện tượng nối âm nói riêng và lối nói liên kết nói chung luôn được thể hiện một cách tự nhiên như một thói quen. Vì thế, nếu không có khả năng thể hiện tốt việc nối âm cũng như lối nói liên kết tự nhiên thì người học không thể nghe nói tốt tiếng Anh và có thể sẽ hiểu sai ý của người bản ngữ.

Như vậy, hiên tượng nối âm nói riêng và lối nói liên kết nói chung đóng vai trò quan trọng trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ. Tuy nhiên, do sự giao thoa của tiếng Việt mẹ đẻ, người Việt học tiếng Anh khó có thể thực hiện lối nói liên kết tự nhiên trong tiếng Anh. Thậm chí cả những SV chuyên ngữ cũng gặp nhiều khó khăn và mắc lỗi về việc thể hiện âm nối. Thực tế cho thấy SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN, mặc dù đã học môn “Dẫn nhập ngữ âm và âm vị học" và nhận ra được sự khác biệt giữa cấu trúc ngữ âm tiếng Anh và tiếng Việt, các em vẫn gặp nhiều khó khăn và mắc nhiều lỗi sai khi thể hiện âm nối. Từ đó, SV cảm thấy không tự tin nên hiếm khi thể hiện âm nối khi phát âm tiếng Anh. Điều này dẫn đến việc SV không thể giao tiếp lưu loát và gặp khó khăn trong việc phát triển kĩ năng nghe hiểu tiếng Anh. Chính điều đó đã trở thành một rào cản lớn đối với SV trên con đường vươn tới thành công trong giao tiếp tiếng Anh. Thực tế này cho thấy cần phải có giải pháp để có thể khắc phục những vấn đề trên.

Đó chính là lý do thôi thúc tác giả bài viết tiến hành nghiên cứu này.

Hiện tượng nối âm nói riêng và lối nói liên kết nói chung là một trong những đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà ngữ âm, âm vị học và đặc biệt là những giáo viên (GV) dạy tiếng Anh. Đã có nhiều tác giả viết về âm nối cũng như lối nói liên kết như, Rogerson & Gilbert [1], Wainless & Poms [2], Dauer [3] và McMahon [4]. Mortimer [5] đã định nghĩa hiện tượng nối âm và phân tích các trường hợp hữu quan. Roach [6] cũng đã khẳng định hiện tượng nối âm thường xuất hiện nhiều trong lối nói nhanh tự nhiên thông thường.

Về hiện tượng nối âm, đến nay đã có một số nghiên cứu được thực hiện. Bài nghiên cứu của Huỳnh Anh Tuấn [7] đề cập đến những khía cạnh của lối nói liên kết và đề xuất biện pháp cải thiện cho học sinh nói chung. Nghiên cứu của Huynh Thi Ngoc Hoa [8] và Nguyen Thi Thanh Thanh [9] đã chỉ ra lỗi sai khi thể hiện các khía cạnh của lối nói liên kết mà học sinh lớp 10 và lớp 11 mắc phải. Các bài nghiên cứu trên đã xác định khó khăn của một số đối tượng học tiếng Anh khi thể hiện những khía cạnh của lối nói liên kết và đưa ra các giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào việc thể hiện âm nối của SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN.

2. Giải quyết vấn đề 2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết nhằm khảo sát thực trạng thể hiện âm nối của SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN về cả hai phương diện nhận biết và phát âm để tìm ra những lỗi sai và những khó khăn, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện.

Page 94: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

90 Nguyễn Thị Kim Thanh, Hồ Thị Kiều Oanh

2.2. Mục đích nghiên cứu Để đạt các mục tiêu nghiên cứu trên, bài viết đặt ra

những mục đích nghiên cứu sau: • Phân tích đối chiếu cấu trúc âm tiết tiếng Anh và tiếng Việt. • Khảo sát thái độ của SV năm hai KTA, ĐHNN-ĐHĐN đối với hiện tượng nối âm. • Khảo sát sự thể hiện âm nối của SV về phương diện nhận biết và phát âm. • Tìm ra những khó khăn, lỗi sai khi thể hiện âm nối của SV để xác định nguyên nhân của vấn đề và đề xuất giải pháp phù hợp.

2.3. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt các mục tiêu và mục đích nghiên cứu trên, tác

giả bài báo đặt ra các câu hỏi nghiên cứu sau: • SV năm hai KTA, ĐHNN-ĐHĐN có thái độ như thế nào khi học và thực hành nối âm? • SV gặp phải những khó khăn và lỗi sai gì khi thể hiện âm nối? • Biện pháp nào có thể giúp SV vượt qua các khó khăn và cải thiện việc thể hiện âm nối?

2.4. Phạm vi nghiên cứu Trong lối nói liên kết, có nhiều khía cạnh khác nhau

như thêm âm, bớt âm, dị hóa, đồng hóa, nối âm, nuốt âm. Trong phạm vi nghiên cứu của bài báo này, tác giả tập trung nghiên cứu hiện tượng nối âm. Bài viết chủ yếu khảo sát sự thể hiện âm nối của SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN. 2.5. Giả thuyết nghiên cứu

Bài viết đưa ra giả thuyết rằng do khác biệt về loại hình ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt, SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN có thể gặp nhiều khó khăn và lỗi sai khi thể hiện âm nối. 2.6. Ý nghĩa của bài viết

Bài báo được thực hiện với hy vọng rằng SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN có một cái nhìn sâu sắc hơn về hiệntượng nối âm cũng như có thể trang bị những phương pháp cải thiện việc thể hiện âm nối để có thể giao tiếp tự nhiên và lưu loát hơn. Đồng thời, nếu SV có thể nối âm một cách thuần thục và tự nhiên thì phát âm của họ sẽ giống người bản ngữ hơn và nhờ đó kĩ năng nghe hiểu tiếng Anh - một kỹ năng khá khó đối với người học - cũng sẽ được cải thiện một cách đáng kể. 2.7. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành bằng phương pháp mô tả định tính và định lượng. Dữ liệu được thu từ 108 SV năm hai KTA, ĐHNN-ĐHĐN thông qua bảng câu hỏi và bài kiểm tra chẩn đoán. Bài kiểm tra chẩn đoán gồm 2 phần. Phần A được thiết kế với 4 bài tập nhỏ. Bài I và II nhằm kiểm tra khả năng nhận biết âm nối của SV trong các cụm từ, dãy số và đoạn hội thoại. Bài III và IV kiểm tra khả năng nhận biết âm nối khi nghe các đoạn hội thoại. Phần B gồm các cụm từ và câu mang đặc trưng của hiện tượng nối âm, được thiết kế nhằm yêu cầu SV phát âm chúng trong thời gian được khống chế là 1 phút để kiểm tra khả năng phát âm âm nối của SV theo phản

xạ tự nhiên. Các dữ liệu thu được từ phần B đều được ghi âm lại và xử lý dựa vào phân tích phổ của phần mềm hỗ trợ “Speech Analyzer”.

3. Cơ sở lý thuyết

3.1. Các khía cạnh của lối nói liên kết Theo Crystal [10]: “Connected speech, or connected

discourse, in linguistics, is a continuous sequence of sounds forming utterances or conversations in spoken language.” Theo định nghĩa này, lối nói liên kết là chuỗi âm thanh liên tục tạo nên lời nói. Thật vậy, người bản ngữ không nói từng từ rời rạc mà kết nối theo những quy luật định sẵn về: nối âm, những dạng âm mạnh, yếu, nhịp, đồng hóa và lướt âm. Thực vậy, theo Skandera & Burleigh [11]: “The various aspects of connected speech can be grouped together under five headings: linking, strong and weak forms, rhythm, assimilation, and elision.”

3.2. Hiện tượng nối âm Mortimer [5] định nghĩa nối âm là quá trình mà âm cuối

của từ đứng trước nối với âm đầu của từ sau để tạo nên tính trôi chảy và lưu loát trong giao tiếp. Theo Dauer [3]: “Linking means that words should be joined smoothly to each other without adding extra sounds or omitting final consonants”. Trong hiện tượng nối âm, có 3 quy luật:

• Quy luật 1: phụ âm cuối + nguyên âm đầu Ví dụ: “find out” nghe như “fine doubt”

• Quy luật 2: nguyên âm cuối + nguyên âm đầu + Nếu nguyên âm cuối là một nguyên âm tròn môi thì [w] được chen vào giữa: Ví dụ: “do it”: [du:wɪt] + Nếu nguyên âm cuối là nguyên âm không tròn môi thì [j] được chen vào giữa: Ví dụ: “I own”: [aɪjoʊn]

• Quy luật 3: ‘r’ + ‘r’ nối âm: ‘r’ tận cùng + nguyên âm đầu Ví dụ: “here are”: [hɪərə] + Chèn âm ‘r’: Ví dụ: “formula A”: ['fɔ:mjuləreɪ], “law and

order”: [lɔ:rəndɔ:də] 3.3. Phân tích đối chiếu cấu trúc âm tiết tiếng Anh và tiếng Việt

Về cấu trúc âm tiết, tiếng Anh và tiếng Việt đều có 3 yếu tố chính: âm đầu, vần và âm cuối. Tuy nhiên tiếng Anh không hạn chế số lượng phụ âm đầu và phụ âm cuối của từ. Tính lỏng lẻo này của tiếng Anh được Roach [6] minh họa bằng cấu trúc thu gọn (C) (C) (C) (C) V (C) (C) (C) (C). Trong khi đó, theo Đoàn Thiện Thuật [12], cấu trúc của âm tiết tiếng Việt là (C) V (C). Thêm vào đó, tiếng Việt được Nguyễn Đức Dân [13] ví như một chuỗi hạt với mỗi âm tiết là một hạt độc lập, trong khi tiếng Anh lại có hiện tượng nối âm nói riêng và lối nói liên kết nói chung được thể hiện một cách thường xuyên. Ngoài ra do sự chi phối của thanh điệu nên trong tiếng Việt, các âm bật ở vị trí cuối không được bật hơi. Tuy nhiên, trong tiếng Anh thì phụ âm bật

Page 95: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 91

hơi ở vị trí cuối xuất hiện rất nhiều và được phát âm bật hơi hoàn toàn. Về hiện tượng nối âm, thực tế giao tiếp tiếng Anh đòi hỏi thể hiện tính liên kết trong phát âm. Trong khi đó, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết và âm tiết kết thúc không có bật hơi [13] nên SV Việt Nam có khuynh hướng bỏ đi âm cuối hoặc quên nối với âm đầu của từ tiếp theo trong tiếng Anh.

4. Kết quả nghiên cứu và Bàn luận 4.1. Kết quả thu được từ bảng câu hỏi

Bảng 1. Thái độ của SV đối với các kĩ năng và các yếu tố quan trọng của tiếng Anh

Kĩ năng quan trọng nhất

Nghe 46,3%

Nói 34,3%

Đọc 9,3%

Viết 10,1%

Yếu tố cần phải chú ý nhiều nhất

Phát âm 53,7%

Từ vựng 37%

Ngữ pháp 9,3%

Bảng 1 cho thấy đa số SV cho rằng kĩ năng nghe (46,3%) và nói (34,3%) là quan trọng nhất. Vì thế, các em tập trung chú ý nhiều vào phát âm (53,7%) và từ vựng (37%). Như vậy, có thể thấy SV thể hiện thái độ tích cực đối với các kĩ năng giao tiếp khẩu ngữ bằng tiếng Anh.

Bảng 2. Suy nghĩ của SV về tầm quan trọng của phát âm và việc tự luyện tập phát âm

Vai trò của phát âm trong kĩ năng nghe và nói

Quan trọng 100%

Không quan trọng 0%

Phát âmcó tầm ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả giao

tiếp

Có 100%

Không 0%

Luyện tập phát âm ở nhà

Mỗi ngày 11,1%

1 hoặc 2 lần/ tuần 42,6%

Thỉnh thoảng 29,6%

Không bao giờ 6,7%

Cách luyện tập phát âm

Nghe và lặp lại theo người bản ngữ 5,6%

Thu âm lại, so sánh với người bản xứ 17,6%

Phát âm theo cảm tính 74%

Bỏ qua các lỗi phát âm 1,9%

Cách khác 0,9%

Đến đây có thể thấy tất cả SV đều ý thức được tầm quan trọng của việc phát âm đối với kĩ năng nghe và nói tiếng Anh và tầm ảnh hưởng lớn của phát âm đến hiệu quả giao tiếp. Tuy nhiên, chỉ có 11,1% luyện tập phát âm ở nhà mỗi ngày, và thậm chí có hơn 3/4 SV chọn cách phát âm theo cảm tính.

Bảng 3. Kiến thức của SV về hiện tượng nối âm

Kiến thức của SV về định nghĩa của hiện tượng nối âm

Có 91%

Không 9%

Kiến thức của SV về các quy luật của hiện tượng nối âm

Có 11,1%

Có nhưng không chắc lắm

82,4%

Không 6,5%

Theo bảng 3, SV năm hai đã học môn “Ngữ âm và âm vị học” nên hầu hết đều biết đến hiện tượng nối âm và các quy luật của nó. Tuy nhiên, đa số các bạn (82,4%) đều không nắm chắc các quy luật ấy.

Bảng 4. Thực trạng thể hiện âm nối và ý kiến của SV về hiện tượng nối âm

Sự thường xuyên thể hiện âm nối của SV khi nói tiếng Anh

Có 28,7%

Không 71,3%

Khả năng của SV trong việc thể hiện âm nối chính xác

Có 20,4%

Không 79,6%

SV gặp khó khăn khi hiểu người bản ngữ do hiện tượng nối âm

gây ra

Có 75,9%

Không 24,1%

Nhận thức của SV về hiệu quả của việc thể hiện âm nối trong

giao tiếp

Có 80,6%

Không 19,4%

Nhận thức của SV về sự phổ biến của hiện tượng nối âm

Có 46,3%

Không 53,7%

Thái độ của SV đối với việc học và thực hành nối âm

Thích 88,9%

Không thích 11,1%

SV chú ý vào độ lưu loát và nói bình thường hay chú ý vào độ

chính xác và nói chậm

Độ lưu loát, nói bình thường 23,1%

Độ chính xác, nói cẩn thận 76,9%

Bảng 4 cho thấy hơn 3/4 SV không thể hiện âm nối và không tự tin về việc thể hiện âm nối của mình. Do vậy, các em thường xuyên gặp khó khăn để có thể hiểu người bản ngữ nói. Thêm vào đó, có đến 80,6% SV nhận ra hiệu quả giao tiếp của việc nối âm nhưng chỉ có 46,3% nhận thức rằng hiện tượng nối âm thường xuyên xuất hiện trong giao tiếp tiếng Anh. Tuy nhiên, đa phần SV thể hiện thái độ tích cực đối với việc học và thực hành nối âm. Ngoài ra, SV chú ý vào độ chính xác (76,9%) hơn độ lưu loát (23,1%) nên họ có thói quen nói chậm và ít khi thể hiện âm nối.

Theo biểu đồ 1, khó khăn mà nhiều SV gặp phải nhất đó chính là thiếu cơ hội giao tiếp với người bản ngữ (31,5%) và sự khác biệt giữa hệ thống ngữ âm của tiếng Anh và tiếng Việt (31,5%). Sự khó khăn nữa đó là tình trạng thiếu tư liệu, phương tiện hỗ trợ và phương pháp giảng dạy chưa phù hợp.

Page 96: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

92 Nguyễn Thị Kim Thanh, Hồ Thị Kiều Oanh

Biểu đồ 1. Khó khăn của SV trong việc luyện tập nối âm

Bảng 5. Việc sửa lỗi và thể hiện âm nối của GV

Việc GV sửa lỗi nối âm cho SV

Có 55,6%

Không 44,4%

Việc thể hiện âm nối của GV

Có 60,2%

Không 39,8%

Bảng 5 cho thấy hơn một nửa số SV cho rằng GV có thể hiện âm nối và sửa lỗi nối âm cho SV.

4.2. Kết quả thu được từ bài kiểm tra chẩn đoán Biểu đồ 2 cho thấy cả lúc đọc và nghe thì tần suất SV

làm đúng đều không quá 40%. Ở quy luật 1, khi nghe, SV nhận biết nối âm tốt hơn hẳn so với khi đọc. Điều đáng ngạc nhiên là SV gần như không có khả năng nhận biết âm nối ở quy luật 2 và 3.

Biểu đồ 2. Thực trạng nhận biết âm nối của SV

Biểu đồ 3. Thực trạng phát âm âm nối của SV Theo biểu đồ 3, ngay cả khi phát âm từng cụm từ một

hoặc cả câu thì phần trăm phát âm âm nối đúng đều dưới 40%. Ở quy luật 2 và 3, hầu hết SV không phát âm âm nối hoặc phát âm sai. Số lỗi phát âm âm nối ở cấp độ phát âm cụm từ ít hơn ở cấp độ phát âm cả câu.

Bảng 6. Đánh giá của SV về khả năng phát âm của các em

Có Không Đôi lúc

SV chú ý vào việc thể hiện âm nối khi phát âm các cụm từ 32.4% 23,2% 44,4%

SV chú ý vào việc thể hiện âm nối khi bạn phát âm các câu

34,3% 9,3% 56,4%

Bảng 6 cho thấy số SV chú ý vào nối âm khi phát âm là dưới 35%. So với phát âm cụm từ, SV chú trọng vào nối âm hơn khi phát âm cả câu. 4.3. Bàn luận 4.3.1. Những lỗi sai và khó khăn mà SV gặp phải khi nhận biết âm nối

Kết quả của hoạt động nghe, đọc ở bài kiểm tra chẩn đoán chỉ ra rằng khả năng của SV trong việc xác định, nghe

11.1%

2.8%

31.5%

12.0%

31.5%

6.5%2.8%

Thiếu tư liệu, tài liệu

Thiếu thời gian

Thiếu cơ hội luyện tập với người bản ngữ

Thiếu phương tiện hỗ trợ thích hợp

Sự khác biệt giữa hệ thống ngữ âm của tiếng Anh và tiếng ViệtPhương pháp giảng dạy không phù hợp

Các quy luật khó nhớ

Thiếu cơ hội luyện tập với bạn bè

Khác

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

35%

40%

Quy luật 1 Quy luật 2 Quy luật 3

Đọc

Nghe

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

35%

40%

Quy luật 1 Quy luật 2 Quy luật 3

Cụm từ

Câu

Page 97: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 93

và đọc âm nối còn rất yếu, đặc biệt là nối âm quy luật 2 và 3. Câu trả lời của các em trong phần A của bài kiểm tra có vẻ được chọn một cách ngẫu nhiên, cảm tính. 4.3.2. Những lỗi sai và khó khăn mà SV gặp phải khi phát âm âm nối • Về quy luật 1 của nối âm, đây là trường hợp SV thể hiện âm nối đúng nhiều nhất. Đối với các SV phát âm sai, khi phân tích đoạn ghi âm, tác giả bài báo thấy rằng những SV này thường mắc một lỗi chung là không phát âm phụ âm cuối của từ. • Về quy luật 2, đây là trường hợp mà hầu hết SV đều không thể hiện âm nối. Quy luật 2 yêu cầu thêm [w], [j] vào giữa nhưng SV có lẽ vì không nắm rõ quy luật nên không thêm âm vào hoặc thêm âm vào nhưng lại nhầm lẫn 2 âm này. • Về quy luật 3, đây cũng là trường hợp mà rất ít SV thể hiện đúng âm nối. Đặc biệt ở trường hợp chèn thêm ‘r’, hầu như tất cả SV đều thể hiện sai. 4.3.3. Nguyên nhân của vấn đề • Về nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân chính xuất phát từ phía SV. Tuy có nhận thức được tầm quan trọng của việc nối âm nhưng các em chưa chủ động cải thiện, luyện tâp. • Vềnguyên nhân khách quan, sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ là nguyên nhân chính. Thêm vào đó là vai trò của GV trong công tác dạy học. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác cũng đáng được nêu rõ như SV có xu hướng học thiên về lý thuyết hơn là thực hành, các em thiếu cơ hội giao tiếp với người bản ngữ, với bạn bè, thiếu nguồn tài liệu. 4.3.4. Giải pháp • Đối với nguyên nhân chủ quan, tác giả bài báo đề xuất SV nên tự tìm hiểu, học hỏi để ý thức được sự khác biệt giữa hệ thống ngữ âm tiếng Anh và tiếng Việt. SV cũng cần phải nắm rõ các quy luật nối âm và luyên tập hằng ngày để tạo thành thói quen. SV nên luyện tập bằng cách ghi âm lại phát âm của mình và so sánh với phát âm của người bản ngữ. SV có thể sử dụng trang mạng http://www.fromtexttospeech.com/ để có được phát âm của người bản ngữ. Thêm vào đó, SV nên thường xuyên nghe các băng đĩa tiếng Anh. Trong giờ học, SV cần chủ động tương tác với GV. • Đối với nguyên nhân khách quan, giải pháp chính là phương pháp dạy học nối âm nên được cải thiện. Tuy đa phần SV đều cảm thấy hứng thú đối với việc học và thực hành nối âm nhưng với cách dạy truyền thống thì hứng thú của SV sẽ bị suy giảm đáng kể. Như vậy, GV cần kết hợp những hoạt động, trò chơi luyện tập phát âm với các giờ học kĩ năng để nắm bắt được thực trạng phát âm của SV cũng như có những biện pháp khắc phục, điều chỉnh cần thiết. GV có thể tổ chức các hoạt động và trò chơi như “Telephone game” (GV sử dụng tai nghe để cho một SV của mỗi hàng dọc nghe một cụm từ hoặc câu tiếng Anh mang đặc trưng nối âm. SV nói thầm cụm từ hoặc câu đó cho bạn kế tiếp và tiếp tục cho đến em cuối hàng) và “Chain

game” (Lần lượt từng SV đứng lên nói một câu tiếng Anh về một chủ đề nhất định. SV nào phát âm đúng thì được ngồi xuống. SV cuối cùng không phải đứng lên là người thắng cuộc). Việc GV áp dụng các hoạt động, trò chơi khi luyện tập nối âm ở lớp cũng mang lại hiệu quả cao trong việc tạo hứng thú, động lực cho SV. Thêm vào đó, GV nên hướng SV đến việc thực hành nối âm để xây dựng thói quen thay vì chỉ học thuộc những quy luật của nó. GV cũng nên tích cực tăng cường tương tác với SV, xây dựng môi trường tiếng, đồng thời không ngừng nâng cao khả năng nối âm, phát âm cũng như kĩ năng nói của mình.

5. Kết luận Kết quả nghiên cứu thu được từ bảng câu hỏi và bài

kiểm tra chẩn đoán đáp ứng giả thuyết ban đầu. Điều đó có nghĩa là phần lớn SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN đều mắc lỗi nối âm. Thêm vào đó, tuy có thái độ tích cực đối vối hiện tượng nối âm nói riêng và phát âm nói chung nhưng SV chưa chủ động trong việc luyên tập nối âm cũng như chưa có phương pháp học phù hợp. Ngoài ra, bài viết cũng chỉ ra các khó khăn cũng như các nguyên nhân của vấn đề. Từ đó các giải pháp thích hợp đã được đề xuất. Hy vọng rằng bài báo này có thể góp phần giúp SV năm hai, KTA, ĐHNN, ĐHĐN nâng cao kĩ năng phát âm và hình thành thói quen nối âm để đạt được khả năng giao tiếp lưu loát, trôi chảy cũng như cải thiện kĩ năng nghe hiểu tiếng Anh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Rogerson, P.&Gilbert, B. J., Speaking Clearly: Pronunciation and

Listening Comprehension for Learners of English, Cambridge University Press, 1990.

[2] Wainless, D.P.& Poms, L., English Pronunciation for International Students, Prentice Hall Regents, 1993.

[3] Dauer, M. R., Accurate English, Pearson Education ESL, 2002. [4] McMahon, M.S, An Introduction to English Phonology, Oxford

University Press, 2002. [5] Mortimer, C., Elements of Pronunciation: Intensive Practice for

Intermediate and More Advanced Students, Cambridge University Press, 1995.

[6] Roach, P., English Phonestics and Phonology, Cambridge University Press, 2002.

[7] Huỳnh Anh Tuấn, Hiện tượng đồng hóa âm vị, đọc nuốt và đọc nối trong tiếng Anh, những khó khăn khi nghe nói của học sinh Việt Nam, Đại học Đà Nẵng, 1992.

[8] Huynh Thi Ngoc Hoa, Common Pronunciation Mistakes in Stress, Strong and Weak Form and Linking Sounds by 10th Grade Students, Danang University, 1999.

[9] Nguyen Thi Thanh Thanh, An Investigation into the Pronunciation of Inflectional Ending in English by the 11th Form Students in Danang City, Danang University, 2006.

[10] Crystal, D., A Dictionary of Linguistics & Phonetics, Wiley-Blackwell, 2003.

[11] Skandera, P. & Burleigh, P., A Manual of English Phonetics and Phonology, Narr Dr. Gunter, 2002.

[12] Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1980.

[13] Nguyễn Đức Dân, Logic - Ngữ nghĩa - Cú pháp, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1998.

(BBT nhận bài: 02/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 04/01/2017)

Page 98: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

94 Lâm Quốc Thịnh, Hồ Thị Kiều Oanh

CÁC PHƯƠNG THỨC DỊCH SANG TIẾNG VIỆT DANH NGÔN TIẾNG ANH DIỄN ĐẠT TÌNH BẠN TƯƠNG QUAN VỚI BIỆN PHÁP TU TỪ

PROCEDURES IN THE VIETNAMESE TRANSLATION OF ENGLISH FAMOUS SAYINGS EXPRESSING FRIENDSHIP IN TERMS OF RHETORICAL DEVICES

Lâm Quốc Thịnh1, Hồ Thị Kiều Oanh2 2Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

1Học viên Cao học Khóa 30, ngành Ngôn ngữ Anh, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Bài viết nhằm mục đích mô tả một số phương thức dịchsang tiếng Việt danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn về phươngdiện các biện pháp tu từ. Với việc khảo sát 240 mẫu ngữ liệu (gồm120 câu danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn và 120 câu dịchtiếng Việt tương đương) được thu thập từ các sách danh ngônsong ngữ, chúng tôi tìm ra 5 loại biện pháp tu từ được sử dụngtrong danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn cũng như 9 loạiphương thức dịch được áp dụng trong quá trình chuyển dịchnhững câu danh ngôn trên từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Kết quảnghiên cứu có thể giúp người dạy và học tiếng Anh cũng như tiếngViệt hiểu rõ hơn các phương thức dịch và các hiện tượng mất vàthêm thông tin cùng sự thay đổi các biện pháp tu từ trong quá trìnhchuyển dịch những câu danh ngôn diễn đạt tình bạn từ tiếng Anhsang tiếng Việt.

Abstract - This article is aimed at describing some translation procedures in the Vietnamese translation of English famous sayings expressing friendship in terms of rhetorical devices. After studying 240 samples (120 English famous sayings expressing friendship and 120 their Vietnamese translation) collected from bilingual books of famous sayings, we have found that there are 5 kinds of rhetorical devices used in English famous sayings expressing friendship, 9 kinds of translation procedures employed in the Vietnamese translation of those English famous sayings. The results of the study could help teachers and learners of English and Vietnamese further understand translation procedures, loss and gain of information as well as the change of rhetorical devices in the process of translating famous sayings expressing friendship from English into Vietnamese.

Từ khóa - danh ngôn; tình bạn; biện pháp tu từ; phương thức dịchthuật; hiện tượng mất và thêm thông tin.

Key words - famous saying; friendship; rhetorical device; translation procedure; loss and gain of information.

1. Đặt vấn đề

Trong thời chiến cũng như thời bình, tình bạn là một trong những chủ đề được các tác giả trong mọi lĩnh vực nghệ thuật như thơ, ca, nhạc, họa hướng đến nhiều nhất. Hơn thế nữa, mối quan hệ liên nhân đẹp đẽ này còn được nhắc đến trong nhiều câu danh ngôn với đa dạng sắc thái ngữ nghĩa.

Với sự bùng nổ của thời đại công nghệ thông tin, việc tiếp cận các kho tàng danh ngôn trực tuyến đối với học sinh, sinh viên hiện nay không còn quá khó khăn. Tuy nhiên, chỉ mới tiếp cận và đọc cũng chưa mang lại tính hiệu quả cao bởi lẽ trong từng câu, từng chữ của danh ngôn đều hiện diện các biện pháp tu từ mà chỉ khi phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng mới giúp người đọc nhận ra được thông điệp mà câu danh ngôn đó muốn truyền tải.

Trên thực tế, đã có không ít các công trình nghiên cứu về danh ngôn được thực hiện bởi các tác giả trong và ngoài nước như: Augarde [1], Knowles [5], Nguyễn Văn Bá [9], Tiên Lý [10]. Trong các công trình này, danh ngôn mặc dù được sắp xếp, phân loại theo từng chủ đề như: đạo đức, lương tâm, phụ nữ, tình yêu, tình bạn… nhưng chưa được chú trọng và phân tích chuyên sâu một cách học thuật. Về cơ bản, những từ điển danh ngôn của Nguyễn Văn Bá [9] hay Tiên Lý [10] đều chỉ mới dừng lại ở việc chuyển dịch các câu danh ngôn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.

Khác với những công trình trên, bài viết này không chỉ mô tả những điểm tương đồng và khác biệt giữa các biện pháp tu từ được sử dụng trong câu danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn và trong câu dịch tiếng Việt tương đương, mà còn phân tích về các phương thức dịch được áp dụng cho từng biện pháp tu từ cũng như hiện tượng mất và thêm

thông tin trong quá trình chuyển dịch câu danh ngôn diễn đạt tình bạn từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

2. Giải quyết vấn đề 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Khái niệm về danh ngôn diễn đạt tình bạn

Theo Knowles [5], danh ngôn diễn đạt tình bạn được định nghĩa là những câu nói hoặc câu trích dẫn nổi tiếng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc mô tả về mối quan hệ liên nhân tình bạn. 2.1.2. Khái niệm và chức năng của biện pháp tu từ

Theo Galperin [4], biện pháp tu từ là sự cường điệu hóa có chủ đích các đặc trưng về cấu trúc hay ngữ nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ. Đinh Trọng Lạc [7] lại cho rằng biện pháp tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - logic) chúng còn có ý nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ. Do vậy, chức năng chính của biện pháp tu từ là hướng người đọc đến những khía cạnh thẩm mỹ của văn bản nghệ thuật [7]. 2.1.3. Khái niệm về dịch thuật và phương thức dịch thuật

Dịch thuật được Newmark [6] định nghĩa là một quá trình chuyển nghĩa của một văn bản từ ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Ông còn cho rằng, trong khi phương pháp dịch (translation methods) liên quan đến các văn bản đầy đủ thì phương thức dịch (translation procedures) được dùng cho các câu và các đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn câu.

Theo Bassnett [2], mất và thêm thông tin (loss and gain of information) là một hiện tượng không thể tránh khỏi trong dịch thuật do trong ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích luôn tồn tại những điểm khác biệt.

Page 99: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 95

2.2. Phương pháp nghiên cứu Trong nghiên cứu này, phương pháp miêu tả và so sánh

được kết hợp với phương pháp định tính và định lượng. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các từ điển danh ngôn song ngữ Anh - Việt, gồm 120 câu danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn và 120 câu dịch tiếng Việt. 3. Kết quả nghiên cứu và Bàn luận

Qua việc phân tích nguồn dữ liệu thu thập được, chúng tôi nhận thấy rằng danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn có tính hình tượng cao nhằm mang đến cho người đọc những thông điệp đầy ý nghĩa. Những hàm ý đó được thể hiện qua các biện pháp tu từ như: ẩn dụ (metaphor), so sánh hiển ngôn (simile), nhân hóa (personification), phép lặp (repetition) và được biểu thị qua dữ liệu ở Bảng 1.

Bảng 1. Tần số xuất hiện của các biện pháp tu từ trong câu danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn

và trong câu dịch tiếng Việt tương đương

Biện pháp tu từ

Trong câu danh ngôn tiếng Anh

diễn đạt tình bạn

Trong câu dịch tiếng Việt

tương đương

Tần số (NA)

Tần suất (%)

Tần số (NV)

Tần suất (%)

Ẩn dụ 29 23.2 27 29.3

So sánh hiển ngôn 26 20.8 19 20.7

Nhân hóa 24 19.2 23 25.0

Lặp 46 36.8 23 25.0

Tổng cộng 125 100 92 100

Theo Augarde [1] danh ngôn là câu nói hoặc lời nói tạo nên ấn tượng mạnh đối với người đọc hoặc người nghe và dễ nhớ đến nỗi người ta có thể dùng nó trong khẩu ngữ hoặc trích dẫn trong văn viết. Do vậy, phép lặp với chức năng tạo ra những điểm nhấn ý nghĩa cho toàn bộ văn bản được sử dụng phổ biến hơn cả trong các tác phẩm văn học nói chung và danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn nói riêng. Bảng 1 cho thấy số lượng các biện pháp tu từ trong danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn đã thay đổi trong quá trình chuyển dịch sang tiếng Việt, đáng kể nhất là ở phép lặp với tần số trong tiếng Anh NA=46 và trong tiếng Việt NV=23. Như vậy, trong quá trình chuyển dịch danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn sang tiếng Việt đã có một vài yếu tố gây ra những thay đổi nói trên. Chúng ta hãy xét một số câu danh ngôn sau:

(1a) Tell me thy company, and I’ll tell thee what thou art. [9, tr. 89] (1b) Hãy cho tôi biết bạn bè của anh, và tôi sẽ nói anh là hạng người nào. Qua ví dụ (1a) có thể thấy rằng phép lặp âm đầu

(alliteration) thể hiện ở các từ: thy, thee và thou vốn chỉ tồn tại trong tiếng Anh, do vậy người dịch không thể tái tạo nguyên trạng biện pháp này trong câu dịch tiếng Việt (1b); điều này đồng nghĩa với việc phép lặp âm đầu (alliteration) đã bị mất hoặc bị lược bỏ trong câu dịch tiếng Việt (1b). Như vậy sự khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích là một trong những yếu tố gây ra sự thay đổi các biện pháp tu từ trong quá trình chuyển dịch danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn sang tiếng Việt.

(2a) Friendship is love without his wings! [10, tr. 9] (2b) Tình bạn là tình yêu không có đôi cánh để bay đi.

Hình tượng ẩn dụ wings (đôi cánh) ngầm diễn đạt sự mất mát trong tình yêu trong ví dụ (2a) được bổ sung ý nghĩa qua cụm động từ để bay đi trong câu dịch tiếng Việt. Hiện tượng thêm thông tin trong dịch thuật (gain of information) nói trên đã làm xuất hiện thêm biện pháp tu từ nhân hóa thể hiện ở mệnh đề tình yêu không có đôi cánh để bay đi trong câu dịch tiếng Việt (2b). Bên cạnh sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt, phương thức dịch (translation procedures) và hiện tượng mất và thêm thông tin (loss and gain of information) cũng góp phần vào sự thay đổi các biện pháp tu từ trong quá trình chuyển dịch danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn sang tiếng Việt.

Qua nghiên cứu và khảo sát các mẫu dữ liệu, chúng tôi nhận thấy có 9 loại phương thức dịch (translation procedures) được người dịch sử dụng trong quá trình chuyển dịch danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn có chứa biện pháp tu từ sang tiếng Việt. Những phương thức dịch nói trên bao gồm: bù trừ (compensation), kết hợp (couplets), dịch thành ngữ (idiomatic translation), dịch nguyên văn (literal translation), biến thái (modulation), chú giải (paraphrase), rút gọn (reduction), đồng nghĩa (synonymy) và chuyển đổi vị trí (transposition) được biểu thị kèm với tần số xuất hiện của hiện tượng mất và thêm thông tin trong dịch thuật ở Bảng 2 dưới đây.

Bảng 2. Tần số xuất hiện của hiện tượng mất và thêm trong dịch thuật gây ra bởi từng phương thức dịch

Hiện tượng

Phương thức

Mất (Loss)

Tần suất (%)

Thêm (Gain)

Tần suất (%)

Bù trừ (Compensation) 1 6.25 0 0Kết hợp (Couplets) 1 6.25 1 6.25Dịch thành ngữ (Idiomatic Translation) 1 6.25 0 0

Dịch nguyên văn (Literal Translation)

0 0 2 12.5

Biến thái (Modulation) 1 6.25 0 0Chú giải (Paraphrase) 0 0 6 37.5Rút gọn (Reduction) 11 68.75 0 0Đồng nghĩa (Synonymy) 1 6.25 6 37.5Chuyển đổi vị trí (Transposition) 0 0 1 6.25

Tổng cộng 16 100 16 100

3.1. Bù trừ (Compensation) Sự mất đi của nghĩa, hiệu ứng âm thanh, ẩn dụ hoặc ý

nghĩa ngữ dụng của một bộ phận trong câu được bù đắp ở một bộ phận khác của câu, hoặc ở câu tiếp theo [6, tr. 90].

• Phép lặp (Repetition) (3a) Do not save your loving speeches, for your friends

will they are dead; Do not write them on their tombstones, speak them rather now instead. [10, tr. 61]

(3b) Xin chớ để dành lại những lời yêu thương, để nói lúc bạn đã qua đời; Xin đừng viết chúng trên bia mộ, nói lúc này đây mới là tuyệt vời.

Page 100: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

96 Lâm Quốc Thịnh, Hồ Thị Kiều Oanh

Nếu người dịch áp dụng phương thức dịch nguyên văn trong câu danh ngôn nói trên, thì câu dịch tiếng Việt sẽ không thể có được phép lặp vần (rhyme) như ở bản gốc (3a). Như vậy yếu tố nhấn mạnh để lôi cuốn người đọc cũng sẽ bị mất đi. Nhằm tái tạo lại hiệu ứng âm thanh của phép lặp vần (rhyme) thể hiện ở cặp từ qua đời – tuyệt vời trong câu dịch tiếng Việt, người dịch đã sử dụng phương thức bù trừ. Hiện tượng mất thông tin trong dịch thuật (loss of information) cũng xuất hiện bởi lẽ từ instead trong bản gốc đã không được dịch ra. 3.2. Kết hợp (Couplets)

Trong một số trường hợp, người dịch có thể kết hợp hai phương thức dịch chỉ để giải quyết một vấn đề trong quá trình chuyển dịch [6, tr. 91]. Người dịch dùng phương thức kết hợp cho các câu danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn có chứa nhân hóa và phép lặp.

• Nhân hóa (Personification) (4a) Friendship is born at that moment when one person says to another: “What! You too? I thought I was the only one.” [10, tr. 7] (4b) Tình bạn nảy sinh ngay trong khoảnh khắc một người này nói với một người khác: Ủa! Bạn cũng vậy hả? Tôi tưởng chỉ có mình tôi mới như vậy.” Tình bạn (friendship) được nhân hóa bằng động từ được

chia ở dạng bị động trong câu (4a) và dạng chủ động trong câu (4b). Trong trường hợp này, người dịch sử dụng phương thức biến thái với nguyên tắc chủ động thay cho bị động (active for passive) [6, tr. 88] kết hợp với phương thức đồng nghĩa để làm cho bản dịch được trôi chảy hơn.

• Phép lặp (Repetition) (5a) Fame is the scentless sunflower, with gaudy crown of gold. But friendship is the breathing rose, with sweets in every fold. [10, tr. 15] (5b) Danh tiếng là đóa hướng dương đội chiếc vương miện vàng rực nhưng không mùi hương. Còn tình bạn là đóa hoa hồng phập phồng thở, từng cánh mỏng đều tỏa hương thơm ngát. Tương tự, người dịch cũng sử dụng hai phương thức

dịch thuật đó là chuyển đổi vị trí và bù trừ nhằm biến hiệu ứng nhấn mạnh của phép lặp âm đầu (alliteration) vốn dĩ chỉ tồn tại trong tiếng Anh thể hiện qua cụm danh từ scentless sunflower trong câu gốc (5a) thành hiệu ứng âm thanh lặp vần trong câu dịch (5b). 3.3. Dịch thành ngữ (Idiomatic Translation)

Dịch thành ngữ là tái tạo ‘thông điệp’ của bản gốc nhưng có xu hướng thay đổi sắc thái ý nghĩa của bản gốc bằng cách đưa ra những thành ngữ không tồn tại trong bản gốc [6, tr. 41].

• Nhân hóa (Personification) (6a) Friendship cannot stand always on one side. [9, tr. 89] (6b) Có đi có lại mới toại lòng nhau. Trong câu danh ngôn trên có sự xuất hiện của biện pháp

tu từ nhân hóa thể hiện qua danh từ friendship kết hợp với động từ dùng chỉ hành động của người stand. Tuy nhiên

trong câu dịch tiếng Việt (6b), chúng ta thấy rằng biện pháp nhân hóa cũng như những yếu tố trên đã mất đi, thay vào đó là một câu thành ngữ Việt Nam. Như vậy, thông điệp của bản gốc (6a) đã được tái tạo lại hoàn toàn do người dịch sử dụng phương thức dịch thành ngữ. Hiện tượng mất thông tin trong dịch thuật cũng xuất hiện trong ví dụ này, kéo theo việc biện pháp tu từ nhân hóa của bản gốc cũng không còn xuất hiện trong bản dịch.

3.4. Dịch nguyên văn (Literal Translation) Theo Newmark [6], đây là phương thức dịch thuật cơ

bản, là sự thay thế cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ nguồn bằng cú pháp đồng dạng hoặc gần như đồng dạng trong ngôn ngữ đích. Qua đó, những hình tượng trong ngôn ngữ nguồn có thể được người dịch tái tạo lại chính xác trong ngôn ngữ đích.

• Ẩn dụ (Metaphor) (7a) Wishing to be friends is quick work, but friendship is a slow-ripening fruit. [10, tr. 37] (7b) Mong trở thành bạn của nhau thì rất nhanh nhưng tình bạn là một loại quả chín chậm. Câu danh ngôn trên chứa biện pháp tu từ ẩn dụ thông

qua sự ví von tình bạn (friendship) là một loại quả chín chậm (a slow-ripening fruit) ám chỉ việc tạo dựng một tình bạn chân thật không phải chuyện một sớm một chiều. Chúng ta cũng cần phải trải qua nhiều thử thách trong cuộc sống mới có thể nhận ra một tình bạn đích thực.

• So sánh hiển ngôn (Simile) (8a) Friendship is like a tree. It is not measured on how tall it could be, but on how deep the roots have grown. [10, tr. 14] (8b) Tình bạn giống như một cái cây. Người ta không đo xem nó cao được bao nhiêu mà chỉ đo rễ nó ăn sâu đến đâu. Các hình tượng của phương tiện so sánh hiển ngôn

thường rất gần gũi với đời sống thường nhật của chúng ta. Do đó người dịch chỉ cần áp dụng phương thức dịch nguyên văn là đã có thể tái tạo lại những hình ảnh của ngôn ngữ nguồn trong ngôn ngữ đích mà không gặp phải trở ngại gì. Trong ví dụ trên, tình bạn (friendship) được làm nổi bật nhờ phương tiện so sánh hiển ngôn like với hình ảnh một cái cây (a tree) mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa của ngôn ngữ nguồn.

• Nhân hóa (Personification) (9a) There can be no friendship where is no freedom. Friendship loves a free air, and will not be fenced up in straight and narrow enclosures. [10, tr. 89] (9b) Không thể có tình bạn ở một nơi không có tự do. Tình bạn yêu khí trời thoáng đãng và sẽ không bị nhốt trong những vòng rào chật hẹp. Phương thức dịch nguyên văn cũng giúp cho người dịch

giữ lại biện pháp tu từ nhân hoá trong quá trình chuyển dịch. Biện pháp nhân hoá ở câu danh ngôn (9a) thể hiện ở việc danh từ friendship kết hợp với động từ được chia loves và will be fenced up được tái tạo nguyên văn ở câu dịch tiếng Việt (9b).

Page 101: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 97

• Phép lặp (Repetition) (10a) There are three types of friends: those like food,

without which you can’t live; those like medicine, which you need occasionally; and those like an illness, which you never want. [10, tr. 21]

(10b) Trên đời này có ba loại bạn: có bạn giống như thức ăn, thiếu nó ta không thể sống; có bạn giống như thuốc men, đôi khi ta có thể cần đến; và có bạn giống như bệnh tật, ta không bao giờ muốn dính vào.

Đáng chú ý trong câu danh ngôn trên, có sự kết hợp giữa phương tiện tu từ so sánh hiển ngôn và phép lặp thể hiện ở cụm từ those like. Cụm từ này vẫn được người dịch áp dụng phương thức dịch nguyên văn thành cụm từ ở ngôn ngữ đích có bạn giống như nhằm tái tạo lại chức năng nhấn mạnh ý và tạo ra hình ảnh mới mẻ cho đối tượng. 3.5. Biến thái (Modulation)

• Nhân hóa (Personification) (11a) A real friend is one who walks in when the rest of the world walks out. [10, tr. 70] (11b) Người bạn thực sự là người bước vào khi cả thế giới bước ra. Cụm từ chứa biện pháp tu từ nhân hoá trong câu danh

ngôn (11a) được tái tạo lại trong câu dịch (11b) nhờ vào phương thức dịch biến thái. Tuy phương thức này làm biến đổi ý nghĩa của chủ thể thực hiện hành động phần còn lại của thế giới (the rest of the world) thành cả thế giới (the whole world), nhưng lại không làm mất đi biện pháp nhân hoá trong câu dịch (11b). 3.6. Chú giải (Paraphrase)

Đây được xem là một trong những phương thức tạo ra hiện tượng thêm thông tin trong dịch thuật (gain of information). Khi người dịch sử dụng phương thức này, những từ hoặc cụm từ của ngôn ngữ nguồn sẽ được mở rộng thêm về nghĩa (an amplification of the meaning) [6, tr. 90] trong ngôn ngữ đích. Điều này cũng dẫn đến sự xuất hiện của hiện tượng thêm thông tin trong dịch thuật (gain of information); khi một từ hay cụm từ được giải thích rõ ràng hơn thì ý nghĩa của cụm từ đó trong ngôn ngữ đích sẽ mở rộng và số lượng từ hoặc cụm từ cũng sẽ tăng theo. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy phương thức chú giải được người dịch áp dụng cho câu danh ngôn có chứa biện pháp ẩn dụ và nhân hoá.

• Ẩn dụ (Metaphor) (12a) Friendship is a general and universal fire, but

temperate and equal, a constant established heat, all gentle and smooth, without poignancy or roughness. [10, tr. 10]

(12b) Tình bạn là ngọn lửa mà hầu như mọi người ai cũng có, một nguồn sưởi ấm liên tục, ôn hòa, êm dịu, nhẹ nhàng, không bao giờ gây đau đớn hoặc thô bạo.

Trong ví dụ trên, hình ảnh ẩn dụ a general and universal fire của ngôn ngữ nguồn được làm rõ nghĩa hơn trong ngôn ngữ đích với cụm từ ngọn lửa mà hầu như mọi người ai cũng có. Theo Trần Ngọc Thêm [8], văn hóa Việt Nam là văn hóa cộng đồng (collectivistic culture) đối lập với văn hóa cá nhân (individualistic culture) của phương Tây. Người Việt xem trọng tính tập thể và thường bị ảnh

hưởng từ hiệu ứng đám đông, do đó có xu hướng giao tiếp và hiểu nhau dựa trên nền tảng ngữ cảnh chung. Cụm từ hầu như mọi người ai cũng có sẽ tạo cho người đọc của ngôn ngữ đích một cảm giác gần gũi, thân quen vì họ đều muốn chia sẻ nhiều điểm chung trong một cộng đồng.

• Nhân hóa (Personification) (13a) Prosperity makes friends, adversity tries them. [9, tr. 89] (13b) Giàu có tạo nhiều bạn, cảnh khó thử tấm lòng của họ. Trong ví dụ nêu trên, động từ makes và tries được chia

theo ngôi của những danh từ trừu tượng lần lượt là prosperity và adversity nhằm biến chúng thành chủ thể hành động, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Đáng chú ý ở câu dịch (13b) có tăng thêm từ tấm lòng vốn dĩ không tồn tại trong câu gốc (13a). Như vậy chúng ta có thể thấy hiện tượng thêm thông tin trong dịch thuật cũng chính là kết quả của việc áp dụng phương thức dịch chú giải.

3.7. Rút gọn (Reduction) Đây là phương thức giúp người dịch rút gọn hoặc lược

bỏ những từ hoặc cụm từ không cần thiết trong ngôn ngữ đích. Bảng 2 cho thấy phương thức rút gọn tạo ra cả thảy N=11 hiện tượng mất thông tin trong dịch thuật.

• Ẩn dụ (Metaphor) (14a) When friendship is once rooted fast, it is a plant no storm can blast. [10, tr. 85] (14b) Một khi tình bạn đã nhanh chóng bén rễ Ø thì không một cơn bão nào có thể bứng nó lên nổi. Trong câu danh ngôn tiếng Anh trên, hình tượng ẩn dụ

a plant đã bị người dịch lược bỏ trong câu dịch tiếng Việt. Tuy nhiên điều đó không làm thay đổi hàm ý của câu gốc. Theo biểu đồ cấp độ ngữ cảnh (level of context) [3], thì tiếng Việt thuộc văn hoá ngữ cảnh cao (high-context culture), trong khi đó tiếng Anh là ngôn ngữ ngữ cảnh thấp (low-context culture), do vậy người Việt ưa chuộng cách nói bóng gió mang nhiều ẩn ý hơn là cách nói trực tiếp của người phương Tây. Do đó việc hình tượng ẩn dụ một cái cây (a plant) bị mất đi, nhưng những từ ngữ như bén rễ, cơn bão, bứng cũng đủ để tạo ra một sự liên kết chặt chẽ về hình tượng ẩn dụ mà tác giả hướng người đọc nghĩ đến nó.

• So sánh hiển ngôn (Simile) (15a) Friendship is unnecessary, like philosophy, like

art. It has no survival value; rather it is one of those things that give value to survival. [10, tr. 12]

(15b) Tình bạn là một khái niệm xa xỉ, giống như triết học hay Ø nghệ thuật. Nó không có giá trị sống còn, mà nó là một trong những điều đem lại giá trị cho sự sống còn.

Trong ví dụ trên có sự kết hợp giữa phương tiện so sánh hiển ngôn like và phép lặp. Tuy nhiên nếu dịch nguyên văn thì sẽ làm câu văn lủng củng. Đó là lý do người dịch sử dụng phương thức rút gọn để bỏ bớt một từ giống như (like) trong câu dịch tiếng Việt (15b).

• Phép lặp (Repetition) (16a) In this world, where everything seems uncertain,

only one thing is definite. You will always be my friend,

Page 102: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

98 Lâm Quốc Thịnh, Hồ Thị Kiều Oanh

beyond words, beyond time and beyond distance! [10, tr. 86]

(16b) Trên thế gian này, nơi mà mọi thứ dường như mong manh, chỉ một điều chắc chắn. bạn sẽ luôn mãi là bạn của tôi, vượt qua mọi ngôn từ, Ø thời gian và Ø khoảng cách.

Đối với những câu danh ngôn tiếng Anh nói chung chứa phép lặp cũng vậy, đôi khi những từ được lặp lại khi được dịch nguyên văn sang tiếng Việt sẽ không tạo ra hiệu ứng nhấn mạnh mà trái lại còn làm người đọc cảm thấy dài dòng. 3.8. Đồng nghĩa (Synonymy)

Newmark [6, tr. 84] cho rằng phương thức đồng nghĩa được sử dụng thay thế cho từ ngữ của ngôn ngữ nguồn khi từ đó không có từ dịch tương đương trong ngôn ngữ đích. Tuy nhiên trong một số trường hợp của danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn, chúng tôi nhận thấy người dịch vẫn sử dụng phương thức đồng nghĩa với mục đích tạo ra câu dịch có văn phong phù hợp với người đọc của ngôn ngữ đích hơn. Bảng 2 còn cho thấy tần số xuất hiện của hiện tượng thêm thông tin trong dịch thuật (gain of information) gây ra bởi phương thức đồng nghĩa và chú giải là N=6.

• Nhân hóa (Personification) (17a) The shifts of fortune test the reliability of friends. [9, tr. 89] (17b) Biến đổi thành giàu sang cho thấy tấm lòng tin cậy của bạn bè. Trong trường hợp trên, động từ test được chia theo

cụm danh từ the shifts of fortune đã tạo ra biện pháp nhân hóa cho câu (17a). Động từ này mặc dù vẫn có từ dịch tương đương trong tiếng Việt, người dịch vẫn sử dụng từ đồng nghĩa của nó để đưa vào câu dịch (17b). Động từ cho thấy diễn tả một tình trạng rõ ràng của mọi sự vật, sự việc góp phần làm cho câu dịch tiếng Việt có sức thuyết phục hơn.

• Phép lặp (Repetition) (18a) Anyone can sympathize with the suffering of a

friend, but it requires a very fine nature to sympathize with a friend’s success. [10, tr. 79]

(18b) Bất kỳ ai cũng có thể thông cảm với những nỗi khổ đau của một người bạn, nhưng để có thể vui chung với thành công của bạn mình thì cần phải có một bản tính tử tế.

Cụm động từ sympathize with được lặp lại hai lần trong câu danh ngôn (18a) nhằm tạo ra điểm nhấn cho câu. Tuy nhiên trong câu dịch tiếng Việt (18b), người dịch đã khéo léo sử dụng phương thức đồng nghĩa để tạo thành hai cụm từ phù hợp với ngữ cảnh của từng vế trong câu dịch. Cụ thể là đối với ngữ cảnh đau buồn thì cụm động từ sympathize with được dịch thành động từ thông cảm; ngữ cảnh có thành công của bạn mình thì sympathize with được dịch thành vui chung trong câu dịch (19b).

3.9. Chuyển đổi vị trí (Transposition) Đây là phương thức dịch liên quan đến sự thay đổi cấu

trúc ngữ pháp trong quá trình chuyển dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích [6, tr. 85].

• Nhân hóa (Personification) (19a) Fame is the scentless sunflower, with gaudy crown of gold. But friendship is the breathing rose, with sweets in every fold. [10, tr. 15] (19b) Danh tiếng là đóa hướng dương đội chiếc vương miện vàng rực nhưng không mùi hương. Còn tình bạn là đóa hoa hồng phập phồng thở, từng cánh mỏng đều tỏa hương thơm ngát. Cụm danh từ the breathing rose trong câu (19a) khi

được dịch sang tiếng Việt lại trở thành một mệnh đề có đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ: đóa hoa hồng phập phồng thở. Trong quá trình chuyển dịch trên, vị trí của bổ ngữ phập phồng thở đã thay đổi thành đứng sau danh từ đóa hoa hồng (rose) thay vì đứng trước đóa hoa hồng (rose) như ở ví dụ (19a). Như vậy, với việc sử dụng phương thức chuyển đổi vị trí để thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu (19a), người dịch cũng đồng thời thêm vào từ phập phồng để tạo ra một biện pháp tu từ nhân hóa vô cùng sống động trong câu dịch (19b).

4. Kết luận Với những kết quả rút ra từ nghiên cứu và khảo sát các

phương thức dịch sang tiếng Việt danh ngôn tiếng Anh diễn đạt tình bạn tương quan với các biện pháp tu từ, bài viết hy vọng có thể góp phần giúp cho người học, người dạy tiếng Anh và tiếng Việt hiểu sâu hơn về cách các phương thức dịch cũng như sự khác biệt về đặc trưng văn hóa giữa các ngôn ngữ gây nên sự thay đổi của những đơn vị ngôn ngữ và chính điều này có thể mang lại giá trị nghệ thuật đỉnh điểm thông qua biện pháp tu từ trong quá trình chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Augarde, T., The Oxford Dictionary of Modern Quotations, Oxford

University Press, 1991. [2] Bassnett, S., Translation Studies (3rdEd.), Routledge, 2002. [3] Copeland, L., & Griggs, L., Going International: How to Make

Friends and Deal Effectively in the Global Marketplace, Plume, 1986.

[4] Galperin, I. R., Stylistics. Higher School Publishing House, 1977. [5] Knowles, E., Oxford Dictionary of Quotations (8th Ed.), Oxford

University Press, 2014. [6] Newmark, P., A Textbook of Translation, Prentice Hall, 1988. [7] Đinh Trọng Lạc, 99 Phương tiện và Biện pháp Tu từ tiếng Việt, NXB

Giáo dục, 1994. [8] Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999.

TƯ LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Bá, Danh ngôn Anh ngữ, NXB Tổng hợp Đồng Nai,

2009. [2] Tiên Lý, 102 Tình bạn, NXB Trẻ, 2014.

(BBT nhận bài: 10/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 09/12/2016)

Page 103: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 99

NGÔN NGỮ MANG CHỨC NĂNG PHÁN XÉT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO BẢN TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH LANGUAGE OF JUDMENT IN NAM CAO’S SHORT STORIES AND THEIR ENGLISH

TRANSLATIONAL EQUIVALENTS

Võ Nguyễn Thùy Trang Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Bài báo phân tích ngôn ngữ với chức năng phán xétđược sử dụng trong bảy truyện ngắn điển hình của nhà văn NamCao và bản dịch tiếng Anh. Theo hướng tiếp cận mới dựa trên Lýthuyết Thẩm định, đánh giá ngôn ngữ (Appraisal Theory) củaMartin & White (2005), kết hợp cùng phương pháp mô tả các thôngtin định tính và định lượng, văn bản mang giá trị phán xét đượcnhận diện, phân loại theo năm phạm trù ngữ nghĩa khác nhau; thểhiện dưới hình thức văn bản biểu thái và dấu hiệu biểu thái với cácđặc điểm từ vựng khác nhau. Thông qua kết quả nghiên cứu, hyvọng rằng bài báo sẽ cung cấp cho người học những kiến thức cơbản để hiểu và sử dụng ngôn ngữ phán xét trong đọc hiểu, viết vàdịch thuật văn bản. Đồng thời nó cũng là một tư liệu tham khảo chonhững người làm công tác giảng dạy ngôn ngữ.

Abstract - This article analyses the use of language of Judgment in seven short stories by Nam Cao and their English translational equivalents. Semantically, in the light of Appraisal Theory (Martin & White, 2005), the study reveals that Judgment expressions are realized in five sub-types, namely Normality, Capacity, Tenacity, Veracity, and Propriety; all these expressions can be explicit or implicit with different word classes. The study makes use of both qualitative and quantitative information employing descriptive method. On the basis of the findings, the article puts forward several implications and suggestions on comprehending, translating the language of Judgment as well as learning and teaching English through language of Judgment in particular and Appraisal language in general

Từ khóa - giá trị phán xét; thẩm định; văn bản biểu thái; dấu hiệubiểu thái; ngôn ngữ

Key words - judgment; appraisal; explicit; implicit; language

1. Đặt vấn đề

Trong đời sống văn học, tác phẩm văn học là nghệ thuật của ngôn từ, biểu đạt cho tính hiệu thẩm mĩ, thể hiện quan điểm lập trường của người nghệ sĩ. Điển hình như trong các truyện ngắn được viết trước và sau Cách Mạng tháng Tám của nhà văn Nam Cao, ngôn ngữ mang chức năng phán xét (Judgment) được sử dụng rất sắc sảo, bộc lộ công khai và chính thức các quan điểm, thái độ của tác giả đối với các vấn đề xã hội và con người thời bấy giờ. Vì thế, việc phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa của ngôn ngữ phán xét là điều rất cần thiết trong đọc hiểu văn bản nói chung và các tác phẩm văn học nói riêng. Bên cạnh đó, việc dịch thuật một tác phẩm văn học quả thật không dễ dàng bởi dịch giả phải biết cách để không chỉ giữ được nội dung cốt lõi của bản nguyên tác mà còn phải truyền tải được những tư tưởng quan điểm của tác giả khi chuyển sang ngôn ngữ đích, để người đọc có thể lĩnh hội được hết thông điệp đánh giá mà tác phẩm muốn truyền tải. Khi đó, việc tiến hành phân tích thẩm định, đánh giá ngôn ngữ mang chức năng phán xét giữa bản gốc tiếng Việt và bản dịch tiếng Anh là điều rất cần thiết.

Chức năng phán xét là một phạm trù con của phạm trù Thái độ (Attitude) – một trong ba yếu tố của bộ khung thẩm định, đánh giá trong ngôn ngữ được đề cập bởi Martin và các đồng sự của ông. Khi điểm lại các nghiên cứu về lĩnh vực có liên quan đến phân tích thẩm định nói chung, phân tích ngôn ngữ chức năng phán xét nói riêng, chúng ta không thể không nhắc đến các tác giả có uy tín như Rothery và Stenglin (2000) với công trình nghiên cứu về vai trò của phân tích thẩm định, ngôn ngữ phán xét trong văn học. Bên cạnh đó, Neviarouskaya, Predinger và Ishizuka (2010) cũng khảo sát về cách nhận biết các chức năng biểu cảm, phán xét. Ở Việt Nam, những tác giả như Nguyễn Văn Khôi (2006), Trần Thị Ly (2015) đã có những bài nghiên

cứu về đặc điểm ngữ nghĩa của ngôn ngữ bày tỏ thái độ. Tuy nhiên, khi điểm qua tất cả các công trình nghiên cứu ở trên, vấn đề phân tích ngôn ngữ phán xét trong các truyện ngắn vẫn chưa được triển khai một cách thấu đáo về vấn đề tổ chức phân bố các đơn vị ngôn ngữ với chức năng thẩm định đánh giá. Vì vậy bài báo hi vọng bổ sung một số phát hiện về việc kết hợp 2 mô hình chức năng và thẩm định phán xét trong mảng nghiên cứu này.

2. Cơ sở lý thuyết Lý thuyết về ngôn ngữ đánh giá và bộ khung thẩm định

ngôn ngữ trong “The Language of Evaluation: Appraisal in English” của Martin and White (2005) là cơ sở lý luận cơ bản nhất được vận dụng vào phân tích văn bản trong bài nghiên cứu này. Theo các học giả này, Bộ khung thẩm định bao gồm ba phạm trù chính là Thái độ (Attitude), Thỏa hiệp (Engagement), và Thang độ (Graduation). Cụ thể hơn, phạm trù ngữ nghĩa Thái độ được phân tách thành các trường nghĩa chi tiết hơn là Tác động (Affect), Đánh giá (Appreciation) và Phán xét (Judgment)

Ở bài nghiên cứu này, ngôn ngữ mang chức năng phán xét được lựa chọn để phân tích.

Phán xét (Judgment): khác với phạm trù đánh giá (Appreciation) thể hiện thái độ trước các sự kiện, sự việc và đặc điểm ngoại hình của con người, ngôn ngữ Phán xét (Judgment) lại thể hiện thái độ đánh giá về các hành vi và cá tính của con người bằng cách quy chiếu vào một hệ thống chuẩn mực xã hội được quy ước hóa hoặc thiết chế hóa. Nó liên quan đến các thái độ nhận xét về một hành vi ứng xử: ái mộ hoặc chỉ trích, ca ngợi hoặc lên án một cá nhân nào đó và hành vi của họ. Phán xét được phân thành 5 nhóm trên tiêu chí: (i) Bình thường (Normality); (ii) Khả năng (Capacity); (iii) Kiên trì (Tenacity); (iv) Chân thật (Veracity) và (v) Khuôn phép (Propreity).

Page 104: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

100 Võ Nguyễn Thùy Trang

Các loại phán xét này mang ý nghĩa hoặc tích cực hoặc tiêu cực và được thể hiện dưới hai hình thức thông qua văn bản biểu thái (attitudinal inscription) hoặc văn bản mang dấu hiệu biểu thái (attitudinal token).

Phán xét có thể được mã hóa trong một bộ khung bằng cách xem tác thể của cảm xúc (emoter) như một tác thể thẩm định (appraiser) và bị thể thẩm định (appraised) là người hoặc vật bị / được thẩm định / phán xét.

3. Giải quyết vấn đề 3.1. Phương pháp nghiên cứu

Về phương pháp, chúng tôi sử dụng phương pháp mô tả, phân tích định tính với vai trò chủ đạo, bên cạnh đó, dữ liệu định lượng được dùng như các thành tố bổ sung cho việc diễn giải về tấn suất sử dụng các ngôn ngữ phán xét dưới hình thức hiển ngôn và hàm ngôn. 3.2. Nguồn dữ liệu

Văn bản tiếng Việt: gồm bảy truyện ngắn điển hình của tác giả Nam Cao: Chí Phèo (Chi Pheo), Đôi mắt (The Eyes), Đời Thừa (An unworthy life), Lão Hạc (Old Hac), Mua nhà (Buying House), Trăng sáng (In the Moon Light), và Nhật ký ở rừng (In the Jungle). Do tính chất dễ nhập liệu và xử lý văn bản nên tôi chọn nguồn dữ liệu trên các trang web trực tuyến.

Văn bản dịch tiếng Anh: Các truyện ngắn cũng do chính tác giả Nam Cao dịch sang tiếng Anh, được tác gia Nguyễn Đình Thi giới thiệu trong ấn phẩm “Nam Cao, Chi Pheo and other stories” xuất bản tại Red River Foreign Languages Publishing House, Hà Nội, năm 1983.

Trong quá trình thu thập dữ liệu, 350 mẫu từ 7 tác phẩm truyện ngắn được chọn, bao gồm 200 mẫu chứa ngôn ngữ mang chức năng phán xét (Judgment) và 150 mẫu chứa ngôn ngữ mang chức năng đánh giá (Appreciation). Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn của bài báo chỉ đề cập đến ngôn ngữ phán xét, thêm vào đó là sự trùng lập về ngôn ngữ phán xét trong các mẫu được chọn, nên sau quá trình phân tích dữ liệu, tác giả chọn 150 mẫu có các từ, ngữ và cú chứa giá trị phán xét.

4. Kết quả nghiên cứu và bình luận Kết quả cho thấy ngôn ngữ phán xét có thể biểu hiện

dưới hai hình thức là văn bản biểu thái và dấu hiệu biểu thái, ở các phạm trù ngữ nghĩa chuyên biệt với cả hai mặt ý nghĩa tích cực và tiêu cực. Các nội dung này sẽ được trình bày cụ thể trong các phần dưới đây.

Chúng tôi sử dụng từ viết tắt cho một số diễn đạt như: thẩm định = tđ, tác thể thẩm định = Tttđ, bị thể thẩm định = Bttđ, ý nghĩa = Yng 4.1. Văn bản biểu thái

Trong trường hợp này, giá trị phán xét được nhận diện thông qua văn bản biểu thái thể hiện rõ ràng thái độ của tác thể thẩm định. Việc sử dụng các hành động tạo ngôn gắn liền với một giá trị biểu thị thái độ (sự phán xét tích cực hoặc tiêu cực) thể hiện trong văn bản. Giọng điệu của một người trần thuật có thể đồng hành cùng một nhân vật này hoặc một nhân vật khác trong một câu chuyện và việc phân tích tác thể thẩm định có thể sẽ phải được điều chỉnh. Kết

quả phân tích cho thấy hầu hết các mẫu khảo sát về văn bản mang giá trị phán xét được tìm thấy trong bảy truyện ngắn của Nam Cao là văn bản biểu thái. Điển hình như trong các ví dụ:

(1) Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo, một thằng hiền lành như đất… [Chí Phèo]

Now it was Chi Pheo who was a nuisance to him. He had been as meek as a lamb. [3, tr.32]

(2) Ðiền thấy mình ích kỷ. Sự nghiệp mà làm gì nữa? Bổn phận Ðiền phải nghĩ đến gia đình. [Trăng sáng]

Dien understood that he had acted selfishly. What was the good of continuing this vocation instead of thinking of family? He must rebuild his family. [3, tr.119]

Trong hai ví dụ trên, người đọc có thể dễ dàng nhận ra thái độ phán xét ái mộ, cảm thông và phê phán của tác thể thẩm định thông qua việc sử dụng các văn bản biểu thái mang tính hiển ngôn ở cả hai văn bản Tiếng Việt và tiếng Anh. Cụ thể hơn, qua tính từ “hiền lành như đất – as meek as a lamb”, tác giả thể hiện niềm cảm thông với nhân vật Chí Phèo – đã từng là anh nông dân chất phác, hiền hậu nhưng nay lại thay đổi bản tính. Tương tự ở ví dụ (2), tính từ “ích kỷ” trong bản tiếng Việt được dịch tương đương về nghĩa nhưng khác hình thức từ vựng trong bản tiếng Anh là “selfishly”, qua đó tác giả tự để Tttđ là Điền tự vấn lương tâm của chính mình.

Bảng 1. Phán xét hiển ngôn

VD Chi tiết tđ Tttđ Bttđ Yng

(1) hiền lành như đất Tác

giả tính cách của Chí Phèo (+)

as meek as a lamb

(2) ích kỷ

Điền nhân cách của Điền (-)

selfishly

4.2. Dấu hiệu biểu thái Trong bảy truyện ngắn của nhà văn Nam Cao, một số

văn bản mang chức năng phán xét không được thể hiện một cách hiển ngôn mà được hiểu thông qua các dấu hiệu biểu thái. Để kết luận nó là lời phán xét tích cực hay tiêu cực, người đọc thường phải dựa vào ngữ cảnh của diễn ngôn và suy diễn ra ý nghĩa mà nó hàm ý. Xem xét các ví dụ về thái độ được phân tích:

Bảng 2. Phán xét hàm ngôn

VD Dấu hiệu biểu thái Bttđ Chi tiết tđ được suy diễn

Yng

(3)

Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái nước gì mà chịu lép như trấu thế?

Bá Kiến

Bá Kiến là một người tham lam, kiêu ngạo.

(-) This pig of an Honourable Kien who passed his life in plundering the people, why did he grovel before him?

Page 105: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 101

(4)

Người Mán không bắt người cách mạng. Người Mán đã cưu mang người cách mạng. Người

Mán

Người Mán là những người rất tốt bụng, hiền lành.

(+) The Mans had not arrested the revolutionaries but helped them.

Trong tổng số 150 mẫu ví dụ từ bảy truyện ngắn được lựa chọn để khảo sát về văn bản mang giá trị phán xét, gần hai phần ba số lượng các giá trị phán xét này được thể hiện ở dạng văn bản biểu thái. Điều đó cho thấy tác giả có khuynh hướng thể hiện công khai các quan điểm thái độ của mình trước những hành vi, thái độ ứng xử của các đối tượng trong xã hội đương thời, giúp người đọc hiểu và lĩnh hội văn bản một cách dễ dàng.

Bảng 3. Văn bản biểu thái và dấu hiệu biểu thái mang giá trị phán xét

Văn bản biểu thái Tỉ lệ Dấu hiệu

biểu thái Tỉ lệ Tổng

phán xét 103 68,7% 47 31,3% 150

4.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của ngôn ngữ phán xét Theo Martin và White [2, tr.34 – 38], phạm trù phán xét

bao gồm năm phạm trù con: phán xét về tính chất bình thường, khả năng, kiên trì dựa trên các chuẩn mực về nhận thức và năng lực của con người, ngược lại, nhóm phán xét tính Chân thật và Khuôn phép lại dựa trên các chuẩn mực đạo đức được xã hội quy ước. 4.3.1. Phán xét: Bình thường (Normality)

Giá trị phán xét ‘bình thường’ đánh giá rằng hành vi ứng xử của ai đó là bình thường, theo lẽ tự nhiên (tích cực) hoặc bất thường (tiêu cực), qua các diễn đạt như bình thường / không bình thường (un/normal), may mắn / xui rủi (un/lucky), không may (hapless), v.v... Xét các ví dụ:

(5) Sau Tổng khởi nghĩa, anh Hoàng đối với tôi đột nhiên nhạt hẳn đi. [Đôi Mắt]

After the August Revolution, Hoang’s attitude toward me cooled down suddenly and completely. [3, tr.185]

(6) Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. [Chí Phèo]

He may not know that he is a cruel devil sowing terror in Vu Dai village. [3, tr.41]

Cả hai ví dụ trên đều thể hiện thái độ phán xét tiêu cực, chê trách hành vi ứng xử bất thường, được thể hiện bằng cụm trạng từ “đột nhiên nhạt hẳn đi” của Hoàng với Độ trong tác phẩm Đôi Mắt, và chỉ trích những hành động mất tính người, dị biệt so với những người xung quanh của bị thể thẩm định Chí Phèo qua cụm danh từ ‘con quỷ dữ’. Lần lượt, những phán xét này được dịch sang tiếng Anh theo sát về nghĩa và đặc điểm từ vựng qua các diễn đạt “a cruel devil và cooled down suddenly and completey”. 4.3.2. Phán xét: Khả năng (Capacity)

Giá trị phán xét ‘khả năng’ đánh giá năng lực về trí tuệ, sự trải nghiệm của con người, thường được nhận diện bởi

các diễn đạt như non dại/ kinh nghiệm (in/experienced), khéo léo/tinh vi (clever), đần độn (stupid), v.v... Xét các ví dụ :

(7) Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này. [Lão Hạc]

He was old. His son was away and still inexperienced. [3, tr.77]

(8) Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. [Đôi Mắt]

Hoang was a writer and at the same time a cunning blackmarketer. [3, tr.182]

(9) Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. [Chí Phèo]

At first glance, Honourable Kien understood what had happened. He had witnessed many scenes of this kind during his career. [3, tr.23]

Ở ví dụ (7), tính từ ‘dại lắm – inexperienced’ được sử dụng mang chức năng phán xét về sự thiếu chính chắn, trưởng thành của bị thể thẩm định - con trai Lão Hạc. Tương tự, cụm danh từ ‘một tay chợ đen rất tài tình – a cunning blackmarketer’ thoạt nghe như một sự ca ngợi tài năng của nhà văn Hoàng, nhưng theo ngữ cảnh của câu truyện, thì đây lại là một phán xét mỉa mai, chỉ trích khả năng toan tính, luồn lách của ông Hoàng trong thời cuộc loạn lạc lúc bấy giờ. Tương tự, ở ví dụ (9), câu văn chứa đựng động từ “hiểu – understood” trong ngữ cảnh “thoáng nhìn qua – at first glance” diễn tả sự khôn ngoan, già đời của Lý trưởng làng Vũ Đại, đồng thời thể hiện quan điểm thừa nhận về năng lực của những người làm trưởng làng như nhân vật Bá Kiến.

Bảng 4. Phán xét - Khả năng

VD Chi tiết tđ Tttđ Bttđ Yng

(7) dại lắm

Lão Hạc Đứa con trai (-) inexperienced

(8)

một tay chợ đen rất tài tình

Độ Khả năng của nhà văn Hoàng

(-) a cunning blackmarketer

(9) hiểu

Tác giả Bá Kiến (+) understand

4.3.3. Phán xét: Kiên trì (Tenacity) Giá trị phán xét ‘kiên trì’ đánh giá sự quyết tâm hay do

dự trước quyết định sẽ theo đuổi thực hiện hoặc không thực hiện một nhiệm vụ nào đó của con người. Ví dụ:

(10) Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao. [Đời Thừa]

Several times she wanted to stop looking after them so as to be able to work. She wanted to kill herself, but was too weak! [3, tr.90]

(11) Sau cùng chỉ còn có năm quyển, tôi nhất định, dù có phải chết cũng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng bán! [Lão Hạc]

Page 106: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

102 Võ Nguyễn Thùy Trang

At last only five remained and I was determined not to sell them, even if I should die or hunger. However, I had to sell them in the end! [3, tr.69]

Ở ví dụ (10) tác giả sử dụng tính từ ‘mềm yếu’ và được dịch theo từ vựng “weak” thể hiện phán xét tiêu cực về sự do dự, đắng đo của nhân vật Từ, không dám quyết tâm theo đuổi điều mình muốn làm. Ngược lại, trong tác phẩm Lão Hạc, động từ “nhất định” trong bản tiếng Việt thể hiện quyết tâm kiên quyết của bị thể thẩm định. Trong bản dịch tiếng Anh, người dịch lại sử dụng tính từ “determined”, tuy khác nhau về lớp từ vựng nhưng người dịch thuật đã cố gắng lựa chọn diễn đạt tương đồng về ý nghĩa với chức năng phán xét của bản gốc.

Bảng 5. Phán xét - Kiên trì

VD Chi tiết tđ Tttđ Bttđ Yng

(10) mềm yếu

Tác giả Từ (-) weak

(11) nhất định

Tác giả Tác giả (+) determined

4.3.4. Phán xét: Chân thật (Veracity) Trong các truyện ngắn của Nam Cao, ngôn ngữ với

chức năng phán xét Chân thật có tần số xuất hiện ít nhất so với các giá trị khác. Kết quả này một phần bắt nguồn từ nội dung truyền tải của tác giả không nhằm mục đích phán xét về tính cách thành thật hoặc lừa dối (truthful, honest, lying…) của các nhân vật trong tác phẩm.

(12) Nhưng bỗng hắn lại hơi ngần ngại; biết đâu cái lão cáo già này nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? [Chí Phèo]

But he hung back. The cunning old man could play him a nasty trick once in the house. [3, tr.26]

(13) “Lão làm bộ đấy! [Lão Hạc] “Old Hac is playing the honest man! [3, tr.80] Thông qua cụm danh từ ‘cái lão cáo già này’ hay

động từ ‘lừa’ cho thấy bị thể thẩm định - Bá Kiến là một người không chân thật, không giữ đúng lời hứa của mình, đây là những văn bản phán xét tiêu cực phê phán nhân cách của nhân vật. Tương tự, ở ví dụ (13), cụm diễn đạt “làm bộ” được dịch tương đương là “play the honest man” đều mang chức năng phán xét, thể hiện thấy độ phê phán của tác thể thẩm định là Binh Tư dành cho bị thể thẩm định là Lão Hạc khi Tư hiểu nhầm về nhân cách cao quý của Lão Hạc. 4.3.5. Phán xét: Khuôn phép (Propriety)

Giá trị phán xét ‘khuôn phép’ đánh giá các hành vi đạo đức của con người bằng cách quy chiếu vào một hệ thống chuẩn mực xã hội có sẵn và được thiết chế hóa theo pháp luật. Những cụm diễn đạt chúng ta thường gặp là không/có lễ độ (im/polite), cruel (độc ác), không/có phẩm hạnh (im/moral…),v.v...

(14) Vậy mà tôi cứ hậm hực mãi với tôi vì cái lẽ đã để mấy người bạn trông thấy cái cảnh bần bách của tôi như thế, chẳng hoá ra tôi là người nhỏ nhen? Vâng thì tôi là người nhỏ nhen! [Mua nhà]

But I always blame myself for letting my friends see my poverty. Is this petty-minded of me? [3, tr.102]

(15) Vợ chồng anh thi nhau kể tội người nhà quê đủ thứ. Toàn là những người đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả. [Đôi Mắt]

“All of them,” they said, “are stupid boisterous, selfish, covetous and miserable. [3, tr.191]

(16) Những ông trưởng, ông phó tự nhiên nghĩ bụng rằng: người ta có chồng rồi mà còn chàng màng thì phải tội; ai cũng sinh ra tử tế cả chỉ trừ anh Binh, bởi vì Chức bây giờ lại rất mực ngang ngược. [Chí Phèo]

Thereupon the notables even considered as a crime to pay their attentions to a married woman. Everybody became reasonable except Chuc whose impertinence was outrageous. [3, tr.31]

Các dẫn chứng nêu trên cho thấy khi tác thể thẩm định sử dụng các lối diễn đạt như ‘người nhỏ nhen – petty minded, lỗ mãng - boisterous, ích kỷ - selfish, tham lam - covetous’ thì giọng điệu trở nên chủ quan hơn. Các giá trị phán xét dành cho các bị thể thẩm định hầu hết đều mang ý nghĩa tiêu cực nhằm phê phán sự suy đồi về đạo đức của con người. Ngược lại, ở ví dụ (16), tính từ “tử tế - reasonable” thể hiện thái độ phán xét tích cực ca ngợi sự thay đổi tích cực trong hành vi đạo đức của những ông trưởng, ông phó lúc bấy giờ.

Bảng 6. Phán xét - Khuôn phép

VD Chi tiết tđ Tttđ Bttđ Yng

(14) người nhỏ nhen

Tác giả Tác giả (-) petty-minded

(15) lỗ mãng, ích kỷ

Tác giả Người nhà quê cũ (-) boisterous,

selfish

(16) tử tế Tác giả Ông trưởng,

phó (+) reasonable

4.4. Nhận xét về bản dịch tiếng Anh đối chiếu với bản dịch tiếng Việt

Qua phân tích văn bản tiếng Anh đối chiếu với văn bản tiếng Việt của nhà văn, đồng thời là dịch giả Nam Cao, chúng tôi nhận thấy dịch giả Nam Cao đã chọn phương pháp dịch ngữ nghĩa, tập trung chính vào việc trung thành truyền tải lại tư tưởng, thông điệp trong văn bản gốc tiếng Việt. Từ gốc độ thẩm định về ngôn ngữ mang chức năng phán xét, văn bản tiếng Anh có một số điểm tương đồng và khác biệt so với văn bản tiếng Việt như sau:

Thứ nhất, ở cả hai văn bản tiếng Việt và tiếng Anh, ngôn ngữ mang chức năng phán xét đều được thể hiện dưới hai hình thức hiển ngôn và hàm ngôn biểu thái. Tuy nhiên, một số mẫu văn bản phán xét chứa dấu hiệu biểu thái hàm ngôn ở tiếng Việt khi được dịch sang tiếng Anh trở thành văn bản hiển ngôn, ý nghĩa truyền tải được thể hiện rõ ràng trên bề mặt câu chữ giúp người đọc ngôn ngữ tiếng Anh có thể hiểu đúng hàm ý của tác phẩm gốc, tránh được những hiểu nhầm do yếu tố văn hóa vùng tác động. Ví dụ như:

Page 107: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 103

(17) Liên sẽ đổi, như tôi đã đổi. Phải bơi mới biết rằng mình bơi khỏe. Và thật ra, ai cũng bơi được cả. [Nhật ký ở rừng]

Lien will change her character just as I have changed mine. One must try to do something to realize that things are not so difficult to do. Everyone is able to fulfill his task. [3, tr.145]

Ở ví dụ này, cụm diễn đạt hàm ngôn “ai cũng bơi được” với thái độ phán xét ca ngợi khả năng tiềm ẩn của con người khi được dịch sang tiếng Anh, dịch giả sử dụng lối diễn đạt hiển ngôn “is able to fulfill his task” giúp người đọc lĩnh hội văn bản dễ dàng hơn.

Thứ hai, một số ít những cụm diễn đạt mang ý nghĩa phán xét ở văn bản tiếng Việt, ví dụ (18) “Thiên ơi! Cha sẽ mạnh dạn ném con vào cuộc đời và cuộc đời sẽ luyện con nhanh chóng hơn cha luyện. Con sẽ không chết. Con sẽ thành cứng rắn.” [Nhật ký ở rừng] thể hiện thái độ kiên quyết và đạo đức tốt đẹp của nhân vật lại bị lượt bỏ hẳn trong văn bản tiếng Anh. Hoặc như ví dụ (19) “Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi: “Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?” không hàm chứa ngôn ngữ phán xét về nhân vật Chi Phèo nhưng trong bản dịch tiếng Anh lại xuất hiện cụm diễn đạt phán xét, cụ thể là “The old man went over to Chi Pheo, and shook him gently “My good fellow, why do you behave like that?” [3, tr.24]. Điều này cho thấy xuất hiện hiện tượng thêm vào và tỉnh lượt (loss and gain) trong dịch thuật.

Về đặc điểm từ vựng mang chức năng phán xét, ở cả hai văn bản tiếng Việt và tiếng Anh đều sử dụng các lớp từ vựng ngữ danh từ, ngữ tính từ, ngữ động từ và trạng ngữ, trong đó ngữ tính từ được sử dụng với tầng suất nhiều nhất. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai văn bản tiếng Việt và tiếng Anh ở chỗ, khi dịch các cụm diễn đạt mang chức năng phán xét, dịch giả không quan tâm đến việc sử dụng cùng một lớp từ loại như trong văn bản tiếng Việt mà tập trung vào ưu tiên lựa chọn từ vựng có cùng trường nghĩa nhưng có thể khác nhau về mặt từ loại và bố cục cấu trúc các cụm diễn đạt trong câu. Xét ví dụ:

(20) Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác. [Chí Phèo]

The said mayor was Mr Cuong, Honourable Kien’s son, famous for his arrogance, who considered the villagers with about as much respect as for rotten thatch. [3, tr.22]

(21) Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân.

Very cleverly, he divided the people to be feared into two kinds: the dear-devil heroes and the pariahs driven to extremities. [3, tr.27]

Ở ví dụ (20), tính từ “hách dịch” ở bản gốc tiếng Việt được dịch lại đúng nghĩa nhưng dưới hình thức là ngữ danh từ. Tương tự ở ví dụ (21), có sự thay đổi về cả từ loại và cấu trúc. Cụ thể là tính từ phán xét“không róc đời” đóng chức năng bổ nghĩa nằm trong phần Thuyết của câu được dịch sang tiếng Anh trở thành phó từ về quan điểm, phán xét trong phần Đề của câu.

Bảng 7. Sự thay đổi từ loại từ tiếng Việt sang tiếng Anh

Từ loại được dịch từ Việt => Anh Số lượng

Tính từ => Danh từ 20

Danh từ => Tính từ 17

Động từ => Tính từ 22

Tính từ => Phó từ 15

Tính từ => Tính từ 45

Từ loại được dịch từ Việt => Anh Số lượng

Danh từ => Danh từ 31

Động từ => Động từ 23

5. Kết luận Nhìn chung các giá trị phán xét trong các truyện ngắn của

Nam Cao bản tiếng Việt và bản dịch tiếng Anh như vừa được phân tích ở trên đã phản ánh phần nào cách sử dụng ngôn ngữ rất xác đáng của tác giả khi muốn truyền tải thái độ, tư tưởng của mình. Từ những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra các kết luận: đầu tiên, các văn bản biểu thái mang giá trị phán xét và đánh giá được sử dụng phần lớn trong các tác phẩm truyện ngắn của Nam Cao; về mặt ngữ nghĩa, giá trị phán xét có các giá trị cụ thể hơn theo các trường nghĩa lần lượt là ‘bình thường, khả năng, kiên trì, chân thật, và khuôn phép thuộc giá trị phán xét; thêm vào đó, khi phân tích đối chiếu bảng dịch tiếng Anh so với bản gốc tiếng Việt, từ góc độ ngôn ngữ phán xét, một số mẫu hàm ngôn có dấu hiệu biểu thái khi được dịch sang tiếng Anh trở thành hiển ngôn và có sự thay đổi về mặt cấu trúc, từ loại mang chức năng phán xét.

Tuy còn một số hạn chế không thể tránh khỏi trong kết quả nghiên cứu, chúng tôi mong rằng đóng góp phần nào giúp người học và người dạy có thể nắm vững và phân biệt cách sử dụng ngôn ngữ phán xét, sử dụng chúng một cách hữu ích vào quá trình dạy và học ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Halliday, M. A. K., An Introduction to Functional Grammar, (3rd

Ed.), Hodder Arnold, London, (2004). [2] Martin, J. R. and White, P. R. R., The Language of Evaluation:

Appraisal in English, Palgrave, London, (2005). [3] Nam Cao, Chi Pheo and other stories, Red River Foreign Languages

Publishing House, Hanoi, (1983). [4] Neviarouskaya, E., Predinger, H. and Ishizuka, M. (2010),

“Recognition of Affect, Judgment and Appreciation in Text”, Proceedings of the 23rd International Conference on Computational Linguistics, COLIG (2010), pp. 806-814.

[5] Nguyễn Văn Khôi, A study of Proclaim Marker in English and Vietnamese, M.A. Thesis, the University of Danang (2006).

[6] Rothery, J. & Stenglin, M., “Interpreting Literature: The Role of Appraisal”, Researching Language in Schools and Functional Linguistic Perspectives, Unsworth, L. (Ed.), Cassell, London, (2000), pp. 222-244.

[7] Trần Thị Ly, An Investigation Into The Category Attitude in English and Vietnamese Articles Warning Against Childhood Epidemics From the Perspective of Appraisal Theory, Master thesis, the University of Danang, (2015).

[8] Diệp Quang Ban, Ngữ pháp Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam, (2009).

[9] Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp Chức năng (tái bản lần 1), Nhà xuất bản Giáo dục, Quảng Nam, (2004).

(BBT nhận bài: 12/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 22/02/2017)

Page 108: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

104 Nguyen Thanh Truong, Phan Vi Phuong Uyen

AESTHETIC FRAMES FROM TEXTS TO LITERARY WORKS – IN SEARCH OF “THE DIFFERENT” FOR THE ARTISTIC FATE

KHUNG THẨM MĨ TỪ VĂN BẢN ĐẾN TÁC PHẨM VĂN HỌC - MỘT SỰ TÌM KIẾM “CÁI KHÁC” CHO BẢN MỆNH NGHỆ THUẬT

Nguyen Thanh Truong1, Phan Vi Phuong Uyen2 1University of Education, The University of Da Nang; [email protected]

2Thanh Khe People’s Committee, Danang City

Tóm tắt - Việc định vị khung thẩm mĩ cho văn bản và tác phẩm vănhọc là hướng tới khám phá hình thái cấu trúc trong từng cấp độnghệ thuật. Theo đó, từ văn bản đến tác phẩm là một quá trìnhliên kết/qui chiếu/đan xen của nhiều hình thức diễn ngôn.Tuynhiên, nội hàm thẩm mĩ trong từng giao diện nghệ thuật lại đemđến những chỉ dấu không trùng khít.Tính chất khác biệt dựa trêncơ chế sinh thành khung tri thức thuộc về từng giai đoạn lịch sửcủa đối tượng là rộng hơn những gì lí thuyết tiếp nhận đã khuônđịnh.Vì thế, nhận diện khoảng cách thẩm mĩ ở mỗi hình thái bảnmệnh nghệ thuật trên trục dẫn tri thức khung là hướng nghiên cứucần thiết, góp phần xác lập thêm vai trò, chức năng cho văn bảnvà tác phẩm văn học.

Abstract - The location of aesthetic frames for texts and literary works is oriented towards discovering structural forms in every artistic level. Accordingly, the process from texts to literary works interweaves/coheres with/refers to various forms of discourse. However, the aesthetic connotation of each artistic interface results in some non-coincident cues. Different characteristics based on the formative mechanism of a knowledge frame in each historical period related to a subject are more extensive than those moulded by the theory of receptivity. Therefore, identifying an aesthetic distance in each form of art’s fate on the axis of frame knowlege is a research approach of great necessity, which contributes to the establishment of additional roles and functions for texts and literary works.

Từ khóa - khung thẩm mĩ; văn bản; tác phẩm văn học; kí hiệu ngônngữ; bản mệnh nghệ thuật; lí thuyết tiếp nhận.

Key words - aesthetic frame; text; literary work; linguistic sign; artistic fate; receptivity theory.

1. Introduction

In the view of modern theoretical thinking, twin nature in both structures of texts and literary works originates from practical and sign values. However, the connotation of value in each form of art brings back non-coincident cues. Distinction based on the mechanism for expressing subject meaning in each historical period is broader than what has been moulded by the theory of relativity. Therefore, defining aesthetic frame knowledge from texts to literary works in the interface of the fate of words/meanings is oriented towards the location of the existence of these two aspects in open limits, which reside in many receptive ranges of the flow of literary life.

2. Research Content 2.1. From texts’aestheic frame

Literary texts are constructed by means of an art-specific structure model in which every form of text organization always corresponds to an aesthetic frame. From this character there emerges a text formed on the primary and essential axis ofthe creator’s awareness. Here art elements are structuralized based on intentional and unintentional lead networks. Its primitive nature, which came into being through the subjective lens of its subjects and was deeply attached to language material bearing sign character, has verified potential fiction copyright in text structures. The function of extending these organs provide text with certain power – assertivenessin the depth of the subject’s nature. As a result, “a literary text is a collection of language signs with its own life and semantic power.” [7, p.272]. The range of existing components not only includes form-based sets but also represents many value frames. The operational mechanism of language-thinking is processed via many “deep-structure” complexes, bringing potential capacities to layers of signs. Also, in the

cues of information-communication forms, language signs are capable of creating their own meaning “according to their own laws” [4, p.47] wherein the implicatures of referential forms [meanings provided by the sign system] in cognitiveness/ characterization have built up an aesthetic field for texts. The process of forming new meaning-sense is the one in which the subject supplies the language with cohesion in interwoven relations of many discourse forms wherein the primary meanings in the connotation of language signs are no longer confined to many boundaries of specialized “dictionaries”/ reality refractions. khúc xạ hiện thực. Instead, marginal information/antithesis has overwhelmed intrinsic words/meanings. Formative symbiosis has urged language signs/ images marginalized in primary meaings to surpass their own structures and erode opposite semantic fields to modellize many aesthetic social relations inside and outside texts. Accordingly, “each word, apart from its meaning, its naming of objects, suddenly bursts out itself, extends, attracts unexpected images and emotions, generates an area of light (…). Each word is like a burning candle; candles arranged side by side create a joint area of light” [4, p.71]. This property proves that art language signs always fosters its own fusion of utterance/discourse power of image-based thinking. That is to say, the language of literary texts is not identical with language used in common communication but it is the langugae of art that employs language signs to form distances in the flow of meaning-sense. In other words, the property of endophora embedded potentially in the form of language signs functions as a catalyst that evokes sources of overwhelming emotionsfor the minds and souls of those who are appreciating the texts. Therefore, in the process of reflecting and extracting ideas, aesthetic emotions in the realm of formative words/meaning [under the form of

Page 109: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 105

supersubject], the creative subject has established art quality of the texts.

On the other hand, within the limited frame of literary texts, abstractness functions as a default property in the nature of signs, which do not lie outside the capability of orientating towards the establishment of a system of signs based on art rules. The institution of signs is not confined to the level of language but extended to the level of encoding images whereby layers of art language signs always play medium roles, which is demonstrated through corresponding layers of meaningamagamated on an axis: the signifier and the signified are capable of providing information about a scope of life reality. The property of conformity that belongs to the historical nature of language has brought classification to the normal sign system and the art sign system. Moreover, the formation of texts on the genre axis is always based on the following principle: the form comes into being on the basis of discourse organizations that belong to the aim of language art;the content dwells onthe object demonstrated through conventional discourse organizations in whichdiscourse nature will determine the status and artistic quality of text layers. However, whether these discourse organizations really become axes of aesthetic ideology or not depends much on the decision-making role of the subject. The creative subject in idea generation needs to meet with the receptive subject in expectation. The whole process of interaction between subject roles ranges from idea formation to the birth of the spiritual child in the fate of texts. As a result, all potential values for the signifier and the signified at discourse levels need to be combined with the spiritual awareness of the subject. Hence, the subject is a bridge between touching areas inside and outside a text [the realm of language includes discourse forms; the scope of objects belong to life]. All operational mechanisms depend on aesthetic awareness in the frame of art thinking of the subject in which intersection is placed in strategic interaction. This property has stimulated language sign quality to exist in texts that bear features of metalanguages.

Locating a text from language sign conventions to what belongs to value conventions is a process of identifying the nature of an object that does not follow one-way programming. What matters is that reality and text belong to two value frames. A text is greatly impacted by its creator’s intention - the creative subject who writes about occurrences in the life of a text which is more or less imprinted on the surface of the text due to the subject’s intention. Therefore, texts are always a matter of concern to readers who are in the mood of receiving messages sent by writers, but texts are not so comprehensive as expected and do not satisfy all related requirements. Unrealistic reception is undeniable, for the nature of texts are“fictional”. This default feature appears, forming on the peripheral axis of speech – discourse organizations in texts that are initially assigned aesthetic features by the creative subject. This implicitly acknowleges single properties in sign layers on a text which is supposed to have been completed as the artist finished writing the last page. However, this is only an initial value [all values that

connect language signs together inside a text are always representations of primary meaning. That is to say, what the writer has created via the channel of language material is only an incomplete or unfinished product of programming. Consequently, the utterances of creative subjects cannot be identical with those of subjects as objects.

In literary texts, creative subjects are always aware of quantifying a certain distance to communicative contexts. Filling this are sequences of strategic utterances by speakers [narrators/ characters/ lyrical images…] created by creative subjects. This form occurs in texts for the purpose of explaining certain communicative activities. That distinct characteristic proves that all relations in life that take place in the aesthetic frame always exist, grow in a world of imagination – an extended product of art games in which all fictional links have asserted the aesthetic depth of literary texts distinguished from pragmatic ones. Literary texts are home to the world of art. This world has been built up on the foundation of language art [made up from a system of signs/ markings/ art codes]. The conformity on the axis of language-thinking is started on many levels: images – ideas – symbols – hidden symbols – legendary symbols. The subject’s creative power has verified the copyright of the superstatus subject that projects the creative ego with a strong personality in “reality restructuring” – provides language signs with aesthetic power in building a world of images. In other words, the structure of images existing in texts in distinctive.And on the foundation of discourse organizations – lrimary language and secondary language [meta language] came a world of art operating on many slices of the aesthetic space, not just merely a “reflection” of objects.

The problem of managing to identify meaning layers in texts requires the establishment of a value schema. There is no denying that there are obstacles in following the system of frame theory thinking, for there is more than one text layer involving more than one relation responsible for its formation. One noticeable point in identifying frame knowledge elements that build up power for texts is to localize non-central discourse organizations, i.e. “peripheralization, or opening borders, crossing borders (…). Reading literature is also a process of peripheralization.”[3, p.335], which is orientated towards establishing dialogue structures based on criteria of levelsof aesthetic code – signs including many layers of meaning via coordinate axes constructing images and scope of contact, thereby forming a network of aesthetic power. Accordingly, the communication and transmission property of language signals–aesthetic code/ signs has proved that from reality to text is a process. This is the process of handling/interpretating reality by the subjectwhen allocating the sign system the first identity card in art life interface wherein systems of aesthetic signals – aesthetic art codes accumulate/absorb each other in many “open” spaces have formed discourse organizations that exist/reside in many unspecified spots that belong to structures in side and outside texts. This

Page 110: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

106 Nguyen Thanh Truong, Phan Vi Phuong Uyen

characteristic has involved/ explained aesthetic social relations that form value fields for many text interfaces. Therefore, the issue of meaning/sense always include fragments penetrating through text spirit. It is made up from countless realtions/interactions with both the front and the back of a text. The nature of each meaning is located based on themes/topics/thoughts/inspirations and aesthetic forms are structural nuclei that form the aestheic frame for the fate of art.

To sum up, the formation of the knowledge frame for texts is a process whereby the aesthetic subject reestablishes more than one art paths. In terms of their forms, texts must generate innumerable variable functions among the waves of language. In terms of their spirit, texts form an operational mechanism for signs/markings in their perfect whole quality. This distance shows many differences that accounts for no absolute coincidence between a text frame and reality. Because reality is an intersection point for all initial contacts, which belongs to objects. Texts lie in the reference area of sign/marking layers – forms/meanings are provided by interaction between transcendent subjects and objects of reflection. Among these, the spirit and consciousness of the subjects belong to the subjective. Nature-based properties have focalized the journey to seek discourse meaning for texts in many open interfaces. As claimed by Nguyễn Văn Trung, “What was not written down is what is meant to say”[6, p.67]. This proves that aesthetic ideas are distilled in the depths of semantic partition that lie in front of and at the back of texts. Moreover, the issue of text knowledge frame is not merely a form of endophora of words/meanings, but it has thrived and survived through many new steps in identifying, determining meaning/sense via the discovery of potential values in the institutional corridor from the texts’ aesthetic frame to the works.

2.2. ... to the aesthetic frame of literary texts The birth of literature reception theory has brought

about radical changes in the thinking map in terms of viewing artistic texts from readers’ reception. At the same time, the distinction of existence forms of “texts” and “works” has indicated limits in their aesthetic frame knowledge. Texts form a system of organizing signs created for readers, which came into being prior to reading activity. Works are products of a process of receiving texts which exist in readers’ consciousness. Therefore, modern theoretical thinking has established structural forms of the works on the axes – texts. That is to say, works are products that generate and create meanings of texts – a vivid process-based artistic world. Its meaning – sense is expanded indefinitely thanks to readers’ activeness and originality. Hence, in the works’ aesthetic frame “from the smallest meaning readers can approach the greatest meaning of the works, but this is identical with the greatest value of the works. Accordingly, we find it hard to reach the goal of approaching literary texts as they are”[1, p.32]. This makes sense to each spiritual product that needs more than just a process of colliding with new dialogues shaping values, which are reading and post-reading processes. Researching into the relation of independent development

in close association with reading shows that the fate of an artistic text is always built up by innumerable “gaps”. As a matter of course, through the reading activity, aesthetic experiences are to fill in those gaps. Enlightening any value area of a text depends greatly on reading levels and the text only appears in its proper form when it encounters an ideal level of interpretation. In the institution of the perception map, it is not easy for reading to meet, match and satisfy all expectations from readers. The reason lies in the distinction concerning some aesthetic distance/aesthetic experience between perception subjects. This leads to considerable hindrance to the way towards the identification of the artistic fate

In the reality of perception, works always appear in various visions; their historical fates conform to many reading facets/fields. If readers can grasp expectations from texts, much of the intention of the creative subject can be thoroughly understood via the giving-receiving mechanism. At this time, the intentionality and the axis extending from text structures works experience little disorder. All mechanisms for creating meaning provided by authors will flourish in a one-way context. On the contrary, the perception subject does not unintentionally take notice of expectations from texts/ look in another direction/ break through form structure/ seek new values in the object fate; as a result, the artistic intention of the creative subject is far from meaning interfaces induced by the perceptive subject. Without interaction, there would be collisions/ clashes that divide reading into two directions [readers will have no chances to go through texts to touch the spiritual fates of works, or readers will surpass the “autonomy” limit that belongs to layers of markings in texts] to be in parallel with the creative subject in artistic games. Therefore, interaction between text codes [sender’s code –receiver’s code] in subjective power will establish/form boundaries of peripheralization, thereby enabling the creation of a link that extends the text and touches the aesthetic frame of the work.

Following texts, derived texts are also concretization of text interpretation through the spiritual life of readers. At this time, works belong to a converse direction in reading effects. The works do not get to satisfy their creators. All comparisons between texts and works fail to discover areas of meaning in the same situation. The indefinite capacity of language - via discourse organizations has opened more than one inherent explanation of life reality. As Umberto Eco stated, “Openess is a condition for all aesthetic enjoyments, and any enjoyment form, if bearing aesthetic value, is open” [1, p.34]. Upwards, the aesthetic value frame form texts to works only take place in sublimate emotions, in a strong desire to look for what belongs to the subject’s creative thinking. That is to say, the birth and existence of a value frame does not mean the freezing of all values. The incomplete accumulation of texts in the perceptive subject will destroy all of their autonomy limits, creating aesthetic frames of works.

In summary, aesthetic frames of works must be means of transporting the process of reviving text meaning, providing a reason for the existence of text meaning. There,

Page 111: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 107

in the process of conceiving and giving birth to the artistic fate, only the creative subject can be fully aware of how the life of the artistic foetus has been constructed. Consequently, perceiving an artistic text can be considered as a journey of encoding the process of art formation. If creative ideas are only a schleroma block no work will come into being, or there will be no sublimate moments for creating artistic texts of bitch is there is no process of fostering and accelerating creativity drives. Only creativity drives that generate from all subject interfaces are factors that contribute to genuine aesthetic value frames for works.

2.3. ... a search for “the different” for the artistic fate From the viewpoint of modern theories, there have been

changes in thinking about the aesthetic frames of texts. The previous viewpoint, which is visual and simplistic, has assigned spiritual values to works and implicitly included all objective meanings provided by their owners, which can be sought and discovered by readers. And depending on their knowledge, readers will be able to collect values that inherently exist in the artistic fate. However, together with the appearance of the open perceptive thinking, the meanings of literary texts are not subject to stability but they are links to many relations based on processes which do not rely on the only meanings resulting from dependence on language sign layers but occur seamlessly on the cutting facet of the interactional axis inside and outside texts, attaching to specific cycles of perceptive activity. Accordingly, “with classes of intangible words that implicitly contain various meanings, which is subject to constant change and impossible for localization, literary works have their own modes of existence”[2, p.311]. This feature is orientated towards the cognition of the process of forming the artistic fate which is always associated with time quality and the incomplete intersection contact range for the life cycle of a work. That is to say, the importance/the meaning interface of a work depends on the selection of time and anticipates explanation from receivers. This shows that modern theoretical thinking does not concentrate on the conception of the uniqueness of a text, for it does not record language autonomy of a work as an object/language. Accordingly, a work is viewed in the stimulation of text-intertext networks. That artistic world is always open in unlimited interational/imaginary fields, impossible for structuralization and synchronization; at the same time, it serves as a base for literary texts to create links between central and peripheral texts wherein the appearance of readers in dialogue/ interpretation of implicit layers of meaning makes texts really enter the stage of transforming into aesthetic objects of the subjects – some creative transformation in the thinking of the perceptive subject. At this time, indefinite features in the artistic fate are determined in many semantic partitions of language waves [layers of artistic code]. Not confined to its expectation, the perceptive subject becomes a centre that brings values to the life cycle of a text. Of course the existence of a work as an aesthetic object only comes after the text has been read. This appearance lies in the control

of both intentional and unintentional reading with an awareness of directing towards the destruction of the unity of senses and images. This proves that modern theoretical thinking does not give prominence to the role of “subjectivization” for the meaning of works. The meaning frame of a literary work only appears when located in an open space between the text and its receiver, thereby forming a relation between the text and its readers who “experience the work”.

On this basis we realize that language signs no longer have their meaning stability – primary meanings imprinted on texts are blurred/ rejected/ even make room for semantic fields that are newly derived from the need of readers’ consciousness. Coming back to its origin, the mechanism that gives birth to all meaning values in works are not static in the dimension of idealizing reality/non-transparency on the surface of notions. The existence of genuine values that belong to characteristic nature needed in each artistic fate only occurs in the consciousness of integrating intentional and unintentional acts from creative subjects and perceptive subjects. Activities that generate instructions from texts to literary works are always two-way interactional processes in the relation: reality-writer-text-reader-work. As a result, the aesthetic frame from texts to works only exist when there is appearnce of many facets/fields of reading.

3. Conclusion If texts are initial contact areas which are primary, texts

lie in extension areas of secondary meanings, which are generated by interaction among subject roles. Identifying the distances of specific values in each artistic interface means orientation towards the establishment of an aesthetic frame for text fates and works. Therefore, from texts to works is a process of cohesion/reference which is artistically strategic. There, knowledge frame in texts and works always interact in creative power, which belongs to consciousness of artistic thinking of subjects. These tokens prove that all knowledge frames generate, exist without their values being frozen. And it is the incomplete part of texts’ aesthetic frames have destroyed all borders on axes leading to works’ aesthetic frames.

REFERENCES [1] Trương Đăng Dung (1998), From Texts to Literary Works, Social

Sciences Publishing House, Ha Noi. [2] Trương Đăng Dung (2004), Literary Works as Processes, Social

Sciences Publishing House, Ha Noi. [3] Trần Đình Sử (2016), On Boundaries of Literary Theories, Women

Publishing House, Ha Noi. [4] Nguyễn Đình Thi (2001), Some Thoughts on Poetry, Essays, Notes.

Literature Publishing House, Ha Noi. [5] Hoài Trinh (1980), On Science and Art in Literary Criticism, Social

Sciences Publishing House, Ha Noi. [6] Nguyễn Văn Trung (1963) An Overview of Literature 1, Nam Sơn

Publishing House. Sai Gon. [7] Viện văn học (2005), Theory and Literary Criticism – Renovation

and Development (Workshop Proceedings), Social Sciences Publishing House, Ha Noi.

(The Board of Editors received the paper on 07/12/2016, its review was completed on 11/12/2016)

Page 112: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

108 Huỳnh Văn Tuyết

QUẢNG NAM – NƠI MỞ ĐẦU PHONG TRÀO DUY TÂN Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

QUANG NAM PROVINCE – THE BIRTHPLACE OF THE DUY TAN MOVEMENT IN VIETNAM IN THE EARLY TWENTIETH CENTURY

Huỳnh Văn Tuyết Trường THPT chuyên Lê Thánh Tông, Hội An, Quảng Nam; [email protected]

Tóm tắt - Phong trào Duy Tân là một hiện tượng lịch sử tiêu biểunhất ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Cuộc vận động duy tân cứu nướctheo xu hướng cải cách đã manh nha từ Huế - trung tâm của tràolưu duy tân cải cách Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX nhưng thất bạivà phong trào thật sự bắt đầu từ Quảng Nam vào đầu thế kỉ XX.Vậy, tại sao Quảng Nam trở thành nơi mở đầu của phong trào DuyTân Việt Nam đầu thế kỉ XX? Đây là một vấn đề lịch sử cần phảiđược nhận thức đúng đắn và lý giải khách quan. Bài viết sẽ gópphần làm sáng tỏ hiện tượng lịch sử này dựa trên sự phân tích cácđiều kiện địa lí, lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hoá Quảng Namcuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Abstract - Duy Tan movement is a typical historical phenomenon in Vietnam in the early twentieth century. The campaign to save the country according to the reform trend took root in Hue - the heart of the new reform movement in Vietnam in the second half of the nineteenth century, but it failed and the movement really started inQuang Nam in the early twentieth century. So, why did Quang Nam become the place to begin the Vietnam Duy Tan movement in the early twentieth century? This is a historical issue that needs to be aware ofcorrectly and explained objectively. The article will contribute to elucidating this historical phenomenon based on an analysis of geographical, historical, political, economic and cultural conditions of Quang Nam in late nineteenth century- early twentieth century.

Từ khóa - phong trào Duy Tân; duy tân cải cách; Quảng Nam; mởđầu; đầu thế kỷ XX.

Key words - Duy Tan movement; Duy Tan reforms; Quang Nam; preamble; early twentieth century.

1. Đặt vấn đề

Đầu thế kỉ XX, Phong trào Duy Tân (PTDT) khởi phát từ Quảng Nam rồi lan rộng ra cả nước, đánh dấu sự đổi mới trong tư duy cứu nước của các nhà yêu nước Việt Nam, đồng thời mở đầu cho thời kì đấu tranh mới của dân tộc chống thực dân phong kiến. Hơn một thế kỉ qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về PTDT ở trong và ngoài nước. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, nhiều vấn đề mà PTDT đặt ra vẫn mang ý nghĩa thời đại, vì vậy mà phong trào ngày càng nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Trong bài viết này, chúng tôi muốn phân tích sâu hơn về cơ sở hình thành của PTDT ở Quảng Nam – những yếu tố kinh tế - xã hội, địa lí, lịch sử và văn hoá thuận lợi đã giúp Quảng Nam trở thành nơi mở đầu của PTDT Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Cơ sở hình thành phong trào Duy Tân Quảng Nam Đến cuối thế kỷ XIX, phong trào giải phóng dân tộc ở

Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng về con đường cứu nước. Lịch sử dân tộc đòi hỏi phải tìm kiếm một con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh đó, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất làm cho cơ cấu kinh tế - xã hội và văn hóa Việt Nam có sự biến đổi, đặt ra cho những người yêu nước Việt Nam cần phải có những phương hướng mới trong việc xác định mục tiêu cứu nước, lực lượng cách mạng, phương pháp đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới.

Yêu cầu của lịch sử dân tộc trên đây được sự trợ lực bởi trào lưu “Châu Á thức tỉnh”. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á mang một nội dung mới: gắn liền cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc với giành quyền dân chủ và phát triển đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. Xu hướng cách mạng dân chủ tư

sản trên đây là sức mạnh tinh thần cổ vũ nhân dân yêu nước Việt Nam hướng tới một con đường cứu nước tiến bộ hơn. Đặc biệt là tình hình Trung Quốc và Nhật Bản ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam.

Các tân thư, tân văn của Trung Quốc, Nhật Bản dội vào nước ta đã giới thiệu những tư tưởng dân chủ tư sản của phương Tây dưới lăng kính của tư tưởng lập hiến. Các học thuyết về nhân đạo, dân quyền của những nhà tư tưởng trong Trào lưu triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII cũng truyền bá vào Việt Nam, được các sĩ phu yêu nước tiến bộ tiếp thu nồng nhiệt. Trào lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng họ theo lí tưởng của cuộc Cách mạng Pháp (1789), cuộc vận động Duy Tân (1898) và Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc; giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân chủ bảo hoàng, chuyển sang tư tưởng dân chủ cộng hoà. Mặt khác, sau hơn 30 năm duy tân, Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản hùng mạnh, nhất là sau chiến thắng vang dội của quân đội Nhật trong Chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản.

Các sĩ phu tiến bộ đầu thế kỷ XX nhận thức được rằng muốn giải phóng dân tộc, phát triển đất nước phải kết hợp chặt chẽ cứu nước với duy tân (Tụng kinh Độc lập ở chùa Duy Tân). Tức là học theo văn minh tư sản phương Tây, cải tạo xã hội Việt Nam cũ, xây dựng một nước Việt Nam mới theo hình ảnh các nước phương Tây tiên tiến. Tư tưởng này đã xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XIX với những người sớm nhạy cảm với thời cuộc như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch... và Huế là trung tâm của trào lưu cải cách này, nhưng chính kiến của họ không được hưởng ứng, thậm chí họ còn bị phản đối. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh lịch sử mới, trước sự tan vỡ của cơ đồ ngàn năm văn hiến, tư tưởng cứu nước gắn liền với duy tân đã trở thành một xu hướng của thời đại, được đại diện bởi những danh sĩ đầy

Page 113: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 109

nhiệt huyết và một khối quần chúng làm hậu thuẫn. Xu hướng này còn được trợ lực, khích lệ bởi trào lưu duy tân ở Đông Á, được phản ánh qua tân thư, tân văn. Đây là yêu cầu tất yếu của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX. Lập trường yêu nước của các sĩ phu tiến bộ là đoạn tuyệt với tư tưởng "trung quân ái quốc", bắt đầu có ý thức về dân chủ, dân quyền, đề cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Dân tộc và dân chủ là hai ngọn cờ của phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Từ bỏ tư tưởng quân chủ Nho giáo ngàn năm ngự trị, tiếp nhận tư tưởng dân chủ, dân quyền, chiến đấu cho độc lập tự do dưới ngọn cờ tư sản chính là duy tân. Đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ, duy tân là con đường cứu nước mới đầy triển vọng, là nhu cầu bức thiết, là khẩu hiệu hành động, là lời kêu gọi. Vì vậy, dù là “ám xã” (bí mật) hay “minh xã” (công khai), xu hướng ôn hòa cải cách hay bạo động kịch liệt, duy tân vẫn là chủ trương hàng đầu. Chính vì thế mà chính đảng cách mạng có qui mô toàn quốc lấy tên là Duy Tân Hội (1904), Phong trào đấu tranh khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh lấy tên là PTDT (ở Nam kỳ gọi là Minh Tân - minh đức, tân dân). Tư tưởng duy tân còn chi phối cả triều đình Huế với niên hiệu Duy Tân. Đến đây một vấn đề đặt ra là PTDT đã hình thành như thế nào và bắt đầu từ nơi nào ở Việt Nam?

Theo Phan Châu Trinh trong tác phẩm Pháp - Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam xuất bản năm 1912 tại Paris (Pháp) thì vào các năm 1901, 1903, các ông Phan Bội Châu, Võ Phương Trứ, Lê Võ, Đặng Thái Thân, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp… cũng có mặt ở Huế để thi Hội trong các khoa Tân Sửu (1901), Quý Mão (1903), nhưng các vị đều hỏng chỉ có Phan Châu Trinh đỗ Phó bảng (1901). Đặc biệt vào năm 1903, tại Huế, các ông được đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch và các tân thư, tân văn của Trung Quốc như Trung Đông chiến kỷ, Pháp Phổ chiến kỷ, Doanh hoàn chí lược… . Trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu đã khẳng định rằng những hạnh ngộ ở Huế đã mở mang tầm nhìn và kích thích mạnh mẽ tâm trí của mình và cái nhân hoạt động cứu nước ở Huế đầu thế kỷ đã manh nha từ đó và tư tưởng “phá cũi sổ lồng” của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng xuất phát từ những sự kiện này.

Trước yêu cầu của lịch sử, các sĩ phu yêu nước tiến bộ đã cùng nhau bàn luận việc nước, bắt đầu vận động duy tân. Để đẩy mạnh cuộc vận động cứu nước trong giới quan lại triều đình, năm 1903, Phan Bội Châu đã viết tác phẩm Lưu cầu huyết lệ tân thư bắt đầu thể hiện tư tưởng duy tân cứu nước với chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, thực nhân tài và được Thượng thư Bộ binh Hồ Lệ tán đồng và bí mật cho sao chép, phổ biến trong giới thân sĩ đồng hương Quảng Nam. Nhờ đó Phan đã được gặp gỡ và kết nghĩa tâm phúc với Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Thành [1, tr.116, 124-125].

Còn trong Phan Châu Trinh niên biểu đồ, Huỳnh Thúc Kháng viết: “Năm 1903 đến kinh đô được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ. Năm này (…) tư tưởng mới nổ bùng và sách vở về tư tưởng mới của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu du nhập vào nước ta. Cuộc Nga - Nhật chiến tranh ảnh hưởng rất nhiều đến thành phần trí thức. Cụ ở Huế theo dõi tình hình từng ngày. Ở kinh đô có Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm là các nhà có nhiều sách mới

mà cụ thường tìm tới đọc. Từ đó tư tưởng Âu Tây thấm dần vào trí não” [2, tr.446]. Cũng chính tại kinh đô Huế này, nhiều sĩ phu yêu nước tiến bộ tiêu biểu là Phan Châu Trinh đã định lợi dụng quan trường để vận động cứu nước. Năm 1903, ông đề xướng thuyết Tam dân (khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh). Thực hiện phương châm này, Phan Châu Trinh vận động các cống sĩ đưa biểu lên triều đình xin bỏ khoa cử và biến pháp nhưng không được người nào hưởng ứng… Từ thực tế này, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và các đồng chí thấy rằng, tuy ở Huế có đông đảo tầng lớp trí thức nhưng chế độ phong kiến bảo thủ vẫn còn tồn tại nặng nề không thể chuyển những tư tưởng mang tính cách mạng thành một phong trào quần chúng được. Vì vậy, Phan Châu Trinh đã từ bỏ quan trường để cùng với Phan Bội Châu và các đồng chí quyết định chuyển cuộc vận động yêu nước về Quảng Nam.

Theo Huỳnh Thúc Kháng niên phổ và Phan Bội Châu niên biểu thì vào tháng 12/1903, Phan Bội Châu, Nguyễn Thành, Lê Võ, Đặng Thái Thân cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp mật hội tại Nam Thạnh sơn trang của Nguyễn Thành (Thăng Bình, Quảng Nam) để bàn phương thức cứu nước. Tại cuộc hội nghị bí mật này đã phân hoá thành hai xu hướng cứu nước. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp cho rằng, trước hết phải tiến hành duy tân cải cách nhằm tạo ra tiềm lực để đi đến giành độc lập tự do và quyết định phát động phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ từ đất Quảng Nam [3, tr.35]. Còn Phan Bội Châu và Nguyễn Thành… với xu hướng bạo động, chủ trương trước hết phải đánh Pháp giành độc lập nên quyết định thành lập một tổ chức yêu nước bí mật lấy tên Duy Tân hội vào tháng 5/1904. Đến đây có thể khẳng định rằng: cuộc vận động duy tân manh nha ở Huế từ năm 1903 nhưng thất bại và phong trào thực sự bắt đầu từ Quảng Nam vào đầu năm 1904. Từ Quảng Nam đã lan tràn khắp các tỉnh miền Trung, ảnh hưởng mạnh đến Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Ở Bắc Kỳ, tư tưởng duy tân đã xuất hiện từ 1904 với tác phẩm Văn minh tân học sách, nhưng mãi đến tháng 3/1907, dưới ảnh hưởng của Phan Bội và Phan Châu Trinh, PTDT mới hình thành với trung tâm là Đông Kinh Nghĩa Thục [4, tr119]. Còn ở Nam Kỳ, tuy ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây tương đối sớm nhưng phong trào thực sự mới được hình thành từ cuối năm 1907 (sau khi Trần Chánh Chiếu gặp gỡ Phan Bội Châu tại Hương Cảng, Hong Kong) với tên gọi phong trào Minh Tân [5, tr.217].

Từ sự phân tích như trên, cho chúng ta thấy, PTDT thực sự khởi đầu từ Quảng Nam từ đầu thế kỉ XX. Vậy, vì sao đất Quảng là nơi khởi đầu của PTDT Việt Nam đầu thế kỉ XX?

Theo chúng tôi, PTDT thực sự khởi đầu ở Quảng Nam bắt nguồn từ nhiều yếu tố:

Thứ nhất, Quảng Nam là vùng đất có truyền thống công thương nghiệp, có các đô thị chính của miền Trung như Hội An, Đà Nẵng. Từ thời các Chúa Nguyễn, Hội An, Đà Nẵng đã có lúc trở thành những trung tâm hoạt động kinh tế khá phồn thịnh. Đến thời Pháp thuộc, với chính sách khai thác thuộc địa, QuảngNam cũng là một khu vực quan trọng với các hoạt động khai thác than (Nông Sơn) và đặc biệt khai

Page 114: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

110 Huỳnh Văn Tuyết

thác vàng (Bồng Miêu). Đà Nẵng trở thành thương cảng lớn nhất miền Trung. Đà Nẵng là khu vực hành chính áp dụng cách quản lí đô thị theo mô hình tư bản phương Tây sớm nhất ở Trung Kỳ. Quy mô thành phố dù nhỏ hơn Hà Nội, Hải Phòng nhưng chức năng của Hội đồng thành phố như Hà Nội, Hải Phòng. Theo thống kê, ngân sách hỗ trợ của Trung Kỳ cho Đà Nẵng và thu chi tài chính của Đà Nẵng thường lớn hơn các các thị xã khác ở miền Trung. Chẳng hạn năm 1903, thành phố Đà Nẵng được cấp $3.000 trong khi đó Huế được $2.000. Thanh Hoá được $1.000. Vậy ngân sách Trung Kỳ hỗ trợ cho Đà Nẵng gấp 1,5 lần Huế và 3 lần Thanh Hoá. Hay thu chi tài chính năm 1902 (tính đến tháng 1/ 1903), Đà Nẵng thu $35.940,15 chi $34.951. Trong khi đó thu của Huế là $17.700, Quy Nhơn là $4.771,39 [6, tr. 54]. Điều đó cho thấy nguồn thu ngân sách của Đà Nẵng lớn hơn nhiều các tỉnh khác ở Trung Kì, gấp 2 lần Huế, 7 lần Quy Nhơn.

Thứ hai, sĩ phu Trung Kỳ và Quảng Nam từ cuối thế kỷ XIX đã làm quen ngày càng sâu sắc với tư tưởng tư sản Tây Âu qua các tân thư, tân văn từ Trung Quốc, Nhật Bản tới với sự môi giới của người Hoa đã sinh cơ lập nghiệp ở đây từ lâu. Trong những năm 90 của thế kỷ XIX, nhiều sách báo của phái cấp tiến Trung Quốc theo đường thương mại đã được đưa vào Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Sài Gòn … nơi có đông đồng bào Hoa kiều sinh sống. Theo Nguyễn Văn Xuân, Tân thư này có thể dẽ dàng mua được và buôn bán Tân thư trở thành một ngành thương mại quan trọng của người Hoa ở các đô thị lớn... [7, tr.30].

Qua tân thư, tân văn đã giúp cho sĩ phu yêu nước Quảng Nam đương thời từ bỏ nhanh chóng tư tưởng “trung quân”, cung cấp cho họ những hiểu biết mới về tư tưởng chính trị và truyền cho họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Nhiều sĩ phu tiến bộ Trung Kỳ và Quảng Nam (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp…) rủ nhau tìm cách tiếp cận với tân thư, tân văn và hăng hái đứng ra tiếp nhận tư tưởng tư sản phương Tây qua các sách báo nói trên rồi truyền bá vào nước ta. Qua việc đọc được Tân thư đã làm thay đổi sâu sắc trong nhận thức của Phan Bội Châu, giúp ông hiểu được “tình trạng cạnh tranh” của các liệt cường trên thế giới và thấy được “thảm trạng quốc vong chủng diệt”. Phan Chu Trinh đã hồ hởi đón nhận và có sự thay đổi to lớn sau khi đọc được Tân thư. Trong Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: “Sách mới, báo mới xuất hiện đã tràn qua nước ta, mà ảnh hưởng nhất là sách của Khang Hữu Vi, cùng Lương Khải Siêu, vì sách ấy nói dân quyền, tự do, phát minh được chân tướng văn minh Âu Tây nhiều. Tiên sinh (Phan Chu Trinh) thường qua lại với ông Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ mượn sách ấy xem, trong lòng ham thích quên ngủ, quên ăn, từ đó trong tư tưởng đổi hẳn ra một cách mới mẽ” [8, tr.14].

Trong Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, tác giả cũng đã xác nhận sự ảnh hưởng của Tân thư đối với chính mình và các sĩ phu cùng thời: “...tại Trung Quốc sau cuộc Mậu Tuất chính biến và Canh Tý liên binh, sĩ phu hơi tĩnh ngộ, có phong triều hoan nghênh Âu học chuyển động toàn quốc, sách báo của Khương Hữu Vi, Lương Khải Siêu (phái lãnh tụ duy tân), dần dần du nhập vào nước ta, tin Nga - Nhật chiến tranh đến tận bên ta, không như thời bế tắc trước.

Năm trước đó có quan Thị lang Thân Trọng Huề (có sang Pháp du học)có tờ sớ xin bỏ khoa cử, tại kinh có Đào Tào Pha (Đào Nguyên Phổ) mua được nhiều sách mới (như Mậu Tuất chính biến, Trung Quốc hồn, Nhật Bản Duy tân sử, Tân dân tùng báo, cùng sách Âu dịch ra Pháp văn), nhất là Phan Tây Hồ tuý tâm bàn Tây học (lúc bấy giờ làm Thừa biện Bộ Lễ), tôi ở ngoài không thi thường với Tây Hồ đến nhà Đào, có bao nhiêu tân thơ đọc hết, biết được đôi chút biến thiên của thế giới, thật bắt đầu từ năm ấy” [9, tr.33].

Rõ ràng, Tân thư, Tân văn đã ảnh hưởng sâu sắc đối với sự mở mang trí thức và chuyển biến tư tưởng của tầng lớp trí thức yêu nước Việt Nam và Quảng Nam đầu thế kỉ XX. Trên cơ sở những biến đổi về kinh tế - xã hội, cộng với ảnh hưởng của cuộc vận động duy tân cứu nước ở Trung Quốc, công cuộc duy tân ở Nhật Bản dội vào, tư tưởng dân chủ tư sản bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chính trị Việt Nam mà các sĩ phu yêu nước đất Quảng là những người đi tiên phong. Đó là một trong những nhân tố quan trọng tạo dựng nên PTDT phát khởi đầu tiên từ đất Quảng Nam. Chương Thâu đã khẳng định: “... các danh sĩ yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp do hấp thụ tư tưởng “Tân thư” đã cùng nhau xốc lên một phong trào Duy tân rộng lớn ở Trung Kỳ” [10, tr.8].

Đặc biệt, sống bên cạnh Triều Nguyễn đã trở thành tay sai của Pháp, các sĩ phu yêu nước đất Quảng càng có điều kiện để chứng kiến sự sa đoạ của Triều đình Huế, sự thối nát của bọn quan lại tay sai. Tất cả các yếu tố trong và ngoài nước đã giúp cho các sĩ phu đất Quảng sớm giác ngộ nhiệm vụ của mình là những trí thức theo hướng dân chủ tư sản, phải tiến hành duy tân thì mới cứu được nước.

Thứ ba, Quảng Nam là vùng đất có truyền thống khoa cử hàng đầu ở Việt Nam, đứng đầu các tỉnh Nam Trung Kỳ.Theo thống kê của Phan Đại Doãn, Nguyễn Ngọc Quỳnh, dưới thời Nguyễn có 40 người đỗ tiến sĩ, phó bảng, đứng vị trí thứ 6 trong cả nước với nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng như Hoàng Diệu, Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư, Nguyễn Thuật, Hồ Lệ... Nhiều người có tư tưởng cải cách mạnh như Phạm Phú Thứ, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp... [11, tr.168]. Tư duy biện luận cũng là một trong những nét đặc trưng của người Quảng Nam. Tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường và tính năng động của người Quảng Nam cũng là một trong những nhân tố tạo dựng nên PTDT ở Quảng Nam diễn ra sớm nhất cả nước.

Thứ tư, phong trào Cần Vương ở Quảng Nam nói riêng, các tỉnh Nam Trung Kỳ nói chung, tuy hình thành sớm với cuộc khởi nghĩa Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi vào ngày 13/7/1885; nhưng cũng chính tại khu vực này, phong trào Cần Vương kết thúc sớm vào khoảng tháng 9/1887 [12, tr.61]. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc sớm xác định con đường cứu mới theo phương hướng tiến bộ hơn. Đó là phải gắn mục tiêu dân tộc với mục tiêu dân chủ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai; phải tăng cường khối đoàn kết dân tộc, phát huy cao độ tinh thần yêu nước trong các tầng lớp nhân dân để phân hóa cô lập kẻ thù; phải đổi mới phương pháp đấu tranh với nhiều hình thức phong phú, đa dạng mới có khả năng đánh bại kẻ thù.

Các sĩ phu yêu nước tiến bộ Quảng Nam - những người khởi xướng phong trào đầu thế kỉ XX đã từng hít thở không

Page 115: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 111

khí Cần Vương, có người đã từng tham gia trực tiếp phong trào Nghĩa hội Quảng Nam. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, … những người đã chứng kiến phong trào Cần Vương, đã khởi xướng PTDT với chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà Quảng Nam là trung tâm của phong trào này. Một số người trực tiếp lãnh đạo hoặc tham gia phong trào như Tiểu La Nguyễn Thành, Đỗ Đăng Tuyển, Lê Vĩnh Huy, Châu Thượng Văn … đã cùng với các sĩ phu tiến bộ như Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân ... thành lập ra một tổ chức cứu nước mới đó là Duy Tân hội (1904) trên đất Quảng Nam với chủ trương cứu nước kết hợp với duy tân nhằm giành độc lập tự do cho đất nước bằng con đường bạo động và phát triển đất nước lên con đường văn minh tư sản tiến bộ.

Chính sự tồn tại và phát triển của phong trào Cần Vương đã tác động đến sự hình thành hai xu hướng cứu nước vào đầu thế kỉ XX. Với sự thất bại sớm của phong trào Cần Vương Nam Trung Kỳ (1885-1887) là một trong những cơ sở hình thành nên xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh đại diện. Từ phong trào Cần Vương Nam Trung Kỳ đã tạo ra truyền thống năng động trong việc nắm bắt điều kiện và thời cơ để phát động đấu tranh ở các tỉnh vào đầu thế kỉ XX.

Phong trào Cần Vương bắt nguồn từ sự chủ động chuẩn bị đánh Pháp của phe chủ chiến ở Kinh thành Huế trong những năm 1883-1885. Nam Trung Kỳ là nơi hưởng ứng phong trào Cần Vương sớm nhất với cuộc khởi nghĩa Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi vào ngày 13/ 7/ 1885. Từ truyền thống này, các sĩ phu yêu nước nắm bắt cơ hội phát động PTDT (1903), thành lập Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du (1904-1909). Từ PTDT đã dẫn đến phong trào chống sưu thuế quyết liệt, mạnh mẽ ở Trung Kỳ năm 1908 với mục tiêu, qui mô và phương thức đấu tranh sáng tạo chưa từng có từ trước đến đó. Quảng Nam - trung tâm của PTDT Trung Kỳ là nơi khởi phát của phong trào này, cùng với Quảng Ngãi và Bình Định là những nơi có phong trào mạnh nhất. 2.2. Chủ trương và hoạt động chủ yếu của phong trào Duy Tân Quảng Nam

PTDT đã manh nha từ Huế - trung tâm của trào lưu duy tân cải cách nửa sau thế kỷ XIX và thực sự bắt đầu từ Quảng Nam vào đầu thế kỉ XX. Tư tưởng duy tân chủ đạo của các nho sĩ đất Quảng được tập trung ở quan niệm về dân. Dân trong quan niệm của họ vừa là cơ sở, vừa là nội dung và cũng là mục tiêu của phong trào. Quan niệm về dân của Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp chủ yếu bao gồm những điểm cơ bản: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Đó là giành quyền tự do cho nhân dân, tự cường cho đất nước, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, đem lại lợi ích mọi mặt cho toàn dân, xây dựng một quốc gia độc lập, dân chủ, tự do và phồn vinh với chế độ chính trị tiến bộ, nền kinh tế phồn vinh, văn hoá tân tiến.

Trên cơ sở chủ trương đã được xác định, cuộc vận động duy tân cải cách ở Quảng Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội..., bao gồm hoạt động rất đa dạng, từ lập hội buôn bán, hội canh nông, mở trường học, đến việc vận động bài trừ phong tục tập quán hủ bại, truyền bá những tư tưởng về mục đích, nội dung và phương

thức duy tân, vấn đề tự cuờng, vấn đề dân chủ, dân quyền, vận động đời sống mới như cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn...

Mục tiêu của phong trào là trên cơ sở nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, phát triển dân sinh, xác lập dân quyền để đi đến giành độc lập tự do, phát triển đất nước đến văn minh theo hình mẫu các nước tư bản tiên tiến. Với chủ trương duy tân toàn diện đất nước, các nhà lãnh đạo phong trào đã tập trung đẩy mạnh các hoạt động thực tiển: tuyên truyền, lên án chính sách cai trị của thực dân Pháp và tay sai, khơi dậy tư tưởng dân chủ, dân quyền, cổ động chấn hưng thực nghiệp (khuyên nhân dân “phải học lấy một nghề”, “phải có chí tiến thủ, chí mạo hiểm”, “phải có ý thức làm giàu cho bản thân và cho đất nước...); mở trường học, lập hội thương, hội nông, hội cắt tóc ngắn, mặc âu phục… Trong những năm đầu (1903 - 1905), phong trào diễn ra chủ yếu với những hoạt động tuyên truyền vận động duy tân của các chí sĩ lãnh đạo phong trào. Từ năm 1906 trở đi, phong trào đi vào thực tiễn, sôi nổi với các hoạt động lập thương hội, nông hội, mở học hiệu, học chữ Quốc ngữ, cải cách phong tục, lối sống, … Các hoạt động này rất cụ thể, tiến hành công khai và hàm chứa nội dung truyền bá dân quyền. Trong giai đoạn này, cuộc vận động duy tân không còn là hoạt động của riêng các nhà lãnh đạo phong trào và những nho sĩ tiến bộ nữa, nó lan rộng ra nhiều tầng lớp nhân dân. Vai trò của các sĩ phu nòng cốt phong trào vẫn còn thể hiện trong nhiều hoạt động, nhưng đã xuất hiện nhiều thành phần tham gia, trong đó người nông dân và giới lao động nói chung đã được lôi cuốn vào phong trào chung.

Những hoạt động lý luận và thực tiễn tích cực của các chí sĩ duy tân đã có hiệu ứng xã hội tích cực, tạo thành cuộc vận động duy tân rộng lớn khắp tỉnh, từ nông thôn, đồng bằng đến miền núi kể cả đô thị, góp phần làm thay đổi diện mạo của kinh tế, văn hoá, xã hội Quảng Nam hồi đầu thế kỷ XX và ảnh hưởng ra Bắc, vào Nam. 2.3. Ý nghĩa, tác động của phong trào Duy Tân Quảng Nam

PTDT ở Quảng Nam diễn ra với tư tưởng chủ đạo là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” nhằm duy tân đất nước, tự cường dân tộc, phá bỏ các trì trệ cổ hủ phong kiến, xây dựng một xã hội mới dân chủ, giành lại độc lập dân tộc. Tinh thần “tự lực khai hoá”, ý thức tự cường là yếu tố xuyên suốt trong các hoạt động của phong trào.

Với phương châm trực tiếp vận động dân chúng duy tân rộng khắp, không thông qua chính quyền phong kiến thực dân, không trình bày dự án hay đưa đề nghị cải cách lên chính quyền; bằng phương thức hoạt động công khai, bất bạo động, không cầu ngoại viện, không gia nhập bất kì đảng phái hay hội kín nào; nhằm hướng đến tương lai với nội dung và lộ trình thực hiện đi từ khai dân trí, chấn dân khí, đến phát triển dân sinh và vận động dân quyền. Đó chính là nội dung cốt lõi của tư tưởng dân tộc, dân chủ được khởi xưởng và vận động triển khai trong thực tiễn bởi các chí sĩ duy tân đất Quảng đầu thế kỉ XX.

Phong trào đã thực hiện khá thành công nhiều mục tiêu đặt ra và tạo ra sự chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục. PTDT Quảng Nam đầu thế kỉ XX đã góp phần tạo ra nền tảng của nền kinh tế dân tộc theo hướng hiện đại. Hàng loạt thương cuộc lớn nhỏ (72 hội buôn) đã ra đời như

Page 116: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

112 Huỳnh Văn Tuyết

Hợp thương Diên Phong, Hợp thương Hội An, Quảng Nam hiệp thương công ty... Hoạt động sản xuất của các cơ sở kinh doanh và người dân được đẩy mạnh, sản phẩm làm ra không những đáp ứng cho nhu cầu trong trong tỉnh mà còn đem ra tiêu thụ ở nhiều thị trường trong nước. Nhiều công ty, hội buôn là con đẻ của PTDT đã tạo ra thị trường hoạt động cho mình trên địa bàn khá rộng: Công ty Phượng Lâu buôn tơ lụa từ Bắc Kì vào Trung Kì, Quảng Nam hiệp thương công ty buôn bán từ Quảng Nam đi Sài Gòn và Hà Nội, Liên Thành công ty ở Phan Thiết buôn vào Sài Gòn và sang tận Cao Miên… [13, tr. 18]. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sơ khai xuất hiện ở Quảng Nam. Thành phần kinh tế tư bản dân tộc xuất hiện nhưng hết sức nhỏ bé cùng với các doanh nhân còn hết sức non trẻ về kinh nghiệm kinh doanh: “Việc các hội buôn của phong trào Duy Tân vừa mở hiệu buôn bán sản phẩm, vừa mở xưởng thợ đó là hình thức sơ khai, tiền đề của nền kinh tế theo phương thức tư bản chủ nghĩa” [14, tr. 18].

Các nông hội, trại cày đã xuất hiện, tạo ra những mô hình làm ăn mới, tiêu biểu nhất là “làng duy tân kiểu mẫu” Phú Lâm do Lê Cơ thực hành. Qua hoạt động thực nghiệp đã làm cho diện tích trồng trọt và canh tác trong sản xuất nông nghiệp ở Quảng Nam tăng lên, các loại giống cây trồng có năng suất như: ngô, đậu, sắn, khoai, cũng được đem vào trồng trọt ngoài cây lương thực chính là cây lúa. Bên cạnh đó, còn trồng các cây có lợi ích về công nghiệp như: tiêu, chè, quế. Kinh tế hàng hoá ở Quảng Nam có bước phát triển mới. Cũng từ trong hoạt động thực nghiệp, những sản phẩm thủ công truyền thống tinh xảo được bảo tồn và phát triển. Bên cạnh đó, còn hình thành nên những ngành nghề làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển. Cũng từ đó, nền kinh tế Quảng Nam có những chuyển biến mạnh mẽ, bên cạnh sản xuất nhỏ, đã hình thành nên những hãng buôn có quy mô lớn: “…nền thương nghiệp có đoàn thể, có tư bản lớn, có chi nhánh như công ty Liên Thành, Hợp thương Diên Phong để hiện đại hóa thương nghiệp, vừa đảm bảo việc sản xuất quốc nội vừa tranh thương với người ngoại quốc” [15, tr. 230 - 231]. Sự chuyển biến của kinh tế Quảng Nam trên đây, đã làm cho đời sống nhân dân được cải thiện.

Trên lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội, hơn 40 trường tân học đã xuất hiện với nội dung giáo dục mới cùng cách dạy học mới. Chữ Quốc ngữ được đề cao. Tư duy cổ hủ và các hủ tục phần nào được hạn chế, lối sống mới bước đầu được thực hiện....

Với chủ trương cải cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực từ tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội; bằng tấm lòng yêu nước nhiệt thành, các chí sĩ duy tân xứ Quảng đã truyền vào phong trào quần chúng cả ở thành thị và nông thôn ngọn lửa nhiệt tình hăm hở của người trí thức đến với những cái mới mà xã hội đang tạo ra. Họ chú trọng duy tân tư tưởng chính trị, xã hội, đạo đức, giáo dục, những vấn đề họ cho là cấp thiết đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Họ đưa ra các khái niệm, phạm trù mới: chính thể dân chủ, cách mạng, dân trí, dân khí, dân sinh, bình đẳng… Nội hàm của khái niệm không như nguyên gốc trong tư tưởng phương Tây nhưng lại có giá trị lý luận và thực tiễn đối với một xã hội phương Đông vốn từ chế độ phong kiến trở thành thuộc địa như Việt Nam. Họ đưa ra những quan niệm

về một xã hội dân chủ, bình đẳng dựa vào phát triển toàn diện; trong đó, vai trò của phát triển dân quyền, kinh tế, văn hóa giáo dục là chủ đạo. Xã hội mà họ hướng tới sẽ khác biệt nhiều so với xã hội thuộc địa đương thời, trong đó người dân có vị trí là chủ xã hội và vai trò quan trọng trong phát triển xã hội theo hướng văn minh. Về tư tưởng đạo đức, họ đổi mới các phạm trù đạo đức trên nền đạo đức phương Đông truyền thống. Họ xác định lẽ sống cho con người Việt Nam trong thời đại mới là sống thức tỉnh, sống có ý chí, sống tự tân, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho đồng bào. Họ đã kết hợp lẽ sống tốt đẹp trong truyền thống dân tộc với các giá trị trong luân lý, đạo đức phương Tây mà họ được tiếp nhận. Họ mong đưa Việt Nam đến một xã hội lý tưởng được duy trì bởi cả pháp luật và đạo đức mang giá trị nhân văn cao cả.

PTDT Quảng Nam tuy chỉ tồn trong thời gian ngắn nhưng đã để lại cho chúng ta những ấn tượng khó quên về tinh thần cách mạng mang tính đột phá, khởi đầu cho trào lưu cứu nước giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản, bằng phương thức duy tân cải cách, tự lực tự cường. PTDT Quảng Nam mở đầu cho PTDT cả nước, được sự hưởng ứng của đông đảo sĩ phu yêu nước tiến bộ, dân chúng và khẳng định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân theo con đường tư sản và vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ. Phong trào đã có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Tất cả những hoạt động phong trào cứu nước kết hợp với duy tân ở Quảng Nam đầu thế kỷ XX đều mang ý nghĩa cổ động lòng yêu nước, đòi độc lập tự do, phát triển đất nước theo con đường văn minh, tiến bộ. Phong trào đã đánh dấu sự đổi mới trong tư duy cứu nước của những người yêu nước Việt Nam, tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến lạc hậu và chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, nêu cao vấn đề dân chủ, dân quyền, mở đường cho tư tưởng dân chủ phát triển, góp phần quan trọng trong việc khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, xây dựng một nền văn hóa mới, nền học thuật mới, đưa dân tộc Việt Nam tiếp cận văn minh phương Tây, góp phần thúc đẩy công thương nghiệp dân tộc phát triển. Đây là sự tiếp nối và phát triển lên một trình độ cao hơn trong những điều kiện mới truyền thống Duy tân, Cải cách, Đổi mới của dân tộc, biểu hiện sự hòa nhập của dân tộc Việt Nam vào trào lưu “Châu Á thức tỉnh” đầu thế kỷ XX.

3. Kết luận Chủ thuyết duy tân hình thành từ năm 1903 và PTDT

thực sự bắt đầu vào năm 1904 ở Quảng Nam. Hiện thực lịch sử này bắt nguồn từ nhiều nhân tố trong nước và ngoài nước, từ các yếu tố địa lý, truyền thống lịch sử, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và sự năng động của con người Quảng Nam. Đây là sự phát triển biện chứng của lịch sử Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam thời cận đại, PTDT Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức to lớn trên các phương diện: chính tri, tư tưởng, văn hoá giáo dục và kinh tế. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay, những bài học của PTDT đất Quảng cần được kế thừa và phát huy.

Page 117: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 113

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Tự truyện, Nxb Thuận Hóa - Trung

tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2000. [2] Dẫn theo Nguyễn Q. Thắng, Quảng Nam - đất nước, nhân vật, Nxb,

Văn hóa Thông tin Hà Nội, 2001. [3] Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000. [4] Trương Công Huỳnh Kỳ (cb), Nguyễn Tất Thắng, Đỗ Mạnh Hùng,

Giáo trình lịch sử Việt Nam cận đại, Nxb Đại học Huế, 2013. [5] Chương Thâu, Hồ Song…, Lịch sử Việt Nam 1897-1918, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội,1999. [6] Nguyễn Thị Đảm, “Chính quyền Pháp với việc tổ chức quản lí

nhượng địa Đà Nẵng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (10), 2006, tr.47-55.

[7] Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân, Nxb Đà Nẵng, 1969. [8] Minh viên Huỳnh Thúc Kháng, Giai nhân kì ngộ Phan Tây Hồ tiên

sinh lịch sử, Nxb Anh Minh, Huế, 1959.

[9] Huỳnh Thúc Kháng, Huỳnh Thúc Kháng niên phổ và thư trả lời Kỳ ngoại hầu Cường Để, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh, 2000.

[10] Chương Thâu, “Chính sách của thực dân Pháp đố với ảnh hưởng của Tân thư ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (1), 1997, tr.8-10.

[11] Phan Đại Doãn, Nguyễn Ngọc Quỳnh,… Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1997.

[12] Trương Công Huỳnh Kỳ, Phong trào chống Pháp ở Nam Trung Kỳ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Đại học Huế, 2013.

[13] Nguyễn Văn Khánh, Phạm Thị Thanh, “Mấy nhận xét về kinh tế hàng hóa ở Hà Nội thời kì thực dân Pháp đô hộ và tạm chiếm”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (12), 2006, tr. 11-54.

[14] Trần Viết Nghĩa, “Trí thức Hà Nội với công cuộc duy tân và giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (2), 2008, tr. 15-24.

[15] Nguyễn Văn Xuân, Phan Phúc Duyện trong phong trào Duy Tân Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997.

(BBT nhận bài: 29/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/01/2017)

Page 118: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

114 Phạm Minh Ngọc Duyên, Ry Sopheap, Lê Hoài Long, Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu

NHẬN DẠNG CÁC NHÂN TỐ QUẢN LÝ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA CÔNG NHÂN XÂY DỰNG TẠI CAMPUCHIA

IDENTIFICATION OF MANAGEMENT FACTORS AFFECTING LABOUR PRODUCTIVITY OF CONSTRUCTION WORKERS IN CAMBODIA

Phạm Minh Ngọc Duyên1, Ry Sopheap2, Lê Hoài Long3, Nguyễn Văn Châu4, Đặng Ngọc Châu2 1Trường Đại học Nguyễn Tất Thành; [email protected]

2HVCH ngành Quản lý Xây dựng, Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh; [email protected], [email protected]

3Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh; [email protected] 4Công ty Cổ phần 519, Cienco 5; [email protected]

Tóm tắt - Cải thiện năng suất lao động (NSLĐ) trong xây dựng(XD) là một thách thức đối với ngành công nghiệp XD, vì nó ảnhhưởng đến kết quả của dự án (DA). Ngày càng nhiều doanh nghiệpquan tâm đến việc cải thiện NSLĐ của công nhân xây dựng(CNXD). Bài báo tập trung nhận dạng và hiểu rõ những nhân tốquản lý ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD tại các DAXD ởCampuchia. Nghiên cứu tiến hành khảo sát các đối tượng gồm kỹsư XD, chỉ huy trưởng, và tư vấn giám sát của các công trình XDtại thủ đô Phnom Penh và các tỉnh lân cận. Dữ liệu thu về gồm 70bảng khảo sát hợp lệ và tiến hành phân tích nhân tố khám phá.Các kết quả phân tích chỉ ra 2 nhóm nhân tố ảnh hưởng xấu và 4nhóm nhân tố ảnh hưởng tốt đến NSLĐ của CNXD. Các doanhnghiệp XD tại thị trường Campuchia có thể sử dụng kết quả củanghiên cứu này để cải thiện và nâng cao NSLĐ của CNXD, từ đótiết kiệm thời gian cũng như chi phí thực hiện DA.

Abstract - Improving productivity in construction has been a major challenge for construction industry because of its impacts on project outcomes. Therefore, more and more firms are interested in improving labor productivity of construction workers, hence analysis of factors affecting labor productivity is an instrumental part in this process. This paper focuses on identifying and understanding management factors affecting construction projects in Cambodia. Using a questionnaire, data are collected from civil engineers, site managers, consultants of construction projects in Phnom Penh and surrounding provinces. The 70 returned responses are analyzed using exploratory factor analysis (EFA). The results of EFA show that 2 groups of factors decrease labor productivity and 4 groups of factors increase job efficiency of labourers. Construction companies in Cambodia could use the results of this paper to improve the productivity of workers, hence minimizing time and cost overrun of construction projects.

Từ khóa - năng suất lao động, công nhân xây dựng, phân tíchnhân tố, hoạt động xây dựng, Campuchia.

Key words - labour productivity, construction workers; exploratory factor analysis, construction operations, Cambodia.

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu đang lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Sau khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, việc đầu tư ra nước ngoài đang được xem là xu hướng mới của các doanh nghiệp xây dựng (DNXD) Việt Nam hiện nay. Thị trường tiềm năng mà các DNXD Việt Nam hướng đến nhiều nhất là thị trường Campuchia (Trương, 2015). Tuy nhiên, hầu hết các DNXD Việt Nam phải đối mặt với không ít thử thách khi tham gia vào ngành công nghiệp xây dựng (CNXD) Campuchia. Một trong những khó khăn mà hầu hết các DNXD Việt Nam phải đối mặt nhiều nhất đó là vấn đề NSLĐ thấp.

Tại Campuchia, NSLĐ của CNXD thấp là do hầu hết công nhân rất ít hoặc không được đào tạo chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, các công ty XD tại Campuchia hiếm khi thực hiện các phương pháp đo lường và giám sát NSLĐ trên công trường. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong tiến độ cũng như vấn đề vượt chi phí khi thực hiện DA (Odeh & Battaineh, 2002). Tuy nhiên, nếu sử dụng lao động lành nghề của Việt Nam đưa sang Campuchia làm việc sẽ dẫn đến làm gia tăng chi phí XD và làm giảm lợi nhuận của các nhà thầu XD. Vì vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay đối với DNXD Việt Nam là cần tìm hiểu các nguyên nhân gây ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD Campuchia để có những biện pháp khắc phục. Kết

quả nghiên cứu có thể giúp các DNXD Việt Nam có thêm thông tin hữu ích khi tham gia vào thị trường XD ở Campuchia.

2. Tổng quan nghiên cứu Hiện nay, ngành CNXD vẫn chưa có một định nghĩa

năng suất chuẩn mực, bởi vì phần lớn các công ty XD đều sử dụng các hệ thống đo lường năng suất nội bộ chưa được chuẩn hóa. Các DNXD thường định nghĩa NSLĐ là đại lượng so sánh giữa giá trị tài nguyên sử dụng và giá trị sản phẩm đạt được. Cụ thể hơn, NSLĐ được đo lường dựa trên số giờ công lao động thực tế so với số lượng sản phẩm đạt được như công thức (1) sau đây:

Năng suất = Số giờ công lao động thực tế / Số lượng sản phẩm đạt được (1)

Để đo lường và đánh giá NSLĐ trong XD, DNXD thường sử dụng các phương pháp trực tiếp (ví dụ: phương pháp đo lường đơn vị trên số giờ công (Thomas & Mathews, 1986; Halligan và các tác giả, 1994), phương pháp chi phí, hay phương pháp đo lường thời gian hoàn thành) hoặc sử dụng các phương pháp đo lường gián tiếp (ví dụ: phương pháp lấy mẫu công việc, phương pháp nghiên cứu công việc, hoặc phương pháp bảng câu hỏi (BCH)/phỏng vấn).

Hiện nay, có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực NSLĐ trong XD (Dai và các tác giả, 2009; Thomas và các tác giả, 1992; Sweis và các tác giả, 2008; Gundecha và các tác

Page 119: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 115

giả, 2012). Đối với các nước phát triển, nghiên cứu của Dai và các tác giả (2009) xác định 4 nhân tố ảnh hưởng NSLĐ của CNXD tại Mỹ là công cụ lao động, vật liệu XD, quản lý bản vẽ kỹ thuật, và thiết bị XD. Nghiên cứu của Gundecha và các tác giả (2012) thông qua bảng khảo sát gồm 40 nhân tố được gửi đến các công trình XD tại Mỹ đã chứng minh 5 nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất đến NSLĐ là thiếu vật liệu XD, khả năng cung cấp nước, tại nạn lao động, thiếu công cụ lao động, điều kiện XD kém. Tương tự, đối với các nước đang phát triển, NSLĐ đang là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ (2002) đã đưa ra một cái nhìn tổng thể về thực trạng thị trường XD tại TP.HCM. Kết quả khảo sát về CNXD, phân tích những quan điểm và thái độ của họ về nghề nghiệp để đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến tinh thần làm việc và lòng yêu nghề của họ nhằm cải tiến NSLĐ và tiết kiệm chi phí nhân công (Đỗ, 2002). Một nghiên cứu khác của Đỗ (2004) đã xác định 4 nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất đến NSLĐ trong thi công XD tại hiện trường là mặt bằng công trường, quản lý vật tư, tiến độ thi công, động cơ làm việc của công nhân. Tại Lybia, Omran (2011) đã xác định được 20 nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ ở Lybia thông qua BCH khảo sát. Kết quả đã chỉ ra có 5 nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất là thiếu lao động lành nghề, trả lương chậm trễ, thiếu công cụ và thiết bị thi công, lao động tập trung quá nhiều trên công trường, máy móc chưa sẵn sàng tại công trường (Omran, 2011). Năm 2015, một nghiên cứu ở Bahrain chỉ ra có 5 trong 37 nhân tố có sự ảnh hưởng đáng kể đến NSLĐ của CNXD là kỹ năng của công nhân, phối hợp giữa các bên, thiếu lực lượng giám sát, lỗi và sai sót trong XD, đáp ứng yêu cầu thông tin chậm trễ (Jarkas, 2015).

Thông qua các nghiên cứu trên có thể nhận thấy rằng, do có sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia nên các yếu tố tác động đến NSLĐ của mỗi nước là khác nhau. Vì vậy, kết quả nghiên cứu được tiến hành ở nước này khó có thể áp dụng cho nước khác. Đồng thời, cho đến nay chưa có nghiên cứu được thực hiện ở Campuchia để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD. Mục đích của nghiên cứu là nhận dạng các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD tại Campuchia theo hai chiều hướng làm tăng và làm giảm NSLĐ.

3. Phương pháp nghiên cứu Tổng quan từ các tài liệu, bài báo, phương tiện truyền

thông, và kết quả của các nghiên cứu trước đây liên quan đến NSLĐ trong ngành XD, đồng thời phỏng vấn các chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong ngành XD để xác định các yếu tố phù hợp.

Dựa vào các yếu tố đã nhận dạng trên, một BCH sơ bộ đã được thiết kế. BCH được gởi đến 7 chuyên gia về NSLĐ trong XD để loại bỏ những yếu tố không thích hợp và bổ sung những yếu tố mới thích hợp với thị trường XD ở Campuchia. Các chuyên gia đã xem xét và góp ý các nội dung trong từng câu hỏi để đảm bảo BCH được ngắn gọn và dễ hiểu nhất.

Từ kết quả của bước trên, một BCH hoàn chỉnh gồm 54 yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD và được phân theo 4 nhóm: tài nguyên sử dụng, phương thức quản lý,

đặc điểm DA, và các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ như sau: rất xấu (-2), xấu (-1), bình thường (0), tốt (1), và rất tốt (2). Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha cho tất cả các biến là 0,857 (> 0,7), đồng thời hệ số Cronbach’s Alpha cho mỗi yếu tố đều lớn (> 0,8). Như vậy, thang đo lường là phù hợp (Hoàng & Chu, 2008).

BCH được gửi trực tiếp và qua email đến các đối tượng là kỹ sư XD, chỉ huy trưởng, và tư vấn giám sát theo 2 nhóm đánh giá là người Việt Nam và người Campuchia đã và đang tham gia tại các công trình dân dụng và công nghiệp trên địa bàn thủ đô Phnom Penh và một số tỉnh lân cận. Dữ liệu thu về được kiểm tra nhằm loại bỏ những bộ dữ liệu không phù hợp. Sau khi thực hiện loại bỏ, 70 bảng khảo sát còn lại được cho là phù hợp. Sau đó, phân tích nhân tố khám phá được thực hiện để xác định các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ của CNXD tại Campuchia.

4. Kết quả phân tích nhân tố khám phá Kết quả nghiên cứu đã xác định được 20 yếu tố tác động

đáng kể đến NSLĐ của CNXD ở Campuchia, trong đó có 5 yếu tố tác động gây giảm NSLĐ và 15 yếu tố ảnh hưởng tích cực đến NSLĐ. Do đó, phân tích nhân tố khám phá sẽ được thực hiện đối với các yếu tố gây giảm NSLĐ và các yếu tố làm tăng NSLĐ. 4.1. Kết quả phân tích nhân tố khám phá đối với các yếu tố làm giảm NSLĐ của CNXD Campuchia

Từ bộ dữ liệu đã thu thập, nghiên cứu thực hiện đánh giá xếp hạng trị trung bình của các yếu tố và xác định có 5 yếu tố ảnh hưởng đáng kể làm giảm NSLĐ theo đánh giá của các kỹ sư Việt Nam và Campuchia làm việc tại Phnom Penh và các tỉnh lân cận. Kết quả được trình bày trong Bảng 1.

Tiến hành kiểm định KMO (Kaiser - Mayer - Olkin) và kiểm định Bartlett để kiểm tra sự phù hợp của dữ liệu trước khi thực hiện phân tích nhân tố khám phá. Nhận thấy rằng số liệu thu thập là phù hợp để phân tích nhân tố với giá trị KMO là 0,687 và giá trị đáng kể của kiểm định Bartlett là 0,000. Phân tích nhân tố khám phá được thực hiện với 5 biến quan sát được rút gọn bằng phương pháp phân tích thành tố chính và phép quay Varimax. Kết quả phân tích đã chỉ ra 2 nhóm yếu tố gây giảm NSLĐ của CNXD Campuchia với phương sai giải thích được là 67,458%. Kết quả phân tích được trình bày ở Bảng 2 và Hình 1.

Bảng 1. Kết quả xếp hạng các yếu tố có trị trung bình < -0,5

STT Các yếu tố ảnh hưởng làm giảm NSLĐ Trung bình

1 Sai sót trong quá trình thiết kế -1,031

2 Sai sót trong quá trình thi công -0,765

3 Bản vẽ chưa sẵn sàng -0,539

4 Môi trường vệ sinh (bụi, tiếng ồn, vệ sinh...) -0,522

5 Sự biến động của giá cả thị trường -0,515

Page 120: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

116 Phạm Minh Ngọc Duyên, Ry Sopheap, Lê Hoài Long, Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu

Bảng 2. Kết quả phân tích nhân tố

Các yếu tố

Hệ

số

thàn

h tố

Giá

trị

riêng

% p

hươn

g sa

i

% p

hươn

g sa

i tíc

h lũ

y

Sai sót trong quá trình thực hiện DA 2,319 34,730 34,730

PTQL11 Sai sót trong quá trình thiết kế 0,879

PTQL10 Sai sót trong quá trình thi công 0,884

Bản vẽ chưa sẵn sàng và môi trường xây dựng 1,053 32,728 67,458

DDTC2 Bản vẽ chưa sẵn sàng 0,768

NTBN8 Môi trường vệ sinh 0,733

NTBN4 Sự biến động của giá cả thị trường 0,746

Hình 1. Biểu đồ thể hiện số nhân tố theo giá trị riêng

Nhân tố ‘sai sót trong quá trình thực hiện DA’: DA được thực hiện thông qua 3 giai đoạn. Các giai đoạn đều quan trọng như nhau. Do đó, nếu giai đoạn nào có vấn đề đều làm ảnh hưởng đến tiến độ và chi phí của DA. Tuy nhiên, trong 3 giai đoạn trên thì giai đoạn thực hiện là giai đoạn gây tốn chi phí và thời gian nhiều nhất. Vì vậy, trước khi thực hiện giai đoạn này, cần phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ hợp đồng, tài liệu liên quan, chuẩn bị bản vẽ kỹ thuật một cách rõ ràng, đầy đủ để công nhân có thể dễ dàng đọc hiểu, khi thực hiện ít gặp sai sót và hạn chế việc làm lại, kết quả là làm tăng NSLĐ. Ngược lại, nếu quá trình thực hiện có nhiều sai sót sẽ làm tốn thời gian, chi phí gây chậm trễ tiến độ, người lao động có tâm lý chán nản khi phải làm lại nhiều lần gây ảnh hưởng đến NSLĐ. Bên cạnh đó, điều này cũng làm chủ đầu tư không hài lòng về nhà thầu, gây chậm trễ việc thanh toán, đồng thời làm mất uy tín của nhà thầu. Vì vậy, khi tham gia thị trường XD ở Campuchia, các nhà thầu Việt Nam cần phải hoạch định DA một cách cụ thể để hạn chế những sai sót trong quá trình thực hiện DA.

Nhân tố ‘bản vẽ chưa sẵn sàng và môi trường XD’: Theo quy trình thìbản vẽ thi công (BVTC) được duyệt mới được phép tiến hành thi công. Nếu tiến hành thi công khi BVTC chưa đầy đủ/ không rõ ràng hoặc chưa được phê duyệt thì sẽ làm quá trình thi công bị chậm trễ do công trường phải chờ BVTC từ văn phòng hoặc dễ gặp sai sót

do công nhân không đọc hiểu được BVTC. Ngoài ra, khi BVTC chưa sẵn sàng thì việc thiết kế biện pháp tổ chức thi công, biện pháp an toàn gặp khó khăn và khó đảm bảo an toàn lao động trên công trường dễ dẫn đến các tai nạn lao động gây ảnh hưởng đến NSLĐ.

Trong nghiên cứu này, môi trường XD bao gồm môi trường vệ sinh và vấn đề thị trường. Tại công trường XD, các vấn đề về mất vệ sinh, bụi bẩn, vi khí hậu dễ làm ảnhhưởng đếnsức khỏe của công nhân và kỹ sư và làm giảm NSLĐ của họ. Đối với các vấn đề biến động thị trường, việc giá cả vật tư thay đổi bất thường trong quá trình XD sẽ làm ảnh hưởng đến chi phí dự phòng của nhà thầu cũng như khả năng chi trả lương cho công nhân, điều này tác động đến hiệu quả làm việc của công nhân. 4.2. Kết quả phân tích các yếu tố làm tăng NSLĐ theo đánh giá của kỹ sư Campuchia và kỹ sư Việt Nam

Dựa trên kết quả đánh giá xếp hạng trị trung bình của các yếu tố, nghiên cứu xác định có 15 yếu tố ảnh hưởng đáng kể làm tăng NSLĐ của CNXD tại Campuchia. Kết quả được trình bày ở Bảng 3.

Tương tự, thực hiện kiểm định KMO và kiểm định Bartlett, kết quả kiểm định với giá trị KMO là 0,687 và giá trị đáng kể của kiểm định Bartlett là 0,000 cho thấy bộ dữ liệu phù hợp để phân tích nhân tố (Hoàng & Chu, 2008).

Bảng 4 cho thấy tổng phương sai giải thích tích lũy là 71,832%. Như vậy, 4 thành tố được rút ra giải thích được 71,832% biến thiên của dữ liệu. Sử dụng phép xoay Varimax, phương pháp phân tích nhân tố chính để thực hiện xoay nhân tố, có 4 nhóm với hệ số tải thành tố trên mỗi nhân tố được trình bày trong Bảng 4.

Bảng 3. Các yếu tố ảnh hưởng làm tăng NSLĐ

STT Các yếu tố ảnh hưởng làm tăng NSLĐ Trung bình

1 Biện pháp thi công sẵn sàng và triển khai chi tiết 0,884

2 Bố trí nhân lực và giám sát 0,826

3 Bản vẽ thi công đầy đủ và hoàn chỉnh 0,814

4 Bố trí mặt bằng thi công công trường 0,729

5 Hoạch định DA và lập tiến độ thi công 0,691

6 Sự phối hợp giữa công ty và công trường 0,672

7 Kế hoạch cung ứng thiết bị thi công 0,671

8 Chế độ khuyến khích tinh thần làm việc của công nhân 0,618

9 Mối quan hệ giữa các công nhân xây dựng 0,609

10 Kế hoạch cung ứng và vận chuyển vật tư 0,600

11 Năng lực kinh nghiệm thi công của nhà thầu 0,577

12 Năng lực và trách nhiệm của Tư vấn giám sát 0,544

13 Phương pháp thi công 0,522

14 Hệ thống quản lý và trao đổi thông tin 0,507

15 Quy trình quản lý thầu phụ 0,500

Nhân tố ‘hệ thống quản lý tốt’: Một DA có hệ thống quản lý tốt sẽ đảm bảo các vấn đề về an toàn, chất lượng, tiến độ, và chi phí. Bởi vì khi người quản lý có kế hoạch

Page 121: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 117

thi công hợp lý và biện pháp tổ chức thi công cụ thể, giúp các công việc được thực hiện liên tục và không làm ảnh hưởng đến NSLĐ của công nhân. Ngoài ra, khi công trường gặp sự cố, việc phối hợp tốt giữa các phòng ban của công ty và công trường sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc giải quyết sự cố kịp thời và nhanh chóng, giúp quá trình thi công diễn ra thuận lợi. Bên cạnh đó, các chế độ thưởng và phạt cụ thể sẽ khuyến khích tinh thần làm việc của công nhân và làm tăng NSLĐ của họ.

Nhân tố ‘kế hoạch công việc tốt’: Theo đánh giá của các kỹ sư tại công trường ở Campuchia, việc bố trí hợp lý mặt bằng công trường sẽ giảm đáng kể thời gian chờ đợi, công nhân thi công được liên tục, và hạn chế ảnh hưởng đến tiến độ của DA.

Nhân tố ‘nhân lực tốt’: Các kỹ sư làm việc đúng chuyên ngành, công nhân có trình độ tay nghề cao, kinh nghiệm lâu năm… mối quan hệ giữa các kỹ sư hoặc giữa kỹ sư và công nhân tốt sẽ giúp cho quá trình làm việc với nhau dễ dàng hơn và nhiều thuận lợi.

Nhân tố ‘năng lực nhà thầu’: Trước khi thi công, nhà thầu cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bản vẽ, đội ngũ thi công có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thi công, và sử dụng biện pháp thi công phù hợp. Điều này giúp DA thực hiện đúng tiến độ, tiết kiệm chi phí, ít sai sót.

Bảng 4. Kết quả phân tích nhân tố

Các yếu tố

Hệ

số th

ành

tố

Giá

trị r

iêng

% p

hươn

g sa

i

% p

hươn

g sa

i tíc

h lũ

y

Hệ thống quản lý tốt 6,423 24,110 24,110

PTQL17 Hệ thống quản lý và trao đổi thông tin 0,779

PTQL4 Biện pháp thi công sẵn sàng và triển khai chi tiết

0,529

PTQL5 Bản vẽ thi công đầy đủ và hoàn chỉnh 0,680

PTQL14 Hoạch định DA và lập tiến độ thi công 0,675

PTQL15 Sự phối hợp giữa công ty và công trường 0,676

PTQL22 Chế độ khuyến khích tinh thần làm việc của công nhân

0,644

PTQL8 Năng lực và trách nhiệm của Tư vấn giám sát

0,599

Kế hoạch công việc tốt 1,524 19,686 43,796

PTQL19 Kế hoạch cung ứng và vận chuyển vật tư 0,825

PTQL20 Kế hoạch cung ứng thiết bị thi công 0,841

PTQL18 Bố trí mặt bằng thi công công trường 0,793

Nhân lực tốt 1,082 14,437 58,233

TN12 Mối quan hệ giữa các công nhân xây dựng 0,772

PTQL3 Bố trí nhân sự và giám sát 0,707

PTQL8 Năng lực và trách nhiệm của Tư vấn giám sát

0,675

Nhân lực nhà thầu 1,028 13,599 71,832

PTQL5 Bản vẽ thi công đầy đủ và hoàn chỉnh 0,502

PTQL2 Năng lực và kinh nghiệm thi công của nhà thầu

0,705

PTQL9 Phương pháp thi công 0,754

Hình 2. Biểu đồ thể hiện số nhân tố theo giá trị riêng

5. Kết luận Thông qua việc phân tích nhân tố khám phá, nghiên cứu

đã xác định được 4 nhóm nhân tố quản lý làm tăng NSLĐ của CNXD là hệ thống quản lý tốt, bố trí và cung ứng vật tư và thiết bị tốt, nhân lực tốt, và năng lực nhà thầu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra 2 nhóm nhân tố quản lý làm giảm NSLĐ là sai lầm trong quá trình thực hiện DA và bản vẽ chưa sẵn sàng và môi trường XD. Các bên liên quan trong DA có thể áp dụng các kết quả nghiên cứu trên làm cơ sở để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm cải thiện và nâng cao NSLĐ của CNXD, đảm bảo DA hoàn thành đúng tiến độ, đạt chất lượng và tiết kiệm chi phí, góp phần gia tăng sự thành công của DA.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Dai J., Goodrum P.M., Maloney W.F. “Construction craft

workers’ perceptions of the factors affecting their productivity”, Journal of Construction Engineering and Management, 135, 217-226, 2009.

[2] Đỗ T.X.L., “Nghiên cứu về mặt bằng sử dụng lao động trong ngành xây dựng tại Tp.HCM”, Hội nghị khoa học và công nghệ lần 8, trang 143-148, 2002.

[3] Đỗ T.X.L., “Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động trong thi công xây dựng tại hiện trường”, Tạp chí Sài Gòn đầu tư xây dựng số tháng 5, 2004.

[4] Gundecha M., “Study of factors affecting labor productivity at a building construction project in the USA”, web survey Fargo (ND): North Dakota State University, 2012.

Page 122: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

118 Phạm Minh Ngọc Duyên, Ry Sopheap, Lê Hoài Long, Nguyễn Văn Châu, Đặng Ngọc Châu

[5] Halligan, D.W., Demsetz, L.A., Brown, J.D., and Pace, C.B., “Action-response model and loss of productivity in construction”, Journal of Construction Engineering and Management, ASCE, 120(4),47–63, 1994.

[6] Hoàng T., Chu N.M.N., “Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS”, Nhà xuất bản thống kê, 2008.

[7] Jarkas A.M., “Factors influencing labor productivity in Bahrain’s construction industry”, International Journal of Construction Management, 15, 94-108, 2015.

[8] Omran A., Hammad M.S., Mamat A.K.P., “Factors affecting productivity in the Libyan construction projects: a case study”, Journal of Academic Research in Economics,3, 77-88, 2011.

[9] Odeh A.M., Battaineh H.T., “Causes of construction delay: traditional contracts”, International journal of project management, 20, 67-73, 2002.

[10] Sweis G.J., Sweis R.J., Abu Hammad A.A., Randolph T.H., “Factors affecting baseline productivity in masonry construction: a comparativestudy in the US, UK and Jordan”, Architectural Science Review, 51, 146-152, 2008.

[11] Thomas H.R., Sanders S.R., Bilal S., “Comparison of labor productivity”, Journal of Construction Engineering and Management, 118, 635-650, 1992.

[12] Thomas H, Mathews C, Ward J., “Learning curve models of construction productivity”, Journal of Construction Engineering and Management, 112(2), 245-258, 1986.

[13] Trương H.T., “Quản lý rủi ro cho các dự án đầu tư xây dựng của doanh nghiệp Việt Nam tại thi trường Campuchia bằng mô hình AHP”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, 2015.

(BBT nhận bài: 20/9/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/12/2016)

Page 123: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 119

HIỆU QUẢ KỸ THUẬT VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA CÁC HỘ TRỒNG LÚA Ở THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ,

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TECHNICAL EFFICIENCY AND ITS DETERMINANTS IN RICE FARMING

IN HUONG TRA TOWN, THUA THIEN HUE PROVINCE

Trần Hạnh Lợi Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế; [email protected]

Tóm tắt - Sử dụng Hàm sản xuất biên ngẫu nhiên và phầm mềmFrontier 4.1, nghiên cứu này nhằm xác định hiệu quả kỹ thuật vàcác yếu tố quyết định đến năng suất và hiệu quả kỹ thuật của cáchộ trồng lúa ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiên cứusử dụng số liệu bảng trong hai vụ lúa năm 2015 của 120 hộ đượclựa chọn bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng.Hiệu quả kỹ thuật của hộgiao động từ 0,66 đến 1, trung bình đạt0,795, và không có sự khác biệt về năng suất và hiệu quả kỹ thuậttrung bình giữa 2 vụ lúa. Lượng phân kali, công lao động và nướccó tác động tích cực đến năng suất lúa trong khi đó lượng lúagiống, thuốc BVTV có ảnh hưởng trái chiều. Kết quả phân tích hàmphi hiệu quả kỹ thuật cho thấy các yếu tố như vị trí mảnh ruộng sovới hệ thống thuỷ lợi, số lao động nông nghiệp và việc cung cấpnước đúng lịch là những yếu tố có tác động tích cực nhất tới hiệuquả kỹ thuật trồng lúa.

Abstract - Using Stochastic Production Frontier and Frontier 4.1 program, this study estimates technical efficiency and determinants of rice yield and determinants of technical efficiency of rice-farming households in Huong Tra town, Thua Thien Hue province. The study uses panel data in two rice growing seasons of 2015, collected from 120 rice-farming households which are selected by stratified random sampling method. Technical efficiency of surveyed households ranges from 0.66 to 1 and attains 0.795 on average. There are no statistically significant differences between means of rice yield and technical efficiency in two rice growing seasons. Rice yield is positively impacted by kalium fertilizer, labour and water whereas seed and pesticide have reverse effects on the output of production. The result of technical inefficiency model shows that tail-end location of the plot, the number of farming labor, and in-time irrigation service are the major factors that cause positive effects on households’ technical efficiency.

Từ khóa - hiệu quả kỹ thuật; lúa; hàm sản xuất biên ngẫu nhiên;Hương Trà; thuỷ lợi; frontier 4.1

Key words - technical efficiency, rice, stochastic production frontier; Huong Tra, irrigation; frontier 4.1

1. Đặt vấn đề

Nông nghiệp ở một lĩnh vực quan trọng của Việt Nam, đóng góp đến 17% giá trị quốc nội và tạo công ăn việc làm cho 44% lực lượng lao động. Trong nông nghiệp, lúa là cây trồng chính, chiếm đến 52,5% diện tích đất trồng trọt và đóng góp 89,5% tổng sản lượng lương thực có hạt [1]. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn kể từ năm 1989, và hiện tại là nước xuất khẩu lúa gạo lớn thứ hai thế giới, sau Thái Lan. Năm 2015, Việt Nam xuất khẩu được 6,6 triệu tấn gạo, chiếm 15% tổng lượng gạo giao dịch trên thế giới [2]. Có được kết quả này là nhờ thay đổi trong cơ chế quản lý đất đai, cơ chế thị trường, áp dụng kỹ thuật sản xuất lúa hiện đại, sử dụng phân bón, giống lúa năng suất cao.

Thị xã Hương Trà nằm ở trung độ của tỉnh Thừa Thiên Huế, là một trong những khu vực từ lâu đã gắn liền với hoạt động sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế. Với diện tích hơn 6000ha,đây là một vựa lúa quan trọng góp phần không nhỏ cho sản lượng lúa toàn tỉnh, đồng thời đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người nông dân.Tuy nhiên, diện tích, năng suất, và sản lượng lúa trên địa bàn thị xã những năm gần đây có khuynh hướng giảm với cơ cấu giống lúa gieo trồng khá nghèo nàn, chủ yếu là Khang Dân 18 (KD) và Hương Thơm số 1 (HT1)[3]. Do đó một câu hỏi đặt ra là liệu các hộ trồng lúa đã sử dụng yếu tố đầu vào hiệu quả chưa để đạt năng suất tối đa? Có những yêu tố nào ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kỹ thuật của các hộ trồng lúa?

Hiện nay có hai cách để tiếp cận đo lường hiệu quả kỹ thuật: phương pháp tham số và phương pháp phi tham số. Trong khi phương pháp tham số dựa vào một dạng hàm cụ

thể thì phương pháp phi tham số không xây dựng một dạng hàm cụ thể và giả định rằng số liệu đưa vào phân tích không chứa các sai số ngẫu nhiên do đo lường. Đối với phương pháp tham số thì có 2 mô hình thường được sử dụng là hàm sản xuất biên xác định (Deterministic Production Frontier - DPF) và hàm sản xuất biên ngẫu nhiên (Stochastic Production Frontier - SPF). Trong mô hình DPF, bất kì sự sai lệch khỏi giới hạn sản xuất được xem là do phi hiệu quả. Phương pháp bình phương bé nhất có hiệu chỉnh (COSL) được sử dụng cho kiểu hàm này. Trong khi đó, mô hình SPF cho phép sai số ngẫu nhiên xung quanh hàm sản xuất được ước lượng. Phương pháp hàm sản xuất biên ngẫu nhiên cho phép phân tách ảnh hưởng của nhiễu và ảnh hưởng của phi hiệu quả [4]. Do hoạt động sản xuất lúa ở nước ta là một ví dụ điển hình của hoạt động sản xuất sử dụng nhiều đầu vào để tạo ra một đầu ra duy nhất, và khả năng có sai số trong đo lường cao do việc ghi chép thông tin của nông hộ còn hạn chế nên sử dụng cách tiếp cận tham số, cụ thể là hàm sản xuất biên ngẫu nhiên, để đo lường hiệu quả kỹ thuật của hoạt động trồng lúa của nông hộ là phù hợp hơn.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu về hiệu quả kỹ thuật trồng lúa bằng phương pháp SPF ở nước ta chưa nhiều, tập trung ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng. Các nghiên cứu trước đây thường tập trung vào các yếu tố đầu vào truyền thống như giống, phân bón, thuốc BVTV, công lao động [5,6,7, 8] mà chưa đưa vào yếu tố đầu vào quan trọng không thể thiếu cho hoạt động trồng lúa, đó là thuỷ lợi.

Xuất phát từ thực tế nếu trên, nghiên cứu này sẽ sử dụng phương pháp SPF để tiến hành xác định hiệu quả kỹ thuật

Page 124: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

120 Trần Hạnh Lợi

trồng lúa và phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật, trong đó có yếu tố thuỷ lợi. Số liệu sẽ được phân tích bằng phần mềm Frontier 4.1 cho phép chạy ra kết quả trong 1 bước.

2. Phương pháp nghiên cứu Farrel (1957) là người đầu tiên đề cập đến khái niệm về

hiệu quả kinh tế, hiệu quả phân phối và hiệu quả kỹ thuật. Ông giải thích hiệu quả kỹ thuật là khả năng đạt đến mức sản lượng tối đa từ một tập hợp nhất định các yếu tố đầu vào cho trước. Nghiên cứu của Farrell đã được áp dụng rộng rãi và đã có nhiều nghiên cứu được cải biến và phát triển lên từ nghiên cứu này. Một trong số đó là sự mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên (SPF) cho phép xác định hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của đơn vị sản xuất bằng ước lượng hợp lý cực đại (Maximun Likelihood Estimation – MLE). Hàm SPF được đề xuất đầu tiên bởi Aigner, Lovell và Schmidt [9], Meeusen va Broceck [10], sau đó có nhiều nghiên cứu cải biến mô hình hàm này. Nghiên cứu này sử dụng mô hình của Battese và Coelli [11]. Sử dụng dữ liệu bảng, hàm sản xuất biên ngẫu nhiên có dạng như sau: = ( ; ) ( − ) = 1, . . , ; = 1, … , (1)

Mô hình (1) có thể viết lại dưới dạng mô hình Cobb-Douglas hoặc Translog. Nghiên cứu này sử dụng mô hình Cobb-Douglas vì mô hình này được sử dụng khá rộng rãi trong xác định hiệu quả sản xuất của nông hộ, và theo Kopp và Smith [12] mô hình này có ít ảnh hưởng đến việc đo lường hiệu quả thực nghiệm. Mô hình (1) viết lại như sau: = + + + − (2)

Trong đó, Yit là năng suất của hộ i ở thời điểm t; Xjit là yếu tố đầu vào j của hộ i ở thời điểm t; T là thời điểm (năm/vụ…); β0, βj vàβk+1 là hệ số cần ước lượng; Vit là sai số ngẫu nhiên và được giả định có phân phối chuẩn đối xứng N(0,σv

2) và độc lập với Uit; Uit là sai số do tác động của phi hiệu quả kỹ thuật, được giả định có phân phối chuẩn cụt với giá trị trung bình là μ và phương sai σu

2,và Uit≥ 0.

Uit có thể được xác định dưới dạnghàm, gọi là hàm phi hiệu quả kỹ thuật. Hàm này được sử dụng để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến phi hiệu quả kỹ thuật và được mô tả như sau:

= + ∑ + (3) Trong đó, Zjit là các yếu tố ảnh hưởng đến phi hiêu quả

kỹ thuật; δ0 và δj là các hệ số cần ước lượng; và ωit là sai số ngẫu nhiên.

Hiệu quả kỹ thuật (TE) là tỷ số giữa năng suất thực tếvà năng suất tối đa có thể đạt được của đơn vị sản xuất thứ i tại thời điểm t, nó có giá trị từ 0 cho đến 1. TE được tính như sau:

TEit = E(Yit|Uit>0,Xit)/E(Yit|Uit=0,Xit) = exp (-Uit ) (4) Phương pháp MLE được sử dụng để xác định đồng thời

tham số của mô hình (2) và mô hình (3) bằng chương trình Frontier 4.1 của Coelli (2007). Nó cũng ước lượng tham số phương sai của hàm khả năng (likelihood function) dưới

dạng = + và = ÷ ( + ). Hệ số γcó giá trị từ 0 đến 1, thể hiện đóng góp tương đối của Vit và Uit đến tổng sai số trong mô hình (2), được sử dụng để kiểm định sự phù hợp của hàm SPF so với hàm OLS. Nếu γ tiến đến 0 thì nên dùng hàm sản xuất OLS, còn nếu γ tiến đến 1 thì nên dùng hàm SPF.

Dựa vào các mô hình lý thuyết nêu trên, nghiên cứu thực nghiệm sử dụng 7 biến độc lập cho mô hình hàm sản xuất (2) và 12 biến độc lập cho mô hình hàm phi hiệu quả kỹ thuật (3). Thông tin cơ bản của các biến được sử dụng trong mô hình (2) và (3) được mô tả trong bảng 1.

Nguồn số liệu sơ cấp được lấy từ điều tra hộ ở thị xã Hương Trà. Phường được lựa chọn để điều tra dựa trên quy mô diện tích và năng suất lúa để đảm bảo tính đại diện cho toàn thị xã. Đồng thời, để thấy được ảnh hưởng của thuỷ lợi đến hiệu quả kỹ thuật trồng lúa, nghiên cứu đã lựa chọn địa điểm điều tra dựa trên vị trí vùng canh tác lúa so với hệ thống kênh thuỷ lợi (đầu kênh, giữa kênh và cuối kênh). Thị xã Hương Trà có hệ thống thủy lợi Khe Ngang là lớn nhất. Ba phường - Hương Hồ, Hương An, Hương Chữ - lần lượt nằm ở vị trí đầu, giữa và cuối hệ thống thuỷ lợi này nên được lựa chọn để điều tra. Phương pháp chọn mẫu là ngẫu nhiên phân tầng. Tổng số mẫu điều tra là 120 hộ.

Bảng 1. Các biến và Mô tả đặc điểm biến

Tên biến Mô tả biến

A. Mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nghiên

Năng suất lúa (Yit) Năng suất lúa (tạ/sào/vụ) t = 1 : vụ Đông Xuân, t = 2 : vụ Hè Thu

Giống (X1it) Lượng giống lúa (kg/sào/vụ)

Phân lân (X2it) Lượng phân đạm (kg/sào/vụ)

Phân đạm (X3it) Lượng phân lân (kg/sào/vụ)

Phân kali (X4it) Lượng phân kali (kg/sào/vụ)

Thuốc BVTV (X5it) Lượng thuốc BVTV (1000đ/sào/vụ)

Nước (X6it) Số lần tưới nước (lần/vụ)

Công lao động (X7it) Số công lao động (công/sào/vụ)

Vụ canh tác (T) T=1 vụ Đông Xuân, T=0 vụ Hè Thu

B. Mô hình hàm phi hiệu quả kỹ thuật

Tuổi (Z1it) Tuổi của chủ hộ (tuổi)

Trình độ (Z2it) Trình độ học vấn của chủ hộ (số năm đi học)

Loại giống (Z3it) 1 = HT1 ; 0 = Khang Dân

Số LĐNN (Z4it) Số lao động nông nghiệp (người)

Dịch bệnh lúa (Z5it) 1 = Có ; 0 = Không

Tập huấn (Z6it) 1 = Có ; 0 = Không

Thu nhập từ lúa (Z7it) Thu nhập từ trồng lúa của hộ (ngàn đồng/năm)

Ruộng đầu kênh (Z8it) 1 = Có ; 0 = Không

Ruộng cuối kênh (Z9it) 1 = Có ; 0 = Không

Thuỷ lợi cung cấp đủ nước(Z10it)

1 = không đủ, 2 = bình thường, 3 = đầy đủ

Page 125: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 121

Thuỷ lợi cung cấp nước đúng lịch (Z11it)

1 = không đúng lịch, 2 = bình thường, 3 = đúng lịch

Thuỷ lợi cấp nước linh động khi cần (Z12it)

1 = không linh động, 2 = bình thường, 3 = linh động

Ghi chú : 1 sào = 500 m2

3. Kết quả và thảo luận 3.1. Đặc điểm, đầu vào và kết quả hoạt động sản xuất lúa của hộ điều tra

Số liệu thống kê mô tả của các biến quan trọng sử dụng trong hàm sản xuất (2) và hàm phi hiệu quả kỹ thuật (3) được mô tả ở bảng 2. Năng suất lúa bình quân hộ đạt 2,8 tạ/sào, thấp hơn so với năm suất lúa bình quân cả nước và của tỉnh trong năm 2015 [1], [13]. Lượng giống lúa được gieo trên 1 sào là 5,4 kg, hơi cao hơn mức được khuyến cáo là 4 đến 5 kg/sào. Lượng phân bón và tỷ trọng phân Đạm – Lân – Kali tương đối hợp lý. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Lê Khắc Phúc và cộng sự [3]. Hoạt động trồng lúa mang lại thu nhập bình quân hộ đạt 14,4 triệu đồng/năm, nhưng giao động trong khoảng khá rộng, từ 2,5 triệu đến 37,3 triệu đồng/năm. Đa phần chủ hộ đã ở tuổi trung niên, trình độ học vấn không cao, bình quân có 6,6 năm đến trường. Trong năm 2015, hơn 1/5 số hố hộ được tập huấn kỹ thuật và hơn 1/3 số hộ có ruộng lúa bị sâu bệnh. Tỷ trọng hộ gieo trồng giống lúa KD và HT1 tương đối khá cân bằng. Phần lớn các hộ đánh giá dịch vụ thuỷ lợi ở đây khá tốt thông qua các tiêu chí như cung cấp đủ nước, cung cấp đúng lịch và linh động khi cần.

Bảng 2. Số liệu thống kê về hộ trồng lúa

Biến định lượng Bình quân Tối đa Tối

thiểu Sai số chuẩn

Năng suất lúa (Yit) 2,81 3,5 2,2 0,26

Giống (X1it) 5,42 6 4 0,54

Phân lân (X2it) 7,55 13 3 2,59

Phân đạm (X3it) 10,41 20 5 3,72

Phân kali (X4it) 5,34 11 2,25 1,89

Thuốc BVTV (X5it) 91,89 150 60 20,27

Nước (X6it) 6 8 4 1,42

Công lao động (X7it) 7,4 9 6 0,98

Tuổi (Z1it) 52,72 78 33 10,28

Trình độ (Z2it) 6,61 12 0 3,77

Số LĐNN (Z4it) 1,88 3 1 0,38

Thu nhập từ lúa (Z7it) 14363,7 37315 2499 7819,5

Biến định tính Tỷ trọng (%)

Theo thang đo 0 1

Loại giống (Z3it) 51,2 48,8

Dịch bệnh lúa (Z5it) 62,5 37,5

Tập huấn (Z6it) 71,7 21,3

Ruộng đầu kênh (Z8it) 66,7 33,3

Ruộng cuối kênh (Z9it) 66,7 33,3

Theo thang đo

1 2 3

Thuỷ lợi cung cấp đủ nước (Z10it) 0,0 33,8 66,2

Thuỷ lợi cung cấp nước đúng lịch (Z11it) 4,2 34,2 61,6

Thuỷ lợi cấpnước linh động khi cần (Z12it) 3,3 27,9 68,8

3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lúa Kết quả trình bày ở bảng 3 cho thấy ảnh hưởng của các

yếu tố đầu vào đến năng suất lúa của các hộ nông dân. Công lao động có tác độngmạnh nhất đến năng suất lúa với mức ý nghĩa 1%. Khi tăng 1% công lao động thì năng suất lúa sẽ tăng thêm 0,211%. Do đó, để tăng năng suất cây lúa, các hộ nông dân nên đầu tư thêm công lao động. Tiếp theo là yếu tố nước, cụ thể nêu số lần tưới nước tăng lên 1% thì năng suất lúa tăng lên 0,123%. Trong khi đó, biến thuốc bảo vệ thực vật lại có tác động tiêu cực đến năng suất lúa với mức ý nghĩa 1%. Khi tăng thêm 1% chi phí cho thuốc bảo vệ thực vật thì năng suất lúa sẽ giảm xuống 0,089%. Điều này cho thấy các hộ đang sử dụng thuốc BVTV nhiều hơn mức tối ưu. Trong khi đó ảnh hưởng của phân kali mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Hệ số này cho biết, khi tăng lượng phân kali lên 1% thì năng suất lúa sẽ tăng lên 0,037%. Các biến giống, phân đạm và phân lân không có ý nghĩa thống kê, nhưng hệ số ảnh hưởng của biến giống và phân lân mang dấu âm điều này cho thấy các hộ nông dân đang đầu tư lượng giống và phân lân nhiều hơn mức cần thiết. Điều này cũng phù hợp với nhận định ban đầu dựa trên số liệu thống kê mô tả. Hệ số của biến giả T (vụ canh tác) không có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Điều đó có nghĩa là sự sai khác về năng suất lúa giữa 2 vụ trong năm 2015 là không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3. Kết quả ước lượng hàm sản xuất

Ký hiệu biến Tên biến Hệ số Độ

lệch Giá trị t

β0 Hằng số 1,456*** 0,197 7,404

Ln X1 Giống -0,065ns 0,042 -1,553

Ln X2 Phân lân -0,010ns 0,031 -0,310

Ln X3 Phân đạm 0,032ns 0,025 1,277

Ln X4 Phân kali 0,037* 0,019 1,908

Ln X5 Thuốc BVTV -0,089** 0,032 -2,842

Ln X6 Số lần nước tưới 0,123*** 0,009 13,030

Ln X7 Công lao động 0,211*** 0,022 9,708

T Vụ canh tác 0,028ns 0,015 0,169

γ 0,999*** 0,013 76,680

(Nguồn: ước lượng từ số liệu điều tra) (Ghi chú: *, **, *** là mức ý nghĩa của hệ số hồi quy

tương ứng với 10%, 5%, 1%; ns là hệ số hồi quy không có ý nghĩa thống kê)

Page 126: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

122 Trần Hạnh Lợi

Hệ số gama (γ) bằng 0,99 (gần tiến tới 1)và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này cho thấy các yếu tố phi hiệu quả kỹ thuật có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động sản xuất. Hay nói cách khác hoạt động sản suất của hộ không chỉ ảnh hưởng bới việc sử dụng các yếu tố đầu vào mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về kinh tế - xã hội hay còn gọi là các yếu tố phi hiệu quả kỹ thuật. Như vậy, việc sử dụng mô hình hàm sản xuất biên ngẫu nhiên là hoàn toàn phù hợp với số liệu của nghiên cứu này. 3.3. Hiệu quả kỹ thuật của hộ trồng lúa

Để thể hiện sự thay đổi và phân phối hiệu quả kỹ thuật của các hộ trong 2 vụ lúa năm 2015, chúng tôi thực hiện chạy tần suất hiệu quả kỹ thuật thể hiện ở bảng 4. Hiệu quả kỹ thuật bình quân đạt 0,79 ở vụ Đông Xuân và 0,8 ở vụ Hè Thu. Kết quả kiểm định cho thấy không có sự khác biệt về giá trị TE giữa 2 mùa vụ với mức ý nghĩa 5%. Đa số các hộ đều đạt hiệu quả kỹ thuật trên 0,7, trong đó hơn 50% số hộ có hiệu quả kỹ thuật từ 0,7 đến 0,8. Tuy nhiên số hộ nông dân đạt hiệu quả từ 0,9 trở lên rất ít, chỉ chiếm lần lượt là 7,5% và 9,2% tổng số hộ ở vụ Đông Xuân và vụ Hè Thu.

Bảng 4. Hiệu quả kỹ thuật của nông hộ

Phân tổ theo TE

Đông Xuân Hè Thu So sánh ĐX/HT

Số hộ % Số hộ % Số hộ %

<0,7 4 3,3 4 3,3 0 0,0

0,7– 0,8 69 57,5 65 54,2 -4 -3,3

0,8– 0,9 38 31,7 40 33,3 2 1,7

0,9 – 1 9 7,5 11 9,2 2 1,7

Tổng cộng 120 100 120 100

Nhỏ nhất 0,69 0,66

Lớn nhất 1,00 0,97

Trung bình 0,79a 0,80a

Ghi chú: a - Giá trị trung bình TE giữa 2 vụ mùa không có sự sai khác với mức ý nghĩa 5%

Bằng phương pháp khả năng cao nhất (MLE), nghiên cứu xác định hiệu quả kỹ thuật trung bình cả năm 2015 của toàn mẫu điều tra là 0,795. Điều này cho thấy, với các nguồn lực hiện có nếu phân bổ các đầu vào một cách hợp lý hơn thì năng suất của hộ còn có khả năng tăng thêm 20,5% để đạt năng suất tối đa. 3.4. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật

Hàm phi hiệu quả kỹ thuật (TIE) phản ánh tác động của các biến đặc điểm kinh tế - xã hội của hộ đến hệ số phi hiệu quả kỹ thuật. Do đó biến nào có hệ số mang dấu âm sẽ tác động tích cực đến hiệu quả kỹ thuật của nông hộ.

Biến Số lao động nông nghiệp trên hộ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kỹ thuật của lúa. Điều này cũng phù hợp với kết quả phân tích hàm sản xuất ở trên khi biến Công lao động có ảnh hưởng tích cực đến năng suất lúa. Kết quả phân tích cũng cho thấy hiệu quả kỹ thuật của giống lúa Khang Dân cao hơn giống lúa HT1 là 0,041. Đáng chú ý là các hộ có tham gia tập huấn trong năm 2015 lại đạt hiệu quả kỹ thuật thấp hơn các hộ không tham gia tập huấn là 0,023. Điều này có thể lý giải là do kết quả sản

xuất còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu và ứng dụng kiến thức tập huấn của hộ vào sản xuất.Vị trí của mảnh ruộng so với kênh thuỷ lợicũng ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật. Kết quả phân tích cho thấy, khi so sánh mảnh ruộng ở đầu, giữa và cuối kênh thuỷ lợi, những mảnh ruộng ở đầu và cuối kênh thuỷ lợi có hiệu quả thấp hơn các vị trí còn lại lần lượt là 0,058 và 0,118. Như vậy, mảnh ruộng ở giữa kênh thuỷ lợi có hiệu quả kỹ thuật cao hơn các mảnh ruộng khác là 0,176 và mảnh ruộng ở đầu kênh có hiệu quả kỹ thuật cao hơn mảnh ruộng ở cuối kênh là 0,06. Điều này cũng phù hợp với nhận địch của các nghiên cứu trước đây về thực trạng dư thừa nước ở đầu kênh và thiếu nước ở cuối kênh thuỷ lợi [14]. Chất lượng của dịch vụ thuỷ lợi cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật trồng lúa. Biến Nước được cung cấp đúng lịch mang hệ số âm là -0,01 với mức ý nghĩa 1% cho thấy những mảnh ruộng được cung cấp nước càng đúng lịch sẽ có hiệu quả kỹ thuật càng cao. Lý do trong quá trình sản xuất lúa, việc trổ nước từ kênh thủy lợi vào đồng ruộng đúng mỗi giai đoạn phát triển của cây lúa góp phần cho cây phát triển một cách tốt nhất. Mặc dù không có ý nghĩa thống kê nhưng biến Nước cung cấp đầy đủ cũng có khuynh hướng tác động tích cực đến hiệu quả kỹ thuật. Biến Vụ canh tác đưa vào mô hình này cũng không có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng phù hợp với kết quả kiểm định sự sai khác về giá trị trung bình TE của hộ ở vụ Đông Xuân và Hè Thu ở bảng 4.

Bảng 5. Kết quả ước lượng hàm phi hiệu quả kỹ thuật

Ký hiệu biến Tên biến Hệ số Độ

chệnh Giá trị t

Z0 Hằng số 0,152*** 0,050 3,063

Z1 Tuổi 0,000ns 0,001 0,322

Z2 Trình độ học vấn -0,000ns 0,001 -0,745

Z3 Loại giống 0,041*** 0,001 32,845

Z4 Số lao động nông nghiệp -0,014** 0,006 -2,195

Z5 Dịch bệnh 0,007ns 0,009 0,847

Z6 Tập huấn kỹ thuật 0,023*** 0,002 13,194

Z7 Thu nhập từ lúa 0,000ns 0,000 0,003

Z8 Ruộng đầu kênh 0,058*** 0,004 28,404

Z9 Ruộng cuối kênh 0,118*** 0,010 5,784

Z10 Thuỷ lợi cung cấp đủ nước -0,004ns 0,009 -0,445

Z11 Thuỷ lợi cung cấp nước đúng lịch -0,01*** 0,002 -4,268

Z12 Thuỷ lợi cấp nước linh động khi cần 0,000ns 0,006 0,069

T Vụ canh tác 0,001ns 0,007 0,023

σ2 0,004*** 0,000 9,680

Log likelihood function 313,502

LR test of the one-sided error 55,111

(Ghi chú: *, **, *** là mức ý nghĩa của hệ số hồi quy tương ứng với 10%, 5%, 1%; ns là hệ số hồi quy không có ý nghĩa thống kê)

Page 127: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 123

4. Kết luận Kết quả ước lượng hàm sản xuất biên ngẫu nhiên cho

thấy, năng suất lúa của các hộ ở thị xã Hương Trà chịu ảnh hưởng tích cực bởi yếu tố công lao động, nước và phân kali. Trong khi đó, một số yếu tố đầu vào vẫn chưa được người nông dân sử dụng hợp lý như thuốc BVTV, giống và phân lân.

Hiệu quả kỹ thuật của các hộ nông dân đạt 0,795, phần lớn các hộ đều đạt hiệu quả từ 0,7 trở lên. Tuy nhiên số hộ đạt mức trên 0,9 khá ít. Như vậy, nếu hiệu quả kỹ thuật được cải thiện, các hộ nông dân có thể tăng năng suất lúa thực tế lên mà không cần phải đầu tư thêm chi phí.

Kết quả phân tích cũng cho thấy, số lượng lao động nông nghiệp của hộ và việc cung cấp nước đúng lịch có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật. Mặc dù chất lượng kém hơn nhưng giống lúa KD lại có hiệu quả kỹ thuật cao hơn. Tham gia tập huấn kỹ thuật không giúp các hộ có hiệu quả kỹ thuật cao hơn những hộ không tham gia. Thuỷ lợi có vai trò quan trọng đối với sản xuất lúa. Điều này thể hiện ở việc các mảnh ruộng có khả năng tiếp cận nguồn nước dễ dàng hơn và đúng lịch hơn sẽ có hiệu quả kỹ thuật cao hơn.

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, để nâng cao hiệu quả kỹ thuật nhằm đạt năng suất lúa tối ưu, các hộ trồng lúa cần chú trọng đầu tư công lao động, sử dụng hợp lý phân bón và thuốc trừ sâu, công tác thuỷ lợi cần chú trọng việc cung cấp đủ nước và đúng lịch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tổng cục thống kê (2016). Niên giám thống kê 2015, Nhà xuất bản

Thống kê, Hà Nội, 947 trang. [2] Cục xúc tiến thương mại (2015). Thị trường lúa gạo năm 2015 và

dự báo năm 2016. http://www.vietrade.gov.vn/go/5396-thi-truong-lua-gao-the-gioi-nam-2015-va-du-bao-nam-2016-phan-2.html

[3] Lê Khắc Phúc, Nguyễn Thị Thu Hương, Trần Đăng Hoà (2015). Thực trạng sản xuất lúa tại thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa Học – Đại học Huế. Số 100, tập 1, 133-143

[4] Bogetoft, P., Otto, L. (2011), Benchmarking with DEA, SFA, and R. New York: Springer. (International Series in Operations Research and Management Science; No.157). DOI: 10.1007/978-1-4419-7961-2

[5] Huynh, T.H. (2009). Technical Efficiency of Rice-Producing Households in the Mekong Delta of Vietnam. Asian Journal of Agriculture and Development, Vol. 6, No. 2: 35-50.

[6] Huynh, V.K. & Mistuyasu, Y. (2011). Technical efficiency analysis of rice production in Vietnam. The Journal of ISSAAS. Vol 17. No 1: 135-146.

[7] Vu Hoang Linh (2007). Efficiency of rice farming household in Vietnam: A DEA with Bootstrap and Stochastic frontier application. Working papers, University of Minnessota, Minessota, USA.

[8] Nguyễn Hữu Đặng 2012. Hiệu quả kỹ thuật và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật của hộ trồng lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011. Kỷ yếu khoa học 2012 của Đại học Cần Thơ. 168-276.

[9] Aigner, D.J., Lovell, C.A.K. and Schmidt, P. (1997). Formulation and estimantion of stochastic frontier production function models. Journal of Econometrics. Vol. 6, No. 1: 21-37.

[10] Meeusen, W. and Broeck, J.V.D. (1997). Efficiency Estimation from Cobb-Douglas Production Functions with Composed Error. International Economic Review. Vol. 18, No. 2: 435-444.

[11] Battese, G.E. and Coelli, T.J. (1995), A model of Technical Inefficiency Effects in a Stochastic Frontier Production for Panel Data, Emperical Economics, Vol.20: 325-332.

[12] Kopp, R.J. and Smith, V.K. (1980). Frontier production function estimations of Steam Electric Generation: A comparative analysis, Southern Econometric Journal, Vol. 47: 1049-1059.

[13] Cục thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế (2016). Niên giám thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế 2015, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 438 trang.

[14] Sharma, K.R., Pradhan, N.C., & Leung, P.2001. Stochastic frontier approach to measuring irrigation performance: An application to rice production under two systems in the Tarai of Nepal. Water resources research. Vol 37. No 7: 2009-2018.

(BBT nhận bài: 02/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 18/01/2017)

Page 128: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

124 Đoàn Thị Nhiệm

NGHIÊN CỨU NGUỒN GỐC SỰ TĂNG TRƯỞNG NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH PHÚ YÊN

RESEARCH ON THE GROWTH OF AQUACULTURE IN PHU YEN PROVINCE

Đoàn Thị Nhiệm Trường Cao đẳng công nghiệp Tuy Hòa; [email protected]

Tóm tắt - Nguồn gốc tăng trưởng trong ngành nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào những yếu tố đầu vào như: vốn, lao động, quy môdiện tích, hình thức nuôi, ứng dụng khoa học công nghệ. Nghiêncứu này nhằm tìm ra nguồn gốc sự tăng trưởng ngành nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Hàm sản xuất Cobb-Douglasđược sử dụng để đo lường mức độ ảnh hưởng các nhân tố độc lập đến năng suất vật nuôi. Tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp 200 hộ với bản câu hỏi soạn sẵn. Kết quả nghiên cứu: vốn và khoahọc công nghệ có mối quan hệ thuận chiều với tăng trưởng, trongkhi đó quy mô diện tích có quan hệ ngược chiều. So với nuôi bánthâm canh thì hình thức nuôi thâm canh mang lại mức tăng trưởng cao hơn. Không có mối quan hệ rằng: gia tăng số lượng lao động trên từng hộ sẽ làm tăng trưởng năng suất nuôi trồng.

Abstract - The growth of aquaculture depends on input factors such as: capital, labour, acreage scale, aquaculture systems and application of technology. The purpose of this study is to find out the causes of the growth of aquaculture in Phu Yen province by applying Cobb-Douglas production function. The author directly interviewed 200 households with the drafted questionnaires. Research results show that capital and technology have positive relationship with growth of aquaculture, whereas acreage scale is inversely related with growth of aquaculture. Intensive aquaculture creates better growth than semi-intensive aquaculture. There is no relationship between the increase in the number of labourers per household with aquaculture yield.

Từ khóa - hàm sản xuất Cobb-Douglas; tăng trưởng; nuôi trồng thủy sản; năng suất; Phú Yên

Key words - Cobb-Douglas production function; growth; aquaculture; yield; Phu Yen

1. Đặt vấn đề

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là ngành sản xuất vật chất quan trọng cung cấp thực phẩm cho con người. Châu Á là khu vực có sản lượng nuôi cao nhất chiếm 89% sản lượng toàn cầu, tính trên phạm vi toàn thế giới Việt Nam xếp thứ ba sau Trung Quốc và Ấn Độ về quy mô sản lượng [12].

Phú Yên là tỉnh có các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển ngành nghề này. Với truyền thống sản xuất từ lâu, đến nay diện tích nuôi của tỉnh hiện đang dao động trong khoảng 3.000 ha, sản lượng thu hoạch đạt hơn 9,3 ngàn tấn trong năm 2015 và năng suất 3,5 tấn/ha. Trong 10 năm qua diện tích tăng trung bình 1,3%/năm trong khi đó sản lượng tăng cao hơn đạt 11,4%/năm [10]. Tuy nhiên, thời gian qua việc nuôi trồng còn gặp nhiều khó khăn như năng suất trung bình thực tế chỉ bằng 50-60% trường hợp nuôi thành công, số hộ thua lỗ nhiều, một số phải ngừng sản xuất.

Sản lượng hay năng suất thu hoạch phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực đưa vào trong quá trình sản xuất đó chính là: lao động, vốn, quy mô đất đai, kỹ thuật nuôi và các yếu tố khác. Trong khi các yếu tố đầu vào này luôn bị giới hạn nên cần được sử dụng hiệu quả nhất. Do vậy, cần có một nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của một số yếu tố đầu vào quyết định nguồn gốc của việc tăng trưởng sản lượng nuôi trồng thủy sản tại Phú Yên. Theo hiểu biết của tác giả, hiện nay chưa có một nghiên cứu định lượng cho vấn đề trên tại địa phương.

2. Cơ sở lý luận 2.1. Khái niệm sự tăng trưởng

Theo từ điển của của Ngân hàng thế giới - Worldbank, tăng trưởng kinh tế là sự thay đổi hoặc gia tăng sản lượng trong nền kinh tế của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế được đo lường qua sự gia tăng tỷ lệ phần trăm của tổng sản

phẩm trong nước hoặc tổng sản phẩm quốc dân tính trong một năm.

Các nghiên cứu cho rằng: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người [2], [5].

Tăng trưởng của ngành thủy sản sẽ được biểu hiện ở sự tăng thêm về sản lượng thủy sản và giá trị sản xuất thủy sản hàng năm do ngành tạo ra [9].

Theo nghiên cứu này, tăng trưởng trong ngành NTTS được hiểu là sự gia tăng năng suất do ngành nuôi trồng thủy sản tạo ra trong quá trình sản xuất của mình. 2.2. Nguồn gốc của sự tăng trưởng

Để giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng, trải qua các giai đoạn phát triển nhiều tác giả, nhóm tác giả đã chứng minh có mối quan hệ với nhau giữa các yếu tố sản xuất (đầu vào) và sản lượng (đầu ra), tổng quan về nguồn gốc sự tăng trưởng được tóm tắt qua các lý thuyết sau:

Đất đai nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, đó là quan điểm của mô hình David Ricacdo. Trong khi đó Arthus Lewis cho rằng tăng trưởng của nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở tăng trưởng của khu vực công nghiệp thông qua tích lũy vốn từ thu hút lao động dư thừa của khu vực nông nghiệp [5]. Trong giai đoạn đầu, các mô hình giải thích nguồn gốc sự tăng trưởng do yếu tố đất đai và lao động quyết định.

Với sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước, trong đó ngành nông nghiệp. Do đó trường phái Tân cổ điển quan niệm rằng: trong nông nghiệp dưới tác động của khoa học công nghệ giúp cải tiến chất lượng ruộng đất nên sản lượng tăng lên, năng suất lao động tăng lên. Trong công nghiệp để không phụ thuộc vào lao động cần đầu tư theo chiều sâu. Như vậy quan điểm trường phái này sự tăng trưởng là do đầu tư vốn và tiến bộ khoa học công nghệ.

Page 129: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 125

Đến mô hình Harrod-Domar: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn đưa vào sản xuất tăng lên nhờ vào đầu tư và tiết kiệm [2], [5]. Đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng vốn sản xuất.

Mô hình Sung Sang Park: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế phục thuộc vào cơ sở sản xuất đã được xây dựng và trình độ kỹ năng lao động (vốn con người). Cơ sở sản xuất được xây dựng là kết quả của quá trình tích lũy vốn trong quá khứ. Vốn con người là kết quả của quá trình tích lũy kiến thức trong sản xuất và đào tạo của xã hội. Như vậy, ngoài yếu tố vốn mô hình Sung Sang Park nhấn mạnh yếu tố con người.

Tiếp theo mô hình Tân cổ điển cho rằng: nguồn gốc của tăng trưởng phụ thuộc vào cách thức kết hợp giữa hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động. Nhưng chúng có thể thay thế lẫn nhau nên trong chừng mực nào đó việc kết hợp khác nhau giữa 2 yếu tố này cho cùng mức sản lượng.

Theo Harry T. Oshima phát triển phải trải qua từng giai đoạn nhất định và trong từng giai đoạn các yếu tố quyết định sự phát triển cũng khác nhau gồm: lao động, ứng dụng công nghệ sinh học, máy móc thay thế lao động, thâm dụng vốn.

Riêng đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cũng có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển với các yếu tố đầu vào của quá trình nuôi. Tiêu biểu cho các nghiên cứu đó là:

- Nguyễn Tài Phúc (2005): sự phát triển ngành phụ thuộc vào diện tích đất đai, mặt nước, vốn đầu tư, lao động, các loại chi phí đầu vào, khoa học công nghệ, hình thức nuôi quảng canh cải tiến hay BTC, các điều kiện chính trị-xã hội.

- Phan Văn Hòa (2009): tăng trưởng phụ thuộc vào lượng thức ăn, lượng giống, hình thức nuôi: thâm canh (TC), bán thâm canh (BTC) hay quảng canh cải tiến.

- Trương Thị Quỳnh Anh (2014): sản lượng nuôi trồng phụ thuộc vào diện tích nuôi, chi phí lao động, chi phí thức ăn, hình thức nuôi TC hay BTC.

Cả ba tác giả trên nhiều quan điểm đồng nhất về các yếu tố tác động đến tăng trưởng và phát triển NTTS.

Pablo Trujillo (2007), Commission to the European Parliament and the council (2009), Nguyễn Kim Phúc (2011), Fuminari Ito (2012): các tác giả và nhóm tác giả khẳng định vai trò sự phát triển công nghệ đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển ngành NTTS.

Như vậy, nguồn gốc của tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và ngành NTTS nói riêng có các đặc điểm giống nhau đó là: đất đai, lao động, vốn, chi phí đầu vào và công nghệ. Ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động nuôi trồng bao gồm: sản xuất giống, thức ăn, thuốc-chế phẩm sinh học, máy móc hiện đại, kiến thức… yếu tố này ngày nay có vai trò rất quan trọng. 2.3. Một số nghiên cứu ứng dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas trong nông nghiệp và trong NTTS

- Phát triển nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế (Nguyễn Tài Phúc, 2005): nghiên cứu sử dụng biến phụ thuộc là năng suất tôm, biến độc lập là mật

độ nuôi và 5 loại chi phí, biến giả là hình thức nuôi và vùng nuôi. Kết quả ước lượng: các loại chi phí tác động cùng chiều lên năng suất và hai biến giả có ý nghĩa trong mô hình.

- Ứng dụng mô hình Harry T. Oshima để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Thị Đông, 2008): hàm Cobb-Douglas với số lao động, thời gian làm việc của lao động nông thôn và trình độ cơ giới hóa là các biến độc lập; biến phụ thuộc là giá trị sản xuất nông nghiệp/lao động. Hàm hồi quy cho kết quả: khi số lao động tăng thì làm giá trị sản xuất giảm, trong khi thời gian làm việc và trình độ cơ giới hóa tăng sẽ giúp tăng trưởng giá trị ngành nông nghiệp.

- Hiệu quả sản xuất và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất mía nguyên liệu tỉnh Trà Vinh (Trần Lợi, 2012): biến độc lập là vốn sản xuất và ngày công lao động; sản lượng mía thu hoạch là biến phụ thuộc. Nghiên cứu chỉ ra vốn có tác động mạnh hơn lao động đến sản lượng mía trong vùng nghiên cứu, cả hai đều tác động cùng chiều lên sản lượng.

- Giải pháp kinh tế và quản lý môi trường cho phát triển nuôi trồng thủy sản các huyện phía nam thành phố Hà Nội (Trương Thị Quỳnh Anh, 2014): nghiên cứu sử dụng biến phụ thuộc là năng suất NTTS các hộ, biến độc lập gồm: diện tích nuôi, các loại chi phí và ba biến giả là hình thức nuôi, kênh lấy nước, dùng hóa chất xử lý ao nuôi. Kết quả: quy mô diện tích ảnh hưởng ngược chiều lên năng suất, 2 trong 4 loại chi phí có ảnh hưởng cùng chiều đến năng suất, cả 3 biến giả có ý nghĩa thống kê.

Trong các nghiên cứu ứng dụng trên có điểm chung: - Mô hình sử dụng: gồm có mô hình gốc ban đầu và mô

hình biến đổi thành những chi phí đầu vào. Hàm sản xuất được sử dụng chung cho một ngành lớn trong nghiên cứu không phân biệt ngành nhỏ lẻ.

- Biến phụ thuộc là kết quả đầu ra đo lường bỡi nhiều tiêu chí khác nhau: năng suất nuôi các hộ, sản lượng thu hoạch hoặc giá trị sản suất/hộ.

- Biến độc lập gồm: vốn sản xuất, diện tích nuôi, lao động, các loại chi phí, trình độ cơ giới hóa.

- Biến giả được sử dụng để so sánh: có sự khác khác biệt hay không về kết quả đầu ra khi xét đến tiêu chí này.

Nhận xét: các biến độc lập và các biến giả đưa vào mô hình đa dạng, biến độc lập sử dụng linh hoạt tùy vào mục đích nghiên cứu của tác giả. 2.4. Hàm sản xuất Cobb-Douglas chuẩn

Hàm sản xuất Cobb-Douglas là một dạng hàm số để phân tích mối quan hệ hồi quy giữa sản lượng và đầu vào là vốn và lao động. Hàm Cobb-Douglas chuẩn có dạng: Y = A. L∝K (1)

Trong đó: Y: sản lượng; L: quy mô lao động; K: quy mô vốn sản xuất

3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Hàm sản xuất trong nghiên cứu

Dạng hàm sản xuất thích hợp nhất ứng dụng trong phân tích nguồn gốc tăng trưởng là dạng hàm sản xuất Cobb-

Page 130: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

126 Đoàn Thị Nhiệm

Douglas [5]. Do đó, tác giả sử sụng hàm sản xuất Cobb-Douglas là phù hợp để phân tích nguồn gốc tăng trưởng tại địa phương nghiên cứu. Đồng thời hàm số này phù hợp phân tích các biến trong mô hình gồm: đất đai, vốn, lao động và ứng dụng khoa học công nghệ.

Giả định rằng: hàm sản xuất Cobb-Douglas phù hợp khi sử dụng được cho ngành lớn gồm nhiều ngành nhỏ hay các loài nuôi khác nhau, trong nghiên cứu chỉ phân biệt theo cấu trúc là hình thức nuôi gồm TC hay BTC.

Nhân tố tổng hợp - Total Factors of Product (TFP) để chỉ các yếu tố: áp dụng công nghệ, thể chế kinh tế, trình độ người nuôi, yếu tố rủi ro và một số yếu tố khác ngoài sự đề cập của hàm số. Để đánh giá mối quan hệ của TFP cùng với biến quy mô diện tích (S) với kết quả đầu ra. Đồng thời dùng biến giả để so sánh sự khác biệt giữa nuôi TC và nuôi BTC, tác giả mở rộng công thức của hàm số Cobb-Douglas như sau: Y = TFP. L∝ K∝ S∝ (2)

Để việc tính toán được dễ dàng, Logarit Nêpe hai vế của phương trình (2), cộng sai số ngẫu nhiên ta có:

LnY = LnTFP + α1LnL + α2LnK + α3LnS + βD + u (3) Ý nghĩa các ký hiệu Y: năng suất (kg/ha) L: lao động (người) K: vốn sản xuất (triệu đồng) S: diện tích nuôi (ha) D: thể hiện hình thức nuôi (biến giả), TC: D = 1, BTC:

D = 0 u: sai số ngẫu nhiên của mô hình Với: α1, α2, α3, β là các hệ số hồi quy cần ước lượng. Trong đó, sản lượng để tính năng suất là sản lượng quy

đổi, cách thức quy đổi như sau: đối với tôm hùm vì giá bán của chúng gấp khoảng 10 lần so với giá các vật nuôi khác, nên sản lượng quy đổi được tính bằng 10 lần so với sản lượng thu hoạch, các vật nuôi khác giữ nguyên.

Lao động được tính là số lao động thường xuyên, gồm lao động của gia đình và thuê ngoài.

Vốn sản xuất bao gồm tài sản cố định phục vụ cho nuôi trồng cộng với vốn lưu động ròng.

Với các đối tượng nuôi bằng lồng như tôm hùm, cá mú khi đổi sang đơn vị diện tích là m2 tác giả tính theo công thức: S (m2) = số lồng x 15, vì 15 là số m2 trung bình 1 lồng tại địa phương. 3.2. Phương pháp tiếp cận

Để tìm ra nguồn gốc tăng trưởng của ngành NTTS tỉnh Phú Yên, tác giả tiếp cận theo phương pháp định lượng sử dụng hàm số Cobb-Douglas. Việc tác giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu này vì phù hợp với dữ liệu điều tra, các biến số được sử dụng là những vấn đề được quan tâm nhất hiện nay tại địa phương, các tham số dễ dàng được ước lượng và có độ tin cậy cao. 3.3. Phương pháp thu thập dữ liệu

Dữ liệu sơ cấp được thu thập qua phương pháp phỏng vấn trực tiếp người nuôi thông qua bản câu hỏi soạn sẵn. Số mẫu điều tra là 200 hộ, với hình thức nuôi TC là 84 hộ và nuôi BTC là 116 hộ. Thời gian tiến hành phỏng vấn từ tháng 1-2/2016 tại 3 vùng có ngành NTTS phát triển nhất của tỉnh là huyện Đông Hòa, huyện Tuy An và thị xã Sông Cầu, với hình thức chọn mẫu phân tầng sau đó chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện. Các vật nuôi hiện nay của tỉnh chủ yếu là: tôm thẻ, tôm sú, tôm hùm, ốc hương và cá biển. Trong đó năm 2015 tôm thẻ chiếm 71% diện tích nuôi hồ, tiếp đến là ốc hương, với nuôi lồng tôm hùm là đối tượng chủ yếu. Để mẫu mang tính đại diện cao, số mẫu lựa chọn để phỏng vấn dựa vào tỷ lệ diện tích nuôi của các loài. Dữ liệu sau khi thu thập được kiểm tra, làm sạch được tính toán trên phần mềm SPSS.

Bảng 1. Cơ cấu mẫu điều tra phân theo vật nuôi

Loại vật nuôi Số hộ

Tôm thẻ 132

Tôm hùm 36

Tôm sú 5

Ốc hương 12

Cá 5

Hộ nuôi nhiều loài 10

Tổng số hộ 200

4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Kết quả nghiên cứu

Dữ liệu bảng 2 chứng minh, giai đoạn 2005-2014 sản lượng và năng suất nuôi trồng của tỉnh tăng trưởng khá ổn định, năm 2015 sản lượng và diện tích giảm do dịch bệnh trên diện rộng. Cùng với việc mở rộng diện tích việc đầu tư theo hướng TC giúp tốc độ gia tăng sản lượng là 11,4% nhanh hơn tốc độ tăng của diện tích là 1,3%. Năng suất vật nuôi cũng tăng cao, sau 10 năm đã tăng hơn gấp đôi và tăng bình quân hằng năm là 11,1%.

Bảng 2. Sản lượng và năng suất NTTS của tỉnh Phú Yên giai đoạn 2005-2015

Năm ĐVT 2005 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tăng BQ (%)

Diện tích ha 2.335 2756 2.694 2.968 2.642 2.956 3.038 2.665 1,3

Sản lượng tấn 3.175 6.912 8.521 9.973 8.055 10.347 10.627 9.335 11,4

Năng suất tấn/ha/năm 1,36 2,51 3,16 3,36 3,05 3,5 3,5 3,5 11,1

Nguồn: Niên giám thống kê Phú Yên, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và tính toán của tác giả

Mặc dù sản lượng toàn tỉnh thời gian qua tăng lên, nhưng ngư dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn vì ngành NTTS

luôn đối mặt với rủi ro trong quá trình nuôi rất cao. Kết quả điều tra thực tế tại vùng nuôi cho thấy sản lượng thu hoạch

Page 131: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 127

thực tế hay năng suất nuôi chỉ đạt khoảng 60% so với trường hợp nuôi thành công.

Qua bảng 3 cho thấy, lao động trung bình của các hộ điều tra là 2,82 người, phần đông các hộ sử dụng 2 lao động. Quy mô vốn sản xuất bình quân là 1.035 triệu đồng, sự chênh lệch vốn trong mẫu điều tra cao, với độ lệch chuẩn lên đến 1.237 triệu đồng. Về quy mô diện tích, số hộ có 0,4 ha phổ biến nhất, độ lệch chuẩn là 0,81 ha cho thấy biến động về diện tích các hộ tương đối lớn.

Bảng 3. Đặc điểm mẫu khảo sát

Các biến ĐVT Giá trị trung bình

Giá trị thường xuyên nhất

Độ lệch chuẩn

Lao động Người 2,82 2 2,22

Vốn sản xuất Triệu đ 1.035 286 1.237

Diện tích Ha 0,56 0,40 0,81

Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả

Để tìm ra nguồn gốc của sự tăng trưởng tại địa phương, tác giả sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas, qua phân tích trên phần mềm SPSS kết quả các tham số thể hiện tại bảng 4 bên dưới:

Bảng 4. Kết quả ước lượng hàm số Cobb-Douglas

Các biến Hệ số hồi quy Giá trị Sig. Giá trị VIF

TFP – Nhân tố tổng hợp 1.869 .001

L – Lao động -.021 .865 1.752

K – Vốn sản xuất .941 .000 2.788

S – Diện tích -.981 .000 1.251

D – Hình thức nuôi .613 .000 1.942

Nguồn: Tính toán từ điều tra của tác giả

Kết quả ước lượng chứng minh rằng: tham số của nhân tố lao động không có ý nghĩa thống kê. Nhân tố vốn, diện tích, yếu tố tổng hợp và biến giả là hình thức nuôi có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy rất cao đạt đến 99%.

Ngoài ra, kết quả phân tích trên phần mềm SPSS có: các giá trị VIF < 3 tức giữa các biến độc lập không có hiện tượng đa cộng tuyến. Hệ số Durbin Watson là 1,684 nằm trong khoảng từ 1-3 nên không có hiện tượng tự tương quan của các biến. R bình phương của mô hình có giá trị 0,776 tức các biến độc lập giải thích được 77,6% cho biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu, tỷ lệ này ở mức cao. 4.2. Bình luận và hàm ý chính sách

Hàm Cobb-Douglas được ước lượng: Hàm nguyên mẫu: Y = 1,869. K , S , , Hàm logarit: LnY = 1,869 + 0,941LnK – 0,981LnS + 0,613D - Hệ số α2= + 0,941, tức vốn và sản lượng có mối quan

hệ cùng chiều, nếu tăng vốn sản xuất sẽ làm gia tăng năng suất. Khi tăng vốn lên 1% (các yếu tố khác không đổi) sẽ làm cho năng suất tăng thêm 0,941%.

Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng nhất để giúp tăng trưởng, tăng vốn sẽ làm tăng năng suất. NTTS là ngành cần đến lượng vốn lớn, cung ứng liên tục, từ lúc mua hoặc thuê ao, cải tạo ao nuôi, mua sắm máy móc, thức ăn, hóa chất trong suốt quá trình nuôi. Tại Phú Yên, trung bình mỗi hộ đầu tư hơn 1 tỷ đồng, thiếu vốn diễn ra phổ biến trong cộng đồng ngư dân, nên họ rất cần nguồn vốn bổ sung đặc biệt là từ ngân hàng. Tuy nhiên, tình hình vay vốn gặp khó khăn, nhất là tôm thẻ chân trắng, vì đối tượng nuôi này rủi ro thua lỗ cao do dịch bệnh. Đồng thời giữa ngân hàng và ngư dân chưa thống nhất thời gian vay vốn và tài sản thế chấp.

Do vậy, người nuôi cần vay theo thời gian sinh trưởng của vật nuôi, với vay vốn nuôi tôm thẻ, tôm sú, ốc hương thời gian vay khoảng 6 tháng sau đó trả nợ và vay khoản mới. Không như hiện nay người dân đòi hỏi phải vay 12 tháng dẫn đến hai bên không thống nhất nhau. Ngoài ra, để vay được vốn người nuôi cần phải hợp tác với ngân hàng chứng minh về tài sản thế chấp như: giấy56 chứng nhận nhà ở, đất ở, các loại đất khác, hay các tài sản có giá trị.

Để chủ động được nguồn vốn của mình người dân phải tiến hành tích lũy, lợi nhuận mang về ngư dân cần phải được tiết kiệm một phần để đầu tư vào các mùa vụ tiếp theo. Tiếp tục nhân rộng mô hình vài người nuôi cùng góp vốn vào nuôi TC. Với phương thức này các bên góp vốn cần phân công trách nhiệm rõ ràng để cùng nhau thực hiện, nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh như xử lý dịch bệnh, ô nhiễm, ứng phó với thời tiết... một cách nhanh chóng nhất.

- Hệ số α3= – 0,981, hệ số này âm có nghĩa năng suất trong vùng nuôi theo quy mô giảm dần. Những hộ có quy mô diện tích nhỏ họ đầu tư tốt hơn trên phần diện tích này nên thường mang lại năng suất cao. Ngoài ra vấn đề này còn thể hiện trình độ quản lý của hộ chưa cao nên khi quy mô nuôi lớn thường quản lý hiệu quả không cao.

Diện tích trung bình của mẫu điều tra 0,56 ha/hộ. Năng suất có mối quan hệ nghịch chiều với quy mô diện tích. Nên Nhà nước không nên đưa ra các chính sách về dồn điền đổi thửa gia tăng diện tích của từng hộ nuôi mà thay vào đó là đầu tư vào phát triển theo hướng nuôi TC.

- Hệ số TFP là 1,869 hệ số mang dấu dương cho thấy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình nuôi của tỉnh Phú Yên thời gian qua mang lại kết quả tốt.

- Hệ số β = + 0,613 phản ánh có sự khác biệt về năng suất giữa hình thức nuôi TC và BTC, trong đó nuôi TC có

Page 132: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

128 Đoàn Thị Nhiệm

năng suất cao hơn. Điều tra thực tế cho thấy, nuôi TC đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ, máy móc hiện đại, trình độ nuôi trồng và quản lý ở mức cao, với các điều kiện trên đã giúp cho hình thức nuôi này kiểm soát được chất lượng nước, dịch bệnh, theo dõi quá trình sinh trưởng vật nuôi dễ dàng… nên nuôi TC ít gặp rủi ro trong quá trình canh tác. Cùng với đó, mật độ con gống dày hơn đã mang lại năng suất cao.

Do đó, địa phương cần chuyển đổi hình thức nuôi từ BTC lên nuôi TC ứng dụng công nghệ cao vì chịu ít rủi ro, sản xuất hàng hóa lớn. Nhưng hình thức nuôi này có chi phí đầu tư ban đầu rất lớn (theo điều tra tác giả chi phí đầu tư ban đầu vào khoảng 500-700 triệu đồng/hồ, với diện tích 1 hồ 3.000 m2) do đó nhiều hộ nuôi không đủ khả năng để chuyển sang TC. Do vậy ngân hàng cần có chính sách riêng cho các hộ chuyển đổi từ nuôi BTC lên nuôi TC, khi mà họ trình bày các phương án nuôi hợp lý, thời gian vay trung và dài hạn (kéo dài từ 2-3 năm) để họ đủ thời gian xoay trở trả lại vốn cho ngân hàng, tiền vốn thu hồi chia làm nhiều đợt.

- Hệ số ước lượng α1 không có ý nghĩa thống kê, hay nhân tố độc lập là lao động không có mối quan hệ hồi quy với biến phụ thuộc là năng suất nuôi. Vậy không thể kết luận rằng: gia tăng số lượng lao động trên từng hộ sẽ làm gia tăng được năng suất.

Tình hình sử dụng số lượng lao động tại các hộ nuôi hiện ở mức hợp lý, các hộ tự cân đối công việc để sử dụng lao động gia đình và thuê mướn bên ngoài. Hộ nuôi không nên tăng lao động về số lượng, mà cần thay đổi chất lượng. Đó là thuê mướn lao động có nhiều kinh nghiệm, cá nhân lao động của gia đình cần tự nâng cao kiến thức để phục vụ cho công việc trong tình hình mới.

5. Kết luận Trong các yếu tố quyết định sự tăng trưởng ngành

NTTS theo kết quả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Phú Yên thì vốn đầu tư, lựa chọn hình thức nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật đóng vai trò quyết định tại vùng nuôi. Do đó, cần đầu tư thêm vốn trong quá trình sản xuất, với lượng thiếu hụt vốn cần có sự hỗ trợ của nhà nước và sự phối hợp của bà con ngư dân. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào trong quá trình canh tác cũng như các ngành sản xuất liên quan.

Ngoài các kết quả đạt được, nghiên cứu này vẫn còn

một số hạn chế đó là: nghiên cứu chỉ cho biết quy luật giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc mà chưa chỉ ra được giá trị nào của vốn, diện tích để năng suất đạt tối ưu. Ngoài bốn biến trong mô hình và một biến giả, thì NTTS còn bị tác động bởi nhiều nhân tố khác như trình độ của chủ hộ hay người nuôi chính, tác động của môi trường chưa được phản ánh trong nghiên cứu này. Số mẫu điều tra của nghiên cứu còn nhỏ nên chưa thể tách để phân biệt cho từng đối tượng nuôi, vùng nuôi khác nhau. Hạn chế trong nghiên cứu này sẽ mở ra cho các hướng nghiên cứu tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trương Thị Quỳnh Anh, Giải pháp kinh tế và quản lý môi trường

cho phát triển nuôi trồng thủy sản các huyện phía Nam thành phố Hà Nội, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2014.

[2] Bình Quang Bình, Giáo trình kinh tế phát triển, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.

[3] Nguyễn Thị Đông, Ứng dụng mô hình Harry T. Oshima để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh, 2008.

[4] Phan Văn Hòa, Nuôi trồng thủy sản ở Thừa Thiên Huế trong bối cảnh tự do hóa thương mại, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế, 2009.

[5] Đinh Phi Hổ, Kinh tế phát triển, NBX Thống kê, 2008. [6] Trần Lợi (2012), Hiệu quả sản xuất và các yếu tố ảnh hưởng đến

hiệu quả sản xuất mía nguyên liệu tỉnh Trà Vinh, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số 5, tr.67-74.

[7] Niên giám thống kê Phú Yên các năm, từ năm 2008 đến năm 2014. [8] Nguyễn Tài Phúc, Nghiên cứu phát triển nuôi trồng thủy sản vùng

đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế, luận án tiến sĩ, Đại học Huế, 2005.

[9] Nguyễn Kim Phúc, Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành thủy sản ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Trường Đại học kinh tế quốc dân, 2011.

[10] Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Phú Yên (2015), Tổng kết nuôi trồng thủy sản 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên.

[11] Commission to the European Parliament and the council, Building a sustainable future for aquaculture: A new impetus for the Strategy for the sustainable development of European Aquaculture, Com (2009) 162 final, Brussels, 2009.

[12] [FAO, The state of world fisheries and aquaculture, FAO Fisheries and Aquaculture Department, 2016.

[13] Fuminari Ito, Course of the Research for Sustainable Aquaculture in Japan, National Research Institute of Aquaculture, Fisheries Research Agency, No. 35, Japan, 2012, p. 1-5.

[14] Trujillo, Pablo, A global analysis of the sustainability of marine aquaculture, A thesis submitted in partial fulfillment of the requirement for the agree of master of science, In the facuty of graduate studies, The University of Bristish Columbia, 2007.

[15] www.worldbank.org/depweb/english/beyond/global/glossary.html

(BBT nhận bài: 03/01/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 14/02/2017)

Page 133: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 129

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH QUẢNG NAM RESTRUCTURING ECONOMIC SECTOR OF QUANG NAM

Nguyễn Hồng Quang UBND tỉnh Quảng Nam; [email protected], [email protected]

Tóm tắt - Chuyển dịch cơ cấu (CDCC) ngành kinh tế là một chủđề rất được quan tâm bởi nhiều nhà nghiên cứu, các nhà hoạchđịnh chính sách. CDCC ngành kinh tế phản ánh tình hình phân bổnguồn lực của nền kinh tế, quyết định năng lực và sản lượng củanền kinh tế. Bài báo tập trung vào khái quát lý luận về chuyển dịchcơ cấu ngành kinh tế, đánh giá quá trình dịch chuyển cơ cấu ngànhkinh tế của tỉnh Quảng Nam dựa trên xu thể thay đổi của cơ cấungành kinh tế và rút ra những hàm ý chính sách nhằm thúc đẩyquá trình chuyển dịch cơ cấu nhành kinh tế tỉnh Quảng Nam.Nghiên cứu này sử dụng số liệu thống kê của Cục Thống kê củatỉnh Quảng Nam và phương pháp phân tích thống kê mô tả để đạtđược mục tiêu đặt ra.

Abstract - Restructuring economic sector is a subject of much interest by many researchers and policy makers. Economic sectors reflect the allocation of economic resources, decisions and production capacity of the economy. The article focuses on theoretical overview of the restructuring of economic activities, and evaluation of the structural shift of the economy based on the trend of change of Quang Nam economic structure. The article also draws out the policy implications to promote the process of restructuring the economic branches in Quang Nam province. This study uses statistics of the Statistical Office of Quang Nam and the statistics, analysis and description methods to achieve the set objectives.

Từ khóa - chuyển dịch cơ cấu; chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế;ngành công nghiệp; ngành nông – lâm- thủy sản; ngành dịch vụ.

Key words - restructuring; restructuring economic sectors; industry; agro - forestry-fisheries; service industry.

1. Đặt vấn đề

Chuyển dịch cơ cấu (CDCC) ngành kinh tế là một chủ đề rất được quan tâm bởi nhiều nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách. CDCC ngành kinh tế phản ánh tình hình phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, quyết định năng lực và sản lượng của nền kinh tế. Chính vì vậy trong lý thuyết kinh tế CDCC ngành kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá sự phát triển của nền kinh tế. Có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam và thế giới về chủđề này. Các nghiên cứu tập trung làm rõ xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thể giới và Việt Nam và chỉ ra chiều hướng thay đổi trong dài hạn của cơ cấu ngành kinh tế trong dài hạn. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào nền kinh tế quốc gia hay vùng lãnh thổ lớn. cho dù có một số nghiên cứu với đối tượng là nền kinh tế tỉnh nhưng cũng nhằm mục tiêu đánh giá CDCC ngành kinh tế chung nền kinh tế quốc gia.

Nền kinh tế Quảng Nam những năm sau chia tách, quy mô GDP của tỉnh đã mở rộng không ngừng, tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục; Cơ cấu kinh tếđã có sự chuyển dịch tích cực. Các ngành công nghiệp và dịch vụđã phát triển rất nhanh thúc đẩy thay đổi cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế vẫn diễn ra chậm, chất lượng chuyển dịch cơ cấu theo lao động chậm hơn chuyển dịch cơ cấu theo GDP và chưa thúc đẩy CDCC lao động, tăng năng suất lao động; Xu hướng chuyển dịch trong lĩnh vực dịch vụ không rõ ràng. Chính vì vậy rất cần thiết phải có một nghiên cứu về Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Quảng Nam nhằm đánh giá chính xác quá trình này và kiến nghị các hàm ý chính sách cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách địa phương. Đó là lý do để thực hiện của bài báo này

2. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu (CDCC) ngành kinh tế 2.1. Trước hết hãy xem xét một số nghiên cứu có liên quan tới chủ đề này

Các nghiên cứu của thế giới có nhiều và nghiên cứu ở

nhiều nền kinh tế. Bàn về chuyển dịch cơ cấu ngành phải bắt đầu từ Quy luật tiêu dùng mang tên nhà Thống kê người Đức E. Engel (1821-1896). Quy luật này phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Một khi quy luật tiêu dùng của A.Engel kết hợp với Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher (1935) sẽ chỉ rõ xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Lewis, A. W. (1954) trong tác phẩm "Lý thuyết về phát triển kinh tế" đã giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng, gọi là " Mô hình hai khu vực cổ điển. Theo lý thuyết này chỉ ra rằng quá trình phát triển yêu cầu chuyển dịch lao động từ nông nghiệp có năng suất thấp sang các ngành hiện đại có năng suất cao hơn là công nghiệp và dịch vụ. Mô hình thay đổi cơ cấu của Hollis Chenery (1974) được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu về sự phát triển của nhiều quốc gia từ 1953 -1973. Kết luận rút ra từ nghiên cứu của ông là tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP có xu hướng giảm dần, trong khi tỷ trọng công nghiệp trong GDP có xu hướng tăng dần ứng với GDP/ng tăng dần.

Các nghiên cứu của Việt Nam có nhiều trong các bối cảnh khác nhau. Nghiên cứu của Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ (1999) đã đề cập các luận cứ khoa học của CDCCKT theo hướng hội nhập trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới. Nghiên cứu của Bùi Tất Thắng (2006) đã tổng hợp, phân tích quá trình thay đổi tư duy về CNH và CDCCKT ở Việt Nam. Nghiên cứu này rất có ý nghĩa cho nghiên cứu chủ đề này của địa phương nhưng cũng cần chú ý tới những thay đổi của bối cảnh hiện nay và tương lai những năm tới cũng như bối cảnh của địa bàn nghiên cứu về chủ đề này. Lê Xuân Bá và các tác giả (2006) đã tập trung phân tích chuyển dịch lao động giữa các ngành công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ, giữa hình thức tự tạo việc làm và làm thuê; đồng thời sử dụng mô hình kinh tế lượng để phân tích chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005 và đề xuất các chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam theo hướng tích cực. Bùi Quang Bình (2010) đã chỉ

Page 134: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

130 Nguyễn Hồng Quang

ra một số khiếm khuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam như dựa vào mở rộng quy mô qua thâm dụng vốn nhưng hiệu quả thấp - yếu tố Việt Nam thiếu phải đi vay; không thể khai thác tốt yếu tố tiềm năng lớn nhất của Việt Nam là lao động; chưa thúc đẩy sự phát triển của khu vực nông nghiệp. Nhìn chung các nghiên cứu trong nước đã tập trung vào cơ sở lý thuyết kinh tế để xây dựng luận cứ cho CDCC kinh tế Việt Nam, phân tích thực tế quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam theo ngành và lãnh thổ để chỉ ra xu thế thay đổi đã diễn ra cùng với các vấn đề của nó. Các nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình này. 2.2. Cơ sở lý luận về xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu kinh tế là tổng thể những mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Mối quan hệ về số lượng giữa các bộ phận cấu thành có thể biểu hiện qua tỷ trọng của mỗi ngành trong GDP, trong tổng lao động hay tổng vốn của nền kinh tế tại một thời điểm nào đó. Như vậy có thể coi cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể những những mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau (Vũ Tuấn Anh (1982)). Cơ cấu ngành kinh tế luôn thay đổi theo thời gian phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Do vậy, chuyến dịch cơ cấu là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế theo thời gian từ trạng thái và trình độ này tới một trạng thái và trình độ khác phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và các điều kiện vốn có nhưng không lặp lại trạng thái cũ (Bùi Quang Bình (2010)). Chính điều này mà cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất và là cơ sở để so sánh các giai đoạn phát triển. Cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố nhưđiều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực (Lê Khoa 2003), vốn, công nghệ, thị trường, và chính sách.

3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu sẽ là

(1) Phương pháp diễn dịch trong suy luận; (2) Phương pháp quy nạp trong suy luận; (3). Phương pháp phân tích thống kê mô tả bao gồm Phương pháp phương pháp đồ thị và bảng thống kê để tổng hợp. Các phương pháp này đã được một số nhà nghiên cứu đã sử dụng như Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006), của Nguyễn Kế Tuấn và nhóm tác giả (2011) và (Bùi Quang Bình (2010)).

Về số liệu của nghiên cứu: Các số liệu được tổng hợp từ Niên giám thống kê của Tỉnh Quảng Nam các năm như 2005, 2010 và 2015. Khoảng thời gian của số liệu sẽ từ năm 2000 tới năm 2014. Lý do chính là tuy chia tách tỉnh từ năm 1997, nhưng hoạt động của nền kinh tế này chỉ thực sự rõ ràng từ 2000.

4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Đặc điểm về địa bàn nghiên cứu

Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung. Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1.040.683 ha. Dân số của tỉnh năm 2014 là gần 1.5 triệu người, mật độ dân số là140 người/ km2.

GDP của tỉnh Quảng Nam và hơn 13786 tỷ năm 2014 theo giá 1994. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình là 10.6% trong thời kỳ 1997-2014, cao hơn mức tăng trưởng của cả nước là khoảng 7%. Cơ cấu kinh tế hiện này là công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp. 4.2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cấp I

Xu thế tăng trưởng kinh tế của các ngành sẽ quyết định sự thay đổi tỷ trọng giá trị gia tăng của các ngành kinh tế trong GDP hay quyết định tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Trong hơn 15 năm qua, cơ cấu theo ba ngành chính này đã có sự thay đổi rõ rệt và thể hiện xu hướng tích cực. Dù quy mô của ngành Nông lâm thủy sản vẫn tăng nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành này trong GDP tỉnh vẫn giảm liên tục. Trong khi tỷ trọng của Công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ tăng lên giá trị gia tăng của ngành này trong GDP tỉnh. Lý do chính là ngành Nông lâm thủy sản này đã tăng trưởng chậm hơn so với hai ngành còn lại như đã trình bày ở trên hình 1.

Hình 1. Cơ cấu giá trị gia tăng của các ngành cấp I trong GDP

tỉnh Quảng Nam (Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam)

Tỷ trọng của ngành Nông lâm thủy sản giảm từ 42% năm 2000 xuống 13.5% năm 2014 hay giảm 28.5%. Trong 15 năm, tỷ trọng ngành này giảm chậm dần, mức cao nhất là -11.9 % trong giai đoạn 2000-2005 và thấp nhất là -2.9% trong giai đoạn 2011-2014.

Trong gian đoạn 2000-2014, tỷ trọng của ngành CN-XD đã tăng nhanh, từ mức 22.6% năm 2000 lên mức 46.4% năm 2014, hay tăng lên 23.8%. Trong gian đoạn 2000-2005 có mức tăng nhanh nhất và chậm nhất là 2011-2014. Cũng trong giai đoạn này, tỷ trọng của ngành thương mại – dịch vụ đã tăng từ 35.4% năm 2000 lên 40.1% năm 2014, tăng 4.7%. Mức thay đổi tỷ trọng này không nhiều so với mức tăng của ngành CN-XD.

Nếu xét theo trình độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cấp I của tỉnh Quảng Nam bằng cách sử dụng hệ số Cosφ và góc chuyển dịch cơ cấu - φ theo cách đánh giá của chuyên gia Ngân hàng thế giới. Số liệu ở bảng 1. cho thấy trong 15 năm qua, cơ cấu ngành kinh tế cấp I đã thay đổi lớn, góc chuyển dịch cơ cấu – φ bằng 35.540, bình quân thay đổi khoảng hơn 2 độ năm. Xu thế thay đổi trình độ CDCC ngành kinh tế cấp I này đang giảm dần, góc chuyển dịch cơ cấu – φ giảm dần từ mức 15.59 độ giai đoạn 2000-2005, 14.99 độ giai đoạn 2006-2010 và 7.41 độ giai đoạn 2011-2014.

.0010.0020.0030.0040.0050.0060.0070.0080.0090.00

100.00

Nông lâm thủy sản CN-XD TM-DV

Page 135: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 131

Như vậy, cơ cấu ngành kinh tế cấp 1 của tỉnh Quảng Nam những năm qua đã có xu hướng chuyển dịch tích cực. Xu hướng này được thúc đẩy bới sự tăng trưởng mạnh của ngành CN-XD và dịch vụ. Tuy nhiên, sự thay đổi đang chậm lại và sự suy giảm này khá nhanh. Nhưng đây chỉ mới xét trên khía cạnh sản lượng nên chưa thể đánh giá chính xác mà cần xem xét kỹ hơn trong mối quan hệ với nguồn lực.

Bảng 1. Mức CDCC ngành kinh tế cấp I của tỉnh Quảng Nam

2000-2005

2006-2010

2011-2014

2000-2014

% chuyển dịch của NN -11,9 -9,3 -2,9 -28,5

% chuyển dịch của CN-XD 10,5 7,8 1,5 23,8

% chuyển dịch của DV 1,4 1,5 1,4 4,7

Cosφ 0,963 0,966 0,991 0,813

Góc CDCC - φ (Độ) 15,59 14,99 7,41 35,54

(Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam)

4.3. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cấp II Xu thế CDCC nội bộ ngành nông nghiệp, lâm nghiệp

và thủy sản Bảng 2. Mức CDCC trong nội bộ ngành nông lâm

thủy sản của tỉnh Quảng Nam

2000-2005

2006-2010

2011-2014

2000-2014

% chuyển dịch của NN -4,39 -0,83 -5,47 -8,75

% chuyển dịch của Lâm nghiệp

-0,01 -1,67 2,03 0,42

% chuyển dịch của thủy sản 4,40 2,50 3,45 8,33

Cosφ 0,9972 0,9996 0,9983 0,9865

Góc CDCC - φ (Độ) 4,29 1,69 3,33 9,42

(Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam)

Số liệu thống kê cho thấy trong ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng - ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã có những thay đổi tỷ trọng của các ngành. Trong ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng của tỉnh Quảng Nam, ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu, hiện là hơn 62%. Tỷ trong của ngành này đã giảm từ hơn 72.3% năm 1997 xuống 62.9% năm 2014 từ giảm 8.8%. Ngành thủy sản ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tỷ trọng của thủy sản trong tổng giá trị gia tăng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 20.8% năm 2000 lên 30.1% năm 2014 tức tăng 8.3%. Ngành lâm nghiệp có tỷ trọng thay đổi không nhiều, chỉ tăng 0,13% trong khoảng thời gian này.

Tỷ trọng của ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp giảm nhanh trong giai đoạn 2000-2005, sau đó chậm lại ở giai

đoạn 2006-2010 và nhanh trở lại trong giai đoạn 2011-2014. Xu thế thay đổi tỷ trọng của ngành thủy sản ngược lại, tăng nhanh giai đoạn đầu sau đó chậm lại và tăng nhanh ở giai đoạn sau. Tỷ trọng của ngành lâm nghiên sau 10 năm giảm tăng trở lại trong giai đoạn cuối. Do tỷ trọng của 2 ngành nông nghiệp nghĩa hẹp và thủy sản rất lớn nên xu thế CDCC ngành kinh tế trong nội bộ ngành nông lâm thủy sản như xu thế thay đổi của 2 ngành này. Góc CDCC - φ thể hiện rõ xu thế này. Góc φ cao trong giai đoạn 2000-2005, sau đó giảm ở giai đoạn 2006-2010 và tăng nhanh trở lại trong giai đoạn 2011-2014. Tổng số góc CDCC này trong 15 năm qua là khoảng hơn 9 độ.

Nhìn chung Xu thế chuyển dịch CC ngành kinh nông lâm thủy sản đang theo chiều hướng tăng vai trò của ngành thủy sản và giảm dần vai trò của ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Ngành lâm nghiệp giữa nguyên vị trí. Tuy nhiên xu thế thay đổi khá chậm điều này cũng cho thấy cần có những thay đổi tích cực trong Định hướng phát triển các ngành này cũng như công nghiệp chế biến.

Xu thế CDCC nội bộ ngành công nghiệp Trong ngành công nghiệp của tỉnh, công nghiệp chế

biến là ngành chủ yếu khi chiếm tỷ trong lớn nhất, hiện vẫn chiếm 85%. Hai ngành còn lại chiếm tỷ trọng không lớn lắm chỉ khoảng dưới 10%. Tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến từ chỗ chiếm tuyệt đối đã giảm dần khi hai ngành công nghiệp còn lại có sự tăng trưởng nhanh. Tỷ trọng ngành này từ mức chiếm hơn 90% năm 2000 đã giảm còn 85% tức giảm hơn 5%. Tỷ trọng của ngành công nghiệp điện khí tăng hơn 8.5% trong giai đoạn này. Tỷ trọng của công nghiệp chế biến đã giảm gần 3%.

Những thay đổi này phản ánh sự dịch chuyển sản xuất công nghiệp những năm qua ở tỉnh Quảng Nam. Tập trung phát triển ngành sản xuất điện để khai thác các thể mạnh tự nhiên của tỉnh trong phát triển thủy điện. Công nghiệp khai thác đang được hạn chế phát triển.

Bảng 3. Mức CDCC trong nội bộ ngành công nghiệp của tỉnh Quảng Nam

2000-2005

2006-2010

2011-2014

2000-2014

% CD của CN khai thác -0,46 -0,50 -0,40 -2,78

% chuyển dịch của CN chế biến -2,85 -1,83 -1,15 -5,75

% chuyển dịch của CN điện khí 3,31 2,33 1,55 8,53

Cosφ 0,9992 0,9990 0,9993 0,9943

Góc CDCC - φ (Độ) 2,17 2,50 2,04 6,10

(Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam) Xu thế CDCC ngành kinh tế trong nội bộ ngành công

nghiệp thể hiện trên bảng 3. Tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến giảm nhanh trong giai đoạn 2000-2005, sau đó chậm lại ở giai đoạn 2006-2010 và nhanh trở lại trong giai đoạn 2011-2014. Xu thế thay đổi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến giảm nhanh giai đoạn đầu sau đó chậm dần. Tỷ trọng của công nghiệp điện khí tăng liên tục trong cả ba

Page 136: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

132 Nguyễn Hồng Quang

giai đoạn. Do tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến rất lớn nên xu thế CDCC ngành kinh tế trong nội bộ ngành công nghiệp sẽ phụ thuộc vào ngành này. Góc CDCC - φ thể hiện rõ xu thế này. Góc φ tăng đầu khoảng trên 2 độ trong cả ba giai đạm và tổng số 15 năm là hơn 6 độ.

Phân tích cụ thể hơn trong nội bộ ngành công nghiệp chế biến của tỉnh. Trong tổng số 17 ngành, chỉ có 3 ngành có tỷ trọng trên 10%, trên 5% là 3 ngành, còn lại chỉ chiếm một vài %. Nếu xem xét theo thời gian, trước năm 2010 thì nhóm ngành SX thực phẩm và thức uống, SX sản phẩm dệt, SX trang phục, SX SP bằng da, giả da, SX sp gỗ & lâm sản chiếm ưu thế (gần 59%). Từ 2010 tới 2014, nhóm ngành trên chỉ còn chiếm khoảng 37% và ngành sản xuất xe có động cơ, rơ moóc đã chiếm trên dưới 40%. Ngoài ra ngành SX các SP khoáng phi kim loại cũng có tỷ trọng trên dưới 10% từ sau 2010.

Nếu xem xét chất lượng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp từ 2000 tới 2014, hệ số cosφ = 0.4633 và góc φ = 62.39 nói lên rằng đã có sự chuyển dịch khá tốt trong 15 năm qua.

Xu thế CDCC nội bộ ngành thương mại dịch vụ Trong ngành thương mại dịch vụ, ngành dịch vụ có vai

trò lớn và ngày càng tăng. Tỷ trong của ngành này từ hơn 52.6% năm 2000 đã tăng lên 73.1% năm 2014, tăng khoảng 20.5%. Ngược lại, vai trò của ngành thương mại giảm dần. Tỷ trọng của ngành này giảm 20.5% những năm qua và hiện chỉ chiếm 26.9%.

Xu thế CDCC ngành trong nội bộ ngành thương mại dịch vụ diễn ra khác với các ngành nông lâm thủy sản và công nghiệp. Tỷ trọng của ngành thương mại giảm nhanh dần trong các giai đoạn và theo chiều ngược lại ngành dịch vụ tăng dần lên. Góc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng tăng dần trong 3 giai đoạn và đạt gần 22 độ trong 15 năm qua.

Bảng 4. Mức CDCC trong nội bộ ngành thương mại dịch vụ của tỉnh Quảng Nam

2000-2005 2006-2010

2011-2014

2000-2014

% CD của thương mại -3,5 -4,3 -7,2 -19,9

% chuyển dịch của DV 3,5 4,3 7,2 19,9

Cosφ 0,99759 0,9958 0,9639 0,928

Góc CDCC - φ (Độ) 3,98 5,24 15,43 21.83

Bảng 5. Cơ cấu theo ngành kinh tế theo doanh nghiệp tỉnh QN

2008 2010 2012 2014

Tổng DN 1749 2245 3000 3118

Trong đó (%)

Ngành Nông lâm thủy sản 3,9 4,1 3,1 3,1

Ngành Công nghiệp xây dựng 42,4 40,9 42,5 42,2

Ngành Thương mại dịch vụ 53,7 55,0 54,4 54,7

(Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam)

Nhìn chung, CDCC ngành kinh tế trong nội bộ ngành thương mại dịch vụ của nền kinh tế này đang dịch chuyển dần sang dịch vụ. Xu hướng này thể hiện tính tích cực và tiềm năng sẽ còn rất lớn.

5. Kết luận và hàm ý chính sach Từ những phân tích trên có thể rút ra những kết luận và

hàm ý chính sách sau; 5.1. Kết luận

Thứ nhất; Cơ cấu ngành kinh tế cấp I của tỉnh Quảng Nam những năm qua đã có xu hướng chuyển dịch tích cực. Xu hướng này được thúc đẩy bới sự tăng trưởng mạnh của ngành CN-XD và dịch vụ. Tuy nhiên, sự thay đổi đang chậm lại và sự suy giảm này khá nhanh và chỉ mới thể hiện về sản lượng chưa phản ánh hiệu quả; Thứ hai; Trong nội bộ các ngành cấp II, xu thế CDCC ngành kinh tế vẫn thuể hiện những dấu thiệu tích cực theo những xu hướng chung của các nền kinh tếđang trong giai đoạn phát triển. Xu thế này được hỗ trợ bởi các ngành kinh tế màđịa phương có nhiều lợi thế cũng như nhằm thực hiện các định hướng công nghiệp hóa nền kinh tế như sự phát triển ngành thủy sản, điện khí và thướng mại. Tuy nhiên những thay đổi cơ cấu nội bộ ngành kinh tế này vẫn còn nhiều hạn chế. Sự phát triển của các ngành nội bộ nông nghiệp chưa được hỗ trợ và thúc đẩy bởi các ngành công nghiệp. Trong khi các ngành trong nội bộ công nghiệp chỉ mới ở trình độ phát triển ở giai đoạn đầu của sự phát triển ngành này. Nền kinh tế chủ yếu tập trung phát triển các ngành có trình độ công nghệ thấp, thâm dụng lao động tài nguyên và giá trị gia tăng thấp. Ngành dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nền kinh tế.

5.2. Hàm ý chính sách Những đánh giá trên là cơ sở đưa ra các hàm ý chính

sách cho quá trình CDCC ngành kinh tế trong thời gian tới. Cụ thể cần thực hiện các định hướng phát triển các ngành kinh tế như sau:

Thứ nhất về phát triển ngành công nghiệp Về quan điểm: Phát triển các ngành công nghiệp có nhiều

lợi thế, tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tác, chế biến tài nguyên, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa của tỉnh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu

Định hướng phát triển công nghiệp của tỉnh những năm tới (i) Khai thác triệt để lợi thế trong nước và cơ hội quốc tế; (ii) Tham gia chủ động và hiệu quả vào mạng lưới sản xuất công nghiệp khu vực và quốc tế; (iii) Thu hút đầu tư có chọn lọc và huy động tối đa mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế; (iv) Phát triển các ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, quy trình công nghệ hiện đại để tạo ra nền tảng quan trọng cho hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; (v) Gắn với tăng trưởng xanh, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên.

Cần thực hiện: (1) Tập trung phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên. Để phát triển các ngành công nghiệp này, cần chú trọng tới một số giải pháp chủ yếu sau đây: (i) Có định hướng hợp lý cho phát triển công nghiệp ưu tiên làm cơ sở để định hướng đầu tư phát triển ngành và điều chỉnh, bổ sung các chính sách có liên quan. (ii) Bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư vào phát triển công nghiệp ưu tiên do

Page 137: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 133

đầu tư vào ngành công nghiệp này có những khó khăn và phức tạp hơn. (iii) Trợ giúp các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất sản phẩm ưu tiên này để giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của các ngành công nghiệp sử dụng sản phẩm của công nghiệp ưu tiên. (2) Phân bố không gian công nghiệp hợp lý. Cần điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp, mục tiêu cần đảm bảo phù hợp giữa các vùng; làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cân đối giữa các địa phương, vùng, miền. Đảm bảo mỗi ngành công nghiệp có thể khai thác tối đa lợi thế tại chỗ và tận dụng tốt nhất các đặc điểm về hạ tầng, vị trí địa lý của từng khu vực; thực hiện liên kết hiệu quả giữa các địa phương, vùng, miền. Yêu cầu của việc sắp xếp, tổ chức lại các hoạt động kinh tế trên các KCN là nâng cao tính hiệu quả với các KCN hiện nay. (3) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vừa sử dụng vừa đào tạo phát triển NNL đáp ứng cho yêu cầu phát triển. Gắn kết giữa cơ sở đào tạo và người sử dụng theo hướng xã hội hóa ngày càng sâu rộng.

Thứ hai về nông nghiệp Quan điểm phát triển: Phát triển nông nghiệp trên cơ sở

tái cấu trúc ngành này theo hướng nâng cao năng suất, giá trị gia tăng và chất lượng sản phẩm

Định hướng phát triển cần (i) Tập trung khai thác và tận dụng tốt lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn theo hình thức trang trại, gia trại, khu nông nghiệp công nghệ cao; từng bước đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về an toàn vệ sinh thực phẩm; kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm, với chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới: cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, các loại hải sản khác, các loại rau, quả nhiệt đới, đồ gỗ.... (ii) Hoàn thiện thể chế cho phát triển nông nghiệp theo định hướng thị trường; đổi mới và phát triển hệ thống quản lý và hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Phát triển nông nghiệp phải bảo đảm tăng thu nhập cho người sản xuất nông nghiệp trên cơ sở tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế và giảm nghèo.

Phát triển nông nghiệp hướng tới thực hiện các mục tiêu ưu tiên về phúc lợi cho nông dân và người tiêu dùng.

Phát triển nông nghiệp phải Giảm thiểu tác động bất lợi về môi trường do việc khai thác các nguồn lực cho sản xuất nông lâm thủy sản; tăng hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên; quản lý và sử dụng hiệu quả, an toàn các loại hóa chất, thuốc trừ sâu, chất thải từ chăn nuôi, trồng trọt, công nghiệp chế biến và làng nghề; bảo tồn đa dạng sinh học;

Thứ ba về phát triển thương mại và dịch vụ Quan điểm phát triển: Phát triển ngành này theo hướng

nâng cao giá trị gia tăng trên cơ sở phát triển các thương mại và dịch vụ cao cấp và dịch vụ hỗ trợ các ngành sản xuất của tỉnh và vùng. Cụ thể:

Tập trung phát triển các ngành thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ thương mại; dịch vụ cung ứng vật tư, kỹ thuật; dịch vụ cung ứng giống cây trồng, vật nuôi; dịch vụ cung ứng tàu biển; dịch vụ vận tải và các loại hình dịch vụ công cộng khác.

Phát triển và phối hợp hợp lý trong khai thác các loại hình du lịch: du lịch biển, thắng cảnh, du lịch văn hóa (đặc biệt là du lịch văn hóa Chàm), du lịch nghỉ ngơi giải trí.

Phát triển mạnh cơ sở hạ tầng thương mại trên phạm vi toàn tỉnh trên cơ sở phát triển các chợ và hợp tác xã thương mại - dịch vụ theo hướng cải tạo và nâng cấp các chợ hiện có ở các đô thị, thị trấn, thị tứ; đầu tư xây dựng các chợ ở nông thôn, miền núi theo cụm, vùng. Tiếp tục củng cố, sắp xếp, nâng cao hoạt động của các hợp tác xã thương mại, dịch vụ. Hình thành một số trung tâm thương mại với các chức năng sau: cảng thương mại tự do ở Kỳ Hà, Trung tâm Thương mại - Du lịch Hội An, Trung tâm Thương mại Tam Kỳ, Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang.

Riêng ngành dịch vụ phải: (i) Nâng cao vai trò và phát huy hiệu quả nhân tố con người: Coi trọng công tác giáo dục - đào tạo, khuyến khích phát hiện bồi dưỡng tài năng trẻ và nhân tài; Nâng cao hiệu quả sử dụng nhân tố con người bằng chính cơ chế phân phối lợi ích, tạo động lực kích thích con người phát huy sức lực, trí tuệ cho công việc. Khai thác các thị trường lao động, đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động; (ii) Huy động các nguồn vốn và chính sách đầu tư: xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích, huy động nhân dân và các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia vào các hoạt động đầu tư, từng bước thực hiện cơ chế đổi đất lấy cơ sở hạ tầng thương mại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lewis, A. W. (1954), Economic Development with Unlimited

Supplies of Labour, The Manchester School, 22 (2), 1954, pp.139-191.

[2] Hollis Chenery (1974), Redistribution with growth; policies to improve income distribution in developing countries in the context of economic growth, Oxford University Press, London, 1974. http://www.econlib.ogr/library/YPDBooks/marx/mrxcpa.htm

[3] Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội- 2006.

[4] Lê Xuân Bá và các cộng sự (2006), “Các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Việt Nam”, Nxb Khoa học Xã hội 2006

[5] Đào Thế Tuấn và các cộng sự (2004), “Cơ sở khoa học của vấn đề CDCCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở Việt Nam trong tương lai”. Đề tài khoa học nhánh của đề tải KX 03.11-01-15.

[6] Lê Quốc Doanh và các cộng sự (2006), “Nghiên cứu luận cứ để CDCCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH”. Đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước – 2001-2005.

[7] Vũ Tuấn Anh, Một số vấn đề lý luận về cơ cấu nền kinh tế quốc dân, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 2/1982.

[8] Bùi Quang Bình (2010), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 233 tháng 3/2010.

(BBT nhận bài: 15/11/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 24/11/2016)

Page 138: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

134 Trần Thị Trương

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH TỈNH QUẢNG NGÃI

STUDY OF FACTORS AFFECTING HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN TOURISM IN QUANG NGAI PROVINCE

Trần Thị Trương NCS khóa 30, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng; [email protected]

Tóm tắt - Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất quan trọng,nhưng thật khó để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến phát triểnnguồn nhân lực ngành du lịch. Nghiên cứu này nhằm xác định cácnhân tố chính ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành dulịch tỉnh Quảng Ngãi.Kết quả nghiên cứu sẽ là những thông tin rấthữu ích cho các nhà quản lý ngành du lịch. 220 bảng câu hỏi đượcgởi đến các Sở, Ban, Ngành, Hiệp hội, các tổ chức đào tạo có liênquan ngành du lịch và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở tỉnhQuảng Ngãi (n=220). Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS 16.0để phân tích dữ liệu, kết quả phân tích dữ liệu cho thấy có 7 nhântố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnhQuảng Ngãi: Kinh tế-Văn hóa-Xã hội; Chất lượng con ngườiQuảng Ngãi; Giáo dục và đào tạo; Chính sách hỗ trợ của nhànước; Môi trường làm việc và quan hệ lao động; Đào tạo và pháttriển nghề nghiệp; Phân tích và đánh giá kết quả công việc.

Abstract - Human resource development is a very important issue, but it is hard to determine the factors that affect the development of the human resources in tourism. This study aims to identify the main factors affecting the development of human resources in tourism in Quang Ngai. The study results will be useful information for tourism managers. 220 questionnaires were sent to tourism-related departments, industries, associations, training institutions, sectors and tourism enterprises in Quang Ngai (n = 220). The research uses SPSS 16.0 software for data analysis Data analysis results show that there are 7 factors affecting human resource development in tourism in Quang Ngai.They are economy– culture – society, quality of Quang Ngai people, education and training, the policy of state support, work environment and labor relations, training and career development; analysis and evaluation of the results of the work.

Từ khóa - nguồn nhân lực ngành du lịch; phát triển nguồn nhânlực ngành du lịch; đào tạo; phát triển nghề nghiệp; phát triển tổchức.

Key words - human resources in tourism; human resources development in tourism; training; career development; organizational development .

1. Đặt vấn đề

Nguồn nhân lực (HR) vẫn là yếu tố quyết định quan trọng của sản phẩm du lịch và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của điểm đến [12]. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực (HRD) cho phép các tổ chức nâng cao kiến thức và khả năng của nhân viên, góp phần vào việc cung cấp chất lượng dịch vụ vượt trội và sự hài lòng của khách hàng [2].

Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch, đặc biệt ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi, hiện nay chưa được nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch.Kết quả nghiên cứu sẽ là những thông tin rất hữu ích cho các nhà quản lý ngành du lịch cũng như các nhà quản lý các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một nghiên cứu ứng dụng, kết quả của nghiên cứu nhằm mục đích trực tiếp hỗ trợ cho việc ra quyết định của các nhà quản trị.

2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý luận

Trong những năm 1980, nhà nghiên cứu đầu tiên về lĩnh vục quản trị nguồn nhân lực là Beer và cộng sự nhấn mạnh rằng khi đối mặt với ngày càng tăng cạnh tranh quốc tế, các tổ chức đã phải tập trung vào đầu tư nguồn nhân lực như là nguồn chính của lợi thế cạnh tranh [3]. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất củatổ chức. Gần đây sự gia tăng nhu cầu người lao động tri thức đã nhân mạnh việc tập trung vào nguồn nhân lưc là chìa khóa quan trọng đối với năng suất tổ chức.

Một định nghĩa cho phát triển nguồn nhân lực (HRD)

đã được đề xuất bởi Watkins, trong đó tập trung vào việc học tập [20], Swanson tập trung vào hiệu suất [18]. Tuy nhiên, nhiều bất đồng nảy sinh, với một số tác giả cho rằng nó là không thể hoặc không khả thi để cung cấpmột định nghĩa duy nhất của khái niệm này [10]. Điều này thiếu sự thỏa thuận đã trầm trọng thêm bởi những quan điểm nhận thức của các cá nhân, các nhà bình luận và các học giả trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực .

Các thành phần của HRD như được xác định bởi Thomson và Mabey cung cấp một mô hình lý thuyết. Họ đã xác định ba thành phần chính của HRD là: phát triển tổ chức (OD), phát triển nghề nghiệp (CD), đào tạo và phát triển (T&D) [19]. Nói chung, mục đích của HRD, được chiết xuất từ các định nghĩa ở trên, là để nâng cao hiệu suất cá nhân và nâng cao hiệu quả tổ chức.

Khung lý thuyết của HRD có thể được xem từ một bối cảnh chung, như đã thảo luận ở trên, hoặc từ một bối cảnh cụ thể hơn, chẳng hạn như một bối cảnh quốc gia. Thật vậy, nó đã được báo cáo rằng các khuôn khổ lý thuyết của HRD thay đổi từ nước này sang nước khác do ảnh hưởng kinh tế, các yếu tố chính trị, pháp luật của chính phủ và hệ thống giá trị của đất nước. Những ảnh hưởng này đặc biệt có ảnh hưởng trong việc định hình sự phát triển nguồn nhân lực [10]. Khung lý thuyết và khái niệm của HRD thay đổi theo quốc gia theo ba chiều, cụ thể là phạm vi hoạt động trong HRD, đối tượng dự định phát triển và các mục đích quốc gia của HRD. 2.2. Phương pháp nghiên cứu

Các nghiên cứu trước đây về quản trị nguồn nhân lực cả trong và ngoài nước như: [1], [4], [6], [8], [9], [12], [14], [16], [17], [22], [23],… Một số nghiên cứu trước đã chia

Page 139: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 135

các nhân tố môi trường ảnh hưởng đến quản trị nguồn nhân lựcgồm 2 nhóm: nhóm các nhân tố môi trường bên ngoài và nhóm các nhân tố môi trường bên trong. Nhóm các nhân tố môi trường bên ngoài gồm: kinh tế; chính trị; văn hóa-xã hội; công nghệ; lực lượng lao động; đối thủ cạnh tranh, luật pháp, ngân sách. Nhóm các nhân tố môi trường bên trong gồm: Hỗ trợ của nhà quản trị; phân tích công việc; tuyển chọn nhân sự; đánh giá thành tích; đào tạo và phát triển nghề nghiệp; quan hệ lao động; lương, thưởng và phúc lợi; quy mô tổ chức; mục tiêu tổ chức. Đối với nghiên cứu này, để biết được các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi, tác giả dựa

vào những nghiên cứu trước đây, lý thuyết và xây dựng một dàn bài thảo luận nhóm cùng với các chuyên gia ngành du lịch để xác định các biến nghiên cứu và xây dựng mô hình thống kê. Nghiên cứu này nhằm thảo luận về các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố (biến độc lập), để đạt mục tiêu này tác giả dùng hàm hồi quy để xác định.

Mô hình nghiên cứu được khẳng định thông qua việc thu thập ý kiến và phỏng vấn các chuyên gia ngành du lịch (Nghiên cứu định tính) (Hình 1).

Hình 1. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch

Việc thu thập dữ liệu thông qua bản câu hỏi và quy trình

xây dựng bản câu hỏi theo Churchil [5] như sau: Bước 1, Xác định nội dung các biến nghiên cứu trong mô hình và lựa chọn thang đo cho các biến dựa vào các mô hình nghiên cứu trước. Các khái niệm nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu đó là: Kinh tế- Văn hóa – Xã hội (1); Chất lượng con người Quảng Ngãi (2); Giáo dục và đào tạo (3); Chính sách hỗ trợ Nhà nước (4); Tuyển dụng (5); Đào tạo và phát triển nghề nghiệp (6); Đánh giá kết quả công việc (7); Môi trường làm việc và quan hệ lao động (8); Lương, thưởng và phúc lợi (9). Các biến quan sát của các khái niệm (1), (2), (3), (4) dựa vào thang đo của Nguyễn Thanh Vũ [16], còn các biến quan sát của các khái niệm (5), (6), (7), (8), (9) dựa vào thang đo của Singh K. [17], [16]. Bước 2, Thang đo sẽ được dịch sang tiếng việt đối với thang đo nước ngoài, sau đó hiệu chỉnh và bổ sung cho phù hợp với nguồn nhân lực ngành du lịch thông qua thảo luận nhóm cùng với các chuyên gia ngành du lịch. Bản câu hỏi được hình thành và thực hiện thu thập dữ liệu trên một mẫu nhỏ (n=50), đánh giá sơ bộ định lượng thang đo thông qua phân tích nhân tố khám phá EFA và đánh giá độ tin cậy thang đo thông qua hệ số Cronbach Alpha. Kết quả của giai đoạn này sẽ làm cơ sở cho việc phát triển bản câu hỏi để thu thập dữ liệu chính thức. Bản câu hỏi bao gồm hai phần: "dữ liệu nhân khẩu học", "biến về nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực" và một câu hỏi mở. Các biến trong mô hình nghiên cứu được đo lường thông qua thang đo Likert

với 5 mức độ (1- Hoàn toàn không đồng ý, 2- Không đồng ý, 3- Bình thường, 4- Đồng ý, 5- Hoàn toàn không đồng ý). Theo Nguyễn Đình Thọ [15], tỉ lệ quan sát/biến đo lường là 5:1, nghĩa là 1 biến đo lường cần tối thiểu 5 quan sát.

Trong nghiên cứu này, tổng số biến quan sát là 43, như vậy số mẫu tối thiểu cần đạt được là 215. Nhưng để đạt được kích thước mẫu này, nhóm tác giả đã gửi số phiếu đi điều tra thực tế là 300 phiếu. Phương pháp chọn mẫu tổng thể được thực hiện. Phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua bản câu hỏi được chuẩn bị trước. Theo số liệu của Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Quảng Ngãi, tính đến năm 2015, trên địa bàn tỉnh có khoảng 275 cơ sở lưu trú. Nhà nghiên cứu lựa chọn 30 cơ sở lưu trú được xếp hạng sao; 17 công ty kinh doanh lữ hành; các trường đại học ở Quảng Ngãi; Các sở, ban, ngành quản lý du lịch Quảng Ngãi để gởi phiếu điều tra. Đối tượng khảo sát là tất cả các nhà quản trị cấp cao và cấp trung. Thời gian tiến hành khảo sát từ tháng 6/2016 đến tháng 8/2016. Tất cả các bản trả lời thu thập trong thời gian này. Kết quả thu về 250 phiếu, sau khi kiểm tra có 30 phiếu không đảm bảo độ tin cậy nên loại bỏ, còn lại 220 phiếu đạt yêu cầu, có giá trị để phân tích. Như vậy có 220 phiếu điều tra hoàn chỉnh được dùng cho nghiên cứu chính thức, đạt tỷ lệ 73,33%. Để đánh giá chất lượng thang đo trong nghiên cứu tác giả sử dụng hai công cụ là phân tích nhân tố khám phá (EFA) và hệ số Cronbach’s Alpha. Sau đó, tiến hành thực hiện hồi

Kinh tế-Văn hóa-Xã hội

Chất lượng con người Quảng Ngãi

Giáo dục và đào tạo

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước

Tuyển dụng

Đào tạo và phát triển nghề nghiệp

Đánh giá kết quả công việc

Môi trường làm việc và quan hệ lao động

Lương, thưởng và phúc lợi

Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch

Page 140: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

136 Trần Thị Trương

quy bội để xác định các nhân tố ảnh hưởng và đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch.

3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thống kê mô tả mẫu

Mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nữ (56,8%) được phỏng vấn chiếm tỷ lệ cao hơn nam(43,2%); nhóm tuổi 30-40 chiếm 53,6%, đối tượng được phỏng vấn trình độ chuyên môn đại học trở lên chiếm tỷ lệ cao (45%) và thâm niên công tác trong ngành du lịch từ 10 đến <10 năm chiếm 53,6%. Để đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch.Tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) và sau đó được kiểm định độ tin cậy thang đo của từng yếu tố được trích rút từ EFA thông qua công cụ hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha.

3.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) 3.2.1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) thang đo các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường bên ngoài tổ chức.

Kết quả EFA cho thấy có 4 nhân tố được trích từ 14 biến đo lường các thuộc tính trong nhóm các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài tổ chức. Bốn nhân tố này trích được 77,688% phương sai, KMO là 0 ,814 và trọng số nhân tố của các biến quan sát đều đạt yêu cầu (>0,50), không có biến quan sát nào bị rút trích. Nhân tố “Kinh tế - Văn hóa – Xã hội” gồm các biến KT1, KT2, KT3, KT4, KT5; tương tự nhân tố “Chất lượng con người Quảng Ngãi” là CL1, CL2, Cl3 ; “Chính sách hỗ trợ của nhà nước” là CS1, CS2, CS3; “Giáo dục và đào tạo” là GD1, GD2, GD3 . 3.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường bên trong tổ chức.

Kết quả EFA cho thấy có 5 nhân tố được trích từ 25

biến đo lường các thuộc tính trong nhóm các yếu tố thuộc môi trường bên trong tổ chức. Năm nhân tố này trích được 71,296% phương sai, KMO là 0,891 và trọng số nhân tố của các biến quan sát đều đạt yêu cầu (>0,50), không có biến quan sát nào bị rút trích. Nhân tố “Môi trường làm việc và quan hệ lao động” gồm các biến MT1, MT2, MT3, MT4, MT5, MT6 ; tương tự “Đánh giá kết quả công việc” là ĐG1, ĐG2, ĐG3, ĐG4, ĐG5, ĐG6; “Đào tạo và phát triển nghề nghiệp” là ĐT1, ĐT2, ĐT3, ĐT4, ĐT5; “Lương, thưởng và phúc lợi” là TL1, TL2, TL3, TL4; “Tuyển dụng” là TD1, TD2, TD3, TD4. 3.2.3. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) thang đo phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch

Kết quả EFA cho thấy có một nhân tố trích được từ 4 biến quan sát đo phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch với phương sai trích được là 72,264%, KMO là 0,677. Trọng số nhân tố của các biến quan sát đều đạt yêu cầu (>0,50), không có biến quan sát nào bị rút trích. Nhân tố phụ thuộc “Phát triển nguồn nhân lực” gồm các biến PT1, PT2, PT3, PT4. 3.3. Phân tích Cronbach’s Alpha các thang đo

Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha của thang đo các yếu tố ảnh hưởng phát triển nguồn nhân lực du lịch được nêu trong bảng 2. Kết quả này cho thấy các thang đo đều đảm bảo độ tin cậy, hệ số Cronbach’s Alpha đều trên 0,7, hệ số tương quan biến - tổng đều đạt trên 0,3. Tuy nhiên, nếu loại biến CS1 ( Công tác tuyên truyền về giáo dục, đào tạo và pháp luật lao động tốt) thì Cronbach’s Alpha = 0,926 cao hơn 0,920, tương tự nếu loại biến PT1 (Phát triển nguồn nhân lực làm cho người lao động phát triển đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi… của họ trong công việc và trong cuộc sống) thì Cronbach’s Alpha = 0,902 cao hơn 0,868. Trong ngành du lịch thì hai biến này rất quan trọng nên ta vẫn giữ lại để phân tích tiếp.

Bảng 2. Kết quả Cronbach’sAlpha

Biến quan sát Trung bình

thang đo nếu loại

biến

Phương sai thang đo nếu

loại biến

TTương quan biến-tổng

Cronbach's Alpha nếu loại

biến

1. Môi trường kinh tế-văn hóa xã hội, Cronbach’sAlpha = 0,897 KT1 Tình hình KTVHXH Quảng Ngãi tốt 14,23 5,859 0,753 0,874 KT2 Lực lượng lao động địa phương dồi dào 14,24 5,882 0,682 0,889 KT3 Hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao 14,36 5,428 0,769 0,870 KT4 Ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động tốt 14,44 5,763 0,742 0,876 KT5 Thái độ, hành vi người lao động tích cực 14,30 5,625 0,791 0,865 2. Chất lượng con ngườ i Quảng Ngãi, Cronbach’sAlpha = 0,851 CL1 Người lao động có thể lực tốt 7,31 2,116 0,734 0,790 CL2 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt 7,41 1,722 0,738 0,783 CL3 Đạo đức, tác phong làm việc tốt 7,32 1,936 0,709 0,804 3. Giáo dục và đào tạo, Cronbach’sAlpha = 0,837 GD1 Chương trình đào tạo NNL du lịch đáp ứng tốt 6,84 1,194 0,743 0,728 GD2 Đội ngũ giảng viên có năng lực và chuyên môn cao 6,81 1,406 0,662 0,808

Page 141: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 137

GD3 Cơ sở vật chất đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo 6,90 1,365 0,695 0,7774. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Cronbach’s Alpha = 0,920CS1 Công tác tuyên truyền về giáo dục, đào tạo và pháp luật lao động tốt 6,82 1,900 0,785 0,926CS2 Chính sách phát triển nghề nghiệp và hỗ trợ kinh phí đào tạo hợp lý 6,94 1,709 0,886 0,842CS3 Chính sách hỗ trợ đáp ứng được yêu cầu của ngành du lịch 7,04 1,779 0,842 0,8805. Tuyển dụng, Cronbach’s Alpha = 0,870 TD1 Quy trình tuyển dụng đảm bảo tính khoa học cao 11,04 2,638 0,704 0,843TD2 Tiêu chuẩn tuyển chọn được xác định cụ thể, rõ ràng và khách quan 10,81 2,731 0,793 0,808TD3 Người được tuyển dụng có đủ phẩm chất, năng lực 10,71 2,920 0,762 0,824TD4 Chính sách thu hút, bố trí sử dụng lao động hợp lý 11,04 2,633 0,665 0,8626. Đào tạo và phát triển nghề nghiệp, Cronbach’s Alpha=0,897 ĐT1 Đơn vị thường xuyên xác định nhu cầu đào tạo 14,03 7,373 0,703 0,884ĐT2 Chương trình đào tạo, phát triển lao động có chất lượng cao 14,06 7,216 0,733 0,878ĐT3 NLĐ được đào tạo những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc 13,97 6,926 0,746 0,875ĐT4 Người lao động có nhiều cơ hội thăng tiến tại đơn vị 14,10 6,766 0,781 0,867ĐT5 Chính sách đề bạt, thăng tiến của đơn vị là công bằng 14,06 6,823 0,770 0,8707. Đánh giá kết quả công việc, Cronbach’sAlpha = 0,891 ĐG1 Các công việc thường xuyên cập nhật trong bản mô tả côngviệc 17,18 8,186 0,692 0,875ĐG2 Công việc được xác định phạm vi, trách nhiệm rõ ràng 17,69 7,796 0,638 0,884ĐG3 Trách nhiệm và quyền hạn trong công việc tương xứng 17,61 7,509 0,771 0,861ĐG4 Người lao động biết rõ các tiêu chuẩn đánh giá kết quả công việc 17,51 7,420 0,745 0,866ĐG5 Đánh giá kết quả công việc kích thích nhân viên nâng cao năng lực 17,18 8,232 0,723 0,871ĐG6 Kết quả đánh giá công việc là công bằng khách quan 17,65 7,746 0,711 0,8717. Môi trường làm việc và quan hệ lao động, Cronbach’s Alpha = 0,898MT1 Cơ sở vật chất được trang bị hiện đại, an toàn và tiện nghi 17,48 8,689 0,648 0,891MT2 Thời gian làm việc thoải mái, hợp lý 17,31 8,472 0,719 0,881MT3 Tổ chức công đoàn thật sự là người đại diện, bảo vệ lợi ích chính đáng NLĐ 17,37 8,425 0,720 0,881

MT4 Mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới thân thiện, đáng tin cậy 17,36 8,360 0,747 0,876MT5 Có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các nhân viên với nhau 17,20 8,596 0,719 0,881MT6 Người lao động trong doanh nghiệp được đối xử công bằng 17,24 8,291 0,792 0,8698. Lương, thưởng và phúc lợi, Cronbach’s Alpha = 0,897TL1 Chính sách lương thưởng tương xứng với kết quả công việc 10,35 3,498 0,777 0,865TL2 Chế độ đãi ngộ rất đa dạng, hấp dẫn 10,45 3,354 0,791 0,859TL3 Chế độ phúc lợi rõ ràng, công khai minh bạch cho người lao động 10,35 3,480 0,797 0,857TL4 Đơn vị đủ nguồn tài chính cho cho việc trả lương, thưởng và phúc lợi 10,20 3,579 0,719 0,8869. Phát triển nguồn nhân lực, Cronbach’sAlpha = 0,868 PT1 Phát triển đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi … 10,51 3,557 0,535 0,902PT2 ĐTvà PT cá nhân, tạo dựng môi trường học tập, PT nghề nghiệp, PTtổ chức 10,62 3,105 0,768 0,812PT3 Nguồn nhân lực đủ năng lực để thực hiện những mục tiêu phát triển 10,49 3,027 0,792 0,802PT4 PTNNL đáp ứng nhu cầu hoạt động đơn vị 10,48 3,018 0,799 0,799

(Nguồn: Kết quả xử lý và tổng hợp tác giả)

3.4. Phân tích hồi quy bội

3.4.1. Phân tích trung bình và độ lệch chuẩn Theo kết quả xử lý cho thấy giá trị trung bình của các

yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi dao động từ 3,43 đến 3,67 với thang đo từ 1 đến 5 mức độ (Liker) và độ lệch chuẩn từ dao động 0,539 đến 0,669 (dưới 1).

Page 142: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

138 Trần Thị Trương

3.4.2. Phân tích tương quan Hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc phát triển nguồn

nhân lực ngành du lịch (PT) và 9 biến độc lập thấp nhất là 0,013 và cao nhất là 0,772, như vậy giữa biến phụ thuộc và biến độc lập có mối tương quan với nhau. Sơ bộ ta có thể kết luận các biến độc lập này có thể đưa vào mô hình để giải thích cho biến phụ thuộc “phát triển nguồn nhân lực

ngành du lịch” 3.4.3. Phân tích hồi quy bội

Phương pháp từng bước (STEPWISE) được sử dụng trong phân tích hồi quy bội vì bản chất của nghiên cứu này là nghiên cứu khám phá. Phương pháp stepwise phù hợp với nghiên cứu khám phá [14].

Bảng 3. Phân tích phương sai (ANOVAh)

Mô hình Tổng bình phương df Bình phương trung bình cộng F Mức ý nghĩa Sig.

7 Hồi quy 56,466 7 8,067 97,261 0,000g

Phần dư 17,583 212 0,083

Tổng 74,049 219

(Nguồn: Kết quả xử lý của tác giả)Đối với hồi quy tuyến tính bội sử dụng phương pháp

stepwise, mô hình sử dụng để diễn giải kết quả là mô hình cuối cùng (mô hình thứ 7). Qua bảng 3 vì F =97,261 và Sig

= 0,000 <0,05 nên có thể khẳng định tồn tại mối quan hệ giữa các biến độc lập MT, CS, KT, ĐT, GD, CL, ĐG với biến phụ thuộc PT với độ tin cậy 95%.

Bảng 4. Kết quả hồi quy sử dụng phương pháp từng bước (Coefficientsa)

Mô hình Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số chuẩn hóa

t Sig. Thống kê đa cộng tuyến

B Sai lệch chuẩn Beta Hệ số Tolerance VIF

7 (Constant) -0,458 0,169 -2,706 0,007

MT 0,411 0,047 0,407 8,662 0,000 0,507 1,973

CS 0,114 0,041 0,129 2,755 0,006 0,510 1,961

KT 0,179 0,046 0,181 3,925 0,000 0,524 1,907

ĐT 0,130 0,042 0,147 3,112 0,002 0,504 1,984

GD 0,112 0,040 0,107 2,773 0,006 0,757 1,321

CL 0,081 0,031 0,094 2,616 0,010 0,873 1,145

ĐG 0,104 0,051 0,099 2,044 0,042 0,474 2,109

(Nguồn: Kết quả xử lý tác giả)

Qua phân tích lý thuyết, có thể thiết lập mô hình lý thuyết thể hiện mối quan hệ giữa các biến độc lập và các biến phụ thuộc trên tổng thể như sau:

PTi = B0 + B1KTi + B2CLi + B3GDi + B4CSi + B5TDi + B6ĐTi + B7ĐGi + B8MTi + B9TLi + iε

Với kết quả phân tích tại bảng 4 (Mô hình 7), tất cả các giá trị sig.=p(t) tương ứng với các biến MT, CS, KT, ĐT, GD, CL, ĐG lần lượt là 0,000; 0,006; 0,000; 0,002; 0,006; 0,010 và 0,042 đều nhỏ hơn 0,05. Hệ số Tolerance lớn và hệ số VIF nhỏ, lớn nhất 2,109 (<3), nên các biến không có dấu hiệu đa cộng tuyến. Do vậy, có thể khẳng định các biến số này có ý nghĩa trong mô hình và mô hình thực tế được thiết lập như sau:

PTi= -0,458 + 0,411MTi + 0,114CSi + 0,179KTi + 0,130ĐTi + 0,112GDi + 0,081CLi +0,104ĐGi + iε

Qua phương trình trên, có thể nhận thấy rằng 7 nhân tố gồm: Môi trường làm việc và quan hệ lao động; Chính sách

hỗ trợ của Nhà nước; Kinh tế - Văn hóa - Xã hội; Đào tạo và phát triển nghề nghiệp; Giáo dục và đào tạo; Chất lượng con người Quảng Ngãi; Phân tích và đánh giá kết quả công việc là 7 nhân tố giải thích tốt nhất cho các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch. Với một cấp độ thay đổi về yếu tố môi trường làm việc và quan hệ lao động thì phát triển nguồn nhân lực sẽ tăng 0,411 cấp độ. Giải thích tương tự như trên với 6 yếu tố còn lại.

Theo kết quả hệ số Beta, thể hiện mức độ tác động của các nhân tố đến phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp theo thứ tự như sau: Nhân tố “Môi trường làm việc và quan hệ lao động (MT)” tác động đến phát triển nguồn nhân lực mạnh nhất (Beta=0,407); nhân tố tác động mạnh thứ hai là nhân tố “Kinh tế - Văn hóa - Xã hội KT (Beta = 0,181); nhân tố tác động mạnh thứ ba là nhân tố “ Đào tạo và phát triển nghề nghiệp ĐT” (Beta = 0,147); nhân tố tác động mạnh thứ tư là nhân tố CS “Chính sách hỗ trợ của Nhà nước “ (Beta = 0,129); nhân tố tác động mạnh thứ 5 là nhân

Page 143: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(111).2017-Quyển 1 139

tố GD “Giáo dục và đào tạo” (Beta=0,107); nhân tố tác động mạnh thứ 6 là nhân tố ĐG “Phân tích và đánh giá kết

quả công việc” (0,099) và cuối cùng là nhân tố CL “Chất lượng con người Quảng Ngãi” (Beta = 0,094).

3.4.4. Mức độ giải thích của mô hình Bảng 5. Mô hình tóm tắt (Model Summaryh)

Mô hình R R2 R2 hiệu chỉnh

Độ lệch chuẩn của ước lượng

Thống kê thay đổi Durbin-Watson

R2thay đổi F thay đổi df1 df2

Mức ý nghĩa F thay đổi

7 0,873g 0,763 0,755 0,28799 0,005 4,177 1 212 0,042 2,080

(Nguồn: kết quả xử lý tác giả)Qua kết quả phân tích ở bảng 5, R = 0,873 cho thấy

mối quan hệ giữa các biến trong mô hình khá chặt chẽ. R2=0,763, có nghĩa là bảy biến MT, CS, KT, ĐT, GD, CL, ĐG giải thích được 76,3% nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch. Vậy độ thích hợp của mô hình là 76,3%. Kết quả cho thấy mô hình có độ phù hợp đạt yêu cầu với hệ số xác định R2 hiệu chỉnh là 0,755. Giá trị này cho thấy sự biến thiên của biến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch PT được giải thích 75,5% bởi tác động của các biến độc lập trong mô hình, còn lại 24,5% được giải thích bởi các biến ngoài mô hình. Mức ý nghĩa của giá trị thống kê F của mô hình <0,05 cho thấy sẽ an toàn khi bác bỏ giả thuyết cho rằng tất cả các hệ số hồi quy trong mô hình hồi quy tổng thể bằng 0.

Dò tìm các vi phạm giả định cần thiết Qua phân tích, ta thấy Mô hình không có dấu hiệu đa

cộng tuyến; giả định liên hệ tuyến tính; giả định phương sai của sai số không đổi; giả định về phân phối chuẩn của phần dư đều được thỏa mãn.

Nghiên cứu không kiểm định mô hình mà chỉ dùng hàm hồi quy để xác định những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi.

Tóm lại: Qua kết quả phân tích trên cho thấy, phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố bao gồm những nhân tố quan sát được và những nhân tố chưa quan sát được. Các nhân tố quan sát được chỉ ra được mức độ quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực (PTNNL) ngành du lịch Quảng Ngãi, từ kết quả phân tích trên cũng đã chỉ ra 7 nhân tố ảnh hưởng đến PTNNL du lịch Quảng Ngãi. Trong 7 nhân tố trên có 4 nhân tố bên ngoài gồm: Kinh tế-Văn hóa-Xã hội; Chất lượng con người Quảng Ngãi, Giáo dục và đào tạo; Chính sách hỗ trợ của nhà nước và 3 nhân tố tố bên trong tổ chức gồm: Môi trường làm việc và quan hệ lao động; Đào tạo và phát triển nghề nghiệp; Phân tích và đánh giá kết quả công việc. Đối với các nghiên cứu trước như của Nguyễn Thanh Vũ (2015) đã xác định có 9 nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp may tỉnh Tiền Giang, Singh K (2004) xác định 7 nhân tố ảnh hưởng đến chính sách nhân sự của ông ty ở Ấn Độ; (KurtuluşYılmaz Genç, 2014) xem xét các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các hoạt động nguồn nhân lực, được tiến hành trên các công ty lớn của Thổ Nhĩ Kỳ. Nghiên cứu của tác giả khảo sát trên một đối tượng hoàn toàn khác với các nghiên cứu trước đó là khảo sát các đơn vị trong ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi. Nghiên

cứu đã xác định 7 nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Quảng Ngãi. Phát hiện của nghiên cứu còn cho thấy nhân tố môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp, ngày càng có nhiều nhân tố ảnh hưởng hơn nữa đến phát triển nguồn nhân lực, vì vậy nên có những nghiên cứu tiếp theo với việc xem xét nhiều nhân tố môi trường hơn, với một mẫu lớn hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Abby Y. Liu (2002), Human resource development and planning for

tourism: Case studies from PR China and Malaysia, luận án tiến sĩ, trường Đại học Waterloo, Canada.

[2] Aksu, A.A. (2005). Defining training needs of five-star hotel personnel: an application in the Antalya region of Turkey. Managerial Auditing Journal, 20 (9), 945-953.

[3] Beer, M., Spector, B., Lawrence, P. R., Mills, D. Q., & Walton, R. E. (1984). Managing Human Assets. New York : London: The Free Press.

[4] Cho, Y.Y., Wong, K.F., 2001. Determinants of hotel employment in Hong Kong. CornellHotel and Restaurant Administration Quarterly 42 (1), 50–59.

[5] Churchill, G.A. (1979). A Paradigm for developing Better Measures of Marketing Constructs, Journal of Marketing Research, 16 (1), 64-73.

[6] Guest, D. E., (1997), Human resource management and performance: A review and research agenda, International Journal of Human Resource Management, 8: 263-76.

[7] Harrison, R., 2000. Employee Development, second ed. London, Institute of Personnel and Development.

[8] Jerry w. Gilley, Steven a. Eggland, and Ann Maycunich Gilley, (2002), Principles of human resource development. Perseus Publishing. Second edition.

[9] KurtuluşYılmaz Genç (2014), Environmental Factors Affecting Human Resources Management Activities of Turkish Large Firms. International Journal of Business and Management, Vol. 9, No. 11; 2014.

[10] Lee, M. (2003). Human resource development: Learning and Training for Individuals and organizations. European Journal of Social Sci., 10(4), 155–163.

[11] McLagan, P. A. (1989). Models for HRD Practice. Training and Development Journal, 43(9), 49–59.

[12] Morrison EW. (1996), Organizational Citizenship Behavior as a Critical Link between HRM Practices, Human Resource Management (1986 – 1998), Winter 1996; 35, 4, ABI/Inform Global, pp. 493.

[13] Murphy, P.E., & Price, G.G. (2005). Tourism and sustainable development. In W.F. Theobald, Global Tourism (3rd Edition), Burlington: Elsevier, 167-192.

[14] Nguyễn Hữu Thân (2010), Quản trị nhân sự, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội.

Page 144: Lời nói đầutapchikhcn.udn.vn/OrtherFile/2017_5_19_17_20... · học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá

140 Trần Thị Trương

[15] Nguyễn Đình Thọ, 2011. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động Xã hội.

[16] Nguyễn Thanh Vũ (2015), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp may tỉnh Tiền Giang, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

[17] Singh K. 2004. Impact of HR practices on perceived firm performance in India'. Asiapacific. Journal of Human Resources 42:3301-317.

[18] Swanson, R.A. (1995). Human Resource Development: Performance is the key. Human Resource Development Quartery, 6(2), 207–220.

[19] Thomson, R., & C. Mabey. (1994). Development Human Resource.

Butterworth Heinemann Press. [20] Watkins, K.E. (1991). Many Voices: Defining Human Resource

Development from Different Disciplines. Adult Education Quaterly. Adult Education Quaterly, 4(14), 241–255.

[21] Weinberger, L. (1998). Commonly Held Theories of Human Resource Development. Human Resource Development International, 1(1), 75–93.

[22] Wong, K.F., 2004. Industry-specific and general environmental factors impactinghotel employment. International Journal of Contemporary Hospitality Management 16 (4/5), 287–2943.

[23] Website: Mô hình quản trị nguồn nhân lực của Harvard (1984), http://www.kpionline.vn/kien-thuc-kpi-bsc/mot-so-mo-hinh-quan-tri-nhan-luc-hien-dai.

(BBT nhận bài: 02/12/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 22/02/2017)