KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CL Giáo dục... ·...
Transcript of KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CL Giáo dục... ·...
KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TS Phạm Xuân Thanh, Trưởng Phòng Kiểm định chất lượng giáo dục
Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD, Bộ GD-ĐT Tel. 8683361 Mob. 0913090960
Email: [email protected] Đăng ở Tạp chí Giáo dục, số 115, tháng 6/2005.
Kiểm định chất lượng là một trong những hoạt động đảm bảo chất lượng
bên ngoài các trường đại học. Kiểm định chất lượng giáo dục đã có một lịch sử
phát triển lâu dài ở Hoa Kỳ và Bắc Mỹ, nhưng trước đây ít được các nước khác
biết đến. Trong quá trình phi tập trung hoá và đại chúng hoá giáo dục đại học,
các chuẩn mực giáo dục đại học bị thay đổi và khá khác nhau giữa các trường
đại học do chất lượng tuyển sinh đầu vào bị hạ thấp, qui mô tăng nhanh nhưng
tài chính tăng chậm, các yếu tố tiêu cực ở bên ngoài tác động đến nhà trường.
Đặc biệt, giáo dục đại học của thế giới đang dần dần chuyển từ nền giáo dục đại
học theo định hướng của Nhà nước hay theo định hướng học thuật của nhà
trường sang nền giáo dục đại học theo định hướng của thị trường. Trong bối
cảnh đó, kiểm định chất lượng trở thành một công cụ hữu hiệu của nhiều nước
trên thế giới để duy trì các chuẩn mực chất lượng giáo dục đại học và không
ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.
Kiểm định chất lượng là một quá trình đánh giá bên ngoài (đánh giá đồng
nghiệp) nhằm đưa ra một quyết định công nhận một trường đại học hay một
chương trình đào tạo của nhà trường đáp ứng các chuẩn mực qui định
(SEAMEO, 2003). Một đánh giá không nhằm mục đích đưa ra một quyết định
công nhận thì không phải là kiểm định chất lượng. Kiểm định, trong tiếng Anh -
Mỹ là Accreditation, còn trong tiếng Anh – Anh là Recognition. Hiện nay ở Việt
Nam, tuy đã thống nhất về nội hàm và thuật ngữ tiếng nước ngoài, nhưng trong
tiếng Việt vẫn có những người sử dụng thuật ngữ này theo nhiều cách: kiểm
định, kiểm nhận hay công nhận…
Kiểm định chất lượng không phải là một hiện tượng mới. Với bản chất
xem xét, đánh giá và công nhận kết quả, quá trình này đã và đang được sử dụng
để công nhận hay cho phép mở mới một trường hay một ngành đào tạo. Kiểm
định chất lượng cũng được nhiều nước sử dụng để định kỳ xem xét, đánh giá và
công nhận các trường đại học hay các chương trình đào tạo đang duy trì các
chuẩn mực qui định.
Mục đích chính của kiểm định chất lượng là nhằm đảm bảo đạt được
những chuẩn mực nhất định trong đào tạo, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng
nguồn nhân lực và đảm bảo quyền lợi cho người học. Một số nơi, kiểm định còn
nhằm mục đích giải trình với xã hội, với các cơ quan quyền lực hay với các cơ
quan, tổ chức tài trợ, cấp kinh phí. Một số không ít các tổ chức, cơ quan quan
tâm đến việc trường đại học/ ngành đào tạo đã được kiểm định hay chưa trước
khi đưa ra quyết định tài trợ hay không tài trợ cho trường đại học / ngành đào
tạo đó. Học sinh và phụ huynh, trước khi lựa chọn trường để đăng ký dự tuyển
cũng cân nhắc xem nhà trường hay ngành đào tạo có được kiểm định hay không.
Kiểm định chất lượng do một cơ quan hay một tổ chức chịu trách nhiệm
triển khai thực hiện. Cơ quan hay tổ chức đó có thể thuộc Nhà nước hoặc không
thuộc Nhà nước. Ở Mỹ và Bắc Mỹ, cơ quan kiểm định thuộc Hiệp hội các
trường đại học hay Hiệp hội nghề nghiệp. Ở nhiều nước châu Âu và châu Á,
kiểm định có sự tham gia của Nhà nước (Nhà nước lập ra các tổ chức kiểm định,
cấp kinh phí hoạt động và cho phép hoạt động với tính độc lập cao. Xem Bảng
1).
Kiểm định có thể là kiểm định trường hay kiểm định chương trình đào
tạo. Đối tượng kiểm định có thể chỉ có các trường tư hay cả trường công lẫn
trường tư.
Kiểm định cũng có thể tự nguyện hay bắt buộc. Các trường ĐH, các
chương trình đào tạo ở Mỹ có thể tham gia kiểm định một cách tự nguyện,
nhưng chỉ những sinh viên theo học tại các trường ĐH hay các chương trình đào
tạo đã được kiểm định mới có thể vay tiền của Nhà nước để đi học. Ở Hungary
kiểm định là bắt buộc đối với tất cả các trường ĐH.
Kết quả kiểm định có thể là “được kiểm định” / “không được kiểm định”,
được kiểm định có điều kiện (“được kiểm định nhưng…”). Một số nơi như
Philippins áp dụng 4-6 mức kiểm định khác nhau để tạo điều kiện cho các
trường phấn đấu vươn lên.
Thực tiễn kiểm định khá đa dạng và phức tạp, nhưng hầu như thống nhất
một qui trình và gồm có 4 bước như sau:
Bước 1: Xây dựng hoặc cập nhật các công cụ kiểm định chất lượng
Bước 2: Tự đánh giá của nhà trường
Bước 3: Đánh giá từ bên ngoài (đánh giá đồng nghiệp)
Bước 4: Công nhận những trường hoặc những chương trình đào tạo đạt
tiêu chuẩn kiểm định chất lượng.
Trong bước thứ nhất, các công cụ kiểm định chất lượng bao gồm các tiêu
chuẩn / tiêu chí, các văn bản hướng dẫn và đặc biệt là khung pháp lý cho loại
công việc này (ví dụ: Qui định về kiểm định…).
Ở đây, tiêu chuẩn được hiểu là mức độ yêu cầu và các đòi hỏi mà nhà
trường hay các chương trình đào tạo của nhà trường phải đáp ứng để được công
nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định. Các đòi hỏi này bao hàm những yêu cầu về chất
lượng, kết quả đạt được, tính hiệu quả, khả năng tài chính vững vàng, sự tuân
theo các quy định và luật lệ quốc gia, và sự ổn định của nhà trường (CHEA,
2001).
Với cách hiểu này thì tiêu chuẩn chất lượng khá trừu tượng, còn rất định
tính. Để dễ đo đếm hơn, các tiêu chuẩn được chia thành các tiêu chuẩn con ít
định tính hơn, được gọi là tiêu chí (Ở một số nước như Mỹ và Bắc Mỹ, khái
niệm “tiêu chí” được dùng như “tiêu chuẩn”, nhưng ở châu Âu thì “tiêu chí”
được dùng theo nghĩa hẹp hơn tiêu chuẩn). Trong bản báo cáo này, các tiêu chí
được hiểu là các tiêu chuẩn con dùng để kiểm định công nhận một trường hay
một chương trình đào tạo của nhà trường.
Ở bước thứ 2, nhà trường sử dụng các công cụ kiểm định chất lượng để
triển khai tự đánh giá trong phạm vi một chương trình đào tạo hay trong phạm vi
toàn bộ nhà trường. Đây là một quá trình tiêu tốn nhiều thời gian và công sức.
Tự đánh giá không chỉ đơn thuần là viết một báo cáo phê và tự phê. Tự đánh giá
là một quá trình tự học tập, tự nghiên cứu và tự hoàn thiện theo các chuẩn mực
đã ban hành để nhà trường hay chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu
chuẩn kiểm định. Quá trình này thường kéo dài từ 6 tháng đến 18 tháng. Ở Mỹ,
quá trình tự đánh giá thường kéo dài 18 tháng. Đó là khoảng thời gian cần thiết
để nhà trường tự nhận thấy những khiếm khuyết của mình và phấn đấu để khắc
phục những khiếm khuyết đó. Ở nhiều nước châu Âu, tuy trước đây chưa áp
dụng qui trình kiểm định nhưng đã sử dụng tự đánh giá như một công cụ tự hoàn
thiện nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Tự đánh giá có ưu điểm là do chính những thành viên của nhà trường trực
tiếp thực hiện. Họ là những người hiểu rõ trường ĐH / chương trình đào tạo của
họ hơn ai hết. Nhưng tự đánh giá thường thiếu khách quan và do những người
không chuyên thực hiện. Ngược lại, đánh giá đồng nghiệp hay đánh giá bên
ngoài là một quá trình nhằm làm tăng thêm giá trị của kết quả tự đánh giá. Đánh
giá đồng nghiệp do các chuyên gia tốt nhất trong cùng một lĩnh vực chuyên môn
triển khai thực hiện. Quá trình đánh giá đồng nghiệp nhằm làm sáng tỏ thêm
những vấn đề chưa được đề cập đầy đủ trong báo cáo tự đánh giá và nhằm tăng
thêm tính giá trị của chính bản báo cáo tự đánh giá. Một biện pháp để kiểm soát
tính trung thực của báo cáo tự đánh giá và báo cáo của đoàn chuyên gia đánh giá
bên ngoài là công bố công khai hai báo cáo này trên các thông tin đại chúng.
Khác với các hình thức đánh giá được sử dụng ở Anh quốc và một số
nước khác, không có một sự công nhận chính thức kết quả đạt được của từng
trường hay của từng ngành đào tạo sau mỗi đợt đánh giá, trong qui trình kiểm
định chất lượng, những trường đại học hay ngành đào tạo đạt được các tiêu
chuẩn kiểm định đều được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kiểm
định. Điều này cũng tương tự như các doanh nghiệp đang được cấp giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn ISO. Việc một trường đại học hay một ngành đào tạo được
công nhận đạt tiêu chuẩn kiểm định là một sự xác nhận rằng nhà trường hay
chương trình đào tạo đó có đủ các điều kiện cần thiết để đảm bảo là sẽ đào tạo
được những sinh viên tốt nghiệp đáp ứng được mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Tài liệu tham khảo
Council for Higher Education Accreditation. (2001). Glossary of Key Terms in Quality Assurance and Accreditation. Retrieved October 17, 2000 from the World Wide Web: http://www.chea.org/international/inter_glossary01.html.
Southeast Asian Ministers of Education Organization. (2003). Framework for Regional Quality Assurance Cooperation in Higher Education.