Khoa học đĩa bay - ĐIện động học Năng lượng Mới (Electrokinetics)
-
Upload
nhom-nang-luong-moi-viet-nam -
Category
Science
-
view
2.096 -
download
2
Transcript of Khoa học đĩa bay - ĐIện động học Năng lượng Mới (Electrokinetics)
Năng lượng Mới cho một
nước Việt Nam siêu hiện đại
Phần 3: Khoa học Năng lượng MớiĐiện-động học NLM (Electrokinetics)
6/2014Vietnam New Energy Group
Để thảo luận và đặt câu hỏivề bài thuyết trình này, xin mời bạn ghé thăm website và diễn đàn củaNhóm Năng lượng Mới Việt Nam:
www.nangluongmoisaigon.org
Hoặc lên trang Facebook của“Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam”
Xin chúc mừng!
Vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu về 6 chủ đề khoa họcđầu tiên trong bộ giáo trình Năng lượng Mới là:
1. Hệ đa-vũ-trụ 11 chiều
2. Hạ lượng tử động lực học
3. Bọt lượng tử
4. Lượng tử điện-động-lực học
5. Hiệu ứng Casimir
6. Điện-trọng-lực học
Hôm nay, chúng ta bắt đầu tìm hiểu 6 chủ đề khoa học Năng lượng Mới
còn lại.
Chúng tôi xin nhắc bạn rằng 12 chủđề khoa học NLM chúng tôi đanggiới thiệu ở đây không phải là hết
tất cả những gì cần biết để thiết kếvà chế tạo thành công các ứng dụng
NLM.
Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng mộtsố thông tin ở đây sẽ thúc đẩy bạn tìmhiểu sâu hơn về Năng lượng Mới – tức
là nguồn năng lượng vô tận từchân không lượng tử (Năng lượng
Điểm Không hay ZPE)
Lĩnh vực khoa học thứ 7 của chúng ta là điện-động học dưới mắt khoa học Năng lượng Mới
(electrokinetics)
Để hình dung được tốt hơn lực đẩy điện-động học (electrokinetic propulsion) là gì, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem buổitrình diễn 2 vật thể bay từ lĩnh vực này:
https://www.youtube.com/watch?v=490XJk053TY
Nhà khoa học Năng lượng Mới, Ts. Thomas Valone, từng than phiền rằng tình hình công nghệ hàng không
dân dụng ngày nay hết sức buồn và xấu hổ vì, vềcơ bản, các chiếc may bay của ta chỉ là nhữngphiên bản cập nhật lại công nghệ ban đầu của
2 anh em Wright cách đây hơn 1 thế kỷ.
Trong ngành hàng không dân dụng, chưa có bước phát triển gì
thật sự là đột phá
Điều này đáng buồn vì, thực tế đã cónhững bước đột phá về nghiên cứu lựcđẩy cho tàu bay, nhưng công nghệ tiên
tiến này đang bị sử dụng độc quyềntrong các dự án quân sự tối mật.
Giai cấp công nhân chúng ta chưađược thưởng thức nó hàng ngày.
May mắn thay, gần đây đã có một sốnhà khoa học dũng cảm từng làm việctrong những “dự án đen” đó của quânđội hiện đang tiết lộ nhiều bí mật vềcông nghệ phản trọng lực dựa trên
khoa học electrogravitics vàelectrokinetics.
Những thông tin khoahọc và kỹ thuật này đang
tạo cơ hội lớn cho cácnước từng bị các cường
quốc bắt nạt trong thế kỷXX, tự phát triển công
nghệ phản trọng lực tiêntiến cho nước mình.
Trong chủ đề điện-trọng-lực học, chúng ta vừathấy rằng T. Townsend Brown là một nhà phátminh tiền phong trong
công nghệ phản trọng lựcđể tạo lực đẩy cho tàu
bay. Ông Brown cũng rấtquan trọng trong lĩnh vực
điện-động họcelectrokinetics.
Tuy nhiên, như chúng ta sẽ tìm hiểudưới đây, lĩnh vực điện-động học(electrokinetics) là khác với điện-
trọng-lực học (electrogravitics) ở chỗ, vấn đề khối lượng và trọng lực
không được nêu lên nhiều.
Tập đoàn Honda và Quân đội Hoa kỳ đãđầu tư rất nhiều để nghiên cứu về
electrokinetics… một điều ngụ ý rằng đây làmột lĩnh vực khoa học hữu ích.
Theo Ts. Oleg Jefimenko, trường
điện-động(electrokinetic field) là“cái lực kéo do nhữnghạt electron gây nên
khi chúng tác động lêncác điện tích xung
quanh”
Jefimenko đã viết 2 phương trình mô tảmối quan hệ giữa trường điện động (Ek) và các phương trình Maxwell như sau:
Thomas F. Valone, “Progress in Electrogravitics and Electrokineticsfor Aviation and Space Travel”, http://www.integrityresearchinstitute.org/pdf/ElectrograviticsElectrokineticsValone.pdf
Theo Ts. Thomas Valone (Cơ quan cấp bằngsáng chế Hoa kỳ), một hệ quả của
phương trình đầu tiên là:
Những sự thay đổi trong dòng điện (trong 1 hệ thống electrokinetic) càng nhanh, thì
lực đẩy nó tạo nên sẽ càng lớn.
Theo Jefimenko, trường điện-động lực(electrokinetic field) có thể xuất hiệntại bất cứ điểm nào trong không gianvà nó có thể xuất hiện như một “lực
thuần túy” (pure force) khi nó tácđộng lên các điện tích tự do.
Điều này xảy ra khi mật độ dòng điệntrong một tụ điện thay đổi
rất, rất nhanh.Thomas F. Valone, “Progress in Electrogravitics and Electrokinetics for Aviation and Space Travel”, http://www.integrityresearchinstitute.org/pdf/ElectrograviticsElectrokineticsValone.pdf, trang 5.
Như chúng ta đã đề cập trong chủ đề Lượngtử điện động lực học, một nguyên lý cơ bản
trong khoa học Năng lượng Mới là:
Khi ta truyền xung điện vào trường ĐiểmKhông (vốn rất hỗn loạn), năng lượng
chân không sẽ gắn kết và tạo các trật tựhình học. Nói cách khác, mức entropy củaTrường Điểm Không trong một không gian
cục bộ sẽ được giảm đáng kể.
Theo Ts. Moray King, khi điều kiện trong Trường ĐiểmKhông đã đi từ hỗn loạn sang trật tự, thì lúc đó ta có thể
trích xuất năng lượng để phát điện, tạo lực đẩy, v.v…
Hãy xem video dưới đây để biết thêm về khả năng tríchxuất năng lượng từ chân không lượng tử (Trường Điểm 0):
http://youtu.be/cwrR-2yZ82g
Ở đây, Jefimenko và Valone đang nóirằng tần số các xung điện phải rất, rấtnhanh để trích xuất năng lượng chân
không một cách hiệu quả.
Ngoài việc tạo các xung năng lượng (vídụ từ laser) vào Trường Điểm Không,
lĩnh vực electrokinetics cung cấp cho ta những cách khác để trích xuất năng
lượng chân không và từ đó, tạo lực đẩy.
Các hệ thống Electrokinetic dùng tụ điện bất đốixứng (asymmetric capacitors) để phá vỡ tính đốixứng các lực cơ bản trong Trường Điểm Không
và, từ đó, tăng lực đẩy của hệ thống.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm tính (bất) đối xứngtrong Trường Điểm Không đối với hệ điện, mời
Quý độc giả xem video của Marcus Reid,
“Điện năng dưới quan điểmđiện động lực học lượng tử”
(có phụ đề tiếng Việt)
http://youtu.be/fNMULeZSukU
Thường, để tănglực đẩy, hệ thống
Electrokineticdùng các lớp tụ
điện có hình dángtấm đặt ngangnhau. Tụ điệnthường bằng
đồng (Cu).
Giữa mỗi lớp kim loại là chất điện môisố “K” cao (high dielectric constant)
Nhà khoa học ngườiĐức, ông Rudolf Zinsser,
đã công bố nhiều kết quảnghiên cứu trong lĩnh
vực Electrokinetics vàothập niên 80. Trong
những thí nghiệm này, ông thường dùng điện
môi nước
Rudolf Zinsser, "Mechanical Energy from Anistropic Gravitational Fields“, Planetary Association for Clean Energy (PACE) Newsletter (December 1981), http://www.rexresearch.com/zinsser/zinsser.htm
Tuy nhiên, các nghiên cứu sau Zinsser cho thấy rằng barium titanate là
chất điện môi hiệu quả hơn
Barium titanate giúp chúng ta tăngmật độ điện tích (charge density) –nói cách khác, là mật độ electron --trong hệ thống, một điều hết sứcquan trọng khi ta hiểu lực đẩy của
1 hệ electrokinetic theo 2 phương trình Jefimenko nêu trên.
Bên trong chất điện môi, các electron được phân cực hóa.
Khi các electron chịu lực điện-độnghọc (electrokinetic force), chúng sẽkéo theo mình cả mạng tinh thể của
điện môi.
Xem Hossein Nili và Nicholas G. Green, “AC Electrokinetics of Nanoparticles”, trong quyển Encyclopedia of Nanotechnology (2012), tr. 18-25 và James Woodward, “Flux Capacitors and the Origin of Inertia”, Foundations of Physics, V. 34 (2004), tra. 1475.
Đây là thiết bị tạo lực đẩy bằng các tụ điệnđược thiết kế theo nguyên lý Electrokinetic
bởi nhà phát minh Hector Serrano
Đọc bằng sáng chế của Serrano tại đây:http://www.amasci.com/caps/capatnt.html
J. Naudin đã sao bản thành công thiếtbị tạo lực đẩy của Serrano và đã chia sẻ với cộng đồng NLM cách lắp ráp:
J. Naudin, Serrano’s Field Propulsion Thruster, http://jnaudin.free.fr/lifters/act/html/sfptv1.htm
Jefimenko chỉ cho ta cách tính lực đẩyđiện-động học (electrokinetic force) giữa 2 tấm kim loại trong các thiết bị
của Serrano và Naudin.
Trong hình vẽbên trái, dòngđiện trong 2 tấm kim loạiđang chảy
ngược nhaunhờ dòngđiện xoay
chiều.Ở đây, x là khoảng cách giữa 2
tâm và w là chiều rộng của tấm.
Sử dụng phương trình
Jefimenko tính lực đẩy của trường điện-độnghọc (electrokinetic field hay Ek) như sau:
Ở đây, j là véc-tơ đơn vị của trục ytrong hình vẽ trên.
Trong hình vẽ, trục y chỉvề phía trời. Nhờ dấu trừ
trong phương trình
có nghĩa rằng, lực đẩy củathiết bị sẽ chỉ về mặt đất
và như thế, tàu bay sẽđược đẩy lên trời.
Trong những bài báokhoa học của mình
(trước khi công nghệ nàybị Bộ Quốc phòng Mỹxếp loại là bí mật quốcgia khoảng năm 1958), Brown đã giải thích về
chiều hướng của lực đẩyelectrokinetic bằng cách
nói rằng, vật thể bay sẽ luôn luôn
di chuyển về hướngđiện tích dương.
Dưới đây là ví dụ cụ thể của một tàu bay phảntrọng lực được thiết kế theo các nguyên lý
trong điện-động học Electrokinetics:
Tàu bay này thuộc hạm đội tàu bay vũtrụ bí mật của quan đội Hoa kỳ.
Nó được Marc McCandlish mô tả vàphân tích tỉ mỉ trong video dưới đây:
“Blueprint for a UFO”, http://youtu.be/CsCgYIVRnzA
Năm 2001, nhiều thông tin kỹ thuật vềtàu bay này được công bố tại Câu lạc
bộ Báo chí Quốc gia Hoa kỳ(http://www.bibliotecapleyades.net/di
sclosure/briefing/disclosure14.htm)
Thiết bị tạo lực đẩy trong tàu bay này dung các xung điện rất nhanh (mỗi xung được
tính bằng nano-giây)
Hãy chú ý thiết bị ở phía trên (giống như nắp bộ chia điệntrong ô tô) để điều khiên xung điện được truyền vào các
lớp điện môi và tấm kim loại luân phiên nhau
Những thí nghiệm gần đây trong lĩnh vựcelectrokinetics cho thấy rằng, lực đẩy sẽ
được tăng lên hơn nữa khi chúng ta dùngcác lớp điện môi giữ được từ tính.
Đặc biệt, khả năng này được nghiên cứu bởiRex L. Schlicher và các đồng nghiệp trongbằng sáng chế (Hoa kỳ) số 5,142,861 củahọ, mang tên “Nonlinear Electromagnetic
Propulsion System and Method.” (BSC được cấp ngày 01/09/1992).
Một số chất liệu có khi được sử dụng trongcác thiết bị tạo lực đẩy electrokinetic là
bismuth và hợp kim của Magiê+kẽm(trong hình dáng tấm siêu mỏng,
chỉ dày từ 1-4 micron)
Có lẽ 1 lý do các nhà sáng chế tronglĩnh vực lực đẩy electrokinetic từng
thử nghiệm sử dụng bismuth là nó làmột chất nghịch từ
Xem 1 thí nghiệm khoa học tạo lực đẩy với bismuth tạihttps://www.youtube.com/watch?v=MMEkA2_N6vY
Đặc biệt, Schlicher đã xác định 1 dạngsóng cho xung điện mà ông cho là
tối ưu trong hệ thống lực đẩyelectrokinetic:
Kỹ thuật này đã góp phần giúp thiết kế bộ tạo lựcđẩy trong máy bay ném bom B-2, một loại máy bay
electrokinetic dùng công nghệ phản trọng lực
Một điều thú vị trong lĩnh vực electrokineticslà, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng vị trí
các hành tinh trong Hệ Mặt trời ảnh hưởngđến lực đẩy của tàu bay.
Các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực cũng ảnhhưởng đến một hệ thống electrokinetic
Vì thế, khi bạn làm nhà khoa học Năng lượngMới, bạn phải tính đến các lực lớn của mặt
trời, mặt trăng và các hành tinh đang tácđộng vào phòng thí nghiệm của mình.
Chúng ta sẽ đi sâu hơn vào lực xoắn củacác thiên thể trong chủ đề thứ 12:
Vật lý hình xoắn (Torsion physics)