ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIU GỖ VIT NAM GIAI ĐOẠN...
Transcript of ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIU GỖ VIT NAM GIAI ĐOẠN...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN TUỆ
ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIỆU GỖ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN TUỆ
ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIỆU GỖ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2015
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Điêu khắc)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015 – 2017)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGÔ TUẤN PHONG
Hà Nội - 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
HN Hà Nội
Nxb Nhà xuất bản
Tr Trang
H Hình
Cm Centimet
MUC LUC
TRANG
MỞ ĐẦU.………………………………………………….…………………………….………..………… 1
NỘI DUNG………………………………………………….……………………………...….…………... 7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI………….… 7
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài…………………….………………...……… 7
1.1.1. Khái niệm “điêu khắc tượng tròn” …………………….……………………..……. 7
1.1.2. Khái niệm “điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ” ……………………….…… 11
1.2. Khái quát điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam hiện đại….… 13
Tiểu kết chương 1…………………….………………………………………………………………… 18
Chương 2: NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT ĐIÊU
KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIỆU GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2015 19
2.1. Nội dung các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ………….…… 20
2.1.1. Nội dung về sinh hoạt, lao động………..……………..………………….…….…… 20
2.1.2. Nội dung thể hiện đời sống tinh thần, tình cảm………..…………………… 23
2.1.3. Nội dung phản biện xã hội………..……………..……………..…………..………..…. 25
2.2. Hình thức biểu đạt các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ 27
2.2.1. Hình thức hiện thực………..……………..……………..………….………………..……... 27
2.2.2. Hình thức cách điệu………..……………...………….……..……………..……………..… 29
2.2.3. Hình thức biểu hiện………..……………..…………..……………..…………..…..……… 30
2.2.4. Hình thức trừu tượng………..………………………………..……..………….……..…… 32
Tiểu kết chương 2..……………..…………………………………..……………..……………..…….. 36
Chương 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI……………..…. 37
3.1. Những thành công và hạn chế của điêu khắc tượng tròn chất liệu
gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015………..……………..…………..……………..……. 37
3.1.1. Những thành công của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2015………..……………..…………..……………..…………………… 38
3.1.2. Những hạn chế của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015………..……………..…………..………..……………..…………………… 43
3.2. Nhận định về xu hướng phát triển của điêu khắc tượng tròn chất
liệu gỗ Việt Nam giai đoạn tiếp theo………..……..………..…………..……………..…… 45
Tiểu kết chương 3..……………..……….…………..……………..……………….……………..…… 48
KẾT LUẬN………..……………..………………..……………..……………..……………..…………….. 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………..…………...……………..………..………… 51
PHỤ LỤC………..……………..……………..……………..………………..…………..…….………..… 55
1
MƠ ĐÂU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, chất liệu gỗ đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của
nghệ thuật Việt Nam đặc biệt là: kiến trúc và điêu khắc. Gỗ là chất liệu có
nguồn gốc tự nhiên và mang những đặc tính thuận lợi trong tạo tác. Gỗ có
nhiều chủng loại nên rất đa dạng về màu sắc, hình dáng, độ cứng, kết cấu vân,
thớ… mang giá trị thị giác độc đáo, đưa đến nhiều xúc cảm cho người nghệ sỹ.
Giai đoạn 2000 -2015 đã ghi nhận những thay đổi trong đời sống xã hội
với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật, đặc biệt là
công nghệ thông tin liên lạc. Những thay đổi đó cho thấy và mang đến những
điều mới mẻ trong nhận thức con người cũng như thế giới văn hóa – tinh thần,
ảnh hưởng sâu rộng tới các sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật điêu khắc tượng
tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 -2015 do đó cũng mang nhiều nét
đặc sắc, mới mẻ ở cả nội dung và hình thức thể hiện.
Bản thân người viết xuất thân từ làng nghề điêu khắc tượng gỗ truyền
thống nên nắm vững về kỹ thuật tạo hình cũng như tính chất cơ bản của chất
liệu gỗ, có khả năng nghiên cứu và cung cấp khả năng xử lý chất liệu gỗ trong
thực hành sáng tác các tác phẩm. Do đó, người viết lựa chọn đề tài “Điêu
khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015” làm luận văn
tốt nghiệp Thạc sỹ. Qua quá trình làm luận văn, người viết mong muốn mình
có thêm cơ hội để nghiên cứu và hiểu hơn về những nội dung, hình thức biểu
đạt các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ giai đoạn 2000 – 2015
cũng như đưa ra những đánh giá mang tính cá nhân về những điểm thành
công, hạn chế của các tác phẩm đó, đưa ra dự đoán về sự phát triển của điêu
khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, các cuốn sách, bài viết liên quan đến
nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ ở Việt Nam như:
* Tài liệu sách:
- Nguyễn Lương Tiểu Bạch - chủ biên (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,
Đại học Mỹ thuật Việt Nam – Viện Mỹ thuật, HN. Cuốn sách đã giới thiệu,
phân tích về mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ
XXI bao gồm cả các tác phẩm điêu khắc từ chất liệu gỗ.
- Nhóm tác giả (1997), Điêu khắc hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, HN.
Cuốn sách đã cung cấp cái nhìn khái quát về điêu khắc gỗ hiện đại Việt Nam
cùng những tích về nghệ thuật tạo hình trong các tác phẩm điêu khắc gỗ thế
kỷ XX của các tác giả như: Đinh Rú (1937), Hứa Tử Hoài (1942), Tạ Quang
Bạo (1941), Phan Gia Hương (1951), Vương Học Báo (1950)...
- Quang Phòng, Trần Tuy (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ
thuật, HN. Cuốn sách đã phân tích hội họa và điêu khắc từ khi thành lập
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925) đến những năm cuối thế kỷ
XX, từ đó đánh giá về sự chuyển biến của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
- Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,
HN, đã đề cập các loại hình cơ bản của mỹ thuật trong đó có điêu khắc và
điêu khắc chất liệu gỗ
- Chu Quang Trứ (2001), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân
tộc, Nxb Mỹ thuật, HN, cung cấp cái nhìn khái quát về điêu khắc gỗ truyền
thống Việt Nam qua quá trình nghiên cứu nghệ thuật tạo hình tượng cổ Việt
Nam tiêu biểu như tượng cổ ở chùa Tây Phương (Thạch Thất - HN), chùa
Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh), chùa Mía (Sơn Tây - HN).
3
* Các tài liệu báo, kỷ yếu hội thảo.
- Nguyễn Ngọc Dũng (2013) “Tìm hiểu về ngôn ngữ điêu khắc” Tạp chí Mỹ
thuật - Nhiếp ảnh, 5 (11), tr. 14-16. Bài viết nghiên cứu về khối, chất liệu và
bố cục của điêu khắc từ đó chỉ ra đặc trưng của ngôn ngữ điêu khắc.
- Lê Thị Hiền (2015),“Chất liệu gỗ của Emile Van Der Kruk trong Điêu
khắc đương đại”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, 9 (39), tr. 34-38. Bài báo đã có
phân tích về tạo hình trên chất liệu gỗ của nhà điêu khắc Emile Van Der Kruk
trong điêu khắc đương đại và khái quát điêu khắc gỗ đương đại thế giới.
- Trang Thanh Hiền (2013), “Điêu khắc của những người trẻ đã thực trẻ về
tư duy và hình thức?”, Tạp chí Mỹ thuật - Nhiếp ảnh, 8 (14), tr. 16-18. Bài
báo đưa ra đánh giá về các tác phẩm của các nhà điêu khắc trẻ với những
điểm hạn chế và tích cực.
- Nhóm tác giả (2007), Kỷ yếu hội thảo khoa học 20 năm mỹ thuật Việt Nam
thời kỳ Đổi mới, Nxb Mỹ thuật, HN. Kỷ yếu đã cung cấp những thông tin về
mỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn đổi mới từ năm 1986 – 2006, đây là một
giai đoạn có nhiều chuyển biến, thay đổi của mỹ thuật Việt Nam, từ đó cung
cấp thông tin cho nghiên cứu đề tài.
- Nhóm tác giả (2014), Kỷ yếu hội thảo triển lãm điêu khắc toàn quốc lần
thứ 5(2003 – 2013) và điêu khắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Công ty
cổ phần in Savina, HN. Kỷ yếu đã đưa ra những phân tích và nhận định về
điêu khắc Việt Nam giai đoạn 2003 – 2013.
* Các công trình nghiên cứu.
- Trần Thị Biển, (2007), “Điêu khắc Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003”, đề
tài cơ sở (Tư liệu thư viện Viện Mỹ thuật Việt Nam), đã khái quát về điêu
khắc Việt Nam giai đoạn 1993 – 2003.
- Nguyễn Hồng Phong (2012), “Điêu khắc gỗ Việt Nam từ 1986 đến nay”,
luận văn Thạc sỹ Mỹ thuật, trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, HN. Luận văn
4
đã khái quát về điêu khắc gỗ và một số hình thức biểu đạt của điêu khắc gỗ
giai đoạn này.
- Trần Trọng Tri (2012), “Giá trị tự thân của chất liệu điêu khắc”, luận văn
Thạc sỹ Mỹ thuật, trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội. Luận văn trình
bày về các giá trị tự thân của chất liệu, tổng hợp và phân loại các phương cách
sử dụng chất liệu trong sáng tác điêu khắc.
- Nguyễn Thành Hiếu (2002), “ Chất liệu gỗ trong tác phẩm điêu khắc Việt
Nam”, khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Khóa luận
tìm hiểu về chất liệu gỗ và đưa ra được thành công, hạn chế của chất liệu gỗ
trong điêu khắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2015, cụ thể là nghiên cứu nội dung chủ đề và hình
thức biểu đạt các tác phẩm tượng tròn chất liệu gỗ.
Trên cơ sở tư liệu văn bản, hình ảnh và kết hợp với tư liệu thực tế, luận
văn hệ thống và làm rõ về nội dung và hình thức biểu đạt, những thành công
và hạn chế của các tác phẩm tượng tròn chất liệu gỗ trong điêu khắc Việt
Nam giai đoạn này. Từ những nghiên cứu đó, luận văn đưa ra nhận định về sự
phát triển của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Luận văn sẽ trở thành tài liệu nghiên cứu hữu ích góp phần vào việc
tìm hiểu những kiến thức về điêu khắc gỗ Việt Nam và áp dụng thực tế vào
các hoạt động sáng tác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nội dung và hình thức biểu đạt của các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc
tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000-2015.
5
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất
liệu gỗ trong các triển lãm do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm và Hội Mỹ
thuật Việt Nam tổ chức trong giai đoạn 2000 – 2015, trong đó có: Triển lãm
10 năm Điêu khắc toàn quốc lần thứ 4 (2003) và lần thứ 5 (2013); Triển lãm
Mỹ thuật toàn quốc các năm (2005), (2010); Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam
(2015); Triển lãm festival mỹ thuật trẻ năm (2014). Bên cạnh đó, luận văn còn
nghiên cứu các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ trong các triển lãm
nhóm, triển lãm Điêu khắc Hà Nội - Sài Gòn các năm (2010), (2012), (2014),
(2016); Triển lãm 5plus (2009), (2010), Triển lãm điêu khắc gỗ Hồi sinh cây
Gạo (2015).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát điền dã: Tiến hành trực tiếp quan sát, chụp
ảnh, thu thập số liệu, thực hành trực tiếp các tác phẩm điêu khắc tại triển lãm,
bảo tàng, nhà riêng, xưởng và kết hợp với việc phong vấn ý kiến, quan điểm
từ các nhà điêu khắc, nhà nghiên cứu, phê bình.
- Phương pháp thu thập thông tin: Sưu tầm và phân loại tài liệu, tư liệu,
hình ảnh, văn bản từ các nguồn thư viện, sách, báo, luận văn, tạp chí, internet...
- Phương pháp thống kê và phân tích: Phân tích, tiếp cận, tổng hợp có
hệ thống, các tư liệu ảnh, văn bản về những vấn đề liên quan đến đề tài. Trên
cơ sở đó tiến hành chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu để từ đó thấy được giá
trị nghệ thuật, nét đặc sắc của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ, việc xử lý
thông tin đảm bảo được tính khách quan và chính xác.
- Phương pháp so sánh: Tiến hành so sánh nội dung và hình thức biểu
đạt của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 với
những giai đoạn khác, nhăm chỉ ra những thành tựu và hạn chế về nội dung
chủ đề và hình thức biểu đạt của chất liệu gỗ trong điêu khắc giai đoạn này.
6
- Phương pháp mỹ thuật học: Trên cơ sở các kiến thức mỹ thuật học
tiến hành phân tích về bố cục, hình khối, không gian, màu sắc và chất cảm bề
mặt từ đó làm rõ giá trị nghệ thuật của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tác phẩm điêu
khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015, luận văn làm rõ
đặc trưng nội dung và hình thức biểu đạt các tác phẩm tượng điêu khắc tượng
tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn này, chỉ ra những thành tựu và hạn chế
của các tác phẩm đó và nhận định về sự phát triển của điêu khắc tượng tròn
chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu, hệ thống nội dung và hình
thức biểu đạt các tác phẩm tượng tròn chất liệu gỗ trong điêu khắc Việt Nam
giai đoạn (2000 – 2015). Trên cơ sở đó, luận văn phục vụ mục đích tìm hiểu
và áp dụng vào hoạt động sáng tác, tạo hình.
7. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 81 trang, bao gồm phần mở đầu (7 trang), phần nội dung
(42 trang), phần kết luận (2 trang)
Phần nội dung luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (12 trang)
Chương 2: Nghiên cứu nội dung và hình thức biểu đạt điêu khắc tượng tròn
chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 (18 trang)
Chương 3: Bài học rút ra từ nghiên cứu đề tài (12 trang)
Ngoài ra còn có tài liệu tham khảo (trang số 51 - 54), phụ lục minh họa (trang
số 55 - 86)
7
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài
1.1.1. Khái niệm “điêu khắc tượng tròn”
Theo dòng chảy lịch sử và sự hình thành của các nền văn hóa nhân loại,
nghệ thuật điêu khắc đã ra đời và phát triển cho đến nay. Dù chưa tìm thấy
được nguồn sử liệu ghi chép về thời điểm ra đời của điêu khắc nhưng dựa trên
các cổ vật khai quật được có thể nhận định răng điêu khắc là một trong những
sáng tạo nghệ thuật lâu đời nhất trong lịch sử loài người.
Trong cuốn Từ điển mỹ thuật phổ thông có định nghĩa về nghệ thuật
điêu khắc như sau :
Nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều (tượng
tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò,
đắp, gắn… những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… Điêu
khắc còn là nghệ thuật nặn tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay
khéo léo của người nghệ sĩ (xt. nặn), đồng thời là nghệ thuật đúc tượng
thông qua việc đổ khuôn (chất làm tượng được làm chảy ra, sau đó đổ
vào khuôn, nó sẽ cứng chắc lại nhờ tự khô hoặc nung). Ngay từ thời cổ
đại người ta đã biết làm khuôn bằng đất sét hoặc kim loại, họ đã đổ
khuôn nhứng cái cốc uống nước và nhiều đồ dùng hàng ngày khác.
Dụng cụ làm điêu khắc là các lọai búa, đục, compa, mỏ hàn, bàn
xoay… Nghệ thuật điêu khắc được phát triển dần theo thời gian. Ngày
nay, người ta sử dụng vô số kỹ thuật và vật liệu khác nhau để làm điêu
khắc. Tuy nhiên, để được gọi là tác phẩm điêu khắc thì tác phẩm đó
8
phải mang lại cho người xem những cảm xúc và sự thú vị về nghệ thuật,
đồng thời chứa đựng một quan điểm mỹ học trong tác phẩm. [18, tr 51].
Và theo Từ điển bách khóa Wikipedia định nghĩa về điêu khắc như sau:
Điêu khắc là tác phẩm nghệ thuật ba chiều được tạo ra bằng cách tạo
hình hoặc kết hợp vật liệu như kim loại, đá, thủy tinh, hoặc gỗ. Vật liệu
cũng có thể được sử dụng như đất sét, dệt may, nhựa, polyme và các
kim loại nhẹ nhàng hơn. Thuật ngữ này đã được mở rộng để công trình
điêu khắc bao gồm cả không gian âm thanh, ánh sáng, không gian hư
ảo và không gian tâm linh.
Các nhà điêu khắc làm việc bằng cách loại bỏ như khắc, hoặc họ có thể
được lắp ráp như hàn, làm cứng như đúc. Trang trí bề mặt bằng sơn có
thể được áp dụng. Điêu khắc đã được mô tả như là nghệ thuật tạo hình
công nghiệp vì nó liên quan đến việc sử dụng các vật liệu có thể được đổ
khuôn hoặc điều chế. Sản phẩm thu được là tác phẩm điêu khắc.
Điêu khắc là một hình thức quan trọng của nghệ thuật công cộng. Một
bộ sưu tập nghệ thuật điêu khắc trong một khu vườn có thể được gọi là
một khu vườn điêu khắc.[38]
Từ đó có thể hiểu răng: Điêu khắc là một loại hình của nghệ thuật tạo
hình. Các tác phẩm điêu khắc là các sản phẩm nhân tạo, hữu hình. Trong quá
trình thực hiện tác phẩm, con người tác động vào chất liệu để tạo những dáng
hình tồn tại trong không gia đa chiều nhăm thể hiện ý tưởng của mình. Ngôn
ngữ của điêu khắc cơ bản là hình khối. Chất liệu được sử dụng trong điêu khắc
đa dạng bao gồm các chất liệu tự nhiên và nhân tạo với muôn vàn cách thức tạo
tác khác nhau tùy theo sự sáng tạo của người nghệ sỹ.
Điêu khắc gồm 2 thể loại chính: phù điêu và tượng tròn. Điêu khắc
tượng tròn là thể loại điêu khắc chủ đạo. Theo nhà nghiên cứu Ngô Tuấn
9
Phong thì trên thực tế khái niệm “tượng tròn” chưa được xác định một cách
chính thức cũng như chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh. Thuật ngữ “tượng
tròn” hay “Tượng” được quy ước là để chỉ một trong hai dạng thể của nghệ
thuật điêu khắc (“tượng tròn” và phù điêu”) và khái niệm “tượng tròn” thường
được hiểu từ khái niệm “điêu khắc”, từ một phần trong khái niệm điêu khắc.
Trong sách Lược sử Mỹ thuật và Mỹ thuật học, Nxb Giáo dục, “tượng”
được định nghĩa như sau:“Tượng là một khối thuần chất được cải biến thành
những hình dáng sinh động của người hay vật, đôi khi có gia công thêm hay
kết hợp với một vài chất liệu khác, nói chung đều có vị trí trong không gian
và có thể xem xét từ mọi phía…” [33]
Cuốn sách cũng chia tượng ra nhiều thể loại:
- Tượng đài và tượng lớn: Thường có kích thước lớn, kết hợp với bệ thành
một chỉnh thể, được đặt cố định tại một vị trí thích hợp trong một môi trường
nhất định như đại lộ, công viên, quảng trường, đại sảnh…để đánh dấu một sự
kiện lịch sử, tưởng niệm các danh nhân hoặc làm biểu tượng cho một tôn giáo,
một thành phố, một quốc gia…
- Tượng tròn: có kích cỡ trung bình, di chuyển được, thường đặt trong
nhà hay ngoài trời, rất đa dạng về hình thức, phong phú về chất liệu và đề tài.
- Tượng nho: kích thước rất nho, băng đồng, đá, gỗ, đất nung…co thể bày
trong tủ kính, bàn thờ hoặc dùng làm đồ tống táng…” [33, tr 7-10]
Trong giáo trình Mỹ học đại cương, NXB giáo dục Việt Nam, thuật ngữ
“Tượng tròn” được hiểu như sau:
- Tượng tròn (còn được gọi là tượng toàn khối).
- Tượng đắp nổi lên mặt phẳng (còn gọi là phù điêu).
10
Trong tượng tròn, nếu căn cứ vào số lượng nhân vật, chúng ta gọi là
“nhóm tượng”. Dựa theo chức năng, quy mô, ta có: tượng đài, tượng chân
dung, tượng trang trí [10, tr188 – 189]
Dựa trên những nhận định trên, đứng từ góc độ chuyên môn, có thể xác
định khái niệm khái niệm “điêu khắc tượng tròn” hay “tượng tròn” như sau:
Là danh từ chỉ các tác phẩm điêu khắc tồn tại và có mối quan hệ với đa
chiều không gian bày đặt (chiều cao, rộng, sâu). Kích thước của tượng tròn
không quá lớn nên có thể di chuyển. Để thưởng lãm, người xem có thể di
chuyển vòng quanh tác phẩm, sử dụng thị giác để ngắm nhìn những đường
nét, hình khối của tác phẩm. Thậm chí, người xem còn có thể tiếp xúc trực
tiếp lên bề mặt của tác phẩm băng tay. Chất liệu được sử dụng trong các tác
phẩm tượng tròn rất đa dạng: thạch cao, đồng, đá, xi măng, đất …
Các yếu tố nghệ thuật đặc thù của tượng tròn là: Khối - Chất liệu -
Không gian. Yếu tố “khối” được hiểu là hiệu quả thị giác được tạo nên từ bề
mặt của tượng, là biểu hiện xung lực từ bên trong hướng ra ngoài (khối nổi,
khối dương) hay từ bên ngoài hướng vào trong (khối lõm, khối âm). Yếu tố
chất liệu gắn nó hữu cơ với yếu tố khối. Yếu tố “chất liệu” đóng vai trò quyết
định cho sự tồn tại của tác phẩm trước những tác động ngoại cảnh (nhiệt độ,
độ ẩm) cũng như mang những đặc tính riêng về kết cấu và là cơ sở để xác
định không gian, thời gian bày đặt tác phẩm. Đặc trưng của chất liệu còn
được sử dụng trong việc khai thác chất liệu để thể hiện ý tưởng nghệ thuật,
mang lại hiệu quả thẩm mỹ. Yếu tố không gian bao hàm cả không gian bao
trùm bên ngoài thể tích của tác phẩm và mở rộng ra là không gian bày đặt
xung quanh. Với các tác phẩm có kết cấu rỗng và kích thước lớn, người xem
không chỉ thưởng lãm tác phẩm từ không gian bên ngoài vào mà còn có thể
nhìn từ bên trong ra. Thậm chí với tác phẩm làm băng chất liệu trong suốt,
người ta còn có thể nhìn xuyên qua kết cấu của tác phẩm.
11
1.1.2. Khái niệm “điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ”
Các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ là một loại hình của
điêu khắc tượng tròn được phân chia theo chất liệu tạo tác (đồng, sắt, thạch
cao…). Vậy nên, điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ có chung đặc điểm và tính
chất căn bản trong tạo hình với các tác phẩm điêu khắc tượng tròn nói chung.
Gỗ là nguồn nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên, tồn tại dưới dạng vật
chất. Chất liệu gỗ được khai thác chủ yếu từ các loài cây thân gỗ. Con người
đã dùng gỗ hàng ngàn năm vào nhiều mục đích khác nhau, mà chủ yếu là làm
vật liệu xây dựng nhà, công cụ, vũ khí, tác phẩm nghệ thuật và làm giấy.
Ưu điểm của chất liệu gỗ:
- Gỗ là nguyên liệu tự nhiên và nguồn nguyên liệu này có thể tái tạo qua
quá trình trồng trọt, chăm sóc và dùng máy móc đơn giản để khai thác
và chế biến.
- Tính chất vật lý: trọng lượng không quá nặng (so với chất liệu đá, đồng,
sắt…), có khả năng cách nhiệt, cách điện, ngăn ẩm tốt, nhiệt giãn nở bé.
- Thuận lợi trong chế tác: Mềm nên có thể dùng các máy móc, dụng cụ
để cưa, xẻ, bào, khoan, tách chẻ với vận tốc cao nhưng vẫn chịu lực tốt;
dễ nối ghép băng đinh, mộng, keo dán.
- Về thẩm mỹ: Do là nguồn nguyên liệu khai thác từ các cây lấy gỗ nên
chất liệu gỗ có các hình dáng, màu sắc đa dạng theo từng chủng loại và
tuổi thọ của cây. Gỗ có vân thớ đẹp, dễ nhuộm màu, dễ trang trí bề mặt.
Nhược điểm của chất liệu gỗ và biện pháp khắc phục:
- Gỗ là vật liệu tự nhiên, khai thác từ cây lấy gỗ, có thể tái tạo qua quá
trình trồng trọt nên thời gian sinh trưởng chậm, đường kính có hạn, có
nhiều khuyết tật tự nhiên. Cần sử dụng các biện pháp kĩ thuật lâm -
sinh hợp lý trong công tác trồng và chăm sóc rừng.
12
- Đặc tính của gỗ không có độ bền vững cao như các chất liệu khác (đá,
đồng, sắt…): dễ chịu sự tàn phá của các tác động ngoại cảnh (nhiệt độ, độ
ẩm), dễ mục, dễ bị sinh vật (mối, mọt,...) phá hoại vậy nên để khắc phục
vấn đề này cần trải qua quá trình phun tẩm các hóa chất chống mối mọt.
- So với chất liệu nhựa tổng hợp, gỗ có độ đàn hồi thấp nên cần sử dụng
phương pháp ép hoặc ngâm hóa chất để làm biến tính gỗ.
- Trong quá trình sử lý độ ẩm, khi phơi sấy để loại bo nước khoi gỗ, gỗ
thường dễ nứt nẻ, cong vênh, biến hình nên cần có phương án cưa xẻ,
bóc lớp thích hợp…
Cách thức tạo tác của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ cơ bản bao gồm có
các thao tác: cắt, đục- đẽo, khoan, mài…
- Cắt: Sử dụng cưa tay hoặc cưa máy để chia tách khối gỗ ra làm các
hình khối theo ý muốn.
- Khắc: Sử dụng công cụ dao với các kích thước khác nhau tác động nên
bề mặt chất liệu, tạo nên độ nông sâu tùy ý thích của người sử dụng.
- Đục - đẽo: sử dụng công cụ đục để tác động lên bề mặt chất liệu, lấy đi
các phần gỗ không cần thiết, tạo độ lồi – lõm, nông – sâu trên chất liệu
theo ý đồ của tác giả.
- Khoan: Sử dụng công cụ khoan để tạo nên những lỗ thủng trên chất
liệu, hỗ trợ các thao tác đục – đẽo trong việc tạo nên những khối hình.
- Mài: Sử dụng giấy nhám (giấy giáp) hoặc máy mài để tác động lên bề
mặt chất liêu, làm mịn bề mặt chất liệu.
Về cơ bản, một tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng gỗ có thể được tạo
nên qua các bước căn bản sau:
- Bước 1: Phác thảo ba mặt đứng – băng – cạnh (mẫu vạch) của mẫu trên
bản vẽ hoặc ngay trên chất liệu (nếu đã chọn được khối chất liệu từ trước).
- Bước 2: Sử dụng cưa để tạo khối cơ bản 3 mặt theo phác thảo.
13
- Bước 3: Thực hiện các thao tác cưa, cắt, đục, đẽo, gắn… để tạo các
khối hình chi tiết cho tác phẩm và hoàn thiện tác phẩm theo ý tưởng.
- Bước 4: Thực hiện các thao tác gọt, tỉa, mài, chà nhám, sơn… để tạo các
khối hình chi tiết cho tác phẩm và hoàn thiện tác phẩm theo ý tưởng.
Gỗ là chất liệu, công cụ để người nghệ sỹ thực hiện ý tưởng nghệ thuật
của mình nhưng cũng có thể là vật thể tạo nguồn cảm hứng cho các sáng tạo.
Như đã nhắc đến ở những dòng trên, gỗ là nguồn nguyên liệu tự nhiên nên có
nhiều dáng hình khác lạ. Người nghệ sỹ có thể nhìn nhận thấy vẻ đẹp độc đáo
của chất liệu và dựa vào đó để làm nên các tác phẩm băng khả năng sáng tạo
không giới hạn và tư duy thẩm mỹ riêng của mình. Họ có thể tạo nên những tác
phẩm dựa trên những hình thù hoặc đặc điểm sẵn có của chất liệu gỗ (thân cây,
khúc gỗ, cành cây, mẩu gỗ, vo gỗ…) mà không làm biến đổi quá nhiều dáng
hình và kết cấu vốn có của chất liệu hoặc có thể chế tác (đục, đẽo, cắt, ghép,
sơn, khắc…) các mảnh gỗ lại với nhau để tạo thành tác phẩm hoàn chỉnh.
Vậy nên, có thể hiểu răng: Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ là một
hình thức nghệ thuật tạo hình điêu khắc. Các nhà điêu khắc sử dụng các công
cụ và cách thức chế tác chất liệu gỗ, tạo nên những hình khối tồn tại trong
không gian thực. Ngôn ngữ của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ cơ bản là
hình và khối. Và, các yếu tố nghệ thuật đặc thù của điêu khắc tượng tròn chất
liệu gỗ cũng tương đồng với các yếu tố nghệ thuật của tượng tròn là: Khối -
Chất liệu - Không gian.
1.2. Khái quát điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam hiện đại
Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện đại thường được lấy dấu mốc ra
đời vào năm 1925 khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ra đời). Nền nghệ thuật điêu khắc hiện
đại đó ra đời dựa trên việc kết hợp giữa những giá trị nghệ thuật truyền thống
bản địa với những thành tựu nghệ thuật tạo hình hàn lâm Pháp do các giảng
viên người Pháp tại trường giảng dạy.
14
Khó có thể xác định được nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam chính xác
có từ bao giờ bởi chưa tìm được nguồn sử liệu ghi chép lại. Gỗ là chất liệu tự
nhiên có độ bền vững không cao nên dễ bị hủy hoại theo thời gian, sự khắc
nghiệt của thời tiết, khí hậu và những diễn biến phức tạp của lịch sử (sự phát
hủy của chiến tranh loạn lạc, tranh giành vương quyền…). Tuy nhiên, căn cứ
theo các cổ vật hiện còn lại thì có thể thấy răng điêu khắc Việt Nam nói chung
cũng như điêu khắc trên chất liệu gỗ nói riêng đã có một bề dày lịch sử phát
triển và phục vụ chủ yếu cho các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo.
Nghệ thuật điêu khắc gỗ của Việt Nam kể từ thế kỷ XV đã đạt đến trình
độ nghệ thuật khá cao như các tượng La Hán ở chùa Tây Phương (xã Thạch
Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội), tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn ở chùa
Bút Tháp (xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), hoặc những hình
trang trí tài khéo được chạm khắc ở các ngôi đình làng: đình Tây Đăng, đình
Chu Quyến (Sơn Tây, Hà Nội), đình Phù Lão (Lạng Giang, Bắc Giang)…
Các tác phẩm được ra đời từ bàn tay của những người thợ, hiệp thợ thủ công
tài khéo. Những tỷ lệ tượng, cách thức chế tác, xử lý chất liệu… đều được
những người thợ từ thế hệ này sang thế hệ khác đúc kết lại qua quá trình lao
động và được truyền dạy chủ yếu theo hình thức “truyền miệng”.
Cho đến khi trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, ngành điêu
khắc được đưa vào giảng dạy dựa trên khung chương trình nghệ thuật hàn lâm
Pháp, chất liệu gỗ truyền thống tiếp tục được khuyến khích sử dụng trong các
sáng tạo nghệ thuật của thầy và trò nơi đây. Trong quá trình thực hiện tác
phẩm, chất liệu gỗ được các nghệ sỹ kết hợp với nhiều chất liệu khác nhau
mang nhiều dáng vẻ sáng tạo mới mẻ. Có thể nói, sự ra đời của trường Mỹ
thuật Đông Dương đã mang đến một hình thái mới với hình thức thẩm mỹ, tư
tưởng thẩm mỹ và kỹ thuật thể hiện.
Sau đó, vào năm 1949 trường Mỹ nghệ Quốc gia – tiền thân của Đại
học Mỹ thuật Công nghiệp ra đời. Trường được xây dựng dựa trên nền tảng
15
phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ nước nhà, sản xuất ra các sản
phẩm mỹ thuật ứng dụng. Điêu khắc là một trong những ngành đào tạo đạt
được nhiều tiếng vang của trường.
Đã có nhiều thế hệ các nhà điêu khắc thành danh tại hai ngôi trường
nghệ thuật trên. Với loại hình điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ, có thể kể đến
một số tác giả như: Đinh Rú (1937 - 2017) tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Việt
Nam khóa IV (1965 - 1979), Hứa Tử Hoài (1942 - 2008) và Tạ Quang Bạo
(1941) cùng tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Công nghiệp khóa II (1967 -1971),
Lê Duy Ứng (1947) từng học tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam…
Đinh Rú là nhà điêu khắc người Chăm chuyên sáng tác trên chất liệu gỗ.
Ông là nhà điêu khắc thuộc dân tộc thiểu số đã có nhiều đóng góp cho nền điêu
khắc Việt Nam hiện đại.Những tác phẩm của ông vừa mang sự mạnh mẽ,
phóng khoáng của hơi thở đại ngàn, vừa ấm áp tình người với đồng bào dân tộc
thiểu số. Ngôn ngữ điêu khắc của ông kế thừa ngôn ngữ điêu khắc gỗ dân gian
Tây Nguyên kết hợp với ngôn ngữ điêu khắc hiện đại, tạo nên phong cách riêng
thô mộc, ít trau chuốt, mang vẻ nguyên sơ nhưng đầy chất cách điệu trang trí,
nhiều xúc cảm. Cuộc đời sáng tác của ông đã tạo nên nhiều tác phẩm điêu khắc
tượng tròn băng gỗ nhận được sự đánh giá cao như: Vòng tay lớn, vòng tay nhỏ
(1979) (H1.1); Người đội nước (1986) (H1.5); Giúp bà qua đường (H2.15);
Người đầu làng (2007) (H2.50)…
Nhà điêu khắc Hứa Tử Hoài là nghệ sĩ người dân tộc Nùng. Các tác
phẩm tượng gỗ của ông thường có bố cục giản dị, chặt chẽ với các hình khối
chắt lọc, căng nở tạo nên ngôn ngữ tạo hình riêng biệt tràn đầy cảm xúc, có
sức truyền cảm lớn tới người xem. Các tác phẩm của ông luôn được đánh giá
cao trong nền điêu khắc hiện đại Việt Nam. Ông được nhắc đến nhiều với tác
phẩm: Bộ đội về làng (khoảng năm 1975), Bên bếp lửa (1985) (H1.8), Song
Sly (1983) (H1.2), Ác mộng (1996)… Tác phẩm không diễn tả trực tiếp hình
ảnh bếp lửa mà chỉ gợi tả sự hiện diện của ngọn lửa, hơi ấm ngọn lửa qua
16
hình ảnh hai bà cháu ôm nhau tác giả và hình ảnh đắt giá: chú mèo cuốn dưới
chân hai bà cháu. Chi tiết chú mèo vừa giúp bố cục thêm cân đối vừa có tính
chất gợi tả hình ảnh quây quần bên bếp lửa những ngày đông lạnh giá.
Đặc biệt, tại Huế, nữ điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (1920 -2002) là
một tên tuổi lớn của nền điêu khắc thế giới. Bà từng được ghi danh trong Từ
điển LaRousse: Nghệ thuật thế kỷ XX. Điềm Phùng Thị một nhà danh họa
trong nghệ thuật điêu khắc, Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học, Văn
học và Nghệ thuật châu Âu. Cái độc đáo riêng biệt của Điềm Phùng Thị là
việc bà sáng tạo ra một nghệ thuật điêu khắc trên cơ sở lắp ghép và biến tấu 7
mô-đun hình học. Nhà phê bình nghệ thuật Raymond Cogniat gọi là mẫu tự. 7
chữ cái ấy tiền thân là những mẫu gỗ thừa mà người ta vứt đi trong xưởng mỹ
thuật của trường nghệ thuật thực hành. Những mẫu gỗ thừa hình vuông, chữ
nhật, hình thang... ngẫu nhiên, nhưng là cả một thế giới hình tượng hết sức
sinh động qua con mắt của Điềm Phùng Thị. Từ hình người chấp tay, thêm
vào mấy mô-đun thành một ông quan, xoay qua xoay lại thành người phụ nữ,
lật ngược, lật xuôi thành bông hoa... Với 7 chữ cái độc đáo đó, Điềm Phùng
Thị đã lắp ghép, đã biến hóa thành muôn vàng hình tượng: Thành một thế
giới Điềm Phùng Thị đậm đặc phong vị và triết lý phương Đông... [40] Tác
phẩm tiêu biểu băng gỗ của nữ nghệ sỹ có thể nhắc đến như : Im lặng, Cổng
hư vô, Chim đại bàng…
Ở dòng điêu khắc tượng tròn băng gỗ còn có thể kể thêm tên tuổi các
nhà điêu khắc như: Lê Duy Ứng nổi bật với tác phẩm tượng tròn băng gỗ
mang tên: Bài ca người mẹ (1985) (H1.10); Nhà điêu khắc Vương Học Báo
đã sáng tạo nên tác phẩm: Đường lượn (1993) (H1.12); Nhà điêu khắc Hoàng
Văn Để có tác phẩm: Gia đình (1982) (H1.11); Nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo
có tác phẩm Cây sống đời (1991) (H1.4).
Mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã được tiếp nhận,
giao lưu văn hóa phương Tây mạnh mẽ, vì lúc này người Pháp đã ổn định
17
cuộc xâm lược Việt Nam ở cả miền Nam và miền Bắc. Cuộc giao lưu văn
hóa, mỹ thuật Đông – Tây diễn ra một cách mạnh mẽ. Người Việt Nam tiếp
nhận một dòng mỹ thuật mới châu Âu đã có nhiều ảnh hưởng từ trước cùng
song hành với mỹ thuật truyền thống. Nghệ thuật Hiện đại Việt Nam đã mang
đến những nét mới mẻ cho nền nghệ thuật nước nhà khi song hành phát triển
cùng nghệ thuật dân gian truyền thống.
Khi đất nước thống nhất (1975) và bước vào thời kỳ tái thiết, cơ chế
bao cấp quan liêu đã kìm hãm không chỉ sự phát triển của kinh tế, văn hóa,
xã hội mà còn làm tụt hậu cả nền nghệ thuật nước nhà. Bước sang thời kỳ Đổi
mới (1986), chính sách mở rộng giao lưu với quốc tế mang đến nhiều cơ hội
phát triển đời sống hơn nhưng ở nhiều lĩnh vực trong đó có văn hóa – nghệ
thuật vẫn chịu sự thắt chặt quản lý. Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình nói
chung vẫn chưa có nhiều sự thay đổi mạnh mẻ, phá cách mà hầu hết vẫn xoay
quanh những quan điểm thẩm mỹ hàn lâm được truyền dạy tại trường Mỹ
thuật Đông Dương. Trong khi vào thời điểm đó trên thế giới, nghệ thuật tạo
hình đã bước sang một bước ngoặt mới của quan điểm thẩm mỹ Hậu Hiện đại
và nghệ thuật Đương đại đầy ngẫu hứng, nổi loạn, cực đoan. Khoảng những
năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đã có những nghệ sỹ muốn vượt thoát ra
khoi những khuôn khổ xưa cũ, loay hoay kiếm tìm những điều mới mẻ.
Phải tới khoảng năm 2000, sự “bùng nổ” thông tin toàn cầu mới góp
phần quan trọng trong việc giúp người dân tiếp nhận, trao đổi thông tin với
thế giới qua nhiều con đường khác nhau như: internet, sách báo... Qua các
kênh tiếp cận đó, các nghệ sĩ có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với nguồn thông tin
mỹ thuật thế giới. Các hoạt động và các tác phẩm gia tăng rõ rệt với đa dạng
trong nội dung và hình thức thể hiện. Vậy nên, dấu mốc năm 2000 ghi nhận
những thay đổi của đời sống xã hội, tư duy sáng tạo của người nghệ sỹ. Người
nghệ sỹ tự do với các sáng tạo của mình. Tiếng nói của cái Tôi cá nhân trở
nên mạnh mẽ và được chú ý hơn. Cùng với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học kỹ
18
thuật, điêu khắc thời kỳ này sử dụng rất đa dạng chất liệu và cách thức tạo tác.
Với các ưu thế vốn có, chất liệu gỗ vẫn tiếp tục được đưa vào ứng dụng trong
các tác phẩm điêu khắc tượng tròn. Các nghệ sỹ luôn đề cao giá trị tự thân của
chất liệu này và khai thác đến tận cùng khả năng biểu đạt của chất liệu với
nhiều các thức tạo hình.
Tiêu kết chương 1
Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ là một trong những thể loại của nghệ
thuật tạo hình điêu khắc. Chúng có những đặc điểm chung với các tác phẩm
điêu khắc tượng tròn nói chúng như: đều là các tác phẩm được người nghệ sỹ
tạo nên trong không gian thực đa chiều : Chiều cao – Chiều rộng – Chiều sâu
và đều bao gồm ba yếu tố đặc trưng: Khối – chất liệu – Không gian. Tùy theo
ý muốn tạo hình và đặc điểm của tác phẩm mà các nghệ sỹ điêu khắc sẽ có
những phương thức khai thác chất liệu, tạo hình sản phẩm riêng. Các phương
pháp chế tác cơ bản của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ là: khắc, tạc, chạm,
cưa, cắt, lắp ghép…
Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn băng chất liệu gỗ cũng xuất hiện khá
sớm ở Việt Nam với hình thức tượng tròn thủ công mỹ nghệ phục vụ chủ yếu
cho sinh hoạt tâm linh. Nền nghệ thuật điêu khắc Hiện đại ra đời dựa trên sự
kết hợp hài hòa của tư duy thẩm mỹ truyền thống và tư duy thẩm mỹ hàn lâm
phương Tây. Cho đến nay, điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ vẫn tiếp tục được
phát triển với những tinh thần mới, hình hài mới thoa mãn nhu cầu sáng tạo
của người nghệ sỹ và nhu cầu thưởng lãm của xã hội.
19
Chương 2
NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT ĐIÊU KHẮC
TƯỢNG TRÒN CHẤT LIỆU GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2015
Có đánh giá cho răng vì nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan
mà con tàu nghệ thuật Việt Nam từ khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương xuất hiện hầu như vẫn chỉ giao động trong giai đoạn nghệ thuật Tân
Cổ Điển và Tượng trưng. Tuy nhiên, nhìn nhận lại thì có thể thấy răng: nghệ
thuật điêu khắc nói chung và đặc biệt là điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ nói
riêng đã đạt được nhiều đánh giá cao trong giai đoạn 2000 - 2015. Đây là kết
quả của quá trình học hoi những thành tựu nghệ thuật đi trước, kết hợp với
những sáng tạo của các nghệ sỹ.
Giai đoạn 2000 – 2015 ghi nhận nhiều biến động trong đời sống xã hội.
Hệ thống thông tin điện tử toàn cầu phát triển bùng nổ, xây dựng nên một thế
giới thông tin mới mang tên “thế giới mạng”. Mô hình kinh tế - sản xuất -
thương mại lớn mạnh và lan rộng. Những biến động trên diện rộng đó đã có
ảnh hưởng lớn tới cấu trúc xã hội, tác động đến từng cá thể con người trong
mọi góc độ sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần.
Đời sống nghệ thuật tạo hình cũng khó năm ngoài dòng chảy mới mẻ
của cuộc sống đó. Chính sự mở cửa, đón nhận thông tin và hội nhập văn hóa
quốc tế đã giúp cho người nghệ sỹ có thêm nhiều cơ hội học hoi, tìm hiểu về
những nền văn hóa, nền nghệ thuật, các tác phẩm của các đồng nghiệp quốc
tế. Những điều mới mẻ trong đời sống đã góp phần quan trọng trong việc hình
thành đổi mới trong não trạng con người, giúp người nghệ sỹ có những góc
nhìn mới, tư duy thẩm mỹ mới trong quá trình sáng tác, góp phần xây đắp nên
sự đa dạng và phong phú cho thế giới nghệ thuật.
20
2.1. Nội dung các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ
So với thời kỳ trước đó, một trong những sự chuyển biến mới nhất của
các tác phẩm tượng tròn băng gỗ gian đoạn này 2000 - 2015 là sự phong phú
hóa đề tài. Nội dung các tác phẩm đa dạng: chia sẻ những tâm sự cá nhân, tái
hiện hoạt cảnh đời sống sinh hoạt xã hội và đời sống tinh thần cũng như nói
về các vấn đề trong đời sống xã hội: môi trường, kinh tế, chính trị… Mỗi
người nghệ sỹ có những góc nhìn, những đánh giá và cảm nhận riêng
2.1.1. Nội dung về sinh hoạt, lao động
Đề tài sinh hoạt, lao động từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho các
nghệ sỹ. Những hoạt cảnh đời sống luôn thay đổi đa dạng nên cũng luôn
mang đến những cảm nhận mới mẻ. Với nhiều người, những hình ảnh thường
ngày đó vốn không có nhiều dấu ấn hay sự thu hút đặc biệt bởi nó diễn ra
thường xuyên và cũng không mấy ai quan tâm, để ý. Tuy nhiên, băng tâm hồn
nhạy cảm và tài năng nghệ thuật, người nghệ sỹ đã nắm bắt được những vẻ
đẹp phong phú đó mà khai thác, tạo nên những tác phẩm sống động. Các tác
phẩm tượng tròn chất liệu gỗ khai thác đề tài này chiếm số lượng khá lớn.
Nghệ sỹ Trần Văn Đức (Quảng Nam) được ghi nhận với hai tác phẩm điêu
khắc tượng tròn băng gỗ mang tên: Phía thượng nguồn (2013) và Cái chữ vùng
cao (2001). Tác giả tái hiện hình ảnh con người lao động bình dị miền thôn
quê, miền núi: em bé và con trâu miền cao trong tác phẩm Phía thượng nguồn
(2013) (H2.1); em bé trong tác phẩm Cái chữ vùng cao (2001) (H2.4). Đó là
những hình ảnh bình dị mà người ta thường thấy khi về những miền thôn quê hay
bắt gặp trong các câu ca dao, những bức tranh dân gian Đông Hồ khắc họa hình
em bé chăn trâu thổi sáo. Ở tác phẩm Phía thượng nguồn, người xem có thể
nhận thấy sự dung dị qua cách thể hiện mộc mạc của những khối hình được
đơn giản hóa. Trên khối gỗ hình trụ, nghệ sỹ phát triển bố cục theo trục dọc, chia
làm hai nhóm chính: em bé và con trâu. Tuy hạn chế về chiều rộng về mặt nhưng
21
tác giả lại gợi tả thành công chiều sâu của không gian được tạo nên bởi khoảng
cách, vị trí trước – sau gắn bó của em bé và con trâu.
Tới một miền không gian khác, tác phẩm Chợ vùng cao (2011) của Vũ Văn
Hợp (Vũng Tàu) (H2.5) mô tả lại hình ảnh người dân tộc H’mông sinh động trong
phiên chợ miền cao. Hình ảnh cô gái người H’Mông trong chiếc váy xòa độc đáo
của dân tộc mỹ được nhà điêu khắc miêu tả khá chi tiết. Những đường nét được
thể hiện tỉ mỷ hơn nhưng không quá chau chuốt nuột nà để giữ được đúng tinh
thần giản dị, mộc mạc của đồng bào dân tộc.
Tới không gian của những thành phố lớn, đối lập với những gì người ta hay
hình dung về vẻ rực rỡ, nhộn nhịp và giàu có, hình ảnh những người lao động
chân tay vất vả trong tác phẩm Công nhân vét cống (2010) của Nguyễn Hữu
Thiện (Bến Tre) (H2.2) và tác phẩm Dưới lòng thành phố (2005) của Lương
Văn Nghĩa (Tp. HCM) (H2.6) đưa ta đến với một thế giới khác mà ít ai để ý.
Tác giả tái hiện hình ảnh những người công nhân làm việc trong tư thế cúi rạp
người. Tư thế đó đã gợi tả không gian làm việc chật hẹp, tối tăm dưới lòng
thành phố khiến không ít người cảm động xót xa. Dù công việc vô cùng vất
vả, thậm chí là độc hại, nhưng vì mưu sinh mà những con người đó không
ngại nề hà, luôn chăm chỉ làm việc. Để có những thành phố đẹp đẽ, phát triển,
luôn có sự đóng góp thầm lặng của những con người như vậy.
Khai thác mảng đề tài sinh hoạt, lao động này luôn mang đến cho
người nghệ sỹ lợi thế trong sáng tác. Đó là sự phong phú trong hình dáng của
mỗi con người (cao, thấp, gầy, béo…), mỗi lứa tuổi (trẻ em, thanh niên, người
trung niên, người cao tuổi…), giới tính (nam, nữ), tính cách (hồn hậu, linh
hoạt, vui vẻ, ngây thơ…), tâm trạng (lạc quan, lo âu, hối hả…), nghề nghiệp
(học sinh, giáo viên, nông dân, thợ làm đường…) và đặc điểm nhận dạng
(khuôn mặt, chiều cao, tỷ lệ cơ thể, màu da, mái tóc…)… Những câu chuyện
thường nhật luôn dễ dàng tạo nên những xúc cảm trong lòng người thưởng
22
thức, gợi lên trong họ những hình ảnh quen thuộc mà họ vô tình quên lãng
hay không để ý đến.
Ở mảng đề tài này còn có thể kể đến các tác phẩm điêu khắc tượng tròn
gỗ như: tác phẩm Mùa gặt (2012) Lê Quốc Tiến (TP.HCM) (H2.3) và tác
phẩm Mùa gặt (2008) của Nguyễn Hữu Thiện (Bến Tre) ( H2.7) diễn tả hình
ảnh hổi hả của bà con nông dân gặt lúa ngày mùa; Hay tác phẩm Đấu vật
(2012) của Đỗ Bá Quang (HN) (H2.16) mô tả những hình ảnh khoe khoắn của
người dân trong buổi đấu vật – một bộ môn thể thao truyền thống được ưa
chuộng ở các làng quê, trong các dịp hội hè…
Những tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng chất liệu gỗ khai thác đời
sống sinh hoạt, lao động giai đoạn 2000 - 2015 chiếm số lượng khá lớn và đạt
được những thành công nhất định bởi các tác giả có rất nhiều hình ảnh thực tế
để khai thác và rất đa dạng ngôn ngữ thể hiện. Ở thời kỳ đầu nghệ thuật Hiện
đại những đề tài này đã nhận được sự chú ý đặc biệt. Cuộc sống vốn đa dạng
sắc màu và luôn biến đổi muôn hình vạn trạng. Cùng một đối tượng thực tế,
mỗi người nghệ sỹ sẽ có những cảm nhận khác nhau và thậm chí chính người
nghệ sỹ đó cũng sẽ có những xúc cảm, nhìn nhận không giống nhau khi hoàn
cảnh thay đổi. Bản thân mỗi cá nhân nghệ sỹ lại luôn có nhân sinh quan, thế
giới quan và tư duy thẩm mỹ riêng nên cách thức thể hiện, ngôn ngữ biểu đạt
trong các tác phẩm nghệ thuật họ cũng có nhiều nét khác biệt. Có những tác
phẩm ưa thích ngôn ngữ tả thực nhưng cũng có những tác phẩm thiên hướng
theo hình thức đơn giản hóa, cách điệu hay trừu tượng. Nhưng dù được lựa
chọn thể hiện theo hình thức nào, những khối hình kể về những câu chuyện
thực tế đó cũng khiến người xem cảm động và gợi nên nhưng suy tư nhất định
trong mỗi con người.
23
2.1.2. Nội dung thể hiện đời sống tinh thần, tình cảm
Khai thác khía cạnh đời sống tinh thần, tình cảm của con người, các nghệ
sỹ đã tạo nên rất nhiều tác phẩm có giá trị biểu đạt nhất định. Thế giới đời
sống tinh thần, tình cảm của con người tuy trừu tượng nhưng cũng vô cùng
thực tế. Đây là nguồn hứng vô tận cho người nghệ sỹ làm nên các tác phẩm
của mình, dễ dàng tạo nên xúc cảm trong lòng khán giả nhưng cũng rất khó
để nắm bắt và diện đạt ra hình khối hữu hình. Có những xúc cảm có thể thể
hiện băng những hình ảnh rất thực tế dễ dàng bắt gặp trong đời sống thường
nhật: tình cảm gia đình, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình yêu, những kỷ niệm…
nhưng có xúc cảm, trạng thái khó có thể diễn đạt cụ thể mà nó được tượng
trưng hóa như: tâm sự, nỗi nhớ, sự cô đơn, sợ hãi, lo âu…Dù vậy, đây là
khuynh hướng sáng tác khá phổ biến trên thế giới và tạo được sự đồng cảm
riêng với khán giả.
Chính vì sự phong phú của thế giới nội tâm con người nên các tác phẩm
thể hiện nội dung này cũng rất đa dạng. Gần gũi hơn cả là nội dung về tình
cảm gia đình. Có thể kể đến các tác phẩm như: Tác phẩm Vú mẹ – 2014 của
Tạ Quang Bạo (HN) (H2.12); Tác phẩm Gia đình của Đỗ Hồng Sơn (HN)
(H2.13); Tác phẩm Gia tài (2007) của Châu Trâm Anh (Bình Dương) (H2.9);
Tác phẩm Ký ức tuổi thơ (2005) của Nguyễn Hồng Phong (TP. HCM), (H2.14);
Tác phẩm Giúp bà qua đường (2012) của Đinh Rú (TP.HCM) (H2.15);
Với tác phẩm Vú mẹ, tác giả Tạ Quang Bạo đã tạo nên hình ảnh về tình
mẫu tử đầy yêu thương. Người mẹ với khuôn mặt phúc hậu và bầu ngực căng
bên đứa con nho. Chủ thể được giản lược qua, đưa về các khối hình đơn giản,
nhấn mạnh vào dáng đứng chắc chắn, bầu ngực căng, khuôn mặt tròn đầy của
người mẹ. (H2.12)
Trong tác phẩm Gia tài, Châu Trâm Anh đã tái hiện hình ảnh gia đình
nho gồm có: người bố, người mẹ và đứa con nho. Các khối hình tác phẩm
cũng được đơn giản hóa tạo sự bình dị nhưng khác khối không giản lược tối
24
đa như tác phẩm Vú mẹ của Tạ Quang Bạo. Châu Trâm Anh diễn tả khối ở
bắp chân, bắp tay, phần hông, má, đôi mắt…của các nhân vật một cách rõ
ràng. Nghệ sỹ đục các khối hình mang đến hiệu quả thị giác như thế ba nhân
vật được tạo nên từ những viên gạch xếp chồng lên nhau thô mộc, viên trong
viên ngoài. Tất cả các “viên gạch” đó gắp kết với nhau chặt chẽ tạo nên một
bức tường thô nhưng vững chắc. Có lẽ, sự vững vàng, gắn bó bền chặt, hạnh
phúc đó chính là ý đồ thể hiện tác phẩm của tác giả. (H2.9)
Ở khía cạnh nội dung khai thác đời sống tinh thần, tình cảm này còn có thể
kể đến các tác phẩm: Lưu luyến phút chia tay của Lê Duy Ứng (HN) (H2.11);
Tác phẩm Tĩnh lặng và thoát (2012) của Lê Lang Biên (TP.HCM) (H2.17);
Tác phẩm Khát Vọng (2011) của Phạm Ngọc Đường (Quảng Ngãi),
(H2.18); Tác phẩm Đôi bạn (2012) của Nguyễn Minh Thùy (Hà Nội) (H2.19);
Tác phẩm Ngày trở về (2009) của Nguyễn Ngọc Thạch (Vĩnh Phúc), (H2.20)…
Đời sống tình cảm của con người vốn vô hình. Việc năm bắt được những
xúc cảm không định hình nó và hữu hình chúng thực sự không phải là điều dễ
dàng. Vậy nên, các nghệ sỹ thường lựa chọn những chi tiết đắt giá, tiêu biểu
để gợi nhắc hay tượng trưng cho những xúc cảm đó (vòng tay, những cái nắm
tay, bầu ngực người mẹ…). Mỗi tác phẩm đều là thể hiện cái nhìn của riêng
người nghệ sỹ. Chúng không còn đơn thuần là một tác phẩm mang giá trị
thẩm mỹ mà còn là một sản phẩm một tác phẩm lưu dấu lại những ký ức,
những hình ảnh đẹp đẽ, là nơi người nghệ sỹ chia sẻ những tâm sự của mình.
So với giai đoạn nghệ thuật trước đó, các tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng
gỗ đã có thêm nhiều các tác phẩm mang tính chất tự sự, chia sẻ những cảm
xúc rất riêng của người nghệ sỹ (nỗi cô đơn, sự hoang mang, lo sợ…).Thậm
chí, các tác phẩm còn mang ý nghĩa giáo dục, nhắc nhở con người về những
thái độ và cách hành xử đúng đắn (tôn trọn và nhớ ơn cha mẹ, yêu mến bạn
bè, trân trọng những kỷ niệm …).
25
2.1.3. Nội dung phản biện xã hội
Trong cuộc sống hăng ngày, con người là một cá thể tồn tại trong một xã
hội phức hợp, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: lối sống, quan điểm đạo đức,
kinh tế, chính trị, văn hóa, giao thông… Giai đoạn 2000 - 2015, những vấn đề
xã hội đặc biệt nhận được sự quan tâm của người nghệ sỹ. Băng như nhạy
cảm vốn có, bên cạnh những mặt tích cực dễ nhận thấy, người nghệ sỹ thấy
thậm chí dự cảm được về những vấn đề tiêu trong vòng xoáy đổi thay của xã
hội, của từng cá thể con người.
Nguyễn Ngọc Lâm (HN) trăn trở với sự giăng giật trong suy nghĩ về
khái niệm “bảo vệ” hay “kìm hãm”. Tác giả tạo nên hình ảnh thân cây gỗ bị
bao bọc bởi hàng kẽm gai tua tủa trong tác phẩm Không chạm tay vào (2003)
(H2.21). Tới năm 2014, Nguyễn Ngọc Lâm (Hà Nội) mang đến cho người
xem cảm giác hoang mang, lạc lõng khi xây dựng nên hình ảnh một ngôi chùa
(hoặc đền, miếu…) cổ kính bị bao quanh bởi một hoạt những khối hình tượng
trưng cho những ngôi nhà cao tầng hiện đại trong tác phẩm Xâm lấn (H2.26).
Những khối hình đó được xếp thành nhiều đường tròn đồng tâm đều tăm tắp.
Ngôi chùa (tạm gọi) đó ở vị trí trọng tâm của hình tròn nhưng có vẻ nó không
chiếm vị trí trung tâm mà đang bị áp đảo, bị cuốn vào vòng tròn đô thị hóa,
hiện đại hóa. Và rất có thể, trong vòng xoáy đó, trọng tâm có thể bị biến mất.
Đây là tác phẩm mang tính chất điêu khắc sắp đặt đạt hiệu quả thị giác cao,
ngôn ngữ thể hiện cô động, giàu hình ảnh và sự gợi mở.
Phạm Bá Cường (Tây Ninh) đặt ra câu hoi về mặt trái của sự phát triển
công nghệ trong tác phẩm Truy cập (2015) (H2.22). Con người trong thế giới
hiện đại thờ ơ thực tế để bước vào thế giới ảo mà công nghệ thông tin tạo nên.
Điều đó vừa khiến cho các mối quan hệ xa cách lại vừa cho thấy sự cô đơn của
mỗi cá nhân. Thực tình, đó là vòng xoáy mà chính con người đã tạo dựng nên
cho cuộc sống của mình.
26
Tác phẩm Leo (2010) của Đỗ Xuân Diệu (TP.HCM ) thì lại miêu tả về tệ
nạn ham chức ham quyền của một bộ phận không nho người dân. Vị trí,
quyền chức được tác giả ẩn dụ trong hình ảnh chiếc ghế màu đo. Trên thành
ghế là khung cửa với cánh cửa có thể chuyển động mở - đóng. Xung quanh
chiếc ghế quyền lực to lớn đó là những con người được tạo nên có tỷ lệ bé
nho hơn rất nhiều đang cố bám, trèo lên. Ghế thì chỉ có một, nhưng muốn leo
được lên chiếc ghế này thì lại có biết bao người. Những con người đó cố sức,
tìm đủ mọi cách để đạt được mục đích của mình. Đây là một thực trạng, một
vấn nạn thực tế đang xảy ra khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Có thể nói
cách thể hiện của tác giả còn khá hiển ngôn nhưng có tính thời sự và châm
biếm khá cao. (H2.28)
Ngoài ra ở mảng đề tài phản biện xã hội này có thể kể đến các tác phẩm
điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ khác như: Chuyện quê (2013) của Kù Kao
Khải (Ninh Bình ), (H2.24) ; Bất tử (2012) của Đoàn Văn Băng (HN),
(H2.27); Đời sống đô thị II (2012), (H2.23 - H2.25) của Nguyễn Hoài Huyền
(Bình Dương)…
Mảng đề tài về đời sống xã hội của tượng tròn băng chất liệu gỗ giai
đoạn 2000 – 2015 rất đa dạng về mặt nội dung. Trong thế giới sống động đa
dạng sắc màu, các tác phẩm khai thác vẻ đẹp trong đời sống vật chất và tinh
thần của con người. Bên cạnh đó cũng có nhiều tác phẩm phản biện xã hội,
nói lên quan điểm cá nhân, những nỗi bất an khi nhận ra những mặt trái,
những hệ lụy của xã hội công nghiệp: ô nhiễm môi trường, sự căn thẳng trong
lao động và sinh hoạt, sự xa cách của các mối quan hệ giữa người với người
trong gia đình và ngoài xã hội, sự cô đơn lạc lõng…Sự phân chia các tác
phẩm điêu khắc tượng tròn băng chất liệu gỗ theo các nội dung cũng như hình
thức thể hiện đã phân tích ở trên cũng mang tính tương đối vì có những tác
phẩm mang nhiều ý nghĩa đan xen, lồng ghép trong nhau.
27
Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình trước năm 2000 thường hướng tới sự
miêu tả vẻ đẹp của con người, hình khối, đường nét. Nhưng sau năm 2000, có
nhiều tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng chất liệu gỗ đã nói lên tiếng nói
của cá nhân người nghệ sỹ về những vấn đề trong đời sống. Đó có thể là sự
đồng thuận nhưng cũng có thể là những lời phản đối. Người nghệ sỹ ngày
càng nhận thức rõ vai trò cá nhân của mình để có những sự nhìn nhận, thái độ,
phản ứng mạnh mẽ. Quan điểm sáng tác của họ không còn xoay quanh “Cái
Đẹp” mà còn hướng tới cả những điều “Không Đẹp”. Sự thay đổi đó chịu ảnh
hưởng một phần từ quan điểm mỹ học Hậu hiện đại và nghệ thuật Đương đại
trên thế giới.
2.2. Hình thức biêu đạt các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ
Giống như các hình thức sáng tác nghệ thuật nói chung, nghệ thuật điêu
khắc cũng luôn mưu cầu sáng tạo mới lạ. Mỗi người nghệ sỹ đều có quan
điểm sáng tác, tư duy thẩm mỹ của riêng mình. Và nhìn chung, trong giai
đoạn 2000- 2015, các tác phẩm điêu khắc ưa chuộng bốn hình thức thể hiện
chính: hiện thực, cách điệu, biểu hiện, trừu tượng.
2.2.1. Hình thức hiện thực
Hiện thực là hình thức thể hiện tác phẩm vốn được áp dụng rộng rãi
trong các tác phẩm. Các sáng tác hiện thực lấy chính hiện thực xã hội và
những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác, mang đến những
sáng tác chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống và về môi trường
xung quanh. Với hình thức này, người nghệ sỹ bám sát vào những hình khối
thực tế để thể hiện trong các tác phẩm của mình sao cho giống nhất có thể. So
với các tác phẩm điêu khắc băng chất liệu đồng, thạch cao, nhựa tổng hợp thì
chất liệu gỗ được sử dụng ít hơn. Có những tác phẩm được thực hiện hoàn
toàn băng tay những cũng có tác phẩm được thực hiện bởi sự giúp đỡ của máy
móc công nghệ và kết hợp với các hình thức tạo tác khác.
28
Thành công với hình thức hiện thực này có thể kế đến tác phẩm Tuổi
thơ (2013) của Hà Mạnh Chiến (HN). Tác giả tạc lại hình ảnh hai đứa con nho
của mình đang chơi đùa. Đó là một hình ảnh đẹp mà người cha muốn lưu giữ
lại cho những đứa con của mình và nó cũng gợi nhắc lên trong mỗi người
trưởng thành quãng thời gian ấu thơ êm đềm, đẹp đẽ. Tác phẩm không có
tuyên ngôn quá to tát mà chỉ đơn thuần là ghi khắc lại những hình ảnh quý giá
mà cuộc sống mỗi con người đều trải qua. Trong tác phẩm, Hà Mạnh Chiến
giữ lại màu gỗ nguyên bản, cố gắng khai thác vẻ đẹp mộc mạc của chất liệu.
Ngoại trừ khuôn mặt được chau chuốt kỹ càng, mài nhẵn để miêu tả đặc trưng
làn da trẻ em thì các phần tả quần áo, giày dép đều giữ nguyên những nhát
đục thô mộc. Thậm chí, tác giả còn sử dụng kho lửa để tạo độ xốp và màu,
khiến bề mặt chất liệu có sự thô rám độc đáo (H2.29)
Trong tác phẩm 28 (2015), Nguyễn Văn Tuệ (HN) sử dụng phương
thức tả thực để tự khắc tạc hình ảnh của mình ở tuổi 28 (H2.30). Hình ảnh tác
giả ngồi buông thõng, ngửa mặt lên trời, nhắm mắt như thế muốn đóng hết tất cả
các giác quan tiếp nhận, tập trung vào suy nghĩ về cuộc đời con người và các
chân giá trị trong cuộc sống.
Ngoài ra, với hình thức hiện thực này, người xem có thể cảm nhận thấy sự
ấm áp bình dị trong tượng tròn Niềm vui của bà (2011) của Huỳnh Đăng Viên
(TP.HCM) (H2.31). Người bà hạnh phúc bên hai đứa cháu, một đứa đấm lưng,
một đứa đag bóp chân cho bà. Niềm hạnh phúc giản dị nhưng rất đỗi quý giá
trong cuộc đời mỗi nhân vật.
Có thể thấy răng hình thức hiện thực là phương thức tạo hình tác phẩm
tượng tròn chất liệu gỗ phổ biến. Chủ đề của các tác phẩm tả thực này thường
đơn giản nhưng rất gần gũi với đời sống con người nên người xem có thể hiểu
được tác phẩm một cách dễ dàng và không khó khăn trong việc tạo được sự
đồng cảm trong lòng người tiếp nhận.
29
2.2.2. Hình thức cách điệu
Cách điệu cũng là một hình thức sáng tác được yêu thích của không ít các
nghệ sỹ điêu khắc. Khác với ngôn ngữ tả thực bám sát với những hình ảnh thực tế
thì cách điệu sẽ lựa chọn ra những chi tiết, hình ảnh thể hiện đặc điểm nổi bật và
thần thái của đối tượng để thể hiện. Những hình khối đó có thể được đơn giản hóa
hoặc cách điệu khi thể hiện nhưng vẫn giữ tinh thần của đối tượng.
Tác phẩm Mùa xuân (2002) của Nguyễn Hoài Huyền Vũ (Bình Dương) đã
cách điệu hình ảnh người phụ nữ thành những khối hình đơn giản. Tác giả nhấn
mạnh miêu tả vẻ đẹp giới tính của người phụ nữ ở các chi tiết: khối ngực và hông.
Tạo hình tác phẩm còn khiến người xem liên tưởng đến mầm cây mùa xuân đang
vươn lên trổ lá. Tác phẩm dường như hàm ẩn ý nghĩa về sự nảy nở trong mùa
xuân – mùa của vạn vật sinh sôi. (H2.33)
Nghệ sỹ Trần Thanh Long (TP. HCM) lựa chọn những khối hình tượng
trưng trong tác phẩm điêu khắc gỗ Bám biển (2012) của mình. Những khối
hình được giản lược hoá, loại bo các chi tiết miêu tả, kéo các khối theo phát
triển đồng hướng để miêu tả trạng thái lao động đang cùng nhau kéo lưới đầy
vất vả nhưng rất hào sảng của những người ngư dân. [H2.8]
Tác phẩm Lời ru của Đỗ Bá Quang đã thể hiện thành công hình ảnh
người mẹ ôm con, ru con ngủ. Trong tác phẩm, tất cả cả đường nét được đơn
giản hóa, chỉ giữ lại những đường chu vi và đưa tất cả những nét đó về dạng
thức đường cong. Đường cong đó không chỉ diễn tả được sự mềm mại, ấm áp
của người mẹ, tình cảm người mẹ mà còn gợi lên những thanh âm tiếng ru
ngọt ngào, êm dịu. (H2.39)
Tiêu biểu trong nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ hình thức cách
điệu còn có thể kể đến các tác phẩm sau: Tác phẩm Cầu phúc (2013) của
Nguyễn Văn Lợi (HN) (H2.34); Tác phẩm Người gác kinh thành Hoa Lư 2
(2015) của Nguyễn Phú Văn (Ninh Bình) (H2.36); Tác phẩm Trâu cối (2010)
Lê Đình Nguyên (HN) (H2.37); Tác phẩm Mẹ con (2013) của Vũ Quang Sáng
30
(HN) (H2.38); Tác phẩm Người đàn bà đợi (2008), Nguyễn Minh Thùy (HN)
(H2.40); Tác phẩm Đăng quang (2012) của Ngô Tuấn Phong (HN) (H2.41);
Tác phẩm Bóng nắng (2011) của Phan Thanh Quang ( Huế ) (H2.42); Tác
phẩm Sự phát triển (2012) của Phạm Văn Tuấn (HN) (H2.43); Tác phẩm Chợ
(2012) của Nguyễn Thanh Giang (Kiên Giang) (H2.44).
Cách điệu là hình thức tạo hình truyền thống vốn được các nghệ sỹ tạo
hình sử dụng lâu đời. Sự vật, hiện tượng khi được đưa vào tác phẩm thì không
bị biến đổi đi quá nhiều, băng cách lược giản khối và hình của hiện thực
nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần và những nét đặc trưng của chúng nên người
xem có thể dễ dàng hiểu được ý đồ của tác phẩm. Tuy răng phương thức biểu
đạt này đã được sử dụng rộng rãi nhưng các tác phẩm luôn có những nét khác
biệt bởi mỗi người nghệ sỹ có một thế giới tưởng tượng riêng, có sự cảm nhận
và tư duy thẩm mỹ không giống nhau.
2.2.3. Hình thức biểu hiện
Biểu hiện là hình thức tạo hình sử dụng ngôn ngữ thể hiện sức mạnh nội
tâm, cảm xúc con người. Các tác phẩm biểu hiện đặc biệt có tác động lớn đến
xúc cảm của người xem bởi sự nhấn mạnh xúc cảm của con người, thể hiện qua
những đường nét và hình khối mạnh mẽ. Hình thức này không chỉ xuất hiện
trong hội họa mà còn hiện diện trong các tác phẩm điêu khắc tượng tròn.
Ở Việt Nam, các tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng gỗ có hình thức
biểu hiện có thể nhắc đến các tác phẩm: Cầu mưa (2002) của Minh Tuấn
(Lâm Đồng) (H2.45); Tác phẩm Theo Mẹ của Quách Hùng (Yên Bái)
(H2.46); Tác phẩm Thời gian (2008) của Đinh Xuân Việt (HN) (H2.47); Tác
phẩm Vũ điệu mùa xuân (2001) của Trần Việt Hà (Hòa Bình) (H2.48); Tác
phẩm Âm vang của Nguyễn Văn Hàm (Quảng Nam) (H2.49); Tác phẩm Người
đầu làng (2007) của Đinh Rú (TP.HCM) (H2.50); Tác phẩm Đuốc sống (2002),
Nguyễn Chí Đức (HN) (H2.51); Tác phẩm Vận động viên khuyết tật (2009) của
Lê Đức Lai (TP.HCM) (H2.52)…
31
Tác phẩm Cầu mưa (2002) của Minh Tuấn (Lâm Đồng) sử dụng bố cục
thẳng đứng với tạo hình ba nhân vật dân tộc thiểu số tại tây nguyên với nhứng
nhát đục khoe khoắn, mạch lạc dứt khoát các động tác tay vươn thẳng, hướng và
biểu lộ khuôn mặt biểu hiện rõ ràng khao khát của con người trong mối quan hệ
với thiên nhiên. Ở đây tác giả dùng hình thức biểu hiện để thể hiện đề tài cầu
mưa trong tín ngưỡng, đời sống tinh thần của các dân tộc thiểu số. (H2.45)
Tác phẩm Theo Mẹ của Quách Hùng (Yên Bái) khai thác hình ảnh hai
mẹ con người đân tộc vùng cao với bố cục người mẹ đứng thẳng gương mặt
cúi xuống nhìn con mình, người con đứng vươn lên ôm mẹ mình gương mặt
ngửa lên, tạo hình đôi bàn chân em bé với hướng của hai gương mặt với sự
liên kết của hai đôi bàn tay mẹ và con. Tác phẩm biểu hiện rõ ràng tình mẫu
tử, người xem có thể cảm nhận ngay, rõ ràng về nội dung tác phẩm. (H2.46)
Tác phẩm Vũ điệu mùa xuân (2001) của Trần Việt Hà (Hòa Bình) tác giả
lấy hình ảnh hai người đàn ông dân tộc vùng cao đang múa khèn trong lễ hội mùa
xuân, với bố cục đăng đối tạo ra sự uyển chuyển, sinh động. Hai nhân vật với hình
khối được giản lược còn lại những nhịp và khối lớn cùng bề mặt nhẵn nhụi, nổi
bật lên màu và chất của gỗ, đã tạo nên sự khoe khoắn sunh động của nhân vật toát
lên không khí vui vẻ của ngày xuân. (H2.48)
Âm vang của Nguyễn Văn Hàm (Quảng Nam) được lấy bố cục thẳng
đứng của ba nhân vật dân tộc vùng cao với những khối chồng lên nhau, nhân
vật trên cùng với động tác đánh chiêng. Tất cả chuyển tải nội dung truyền
thừa những truyển thống qau các thế hệ, với hình ảnh đánh chiêng gơi ra tiếng
chiêng vang vọng tới những thế hệ sau. (H2.49)
Tác phẩm Thời gian (2008) của Đinh Xuân Việt (Hà Nội) và Tác phẩm
Người đầu làng (2007) của Đinh Rú (TP.HCM) đều lấy bố cục tượng chân dung
để thể hiện nội dung tác phẩm. Trong tác phẩm Thời gian (H2.47), tác giả Đinh
Xuân Việt dùng hình ảnh chân dung người đàn bà cao tuổi với gương mặt
gầy, khắc khổ, những khối lồi chảy của gò má, tai, môi, căm, cùng những nếp
32
nhăn trên trán và tạo chất sần, nhát của bề mặt tượng biểu hiện rõ ràng nhưng
nét thời gian trải qua trong một đời người. Cũng như vậy, tác giả Đinh Rú
trong tác phẩm Người đầu làng (H2.50) thể hiện chân dung người đàn ông trưởng
làng của dân tộc Chăm với những khối hình khoe khoắn cương nghị và những
nhát đục tạo chất bề mặt nhăn của làn da cùng chất gỗ cứng màu đo đen với tạo
hình đôi mắt to, sáng ,tất cả toát lên được tinh thần của người trưởng làng với vẻ
cương nghị.
Hình thức biểu hiện với ưu điểm là tác động nhanh mạnh vào tâm trí người
xem, để sử dụng được hình thức này trong tác phẩm đòi hoi tác giả phải có khả
năng bố cục, tạo khối, chất cảm rất nhuần nhuyễn, thành thạo, những yếu tố đó
cấu thành nên xúc cảm của người xem. Chính vì vậy nên nhưng tác phẩm mang
hình thức biểu hiện còn chiếm số lượng ít trong các tác phẩm điêu khắc tượng
tròn chất liệu gỗ.
2.2.4. Hình thức trừu tượng
Giai đoạn 2000 - 2015, các tác phẩm điêu khắc trừu tượng và mang
khuynh hướng trừu tượng đặc biệt nở rộ. Đây là hình thức mã hóa đối tượng
băng những hình thức riêng, tạo nên những gợi nhắc đa dạng trong mỗi người
cảm nhận. Đứng trước một tác phẩm điêu khắc trừu tượng, những khối hình
phi thực tế trong các tác phẩm mang những ý nghĩa riêng. Và thậm chí, tác
phẩm có thể mang đến cho người xem những trải nghiệm riêng, những cảm
nhận không giống nhau qua những thời điểm tiếp nhận khác nhau.
Hai tác phẩm điêu khắc gỗ - đá của Vương Học Báo mang tên Nhớ
Bạch Long Vĩ sáng tác trong hai năm khác nhau 2010 và 2012 (H2.53 -
H2.54) được tạo nên bởi những khối hình chắc khoe. Bạch Long Vĩ là tên một
hòn đảo thuộc tỉnh Hải Phòng. Tên này mang ý nghĩa “đuôi rồng trắng”. Sự
tích về địa danh và tên gọi này được nhắc đến trong truyền thuyết cho răng
khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ
33
mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc.
Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn
Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc
dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan,
chặn đứng bước tiến của ngoại bang. Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất
thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết
giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi
vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ
đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi
đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ. Hai tác phẩm điêu khắc mang
tên Nhớ Bạch Long Vĩ của Vương Học Báo ừa gợi nên hình ảnh về bức tường
chặn quân xâm lược trong truyền thuyết năm xưa, vừa gợi nhắc về hình ảnh
sóng nước biển khơi hùng vĩ của “đuôi rồng trắng”.
Tác phẩm Trước thời gian (2015) của Phạm Sinh được tạo hình như
những phiến đá khổng lồ xếp chồng lên nhau. Tác phẩm vừa gợi nhắc đến
hình ảnh những công trình kiến trúc của loài người thửa sơ khai, vừa nhắc đến
những núi đá khổng lồ sừng sừng với thời gian. Phiến đá ngạo nghệ với thời
gian nhưng rồi cũng dần mài mòn theo năm tháng. Con người nhìn vào đó mà
thấy cuộc đời quá hữu hạn, không có gì là vĩnh cửu, duy chỉ có thời gian là
không cùng. (H2.60)
Các tác phẩm điêu khắc gỗ tiêu biểu của hình thức trừu tượng còn có thể
nhắc đến như: Tác phẩm Bổng trầm hương thu (2002) của Nguyễn Quốc Thể
(HN), (H2.55); Tác phẩm Hạn (2015) của Nguyễn Việt Hà (HN) (H2.56); Tác
phẩm Lặng thầm (2006) của Hà Chí Dũng (HN) (H2.57); Tác phẩm Tâm (
2013) của Nguyễn Văn Điều (HN) (H2.58); Tác phẩm Hạnh phúc (2007). Hồ
Thu (Quảng Ngãi) H2.59; Tác phẩm Nấc thang kép (2001) của Đinh Rú
(TP.HCM) (H2.61); Tác phẩm Bến đợi (2010) của Bùi Nam (Quảng Ngãi)
34
(H2.62); Tác phẩm Bài ca của nước (2002) của Anh Vũ (Bắc Giang), (H2.63);
Tác phẩm Ngôi nhà của chúng ta (2003) của Nguyễn Sáng (H2.64); Tác phẩm
Người đang đi (2015) của Nguyễn Hữu Thái (Bắc Giang) (H2.65); Tác phẩm
Thiếu nữ (2003) của Phạm Minh Tuấn (HN) (H2.66); Tác phẩm Tự tình (2002)
Bùi Nam (Quảng Ngãi) (H2.67); Tác phẩm Hoa lăn lóc (2015) của Nguyễn
Thăng Long (HN), (H2.68); Tác phẩm Thời gian đi qua (2010) của Nguyễn
Huy Tín (HN),(H2.69); Tác phẩm Nhạc trưởng (2009) của Nguyễn Ngọc Lâm
(HN) (H2.70); Tác phẩm Nêm của Trần Mai Quốc Khánh (TP. HCM) (H2.71);
Tác phẩm Răng 1 (2014) của Lê Hoài Nam (TP. HCM);Tác phẩm Hoa gạo
(2015) của Đinh Trọng Văn (HN) (H2.73); Tác phẩm Hồi sinh (2015) của Đỗ
Bá Quang (H2.74)…
Hoàn toàn khác với hiện thực, cách điệu và biểu hiện, các tác phẩm
trựu tượng nói chung và các tác phẩm điêu khắc tượng tròn trừu tượng nói
riêng cần cách tiếp nhận khác biệt. Các khối hình trong các tác phẩm không
còn là sự ghi dấu lại những hình ảnh tồn tại thực tế mà thị giác con người nhìn
thấy, không cách điệu biến hóa đi đôi chút hay mang tính gợi tả những xúc
cảm của biểu hiện. Ngôn ngữ trong các tác phẩm trừu tượng đó được mã hóa
theo những cảm nhận riêng của tác giả về đối tượng. Chính vì vậy, khi đứng
trước những ký hiệu được mã hóa đó, người xem không cần cố gắng nhìn
xem những hình khối lạ lẫm, thậm chí là kỳ dị kia đang biểu hiện cho hình
ảnh gì trong thực tế. Người xem nên thả long tâm chí, để những xúc cảm của
mình tự xây dựng nên những ý nghĩa cho tác phẩm. Và, cũng chính vì đặc
trưng đó mà mỗi cá nhận với sự khác biệt ở tính cách, giới tính, xúc cảm, địa
vị, tôn giáo… sẽ có những cảm nhận riêng mình với mỗi tác phẩm. Hay nói
cách khác, những hình ảnh của tác phẩm sẽ khơi dậy nên trong mỗi cá thể
những cảm nhận không hề giống nhau. Với một người, mỗi lần tiếp xúc với
tác phẩm với những thời điểm khác nhau, tâm trạng, cảm xúc, bối cảnh khác
nhau sẽ mang đến cho bản thân người xem đó những cảm nhận có ít nhiều
35
khác biệt. Các tác phẩm trừu tượng có thể đơn thuần mang lại sự sảng khoái,
thoa mãn trong tiếp nhận thị giác bởi sự sắp đặt, điều chỉnh những khối hình,
sắc màu, ánh sáng nhưng cũng có thể khiến người xem có những cung bậc
cảm xúc: vui, buồn, lo âu…qua thần thái của từng đường nét, hay thậm chí có
thể gợi nên những triết lý về nhân sinh quan, thế giới quan.
Về mặt hình thức, các tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng gỗ có đa
dạng hình thức thể hiện: hình thức hiện thực, cách điệu, biểu hiện và trừu
tượng. Mỗi người nghệ sỹ có những quan điểm thẩm mỹ khác nhau, họ lựa
chọn những ngôn từ nghệ thuật và có những cách thức khai thác chất liệu để
diễn đạt ngôn ngữ nghệ thuật của mình. Các tác phẩm có thể được tạo nên bởi
những khối gỗ lớn, nhưng cũng có thể được ghép từ những mảnh gỗ nho.
Người nghệ sỹ có thể thay đổi toàn bộ dáng hình nguyên thủy của chất liệu,
nhưng cũng thế thể hạn chế những tác động vào chất liệu để làm nên tác phẩm
theo đúng ý đồ của mình. Vậy nên, có thể thấy, các tác phẩm điêu khắc tượng
tròn băng chất liệu gỗ là một văn bản mang nội dung thông tin được thể hiện
qua ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình.
Lý giải về sự đa dạng trong thế giới tượng tròn chất liệu gỗ giai đoạn
2000 - 2015 có thể thấy: Những thay đổi trong đời sống xã hội – kinh tế -
chính trị - văn hóa đã mang đến những biến đổi trong cả đời sống vật chất,
tinh thần của con người. Nền kinh kế trú trọng phát triển công nghiệp –
thương mại sản xuất hàng hóa nâng cao chất lượng đời sống của người dân
nhưng cũng có không ít những hệ lụy ảnh hưởng đến môi trường sống của
con người với các vấn nạn về: môi trường, áp lực trong cuộc sống, công việc,
sự thay đổi của các mối quan hệ và những quan niệm trong cuộc sống…
Sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ, các phương tiện thông tin
truyền thông, đặc biệt là mạng internet đã thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ. Chưa bao giờ tốc độ là lưu lượng thông tin trao đổi giữa các
cá nhân, tổ chức, nhóm người, quốc gia… lại có thể diễn ra nhanh chóng và
36
hiệu quả đến vậy. Bởi sự trợ giúp đắc lực của các thành tựu khoa học kỹ thuật
mà các nhà điêu khắc tiếp cận nhanh chóng thông tin, hình ảnh và các hoạt
động về điêu khắc trong và ngoài nước. Việc giao lưu, hợp tác với các tổ
chức, dự án nghệ thuật và nghệ sỹ quốc tế cũng đã góp phần quan trọng trong
việc thay đổi cách nhìn nhận, thúc đẩy sức sáng tạo, đòi hoi làm mới các tác
phẩm của mình ở mỗi người nghệ sỹ. Người nghệ sỹ đã có những nhìn nhận
mới thậm chí thay đổi cả tư duy thẩm mỹ để làm nên các tác phẩm mới mẻ.
Sự ra đời của các thiết bị máy móc kỹ thuật cũng đã hỗ trợ nhiều cho
người nghệ sỹ trong việc tạo tác các tác phẩm. Các loại máy gia công chất
liệu như máy đục vi tính, máy định hình và máy in 3D đã giúp các nhà điêu
khắc dễ dàng tạo hình trên các chất liệu gỗ, đá, kim loại và các loại chất liệu
nguyên khối khác với độ chính xác cao so với mẫu phác thảo tác phẩm.
Tiêu kết chương 2
Vào giai đoạn 2000 – 2015, nghệ thuật điêu khắc nói chung và đặc biệt
là điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ nói riêng đã đạt được nhiều thành công.
Đây là kết quả của quá trình học hoi những thành tựu nghệ thuật đi trước, kết
hợp với những sáng tạo, đổi mới tư duy của các nghệ sỹ ,mang đến cho các
tác phẩm một diện mạo mới, góp phần xây dựng nên một thế giới nghệ thuật
giai đoạn 2000 – 2015 độc đáo. Trong quan niệm về tác phẩm, người nghệ sỹ
không chỉ dừng lại ở việc ghi khắc lại những hình ảnh đẹp đẽ trong cuộc sống
mà còn coi các tác phẩm của mình là nơi chia sẻ những tình cảm, những tâm
sự, quan điểm cá nhân. Có không ít các tác phẩm thể hiện rõ nét nhân sinh
quan, thế giới quan của tác giả, xây dựng được tính tư tưởng trong những khối
hình, đường nét tác phẩm của mình.
37
Chương 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Những thành công và hạn chế của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015
Trong mối tương quan với nghệ thuật điêu khắc tượng tròn băng chất
liệu gỗ trên thế giới, các tác phẩm của Việt Nam vẫn còn chưa thật sự có tiếng
vang lớn, tạo nên những bước đột phá mới mẻ trong quan điểm thẩm mỹ, kỹ
thuật tạo hình, thu hút sự chú ý của quốc tế. Nền mỹ thuật Việt Nam nói
chung vẫn còn đi chậm hơn so với nhiều nước trên thế giới và cần nỗ lực
nhiều hơn nữa để xây dựng được những thành tựu riêng. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn, có thể thấy răng vào giai đoạn 2000 – 2015,
điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam đã có không ít các tác phẩm rất
đáng ghi nhận về giá trị nghệ thuật.
Nhìn nhận lại trong bối cảnh xã hội giai đoạn 2000 – 2015, đây là thời
kỳ đất nước hội nhập mạnh mẽ cùng với thế giới, giao lưu và học hoi được
với nhiều nền văn hóa ngoại quốc. Nền kinh tế thương mại - sản xuất - dịch
vụ được chú trọng phát triển tạo nên nhiều thay đổi lớn trong cơ cấu tổ chức,
vận hành xã hội và trong tư duy, nhận thức của mỗi con người trong xã hội.
Đặc biệt, sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin đã xây dựng nên một
thế giới thông tin liên lạc rộng lớn và thông suốt, tạo nên những tác động rất
lớn tới việc trao đổi thông tin giữa các cá nhân và giữa các quốc gia, các vùng
miền địa lý, văn hóa. Việt Nam nhanh chóng đón nhận những thành tựu của
thế giới công nghệ thông tin. Do vậy, so với những thời kỳ trước đó, việc tiếp
nhận và cập nhật thông tin giữa Việt Nam và quốc tế diễn ra nhanh chóng,
chính xác và hiệu quả. Các nguồn thông tin đến với người dân trở nên đa
chiều hơn, khách quan hơn nên con người có nhiều nguồn dữ liệu để phân
tích, đối chiếu, góp phần quan trọng trong việc thay đổi tư duy và những nhận
38
định cố hữu. Chưa kể đến những hệ quả trái chiều, thì những thay đổi diễn ra
trong đời sống xã hội con người là sự tất yếu, thuận theo tiến trình phát triển
của nhân loại.
3.1.1. Những thành công của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015
Sự thay đổi trong nền tảng xã hội nói trên đã mang đến nhiều cơ hội để
phát triển và đổi mới. Con người là một phần gắn bó hữu cơ trong bối cảnh xã
hội, mang đến nhưng sự thay đổi cho đời sống xã hội và cũng chịu ảnh hưởng
của những điều thay đổi mà mình tạo nên. Trong bối cảnh xã hội có nhiều
điều mới mẻ đó, não trạng con người tất yếu cũng sẽ dần thích nghi và có
thêm những phân tích, nhận định mới. Cách nhìn nhận của con người với
cuộc sống cũng trở nên đa chiều và sâu sắc hơn. Vậy nên, tư duy sáng tác của
các nghệ sỹ nói chung và các nhà điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ nói riêng
cũng có nhiều thay đổi.
Ở góc độ chuyên môn, các nghệ sỹ và cả công chúng yêu mến nghệ
thuật đã có nhiều cơ hội hơn để tìm hiểu các nguồn thông tin nghệ thuật đa
chiều cũng như làm việc trực tiếp với nhiều nghệ sỹ quốc tế qua các buổi nói
chuyện chuyên đề về nghệ thuật (art – talk), các dự án (workshop), khóa học,
chương trình hợp tác trao đổi, lưu trú nghệ thuật… Các vấn đề lý thuyết, thực
hành như: các luận thuyết, quan điểm nghệ thuật của các tác phẩm, trường
phái nghệ thuật, những phương thức sử dụng chất liệu trong quá trình sáng
tác, kỹ năng hoàn thiện tác phẩm... có đa dạng nguồn ý kiến khiến cho hệ
thống thông tin nghệ thuật ngày càng phong phú hơn. Đứng trước một thế
giới nghệ thuật Quốc tế đa dạng và phát triển như vậy, các tác phẩm nghệ
thuật Việt Nam cũng nhận được nhiều đòi hoi khắt khe hơn trong sáng tạo và
chất lượng nghệ thuật của những người yêu mến và quan tâm đến nghệ thuật.
Đó là những đòi hoi khách quan và mang tính tất yếu, góp phần thúc đẩy sự
phát triển không ngừng của nền nghệ thuật nước nhà.
39
Những đòi hoi đổi mới trong sáng tác nghệ thuật không chỉ đến từ đời
sống khách quan mà còn xuất hiện ở ngay chính nội tại người nghệ sỹ. Khi
tiếp cận với đời sống nghệ thuật quốc tế luôn biến hóa đa dạng, nhiều nghệ sỹ
Việt Nam đã nhìn nhận lại những sáng tác đã và đang có nguy cơ lặp lại chính
mình, lặp lại những điều xưa cũ đang ăn mòn tư duy mà khao khát kiếm tìm
những sáng tạo mới. Nghệ thuật luôn đòi hoi những điều mới mẻ và người
nghệ sũ luôn mưu cầu sáng tạo. Đó là những yếu tố tạo nên sức sống cho các
tác phẩm nghệ thuật.
Nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ giai đoạn
2000 – 2015 đã đáp ứng lại những đòi hoi khách quan, chủ quan đó. Các tác
phẩm cũng ghi dấu ghi dấu sự phát triển đa dạng của nền nghệ thuật tạo hình
Việt Nam nói chung cũng như nghệ thuật điêu khắc chất liệu gỗ nói riêng.
Về nội dung, người nghệ sỹ tự do hơn trong việc khai thác các đề tài
trong cuộc sống ở tất cả các khía cạnh tích cực và tiêu cực. Trong các tác
phẩm, người nghệ sỹ có thể chia sẻ những tâm sự của riêng mình hay đưa ra
những nhận định cá nhân về đời sống xã hội: sự phát triển kinh tế - công
nghiệp và những hệ quả trong xã hội, đời sống lao động bình dị, những câu
chuyện tình cảm gia đình, tình cảm gắn bó giữa người với người … Chính vì
vậy, đề tài trong các tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng gỗ giai đoạn 2000 –
2015 này rất đa dạng. Có người nghệ sỹ dành những tình cảm yêu thương đặc
biệt tới những người đồng bào miền núi, có những người cảm động với những
người lao động nghèo khổ, vất vả, có những người luôn hồi nhớ về những ký
ức tuổi thơ đẹp đẽ và dành tình yêu cho trẻ nho… Có không ít tác phẩm
không chỉ mang tính miêu tả lại hiện tượng đơn thuần mà còn chứa đựng cả
sự phân tích, bóc tách đối tượng, đưa đối tượng về những hình ảnh biểu đạt
mới hay góc nhìn mới.
Tiếng nói cá nhân trong mỗi tác phẩm được thể hiện rõ nét. Các tác
phẩm nghệ thuật không giới hạn về nội dung thể hiện và thậm chí còn luôn
40
đòi hoi khai thác những nội dung hoặc những góc nhìn mới mẻ. Sự nhạy cảm
và tư duy thẩm mỹ người nghệ sỹ luôn được khuyến khích phát triển. Có thể
nói đây cũng là một bước phát triển mới của xã hội khi con người ngày càng
độc lập, nhận thức rõ hơn về vị trí và vai trò của nhân của mình trong xã hội,
coi trọng cái Tôi cá nhân của bản thân mình và của những người khác. Việc
trân trọng tiếng nói cá nhân cho thấy sự nhân văn trong thế giới nghệ thuật.
Đây thực sự là thế giới mà con người tìm kiếm, làm chỗ dựa tinh thần, hoàn
thiện nhân cách.
Về hình thức, điêu khắc chất liệu gỗ cũng có đa dạng hình thức biểu đạt
tùy theo ý thức của tác giả và yêu cầu tác phẩm: hiện thực, cách điệu, biểu
hiện, trừu tượng… Mỗi tác phẩm có một hình thức thể hiện riêng khiến cho
nghệ thuật điêu khắc tượng tròn băng gỗ trở nên sinh động và đa dạng. Người
xem khi tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật này có thể có được những tư
duy nghệ thuật khác nhau. Đơn giản nhất là việc hiểu các tác phẩm hiện thực
vốn lấy nguồn cảm hứng và trung thành với đời sống hiện thực. Qua bàn tay
và khối óc người nghệ sỹ, những dáng hình thực tế nhận được sự biến đổi đi ít
nhiều để trở thành những tác phẩm được cách điệu đi rất sống động. Rồi qua
những phương thức tư duy nghệ thuật khác nhau mà các tác phẩm mang ngôn
ngữ thể hiện tượng trưng, trừu tượng mang đến cho người xem những cơ hội
tiếp xúc để tư duy về tác phẩm theo những cách thức khác nhau. Việc người
nghệ sỹ lựa chọn cho tác phẩm của mình ngôn ngữ và sự thể hiện nào đó đều
là quyết định của cá nhân người nghệ sỹ và luôn được tôn trọng.
Về quá trình tạo hình tác phẩm, có thể thấy răng nghệ thuật điêu khắc
tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam được xây dựng dựa trên nền tảng kết hợp
những thành tựu của nghệ thuật điêu khắc truyền thống dân gian với những
kiến thức nghệ thuật tạo hình hàn lâm. Các nghệ sỹ luôn cố gắng học hoi, tiếp
thu khá nhiều kinh nghiệm của các nghệ nhân điêu khắc gỗ dân gian. Kho
41
tàng nghệ thuật dân gian vừa là nguồn cảm hứng lại vừa là nền tảng, là kho tư
liệu cho người nghệ sỹ phát triển các tác phẩm của mình.
Về chất liệu, gỗ vốn là chất liệu điêu khắc truyền thống ở Việt Nam.
Với đặc thù địa lý đa dạng loại hình, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thảm thực vật
ở Việt Nam vô cùng phong phú. Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào mà cha
ông ta đã khia thác từ lâu đời để tạo nên những sản phẩm phục vụ cho đời
sống. Gỗ là vật liệu dễ chế tác, dễ tạo hình và có tính chất biểu đạt đa dạng
nên từ lâu đã trở thành chất liệu được yêu thích trong điêu khắc tượng tròn.
Bởi tính chất tự do trong sáng tác mà người nghệ sỹ có thể chế tác chất liệu
tùy theo ý thích và ý đồ nghệ thuật của mình.
Gỗ là chất liệu có nhiều ưu thế sáng tác nhưng cũng có những điểm
hạn chế nhất định. So với những loại chất liệu cứng như đá, gỗ dễ chế tác
hơn, dễ vận chuyển hơn nhưng cũng khó sửa chữa. Đây lại là chất liệu không
bền vững, dễ bị hủy hoại bởi tác động của môi trường và thời gian (nấm mốc,
nứt gãy…). Tuy vậy, đây vẫn là chất liệu được khá nhiều nghệ sỹ điêu khắc
yêu thích bởi khả năng biểu đạt sống động, đa dạng của chúng. Thừa hưởng
những thành tựu của khoa học kỹ thuật, người nghệ sỹ cũng đã áp dụng nhiều
biện pháp để hạn chế những yếu điểm vốn có của chất liệu.
Dù có không ít hạn chế trong việc tạo tác tác phẩm nhưng người nghệ
sỹ vẫn luôn có gắng vận dụng chất liệu này thể hiện những ngôn từ, hình ảnh
của các hình thức tả thực, biểu hiện, tượng trưng và trừu tượng. Kết hợp với
những chất liệu và vật liệu khác, các tác phẩm điêu khắc gỗ trở nên sống động
và phong phú hơn. Bên cạnh đó, gỗ vốn là vật liệu tạo mỹ cảm tự nhiên và có
nhiều biểu hiện phong phú. Vẻ đẹp nguyên thủy của chất liệu này được không
ít các nghệ sỹ khai thác (vẻ đẹp của thớ gỗ, vân gỗ, vo vây…). Chính những
yếu tố tự nhiên đã góp phần mang đến cho các tác phẩm điêu khắc gỗ vẻ đẹp
rất duyên và tự nhiên. Người nghệ sỹ đã cố gắng khai thác triệt để khả năng
biểu đạt của chất liệu, tìm hiểu những cách thức biểu đạt ngôn ngữ và tạo hiệu
42
quả trong cảm nhận tác phẩm ở tất cả các giác quan. Sau này, khi điêu khắc
gỗ kết hợp cùng hình thức sáng tác sắp đặt, vẻ đẹp thô mộc của gỗ càng được
khai thác triệt để hơn, để chúng giữ nguyên tiếng nói tự thân của chất liệu,
mang đến hiệu quả biểu đạt cao.
Để tạo tác được những tác phẩm điêu khắc băng gỗ đòi hoi tay nghề tạo
tác thuần thục cũng như sự am hiểu về chất liệu này. Đây lại là hình thức tạo
tác trực tiếp lên chất liệu nên cần nhiều thời gian và sự tính toán chi tiết, tỷ
mỉ. Nếu có những sai sót xảy ra trong quá trình thực hiện thì việc sửa chữa là
hết sức khó khăn và thậm chí là khó có thể khắc phục được. Việc nắm bắt
những lợi ích của khoa học kỹ thuật, áp dụng những thành quả nghiên cứu
khoa học đã mang đến nhiều thuận lợi cho người nghệ sỹ trong quá trình tìm
hiểu, khai thác chất liệu, tạo hình tác phẩm. Máy móc được đưa vào sử dụng
để rút ngắn thời gian thực hiện, tăng hiệu quả thể hiện tác phẩm. Hóa chất
được ứng dụng trong việc sử lý chất liệu, khắc phục những yếu điểm, đẩy
mạnh những ưu điểm.
Để hạn chế phần nào những khó khăn nêu trên, đã có nghệ sỹ đắp
tượng băng đất sét, cho đổ khuôn tượng băng thạch cao hoặc nhựa rồi cho vào
chạy máy CNC ra sản phẩm gỗ. Khi cần thiết, người nghệ sỹ có thể sửa chữa
các chi tiết sản phẩm băng tay để hoàn thiện sản phẩm của mình. Hình thức
kết hợp với máy móc này thường được áp dụng cho các tác phẩm mang hình
thức hiện thực có yêu cầu chi tiết cao.
Băng sự sáng tạo không ngừng nghỉ của mình, người nghệ sỹ đã kết
hợp các chất liệu khác (sắt, đồng, kẽm…) trong các tác phẩm của mình để tạo
hiệu quả thẩm mỹ, thể hiện ý đồ sáng tác.
Trong bối cảnh nền nghệ thuật tạo hình thế giới đang phát triển theo
chiều hướng nghệ thuật đa phương tiện, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện tác
phẩm điêu khắc chất liệu gỗ phát triển theo hướng này. Các tác phẩm theo
khuynh hướng này mang tinh thần đương đại phá cách, khai thác toàn bộ
43
không gian bao quanh để hợp nhất chúng trở thành một phần của tác phẩm,
khiến tác phẩm trở thành một chỉnh thế thống nhất với không gian, tạo hiệu
quả thị giác. Có thể gọi đây là hình thức nghệ thuật Điêu khắc - Sắp đặt. Hiện
có các tác phẩm đem lại cảm quan tốt như: Cành cây (2014) (H3.1), Hoa của
gỗ (2009) (H3.5) , Cây cao su (2007) (H3.10) của Nguyễn Ngọc Lâm (HN)
(H3.1); Lúa trời (2015) của Bùi Hải Sơn (TP. HCM) (H3.2)…Có nhiều tác
phẩm đem lại nhìn nhận sâu hơn về tư duy hình khối cũng như sự liên kết ý
tưởng, cảm xúc thị giác.
Trong tương lai, ở Việt Nam, những tác phẩm thuộc xu thế phát triển
chung của thế giới đó sẽ phát triển rộng khắp. Đó là những tác phẩm phức
hợp không chỉ tạo hiệu quả thị giác mà người xem còn có thể tiếp cận chúng
băng xúc giác, thính giác, thậm chí cả khứu giác, vị giác. Sự mạnh dạn thể
nghiệm hứa hẹn những thay đổi trong tư duy nghệ thuật, tạo dựng nên một
nền nghệ thuật tương lai đa dạng.
3.1.2. Những hạn chế của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2015
Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ ở Việt Nam giai đoạn
2000 – 2015 đã đạt được những thành công nhất định trong việc đổi mới quan
điểm sáng tác, đưa tinh thần thời đại và hình thức thể hiện mới mẻ vào tác
phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhiều tác phẩm vẫn còn ít nhiều những hạn chế
cần khắc phục và rút kinh nghiệm trong quá trình sáng tác.
Gỗ là chất liệu tự nhiên có nhiều ưu điểm rất thuận lợi cho việc chế tác.
Tuy nhiên, các nghệ sỹ cần trau dồi kỹ năng xử lý, khai thác chất liệu, chế tác
công cụ hơn nữa để có tay nghề kỹ thuật linh hoạt hơn khi cần thiết. Điêu
khắc gỗ vốn là hình thức nghệ thuật dân gian truyền thống đã xuất hiện ở
nước ta từ lâu đời. Trải qua quá trình lao động, các nghệ nhân đã đúc kết được
nhiều kinh nghiệm quý báu mà truyền dạy cho các thế hệ sau. Đó là những
kinh nghiệm về cách thức khai thác chất liệu, kỹ thuật chế tác cũng như
44
những quy chuẩn ứng với các loại hình sản phẩm, tác phẩm. Có những nghệ
sỹ xuất thân từ những làng nghề điêu khắc gỗ truyền thống. Họ có lợi thế khi
đã tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm từ cha ông cũng như tự đúc rút được
qua quá trình học nghề từ thuở nho. Tư duy thẩm mỹ khi sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ đã được hình thành khá vững vàng. Đấy vừa là lợi thế mà cũng
là điều hạn chế của các nghệ sỹ. Để tiếp tục áp dụng những kiến thức được
truyền dạy nhưng vẫn bứt phá được khoi những khuôn thước quy định đã “ăn
sâu” vào nhận thức của họ là điều cần thiết nhưng cũng không mấy dễ dàng.
Ngày nay, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học - kỹ thuật, thao tác
chế tác tác phẩm đã tiết kiệm đc nhiều thời gian và đạt hiệu quả cao hơn. Máy
móc được đưa vào các công đoạn xử lý chất liệu (xẻ, cắt…), hoàn thiện tác
phẩm (mài, cắt…). Thậm chí, để hạn chế những yếu điểm, đẩy mạnh những
ưu điểm của chất liệu, các kiến thức khoa học cũng được ứng dụng (chống ẩm
móc, sấy khô chống ẩm mốc, ngâm hóa chất chống mối mọt, sơn phủ chống
nứt rạn…). Vậy răng, để có thể hoàn thiện tác phẩm điêu khắc tượng tròn
băng gỗ, người nghệ sỹ vừa cần có những kỹ năng và kiến thức học hoi từ nền
nghệ thuật dân gian của cha ông, vừa cần có sự hiểu biết một cách khoa học
về những vấn đề căn bản của chất liệu, xử lý chất liệu và thậm chí là sử dụng
máy móc, công nghệ trong quá trình làm tác phẩm.
Còn một điểm đáng lưu ý nữa về nguồn tài nguyên gỗ, đây là chất liệu
có nguồn gốc tự nhiên, khai thác từ loài cây lấy gỗ nên việc sử dụng nguồn
nguyên liệu này cần có sự gắn kết khoa học với quy trình khai thác gỗ để
tránh ghiện tượng tận diệt tự nhiên, ảnh hưởng xấu tới môi trường sống. Đã
có không ít các nghệ sỹ tận dụng gỗ của những loài cây đã chết, những bộ
phận bị gãy, đổ của cây hay lắp ghép các mảnh gỗ nho thành những khối lớn
trong các tác phẩm của mình. Đó là phương thức sáng tác rất đáng ghi nhận.
Người nghệ sỹ cần tập trung hơn nữa trong việc khai thác tối đa khả
năng biểu đạt của chất liệu. Gỗ là chất liệu đa biểu cảm bởi nó có nhiều tính
45
chất. Bản thân mỗi cây lấy gỗ, mỗi khối gỗ đều có sự khác biệt về màu sắc,
hình dáng vân gỗ…Chất liệu gỗ có tiếng nói tự thân của riêng mình. Nếu biết
cách khai thác, ngôn ngữ của tác phẩm sẽ rất sống động và độc đáo. Các nghệ
sỹ trẻ cần trau dồi nhiều hơn về tư duy hình khối, sự liên kết các ý tưởng, tạo
hiệu quả thị giác. Những sáng tạo trong tư duy nghệ thuật là điều đặc biệt cầm
thiết để đem lại sức sống cho các tác phẩm.
Có thể thấy răng các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ giai
đoạn 2000 – 2015 vẫn tiếp tục phát triển dựa trên nền tảng mà giai đoạn trước
đã xây dựng nên. Nhiều tác phẩm ưa chuộng những quan niệm thẩm mỹ trước
đây nhưng cũng có nhiều tác phẩm đi theo tinh thần nghệ thuật mới, phá cách.
Dù các tác giả lựa chọn hình thức biểu đạt nào, cách thức chế tác ra sao và
phát triển ý tưởng nghệ thuật nào thì cũng đều cần có sự sáng tạo không
ngừng để tác phẩm mới mẻ, độc đáo và nâng cao kỹ thuật chế tác đạt được
hiệu quả thẩm mỹ nhất định.
3.2. Nhận định về sự phát triên của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ
Việt Nam giai đoạn tiếp theo
Theo quy đạo phát triển của xã hội, thế giới nghệ thuật sẽ tiếp tục có
những chuyển biến mới mẻ đáp ứng những nhu cầu của đời sống và thoa mãn
chính nhu cầu sáng tạo trong mỗi người nghệ sỹ. Đó là chu trình phát triển tất
yếu của xã hội. Các nhà khoa học dự đoán trong tương lai, xã hội loài người
sẽ tiếp tục có những thành tựu vượt bậc trong khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên,
những hệ lụy theo đó cũng sẽ tương ứng với sự phát triển. Con người sẽ tiếp
tục đối diện với nhiều hơn các vấn đề về nhiễm độc môi trường, sự suy yếu
sức khoe thể chất và tâm lý, khoảng cách xã hội dựa trên đánh giá kinh tế
ngày một sâu sắc hơn, sự thâu tóm quyền lực của các thế lực nắm trong tay
nguồn tài lực, vật lực của xã hội… Do những hệ lụy nghiêm trọng đó mà sự
bất đồng quan điểm với xã hội cũng sẽ theo đó mà trở nên ngày một gay gắt
hơn. Con người sẽ bước vào thời kỳ khủng hoảng mới: khủng hoảng chất
46
lượng môi trường sống, khủng hoảng sức khoe sinh học và tinh thần…Xu
hướng tìm về với tự nhiên để cân băng và cứu vãn cuộc sống sẽ ngày càng
phát triển hơn nữa. So với những khủng khoảng mà hai cuộc đại chiến thế
giới trước đây gây ra thì có lẽ cuộc khủng khoảng trong tương lai sẽ diện ra
trên diện rộng hơn và có ảnh hưởng sâu sắc hơn. Chính vì lẽ đó, các tác phẩm
nghệ thuật nói chung và các tác phẩm điêu khắc gỗ nói riêng cũng sẽ có
những bước chuyển đổi phù hợp.
Trong bối cảnh cuộc sống xuất hiện nhiều điều phức tạp, dòng suy nghĩ
của con người cũng sẽ có nhiều hoang mang nghi ngại. Song hành với các tác
phẩm phát triển theo quan điểm thẩm mỹ hàn lâm thì các tác phẩm phá cách
trong tư duy sáng tạo, ngẫu nhiên, phi biểu hình sẽ xuất hiện nhiều hơn nữa.
Người nghệ sỹ không ngừng tìm tòi, mở rộng biên độ sáng tạo trong các tác
phẩm của mình để thoa mãn nhu cầu nội tại trong chính bản thân mình và nhu
cầu đến từ xã hội.
Về nội dung, các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ sẽ hướng
nhiều hơn đến những nỗi âu lo của cuộc sống, giãi bày câu chuyện thân phận
của con người, nỗi cô đơn và sự hữu hạn của cuộc đời. Nghệ thuật sẽ tiếp tục
là phương tiện để cân băng cuộc sống của chính người sáng tạo nên chúng,
đồng thời cũng là phương tiện để con người chia sẻ, tìm kiếm sự đồng cảm,
nói lên tiếng nói của cá nhân. Các tác phẩm điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ
cũng sẽ mang nhiều tinh thần đương đại hơn, phá cách hơn..
Về chất liệu và hình thức sáng tác của các tác phẩm tượng tròn chất liệu
gỗ sẽ trở nên ngày một linh hoạt hơn. Gỗ tiếp tục phát huy thế mạnh trong tạo
hình tác phẩm. Những yếu điểm của chất liệu này sẽ tiếp tục được khắc phục
bởi sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật. Cùng với sự sáng tạo không ngừng trong
thế giới nghệ thuật, chất liệu gỗ sẽ tiếp tục được người nghệ sỹ khai thác đến
tận cùng khả năng biểu đạt và kết hợp với các chất liệu khác nhăm thể hiện ý
đồ nghệ thuật của mình. Thậm chí, gỗ sẽ được kết hợp nhiều hơn với các chất
47
liệu khác trong các tác phẩm, điêu khắc tượng tròn gỗ sẽ được kết hợp với các
ngành nghệ thuật khác nhau (sân khấu, điện ảnh…) để trở thành các tác phẩm
nghệ thuật đa phương tiện, đánh thức tất cả các giác quan của con người như
chính đặc trưng của đời sống công nghệ hiện nay. Trong một xã hội truyền
thông phát triển mạnh mẽ, công nghệ thông tin sẽ là chất liệu được khai thác
nhiều trong các tác phẩm, là một phần cấu thành nên tác phẩm hoặc hoàn
thiện không gian nghệ bày đặt tác phẩm theo ý đồ của tác giả.
Các tác phẩm điêu khắc tượng tròn băng gỗ sẽ khai thác mạnh mẽ hơn
yếu tố không gian, gắn kết chặt chẽ với không gian. Tác phẩm không còn
đứng đơn lẻ trong dáng hình của một khối hình độc lập với không gian xung
quanh và chúng sẽ gắn kết chặt chẽ với không gian đó để tạo nên hiệu quả thị
giác khác biệt, đánh thức thêm các giác quan cảm nhận khác của con người.
Sự sáng tạo của người nghệ sỹ sẽ mang đến cho các tác phẩm sức sống mới
mẻ, sự phá cách, độc đáo.
Gỗ là nguồn chất liệu đem lại nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ
sỹ, có ưu thế trong quá trình chế tác, nhưng gỗ lại là nguồn tài nguyên thiên
nhiên lâu phục hồi. Việc sử dụng những thân gỗ lâu năm có đường kính lớn sẽ
không còn nhiều. Sự khai thác nguồn nguyên liệu này với tốc độ nhanh chóng
không đủ thời gian cho thế hệ cây sau phục hồi, thậm chí có nơi sau khi khai
thác, rừng cây không nhận được sự phục hồi cần thiết. Nguồn nguyên liệu dần
cạn kiệt. Thiên tai lũ lụt, hiện tượng nóng lên của trái đất, nước biển dâng
cao… là những hiểm họa con người phải đối mặt. Những người nghệ sỹ sẽ
tận dụng những cây gỗ đã chết, những cành cây khô gẫy, những khúc gỗ
nho…để thực hiện tác phẩm của mình. Đó vừa là cách thức làm việc hiệu quả
vừa góp phần bảo vệ môi trường sống
Nghệ thuật tạo hình Việt Nam phát triển chậm hơn so với nhiều nền
nghệ thuật trên thế giới. Sự phát triển này cũng khá tương đồng với nhịp phát
triển của văn minh và văn hóa nhân loại bởi mỗi xã hội khi bước đến một bậc
48
phát triển mới thì nền nghệ thuật cũng có sự đổi khác. Mỗi cá nhân nhân, mỗi
dân tộc thuộc các vùng miền, văn hóa có nhân sinh quan và thế giới quan
riêng nên quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật cũng có ít nhiều khác biệt.
Tuy nhiên, một tác phẩm nghệ thuật tạo hình nói chung vẫn cần đến khả năng
biểu đạt, tạo hiệu quả thị giác, quan điểm, tư tưởng.
Mỗi người nghệ sỹ đều có những quan điểm và tư duy nghệ thuật riêng.
Có những nghệ sỹ yêu thích cách tạo hình truyền thống trước đây với những
quy chuẩn hàn lâm cổ điển. Bên cạnh đó có không ít nghệ sỹ yêu thích sự phá
cách, luôn kiếm tìm những hình thức biệu đạt mới mẻ và không ngừng khám
phá cuộc sống xã hội, cuộc sống của chính bản thân mình để có những cái
nhìn sâu sắc hơn cho tác phẩm. Dù người nghệ sỹ có đưa quan điểm nghệ
thuật nào thì điều quan trọng nhất vẫn là họ sẽ làm nên những tác phẩm như
thế nào. Nội dung có thể cũ nhưng cần có những góc nhìn mới, thể hiện mới.
Ngôn ngữ có thể cũ nhưng tinh thần và hình ảnh thể hiện cần sự khác lạ. Các
tác phẩm không đơn thuần mang tính thẩm mỹ mà còn thể hiện nhân sinh
quan, thế giới quan của tác giả, có tác động nhất định đến nhận thức của
người thưởng lãm.
Tiêu kết chương 3
Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình nói chung và cụ thể hơn ở đây là các
tác phẩm tượng tròn chất liệu gỗ sẽ phát triển theo hai hướng chính: tiếp tục
bảo lưu hình thức sáng tác nghệ thuật hàn lâm, khai thác những giá trị nghệ
thuật bản địa và phát triển theo quan điểm nghệ thuật đương đại, kiếm tìm
những điều mới mẻ hơn trong sáng tác nghệ thuật. Về nội dung, các tác phẩm
sẽ hướng nhiều hơn đến tâm sự của con người, những câu chuyện, quan điểm
của mỗi cá nhân, của xã hội và mang tính dự báo cho tương lai sau này. Về
hình thức, gỗ sẽ được kết hợp với nhiều chất liệu khác nhau và điêu khắc
tượng tròn gỗ sẽ phối hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, làm nên
những tác phẩm đa phương tiện, tiếp cận tới khán giả từ mọi giác quan.
49
KẾT LUẬN
Điêu khắc tượng tròn là một trong những hình thức nghệ thuật tạo hình
ra đời sớm trên thế giới khi còn người bắt đầu phát triển ý thức và tư duy
thẩm mỹ. Điêu khắc tượng tròn băng chất liệu gỗ là các tác phẩm được người
nghệ sỹ tạo nên trong không gian thực đa chiều (chiều cao , rộng , sâu). Tùy
theo ý muốn tạo hình và đặc điểm của tác phẩm mà các nghệ sỹ điêu khắc sẽ
có những phương thức khai thác chất liệu, tạo hình sản phẩm riêng. Các
phương pháp chế tác cơ bản của điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ là: khắc,
tạc, chạm, cưa, cắt, lắp ghép.
Những đổi mới trong tư duy sáng tác và sự không ngừng sáng tạo đã
mang đến cho các tác phẩm tượng tròn băng gỗ một diện mạo mới, góp phần
xây dựng nên một thế giới nghệ thuật giai đoạn 2000 - 2015 khá độc đáo.
Trong quan niệm về tác phẩm, người nghệ sỹ không chỉ dừng lại ở việc ghi
khắc lại những hình ảnh đẹp đẽ trong cuộc sống mà còn coi các tác phẩm của
mình là nơi chia sẻ những tình cảm, những tâm sự, quan điểm cá nhân. Có
không ít các tác phẩm thể hiện rõ nét nhân sinh quan, thế giới quan của tác
giả, xây dựng được tính tư tưởng trong những khối hình, đường nét tác phẩm
của mình. Các tác phẩm đa dạng hình thức: hiện thực, cách điệu, biểu hiện,
trừu tượng.
Trong những giai đoạn tiếp theo, xã hội loài người sẽ có nhiều chuyển
biến. Khoa học kỹ thuật và những phương tiện phục vụ cho đời sống sẽ ngày
càng hiện đại hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự phát triển và tăng trưởng đó
cũng kéo theo những hệ quả không lường ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống của con người: sự nhiễm độc môi trường sống, suy giảm sức khoe thể
chất và tinh thần con người… Với sáng tác nghệ thuật, những chuyển biến
sâu sắc trong đời sống xã hội đó cũng là yếu tố quan trọng tác động đến sự
thay đổi trong nhận thức và tư duy thẩm mỹ của người nghệ sỹ, thúc đẩy họ
không ngừng lao động, tìm kiếm, sáng tạo những điều mới mẻ.
50
Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình nói chung và cụ thể hơn ở đây là các
tác phẩm tượng tròn chất liệu gỗ sẽ phát triển theo hai hướng chính: tiếp tục
bảo lưu hình thức sáng tác nghệ thuật hàn lâm, khai thác những giá trị nghệ
thuật bản địa và phát triển theo quan điểm nghệ thuật đương đại, kiếm tìm
những điều mới mẻ hơn trong sáng tác nghệ thuật. Về nội dung, các tác phẩm
sẽ hướng nhiều hơn đến tâm sự của con người, những câu chuyện, quan điểm
của mỗi cá nhân, của xã hội và mang tính dự báo cho tương lai sau này. Về
hình thức, gỗ sẽ được kết hợp với nhiều chất liệu khác nhau và điêu khắc
tượng tròn gỗ sẽ phối hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, làm nên
những tác phẩm đa phương tiện, tiếp cận tới khán giả từ mọi giác quan.
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên - 2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện
đại, Đại học Mỹ thuật Việt Nam – Viện Mỹ thuật, HN.
2. Nguyễn Thị Biển, (2007), “Điêu khắc Việt Nam giai đoạn 1993 –
2003”, đề tài cơ sở, (Tư liệu thư viện Viện Mỹ thuật Việt Nam), HN.
3. Bộ Văn hóa – Thông tin, Hội mỹ thuật Việt Nam (2005), Triển lãm mỹ
thuật toàn quốc (2000 – 2005), HN.
4. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển
lãm, Hội mỹ thuật Việt Nam (2010), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc
(2005 – 2010), HN.
5. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển
lãm, Hội mỹ thuật Việt Nam (2015), Triển lãm mỹ thuật Việt Nam
2015, Nxb Mỹ thuật, HN.
6. Bộ Văn hóa – Thông tin, Hội mỹ thuật Việt Nam (2003), Triển lãm
điêu khắc toàn quốc lần thứ 4 (1993 – 2003), HN.
7. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển
lãm, Hội mỹ thuật Việt Nam (2013), Triển lãm 10 năm điêu khắc toàn
quốc lần thứ 5 (2003 – 2013).
8. Trần Khánh Chương (2013), Mỹ thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ 20, Nxb
Mỹ thuật, HN.
9. Nguyễn Ngọc Dũng (2013), “Tìm hiểu về ngôn ngữ điêu khắc”, Tạp
chí Mỹ thuật - Nhiếp ảnh, 5 (11), tr. 14-16.
10. Lê Đình Dương, Lê Đình Lục, Lê Hồng Vân (2009), Mỹ học đại
cương, NXB Giáo dục Việt Nam, HN.
11. Lê Thanh Đức, (2003), Nghệ thuật Môđéc và Hậu Môđéc, Nxb Mỹ
thuật, HN.
52
12. Cynthia Freeland, Nguyễn Như Huy (dịch) (2009), Thế mà là nghệ
thuật ư ?, NxbTri thức, HN.
13. Lê Thị Hiền (2015), “Chất liệu gỗ của Emile Van Der Kruk trong Điêu
khắc đương đại”, Tạp chí Mỹ thuật - Nhiếp ảnh, 9 (39), tr. 34-38.
14. Trang Thanh Hiền (2013), “Điêu khắc của những người trẻ đã thực trẻ
về tư duy và hình thức”, Tạp chí Mỹ thuật - Nhiếp ảnh, 8 (14), tr. 16-18.
15. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb TPHCM,
TP HCM.
16. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin, HN.
17. Denis Huisman, Xuân Lộc (dịch) (2004), Mỹ học, Nxb Văn hóa Thông
tin, HN.
18. Đặng Bích Ngân (2012), Từ điển Mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ thuật,
HN.
19. Nhóm tác giả (1997),Điêu khắc hiện đại Việt Nam,Nxb Mỹ thuật, HN.
20. Nhóm tác giả (2014), Kỷ yếu hội thảo triển lãm điêu khắc toàn quốc
lần thứ 5(2003 – 2013) và điêu khắc Việt Nam trong giai đoạn hiệnnay,
Công ty cổ phần in Savina, HN.
21. Nhóm tác giả (2016), Triển lãm điêu khắc Hà Nội Sài Gòn lần thứ 4
22. Nxb Mỹ thuật (2008), Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới, Nxb Mỹ
thuật, HN.
23. Hoàng Phê (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
24. Nguyễn Hồng Phong (2012), “Điêu khắc gỗ Việt Nam từ 1986 đến nay”,
luận văn Thạc sỹ Mỹ thuật, trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, HN.
25. Quang Phòng, Trần Tuy (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ
thuật, HN.
26. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt,
Nxb Mỹ thuật, HN.
53
27. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thể kỷ 20, Nxb Mỹ thuật,
HN.
28. Nguyễn Quân, Nguyễn Trân (1995), Những kiến thức cơ bản về nghệ
thuật tạo hình, Đại học Mỹ thuật Hà Nội, HN.
29. Leonard Shlain, Trần Mạnh Hà, Phan Văn Thiều (dịch) (2010), Nghệ
thuật và vật lí – Những cái nhìn tương đồng về không gian, thời gian và
ánh sáng, Nxb Tri thức, HN.
30. Ocvirk – Stinsok – Wigg – Bone – Cayton, Lê Thành (dịch) (2006),
Những nền tảng của mỹ thuật,Nxb Mỹ thuật, HN.
31. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, HN.
32. Trần Trọng Tri (2012), “Giá trị tự thân của chất liệu điêu khắc”, luận
văn Thạc sỹ Mỹ thuật, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, HN.
33. Chu Quang Trứ, Phạm Thị Chỉnh, Nguyễn Thái Lai (1998), Lược sử
mỹ thuật và mỹ thuật học, Nxb Giáo dục HN
34. Chu Quang Trứ (2001),Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc
dân tộc, Nxb Mỹ thuật, HN.
35. Trịnh Quang Vũ (2009), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, NXB Từ điển
bách khoa, HN.
36. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam- Viện Mỹ thuật (2007), Kỷ yếu
hội thảo khoa học 20 năm mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Mỹ
thuật, HN.
37. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ( 2013), Đình làng vùng châu thổ
bắc bộ - Nxb thế giới, HN.
Tài liệu nước ngoài
38. Judith Collins, (2007), Sculpture today, Nxb Phaidon
Tài liệu internet
39. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%C3%AAu_kh%E1%BA%AFc
54
40. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81m_Ph%C3%B9n
g_Th%E1%BB%8B
41. http://vov.vn/van-hoa-giai-tri/tai-sinh-cay-gao-co-thu-thanh-cac-tac-
pham-dieu-khac-404842.vov
55
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN TUỆ
ĐIÊU KHẮC TƯỢNG TRÒN CHẤT LIỆU GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000 - 2015
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Điêu khắc)
Mã số: 60210102
Khóa 18 (2015 – 2017)
PHÂN PHU LUC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGÔ TUẤN PHONG
Hà Nội - 2017
56
MUC LUC
PHÂN PHU LUC
Phụ lục 1: Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam hiện đại……… 57
Phụ lục 2:
Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn
2000- 2015.............................................................................. 60
Phụ lục 3: Một số tác phẩm kết hợp sắp đặt, đa chất liệu….……........... 79
57
PHU LUC 1
Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam hiện đại.
H1.1. Đinh Rú(TP.HCM), vòng tay lớnvòng
tay nho -1979, chất liệu gỗ, kích thước: cao
145 cm, nguồn ảnh [ 1 tr 236].
H1.2. Hứa Tử Hoài (), Song Sly -
1983, chất liệu gỗ, kích thước: cao
64 cm, nguồn ảnh [19, tr 261].
H1.3. Lê Thị Hoài , Người mẹ -
1991, chất liệu gỗ, kích thước: cao
85 cm, nguồn ảnh [19 tr 74].
H1.4. Tạ Quang Bạo , Cây sống
đời - 1991, chất liệu gỗ, kích thước:
cao 70 cm, nguồn ảnh [1 tr 329].
58
H1.5. Đinh Rú(TP.HCM),Người đội
nước -1986, chất liệu gỗ, kích thước: cao
100 cm, nguồn ảnh [1 tr 328].
H1.6.Lê Đình Bảo(Hà Nội), Tình của
đất -1995, chất liệu gỗ, kích thước:
nguồn ảnh [ 19 tr 63].
H1.7. Phan Hùng(), Đi chợ - 1993,
chất liệu gỗ, kích thước:
nguồn ảnh [19 tr 94]
H1.8. Hứa Tử Hoài(), Bên bếp lửa - 1985,
chất liệu gỗ, kích thước: cao 40 cm,
nguồn ảnh [1 tr 322]
59
H1. 9 . Vũ Xuân Tiệp, Dân quân - 1984,
chất liệu gỗ, kích thước: cao 50 cm
nguồn ảnh [19 tr 60]
H1.10. Lê Duy Ứng, Bài ca người mẹ -
1985, chất liệu gỗ, kích thước: cao 110 cm,
nguồn ảnh [19 tr 60]
H1.11. Hoàng văn để(), Gia đình - 1982,
chất liệu gỗ, kích thước
nguồn ảnh [19 tr 60].
H1.12. Vương Học Báo (Hà Nội), Đường
lượn - 1993, chất liệu gỗ, kích thước:
cao 45 cm, nguồn ảnh [19 tr 98].
60
PHU LUC 2
Điêu khắc tượng tròn chất liệu gỗ Việt Nam giai đoạn 2000 -2015
* Nội dung chủ đề về sinh hoạt, lao động
H2.1.Trần Văn Đức (Quảng Nam), Phía
thượng nguồn – 2013, chất liệu gỗ, kích thước
155 x 30 cm,Nguồn ảnh [7 tr66]
H2.2. Nguyễn Hữu Thiện (Bến Tre), Công
nhân vét cống – 2010, gỗ, kích thước 170 x
60 x 60 cm, Nguồn ảnh [7 tr127]
H2.3 Lê Quốc Tiến (TP.HCM), Mùa gặt -
2012, chất liệu gỗ,kích thước: 40 x 95 x 30
cm, Nguồn ảnh [7 tr 139]
H2.4. Trần Đức (Quảng Nam),cái chữ vùng
cao - 2001, chất liệu gỗ, kích thước:
cao 150 cm, Nguồn ảnh [6 tr]
61
H2.5. Vũ Văn Hợp (Vũng Tàu),
Chợ vùng cao – 2011, Chất liệu: Gỗ,
Kích thước : 50 x 50 x 30,
Nguồn ảnh [7 tr81]
H2.6. Lương Văn Nghĩa (Tp. HCM),
Dưới lòng thành phố - 2005, Chất liệu gỗ,
Kích thước :41x70x40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr99]
H2.7. Nguyễn Hữu Thiện (Bến Tre),
Mùa gặt – 2008, chất liệu gỗ,
kích thước 50 x 140 x 45 cm
Nguồn ảnh [7 tr126]
H2.8. Trần Thanh Long (TP.HCM ),
Bám biển – 2012 , chất liệu gỗ, kích
thước: 83 x 120 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr90]
62
* Nội dung chủ đề về đời sống tinh thần , tình cảm
H2.9. Châu Trâm Anh (Bình Dương),
Gia tài - 2007, chất liệu gỗ,
kích thước :150 x 40 x 50 cm,
Nguồn ảnh [7 tr48]
H2.10. Phạm Ngọc Dương (),
Hoàng Sa bất tử – 2007,
chất liệu gỗ, kích thước: 120cm
Nguồn ảnh [7 tr151]
H2.11. Lê Duy Ứng (Hà Nội),
Lưu luyến phút chia tay - 20,
chất liệu gỗ, kích thước : cao 75 cm
Nguồn ảnh [7 tr96]
H2.12. Tạ Quang Bạo (Hà Nội), Vú mẹ –
2014, chất liệu gỗ kích thước: cao 80cm
Nguồn ảnh [5 tr51]
63
H2.13. Đỗ Hồng Sơn (HN) Gia đình, chất
liệu gỗ, kích thước: cao 45 cm
Nguồn ảnh [29 tr]
H2.14. Nguyễn Hồng Phong (TP. HCM),
Ký ức tuổi thơ – 2005, chất liệu Gỗ,
kích thước 84 x 24 x 28 cm,
Nguồn ảnh [7 tr103]
H2.15. Đinh Rú (TP.HCM),
Giúp bà qua đường – 2012,
chất liệu gỗ, kích thước: 90x60x120 cm,
Nguồn ảnh [internet]
H2.16. Đỗ Bá Quang ( HN),
Đấu vật-2012, Chất liệu gỗ,
kích thước: 75cm,
Nguồn ảnh [28 tr]
64
H2.17. Lê Lang Biên (TP.HCM ),
Tĩnh lặng và thoát – 2012 , chất liệu gỗ,
kích thước: 135 x 60 x 50 cm,
Nguồn ảnh [7 tr51]
H2.18. Phạm Ngọc Đường (Quảng Ngãi),
Khát Vọng– 2011 , chất liệu gỗ ,
kích thước cao: 92 cm, Nguồn ảnh [7 tr 69]
H2.19. Nguyễn Minh Thùy (HN),
Đôi bạn – 2012, chất liệu gỗ,
kích thước: 140 x 85 x 50 cm,
Nguồn ảnh [7 tr136]
H2.20. Nguyễn Ngọc Thạch
(Vĩnh Phúc), Ngày trở về – 2009,
chất liệu gỗ, kích thước 125 cm,
Nguồn ảnh [7 tr120]
65
* Nội dung chủ đề về phản biện xã hội
H2.21. Nguyễn Ngọc Lâm (HN),
Không chạm tay vào -2003, chất liệu gỗ,
kẽm gai,kích thước 158 x 25 x 25 cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H2.22. Phạm Bá Cường (Tây Ninh),
Truy cập – 2015 , chất liệu gỗ,
kích thước: cao 150 cm,
Nguồn ảnh [5 tr 166]
H2.23. Nguyễn Hoài Huyền V ( Bình Dương),
Đời sống đô thị II– 2012, chất liệu gỗ,
kích thước: 75 x55 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr154]
H2.24. Kù Kao Khải (Ninh Bình ),
chuyện quê– 2013 , chất liệu gỗ,
kích thước: 120 x 240 x 60 cm,
Nguồn ảnh [7 tr25]
66
H2.25. Trần Mai Hữu Quý (TP.HCM),
Hội chứng vô cảm – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước, Nguồn ảnh [29 tr]
H2.26. Nguyễn Ngọc Lâm (HN),
Xâm lấn -2014, Chất liệu gỗ,
kích thước: 200cm: Nguồn ảnh [tác giả]
H2.27. Đoàn Văn Băng (HN),
Bất tử -2012, Chất liệu gỗ, đồng đá ,
kích thước : 220 x 30 cm,
Nguồn ảnh [7 tr30]
H2.28. Đỗ Xuân Diệu (TP.HCM ),
Leo – 2010 , chất liệu gỗ ,
kích thước: 100 x 45 x 45 cm,
Nguồn ảnh [7 tr64]
67
* Hình thức Hiện thực.
H2.29. Hà Mạnh Chiến (HN),
Tuổi thơ-2013, chất liệu gỗ,
kích thước:130 x 120 cm,
Nguồn ảnh [7 tr26]
H2.30.Nguyễn Văn Tuệ (HN),
28 – 2015 , chất liệu gỗ, sắt,
kích thước: 200 x 60 x 60 cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H2.31. Huỳnh Đăng Viên (TP.HCM),
Niềm vui của bà – 2011, chất liệu gỗ,
kích thước: 55 x 120 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr149]
H2.32. Trần Quốc Thịnh (HN), Chân
dung I -2011, chất liệu gỗ,
kích thước 62 x 25 x 25 cm,
Nguồn ảnh [7 tr127]
68
* Hình thức Cách điệu.
H2.33. Nguyễn Hoài Huyền Vũ (Bình Dương),
Mùa xuân – 2002, chất liệu gỗ, kích thước:
cao130 x 40 cm, Nguồn ảnh [6]
H2.34. Nguyễn Văn Lợi (HN),
Cầu phúc (2013), chất liệu gỗkích thước
125 x 40cm, Nguồn ảnh [5]
H2.35. Trần Văn Đức (Quảng Nam),
Mắt biển – 2013,
kích thước :96 x 70 x 30 cm,
Nguồn ảnh [5 tr 66]
H2.36. Nguyễn Phú Văn (Ninh Bình),
Người gác kinh thành Hoa Lư 2 – 2015 ,
chất liệu gỗ, kích thước: cao 126 cm,
Nguồn ảnh [5 tr 184]
69
H2.37. Lê Đình Nguyên (HN ),
Trâu cối – 2010 , chất liệu gỗ ,
kích thước59 x 240 x 50 cm,
Nguồn ảnh [5 tr 100]
H2.38. Vũ Quang Sáng (HN),
Mẹ con - 2013, chất liệu gỗ,
kích thước 50 x 40 x 20 cm,
Nguồn ảnh [7 tr112]
H2.39. Đỗ Bá Quang (HN),
Lời ru , chất liệu gỗ,
kích thước:80x30 cm,
Nguồn ảnh [28 tr145]
H2.40. Nguyễn Minh Thùy (HN),
Người đàn bà đợi – 2008, chất liệu gỗ,
kích thước: 108 x 30 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr135]
70
H2.41. Ngô Tuấn Phong (HN),
Đăng quang – 2012, chất liệu gỗ,
kích thước: 100 x 20 x 20,
Nguồn ảnh [5 tr 101]
H2.42.Phan Thanh Quang ( Huế ),
Bóng nắng – 2011, chất liệu gỗ,
kích thước: cao 140 cm,
Nguồn ảnh [7 tr108]
H2.43. Phạm Văn Tuấn (HN),
Sự phát triển – 2012, chất liệu gỗ,
kích thước: 35 x 250 x 15 cm,
Nguồn ảnh [5]
H2.44. Nguyễn Thanh Giang (Kiên Giang ),
Chợ – 2012 , chất liệu gỗ,
kích thước: 40 x 195 x 18 cm,
Nguồn ảnh [7 tr70]
71
* Hình thức Biêu hiện.
H2.45.Minh Tuấn(Lâm Đồng),
Cầu mưa–2002, Chất liệu gỗ,
kích thước: 120 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.46. Quách Hùng (Yên Bái),
Theo Mẹ -, Chất liệu gỗ,
kích thước: 135cm,
Nguồn ảnh [7 tr 81]
H2.47. Đinh Xuân Việt (HN),
Thời gian – 2008, chất liệu gỗ,
kích thước 45x30 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.48. Trần Việt Hà (Hòa Bình),
Vũ điệu mùa xuân – 2001, chất liệu gỗ,
kích thước : 35 cm,
Nguồn ảnh [6]
72
H2.49. Nguyễn Văn Hàm (Quảng Nam),
Âm vang, chất liệu gỗ, kích thước: cao 170
cm, Nguồn ảnh [7 tr72]
H2.50. Đinh Rú (TP.HCM),
Người đầu làng - 2007,
Chất liệu gỗ, kích thước: 50 cm,
Nguồn ảnh [internet]
H2.51. Nguyễn Chí Đức (HN), Đuốc sống
– 2002, chất liệu gỗ,
kích thước 100 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.52. Lê Đức Lai (TP.HCM),
Vận động viên khuyết tật – 2009,
chất liệu gỗ, kích thước : 60 cm,
Nguồn ảnh [6]
73
* Hình thức Trừu tượng.
H2.53.Vương Học Báo (HN), Nhớ Bạch
Long Vĩ - 2010, Chất liệu gỗ, đá, sắt , kích
thước: 152 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr50]
H2.54. Vương Học Báo (HN),
Nhớ Bạch Long Vĩ - 2012, Chất liệu gỗ,
kích thước: 94 x 30 cm,
Nguồn ảnh [7 tr 50]
H2.55. Nguyễn Quốc Thể (HN),
Bổng trầm hương thu – 2002,
chất liệu gỗ, kích thước 54,5 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.56. Nguyễn Việt Hà (HN),
Hạn – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước :40 x 50 x 35 cm,
Nguồn ảnh [41]
74
H2.57. Hà Chí Dũng (HN),
Lặng thầm -2006, chất liệu gỗ,kích
thước: cao 68 cm,Nguồn ảnh [7 tr 67]
H2.58. Nguyễn Văn Điều (HN ),
Tâm - 2013 , chất liệu gỗ,
kích thước:103 x 123 x 68 cm, Nguồn ảnh [7 tr65]
H2.59. Hồ Thu (Quảng Ngãi),
Hạnh phúc – 2007, chất liệu gỗ,
Kích thước: cao 110 cm
Nguồn ảnh [7 tr131]
H2.60. Phạm Sinh (HN),
Trước thời gian – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước: 65 x 24 x 40 cm
Nguồn ảnh [41]
75
H2.61. Đinh Rú (TP.HCM),
Nấc thang kép - 2001, Chất liệu gỗ,kích
thước:150 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.62. Bùi Nam (Quảng Ngãi),
Bến đợi - 2010, Chất liệu gỗ,
kích thước: 95 cm,
Nguồn ảnh [4]
H2.63. Anh Vũ (Bắc Giang),
Bài ca của nước – 2002, chất liệu gỗ,
kích thước - 90 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.64. Nguyễn Sáng ()
Ngôi nhà của chúng ta – 2003,
chất liệu gỗ,kích thước :80 cm,
Nguồn ảnh [41]
76
H2.65.Nguyễn Hữu Thái (Bắc Giang),
Người đang đi - 2015, Chất liệu gỗ,kích
thước:53cm,
Nguồn ảnh [21]
H2.66. Phạm Minh Tuấn (HN),
Thiếu nữ - 2003, Chất liệu gỗ,
kích thước: 110 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.67. Bùi Nam (Quảng Ngãi),
Tự tình – 2002, chất liệu gỗ,
kích thước –85 cm,
Nguồn ảnh [6]
H2.68. Nguyễn Thăng Long (HN)
Hoa lăn lóc – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước : 60 cm,
Nguồn ảnh [41]
77
H2.69. Nguyễn Huy Tính (HN ),
Thời gian đi qua– 2010, chất liệu gỗ,
kích thước: 174 x 350 x 200 cm,
Nguồn ảnh [7 tr140]
H2.70. Nguyễn Ngọc Lâm (HN),
Nhạc trưởng - 2009, Chất liệu gỗ,
kích thước: 180x80x60 cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H2.71.Nguyễn Thăng Long (HN),
Không gian phục sinh – 2015, chất liệu gỗ,
inox, kích thước: 60 x 70x 150cm,
Nguồn ảnh: [41]
H2.72. Lê Hoài Nam(TP.HCM),
Răng 1 – 2014, chất liệu gỗ,
kích thước : 30x30x40cm,
Nguồn ảnh [21]
78
H2.73.Đinh Trọng Văn (HN),
Hoa gạo - 2015, Chất liệu gỗ,
kích thước:53cm,
Nguồn ảnh [41]
H2.74. Đỗ Bá Quang (HN),
Hồi sinh - 2015, Chất liệu gỗ,
kích thước: 70 cm,
Nguồn ảnh [41]
H2.75. Trần Văn An (Nam Định),
Mạch Sống – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước –85 cm,
Nguồn ảnh [41]
H2.76. Phạm Sinh (HN)
Suy tưởng – 2015, chất liệu gỗ,
kích thước : 60 cm,
Nguồn ảnh [41]
79
PHU LUC 3
Một số tác phẩm kết hợp sắp đặt, đa chất liệu, màu sắc
H3.1. Nguyễn Ngọc lâm (HN),
Cành cây – 2014, chất liệu gỗ,
kích thước: 200 cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H3.2. Bùi Hải Sơn (TP.HCM),
Lúa Trời - 2015, Chất liệu gỗ,
kích thước: 80x80x350 cm,
Nguồn ảnh [21]
H3.3.Trần Mai Quốc Khánh (TP.HCM),
Nêm – 2015, chất liệu gỗ, inox,
kích thước: 60 x 70x 150cm,
Nguồn ảnh [21]
H3.4. Nguyễn Hoài Huyền Vũ ( Bình
Dương), Đời sống đô thị I– 2012, chất
liệu gỗ, kích thước: 75 x55 x 40 cm,
Nguồn ảnh [7 tr154]
80
H3.5. Nguyễn Ngọc Lâm (HN),
Hoa của gỗ – 2009, chất liệu gỗ,
kích thước: cao 80-160 x 20cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H3.6. Kù Kao Khải (Ninh Bình),
Chuyện quê - 2015, Chất liệu gỗ,
kích thước: 60x60x300 cm,
Nguồn ảnh [41]
H3.7.Lê Anh Vũ (HN),
Hồi sinh – 2015, chất liệu gỗ, inox,
kích thước: 60 x 70x 50cm,
Nguồn ảnh [41]
H3.8. Nguyễn Việt Hà (HN),
Mùa hạ – 2012, chất liệu gỗ,
kích thước: 60 cm,
Nguồn ảnh [41]
81
H3.9. Nguyễn Ngọc lâm (HN),
Lực ép – 2009, chất liệu gỗ,
kích thước:120x80x20cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H3.10. Nguyễn Ngọc lâm (HN),
Cây Cao su – 2007, chất liệu gỗ,
kích thước: 300cm,
Nguồn ảnh [tác giả]
H3.11. Vũ Hữu Nhung (Bắc Ninh ),
Chồi – 2014, chất liệu gỗ,
kích thước: 65 cm
Nguồn ảnh [41].
H3.12. Nguyễn Việt Hà (HN),
Ngược dòng – 2012, chất liệu gỗ,
kích thước :40 x 50 x 35 cm,
Nguồn ảnh [7 tr71]