Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong...
Transcript of Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong...
Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp : Luận văn ThS. Luật: 60.38.01 / Phan Đức Phương ; TS.
Nguyễn Văn Tuân
1. Tính cấp thiết của đề tài Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung
quan trọng được thể hiện trong nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội
dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó
có đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Nghị quyết nêu rõ:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thNm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của TAN D.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thNm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thNm khu vực được tổ chức
ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thNm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thNm và xét xử sơ thNm một số vụ án; tòa
thượng thNm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thNm;
tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thNm, tái thNm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét
xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối
cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thNm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
N ghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thNm quyền xét xử của tòa án
quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật
quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất
lượng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp.[9,tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng
sản Việt N am cũng nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. ĐNy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khNn trương,
đồng bộ, lấy cải cách họat động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế
công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những
vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp…
[15,tr.126].
N hư vậy, cả N ghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt N am đều xác
định tòa án nhân dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ động chuNn bị
tất cả các điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt
động phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề
về lý luận và thực tiễn được đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa
án nhân dân đòi hỏi phải được quan tâm nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp " để làm
luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án
nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhóm như sau:
- �hóm thứ nhất: N hững công trình là đề tài khoa học cấp N hà nước,
cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư
pháp Việt N am có liên quan đến tòa án nhân dân như: Đề tài khoa học cấp
N hà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ
thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án
trong �hà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân".
Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới
tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay "
của tác giả Lê Thành Dương năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học
luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo
hướng xây dựng �hà nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm
2003. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "�hững vấn đề lý
luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt �am theo định
hướng xây dựng �hà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị N gọc Tuyết năm
2005. Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy �hà nước"
của PGS.TS N guyễn Đăng Dung, N xb Giao thông vận tải năm 2002; "Hệ
thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt �am hiện nay" của tập thể các tác
giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, N xb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp
bàn về cải cách pháp luật ở Việt �am hiện nay" của TS N gô Huy Cương,
N xb Tư pháp năm 2005; "Xây dựng �hà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo
của Đảng" của Luật sư N guyễn Văn Thảo, N xb Tư pháp năm 2006.
Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về
lịch sử ngành tòa án nhân dân.
- �hóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: "Cải
cách tư pháp ở Việt �am trong giai đoạn xây dựng �hà nước pháp quyền"
của TSKH Lê Cảm, tạp chí N ghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002; “�hững
vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án
nhân dân số 3 năm 2006; "Yêu cầu của việc xây dựng �hà nước pháp
quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của
tác giả N guyễn Mạnh Cường, tạp chí N ghiên cứu lập pháp số 10 năm
2002; "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả N guyễn Mạnh
Kháng, tạp chí N hà nước và pháp luật số 10 ...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực
nghiên cứu chung nhất về tổ chức quyền lực N hà nước, hoặc có công trình
nghiên cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên
không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn
hiện nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi
mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân mới chính thức được đặt
vấn đề khi N ghị quyết số 49-N Q/TW của Bộ Chính trị được ban hành vào
giữa năm 2005 và mới được ghi nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt N am vào đầu năm 2006. Vì vậy,
đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và
có hệ thống về vấn đề này được chính thức công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử
N hà nước và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, nhằm xây
dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng
cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.
N hiệm vụ của luận văn:
Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực
N hà nước, quyền tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân trong bộ máy N hà nước, các quan điểm về đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi
mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử N hà nước và pháp
luật, luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, nên đối tượng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt N am.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân, không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng và N hà nước ta về lý luận và lịch sử N hà nước và Pháp luật, về đổi
mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp, những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các
phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phương pháp
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch
sử cụ thể, đồng thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương
pháp lý thuyết hệ thống, phương pháp thống kê …
6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận
cũng như thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà
khoa học, những người làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho
việc nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn N goài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1
MỘT SỐ VẤ9 ĐỀ CHU9G
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘ9G CỦA TÒA Á9
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án
1.1.1. Sự hình thành tòa án
N hà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho
pháp luật được thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không
được các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời
sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có
các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các
điều luật của nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do
vậy giai cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm
nhiệm vụ bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi như quân đội,
cảnh sát... N hưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm
một cách tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ
đó cần có một cơ quan được lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem
xét hành vi nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại
trong bất kỳ chế độ nhà nước nào.
Theo V.I. Lênin " … Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt
động của tòa án là hình thức họat động của nhà nước... " [29, tr.197].
1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện
chức năng xét xử. N gay từ buổi đầu của N hà nước Việt N am dân chủ cộng
hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử
những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá trình
phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu
đặt ra khác nhau, tổ chức, họat động của tòa án nhân dân cũng có những
nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai
trò hết sức quan trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt �am.... Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân ; bảo vệ tài sản của �hà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phOm của công dân…” [1,tr.71].
1.2 Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta
hiện nay.
�guyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc "... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong �hà nước
pháp quyền ..." [34,tr.32]. N guyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những
quyết định, bản án đúng pháp luật, thật sự công bằng và khách quan. Theo
nguyên tắc này khi xét xử, thNm phán không bị ràng buộc bởi bất cứ cơ
quan hoặc cá nhân nào để xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh.
ThNm phán phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình.
�guyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
(Điều 52 - Hiến pháp 1992). Trong hoạt động xét xử người tiến hành tố
tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động, xác minh điều tra, đánh
giá chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn, không vì bất cứ lý do gì
mà thiên vị bất cứ ai, bất cứ đương sự nào trong vụ án, không phân biệt địa
vị, trình độ, giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành vi vi phạm, gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và N hà nước đều bị xử lý
công bằng nghiêm minh đúng pháp luật.
�guyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 9
Luật tổ chức TAN D).
N guyên tắc này nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử
của tòa án, bảo đảm cho bị can, bị cáo không bị thiệt hại về quyền và
những lợi ích hợp pháp.
�guyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 11 Luật tổ
chức TAN D).
N guyên tắc này một mặt đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, khiếu nại của
chính các đương sự, bị cáo, người bị hại đối với bản án, quyết định sơ
thNm của tòa án thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo ra công cụ tự kiểm tra,
giám sát của hệ thống tư pháp - thông qua quyền kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân hoặc của Tòa án cấp trên đối với quyết định, bản án sơ
thNm của tòa án cấp dưới.
�guyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của tòa án.
Công lý chỉ được khôi phục và duy trì, các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà nước, tổ chức, công dân chỉ được bảo đảm trên thực tế khi bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành.
1.3 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án ở nước ta.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ lâm thời
đã ra Sắc lệnh số 33/SL ngày 13 tháng 9 năm 1945 về việc thiết lập các
Tòa án quân sự.
Theo Sắc lệnh này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà
N ội, Hải Phòng, Thái N guyên, N inh Bình, Vinh, Huế, Quảng N gãi, Sài
Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án quân sự đã được thành lập với thNm quyền xét
xử sơ thNm, đồng thời chung thNm tất cả những người phạm vào một việc gì
có phương hại cho nền độc lập của nhà nước Việt N am dân chủ cộng hòa.
Để giữ vững kỷ luật trong quân đội, ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra
sắc lệnh số 163/SL về việc thành lập tòa án xét xử các quân nhân, sĩ quan
phạm tội.
Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và
hoạt động của tòa án sau này.
Để nâng cao hiệu lực của Bộ máy N hà nước cũng như để hoàn thiện
về mặt tổ chức của tòa án, ngày 24/1/1946 Chính phủ lâm thời đã ra Sắc
lệnh số 13/SL quy định về tổ chức, hoạt động tòa án và ngạch thNm phán.
Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ, cụ thể tiêu chuNn
nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thNm phán.
Hiến pháp năm 1946 quy định, hệ thống tòa án của nước Việt N am
dân chủ cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, tòa án phúc thNm, tòa án đệ nhị
cấp và sơ cấp. Các nhân viên thNm phán đều cho Chính phủ bổ nhiệm
trong khi xét xử việc hình phải có phụ thNm nhân dân để tham gia ý kiến,
nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thNm phán nếu là việc
đại hình.
Đến năm 1950, N hà nước nhận thấy việc tổ chức tòa án theo mô hình
cũ không còn phù hợp, cần được cải cách nhằm nâng cao vị trí và vai trò
của tòa án nhân dân. N gày 22/5/1950, Chủ tịch nước đã ký ban hành sắc
lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp.
Theo Sắc lệnh này có sự thay đổi tên gọi của tòa án sơ cấp, tòa án đệ
nhị cấp, tòa án thượng thNm với tên gọi mới là tòa án nhân dân huyện, tòa
án nhân dân tỉnh, tòa án nhân dân liên khu.
N ăm 1953 cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiến
hành. Theo Sắc lệnh số 15/SL ngày 12/4/1953, Chính phủ đã thành lập
những tòa án đặc biệt ở các vùng đang cải cách ruộng đất để xét xử những
kẻ phản cách mạng, cường hào gian ác, các tranh chấp về tài sản,
ruộng đất...
Tại kỳ họp lần thứ 8 của Quốc hội khóa I (4/1958), Quốc hội đã
quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao và Viện Công tố trung ương.
Cả hai hệ thống này đều tách khỏi Bộ Tư Pháp.
Hệ thống tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa
án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự (Điều 97).
Hiến pháp năm 1980 ra đời với những bước tiến mới đáng kể trong
các quy định về tổ chức bộ máy N hà nước, trong đó hệ thống tòa án nhân
dân giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, ngày càng được không ngừng
hoàn thiện và phát triển.
Việc tổ chức của các tòa án nhân dân địa phương và tòa án quân sự
quân khu do Bộ Tư pháp quản lý. Đây là điều kiện quan trọng, tạo điều
kiện cho tòa án nhân dân tối cao làm tốt công tác hướng dẫn và tổng kết
kinh nghiệm xét xử, đồng thời cũng tạo điều kiện tốt cho hoạt động xét xử
của tòa án. N hư vậy, về cơ bản, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân vẫn
giống như Hiến pháp năm 1959.
Đến Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAN D 1992, về cơ bản mô hình
tổ chức và hoạt động của tòa án vẫn như Hiến pháp 1980, tuy nhiên có sự
thay đổi, đó là việc thay chế độ bầu thNm phán bằng việc bổ nhiệm thNm
phán ở tòa án các cấp, thNm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, việc quản lý
tòa án địa phương Bộ Tư pháp vẫn quản lý.
Chương 2
THỰC TRẠ9G VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘ9G
CỦA TÒA Á9 9HÂ9 DÂ9 Ở 9ƯỚC TA HIỆ9 9AY
2.1. Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo pháp luật
hiện hành. Về tổ chức tòa án
Theo hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm
2002 ở nước ta có các tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các tòa án quân sự, các tòa án khác theo
luật định … [7,tr.8].
Về hoạt động của tòa án
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân
dân 2002 thì tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định
của pháp luật.
2.2 )hững vấn đề đặt ra đối với tổ chức và họat động của tòa án
nhân dân ở nước ta hiện nay. Về tổ chức.
Hệ thống cơ quan toà án được thành lập theo địa giới hành chính -
lãnh thổ, giống như mọi cơ quan hành chính nhà nước khác mà chưa tính
đến đặc thù của hoạt động xét xử. Lý thuyết về tội phạm học, kinh tế học
và thực tế khách quan cho thấy, vi phạm pháp luật, tội phạm và tranh chấp
dân sự, đặc biệt là tranh chấp kinh tế, không phân bổ đồng đều theo đơn vị
hành chính- lãnh thổ mà phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như mức độ phát triển kinh tế- xã hội, văn hoá; mật độ và chất lượng dân cư; các điều
kiện kinh tế - địa lý của từng loại địa bàn như thành phố, nông thôn, miền
núi...“...Hầu hết các vụ án thuộc thOm quyền giải quyết của tòa án cấp
huyện theo quy định của BLTTHS và BLTTDS chủ yếu tập trung ở những
vùng, miền trọng điểm như các thành phố lớn, các địa phương có tốc độ
phát triển công nghiệp và đô thị hóa cao, trong đó không ít tòa án cấp
huyện ở các địa phương khác có số lượng án phải thụ lý giải quyết không
nhiều, khoảng trên dưới 70 vụ/năm, cá biệt có nơi chỉ có trên dưới 20 vụ/năm...” [39,tr.48]. Từ đó dẫn đến hệ quả tất yếu là khối lượng công
việc, khối lượng vụ án hình sự và khối lượng tranh chấp các loại đưa đến
toà án xét xử cũng như qui mô, độ phức tạp, mức nghiêm trọng của các vụ
án sẽ rất khác biệt giữa các loại địa bàn. Mô hình tổ chức toà án theo địa
giới hành chính - lãnh thổ là không phù hợp nếu tính đến sự phát triển
không đồng đều giữa các vùng miền hiện tại và tương lai. Lịch sử toà án
Việt N am thời kỳ 1945-1959 đã cho chúng ta một kinh nghiệm tốt về tổ chức
toà án theo thNm quyền xét xử kết hợp với địa giới lãnh thổ, cho phép cơ quan
có thNm quyền thành lập các toà án mới ở từng địa bàn khi có nhu cầu.
Về hoạt động của tòa án.
Hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay về cơ bản đã hoàn
thành tốt các mặt công tác.Tuy nhiên số lượng vụ việc mà các cấp tòa án
phải nghiên cứu giải quyết là rất lớn, ngày càng phức tạp đòi hỏi các cấp
tòa án phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết nhanh chóng kịp thời theo đúng
các quy định của pháp luật. Với cách tổ chức như hiện nay thì hiện tại rất
khó khăn cho việc xét xử, chúng ta đã biết trước đây khi chưa tăng thNm
quyền cho tòa án cấp huyện thì việc xét xử sơ thNm chủ yếu ở cấp tỉnh, kéo
theo đó là TAN D tối cao xét xử phúc thNm đã bị ách tắc khi mà lượng án
giải quyết quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo dài thời gian
giải quyết) và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó khăn cho
người dân do đi lại đến tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu kiện, hao
tốn tiền của, gây tâm lý bức xúc cho người dân. Hiện tại khi thNm quyền
xét xử của cấp huyện được tăng thì tòa án cấp tỉnh lại cũng lặp lại tương tự
như tòa án tối cao trước đây, như vậy vấn đề đặt ra là không phải tăng
thNm quyền cho các cấp tòa án mà vấn đề là tổ chức một cách khoa học, hợp lý của các cấp tòa án chứ không như cách tổ chức như hiện nay.
Trong hoạt động xét xử: Chức năng chủ yếu của tòa án là xét xử, theo
luật tổ chức TAN D (2002) thì hiện nay có quá nhiều cấp xem xét theo
trình tự giám đốc thNm, tái thNm, đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động của các toà án.
Về hoạt động xét xử các loại án:
Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, "…ThOm vấn, tranh luận tại phiên tòa chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện,
dẫn đến xác định tội danh không chính xác…" [38,tr.16], thủ tục tố tụng
nặng về thNm vấn coi nhẹ tranh tụng, quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
đương sự chưa thực sự được chú trọng. Trong công tác giải quyết các vụ
việc dân sự và các vụ án hành chính "...trong nhiều trường hợp còn vi
phạm pháp luật tố tụng về thụ lý vụ án, xác định sai tư cách hoặc thiếu
người tham gia tố tụng, xây dựng hồ sơ vụ án không đầy đủ, đánh giá
chứng cứ thiếu khách quan toàn diện…"[38,tr.17]. Đối với các vụ án hành
chính, khi xét xử thì không mấy thuận lợi bởi lẽ còn phải đợi ý kiến phía
người bị kiện, đa phần người bị kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước có thNm
quyền, việc triệu tập đến tòa án là rất khó khăn.
�guyên nhân của những hạn chế
�guyên nhân về nhận thức: trong một thời gian dài nhà nước và xã
hội đều chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp,
đặc biệt là toà án, trong hệ thống bộ máy nhà nước cũng như chưa thấy rõ
những đặc thù về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Công
cuộc cải cách kinh tế đã tạo ra những biến đổi khá sâu rộng trong các mối
quan hệ kinh tế - xã hội, nhưng phải gần 10 năm sau chúng ta mới bắt đầu
nhận ra tính chất phức tạp và nặng nề của việc phải xây dựng các thiết chế
giải quyết tranh chấp mới trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Chậm và chưa nhậy bén nhận thức về những thách thức
mới đối với các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống các tội phạm
mới hoặc các biến dạng, phát triển mới của các loại tội phạm phát sinh
trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhất là đối với các tội về tham nhũng, buôn lậu.
�guyên nhân về tổ chức: mặc dù về nguyên tắc toà án thực hiện hai
cấp xét xử nhưng mỗi cấp xét xử lại có nhiều thNm quyền. Tiếp nữa là
chưa thực sự bảo đảm được sự tham gia giám sát của nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của toà án: việc tham gia của Hội thNm nhân dân vào
hoạt động xét xử, tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt N am và Hội luật gia
vào quá trình tuyển chọn ThNm phán, bầu Hội thNm nhân dân còn nặng về
cơ cấu, hình thức, sự lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng còn nhiều bất cập, hạn chế. Công tác kiểm tra, đôn đốc việc triển khai các nghị quyết của
Đảng đối với công tác tư pháp của các cấp uỷ đảng chưa thực sự tích cực,
thậm chí vẫn còn tình trạng một số đảng viên né trách trách nhiệm tiên
phong của mình. Đồng thời vẫn còn tình trạng các cấp uỷ Đảng can thiệp
quá sâu, trái pháp luật vào hoạt động xét xử của toà án.
Chương 3
PHƯƠ9G HƯỚ9G ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘ9G CỦA TÒA Á9 9HÂ9 DÂ9
Ở 9ƯỚC TA HIỆ9 9AY VÀ MỘT SỐ KIẾ9 9GHN
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
3.1.1. Quan điểm của Đảng và )hà nước ta về đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp. N ội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được
đề cập trong một số văn kiện của Đảng, N hà nước trong những năm gần
đây.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định những nội
dung cơ bản về cải cách tư pháp đối với các cơ quan tư pháp, đó là: "
…Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ
sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm
mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại
thOm quyền xét xử của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thOm quyền và
xét xử sơ thOm cho tòa án nhân dân cấp huyện..." [13,tr.15].
Tiếp đó N ghị quyết số 08-N Q/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới đã chỉ rõ: " …khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công
dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, thOm phán và
Hội thOm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ; việc phán quyết của tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những bản án quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định...
" [9,tr.3]. N gày 02 tháng 06 năm 2005, Bộ chính trị đã ban hành N ghị
quyết số 49-N Q/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. N ội
dung nghị quyết đã đề cập một cách toàn diện mục tiêu, quan điểm cải
cách tư pháp, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp từ nay đến năm
2020. Liên quan trực tiếp đến tổ chức, họat động của tòa án nhân dân, N ghị quyết số 49-N Q/TW nêu rõ:
Tổ chức hệ thống tòa án theo thNm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính gồm: tòa án sơ thNm khu vực được tổ chức ở một
hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, tòa án phúc thNm có nhiệm vụ
chủ yếu là xét xử phúc thNm và xét xử sơ thNm một số vụ án, tòa thượng
thNm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thNm; Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thNm, tái
thNm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của
từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao
theo hướng tinh gọn với đội ngũ thNm phán là những chuyên gia đầu
ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Đối với việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất
lượng tranh tụng các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp [10,tr.4].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định phương
hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:
"… Xây dựng cơ chế vân hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân,
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong
văn bản pháp luật. Xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp
hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền..." [15,tr.126].
Về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp, văn kiện nêu rõ:
"...Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. ĐOy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khOn trương, đồng bộ. Lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm..." [14,tr.127].
3.1.2. Mục tiêu và yêu cầu đối với đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án
nhân dân.
Trong tổng thể của cuộc cải cách tư pháp với mục tiêu "… Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt �am xã hội
chủ nghĩa ; họat động tư pháp mà trọng tâm là họat động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao." [10,tr.2].
Từ những mục tiêu chung đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa
án cần phải đạt được những mục tiêu và yêu cầu sau:
Đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan trong hoạt động xét xử; Đổi
mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhằm thực hiện phán quyết cuối cùng của
tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; N hằm bảo đảm và phát
huy dân chủ trong xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Góp phần làm cho các quyền và tự do của công dân được bảo
đảm bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu và đồng bộ, tránh khỏi sự lạm quyền
độc đoán và tùy tiện của các quan chức trong bộ máy nhà nước, góp phần
giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố trật tự pháp luật, nâng cao hiệu
quả của việc đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
3.2. Phương hướng đổi mới tổ chức và họat động của tòa án nhân dân. N ằm trong tổng thể của quá trình cải cách tư pháp, mà trọng tâm là
xây dựng, hoàn thiện tổ chức và họat động của tòa án nhân dân, cho nên
cũng nằm trong phương hướng của cải cách tư pháp mà Đảng và N hà nước
đã đặt ra. Trong phương hướng tổng quan như vậy việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cũng dựa trên những phương hướng cơ bản sau:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho cải
cách tư pháp nói chung và cải cách hệ thống tòa án nói riêng để bảo đảm
xử lý kịp thời chính xác, đúng pháp luật mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, bảo đảm dân chủ
và bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, đây là một trong những
vấn đề cơ bản làm cơ sở cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân. Mặt khác trong các quy định của pháp luật về hình sự và dân sự cũng cần hoàn thiện hơn nữa, theo hướng bảo vệ tối đa các quyền, tự do,
dân chủ của công dân, cũng như lợi ích của họ và nhà nước. Đó chính là
nền tảng cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án. Xây dựng đội
ngũ cán bộ tòa án trong sạch, vững mạnh giàu phNm chất chính trị, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ
3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
3.3.1. Xác định lại th8m quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ
chức của các tòa án. Mở rộng thOm quyền xét xử chung của tòa án.
Cải cách tư pháp theo hướng đảm bảo tòa án có thNm quyền xét xử mọi
tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội khi người dân có yêu cầu. Công
dân có quyền và được khuyến khích lựa chọn các phương thức khác nhau
(thương lượng, trung gian, hòa giải, trọng tài, khiếu nại hành chính …) để
giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính nhưng điều đó
không hạn chế quyền của công dân, lựa chọn con đường khởi kiện yêu cầu
tòa án giải quyết các tranh chấp đó (nếu các bên không có thỏa
thuận khác).
Phân định lại thOm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp và Tổ chức hệ
thống tòa án theo nguyên tắc hai cấp xét xử.
N guyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc nền tảng của mọi nền tư
pháp dân chủ, đảm bảo xét xử đúng đắn, khách quan, việc xét xử đặt dưới
sự giám sát, kiểm tra nội bộ của hệ thống tòa án và sự giám sát từ cơ quan
kiểm sát, bị cáo, các đương sự, những cá nhân, tổ chức có liên quan thông
qua việc họ thực hiện quyền kháng nghị hoặc kháng cáo. Có thể, mô hình tổ chức hệ thống tòa án được thiết kế như sau:
Trước mắt, theo hướng mở rộng thNm quyền xét xử của tòa án cấp
huyện hiện nay:
Tòa án sơ thNm có thNm quyền xét xử sơ thNm hầu hết các vụ án hình
sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. Các tòa án sơ thNm được tổ chức
theo khu vực không phụ thuộc vào đơn vị hành chính (cấp huyện).
Tòa phúc thNm (tương đương tòa án cấp tỉnh hiện nay): có thNm quyền chủ yếu xét xử lần thứ hai các bản án do tòa án sơ thNm xử lần đầu
nhưng bị kháng cáo, kháng nghị ; đồng thời tòa phúc thNm có thNm quyền
xử lần đầu một số ít vụ án đặc biệt phức tạp, nghiêm trọng.
Tòa thượng thNm khu vực, (thay cho các tòa phúc thNm của tòa án
nhân dân tối cao hiện nay) thực hiện chức năng xét xử phúc thNm các vụ
án do tòa án phúc thNm xử lần đầu nhưng quyết định, bản án bị kháng cáo,
kháng nghị. Các tòa thượng thNm cũng được tổ chức theo khu vực, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính - lãnh thổ, có thể theo hướng được thành
lập ở các trung tâm vùng miền như Hà N ội, Đà N ẵng, thành phố Hồ Chí
Minh hoặc ở một vài tỉnh khác tùy theo nhu cầu thực tiễn.
Tòa án tối cao chủ yếu thực hiện hướng dẫn đường lối xét xử và áp
dụng thống nhất pháp luật, pháp triển án lệ. Tòa án tối cao là tòa duy nhất
có thNm quyền xét xử theo thủ tục đặc biệt giám đốc thNm, tái thNm đối với
số ít bản án do các tòa án cấp dưới xử đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị.
Về lâu dài:
Tòa án sơ thNm: Xét xử sơ thNm toàn bộ các vụ án.
Tòa án phúc thNm: Xét xử phúc thNm toàn bộ các vụ án.
Tòa thượng thNm : Giám đốc thNm, tái thNm, cần thành lập các Hội
đồng giám đốc thNm chuyên ngành (hình sự, dân sự, kinh tế ...) do các
ThNm phán chuyên sâu về từng lĩnh vực đảm nhận việc xét xử.
Tòa án tối cao: Hướng dẫn đường lối xét xử và áp dụng thống nhất
pháp luật.
Xác định lại thOm quyền và tổ chức các tòa chuyên trách trong hệ
thống tòa án nhân dân. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào nhu cầu và thực tế xét
xử của từng cấp tòa án, ở từng địa bàn, không nhất thiết ở cấp nào, địa
phương nào cũng thành lập tòa chuyên trách giống nhau. Ví dụ, ở tòa sơ
thNm khu vực tại các thành phố, cần nghiên cứu thành lập thêm các tòa
chuyên trách như: Tòa án người chưa thành niên, Tòa sở hữu trí tuệ, Tòa
về thuế; ở những địa bàn nông thôn đang đô thị hóa, có nhu cầu, có thể
thành lập Tòa đất đai.
3.3.2 )âng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử. Đổi mới mô hình tổ chức hệ thống tòa án theo hai cấp xét xử có thể
coi là tiền đề tổ chức và là điều kiện chung cho việc thực hiện các mục tiêu
của cải cách tư pháp. Tuy nhiên, nếu phương thức vận hành hệ thống tòa
án cùng với các thủ tục áp dụng trong hoạt động của tòa án không được
đổi mới đồng bộ với tổ chức thì các yêu cầu của cải cách như tính độc lập,
nghiêm minh, công bằng, dân chủ và hiệu quả của hoạt động xét xử - khâu
trung tâm của hoạt động tư pháp, chắc chắn sẽ không thể đạt được.
Đổi mới nội dung, phương thức giám sát của cơ quan đại biểu nhân
dân địa phương đối với tòa án các cấp.Tiếp nữa là đổi mới mối quan hệ
lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương đối với tòa án các cấp. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới
theo hướng phân biệt rõ quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng.
Việc xác định lại thNm quyển của từng cấp tòa án theo hướng tiến tới
mỗi cấp tòa chỉ có một thNm quyền xét xử - sơ thNm, phúc thNm hay giám
đốc thNm, tái thNm là tiền đề về tổ chức để đảm bảo rằng quan hệ giữa các
cấp tòa án chủ yếu là quan hệ tố tụng. Yêu cầu phi hành chính hóa quan hệ tố
tụng giữa Chánh án hoặc chức danh lãnh đạo khác và các thNm phán trong
một cơ quan tòa án là một bảo đảm cho tính độc lập cho hoạt động xét xử.
3.3.3 )âng cao năng lực, ph8m chất pháp lý của th8m phán, hội
th8m nhân dân. ThNm phán và hội thNm nhân dân hoàn toàn chịu trách nhiệm về các
phán quyết của mình là yếu tố có tính chất quyết định và cũng có thể coi là
thành trì cuối cùng đáng tin cậy nhất để bảo vệ tính độc lập, khách quan
của hoạt động xét xử.
Cơ chế tuyển chọn thNm phán cần cải cách theo hướng: mở rộng nguồn tuyển chọn thNm phán; Chuyển từ cơ chế xét tuyển sang cơ chế thi
tuyển quốc gia. Cơ chế bổ nhiệm thNm phán các cấp cần cải cách theo
hướng: chế độ bổ nhiệm thNm phán theo ngạch, bậc trên cơ sở tiếp tục
hoàn thiện hệ tiêu chuNn chức danh thNm phán và phân loại ngạch, bậc
thNm phán; kéo dài nhiệm kỳ tiến tới chế độ bổ nhiệm thNm phán suốt đời.
Hệ tiêu chuNn chức danh thNm phán và các tiêu chí bổ nhiệm, nâng ngạch
thNm phán phải được hoàn thiện theo hướng dựa căn bản trên trình độ hiểu
biết, mức độ tinh thông nghiệp vụ, kỹ năng và hiệu quả xét xử, bản lĩnh và phNm chất đạo đức, sự liêm khiết, trung thực của thNm phán.
Cải cách chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ và chế độ giám sát, kỷ luật
đối với thNm phán.
KẾT LUẬ9
Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức, hoạt động
của ngành tòa án nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn
thiện củng cố, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo luật định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan tòa
án các cấp đã đi vào ổn định, hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống
nhất, đạt hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước cũng như các quyền, tự do dân
chủ của công dân.
Tuy nhiên qua quá trình hoạt động và trước những yêu cầu nhiệm vụ
mới của việc xây dựng N N PQ, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân
đã bộc lộ rõ một số điểm bất cập chưa hợp lý, đòi hỏi phải được đổi mới,
điều chỉnh cho phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp nhằm thực hiện các
nhiệm vụ và yêu cầu mới. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa
án là một vấn đề có ý nghĩa hết sức đặc biệt quan trọng trong công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay, đây không chỉ là một đòi hỏi khách quan và cấp
thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là vấn đề đòi hỏi của việc
đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước và công cuộc xây dưng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm một cách tốt nhất
các quyền, tự do, dân chủ của công dân.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án cần quán triệt các
nguyên tắc, các quan điểm chỉ đạo việc cải cách bộ máy nhà nước và các
cơ quan tư pháp, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu đã đạt
được của Việt nam và thế giới. Đặc biệt là việc thực hiện các N ghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp, nhất là N ghị quyết số 49- N Q/TW ngày
2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Qua nghiên cứu luận văn có thể rút ra những kết luận sau:
1. Tòa án là một bộ phận rất quan trọng không thể thiếu được trong
bất kỳ nhà nước nào.
2. Làm rõ được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân
dân trong bộ máy nhà nước ta.
3. Khái quát được lịch sử hình thành và phát triển của tòa án nhân dân
từ năm 1945 trở lại đây.
4. Đưa ra những nhận xét đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.
5. Đưa ra các giải pháp đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân trong tiến trình cải cánh tư pháp phù hợp với công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Với những nội dung mà luận văn đề cập, hy vọng sẽ đóng góp một
phần vào việc thực hiện thành công đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa
án đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.