i b · 2018-07-13 · một loại tài sản có tính tiết kiệm, đầu tư vẫn còn phổ...
Transcript of i b · 2018-07-13 · một loại tài sản có tính tiết kiệm, đầu tư vẫn còn phổ...
1
hoav
Theo số liệu thống kê của Hội đồng Vàng
Thế giới năm 2017, Việt Nam xếp thứ 14 trên
thế giới về lượng tiêu thụ vàng trên đầu người.
Người tiêu dùng Việt Nam thường có hai mục
đích chính cho việc mua vàng. (i) Dùng vàng
làm tài sản để tiết kiệm, đầu tư; (ii) Dùng vào
cho nhu cầu trang sức. Tâm lý xem vàng là
một loại tài sản có tính tiết kiệm, đầu tư vẫn
còn phổ biến tại Việt Nam. Tính về số lượng,
vàng miếng và tiền vàng vẫn chiếm tới 70%
tổng tiêu thụ vàng tại Việt Nam. Tuy nhiên, con
số đã này bắt đầu giảm mạnh từ sau giai đoạn
2010-2013 khi Chính phủ ban hành các quy
định nhằm kiểm soát thị trường vàng và chấm
dứt tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống NH.
Tin nổi bật
Chính sách tiền tệ thận trọng hơn liệu có
‘kìm chân’ được lạm phát?
Ngân hàng lại thừa tiền?
Nhiều ngân hàng vẫn chật vật xử lý nợ xấu
VN đứng thứ 14 thế giới về tiêu thụ vàng
Quản lý rủi ro đối với nợ công
Ấn Độ vượt Pháp trở thành nền kinh tế lớn
thứ 6 thế giới
Trung Quốc đổi chiến thuật trong đối đầu
thương mại với Mỹ
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 12/07)
VN - Index 898,51 0,60%
HNX - Index 100,43 1,94%
D.JONES CK Mỹ 24.924,89 0,91%
STOXX CK C.Âu 3.445,49 0,68%
CSI 300 CK TQ 3.481,06 2,16%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 13/07)
SJC Ng.đ/L 36.980 0,03%
Quốc tế USD/Oz 1.245,00 0,18%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.648 0,02%
EUR/USD 1.1670 0,03%
Dầu
WTI USD/th 69,29 1,80%
6
Thứ Sáu, ngày 13/07/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Cục Quản lý cạnh tranh yêu cầu
các ngân hàng báo cáo việc
đồng loạt tăng phí rút tiền qua
ATM
Ngày 11/07/2018, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã có văn
bản đề nghị bốn "ông lớn" bao gồm Vietcombank, Agribank, VietinBank
và BIDV cung cấp thông tin, tài liệu liên quan bao gồm thông tin về việc
triển khai DV ATM của từng NH, thông tin về mức phí, các lần tăng phí
rút tiền qua ATM (cả nội mạng và ngoại mạng) trong thời gian 2 năm (từ
01/07/2016 đến nay). Trong những ngày qua, nhiều phương tiện thông tin
đại chúng phản ánh 4 NH lớn gồm Vietcombank-VCB, Agribank,
VietinBank-CTG và BIDV-BID đã đồng loạt thông báo tăng phí rút tiền
nội mạng qua ATM từ mức 1.000 đồng lên 1.650 đồng (đã bao gồm VAT)
bắt đầu từ ngày 15/07/2018. Theo quy định tại Điều 9, Luật Cạnh tranh
hiện hành, thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, DV một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Hành vi vi phạm quy định
về kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị phạt tiền
đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành
vi vi phạm theo Điều 8, Nghị Định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014
quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm luật trong lĩnh vực
cạnh tranh hoặc bị xem xét xử lý hình sự theo Điều 217, Bộ Luật hình
sự năm 2015 tùy thuộc vào tính chất nghiêm trọng của vụ việc. Để phục
vụ công tác giám sát và quản lý cạnh tranh, đảm bảo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, ngày 11/07/2018, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người
tiêu dùng đã có văn bản đề nghị các NH nêu trên cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan bao gồm thông tin về việc triển khai DV ATM của từng
NH, thông tin về mức phí, các lần tăng phí rút tiền qua ATM (cả nội mạng
và ngoại mạng) trong thời gian 2 năm (từ ngày 01/07/2016 đến nay). Cục
Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cho biết sẽ giám sát chặt chẽ để
kịp thời có các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm sự tuân thủ Luật
Cạnh tranh của mọi DN trên các lĩnh vực nền KT, trong đó lĩnh vực NH.
Chính sách tiền tệ thận trọng hơn
liệu có ‘kìm chân’ được lạm
phát?
Mặc dù CSTT đã thận trọng hơn trong năm 2018 giúp giới hạn lại ‘kỳ
vọng tăng’ của lạm phát, nhưng việc tăng trưởng tổng phương tiện
thanh toán M2 đã liên tục ở mức khá cao 16-18% trong giai đoạn 2013-
2017 có thể đã tích tụ đủ những rủi ro và hiện là thời điểm bắt đầu tác
Tài chính – Ngân hàng
3
động rõ nét lên lạm phát. BVSC (Công ty CK Bảo Việt) cho rằng, rủi ro
lớn nhất đối với chỉ số CPI trong 6th cuối năm vẫn là diễn biến khó lường
của 2 nhóm hàng: hàng ăn, DV ăn uống và giao thông. Ở trong nước,
Chính phủ dự kiến tăng thuế bảo vệ môi trường lên kịch khung (từ 3.000
đồng lên 4.000 đồng) ngay từ 01/07/2018. Theo đó, giá mỗi lít xăng sẽ
1.000 đồng, dầu diezen 500 đồng và dầu hỏa 1.100 đồng/lít.
Theo tính toán, việc tăng thuế này sẽ khiến giá nhóm hàng giao thông
5% và tác động làm chỉ số CPI chung 0,2% riêng trong tháng 7.
Mức tăng này cũng chưa tính đến những tác động lan toả vòng 2 lên
các nhóm hàng khác do xăng dầu gần như là đầu vào của mọi hoạt
động trong nền KT. Về lạm phát cả năm 2018, BVSC cho rằng rủi ro
lạm phát trong thời điểm hiện tại chưa đến mức tạo ra nguy cơ quá lớn
hay có thể tăng mạnh như năm 2008 và 2011. Lý do là TTTD giai đoạn
2011-2017 chỉ ở mức 14,3%, thấp hơn hẳn giai đoạn 2003-2010 (trung
bình ở mức 34%). Thêm vào đó, NHNN cũng đã có nhiều kinh nghiệm
điều hành hơn nên đã chủ động giới hạn lại tăng trưởng tín dụng ngay
từ thời điểm đầu năm nay (chỉ còn ở mức 16% thay cho mức 18% hồi đầu
năm). Ở kịch bản trung bình (kịch bản BVSC đánh giá xác suất xảy ra cao
nhất), CPI vào cuối năm 2018 sẽ ở mức 4,8% và lạm phát trung bình
cho cả năm 2018 sẽ ở mức 3,9%. Ở kịch bản tiêu cực, các mức lạm
phát này lần lượt sẽ ở mức 5,6% và 4,07%. Ở kịch bản tích cực, các
mức lạm phát này sẽ lần lượt ở mức 4,07% và 3,77%.
Ngân hàng lại thừa tiền?
Theo Vụ thống kê dự báo NHNN, các TCTD cho biết, Q.II/2018 nhu cầu
vay vốn được nhận định là cao nhất (51,1% TCTD lựa chọn mức "cao"),
tiếp đến là nhu cầu tiền gửi (36,9% TCTD lựa chọn mức "cao") và nhu cầu
thanh toán và thẻ (35,4% TCTD lựa chọn mức "cao"). Nghịch lý là dù tiền
gửi chảy vào NH dồi dào, nhu cầu vay vốn cao nhưng cho vay đầu ra
lại tăng chậm. Nguyên nhân một phần có thể do các NH siết chặt hơn
trong cho vay vào các lĩnh vực rủi ro như BĐS và giao thông trong thời
gian vừa qua. Ngoài ra, khả năng "sức khỏe" của các DN chưa được cải
thiện, các NH cũng ngày càng cẩn trọng hơn trong việc thẩm định, giải
ngân khiến số lượng DN tiếp cận được vốn từ nhà băng không nhiều dù
nhu cầu vẫn cao. TTTD chậm lại trong khi huy động vốn tăng nhanh,
cộng thêm việc NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ và cung ứng tiền
ròng khoảng gần 210.000 tỷ đồng từ đầu năm nên thanh khoản của hệ
thống TCTD tương đối dồi dào trong ½ đầu năm nay.
4
Trên thực tế, không nhìn vào con số thống kê, cảm quan cũng nhận ra
được các NH đang khá "thừa tiền" khi từ đầu tháng 3 đến nay không
đua nhau dùng "chiêu" để thu hút người gửi tiền bằng các chương trình
cộng LS hay khuyến mãi rầm rộ; thay vào đó hàng loạt NH điều chỉnh
giảm lãi suất ở các kỳ hạn ngắn. Mặc dù thanh khoản đang rất dồi dào,
LS trên thị trường LNH cũng đã xuống mức rất thấp, BVSC cho rằng
khả năng giảm LS cho vay trên thị trường 1 cũng vẫn khó. BVSC cho
rằng trong 1/2 cuối năm, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2
có thể sẽ chậm lại trong khi TTTD có thể sẽ nhanh hơn nhưng về cơ
bản, mức tăng trưởng của cả M2 và tín dụng cho cả năm 2018 sẽ thấp
hơn 1-2% so với năm 2017. Theo đó, LS VND (huy động và cho vay) sẽ
khó có điều kiện giảm, nhất là khi kiểm soát lạm phát, đảm bảo giá trị
VND, ổn định tỷ giá vẫn đang là trọng tâm điều hành của Chính phủ
trong giai đoạn hiện tại. Thanh khoản dư thừa sẽ tạo thuận lợi cho nhà
băng trong việc chủ động điều tiết nguồn tiền. Tuy nhiên, điều này cũng
có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận NH khi chi phí đầu vào cao nhưng thu
nhập lãi từ cho vay thấp. Tình trạng NH dư thừa vốn có thể chỉ mang
tính chất ngắn hạn, nhất là trong thời gian đầu năm, tín dụng thường
chưa bứt phá nhanh. Khảo sát của Vụ thống kê dự báo NHNN cũng cho
biết các TCTD kỳ vọng trong Q.III tới đây, dư nợ tín dụng của hệ thống
NH sẽ 5,99% (cao gấp 2 lần mức tăng thực tế của cùng kỳ 2017). Nhiều
NH cho biết sắp sử dụng hết "room" tín dụng và đang xin NHNN cho
phép nới thêm. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, lạm phát tháng 6 tăng
nhanh nhất trong 7 năm trở lại đây, việc đẩy tín dụng tăng quá mạnh
trong thời gian ½ cuối năm có thể ảnh hưởng không tốt tới chỉ số CPI.
Hơn nữa, năm 2018 NHNN cho biết sẽ duy trì tốc độ TTTD một cách
hợp lý, dự kiến chỉ 17%, thấp hơn mức đạt được năm 2017 là 18,2%.
Nhiều ngân hàng vẫn chật vật xử
lý nợ xấu
Theo số liệu của NHNN, từ năm 2012 đến hết tháng 3/2018, toàn hệ
thống TCTD đã xử lý được hơn 753.000 tỷ đồng nợ xấu. Đáng chú ý, số
nợ xấu xử lý theo Nghị quyết 42 đạt tổng cộng 100.500 tỷ đồng. Chủ
tịch HĐTV VAMC - ông Nguyễn Tiến Đông cho rằng, từ khi Nghị quyết
42 có hiệu lực, hiệu quả xử lý nợ xấu cao 1,5 lần so với các thời kỳ
trước. Đã có những biểu hiệu tích cực hơn trong xử lý nợ trong thời gian
qua khi các NH tự tin và chủ động hơn để tự xử lý, ý thức trả nợ của
khách hàng cũng tốt lên nhiều. Thêm vào đó, chính bản thân VAMC
cũng có những bước chuyển. Trước đây, VAMC mua nợ xấu chủ yếu
5
bằng trái phiếu đặc biệt và phân tích các khoản nợ xấu từ 30 tỷ trở lên.
Tuy nhiên, từ 2018, VAMC hạn chế việc mua nợ xấu và phát hành trái
hiếu đặc biệt, tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu từ 10 tỷ
trở lên và thực hiện mua bán đứt đoạn (mua theo cơ chế thị trường).
Không thể phủ nhận những tín hiệu tốt trong quá trình xử lý nợ xấu của
toàn ngành. Thế nhưng, nhìn nhận một cách toàn diện, Nghị quyết 42
cũng không phải là đũa thần giúp giải quyết được hết tất cả vướng mắc,
quan sát cho thấy nhiều nhà băng thời gian qua vẫn còn đang rất khó
khăn, chật vật với các khoản nợ xấu lớn, đặc biệt trong việc đấu giá
TSĐB. Một số ý kiến cho rằng, việc liên tục điều chỉnh giá chào bán,
hoãn phiên đấu giá nhiều lần cho thấy định giá tài sản của các NH vẫn
còn chưa chuẩn, khiến việc xử lý nợ xấu kéo dài, mất thời gian và công
sức. Một số khác thì thêm rằng, không chỉ vấn đề xác định giá TSĐB,
NH hiện còn vướng mắc không ít ở tình trạng ách tắc khâu kê khai thuế,
nộp thuế; hay các khoản vay có liên quan đến các vụ án và đang trong
quá trình điều tra, xét xử khiến việc xử lý tài sản bảo đảm kéo dài,…
Việt Nam đứng thứ 14 thế giới về
tiêu thụ vàng
Theo số liệu thống kê của Hội đồng Vàng TG năm 2017, VN xếp thứ 14
trên TG về lượng tiêu thụ vàng trên đầu người. Người tiêu dùng VN
thường có 2 mục đích chính cho việc mua vàng. (i) Dùng vàng làm tài
sản để tiết kiệm, đầu tư; (ii) Dùng vào cho nhu cầu trang sức. Tâm lý
xem vàng là một loại tài sản có tính tiết kiệm, đầu tư vẫn còn phổ biến
tại VN. Tính về số lượng, vàng miếng và tiền vàng vẫn chiếm tới 70%
tổng tiêu thụ vàng tại VN. Tuy nhiên, con số đã này bắt đầu giảm mạnh
từ sau giai đoạn 2010-2013 khi Chính phủ ban hành các quy định nhằm
kiểm soát thị trường vàng và chấm dứt tình trạng “vàng hóa” trong hệ
thống NH. Sự đi xuống của nhu cầu vàng miếng cũng đánh dấu một
giai đoạn phát triển mới của vàng trang sức tại VN. Trong giai đoạn
2012-2017 khi quy mô thị trường vàng miếng sụt giảm với tỷ lệ tăng
trưởng kép giảm 13% thì thị trường trang sức vàng tăng trưởng kép 10%
mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêu thụ vàng trang sức/tổng tiêu thụ vàng tại
VN mới chỉ là 31%, trong khi con số này của các nước có cùng đặc
điểm dân số/văn hóa trong khu vực là trên 50% (ngoại trừ Thái Lan), cho
thấy dư địa tăng trưởng vẫn còn lớn. Các cửa hàng truyền thống vẫn
đang thống trị thị trường trang sức với 80% thị phần bán lẻ. Ngoài độ
bao phủ rộng khắp, các cửa hàng này còn có lợi thế lớn về niềm tin và
mối quan hệ với khách hàng. Do đặc tính về giá trị lớn cũng như vòng
6
đời dài của mặt hàng trang sức, khách hàng thường lựa chọn gắn bó với
những cửa hàng quen. Mặt khác, các chuỗi bán lẻ hiện đại có lợi thế về
giá bán và chất lượng đồng nhất, sản phẩm đa dạng về mẫu mã, chất
lượng phục vụ tốt hơn, thế mạnh về quảng cáo và thương hiệu. Với xu
hướng chuyển dịch thói quen mua sắm sang kênh bán lẻ hiện đại của
người tiêu dùng và yêu cầu ngày càng cao hơn về DV cũng như tính
thời trang đối với các mặt hàng trang sức, miếng bánh thị phần sẽ được
chia lại với sự mở rộng của các chuỗi bán lẻ.
7
Quản lý rủi ro đối với nợ công
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ
quản lý nợ công, trong đó, quy định về quản lý rủi ro đối với nợ công. Cụ
thể, mục tiêu quản lý rủi ro nhằm đảm bảo cơ cấu nợ công hợp lý, phù
hợp với mục tiêu, định hướng đặt ra trong kế hoạch vay, trả nợ công 5
năm đã được Quốc hội quyết định; đảm bảo khả năng trả nợ trong trung
hạn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công; giảm thiểu những
thiệt hại có thể xảy ra trong tình huống xấu nhất với chi phí phát sinh
hợp lý. Về nguyên tắc xử lý rủi ro, việc xem xét xử lý rủi ro được thực
hiện cho từng trường hợp cụ thể căn cứ vào mức độ tổn thất có thể xảy
ra và nguyên nhân dẫn đến rủi ro; việc phòng ngừa và xử lý rủi ro phải
căn cứ vào thoả thuận vay hoặc công cụ nợ gốc trong danh mục nợ
công hiện hành, nguyên nhân phát sinh rủi ro, phù hợp với quy định
pháp luật VN và thông lệ quốc tế. Việc phòng ngừa rủi ro đối với danh
mục nợ công phải thực hiện phù hợp với kế hoạch vay, trả nợ công 5
năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm và kế hoạch vay, trả nợ hằng
năm; tổ chức, cá nhân sử dụng vốn vay sai mục đích, cố ý làm trái quy
định làm phát sinh rủi ro nợ công phải chịu trách nhiệm xử lý và bồi
thường theo quy định của pháp luật. Rủi ro đối với nợ công bao gồm:
Rủi ro về LS, tỷ giá ngoại tệ do biến động trên thị trường tài chính; rủi ro
thanh khoản do thiếu các tài sản tài chính có tính thanh khoản để thực
hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết, bao gồm
khả năng trả nợ của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương;
rủi ro do biến động thị trường tài chính ảnh hưởng đến việc huy động
vốn dẫn đến phải đảo nợ với chi phí cao hoặc mất khả năng đảo nợ; rủi
ro tín dụng do đối tượng được vay lại, đối tượng được bảo lãnh không
trả được nợ đầy đủ, đúng hạn; các loại rủi ro khác có thể ảnh hưởng
đến an toàn nợ công…
Không tăng giá điện: Giải pháp
tạm thời đảm bảo lạm phát dưới
4%
Nghị quyết phiên họp Chính phủ với các địa phương và phiên họp
thường kỳ tháng 6/2018, một lần nữa nhấn mạnh nội dung “kiểm soát
lạm phát” để hỗ trợ tăng trưởng. Nghị quyết yêu cầu Bộ KH&ĐT cập
nhật các kịch bản tăng trưởng 6th cuối 2018 và Kế hoạch phát triển KT-
Kinh tế Việt Nam
8
XH năm 2019, có tính đến các diễn biến mới trên thị trường quốc tế về
giá cả hàng hóa, chu chuyển thương mại, đầu tư, tài chính. “Lạm phát
tiếp tục gia tăng trong Q.II, nối tiếp xu hướng của Q.I năm nay”, Báo
cáo KT Q.II của Viện Nghiên cứu KT và Chính sách (VEPR) nhận đinh.
Lạm phát toàn phần tăng dần từ 2,66% trong tháng 3 lên 4,67% vào
tháng 6. Tính chung 6th/2018, CPI BQ 3,29% so với cùng kỳ 2017.
Đồng thời, CPI tính đến cuối 6/2018 2,22% so với cuối 12/2017. “Việc
phục hồi giá của nhóm hàng ăn và DV ăn uống, đặc biệt là thực phẩm,
dẫn tới việc lạm phát gia tăng”, Viện trưởng VEPR, TS.Nguyễn Đức
Thành, nhận xét. Ông cho rằng, nhóm này có quyền số lớn trong rổ
hàng hóa CPI (36,12%) và đã tăng giá tới 5,1% so với cùng kỳ 2017,
mức tăng cao nhất kể từ năm 2014. Thậm chí, tới đây, đóng góp vào
CPI của nhóm hàng ăn uống dự kiến sẽ còn lớn hơn, nếu giá thực
phẩm, đặc biệt là thịt lợn, hồi phục về mức trước khủng hoảng dư cung
thịt lợn năm ngoái. Các DV công tiếp tục là nhân tố đóng góp quan
trọng cho sự gia tăng CPI trong Q.II. Việc tất cả các địa phương đã
hoàn thành tăng giá DV y tế với các đối tượng không có thẻ BHYT khiến
giá nhóm hàng thuốc và DV y tế tháng 6 12,96% so với cùng kỳ 2017,
riêng DV y tế 16,73%. Bên cạnh đó, CPI nhóm hàng giáo dục cũng
6,12% tại thời điểm cuối Q.II/2018 so với cùng kỳ 2017, trong đó DV
giáo dục 6,81%. Trong bối cảnh giá nhiên liệu trên thị trường TG
không ngừng tăng từ đầu năm 2018, giá xăng dầu trong nước cũng liên
tục được điều chỉnh tăng theo. Tính BQ 6th/2018, giá xăng dầu đã
13,95% so với cùng kỳ 2017, đóng góp 0,59% vào CPI tổng.
TS.Thành cho rằng, tới đây khi giá nhiên liệu TG không có dấu hiệu hạ
nhiệt cùng với việc thuế môi trường đánh trên xăng dầu tăng kịch trần
lên 4.000 đồng/lít, nhóm hàng giao thông, đặc biệt là xăng dầu, sẽ tiếp
tục đóng góp lớn cho mức tăng CPI chung. Trước nguy cơ lạm phát
tăng cao trong những tháng còn lại của năm 2018, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đã ra chỉ đạo không tăng giá điện trong năm nay. “Chúng tôi
đánh giá, đây chỉ là giải pháp tạm thời để đạt mục tiêu lạm phát bình
quân dưới 4% trong năm nay”. Trên thực tế, giá bán lẻ điện BQ được
điều chỉnh vào cuối tháng 11/2017, với mức giá mới là 1.720,65
đồng/kWh (chưa bao gồm VAT), 6,08% so với giá bán điện BQ hiện
hành (1.622,01 đồng/kWh). Thời điểm điểu chỉnh là 01/12/2017.
9
Nợ toàn cầu chạm kỷ lục mới:
247.000 tỷ USD
Theo báo cáo của Viện Tài chính Quốc tế (IIF), khoản nợ toàn cầu đã
chạm mức kỷ lục mới với 247.000 tỷ USD trong Q.I/2018. Theo đó, lĩnh
vực phi tài chính đã chiếm tới 186.000 tỷ USD. Tỷ lệ Nợ/GDP đã vượt
mức 318%, đánh dấu quý tăng đầu tiên trong 2 năm qua. Trong đó, nợ
của DN và hộ gia đình đã lên kỷ lục mới ở nhiều thị trường bão hòa.
Mức nợ cao chưa từng thấy này là một trong những nỗi lo của NĐT, bên
cạnh mối quan ngại về lộ trình thắt chặt CSTT của FED và tác động
của chiến tranh thương mại… Trưởng Bộ phận KT Mỹ tại Natixis nhận
định, NĐT nên lo ngại về khoản nợ DN. “KV DN đang có đòn bẩy cao
và có thể rất dễ bị tác động trước đà tăng của LS. Các công ty đã tận
dụng mức LS thấp để đi vay trên thị trường vốn và chỉ mua lại cổ phiếu
trên TTCK. Với Sự bất ổn vốn có của việc tài trợ bằng nợ thay vì vốn cổ
phần, cuộc suy thoái kế tiếp có thể tác động nặng nề tới chi tiêu đầu tư”
… Tình trạng biến động trên thị trường và áp lực lạm phát từ cuộc chiến
thương mại có thể tác động mạnh tới các tài sản. Những người vay nợ
bên ngoài nước Mỹ và các thị trường mới nổi cũng đang xem xét tới các
rủi ro cụ thể, nhất là trong bối cảnh lợi suất và LS đều gia tăng - điều
này khiến việc tái tài trợ và trả nợ bằng USD trở nên đắt đỏ hơn
Ấn Độ vượt Pháp trở thành nền
kinh tế lớn thứ 6 thế giới
Dữ liệu mới nhất World Bank cho thấy, Ấn Độ đã vượt qua Pháp trở
thành nền KT lớn thứ 6 trên thế giới. GDP 2017 của Ấn Độ đạt 2.597 tỷ
USD, vượt qua quy mô 2.582 tỷ USD của Pháp. Trong 10 năm qua,
GDP của Ấn Độ đã tăng gấp đôi nhưng nước này có tới 1,34 tỷ dân,
nhiều hơn khoảng 20 lần so với Pháp. Với dự báo tăng trưởng khoảng
7,3% trong vòng 2 năm tới, Ấn Độ đang là một trong những nền KT mới
nổi tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Dự báo tốc độ tăng trưởng của
nước này sẽ đạt khoảng 7,5% trong 2019-2020. "KT Ấn Độ hiện đang
tăng trưởng mạnh mẽ, linh hoạt và có tiềm năng tăng trưởng bền
vững".. Theo dự báo của IMF, Ấn Độ sẽ thành nền KT lớn thứ 4 thế giới
vào 2022. HSBC cho rằng, nước này có thể vượt qua Nhật và Đức để
trở thành nền KT thứ 3 thế giới trong thập kỷ tới. Dự báo này cũng nhận
được đồng tình của PricewaterhouseCoopers (PwC). Năm ngoái, PwC
Kinh tế Quốc tế
10
dự báo trong vòng 3 thập kỷ tới, KT toàn cầu sẽ bị thống trị bởi TQ và
Mỹ sẽ mất vị thế và tụt xuống sau Ấn Độ. Nga sẽ trở thành nền KT dẫn
đầu tại châu Âu, vượt qua Đức, Anh và Italy với GDP #7.000 tỷ USD.
Trung Quốc đổi chiến thuật trong
đối đầu thương mại với Mỹ
Do tầm ảnh hưởng sâu rộng của Mỹ, TQ đang chọn chiến thuật mềm
mỏng hơn, tìm kiếm các đồng minh tiềm năng từ châu Á, châu Âu và
ngay trong chính nước Mỹ để đối phó chính sách thuế quan của Tổng
thống Trump. Cụ thể, khi Mỹ áp thuế lên 34 tỷ USD hàng hóa TQ và đe
dọa đánh thuế tiếp với 200 tỷ USD hàng hóa trong vòng 2th nữa, do tầm
quan trọng của các khoản đầu tư từ Mỹ và quan hệ song phương Mỹ -
Trung, TQ chọn cách tiếp cận bình tĩnh hơn bằng việc cố gắng thu hút
đầu tư. Thặng dư thương mại khổng lồ với Mỹ khiến TQ không thể đáp
trả Mỹ thẳng tay. Các nhà đàm phán thương mại TQ tập trung tìm kiếm
các đồng minh tiềm năng. TQ đưa ra các nhượng bộ đầu tư nhằm thu
hút sự ủng hộ từ các quan chức Washington chủ trương hỗ trợ DN.
Thay vì đánh trực tiếp vào các công ty Mỹ, TQ giúp đối thủ của các DN
Mỹ tiếp cận thị trường tốt hơn. TQ thực hiện một loạt cải cách, hỗ trợ
các tập đoàn châu Âu và Nhật phát triển. Động thái này nhằm nhắc nhở
các tập đoàn Mỹ về sức mạnh chia rẽ thị trường của TQ. TQ không
muốn xua đuổi các NĐTNN hay mất những khoản đầu tư và khoản vay
mà họ đang rất cần. Các công ty Nhật và Hàn Quốc đã tránh xa TQ sau
khi bị Bắc Kinh đè bẹp do tranh chấp thương mại. Ngay cả việc đáp trả
thuế quan cũng có thể khiến lạm phát tăng vọt, gây thiệt hại cho TQ.
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/viet-nam-dung-thu-14-the-gioi-ve-tieu-thu-vang-20180712142256921.chn
http://vietnamfinance.vn/chinh-sach-tien-te-than-trong-hon-lieu-co-kim-chan-duoc-lam-phat-
20180504224209632.htm
http://cafef.vn/nhieu-ngan-hang-van-chat-vat-xu-ly-no-xau-2018071119305517.chn
https://vietstock.vn/2018/07/cuc-quan-ly-canh-tranh-yeu-cau-cac-ngan-hang-bao-cao-viec-dong-
loat-tang-phi-rut-tien-qua-atm-757-615815.htm
http://cafef.vn/ngan-hang-lai-thua-tien-20180712144731921.chn
Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/quan-ly-rui-ro-doi-voi-no-cong-2018071209034823p4c145.news
http://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/khong-tang-gia-dien-giai-phap-tam-thoi-dam-bao-lam-phat-
duoi-4-3324887/
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/07/no-toan-cau-cham-ky-luc-moi-247-ngan-ty-usd-772-615646.htm
http://ndh.vn/an-do-vuot-phap-tro-thanh-nen-kinh-te-lon-thu-6-the-gioi-
2018071207355281p4c145.news
http://ndh.vn/trung-quoc-doi-chien-thuat-trong-doi-dau-thuong-mai-voi-my-
2018071201173915p145c151.news
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO