hoav - sacombank.com.vn tin Kinh te... · lượng tối thiểu là 70, tiếp tục nâng tỷ...
Transcript of hoav - sacombank.com.vn tin Kinh te... · lượng tối thiểu là 70, tiếp tục nâng tỷ...
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam
đang ghi nhận những thay đổi rất tích cực. Các nhà
đầu tư đang ưa thích trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn
dài hơn là kỳ hạn ngắn. Việc trái phiếu Chính phủ kỳ
hạn 20-30 năm được phát hành và giao dịch trên thị
trường thứ cấp có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị
trường tài chính của Việt Nam. Theo đó đường cong
lợi suất sẽ được hoàn chỉnh với đầy đủ các kỳ hạn từ
1-30 năm như thông lệ quốc tế. Đây sẽ là các mức
lợi suất cơ sở để làm tham chiếu cho các giao dịch
kinh tế tại Việt Nam.
Tin nổi bật
“Gió” đang đổi chiều trên thị trường TPCP
Ngày 21/7 ra mắt rổ chỉ số 50 công ty tốt nhất
trên TTCK
Bộ Tài chính dự báo nợ công Việt Nam có thể
đạt đỉnh vào năm nay
Tập đoàn tư nhân phải là trụ cột kinh tế!
PMI tháng 5 đạt 51,6 điểm, đà tăng trưởng sản
xuất chậm lại
Trung Quốc - Chỉ số PMI tháng 5 đạt 51,2 điểm,
đánh dấu tháng thứ 10 liên tiếp trên ngưỡng 50
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 31/05)
HOSE 737,82 0,05%
HNX 93,91 0,72%
D,JONES CK Mỹ 21.008,65 0,10%
STOXX CK C,Âu 3.554,59 0,19%
CSI 300 CK TQ 3.492,88 0,36%
Vàng (cập nhật lúc 08h15 ngày 01/06)
SJC Ng,đ/L 36.430 0,05%
Quốc tế USD/Oz 1.272,00 0,78%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22,396 - 0,00%
EUR/USD 1,1234 0,54%
Dầu
WTI USD/th 48,69 1,95%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Ba phiên liền ngân hàng không cần
“vay nóng”
Ngày 30/5, thị trường LNH và ở nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục phản ánh
trạng thái vốn thuận lợi của hệ thống thời gian gần đây. Nối tiếp xu hướng thể
hiện rõ trong 1 tháng qua, LS VND trên thị trường LNH giảm khá mạnh và về
mức thấp. Theo tổng hợp từ Khối nghiên cứu Maritime Bank, ngày 30/5, LS
chào BQ LNH VND tiếp tục 0,08-0,32 điểm % ở hầu hết các kỳ hạn, riêng kỳ
hạn 1 tuần vẫn không thay đổi phiên thứ 10 liên tiếp. Cụ thể, LS qua đêm tiếp
tục giảm xuống còn 2,42%, chỉ còn bằng ½ sv “mặt bằng” quanh 5%/năm cuối
Q.I đầu Q.II; kỳ hạn 1 tuần giữ ở 4,08%/năm; 2 tuần 3,06% và 1 tháng 3,52%.
Cùng với xu hướng giảm mạnh của LS trên LNH thời gian gần đây, ở nghiệp vụ
thị trường mở, NHNN gần như đã không còn phải bơm vốn điều tiết hỗ trợ
thanh khoản cho hệ thống - hoạt động kéo dài với quy mô lớn sau Tết Nguyên
đán. Ngày 30/5 đánh dấu phiên thứ 3 liên tiếp NHNN chào thầu 1.000 tỷ đồng
trên kênh cầm cố với kỳ hạn 7 ngày và không có khối lượng trúng thầu. Trong
ngày, có 796 tỷ đồng đáo hạn. Theo đó, NHNN hút ròng 796 tỷ đồng, đưa khối
lượng lưu hành trên kênh cầm cố giảm xuống mức chỉ còn 379 tỷ đồng.
“Gió” đang đổi chiều trên thị trường
TPCP
Trên thị trường tài chính, các khoản đầu tư có thời gian càng dài thì rủi ro càng
cao, đặc biệt là TPCP được phát hành ở các nước đang phát triển như VN. Bởi
lẽ, tính ổn định của nền KTVM rất thấp. Do đó, KBNN huy động được khối
lượng rất ít TPCP có thời hạn trên 10 năm. Tuy nhiên, thị trường TPCP của VN
đang ghi nhận những thay đổi rất tích cực. NĐT đang ưa thích TPCP có kỳ hạn
dài hơn là kỳ hạn ngắn. Việc phát hành TPCP kỳ hạn 20 và 30 năm mới chỉ
được KBNN triển khai thí điểm vào 2016 nhưng hiện tại đây là 2 kỳ hạn thu hút
rất nhiều sự quan tâm của NĐT. Từ đầu năm 2017 đến nay, NĐT trên thị
trường sơ cấp chỉ đầu tư vào các kỳ hạn từ 5 năm trở lên, TPCP có kỳ hạn
càng dài thì tỷ lệ trúng thầu càng lớn. Đây là diễn biến trái ngược hoàn toàn sv
các năm trước… Theo thông tin từ các traders của các NH (nhân viên KD vốn)
thì cầu về TPCP kỳ hạn trên 10 năm hiện nay chủ yếu đến từ 3 nhóm NĐT
chính là nhóm các ĐCTC quốc tế (NH và các cty bảo hiểm nhân thọ), các quỹ đầu
tư cả trong và ngoài nước đang đầu tư tại VN và các cty bảo hiểm nhân thọ
cũng như các NHTM tại VN. Đây là câu hỏi mà các thành viên thị trường đang
rất quan tâm để có thể đánh giá chính xác về diễn biến của lợi suất TPCP
trong thời gian tới. Nhìn tổng thể thị trường tài chính toàn cầu cũng như của VN
hiện nay thì có thể chỉ ra 3 yếu tố chính, gồm: (i) Uy tín quốc gia được cải
thiện. Sau Moody’s, đến lượt Fitch nâng triển vọng tín nhiệm của VN từ “ổn
định” lên “tích cực”; (ii) Sự phát triển mạnh mẽ của các quỹ đầu tư cả trong và
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
ngoài nước. Số lượng các quỹ được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn trong
thời gian tới khi TTCK phái sinh của VN chính thức được vận hành vào tháng
6/2017; (iii) Chênh lệch giữa LS trên thị trường mở (OMO) và TPCP kỳ hạn dài
đang ở mức rất hấp dẫn. Do vậy, nếu các yếu tố vĩ mô chính (tỷ giá và lạm phát)
của VN tiếp tục được duy trì ổn định như hiện nay thì các NHTM VN đều có thể
thu được LN từ sự chênh lệch LS. Theo đó, họ vay vốn trên OMO với giá
5%/năm và đầu tư vào TPCP với lợi suất trên 7%/năm.
Ngày 21/7 ra mắt rổ chỉ số 50 công ty
tốt nhất trên TTCK
HOSE công bố QĐ liên tịch ban hành quy tắc XD và quản lý bộ chỉ số VNX-
Index. Theo đó, bộ chỉ số VNX-Index là những chỉ số giá thể hiện biến động
giá cổ phiếu của cty niêm yết trên HOSE và HNX đáp ứng tư cách và điều kiện
sàng lọc tham gia vào các chỉ số, nhằm cung cấp cho NĐT thông tin đầy đủ và
toàn diện về TTCK VN. Bộ chỉ số VNX-Index gồm chỉ số VNX AllShare và một
chỉ số mới là VNX 50… Chỉ số VNX 50 là chỉ số được XD từ rổ cổ phiếu thành
phần của VNX AllShare, gồm 50 cty có giá trị vốn hóa và giá trị giao dịch hàng
đầu đáp ứng các điều kiện một số điều kiện. Cụ thể, các cổ phiếu thuộc chỉ số
VNX AllShare sẽ được lựa chọn vào rổ chỉ số VNX 50 sẽ có các điều kiện là có
tỷ suất quay vòng CK ≥0,02%. Tỷ lệ free float của các cổ phiếu trong rổ VNX50
phải >5%. Giới hạn tỷ trọng vốn hóa của mỗi cổ phiếu trong rổ chỉ số là 10%...
Các cổ phiếu này thuộc tập hợp 85% GTGD tích lũy trong danh mục VNX
AllShare sẽ được sắp xếp theo thứ tự giảm dần về giá trị vốn hóa. Trường hợp
có 2 cổ phiếu trở lên có GTVH bằng nhau, vị trí của các cổ phiếu được xếp
theo thứ tự giảm dần về GTGD. Trường hợp tập hợp cổ phiếu chưa đủ số
lượng tối thiểu là 70, tiếp tục nâng tỷ lệ tích lũy theo bước 1 điểm % đến khi đạt
đủ số lượng tối thiểu. Chỉ số VNX 50 sẽ được xem xét định kỳ thay đổi cổ
phiếu thành phần chỉ số vào tháng 4 và tháng 10 hàng năm. Việc cập nhật
thông tin khối lượng lưu hành, free-float của cổ phiếu thành phần được thực
hiện trong tháng 1, 4 , 7 và 10 hàng năm. Các thay đổi sẽ có hiệu lực từ ngày
thứ 2 lần thứ 4 của tháng 1, 4, 7 và 10. Ngày cơ sở áp dụng chỉ số VNX50 là
21/7. Giá trị chỉ số cơ sở chính là giá đóng cửa của VNX Allshare tại 21/7/2017.
SSI, HCM, VPBS là 3 CTCK đầu tiên
được chấp thuận là thành viên giao
dịch phái sinh
Ngày 30/5, HNX đã chấp thuận thành viên giao dịch TTCK phái sinh cho CTCP
CK NHTMCP VN Thịnh Vượng, CTCP CK Tp.HCM, CTCP CK Sài Gòn. Đây là
3 CTCK đầu tiên trên TTCK được chấp thuận là thành viên giao dịch TTCK
phái sinh của HNX. Ba CTCK này sẽ được kết nối giao dịch trực tuyến, giao
dịch từ xa TTCK phái sinh với HNX… Theo quy định, các CTCK, NHTM muốn
trở thành thành viên TTCK phái sinh ngoài việc đáp ứng các y/c về VĐL và tình
hình tài chính cần có hạ tầng CNTT đáp ứng quy định về hạ tầng CNTT kết nối
đến SGDCK và đảm bảo y/c kết nối với hệ thống giao dịch CK phái sinh của
SGDCK. Ngoài ra, các CTCK, NHTM cần có phần mềm phục vụ giao dịch,
thanh toán đáp ứng y/c kỹ thuật; đáp ứng các quy định về quy trình nghiệp vụ..
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Băn khoăn việc gạt nợ DNNN ra khỏi
nợ công
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa đặt câu hỏi này tại phiên thảo luận tổ ở QH về dự
án Luật quản lý nợ công (sửa đổi) chiều 30/5: “Hiện nay có chủ trương là nếu nợ
của DNNN mà không do Nhà nước bảo lãnh, không phải do Nhà nước cho vay
lại thì không đưa vào nợ công. Nhưng các DNNN đều do Nhà nước quyết hết
về nhân sự, phải chấp hành lo kinh phí cho hệ thống chính trị trong DN. Cho
nên toàn bộ hiệu quả trong DNNN là Nhà nước chịu”. Đã nói DNNN là có vai
trò tác động nhất định trong địa phương, trong ngành, trong nền KT nên nếu
nói Nhà nước không chịu trách nhiệm gì cả là không ổn. “DN đó vay nợ, phá
sản thì Nhà nước có đứng yên được không? Đừng nói DNNN, ngay DNTN có
500-700 công nhân phá sản thì Nhà nước cũng không thể ngồi yên, không thể
không làm gì cả. Huống chi là DNNN phá sản, rồi đất đai bị phát mãi, công
nhân, một bộ phận cán bộ là trong biên chế”. Ông dẫn ra số nợ của DNNN
năm 2016 là 324 tỷ USD, bằng 158% GDP, nếu coi đây là nợ công thì tổng nợ
công sẽ lên đến 431 tỷ USD, bằng 210% GDP và cho biết ở nhiều nước, nợ
DNNN thì nhà nước vẫn phải chịu. “Việc trong dự luật này gạt hẳn nợ DNNN ra
khỏi nợ công, theo nghĩa DN tự vay tự trả là cách xử lý quá đơn giản, phải có
một cách xử lý khác”… Theo ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai, hiện nay có nhiều ý kiến
băn khoăn cho rằng nợ của DNNN nhất định phải đưa vào điều chỉnh trong
phạm vi của nợ công. Nếu như quy định khoản nợ của DNNN thuộc phạm vi
điều chỉnh của luật thì đồng nghĩa với việc khẳng định trách nhiệm pháp lý của
DNNN đối với khoản nợ đó, đồng thời cũng khẳng định việc Nhà nước phải
đứng ra trả nợ trong trường hợp DN không trả được nợ. “Điều này sẽ tạo hệ
quả pháp lý bất lợi dẫn đến nguy cơ phát sinh tiềm ẩn nghĩa vụ trả nợ của Nhà
nước trong trường hợp DN mất khả năng thanh toán. Đó là điều vô cùng nguy
hiểm. Thực tế đã có trường hợp chúng ta đã phải trả nợ thay như vụ của
Vinashin! Chúng ta phải hết sức thận trọng khi xem xét vấn đề này”… Theo
ĐBQH Hoàng Văn Cường, nên thống nhất một đầu mối quản lý nợ công,
không nên phân tán ra nhiều bộ. Hiện có 3 cơ quan (Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT,
NHNN) quản lý 3 mảng rất đúng chức năng và cũng chuyên sâu, kết quả vay
rất tốt, huy động được nhiều vốn. Tuy nhiên hiện phải quản lý chặt, nhất là
trách nhiệm trả nợ thì cần một đầu mối quản lý để tính đến việc trả nợ. “Dự
thảo mới này quy định rất rõ trách nhiệm và tôi đồng tình với việc để một cơ
quan quản lý làm đầu mối, chịu trách nhiệm đến cùng việc trả nợ, và chính cơ
quan này quyết định việc đi vay”. Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai cũng nêu quan điểm
đồng tình với việc “Phải bảo đảm tập trung thống nhất một đầu mối về nợ công,
sớm khắc phục tình trạng quản lý đầu tư công, nợ công chồng chéo”…
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Bộ Tài chính dự báo nợ công Việt Nam
có thể đạt đỉnh vào năm nay
Ngày 31/5, đại diện Bộ Tài chính cho biết mức nợ công tới thời điểm cuối năm
2016 của VN ở mức 63,7% GDP trong đó nợ Chính phủ là 52,6%. Tuy nhiên,
đây chưa phải là mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020. Đỉnh nợ công sẽ rơi
vào 2017-2018 và có thể giảm dần trong những năm sau đó. Cụ thể, với giả
định mức tăng trưởng KT là 6,7%-7% thì nợ công vào 2017 sẽ lên tới 64,8%
GDP. Tới 2018, mức nợ công vẫn ở ngưỡng cao là 64,7% GDP. Sau đó, tới
2020, nợ công có thể lùi về mức 63,7% GDP. Tuy nhiên, đây là kết quả dựa
trên giả định còn mức cụ thể sẽ tùy tình hình KT của từng năm mà có thể thay
đổi. Bộ Tài chính và Chính phủ sẽ có các biện pháp để tái cơ cấu ngân sách,
nợ công để đảm bảo nợ công tất cả các năm không vượt quá 65% GDP. Trong
khi nợ công đang ngày sát trần, VN sẽ chính thức phải dừng nhận vốn vay ưu
đãi của Hiệp hội phát triển Quốc tế (IDA) thuộc World Bank từ tháng 7/2017.
Ngoài vốn của IDA, phía WB vẫn còn nguồn vốn khác như vốn từ NH Quốc tế
về Tái thiết và Phát triển (IBRD), một đơn vị trực thuộc WB. Ngoài ra, một số
nhà tài trợ khác vẫn đang cung cấp các khoản vay cho VN với mức độ ưu đãi
nhất định. Tuy vậy, những nhà tài trợ khác có thể cung cấp vốn ưu đãi cho VN
nhưng quy mô không lớn. LS các khoản vay ODA trong giai đoạn tới 2010 chỉ
khoảng 1%. Tuy nhiên, hiện tại, mức lãi đã ở mức 1%-1,5%.
Tập đoàn tư nhân phải là trụ cột kinh
tế!
“Trong 5 năm tới, phải bàn nhiều hơn để phát triển những tập đoàn lớn vì
chính họ là động lực rất mạnh để phát triển DN’’, TS.Trần Đình Thiên nhận
định khi trao đổi về định hướng phát triển KT tư nhân tại VN. Theo đó, phải tạo
lập một thị trường mà trong đó các tập đoàn KT tư nhân sẽ đóng vai trò trụ cột.
Đi cùng với đó là hệ thống chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
KV KT tư nhân… Sau 30 năm, nền công nghiệp VN chưa tạo ra được sản
phẩm gì đáng kể buộc chúng ta phải nhìn nhận thẳng vào một sự thật khác,
cũng đáng buồn không kém, là DNTN đang còn rất yếu, chưa thể trở thành
một động lực quan trọng của nền KT như kỳ vọng. Cần phải tạo điều kiện cho
tập đoàn KT tư nhân phát triển, lớn mạnh để làm trụ cột cho khối DN này. Số
lượng DN của VN (477.808 DN tính đến 31/12/2016) không phải là ít, sv quy mô
dân số cũng như trình độ phát triển KT hiện tại. Thế nhưng, chúng ta lại không
thấy lực lượng DN Việt thể hiện một cách rõ rệt. Điều này có 2 lý do: (i) Chiếm
đến 97% tổng số DN là DNVVN, trong đó gần 60% có quy mô rất nhỏ, vốn
cũng như điều kiện kỹ thuật rất lạc hậu. Thực lực yếu cộng với việc DN không
tạo nên được chuỗi liên kết với nhau và liên kết với nước ngoài dưới danh nghĩa
DN Việt nên dù số lượng không nhỏ, DN không tạo được sức mạnh như đàn
kiến, cố kết với nhau tạo thành một quả cầu để băng qua suối. Đồng nghĩa,
chúng ta không đủ năng lực để cạnh tranh; (ii) VN thiếu những DN đầu đàn,
những trụ cột, để các DN nhỏ liên kết vào, tạo thành một thế lực. Ở VN, kể cả
nhiều DN lớn có tạo thêm được một vài DN thì cũng chỉ thuộc phạm vi những
63,7%
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
DN, tập đoàn ấy. Như vậy, cả về trụ cột lẫn năng lực liên kết, các DN Việt đều
thiếu. Trong khi đó, thực tế hiện nay ghi nhận nỗ lực của các nhà quản lý trong
các chính sách để tăng số lượng DNVVN mới thành lập. Tuy nhiên, Q.I/2017,
cả nước có 26.478 DN đăng ký thành lập mới nhưng có tới 23.904 DN đã giải
thể, #10 DN khai sinh thì 9 DN khai tử… Điều đáng lo ngại không kém là cách
tiếp cận vấn đề như vậy có thể mang tới những rủi ro cho những nỗ lực thúc
đẩy nội lực của KT VN. Bởi một nền KT chỉ có những nguồn lực nhất định về
không gian chính sách, tiếp cận tín dụng..., càng nhiều DN trông vào đó, cơ hội
của DN mới thành lập càng ít đi. Thực tế, tỷ trọng đóng góp GDP của KT tư
nhân luôn lớn nhất sv các thành phần KT khác và duy trì ổn định ở mức 39-
40%. Tuy nhiên, theo số liệu của Ban KTTW, tốc độ tăng trưởng GDP của KT
tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây (2003-2010 là 11,93%;
2011-2015 là 7,54%) có đến 97% DNTN có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, tỷ lệ thua
lỗ, phá sản còn khá cao, BQ 2007-2015 là 45%. “Tư duy ở đây nên là làm cho
nền KT trưởng thành lên bằng cách làm cho DN lớn lên chứ không phải lúc nào
cũng chỉ là những DN mới thành lập. Từ cách tiếp cận ấy, ví dụ, song song với
việc đặt mục tiêu có 500.000 DN vào 2020 của Tp.HCM, phải thêm một mục
tiêu nữa là tạo nên 50 hay 100 DN thật lớn”…
Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam kỳ
vọng tích cực
Kết quả khảo sát chỉ số môi trường KD (BCI) Q.I/2017 công bố ngày 29/5 của
Hiệp hội DN châu Âu (Eurocham) tại VN tiếp tục cho thấy những kỳ vọng tích
cực của các DN châu Âu vào môi trường KD tại VN. Cụ thể, theo khảo sát,
cảm quan của DN châu Âu và liên kết với thị trường châu Âu tại VN về các
điều kiện KD có phần tích cực. Có 67% DN phản hồi tình hình KD hiện tại là
"rất tốt" và "tốt", 5% sv quý trước. Trong khi số lượng phản hồi "không tốt" và
"rất tệ" lần lượt là 9%, 3%. Về triển vọng KD Q.II, 9% phản hồi "rất tốt" và 60%
phản hồi “lạc quan” ở mức độ vừa phải. Lạm phát đã không còn là mối quan
ngại lớn khi 77% DN phản hồi tin rằng lạm phát sẽ "không ảnh hưởng" (17%)
hoặc “ảnh hưởng không đáng kể” (60%, chiếm đa số phản hồi). Số DN phản hồi
cho rằng lạm phát có thể có "tác động đáng kể" là 23% và không có DN nào
phản hồi lạm phát có thể đe dọa hoạt động KD của họ. Số lượng DN phản hồi
có ý định duy trì mức đầu tư hiện tại chiếm 42% trong tổng số câu trả lời, 2%
sv Q.IV/2016. Tuy nhiên, số lượng DN phản hồi dự định tăng đầu tư vẫn còn
rất lớn, số lượng phản hồi “tăng mạnh” 4% và số lượng phản hồi “tăng nhẹ”
6%. Chủ tịch EuroCham cho rằng, kết quả khảo BCI Q.I tiếp tục cho thấy
những kỳ vọng tích cực từ các thành viên của EuroCham đối với VN…
PMI tháng 5 đạt 51,6 điểm, đà tăng
trưởng sản xuất chậm lại
Chỉ số nhà quản trị mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) toàn phần
lĩnh vực SX đã giảm từ 54,1 điểm của tháng 4 xuống 51,6 điểm trong tháng 5.
Mặc dù chỉ số tiếp tục cho thấy các điều kiện KD đã cải thiện trong lĩnh vực SX
nhưng tốc độ cải thiện là yếu nhất kể từ tháng 3/2016. Tốc độ tăng SX ngành
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
SX VN trong tháng 5 đã chậm lại thành mức thấp của 4 tháng. Cụ thể, đà tăng
trưởng của lĩnh vực SX đã chậm lại trong tháng 5. Cả sản lượng và số lượng
đơn đặt hàng mới đều tăng chậm hơn nhiều, trong khi tốc độ tạo thêm việc làm
cũng giảm. Trong khi đó, mức độ lạc quan đã giảm về mức thấp nhất trong gần
4 năm. Những dấu hiệu của mức tăng trưởng chậm hơn cũng thể hiện qua các
quyết định tuyển dụng nhân công. Việc làm đã tăng tháng thứ 14 liên tiếp, mặc
dù tốc độ tăng là chậm nhất kể từ tháng 7/2016. Trong khi đó, lượng công việc
tồn đọng đã tăng nhẹ sau khi giảm nhẹ trong tháng 4. Số lượng đơn đặt hàng
mới tăng chậm hơn đã góp phần làm tăng tồn kho hàng thành phẩm trong
tháng 5 vì các hạng mục hàng hóa được lưu trong kho thay vì chuyển giao cho
khách hàng. Tốc độ tăng chi phí đầu vào trong tháng 5 đã chậm lại tháng thứ
hai liên tiếp và là chậm nhất kể từ tháng 6/2016. Bình luận về dữ liệu khảo sát
PMI ngành SX, Cty thu thập kết quả khảo sát Markit cho biết: "Tăng trưởng
trong lĩnh vực SX của đã giảm trong tháng 5. Cả sản lượng và số lượng đơn
đặt hàng mới đều tăng với tốc độ yếu hơn nhiều và các cty giảm số lượng
tuyển dụng nhân công tương ứng. Trong khi tất cả những tham số này vẫn
nằm trong vùng tăng trưởng, mức độ lạc quan đã giảm thành mức thấp nhất
trong gần 4 năm. Điều này cho thấy một số nhà SX quan ngại về tình trạng suy
giảm có thể sắp diễn ra. Một nhân tố trợ giúp cho các cty trong tháng 5 là tốc
độ giảm chi phí tiếp tục chậm lại, nhờ đó các cty có thể dễ dàng hơn trong việc
giảm giá cả đầ u ra để kích thích nhu cầu của khách hàng"….
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Trung Quốc - Chỉ số PMI tháng 5 đạt
51,2 điểm, đánh dấu tháng thứ 10 liên
tiếp trên ngưỡng 50
Chỉ số PMI tháng 5 đạt 51,2 điểm, mức điểm này cao hơn mức 51 điểm theo
kỳ vọng của các nhà phân tích và tương đương mức điểm của tháng 4. Đây
cũng là tháng thứ 10 liên tiếp PMI TQ đạt điểm trên mốc 50, báo hiệu hoạt
động SX công nghiệp của nước này tiếp tục được mở rộng. Số liệu trên cũng
phần nào cho thấy các nhà hoạch định chính sách của quốc gia này đã thành
công trong việc ổn định nền KT, tránh được kịch bản hạ cánh cứng, trong bối
cảnh Chính phủ vẫn đang từng bước xử lý bong bóng nợ từ các gói kích thích
KT khổng lồ trước đó. Ở một khía cạnh khác, các động thái mới đây của Chính
phủ TQ trong nỗ lực làm giảm thiểu rủi ro hệ thống tài chính đã khiến chi phí đi
vay gia tăng, ảnh hưởng đến tăng trưởng. Theo ANZ, LS cho vay trung bình ở
TQ 30 điểm cơ bản trong vài tháng trở lại đây. Đây mới chỉ là giai đoạn đầu
trong tiến trình xử lý bong bóng nợ của Chính phủ, nhiều khả năng tăng trưởng
sẽ còn bị ảnh hưởng mạnh hơn nữa khi các động thái mạnh mẽ hơn của Chính
phủ tiếp tục được thực thi. Mới đây, Moody hạ xếp hạng tín nhiệm của TQ lần
đầu tiên trong vòng 30 năm với lý do tổ sức mạnh tài chính của nền KT sẽ bị
giảm sút trong những năm tới khi tăng trưởng chậm lại và nợ tiếp tục tăng.
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số http://www.hsx.vn/
http://hnx.vn/web/guest/home
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/
http://www.bloomberg.com/markets/commodities/futures/
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tài chính - NH http://cafef.vn/ba-phien-lien-ngan-hang-khong-can-vay-nong-20170531113651187.chn
http://ndh.vn/ssi-hcm-vpbs-la-3-ctck-dau-tien-duoc-chap-thuan-la-thanh-vien-giao-dich-phai-sinh-
20170531010824737p4c146.news
http://www.thesaigontimes.vn/160423/Gio-dang-doi-chieu-tren-thi-truong-TPCP.html
http://ndh.vn/21-7-ra-mat-ro-chi-so-50-cong-ty-tot-nhat-tren-ttck-20170531051425665p4c146.news
Tin KT vĩ mô http://vietstock.vn/2017/05/ban-khoan-viec-gat-no-dnnn-ra-khoi-no-cong-761-539455.htm
http://ndh.vn/dn-chau-au-tai-viet-nam-ky-vong-tich-cuc-20170531091312139p145c151.news
http://nhipcaudautu.vn/kinh-te/tap-doan-tu-nhan-phai-la-tru-cot-kinh-te-3319031/
http://ndh.vn/bo-tai-chinh-du-bao-no-cong-viet-nam-co-the-dat-dinh-vao-nam-nay-
2017053108074891p145c151.news
http://vietstock.vn/2017/06/pmi-thang-5-dat-516-diem-da-tang-truong-san-xuat-cham-lai-768-539577.htm
Tin KT Quốc tế http://ndh.vn/chi-so-pmi-thang-5-cua-trung-quoc-dat-51-2-diem-danh-dau-thang-thu-10-lien-tiep-tren-nguong-
50-20170531065647592p145c151.news
https://tradingeconomics.com/china/business-confidence
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
BĐS BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NHNN NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NSNN NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NK NK
Dự án DA SX KD SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký KD ĐKKD TCTD TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu DN TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN TTCK TTCK
KT vĩ mô KTVM VN VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
KV KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED XK XK
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
KV sử dụng đồng euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO