Ho t Nam- Nhìn lại năm 2011 và một s giải pháp cho năm 2012...
Transcript of Ho t Nam- Nhìn lại năm 2011 và một s giải pháp cho năm 2012...
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 1
Hoạt động ngân hàng Việt Nam- Nhìn lại năm 2011 và một số giải pháp cho năm 2012
NGND. PGS. TS. Tô Ngọc Hưng
ThS. Nguyễn Đức Trung
Trong bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới năm 2011 với những nét cơ bản gồm “tăng
trưởng chậm, không cân bằng và luôn bất ổn”, nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi
tình trạng tăng trưởng thấp đi kèm với lạm phát cao. Trong bối cảnh đó, ngành Ngân hàng
Việt Nam cũng đã trải qua một năm đầy khó khăn. Ngay từ đầu năm 2011, thực hiện tinh thần
Nghị quyết 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã điều hành
chính sách tiền tệ với mục tiêu trọng tâm là kiềm chế lạm phát. Một số kết quả nổi bật đã đạt
được như: (i) Tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán đạt chỉ tiêu đề ra; (ii) các
biện pháp có tính hành chính như trần lãi suất huy động đã giải quyết một số bất ổn vĩ mô
trước mắt; (iii) dòng vốn tín dụng bước đầu đã được định hướng tốt hơn vào khu vực sản xuất
nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như sản xuất hàng xuất khẩu; (iv) thị
trường ngoại tệ và điều hành chính sách tỷ giá có nhiều chuyển biến tích cực; (v) việc kiểm
soát hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) được cải thiện thông qua những đổi mới
trong điều hành của NHNN như việc xây dựng nhóm G12, và tăng cường kỷ cương của thị
trường tài chính ngân hàng…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu kể trên, vẫn còn một số những tồn tại cố hữu
trong hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam. Bài viết phân tích các tồn tại trong hoạt
động của hệ thống NHTM Việt Nam năm 2011 và đưa ra một số giải pháp cho năm 2012.
1. Những tồn tại trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam năm 2011
Những bất cập chính trong hoạt động của các NHTM Việt Nam tựu trung gồm: (i) Tốc độ
tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng chậm lại nhưng không đi kèm với nâng cao chất lượng tín
dụng; (ii) Huy động vốn khó khăn và thanh khoản trở thành mối quan ngại sâu sắc với hệ
thống ngân hàng; (iii) Khả năng sinh lời của hệ thống NHTM thấp; (iv) Giám sát an toàn hệ
thống ngân hàng của NHNN còn có những bất cập.
1.1. Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng chậm lại nhưng không đi kèm với nâng
cao chất lượng tín dụng
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô năm 2011 nhiều khó khăn và ngành Ngân hàng quyết liệt thực
hiện Nghị quyết 11/NQ-CP, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng của các NHTM đã suy
giảm nhiều so với những năm trước (Hình 1 và 2). Nguyên nhân thứ nhất là do các NHTM
buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tăng trưởng tín dụng trong cả năm 2011 là dưới 20%.
Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái và những dự báo bi quan về triển vọng phục hồi, nhu cầu
vay vốn kinh doanh của các doanh nghiệp và vay vốn tiêu dùng của các cá nhân đều sụt giảm
là nguyên nhân thứ hai. Hơn nữa, do lãi suất cho vay tăng lên quá cao, có thời điểm trên
25%/năm, đã vượt quá khả năng chịu đựng của khách hàng. Việc áp dụng chung cho tất cả
các ngân hàng mức tăng trưởng tín dụng dưới 20% là chưa phù hợp với thực trạng của từng
ngân hàng: Các ngân hàng lành mạnh có thể tăng trưởng cao hơn nhưng vẫn đảm bảo an toàn,
trong khi các ngân hàng yếu kém cần hạn chế mở rộng tín dụng.
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 2
.Hình 1. Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản tính
đến tháng 9/2011
Hình 2. Tốc độ tăng trưởng tín dụng tính đến
tháng 9/2011
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM.
Ngoài ra, phải kể đến việc NHNN áp dụng tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất trên tổng dư
nợ xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011, khiến cho những nhu cầu vay vốn
khác của người dân như mua nhà để ở, xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp… không
được đáp ứng khi tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản xuất của NHTM đã đạt tỷ lệ quy định. Đây
là một thực tế khó khăn đối với các NHTMCP quy mô nhỏ, do vừa phải tăng vốn điều lệ lên
mức tối thiểu theo quy định là 3.000 tỷ đồng nhưng không thể mở rộng tín dụng, khiến cho
hiệu quả sinh lời bị ảnh hưởng rõ rệt. Chỉ đến giữa tháng 11/2011, NHNN mới ban hành văn
bản loại trừ bốn nhóm dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các
NHTM mở rộng cho vay các nhu cầu kể trên.
Xét trên góc độ vĩ mô, mở rộng tín dụng quá mức giảm lợi ích biên của tín dụng với nền kinh
tế Việt Nam. Tốc độ mở rộng tín dụng của Việt Nam kể từ năm 2007 đã tăng nhanh hơn rất
nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP (Hình 3). So với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ
Tín dụng/GDP của Việt Nam có sự biến động mạnh trong suốt thập niên đầu thế kỉ 21, khi
tăng từ 44,8% GDP lên mức 135,8% GDP năm 2010 (Hình 4). Từ năm 2007, khi tín dụng
vượt quá GDP, nền kinh tế Việt Nam đã liên tiếp phải đối mặt với nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô.
Nhằm đánh giá tác động của việc gia tăng tín dụng với tốc độ cao tới tăng trưởng kinh tế Việt
Nam, chúng tôi đã xây dựng mô hình kinh tế lượng có dạng sau:
Hình 3. Tăng trưởng GDP, tín dụng và
tỷ lệ Tín dụng/GDP của Việt Nam
Hình 4. Tỷ lệ Tín dụng/GDP của một số
quốc gia giai đoạn 2001-2010
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 3
Nguồn: ADB statistics, Tổng cục Thống kê.
Số liệu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tín dụng (DC), chi tiêu chính phủ (GE), lạm phát
(CPI) được thu thập từ Tổng cục Thống kê theo quý, từ quý 1/2004 đến quý 2/2011. Biến giả
DU bằng 0 khi tỷ lệ Tín dụng/GDP nhỏ hơn 100% và bằng 1 khi tỷ lệ Tín dụng/GDP lớn hơn
100%. Nhằm loại bỏ các hồi quy giả mạo trong các phương trình, chúng tôi thực hiện kiểm
định tính dừng Augumented Dickey- Fuller với tất cả các biến trong mô hình, độ trễ trong
kiểm định được lựa chọn theo tiêu chuẩn Schwarz Information. Kết quả kiểm định cho thấy
khi lấy sai phân bậc nhất thì các chuỗi dữ liệu đều là các chuỗi dừng với mức ý nghĩa 1%, 5%
và 10%. Hồi quy mô hình bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất với các biến trễ từ một
quý tới ba quý, các biến không có ý nghĩa thống kê bị loại bỏ cho kết quả như sau:
Thời kỳ tỷ lệ Tín dụng/GDP nhỏ hơn 100%:
(2,713685)**1
(-1,858623) *
(2,289505)
** ( 2,317125)
** (-2,348098)
**
(2,717401) **
(3,234798) **
(-2,587218) **
Thời kỳ tỷ lệ Tín dụng/GDP lớn hơn 100%:
(2,713685)
** (-1,858623)
*
(2,289505) **
(2,317125) **
(-2,348098) **
(2,717401)
** (3,234798)
** (-2,587218)
**
Các phương pháp kiểm định khuyết tật cho thấy mô hình không có khuyết tật phương sai sai
số thay đổi, tự tương quan và phần dư có phân phối chuẩn. Qua phân tích kết quả của mô hình
1 *, **: ở mức ý nghĩa 1% và 5%
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 4
có thể thấy mở rộng tín dụng có tác động làm tăng GDP do tổng các hệ số tín dụng ảnh hưởng
tới GDP là dương. Tuy nhiên, khi tín dụng vượt quá GDP thì đóng góp của tín dụng bị giảm
xuống, thể hiện ở biến giả DU mang dấu âm. Theo nhận định của chúng tôi, tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 trở lại đây dựa chủ yếu vào mở rộng đầu tư, trong đó
tín dụng là kênh chủ yếu bên cạnh đầu tư công và đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư tăng cao hơn
mức độ tiết kiệm của nền kinh tế đi kèm với việc sử dụng vốn không hiệu quả, thể hiện ở chỉ
số ICOR ngày càng giảm, khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng tăng trưởng kinh
tế sụt giảm và luôn đối mặt với lạm phát cao.
Xét trên góc độ vi mô, còn quá nhiều vấn đề bất cập trong hoạt động tín dụng của hệ thống
ngân hàng. Những vấn đề cụ thể gồm:
(i) Chất lượng các khoản vay suy giảm mạnh
Hậu quả của việc theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao trong thời kỳ trước, trong khi năng lực
quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng còn thấp, cộng với những biến động bất lợi của nền
kinh tế đã khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu tăng lên đáng kể trong năm 2011. Nhóm
NHTMNN có tỷ lệ nợ xấu cao hơn hẳn so với nhóm NHTMCP (chênh lệch tỷ lệ nợ xấu của 2
nhóm ngân hàng là 1,18%). Nguyên nhân của tình trạng trên chính là việc nhóm NHTMNN
phải gánh chịu khoản nợ xấu của các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó phải kể đến các tập
đoàn kinh tế và tổng công ty hoạt động không hiệu quả.
Bảng 1. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD tại Việt Nam
Tỷ lệ nợ xấu
Nhóm TCTD Việt Nam 3,44%
NHTMNN 3,62%
NHTMCP 2,44%
Công ty tài chính 3,11%
Công ty cho thuê tài chính 51,7%
Nhóm TCTD nước ngoài 2,09%
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1,21%
Ngân hàng liên doanh 4,46%
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 1,63%
Công ty tài chính 5,25%
Công ty cho thuê tài chính 5,88%
Nguồn: Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam 2011-2015.
Năm 2011 đã bộc lộ nhiều điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Có thể nhận thấy khi
mà tăng trưởng tín dụng chỉ đạt mức thấp thì giá trị các khoản nợ quá hạn, nợ xấu lại tăng
mạnh, tỷ lệ nợ xấu tăng cao, bộc lộ sự suy giảm chất lượng tín dụng và rủi ro tín dụng đã trở
thành mối quan ngại sâu sắc đối với việc quản trị ngân hàng.
Hình 5. Tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng
9/2011
Hình 6. Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng
tính đến tháng 9/2011
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 5
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM
Việc gia tăng các khoản nợ nhóm 2 (Bảng 2) do các khoản vay bị chuyển từ nợ nhóm 1 sang
cho thấy khả năng chất lượng các khoản nợ này có thể tiếp tục xấu đi và bị chuyển sang các
nhóm nợ xấu hơn. Trước tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay, nguy cơ các khoản vay yếu
kém này tiếp tục không có khả năng thu hồi là rất dễ xảy ra. Nợ nhóm 5, nhóm nợ có khả
năng mất vốn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ xấu, càng cho thấy mức độ rủi ro tín
dụng trong hệ thống ngân hàng. Một quan ngại đáng lưu ý là chất lượng của những con số
thống kê về tình hình nợ xấu do các NHTM công bố, đặc biệt là nếu như phân loại theo chuẩn
mực quốc tế thì sẽ ở mức cao hơn con số công bố hiện nay nhiều.
Bảng 2. Tỷ trọng nợ nhóm 2 và 5 trên tổng dư nợ tính đến tháng 9/2011
Ngân
hàng
Nợ nhóm 2 Nợ nhóm 5
2008 2009 2010 9/2011 2008 2009 2010 9/2011
VCB 2,71% 5,67% 9,91% 15,12% 3,07% 1,88% 2,08% 2,65%
BIDV 18,97% 16,05% 11,17% 10,20% 0,71% 0,62% 1,37% 1,90%
CTG N/A 1,02% 1,02% 1,36% N/A 0,27% 0,09% 0,62%
ACB 1,15% 0,58% 0,24% 0,79% 0,05% 0,23% 0,19% 0,26%
STB 0,37% 0,17% 0,04% 0,22% 0,20% 0,30% 0,43% 0,21%
EIB 3,19% 0,60% 0,39% 1,51% 1,05% 1,24% 0,69% 0,70%
SHB 2,65% 0,44% 2,45% 3,05% 0,19% 1,24% 1,09% 0,82%
HBB N/A 11,64% 20,18% 23,85% N/A 1,16% 1,01% 1,87%
NVB N/A 1,05% 1,52% 1,88% N/A 0,92% 1,07% 1,14%
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM nêu trên.
Do chất lượng các khoản vay bị sụt giảm nên các ngân hàng buộc phải tăng cường trích lập
dự phòng rủi ro tín dụng. Đặc biệt, các NHTMNN có tỷ lệ trích dự phòng rủi ro tín dụng trên
tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng cao hơn rất nhiều so với các NHTMCP. Với tình hình
khó khăn của các doanh nghiệp như hiện nay thì khoản mục trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Tuy
nhiên, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD Việt Nam vẫn còn quá mỏng so với các
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 6
quốc gia khác trên thế giới. Phần trăm tỷ lệ trích lập dự phòng của Việt Nam chỉ là 47,85%
trong khi của Hàn Quốc là 111,2%; của Trung Quốc là 230,2%... Tỷ lệ trích lập dự phòng quá
thấp của các TCTD Việt Nam sẽ làm cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nhạy cảm với những
bất ổn kinh tế trên thế giới nói chung cũng như bất ổn kinh tế của Việt Nam nói riêng.
(ii) Nguy cơ từ tín dụng bất động sản
Nợ xấu gia tăng tại nhiều ngân hàng trong quý 1 và quý 2 năm 2011 phần lớn bắt nguồn từ dư
nợ tín dụng bất động sản. Theo báo cáo của các TCTD, dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất
động sản đến cuối tháng 9/2011 là 203.600 tỷ đồng (giảm 13,46% so với cuối năm 2010),
tương đương 8,15% tổng dư nợ tín dụng. Nếu bao gồm cả các khoản tín dụng được bảo đảm
bằng bất động sản thì dư nợ tín dụng đối với bất động sản là 1.331.032 tỷ đồng, tương đương
53,3% tổng dư nợ tín dụng, trong đó dư nợ tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản của các
TCTD Việt Nam tương đương 57,3% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD Việt Nam. Dư nợ tín
dụng đối với bất động sản lớn, song chất lượng tín dụng thấp và đang có chiều hướng giảm do
thị trường bất động sản suy giảm đang trở thành rủi ro rất lớn đối với các TCTD.
(iii) Tín dụng ngoại tệ tăng nhanh do sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa hai đồng tiền
Theo dữ liệu của NHNN, năm 2011 tín dụng tăng 12%, trong đó tín dụng VND tăng 10,2% và
tín dụng ngoại tệ tăng 18,7%, tuy nhiên tín dụng ngoại tệ đã có xu hướng tăng chậm lại từ
tháng 8 cho đến cuối năm 2011. Nhu cầu vay vốn ngoại tệ tăng cao thời gian qua chủ yếu do
lãi suất quá hấp dẫn so với nội tệ. Kỳ vọng tỷ giá ổn định cũng là lý do khiến các doanh
nghiệp không quá lo lắng về rủi ro khi vay ngoại tệ rồi bán ra lấy tiền đồng kinh doanh. Để
hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, đã có lúc NHNN áp trần lãi suất tiền gửi
ngoại tệ ở mức 2% (đối với cá nhân) và 0,5% (với tổ chức). Sau thời gian dài nghiêm túc chấp
hành, các ngân hàng đã âm thầm đẩy lãi suất huy động ngoại tệ vượt trần, thậm chí sẵn sàng
trả tới 4%. Với mặt bằng huy động như vậy, lãi suất cho vay ngoại tệ cao nhất cũng không
quá 9%/năm, thấp hơn nhiều so với mặt bằng lãi suất cho vay VND (20-22%).
Việc các ngân hàng chạy đua gom USD được lý giải nhằm đáp ứng nhu cầu vay của doanh
nghiệp. Tính đến cuối tháng 6/2011, dư nợ tín dụng ngoại tệ tăng 2,3% so với tháng 5/2011 và
tăng đến 23,31% so với cuối năm 2010. Còn nếu so với cùng kỳ năm trước, dư nợ ngoại tệ
tăng 46,3%. Doanh nghiệp khi vay bằng USD đã bán ra, lấy tiền đồng kinh doanh, khiến
nguồn cung ngoại tệ trên thị trường dồi dào. Nhưng khi các hợp đồng vay đáo hạn, doanh
nghiệp lại phải mua USD trả nợ cho ngân hàng, khi đó cầu tăng mạnh, gây áp lực tỷ giá leo
cao. Từ tháng 8 đến cuối năm 2011 là giai đoạn chuẩn bị hàng hóa phục vụ Tết và cũng là chu
kỳ nhập khẩu tăng lên, khiến cho nhu cầu USD tăng mạnh, tỷ giá tại các NHTM luôn trong
tình trạng kịch trần, nhiều NHTM giá thu mua USD bằng giá bán ra. Nguồn cung ngoại tệ
khan hiếm khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn gốc và lãi
các khoản ngoại tệ.
Bên cạnh đó, giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12/2011 chứng kiến chu kỳ tăng giá mạnh của
vàng (nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động đầu cơ của một số tổ chức, cá nhân), nhu cầu tích
trữ vàng sản xuất cuối năm, đã khiến giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới rất nhiều (có
lúc chênh tới hơn 4 triệu đồng một lượng), theo đó kích thích nhu cầu nhập vàng (đặc biệt là
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 7
nhập lậu vàng). Do sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới cao đã kích
thích việc gom USD chợ đen để nhập theo đường tiểu ngạch.
(iv) Tỷ lệ nợ xấu quá chênh lệch giữa đánh giá của Việt Nam và các tổ chức quốc tế dẫn đến
những câu hỏi cho ngành Ngân hàng. Trong khi Việt Nam tính tỷ lệ nợ xấu trong 6 tháng đầu
năm 2011 chỉ là 2,72%, thì theo đánh giá của Fitch (một tổ chức có uy tín cao trong đánh giá
xếp hạng tín nhiệm trên thế giới), tỷ lệ này lên đến 13% tổng dư nợ.
Việc đo lường nợ xấu nhằm cảnh báo rủi ro hệ thống có đạt được mục tiêu đề ra? Với tỷ lệ nợ
xấu năm 2011 được công bố là 3,39%, rủi ro tín dụng hệ thống ngân hàng nằm trong mức cho
phép. Nhưng tỷ lệ công bố trên là tính theo chuẩn mực phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi
ro của Việt Nam, theo đó nợ được trả từng phần, từng tháng từng quý. Nếu đến hạn mà không
trả được phần nợ đó, thì chỉ phần nợ đó được đưa vào nợ xấu. Trong khi theo chuẩn mực quốc
tế, nếu phần nợ đến hạn không trả được, thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu. Hơn
thế, ngay cả với cách tính theo chuẩn Việt Nam, nhiều NHTM cũng không phân loại nợ đúng
theo quy định của NHNN (Báo cáo đánh giá công tác thanh tra của NHNN tháng 12/2011).
(hộp cắt) Những bất cập chính của thị trường tín dụng của Việt Nam trong năm 2011: (1) Tốc
độ tăng trưởng tín dụng tuy đã chậm lại nhưng không đi kèm nâng cao chất lượng tín dụng;
(2) tín dụng cho nền kinh tế (có thể đo lường qua chỉ số Tín dụng/GDP) đang ở ngưỡng
không hiệu quả; (3) Chất lượng khoản vay suy giảm mạnh, tín dụng bất động sản và ngoại tệ
còn nhiều vấn đề đáng quan ngại, mối quan hệ phức tạp giữa tín dụng chính thức và tín dụng
phi chính thức cũng như câu hỏi đặt ra về khả năng đảo nợ làm đẹp bảng cân đối kế toán của
các NHTM. Nếu không giải quyết triệt để những bất cập trên thì tín dụng ngân hàng có thể
tiếp tục gây ra những mất cân đối vĩ mô cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo.
1.2. Khả năng sinh lời của hệ thống NHTM có xu hướng giảm
Trong năm 2011, hệ thống NHTM vẫn đạt được mức sinh lời khá ổn định, với chỉ số ROE
của nhiều ngân hàng tập trung từ 10% đến 15%, cao hơn nhiều ngành khác trong bối cảnh
kinh tế hiện nay. Nguyên nhân chính là chênh lệch giữa lãi suất huy động được giới hạn tại
mức trần 14% theo quy định của NHNN, trong khi lãi suất cho vay được duy trì ở mức cao
trong suốt năm 2011.
Nếu quan sát mức sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam, chỉ số ROE và ROA đều ở mức
cao trong suốt giai đoạn 2005- 2010 (Bảng 6). Như vậy, thậm chí ở mức chênh lệch lãi suất
đầu ra- đầu vào tương đối thấp của năm 2010, các NHTM Việt Nam vẫn thông báo tỷ lệ lợi
nhuận cao. Rõ ràng, các NHTM khó lý giải về trách nhiệm đối với nền kinh tế khi nhìn nhận
tương quan giữa chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi với khó khăn của các doanh nghiệp.
Như vậy, vấn đề đạo đức kinh doanh của các NHTM cần được đặt ra sau những diễn biến của
hoạt động huy động vốn 2011.
Bảng 3. Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động giai đoạn 2005-2011
Đơn vị: %/năm
Chênh lệch lãi suất cho vay
& huy động của các NHTM
2005 2006 2007 2008 2010 2011
3,42 4,63 4,45 4,62 2,50 5,23
Nguồn: Thống kê của nhóm nghiên cứu
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 8
Tuy nhiên, trước tình hình khó khăn của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng, mức sinh lời của các NHTM đều có xu hướng giảm so với các năm trước (Hình 11, 12).
Tính đến tháng 10/2011, ROA (tính theo lợi nhuận trước thuế) và ROE của hệ thống ngân
hàng là 1,02% và 10,4%.
Hình 7. Chỉ số ROA tính đến tháng 9/2011 Hình 8. Chỉ số ROE tính đến tháng 9/2011
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM.
Các NHTMNN mặc dù có tỷ lệ nợ xấu và trích lập dự phòng cao nhưng vẫn đạt được mức
sinh lời cao hơn so với các NHTMCP. Tính đến tháng 10/2011, nhóm NHTMNN có tỷ lệ
ROA và ROE bình quân ở mức 1,02% và 13,05%, cao hơn so với mức 1,03% và 10,8% của
nhóm NHTMCP. Hình 6 cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của các NHTMCP đã giảm xuống
đáng kể từ năm 2008 trở lại đây. Chất lượng các khoản tín dụng đi xuống, cụ thể là việc nợ
quá hạn và nợ xấu tăng lên, sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của hệ
thống ngân hàng trong tương lai. Nếu như phân loại nợ theo đúng như chuẩn quốc tế thì các
NHTM Việt Nam sẽ phải trích lập dự phòng một lượng rất lớn. Trong khi tài sản bảo đảm cho
các khoản vay chủ yếu là bất động sản (chiếm tới 57,3% tổng dư nợ), nhưng thị trường luôn
biến động theo tình hình tín dụng, hiện rơi vào tình trạng suy giảm mạnh, nên nguy cơ khoản
trích lập dự phòng tăng nhanh sẽ choán hết vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng là hoàn
toàn có thể xảy ra. Đáng chú ý là trong khi một số ngân hàng (điển hình là các NHTMNN)
vẫn báo lãi lớn, thì hiện đã có 2 ngân hàng chính thức báo lỗ năm 2011 là Tienphongbank và
Habubank. Chắc chắn là số ngân hàng thua lỗ năm 2011 sẽ nhiều hơn 2, bởi ngay trong 6
tháng đầu năm 2011 đã có 13,69% số ngân hàng trong hệ thống báo lỗ.
Bên cạnh đó, khả năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam là thấp hơn khi so sánh với các
nước trong khu vực và trên thế giới (bảng 4).
Bảng 4. ROA và ROE một số quốc gia năm 2010
Quốc gia ROA ROE
Việt Nam 1,02% 10,4%
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 9
Indonesia 3,1% 25,9%
Malaysia 1,8% 18,9%
Philippines 1,6% 13,3%
Thailand 1,1% 13,6%
Nguồn: Asia Economic Monitor, December 2011
(còn nữa- kỳ sau đăng tiếp)
1.3. Huy động vốn khó khăn và thanh khoản trở thành mối quan ngại sâu sắc với hệ
thống ngân hàng
(i) Thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế sụt giảm so với các năm trước
Đối với toàn bộ thị trường, lượng tiền gửi huy động đã suy giảm nhanh chóng. Theo NHNN,
số dư tiền gửi của khách hàng tại các NHTM tháng 10/2011 giảm 0,74% so với tháng 9, còn
tháng 9 giảm 1,07% so với tháng 8 và giảm mạnh nhất là tiền gửi VND. Đến cuối tháng
10/2011, huy động thị trường I đạt 2.819,6 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 8,4% so cuối năm 2010
(bình quân tháng tăng 0,84%; trong khi mức bình quân tháng của năm 2010 là 3,1%).
Tính từ thời điểm tháng 3/2011 khi Thông tư 07 được ban hành, số dư tiền gửi của khu vực
ngân hàng giảm trong 2 tháng kế tiếp đó (tháng 3 và 4/2011). Sau đó, tỷ lệ này tăng trở lại với
biên độ không ổn định. Đáng chú ý là tổng tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại NHTM đã giảm
mạnh trong năm 2011, dẫn đến giảm tốc độ luân chuyển tiền tệ của toàn nền kinh tế. Thêm
vào đó, chính sách trần lãi suất huy động VND ở mức 14% đã gây ra sự suy giảm nguồn vốn
huy động tiền gửi từ dân cư, đồng thời khuyến khích sự tích lũy “đóng băng” dưới các dạng
tài sản khác (chủ yếu là vàng, ngoại tệ, bất động sản...) của dân chúng. Điều này làm trầm
trọng hóa vấn đề vàng hóa và đô la hóa, vốn tồn tại cố hữu trong nền kinh tế Việt Nam từ lâu.
Thị trường vàng cũng đã chứng kiến nhiều biến động trong tháng 9 khi nhu cầu tích trữ của
người dân tăng mạnh khiến NHNN phải cho phép nhập vàng nhằm bình ổn thị trường.
(ii) Các “đối phó” với chính sách nhằm đảm bảo thanh khoản
Cuộc đua lãi suất giữa các NHTM những tháng cuối năm 2010 vẫn được tiếp tục trong năm
2011 với lãi suất huy động phổ biến ở mức 14- 16%, bất chấp đồng thuận lãi suất của các
thành viên Hiệp hội Ngân hàng. Lãi suất huy động VND có kỳ hạn tháng 2/2011 vẫn ở mức
14%/năm, nhưng lãi suất huy động không kỳ hạn đã tăng từ 3%/năm lên 8-9%/năm, thậm chí
Seabank đưa ra sản phẩm có lãi suất không kỳ hạn lên 12%/năm. Nhằm hạn chế cuộc đua lãi
suất và kéo hạ lãi suất cho vay, NHNN ban hành Thông tư 02/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy
định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng VND của các NHTM bao gồm cả khoản chi
khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm, riêng các Quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở không vượt quá 14,5%/năm. Đồng thời, NHNN ban hành Thông tư 09/2011/TT-NHNN
áp dụng từ 13/4/2011 quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng USD của NHTM
là 1,0%/năm (giữ nguyên so với mức cũ) và đối với cá nhân là 3,0%/năm (trước đó các
NHTM huy động lãi suất USD từ 5- 6%/năm).
Tuy nhiên, việc tăng giá xăng dầu 2 lần, vào ngày 24/2/2011 và 29/3/2011, và tăng giá điện
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 10
bình quân 15,28% so với mức áp dụng năm 2010 kể từ 01/3/2011, đã khiến kỳ vọng lạm phát
tăng cao. Bên cạnh đó, các mặt hàng lương thực thực phẩm cũng tăng giá mạnh do tác động
của tăng giá thế giới cũng như nguồn cung trong nước thiếu hụt, đã gây áp lực gia tăng lớn
đến lạm phát. Các NHTM đã thực hiện các biện pháp “lách luật” với nhiều sáng tạo trong các
sản phẩm huy động như: “tiết kiệm lãi suất linh hoạt”, “tiết kiệm rút gốc linh hoạt”, “nhận
tiền gửi tiết kiệm bằng VND đảm bảo bằng USD” hoặc sản phẩm “hợp tác đầu tư, nhận vốn
và cho vay theo yêu cầu của bên ủy thác” được phát triển phổ biến trong hệ thống NHTM.
Trước tình hình đó, NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN quy định áp
dụng lãi suất không kỳ hạn trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại các
NHTM. Để đối phó, các khoản tiền gửi rút gốc linh hoạt trước đây của các NHTM được
chuyển thành các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần hoặc không kỳ hạn. Hơn thế, sự căng thẳng về thanh
khoản thể hiện rõ qua việc niêm yết lãi suất gần như ở mức ngang bằng nhau (và bằng đúng
lãi suất trần 14%) trong các kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng tại các ngân hàng trong 5 tháng đầu năm
2011. Với CPI tháng 4/2011 tăng tới 3,32% so với tháng trước, mức tăng cao nhất kể từ tháng
3/2008, và tăng 9,64% so với tháng 12/2010, vượt xa mức chỉ tiêu 7% cho cả năm được Quốc
hội phê duyệt, nhiều NHTM đã dùng nhiều biện pháp “phá trần lãi suất huy động” lên trên
17%/năm, thậm chí có nơi lên tới 20%/năm. Tình hình vi phạm trần lãi suất tiếp diễn cho đến
đầu tháng 9, khi Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 được ban hành, yêu cầu chấp hành quy
định trần lãi suất huy động của các NHTM là 14%/năm đối với VND; huy động USD là
2%/năm đối với cá nhân và 0,5%/năm đối với tổ chức. Chỉ thị 02/CT-NHNN cũng nêu rõ
những biện pháp xử lý đối với các NHTM cố tình vi phạm trần lãi suất huy động nhằm xác
lập lại kỷ luật thị trường. Tuy nhiên, một số NHTM tiếp tục lách quy định này bằng cách áp
dụng mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngày, tuần, khiến cho lãi
suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Vì vậy, NHNN đã phải ban hành Thông tư 30/TT-NHNN
ngày 28/9, quy định rõ trần lãi suất huy động 14%/năm được áp dụng đối với tiền gửi VND
có kỳ hạn 1 tháng trở lên, với kỳ hạn dưới 1 tháng và không kỳ hạn, lãi suất huy động tối đa là
6%/năm. Trước những hành động quyết liệt của NHNN, “chính sách trần lãi suất huy động”
đã phát huy tác dụng theo đúng bản chất của nó. Đó là giúp xác định rõ những NHTM hoạt
động không hiệu quả, sử dụng biện pháp cạnh tranh lãi suất huy động nhằm đầu tư vào lĩnh
vực bất động sản.
(iii) Thanh khoản căng thẳng do hệ lụy của “độ trễ” của tăng trưởng tín dụng thiếu hợp lý
trong giai đoạn 2007- 2010
Tình hình thanh khoản của một số NHTM Việt Nam trở nên căng thẳng một phần do tiền gửi
suy giảm trong toàn bộ nền kinh tế, nhưng một phần nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ
việc tăng trưởng tín dụng bất hợp lý trong giai đoạn trước đây. Không tính những ngân hàng
như ACB hoặc trường hợp đặc thù của HabuBank và SHB, các ngân hàng còn lại trong hình 9
đều có xu thế tăng mạnh tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi. Thực tế là các NHTM không hề dễ
dàng trong xử lý vấn đề thanh khoản khi đã cấp nhiều khoản tín dụng bất động sản trong các
năm trước đây.
Hình 9. Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tiền gửi khách hàng tính đến 9/2011
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 11
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM.
(iv) Xuất hiện sự chuyển dịch vốn huy động từ các NHTM nhỏ sang các NHTM lớn khiến cho
tổng huy động trên thị trường I suy giảm
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn đầu năm, các NHTM lớn như Agribank, Vietinbank,
BIDV,... đã có sự giảm sút đáng kể nguồn vốn huy động, trong khi các NHTM nhỏ có sự gia
tăng mạnh vốn huy động kể từ khi chính sách trần lãi suất huy động 14% có hiệu lực từ ngày
03/3/2011. Tuy nhiên, trong nửa cuối năm, sự dịch chuyển này có xu hướng ngược lại. Rõ
ràng, do NHNN áp dụng các biện pháp đồng bộ liên quan đến trần lãi suất huy động, các
NHTM có quy mô nhỏ gặp khó khăn hơn trong việc huy động tiền gửi so với các NHTM có
quy mô lớn, buộc các NHTM có quy mô nhỏ khi gặp áp lực thanh khoản phải vay các NHTM
có quy mô lớn trên thị trường liên ngân hàng. Tỷ trọng tiền gửi và cho vay của các NHTM có
quy mô nhỏ tại các NHTM có quy mô lớn đã giảm xuống (hình 10) trong khi tỷ trọng tiền gửi
của và vay NHTM khác tăng lên đáng kể từ năm 2009 trở lại
đây (hình 11).
Hình 10. Tỷ trọng tiền gửi tại và cho vay
các NHTM khác
Hình 11. Tỷ trọng tiền gửi của và vay từ các
NHTM khác
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 12
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính quý 3/2011 các NHTM.
Kết quả của việc tốc độ tăng trưởng huy động thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng là tỷ lệ dư
nợ trên huy động ở hầu hết các ngân hàng tăng mạnh trong năm 2011. Một trong những
nguyên nhân khiến cho ba ngân hàng buộc phải thực hiện sáp nhập (NHTMCP Đệ nhất, Sài
Gòn và Việt Nam Tín Nghĩa) là vì ba ngân hàng này đã có những thiếu hụt thanh khoản tạm
thời do mất cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho vay. Sự kiện này cho thấy, dù
ngân hàng có tăng trưởng quy mô cao, kết quả kinh doanh có lãi mà khả năng quản trị rủi ro
kém thì nguy cơ rơi vào căng thẳng thanh khoản là hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là trong
những thời kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ của NHNN.
(v) Thị trường II xuất hiện những biến động bất thường
Từ những khó khăn của thị trường I, một số NHTM có lợi thế huy động vốn trên thị trường I
đã cho vay lại trên thị trường II với mức lãi suất cao và rủi ro thấp hơn so với cho vay khách
hàng, khiến cho nguồn vốn huy động không được cho vay ra nền kinh tế mà di chuyển qua lại
trong hệ thống ngân hàng. Khó khăn thanh khoản tại một số ngân hàng nhỏ có khoản tiền vay
từ các ngân hàng lớn, cộng với thực trạng vay nợ chằng chịt giữa các ngân hàng càng khiến
cho mức độ rủi ro của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam trở nên lớn hơn. Lãi suất liên ngân
hàng trong tháng 9/2011, sau 4 tháng liên tục ổn định ở mức 11-12%/năm, đã bật tăng và tại
một số phiên giao dịch trung tuần tháng 10 lên tới 30-40%/năm, đã bộc lộ rõ việc thiếu hụt
thanh khoản tại một số NHTM. Đến tháng 11, khi các ngân hàng đang giao dịch với nhau ở
mức lãi suất 14-16%/năm với các kỳ hạn qua đêm và một tuần, Vietcombank bất ngờ hạ lãi
suất xuống còn ở mức 12-13,5%/năm, nhưng yêu cầu phải có tài sản bảo đảm. Các tài sản bảo
đảm phải có tính thanh khoản cao như vàng, ngoại tệ (không nhận bảo đảm bằng trái phiếu dù
là trái phiếu của chính ngân hàng cho vay phát hành) và hạn mức cho vay không quá 50% giá
trị tài sản bảo đảm. Đòi hỏi này là do một số ngân hàng vay liên ngân hàng nhưng không trả
nợ đúng hạn, thậm chí chây ỳ trả nợ gốc. Thực tế có NHTMCP lớn đã cho vay trên thị trường
liên ngân hàng với khối lượng khá lớn, trong đó bao gồm một nửa là tín chấp, nhưng đến hạn
vẫn chưa thu hồi được. Những yêu cầu về tài sản bảo đảm đã khiến cho thị trường liên ngân
hàng- vốn là thị trường dựa vào uy tín và có tốc độ giao dịch nhanh với khối lượng lớn- không
còn hiệu quả, khiến cho các NHTM nhỏ càng khó khăn hơn trong bù đắp thanh khoản của
mình.
(hộp cắt) Như vậy, năm 2011 đã chứng kiến sự phức tạp trong tình hình huy động vốn của các
NHTM: (i) cuộc đua lãi suất bất chấp các quy định của NHNN nhưng tổng huy động tiền gửi
vẫn sụt giảm; (ii) sự siết chặt kỷ cương của NHNN đã làm xuất hiện những hiện tượng lạ trên
thị trường II; (iii) tình hình thanh khoản của các NHTM nhỏ ở trạng thái căng thẳng; (iv)
chính sách trần lãi suất huy động đã phát huy tác dụng phát hiện các NHTM hoạt động không
hiệu quả; và (v) mặt bằng lãi suất giảm không như mong đợi của nền kinh tế, dù chính sách
trần lãi suất huy động đã được tuân thủ vào cuối năm.
1.4. Giám sát an toàn hệ thống ngân hàng của NHNN còn có những bất cập
Ngày 06/12/2011, NHNN chính thức phát đi thông điệp sáp nhập 03 ngân hàng gồm:
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 13
NHTMCP Sài Gòn (SCB), NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và NHTMCP Đệ
Nhất (Ficombank) thành một ngân hàng. Trong thời gian hoạt động vừa qua, 3 ngân hàng này
rơi vào tình trạng mất thanh khoản tạm thời chủ yếu do sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay
trung dài hạn. Với chủ trương đảm bảo trong quá trình tái cơ cấu không để xảy ra đổ vỡ ngân
hàng, mất an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã hỗ trợ thanh khoản cho 3 ngân hàng này.
NHNN chỉ định BIDV tham gia toàn diện vào quá trình hợp nhất, thay mặt Nhà nước đại diện
quản lý phần vốn hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng sáp nhập. NHNN cho biết, lợi ích của
người gửi tiền được Nhà nước đảm bảo, quyền lợi của các cổ đông được giữ nguyên và các
trách nhiệm, nghĩa vụ của các ngân hàng hợp nhất được chuyển giao theo đúng quy định của
pháp luật. Chính vì vậy, lượng khách đến rút tiền do lo ngại tình hình mất thanh khoản của
các ngân hàng hợp nhất đã không xảy ra, hoạt động của ngân hàng hợp nhất vẫn diễn ra bình
thường. Tính đến thời điểm 30/9/2011, tổng tài sản của ba ngân hàng đạt 153.662 nghìn tỷ
đồng, tổng vốn điều lệ đạt 10.584 nghìn tỷ đồng; sau khi hợp nhất, ngân hàng hợp nhất có
tổng tài sản đứng thứ ba và vốn điều lệ đứng đầu trong nhóm các NHTMCP.
Vấn đề đáng quan tâm là, khi phân tích ba ngân hàng này dựa trên báo cáo tài chính và báo
cáo thường niên năm 2010, các chỉ tiêu tài chính đều ở mức từ tốt đến rất tốt so với các ngân
hàng khác trong cùng hệ thống. Đặc biệt là ngân hàng Ficombank, các số liệu về tỷ lệ an toàn
hoạt động đều đạt, thậm chí tốt hơn nhiều so với quy định theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN.
Bảng 5. Các tỷ lệ an toàn hoạt động của Ficombank năm 2010
Một số chỉ tiêu an toàn hoạt động Tỷ lệ Chuẩn
CAR 43,54% >=9%
Tỷ lệ khả năng chi trả 20,38% >=15%
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động 22,4% <=80%
Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung, dài hạn 0% <=30%
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Như vậy, chỉ trong một gần một năm 2011, tình hình tài chính, thanh khoản của các ngân
hàng này bị giảm mạnh dẫn tới mất khả năng thanh khoản tạm thời là điều đáng phải xem xét.
Ngoài nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế thì nguyên nhân lớn nhất là từ năng lực
quản trị ngân hàng, đặc biệt là quản trị rủi ro còn yếu kém, hoặc những số liệu do ngân hàng
này cung cấp chưa đáng tin cậy. Điều này cho thấy việc cảnh báo chưa kịp thời, cũng có nghĩa
rằng chưa bám sát được thực tế hoạt động của các ngân hang này. Nhìn tình huống hợp nhất 3
ngân hàng trên của Việt Nam, thấy rất rõ hiện tượng của một số ngân hàng trên thế giới trong
giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2009: Các chỉ số đều ở mức an toàn (đặc biệt là
chỉ số an toàn vốn tối thiểu vẫn ở mức trên 9%) nhưng lại không thể chịu nổi những căng
thẳng thanh khoản.
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 14
2. Một số kiến nghị đối với ngành ngân hàng Việt Nam năm 2012
Các dự báo đều nhận định về một triển vọng u ám của kinh tế thế giới năm 2012. Theo đó,
những rủi ro tiềm ẩn có thể gồm: (i) Cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone vượt khỏi tầm
kiểm soát và liên minh tiền tệ này phải đối mặt với nguy cơ sụp đổ; (ii) Những quyết định của
Chính phủ và người dân Mỹ tiếp tục ảnh hưởng đến sự phục hồi của kinh tế toàn cầu; (iii)
Nền kinh tế Trung Quốc thể hiện sự không cân bằng và không bền vững; (iv) Các tài sản an
toàn như vàng, đồng Franc Thụy Sỹ, yên Nhật biến động giá mạnh và mất dần vị thế, đồng
thời USD vẫn tiếp tục suy yếu; (v) Giá dầu thô sẽ lập kỷ lục mới. Như vậy, trong bối cảnh
kinh tế thế giới năm 2012 tiếp tục thể hiện sự không cân bằng và thiếu ổn định, Việt Nam sẽ
gặp rất nhiều khó khăn cả về tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Sử dụng các số liệu của NHNN và Tổng cục Thống kê theo quý, từ quý 1 năm 2007 đến quý 3
năm 2011, chúng tôi thực hiện các dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, bao gồm tỷ lệ lạm
phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế cho năm 2012. Các chuỗi số liệu dùng cho dự báo là chuỗi
dừng có tính thời vụ nên phương pháp dự báo Holt-Winter được sử dụng và cho các kết quả
như sau: Lạm phát ở mức 10,6% và tăng trưởng GDP năm 2012 đạt 6,31% như trong Hình 12
(mức dự báo về tăng trưởng GDP và lạm phát được IMF đưa ra cho Việt Nam năm 2012 lần
lượt là 6,27% và 8,08%).
Hình 12. Dự báo GDP và lạm phát các quý năm 2012, Việt Nam
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu.
Căn cứ tình hình kinh tế thế giới và các biến số kinh tế vĩ mô Việt Nam được dự báo, chúng
tôi kiến nghị một số giải pháp cho hoạt động ngân hàng năm 2012 với mục tiêu để hoạt động
ngành Ngân hàng thực sự góp phần giúp Việt Nam thoát khỏi tình trạng đình trệ.
2.1. Đối với hoạt động tín dụng năm 2012
(i) Đối với quản lý tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2012
Sử dụng chuỗi số liệu M2 từ tháng 1/2007 đến tháng 11/2011 của Vụ Thống kê - NHNN,
nhóm tác giả tiến hành dự báo về M2 cho năm 2012. Các chuỗi số liệu dùng cho dự báo là
chuỗi dừng có tính thời vụ nên phương pháp dự báo Holt-Winter được sử dụng và cho các kết
quả như sau:
Hình 13. Dự báo chỉ tiêu tổng phương tiện thanh toán năm 2012
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 15
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
Kết quả dự báo cho thấy nếu theo nhịp độ hiện tại, năm 2012 tổng phương tiện thanh toán gia
tăng xấp xỉ 15%. Về tăng trưởng tín dụng, với số liệu được lấy theo quí, nhóm nghiên cứu
đưa ra kết quả dự báo năm 2012 ở Bảng 6.
Bảng 6. Dự báo tăng trưởng tín dụng năm 2012
Q1/2012 Q2/2012 Q3/2012 Q4/2012
Tăng trưởng tín dụng 5,45% 5,12% 4,79% 4,45%
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
Như vậy, tốc độ tăng trưởng tín dụng, theo tính toán của chúng tôi, sẽ cao hơn mức mục tiêu
của NHNN đề ra (theo tinh thần của chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/2/2012). Theo đó,
NHNN giao chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tình hình hoạt động của các
TCTD. Trong đó, nhóm cao nhất chỉ được tăng trưởng tối đa 17%. Do đó, theo quan điểm của
nhóm tác giả, NHNN cần điều chỉnh mức tăng trưởng tín dụng tối đa với nhóm 1 và nhóm 2
tương ứng là 20% và 18%.
(ii) Đối với giải pháp giảm tỷ lệ nợ xấu
Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu tăng nhanh trong năm 2011 bắt nguồn
từ “vòng luẩn quẩn”: (1) Lãi suất cho vay cao dẫn đến doanh nghiệp không tiếp cận được vốn;
(2) doanh nghiệp khó khăn về vốn cùng với các cú sốc cung (giá dầu tăng) dẫn đến kinh tế
đình trệ; (3) kinh tế đình trệ làm suy giảm khả năng trả nợ đúng hạn của doanh nghiệp; (4)
khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm dẫn đến thanh khoản trên thị trường tín dụng của các
NHTM giảm; (5) thanh khoản giảm đi kèm với lạm phát do sốc cung buộc lãi suất huy động
của NHTM trên thị trường 1 tăng, cuối cùng lại khiến lãi suất cho vay tăng cao.
Để phá vỡ “vòng luẩn quẩn” trên, vấn đề quan trọng cần giải quyết chính là giảm mặt bằng lãi
suất đối với nền kinh tế nhằm khắc phục tình trạng “kinh tế đình trệ”. Thành công trong việc
kiểm soát lạm phát trong những tháng cuối năm 2011 và đầu năm 2012 cùng với việc duy trì
ổn định kinh tế vĩ mô sẽ là tiền đề để giảm lãi suất huy động xuống quanh mức 10%/năm vào
năm 2012. Vấn đề là lựa chọn giữa biện pháp trần lãi suất huy động hay trần lãi suất cho vay
trong nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất đối với nền kinh tế. Theo quan điểm của nhóm tác giả,
trong thời gian trước mắt, NHNN nên tiếp tục duy trì trần lãi suất huy động và dần dần giảm
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 16
trần lãi suất huy động khi có điều kiện phù hợp trước khi tiến tới dỡ bỏ biện pháp hành chính
với lãi suất.
Nếu như NHNN áp dụng biện pháp trần lãi suất cho vay, sẽ xảy ra một số bất lợi sau:
Thứ nhất, các NHTM sẽ nhanh chóng đẩy lãi suất lên bằng mức trần lãi suất cho vay nhằm
giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn cục bộ của cả hệ thống. Kết quả là không những không hạ
được mặt bằng lãi suất mà lại đẩy mặt bằng lãi suất lên mức cao hơn và nếu có, chỉ giải quyết
được vấn đề thanh khoản tạm thời. Với mức lãi suất huy động cao hơn thì mức lãi suất cho
vay sẽ ở mức kịch trần nhằm bảo đảm lợi nhuận cho ngân hàng. Như vậy, mục tiêu giảm mặt
bằng lãi suất đối với nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế có thể không đạt được. Trong những trường hợp thanh khoản của hệ thống
ngân hàng rơi vào trạng thái thiếu hụt nghiêm trọng thì mức lãi suất huy động có thể tăng lên
sát mức lãi suất cho vay, các ngân hàng sẽ không thể tiến hành cho vay đối với khách hàng,
hoạt động tín dụng bị đình trệ, mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là không thể đạt được.
Thứ hai, khi áp dụng trần lãi suất huy động thì các ngân hàng lớn, có uy tín cao sẽ tạm thời
thu hút được tiền gửi từ nền kinh tế tốt hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ và những ngân
hàng này sẽ cho vay lại trên thị trường 2. Nếu áp dụng trần lãi suất cho vay sẽ xảy ra hiện
tượng các ngân hàng chỉ cho vay đối với các doanh nghiệp lớn, có uy tín cao, phương án kinh
doanh và dự án tiềm năng tài sản bảo đảm tốt, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó tiếp
cận nguồn vốn tín dụng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh
tế, đang gặp nhiều khó khăn là đối tượng cần được hỗ trợ. Khi ngân hàng không thực hiện
được vai trò là kênh dẫn vốn cho cả nền kinh tế thì việc nâng trần lãi suất cho vay (vốn không
phải là mục tiêu của NHNN) hoặc dỡ bỏ trần lãi suất cho vay sớm muộn cũng sẽ xảy ra.
(hộp không cắt) Cân nhắc giữa mặt bất lợi và ích lợi của trần lãi suất huy động và cho vay cho
thấy, trong năm 2012, để bảo đảm an toàn cho hoạt động hệ thống ngân hàng và ổn định kinh
tế vĩ mô thì việc tiếp tục duy trì biện pháp trần lãi suất huy động được ưu tiên hơn. Về trung
và dài hạn, lãi suất là công cụ cạnh tranh giữa các ngân hàng, là giá cả của các dịch vụ do
ngân hàng cung cấp và biểu hiện của tình hình cung cầu vốn trong nền kinh tế, nên lãi suất
phải do thị trường quyết định; NHNN nên dỡ bỏ biện pháp hành chính đối với lãi suất để thị
trường tự quyết định và chỉ sử dụng các công cụ điều hành như nghiệp vụ thị trường mở, chiết
khấu và tái cấp vốn để điều chỉnh lãi suất thị trường.
(iii) Đối với vấn đề tín dụng bất động sản
Để kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực không khuyến khích (trong đó có
một phần là tín dụng bất động sản) theo tinh thần của Chỉ thị 01/2012, NHNN nên thực hiện
một số biện pháp sau:
- Một là, NHNN nên cân nhắc lại cách định nghĩa về hạng mục tín dụng bất động sản không
khuyến khích. NHNN có thể xác định việc điều chỉnh đích danh các hạng mục tín dụng trên
theo hướng hạn chế tối đa việc cho vay: (1) Xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô
thị, văn phòng, cao ốc cho thuê; (2) Xây dựng, sửa chữa và mua nhà để ở kết hợp với cho thuê
mà các khoản cho vay này khách hàng trả nợ bằng các nguồn thu nhập không phải là tiền
lương; (3) Xây dựng sửa chữa nhà và mua nhà để bán, cho thuê; (4) Mua quyền sử dụng đất.
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 17
- Hai là, các hạng mục còn lại liên quan đến bất động sản có thể chỉ cần điều chỉnh thông qua
hệ số rủi ro quy đổi khi tính chỉ số CAR (vẫn nên duy trì mức 250%).
Thực hiện các giải pháp trên góp phần khơi thông thị trường bất động sản ở phân khúc nhà
cho người có thu nhập thấp và trung bình, tránh những sức ép không cần thiết từ Quốc hội đối
với NHNN trong việc hỗ trợ thị trường bất động sản. Bên cạnh đó, phải có chế tài mạnh với
các NHTM thực hiện việc “lách” hoặc “đối phó” chính sách đối với các quy định về cơ cấu
tín dụng của NHNN.
(iv) Đối với vấn đề tín dụng ngoại tệ
Cơ cấu tín dụng theo đồng tiền của các NHTM Việt Nam là vấn đề cần xem xét. Theo đó,
việc quản lý cơ cấu tín dụng theo đồng tiền nên được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ
với rủi ro thanh khoản về ngoại tệ của hệ thống NHTM Việt Nam. Cụ thể, NHNN cần thực
hiện các biện pháp sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu chỉnh sửa sớm Thông tư 07 theo hướng thu hẹp đối tượng cho vay
bằng ngoại tệ, với điều kiện chỉ cho vay những doanh nghiệp có khả năng tái tạo được ngoại
tệ. Còn doanh nghiệp nào không có khả năng tái tạo ngoại tệ thì kiên quyết không cho vay,
khi có nhu cầu ngoại tệ thì xử lý bằng phương thức mua bán giao ngay hay kỳ hạn. Theo
hướng này, đối tượng nào muốn vay ngoại tệ phải thực sự tái tạo được nguồn ngoại tệ để trả
nợ. Những doanh nghiệp đơn thuần chỉ nhập khẩu hàng hóa về bán trong nước sẽ không còn
là đối tượng được vay ngoại tệ nữa. Ngân hàng không cho doanh nghiệp nhập khẩu vay ngoại
tệ với quy định việc thu nợ được thực hiện bằng hợp đồng mua kỳ hạn USD để trả nợ, bởi
doanh nghiệp đơn thuần chỉ nhập khẩu bản chất là không tái tạo được ngoại tệ, nên làm như
vậy thực chất chỉ là dịch chuyển nhu cầu mua ngoại tệ hiện tại sang một thời điểm khác trong
tương lai mà thôi.
- Thứ hai, Thông tư 07 quy định: “Cho vay các nhu cầu vốn bằng ngoại tệ khác ngoài quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được chấp thuận bằng văn bản của Thống đốc
NHNN”. Việc quy định Thống đốc NHNN xem xét xử lý từng trường hợp cụ thể theo đề nghị
của TCTD tiếp nhận hồ sơ vay vốn là không phù hợp với quy chế làm việc của Thống đốc
NHNN. Vì vậy, nên bỏ qui định này.
- Thứ ba, NHNN có thể nghiên cứu áp dụng biện pháp hành chính quy định tỷ lệ dư nợ tín
dụng bằng ngoại tệ cho nền kinh tế trên nguồn huy động ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức
kinh tế trong nước. Về nguyên tắc, tỷ lệ này phải nhỏ hơn 100% đối với các NHTM trong
nước trên cơ sở phù hợp với kiểm soát thanh khoản ngoại tệ và chủ trương hạn chế đôla hóa
nền kinh tế.
2.2. Tái cơ cấu hệ thống NHTM với trọng tâm nâng cao năng lực thanh khoản của hệ
thống
Thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam cần một giai đoạn từ 5 đến 10 năm. Trước
mắt trong năm 2012, NHNN nên thực hiện một số biện pháp cụ thể sau để làm tiền đề cho các
năm tiếp theo của quá trình tái cơ cấu:
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 18
(i) Bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và hệ thống các NHTM theo đúng tinh thần của
Đề án “Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-
2015” của NHNN
- Thứ nhất, NHNN tái cấp vốn kịp thời đối với các NHTM thiếu hụt thanh khoản tạm thời
theo quy định của Luật NHNN để bảo đảm khả năng chi trả của từng NHTM và toàn bộ hệ
thống các NHTM, đồng thời bảo đảm chu chuyển vốn bình thường trên thị trường tài chính và
đáp ứng nhu cầu vốn, phương tiện thanh toán của nền kinh tế.
- Thứ hai, cho phép NHTM mất khả năng chi trả phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu dài
hạn đề tạo điều kiện cho các NHTM này tăng vốn cấp 2 và có nguồn vốn dài hạn cơ cấu lại tài
chính, hoạt động.
- Thứ ba, NHTM được NHNN tái cấp vốn phải tập trung thu hồi vốn đầu tư, cho vay để trả nợ
NHNN và thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn, đồng thời củng cố thanh khoản của NHTM.
Đồng thời, thực hiện giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với NHTM được NHNN tái cấp vốn.
- Thứ tư, các NHTM được NHNN tái cấp vốn chịu sự giám sát của NHNN về tài chính, hoạt
động và việc sử dụng vốn vay của NHNN.
- Thứ năm, NHNN tăng cường giám sát thị trường tiền tệ để kịp thời phát hiện NHTM thừa
hoặc thiếu thanh khoản nhằm kết nối các nhu cầu vay mượn ngắn hạn giữa các NHTM, giảm
bớt nhu cầu vay tái cấp vốn từ NHNN; chỉ định NHTM lành mạnh, thừa thanh khoản cho vay
đối với NHTM tạm thời thiếu hụt thanh khoản.
- Thứ sáu, NHTM vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng
được NHNN áp dụng một hoặc một số biện pháp xử lý đặc biệt như đình chỉ, miễn nhiệm
chức vụ người quản lý, người điều hành của NHTM; sáp nhập, hợp nhất, giải thể NHTM; yêu
cầu NHTM phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần; cổ đông lớn, cổ đông nắm
quyền kiểm soát, chi phối phải chuyển nhượng cổ phần để thực hiện các giải pháp cơ cấu
lại…
(ii) Thực hiện đề án xác định số lượng NHTM nội địa hợp lý phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam
Quan điểm của NHNN nhấn mạnh, trong vòng 5 năm tính từ năm 2011, hệ thống ngân hàng
Việt Nam chỉ nên gồm 12 đến 15 ngân hàng đủ lớn, đồng thời các NHTM có quy mô vừa và
nhỏ hoạt động trong các phân khúc thị trường phù hợp. Sau khi 3 ngân hàng SCB,
TinNghiabank và Ficombank sáp nhập thành ngân hàng SCB, hệ thống ngân hàng có 5
NHTMNN và 35 NHTMCP. Trong số 40 ngân hàng này, có 8 ngân hàng có mức vốn điều lệ
trên 9.000 tỷ đồng bao gồm: Vietcombank, BIDV, Agribank, Vietinbank, Eximbank, SCB,
Sài Gòn Thương tín và Á Châu. Giả định rằng 8 ngân hàng kể trên không nằm trong diện
buộc phải hợp nhất vào ngân hàng khác mà sẽ giữ nguyên tình hình hoạt động như hiện nay,
dựa vào số liệu về vốn điều lệ của các NHTM tính đến tháng 6/2011, có thể đưa ra dự báo
sau: Tổng mức vốn điều lệ của 8 ngân hàng có quy mô vốn điều lệ trên 9.000 tỷ đạt 109,452
tỷ, nắm giữ gần một nửa vốn điều lệ toàn hệ thống. Tổng mức vốn điều lệ của 32 ngân hàng
còn lại đạt 115,125 tỷ. Nếu như nhóm các ngân hàng trụ cột chiếm 80% thị phần và các ngân
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 19
hàng chuyển về nông thôn có mức vốn điều lệ rơi vào khoảng từ 2.500 đến 3.000 tỷ thì sẽ có
khoảng 15 đến 18 NHTMCP sẽ phải chuyển về nông thôn trong tương lai. Tính đến thời điểm
tháng 6/2011, vẫn còn năm ngân hàng chưa đáp ứng được mức vốn điều lệ tối thiểu là 3.000
tỷ đồng và 24 ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 3.000 đến 5.000 tỷ đồng. Nếu như không có
nhiều thay đổi về quy mô của các ngân hàng này trong thời gian tới thì chỉ có khoảng 10 đến
15 ngân hàng buộc phải sáp nhập lại để tiếp tục hoạt động trên thị trường ngân hàng. Cùng
với 6 ngân hàng có quy mô vốn điều lệ từ 5.000 đến 7.000 tỷ đồng thuộc nhóm có khả năng
phải sáp nhập, trong 5 năm tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có thêm từ 4 đến 7
NHTMCP có quy mô vốn điều lệ từ 10.000 tỷ đến 17.000 tỷ đồng. Quá trình chuyển đổi về số
lượng các NHTM của Việt Nam được minh họa cụ thể trong bảng sau.
Bảng 7. Dự kiến quy mô ngân hàng trước và sau tái cơ cấu
Đơn vị: Số lượng ngân hàng
VTC > 9.000 tỷ đồng VTC < 9.000 tỷ đồng NHTMCP nông thôn
Hiện nay 8 32
Sau tái cơ cấu 2-15 15-18
2.3. Công tác củng cố và chấn chỉnh kỷ cương của hệ thống ngân hàng cần được tiếp tục
tăng cường
Theo đó, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng cần được đẩy mạnh, đồng thời quy định hợp
lý các chế tài. Công tác thanh tra, giám sát cần tăng cường tập trung nguồn lực cho việc hoàn
thiện “Hệ thống cảnh báo sớm” nhằm dự báo sớm rủi ro hệ thống trong điều kiện kinh tế thế
giới sẽ có nhiều biến động phức tạp, như đã dự báo trong năm 2012. Khi công tác thanh tra,
giám sát ngân hàng được củng cố và tăng cường sẽ góp phần giảm thiểu những hiện tượng
“lách luật” về trần lãi suất, những mối liên hệ phức tạp giữa thị trường tín dụng ngân hàng với
tín dụng đen. Từ đó, hoạt động của hệ thống NHTM trở nên minh bạch hơn, các biện pháp
hành chính của NHNN liên quan đến giảm mặt bằng lãi suất cho nền kinh tế sẽ đảm bảo tính
hiệu quả.
Để hoạt động ngân hàng năm 2012 thực sự góp phần phát triển kinh tế Việt Nam, không chỉ
cần có sự cố gắng của NHNN mà cần quá trình tái cấu trúc tự thân của chính các NHTM.
Theo đó, các vấn đề quản trị rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cần được coi như trọng tâm
hoạt động của năm 2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB. Asian Development Outlook 2011 Update: Preparing for Demographic Transition.
September 2011.
2. ADB. Asia Economic Monitor, Emerging East Asia - A Regional Economic Update. July
2011, December 2011.
3. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội hàng tháng năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009,
2010 và 2011, Tổng cục thống kê, www.gso.gov.vn.
4. Báo cáo tài chính quý 3/2011 các ngân hàng Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV,
ACB, STB, EIB, SHB, HBB, NVB.
Học viện Ngân hàng 2011
Hoạt động ngân hàng Việt Nam - Điểm lại năm 2011 và Dự báo năm 2012 20
5. Báo cáo thường niên 2008, 2009, 2010 các ngân hàng Agribank, Vietcombank,
Vietinbank, BIDV, ACB, STB, EIB, SHB, HBB, NVB, Ficombank, SCB và
TinghiaBank.
6. Bùi Duy Phú, Trần Thị Lộc, Xây dựng hàm cầu tiền Việt Nam, phân tích và dự báo qua
một số mô hình định lượng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Mã số KNH 2010- 06,
10/2011, trang 55-59.
7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống
ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015.