HỒ CHÍ MINH -...

64

Transcript of HỒ CHÍ MINH -...

Trong số này

Đồng chí Trần Quốc Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ trao tặng bức trướng của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố cho Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Cần Thơ lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024. Ảnh: Tấn Vĩnh.

Đồng chí Trần Quốc Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy và đồng chí Phạm Văn Hiểu, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP tặng hoa chúc mừng đồng chí Võ Thành Thống và đồng chí Lê Quang Mạnh. Ảnh: An Bình.

Ngày 03/6/2019, HĐND TP Cần Thơ tiến hành kỳ họp thứ 12 (kỳ họp bất thường) để thực hiện công tác nhân sự thuộc thẩm quyền. Tại kỳ họp, HĐND thành phố đã bầu đồng chí Lê Quang Mạnh, Phó Bí thư Thành ủy giữ chức Chủ tịch UBND thành phố.

Trước đó, ngày 16/5/2019, Ban Bí thư quyết định đồng chí Võ Thành Thống, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ thôi tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố, Ban Thường vụ và thôi giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Cần Thơ nhiệm kỳ 2015 - 2020 để nhận nhiệm vụ mới. Ngày 21/5/2019, Thủ tướng Chính phủ quyết định điều động, bổ nhiệm đồng chí Võ Thành Thống giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ngày 16/5/2019, Ban Bí thư quyết định đồng chí Lê Quang Mạnh, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thôi tham gia Ban cán sự Đảng và thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư để luân chuyển, chỉ định đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Cần Thơ nhiệm kỳ 2015 - 2020. Ngày 20/5/2019, Văn phòng Trung ương Đảng có Công văn số 9615-CV/VPTW, theo đó, Ban Bí thư giới thiệu đồng chí Lê Quang Mạnh để bầu giữ chức Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp.

Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam.

Đề cương Tuyên truyền 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2019).

Kỷ niệm 104 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (01/7/1915 - 01/7/2019); 69 năm Ngày truyền thống Thanh niên xung phong (15/7/1950 - 15/7/2019); Hiệp định Genève năm 1954 về đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình Đông Dương; Kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh, Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019).

02

30

08Lực lượng vũ trang Cần Thơ tiếp bước truyền thống anh hùng.34

15Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.37

22Vì Nhân dân phục vụ.39Tiếp bước những người anh hùng.41Vĩnh Thạnh nêu cao đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.46Tin thành phố; tin trong nước; hoạt động đối ngoại - tình hình thế giới và văn bản mới.48

Nhân Kỷ niệm 10 năm Ngày thành lập Nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ

tại nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội, ngày 02 tháng 9 năm 1955.Ảnh tư liệu

HỒ CHÍ MINH(Toàn tập, tập 8, tr.210, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội, 2002)

“Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với Nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.

2

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sẽ được tổ

chức trong năm 2020; là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Đại hội tiến hành trong bối cảnh đất nước đã qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với những thành tích đáng tự hào.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ;

CHUẨN BỊ VÀ TỔ CHỨC THẬT TỐT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP

Ngày 30/5/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nhân dịp này, để định hướng cho các cấp ủy đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước có bài viết quan trọng: “Chuẩn bị và tổ chức thật tốt Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”. Ban Biên tập trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đạt được nhiều kết quả quan trọng; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị được đẩy mạnh; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đạt nhiều kết quả rõ rệt; mối quan hệ gắn bó mật thiết và lòng tin của nhân dân đối với Đảng không ngừng được củng cố, nâng cao.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu

tại cuộc họp Bộ Chính trị. Ảnh: TTXVN

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 3

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó đã góp phần quan trọng tạo nên cơ đồ, vị thế và uy tín của đất nước ta như ngày nay.

Cùng với những thành tựu và thuận lợi nêu trên, chúng ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Đi liền với thuận lợi trong quá trình phát triển là những yêu cầu, nhiệm vụ mới, thách thức mới và mâu thuẫn mới. Đó cũng là lẽ tự nhiên, phù hợp với quy luật vận động khách quan của sự phát triển.

Nhìn lại những năm qua cho thấy kinh tế-xã hội nước ta tuy đã có bước phát triển nhưng chưa thực sự vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa phát huy đầy đủ giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam. Tình hình chính trị, an ninh quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường, gây mất ổn định.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn một số yếu kém, bất cập; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế. Trong khi đó, việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm môi trường... đang là những thách thức rất lớn đối với nước ta.

Các thế lực thù địch, phản động ráo riết chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm hơn, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Để bảo đảm cho đại hội đảng bộ các cấp thành công, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội cần quán triệt một số quan điểm định hướng sau đây:

(1) Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng;

(2) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và bám sát các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị;

(3) Phát huy dân chủ rộng rãi, tập hợp cao độ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; củng cố, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng;

(4) Tôn trọng quy luật khách quan, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm tốt công tác dự báo để xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi cho cả trước mắt và lâu dài;

(5) Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đặt lợi ích của Đảng, đất nước và nhân dân lên trên hết. Lấy phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, uy tín và hiệu quả công tác làm căn cứ cơ bản để đánh giá, sàng lọc, bố trí cán bộ và đổi mới công tác nhân sự;

(6) Gắn công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi toàn diện các nhiệm vụ chính trị; chủ động giải quyết có hiệu quả các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài; kịp thời xử lý có hiệu quả những vấn đề mới phát sinh.

Việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp có nhiều nội dung quan trọng, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải đề cao trách nhiệm, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:

Trước hết, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của đại hội để chuẩn bị thật tốt và tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp.

Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của cấp ủy, từ chuẩn bị nội dung các văn kiện, phương án nhân sự, đến chuẩn bị các điều kiện phục vụ đại hội; từ việc giải quyết những vấn đề nội bộ đến tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân. Phải chuẩn bị thật chu đáo tất cả các nội dung của đại hội, không vì tập trung cho nội dung này mà xem nhẹ nội dung khác.

Thông qua công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội để tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên phải xác định đại hội là dịp để chỉnh đốn đội ngũ, siết chặt kỷ luật,

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ4

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

kỷ cương, nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần dân chủ, sáng tạo và trách nhiệm để tham gia có hiệu quả nhất vào các quyết định của đại hội.

Gắn từng nội dung của công tác chuẩn bị đại hội với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động và vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên. Đề cao vai trò của tập thể cấp ủy đi đôi với tăng cường trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong việc giải quyết những vấn đề mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm.

Tập trung chuẩn bị cho đại hội là công việc quan trọng lúc này, tuy nhiên không được làm ảnh hưởng đến các mặt công tác khác; phải lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, lập thành tích thiết thực chào mừng đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng.

Thực tế một số nhiệm kỳ gần đây cho thấy có một số đảng bộ chỉ tập trung lo cho đại hội mà có phần buông lỏng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, không hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, thậm chí gây ảnh hưởng không tốt cho nhiệm kỳ sau.

Ngược lại, vẫn có những đảng bộ quan tâm nhiều hơn việc thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên mà coi nhẹ công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội. Vì vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo cần tránh cả hai khuynh hướng này.

Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả; đồng thời tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Ngay từ khi chuẩn bị đại hội, phải chủ động, tích cực làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Báo chí là một kênh quan trọng phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng, cần đổi mới để làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, phát huy trí tuệ tham gia và định hướng dư luận xã hội.

Kinh nghiệm cho thấy quá trình chuẩn bị đại hội cũng là thời điểm các thế lực thù địch, phản

động và những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị triệt để lợi dụng để kích động, xuyên tạc, chống phá quyết liệt cả về đường lối, chính sách và nhất là công tác nhân sự.

Báo chí và các cơ quan chức năng phải huy động được lực lượng rộng rãi đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch và những thông tin giả, xấu, độc, bịa đặt, xuyên tạc trên mạng xã hội, Internet, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đồng thời, chú trọng tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, góp phần tích cực, có hiệu quả vào thành công của đại hội.

Để đại hội có được các quyết định đúng đắn, sáng suốt, đáp ứng ý nguyện và lòng mong đợi của nhân dân, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội cần tiến hành nghiêm túc, bài bản, chu đáo; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, khoa học; phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng tổ chức, cá nhân và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện.

Việc tổ chức đại hội phải thiết thực, an toàn, tiết kiệm, tránh phô trương, hình thức, lãng phí, bảo đảm trang trọng, ý nghĩa, tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.

Thứ hai, việc xây dựng báo cáo chính trị-văn kiện trung tâm của mỗi đại hội, phải thể hiện một cách tập trung nhất tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ, ý chí, sức mạnh đoàn kết của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Báo cáo chính trị của đại hội là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, trách nhiệm, sự sáng tạo, tầm nhìn, khát vọng của đảng bộ và định hướng phát triển của địa phương, cơ quan, đơn vị. Quá trình xây dựng báo cáo phải bám sát Cương lĩnh, các quan điểm, đường lối, định hướng lớn của Đảng, nhất là sáu nhiệm vụ trọng tâm, ba đột phá chiến lược theo Nghị quyết Đại hội XII, bám sát định hướng chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và tình hình thực tế để đánh giá và xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả để thực hiện trong nhiệm kỳ 2020-2025 và với tầm nhìn xa hơn.

Báo cáo phải gắn kết nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, kết hợp chặt chẽ giữa kế thừa và đổi mới; tập trung đánh giá khách quan, toàn

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 5

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

diện, cụ thể trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo, việc đổi mới tư duy, tầm nhìn và cách thức tổ chức thực hiện của cấp ủy, tổ chức đảng. Đồng thời, đánh giá nghiêm túc việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp; việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo.

Đánh giá đúng bao giờ cũng là một việc khó, đòi hỏi phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phương pháp khoa học, thái độ nghiêm túc, chân thành, trung thực của từng cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu.

Đánh giá kết quả đạt được phải chú trọng tổng kết những mô hình mới, cách làm hay, rút ra những bài học thực tiễn có giá trị; khích lệ khát vọng vươn lên, khuyến khích tìm tòi, đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển.

Đánh giá hạn chế, yếu kém phải nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm đối mặt với thực tế, chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, rút ra bài học kinh nghiệm để có giải pháp khắc phục. Đặc biệt, cần phân tích thấu đáo những vấn đề đang nổi lên như chưa bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường; thực hiện các chính sách đất đai, bảo đảm an toàn giao thông, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, kèn cựa địa vị, tình trạng cục bộ, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”...

Xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho nhiệm kỳ tới phải bám sát các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng và tình hình thực tế của địa phương đặt trong tổng thể của vùng, liên vùng và cả nước; đồng thời, làm tốt công tác dự báo, nắm bắt thời cơ, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế để phát triển nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Muốn vậy, phải phát huy dân chủ, tập hợp được trí tuệ của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc; trân trọng tiếp thu những ý kiến xác đáng,

trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất giữa ý Đảng với lòng dân.

Thứ ba, báo cáo kiểm điểm của cấp ủy phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, chỉ ra những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân, đề cao tự phê bình và phê bình, không nể nang, né tránh.

Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy như là tấm gương phản chiếu năng lực và phẩm chất, ý chí và hành động, nếp nghĩ và cách làm của cấp ủy trong cả nhiệm kỳ. Vì vậy, cần có thái độ nghiêm túc, khách quan, đánh giá đúng những ưu điểm để phát huy và nghiêm khắc trước mỗi khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa.

Kiểm điểm của cấp ủy phải bám sát vào quy chế làm việc, kết quả lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng bộ, sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên và tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Việc kiểm điểm phải đề cao tự phê bình và phê bình, không nể nang, né tránh, như Bác Hồ đã căn dặn: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Thực tế thời gian qua, nhiều cấp ủy đã thể hiện tinh thần quyết liệt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tích cực đổi mới, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về nhiều mặt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Bên cạnh đó, vẫn còn cấp ủy chưa khẳng định được trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân; có biểu hiện “trên nóng dưới lạnh”, “trên có chính sách, dưới có đối sách”; dù có điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi nhưng chưa khai thác, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế-xã hội, thậm chí còn để xảy ra tiêu cực, vi phạm pháp luật.

Báo cáo kiểm điểm của tập thể cần gắn với trách nhiệm cá nhân trên các lĩnh vực, địa bàn được phân công phụ trách, là cơ sở để đánh giá cấp ủy viên trong nhiệm kỳ và góp phần quan trọng cho việc chuẩn bị nhân sự khóa mới.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ6

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Việc kiểm điểm cần làm rõ mức độ khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém đã được chỉ ra, nhất là các nội dung mà cấp có thẩm quyền đã gợi ý kiểm điểm hoặc kết luận. Trên cơ sở báo cáo kiểm điểm của cấp ủy, từng đồng chí nghiêm túc nhìn nhận lại việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, “tự soi, tự sửa”, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây cũng là dịp tốt để mỗi cấp ủy và từng cá nhân tự chỉnh đốn, tăng cường đoàn kết, thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy cũng như từng cấp ủy viên.

Thứ tư, tổ chức tốt việc thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện của đại hội cấp trên trực tiếp và Đại hội XIII của Đảng, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, hiệu quả, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Hiện nay, Trung ương đang tích cực chỉ đạo xây dựng dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng và sẽ tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Ý kiến đóng góp tại đại hội đảng bộ các cấp và của các tầng lớp nhân dân là hết sức quan trọng, thể hiện ý Đảng, lòng dân, có giá trị thực tiễn phong phú, sinh động để Trung ương nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo các văn kiện.

Ngược lại, thông qua thảo luận, đóng góp ý kiến, cấp ủy cấp dưới có thêm gợi ý và định hướng để bổ sung, hoàn thiện các dự thảo văn kiện của cấp mình. Những ý kiến tâm huyết, xác đáng, hợp lý, có tính xây dựng phải được trân trọng nghiên cứu, chắt lọc, tiếp thu nghiêm túc.

Bên cạnh đó, đối với các nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau phải phát huy cao độ trách nhiệm, trí tuệ của tập thể, cá nhân, dành thời gian thỏa đáng để thảo luận, tranh luận nhằm tìm ra phương án tối ưu nhất, đạt được sự đồng thuận. Có thể nói, đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Việc tổ chức lấy ý kiến phải thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức. Căn cứ tình hình cụ thể của đảng bộ để lựa chọn cách lấy ý kiến cho phù hợp, tiếp thu được nhiều ý kiến có chất lượng. Cần định hướng, gợi mở những nội dung quan trọng, những vấn đề mới, những vấn đề có nhiều phương án, đồng thời dành thời gian thỏa đáng

cho thảo luận tại đại hội. Coi trọng lấy ý kiến thông qua hội nghị, hội thảo, phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn khác phù hợp với từng đối tượng, nhất là ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia, cán bộ lão thành, nhân sĩ, trí thức. Phát huy dân chủ, cầu thị, lắng nghe, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, không định kiến với những ý kiến phản biện khác với ý kiến của đa số, nhưng phải kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, không mơ hồ, dao động, luôn tỉnh táo, cảnh giác với mọi âm mưu lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc, chống phá.

Thứ năm, làm tốt hơn nữa công tác cán bộ và tích cực, chủ động chuẩn bị nhân sự cấp ủy, bảo đảm cho sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp.

Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ, coi đây là khâu “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”.

Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Trung ương, các cấp ủy cần chủ động cụ thể hóa, hoàn thiện các văn bản về công tác cán bộ và nhân sự cấp ủy cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng đảng bộ.

Tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch cấp ủy làm cơ sở xây dựng phương án nhân sự đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng nhóm đối tượng để nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực thực tiễn, kỹ năng lãnh đạo, điều hành và xử lý hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Cần tăng cường trách nhiệm, tính chủ động, tích cực, khách quan, công tâm của các cơ quan có thẩm quyền trong đánh giá cán bộ; đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 7

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Để chủ động phương án nhân sự, cần kết hợp hài hòa giữa chuẩn bị nhân sự tại chỗ với điều động, luân chuyển, bố trí cán bộ, bảo đảm cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành nhiệm vụ, đủ thời gian rèn luyện và thử thách qua thực tiễn.

Việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy phải trên cơ sở quy hoạch, tiêu chuẩn, điều kiện, yêu cầu, nhiệm vụ chính trị và khả năng đáp ứng của cán bộ. Đồng thời, cần chú trọng phát hiện, giới thiệu những nhân tố mới có đức, có tài, có uy tín, có triển vọng. Trong công tác nhân sự, phải xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn; coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa việc nâng cao chất lượng cấp ủy với bảo đảm cơ cấu ba độ tuổi, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số.

Công tác nhân sự cần tiến hành từng bước, từng việc, chắc chắn, thận trọng, chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch nhưng phải thật sự đúng người, đúng việc.

Cần tăng cường kiểm soát công tác cán bộ và chuẩn bị nhân sự cấp ủy; nghiêm cấm mọi biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tìm cách nâng người này, hạ người kia, gây nghi ngờ, làm mất đoàn kết nội bộ.

Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; bản thân hoặc vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính.

Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, nắm chắc cán bộ; những đảng viên có vấn đề về chính trị phải được cấp có thẩm quyền thẩm tra, kết luận trước khi giới thiệu bầu vào cấp ủy. Phương án nhân sự cấp ủy phải gắn kết chặt chẽ với công tác chuẩn bị nhân sự các cơ quan nhà nước ở các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và nhân sự lãnh đạo đoàn đại biểu Quốc hội khóa XV của tỉnh, thành phố.

Đại hội là cơ quan lãnh đạo, tập trung bản lĩnh, trí tuệ của toàn đảng bộ. Do đó, việc lựa

chọn, bầu đại biểu dự đại hội cấp trên phải là những đồng chí thật sự có phẩm chất, năng lực, uy tín và tiêu biểu cho trí tuệ của đảng bộ; đồng thời bảo đảm cơ cấu hợp lý, nhất là cơ cấu đại biểu giữa địa phương với ngành, lĩnh vực công tác để nâng cao hơn chất lượng thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đại hội.

Sau đại hội, các cấp ủy cần làm tốt việc phân công công tác đối với cấp ủy viên theo đề án nhân sự, bảo đảm phù hợp với năng lực, sở trường của từng cán bộ; chủ động xây dựng quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch công tác toàn khóa; coi trọng công tác tư tưởng, thực hiện tốt và kịp thời chế độ, chính sách đối với các đồng chí không tái cử theo quy định; có kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện, sớm đưa nghị quyết đại hội vào cuộc sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đại hội đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa”. Việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến hết nhiệm kỳ và để thiết thực chào mừng 90 năm Ngày thành lập Đảng, 75 năm Ngày thành lập Nước, 45 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và hướng tới Đại hội XIII của Đảng.

Khối lượng công việc rất lớn trong khi thời gian không còn nhiều, các cấp ủy phải đề cao hơn nữa trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XII và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, trên dưới đồng lòng, tích cực chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp, góp phần quan trọng vào sự thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

NGUYỄN PHÚ TRỌNGTổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Việt NamChủ tịch nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt NamNguồn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ8

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

1. Cuối năm 2018, khởi lên từ đoạn video của một nghệ sĩ accordion thể hiện sự bất mãn về chính sách thuế được đưa lên mạng xã hội, những cuộc biểu tình mang tên “Phong trào áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên trong suốt thời gian qua ở Pháp. Phong trào lan nhanh bởi những lời kêu gọi phát tán trên mạng xã hội đã thổi bùng cơn giận dữ, vượt xa mục tiêu ban đầu là kích động biểu tình để phản đối chính sách, trở thành bạo loạn.

Nhìn lại các cuộc “cách mạng màu” hay các cuộc biểu tình bạo động mang hơi hướng của “cách mạng màu” được hiện đại hóa trong mấy thập niên gần đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi bùng bằng kích động, tổ chức và thông tin, khiến ban đầu là các phong trào đường phố, đi đến bạo động và hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ như ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ Latinh(1). Truyền thông xã hội, tin giả đã trở thành từ khóa làm nhiều người liên tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động khiến cả châu Âu và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Ngay tại Mỹ, sau những cuộc biểu tình chiếm phố Wall (năm 2011), giới chính trị gia đã chỉ trích đích danh Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn”. Báo chí phương Tây cũng đúc rút phương thức dùng truyền thông xã hội tạo nên những “đám đông” kích động, đó là: châm ngòi xuống đường; triệt để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những cái chết để tạo cớ bạo loạn; sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội để kích động và liên kết trong, ngoài(2).

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.

Ảnh: TTXVN.

Bài học từ những cuộc “cách mạng màu” cho thấy không thể chủ quan,

lơ là mà cần phải chủ động nhận diện, ngăn chặn kịp thời những

nhân tố lợi dụng truyền thông xã hội để tác động đến ổn định chính trị, xã hội từ nhiều hướng, nhiều cách

thức khác nhau. Đó là một trong những nội dung được nhấn mạnh trong bài viết “Truyền thông xã hội

đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Võ Văn Thưởng,

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. Ban Biên tập trân trọng

giới thiệu toàn văn bài viết.

ĐỐI VỚI ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 9

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Truyền thông xã hội là một “dòng chảy thông tin” trên nền tảng, dịch vụ công nghệ cho phép người dùng tạo ra, chia sẻ, trao đổi, thảo luận và thay đổi các nội dung, thiết lập thành các mạng lưới liên kết và tương tác xã hội(3). Truyền thông xã hội, nhất là mạng xã hội liên tục được nâng đỡ, hỗ trợ bởi những công nghệ mới, ngày càng tiện ích hơn, trở thành kênh quan trọng, thúc đẩy quá trình giao tiếp và kết nối xã hội. Các thuật toán cho phép các nền tảng truyền thông xã hội thiết lập các cộng đồng hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau (diễn đàn, nhóm, hội công khai, hoặc bí mật...) có thể thu hút từ hàng nghìn lên đến hàng triệu thành viên, không giới hạn về địa lý, thành phần xã hội. Sự tiếp cận đến từng cá nhân người dùng với tốc độ nhanh tạo ra nhiều cơ hội và lợi ích về truyền tải, tiếp nhận, chia sẻ, thông tin, tri thức; phục vụ các nhu cầu đa dạng của cộng đồng như: kết bạn, giải trí, kinh doanh, bày tỏ quan điểm, phản biện xã hội, lan tỏa những điều tốt đẹp... Đồng thời, cũng từ

các nền tảng truyền thông xã hội bộc lộ những tác động tiêu cực, ẩn chứa những nguy cơ phức tạp, khó lường, thậm chí có khả năng gây chia rẽ sâu sắc, kích động hận thù trong các cộng đồng xã hội, nhất là ở các quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo.

Yuval Noah Harari không hề phóng đại nỗi lo lắng toàn cầu khi cho rằng, Internet, mạng xã hội “là một vùng đất tự do và vô luật làm xói mòn chủ quyền quốc gia, phớt lờ các biên giới, phá hủy quyền riêng tư và đem lại mối đe dọa an ninh toàn cầu có thể nói là đáng sợ nhất”(4). Với những tác động nhiều chiều, có thể xem không gian mạng như “miền chiến sự thứ năm”(5), ở đó, truyền thông xã hội đóng vai trò là một thứ “quyền lực”, vượt mặt truyền thông chính thống, thách thức các biện pháp quản lý hành chính và kỹ thuật của tất cả các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nguồn thu lớn từ truyền thông xã hội vẫn đang đổ về quốc gia phát triển có trình độ công nghệ cao, những dữ liệu cá nhân đang ở trong tay số ít các đại gia công nghệ

Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ10

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

nước ngoài khiến kinh tế, luật pháp, an ninh, chủ quyền đều bị đe dọa. Có người ví Facebook như một “quốc gia” lớn và chắc chắn có thông tin về các “công dân” của nó nhiều hơn bất kỳ chính phủ nào. Khi “dữ liệu trên mạng” là tài nguyên, thông tin là quyền lực, thì chúng ta có cơ sở để lo lắng rằng người nắm quyền “sở hữu thông tin” sẽ “tạo ra nhiều nguy cơ mới, đồng thời khuếch đại những nguy cơ khác”(6). Vụ bê bối dữ liệu do Cambridge Analytica, công ty phân tích dữ liệu chính trị tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin chính trị” tới 87 triệu người dùng là bài học đắt giá làm cho câu hỏi: “Làm thế nào để quản lý được quyền sở hữu thông tin?” trở thành “câu hỏi mang tính chính trị quan trọng nhất trong kỷ nguyên của chúng ta”(7).

Trước những thách thức hiện hữu và nguy cơ tiềm ẩn đòi hỏi phải tư duy lại về mô hình và cách thức quản trị không gian mạng, các quốc gia đang ráo riết thiết lập những hàng rào bảo vệ bằng việc đưa ra những biện pháp cứng rắn. Bởi lẽ, “Quyền quyết sách đối với những vấn đề chính sách công liên quan tới mạng Internet là chủ quyền của các nước”(8). Đức đã thông qua luật về quản lý mạng xã hội (NetzDG), theo đó, những dịch vụ mạng xã hội nếu để xảy ra tình trạng người dùng lăng mạ, gây thù oán hay phát tán các tin tức giả mạo sẽ đối mặt với án phạt nặng có thể lên tới 50 triệu Euro. Australia tuyên bố sẽ phạt các công ty cung cấp dịch vụ mạng và các trang mạng xã hội, có thể phạt tới 10% tổng thu nhập hàng năm, thậm chí phạt tù lên tới 3 năm đối với người điều hành nếu không loại bỏ hoàn toàn các nội dung xấu. Luật chống tin giả của Ai Cập cho phép cơ quan chức năng quyền giám sát các tài khoản cá nhân trên những mạng xã hội có trên 5.000 người theo dõi. Luật An ninh mạng của Thái Lan quy định đối tượng phát tán tin giả sẽ phải chịu 7 năm tù. Philippines mới đây cũng ban hành luật quy định hoạt động truyền bá thông tin giả mạo bị coi là tội phạm hình sự, bị phạt tới 6 tháng tù, kèm khoản tiền phạt hơn 3.000 USD. Còn Singapore, vừa thông qua Dự luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối trực tuyến. Người lan truyền tin giả với dụng ý

xấu, gây tổn hại nghiêm trọng lợi ích cộng đồng có thể đối mặt với bản án 10 năm tù, các công ty mạng xã hội nếu không tuân thủ các quy định có thể bị phạt lên đến 1 triệu đô la Singapore(9)...

2. Trong bối cảnh bất ổn gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới, sự ổn định chính trị, xã hội của Việt Nam là một lợi thế quan trọng để phát triển. Nhờ nhất quán quan điểm: “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động, tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”(10) mà môi trường chính trị, xã hội ổn định, an ninh, an toàn được giữ vững, nội lực đất nước được khơi dậy và phát huy, ngoại lực được tiếp nhận và sử dụng hiệu quả, nên sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, của du khách, là điểm hẹn của khát vọng hòa bình thế giới.

Ổn định chính trị, xã hội dựa vào những nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong đó, nhân tố cốt lõi là “yên dân”, là đoàn kết và đồng thuận, là niềm tin xã hội. Trong quá trình dựng nước, giữ nước, các bậc minh quân luôn coi “yên dân” là “kế sâu rễ bền gốc”, “gốc có vững thì cây mới yên”, thế nước mới vững bền. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cho thấy, “dân là gốc” là tư tưởng dẫn dắt, chi phối đường lối, chủ trương, chính sách, hoạt động của Đảng và Nhà nước; là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong lãnh đạo của Đảng. Không ngừng chăm lo, nâng cao đời sống nhân dân, vun đắp cho mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là nền tảng cho sự ổn định chính trị, xã hội của nước ta trong thời gian qua. Tuy vậy, việc “yên dân” hay lòng dân, niềm tin, đồng thuận xã hội lại luôn bị thử thách, biến động không ngừng trong dòng chảy của thế sự, thời cuộc và các va đập của lịch sử. Năm nay thế này, năm sau có thể thế khác với rất nhiều yếu tố, tầng nấc đan xen tác động. Trong đó, báo chí, truyền thông nói chung, truyền thông xã hội nói riêng có vai trò rất quan trọng.

Sau hơn 20 năm Internet có mặt (từ năm 1997), với hơn 60 triệu người sử dụng, Việt Nam

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 11

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

là quốc gia đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ người dân sử dụng Internet và là 1 trong 10 nước có lượng người dùng Facebook và YouTube cao nhất thế giới. Điều đó cho thấy sự cởi mở, năng động của Việt Nam trong tiến trình hội nhập cùng thế giới số.

Cũng như các quốc gia khác trên toàn cầu, Việt Nam đang khai thác và phát huy những đặc tính ưu việt của truyền thông xã hội, đồng thời, cũng đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực khó kiểm soát từ dạng thức truyền thông mới này. Có thể nhận thấy, “hệ sinh thái” mạng xã hội đã hình thành tầng lớp KOLs (Key Opinion Leader), influencers là những người có “thương hiệu” hoặc là “người bình thường” mà thông tin, quan điểm nêu ra có sức thu hút, ảnh hưởng, được “cư dân mạng” chia sẻ, khuếch tán nhanh trên phạm vi rộng. Họ đa phần là những chủ thể tích cực góp phần tạo nên đời sống thông tin lành mạnh. Nhưng, cũng đã lộ diện những KOLs, influencers có động cơ không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ, thậm chí từng vi phạm pháp luật nhưng lại biết “khơi gợi những cảm xúc xấu xa”; lạm dụng chữ nghĩa, ảo tưởng “quyền lực bàn phím”, luôn tìm cách điều hướng dư luận; tấn công doanh nghiệp nhằm trục lợi; đe dọa, xúc phạm cá nhân, tổ chức... Một số được nuôi dưỡng, cấp phát từ các tổ chức thù địch bên ngoài. Lợi dụng những bất cập trong quản lý nhà nước về Internet, mạng xã hội, chúng thâm nhập vào các nền tảng truyền thông xã hội, “nuôi” nick (tên tài khoản), lập ra hàng trăm nghìn tài khoản ảo và nhiều trang giả mạo cá nhân, tổ chức. Với nhiều thủ đoạn tinh vi được hỗ trợ bởi công nghệ, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội bộ Đảng và nhân dân. Chúng cường điệu những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý để khoét sâu vào xung đột lợi ích, làm chia rẽ xã hội, suy giảm lòng tin, thực hiện “diễn biến hòa bình”, đòi lật đổ chế độ. Từ đó, lôi kéo, tập hợp lực lượng, kích động biểu tình trái phép, chống

đối, bạo loạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội như trong các vụ lợi dụng vấn đề môi trường tại Formosa Hà Tĩnh, phản đối Dự Luật về Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật An ninh mạng...

Có hiện tượng KOLs, influencers được hỗ trợ “không trong sáng” từ những thông tin mật trong nội bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước bị rò rỉ, không loại trừ có cả những cái “bắt tay với âm binh” vô cùng nguy hiểm của những cán bộ suy thoái, cơ hội chính trị, đầy tham vọng cá nhân. Việc các chính trị gia sử dụng truyền thông xã hội làm công cụ để giao tiếp với công chúng, xây dựng hình ảnh hay vận động chính trị không phải là mới mẻ trên thế giới và có thể khuyến khích ở Việt Nam nhưng cần phải được xác lập thành một trong những nguyên tắc hành xử chính trị công khai và minh bạch. Còn việc “đi đêm” với các nhân tố mạng xã hội để tạo “sóng” trong dư luận, vì ý đồ và động cơ cá nhân là điều không thể chấp nhận.

Sự lệch lạc trong nhận thức về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ dẫn đến sai lầm trong hành vi, tạo nên những mối nguy về an ninh, bất ổn chính trị, xã hội. Một bộ phận người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam thường có xu hướng quan tâm, thích (like) và chia sẻ (share) thông tin giật gân, tiêu cực, trái chiều hơn thông tin tích cực, một cách cố tình hoặc vô ý thức, bất chấp các hậu quả. Nhiều người cho rằng mạng xã hội là ảo, không phải chịu trách nhiệm về những phát ngôn, hành xử của mình. Tâm lý đó cộng hưởng với các công cụ được tạo ra để thu hút người dùng của truyền thông xã hội, cùng với sự bất cập, hạn chế trong quản lý của các cơ quan chức năng càng làm cho việc phát tán thông tin xấu, độc trở nên dễ dàng và nguy hiểm.

Tác động xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp, tức thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng xử, lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ12

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Những nghiên cứu gần đây chỉ ra, hiện tượng tin giả, các phát ngôn thù ghét, nói xấu, phỉ báng, vu khống, bịa đặt, kỳ thị dân tộc, tôn giáo, kỳ thị giới tính, các hành vi gây hấn, tấn công trên mạng,... đang trở nên đáng báo động(11). Những hành vi lệch lạc này có thể làm khủng hoảng đời sống của cá nhân, tổ chức, gây nặng nề và trầm cảm xã hội, thậm chí những “cơn bão mạng” có thể “khai tử” doanh nghiệp, có cá nhân đã lựa chọn cái chết làm lối thoát.

Tác động xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp, tức thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng xử, lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp. Những đổ vỡ về giá trị, những tổn thương về tâm lý ảnh hưởng đến đời sống mỗi cá nhân, từ đó, tác động đến ổn định chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhà xã hội học cho rằng, việc dành quá nhiều thời gian cho mạng dẫn đến “cô lập với xã hội thực tại”, “xao nhãng các quan hệ đời thực”, “tin vào đó mà không dành thời gian cho các quan sát, trải nghiệm và tương tác thực tế để đưa ra các quyết định đúng đắn”, thậm chí lệch lạc về nhận thức, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt với giới trẻ. Về lâu dài, có thể khiến sự cố kết xã hội bị rạn nứt sâu sắc, gây phân rã, khó tạo nên sự đồng thuận trong việc chung tay giải quyết các vấn đề của cộng đồng, quốc gia hay nhân loại(12).

3. Có những ý kiến về việc mạng xã hội đã qua đi thời khắc đỉnh cao và đang chững lại. Có những đánh giá lạc quan rằng người dùng mạng xã hội đang dần trở nên sáng suốt hơn, bình tĩnh hơn, trang bị bộ lọc tốt hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn sau khi bị tin giả lừa đảo nhiều lần. Nhưng trong thực tế, có thể khẳng định, truyền thông xã hội là một “mặt trận” ngày càng phức tạp, mở rộng mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để thúc đẩy các “yếu tố cách mạng sắc màu ở Việt Nam”. Bài học từ những cuộc “cách mạng màu” cho thấy không thể chủ quan, lơ là mà cần phải chủ động nhận diện, ngăn chặn kịp thời những nhân tố lợi dụng truyền thông xã hội để tác động đến ổn định chính trị, xã hội từ nhiều

hướng, nhiều cách thức khác nhau. Yêu cầu ấy đòi hỏi phải nhìn nhận đúng về truyền thông xã hội ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực, nhận diện và quản lý những tác nhân gây ảnh hưởng để bảo vệ, phát huy những giá trị tiến bộ được xã hội thừa nhận, đồng thời hạn chế, đẩy lùi, triệt phá những tác động tiêu cực bằng những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả.

Một là, trong lãnh đạo, chỉ đạo cần tiếp tục quán triệt, nhận thức đúng, đầy đủ quan điểm: ”không ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet theo kịp sự phát triển của công nghệ Internet,... chủ động, kiên trì thúc đẩy phát triển đúng hướng đi đôi với quản lý chặt chẽ”(13). Xác định rõ, đây là môi trường mở, độc đáo, đặc biệt quan trọng nằm bên cạnh dòng chảy thông tin của truyền thông truyền thống cần được khai thác tối đa mặt tích cực, cổ vũ những giá trị tiến bộ, định hướng và tiến hành đấu tranh đối với những nhận thức, tư tưởng, quan điểm sai trái. Do đó, phải chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình; chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề bức xúc của người dân; khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập, không để hình thành “điểm nóng”, những xu hướng (trend) tiêu cực trên mạng xã hội. Các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch, kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã hội. Đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tấn công vào nội bộ.

Hai là, khẩn trương thể chế hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong thực tiễn; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng. Thời gian qua, những thay đổi chóng mặt về thuật toán của các nền tảng công nghệ “làm khó” cả về nhận thức và

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 13

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

hành động khiến các cơ quan chức năng vốn đã chậm trễ, hạn chế trong quản lý không gian mạng lại càng lúng túng, bất cập, chưa theo kịp trong việc hoạch định chính sách, pháp luật đối với truyền thông xã hội. Để quản lý tốt, cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, xác thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội... thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa. Bởi lẽ, khi các ràng buộc pháp lý không cụ thể, rõ ràng và đủ mạnh thì các quy tắc đạo đức, văn hóa cũng rất khó để đi vào cuộc sống.

Kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật,... Cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, yêu cầu trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng. Tích cực triển khai thực hiện Luật An ninh mạng với các chế tài đủ mạnh để răn đe, xử lý những hành vi vi phạm, gây hại như lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát tán tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước trên Internet, mạng xã hội...

Ba là, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực. Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm. Vì vậy, phải khẩn trương tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Luật Báo chí năm 2016, sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh Luật cũng như các văn bản dưới Luật để hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý cho hoạt động báo chí. Xác định rõ tiêu chí đối với từng loại hình thông tin điện tử nhất là báo điện tử, tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội; có quy định để điều chỉnh hoạt động của các công ty công nghệ chuyên cung cấp thông tin báo chí. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, của cơ quan báo chí trong thực hiện tôn chỉ, mục đích và nội dung thông tin, trong hợp tác hoạt động báo chí, trong đầu tư nền tảng công nghệ số cho sự phát triển vươn tầm của báo chí. Thực hiện ngay quy hoạch báo chí đã được phê duyệt trong năm 2019, rà soát cấp phép lại hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức, cơ quan trong thời gian qua đã buông lỏng quản lý, có nhiều vi phạm trong hoạt động báo chí. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng những người làm báo về bản lĩnh chính trị, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, công nghệ, trau dồi đạo đức, ý thức về sứ mệnh nghề nghiệp, thực hiện tốt quy định về trách nhiệm và chuẩn mực khi tham gia mạng xã hội.

Bốn là, thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, mạng xã hội. Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công chúng, đo lường thái độ của người sử dụng Internet, tham gia truyền thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm.

Kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ14

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

(1) Từ “Cách mạng nhung” ở Nam Tư năm 2000, “cách mạng hoa hồng” ở Gruzia năm 2003, “cách mạng cam” ở Ucraina năm 2004, “cách mạng hoa tuy líp” ở Kyrgyzstan năm 2005, “cách mạng màu Jean” ở Belarus năm 2006, đặc biệt, “Mùa xuân Ả Rập” ở Tunisia, Ai Cập năm 2010 lan sang Libya, Sirya năm 2011, cho đến những biến động chính trị, xã hội gần đây ở Hy Lạp, Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Áo, Pháp... đều có vai trò tác động của truyền thông xã hội.(2) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trung tâm Thông tin khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng: Hiểm họa từ mặt trái của Internet, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, tr.50.(3) Hội thảo khoa học thuộc đề tài cấp nhà nước KX.01.10/16-20: Mạng xã hội trong bối cảnh phát triển thông tin ở Việt Nam.(4) Yuval Noah Harari: Lược sử tương lai, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.445.(5) Bên cạnh mặt đất, bầu trời, biển cả và vũ trụ.(6) Jean Tirole, nhà kinh tế học giành giải Nobel: Quản lý các tác nhân gây xáo trộn, Dự báo 2019, Đại biến động, TTXVN, Project Syndicate, Hà Nội, 2018, tr.92.(7) Yuval Noah Harari: 21 Lesson for the 21st Century, Jonathan Cape, London, 2018, p. 80.(8) Liên hợp quốc: Tuyên bố nguyên tắc Xây dựng xã hội thông tin: Thách thức toàn cầu trong thiên niên kỷ mới, Mục a, Điều 49 (WSIS-03/GENEVA/DOC), Hội nghị thượng đỉnh về xã hội thông tin, Gieneva, 12/12/2003.(9) Theo Nhân dân điện tử: Cuộc chiến chống tin giả và nội dung bạo lực trên mạng xã hội, 10/4/2019 http://www.nhandan.com.vn/thegioi/item/39805002-cuoc-chien-chong-tin-gia-va-noi-dung-bao-luc-tren-mang-xa-hoi.html); Theo Vietnamnet.vn: Singapore: Luật chống tin giả khiến người dùng mạng xã hội phải cẩn trọng, 14/05/2019 (https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-cong-nghe/singapore-luat-chong-tin-gia-khien-nguoi-dung-mang-xa-hoi-phai-can-trong-531604.html)...(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa X, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, P.I, tr.40.(11) Theo khảo sát của chương trình nghiên cứu Internet và xã hội (VPIS) thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2017).(12) Nhóm tác giả Nguyễn Hoài Sơn, Lê Quang Ngọc, Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn Đức Vinh, Viện xã hội học, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam: Một số chiều cạnh biến đổi xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (http://www.haiphong.gov.vn/PortalFolders/ImageUploads/SKHCN/12/Cong%20nghiep%204.0/Bien%20doi%20xa%20hoi%20trong%20CMCN%204.0.pdf).(13) Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X ngày 25/12/2013 về “Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet”.

Năm là, truyền thông xã hội khác biệt vì nội dung do người dùng tạo ra và thông tin mang tính cá nhân hóa cao, do đó, sự quản lý của Nhà nước là cần thiết nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức người dùng. Việc người dùng nâng cao sức “đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh, lịch lãm trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên truyền thông xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.

Cho nên, cần chú trọng tăng cường các biện pháp tuyên truyền nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức, trách nhiệm khi tham gia các nền tảng truyền thông xã hội của mọi công dân. Giáo dục định hướng giá trị để người trẻ biết tránh khỏi các biểu hiện lệch lạc về nhận thức và hành vi; trang bị cho học sinh, sinh viên kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin.

Phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người điều hành website, blog, fanpage, các KOLs, influencers, người trẻ trong xây dựng môi trường Internet, mạng xã hội lành mạnh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia mạng xã hội phải giữ vai trò là lực lượng nòng cốt đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực và xem đây là giải pháp thường xuyên, lâu dài.

Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên, cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định. Tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, an toàn, trong đó, truyền thông xã hội là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng, sẽ góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững.

VÕ VĂN THƯỞNGỦy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng

Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ươngNguồn: Tạp chí Tuyên giáo

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 15

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

I. KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÔNG HỘI ĐỎ - TIỀN THÂN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

1. Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam

Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân; duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê... lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ là những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổng số công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh... Sau chiến tranh thế giới

lần thứ nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và tốc độ lớn hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai khoáng, giao thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may... nhằm tăng cường vơ vét và bóc lột ở các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.

Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy, xí nghiệp. Cuối năm 1920, người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng đã vận động thành lập Công hội Ba Son ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

2. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ - tiền thân của Công đoàn Việt Nam ngày nay

Quá trình hình thành và phát triển của Công hội đỏ Bắc Kỳ gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong những năm đầu của thế kỷ XX. Người đã tham gia Công đoàn hải ngoại Anh khi hoạt động tại Luân Đôn trong những năm 1914 - 1917; gia nhập Công đoàn Kim khí quận 17 Pari vào năm 1919. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người đặt cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng cho việc thành lập tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trong tác phẩm

Tuyên truyền giáo dục

ĐỀ CƯƠNG

TUYÊN TRUYỀN 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM (28/7/1929 - 28/7/2019)

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ16

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

“Đường Kách mệnh”, Người chỉ dẫn: “Công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Tháng 6/1925, Người sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu - Trung Quốc và trực tiếp giảng dạy nhằm nâng cao lý luận chính trị cho học viên.

Những năm 1925 - 1928, dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào “Vô sản hóa” đã thâm nhập sâu rộng vào trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm lò để tuyên truyền, vận động công nhân tích cực tham gia phong trào đấu tranh. Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên (3/1929), đặc biệt là sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) là kết quả của quá trình vận động, tổ chức công nhân mà Nguyễn Đức Cảnh là một trong những sáng lập viên và giữ vai trò quan trọng. Trên cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương lâm thời phân công phụ trách công tác vận động công nhân. Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức Công hội, của công nhân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, bóc lột, bảo vệ quyền lợi của công nhân, Nguyễn Đức Cảnh và những người đồng chí đã tích cực tổ chức cuộc vận động phong trào công nhân, trước hết là phong trào công nhân Bắc Kỳ để thành lập tổ chức Công hội. Ngày 28/7/1929, Đại hội đại biểu Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất khai mạc do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh chủ trì. Đại hội đã quyết định thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, thông qua Điều lệ và hệ thống tổ chức của Công hội, ra báo “Lao động” và tạp chí “Công hội Đỏ”, bầu Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh làm Hội trưởng. Sự kiện thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ là mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Kể từ đây, GCCN Việt Nam có một đoàn thể cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, đứng ra dẫn dắt phong trào.

II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN QUA CÁC THỜI KỲ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tổng Công hội Đỏ đã tập hợp lực lượng thợ thuyền, đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam, tạo nên cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Cuối năm 1931, phong trào đấu tranh của GCCN Việt Nam bị thực dân Pháp đàn áp dã man, hầu hết số cán bộ Đảng và Công hội Đỏ đều bị địch bắt, khiến cho mối liên lạc giữa Đảng và quần chúng, giữa Công hội Đỏ và phong trào công nhân gần như bị gián đoạn. Trong điều kiện đó, bất chấp sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, Công hội Đỏ vẫn tích cực tuyên truyền, vận động công nhân, phát triển tổ chức. Từ năm 1932-1936, phong trào cách mạng trong cả nước bắt đầu phục hồi.

Từ năm 1936-1939, tổ chức Công hội Đỏ đổi tên thành Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu chuyển sang thời kỳ hoạt động bán công khai(1). Nhờ sự tổ chức linh hoạt, thích hợp với tình hình, phong trào công nhân giai đoạn này vẫn phát triển mạnh mẽ lên đỉnh điểm mới. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đầu hàng và thỏa hiệp với phát xít Nhật thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân ta, thủ tiêu các quyền tự do nghiệp đoàn. Trước tình hình đó, tổ chức Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu phải rút vào hoạt động bí mật và lấy tên là “Hội công nhân phản đế”, năm 1941 đổi thành “Hội Công nhân cứu quốc” làm nòng cốt cho hoạt động của tổ chức Việt Minh.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam thực sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Với trên 20 vạn người trong năm 1945, các đoàn viên Công đoàn trở thành lực lượng nòng cốt làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 17

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 3/1946, Hội nghị đại biểu Công nhân cứu quốc Bắc Bộ, Trung Bộ và Tổng Công đoàn Nam Bộ đã quyết định thống nhất về mặt tổ chức trên phạm vi cả nước thành “Hội Công nhân cứu quốc”. Tháng 6/1946, tại Hội nghị cán bộ Công đoàn cứu quốc đã đổi tên “Hội Công nhân cứu quốc” thành “Công đoàn”. Ngày 20/7/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” đã chính thức được thành lập và được công nhận là thành viên chính thức của Liên hiệp Công đoàn thế giới vào năm 1949.

Trong những năm đầu đất nước giành độc lập, tổ chức Công đoàn và GCCN Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, tham gia tích cực vào cuộc Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, các đội cảm tử Thủ đô, trong đó nòng cốt là công nhân đã chiến đấu với tinh thần quả cảm, anh dũng.

Thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức vận động công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ) tập trung xây dựng nhà máy, công xưởng, sản xuất vũ khí, khí tài quân sự; khắc phục khó khăn, hăng hái thi đua lao động phục vụ kháng chiến. Tại chiến khu Việt Bắc, từ ngày 01-15/01/1950, Đại hội lần I Công đoàn Việt Nam đã khẳng định mục tiêu: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”. Tại Đại hội này, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch.

Tháng 02/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế phục vụ tổng phản công, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, Công đoàn vận động công nhân hăng hái sản xuất và tham gia quản lý, xây dựng

xí nghiệp. Đây là bước chuyển biến lớn về nhận thức tư tưởng và phương thức hoạt động Công đoàn. Từ đây trong các xí nghiệp quốc doanh, Công đoàn đại diện cho công nhân tham gia các Ủy ban xí nghiệp, góp phần trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, đưa nền kinh tế kháng chiến phát triển về mọi mặt. Ở vùng tự do, Công đoàn phát động công nhân “Thi đua sản xuất, thi đua xây dựng”, “Cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến, trau dồi nghề nghiệp”. Phong trào được tổ chức, chỉ đạo tương đối chặt chẽ, thực hiện dân chủ trong quản lý sản xuất.

Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết, phát huy vai trò tiên phong của GCCN vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, đấu tranh kiên cường, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

3. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai miền, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH), miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ.

Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Hội nghị Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khóa I) họp vào tháng 8/1954 đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là “Cần phải động viên, tổ chức đông đảo quần chúng lao động trong các đô thị thành một lực lượng mạnh mẽ làm chỗ dựa tốt nhất, chắc chắn nhất cho chính quyền tiến hành công tác tiếp thu, phục hồi sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự thành phố”.

Ở miền Bắc tiến hành công cuộc tái thiết đất nước, khó khăn tiếp tục đặt lên vai người công nhân. Với trách nhiệm chủ nhân của đất nước, đội ngũ CNVCLĐ đã đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hoạt động sản xuất tại các cơ sở công nghiệp đã phục hồi. Qua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, những điển hình

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ18

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

trong phong trào thi đua yêu nước của GCCN được lan tỏa, như “Sóng Duyên Hải”, “Hợp tác xã Thành Công”, “Ba quyết tâm”... đã xuất hiện nhiều CNVCLĐ tiêu biểu được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, là những tấm gương sáng trong học tập, lao động sản xuất và chiến đấu.

Ở miền Nam, phong trào công nhân, Công đoàn hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm ra sức khủng bố, đàn áp. Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn, đời sống của CNVCLĐ khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở trong nội thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát triển lực lượng, tổ chức cho công nhân đấu tranh.

Ngày 5/11/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Sắc lệnh số 108-SL/L10 về ban hành Luật Công đoàn đã tạo cơ sở pháp lý, nâng cao vị trí của tổ chức Công đoàn, củng cố vai trò lãnh đạo của GCCN trong tình hình mới. Thắng lợi của công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa đã tạo ra những tiền đề quan trọng góp phần xây dựng và đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, thành quả đó có đóng góp quan trọng của GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam.

Trước những yêu cầu mới, Đại hội lần thứ II Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 23 - 27/2/1961 đã quyết định đổi tên “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”. Đại hội đã đề ra mục tiêu: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”; đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 11-14/2/1974 tại Hà Nội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm Chủ tịch danh dự, đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội là “Các cấp Công đoàn phải phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH với năng suất lao động, hiệu quả công tác, phục vụ và tham gia chiến đấu, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Tổng Công đoàn Việt Nam tham gia xây dựng một số chế độ, chính sách bổ sung và sửa đổi về lao động, tiền lương, tiền thưởng. Liên hiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố đã ký kết Nghị quyết liên tịch với cơ quan chính quyền đồng cấp về việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với CNVCLĐ. Nhiều Công đoàn cơ sở đã kịp thời động viên CNVCLĐ thi đua lao động, sản xuất, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Việc thực hiện quy tắc an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp được thực hiện tốt hơn, cải thiện điều kiện làm việc cho CNVCLĐ.

Năm 1965 Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam được thành lập đã không ngừng củng cố và phát triển, vừa tổ chức cho CNVCLĐ các thành phố đấu tranh, vừa động viên CNVCLĐ vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất phục vụ chiến đấu. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Hồ Chí Minh, Công đoàn giải phóng đã vận động CNVCLĐ ở các đô thị đồng loạt nổi dậy, phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

4. Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986)

Đầu năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, đã tạo điều kiện cơ bản để thống nhất tổ chức Công đoàn trên phạm vi cả nước.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, từ tháng 01/1976 Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cho việc thống nhất tổ chức Công đoàn của GCCN Việt Nam. Ngày 6/6/1976, Hội nghị Công đoàn toàn quốc được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định thống nhất Công đoàn hai miền Nam, Bắc thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 19

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 08 - 11/5/1978 đã nêu rõ mục tiêu: “Động viên GCCN và những người lao động khác thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa trong cả nước”; đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ tịch.

Những năm 1981 - 1982, Công đoàn đã tiến hành nhiều đợt tuyên truyền sâu rộng trong công nhân, viên chức về tình hình và nhiệm vụ của đất nước, về chủ trương, chính sách, nhất là các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đi đôi với giáo dục chính trị, Công đoàn đã có nhiều cố gắng trong việc duy trì phong trào học bổ túc văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao; công tác báo chí, xuất bản của Công đoàn đã có những tiến bộ mới.

Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành từ ngày 16 - 18/11/1983 đã khẳng định mục tiêu: “Động viên công nhân, lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, là phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, Đại hội đã Quyết định lấy ngày 28/7/1929 là Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Chủ tịch.

Các phong trào thi đua lao động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong CNVCLĐ đã tạo được bước chuyển biến tích cực, nhiều điển hình tiên tiến và nhân tố mới đã hình thành, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác phát triển đoàn viên được Công đoàn chú trọng, số đoàn viên và Công đoàn cơ sở ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó, Công đoàn còn tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, đề nghị Nhà nước bổ sung phụ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, trợ cấp khó khăn... Các chế độ nghỉ ngơi, tham quan du lịch và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được duy trì, phát triển.

Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/1984), Nhà nước đã tặng Tổng Công đoàn Việt Nam Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam.

5. Thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước (1986 - 2019)

Trong tình hình đất nước tiến hành đổi mới, từng bước hội nhập, Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 17 - 20/10/1988 tại Hà Nội đã xác định mục tiêu: “Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội Quyết định đổi tên “Tổng Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”; đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), đưa đất nước ta dần thoát khỏi khó khăn, ổn định đời sống nhân dân và CNVCLĐ.

Đại hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 09 - 12/11/1993 tại Hà Nội đã nhấn mạnh yêu cầu “Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chăm lo bảo vệ lợi ích công nhân lao động”; đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 03 - 06/11/1998 nhấn mạnh “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh”; đồng chí Cù Thị Hậu được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 10 - 13/10/2003, đồng chí Cù Thị Hậu tiếp tục được bầu lại làm Chủ tịch, Đại hội đã khẳng định “Xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 02 - 05/11/2008 đã xác định mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Công đoàn các cấp, hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động, chuyển mạnh hoạt động Công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ,

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ20

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch.

Nhiệm kỳ lần thứ X của Công đoàn Việt Nam hoạt động trong bối cảnh GCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về xây dựng GCCN, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của hàng triệu CNVCLĐ trong cả nước. Những hoạt động triển khai thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, cùng với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và Công đoàn đã tạo được chuyển biến trong cả nhiệm kỳ hoạt động, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên và người lao động.

Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam được tổ chức từ ngày 27 - 30/7/2013 đã xác định phương châm hành động, đó là “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng tiếp tục được bầu làm Chủ tịch. Đại hội lần thứ XII Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày 24 - 26/9/2018, đồng chí Bùi Văn Cường được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã xác định 09 nhóm chỉ tiêu, 09 nhiệm vụ tổng quát và 03 khâu đột phá trong cả nhiệm kỳ, ngoài ra còn có 01 chương trình trọng tâm “Công đoàn Việt Nam đồng hành cùng Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển bền vững đất nước”.

Có thể khẳng định rằng, trong công cuộc đổi mới đất nước, trải qua 07 kỳ Đại hội Công đoàn Việt Nam, GCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có

mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHIỆM VỤ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Những bài học kinh nghiệm(1) Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết

định thắng lợi trong hoạt động Công đoàn Việt Nam. Bám sát thực tiễn, tổ chức thực hiện sáng tạo chủ trương của Đảng, đồng thời chủ động nghiên cứu, tham mưu kịp thời định hướng phát triển phong trào công nhân và hoạt động công đoàn; phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, hình thành sức mạnh tổng hợp trong hoạt động công đoàn.

(2) Quan tâm chăm lo lợi ích chính đáng của đoàn viên, lấy lợi ích là điểm quan trọng tập hợp, thu hút người lao động đến với tổ chức Công đoàn; tạo sự khác biệt rõ hơn những quyền, lợi ích của người lao động là đoàn viên công đoàn và chưa là đoàn viên công đoàn để tăng cường sự gắn kết giữa đoàn viên với tổ chức Công đoàn.

(3) Thực hiện tốt vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên, người lao động. Tiến hành đồng bộ cả ba khâu: Tham gia xây dựng, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát chế độ, chính sách với sự phân công trách nhiệm của từng cấp công đoàn, đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người lao động.

(4) Chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, kịp thời thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tế. Coi trọng chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy nhu cầu hợp pháp, chính đáng của số đông đoàn viên, người lao động làm nền tảng cho hoạt động công đoàn, phát huy tính tự giác, tự nguyện gia nhập và tham gia hoạt động công đoàn của đoàn viên, người lao động.

(5) Chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong tình

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 21

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

hình mới. Thường xuyên quan tâm, đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn một cách cơ bản, có chiều sâu, tính lâu dài; thực hiện chính sách động viên hợp lý về vật chất, tinh thần; bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp của cán bộ công đoàn.

2. Nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay

(1) Phát triển đa dạng, hiệu quả các hoạt động chăm lo lợi ích cho đoàn viên, người lao động. Đổi mới cơ chế hoạt động xã hội của Công đoàn theo hướng góp phần đảm bảo quyền an sinh xã hội. Nâng cao năng lực đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động, cán bộ Công đoàn; chủ động tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.

(2) Tiến hành thường xuyên, đồng bộ, chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động cho người lao động. Chủ động thông tin về tổ chức và hoạt động Công đoàn, chú trọng công tác định hướng thông tin trên Internet và mạng xã hội. Tham gia xây dựng môi trường văn hóa tích cực trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp; đời sống tinh thần lành mạnh cho người lao động. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền đồng cấp về những vấn đề mới, diễn biến mới trong phong trào công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn.

(3) Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động công đoàn; chú trọng công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở gắn liền với việc nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn; đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

(4) Nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng cho phù hợp với điều kiện sống, làm việc, công tác của cán bộ, CNVCLĐ. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các mô hình, điển hình mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao.

(5) Thực hiện toàn diện và chất lượng công tác nữ công ở các cấp công đoàn, trọng tâm là quyền và việc làm bền vững của lao động nữ; xây dựng gia đình công nhân, viên chức, lao động no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; chăm lo tốt hơn con công nhân, viên chức, lao động.

(6) Chủ động hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế và khẳng định vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam; phát huy hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế hỗ trợ cho hoạt động công đoàn.

(7) Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát công đoàn. Kiện toàn ủy ban kiểm tra và văn phòng ủy ban kiểm tra Công đoàn các cấp, từng bước nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

(8) Tăng cường công tác quản lý thu, chi tài chính, quản lý tài sản công đoàn theo hướng chuyên nghiệp, công khai, minh bạch, thực hiện phân phối công bằng, hiệu quả; xây dựng nguồn lực đủ mạnh để đáp ứng nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới.

(9) Đổi mới phương thức chỉ đạo và tổ chức thực hiện theo hướng lấy người lao động làm trung tâm; hoạt động chủ yếu ở cơ sở; công đoàn cấp trên phục vụ công đoàn cấp dưới; phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Đẩy mạnh cải cách hành chính; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam là dịp để cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ cùng nhân dân cả nước ôn lại, phát huy truyền thống vẻ vang của GCCN và tổ chức Công đoàn Việt Nam; ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

(1) Tại một số nơi, mặc dù bị địch ngăn cản, nhiều nghiệp đoàn vẫn được thành lập và hoạt động công khai. Những nơi chưa giành được quyền tự do nghiệp đoàn, thì công nhân thành lập hội Ái hữu thay thế. Nên giai đoạn này, tên gọi thường mang tên tổ chức song trùng là “Nghiệp đoàn - Ái hữu”.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ22

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các đại biểu dự Đại hội Đảng VI - Đại hội “Đổi mới” của Việt Nam, diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 - 18/12/1986, với chủ đề: “Hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để”. Ảnh: TTXVN.

Tuyên truyền giáo dục

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc (còn gọi là Mười Cúc), sinh ngày 01/7/1915, trong một gia đình

công chức ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.

Tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, ngay từ lúc còn trẻ tuổi, đồng chí Nguyễn Văn

Linh đã tham gia các hoạt động yêu nước và sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1929, đồng chí tham gia phong trào Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.

Ngày 01/5/1930, đồng chí tham gia rải truyền đơn chống thực dân Pháp, bị địch bắt, kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936,

(01/7/1915 - 01/7/2019)

Kỷ niệm 104 NĂM NGÀY SINH

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN LINH

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 23

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền thực dân Pháp phải trả tự do cho đồng chí. Năm đó, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được phân công đi vận động công nhân lao động ở Hà Nội, rồi về Hải Phòng hoạt động. Tại đây đồng chí đã xây dựng cơ sở cách mạng trong công nhân và nhiều tầng lớp Nhân dân khác; gây dựng cơ sở đảng và thành lập Ban Chấp hành lâm thời Thành ủy Hải Phòng.

Năm 1939, đồng chí được điều động vào công tác ở Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố. Cuối năm 1939, đồng chí được phân công vào Trung Kỳ bắt liên lạc với các cơ sở đảng còn lại ở các tỉnh để lập lại Xứ ủy Trung Kỳ. Đầu năm 1941, đồng chí bị địch bắt ở Vinh, kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được đón về Nam Bộ hoạt động ở miền Tây, sau trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến ngay trong lòng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn với các cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc Khu ủy. Năm 1947, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Nam Bộ; từ năm 1949, đồng chí tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy; từ năm 1957 đến năm 1960, quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1961) và sau đó là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1964). Năm 1976, đồng chí là Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, rồi được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến tháng 12/1980. Sau đó đồng chí được phân công theo dõi thực hiện

Nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở các tỉnh miền Nam.

Tháng 12/1981, đồng chí làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6/1985, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, tiếp tục làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 6/1986, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng và được phân công Thường trực Ban Bí thư.

Tháng 12/1986, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1987, đồng chí kiêm chức Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Tháng 6/1987, đồng chí được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VIII.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) và lần thứ VIII (tháng 6/1996) của Đảng, đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh mất ngày 27/4/1998 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 83 tuổi.

Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh gắn liền với những chặng đường cam go, gian khổ, hào hùng của Đảng và dân tộc ta. Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và đất nước. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác. Đồng chí được Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tặng thưởng Huân chương Vàng quốc gia; Nhà nước Cuba tặng thưởng Huân chương Hôxê Mácti; Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăngco.

BBT

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ24

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Từ cuối năm 1949, những thắng lợi về mọi mặt của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã

tiến mạnh, bước sang một giai đoạn mới. Ngày 21/01 đến 03/02/1950, Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng họp đề ra “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị mạnh sang Tổng phản công”, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhân dân và thanh niên cả nước đã hăng hái tích cực đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

Ngày 15/7/1950, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Bác Hồ, Đảng đoàn thanh vận Trung ương quyết định thành lập Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương đầu tiên (tiền thân của Lực lượng Thanh niên xung phong) tại núi Hồng, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên để phục vụ chiến dịch Biên giới. Với 225 cán bộ, đội viên từ lúc mới thành lập cho tới Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 lịch sử, Lực lượng Thanh niên xung phong đã phát triển lên hàng vạn người được phiên chế vào 50 đại đội với các phiên hiệu đội 34, 36, 38, 40, 42, 44, 48... hoạt động trên nhiều vùng rộng lớn ở Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV...

Qua từng thời kỳ, để đáp ứng nhu cầu thực tế của tình hình đất nước, Lực lượng Thanh niên xung phong đã nhiều lần đổi tên:

- Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950), đội trưởng là Vương Bích Vượng.

- Đội Thanh niên xung phong (26/3/1953).- Đoàn Thanh niên xung phong Trung

ương (tháng 12/1963).- Lực lượng Thanh niên xung phong Giải

phóng miền Nam (20/4/1964).- Đội Thanh niên xung phong chống Mỹ

cứu nước (21/6/1965).- Ban Thanh niên xung phong - Lao động

trẻ (tháng 3/1986).Mục đích thành lập Đội Thanh niên xung

phong là nhằm “phát huy sức mạnh dời non lấp biển của tuổi trẻ, xung phong phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước đi đến toàn thắng và làm “trường học lớn” đào tạo rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước phục vụ công cuộc kiến quốc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội tương lai”.

“Thanh niên xung phong là biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại năm 1945.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lực lượng Thanh niên xung phong nêu cao lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần quyết chiến quyết thắng, đã góp phần cống hiến quý báu vào thắng lợi huy hoàng,

(15/7/1950 - 15/7/2019)THANH NIÊN XUNG PHONG 69năm

NGÀY TRUYỀN THỐNG

Kỷ niệm

25

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhhoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, thực hiện ước mơ của bao thế hệ người Việt Nam”.

Thanh niên xung phong trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đã góp phần bảo vệ an toàn các cơ quan Trung ương, tham gia xây dựng các tuyến đường huyết mạch phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trên 16.000 cán bộ đội viên Thanh niên xung phong đã đảm bảo giao thông thông suốt ở các tọa độ lửa như đèo Pha Đin (Sơn La), Ngã ba Cò Nòi (Sơn La)...

Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân xâm lược nước ta. Cùng với bộ đội mang quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, trên 200.000 Thanh niên xung phong tham gia xây dựng đảm bảo huyết mạch giao thông với khẩu hiệu “tim có thể ngừng đập, nhưng mạch máu giao thông không thể tắc”. Những địa danh ghi đậm chiến công của Thanh niên xung phong thời kỳ này như Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), Truông Bồn (Nghệ An), Hàm Rồng (Thanh Hóa), Núi Nhồi (Thanh Hóa), đường 20 Quyết Thắng (Quảng Bình), hang Tám Cô (Quảng Bình)... mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc với niềm tự hào bi tráng nhất.

Cùng lúc ấy, ngày 20/4/1965 tại tỉnh Tây Ninh, Tổng đội Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam được thành lập với quân số ban đầu là 108 người. Tiếp sau đó, trên 5.000 nam nữ thanh niên từ đất mũi Cà Mau đến các tỉnh Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và cả Việt kiều Campuchia đã “đầu quân” vào Tổng đội Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam. Trong 10 năm hoạt động (từ 1965 đến 1975), Tổng đội Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam đã đảm trách hầu hết các chiến dịch quan trọng ở miền Nam như chống cuộc càn Junction-City, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Chiến dịch Hồ Chí Minh..., tham gia 614 trận đánh lớn, xứng đáng với danh hiệu được bộ đội trao tặng: “chân đồng, vai sắt, mắt ngựa, bụng thần tiên”.

Sau đại thắng mùa xuân 1975, thế hệ thứ 4 của Thanh niên xung phong lại tiếp tục lên đường. 300.000 Thanh niên xung phong của thành phố Hồ Chí Minh đã cống hiến sức trẻ và xương máu cho việc khai hoang phục hóa, xây dựng vùng kinh tế mới và bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. 98 liệt sĩ Thanh niên xung phong đã ngã xuống trong giai đoạn này và 47 đội viên Thanh niên xung phong khác trở về cuộc sống đời thường với một phần thân thể không lành lặn.

Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, Thanh niên xung phong cũng như bộ đội đã có những hy sinh mất mát to lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ của Trung ương Hội cựu Thanh niên xung phong Việt Nam, có hơn 5.000 liệt sĩ và hàng vạn thương binh Thanh niên xung phong trên khắp mọi miền đất nước.

Ngày 30/6/1995, thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ đội viên Thanh niên xung phong các thế hệ, theo đề nghị của Ủy ban Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ lúc bấy giờ là đồng chí Võ Văn Kiệt đã ký Quyết định số 382/TTg lấy ngày 15/7 hàng năm làm ngày truyền thống của Lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam.

Với ý chí và nghị lực, thực hiện lời dạy của Bác Hồ:

Không có việc gì khóChỉ sợ lòng không bềnĐào núi và lấp biểnQuyết chí ắt làm nên.

Các thế hệ Thanh niên xung phong đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chịu nhiều hy sinh mất mát, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Những công lao, thành tích và sự hy sinh cống hiến của Thanh niên xung phong hết sức to lớn, đã khẳng định vai trò lịch sử của lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam.

BBT

NGÀY TRUYỀN THỐNG

26

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ

Hiệp định Genève (Thụy Sĩ) được ký ngày 20/7/1954 về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi

bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.

Tháng 01/1954, ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp đã họp tại Beclin và quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Genève để giải quyết hai vấn đề: chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Ngày 26/4/1954, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam kết thúc chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ thì Hội nghị Genève bắt đầu được khai mạc. Tham dự hội nghị có đại diện của: Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, chính quyền Bảo Đại, Campuchia và Lào. Ban đầu, Hội nghị không bàn ngay về vấn đề Đông Dương, mà về vấn đề chiến tranh Triều Tiên.

17h30 ngày 07/5/1954, tin thất bại của thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ gửi về Hội nghị từ Đông Dương. Do đó, sáng ngày 08/5/1954, vấn đề Đông Dương sớm được đưa lên bàn nghị sự. Phái đoàn Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn cùng với 2 phái đoàn của Campuchia và Lào chính thức tham gia. Đại diện Chính phủ Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến dự hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Bản đề nghị 8 điểm nổi tiếng của đồng chí Phạm Văn Đồng cũng được đưa ra làm cơ sở thảo luận tại Hội nghị, bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến Nhân

dân các nước thuộc địa và các nước thực dân, đặc biệt là đối với Nhân dân và chính phủ Pháp. Lập trường cơ bản của Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ. Nước Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và của Lào, Campuchia. Vấn đề thống nhất nước Việt Nam phải do Nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài... Những đề nghị hợp tình, hợp lý của Đoàn đại biểu Việt Nam đã được dư luận tiến bộ ở chính nước Pháp và trên thế giới đồng tình ủng hộ.

Nhìn vào thành phần tham gia Hội nghị, Việt Nam có hai đồng minh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng lại phải đấu tranh với 6 bên còn lại. Do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm chạp. Một mặt, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên phải tham gia công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia; cô lập bọn chủ chiến ở Pháp và bọn can thiệp Mỹ; làm cho Nhân dân Pháp thấy chính phủ Pháp của thủ tướng Laniel lúc bấy giờ là hiếu chiến cần phải thay đổi thì Hội nghị Genève mới thu được kết quả. Đồng thời, Đoàn đại biểu Việt Nam phải triệt để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài Hội nghị. Trong khi đó, lập trường của các đoàn đại biểu các nước phương Tây là hiếu chiến. Đoàn đại biểu Mỹ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương,

VỀ ĐÌNH CHỈ CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH ĐÔNG DƯƠNG

Hiệp định Genève năm 1954

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 27

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

thay chân Pháp xâm lược Đông Dương. Đoàn đại biểu của Vương quốc Anh thì chủ trương ủng hộ Pháp thương lượng trên thế mạnh. Phái chủ chiến của Pháp nhận đàm phán với Việt Nam để tránh búa rìu dư luận và tránh bị Nhân dân Pháp lật đổ, đồng thời cứu nguy cho quân đội Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, Đoàn Pháp và Đoàn đại biểu Mỹ bị ba Đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc kịch liệt lên án về chủ tâm phá hoại Hội nghị.

Kết quả là, do Đoàn đại biểu Pháp vẫn giữ lập trường cứng rắn, nội các của thủ tướng Laniel bị Nhân dân Pháp lên án, buộc phải từ chức ngày 12/6/1954. Phe chủ chiến ở Pháp bị đánh đổ, Mendès France thuộc phái chủ hòa lập chính phủ mới. Ngày 18/6/1954, khi nhậm chức, ông Mendès France tuyên bố sẽ từ chức, nếu trong vòng một tháng không đạt được ngừng bắn ở Đông Dương. Vào thời điểm này, tại Sài Gòn, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng thay Bửu Lộc dưới quyền Bảo Đại.

Cuối giai đoạn 1 của Hội nghị, các bên tham gia đàm phán vẫn thăm dò lẫn nhau về giải pháp và đưa ra lập trường của mình mà không đi đến một thỏa thuận thực chất nào. Từ ngày 10 đến 20/7/1954 là giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán. Các đoàn làm việc rất khẩn trương để giải quyết những vấn đề then chốt. Về vấn đề đình chiến ở Lào và Campuchia, Đoàn đại biểu Việt Nam đấu tranh quyết liệt, nhưng chỉ giành được khu tập kết cho Phathet Lào ở hai tỉnh, mà không đạt được việc điều chỉnh vùng đóng quân cho Khmer Itsarak.

Về vấn đề giới tuyến phân vùng và thời hạn tuyển cử ở Việt Nam, Đoàn đại biểu Việt Nam kiên trì vĩ tuyến 16 và tổng tuyển cử sớm. Ngày 19/7/1954, ba Đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất đưa cho Đoàn đại biểu Pháp phương án cuối cùng giới tuyến đi qua đường số 9, 10 km. Phương án này được Đoàn Việt Nam gợi ý từ tháng 6, nhưng phía Pháp vẫn đòi đi qua vĩ tuyến 18. Tại cuộc họp đêm 20/7/1954, 5 trưởng đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam vào phút chót mới thỏa

thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng, và thời hạn tổng tuyển cử ấn định là hai năm.

Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng, với thiện chí của phái Đoàn đại biểu Việt Nam, ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về đình chỉ chiến tranh ở Đông Dương được ký kết.

Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở ba nước và Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị tạo thành khung pháp lý của Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương. Các nước tham gia Hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.

Theo Hiệp định đã ký kết, nước Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17, các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng “Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ”. Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7/1956 bằng tổng tuyển cử “tự do và dân chủ”. Quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Giám sát quốc tế gồm có Ba Lan, Ấn Độ và Canada sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.

Thắng lợi ở Hội nghị Genève là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp ở Hội nghị Genève; là bài học còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế hiện nay.

BTT

VỀ ĐÌNH CHỈ CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH ĐÔNG DƯƠNG

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ28

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

* HOÀN CẢNH RA ĐỜICách mạng tháng Tám năm 1945 thành

công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần “...thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống, hy sinh một phần xương máu trên các chiến trường. Với truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn, “Đền ơn đáp nghĩa”, Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và Nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.

Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.

Ngày 28/5/1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát Lớn Hà Nội để kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.

Ngày 17/11/1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam đã tổ chức lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ”, mở đầu Cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sĩ.

(27/7/1947 - 27/7/2019)

Tri ân các anh hùng liệt sĩ trên quần đảo Trường Sa. Ảnh: Quang Phong.

Kỷ niệm 72 năm

NGÀY THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 29

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quyết định với những chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ.

Ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.

Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sĩ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh Liệt sĩ. Tại cuộc họp này các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh toàn quốc”. Từ đó hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sĩ.

Từ tháng 7/1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 08/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng,

từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” của cả nước.

Mỗi năm cứ đến “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” nhất là vào dịp kỷ niệm năm tròn, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng.

* Ý NGHĨA LỊCH SỬ NGÀY THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

Ngày Thương binh, Liệt sĩ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu sắc, thể hiện:

- Truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân; qua đó phát huy tinh thần yêu nước, củng cố và bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.

- Tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ, thương binh và người có công; khẳng định sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của Nhân dân là vô giá. Việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và mai sau.

- Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ đối với Tổ quốc; đồng thời cũng luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp Nhân dân, của các thế hệ cách mạng đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

BBTTổng hợp nguồn tài liệu tuyên truyền

của Ban Tuyên giáo Trung ương; http://tulieuvankien.dangcongsan.vn; http://

baotanglichsu.vn; Giang Hà, Nguyễn Thái Anh: "Lịch sử Thanh niên xung phong Việt Nam hình

ảnh và những trang vàng, 60 năm ngày thành lập (1950-2010): Tư liệu và hình ảnh chọn lọc",

H. Thanh niên, 2010, 248 tr.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ30

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Theo dòng sự kiện

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ghi trước cổng nhà chúa đảo, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: CTV.

CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẾN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ

TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân là mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Người

đã dành cả cuộc đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, đem lại hạnh phúc cho Nhân dân. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào tình

KỶ NIỆM 53 NĂM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH RA LỜI KÊU GỌI

“KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”TỪ CHÂN LÝ

Trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc lập không phải là đặc điểm riêng của một dân tộc, một đất nước nào. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé lại phải đương đầu với nhiều kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần để giành lại quyền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước lại là một điều phi thường.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 31

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam; kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, nắm vững quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam “dựng nước phải đi đôi với giữ nước”.

Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đưa ra hệ thống quan điểm, tư tưởng làm cơ sở cho đường lối của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh tiêu biểu cho ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, quyết tâm bảo vệ đất nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Nhân dân ta. Những tư tưởng Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh đã trở thành chân lý, thôi thúc ý chí, quyết tâm của cả dân tộc: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”1. Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết; dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.

Năm 1930, khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người đã khẳng định luận điểm về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”2. Đến năm 1941, Người trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941) Người cũng đã khẳng định nhiệm vụ trên hết của cách mạng là giải phóng dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/9/1945, trong Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”3. Đó vừa là lời thông báo vừa là sự khẳng định mạnh mẽ quyền tự chủ, là sự đoàn kết đồng lòng, quyết tâm của cả dân tộc ta bảo vệ độc lập tự do. Năm 1946, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, với tinh thần quyết chiến và quan điểm đúng đắn “Không

có gì quý hơn độc lập tự do”, ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”4. Cách đây 53 năm, năm 1966, trên Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi Nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: “... Chiến tranh có thể kéo dài 05 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”5. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” - Quan điểm này đã được Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, là mục tiêu, là động lực để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho Nhân dân. Trong bản Di chúc (1969) của Người, tư tưởng độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân cũng được thể hiện rất rõ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”6. Chính quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Người đã tạo ra động lực, nâng cao ý chí chiến đấu của Nhân dân hai miền Nam, Bắc đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, chấp nhận: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ nước Việt Nam như Hiệp định Genève năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam đã công nhận”7.

Dựa trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược sống còn. Nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

“KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO” (17/7/1966 - 17/7/2019)

KỶ NIỆM 53 NĂM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH RA LỜI KÊU GỌI

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ32

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

(khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục kế thừa nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX); đồng thời chỉ rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”8.

Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định rõ quan điểm về bảo vệ Tổ quốc: phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống Nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trong bối cảnh thế giới với sự dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang có nhiều sự thay đổi sâu sắc. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, thúc đẩy đan xen lợi ích, thực hiện can thiệp linh hoạt hơn, kiềm chế, ngăn chặn lẫn nhau để tạo dựng vị thế. Cục diện khu vực đang có những tác động lớn đến quốc phòng, an ninh và đặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước những cơ hội và thách thức mới. Về mặt tích cực, sự điều chỉnh chiến lược của nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương gia tăng vai trò, vị thế chính trị của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; tạo thuận lợi cho Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa; qua đó, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng chính sự điều chỉnh này đang làm phức tạp và gây khó khăn cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Việc điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có thể đẩy các nước nhỏ vào thế bị xâm phạm lợi ích đồng thời làm xuất hiện loại hình “chiến tranh ủy nhiệm”. Trong cục diện khu vực có sự điều chỉnh, cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, nước nhỏ luôn phải cảnh giác với chính sách thỏa hiệp, “đi đêm” của các nước lớn sẽ gây phương hại đến lợi ích quốc gia, nhất là phương hại đến độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Chính vì thế, việc Đảng cùng toàn quân và toàn dân thấu suốt tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một điều hết sức cần thiết để chúng ta vận dụng vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian tới, để thực hiện tốt hơn chiến lược bảo vệ Tổ quốc nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ... chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp theo quan điểm của Đảng hiện nay:

Một là, xác định đúng đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam làm cơ sở hoạch định đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn.

Hai là, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

“KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO” (17/7/1966 - 17/7/2019)

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 33

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Ba là, đẩy mạnh đan xen lợi ích với các nước; ngăn ngừa xung đột quân sự, hạn chế nguy cơ chiến tranh.

Bốn là, giải quyết những tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền trên khu vực Biển Đông trên nguyên tắc hòa bình và thượng tôn luật pháp quốc tế, trong đó Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).

Năm là, tiếp tục quán triệt cho các cấp, ngành, địa phương, lực lượng và toàn dân nắm vững, thấu suốt tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân.

Sáu là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Kỷ niệm 53 năm thực hiện tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (17/7/1966 -17/7/2019), chúng ta càng nhận rõ hơn tầm vóc, ý nghĩa và giá trị to lớn, xuyên suốt của nó trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn, lịch sử và hiện thực sâu sắc, tiếp tục soi đường để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vận dụng thực hiện trong tình hình mới, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, ổn định, phát triển đất nước giàu mạnh như mong muốn của Bác Hồ.

CHU THỊ PHƯƠNG NGỌC

Lời Bác Hồ dạy

“KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO”

“...Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, được Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi sáng 17-7-1966, trong thời điểm đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào tham chiến trực tiếp trên chiến trường miền Nam; đồng thời, leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm đè bẹp ý chí đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là động lực tinh thần to lớn, thôi thúc lớp lớp các thế hệ người Việt Nam đồng tâm, nhất trí, anh dũng, kiên cường, sẵn sàng hiến dâng máu xương, chiến đấu, hy sinh đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, hung bạo, giải phóng dân tộc và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trở thành dân tộc tiêu biểu cho lương tri của nhân loại trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở thế kỷ XX.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; song giá trị của lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn không hề thay đổi. Chân lý đó đã, đang và sẽ tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng chính là cội nguồn để tạo nên “những thành tựu có ý nghĩa lịch sử”, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, t.9, tr.592 Sđd, t.3, tr.13 Sđd, t.4, tr.34 Sđd, t.4, tr.5345 Sđd, t.15, tr.1316 Sđd, t.4, tr.1877

Bộ Ngoại giao: Mặt trận Ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb CTQG, H.2004, tr.481.8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.78.

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ34

Theo dòng sự kiện

LỊCH SỬ HÌNH THÀNHCách đây 74 năm, trong khí thế sục

sôi của Cách mạng, Tỉnh ủy Cần Thơ chủ trương xây dựng LLVT để chuẩn bị cho thời cơ Tổng khởi nghĩa nổ ra. Để làm cơ sở xây dựng LLVT địa phương, tháng 6/1945 tỉnh Cần Thơ (cũ) đã tổ chức “Thanh niên Tiền phong” (tiền thân của LLVT Cần Thơ hiện nay). Giữa tháng 7/1945, tại nhà đồng chí Trần Ngọc Quế ở Tham Tướng, Tỉnh ủy Cần Thơ đã tổ chức Hội nghị bàn về phát triển lực lượng và tổ chức hoạt động chiến tranh du kích; đồng thời ra Nghị quyết chuyên đề

về tổ chức và huấn luyện lực lượng du kích ở các địa phương. Ngày 30/7/1945, LLVT tỉnh Cần Thơ chính thức ra mắt ngay giữa thị xã Cần Thơ, với tên gọi “Xung phong đội” (tổ chức công khai của “Thanh niên Tiền phong”), gồm 7 trung đội với 300 quân, được trang bị vũ khí, làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Từ sự kiện lịch sử đó, ngày 30/7 hàng năm trở thành Ngày truyền thống vẻ vang của LLVT Cần Thơ.

Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, LLVT Cần Thơ đã tổ chức các

TIẾP BƯỚC TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG

Chiến sĩ mới tuyên thệ

dưới Quân kỳ quyết thắng.

KỶ NIỆM 74 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CẦN THƠ (30/7/1945 - 30/7/2019)

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CẦN THƠ

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 35

hoạt động tác chiến trên địa bàn nông thôn, ven đô và nội ô đô thị, diệt và kềm địch bảo vệ vùng căn cứ kháng chiến, phối hợp với bộ đội chủ lực lập nhiều chiến công trong các trận như: Tầm Vu, đánh chìm tàu địch trong trận Cái Sình (Vị Thanh), trận Giồng Sao (Long Mỹ), các trận đánh ở Phong Điền, Giai Xuân và chiến công phối hợp với Tiểu đoàn 307 tiêu diệt đồn Bảy Ngàn trên kênh xáng Xà No. Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, LLVT Cần Thơ đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 130.000 tên địch, trong đó có hàng trăm tên Mỹ, diệt và bắt nhiều sĩ quan, binh lính, tề, ngụy, ác ôn, thu hơn 8.400 súng các loại, diệt 817 đồn bót, căn cứ quân sự, phá tan khu trù mật Vị Thanh, đưa hơn 13.000 dân về quê quán, phá hàng trăm ấp chiến lược, diệt một tiểu đoàn chủ lực và 9 tiểu đoàn bảo an, bắn rơi, đánh chìm, bắn cháy hơn 600 máy bay, tàu chiến, xe quân sự của địch. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nhân dân và LLVT Cần Thơ đã đóng góp nhiều thành tích trong xây dựng phát triển quê hương và bảo vệ thành quả Cách mạng, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân; tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nghĩa vụ Quốc tế giúp bạn Campuchia.

Ghi nhận thành tích của LLVT Cần Thơ, ngày 20/12/1994, Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT Nhân dân trong thời kỳ kháng chiến; năm

2010 được tặng danh hiệu Anh hùng LLVT Nhân dân thời kỳ đổi mới; năm 2015, được tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, năm 2018 được Bộ Quốc phòng tặng Cờ dẫn đầu trong phong trào thi đua quyết thắng. Vinh quang đó, trước hết thuộc về Đảng bộ và Nhân dân Cần Thơ, là người tổ chức, lãnh đạo LLVT Cần Thơ; vinh quang đời đời thuộc về các Anh hùng liệt sĩ, cán bộ và chiến sĩ đã không tiếc xương máu để đổi lấy độc lập tự do cho Tổ quốc. TIẾP BƯỚC TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn Cách mạng mới, xác định vai trò nòng cốt trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh Nhân dân. Đảng ủy - Bộ CHQS thành phố đã chủ động tham mưu Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố ban hành các chủ trương, giải pháp quan trọng, cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về công tác Quân sự, Quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ; kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường Quốc phòng, An ninh; nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp ủy, chính quyền và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, của toàn dân trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Trải qua 74 năm xây dựng, chiến đấu trưởng thành, Lực lượng vũ trang (LLVT) Cần Thơ đã chiến đấu anh dũng, mưu trí, sáng tạo, lập nên nhiều chiến công hiển hách, với nhiều trận đánh gắn liền nhiều địa danh đã đi vào lịch sử. Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, LLVT Cần Thơ luôn phát huy vai trò nòng cốt, đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ36

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Công tác tuyển quân đi vào nền nếp, tiến hành giao nhận quân hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu, chất lượng không ngừng được nâng cao. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng và An ninh, được đặc biệt quan tâm đã mở rộng được nhiều đối tượng, chú trọng chức sắc, chức việc các tôn giáo; cán bộ, giảng viên các trường đại học; phóng viên, biên tập viên các cơ quan thông tấn, báo chí; đội ngũ văn nghệ sĩ... nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ và Nhân dân, xác định tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quan tâm chăm lo xây dựng LLVT thành phố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng lực lượng thường trực, Dân quân tự vệ, dự bị động viên có số lượng và chất lượng tốt; luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, diễn tập. Công tác phối hợp hoạt động giữa lực lượng Quân sự và Công an các cấp ngày càng chặt chẽ và đạt kết quả tốt đã phối hợp tuần tra, truy quét tiến công tội phạm bắt và xử lý hàng ngàn vụ, thu hồi trả lại tài sản cho Nhân dân và Nhà nước trị giá hàng tỷ đồng; kịp thời huy động hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ... di dời tài sản và Nhân dân đến nơi an toàn, qua đó tạo được sự tin yêu của cấp ủy, chính quyền, Nhân dân đối với LLVT thành phố, tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Chủ động, tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; thực hiện tốt công tác chính sách và chính sách hậu phương Quân đội, với nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo. Đặc biệt mô hình Tết quân dân, với nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa như xây dựng cầu, đường giao thông, trường học, nhà Tình đồng đội, Đại đoàn kết, tình thương, khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí, tặng quà cho gia đình chính sách, hộ nghèo, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao... được tổ chức ở vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo... qua 13 năm tổ chức Tết quân dân, đã huy động được trên 260 tỷ đồng, hàng ngàn ngày công lao động, đã mang đến cho đồng bào những cái Tết thực sự đầm ấm, nghĩa tình, tô thắm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân. Qua hoạt động Tết quân dân đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập Kỷ lục “Chiếc bánh tét dài nhất”, “Bản đồ Việt Nam bằng trái cây lớn nhất”, “Bộ CHQS thành phố Cần Thơ - địa phương đầu tiên tổ chức Tết quân dân 10 năm liên tục”. Mô hình này còn

được Ban Dân vận Trung ương, Tổng Cục Chính trị đánh giá cao, Bộ Tư lệnh khu chỉ đạo nhân rộng trong LLVT Quân khu.

Trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian tới, để kế tục, phát huy truyền thống Anh hùng, đòi hỏi LLVT thành phố phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo lực lượng thường trực, dân quân tự vệ và dự bị động viên giữ vững bản chất giai cấp công nhân, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và Nhân dân. Chủ động, sáng tạo tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; xây dựng vững khu vực phòng thủ thành phố vững chắc, động viên cả hệ thống chính trị và Nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của thành phố. Chủ động hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, diễn tập. Chủ động phối hợp với Công an thành phố nắm chắc tình hình, địa bàn, đối tượng, kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền ngăn chặn, xử lý có hiệu quả trước sự lợi dụng tự do, dân chủ, tôn giáo, nhân quyền để chống phá, không để bị động bất ngờ. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi trọng công tác chính sách và hậu phương Quân đội; tích cực tham gia các phong trào, các cuộc vận động các cấp, ngành, nhất là Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “LLVT thành phố chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, tiếp tục phát huy hiệu quả mô hình Tết quân dân, Đối thoại chính sách với người có công... góp phần xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân gắn bó, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc. Tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống “Trung thành với Đảng, đoàn kết quân dân, tự lực tự cường, anh dũng quyết thắng” của đơn vị 02 lần Anh hùng LLVT Nhân dân.

Bài, ảnh: NGUYỄN THẮNG

Ngày 12/11/2018, Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ ban hành Hướng dẫn số 08-HD/TU “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” (Hướng dẫn số 08-HD/TU). Qua 6 tháng thực hiện, hầu hết các chi bộ đã đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt chi bộ.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 37

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Xây dựng Đảng

Đồng chí Hồ Truyền Thống (đứng), Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan Dân Chính Đảng thành phố dự họp lệ Chi bộ 6, Đảng bộ Báo Cần Thơ đánh giá chất lượng cuộc họp theo Hướng dẫn số 08-HD/TU.

Nâng cao

Vừa qua, chúng tôi có dịp dự buổi sinh hoạt định kỳ tháng 6/2019 của Chi bộ ấp Nhơn Thọ 1A, xã Nhơn Ái, huyện

Phong Điền. Tại buổi sinh hoạt, 24 đảng viên (ĐV) có mặt đầy đủ, đúng giờ. Chi bộ tập trung đánh giá kết quả chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của ấp tháng qua. Buổi sinh hoạt diễn ra trong không khí thẳng thắn, dân chủ, đa số ĐV chủ động tham gia phát biểu ý kiến, đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ của ấp.

SINH HOẠT CHI BỘCHẤT LƯỢNG

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ38

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Theo đồng chí Nguyễn Minh Thế, Bí thư Chi bộ, Trưởng ấp, trước đây, ĐV tham gia họp lệ mỗi kỳ chỉ đạt 70%, hầu hết ĐV dự họp không phát biểu; khi được giao nhiệm vụ, một số ĐV chưa nêu gương thực hiện. Thực hiện Hướng dẫn số 08-HD/TU, chi ủy quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng nên ĐV đã nêu cao tinh thần, trách nhiệm, tham gia sinh hoạt đạt trên 90%, tham gia phát biểu sôi nổi và có trọng tâm hơn; khi được giao nhiệm vụ ĐV tích cực tham gia.

Cùng với nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ, từ đầu năm đến nay, chi bộ tổ chức 2 buổi sinh hoạt chuyên đề về huy động sức dân xây dựng các công trình giao thông và vận động bao phủ bảo hiểm y tế. “Nhờ đổi mới nội dung sinh hoạt, trách nhiệm của ĐV được nâng lên, chi bộ ấp đã phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo trên địa bàn ấp. Từ đó, nhiều phong trào, nhiệm vụ có sự chuyển biến tích cực. Điển hình như trồng hoa tuyến đường bên trái Rạch Nốp dài hơn 3.400m; khơi thông dòng chảy tuyến kinh dài 1.700m; vận động bao phủ bảo hiểm y tế đạt gần 80% dân số; thu các loại phí quỹ đạt 100% kế hoạch năm” - đồng chí Nguyễn Minh Thế cho biết.

Theo đồng chí Nguyễn Đại Phước, Bí thư Đảng ủy xã Nhơn Ái, tất cả 13 chi bộ trực thuộc Đảng ủy thực hiện nghiêm túc Hướng dẫn số 08-HD/TU, chất lượng sinh hoạt nâng lên. Trong đó, tỷ lệ ĐV tham gia sinh hoạt đạt trên 90%, số lượng ĐV tham gia phát biểu trong cuộc họp đạt từ 60 - 80%, ý thức trách nhiệm của ĐV có chuyển biến tích cực. Nhờ vậy, các chi bộ được đảng ủy viên dự họp đánh giá đạt mức tốt ở cả 5 tiêu chí sinh hoạt chi bộ theo Hướng dẫn số 08-HD/TU (tỷ lệ ĐV dự sinh hoạt, công tác chuẩn bị sinh hoạt, tổ chức sinh hoạt, thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và kết quả lãnh đạo thực hiện kết luận hoặc nghị quyết chi bộ).

Tại xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, đồng chí Nguyễn Việt Triều, Bí thư Đảng ủy, cho biết: Tất cả 14 chi bộ trực thuộc đều đã thực hiện nghiêm túc Hướng dẫn số 08-HD/TU. Trước khi tổ chức sinh hoạt, các chi bộ đều đăng ký thời gian để Đảng ủy phân công Thường trực Đảng ủy và Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy dự họp, đánh giá chất lượng. Nhìn chung, qua 6 tháng

thực hiện Hướng dẫn số 08-HD/TU, sinh hoạt của các chi bộ đi vào nền nếp, chất lượng được nâng lên. ĐV tham gia họp lệ đông hơn trước, số lượng đạt trên 90%; mỗi cuộc họp có từ 70 - 80% ĐV phát biểu ý kiến có trọng tâm; tinh thần tự phê bình và phê bình được phát huy.

Đại úy Hồ Hoài Phương, Bí thư Chi bộ, Trưởng Công an xã Trường Xuân B, nói: “Chi bộ có 7 ĐV, nếu như trước đây các ĐV thụ động, chưa tự giác tham gia phát biểu ý kiến trong họp lệ thì nay thực hiện Hướng dẫn 08, được Bí thư Chi bộ gợi ý sâu sát, trong mỗi cuộc họp tất cả đều phát biểu có trọng tâm, trọng điểm, tinh thần trách nhiệm cao, từ đó chi bộ đề ra nghị quyết sát đúng hơn”. Theo Đại úy Hồ Hoài Phương, từ khi thực hiện Hướng dẫn 08, trong sinh hoạt, chi bộ quan tâm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; việc đổi mới tác phong làm việc; việc phòng chống quan liêu, tiêu cực, nhũng nhiễu, đùn đẩy trách nhiệm; việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của ĐV... Từ đó, chất lượng các mặt công tác được nâng lên. Trong 6 tháng qua, tình hình an ninh trật tự được giữ vững ổn định, chi bộ không có ĐV suy thoái và vi phạm. Các cuộc sinh hoạt của chi bộ được cấp ủy cấp trên dự họp đánh giá theo các tiêu chí đạt tốt.

Đảng bộ TP Cần Thơ hiện có 14 đảng bộ cấp trên cơ sở và 01 Đảng bộ cơ sở được giao quyền cấp trên cơ sở (Trường đại học Y dược Cần Thơ) trực thuộc Thành ủy với 687 tổ chức cơ sở đảng, 2.471 tổ chức Đảng trực thuộc (trong đó 42 đảng bộ bộ phận và 2.429 chi bộ). Thực hiện Hướng dẫn số 08-HD/TU, các cấp ủy đảng đã chỉ đạo các chi bộ nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ; phân công cấp ủy viên cấp trên dự họp để hướng dẫn các chi bộ tổ chức sinh hoạt đúng nội dung hướng dẫn và đánh giá chất lượng sinh hoạt của chi bộ. Đồng thời, định kỳ hàng quý các cấp ủy đảng chỉ đạo chi bộ lựa chọn những vấn đề bức xúc, cấp bách và những chỉ tiêu, nhiệm vụ thực hiện còn hạn chế, khó khăn để tổ chức sinh hoạt chuyên đề, bàn giải pháp thực hiện. Nhờ vậy, các chi bộ đã từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt, phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo và sức chiến đấu, lãnh đạo thực hiện tốt các mặt công tác, nhiệm vụ, phong trào.

Bài, ảnh: AN BÌNH

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 39

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Nhiều hộ dân ở khu vực Thới Thuận chuyển đổi mô hình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao.

VÌ NHÂN DÂN PHỤC VỤ

Thời gian qua, Chi bộ khu vực Thới Thuận, phường Phước Thới, quận Ô Môn, đã tích cực vận động Nhân dân nâng cấp đường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ môi trường... Nỗ lực đó đã góp phần nâng cao đời sống Nhân dân, xây dựng khu dân cư ngày càng phát triển.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ40

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Những ngày này, người dân khu vực Thới Thuận chuẩn bị thu hoạch mè. Anh Phùng Văn Hiệp phấn khởi nói:

“Nhờ cán bộ vận động chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh tế gia đình ngày càng khấm khá hơn”. Anh Hiệp kể, trước đây với 2,5 ha đất thuê, gia đình anh trồng 3 vụ lúa, nhưng không có lãi. Nghe cán bộ vận động chuyển những vùng đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang trồng màu, anh quyết định chuyển sang trồng mè ở vụ xuân hè. Anh Hiệp cho biết: “Trồng mè ít tốn công chăm sóc. Xen vụ mè giữa 2 vụ lúa làm cho đất màu mỡ, nhẹ chi phí cho vụ lúa sau mà năng suất cao. Nhờ chuyển đổi mô hình sản xuất, năm 2018, thu nhập gia đình tôi khoảng 110 triệu đồng”.

Việc chuyển đổi sản xuất 3 vụ lúa sang 2 vụ lúa 1 vụ mè được bà con đồng tình hưởng ứng. Năm 2018, khu vực có 22 ha sản xuất mè; năm nay tăng lên 25 ha. Trong đó, một số cán bộ khu vực tích cực cùng thực hiện với dân. Điển hình như ông Trần Văn Thòn, Chi hội Trưởng Hội Cựu chiến binh khu vực, đã chuyển 6.000m2 trồng 3 vụ lúa sang trồng 2 vụ lúa 1 vụ mè, cho hiệu quả kinh tế cao. Ông Thòn, chia sẻ: “Mình cũng tham gia thì việc vận động bà con làm theo sẽ thuận lợi hơn. Trồng mè vụ xuân hè lời 3 triệu đồng/công trong khi trồng lúa lời 1 triệu đồng/công nên bà con phấn khởi lắm”.

Theo đồng chí Nguyễn Văn Tấn, Bí thư Chi bộ, Trưởng khu vực Thới Thuận, học Bác làm những việc có lợi cho dân, trong những năm qua, cán bộ khu vực đẩy mạnh vận động xã hội hóa huy động sức dân chỉnh trang đô thị. Điển hình như tuyến đường từ rạch Chùm Hồi dài 850m được bê-tông khang trang nhờ vào sự đóng góp của bà con với trị giá 170 triệu đồng và 367 ngày công lao động. Chị Nguyễn Thị Tám, người dân ở khu vực nói: “Trước đây, tuyến đường này mưa xuống sình lầy, nước

thủy triều ngập sâu nên đi lại rất khó khăn. Cán bộ khu vực tổ chức họp dân, vận động bà con cùng nhau góp tiền mua vật tư và bỏ ngày công lao động nâng cấp đường cao ráo, sạch đẹp”. Ngoài ra, cán bộ khu vực còn vận động mạnh thường quân hỗ trợ 15 triệu đồng đổ đá tuyến đường rạch Sang Trắng dài 60m, giúp việc đi lại dễ dàng. Hiện nay, cán bộ khu vực đang vận động bà con đóng góp khoảng 175 triệu đồng chuẩn bị nâng cấp tuyến đường thuộc khu tái định cư rạch Chùm Hồi.

Đẩy mạnh việc học tập và làm theo Bác, chi bộ chỉ đạo các đoàn thể khu vực có những hành động thiết thực chăm lo cho đời sống người dân, như: giới thiệu vay vốn, động viên bà con chí thú làm ăn... Hàng năm, khu vực vận động nhiều phần quà, gạo, tập hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, có hoàn cảnh khó khăn... Riêng năm 2018, cán bộ khu vực vận động mạnh thường quân hỗ trợ sửa chữa 01 căn nhà trị giá 10 triệu đồng. Bà Nguyễn Ngọc Dung, 60 tuổi, bộc bạch: “Căn nhà lúc trước của tôi mái tôn cũ, thấp nên mưa lớn bị dột, ngập gây khó khăn cho sinh hoạt gia đình. Thật mừng khi cán bộ khu vực vận động sửa nhà, thường xuyên tặng quà, gạo”. Nhờ tập trung nhiều giải pháp, năm 2018 khu vực có 2 hộ thoát nghèo. Hiện nay, khu vực chỉ còn 01 hộ nghèo.

“Thời gian tới, chi bộ tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả hơn. Trong đó, tập trung chăm lo đời sống Nhân dân, xây dựng khu vực ngày càng phát triển, góp phần cùng Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân giữ vững phường Phước Thới đạt văn minh đô thị” - đồng chí Nguyễn Văn Tấn xác định.

Bài, ảnh: THANH THY

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 41

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Đó là chủ đề Chương trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc” năm 2019, do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức hàng năm tại các đảo trên mảnh đất hình chữ S.

Năm nay, chương trình diễn ra tại huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Hòa cùng 400 sinh viên cả nước, 21 cán bộ Hội, hội viên, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng được Hội Sinh viên Việt Nam TP. Cần Thơ cử chọn tham

gia hồ hởi được đặt chân đến vùng đất giữa trùng khơi của Tổ quốc. Bởi nơi đó không chỉ là thiên đường du lịch còn

được mệnh danh “địa ngục trần gian” của chế độ thực dân, đế quốc.

Các bạn sinh viên TP. Cần Thơ xem lại nơi lưu giữ những tội ác của chế độ thực dân, đế quốc đối với chiến sĩ cách mạng Việt Nam được lưu giữ tại Bảo tàng Côn Đảo.

Tiếp bước NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ42

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Hệ thống các nhà tù Côn Đảo được mệnh danh là “địa ngục trần gian” - nơi giam cầm, tra tấn dã man biết bao người chiến sĩ cách mạng Việt Nam kiên trung đã ngã xuống nơi này để cho đất nước được độc lập, tự do.

Các bạn sinh viên đến thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Hàng Dương và mộ nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu.

CÔN ĐẢO - “ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN”Vượt gần 40 hải lý (từ Cảng Trần Đề, tỉnh

Sóc Trăng đến huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đoàn hành trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc” đã đặt chân đến Côn Đảo. Trong hàng loạt hoạt động ý nghĩa của chương trình các bạn trẻ cho rằng, được đến tìm hiểu, học tập tại các nhà tù ở Côn Đảo đã khắc sâu trong tâm khảm mỗi người một niềm tự hào bởi có một thế hệ cha ông anh dũng, kiên cường trước tội ác man rợ của thực dân, đế quốc đối với những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam yêu nước bị giam cầm.

Theo lời thuyết minh, ngày 28/11/1861, thực dân Pháp chiếm Côn Đảo. Đến ngày 01/02/1862, Thủy sư đô đốc Pháp Bonard ký quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo để lưu đày, giam giữ những người chống lại thực dân Pháp và sau này là chế độ Sài Gòn cũ. Ở đây, chúng cho xây dựng hàng trăm xà lim, phòng giam, phòng biệt lập trong các hệ thống nhà tù Côn Đảo và ít nhất 18 sở tù để đày ải những người yêu nước và tù chính trị làm lao dịch khổ sai. Hệ thống nhà tù Côn Đảo thời Pháp bao gồm các trại giam Bagne (Banh) I - hay còn gọi là Trại Phú Hải; Bagne II - Trại Phú Sơn; Bagne III - Trại Phú Thọ - Biệt lập chuồng

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 43

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Đến với Côn Đảo được nghe những câu chuyện lịch sử thật sự làm em xúc động, được chạm vào từng song sắt nhà tù mà lòng căm phẫn sục sôi. Điều bất ngờ nữa khi đến Trại tù Phú Bình được gặp cô kiểm soát vé, cô nói cô không phải thuyết trình viên ở đây nhưng mọi ngõ ngách nơi “địa ngục trần gian” này cô đều tường tận, cô kể vanh vách từng câu chuyện đầy bi thương của những người chiến sĩ cách mạng bị tù đày tại Côn Đảo. Hình ảnh các bạn sinh viên đứng vây quanh cô, nghiêm túc lắng nghe. Ai trong chúng tôi cũng đều hiểu vì sao cô ấy không phải thuyết minh viên, nhưng lại hiểu rõ tường tận lịch sử nơi “địa ngục trần gian” này. Đơn giản, chúng tôi biết có được điều đó bởi một tình yêu Tổ quốc tuyệt đối trong mỗi con người Việt Nam và phải luôn ghi nhớ máu xương cha ông đã đổ xuống vì độc lập tự do của dân tộc. Còn bạn Nguyễn Ngọc Đăng Khoa (Phó Bí thư Đoàn trường, Phó Chủ tịch Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ), bộc bạch: Đến và nghe thuyết minh các nhà tù tại Côn Đảo tôi thầm hỏi tại sao con người lại có thể đối xử với con người như vậy. Nhìn những khung sắt, vách tường trơ trụi đã lụi tàn theo thời gian nhưng tội ác man rợ của kẻ thù lại lẩn quẩn trong đầu tôi rất rõ hình ảnh đầy đau khổ của các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm ngày ấy. Khi nghe kể về lúc Côn Đảo giải phóng, lúc đảo liên lạc được đất liền các vị lãnh đạo đã hỏi: Ở ngoài đảo thiếu gì? Chúng tôi thiếu rất nhiều. Nhưng hiện tại cái chúng tôi cần là ảnh Bác. Nghe thuyết minh vậy tất cả chúng tôi nghẹn ngào.

THIÊNG LIÊNG ĐÊM TRI ÂN TẠI NGHĨA TRANG HÀNG DƯƠNG

Một hoạt động khác ghi khắc trong tình cảm của các bạn trẻ tham gia Chương trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc” năm 2019, đó là tri ân các anh hùng tại nghĩa trang Hàng Dương. Tại đây, hàng ngàn chiến sĩ đã được an táng, trong đó có lãnh tụ cách mạng như: Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh, Lưu Chí Hiếu, nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu,…

Nghĩa trang Hàng Dương có diện tích khoảng 190.000 m2, gồm 4 khu là khu A, khu B, khu C, khu D. Theo số liệu, có khoảng 20.000 tù nhân đã ngã xuống ở Côn Đảo. Tuy nhiên, không

gà; Bagne III phụ - Trại Phú Cường; Chuồng bò; Chuồng Cọp. Chính tại nhà tù Côn Đảo, thực dân Pháp đã giam cầm, xiềng xích, gông cùm và thực hiện đủ các đòn tra tấn vô cùng tàn bạo hòng dập tắt ý chí đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng. Ở Chuồng cọp, mỗi chuồng giam có những hàng song trần ở trên nóc, bên trên là lối đi dành cho cai ngục theo dõi tù nhân. Chúng coi người tù cách mạng không khác gì thú vật, sẵn sàng cầm những chiếc gậy dài chọc xuống. Khi tù nhân khát, cai ngục sẽ đổ ào nước xuống buồng giam chật chội, bẩn thỉu. Hình phạt dành cho những ai có dấu hiệu chống đối là rắc vôi bột xuống mịt mù. Tù nhân không chỉ bị bỏ đói, bị xiềng xích mà còn bị tra tấn dã man và lao dịch khổ sai như đập đá làm đường, xây dựng cầu tàu, đốn gỗ, xay lúa, lấy san hô nung vôi,... Lao động vất vả như vậy nhưng chế độ ăn uống vô cùng kham khổ, thậm chí chúng trộn lẫn cơm với cát, sạn, thóc, trấu, mảnh sành cho tù nhân ăn. Lao động cực nhọc nguy hiểm, ăn uống kham khổ và đòn roi hiểm độc đã làm hàng nghìn người tù cách mạng chết ở Côn Đảo. Nghe đến đó, nhiều tiếng nấc nghẹn, các bạn trẻ xuýt xoa: “sao mà tàn ác thế”, “không thể tưởng tượng được chuyện đó xảy ra với các bậc tiền bối”… Giọng người thuyết minh viên lại vang lên, tất cả không hẹn mà các bạn sinh viên lại im phăng phắc. Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Côn Đảo, năm 1955, Mỹ ngụy tiếp quản Côn Đảo. Chúng xây dựng thêm 4 trại giam mới gồm Trại 5 (Trại Phú Phong); Trại 6 (Trại Phú An); Trại 7 (Trại Phú Bình - Chuồng cọp kiểu Mỹ) và Trại 8 (Trại Phú Hưng). Mỗi trại tù có 2 dãy, mỗi dãy có 48 phòng giam biệt lập. Những người tù bị chúng đưa về đây để tra xét tàn bạo với những công cụ tra tấn rùng rợn, phi nhân tính. Mỹ - Ngụy sử dụng các hình thức tâm lý chiến, tra tấn, nhục hình nhằm trấn áp cả thể xác lẫn tinh thần của người tù Côn Đảo. Chúng cho tù nhân vào thùng phuy, đổ đầy nước, lấy gậy đập mạnh phía ngoài thùng phuy. Chúng đánh đập, dí điện vào tai, nhốt người tù vào chuồng cọp, rải vôi sống, cho phơi nắng, phơi sương nhiều tuần liền, ngâm tù nhân vào trong hầm phân bò,... Bạn Trương Thị Lục Phường (sinh viên Trường Đại học Y Dược Cần Thơ), chia sẻ:

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ44

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

phải tất cả đều nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù được lập ở khu vực Chuồng Bò, sau dời lên Hàng Keo. Đến lúc nghĩa địa Hàng Keo gần hết chỗ, thực dân Pháp mở nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù nhân. Khu A nghĩa trang, nơi có phần mộ cụ Nguyễn An Ninh và đồng chí Lê Hồng Phong là nơi an táng những ngôi mộ đầu tiên. Mỗi người tù xấu số được liệm bằng 2 chiếc bao bàng (đan bằng loại cỏ ống), cột 7 nút lại rồi đưa ra vùi qua loa xuống cát. Có thời gian, mỗi ngày từ 15 đến 20 người tù chết, tất cả được chất lên xe bò chở ra Hàng Dương vùi chung một hố. Năm 1944, khu A đã chật mộ, nhà tù đã mở rộng nghĩa trang về phía Nam, tức khu B hiện nay. Hài cốt lớp tù nhân kháng chiến chống Pháp (1945-1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát chạy dài xuống phía Đông Nam, nơi có phần mộ Liệt sĩ - Anh hùng lực lượng vũ trang Võ Thị Sáu. Hài cốt lớp tù nhân chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chôn tiếp qua khu C, khu D.

Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài mang một hình tượng “Trao áo”. Dưới chân bức tượng có ghi hàng chữ “Vĩnh biệt các đồng chí”. Tượng đài được xây dựng từ câu chuyện “Chết còn cởi áo cho nhau”. Người trao áo là ông Vũ Văn Hiếu (nguyên là Bí thư đầu tiên của đặc khu mỏ Hòn Gai tháng 10/1930), còn người nhận áo nguyên là cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. Về đêm, những cụm đèn khắp nơi tỏa sáng. Tiếng nhạc trầm, dịu nhẹ phát ra từ những chiếc loa nhỏ đặt rải rác trong khuôn viên nghĩa trang hòa cùng tiếng sóng vỗ rì rào từ biển, tiếng gió nhẹ trên những cành dương nghe như tiếng hát ru giấc ngủ ngàn thu của những người con ưu tú của đất nước đang yên nghỉ ngàn đời nơi Côn Đảo anh hùng.

Đến thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Hàng Dương, xúc động trước sự hy sinh của những người chiến sĩ cách mạng, sinh viên Hà Minh Thông (Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Trường Đại học Nam Cần Thơ) cho biết:

Tuổi trẻ thành phố Cần Thơ nguyện tiếp bước truyền thống những người anh hùng.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 45

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Tôi đã tham gia nhiều lần thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhưng không hiểu sau lần này có cảm giác trào dâng niềm cảm xúc khác lạ, có lẽ chúng tôi được nghe thuyết minh nhiều về sự hy sinh kiên cường và tấm lòng quả cảm của các anh hùng đã dành hết tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Vì thế, đêm hôm đó các bạn sinh viên cố gắng thắp lên từng ngôi mộ nén hương để anh linh các liệt sĩ được ấm lòng.

Đến thắp hương lên phần mộ của nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu - nữ tử tù đầu tiên và duy nhất ở Côn Đảo, bạn Phan Quốc Việt (Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Trường Cao đẳng Cần Thơ), bồi hồi: Nhớ về khí phách hiên ngang của chị khiến kẻ thù phải kính phục, kiêng nể. Từ bờ môi Quốc Việt tự nhiên bật lên thì thầm lời hát “Mùa hoa lêkima nở. Ở quê ta miền đất đỏ. Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng...”!.

NGUYỆN TIẾP BƯỚC NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG

Chia sẻ về Chương trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc” năm 2019, anh Lâm Văn Tân (Phó Chủ tịch Thường trực Hội Sinh viên Việt Nam TP. Cần Thơ), khẳng định: Thông qua chương trình này nhằm cung cấp thêm kiến thức về biển đảo, khẳng định chủ quyền biên giới, biển đảo quê hương cho các bạn sinh viên, từ đó mỗi bạn xác lập cho mình những suy nghĩ tích cực, hành động đúng đắn góp sức vào việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Điều đặc biệt, năm nay hành trình ý nghĩa hơn khi đến với Côn Đảo - nơi được mệnh danh “địa ngục trần gian”, qua đó giúp các bạn sinh viên hiểu sâu sắc tội ác của kẻ thù đối với những chiến sĩ cách mạng Việt Nam và hun đúc thêm tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc trong mỗi bạn sinh viên.

Để tiếp bước những người anh hùng của dân tộc, sinh viên Nguyễn Nhật Duy (Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ), xác định: Phấn đấu sức trẻ, khỏe, hội nhập tốt, tình nguyện tốt, không ngừng học tập và tích cực tham gia các hoạt động, phong trào do trường cũng như các tổ chức phát động; đồng thời ra sức tuyên truyền vận động thanh niên, sinh viên có lối sống

lành mạnh, tiên phong trong học tập và làm theo gương Bác Hồ vĩ đại; sẵn sàng đảm nhận việc mới, khó khăn, luôn tìm tòi, nghiên cứu, chủ động trong lập thân, lập nghiệp.

Trở về từ chuyến hành trình, các bạn sinh viên sẽ tiếp tục với nhiệm vụ học tập và rèn luyện năng lực, phẩm chất. Trong tâm khảm mỗi bạn còn mang về đất liền những câu chuyện về người chiến sĩ cách mạng kiên cường bất khuất nơi Côn Đảo để kể lại cho bạn bè, thầy cô, người thân chưa được đến Côn Đảo. Để họ cùng đồng cảm, vun đắp thêm nghị lực cho cuộc sống; bởi trong gian khổ, tăm tối như thế mà những người tù nơi Côn Đảo còn bảo vệ được khí tiết cách mạng thì có khó khăn nào mà thế hệ hôm nay không thể vượt qua.

Viết tiếp bản hùng ca của những người con ưu tú đất Việt, bạn Nguyễn Ngọc Đăng Khoa (Phó Bí thư Đoàn trường, Phó Chủ tịch Hội sinh viên Trường Cao đẳng Nghề Cần Thơ), khát khao lý tưởng: Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng; tiếp bước cha anh - những người đã hy sinh xương máu cho quê hương, Tổ quốc là phải biết vượt qua khó khăn và sống đẹp - sống có ích cho xã hội. Đăng Khoa, nhắn nhủ: Thế hệ trẻ thời đại Hồ Chí Minh đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải luôn ý thức chúng ta đã làm được gì cho xã hội, cho đất nước; phải thấy được cái gian khổ, sự hy sinh của cha ông nơi “địa ngục trần gian” nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Vậy thì hôm nay, con đường chúng ta đi kiên định tiếp bước cha ông dưới ngọn cờ đỏ sao vàng; tuổi trẻ phải là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phải luôn cảnh giác trước các thế lực thù địch, luôn giương cao và vững vàng tiến dưới ngọn cờ của Đảng.

Tuyệt đối tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, tuổi trẻ hôm nay nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình, tích cực rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, sống có niềm tin, hoài bão, nguyện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các vị cách mạng tiền bối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài, ảnh: HOÀNG TRƯỜNG SA

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ46

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Cùng với đồng bào cả nước, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ, cũng như trong các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, Nhân dân huyện Vĩnh Thạnh đã tiễn

đưa hàng ngàn người thân của mình lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc... Năm tháng qua đi, những người vợ, người mẹ đã cạn hết nước mắt khi hay tin các anh đã mãi không trở về, hoặc có những gia đình vui vầy sum họp khi

người thân may mắn trở về nhưng một phần cơ thể đã “gửi lại” nơi chiến trường hoặc chịu

sự tổn hại sức khỏe nặng nề do ảnh hưởng bom đạn, chất độc hóa học... Vẫn biết chiến tranh là

mất mát, chiến tranh là phải có hy sinh, nhưng sự mất mát và hy sinh ấy rất vẻ vang, các anh đã cống hiến tuổi xuân của mình cho Tổ quốc sống

mãi, cho quê hương thanh bình.

Đồng chí Trần Việt Trường, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Họp mặt gia đình chính sách tiêu biểu huyện Vĩnh Thạnh xuân Kỷ Hợi 2019.

Toàn huyện Vĩnh Thạnh có 335 người thuộc diện chính sách, trong

đó có 224 người được trợ cấp hàng tháng, bao gồm 3 Mẹ Việt Nam Anh hùng, 80 thương bệnh binh, 67 gia đình liệt sĩ... và 111 trường hợp thuộc diện thờ cúng liệt sĩ. Thời gian qua, huyện Vĩnh Thạnh triển khai thực hiện đầy đủ, chu đáo các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho những người có công với đất nước. Trong căn nhà tình nghĩa được bàn giao cách đây 2 năm, bà Nguyễn Thị Ánh ở ấp Qui Lân 5, xã Thạnh Quới vẫn còn giữ niềm vui như ngày đầu mới được bàn giao nhà. Bà Ánh là vợ của liệt sĩ Bùi Văn Hường hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ năm 1969. Trước đây cuộc sống gia đình bà rất khó khăn, được địa phương bố

U ống nước nhớ nguồnU V ĨNH THẠNH NÊU CAO ĐẠO LÝ

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 47

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

trí vào ở tại khu dân cư, rồi sau đó bà được xét trao tặng nhà tình nghĩa do Ngân hàng Quân đội tài trợ. Có được căn nhà khang trang, ấm áp, bà Nguyễn Thị Ánh phấn khởi, chia sẻ: “Có được ngôi nhà vững chắc, khang trang, tôi vui lắm, vì có chỗ nơi thờ cúng ông nhà, đây cũng là nguồn động viên lớn lao đối với gia đình giúp chúng tôi an tâm lao động sản xuất”.

Công tác đền ơn đáp nghĩa là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, không chỉ thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” mà đó còn là trách nhiệm của cả thế hệ hôm nay và mai sau. Tính từ năm 2004 đến nay, huyện Vĩnh Thạnh đã xây dựng và sửa chữa 273 căn nhà tình nghĩa, trị giá hàng chục tỷ đồng. Cùng với các chế độ ưu đãi của Nhà nước, các hoạt động chăm lo gia đình chính sách, người có công được thực hiện thường xuyên, các dịp lễ Tết, huyện và các xã, thị trấn còn vận động xã hội hóa, tổ chức đoàn đến thăm hỏi, tặng quà, tìm hiểu đời sống, lắng nghe tâm tư nguyện vọng để kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Con liệt sĩ, thương binh cũng được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm tạo điều kiện học hành, đào tạo nghề, giới thiệu giải quyết việc làm, hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế... Ông Nguyễn Văn Hoạch, thương binh 1/4 ở ấp Thắng Lợi, xã Thạnh Lộc, bộc bạch: “Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với gia đình chính sách, người có công với

chữa bệnh miễn phí,... Bởi thế hệ trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã lùi xa, không được tận mắt chứng kiến các cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, nhưng qua những trang sử, những thước phim tài liệu, những ca khúc cách mạng, những câu chuyện kể của ông, cha... Vì thế tuổi trẻ luôn ý thức sâu sắc rằng, cuộc sống hôm nay có được đã phải đổi bằng xương máu, tuổi xuân, cuộc đời, hạnh phúc của biết bao lớp người đi trước.

Từ những việc làm thể hiện đạo lý và trách nhiệm, không chỉ góp phần xoa dịu nỗi đau thương, mất mát mà còn giúp các gia đình chính sách có cuộc sống ngày càng tốt hơn... Ông Đoàn Trung Kiên, Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thạnh, cho biết: “Chăm lo cho gia đình chính sách luôn là mục tiêu mà huyện Vĩnh Thạnh hướng đến nhằm thực hiện tốt đạo lý đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Các hoạt động nghĩa tình đối với gia đình chính sách, người có công với cách mạng đã và đang trở thành nghĩa cử cao đẹp, việc làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm chăm lo cả đời sống vật chất lẫn tinh thần cho các hộ. Điều đáng mừng là đến nay, hầu hết các gia đình chính sách ở huyện đều có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân địa phương và hiện nay Vĩnh Thạnh không còn hộ nghèo thuộc diện gia đình chính sách”.

Bài, ảnh: MINH HẢI

cách mạng trong đó có gia đình tôi, tôi cảm thấy rất ấm lòng, tôi luôn tự nhủ và động viên con cháu phải cố gắng sống tử tế để xứng đáng với sự quan tâm đó”.

Điều đáng ghi nhận là công tác đền ơn đáp nghĩa ở huyện Vĩnh Thạnh đã trở thành phong trào sâu rộng, có sức lan tỏa và thu hút đông đảo các cấp, các ngành, các tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia... Phát huy bản chất và truyền thống sáng ngời của “Bộ đội Cụ Hồ”, các cấp Hội Cựu chiến binh huyện Vĩnh Thạnh luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống. Hội đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ưu đãi của Ngân hàng Chính sách Xã hội với tổng dư nợ trên 32 tỷ đồng. Nhiều hội viên đã mạnh dạn áp dụng các mô hình kinh tế phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện địa phương để cải thiện cuộc sống gia đình và trở thành gương sáng cho nhiều người noi theo. Ngoài hỗ trợ vốn làm kinh tế, các hoạt động nghĩa tình đồng đội được triển khai tích cực, kịp thời mang lại hiệu quả thiết thực. Tính từ năm 2012 đến nay, các cấp Hội đã vận động cán bộ, hội viên đóng góp xây dựng và sửa chữa 26 căn nhà “Tình đồng đội”, với tổng trị giá hơn 1,5 tỷ đồng... Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên đán hay kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, các cấp bộ Đoàn ở Vĩnh Thạnh lại rôm rả các hoạt động chăm lo gia đình chính sách, tổ chức đoàn đến thăm hỏi, tặng quà, khám

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ48

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ- Ban Thường vụ Thành ủy tập trung chỉ đạo

các cấp ủy trực thuộc, các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” theo tinh thần Thông báo Kết luận số 53-TB/TW ngày 30/3/2019 của Bộ Chính trị; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch tả lợn (heo) Châu Phi; công tác chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em; tăng cường công tác quản lý xử lý hiệu quả rác thải. Tổ chức quán triệt, triển khai, sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương đúng quy định, cụ thể như: Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) “Về công tác dân tộc”, tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 50-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về quy chế thôi

giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức của cán bộ”, sơ kết 05 năm thực hiện: Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”; Chỉ thị số 33-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản”; Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao”... Bên cạnh đó, Ban Thường vụ Thành ủy tổ chức Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; qua đó, biểu

TIN THÀNH PHỐ

TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÁNG 5 NĂM 2019

Đồng chí Trần Quốc Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy phát biểu kết luận cuộc họp Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ họp đánh giá kết quả công tác tháng 5, triển khai nhiệm vụ công tác trọng tâm tháng 6/2019. Ảnh: An Bình.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 49

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

dương, khen thưởng 54 tập thể, 75 cá nhân tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

- Thường trực Thành ủy tổ chức các đoàn công tác đến kiểm tra, nắm tình hình hoạt động và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị tại một số địa phương, đơn vị; qua đó, kịp thời chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc và các giải pháp thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả cao hơn. Đồng thời, chủ trì tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Ban Bí thư Trung ương Đảng kiểm tra tình hình thực hiện Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về Hội quần chúng” và Đoàn công tác của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiểm tra việc chỉ đạo tổ chức Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và công tác chuẩn bị Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Cần Thơ lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024; tham dự Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV; tham dự các hội nghị, sự kiện quan trọng tổ chức trên địa bàn thành phố.

- Ban Thường vụ Thành ủy tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch (lần 3) cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhiệm kỳ 2020 - 2025 và đề nghị Trung ương phê duyệt quy hoạch chức danh Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ, nhiệm kỳ 2021 - 2026; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo đề án đã được phê duyệt; thực hiện công tác luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, sắp xếp, bố trí cán bộ đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình, quy định; thực hiện thí điểm bố trí, sử dụng và quản lý công chức theo vị trí việc làm các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cấp ủy đảng, cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác rà soát, bổ sung quy hoạch (lần thứ 3) cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp kịp thời, đúng quy định, cụ thể: Ban Thường vụ Thành ủy điều động, phân công, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 05 đồng chí diện Thành ủy quản lý; hiệp y bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 03 đồng chí; thống nhất nhân sự Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố khóa IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024; kiện toàn tổ chức Ủy ban Kiểm tra cấp ủy trực thuộc Thành ủy; chuẩn y bổ sung 01 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Trường Đại học Y Dược

Cần Thơ; 01 Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Quận ủy và giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quận ủy Cái Răng, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Các cấp ủy đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đảm bảo nghiêm túc, chặt chẽ, đúng quy định của Điều lệ Đảng. Trong tháng, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 17 đảng viên (trong đó, khiển trách: 12, cảnh cáo: 02, khai trừ: 03). Tổ chức đưa 25 cán bộ hưu trí và đương chức thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý khám sức khỏe tại Bệnh viện Thống nhất thành phố Hồ Chí Minh. Tặng Bằng khen cho 03 đảng bộ cấp trên cơ sở đạt “Trong sạch, vững mạnh” tiêu biểu năm 2018, 02 tổ chức đảng cơ sở, 02 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở đạt “Trong sạch, vững mạnh” tiêu biểu và 32 đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 05 năm liền (2014 - 2018); thực hiện tốt công tác chính sách cán bộ; quyết định tặng 288 Huy hiệu Đảng đợt 19/5/2019; giải quyết 63 trường hợp cán bộ, đảng viên đi nước ngoài.

- Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố tổ chức giám sát chuyên đề “Hoạt động tuyển sinh và đào tạo khối ngành y - dược tại một số cơ sở đào tạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ”; tổ chức tốt các hội nghị tiếp xúc cử tri, tổng hợp ý kiến cử tri trước kỳ họp.

- Hệ thống Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành phố thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thành phố thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ tổ chức Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 đảm bảo trang trọng, nghiêm túc, dân chủ và đoàn kết. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

Trong tháng, chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp ước tăng 4,5% so với tháng trước, tăng 8,2% so với cùng kỳ; lũy kế 5 tháng, ước tăng 6,25% so với cùng kỳ (trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,35; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,4%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 6,38%...). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước thực hiện đạt 11.031 tỷ đồng, tăng 12,82% so với cùng kỳ; lũy kế 5 tháng ước đạt 56.815 tỷ đồng, tăng 13,11% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước thực hiện đạt 187 triệu USD, tăng 14,66% so với cùng kỳ; lũy kế 5 tháng ước thực

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ50

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

2018 - 2019 đúng quy định, nghiêm túc, chất lượng; kiểm tra việc triển khai học tập, áp dụng quy chế thi trung học phổ thông năm 2019; tập trung chuẩn bị tổ chức tốt Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2019. Y tế, chuẩn bị tổ chức cho trẻ em từ 6 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi uống bổ sung Vitamin A liều cao; thực hiện chương trình giám sát suy dinh dưỡng trẻ em năm 2019; sốt xuất huyết mắc 104 ca, không tăng, không giảm; tay chân miệng mắc 80 ca, tăng 21 ca; sởi và sốt phát ban nghi sởi 100 ca, tăng 37 ca; thủy đậu mắc 03 ca, không tăng, không giảm. Giải quyết việc làm cho 33.150 lao động, đạt 65,97% kế hoạch, tăng 19% so với cùng kỳ; tuyển mới và đào tạo nghề cho 14.806 người, đạt 32,19% kế hoạch năm, giảm 14% so với cùng kỳ; đào tạo nghề và kỹ năng cho 644 lượt người; tư vấn nghề nghiệp, việc làm và quan hệ lao động cho 13.915 lượt người. Công nhận 13 đơn vị đạt danh hiệu “Phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị” và “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”, đạt 61,9% kế hoạch năm... QUỐC PHÒNG - AN NINH - NỘI CHÍNH

Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững ổn định. Lực lượng quân sự duy trì nghiêm quy định trực sẵn sàng chiến đấu; xây dựng kế hoạch tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2020; xét duyệt, báo cáo Bộ Quốc phòng 178 hồ sơ tuyển sinh quân sự; tổ chức hội thao thể dục, thể thao lực lượng vũ trang cấp thành phố và 7/9 quận, huyện tổ chức hội thao thể dục, thể thao; tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ xã, phường, thị trấn; huấn luyện, kiểm tra bắn đạn thật cho chiến sĩ mới, Dân quân cơ động, Dân quân binh chủng đảm bảo an toàn; giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng đúng kế hoạch. Lực lượng Công an đẩy mạnh thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động lôi kéo, kích động nhằm gây rối vào các ngày lễ hội, nhất là tại trạm BOT T2 trong ngày khánh thành cầu Vàm Cống của các đối tượng xấu; tổ chức tuần tra, kiểm soát, mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp các loại tội phạm; xảy ra 21 vụ xâm phạm về trật tự xã hội (tăng 08 vụ so với cùng kỳ), đã điều tra làm rõ 19 vụ, bắt 22 đối tượng; tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 11 vụ, trong đó, tai nạn nghiêm trọng xảy ra 07 vụ, làm chết 08 người, bị thương 04 người (so với cùng kỳ, số vụ giảm 12, số người chết giảm 02, số người bị thương giảm 13); xảy ra 03 vụ cháy nhỏ, không

hiện đạt 882 triệu USD, tăng 7,22% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu ước thực hiện 33 triệu USD, đạt 96,65% so với cùng kỳ; lũy kế 5 tháng ước thực hiện 173 triệu USD, tăng 1,79% so với cùng kỳ. Đón trên 619 ngàn lượt khách, doanh thu ước đạt 297 tỷ đồng; Lũy kế 5 tháng, đón trên 4,3 triệu lượt khách đến tham quan, du lịch, đạt 50,5% kế hoạch năm, tăng 5,6% so với cùng kỳ; doanh thu ước đạt 1.964 tỷ đồng, đạt 46,8% kế hoạch năm, tăng 16,6% so với cùng kỳ. Lúa Hè Thu 2019 đã xuống giống 79.527 ha, vượt 5% so với kế hoạch; đã thu hoạch 807 ha, năng suất ước đạt 5,4 tấn/ha. Tổng diện tích gieo trồng rau, màu, đậu các loại và cây công nghiệp ngắn ngày là 9.522 ha, tăng 547 ha so với cùng kỳ; tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 2.949 ha, bằng 99% so với cùng kỳ, đạt 35% kế hoạch; giá bán cá tra nguyên liệu dao động 23.000 đồng - 24.000 đồng/kg; xảy ra tại 04 hộ nuôi heo trên địa bàn quận Cái Răng, quận Bình Thủy và huyện Phong Điền. Trước tình hình dịch bệnh xảy ra, ngành nông nghiệp đã triển khai khẩn cấp các biện pháp chống dịch theo quy định và báo cáo tình hình dịch bệnh về các cơ quan cấp trên, Ban Chỉ đạo phòng, chống bệnh dịch tả heo Châu Phi và các đơn vị liên quan để phối hợp phòng chống dịch. Tổng thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 5.027 tỷ đồng, đạt 36,19% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao, tăng 4,03% so với cùng kỳ; tổng thu ngân sách Nhà nước theo chỉ tiêu giao 4.410 tỷ đồng, đạt 39,19% dự toán Trung ương giao và 38,33% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao, tăng 3,34% so với cùng kỳ. Hoạt động ngân hàng, ước tổng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trên địa bàn đạt 75.300 tỷ đồng, tăng 1,03% so với đầu tháng. Tổng dư nợ phát vay nền kinh tế ước đạt 82.200 tỷ đồng, tăng 1,08% so đầu tháng; nợ xấu chiếm 2,07% tổng dư nợ phát vay. cấp mới đăng ký kinh doanh cho 79 doanh nghiệp các loại hình với tổng vốn đăng ký 667 tỷ đồng; lũy kế 5 tháng năm 2019, cấp mới đăng ký kinh doanh cho 585 doanh nghiệp các loại hình với tổng vốn đăng ký 5.665 tỷ đồng; đạt 34,41% kế hoạch về số doanh nghiệp và đạt 80,93% kế hoạch về số vốn đăng ký; tăng 2,93% về số doanh nghiệp và tăng 108,2% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ; đến nay, thành phố có 33 dự án thương mại, dịch vụ đang triển khai với tổng mức đầu tư 17.450 tỷ đồng; 76 dự án khu dân cư, tái định cư với tổng mức đầu tư 37.278 tỷ đồng. Giáo dục và Đào tạo tổ chức kiểm tra học kỳ 2 và tổng kết năm học

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 51

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

gây thiệt hại về người; phát hiện và xử lý nhiều vụ về ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại và các loại tệ nạn xã hội.

Trong tháng, các cơ quan chức năng tiếp 181 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản

ánh, kiến nghị; nhận 175 đơn (có 09 đơn kỳ trước chuyển sang); trong đó, có 20 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, đã xem xét, giải quyết được 10/20 đơn (trong đó, đã giải quyết 9/19 đơn khiếu nại, 01/01 đơn tố cáo).

TIN TRONG NƯỚC

CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẠI HỘI CÁC CẤP TIẾN TỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dự kiến tổ chức vào đầu năm 2021, đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Đại hội tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, 5 năm thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2015 - 2020 và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm tiếp theo và bầu Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ 2021 - 2026.

Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trên phạm vi cả nước, diễn ra trong bối cảnh nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đối ngoại được mở rộng và mang lại hiệu quả thiết thực; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; vai trò, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế và lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố, tăng lên. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta; thời cơ, thuận lợi và những khó khăn, thách thức đan xen, nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thời cơ, vận hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội XII của Đảng.

Ngày 30/5/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp theo những yêu cầu chung sau:

Thứ nhất, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng phải thực hiện phương châm kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu; bảo đảm an toàn, thiết thực, không phô trương hình thức, kiên quyết chống lãng phí, tiêu cực. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Thứ hai, lãnh đạo tổ chức thảo luận kỹ lưỡng, sâu sắc, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, định hướng lớn nêu tại dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng bộ cấp trên. Báo cáo chính trị của ban chấp hành đảng bộ phải đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ52

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Đồng thời, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới phải sát với tình hình thực tế, có tính khả thi cao để tổ chức thực hiện hiệu quả.

Thứ ba, công tác nhân sự nhiệm kỳ 2020 - 2025 phải bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ mà trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy. Cấp ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thứ tư, công tác chuẩn bị nhân sự và bầu cử phải thực hiện đúng Điều lệ, quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch; gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ và sắp xếp, bố trí nhân sự lãnh đạo cơ quan nhà nước các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Chú trọng phát hiện, giới thiệu tham gia cấp ủy những nhân tố mới có đức, có tài, có uy tín, có triển vọng thông qua hoạt động thực tiễn, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu

số. Việc đánh giá cán bộ phải chặt chẽ và thực chất, trên cơ sở đánh giá của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị có thẩm quyền, đặc biệt coi trọng phẩm chất, uy tín, kết quả có thể; chủ động phòng ngừa, cảnh giác, ngăn chặn, đấu tranh, không để tác động, chi phối bởi những thông tin giả, thông tin không chính thức, xấu độc, có dụng ý bịa đặt, xuyên tạc, gán ghép trên Intemet, mạng xã hội liên quan đến công tác chuẩn bị nhân sự.

Thứ năm, đoàn đại biểu dự đại hội đảng bộ cấp trên phải là những đồng chí tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, lối sống, đại diện cho trí tuệ của đảng bộ, có khả năng đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự thành công của đại hội.

Thứ sáu, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; tập trung giải quyết, xử lý kịp thời, có hiệu quả những hạn chế, bất cập, yếu kém, những vấn đề tồn đọng kéo dài gây bức xúc mà cán bộ, đảng viên, nhân dân quan tâm. Tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; đồng thời, phải tỉnh táo, cảnh giác, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn.

MỘT SỐ KẾT QUẢ CHỦ YẾU KỲ HỌP THỨ 7, QUỐC HỘI KHÓA XIVSau 20 ngày làm việc với tinh thần dân chủ,

trách nhiệm (từ ngày 20/5 - 14/6/2019), Quốc hội khóa XIV đã hoàn thành toàn bộ chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 7 với nhiều nội dung trên tất cả các lĩnh vực: lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

(1) Về công tác lập pháp: Quốc hội xem xét và thông qua 07 Luật, 10

Nghị quyết và cho ý kiến về 09 Dự án Luật. Các luật, nghị quyết được Quốc hội xem xét thận trọng, kỹ lưỡng, đã cân nhắc đến từng phương án và được thông qua với sự đồng thuận cao. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Các dự án luật được cho ý kiến tại kỳ họp này có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp

tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tổ chức bộ máy, quản lý cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

(2) Về hoạt động giám sát tối cao:- Quốc hội xem xét báo cáo đánh giá bổ sung

kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2018 và tình hình triển khai thực hiện những tháng đầu năm 2019. Quốc hội nhận định, trong thời gian qua, nước ta tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực cả về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Việt Nam vừa được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc với số phiếu rất cao; điều đó càng khẳng định vị thế của nước ta là một thành viên

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 53

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

có trách nhiệm, tích cực trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế, vẫn đang phải đối mặt với những thách thức mới. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, tiếp tục bám sát tình hình thực tiễn, có các giải pháp kịp thời, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành để giữ vững đà tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; chủ động, linh hoạt ứng phó trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới.

- Tiến hành giám sát tối cao chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến hết năm 2018”, bên cạnh ghi nhận nhiều kết quả đã đạt được trong thời gian qua, Quốc hội cũng đã thẳng thắn chỉ ra những mặt còn hạn chế, yếu kém, tồn tại; đồng thời, đề xuất nhiều giải pháp tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật.

- Trên cơ sở lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri và xem xét đề xuất của Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu về những vấn đề nổi cộm, gây nhiều bức xúc trong thời gian qua, Quốc hội đã quyết định chọn chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em” để tiến hành giám sát tối cao trong năm 2020.

- Về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn: Trong thời gian 2,5 ngày, đại biểu Quốc hội đã chất vấn các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng 04 Bộ: Công an, Xây dựng, Giao thông vận tải, Văn hóa - Thể thao và Du lịch và các Bộ trưởng, Trưởng ngành khác cùng tham gia trả lời chất vấn. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp được cử tri và Nhân dân quan tâm đánh giá cao, các nhóm vấn đề được lựa chọn là xác đáng, bám sát thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội; các phiên chất vấn và trả lời chất vấn diễn ra trong không khí dân chủ, sôi nổi, thu hút sự quan tâm theo dõi của đông đảo cử tri. Các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Trưởng ngành đã

trả lời thẳng thắn, trách nhiệm, đưa ra nhiều cam kết nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý trong lĩnh vực phụ trách. Quốc hội ghi nhận và đề nghị các thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Trưởng ngành sớm có hành động cụ thể để triển khai những cam kết trong thực tế đạt hiệu quả cao nhất.

(3) Quốc hội xem xét và quyết định một số vấn đề quan trọng khác:

- Quốc hội xem xét và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017, trong đó, yêu cầu Chính phủ tăng cường chỉ đạo, có giải pháp tích cực để khắc phục hạn chế, xử lý nghiêm các vi phạm, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tăng cường quản lý nợ công, vốn đầu tư và bội chi ngân sách, chống thất thu, xử lý nợ đọng thuế.

- Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với ông Dương Văn Thăng, Thiếu tướng, Quyền Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương; nghe Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo về việc cho thôi chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội và thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XIV đối với ông Lê Đình Nhường - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình.

- Quyết định một số vấn đề liên quan đến điều hành ngân sách nhà nước và kế hoạch đầu tư công trung hạn.

Sau kỳ họp, Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tổ chức tốt hoạt động tiếp xúc cử tri, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân; nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt thực tiễn đời sống xã hội để phản ánh, kiến nghị kịp thời với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan, tích cực chủ động hơn nữa trong công tác lập pháp, giám sát để các quyết sách vừa được thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV sớm đi vào cuộc sống.

MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC TA 5 THÁNG ĐẦU NĂM 2019; NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỜI GIAN TỚI

Một số kết quả cụ thể: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng

đầu năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 5 tháng tăng 2,74%, thấp nhất so với cùng kỳ trong 3 năm gần

đây; tỷ giá, lãi suất cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Xuất khẩu đạt trên 100 tỷ USD, tăng 6,7%, trong đó, khu vực trong nước tăng 11,6%, cao hơn khu vực FDI. Hoạt động thương mại dịch vụ sôi động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ54

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,6%; khách du lịch quốc tế đạt gần 7,3 triệu lượt tăng 8,8%. Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký mới và tăng thêm đạt trên 9 tỷ USD, tăng 27,1%. Gần 54 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 3,2% về số doanh nghiệp và 29,6% về vốn đăng ký, có gần 20 nghìn doanh nghiệp trở lại hoạt động, tăng 48,1%. Các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam; Tổ chức xếp hạng tín dụng toàn cầu Fitch nâng triển vọng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”. Tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc Vesak năm 2019, thể hiện một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường được quan tâm; đời sống dân cư tiếp tục cải thiện, số hộ thiếu đói giảm 30,5%. Công tác bảo đảm an ninh, trật tự xã hội có nhiều cố gắng, đã triệt phá thành công nhiều vụ án ma túy, đánh bạc trên mạng quy mô lớn. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là việc thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các đối tác chiến lược toàn diện.

Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta còn bị tác động từ những khó khăn, thách thức bên ngoài. Trong nước còn phải đối mặt với một số tồn tại, hạn chế. Áp lực lạm phát vẫn còn hiện hữu; giải ngân vốn đầu tư công chưa được cải thiện nhiều; nhiều công trình trọng điểm, quan trọng chưa được khởi công hoặc chậm hoàn thành để đưa vào khai thác; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn, dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp;... Nhiều vấn đề xã hội gây bức xúc dư luận chưa được giải quyết triệt để. Việc triển khai các nhiệm vụ phát triển Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử chưa được quan tâm thực hiện quyết liệt”.

Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới:

Chính phủ kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung khắc phục

những hạn chế, kiên quyết không lùi bước trước khó khăn, thách thức, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi tất cả các chỉ tiêu của kế hoạch năm 2019, trong đó tăng trưởng GDP đạt 6,8%, kiểm soát lạm phát dưới 4%. Yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực quản lý; triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ, Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 01/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ...

Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương chủ động rà soát, tìm động lực tăng trưởng mới của ngành, lĩnh vực, địa phương mình; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng các dự án, công trình thuộc phạm vi quản lý, chú trọng thực hiện các giải pháp đã được nêu tại Diễn đàn kinh tế tư nhân”.

Thứ ba, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh khai thác hiệu quả những cơ hội, thuận lợi từ cuộc cách mạng công nghệ 4.0; đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, chuyển đổi mô hình kinh tế số;...

Thứ tư, các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn quản lý được phân công nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Quốc hội, có giải pháp quyết liệt xử lý các vấn đề bất cập, bức xúc mà Đại biểu Quốc hội, cử tri và người dân quan tâm như: xâm hại trẻ em, phụ nữ, bạo lực học đường, gian lận thi cử”.

Thứ năm, các bộ, cơ quan, địa phương thường xuyên rà soát, đôn đốc, kiểm tra và quyết liệt hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, nhất là các nhiệm vụ liên quan đến tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, hoàn thiện thể chế, các vấn đề dư luận quan tâm.

TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG VÀ CHỐNG ÙN TẮC GIAO THÔNG GIAI ĐOẠN 2019 - 2021

Ngày 19/02/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP về việc tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019 - 2021. Nghị quyết có một số nội dung chủ yếu sau:

Về đánh giá tình hình trật tự, an toàn giao thông thời gian qua:

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 31/7/2008 của Chính phủ về từng bước khắc phục ùn tắc giao thông tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi là Nghị quyết số 16) và 7 năm thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24/8/2011 của Chính phủ về tăng cường thực hiện các giải

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 55

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

pháp cấp bách trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông (sau đây gọi là Nghị quyết số 88), công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đã đạt được những kết quả quan trọng, tai nạn giao thông liên tục giảm cả về số vụ, số người chết và số người bị thương, cụ thể năm 2011 số người chết do tai nạn giao thông là 11.349 người thì năm 2014 đã giảm xuống dưới 9.000 người và năm 2018 giảm còn là 8.279 người... Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn một số mặt tồn tại, hạn chế: tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng số người thương vong do tai nạn giao thông gây ra còn ở mức cao; ùn tắc giao thông trên các trục giao thông chính, đầu mối giao thông trọng điểm, các đô thị loại 1, đặc biệt là trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên phức tạp, có xu hướng lan rộng cả không gian và thời gian...

Về các nhiệm vụ trọng tâm:Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương

tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định pháp luật, đẩy mạnh triển khai các đề án, dự án về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, chống ùn tắc giao thông, đồng thời quán triệt, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp sau:

(1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về bảo đảm trật tự an toàn - giao thông, chống ùn tắc giao thông; lồng ghép mục tiêu an toàn giao thông, tránh ùn tắc giao thông trong các đề án chiến lược, quy hoạch cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, các dự án đầu tư tạo ra nhu cầu giao thông, vận tải lớn.

(2) Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị; kiên trì xây dựng văn hóa giao thông an toàn và thân thiện môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân.

(3) Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về giao thông vận tải, xây dựng, đất đai và du lịch có liên quan đến nhiệm vụ bảo đảm an toàn và chống ùn tắc giao thông; nâng cao năng lực, hiệu lực của lực lượng tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông.

(4) Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông gắn với duy tu, bảo đảm an toàn giao thông và khai thác có hiệu quả các công trình hạ tầng hiện hữu; nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa.

(5) Đẩy mạnh tái cơ cấu hệ thống dịch vụ vận tải, nâng cao năng lực, chất lượng và giảm giá để thu hút hành khách, hàng hóa sử dụng vận tải đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không; đẩy nhanh tiến độ đầu tư, phát triển hệ thống vận tải công cộng trong đô thị, vùng tỉnh và liên tỉnh.

(6) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với công tác quản lý, điều hành, tổ chức giao thông, hướng dẫn người tham gia giao thông cũng như hỗ trợ công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông.

(7) Thực hiện đồng bộ các giải pháp hạn chế sử dụng phương tiện cơ giới cá nhân, kiểm soát chặt điều kiện về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của các phương tiện cơ giới, đặc biệt là trong các khu vực trung tâm đô thị.

(8) Quản lý chặt chẽ hoạt động xây dựng bảo đảm việc đầu tư, xây dựng mới hoặc điều chỉnh, sắp xếp các khu công nghiệp, đô thị, các trung tâm thương mại, trường học, bệnh viện... trong các đô thị phù hợp với năng lực kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải công cộng.

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI VÀ TÌNH HÌNH THẾ GIỚI

MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI QUAN TRỌNG CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC

* Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Cam-pu-chia Xăm-đéc Heng Sam-rin, thăm chính thức Việt Nam từ ngày 28 - 30/5/2019. Tại hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân,

hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn, tiếp xúc giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước, giữa các bộ, ngành, đoàn thể, giao lưu nhân dân; phối hợp chặt chẽ triển khai hiệu quả các hiệp định,

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ56

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

KẾT QUẢ CHUYẾN THĂM CHÍNH THỨC LIÊN BANG NGA, VƯƠNG QUỐC NAUY, VƯƠNG QUỐC THỤY ĐIỂN

CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC

* Kết quả thăm chính thức Liên bang Nga (từ ngày 20 - 23/5/2019), Vương Quốc Na Uy (từ ngày 24 - 26/5/2019) và Vương quốc Thụy Điển (từ ngày 26 - 28/5/2019) của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Chuyến thăm có ý nghĩa đặc biệt, diễn ra trong bối cảnh Việt Nam và Nga tổ chức Năm chéo (Năm Việt Nam tại Nga và Năm Nga tại Việt Nam trong các năm 2019 - 2020); hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Na Uy (1971 - 2021) và kỷ niệm nửa thế kỷ hợp tác Việt Nam - Thụy Điển (1969 - 2019).

Trong chuyến thăm 09 ngày tới 03 nước, Thủ tướng Chính phủ đã có chương trình làm việc với hơn 50 hoạt động, như: Các cuộc hội đàm, hội kiến với lãnh đạo cấp cao 3 nước (hội đàm với Thủ tướng, hội kiến với Nhà Vua, Tổng thống, Chủ tịch Quốc hội); dự các diễn đàn doanh nghiệp, gặp mặt các nhà đầu tư, bà con kiều bào, thăm và làm việc tại một số địa phương; thăm một số cơ sở sản xuất, trung tâm công nghệ cao của doanh nghiệp, tập đoàn lớn; gặp gỡ tri ân những người bạn Nga, Thụy Điển có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ đất nước ta.

thỏa thuận đã ký kết, cùng nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc thường xuyên tuyên truyền, giáo dục về truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Cam-pu-chia trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ của hai nước;” Hai bên đã ký Thỏa thuận hợp tác giữa hai Quốc hội Việt Nam - Cam-pu-chia; ký Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác giữa hai Văn phòng Quốc hội Việt Nam và Ban Thư ký Quốc hội Cam-pu-chia” Chủ tịch Quốc hội Cam-pu-chia đánh giá cao sự hợp tác song phương trên kênh Đảng, Quốc hội, Chính phủ, địa phương hai nước thời gian qua với các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước đã góp phần củng cố, mở rộng quan hệ hai nước phát triển ngày càng đi vào chiều sâu. Quốc hội Cam-pu-chia ủng hộ mạnh mẽ Chính phủ hai nước, trong đó có việc kết nối hai nền kinh tế, đặc biệt là hướng tới kim ngạch đạt kim ngạch 5 tỷ USD vào năm 2020;... Chủ tịch Quốc hội Cam-pu-chia trân trọng cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn ủng hộ, giúp đỡ Cam-pu-chia trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt đã thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt trước đây cũng như phát triển đất nước ngày nay.

* Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng nước Cộng hòa I-ta-li-a Giu-xếp-pê Côn-tê thăm chính thức Việt Nam từ ngày 05 - 06/6/2019.

Hai bên nhất trí cần tiếp tục tăng cường trao đổi và tiếp xúc ở các cấp, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, an ninh - quốc phòng, hợp tác phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu, kết nối địa phương; củng cố các cơ chế hợp tác hiện có; đánh giá cao việc quan hệ thương mại đầu tư Việt Nam - I-ta-li-a phát triển tích cực trong thời gian gần đây, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của I-ta-li-a trong ASEAN; nhất trí sẽ cùng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực I-ta-li-a có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu; tạo điều kiện thuận lợi để hàng hóa hai nước vào thị trường của nhau. Thủ tướng I-ta-li-a khẳng định ủng hộ việc sớm ký và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) góp phần thúc đẩy quan hệ đầu tư, thương mại tại thị trường của nhau.

Hai bên khẳng định tiếp tục hợp tác chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, ASEM, ASEAN - EU; khẳng định tầm quan trọng của việc gìn giữ hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông đối với khu vực và quốc tế, cũng như việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 57

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

VIỆT NAM ĐƯỢC BẦU LÀM THÀNH VIÊN KHÔNG THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HỢP QUỐC NHIỆM KỲ 2020 - 2021

Ngày 07/6/2019, trong khuôn khổ Khóa 73, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, các quốc gia thành viên đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu cao (192/193 phiếu). Đây là lần thứ hai trong vòng hơn 10 năm, Việt Nam được bầu làm thành viên cơ quan có vai trò hàng đầu của Liên Hợp Quốc trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Sự kiện này không chỉ là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với vị thế của Việt Nam đổi mới, hội nhập mà còn là sự tin tưởng, kỳ vọng vào những đóng góp trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế trong những năm tới.

Trong lần đầu tiên tham gia (Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008 - 2009), chúng ta đã nỗ lực rất cao và được các thành viên Liên Hợp Quốc hợp tác, ủng hộ và đã đảm nhiệm thành công nhiệm vụ của mình. Việt Nam đã tham gia tích cực vào nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng; chủ trì thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng, gần đây là Năm APEC 2017 và Hội nghị hợp tác WEF-ASEAN 2018, qua đó khẳng định khả năng chủ động tham gia dẫn dắt, định hình các cơ chế quốc tế và khu vực; tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, lần đầu tiên triển khai thành công Bệnh viện dã chiến cấp 2 đến Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan (tháng 10/2018) và hoàn thành tốt vai trò nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên lần thứ hai (tháng 2/2019), từng bước phát huy vai trò “trung gian, hòa giải” trong giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế.

Trong nhiệm kỳ 2 năm tới (2020 - 2021), Việt Nam sẽ tập trung vào 3 lĩnh vực trụ cột: (1) tăng cường phối hợp giữa Hội đồng Bảo an và các tổ chức khu vực trong việc phòng ngừa xung đột; (2) tái thiết và xây dựng hòa bình sau xung đột; (3) tăng cường bảo vệ dân thường cũng như thúc đẩy các công việc của Hội đồng Bảo an liên quan tới phụ nữ, hòa bình và an ninh, trẻ em và các cuộc xung đột vũ trang. Việt Nam sẽ thay thế Cô-oét đại diện nhóm châu Á - Thái Bình Dương và theo cơ chế luân phiên, Việt Nam sẽ là chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trong tháng 1/2020.

Việc nước ta được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại do Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra và tinh thần Chỉ thị 25/CT-TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, theo đó Việt Nam “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp Quốc”, góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển đất nước, đồng thời thể hiện tốt vai trò thành viên có trách nhiệm, tham gia đóng góp vào xây dựng một trật tự thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ và tiến bộ. Đây cũng là cơ hội để chúng ta khẳng định vị thế đất nước và nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế, tự tin tiếp bước đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả trong hệ thống quản trị toàn cầu.

Tại các cuộc hội đàm, hội kiến với lãnh đạo Nga, Na Uy, Thụy Điển, Thủ tướng đã trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực; nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cần thiết phải bảo đảm hòa bình, ổn định, duy trì an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông; đề nghị chính phủ các nước tiếp tục tạo thuận lợi cho cộng đồng người Việt sinh sống và hội nhập ổn định, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, phát huy vai trò cầu nối thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước.

Chuyến thăm chính thức Nga, Na Uy, Thụy Điển của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn Đại biểu cấp cao Chính phủ đã thành công tốt đẹp, là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng góp phần tiếp nối và thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp và mở ra hướng hợp tác mới với các chương trình, dự án cụ thể trên cơ sở sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, người dân mỗi nước.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ58

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

Về kết quả Đối thoại Shangri-La lần thứ 18: Đối thoại Shangri-La lần thứ 18 diễn ra từ ngày 31/5 - 10/6/2019, với sự tham gia của 57 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 28 quan chức cấp Bộ trưởng cùng nhiều chuyên gia, học giả hàng đầu. Đối thoại sẽ có 6 phiên thảo luận với các chủ đề: Tầm nhìn của Mỹ về an ninh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; An ninh bán đảo Triều Tiên; trật tự an ninh đang biến đổi ở châu Á và các thách thức; Trung Quốc và hợp tác an ninh quốc tế; ngăn ngừa xung đột tại những khu vực cạnh tranh; đảm bảo một khu vực tự cường và ổn định. Ngoài ra, Đối thoại còn có đồng thời 6 phiên họp về các lĩnh vực: an ninh hàng hải, công nghiệp quốc phòng, cạnh tranh và lợi ích chiến lược, cân bằng giữa tự lực và cộng tác, an ninh mạng... Đánh giá chung, Đối thoại Shangri-La 2019 đã trao đổi nhiều vấn đề nổi cộm trong tình hình quốc tế và khu vực, nhất là quan hệ cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Phát biểu của các nước đều cho thấy đối thoại thẳng thắn, hợp tác chân thành, tham gia có trách nhiệm vào các tiến trình khu vực và toàn cầu vẫn là phương cách chủ yếu trong quan hệ giữa các quốc gia”.

Những đóng góp của Đoàn Việt Nam: đồng chí Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu Đoàn tham dự Đối thoại, đã làm rõ quan điểm của Việt Nam về tình hình quốc tế và khu vực. Ủng hộ đối thoại và hợp tác, cam kết sẵn sàng tích cực, chủ động tham gia cùng các nước hợp tác duy trì hòa bình, tăng cường ổn định và thúc đẩy phồn vinh. Liên quan tới những mâu thuẫn, bất đồng giữa các nước, nhất là các nước lớn, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch kêu gọi các nước tăng cường trách nhiệm, kiềm chế, tôn trọng luật pháp, duy trì đối thoại, tăng cường hợp tác nhất là thông qua các thể chế đa phương vì hòa bình, ổn định và phồn vinh chung. Về tình hình Biển Đông, Bộ trưởng khẳng định tầm quan trọng của vùng biển này đối với hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Các nước đều có nghĩa vụ đóng góp cho hòa bình, ổn định thông qua bảo đảm tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, đồng thời ASEAN và Trung Quốc cần thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông có hiệu

lực, hiệu quả. Bộ trưởng đã gặp Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc và thống nhất hai bên có những hiểu biết khác nhau về Biển Đông nhưng đều có mục đích chung là khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực này.

Dư luận xung quanh phát biểu của Thủ tướng Xinh-ga-po Lý Hiển Long về việc Việt Nam đưa quân vào Cam-pu-chia những năm 80 của thế kỷ trước đã tạo nên “hạt sạn” trong những đánh giá chung về Shangri-La lần thứ 18, gây phản ứng trong dư luận các nước liên quan và phần nào làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ASEAN. Phát biểu của Thủ tướng Xing-ga-po tại Đối thoại cùng với bình luận của ông trên trang cá nhân đã gây phản ứng của cả Việt Nam và Cam-pu-chia.

Về phía Cam-pu-chia, Thủ tướng Hun Sen và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã lên tiếng chỉ trích phát biểu của ông Lý Hiển Long, cho rằng những phát biểu này là không đúng sự thật lịch sử, xúc phạm các nạn nhân của chế độ diệt chủng Khơ-me Đỏ và các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam. Thủ tướng Hun Sen viết trên Facebook ngày 06/6/2019: “Tôi rất lấy làm tiếc về việc ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng Xinh-ga-po, có bài viết trên mạng xã hội Facebook vào hôm 31/5/2019 nói rằng, trong thời gian tướng Prem Tinsulanonda giữ cương vị Thủ tướng Thái Lan, các nước thành viên ASEAN (khi đó gồm 5 nước) đã cùng nhau chống lại việc Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia và việc Chính phủ Cam-pu-chia thay thế Khơ-me Đỏ”. Ngày 07/6/2019, Bộ Ngoại giao Cam-pu-chia ra tuyên bố chỉ trích những phát biểu của ông Lý Hiển Long: “Xinh-ga-po vốn là chủ nhà của hội nghị ba phái dẫn tới thành lập chính phủ hỗn hợp Cam-pu-chia, kéo dài chiến tranh và sự thống khổ của Nhân dân Cam-pu-chia thêm 10 năm nữa”, đồng thời khẳng định những gì ông Lý Hiển Long nói là hành động xúc phạm sự hy sinh trong sáng của quân tình nguyện Việt Nam giúp Cam-pu-chia thoát khỏi Khơ-me Đỏ.

Về phía Việt Nam, ngày 04/6/2019, Người Phát Ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: “Việt Nam lấy làm tiếc đã có một số nội dung phát biểu phản ánh không khách quan thực tế

ĐỐI THOẠI SHANGRI-LA LẦN THỨ 18 VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA VIỆT NAM

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ 59

http://bantuyengiao.cantho.gov.vn

TAØI LIEÄU SINH HOAÏT CHI BOÄ

VỀ CUỘC CHIẾN THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG VÀ MỘT SỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM

(*) Mỹ đã tăng thuế hàng hóa có tổng giá trị 250 tỷ USD nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi Trung Quốc áp thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ trị giá 110 tỷ USD. Mỹ quyết định tăng mức thuế mới từ 10% hiện nay lên 25% đối với lượng hàng hóa trị giá 200 tỷ USD nhập khẩu từ Trung Quốc, có hiệu lực từ ngày 10/5/2019. Ngày 13/5/2019, Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng thuế đối với lượng hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ trị giá 60 tỷ USD kể từ ngày 01/6/2019. Ngày 15/5/2019, Tổng thống Đô-nan Trăm ký sắc lệnh hành pháp cấm các công ty Mỹ mua và sử dụng các thiết bị tin học và công nghệ viễn thông của nước ngoài có nguy cơ an ninh quốc gia. Ngày 19/5/2019, đồng loạt các công ty lớn của Mỹ, như: Qualcom, Intel, Google tuyên bố ngừng hợp tác với Huawei, Trung Quốc.

lịch sử, gây tác động không tốt đến dư luận” và nhấn mạnh: “Đóng góp và hy sinh của Việt Nam trong việc cùng nhân dân Cam-pu-chia chấm dứt tội ác diệt chủng của Khơ-me Đỏ là sự thật đã được thừa nhận rộng rãi. Ngày 16/11/2018, Tòa án đặc biệt xét xử tội ác Khơ-me Đỏ (ECCC) đã ra phán quyết về tội ác diệt chủng chống nhân loại của Khơ-me Đỏ. Phán quyết đã phản ánh khách quan sự thật lịch sử, thực thi công lý, trả lại công bằng cho các nạn nhân, được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế hoan nghênh”.

Ngày 07/6/2019, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh điện đàm với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xinh-ga-po Vi-vi-an Ba-la-kít-man. Ngoại trưởng Vi-vi-an Ba-la-kít-man khẳng định, Xinh-ga-po hết sức coi trọng quan hệ Đối tác Chiến lược với Việt Nam, giải

thích bối cảnh của phát biểu trên và mục đích của phát biểu không có ý xúc phạm Việt Nam và Cam-pu-chia. Đáp lại, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng nhấn mạnh “Phát biểu trên đã gây hiệu ứng tiêu cực, đặc biệt trong bối cảnh nhân dân Cam-pu-chia vừa kỷ niệm trọng thể 40 năm thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt và Tòa án đặc biệt tại Cam-pu-chia đã có phán quyết về tội ác diệt chủng chống nhân loại của Khơ-me Đỏ, trả lại công bằng cho các nạn nhân và gia đình của họ, được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế hoan nghênh”. Phó Thủ tướng khẳng định tính chính nghĩa và những đóng góp, hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam mà nhân dân Cam-pu-chia coi là “Đội quân nhà Phật”, đã giúp đất nước Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng, góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực.

Mỹ và Trung Quốc đang sa vào cuộc chiến thương mại kéo dài hơn một năm qua. Sau 11 vòng đàm phán giữa Mỹ và Trung Quốc không đạt được thỏa thuận cụ thể nào và đang có dấu hiệu leo thang(*), giới chuyên gia đã đưa ra một số dự báo về thiệt hại đối với kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam:

Tác động đối với kinh tế toàn cầu: Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng do những xáo trộn và bất ổn của dòng thương mại thế giới. Lòng tin của các nhà đầu tư thêm bất an khi vẫn đang chịu đựng sự bất an từ tiến trình Brexit, bất ổn địa chính trị ở Trung Đông có dấu hiệu tăng lên, sẽ khiến giảm lượng vốn đầu tư trên toàn cầu, dẫn đến sụt giảm tăng trưởng và việc làm.

Tác động đối với Việt Nam: Về dòng vốn FDI: Dòng vốn FDI từ Trung Quốc “tránh bão” sẽ tìm đến một số nước, trong đó có Việt Nam; về thương mại: Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc có thêm cơ hội bán hàng sang Mỹ. Tuy nhiên, những thiệt hại dường như lớn và trực diện hơn: (1) cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung khiến sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc gần đây càng trở nên nặng nề. Cầu từ thị trường Trung Quốc đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có dấu hiệu giảm; (2) việc phá giá đồng Nhân dân tệ sẽ gây thêm thiệt hại không nhỏ cho sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam. Cầu đang suy yếu trong khi giá lại đắt lên sẽ

làm suy giảm sức xuất khẩu của hàng Việt Nam; (3) xuất khẩu của Trung Quốc gặp khó khăn đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ dư thừa công suất và hàng hóa. Những dư thừa đó rất có thể sẽ tìm đường sang Việt Nam. Kết quả, thâm hụt thương mại với Trung Quốc sẽ lớn hơn và nền sản xuất trong nước sẽ bị ảnh hưởng.

Về vấn đề này, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Đây là quan tâm chung của quốc tế bởi có ảnh hưởng đến thương mại toàn cầu và sự ổn định của kinh tế thế giới. Việt Nam quan tâm theo dõi và mong muốn hai nước sẽ sớm giải quyết bất đồng thông qua đối thoại, thương lượng trên tinh thần tôn trọng, hợp tác và hiểu biết lẫn nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế và các cam kết quốc tế, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”.

tháng 7/2019

Tuyên giáoCần Thơ60

- Đối tượng điều chỉnh: (1) Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động (kể cả người có thời gian tham gia BHXH tự nguyện, người nghỉ hưu từ quỹ BHXH nông dân Nghệ An chuyển sang theo Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ); quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hàng tháng. (2) Cán bộ xã, phường, thị trấn quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 và Nghị định số ngày 23/01/1998 của Chính phủ đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng. (3) Người đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng theo quy định của pháp luật; người đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 04/8/2000, Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ; công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hàng tháng. (4) Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 111-HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng. (5) Quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ. (6) Công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày

ª Trưởng Ban Biên tập- Tiến sĩ Trần Việt Trường

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy

ª Phó Trưởng Ban Biên tập- Thạc sĩ Trần Văn Kiệt

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy- Thạc sĩ Lê Thị Sương Mai

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy

ª Tổng hợp, trình bày- Thạc sĩ Nguyễn Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm Thông tin công tác Tuyên giáo - Dư luận xã hội- Đ/c Võ Tấn Vĩnh, P. Giám đốc Trung tâm Thông tin công tác Tuyên giáo - Dư luận xã hội

ª Sửa bản in- Nguyễn Ngọc Quy- Lê Thị Hoàng Phương

ª Giấy phép xuất bản số: 08/GP-XBBT do Sở Thông tin và Truyền thông TP. Cần Thơ cấp ngày 27/12/2018. ª Khổ 19 x 27cm. Số lượng: 3.750 bản/kỳ. Nơi in: Công ty Cổ phần In Tổng hợp Cần Thơ, số 500 đường 30/4, phường Hưng Lợi,

quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.ª Bài, ảnh cộng tác vui lòng gửi về: Trung tâm Thông tin công tác Tuyên giáo - Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Thành ủy Cần Thơ,

số 01 Quang Trung, phường An Lạc, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.ª Email: [email protected]. Điện thoại: 080.71189. Fax: 080.71244. ª Nộp lưu chiểu tháng 7/2019.ª Lưu hành nội bộ.ª Bìa 1: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cùng đại biểu Bộ, ngành Trung ương, TP. Cần Thơ thực hiện nghi thức khởi công công trình Đền thờ các Vua Hùng tại TP. Cần Thơ; Phối cảnh đền chính Đền thờ các Vua Hùng. Ảnh: Tấn Vĩnh

CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢNBan Tuyên giáo Thành ủy Cần Thơ

BAN BIÊN TẬP

20/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ. (7) Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ. (8) Người đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.

- Thời điểm và mức điều chỉnh: Từ ngày 01/7/2019, tăng thêm 7,19% trên mức lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng của tháng 6/2019 đối với các đối tượng quy định trên.

- Kinh phí thực hiện: (1) Ngân sách nhà nước bảo đảm đối với các đối tượng hưởng chế độ BHXH trước ngày 01/10/1995; hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 04/8/2000, Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 159/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006, Nghị định số 11/2011/NĐ-CP ngày 30/01/2011 và Nghị định số 23/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ; (2) Quỹ BHXH bảo đảm đối với các đối tượng hưởng chế độ BHXH từ ngày 01/10/1995 trở đi, kể cả đối tượng đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng.

Trung tâm TTCTTG-DLXH (tổng hợp)Nguồn: Báo cáo tình hình công tác tháng 5

của Thành ủy Cần Thơ; Bản tin sinh hoạt chi bộ của Ban Tuyên giáo Trung ương.

Nghị định số 44/2019/NĐ-CP, ngày 20/5/2019 của Chính phủ về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) và trợ cấp hàng tháng. Nghị định gồm 06 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2019. Một số quy định chủ yếu của Nghị định: