GỢI Ý VIẾT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Transcript of GỢI Ý VIẾT ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN CHĂN NUÔI
TRỊNH VĂN TUẤN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT VÀ THỊ
TRƯỜNG NÂNG CAO NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ
CHĂN NUÔI BÒ THỊT VÙNG TÂY BẮC
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN CHĂN NUÔI
TRỊNH VĂN TUẤN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT VÀ THỊ
TRƯỜNG NÂNG CAO NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ
CHĂN NUÔI BÒ THỊT VÙNG TÂY BẮC
CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ : 62.62.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI - 2015
1. GS.TS. Vũ Chí Cương
2. TS. Đinh Xuân Tùng
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
được bảo vệ ở bất cứ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận án
Trịnh Văn Tuấn
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các
thầy, cô giáo, các tập thể, cá nhân cùng bạn bè đồng nghiệp.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới các thầy hướng dẫn khoa
học: GS.TS. Vũ Chí Cương và TS. Đinh Xuân Tùng. Các thầy đã tận tâm và nhiệt
tình giúp đỡ, truyền đạt kiến thức chuyên môn, trao đổi phương pháp luận, ý tưởng
và nội dung nghiên cứu, động viên nghiên cứu sinh để hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc Viện Chăn nuôi, Phòng Đào tạo
và Thông tin đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và tạo điều kiện thuận
lợi để tôi hoàn tất các thủ tục bảo vệ luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Mai Văn Sánh, TS. Hồ Lam Sơn là cán
bộ phòng đào tạo và Thông tin. Đồng thời, tôi xin cảm ơn TS. Phạm Kim Cương,
TS. Laurie Bonney và TS. Stephen Ives là các chuyên gia của dự án ACIAR Bò
thịt Tây Bắc đã có nhiều trao đổi và giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Sơn La và Điện
Biên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cám ơn Bộ môn Dinh dưỡng và Thức ăn
chăn nuôi, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Nông nghiệp đã tạo mọi
điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin được dành những tình cảm, lời cảm ơn sâu sắc nhất tới
toàn thể người thân trong gia đình, bạn bè thân thiết, đặc biệt là vợ và hai con của
tôi đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành bản
luận án này.
Nghiên cứu sinh
Trịnh Văn Tuấn
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................................ vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................... viii
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... x
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 1
2. MỤC TIÊU .............................................................................................................. 1
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN ............................................................. 2
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ....................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................... 3
1.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI BÒ THỊT TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ........ 3
1.1.1. Tình hình chăn nuôi bò thịt trên thế giới ........................................................... 3
1.1.2. Tình hình chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam ........................................................... 4
1.2. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ
CHĂN NUÔI BÒ THỊT .............................................................................................. 7
1.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi bò thịt nông hộ ................. 7
1.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt bò .......................................... 11
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi bò thịt ............................... 16
1.2.4. Chuỗi giá trị và mối liên kết trong chuỗi ........................................................ 18
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ............................. 22
1.3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 22
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam .................................................................. 27
1.4. KHÁI QUÁT VÙNG NGHIÊN CỨU ............................................................... 41
1.4.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng Tây Bắc ............................................. 41
1.4.2. Khái quát chung về nông nghiệp hai tỉnh Điện Biên và Sơn La ..................... 42
1.5. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............... 44
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................... 45
iv
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU ........................... 45
2.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu .................................................................... 45
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................................... 45
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ...................................................................................... 45
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .............................................................................. 45
2.2.1. Hiện trạng chăn nuôi và thị trường bò thịt vùng Tây Bắc .............................. 45
2.2.2. Thử nghiệm một số giải pháp về kỹ thuật nâng cao năng suất và hiệu quả
chăn nuôi bò thịt nông hộ .......................................................................................... 45
2.2.3. Thử nghiệm giải pháp thị trường .................................................................... 45
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................... 46
2.3.1. Hiện trạng chăn nuôi và thị trường bò thịt vùng Tây Bắc .............................. 46
2.3.2. Thí nghiệm tuyển chọn bò đực khối lượng lớn làm giống nhằm nâng cao tầm
vóc và khả năng sinh trưởng của bò địa phương ...................................................... 48
2.3.3. Thí nghiệm sử dụng rơm ủ urê và thức ăn tinh nâng cao khả năng tăng khối
lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn cho bò sinh trưởng ............................................ 50
2.3.4. Thí nghiệm sử dụng bột sắn và bột lá sắn vỗ béo bò ...................................... 55
2.3.5. Thí nghiệm liên kết nhóm chăn nuôi bò thịt với các tác nhân thị trường kết
hợp hệ thống nhận diện sản phẩm ............................................................................. 58
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................ 61
3.1. HIỆN TRẠNG CHĂN NUÔI VÀ THỊ TRƯỜNG BÒ THỊT TÂY BẮC ........ 61
3.1.1. Hiện trạng chăn nuôi bò thịt vùng Tây Bắc .................................................... 61
3.1.2. Hiện trạng thị trường bò thịt vùng Tây Bắc .................................................... 66
3.2. TUYỂN CHỌN BÒ ĐỰC KHỐI LƯỢNG LỚN LÀM GIỐNG NHẰM
NÂNG CAO TẦM VÓC VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA BÒ ĐỊA
PHƯƠNG ................................................................................................................. 74
3.2.1. Hiện trạng đàn bò địa phương trước thí nghiệm ............................................. 74
3.2.2. Khối lượng bò đực bố và bò cái mẹ ................................................................ 77
3.2.3. Khối lượng và sinh trưởng của đàn con sinh ra .............................................. 78
3.2.4. Mối tương quan giữa khối lượng bò đực bố, bò cái mẹ và khối lượng con
sinh ra ........................................................................................................................ 82
3.3. SỬ DỤNG RƠM Ủ UREA VÀ THỨC ĂN TINH NÂNG CAO KHẢ NĂNG
v
TĂNG KHỐI LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN CHO BÒ SINH
TRƯỞNG .................................................................................................................. 86
3.3.1. Thành phần hóa học của thức ăn bổ sung ....................................................... 86
3.3.2. Động thái, đặc điểm sinh khí và giá trị năng lượng trao đổi của rơm ủ urê và
thức ăn hỗn hợp ......................................................................................................... 87
3.3.3. Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung đến tăng khối lượng của bò ......................... 88
3.3.4. Tăng khối lượng lý thuyết và khối lượng thực tế tính theo NLTĐ ................. 91
3.3.5. Ước tính lượng năng lượng trao đổi ăn vào được từ chăn thả ........................ 93
3.3.6. Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung đến lượng thức ăn bổ sung ăn vào, tổng
lượng chất khô thức ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn ..................................... 95
3.3.7. Ước tính hiệu quả kinh tế ................................................................................ 99
3.4. SỬ DỤNG BỘT SẮN VÀ BỘT LÁ SẮN VỖ BÉO BÒ ................................ 101
3.4.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm ............................................ 101
3.4.2. Lượng thức ăn ăn vào .................................................................................... 101
3.4.3. Tăng khối lượng của bò thí nghiệm .............................................................. 105
3.4.4. Hiệu quả sử dụng thức ăn .............................................................................. 108
3.4.5. Mức dinh dưỡng thu nhận thực tế so với tiêu chuẩn Kearl (1982) ............... 110
3.4.6. Ước tính hiệu quả kinh tế .............................................................................. 111
3.5. LIÊN KẾT NHÓM CHĂN NUÔI BÒ THỊT VỚI CÁC TÁC NHÂN THỊ
TRƯỜNG KẾT HỢP HỆ THỐNG NHẬN DIỆN SẢN PHẨM ............................ 112
3.5.1. Hiện trạng chung của 2 nhóm hộ trước thí nghiệm ...................................... 112
3.5.2. Kết quả xây dựng mối liên kết cho người chăn nuôi bò ............................... 113
3.5.3. Kết quả của sử dụng hệ thống nhận diện sản phẩm trên thị trường .............. 115
3.5.4. Phân phối giá trị gia tăng theo kênh phân phối ............................................. 117
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ..................................................................................... 119
1. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 119
2. ĐỀ NGHỊ ............................................................................................................ 120
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ............................................... 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 122
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ACIAR Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Australia
ADF Xơ không tan trong dung môi axit
ARC Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp (Anh)
CF Xơ thô
CK Chất khô
CN Chăn nuôi
CRBD Mô hình khối ngẫu nhiên hoàn toàn
CRD Kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn
cs. Cộng sự
CV Cao vây
DT Dài thân
DTC Dài thân chéo
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc
FGD Thảo luận nhóm tập trung
GP Gas Production
HQSDTĂ Hiệu quả sử dụng thức ăn
INRA Viện nghiên cứu nông nghiệp Quốc gia Pháp
KL Khối lượng
Mean (M) Giá trị trung bình
MUB Bánh dinh dưỡng rỉ mật - Urê
NĐ-CP Nghị định - Chính phủ
NDF Xơ không tan trong dung môi trung tính
NLTĐ Năng lượng trao đổi
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NRC Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Mỹ
NT Nghiệm thức
NTĐC Nghiệm thức đối chứng
vii
OM Chất hữu cơ
Prth Protein thô
PTNT Phát triển Nông thôn
QĐ Quyết định
SD Độ lệch chuẩn
SE Sai số chuẩn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TDN Tổng các chất dinh dưỡng tiêu hóa
THI Chỉ số nhiệt - ẩm
TKL Tăng khối lượng
TLTH Tỷ lệ tiêu hóa
TM Tròn mình
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTg Thủ tướng
UBND Ủy ban Nhân dân
VCK Vật chất khô
VN Vòng ngực
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Sản lượng thịt bò hơi bình quân đầu người một số nước trên thế giới............ 3
Bảng 1.2. Số lượng bò theo vùng sinh thái qua các năm 2010 - 2014 (nghìn con) ...... 5
Bảng 1.3. Khối lượng và năng suất thịt của bò Vàng Việt Nam................................. 6
Bảng 1.4. Sản lượng thịt bò bình quân theo đầu người .............................................. 6
Bảng 1.5. Ảnh hưởng của mức dinh dưỡng đến thành phần thân thịt ...................... 12
Bảng 1.6. Khả năng tích lũy protein và mỡ theo tuổi (%) ........................................ 14
Bảng 1.7. Diện tích một số cây trồng chính .............................................................. 43
Bảng 1.8. Số lượng gia súc, gia cầm chủ yếu ........................................................... 43
Bảng 2.1. Ước tính khối lượng phụ phẩm nông nghiệp ở Việt Nam ....................... 47
Bảng 2.2. Thiết kế thí nghiệm .................................................................................. 51
Bảng 2.3. Thành phần của thức ăn tinh (% chất khô) .............................................. 52
Bảng 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ............................................................................ 55
Bảng 3.1. Một số thông tin các hộ được điều tra ...................................................... 61
Bảng 3.2. Quy mô chăn nuôi bò trong các hộ được điều tra ..................................... 62
Bảng 3.3. Tỷ lệ giống bò trong các hộ chăn nuôi ..................................................... 63
Bảng 3.4. Phương thức chăn thả bò trong các hộ ..................................................... 63
Bảng 3.5. Trữ lượng phụ phẩm nông nghiệp và khối lượng VCK của phụ phẩm
nông nghiệp trong các hộ .......................................................................................... 65
Bảng 3.6. Thu nhập trung bình từ chăn nuôi bò trong 5 năm ................................... 65
Bảng 3.7. Số lượng bò bán và tần suất bán bò của các hộ ........................................ 67
Bảng 3.8. Số lượng bò thu mua hàng tháng của tác nhân thu gom ........................... 68
Bảng 3.9. Yêu cầu của các lò mổ ở Hà Nội đối với bò thịt vùng Tây Bắc ............... 69
Bảng 3.10. Tỷ lệ người tiêu dùng thịt bò theo các mức thu nhập khác nhau............ 71
Bảng 3.11. Lượng thịt bò tiêu thụ/tháng của người tiêu dùng theo các mức thu nhập
khác nhau................................................................................................................... 71
Bảng 3.12. Tỷ lệ người tiêu dùng chọn địa điểm mua thịt bò theo các tiêu chí ....... 72
Bảng 3.13. Tỷ lệ người tiêu dùng sẵn sàng chi trả giá cao hơn ................................ 73
Bảng 3.14. Khối lượng cơ thể đàn bò địa phương ở các mốc tuổi (kg/con) ............. 74
ix
Bảng 3.15. Tăng khối lượng trung bình của đàn bò điều tra (g/ngày) ...................... 76
Bảng 3.16. Khối lượng bò đực bố và bò cái mẹ của các nghiệm thức (kg) .............. 77
Bảng 3.17. Khối lượng cơ thể bê ở các mốc tuổi sơ sinh đến 24 tháng tuổi (kg/con)78
Bảng 3.18. Tăng khối lượng của đàn con sinh ra (g/ngày) ....................................... 81
Bảng 3.19. Hệ số tương quan giữa khối lượng bò bố, bò mẹ và khối lượng con ..... 83
Bảng 3.20. Phương trình hồi quy ảnh hưởng của khối lượng bò đực bố đến khối
lượng con sinh ra (n=60) ........................................................................................... 83
Bảng 3.21. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn bổ sung.................................................. 86
Bảng 3.22. Lượng khí sinh ra và động thái sinh khí của các thức ăn bổ sung .......... 87
Bảng 3.23. Thay đổi khối lượng của bò thí nghiệm .................................................. 89
Bảng 3.24. Tăng khối lượng lý thuyết và khối lượng thực tế tính theo NLTĐ ........ 92
Bảng 3.25. Lượng năng lượng trao đổi (MJ/con/ngày) và vật chất khô thu được (Kg
VCK/con/ngày) ......................................................................................................... 94
Bảng 3.26. Lượng thức ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn ............................... 96
Bảng 3.27. Ước tính hiệu quả kinh tế ....................................................................... 99
Bảng 3.28. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm .................................... 101
Bảng 3.29. Lượng vật chất khô, năng lượng trao đổi và protein thô bò thu nhận
hàng ngày ................................................................................................................ 102
Bảng 3.30. Lượng vật chất khô, năng lượng trao đổi và protein thô bò thu nhận trên
100 kg thể trọng ...................................................................................................... 104
Bảng 3.31. Tăng khối lượng bình quân của bò qua các giai đoạn thí nghiệm ........ 105
Bảng 3.32. Tiêu tốn vật chất khô, năng lượng trao đổi, protein thô cho 1 kg tăng
khối lượng ............................................................................................................... 108
Bảng 3.33. Mức dinh dưỡng thu nhận thực tế so với tiêu chuẩn Kearl (1982) ...... 110
Bảng 3.34. Ước tính hiệu quả kinh tế của vỗ béo 1 con bò .................................... 112
Bảng 3.35. Hiện trạng của 2 nhóm hộ tham gia thí nghiệm ................................... 113
Bảng 3.36. Sự khác nhau về các hoạt động giữa hai nhóm .................................... 114
Bảng 3.37. Hiệu quả bán bò từ mô hình liên kết sản xuất ...................................... 114
Bảng 3.38. Hiệu quả sử dụng nhãn mác đến giá bán thịt bò ................................... 116
Bảng 3.39. Phân phối giá trị gia tăng tạo ra trong kênh phân phối ......................... 117
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Sự sẵn có của thức ăn thô xanh trong năm (%)......................................... 64
Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc ........................................................... 66
Hình 3.3. Mối quan hệ giữa khối lượng bò đực giống và khối lượng bê .................. 84
Hình 3.4. Lượng khí sinh ra (ml) ở các thời điểm rơm ủ urê và thức ăn hỗn hợp với
dịch dạ cỏ trong điều kiện in vitro ............................................................................ 88
Hình 3.5. Sự chênh lệch năng lượng trao đổi giữa thực tế so với tiêu chuẩn Kearl
(1982) ...................................................................................................................... 111
Hình 3.6. Hệ thống nhận diện và quảng bá sản phẩm thịt bò Sơn La ..................... 116
1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển nông nghiệp bền vững nhờ khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên,
đặc biệt tài nguyên thiên nhiên là lựa chọn ưu tiên đối với sản xuất nông nghiệp của
vùng miền núi phía Bắc. Vùng núi Tây Bắc là một trong những vùng nghèo nhất cả
nước, chăn nuôi bò thịt là một phần quan trọng trong hệ thống sản xuất của hộ nông
dân nhỏ nhờ vào các lợi thế như: đất đai rộng, nguồn lao động gia đình dồi dào,
tiềm năng thức ăn sẵn có cao...
Các nghiên cứu trước đây của một số tác giả Đinh Xuân Tùng và cs 2008 và
Lê Thị Thanh Huyền (2012) đã chỉ ra rằng chăn nuôi bò thịt tại vùng Tây Bắc còn
gặp nhiều trở ngại, hạn chế như: quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, chất lượng con
giống chưa cao, phương thức chăn nuôi quảng canh dựa vào nguồn thức ăn tự
nhiên… Đồng thời người sản xuất chưa quan tâm đến thị trường và nhu cầu người
tiêu dùng. Vì vậy, năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt nông hộ chưa cao như
mong đợi.
Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ thịt bò của người dân cả nước
ngày càng tăng là một trong những cơ hội cho phát triển bò thịt theo hướng hàng
hóa. Phương thức chăn nuôi bò thịt quảng canh, quy mô nhỏ đang dần dần được
thay thế bằng phương thức chăn nuôi bán thâm canh và tiến tới nuôi thâm canh để
đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng và góp phần ổn định sinh kế và giảm
nghèo bền vững cho người chăn nuôi.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế,
việc phát triển, nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt của vùng Tây Bắc
theo hướng hàng hóa được xem như một nhu cầu của cả hai khu vực sản xuất và
tiêu dùng. Đây là nhu cầu cần thiết đặt ra trong nghiên cứu hiện nay, vì vậy đề tài:
“Nghiên cứu một số giải pháp kỹ thuật và thị trường nâng cao năng suất và hiệu
quả chăn nuôi bò thịt vùng Tây Bắc”, đã được tiến hành.
2. MỤC TIÊU
- Xác định một số trở ngại chính và tiềm năng để nâng cao năng suất và hiệu
quả của chăn nuôi bò thịt nông hộ.
2
- Xác định một số giải pháp kỹ thuật và thị trường nâng cao năng suất và hiệu
quả chăn nuôi bò thịt nông hộ.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
- Đề tài luận án đã xác định được một số trở ngại chính, đồng thời xác định
được tiềm năng của địa phương đối với chăn nuôi bò thịt nông hộ vùng Tây Bắc.
- Đã xác định được một số giải pháp kỹ thuật về giống, nuôi dưỡng và giải
pháp thị trường nâng cao năng suất, hiệu quả chăn nuôi bò thịt.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là tài liệu tham khảo cho các nghiên
cứu tiếp theo, làm tài liệu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo, các cơ quan khuyến
nông và bà con nông dân áp dụng.
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Đề tài luận án sử dụng phương pháp từ nghiên cứu đến tác động với cách
tiếp cận từ dưới lên nên các giải pháp gắn liền với thực tiễn sản xuất.
- Đối tượng nghiên cứu tập trung vào giống bò Vàng địa phương, là giống bò
chiếm đa số trong chăn nuôi nông hộ vùng Tây Bắc, trong khi các nghiên cứu trước
đây chủ yếu trên bò lai.
- Các thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện nông hộ, những kết quả của
nghiên cứu có thể áp dụng cho sản xuất một cách thuận tiện.
- Đã kết hợp giữa giải pháp kỹ thuật và giải pháp thị trường để khắc phục trở
ngại, nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt trong nông hộ.
3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI BÒ THỊT TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1.1. Tình hình chăn nuôi bò thịt trên thế giới
Năm 2012 thế giới có trên 1485,2 triệu con trâu và bò, trong đó riêng đàn bò
có khoảng 960 triệu con.
1.1.1.1. Sản lượng thịt bò
Sản lượng thịt bò của thế giới năm 2012 đạt 63,28 triệu tấn, trong đó các
nước châu Á là 14,18 triệu tấn, chiếm 22,41% sản lượng thịt bò thế giới, chứng tỏ
sản lượng thịt bò của châu Á rất thấp so với phần còn lại của thế giới. Nguyên nhân
chính là do bò ở khu vực châu Á có khối lượng cơ thể bé, khả năng sinh trưởng
thấp và sinh sản chậm.
Hai nước có sản lượng thịt bò cao nhất thế giới là Brazil và Mỹ (9.299,96 và
3.003,03 triệu kg), tuy nhiên bình quân đầu người cao nhất là Úc (63,35
kg/người/năm), Argentina (59,80 kg/người/năm).
Bảng 1.1. Sản lượng thịt bò hơi bình quân đầu người một số nước trên thế giới
Quốc gia Dân số
(triệu người)
Sản lượng thịt bò
(triệu kg)
Bình quân đầu người
(kg/người/năm)
Brazil 194,0 9.299,96 47,94
Mỹ 314,0 3.003,03 9,56
Argentina 41,8 2.499,50 59,80
Úc 36,2 2.293,42 63,35
Canada 34,8 999,30 28,72
Indonesia 241,0 413,00 1,71
Việt Nam 88,7 294,00 3,31
Bangladesh 153,0 195,02 1,27
Pakistan 180,0 139,00 0,77
Nguồn: FAO, 2014
1.1.1.2. Giống bò thịt
Những giống bò thịt nổi tiếng đều có nguồn gốc từ châu Âu như giống
Charolais, Limousin của Pháp; Hereford, Shorthorn, Angus của Anh, Simmental
của Thụy Sĩ, BBB của Bỉ... Sau này, các giống chuyên thịt khác cho vùng nhiệt đới
4
và á nhiệt đới được tạo ra từ bò Brahman (có u) với các giống bò chuyên thịt châu
Âu (không có u) như Santa Gertrudis, Brangus, Braford, Beefmaster (Mỹ),
Brahmousin, Chabray (Pháp); Droughtmaster (Úc). Đặc điểm nổi bật của giống bò
chuyên dụng thịt là có thân hình to, con cái trưởng thành nặng từ 500 - 800 kg; con
đực trưởng thành nặng từ 900 - 1.400 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt từ 60 - 65%, thích nghi
với nuôi chăn thả và vỗ béo. Giống bò nuôi lấy thịt ở các nước khu vực châu Á là
các giống bò địa phương nhiệt đới có u và không có u kiêm dụng cày kéo, thịt và
sữa. Một số nước vùng Trung và Nam Á có giống bò năng suất cao như bò Red
Sindhi, Sahiwal, Tharparkar.
1.1.2. Tình hình chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp với cây lúa nước là cây trồng chính.
Bò được nuôi trong các hộ gia đình nông dân với mục đích chính là phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp như: cày ruộng, lấy phân, kéo xe... Bò được nuôi nhiều ở
vùng trung du, miền núi và ven biển đất cát nhẹ. Mùa Đông ở miền Bắc và mùa
khô ở miền Nam là thời gian bò bị thiếu hụt thức ăn trầm trọng và phải sống trong
môi trường sống bất lợi như quá lạnh, quá nóng, bệnh dịch và thiếu nước. Quá trình
thích nghi và chọn lọc tự nhiên này đã hình thành nên giống bò địa phương của ta
(bò Vàng Việt Nam), có tầm vóc nhỏ nhưng dễ nuôi, khả năng chịu đựng kham khổ
và chống đỡ bệnh tật tốt.
Những năm gần đây, quá trình cơ giới hóa nông thôn đã chuyển mục đích
nuôi bò từ cày kéo sang mục đích sản xuất thịt và sữa. Mặc dù vậy, con bò vẫn giữ
vị trí quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp, vì những lý do sau:
- Tăng sản phẩm thịt cho xã hội,
- Tăng thu nhập cho người chăn nuôi,
- Giải quyết sức kéo cho những vùng chưa có điều kiện cơ giới hóa,
- Tận dụng nguồn thức ăn sẵn có, các phụ phẩm nông nghiệp và công nghiệp
chế biến để tạo ra những sản phẩm có giá trị cho xã hội,
- Cung cấp phân bón cho trồng trọt,
- Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn.
1.1.2.1. Số lượng bò
Tổng đàn bò thịt của Việt Nam đến ngày 31/12/2014 là 5.006 nghìn con
5
(bảng 1.2). Do điều kiện tự nhiên khác nhau, sự phân bố đàn bò không đều giữa các
vùng sinh thái, cao nhất cả nước là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung,
tiếp đó là vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ là vùng có số lượng
bò thấp nhất.
Bảng 1.2. Số lượng bò theo vùng sinh thái qua các năm 2010 - 2014 (nghìn con)
Vùng Năm
2010 2011 2012 2013 2014
Cả nước 5.787 5.294 5.027 4.970 5.006
Đồng bằng sông Hồng 621 589 501 478 469
Trung du và miền núi phía Bắc 1.057 914 891 879 889
Bắc Trung Bộ và Duyên hải MT 2.044 2.126 2.074 2.060 2.082
Tây Nguyên 690 684 651 655 660
Đông Nam Bộ 696 324 293 269 250
Đồng bằng sông Cửu Long 678 654 615 627 654
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014
1.1.2.2. Năng suất và sản lượng thịt bò
Bò thịt nước ta chủ yếu là giống bò Vàng (chiếm gần 70% tổng đàn) có tầm
vóc bé, tăng trưởng chậm và tỷ lệ thịt thấp. Bò Vàng 24 tháng tuổi con cái đạt 150 -
160 kg, con đực đạt 175 - 190 kg. Tăng khối lượng bình quân từ sơ sinh đến 24 tháng
tuổi đạt 190 - 220 g/con/ngày, tỷ lệ thịt tinh thấp từ 32 - 33% (Lê Quang Nghiệp,
1984). Khối lượng sống thấp và tỷ lệ thịt tinh thấp nên sản lượng thịt tinh của một bò
chỉ đạt từ 50 - 60 kg.
Hiện nay, trong các sản phẩm chăn nuôi của nước ta thì thịt lợn đang chiếm
tỷ lệ 60 - 70% tổng sản lượng thịt sản xuất ra hàng năm. Trên thế giới, bình quân về
tỷ lệ thịt lợn chỉ chiếm khoảng 40% tổng sản lượng thịt sản xuất ra, còn khoảng
30% là thịt bò và trên 20% các loại thịt khác, trong khi đó tại Việt Nam, sản lượng
thịt bò chỉ chiếm 6 - 7% tổng sản lượng thịt sản xuất ra.
6
Bảng 1.3. Khối lượng và năng suất thịt của bò Vàng Việt Nam
Chỉ tiêu ĐVT Bò cái Bò đực
Khối lượng 24 tháng kg/con 150 175
Khối lượng trưởng thành kg/con 180 250
Khối lượng thịt xẻ kg/con 64,5 77
Tỷ lệ thịt xẻ % 43 44
Khối lượng thịt tinh kg/con 48 58
Tỷ lệ thịt tinh % 32 33
Nguồn: Đinh Văn Cải, 2007
Từ năm 2010 đến năm 2014, sản lượng thịt tăng chậm với tốc độ tăng bình
quân là 6,39 - 6,95%/năm, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân của thịt
lợn (20,66%/năm) và thịt gia cầm (11,36%). Tổng sản lượng thịt bò hơi năm 2014 của
Việt Nam là 292 triệu kg, bình quân đầu người là 3,23 kg/người/năm trong khi trung
bình của thế giới là khoảng 9 kg/người/năm (Tổng cục Thống kê, 2014).
Bảng 1.4. Sản lượng thịt bò bình quân theo đầu người
Chỉ tiêu Năm
2010 2011 2012 2013 2014
Sản lượng thịt bò hơi (1.000 tấn) 278 287 294 285 292
Dân số (1.000 người) 86.932 87.840 88.772 89.708 90.728
Sản lượng theo đầu người
(kg/năm)
3,21 3,27 3,31 3,18 3,23
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014
1.1.2.3. Xu hướng chăn nuôi bò thịt
Chăn nuôi bò thịt chủ yếu là ở nông hộ với quy mô 2 - 5 con, một số hộ
khoảng 10 con, số hộ nuôi trên 30 bò/hộ chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Người chăn nuôi
chủ yếu tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên, nuôi chăn thả hoặc bán chăn thả, chưa
đầu tư nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh. Những năm gần đây đang có xu hướng
chăn nuôi bò thịt trang trại với quy mô lớn hơn. Đã có một số doanh nghiệp đầu tư
7
trang trại nuôi bò thịt nhưng quy mô mới khoảng 200 con, cá biệt có trang trại chăn
nuôi với quy mô hàng chục nghìn con như trang trại của Tập đoàn Hoàng Anh Gia
Lai (Chiến lược đầu tư phát triển Nông nghiệp của Tập đoàn HAGL). Đây là mô
hình chăn nuôi mới xuất hiện, phương thức chăn nuôi tập trung nhưng với các
giống bò chủ yếu nhập nội và thức ăn chăn nuôi bán công nghiệp. Trong khí đó, ở
những vùng núi khó khăn như môi trường chăn nuôi khắc nghiệt về thời tiết quá
nóng hoặc quá lạnh, thiếu thức ăn nghiêm trọng và phương thức chăn nuôi quảng
canh thì các giống bò nội là phương án chăn nuôi hiệu quả và phù hợp nhất với quy
mô nhỏ.
1.2. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ
CHĂN NUÔI BÒ THỊT
1.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi bò thịt nông hộ
Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều chỉ ra rằng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến chăn nuôi bò thịt nông hộ. Mặc dù đây là hình thức chăn nuôi có nhiều ưu điểm
như dễ quản lý, không phải đầu tư lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro về
dịch bệnh, chất lượng sản phẩm không đồng đều và hiệu quả thấp. Để giải quyết vấn
đề này các tác động đơn thuần về kỹ thuật sẽ không đem lại hiệu quả (Lê Viết Ly,
1995). Vì vậy, việc liên kết những người chăn nuôi nhỏ lẻ lại với nhau, sản xuất theo
một qui trình kỹ thuật chung, tạo ra số lượng sản phẩm lớn, đồng bộ về chất lượng
thì mới thu hút được các tác nhân thị trường nâng cao thu nhập, ổn định chất lượng
và số lượng để tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Tuy nhiên, để thực hiện
được điều này chúng ta cần phải xem những yếu tố nào ảnh hưởng đến chăn nuôi bò
thịt nông hộ của các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và các tỉnh vùng Tây Bắc nói
riêng.
1.2.1.1. Yếu tố tự nhiên
Thời tiết khí hậu không những ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể gia súc mà
còn tác động đến sự phát triển của cây cỏ trên đồng cỏ và các nguồn thức ăn thô
xanh khác, nghĩa là tác động gián tiếp đến chăn nuôi bò thịt thông qua nguồn thức
ăn của chúng. Sự phân bố của lượng mưa cũng ảnh hưởng đến chăn nuôi bò thịt.
Mùa mưa, cỏ dồi dào, bò phát triển tốt, ngược lại, vào mùa khô, cây cỏ không phát
8
triển được, bò bị thiếu thức ăn nên tăng trọng kém...
Đất cũng ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi bò thịt. Ở các tỉnh miền núi có
trên 70% diện tích là đồi núi và đất dốc, đất nghèo dinh dưỡng ảnh hưởng đến năng
suất của nguồn thức ăn tự nhiên.
Nước có vai trò quan trọng cho sự phát triển bò thịt bởi vì nó ảnh hưởng tới
sự sinh trưởng và phát triển của cỏ, nguồn thức ăn tự nhiên chủ yếu cho phương thức
nuôi quảng canh. Ở các nước nhiệt đới thường có hai mùa trong năm là mùa mưa và
mùa khô, trong mùa mưa lượng thức ăn tự nhiên cơ bản đủ cung cấp cho bò, mùa
khô do thiếu nước nên cỏ kém phát triển dẫn đến lượng thức ăn tự nhiên thiếu.
1.2.1.2. Yếu tố kỹ thuật
Giống giữ vị trí rất quan trọng trong việc cải tiến di truyền, nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Trong chăn nuôi bò thịt, con giống cần chọn
lọc lai tạo phải theo mục đích của sản xuất là lấy thịt, giống bò thịt phải đạt được
yêu cầu về tầm vóc, tỷ lệ thịt xẻ cao, phù hợp với điều kiện chăn nuôi của vùng.
Thành tựu khoa học trên thế giới về công tác cải tạo giống vật nuôi nói chung đã
khẳng định “con đường nhanh nhất để cải tạo chất lượng giống vật nuôi là sử dụng
giống có nguồn gen cao sản của thế giới để lai tạo với các giống nội, tạo ra con lai
thương phẩm năng suất cao, chất lượng tốt, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu”.
Theo Nguyễn Quốc Đạt và cs. (2008), khi cùng sử dụng khẩu phần nuôi vỗ
béo trong thời gian 84 ngày, có sự chênh lệch đáng kể về khối lượng và chất lượng
thịt giữa các giống bò khác nhau. Bò thuần Droughtmaster 22 tháng tuổi cho tăng
trọng 1,552 kg/con/ngày cao hơn bò Brahman thuần 19 tháng tuổi (1,183
kg/con/ngày) và hơn hẳn bò lai Sind 21 tháng tuổi (0,952 kg/con/ngày). Tỷ lệ thịt
xẻ đạt rất cao 53,21 - 58,12%, tỷ lệ thịt tinh đạt 40,39 - 45,49%. Hiệu quả sử dụng
thức ăn của bò thí nghiệm trong cả 3 lô đều khá cao, chi phí thức ăn cho 1 kg tăng
trọng lần lượt là 8,37; 6,90; 6,29/kg VCK đối với bò lai Sind, Brahman và
Draughtmaster thuần. Nguyễn Hữu Văn và cs. (2009) cho thấy trong cùng một điều
kiện chăn nuôi, bò lai Sind thể hiện sự vượt trội về các chỉ tiêu tầm vóc, khối lượng
và tăng trọng so với bò nội. Tuy nhiên, trong những điều kiện chăn nuôi quảng
canh và tận dụng như vùng Tây Bắc của nước ta thì cũng rất khó khai thác hết tiềm
9
năng về giống cao sản so với con giống địa phương.
Thức ăn cho bò ở nước ta chủ yếu là tân dụng các nguồn phụ phẩm nông
nghiệp. Tuy nhiên, đồng cỏ tự nhiên đang dần dần bị mất đi do sự phát triển của cây
công nghiệp và trồng rừng (Trương La và cs., 2008) hoặc do chính sách tư hữu rừng
và đất của chính phủ (trích dẫn bởi Hoàng Mạnh Quân và cs., 2009). Đồng thời, chất
lượng của các đồng cỏ rất kém vì thiếu phân bón, nguồn nước và quản lý không phù
hợp (Lê Viết Ly, 1995). Thức ăn cho bò thường thiếu hụt trầm trọng vào mùa khô ở
Tây Nguyên (Trương La và cs., 2008) hoặc mùa đông ở vùng núi phía Bắc (Tra,
Hoang Thi Huong, 2010). Để giải quyết những khó khăn này, nông dân thường tận
dụng các phụ phẩm nông nghiệp cho chăn nuôi bò. Phụ phẩm nông nghiệp bao gồm
rơm, thân cây ngô, áo ngô, lõi ngô, thân lá lạc, ngọn và lá mía, rỉ mật, lá và bột bã
sắn (trích dẫn bởi Trương La, 2010). Bên cạnh đó, hoạt động trồng cỏ nuôi bò cũng
là một giải pháp hữu hiệu để chủ động nguồn cung cấp thức ăn và nâng cao hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi. Đinh Xuân Tùng và cs. (2008) đã chỉ ra rằng trồng cỏ có tác
động tích cực đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò thịt. Nghiên cứu tại 4 vùng
sinh thái khác nhau (Miền núi Phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên) cho thấy, nhóm hộ có hiệu quả chăn nuôi cao là các hộ đang áp dụng hệ
thống trồng cỏ và chăn nuôi bò thịt. Hiệu quả kỹ thuật của các cơ sở chăn nuôi ở các
vùng sinh thái nhìn chung còn thấp. Điều này cho thấy tiềm năng tăng sản lượng sản
phẩm đầu ra còn rất lớn so với các mức vật tư đầu vào hiện tại... Một số giống cỏ
nhập nội đã được trồng thử và chọn lọc nhưng hiện nay mới chỉ được trồng ở một số
cơ sở chăn nuôi bò giống và một số rất ít các địa phương.
Nói chung, việc đưa tiến bộ kỹ thuật, thức ăn và nuôi dưỡng bò thịt ở nước ta
còn nhiều hạn chế, tình trạng bò bị thiếu thức ăn, nhất là vào mùa khô và bị thiếu dinh
dưỡng vẫn còn khá phổ biến. Khẩu phần dinh dưỡng là một trong những yếu tố không
những tác động đến sinh trưởng của bò mà còn là một trong những yếu tố tác động
trực tiếp đến năng suất và khả năng chống chịu thời tiết lạnh.
1.2.1.3. Yếu tố tổ chức sản xuất
Tổ chức sản xuất của chăn nuôi bò thịt chủ yếu là chăn nuôi theo nông hộ nhỏ
lẻ nên không có sự thống nhất về qui trình kỹ thuật bao gồm cả các yếu tố giống,
10
phương thức chăm sóc và đầu tư. Với cách tổ chức như vậy, sản phẩm bò thịt sản xuất
trong cùng một vùng khó có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về: (i) tính sẵn
có: khi khách hàng có nhu cầu thì khó có thể cung cấp với đầy đủ số lượng trong thời
gian nhất định và (ii) về chất lượng: chất lượng sản phẩm của từng hộ nhỏ lẻ sẽ khác
nhau nên khó tạo sự ổn định và đồng đều về chất lượng.
Vì vậy, khả năng cạnh trạnh của người chăn nuôi trong giao dịch và khả năng
cạnh tranh thị trường của sản phẩm rất thấp. Người chăn nuôi nhỏ luôn ở thế bất lợi
khi bán sản phẩm nên cần thiết phải tổ chức lại sản xuất thông qua sự liên kết.
1.2.1.4. Yếu tố kinh tế và thị trường
Thị trường tiêu thụ sản phẩm là một trong các mắt xích quan trọng quyết
định sản xuất chăn nuôi bò thịt, sự ổn định của thị trường là động lực giúp cho chăn
nuôi bò thịt phát triển vì nó không chỉ trực tiếp liên quan tới cung, cầu, giá cả mà
còn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của các hộ chăn nuôi. Bên cạnh đó, việc đầu tư
vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mua con giống, cải tạo hay trồng mới đồng
cỏ chăn nuôi, thúc đẩy quá trình xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh sản phẩm
là cần thiết cho phát triển thị trường bò thịt. Hiện nay, nông sản Việt Nam nói
chung và thị trường bò thịt nói riêng rất khó tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm do
quy mô nhỏ lẻ phân tán và thương hiệu sản phẩm không có nên khả năng cạnh
tranh thị trường thấp.
1.2.1.5. Yếu tố văn hoá dân tộc
Mỗi dân tộc đều gắn liền với một hệ thống sản xuất riêng của mình, vùng
Tây Bắc với các nhóm dân tộc gắn liền với hệ thống sản xuất như: (i) nhóm dân tộc
Tày và dân tộc Thái có hệ thống sản xuất đa dạng, chăn nuôi trâu để cày kéo và
nuôi bò thịt với số lượng lớn và (ii) nhóm dân tộc H’mông và Dao thì chủ yếu là hệ
thống canh tác trên nương, nuôi bò với số lượng ít hơn nhưng bò to hơn, nuôi vỗ
béo hiệu quả hơn các dân tộc khác. Tra (2011) cho biết: Trong khi đồng bào
H’mông nuôi bò thịt theo phương thức cắt cỏ, thức ăn mang về nhà và cho ăn tại
chuồng là chủ yếu thì đồng bào Tày (Bắc Kạn) lại chăn thả tự do hay chăn thả một
phần thời gian. Kết quả nghiên cứu của tác giả cũng chỉ ra: Mặc dù trình độ giáo
dục văn hóa chung của đồng bào H’mông thấp hơn so với các cộng đồng thiểu số
11
khác, họ lại là người chăn nuôi bò thịt tốt nhất. Lý do cho sự khác biệt này là đồng
bào H’mông thường sống trên núi cao nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi
như: Nước ít và hiếm, đất đai xấu và hẹp, cây trồng năng suất thấp... Để sinh tồn,
họ cần phải khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên này theo phương thức tiết
kiệm và hiệu quả nhất.
Ngoài ra, còn một số yếu tố ảnh hưởng khác như: giao thông; các chính sách
địa phương, thú y…
1.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất của bò thịt
Năng suất thịt là chỉ tiêu quan trọng và thông dụng để đánh giá sức sản xuất
thịt của gia súc. Chỉ tiêu này được đo gián tiếp theo mức tăng khối lượng của gia
súc sau một thời gian nuôi hoặc được đo trực tiếp theo chỉ tiêu tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ
thịt tinh so với tổng khối lượng của gia súc. Để xác định năng suất thịt trong chăn
nuôi bò, các nhà nghiên cứu thường sử dụng các chỉ tiêu:
- Khối lượng cơ thể,
- Tăng khối lượng,
- Khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ,
- Khối lượng và tỷ lệ thịt tinh,
- Chất lượng thịt
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất thịt bao gồm:
1.2.2.1. Giống bò
Giống bò là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất thịt. Cùng một chế
độ chăm sóc nuôi dưỡng nhưng khác nhau về phẩm chất giống sẽ cho khối lượng
sản phẩm khác nhau. Bò Bos Indicus thông thường cho tỷ lệ thịt xẻ cao hơn so với
bò Bos Taurus 1,5 - 2%, con lai với bò châu Âu có chiều hướng trung gian hoặc
giống bò Bos Indicus (Burns và cs., 2001).
Theo Vũ Văn Nội và cs. (1995), trong điều kiện chăn nuôi và bổ sung thức
ăn thô như nhau F1 (Charolais x bò nội) đạt tăng khối lượng 556 g/ngày; F1
(Simental x bò nội) đạt 520 g/ngày; F1 (Redshindhi x bò nội) chỉ đạt 368 g/ngày.
Trong điều kiện nuôi dưỡng với khẩu phần tốt, bê lai F1 Charolais 6 tháng tuổi
đạt khối lượng 144,1 kg; 12 tháng tuổi đạt 244,7 kg và 18 tháng tuổi đạt 320,7
12
kg, các chỉ số này đối với con lai F1 Droughmaster lần lượt là 128,5 kg; 193 kg
và 233,4 kg (Đinh Văn Cải, 2006).
Để nâng cao năng suất thịt của các giống bò địa phương, người ta thường sử
dụng những giống bò thịt chuyên dụng để lai cải tạo. Chương trình lai với các
giống cao sản nhập nội, kết hợp với các hệ thống vỗ béo khác nhau đã được triển
khai phổ biến rộng rãi trên nhiều nước, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
khả năng tăng trọng, khả năng cho thịt của các giống bò địa phương. Kết quả của
Rodriguez-Voigt và cs. (1997) cho thấy bò lai các giống khác nhau có ảnh hưởng
đến khối lượng lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm cũng như có ảnh hưởng đến khả
năng tăng khối lượng hàng ngày của bò, nhưng không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu
chất lượng thịt. Tuy nhiên, tác giả cũng đưa ra kết luận rằng việc cải thiện chế độ
dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng tăng trọng và
khối lượng thịt xẻ của bò nuôi đa mục đích.
Zhou và cs. (2001) điều tra tại Trung Quốc cho thấy, con lai giữa bò Vàng
và bò Simmental hay Limousin mổ thịt với cùng khối lượng cơ thể cho khối lượng
thân thịt cao hơn tương ứng 8,4% và 19,3% so với bò Vàng thuần. Tác giả cũng
cho biết khối lượng thân thịt của bò Vàng sẽ được cải thiện bằng lai tạo và chế độ
dinh dưỡng tốt hơn.
1.2.2.2. Nuôi dưỡng
Ngoài ảnh hưởng của giống, năng suất thịt của bò cũng phụ thuộc nhiều vào
chế độ nuôi dưỡng. Có thể thấy mức độ ảnh hưởng của các mức dinh dưỡng khác
nhau đến thành phần của các mô trong thân thịt của bò qua kết quả thí nghiệm trong
bảng 1.5. Mức dinh dưỡng cao thì tỷ lệ mỡ trong thân thịt cao còn tỷ lệ cơ, mô liên
kết, xương và sụn thấp; mức dinh dưỡng thấp thì ngược lại.
Bảng 1.5. Ảnh hưởng của mức dinh dưỡng đến thành phần thân thịt
Mức dinh
dưỡng
Tỷ lệ các mô trong thân thịt (%)
Cơ Mỡ Mô liên kết Xương và sụn
Cao 56,6 16,1 11,5 15,7
Trung Bình 59,7 10,3 12,3 17,5
Thấp 60,0 3,6 14,3 21,6
Nguồn: Nguyễn Trọng Tiến, 1991.
13
Về chế độ dinh dưỡng nuôi bò thịt, nuôi dưỡng gia súc theo chế độ dinh
dưỡng bậc thang tức là luôn tăng dần mức dinh dưỡng trong suốt quá trình nuôi có
thể nâng cao khả năng sản xuất và hiệu quả hơn so với chế độ nuôi dưỡng cho ăn tự
do trong suốt quá trình nuôi (Rosi và cs., 2001). Tăng mật độ protein thô của khẩu
phần ăn hạn chế nhằm đạt được lượng protein thô ăn vào tương đương với khẩu
phần ăn tự do nhưng không làm tăng khả năng sản xuất (Rosi và cs., 2000).
Cole và Hutcheson (1990) chỉ ra rằng khi tăng mật độ protein thô từ 12% lên
16% đã nâng cao khả năng tăng khối lượng hàng ngày của bò, lý do là khi lượng
VCK ăn vào giảm thì việc tăng mật độ protein thô của khẩu phần đã làm tăng tổng
lượng protein thô ăn vào. Tác giả cũng khuyến cáo rằng đối với bò đực thiến, trong
28 ngày đầu của giai đoạn nuôi vỗ béo phải được ăn khẩu phần ăn có mật độ
protein thô thấp nhất là 12,5% để có thể cải thiện được lượng VCK ăn vào và đảm
bảo tăng khối lượng hàng ngày cao.
Khẩu phần thức ăn là yếu tố quan trọng, bò không thể cho năng suất cao khi
nguồn thức ăn không ổn định hoặc thức ăn kém chất lượng. Khẩu phần thức ăn
khác nhau cho tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh, tỷ lệ mỡ khác nhau. Loại thức ăn khác
nhau có ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt. Theo Lê Viết Ly (1995) tỷ lệ thịt xẻ của bò thịt
nuôi bằng khẩu phần có tỷ lệ thức ăn thô cao đạt 58% trong khi với khẩu phần có tỷ
lệ thức ăn tinh cao đạt hơn 60%.
Hàm lượng protein thô khác nhau trong khẩu phần làm ảnh hưởng đến năng
suất thịt bò. Thí nghiệm nuôi vỗ béo bò Vàng Việt Nam ở độ tuổi 15 - 18 tháng
bằng các khẩu phần có tỷ lệ protein thô 10% (lô 1), 13% (lô 2), 16% (lô 3) và 19%
(lô 4); sau 74 ngày nuôi thí nghiệm đã cho kết quả: khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ thấp
nhất ở lô 1 (92,3 kg; 46,4%) và cao nhất ở lô 4 (108,5 kg; 48,8%); khối lượng thịt
tinh biến động từ 68,0 kg (lô 1) đến 79,7 kg (lô 4) (Đinh Văn Dũng và cs., 2009).
Tỷ lệ xơ cao trong khẩu phần cũng làm ảnh hưởng đến khả năng sản xuất thịt
của bò. Thí nghiệm trên bò lai Sind có độ tuổi 18 - 24 tháng, sử dụng khẩu phần ăn có
tỷ lệ lõi ngô khác nhau trong thức ăn hỗn hợp lô 1 (10%), lô 2 (20%) và lô 3 (30%);
kết quả sau thời gian nuôi 90 ngày, bò nuôi tại các lô có tỷ lệ lõi ngô cao thì năng suất
thịt thấp hơn các lô có tỷ lệ thấp; tỷ lệ thịt xẻ giảm dần từ lô 1 (47,5%) đến lô 3 (45%);
14
tỷ lệ thịt tinh cũng giảm tương tự từ lô 1 (39,9%) đến lô 3 (37,7%) (Trương La, 2010).
1.2.2.3. Tuổi mổ thịt
Tuổi mổ thịt bò phụ thuộc vào mục đích chăn nuôi và giống, thông thường
các cơ sở chăn nuôi lấy thịt, bò được mổ thịt vào 15 - 18 tháng tuổi, nếu nuôi kết
hợp thì mổ thịt muộn hơn.
Khối lượng và thành phần, hình thái học của cơ thể thay đổi theo tuổi trong
quá trình phát triển của cơ thể. Dưới 12 tháng tuổi, sự lớn lên của cơ thể chủ yếu là
kết quả của sự tích luỹ các mô cơ và xương, đến 18 tháng tuổi sự tích lũy protein,
tức là sự phát triển của tế bào cơ vẫn nhanh, còn tỷ lệ tương đối của mô xương có
xu hướng giảm thấp. Sau 18 tháng tuổi tốc độ tăng trưởng của tế bào cơ giảm, hàm
lượng nước giảm, sự tích luỹ mỡ tăng lên (giá trị năng lượng tăng), còn mô liên kết
giảm, khối lượng thịt và mỡ tăng (Nguyễn Xuân Trạch, 2004). Tuổi càng cao thì sự
tích luỹ mỡ dưới da và mỡ nội tạng càng tăng lên. Khi tuổi tăng lên thì hàm lượng
tương đối của xương và mô liên kết giảm còn tỷ lệ thịt và mỡ sẽ tăng lên. Khi mổ
thịt ở 18 tháng tuổi mỡ tích luỹ trong cơ bắp cao hơn mỡ nội tạng. Sau 18 tháng
tuổi, do sự thay đổi trao đổi chất, khả năng tích luỹ nitơ giảm, còn tích luỹ mỡ tăng.
Bảng 1.6. Khả năng tích lũy protein và mỡ theo tuổi (%)
Chỉ tiêu Sơ sinh 18 tháng 48 tháng
Protein 18,25 17,18 12,50
Mỡ 3,64 26,74 44,30
Nguồn: Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004.
Tuổi mổ thịt phụ thuộc vào khả năng sinh trưởng, tốc độ sinh trưởng của
giống bò và các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, bò chuyên thịt châu Âu có thể mổ
thịt sớm hơn giống bò địa phương, bò Vàng Việt Nam tuổi mổ thịt khoảng 24 tháng
tuổi, có hiệu quả kinh tế cao nhất (Lê Quang Nghiệp, 1984). Bò Charolais nuôi
thâm canh cao có thể được mổ thịt lúc 12 - 15 tháng tuổi với khối lượng đạt 400 -
500 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt trên 60% trong khi đó bò Brahman nuôi quảng canh trên
đồng cỏ (vỗ béo 90 ngày trước khi mổ thịt) lúc 48 tháng tuổi mới đạt khối lượng
400 - 500 kg. Tỷ lệ các cơ quan nội tạng sẽ giảm theo tuổi nhưng ngược lại độ béo
sẽ tăng dần lên, những bò có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn 66% thì thường là tỷ lệ mỡ trong
15
thịt quá cao (Lê Viết Ly, 1995).
1.2.2.4. Tính biệt và thiến
Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh phụ thuộc vào tính biệt, cùng độ tuổi vỗ béo và mổ
thịt thì tỷ lệ thịt xẻ của bò đực luôn cao hơn bò cái. Điều này có thể giải thích được
vì bò cái cơ quan sinh sản phát triển hơn (Lê Viết Ly, 1995).
Rodriguez-Voigt et al. (1997) cho biết việc thiến bò đực trước khi đưa vào
vỗ béo có ảnh hưởng rõ rệt đến khối lượng thịt xẻ, nếu bò đực được để nguyên
không thiến cho tới khi trưởng thành, chúng sẽ sinh trưởng nhanh hơn và cho nhiều
thịt hơn nhưng các sản phẩm thịt này đều ở mức phẩm cấp thấp hơn bởi lượng mỡ
dắt thấp. Đối với bò đực tơ lỡ thiến, tốc độ tổng hợp và phân giải protein cơ đều bị
giảm đi trong suốt giai đoạn nuôi dưỡng hạn chế nhưng chúng sẽ tăng nhanh vào
giai đoạn nuôi thỏa mãn tiếp theo.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng bò đực không thiến đạt tốc độ sinh trưởng
cao hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn nên chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng
thấp hơn so với đực thiến. Tuy nhiên, sự tích luỹ mỡ trong cơ bắp ở bò đực thiến
cao hơn và sớm hơn bò đực không thiến. Bò cái chậm lớn hơn bò đực cùng tuổi.
(Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004).
1.2.2.5. Môi trường chăn nuôi
Môi trường ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt bò trong quá trình nuôi và vỗ
béo như thời tiết - khí hậu, các yếu tố về lý hóa và các yếu tố về sinh học. Những
yếu tố này có liên quan lẫn nhau và ảnh hưởng đến sức khoẻ và sức sản xuất thịt
của bò. Trong các yếu tố này thì ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường là yếu tố được
quan tâm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Trạch, 2004). Nhiệt độ, độ ẩm, cường độ chiếu
sáng, lượng mưa… đều có những ảnh hưởng trực tiếp lên cơ thể gia súc. Dịch
bệnh, ký sinh trùng, chất lượng thức ăn, nước đều có ảnh hưởng đến trao đổi chất
và tác động tới sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của chúng.
Ở các nước nhiệt đới, bò thường bị stress nhiệt, khi bò bị stress nhiệt thì
lượng thức ăn ăn vào giảm 10 - 15%, tăng khối lượng cũng bị giảm (Đinh Văn Cải,
2006). Để đánh giá mức độ stress của bò do ảnh hưởng của môi trường, người ta
thường dùng chỉ số nhiệt - ẩm (THI). Với bò thì THI <70 là thoải mái, THI = 72 -
16
79 là cảnh báo, THI = 80 - 89 là nguy hiểm và THI ≥ 90 là khẩn cấp.
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi bò thịt
Đối với hoạt động chăn nuôi bò, hiệu quả kinh tế được hiểu là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào (giống, kỹ thuật, thức ăn,
lao động và các yếu tố khác) hợp lý nhằm đạt được mục đích sản xuất (giá bán cao,
ổn định, tăng thu nhập) một cách tối ưu cho người chăn nuôi.
Theo Lê Đức Ngoan và Đặng Thanh Giang (2008), hiệu quả kinh tế của
chăn nuôi bò thịt chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố quy mô nuôi, mức đầu tư (vốn, lao
động, thức ăn), giá bán, người mua, thời điểm bán. Các hộ có quy mô nuôi lớn,
mức đầu tư cao hơn bán bò trực tiếp cho các lái buôn lớn thu được hiệu quả cao
hơn những hộ khác. Theo Hoàng Mạnh Quân và cs. (2009) thu nhập từ chăn nuôi
bò chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó: thời gian nuôi, chi phí thú y, chi phí cỏ
trồng, đầu tư con giống là những yếu tố có ảnh hưởng tích cực. Nhìn chung, kết quả
nghiên cứu của các tác giả đều đánh giá có 2 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi bò thịt là: kinh tế - xã hội và kỹ thuật.
1.2.3.1. Yếu tố kinh tế - xã hội
Giá cả
Trong kinh tế thị trường, giá cả luôn thay đổi đã ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi bò thịt. Giá các yếu tố đầu vào như giống, thức ăn, thuốc
thú y... đặc biệt là thức ăn tinh đã tác động rất lớn đến hiệu quả chăn nuôi. Các hộ
chăn nuôi nhỏ thường không có kế hoạch chủ động thức ăn, thời điểm bán nên rất
dễ bị động và gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế. Mặt khác, giá bò thịt biến
động mạnh trong năm, giá bò thịt cao nhất trong năm vào khoảng từ tháng 12 đến
tháng 3 năm sau do đây là mùa lạnh và nhu cầu tiêu dùng thịt bò tăng cao hơn mùa
hè. Tuy nhiên, thời điểm này bò gầy do thiếu thức ăn xanh (Trịnh Văn Tuấn và
Hoàng Xuân Trường, 2012)
Vốn sản xuất
Vốn là yếu tố quan trọng trong chăn nuôi bò, người nông dân muốn chăn
nuôi phải có vốn để mua con giống, xây dựng chuồng trại, mua thức ăn, thuốc thú y
chữa bệnh… Người nông dân thiếu vốn khó có thể đầu tư nhiều trong sản xuất dẫn
17
tới sản xuất quy mô nhỏ lẻ, không tập trung, chưa có sự đầu tư nhiều vào con
giống, chuồng trại… dẫn tới hiệu quả kinh tế chưa cao. Các hộ nghèo mới chỉ dừng
lại ở quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ (1-2 con) có thu nhập thấp hơn so với những hộ nuôi
với quy mô từ 10 con trở lên (Trịnh Văn Tuấn và cs., 2013). Do vậy, muốn phát
triển nhanh đàn bò thịt đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của nhà nước về vốn đầu tư (cho
vay với lãi suất ưu đãi, giảm thuế, chính sách trợ giá).
Lao động
Lao động được sử dụng trong chăn nuôi bò thịt nông hộ chủ yếu lao động
trong gia đình, thường là người già và trẻ em được sử dụng ở các khâu chăn dắt,
cho ăn, vệ sinh… Thực tế cho thấy, chăn nuôi bò thịt đòi hỏi phải thâm canh, thực
hiện đúng quy trình kỹ thuật thì hiệu quả kinh tế mới cao. Lao động có trình độ,
kinh nghiệm trong chăn nuôi sẽ phát triển chăn nuôi tốt hơn trong việc sử dụng
nguồn thức ăn hiệu quả, phòng chống bệnh tật…
Ngoài những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế trong chăn
nuôi còn một số yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ngành chăn
nuôi bò thịt như chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước về vốn, đất đai, chính sách
phát triển nông nghiệp, phát triển ngành, chính sách thuế…
1.2.3.2. Yếu tố kỹ thuật
Các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thịt trong chăn
nuôi, trong đó cần quan tâm đến yếu tố giống, thức ăn và dịch bệnh.
Giống
Giống ảnh hướng lớn đến năng suất và chất lượng sản phẩm, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Giống tốt là con giống phù hợp với
điều kiện sản xuất người chăn nuôi, sinh trưởng và phát triển tốt, không bệnh tật,
cho năng suất và chất lượng thịt cao. Để đạt hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi cần
phải tạo ra các giống bò có sức sản xuất cao, đó là các giống chuyên dụng (Vũ Văn
Nội và cs., 1995). Hiện nay, xu hướng sản xuất thịt bò với các giống chuyên dụng,
thịt bò có hàm lượng protein cao, màu sắc thịt tươi, tính thơm ngon giống như các
giống Brahman, Droughtmaster, Santa Gertrudis, Charolais hoặc con lai giữa các
giống thịt cao sản ngày càng trở nên thông dụng ở các nước có ngành chăn nuôi bò
18
thịt tiên tiến. Tuy nhiên, ở những vùng điều kiện chăn nuôi còn nhiều khó khăn như
vùng Tây Bắc thì những giống bò cao sản này không phát huy được tiềm năng
giống do đó người chăn nuôi vẫn lựa chọn các giống bò địa phương là chủ yếu.
Thức ăn
Thức ăn và chất lượng thức ăn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn
nuôi. Các nông hộ chủ yếu sử dụng nguồn thức ăn trong tự nhiên, một phần thức ăn
tinh như ngô, cám gạo, sắn… trong vỗ béo cho bò. Nguồn thức ăn này là tự có trong
các nông hộ hoặc mua từ các hộ khác với giá thành rẻ, chi phí thấp. Tuy nhiên, trong
điều kiện mùa đông ở Việt Nam, cỏ sinh trưởng và phát triển chậm dẫn tới thiếu thức
ăn xanh cho bò, kết hợp với nhiệt độ thấp làm bò bị giảm thể trọng từ đó ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất. Để khắc phục điều này, người nông dân cần biết chế biến, bảo
quản và sử dụng tốt nguồn thức ăn từ các phụ phẩm trong nông nghiệp: rơm, thân
cây ngô, lõi ngô, lá sắn… nhằm ổn định nguồn thức ăn và tiết kiệm trong sản xuất, từ
đó có thể nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.
Dịch bệnh
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, dịch bệnh thường xuyên xảy
ra, nhất là vào những thời gian chuyển mùa. Bệnh tật làm giảm năng suất, chất
lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế của hộ chăn nuôi. Bò thường mắc các bệnh như
tụ huyết trùng, lở mồm long móng… Do vậy, trong quá trình chăn nuôi người chăn
nuôi phải nắm được các triệu chứng của bệnh và học cách phòng trị bệnh hiệu quả.
Bò phải được tiêm phòng đầy đủ, vệ sinh chuồng trại, thức ăn và môi trường nhằm
bảo đảm bò được phát triển tốt thì hiệu quả kinh tế mới được nâng cao.
Ngoài ra, một số yếu tố như kỹ thuật vỗ béo hiệu quả, thời gian nuôi… cũng
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế.
1.2.4. Chuỗi giá trị và mối liên kết trong chuỗi
Nghiên cứu về chuỗi giá trị sẽ góp phần vào nâng cao giá trị sản phẩm về
mặt vật chất (physical) từ đó nâng cao giá trị của sản phẩm trên thị trường. Mối liên
kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị sẽ đảm bảo cho chuỗi giá trị phát triển một
cách bền vững với xu hướng tác nhân tham gia vào việc tạo thêm giá trị cho sản
phẩm đều được hưởng lợi.
19
1.2.4.1. Khái niệm về chuỗi giá trị
Thuật ngữ chuỗi giá trị được tác giả Porter (1985) sử dụng lần đầu tiên trong
cuốn sách có tựa đề “Lợi thế cạnh tranh: tạo lập và duy trì hiệu quả vượt trội”. Tuy
nhiên, từ những năm 60 các học giả người Pháp đã sử dụng thuật ngữ filliere (ngành
hàng) để mô tả một chuỗi các hoạt động kỹ thuật và dịch vụ nhằm đưa sản phẩm từ
khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng (Kaplinsky và Morris, 2000).
Kaplinsky và Morris, (2000) định nghĩa chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt
động từ cung cấp các dịch vụ đầu vào đến sản xuất, thu gom, chế biến, phân phối
và tiêu thụ cuối cùng, tham gia vào quá trình tạo nên chất lượng và giá trị một nông
sản cụ thể và được hình thành theo nhu cầu của thị trường.
Porter (2008) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu chuỗi giá trị thay
cho trường phái trước đây là chuỗi cung (supply chain) vì chuỗi giá trị quan tâm
nhiều tới nhu cầu của khách hàng để hình thành ý tưởng và cố gắng làm cho sản
phẩm có giá trị (value) để có thể thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thay vì chỉ
đáp ứng sự đặt hàng (order) của khách hàng như trong chuỗi cung.
Trong chuỗi giá trị có “chức năng” của chuỗi và cũng được gọi là các
“khâu” trong chuỗi. Bên cạnh các chức năng chuỗi giá trị chúng ta có “tác nhân”
(cũng có thể gọi là “người vận hành chuỗi giá trị”).
Chuỗi giá trị bò thịt bao gồm: tác nhân cung cấp đầu vào (giống, thức ăn,
thú y...), tác nhân sản xuất (người chăn nuôi), tác nhân thu gom (thu gom nhỏ, thu
gom lớn), tác nhân giết mổ, tác nhân bán lẻ (quầy bán, cửa hàng, siêu thị)...
1.2.4.2. Vai trò của các tác nhân trong chuỗi giá trị bò thịt
Mỗi tác nhân trong chuỗi giá trị có những hoạt động kinh tế riêng, đó chính
là chức năng của tác nhân này trong chuỗi hàng, tên chức năng thường trùng với
tên tác nhân (hộ chăn nuôi, lò mổ bò, hộ bán buôn...). Một tác nhân có thể có một
hay nhiều chức năng.
- Tác nhân cung cấp đầu vào: Có vai trò cung cấp con giống, thức ăn, thuốc và
dịch vụ thú y, dụng cụ, thiết bị kỹ thuật... cho người chăn nuôi. Chất lượng của
các dịch vụ đầu vào có ảnh hưởng đến năng suất thịt và hiệu quả của người
chăn nuôi.
20
- Tác nhân sản xuất (người chăn nuôi): Trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu vào để
nuôi dưỡng, chăm sóc và bán bò. Đây là tác nhân đóng vai trò quyết định đến
chất lượng sản phẩm (bò sống) lưu thông trong chuỗi.
- Tác nhân thu gom
+ Thu gom nhỏ: Thường là địa phương, mua bò trực tiếp từ người chăn nuôi
nhỏ, lẻ và có quy mô thu mua nhỏ để bán cho những thu gom lớn hơn và các
cơ sở giết mổ trong khu vực.
+ Thu gom lớn: Thường là người từ bên ngoài, mua bò từ những người thu
gom nhỏ và người chăn nuôi, cung ứng bò cho các lò mổ trong và ngoài tỉnh.
Mặc dù không làm tăng thêm giá trị sản phẩm nhưng nhóm tác nhân thu gom
là cầu nối giữa nông dân với thị trường, thúc đẩy hoạt động chăn nuôi.
- Tác nhân giết mổ: Làm nhiệm vụ giết mổ, phân loại và bán thịt cho các tác
nhân bán lẻ. Tác nhân này đóng vai trò dịch vụ, chuyển đổi hình thái sản phẩm
từ bò sống sang thịt bò.
- Tác nhân bán lẻ (quầy bán, cửa hàng, siêu thị...): Bán thịt bò tới người tiêu
dùng tại các quầy bán, cửa hàng, siêu thị...
1.2.4.3. Kênh hàng và sản phẩm trong chuỗi giá trị bò thịt
Kênh hàng
Là mối liên kết kế tiếp nhau của các tác nhân tạo nên: Người chăn nuôi - thu
gom nhỏ - thu gom lớn - lò mổ - bán buôn - bán lẻ - tiêu dùng.
Kênh hàng thể hiện sự luân chuyển các luồng vật chất do kết quả hoạt động
kinh tế của hệ thống tác nhân khác nhau ở từng công đoạn sản xuất, chế biến và lưu
thông đến từng chủng loại sản phẩm cuối cùng. Thông thường, trong chuỗi giá trị
bò thịt có 3 kênh:
- Kênh ngắn: Người chăn nuôi - người thu gom/giết mổ - tiêu dùng tại địa phương.
- Kênh trung bình: Người chăn nuôi - người thu gom - người giết mổ - tiêu dùng
nội tỉnh.
- Kênh dài: Người chăn nuôi - người thu gom nhỏ - người thu gom lớn - người
giết mổ - bán lẻ - tiêu dùng ngoại tỉnh.
Sản phẩm
21
Sản phẩm là thứ có thể đưa vào thị trường để đáp ứng nhu cầu của thị trường
và đem lại lợi nhuận. Sản phẩm là kết quả hoạt động kinh tế của các tác nhân nhằm
biến đổi các nguồn lực đầu vào theo một quy trình nhất định.
Trong một chuỗi giá trị, mọi tác nhân đều tạo ra sản phẩm riêng của mình.
Do tính chất phong phú về chủng loại sản phẩm nên trong phân tích chuỗi giá trị
thường chỉ phân tích sự vận hành của các sản phẩm chính. Đối với chuỗi giá trị bò
thịt, 2 nhóm sản phẩm chính là bò và thịt bò.
1.2.4.4. Mối liên kết trong chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là một hệ thống gồm nhiều tác nhân tham gia, thực hiện nhiều
hoạt động khác nhau để đưa một sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng. Trong chuỗi
giá trị có hai hình thức liên kết là liên kết ngang và liên kết dọc. Liên kết ngang là
liên kết của những tác nhân cùng chức năng, liên kết dọc là liên kết giữa các tác
nhân khác nhau trong chuỗi giá trị.
Đối với chuỗi giá trị bò thịt, hình thức liên kết ngang nhằm giúp phát huy lợi
thế của quy mô sản xuất, đặc biệt là đối với hoạt động chăn nuôi bò thịt ở nông hộ
có quy mô nhỏ như vùng cao Tây Bắc. Do quy mô chăn nuôi nhỏ, việc bán bò diễn
ra không thường xuyên nên các hộ nông dân thường gặp nhiều khó khăn để bán
được bò với giá cao nhất. Sự liên kết của các hộ chăn nuôi nhỏ với nhau để tạo ra
sản phẩm khối lượng lớn, tương đối đồng đều về chất lượng theo một quy trình kỹ
thuật chung, vì vậy hiệu quả kinh tế được nâng lên nhờ cắt giảm các chi phí trung
gian (chi phí kiểm dịch, vận chuyển, thông tin, liên lạc, kho bãi...). Thông thường,
việc thành lập một tổ chức nông dân là điều kiện thuận lợi để xây dựng mối liên kết
giữa người chăn nuôi với các tác nhân thị trường. Đồng thời xây dựng liên kết
ngang là cùng tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ (chính sách, tín dụng...).
Hình thức liên kết dọc giữa người chăn nuôi với các tác nhân thu gom, giữa
thu gom với các lò mổ và giữa lò mổ với những người bán lẻ có chức năng đưa sản
phẩm từ người chăn nuôi đến với người tiêu dùng tại một thị trường cụ thể, góp
phần hình thành các kênh tiêu thụ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ. Việc tăng
cường các liên kết và hợp tác theo chiều dọc giúp nâng cấp và phát triển chuỗi giá
trị bò thịt vùng Tây Bắc.
22
Trong nghiên cứu chuỗi giá trị cần thiết phải phân tích mối liên kết giữa các
tác nhân và đánh giá được ảnh hưởng của mối liên kết đến sự vận hành và hiệu quả
hoạt động của chuỗi giá trị để đề xuất các giải pháp can thiệp nâng cao hiệu quả
hoạt động của chuỗi giá trị. Trong mỗi chuỗi giá trị, hoạt động của các tác nhân tạo
ra giá trị gia tăng và sự liên kết giữa các tác nhân góp phần phân phối lại giá trị gia
tăng. Đối với những chuỗi giá trị có sự tham gia của nhiều tác nhân thì sự phân
phối giá trị gia tăng thường xảy ra tình trạng không công bằng.
Đối với chuỗi giá trị bò thịt, tác nhân sản xuất thường chịu nhiều rủi ro hơn
nhưng nhận được tỷ lệ giá trị gia tăng thấp hơn. Việc đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường mối liên kết, đảm bảo giá trị gia tăng được phân phối công bằng là yếu tố
quyết định giúp cho chuỗi giá trị tồn tại và phát triển bền vững. Trong các mắt xích
của chuỗi giá trị thì hai mắt xích quan trọng là: (i) Ở đầu sản xuất: hình thành một tổ
chức của những người chăn nuôi và liên kết họ với các tác nhân thị trường và (ii) Ở
đầu tiêu thụ: tăng cường liên kết của người bán lẻ với người tiêu dùng qua việc thử
nghiệm hệ thống nhận diện sản phẩm để tăng uy tín thịt bò với người tiêu dùng.
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.3.1.1. Các nghiên cứu về giống bò thịt trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có nhiều giống bò thịt chuyên dụng năng suất và
chất lượng cao như bò Charolais, Limousin, Blonde Aquitaine của Pháp, bò Blanc
Bleu Belge (BBB) của Bỉ, bò Hereford, Shorhorn của Anh. Bò Charolais có khối
lượng lúc 15 tháng tuổi đạt 550 kg, tỷ lệ thịt xẻ 60%; bò Limousin, Blonde
Aquitaine, Blanc Bleu Belge (BBB) lúc 15 tháng tuổi đạt khối lượng 600 kg, tỷ lệ
thịt xẻ đạt 62%.
Nhiều giống bò thịt được hình thành từ lai tạo như giống Drought Master
được hình thành từ lai tạo giữa giống bò Shorthorn và giống bò nhiệt đới Brahman;
Bradford là kết quả lai tạo giữa Brahman với bò Hereford; Brangus là kết quả lai
tạo giữa bò Brahman với bò Angus và bò Hereford. Lai giống đã tạo ra nhiều giống
bò thịt thích nghi với điều kiện khí hậu và điều kiện môi trường của từng nước, các
giống mới có khả năng cho năng suất và chất lượng thịt cao hơn.
23
Phương pháp lai tạo giống đã cho ra nhiều giống bò nổi tiếng thế giới như
Santagertrudis (3/8 Zebu và 5/8 Shorthorn); nhóm bò Brangus (Brahman × Aberdin
Angus). Jaturasitha và cs. (2009) cho biết con lai giữa 2 giống vượt bố mẹ 8,5%,
trong khi đó lai giữa 3 giống con lai vượt bố mẹ 23,3%. Agasti và cs. (1984) nghiên
cứu lai bò Hereford với Brahman và lai trở lại ¾ Hereford và ¾ Brahman cho kết
quả tương ứng 203 kg, 205 kg và 200 kg so với Hereford thuần 171 kg và Brahman
thuần 169 kg.
Theo Holroyd (1988) thì bò cái F1 Brahman có khối lượng cao hơn bò cái F1
Shahiwal 21 kg lúc động dục lần đầu; con lai ¾ Brahman có khối lượng cao hơn
con lai ¾ Sahiwal là 29 kg ở cùng thời điểm. Fordyce et al. (1993) cho biết bò lai
Bos Indicus F2 (1/2 Brahman × Sahiwal) có khối lượng sơ sinh của con cái đạt 27,5
kg; con đực đạt 29,1 kg; tăng trưởng đạt 0,84 kg/con/ngày ở bò đực và 0,77
kg/con/ngày ở bò cái. Dixon (1998); Fordyce (1999) nghiên cứu khối lượng, tỷ lệ
đẻ của đàn bò lai Brahman vùng miền Nam Úc cho thấy con lai giữa các giống bò
ôn đới với các giống Zebu có khả năng chống bệnh cao.
1.3.1.2. Các nghiên cứu về sử dụng phụ phẩm nông nghiệp nuôi bò
Có nhiều nghiên cứu về các biện pháp xử lý thức ăn giàu xơ đã và đang thực
hiện ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Sri Lanka…
Bằng các biện pháp vật lý, hoá học và sinh học người ta có thể nâng cao chất lượng
phụ phẩm nông công nghiệp. Các biệp pháp thông dụng bao gồm: Xử lý NaOH theo
phương pháp Beckman, phương pháp nhúng, xử lý bằng khí NH3 hoặc dùng NH3
lỏng, urê (Schiere và Ibrahim, 1989; Leng, 2003).
Theo Preston and Leng (1987): rơm xử lý bằng cách ủ urê đã làm giảm
lượng thức ăn tiêu tốn và tăng tiêu thụ rơm ủ. Chenost and Kayuli (1997) cho rằng
tác động chính của biện pháp dùng urê xử lý phụ phẩm và thức ăn nhiều xơ là: gia
tăng tỷ lệ tiêu hóa 8 - 12 đơn vị, tăng lượng thức ăn nitơ lên 2 lần, tăng lượng thức
ăn ăn được lên 25 - 50% và tăng giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Giới thiệu kinh nghiệm nuôi bò thịt bằng phụ phẩm nông, công nghiệp tại
Trung Quốc, Lê Viết Ly (1995) cho biết sử dụng các loại thức ăn như bã mía, rỉ
mật... được trộn đều với thức ăn tinh, urê và khoáng vi lượng rồi làm thành thức ăn
24
viên để nuôi vỗ béo bò vùng Minnan rất hiệu quả. Kỹ thuật này tiết kiệm được thức
ăn tinh, nâng cao hiệu quả sử dụng và thu được lợi ích đáng kể. Preston (1995) đã
nghiên cứu sử dụng sản phẩm phụ khác từ mía như: ngọn, lá và rỉ mật làm thức ăn
cho gia súc nhai lại.
Chenost và Kayuli (1997), Leng (2003) và nhiều tác giả khác đã nghiên cứu
sử dụng bánh dinh dưỡng urê - rỉ mật là loại thức ăn dễ chế biến từ nguồn nguyên
liệu địa phương có giá thành rẻ, có thể cung cấp urê suốt ngày và an toàn cho gia
súc. Những thí nghiệm về khối liếm urê rỉ mật - cám gạo - nguyên tố vi lượng, đa
lượng được thực hiện đầu tiên ở Ấn Độ. Trâu bò liếm loại thức ăn này đã tạo ra
nồng độ NH3 cao suốt thời gian trong ngày, kết quả làm tăng tỷ lệ tiêu hóa thức ăn
nhiều xơ, tăng lượng thức ăn thu nhận, tăng trọng nhanh hơn và làm tăng năng suất.
Khi bổ sung thêm khối liếm urê - rỉ mật vào khẩu phần cơ sở: rơm có bổ
sung thêm ít thức ăn tinh cho bò đã tăng lượng rơm ăn vào. Do sự kích thích lên
men dạ cỏ mà năng suất sữa tăng 1,5 - 2,4 lít/ngày nghĩa là tăng sản sinh protein vi
sinh vật, các dạng năng lượng mỡ và glycogen cũng được tăng cường dự trữ trong
sản phẩm cuối cùng của quá trình lên men (Chenost và Kayuli, 1997).
1.3.1.3. Các nghiên cứu về vỗ béo bò
Leng (1984) khi sử dụng khối liếm urê - rỉ mật theo công thức 55% rỉ mật,
18% cám gạo, 15% urê khoáng, chất độn 12% cho bò Zersey cho thấy: mỗi ngày
bò được ăn 530 gam khối liếm và lượng rơm ăn vào nhiều hơn (6,8 kg chất
khô/ngày so với đối chứng 6,4 kg), nhưng tăng trọng gấp 3 lần (700 g/ngày so với
220 g/ngày).
Preston (1995) nghiên cứu nuôi bò bằng các phụ phẩm nông, công nghiệp
với nguồn thức ăn chính là rỉ mật và hạt bông đã thấy: có thể sử dụng trên 70% rỉ
mật (tính theo chất khô) trong khẩu phần vỗ béo bò thịt. Một số nghiên cứu khác
cũng cho thấy có thể sử dụng rỉ mật từ 30 - 50%; hoặc cao hơn trong khẩu phần, bò
có thể cho tăng trọng 600 - 1.000 g/con/ngày.
Lê Viết Ly (1995) cho biết sử dụng NaOH để kiềm hóa bã mía, sử dụng rơm
lúa mì và hạt bông đã được tiến hành rất thành công và tạo thức ăn tinh vỗ béo bò
lai hướng thịt với quy mô lớn tại Trung Quốc. Nghiên cứu vỗ béo bò với lượng hạt
25
bông cho ăn từ 1,5 - 2 kg/con/ngày, bò tăng trọng bình quân 781 - 892 g/con/ngày.
Tại đây cũng có nhiều nghiên cứu về kỹ thuật xử lý rơm như phương pháp amoniac
hoá rơm… đồng thời đưa ra một số công nghệ vỗ béo bò thịt sử dụng các loại thức
ăn khác nhau đạt hiệu quả kinh tế.
Lê Viết Ly (1995) cho biết một thí nghiệm về sử dụng thức ăn vỗ béo bò
Vàng của Trung Quốc mang lại kết quả tốt. Các giống bò Vàng như Jinnan,
Quinchuan, Nanyang và Luxi đã đưa vào nuôi vỗ béo trong 100 ngày. Kết thúc thí
nghiệm bò Nanyang đạt 455 kg, bò Luxi đạt 475 kg, bò Jinnan 514,6 kg và bò
Quichuan 517,8 kg. Tăng khối lượng bình quân/ngày của 4 giống bò tương ứng là:
622 g; 669 g; 782 g; và 749 g. Chất lượng thịt được cải thiện rất rõ: thịt loại 1
chiếm 70%; thịt loại 2 chiếm 25% và thịt loại 3 chiếm 5%.
Preston (1995), Chenost và Kayuli (1997), Leng (2003) đã nghiên cứu sản
xuất khối liếm urê - rỉ mật, khoáng và chất độn nuôi bò cho tăng khối lượng bình
quân trong 100 ngày nuôi vỗ béo đạt 865,8 g/con/ngày và 921,4 g/con/ngày lần
lượt ở bò cái và bò đực, bò tiêu thụ 6,0 - 6,4 kg thức ăn viên cho 1 kg tăng khối
lượng, tỷ lệ thịt xẻ đạt 57,7% và tỷ lệ thịt tinh đạt 47,4%.
Như vậy, phụ phẩm như bã mía, rỉ mật và urê trộn với thức ăn tinh tạo thành
thức ăn hỗn hợp dùng vỗ béo cho bò đã làm tăng năng suất và chất lượng thịt bò, tiết
kiệm thức ăn tinh, giảm giá thành và tăng hiệu quả kinh tế cho chăn nuôi bò thịt.
1.3.1.4. Nghiên cứu về chuỗi giá trị
Trên thế giới đã áp dụng lý thuyết chuỗi giá trị vào việc nghiên cứu các sản
phẩm nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhằm nâng cao tính cạnh tranh và cải
thiện giá trị gia tăng cho sản phẩm nhằm đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho các bên
tham gia. Người ta đã nhận thấy tầm quan trọng của liên kết giữa các bên tham gia
trong thương mại quốc tế như trường hợp thành công của ô tô Nhật Bản vào những
năm 1970. Trong thập niên 80 và 90 trên thế giới người ta quan tâm nhiều đến
chuỗi giá trị, đặc biệt là quản lý chuỗi cung cấp, chuỗi giá trị quan tâm đến việc
chia sẻ thông tin giữa các bên tham gia để giảm chi phí về mặt thời gian, giảm giá
thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng và tăng giá
trị cho sản phẩm đó.
26
Porter (1985) đã dùng khung phân tích chuỗi giá trị để xác định vị thế công
ty trong thị trường và mối quan hệ với các nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh
tranh thấy rằng tính cạnh tranh của công ty có thể phân tích bằng cách xem xét
chuỗi giá trị bao gồm từ thiết kế sản xuất, mua vật tư đầu vào, hậu cần bên ngoài,
tiếp thị, bán hàng, các dịch vụ hậu mãi và dịch vụ hỗ trợ.
Gereffi và Korzenniewicz (1994), Kaplinsky and Morris (2000) đã đưa ra
phương pháp tiếp cận toàn cầu về chuỗi giá trị, đưa ra khung phân tích để hiểu cách
thức mà các công ty và quốc gia hội nhập toàn cầu, để đánh giá các yếu tố quyết
định đến phân phối thu nhập toàn cầu thông qua việc lập sơ đồ hoạt động trong
chuỗi và phân tích chuỗi để làm sáng tỏ công ty, vùng, quốc gia được kết nối với
nền kinh tế toàn cầu như thế nào.
Fearne and Hughes (1998) đã phân tích được ưu điểm và nhược điểm của
việc áp dụng chuỗi giá trị trong kinh doanh. Về ưu điểm, áp dụng chuỗi giá trị
trong kinh doanh sẽ làm giảm mức độ phức tạp trong mua và bán, giảm chi phí và
tăng chất lượng sản phẩm, giá cả đầu vào ổn định, giảm thời gian tìm kiếm những
nhà cung cấp mới, cùng nhau thực thi kế hoạch và chia sẻ thông tin dựa trên sự tin
tưởng lẫn nhau. Bên cạnh đó người ta phát hiện ra những nhược điểm khi áp dụng
chuỗi giá trị là tăng sự phụ thuộc giữa các bên tham gia chuỗi, giảm sự cạnh tranh
giữa người mua và người bán, phát sinh chi phí mới trong chuỗi.
Theo MO’ Sullival (2000) nghiên cứu về đổi mới doanh nghiệp và liên kết
quản lý thấy rằng phương thức tốt nhất để các hộ nghèo và các hộ sản xuất quy
mô nhỏ có thể tham gia vào chuỗi giá trị là liên kết với nhau nhằm tăng tính cạnh
tranh trên thị trường ở cả đầu vào và đầu ra.
Wright và cs. (2011) nghiên cứu kết hợp chăn nuôi và trồng trọt trong hệ
thống nông nghiệp vùng á nhiệt đới thấy rằng chăn nuôi nông hộ luôn đóng vai trò
quan trọng trong cung cấp thực phẩm cho xã hội, sự đảm bảo về tiếp cận với các
tiến bộ kỹ thuật phù hợp, thông tin và tiếp cận thị trường là những yếu tố giúp các
nông hộ có thể tăng năng suất và thu nhập một cách bền vững.
Schotz và cs. (2011) nghiên cứu về cơ hội chăn nuôi bò thịt ở các nước đang
phát triển đã chỉ ra nhu cầu tiêu thụ thịt tăng là cơ hội phát triển thị trường lớn hơn
27
đối với người chăn nuôi, nếu năng suất chăn nuôi bò thịt nông hộ được cải thiện lên
mức sản xuất hàng hóa thì đó sẽ là tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế nông hộ.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.3.2.1. Giống bò Vàng Việt Nam
Nguồn gốc của bò Vàng Việt Nam chưa có tài liệu nào khẳng định, song rất
có thể chúng xuất phát từ loại hình bò châu Á có u. Bò có sắc lông màu vàng, vàng
nhạt hoặc vàng đậm, nên có tên chung là bò Vàng Việt Nam và gọi theo tên địa
danh như: Bò Thanh Hoá, bò Cao Bằng, bò Nghệ An, bò Phú Yên...
Bò Vàng có tầm vóc nhỏ, thấp, phát dục cân xứng. Toàn thân hình chữ nhật
dài. Đầu bò cái thanh, đầu bò đực thô, sừng ngắn, trán phẳng hơi lõm, mắt to, lanh
lẹ. Yếm ngực kéo dài từ hầu đến ức, cổ có nhiều nếp nhăn nhỏ. Bò đực có u vai, bò
cái không có u vai, lưng hông thẳng, mông xuôi, lép và ngắn. Ngực tương đối sâu,
nhưng hơi lép, bụng to, tròn, bốn chân thanh, bốn vú kém phát triển.
Khi trưởng thành bò cái có khối lượng 160 - 180 kg (chỉ có khoảng 20% là
có khối lượng trên 200 kg), bò đực 250 - 280 kg. Tuổi đẻ lứa đầu muộn (thường 36
- 40 tháng), tỷ lệ đẻ trong đàn chỉ đạt 40 - 50%. Sản lượng sữa thấp, chỉ đủ nuôi
con, không có sữa hàng hoá. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 40%, nuôi tốt đạt 44%. Bò có khả
năng thích ứng rộng rãi với mọi hoàn cảnh, đặc biệt với khí hậu nóng ẩm ở nước ta,
lại có khả năng kháng bệnh cao, ít mắc những bệnh của bò nhập nội như ký sinh
trùng máu, sảy thai truyền nhiễm.
Bò không có thiên hướng sản xuất rõ rệt, năng suất thấp. Vì vậy, chúng ta đã
dùng bò đực Zebu dòng Sind tiến hành lai cải tạo, nâng cao tầm vóc, khối lượng và
sức sản xuất của đàn bò Việt Nam từ năm 1924. Do đó trong sản xuất đã có đàn bò
lai Sind nhưng số lượng chưa nhiều. Đồng thời, với việc cải tiến đàn bò bằng
phương pháp "Zebu hoá" nhà nước lại tiếp tục đầu tư để xây dựng đàn bò sữa, bò
thịt bằng cách tiếp tục cho lai bò cái đã được cải tiến với các bò đực giống chuyên
dụng sữa và chuyên dụng thịt.
Khối lượng bê sơ sinh trung bình 14 - 15 kg. Từ 20 - 24 tháng tuổi có thể
phối giống lần đầu. Mắn đẻ, khoảng cách giữa hai lứa đẻ 13 - 14 tháng. Sản lượng
sữa thấp, 400-500 kg/chu kỳ. Tỷ lệ mỡ sữa cao, đến 5%. Sức kéo dẻo dai nhưng
28
khối lượng vận chuyển thấp, khoảng 200 - 500 kg phụ thuộc vào chất lượng đường
giao thông. Tỷ lệ thịt xẻ của bò đực thiến (đã được vỗ béo) 48 - 50%. Thịt màu
hồng, ít mỡ, mùi vị thơm ngon.
Ưu điểm nổi bật của bò Vàng Việt Nam là khả năng chịu đựng kham khổ
trong điều kiện nuôi dưỡng thấp, thích ứng với điều kiện khí hậu nóng, ẩm, sức
chống chịu bệnh cao.
1.3.2.2. Các nghiên cứu về công tác giống bò thịt
Nhiều chương trình giống đã và đang được triển khai, góp phần quan trọng
vào việc nâng cao năng suất và chất lượng đàn bò thịt Việt Nam. Chương trình cải
tạo đàn bò địa phương thông qua phương pháp thụ tinh nhân tạo hoặc phối giống
trực tiếp với bò đực giống Zebu tạo bò lai có tỷ lệ máu ngoại trên 50%. Lai tạo,
phát triển giống bò thịt chất lượng cao có tỷ lệ từ 75% máu ngoại trở lên bằng sử
dụng tinh của các giống bò thịt cao sản phối với bò cái nền lai Zebu. Chọn lọc và
nhân thuần các giống bò Zebu và các giống bò thịt cao sản nhập nội phù hợp với
điều kiện sinh sản từng vùng. Hơn nữa có sức sản xuất thịt cao, sức kháng bệnh tốt,
đặc biệt là đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.
Lai giống là phương pháp cải tiến năng suất và chất lượng thịt được áp dụng
rộng rãi trong chăn nuôi bò thịt. Các giống bò chuyên dụng thịt đã được nhập vào
nước ta nhằm lai tạo cải tạo giống bò địa phương, con lai có năng suất và chất
lượng thịt cao hơn hẳn giống bò địa phương. Một trong những biện pháp nhằm
nâng cao khả năng sản xuất thịt trong ngành chăn nuôi bò thịt đang được áp dụng ở
nước ta là lai kinh tế giữa bò chuyên dụng thịt với bò nội trong nước. Hiện nay đàn
bò Vàng Việt Nam đang được Sind hóa hoặc Zebu hóa, có nghĩa là dùng bò đực
Red Sindhi hoặc các giống bò đực thuộc nhóm bò Zebu lai giống với bò trong
nước. Các giống bò Zebu đã được nhập trong chương trình cải tạo đàn bò Vàng
gồm bò Red Sindhi và bò Sahiwal nhập từ Pakistan trong thời gian 1985 - 1987, bò
Brahman đỏ và trắng nhập từ Cuba năm 1987 và từ Úc trong những năm 2001 -
2005. Mục đích là nâng cao tầm vóc của con lai F1, cải tiến năng suất, chất lượng
thịt. Trên cơ sở đó làm tiền đề cho những bước cải tiến tiếp theo là hoặc hướng sữa
hoặc hướng thịt.
29
Bên cạnh việc lai tạo và lai cải tiến đàn bò địa phương, chúng ta cũng đã
nhập và nhân một số giống bò thịt như: Brahman, Droughtmaster.
Nguyễn Văn Thưởng và cs. (1985) đã nghiên cứu dùng bò đực Red Sindhi
lai cải tạo bò Vàng Việt Nam đã nâng khối lượng của bò cái sinh sản từ 200 kg lên
270 - 280 kg, bò đực từ 250 - 280 kg lên 380 - 420 kg, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%. Bò lai
Sind cũng được sử dụng khá phổ biến tại Việt Nam trong các nghiên cứu về lai
kinh tế với các giống bò hướng thịt ôn đới. Lai kinh tế giữa bò lai Sind với F1 Zebu,
F1 Brown Swiss, F1 Charolais, F1 Santa Gertrudis cho thấy bò lai F1 phát huy tác
dụng tốt ưu thế sản xuất thịt giống bố, khối lượng lúc 24 tháng tuổi tương ứng của
các giống này là 223,5; 241,5; 236,2 và 241,7 kg, cao hơn đàn lai Sind nuôi cùng
điều kiện từ 48,7 - 61,5 kg.
Vũ Văn Nội và cs. (1995) nghiên cứu lai giữa bò cái lai Sind với bò đực
chuyên dụng thịt đã nâng cao khối lượng bê lai, khối lượng bò lai F1 Charolais, F1
Hereford, F1 Limousine lúc 24 tháng tuổi vượt so với khối lượng F1 Red Sindhi từ
15 - 30%. Lê Viết Ly (1995) thăm dò các nhóm lai giữa bò lai Sind với các giống
bò chuyên thịt nhằm nâng cao khả năng cho thịt đã cho kết quả con lai đạt khối
lượng 200 - 240 kg trong thời gian nuôi 24 tháng, con lai F1 Charolais có triển vọng
nhất, nuôi đến 27 tháng (vỗ béo 3 tháng cuối) bò đạt khối lượng 280 - 300 kg, tỷ lệ
thịt tinh đạt 42 - 44%. Bò thuộc các công thức lai giữa đực các giống Zebu, Brown
Swiss, Charolais, Santa Gertrudis với cái lai Sind nuôi trong điều kiện có bổ sung
thức ăn củ quả khối lượng lúc 24 tháng lần lượt là 223,5; 241,5; 263,5 và 241,7 kg.
Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Văn Diện (1995) nghiên cứu lai kinh tế bò thịt
tại thành phố Hồ Chí Minh và Bảo Lộc, Lâm Đồng. Kết quả về lai tạo bò thịt ở
miền Trung và Tây Nguyên cho thấy các cặp lai phương thức lai khác nhau thì ưu
thế lai khác nhau.
Nguyễn Văn Niêm và cs. (1999) đã tiến hành nghiên cứu đề tài "Một số đặc
điểm sinh học, khả năng sản xuất và phát triển chăn nuôi của giống bò vùng cao Hà
Giang tại các tỉnh vùng núi phía bắc". Các tác giả đã cho biết bò đực trưởng thành
có khối lượng cơ thể đạt 400 - 450 kg, bò cái trưởng thành có khối lượng cơ thể đạt
250-280 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt 52,12%, tỷ lệ thịt tinh 40,33% (so với bò Vàng thì tỷ lệ
30
tương ứng là 42% và 33%).
Lê Viết Ly (2000) sử dụng tinh bò đực Droughtmaster, Belmont Red, Red
Brangus, Red Brahman với cái nền lai Sind tại Vĩnh Phúc. Phạm Thế Huệ và cs.,
(2009) cho thấy khối lượng lúc 24 tháng tuổi của Bò lai F1 (Charolais x lai Sind) và
F1 (Brahman x lai Sind) nuôi trong nông hộ tại Đăk Lăk đạt tương ứng 302,15 và
274,19 kg, cao hơn 32,1 và 20,5% so với bò lai Sind (227,87 kg).
Lê Xuân Cương và cs. (2001) nghiên cứu các nhóm bê lai F1 (Simmental x
lai Sind), F1 (Charolais x lai Sind), F1 (Brahman x lai Sind), nuôi theo phương thức
chăn thả kết hợp với bổ sung thức ăn tại chuồng cho thấy lúc 12 tháng tuổi, khối
lượng các nhóm bò lai F1 Charolais đạt 165,7 kg, F1 Simmental: 151 kg, F1
Brahman: 149 kg và lai Sind: 144,8 kg; từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi, sinh trưởng
tuyệt đối của con lai Charolais là 135,9%, lai Simmental 133,5% và lai Brahman
113,8% so với lai Sind; 6 - 12 tháng, sinh trưởng tuyệt đối của lai Charolais
111,6% và các nhóm còn lại 101,5 - 102,2% so với lai Sind; 12 - 18 tháng tuổi, sinh
trưởng tuyệt đối của lai Charolais băng 148,5% so với lai Sind.
Phạm Văn Quyến và cs. (2002) nghiên cứu sinh trưởng của các nhóm con lai
chuyên thịt trong những điều kiện nuôi dưỡng khác nhau cho thấy các nhóm bò lai
được nuôi theo phương thức bán chăn thả (thời gian thả từ 6-8 giờ/ngày), sau đó về
chuồng có bổ sung thức ăn tinh (14% protein và năng lượng trao đổi 2500 Kcal/kg)
và cỏ trồng (Ruzi, Guinea, Andropogon). Khối lượng các con lai lúc 18 tháng tuổi
như sau: con lai Charolais đạt 308,81 kg; lai Hereford: 291,63 kg; lai Simmental:
220,27 kg và lai Sind: 205,50 kg. So với lai Sind, các nhóm lai Charolais, Hereford
và Simmental cao hơn lần lượt là: 50,27%; 41,91% và 7,19%.
Vũ Chí Cương và cs. (2007) tiến hành lai tạo giữa bò chuyên dụng thịt với
bò lai Sind, con lai F1 Brahman và F1 Charolais đạt tăng khối lượng tương ứng 346
- 405 g/con/ngày, nuôi vỗ béo lúc 18 tháng tuổi cho tăng khối lượng 732 - 845
g/con/ngày.
Đinh Văn Tuyền và cs. (2009) nghiên cứu trên hai nhóm bò lai Sind và F1
(Red Angus x lai Sind), nuôi theo phương thức nuôi nhốt kết hợp vận động với
thức ăn chủ yếu cỏ Guinea và thức ăn hỗn hợp gồm hạt bông, bột sắn và urê, cho
31
thấy khối lượng bê lai Red Angus luôn cao hơn khối lượng bê lai Sind cùng tuổi ít
nhất là 10% (lúc sơ sinh) và cao nhất là 32,7% lúc 18 tháng tuổi; sinh trưởng tuyệt
đối của bê lai Red Angus cũng luôn cao hơn của bê lai Sind trong cùng giai đoạn
sinh trưởng; tính cho giai đoạn từ sơ sinh đến 21 tháng tuổi thì bê lai Sind đạt mức
tăng khối lượng trung bình 336 g/con/ngày còn bê lai Red Angus đạt 459
g/con/ngày, cao hơn 36,7% so với bê lai Sind.
Hoàng Xuân Trường (2010) đã nghiên cứu một số giải pháp phát triển chăn
nuôi bò H’Mông tại vùng cao huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng cho biết loại bò này
thường được dân tộc H’Mông nuôi nhốt trên vùng cao, bò đực có khối lượng khá
lớn, có con nặng tới 625 kg.
Nguyễn Đàm Thuyên (2012) nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và
khả năng sản xuất thịt của bò H’Mông tại Mèo Vạc, Hà Giang đã công bố bò
H’Mông có khả năng cho thịt tốt, tỷ lệ thịt xẻ >41%; tỷ lệ thịt tinh >32%.
Đào Lan Nhi (2012) nghiên cứu bò H’Mông ở Đồng Văn, Hà Giang cho biết
giống bò này có khối lượng sơ sinh đực là 17 - 18 kg, cái 14 - 16 kg, lúc 2 năm tuổi
đực có khối lượng 233 - 275 kg và cái là 216 - 225 kg, khi trưởng thành đực 382 -
388 kg và cái là 250 - 270 kg; tỷ lệ thịt xẻ 50 - 52%, thịt tinh 38 - 40%. Nguyễn
Văn Hiền (2013) nghiên cứu tuyển chọn đàn bò cái và sử dụng bò đực H’Mông
khối lượng lớn làm giống đã nâng cao khối lượng cơ thể, khối lượng sơ sinh đực là
20,9 kg, cái 19,8 kg; lúc 6 tháng tuổi đực 82,1 kg, cái 80,1 kg.
Đoàn Đức Vũ (2015) nghiên cứu hoàn thiện quy trình nuôi bê đực hướng
sữa lấy thịt cho biết tuổi đưa vào vỗ béo là từ 16 - 18 tháng và thời gian vỗ béo
trong 3 tháng cho tăng khối lượng bình quân 464,7 g/con/ngày.
1.3.2.3. Nghiên cứu nuôi dưỡng bò thịt
Nghiên cứu khẩu phần nuôi dưỡng bò thịt
Hàm lượng dinh dưỡng và thành phần các loại thức ăn trong khẩu phần có
ảnh hưởng lớn đến tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn của bò vỗ béo.
Một số nghiên cứu trước đây cho thấy, khi tỷ lệ thức ăn tinh bổ sung trong khẩu
phần tăng thì khối lượng của bò vỗ béo cũng tăng lên (Nguyễn Tuấn Hùng và Đặng
Vũ Bình, 2003; Ba et al., 2008a; Ba et al., 2008b; Nguyễn Xuân Bả và cs., 2010).
32
Phương thức cho ăn và nguồn thức ăn tinh khác nhau cũng ảnh hưởng đến
tăng khối lượng của bò vỗ béo. Vũ Chí Cương và cs. (1999) khi vỗ béo bò lai Sind
18 tháng tuổi cho thấy bò được cho ăn khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh có hàm
lượng rỉ mật cao (>45% chất khô khẩu phần) cho tăng khối lượng cao hơn bò ăn
khẩu phần gồm thức ăn tinh hỗn hợp, cỏ tươi và rơm khô nhưng cho ăn riêng rẽ.
Nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Hùng và Đặng Vũ Bình (2003) cho biết bò lai
Sind 18 tháng tuổi được vỗ béo bằng khẩu phần có bổ sung thức ăn tinh ở mức 1,8
kg/con/ngày cho tăng khối lượng (784,2 g/ngày) cao hơn đáng kể so với nhóm chỉ
được bổ sung 0,9 kg/ngày (561,3 g/ngày) mặc dù khẩu phần của nhóm sau có hàm
lượng protein cao hơn do được cho ăn tự do bẹ ngô ủ urê 4%.
Vũ Chí Cương và cs. (2007) nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn và hàm lượng
xơ khác nhau trong khẩu phần đến khả năng sản xuất của bò lai Sind vỗ béo cho
thấy các nguồn xơ và tỷ lệ xơ khác nhau không ảnh hưởng đến tăng khối lượng
(trung bình đạt 800 g/ngày) và hệ số chuyển hóa thức ăn (8 - 9 kg chất khô/kg tăng
khối lượng) của bò vỗ béo.
Ba et al. (2008b); Nguyễn Xuân Bả và cs. (2010) cho thấy, lượng thức ăn
tinh bổ sung trong khẩu phần vỗ béo bò Vàng có tương quan tuyến tính với tăng
khối lượng của bò; tăng lượng thức ăn tinh bổ sung trong khẩu phần vỗ béo bò
Vàng cũng làm giảm đáng kể chí phí thức ăn cho tăng khối lượng, đồng thời làm
tăng đáng kể diện tích cơ thăn. Vỗ béo bò lai Sind thì tác giả trên cho thấy việc bổ
sung tăng dần mức bột sắn (0,3 đến 2,0% so với khối lượng cơ thể) trong khẩu
phần gồm rơm và cỏ tự nhiên có ảnh hưởng phi tuyến tính đến lượng thức ăn ăn
vào và tăng khối lượng của bò với mức bổ sung 0,7 - 1,0%, bò cho tăng khối lượng
cao nhất.
Đinh Văn Dũng và cs. (2009) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng
protein trong khẩu phần đến năng suất của bò Vàng địa phương vỗ béo, cho thấy bò
ăn khẩu phần có bổ sung thức ăn tinh 19% protein cho tăng khối lượng cao nhất
(815 g/con/ngày) và hệ số chuyển hóa thức ăn thấp nhất, trong khi bò ăn khẩu phần
được bổ sung thức ăn tinh 10% protein cho tăng khối lượng thấp nhất (583 g/ngày)
và hệ số chuyển hóa thức ăn cao nhất.
33
Có thể nói việc sử dụng khẩu phần ăn trong nuôi dưỡng có vai trò quan
trọng đến khả năng sản xuất thịt của bò vỗ béo. Trong thực tế với điều kiện ở Việt
Nam, khi sử dụng các loại thức ăn có nguồn gốc từ các phụ phẩm nông nghiệp như
rơm lúa, lá sắn, sắn củ, cám gạo... nếu biết kết hợp với các loại thức ăn cung cấp
protein một cách hợp lý sẽ làm tăng năng suất, chất lượng thịt bò trước khi đưa vào
tiêu thụ.
Nghiên cứu về độ tuổi, thời gian vỗ béo
Nguyễn Văn Thưởng (1995) nghiên cứu ảnh hưởng của độ tuổi vỗ béo trên
con lai F1 giữa đực các giống Brown Swiss, Charolais, Santa gertrudis với cái lai
Sind; bò được nuôi vỗ béo ở 2 giai đoạn 15 - 18 và 24 - 27 tháng tuổi, thời gian nuôi
vỗ béo 2 tháng cho mỗi giai đoạn; kết quả bò vỗ béo giai đoạn 15 - 18 tháng tuổi đạt
tăng khối lượng (477 - 544 g/ngày) thấp hơn 24 - 27 tháng tuổi (444 - 622 g/ngày).
Đinh Văn Cải (2006) tiến hành nghiên cứu trên bò đực thuần giống
Brahman trắng 18 tháng tuổi và khối lượng trung bình 259 kg, thời gian nuôi vỗ
béo là 6 tháng cho thấy tăng khối lượng bình quân trong suốt giai đoạn vỗ béo đạt
cao (955 g/ngày). Tuy nhiên, tăng khối lượng ở 2 tháng đầu rất cao (trên 1.500
g/ngày), trong khi ở 3 tháng cuối bò tăng khối lượng giảm hẳn (giảm từ 823 g/ngày
vào tháng vỗ béo thứ 4 xuống 600 g/ngày vào tháng thứ 6). Tác giả kết luận, thời
gian vỗ béo chỉ kéo dài 3 tháng là phù hợp. Đinh Văn Cải và cs. (2006) nghiên cứu
vỗ béo 3 nhóm bò lai F1 (Brahman x lai Sind); F1 (Charolais x lai Sind) và lai Sind
ở độ tuổi 16 - 17 tháng tuổi cho thấy tăng khối lượng bình quân của lai Sind (833
g/ngày) thấp hơn F1 Brahman (1.104 g/ngày) và F1 Charolais (1.148 g/ngày), tỷ lệ
thịt xẻ của F1 Charolais (53,93%) cao hơn F1 Brahman (49,06%) và lai Sind
(47,92%), tỷ lệ thịt tinh của F1 Charolais (43,61%) cao nhất, sau đó là của F1
Brahman (39,95%) và thấp nhất là của lai Sind (38,35%).
Nguyễn Xuân Trạch và Trần Văn Nhạc (2008) nghiên cứu ảnh hưởng của độ
tuổi và mức sử dụng thức ăn tinh trong khẩu phần đến tăng khối lượng và hiệu quả
kinh tế nuôi vỗ béo bò thịt cho thấy nhóm bò lớn tuổi có tốc độ tăng khối lượng hàng
ngày cao hơn nhóm ít tháng tuổi (548 g so với 475 g/ngày), mức thức ăn tinh sử
dụng càng nhiều thì tăng khối lượng càng cao (tương ứng là 359; 570 và 606
34
g/ngày). Tuy nhiên, khi sử dụng 3,5 kg thức ăn tinh/con/ngày thì hiệu quả kinh tế
không cao.
Đinh Văn Tuyền và cs. (2008) nghiên cứu khả năng tăng khối lượng và cho
thịt khi nuôi vỗ béo bò thuần Brahman và bò lai Sind cho thấy bò thuần Brahman
18 tháng tuổi cho tăng khối lượng (1,42 kg/con/ngày) cao hơn đáng kể so với bò lai
Sind có tuổi tương đương (0,97 kg/con/ngày); tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò
Brahman vỗ béo tương ứng là 53,33% và 42,85% cũng cao hơn đáng kể so với các
tỷ lệ này của bò lai Sind (49,06 và 40,43%).
Phạm Thế Huệ và cs. (2009) vỗ béo bò 21 tháng tuổi trong thời gian 90 ngày
đối với 3 nhóm là F1 (Brahman x lai Sind); F1 (Charolais x lai Sind) và lai Sind cho
thấy bò F1 Charolais đạt tăng khối lượng cao nhất (917,78 g/ngày) đến F1 Brahman
(791,10 g/ngày) và thấp nhất là lai Sind (657,78 g/ngày). Hệ số chuyển hóa thức ăn
ở nhóm bò F1 Charolais là 7,33; bò F1 Brahman là 8,04 và lai Sind là 9,48. Tỷ lệ thịt
xẻ và tỷ lệ thịt tinh tương ứng là bò F1 Charolais đạt 55,20 và 44,05%; bò F1
Brahman là 52,52 và 43,46% và lai Sind là 48,93 và 42,34%.
Nguyễn Quốc Đạt và cs. (2013) nghiên cứu vỗ béo bò lai Sind, Brahman và
Droughtmaster cho biết vỗ béo bò có thể bắt đầu từ 18 tháng tuổi, thời gian vỗ béo
là 3 tháng đã cải thiện đáng kể khối lượng và chất lượng thịt bò, hiệu quả sử dụng
thức ăn của bò là từ 6,29 - 8,73 kg VCK/kg tăng khối lượng.
Đỗ Thị Thanh Vân (2014) nghiên cứu vỗ béo bò lai F1 (Droughtmaster x lai
Zebu) cũng cho biết vỗ béo bò ở 18 - 19 tháng tuổi trong 3 tháng cho tăng khối
lượng là 1,01 - 1,26 kg/con/ngày, tiêu tốn thức ăn là 8,11 - 9,53 kg VCK/kg tăng
khối lượng.
Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp nuôi bò thịt
Bên cạnh công tác nghiên cứu về giống, cũng có nhiều nghiên cứu về dinh
dưỡng, thức ăn, kỹ thuật vỗ béo bò thịt bằng những nguyên liệu sẵn có của địa
phương như rơm, thân cây ngô, lá sắn, bột lá sắn, rỉ mật… nhằm phát huy tối đa
tiềm năng di truyền của giống và nâng cao chất lượng thịt.
Vũ Văn Nội và cs. (1994) nghiên cứu trong điều kiện chăn thả còn hạn chế,
bổ sung thêm rơm ủ urê và bánh dinh dưỡng (MUB) có hàm lượng bột cá 20%, bê F1
35
lai hướng thịt tăng khối lượng cao (402 - 429 g/con/ngày), trong khi chăn nuôi quảng
canh chỉ cho tăng trọng 210 - 240 g/con/ngày. Vũ Văn Nội và cs. (1999) nuôi vỗ béo
bò bằng nhiều nguồn nguyên liệu có sẵn là phụ phẩm nông, công nghiệp như khô
dầu lạc, hạt bông, rỉ mật đường, rơm, cỏ khô để nuôi vỗ béo đã cho thấy bê đực có
khả năng tăng khối lượng 610 - 700 g/con/ngày; các đối tượng bò vỗ béo khác nhau
với các khẩu phần thí nghiệm đều cho tăng trọng từ 550 - 750 g/con/ngày, tỷ lệ thịt
tinh đạt 36 - 38%, cao hơn bò cùng tuổi không được vỗ béo từ 3 - 6%.
Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995) vỗ béo bằng phụ phẩm nông nghiệp thì
khối lượng 24 tháng tuổi đạt 280 - 300 kg, tăng khối lượng là 600 - 700 g/con/ngày,
tỷ lệ thịt xẻ đạt 48 - 50%.
Nguyễn Văn Thưởng và cs. (1995) sử dụng phụ phẩm vỗ béo bò thu được
kết quả các cặp lai giữa bò lai Sind với F1 Zebu, F1 Brown Swiss, F1 Santa
Gertrudis đạt tăng khối lượng 400 - 622 g/con/ngày, trong đó bò lai F1 Charolais
đạt tăng khối lượng khá cao 544 - 630 g/con/ngày.
Vũ Văn Nội và cs. (1995) nuôi dưỡng một số bê lai F1 bằng cỏ cắt và bánh
dinh dưỡng (MUB) cho tăng khối lượng đối với F1 Charolais 556 g/ngày, F1
Simmental 520 g/ngày và F1 Red Sindhi 368 g/ngày. Vũ Chí Cương và cs. (2001)
đã tiến hành vỗ béo bò lai Sind bằng khẩu phần rỉ mật cao 45% chất khô của khẩu
phần với rơm khô, không cần cỏ xanh cho tăng khối lượng 650 - 700 g/con/ngày,
trong khi nuôi đại trà chỉ đạt tăng khối lượng 300 - 400 g/con/ngày. Nguyễn Văn
Hòa và cs. (2005) nghiên cứu vỗ béo bò lai Sind bằng phụ phẩm nông nghiệp cho
tăng khối lượng 600 - 760 g/con/ngày, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 43,6 lên 47,7%, tỷ lệ thịt
tinh tăng từ 34,9 lên 37,6%.
Nguyễn Văn Niêm (1996) nghiên cứu về phương thức chăn nuôi nhằm nâng
cao khả năng cho thịt và cải tiến chất lượng thịt cho thấy cần thiết phải vỗ béo bò
lai lúc 21 - 24 tháng tuổi bằng các thức ăn giàu protein và giàu năng lượng sẵn có
tại địa phương.
Tận dụng các loại phụ phẩm nông nghiệp vào nuôi vỗ béo bò làm tăng năng
suất, chất lượng thịt bò hiện đang được ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam. Sử dụng
các loại sản phẩm này không những nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, góp
36
phần làm giảm giá thành và nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi mà còn góp
phần phát triển sản xuất nông nghiệp chế biến, làm giảm ô nhiễm môi trường và
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm khi thị trường đang hướng tới sử dụng các loại
sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên (Lê Viết Ly, 1995; Vũ Chí Cương và cs., 2008).
Đã có nhiều nghiên cứu sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp như rơm lúa, bẹ
ngô, hạt bông, bã sắn, thân lá lạc sau thu hoạch... vỗ béo bò thịt (Vũ Văn Nội và
cs., 2001; Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004; Mai Thị Thơm và Bùi
Quang Tuấn, 2005; Phạm Kim Cương, 2008; Đỗ Thị Thanh Vân và cs., 2008). Do
các phụ phẩm nông nghiệp thường có hàm lượng dinh dưỡng thấp nên thường chỉ
được phối hợp trong khẩu phần ở tỷ lệ nhất định. Tăng khối lượng của bò vỗ béo
bằng khẩu phần có phụ phẩm nông nghiệp trong các nghiên cứu trên thường chỉ ở
mức khiêm tốn (dưới 1 kg/con/ngày) nhưng đều có thể đem lại lợi nhuận cho người
chăn nuôi (Vũ Văn Nội và cs., 2001; Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004;
Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn, 2005; Đỗ Thị Thanh Vân và cs., 2008). Mức
tăng khối lượng và hiệu quả kinh tế khi vỗ béo thường tăng lên khi khẩu phần xây
dựng từ phụ phẩm nông nghiệp được bổ sung thêm thức ăn tinh (Nguyễn Hữu
Minh và cs., 2006) và vỗ béo bò lai chuyên thịt (lai giữa bò ôn đới với bò cái lai
Sind) cho tăng khối lượng và năng suất thịt xẻ cao hơn so với vỗ béo bò lai nhóm
Zebu (Lê Viết Ly, 1995; Vũ Văn Nội và cs., 2001).
Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995) nghiên cứu sử dụng rỉ mật, hạt bông và
rơm xử lý 4% urê cho thấy: sau 6 tuần thí nghiệm, bò tăng trọng 568 g/con/ngày.
Vũ Chí Cương và cs. (2001) đã cho thấy với khẩu phần vỗ béo bò bằng rỉ mật
đường (45% chất khô của khẩu phần) kết hợp với hạt bông và rơm khô không cần
cỏ xanh, bò lai Sind có thể tăng trọng trong giai đoạn vỗ béo từ 650 - 700
g/con/ngày, trong khi đó nuôi đại trà bò chỉ tăng trọng 300 - 400 g/con/ngày.
Nguyễn Xuân Trạch (2004) khi theo dõi sự biến đổi thành phần hóa học của rơm
xử lý bằng urê và vôi với mức urê: 0%; 2%; 4% và mức CaO: 0%; 3%; 6% và thời
gian ủ là 21 ngày, cho thấy hàm lượng nitơ tăng lên rõ rệt, hàm lượng NDF,
hemicellulose giảm.
Lê Viết Ly (2001) sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn gia súc bằng
37
nhiều kỹ thuật xử lý khác nhau cho thấy bò vỗ béo bằng thức ăn là phụ phẩm nông,
công nghiệp gồm rơm, hạt bông, rỉ mật... cho tăng khối lượng 556 - 700
g/con/ngày. Vũ Chí Cương và cs. (2001) nghiên cứu rỉ mật trong chăn nuôi bò cho
thấy khẩu phần có hàm lượng rỉ mật trên 45% dùng vỗ béo bò cho tăng khối lượng
600 - 700 g/con/ngày và tiêu tốn thức ăn 6,23 - 7,25 kg VCK/kg tăng khối lượng.
Vũ Chí Cương và cs. (2001) nuôi bò với hỗn hợp thức ăn gồm đậu tương,
bột sắn, hạt bông, khoáng, lá dâu, rơm, rỉ mật và urê, bò cho tăng khối lượng 554 -
583 g/con/ngày.
Trương La và Đậu Thế Năm (2002) sử dụng 2 khẩu phần làm thức ăn vỗ
béo bò tại Đắk Lắk có sử dụng rỉ mật và hạt bông làm nguyên liệu chính, kết quả
bò tơ cho tăng khối lượng 612 - 621 g/con/ngày (tăng hơn 2 lần so với đối chứng);
bò phế canh tăng khối lượng 517,5 - 544,8 g/con/ngày (tăng hơn 3 lần so với đối
chứng). Đinh Văn Cải và Phạm Văn Quyến (2007) sử dụng khô dầu hạt bông và rỉ
mật để nuôi vỗ béo bò lai tại Bình Dương, kết quả bò tăng khối lượng bình quân
833 - 1.148 g/con/ngày, tỷ lệ thịt xẻ đạt: 47,9 - 53,9%.
Nguyễn Tấn Hùng và Đặng Vũ Bình (2004) sử dụng rơm lúa và thân áo ngô
sau thu hoạch có ủ urê 4% để nuôi bò lai Sind giai đoạn xuất chuồng cho tăng khối
lượng 758 - 784 g/con/ngày.
Vũ Chí Cương và cs. (2007) vỗ béo bò thịt lai Sind tại Đắk Lắk cho thấy khi
sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp như rơm, cây ngô sau thu hoạch, lõi ngô, bẹ
bắp với khẩu phần rỉ mật cao (38%), bò ở các lô (4 lô) thí nghiệm cho tăng khối
lượng tương ứng: 583 g; 625 g; 795 g và 839 g/con/ngày.
Nguyễn Quốc Đạt và cs. (2008) vỗ béo bò lai Sind, Brahman,
Droughtmaster cho thấy tăng khối lượng tương ứng là 0,952; 1,183 và 1,552
kg/con/ngày.
Phạm Thế Huệ và cs. (2009) nghiên cứu vỗ béo 21 - 24 tháng tuổi đối với bò
lai F1 (Charolais x lai Sind) và F1 (Brahman x lai Sind) cho thấy bò đạt khối lượng
tương ứng 356,80 và 338,40 kg, cao hơn bò lai Sind (294,20 kg), tăng khối lượng
đạt 917,78 và 791,10 g/con/ngày cao hơn bò lai Sind (657,78 g/con/ngày), tỷ lệ thịt
xẻ 55,20 và 52,52%, cao hơn bò lai Sind (48,93%).
38
Trương La (2010) nghiên cứu sử dụng phụ phẩm nông nghiệp vỗ béo bò cho
biết: (i) Nuôi vỗ béo bò lai Sind với các khẩu phần có tỷ lệ lõi ngô trong khẩu phần
10%; 20% và 30% thì tăng khối lượng của các nhóm bò tương ứng là 0,745; 0,689
và 0,633 kg/con/ngày; tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng tương ứng là 7,21;
7,77 và 8,51 kg VCK); tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh giảm dần theo sự tăng lên của lõi
ngô, tỷ lệ thịt xẻ 45,0 - 47,5%, thịt tinh 37,7 - 39,9%; (ii) Sử dụng 5%, 15% và 25%
thân cây ngô trong khẩu phần vỗ béo bò, tăng khối lượng của bò tương ứng là
0,738; 0,735; 0,658 kg/con/ngày; tiêu tốn thức ăn tương ứng là 7,32; 7,46; 8,40 kg
VCK/kg tăng khối lượng); (iii) Sử dụng vỏ quả ca cao khô nuôi bò với tỷ lệ 25%;
30% và 35% thay thế một phần bột ngô trong khẩu phần vỗ béo bò cho tăng khối
lượng tương ứng là 0,707; 0,689 và 0,679 kg/con/ngày.
1.3.2.4. Nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản tại Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu chuỗi giá trị được tiến hành từ cuối những năm
1980 sau khi đã giải quyết được các vấn đề về lương thực thực phẩm trong nước
nhưng lúng túng về thị trường tiêu thụ khi chúng ta chuyển từ nền sản xuất tự cấp
tự túc sang nền kinh tế thị trường (Đào Thế Tuấn, 1989). Tuy nhiên, các nghiên
cứu này chỉ được phát triển mạnh mẽ từ những năm 2000 khi nhu cầu thị trường về
các sản phẩm chất lượng, sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng ngày càng tăng và người
tiêu dùng sẵn sàng chi trả mức giá cao hơn nếu sản phẩm đảm bảo chất lượng và có
khả năng truy xuất nguồn gốc. Đây là cơ sở để phát triển các sản phẩm từ trang trại
đến bàn ăn theo chuỗi giá trị khép kín.
Ngô Thị Thủy (2004) nghiên cứu về liên kết kinh tế thông qua hợp đồng
giữa người sản xuất mía nguyên liệu và công ty mía đường Hòa Bình đã chứng
minh được sự liên kết giữa những người sản xuất mía nguyên liệu và công ty mía
đường Hòa Bình là phù hợp và đúng đắn.
Trần Văn Hiếu (2005) thực hiện đề tài nghiên cứu về liên kết kinh tế giữa
các hộ nông dân với các doanh nghiệp nhà nước đã chỉ ra rằng liên kết giữa các hộ
nông dân và các doanh nghiệp nhà nước chính là tạo lập sức mạnh để tác động, hỗ
trợ, giúp đỡ cho kinh tế hộ nông dân phát triển được năng lực bên trong và tạo lập
được môi trường kinh tế xã hội bên ngoài thuận lợi, thúc đẩy và định hướng phát
39
triển kinh tế hộ nông dân chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng thị trường.
Theo Đinh Xuân Tùng và cs. (2008), nghiên cứu về hiệu quả kinh tế kỹ
thuật chăn nuôi bò thịt ở bốn vùng sinh thái khác nhau thấy rằng các hộ chăn nuôi
cùng hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều có thu nhập và hiệu quả cao hơn
các hộ chăn nuôi riêng lẻ và có sự khác nhau về quy mô và hiệu quả kinh tế, kỹ
thuật của các hệ thống chăn nuôi bò thịt ở các vùng sinh thái khác nhau.
Tổ chức SNV (2008) đã nghiên cứu chuỗi giá trị ngành cói của tỉnh Ninh
Bình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cói qua phát triển chuỗi giá trị.
Sau khi tiến hành chương trình nghiên cứu tổ chức SNV đã hỗ trợ thành lập các
nhóm đại diện như nông dân trồng và chế biến cói, hiệp hội cói, phát triển thị
trường cho công nghệ sau thu hoạch, cải thiện việc tiếp cận thị trường…
Chương trình GTZ (2008) đã hỗ trợ triển khai dự án “Phân tích chuỗi giá
trị rau cải ngọt tại tỉnh Hưng Yên” với mục đích là cùng các bên liên quan đến
chuỗi cải ngọt tạo ra phương hướng phát triển và lập kế hoạch can thiệp trên cơ sở
yêu cầu thị trường nhằm thúc đẩy chuỗi gía trị rau cải ngọt thành công hơn, có
khả năng cạnh tranh cao hơn từ đó mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia
Theo Đào Thế Anh và Paule Moustier (2009) thì giá trị gia tăng đạt được từ
các hoạt động xây dựng thương hiệu, đóng gói, thiết kế và marketing đã mang lại
giá bán cao hơn cho người sản xuất và lượng hàng hoá tiêu thụ nhiều hơn. Trong
nhiều trường hợp, các sản phẩm đã có được thị trường mới ở các khu thương mại,
siêu thị lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số sản phẩm đã có được thị
trường xuất khẩu. Tiếp cận và phát triển thị trường được cải thiện thông qua các
hoạt động nâng cấp chuỗi và mối quan hệ hợp tác của các tác nhân trong chuỗi.
Bảo Trung (2009) nghiên cứu về cơ sở khoa học của việc hình thành và phát
triển thể chế giao dịch nông sản ở Việt Nam đã khẳng định thể chế giao dịch nông
sản là cơ sở khung pháp lý hay tập quán qui định về cấu trúc tổ chức và cơ chế vận
hành của các hoạt động giao dịch nông sản giữa 2 hay nhiều chủ thể tham gia phù
hợp với điều kiện vật chất nhất định.
Hoàng Thị Hương Trà và cs. (2010) phân tích chuỗi giá trị sản xuất bò thịt
trong các hệ thống chăn nuôi khác nhau ở tỉnh Bắc Kạn đã chỉ ra hoạt động chăn
nuôi này đã không phát triển mạnh như mong đợi mặc dù đã có các chính sách hỗ
40
trợ, thị trường cho gia súc ở vùng cao vẫn còn chưa phát triển mặc dù tiếp thị gia
súc được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng. Phân
tích chuỗi giá trị cho thấy sự hình thành các nhóm nông dân để tiếp cận một cách
tập thể và xây dựng các hoạt động chung là một lựa chọn quan trọng để cải thiện
năng lực đàm phán thị trường, vị thế và mối liên kết nông dân với các tác nhân
khác của chuỗi giá trị.
Trịnh Văn Tuấn và Hoàng Xuân Trường (2012) khi nghiên cứu tác động cho
chuỗi bò thịt H’mông Cao Bằng thì thấy rằng nếu liên kết các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ
lại với nhau thành các tổ hợp tác và liên kết các tổ hợp tác này với các tác nhân thị
trường, đồng thời xây dựng thương hiệu và gắn nhãn mác cho sản phẩm trước khi
đưa ra thị trường thì giá trị của sản phẩm toàn chuỗi tăng lên 22 - 25% tùy theo
mùa vụ, trong đó người chăn nuôi tăng 7.000đ/1kg thịt xô, tương đương gần 500
ngàn đồng/1 bò thịt khi bán ra thị trường.
Hoàng Xuân Trường và cs. (2012) khi nghiên cứu chuỗi giá trị bò thịt tại
Đắk Lắk đã cho thấy người chăn nuôi bò thịt thiếu thông tin thị trường và luôn luôn
bị ép giá do bán đơn lẻ, đồng thời tác giả cũng chỉ ra rằng hiệu quả chăn nuôi là rất
thấp, trung bình mỗi hộ thu nhập khoảng 4 triệu đồng từ chăn nuôi bò thịt/năm,
tương đương 21.928 đồng/ngày công chăn nuôi.
Hồ Cao Việt (2012) nghiên cứu chuỗi giá trị bò thịt vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ đã chỉ ra chuỗi giá trị này thu hút sự tham gia của các nhóm tác nhân: hộ
chăn nuôi, thương lái thu mua bò, lò mổ, đại lý, nhà phân phối và một số tác nhân
khác như bán lẻ, cơ sở chế biến các sản phẩm từ thịt bò (khô bò, lòng, thuộc da).
Đinh Xuân Tùng và cs. (2015) nghiên cứu các giải pháp tổng hợp để phát
triển chăn nuôi bò thịt theo hướng sản xuất hàng hóa thấy rằng có sự khác biệt đáng
kể về lợi nhuận chăn nuôi bò thịt giữa các vùng sinh thái. Lợi nhuận từng trại trong
năm cao nhất được thấy ở Tây Bắc, sau đó là Đông Bắc, Đồng bằng Sông Hồng và
Duyên hải Nam Trung Bộ. Phương thức trồng cây thức ăn gia súc có tác động lớn
đến hiệu quả chăn nuôi. Đặc biệt, khi các hộ chăn nuôi tham gia nhóm liên kết,
mua bán thông qua hợp đồng với các thương lái đã nâng giá trị trong chuỗi giá trị
bò thịt lên gần 40% trong đó người chăn nuôi tăng khoảng 36% tương đương
41
417,45 ngàn đồng/1 bò thịt.
1.4. KHÁI QUÁT VÙNG NGHIÊN CỨU
1.4.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng Tây Bắc
1.4.1.1. Vị trí địa lý
Tây Bắc là một
vùng lãnh thổ rộng lớn
nằm ở phía Bắc của Việt
Nam. Tây Bắc gồm 6
tỉnh với diện tích trên
5,64 triệu ha với 3,5
triệu dân. Phía Bắc giáp
Vân Nam (Trung Quốc);
phía Tây và Tây Nam
giáp Phong Sa Lỳ - Sầm
Nưa (Lào); phía Đông
giáp tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ; phía Nam và Đông Nam giáp các tỉnh
Ninh Bình, Thanh Hóa, thủ đô Hà Nội.
1.4.1.2. Địa hình
Tây Bắc là vùng núi, cao nguyên hiểm trở có mức độ chia cắt mạnh nhất
nước ta. Địa hình Tây Bắc rất phức tạp. Phía Đông và Đông Bắc là khối núi Hoàng
Liên Sơn; phía Tây và Tây Nam là dãy núi Sông Mã nằm giữa 2 khối núi khổng lồ
là 1 dải núi đá vôi chạy liên tục từ Phong Thổ đến Lạc Thủy (Hòa Bình). Ở Tây
Bắc, núi và cao nguyên chiếm 4/5 diện tích lãnh thổ, các dãy núi và cao nguyên đều
chạy song song nhau theo hướng Tây Bắc - Đông Nam trừ ở phía cực tây có nhiều
mạch núi rẽ theo hướng Đông Bắc.
Ở phía Đông và Đông Bắc của Tây Bắc là dãy núi cao Hoàng Liên Sơn, các
đỉnh núi đều cao từ 2800 m đến trên 3000 m. Trong đó có đỉnh Phanxipang cao
nhất (3143 m). Vùng núi Hoàng Liên Sơn còn có nhiều thung lũng rộng, đất phù sa
màu mỡ như thung lũng Mường Hum, thượng lưu sông Nậm Tà.
Về phía Tây và Tây Nam của vùng Tây Bắc lại là những núi trung, địa hình
42
ở đây khá đồng nhất, khe sâu sườn dốc, có một số bề mặt bằng phẳng rộng như
Mường Nhé.
1.4.1.3. Khí hậu
Vùng Tây Bắc có khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa có sự
tương phản rõ rệt. Mùa hè với gió mùa Tây Nam, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, thời
tiết nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa đông với gió mùa Đông Bắc, kéo dài từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, có thời tiết lạnh, khô và ít mưa. Thời tiết lạnh kéo dài là trở ngại
lớn cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp của vùng. Độ ẩm tương đối trung bình hàng
năm của vùng Tây Bắc biến động không lớn, thường từ 78 - 93% ở các tiểu vùng có
độ chênh lệch từ 2 - 5%. Thời tiết đặc biệt ở vùng Tây Bắc là gió Lào, đây là loại gió
nóng khô, gây hạn hán, hỏa hoạn, làm trở ngại cho sản xuất và sinh hoạt.
1.4.1.4. Dân cư
Tây Bắc là vùng có mật độ dân cư thưa thớt so với các khu vực khác trong
cả nước. So với khu vực Đông Bắc, vùng này được khai thác muộn hơn, dân cư
trong vùng chủ yếu là các dân tộc ít người, trong đó chủ yếu là người Thái, người
Mường, người H'mông… Bình quân mật độ dân cư toàn vùng là 61 người/km2.
Mật độ dân số tăng dần từ vùng cao xuống vùng thấp, từ những khu vực đi lại khó
khăn đến những nơi có đường giao thông đi lại thuận tiện.
1.4.2. Khái quát chung về nông nghiệp hai tỉnh Điện Biên và Sơn La
1.4.2.1. Đất đai
Điện Biên và Sơn La thuộc vùng Tây Bắc có đất đai tương đối rộng, thổ
nhưỡng phong phú, có tiềm năng lớn để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và thích
ứng cho phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, ôn đới, các loại rau, củ, quả vùng cao
như: gạo đặc sản, ngô, đậu tương, chè Shan Tuyết, bưởi, hồng, thảo quả, quế, táo, lê
và chăn nuôi trâu, bò, dê. Toàn vùng có 10 nhóm đất chính (đất phù sa, đất lầy, đất
đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi, đất đỏ
vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ).
1.4.2.2. Sản xuất nông nghiệp
Về trồng trọt: các loại cây trồng chính là lúa, ngô và cây sắn chiếm tỷ lệ lớn.
Ngoài ra, còn 1 số loại cây trồng khác như cây lạc, cây khoai lang hoặc cây đậu đỗ.
43
Bảng 1.7. Diện tích một số cây trồng chính
TT Cây trồng Diện tích một số cây trồng chính (Nghìn ha)
Điện Biên Sơn La Tổng diện tích
1 Lúa 49,0 56,7 105,7
2 Ngô 29,3 162,8 192,1
3 Sắn 7,2 28,0 35,2
4 Lạc 1,5 1,4 2,9
5 Mía - 4,8 4,8
6 Đậu tương 5,4 2,7 8,1
7 Khoai lang 0,4 0,6 1,0
Tổng cộng 92,8 257,0 349,8
Nguồn: Thống kê Bộ NN&PTNT, 2013
Với các loại cây trồng phong phú thì sản lượng phụ phẩm cũng tương đối
lớn, đây là tiềm năng để phát triển chăn nuôi bò thịt nếu biết tận dụng hiệu quả
nguồn phụ phẩm. Hiện nay, rơm thường đốt tại ruộng, rất ít hộ đem rơm về để dự
trữ cho trâu bò trong vụ đông. Đối với lõi ngô và thân, lá cây ngô thì hầu như
không sử dụng mà chủ yếu đốt hủy sau khi thu hoạch và tách hạt.
Bảng 1.8. Số lượng gia súc, gia cầm chủ yếu
Vật
nuôi
Điện Biên (Nghìn con) Sơn La (Nghìn con)
2011 2012 2013 2014 2011 2012 2013 2014
Trâu 113,4 116,2 119,5 118,5 166,1 168,5 158,4 153,0
Bò 40,4 42,0 44,4 45,4 188,0 196,5 195,6 205,2
Lợn 289,3 288,6 295,6 303,3 544,3 535,3 473,7 514,4
Gia cầm 2.300 2.300 2.500 2.614 4.800 4.600 4.500 4.752
Nguồn: Thống kê Bộ NN&PTNT, 2014
Về chăn nuôi: có thể thấy rằng chăn nuôi bò ở Sơn La phát triển hơn chăn
nuôi trâu, trong khi đó thì ở Điện Biên chăn nuôi trâu lại phát triển hơn chăn nuôi
44
bò. Đặc biệt, với nguồn phụ phẩm nông nghiệp rất lớn từ cây ngô và cây sắn thì
Sơn La đang chiếm ưu thế về phát triển chăn nuôi hơn so với Điện Biên.
1.5. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
- Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển, năng suất và hiệu quả chăn
nuôi bò thịt nông hộ như: điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa phương.
Tây Bắc có đặc thù riêng của vùng, vì vậy đề tài luận án sẽ tập trung xác định
những trở ngại chính ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt nông
hộ vùng này. Bên cạnh đó, đề tài luận án cũng xác định những tiềm năng của địa
phương để khắc phục trở ngại, nâng cao năng suất, hiệu quả chăn nuôi bò thịt.
- Nhiều giải pháp kỹ thuật có thể hạn chế những trở ngại đến năng suất, hiệu
quả và sự phát triển chăn nuôi bò thịt nông hộ. Đề tài luận án sẽ tập trung tiến hành
các thí nghiệm về giống và thức ăn nhằm tìm ra giải pháp kỹ thuật thích hợp để phát
huy tiềm năng của địa phương, nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt.
- Ngoài những giải pháp kỹ thuật, đề tài luận án cũng thử nghiệm các giải
pháp về tổ chức liên kết sản xuất nhằm khắc phục các trở ngại về thị trường để
nâng cao hiệu quả chăn nuôi bò thịt nông hộ theo hướng sản xuất hàng hóa.
45
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
- Bò Vàng địa phương
- Rơm ủ urê
- Bột sắn và bột lá sắn; các thức ăn khác
- Các nhóm tác nhân tham gia chuỗi giá trị bò thịt và thí nghiệm giải pháp
thị trường: hộ chăn nuôi, thu gom, lò mổ, cửa hàng bán lẻ, người tiêu dùng.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Tại một số xã được lựa chọn thuộc 2 tỉnh Điện Biên, Sơn La và TP Hà Nội.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 2010 đến năm 2015
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Hiện trạng chăn nuôi và thị trường bò thịt vùng Tây Bắc
Mục tiêu: Xác định những trở ngại chính ảnh hưởng đến năng suất và hiệu
quả chăn nuôi bò thịt đồng thời tìm ra những tiềm năng của vùng Tây Bắc để khắc
phục trở ngại.
2.2.2. Thử nghiệm một số giải pháp về kỹ thuật nâng cao năng suất và hiệu
quả chăn nuôi bò thịt nông hộ
Mục tiêu: Xác định được một số giải pháp kỹ thuật thích hợp nhằm phát huy
tiềm năng về giống, nguồn thức ăn sẵn có và nguồn phụ phẩm nông nghiệp phong
phú của địa phương để nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt.
Nội dung này gồm 3 thí nghiệm:
2.2.2.1. Thí nghiệm 1: Tuyển chọn bò đực khối lượng lớn làm giống nhằm nâng
cao tầm vóc và khả năng sinh trưởng của bò địa phương.
2.2.2.2. Thí nghiệm 2: Sử dụng rơm ủ urê và thức ăn tinh nâng cao khả năng
tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn cho bò sinh trưởng.
2.2.2.3. Thí nghiệm 3: Sử dụng bột sắn và bột lá sắn vỗ béo bò.
2.2.3. Thử nghiệm giải pháp thị trường
Liên kết nhóm chăn nuôi bò thịt với các tác nhân thị trường kết hợp hệ
46
thống nhận diện sản phẩm
Mục tiêu: Xây dựng các mối liên kết giữa các tác nhân kết hợp hệ thống
nhận diện sản phẩm để nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Hiện trạng chăn nuôi và thị trường bò thịt vùng Tây Bắc
2.3.1.1. Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thu thập thông tin đánh giá hiện trạng chăn nuôi
- Thu thập thông tin thứ cấp: Được thu thập từ niên giám thống kê, báo cáo nghiên
cứu, báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội của các cơ quan cấp tỉnh Sơn La,
Điện Biên và các điểm nghiên cứu được lựa chọn.
- Thu thập thông tin sơ cấp: Điều tra trực tiếp các hộ chăn nuôi tại mỗi điểm nghiên
cứu bằng bảng câu hỏi bán cấu trúc. Tiêu chí để lựa chọn các điểm điều tra dựa trên
số lượng đàn bò, quy mô, thành phần dân tộc và vị trí phân bố khác nhau. Số lượng
mẫu điều tra: 105 hộ chăn nuôi bò tại Điện Biên và 82 hộ chăn nuôi bò tại Sơn La.
Phương pháp thu thập thông tin đánh giá hiện trạng thị trường
- Thu thập thông tin thứ cấp: Được thu thập từ niên giám thống kê, báo cáo nghiên
cứu, báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội của các cơ quan cấp tỉnh Sơn La,
Điện Biên và các điểm nghiên cứu được lựa chọn.
- Thu thập thông tin sơ cấp: Điều tra trực tiếp bằng bảng câu hỏi bán cấu trúc được
xây dựng cho các nhóm tác nhân khác nhau. Số lượng và địa điểm điều tra như sau:
Tác nhân sản xuất: 45 hộ dựa trên các tiêu chí sau: i) Tham gia chăn nuôi bò
từ 3 năm trở lên; ii) Quy mô chăn nuôi khác nhau; iii) Đại điện cho các
nhóm dân tộc khác nhau. Tại mỗi tỉnh lựa chọn 2 xã, trong đó có 1 xã vùng
thấp và 1 xã vùng cao. Cụ thể tại Sơn La lựa chọn 2 xã Long Hẹ và Tà Hộc,
tại Điện Biên lựa chọn 2 xã Quài Cang và Tỏa Tình để điều tra
Tác nhân thu gom: 45 người thu gom bò trong xã, huyện, tỉnh Sơn La và
Điện Biên.
Tác nhân lò mổ: 15 lò mổ trên địa bàn tỉnh Sơn La, Điện Biên và Hà Nội.
Tác nhân bán lẻ: 25 tác nhân theo 2 kênh phân phối khác nhau (kênh phân
phối theo hướng chất lượng cao ở Hà Nội và kênh phân phối là những người
47
bán lẻ trong các chợ dân sinh ở Sơn La, Điện Biên và Hà Nội).
Tác nhân tiêu dùng: 120 người tiêu dùng tại thị trường địa phương (thành
phố Sơn La và thành phố Điện Biên Phủ) và thành phố Hà Nội theo các mức
thu nhập bình quân đầu người/tháng là: (i) dưới 2 triệu đồng, (ii) từ 2 đến
dưới 5 triệu đồng, (iii) từ 5 đến dưới 10 triệu đồng và (iv) trên 10 triệu đồng.
Ngoài ra, tiến hành trao đổi với cán bộ xã, trưởng bản ở hai xã và các bản
khảo sát để thu thập những thông tin chung như: tình hình chăn nuôi bò của xã; tình
hình bán bò ở xã; chính sách và những hỗ trợ chăn nuôi và bán bò từ cấp tỉnh đến
cấp xã; tập quán chăn nuôi của người dân; khó khăn trong phát triển chăn nuôi và
bán bò thịt tại địa phương.
2.3.1.2. Phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin và xử lý số liệu
- Số liệu điều tra được phân tích theo phương pháp thống kê mô tả, xử lý trên phần
mềm Excel và phần mềm chuyên dụng SPSS.
- Phương pháp so sánh: so sánh theo thời gian và theo địa điểm nghiên cứu.
- Phương pháp xác định khối lượng phụ phẩm nông nghiệp được tính dựa trên
phương pháp ước tính khối lượng phụ phẩm ở Việt Nam của Tổng cục Thống kê
năm 2008 (Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Ước tính khối lượng phụ phẩm nông nghiệp ở Việt Nam
Tên phụ phẩm Diện tích gieo trồng
(triệu ha/năm)
Khối lượng phụ phẩm
(triệu tấn VCK/năm)
- Rơm lúa 7,32 36,3
- Cây ngô sau thu hoạch 1,03 5,2
- Lõi ngô - 0,74
- Dây lạc 0,25 0,5
- Ngọn, lá sắn 0,48 2,65
- Dây khoai lang 0,18 2,15
- Lá mía 0,29 3
- Rỉ mật - 0,45
Tổng cộng - 50,99
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2008
48
- Phương pháp xác định VCK từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp được tính dựa trên
Bảng Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn gia súc, gia cầm Việt
Nam (Viện Chăn nuôi, 2001)
2.3.2. Thí nghiệm tuyển chọn bò đực khối lượng lớn làm giống nhằm nâng cao
tầm vóc và khả năng sinh trưởng của bò địa phương
2.3.2.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: xã Nậm Mằn, huyện Sông Mã, Tỉnh Sơn La
- Thời gian: 2008 - 2010
2.3.2.2. Bố trí thí nghiệm
Gia súc: Bò đực 5 - 6 tuổi, bò cái đang trong tuổi đẻ từ lứa 2 đến lứa 5.
Thí nghiệm được bố trí theo các nghiệm thức (NT):
- NT đối chứng (NTĐC): 3 bò đực đại trà phối với 30 bò cái đại trà.
- NT1: 3 bò đực khối lượng lớn phối với 30 bò cái đại trà.
- NT2: 3 bò đực khối lượng lớn phối với 30 bò cái tuyển chọn.
2.3.2.3. Phương pháp tiến hành
- Khảo sát, đánh giá đàn bò hiện có:
+ Cân khối lượng bò bằng cân điện tử Rudd weight - 1200.
+ Phỏng vấn nông dân về tình hình sinh sản, nuôi dưỡng đàn bò bằng các
câu hỏi đã chuẩn bị trước theo phương pháp điều tra nhanh nông thôn.
+ Đánh giá ngoại hình: Quan sát bằng mắt thường.
- Tuyển chọn những bò đực giống tốt của địa phương: Tuyển chọn những bò đực
giống có ngoại hình đẹp, có tính hăng tốt đã từng phối có con, tuổi 5 - 6 tuổi, khối
lượng cao nhất trong đàn.
- Tuyển chọn đàn bò cái sinh sản làm nền: Chọn những bò có ngoại hình đẹp, có đủ
tiêu chuẩn giống và đang trong tuổi đẻ từ lứa 2 đến lứa 5, khoảng cách hai lứa đẻ
ngắn, khối lượng cơ thể từ trung bình đàn trở lên.
- Theo dõi bò cái động dục, phối giống:
+ Theo dõi bò cái động dục bằng các biện pháp thông thường là quan sát
niêm dịch và niêm mạc âm đạo vào ban đêm, buổi sáng và những biểu hiện
nhảy nhau, bỏ ăn, theo đực khác, kêu rống ...
49
+ Bò cái động dục được phối giống với bò đực theo các NT đã bố trí.
- Quản lý bò thí nghiệm:
+ Tất cả bò đực giống và bò cái sinh sản có sổ theo dõi theo từng nhóm,
từng nghiệm thức hàng ngày. Khi bò cái động dục được phối giống và giữ tại
nhà đến khi hết động dục mới cho đi chăn.
+ Gia súc thí nghiệm được nuôi dưỡng theo điều kiện của dân là chăn thả kết
hợp bổ sung thức ăn tại chuồng vào ban đêm theo quy trình kỹ thuật chăn nuôi
bò sinh sản kết hợp cày kéo.
- Theo dõi đàn bò sinh ra:
+ Mỗi lô chọn 10 bò đực và 10 bò cái sinh cùng thời điểm
+ Bê sinh ra được theo mẹ đến khi cai sữa (thường là 6 - 7 tháng).
+ Cân bò con sinh ra ở các mốc tuổi sơ sinh, 6, 12, 24 tháng tuổi bằng cân
điện tử Rudd weight - 1200.
2.3.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập, số liệu được tính toán thô trên bảng Excel sau đó xử lý
bằng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) trên phần mềm Minitab 14.0.
Mô hình ANOVA tổng quát để phân tích số liệu là mô hình sau:
Yij = + Ai + ij
Trong đó: Yij là biến phụ thuộc, là trung bình tổng thể, Ai ảnh hưởng của
nghiệm thức, ij là sai số ngẫu nhiên.
Nếu ANOVA cho thấy có sự sai khác thì phương pháp so sánh cặp số trung
bình Tukey sẽ được áp dụng để xác định sai khác giữa các nghiệm thức.
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trong thí nghiệm này bao gồm:
- Phân tích mô tả khối lượng bò đực và bò cái giống: Khối lượng trung bình, độ
lệch chuẩn...
- Phân tích mô tả khối lượng bê sinh ra: Khối lượng trung bình, khối lượng tăng
lên, độ lệch chuẩn của khối lượng bê qua các giai đoạn sơ sinh, 6, 12 và 24 tháng
tuổi theo giới tính.
- Phân tích so sánh sự khác biệt về khối lượng bê theo các giai đoạn, giới tính giữa
các nghiệm thức.
- Phân tích mối tương quan giữa khối lượng trung bình của bê các giai đoạn với
50
khối lượng bò đực, bò cái giống: hệ số tương quan, độ tin cậy, số mẫu.
- Phân tích hồi quy ảnh hưởng của khối lượng bò đực, bò cái giống đến khối lượng
bê theo các giai đoạn tuổi khác nhau.
2.3.3. Thí nghiệm sử dụng rơm ủ urê và thức ăn tinh nâng cao khả năng tăng
khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn cho bò sinh trưởng
2.3.3.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: xã Thanh Yên, huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên.
- Thời gian: 84 ngày từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2013
2.3.3.2. Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu này gồm hai nội dung: (i) Nội dung 1 là trong phòng thí nghiệm
(in vitro gas production) và (ii) Nội dung 2 là nuôi dưỡng trong nông hộ.
Nội dung in vitro gas production
Mục đích của nội dung này là xác định hàm lượng năng lượng trao đổi và
động thái phân giải của thức ăn trong điều kiện in vitro. Để xác định động thái lên
men của thức ăn và hàm lượng năng lượng trao đổi (ME - Metabolizable energy)
của rơm ủ urê và thức ăn tinh hỗn hợp. Nội dung in vitro gas production được tiến
hành theo phương pháp của Menke và Steingass (1988). Dịch dạ cỏ được lấy từ hai
bò mổ lỗ dò giống lai Sind ăn khẩu phần thức ăn (Cỏ voi, bột đậu tương, bột sắn,
bột ngô, cám gạo) theo tiêu chuẩn NRC (1996) (10 - 11 MJ ME/kg vật chất khô
thức ăn - VCK và 12 - 14% protein thô (Prth) trong khẩu phần nuôi cùng điều kiện,
trước khi cho ăn buổi sáng để đảm bảo thành phần vi sinh vật và hoạt lực enzym
của vi sinh vật trong dạ cỏ tương đối ổn định.
Lượng khí sinh ra trong điều kiện in vitro được đo lặp lại (3 lần lặp lại) ở
các thời điểm 3, 6, 9, 12, 24, 48, 72 và 96 h sau khi ủ các mẫu thức ăn (Menke and
Steingass, 1988) cho từng xylanh.
Động thái lên men của các khẩu phần: Được xác định theo phương trình của
Orskov và Mc Donald (1979). Phương trình có dạng như sau: Y = a+b(1- e-ct).
Trong đó: Y là thể tích khí sinh ra ở thời điểm t (ml); a là lượng khí sinh ra từ
các chất dễ hoà tan thường ở ngay tại thời điểm ban đầu khi ủ mẫu (ml); b là lượng
khí sinh ra từ các chất khó hoà tan trong suốt quá trình ủ (ml); a+b là tổng lượng khí
51
sinh ra của khẩu phần đem ủ hay tiềm năng sinh khí của khẩu phần thức ăn đó (ml);
c là tốc độ sinh khí (%/giờ); t là thời gian ủ mẫu khẩu phần thức ăn thí nghiệm (giờ).
Các thông số trên được tính toán với phần mềm chuyên dụng NEWAY của
Cheng (1996) (Trích dẫn theo Orskov và Mc Donald (1979)).
Trên cơ sở khí tích lũy (ml) sau 24 giờ ủ thức ăn với dịch dạ cỏ (24 hours
gas production - GP24) và thành phần hóa học đã phân tích, NLTĐ được tính theo
công thức dưới đây:
NLTĐ (kcal/kg VCK) = 1885 + 21*GP24 + 2,49*VCK - 21,6*Prth (Đinh
Văn Mười, 2012).
Ở đây: GP24 là lượng khí tích lũy (ml) sau khi ủ thức ăn 24 h; VCK là %
chất khô của thức ăn; Prth là % protein thô của thức ăn.
Nội dung nuôi dưỡng trong nông hộ
Nội dung nuôi dưỡng trong nông hộ được tiến hành trong 84 ngày.
Bảng 2.2. Thiết kế thí nghiệm
Chỉ tiêu ĐVT Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Số gia súc Con 5 5 5
Thời gian nuôi chuẩn bị Ngày 15 15 15
Thời gian thí nghiệm Ngày 84 84 84
Thời gian chăn thả 8h - 16h 8h - 16h 8h - 16h
Rơm ủ urê 4% Không Tự do Tự do
Thức ăn tinh Không Không 0,5 % khối
lượng cơ thể
Chú thích: Nghiệm thức 1: Chăn thả; Nghiệm thức 2: Chăn thả + rơm ủ urê 4% tự do;
Nghiệm thức 3: Chăn thả + rơm ủ urê 4% tự do + thức ăn tinh 0,5% khối lượng cơ thể.
Tổng số 15 bò đực đang sinh trưởng, 15 tháng tuổi, giống bò Vàng Việt
Nam, khối lượng 176 - 178 kg được đưa vào thí nghiệm như bảng 2.2.
Thí nghiệm được thiết kế theo mô hình khối ngẫu nhiên hoàn toàn
(completely randomized block design - CRBD) với 3 nghiệm thức thí nghiệm:
- Nghiệm thức 1 (Đối chứng): Chăn thả không bổ sung thức ăn;
- Nghiệm thức 2: Chăn thả + bổ sung rơm ủ urê ăn tự do (ad libitum) tại chuồng;
52
- Nghiệm thức 3: Chăn thả + bổ sung rơm ủ urê ăn tự do (ad libitum) + thức ăn tinh
tại chuồng (tương đương 0,5% khối lượng cơ thể).
2.3.3.3. Phương pháp tiến hành
Bò được tẩy giun, sán bằng Fasinex (Ciba Co., Switzerland) và được nuôi
chuẩn bị trong 15 ngày trước khi bước vào giai đoạn thí nghiệm chính thức. Bò
được cho ăn trong các máng riêng biệt sau khi chăn thả để kiểm soát lượng thức ăn
ăn vào. Nước uống được cung cấp tự do để bò uống vào mọi thời điểm.
Chuẩn bị thức ăn bổ sung:
- Rơm ủ urê được chuẩn bị như sau: Urê loại sử dụng làm phân bón trong trồng
trọt được hòa đều trong nước theo tỷ lệ 4 kg urê hòa trong 80 lít nước để dùng
cho 100 kg rơm khô - dạng sử dụng. Dung dịch nước đã hòa urê sau đó được tưới
đều lên từng lớp rơm khô trong các túi nylon. Rơm trong túi nylon sau khi đã
phun nước đã hòa urê được nén chặt và buộc kín để vào chỗ râm mát trong 14
ngày trước khi cho bò thí nghiệm ăn.
- Thức ăn tinh được chuẩn bị như sau: Bột ngô, bột đậu tương được trộn đều, sau
đó trộn với bột sắn khô. Hỗn hợp trên cuối cùng được trộn với cám gạo để sử
dụng. Tỷ lệ phối trộn thức ăn hỗn hợp được trình bày trong bảng 2.3.
Bảng 2.3. Thành phần của thức ăn tinh (% chất khô)
TT Nguyên liệu Tỷ lệ (%)
1 Cám gạo 50
2 Bột sắn 25
3 Bột ngô 10
4 Bột đậu tương 15
Phương pháp phân tích thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng:
Thành phần hóa học của các nguyên liệu và thức ăn như: rơm ủ urê, cám
gạo, bột sắn, bột ngô, bột đậu tương và thức ăn tinh phối trộn được phân tích: chất
khô; protein thô; mỡ (Crude fat-EE); xơ thô (Crude fiber-CF) theo các tiêu chuẩn
TCVN 4326 - 86, TCVN 4328 - 86, TCVN 4331-2001, TCVN 4329 - 86, TCVN
4327 - 86, riêng NDF, ADF được xác định theo phương pháp của Goering và Van
53
Soest (1970).
Tất cả các chỉ tiêu phân tích được tiến hành tại phòng phân tích thức ăn và
sản phẩm chăn nuôi, Viện chăn nuôi.
Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp tính
Thức ăn cho ăn và thức ăn thừa hàng ngày của từng bò được cân và ghi
chép hàng ngày cho từng cá thể ở hai nghiệm thức thí nghiệm để tính lượng thức
ăn ăn vào, lượng năng lượng ăn vào từ thức ăn bổ sung.
Khối lượng của từng cá thể bò được cân sau 28 ngày (4 tuần) một lần vào
buổi sáng trước khi cho ăn lúc 8h buổi sáng để xác định tăng khối lượng, tiêu tốn
thức ăn bổ sung cho 1 kg tăng trọng và hiệu quả kinh tế.
Để xác định tổng lượng năng lượng ăn vào từ chăn thả sử dụng tiêu chuẩn
của Kearl (1982) cho bò nhiệt đới tầm vóc nhỏ có tham khảo các tài liệu của
Agnew và cs. (2004) và NRC (2001). Theo Kearl (1982) nhu cầu duy trì/ngày
của bò thịt là: 0,5 MJ ME/kg khối lượng trao đổi (Metabolizable bodyweight -
BW0,75). Như vậy, nhân khối lượng trao đổi với nhu cầu ta sẽ có tổng nhu cầu
NLTĐ cho duy trì/ngày của bò. Còn theo Kearl (1982), Agnew và cs. (2004) và
NRC (2001) để tăng 1 kg khối lượng bò cần 25,5 MJ ME. Lấy tăng trọng nhân
với 25,5 MJ ME sẽ được nhu cầu NLTĐ cho tăng trọng. Lấy tổng hai nhu cầu
duy trì và tăng trọng/ngày chúng ta sẽ có tổng nhu cầu NLTĐ trên ngày ở cả ba
nghiệm thức. Lấy tổng hai nhu cầu duy trì và tăng trọng/ngày - tổng NLTĐ ăn
vào/ngày/bò ở hai nghiệm thức 2 và 3 chúng ta sẽ biết được một cách tương đối
chăn thả đã cung cấp bao nhiêu NLTĐ/con/ngày ở các nghiệm thức này. Đối với
nghiệm thức 1, vì không xác định được lượng cỏ gặm từ chăn thả nên lượng
NLTĐ ăn vào ở đây chính là tổng hai nhu cầu cho duy trì và tăng trọng đã tính
được trên cơ sở khối lượng và tăng trọng thực tế.
Để so sánh việc sử dụng các nhu cầu lý thuyết về NLTĐ có cho kết quả
tăng trọng gần đúng với tăng trọng lý thuyết không, tăng trọng lý thuyết đã được
ước tính như sau:
Tăng trọng lý thuyết theo NLTĐ = (Tổng nhu cầu NLTĐ - Nhu cầu NLTĐ
cho duy trì)/25,5 MJ NLTĐ.
54
Nhằm xác định hiệu quả sử dụng thức ăn (HQSDTĂ), lượng chất khô ăn
vào cần phải được ước tính. Vì lượng cỏ ăn vào từ chăn thả và thành phần hóa
học của cỏ chăn thả không xác định được nên trong nghiên cứu này lượng chất
khô ăn vào từ chăn thả (kg VCK/con/ngày) được ước tính như sau:
Lượng chất khô ăn vào từ chăn thả (kg VCK/con/ngày) = NLTĐ
(MJ/con/ngày) thu nhận từ chăn thả/hàm lượng NLTĐ (MJ/kg chất khô) của cỏ
chăn thả. Giả thiết ở đây là cỏ tự nhiên từ chăn thả có chất khô là 17,67 %, 1 kg
chất khô có 8,5 MJ NLTĐ/kg VCK và tương đương với 5,7 kg cỏ tự nhiên tươi
(Đinh Văn Mười, 2012). Như vậy, công thức tính chất khô ăn vào cho từng
nghiệm thức là:
- VCK ăn vào (kg VCK/con/ngày) của bò ở nghiệm thức một = Tổng lượng
NLTĐ ăn vào (MJ/con/ngày)/8,5 MJ NLTĐ/kg VCK (của cỏ tự nhiên chăn thả)
- VCK ăn vào (kg VCK/con/ngày) của bò ở nghiệm thức hai = VCK ăn vào từ
rơm (VCK/con/ngày) + NLTĐ ăn vào từ chăn thả/8,5 MJ NLTĐ/kg VCK (của cỏ
tự nhiên chăn thả) - VCK ăn vào (kg VCK/con/ngày) của bò ở nghiệm thức ba =
VCK ăn vào từ rơm (VCK/con/ngày) + VCK ăn vào từ thức ăn tinh
(VCK/con/ngày) + (NLTĐ ăn vào từ chăn thả/8,5 MJ NLTĐ/kg VCK (của cỏ tự
nhiên chăn thả).
Cuối cùng sơ bộ ước tính hiệu quả bổ sung cũng được tính toán dựa vào
tổng thu sau 84 ngày trừ tổng chi phí.
2.3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập, số liệu được tính toán thô trên bảng Excel sau đó xử lý
bằng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) trên phần mềm Minitab 14.0.
Mô hình ANOVA tổng quát để phân tích số liệu là mô hình sau:
Yij = + Ai + ij
Trong đó: Yij là biến phụ thuộc, là trung bình tổng thể, Ai ảnh hưởng của
khẩu phần, ij là sai số ngẫu nhiên.
Nếu ANOVA cho thấy có sự sai khác thì phương pháp so sánh cặp số trung
bình Tukey sẽ được áp dụng để xác định sai khác giữa các nghiệm thức.
55
2.3.4. Thí nghiệm sử dụng bột sắn và bột lá sắn vỗ béo bò
2.3.4.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: xã Nậm Mằn, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
- Thời gian: 84 ngày từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2010
2.3.4.2. Đối tượng và vật liệu thí nghiệm:
- Bò tơ 18 tháng tuổi,
- Bột sắn: sắn lát phơi khô nghiền nhỏ,
- Bột lá sắn: lá sắn phơi khô, nghiền nhỏ,
- Cỏ xanh: cỏ tự nhiên được thu cắt hàng ngày.
2.3.4.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thiết kế theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm được thể hiện qua bảng 2.4.
Bảng 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Chỉ tiêu ĐVT NTĐC Lô thí nghiệm
NT1 NT2
Số gia súc con 5 5 5
Tuổi gia súc tháng 18 18 18
Khối lượng bắt đầu thí nghiệm kg 154,0 4,02 153,8 4,21 156,4 4,83
Thời gian nuôi thích nghi ngày 15 15 15
Thời gian thí nghiệm ngày 84 84 84
Thức ăn dùng trong thí nghiệm
Cỏ xanh tự nhiên Tự do Tự do Tự do
Bột sắn kg - 1,0 0,5
Bột lá sắn kg - - 0,5
Tổng số 15 bò đực 18 tháng tuổi được phân thành 5 khối (block) theo khối
lượng cơ thể, mỗi block 3 bò (mỗi bò cho một nghiệm thức). Bò trong một khối có
khối lượng đồng đều nhau. Sau đó, bò được phân vào 3 nghiệm thức (NT) khác
nhau trong mỗi khối một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Bò được nuôi tại 5 hộ, mỗi hộ
3 con và mỗi con 1 NT.
56
Khẩu phần ăn và chế độ nuôi dưỡng
- NTĐC: bò được nuôi bằng cỏ xanh tự nhiên cho ăn tự do
- NT1: bò được nuôi bằng cỏ xanh tự nhiên cho ăn tự do, bổ sung bột sắn.
- NT2: bò được nuôi bằng cỏ xanh tự nhiên cho ăn tự do, bổ sung bột sắn và
bột lá sắn.
Quản lý gia súc thí nghiệm
Bò được tẩy giun sán bằng Levisol 7,5% liều lượng 1ml cho 10 kg khối
lượng cơ thể, được nuôi riêng mỗi con một ngăn chuồng để theo dõi cá thể.
- Tất cả bò thí nghiệm và đối chứng được nuôi nhốt và cung cấp thức ăn
hàng ngày tại chuồng.
- Thức ăn cung cấp và thức ăn thừa được cân hàng ngày để xác định lượng
thức ăn thu nhận.
- Khối lượng cơ thể được cân đầu thí nghiệm, cuối tuần thứ 4, tuần thứ 8 và
khi kết thúc thí nghiệm.
Các chỉ tiêu theo dõi
+ Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của từng loại thức ăn.
+ Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày
+ Khả năng tăng khối lượng
+Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng khối lượng
Phương pháp theo dõi
- Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn:
Lấy mẫu phân tích: Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên theo TCVN 4325 -
2007, cỏ tự nhiên được lấy mẫu định kỳ mỗi tháng một lần để xác định thành phần
hóa học và giá trị dinh dưỡng.
Thức ăn tinh (bột sắn và bột lá sắn) chỉ lấy mẫu phân tích một lần vì các loại
thức ăn này bò ăn hết và thành phần hoá học tương đối ổn định.
Các chỉ tiêu phân tích: Thành phần hoá học của thức ăn đối với mỗi khẩu
phần gồm: VCK, protein thô (Pth) và xơ thô (Xth).
+ Vật chất khô của mẫu được xác định bằng phương pháp làm khô trong tủ sấy
điện (103 20C) theo TCVN 4326 - 2007.
57
+ Protein thô được xác định bằng phương pháp Kjeldahl, theo TCVN 4328 - 2007.
+ Xơ thô được xác định bằng phương pháp Henneberg và Stoman, theo TCVN
4329 - 2007.
+ Giá trị năng lượng trao đổi của thức ăn
Giá trị năng lượng trao đổi của khẩu phần được tính từ giá trị NLTĐ của các
nguyên liệu x tỷ lệ của nó trong khẩu phần. Giá trị NLTĐ của từng nguyên liệu
được xác định bằng phương pháp in vitro gas production của Menke and Steingass,
(1988). Trên cơ sở khí tích lũy (ml) sau 24 giờ ủ thức ăn với dịch dạ cỏ (24 hours
gas production - GP24) và thành phần hóa học đã phân tích, NLTĐ được tính theo
công thức dưới đây:
NLTĐ (kcal/kg VCK) = 1885 + 21*GP24 + 2,49*VCK - 21,6*Prth (Đinh
Văn Mười, 2012).
Ở đây: GP24 là lượng khí tích lũy (ml) sau khi ủ thức ăn 24 h;
VCK là % chất khô của thức ăn;
Prth là % protein thô của thức ăn.
- Lượng thức ăn thu nhận: thức ăn cung cấp và thức ăn thừa được cân hàng ngày để
xác định lượng thức ăn thu nhận.
Chất khô
ăn vào =
Thức ăn
cho ăn X
% chất
khô -
Thức ăn còn
thừa x
% chất
khô
- Khả năng tăng khối lượng của bò: Tất cả bò được cân vào 2 - 3 buổi sáng liên tục
trước khi cho bò ăn bằng cân điện tử Rudd weight - 1200. Tăng khối lượng của bò
được tính theo công thức sau:
P tăng khối lượng (g/con/ngày) = P2 - P1
x 1000 g T
Trong đó:
P: tăng khối lượng của bò ở giai đoạn thí nghiệm (g/con/ngày)
P1: khối lượng bò lần cân trước (kg)
P2: khối lượng bò lần cân sau (kg)
T: thời gian theo dõi (ngày)
- Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng: được xác định bằng cách lấy tổng
58
lượng thức ăn ăn vào/tổng số kg tăng khối lượng của bò. Công thức như sau:
T = A
P
Trong đó: T: tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng (kg)
A: tổng khối lượng thức ăn tiêu thụ cả giai đoạn (kg)
P: khối lượng tăng cả giai đoạn (kg)
2.3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu theo dõi được tổng hợp và xử lý với công cụ Excel và phần mềm
SPSS 15. Các phương pháp phân tích bao gồm: thống kê mô tả, so sánh và phân
tích hồi quy tuyến tính.
Mô hình phân tích hồi quy sử dụng regression technique cho hàm hồi qui
bậc 1 có dạng:
Yij = + i + eij
Trong đó: Y: Giá trị quan sát thứ j của yếu tố thí nghiệm i;
: Hằng số;
i: Ảnh hưởng của yếu tố i (khẩu phần);
eji: Sai số ngẫu nhiên.
Nếu hệ số xác định R2 (hiệu chỉnh) có giá trị cao và xác xuất loại bỏ mô
hình nhỏ hơn 0,05 thì mô hình có ý nghĩa thống kê và yếu tố thí nghiệm i giải thích
được tỷ lệ % biến động của giá trị Y tương ứng giá trị R2.
2.3.5. Thí nghiệm liên kết nhóm chăn nuôi bò thịt với các tác nhân thị trường
kết hợp hệ thống nhận diện sản phẩm
2.3.5.1. Địa điểm và thời gian
- Địa điểm: xã Tà Hộc, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Thành phố Hà Nội.
- Thời gian: 2012 - 2014
2.3.5.2. Đối tượng tham gia
- Các hộ chăn nuôi: quy mô chăn nuôi khá tương đồng với số lượng bò nuôi
hiện tại là 2 con trở lên và bán bò trong 3 năm gần đây ít nhất là 2 con.
- Lò mổ ở Sơn La.
- Các cửa hàng bán lẻ theo hướng chất lượng cao, an toàn thực phẩm
59
(ATTP) tại Sơn La và Hà Nội.
2.3.5.3. Phương pháp thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm
Các hộ tham gia thí nghiệm được chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm 30 hộ:
Nhóm hộ I: giữ nguyên hệ thống bán sản phẩm như cũ, chăn nuôi và bán bò
riêng lẻ cho các thu gom xã, không liên kết, không chia sẻ thông tin.
Nhóm hộ II: áp dụng một số giải pháp thị trường, hộ chăn nuôi bò được tổ chức
thành tổ hợp tác chăn nuôi bò thịt (liên kết ngang), liên kết các nhóm này với thu
gom/lò mổ (liên kết dọc) để cùng bán sản phẩm. Tiến hành bán thử nghiệm thịt
bò Tây Bắc cùng hệ thống nhận diện sản phẩm tại 4 cửa hàng bán lẻ thịt bò Hà
Nội (Biggreen, Hà An, Greenlife và cửa hàng thực phẩm an toàn Hà Đông). Sơ
đồ mô phỏng mối liên kết của các tác nhân nhóm II.
Các bước tiến hành
Thí nghiệm được tiến hành qua 5 bước:
- Đánh giá hiện trạng chăn nuôi và thị trường tiêu thụ bò thịt của các nhóm hộ.
- Xây dựng liên kết giữa tổ hợp tác - lò mổ - cửa hàng bán lẻ Hà Nội.
- Thiết kế và đưa vào thử nghiệm hệ thống nhận diện sản phẩm tại các cửa hàng
bán lẻ (logo, nhãn mác và poster).
- Xây dựng kênh phân phối sản phẩm thịt bò có nguồn gốc từ nhóm II đến lò
mổ Sơn La và đến các cửa hàng bán lẻ Hà Nội.
- Theo dõi, đánh giá kết quả thí nghiệm về hiệu quả tiêu thụ bò giữa 2 nhóm.
Tổ hợp tác chăn nuôi bò thịt
Lò mổ Sơn La
Cửa hàng
Greenlife
Cửa hàng
Biggreen
Cửa hàng
Hà An
Cửa hàng TP
Hà Đông
60
Chỉ tiêu đánh giá:
+ Liên kết của người chăn nuôi trong tổ hợp tác với nhau.
+ Liên kết giữa tổ hợp tác với người mua sản phẩm.
+ Tỷ lệ bán, tần suất, giá bán.
+ Hiệu quả chăn nuôi (thu nhập và phân phối thu nhập giữa các tác nhân
tham gia trong các kênh phân phối khác nhau).
Tính toán hiệu quả kinh tế
- Giá trị sản xuất (GO) của hộ: là phần giá trị sản xuất tạo ra trong năm của
hộ từ bò đã bán, bò đang nuôi hiện tại:
GO= QiPi
Trong đó: Q: số lượng bò thịt
P: Giá đơn vị của sản phẩm bò thịt
i: Loại bò thịt
- Tổng chi phí sản xuất trung gian (IC) gồm: giống đầu tư trong năm, thú y,
thức ăn, thuê lao động, vay lãi và các chi phí sản xuất vật chất khác.
- Giá trị gia tăng (VA): là toàn bộ phần giá trị sản xuất được tăng lên trong
quá trình sản xuất của 1 năm về chăn nuôi bò thịt
VA=GO - IC
Trong đó: VA: giá trị gia tăng
GO: giá trị sản xuất
IC: chi phí trung gian
61
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. HIỆN TRẠNG CHĂN NUÔI VÀ THỊ TRƯỜNG BÒ THỊT TÂY BẮC
3.1.1. Hiện trạng chăn nuôi bò thịt vùng Tây Bắc
3.1.1.1. Một số thông tin chung các hộ được điều tra
Tình hình chung của 187 hộ chăn nuôi bò thịt của hai tỉnh Điện Biên và Sơn
La được mô tả qua bảng 3.1:
Bảng 3.1. Một số thông tin các hộ được điều tra
Chỉ tiêu ĐVT Điện Biên Sơn La
Số hộ điều tra hộ 105 82
Tuổi chủ hộ tuổi 42,05 46,57
Số nhân khẩu/hộ người 5,09 5,75
Số lượng vật nuôi chính
Số trâu con 1,13 0,85
Số bò con 3,51 5,44
Số lợn con 4,83 6,15
Số gia cầm con 35,87 39,46
Diện tích một số loại cây trồng chính
Diện tích lúa m2 6.675,6 6.120,4
Diện tích ngô m2 5.174,5 16.227,8
Diện tích sắn m2 479,1 5.172,3
Đặc điểm độ tuổi và nhân khẩu của hộ
Kết quả điều tra cho thấy, các chủ hộ có tuổi trung bình từ 42,05 đến trên
46,57 tuổi. Do trình độ dân trí thấp nên đã ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về chăm sóc, nuôi dưỡng và bán sản phẩm.
Số nhân khẩu bình quân của hộ là tương đối cao 5,09 người/hộ ở Điện Biên
và 5,75 người/hộ ở Sơn La.
Số lượng vật nuôi chính
Các loại vật nuôi chính trong nông hộ là trâu, bò, lợn và gia cầm, trong đó
hai đối tượng chính là bò và lợn. Bình quân số bò/hộ là 3,51 - 5,44 con, số lợn là
62
4,83 - 6,15 con; số trâu là 0,85 - 1,13 con; số gia cầm là 35,87 - 39,46 con.
Diện tích cây trồng chính
Các cây trồng chính gồm lúa, ngô và sắn. Diện tích lúa trung bình/hộ là
6.120,4 - 6.675,6 m2. Ngô có diện tích trung bình/hộ là 5.174,5 - 16.227,8 m2. Sắn
có diện tích trung bình/hộ là 479,1 - 5.172,3m2.
3.1.1.2. Hiện trạng chăn nuôi bò tại các nông hộ
Quy mô chăn nuôi
Quy mô trung bình phổ biến tại Điện Biên và Sơn La theo thứ tự là 3,51
con/hộ và 5,44 con/hộ, trong đó quy mô dưới 5 con/hộ chiếm tỷ lệ lần lượt là
84,76% và 59,75%.
Quy mô 1 - 2; 3 - 5; 6 - 9 và từ 10 con trở lên/hộ ở Điện Biên chiếm tỷ lệ lần
lượt là 42,86%; 41,90%; 10,48% và 4,76%. Các tỷ lệ này ở Sơn La lần lượt là
19,51%; 40,24%; 29,27% và 10,98%.
Bảng 3.2. Quy mô chăn nuôi bò trong các hộ được điều tra
Quy mô
(con/hộ)
Điện Biên (n = 105) Sơn La (n = 82)
Số hộ Tỷ lệ (%) Số hộ Tỷ lệ (%)
Từ 1 - 2 45 42,86 16 19,51
Từ 3 - 5 44 41,90 33 40,24
Từ 6 - 9 11 10,48 24 29,27
≥ 10 5 4,76 9 10,98
Trung bình 3,51 5,44
Theo Đinh Xuân Tùng và cs. (2015) thì quy mô nuôi bò ở 5 tỉnh Đồng Nai,
Bình Định, Đắk Lắk, Thanh Hóa và Bắc Giang (đại diện cho 5 vùng sinh thái) là
6,3 con/hộ, lớn hơn so với vùng Tây Bắc.
Giống bò
Trên 90% bò nuôi ở các nông hộ là giống địa phương (thường gọi là bò
Vàng) có tầm vóc nhỏ, khả năng thích nghi cao, chịu đựng kham khổ phù hợp với
phương thức chăn nuôi quảng canh. Hình thức phối giống tự nhiên (nhảy trực tiếp)
và không có sự quản lý qua nhiều thế hệ nên thoái hóa giống và tỷ lệ đồng huyết
63
cao, do phương thức chăn thả ngoài bãi chăn nên không kiểm soát được.
Bảng 3.3. Tỷ lệ giống bò trong các hộ chăn nuôi
Chỉ tiêu ĐVT
Điện Biên (n=105) Sơn La (n=82)
< 5
con
6-9
con
Từ 10
con
< 5
con
6-9
con
Từ 10
con
Số hộ khảo sát Hộ 89 11 5 49 24 9
Tổng số bò Con 258 65 77 181 159 160
Bò Vàng Con 252 57 66 176 139 136
Tỷ lệ % 97,67 87,69 85,71 97,24 87,42 85,00
Bò lai Sind Con 1 3 5 2 9 11
Tỷ lệ % 0,39 4,62 6,49 1,10 29,27 14,00
Bò lai khác Con 5 5 6 3 11 13
Tỷ lệ % 1,90 7,69 7,79 1,70 6,90 8,10
Tỷ lệ trung bình
bò địa phương % 93,75 90,20
Phương thức chăn nuôi
Do đất lâm nghiệp đã được giao khoán nên bò không được thả rông như
trước đây, những hộ chăn nuôi quy mô nhỏ thường có 3 kiểu là:
(i) Chăn dắt hàng ngày lúc mùa vụ,
(ii) Bán chăn thả lúc mùa vụ, có thời gian chăn dắt, có thời gian thả rông
(iii) Thả rông có kiểm soát sau khi thu hoạch. Hình thức chăn thả có kiểm
soát sẽ thuận lợi cho việc lai tạo giống, kiểm soát dịch bệnh và chăm
sóc nhưng cần phải có thức ăn dự trữ để cung cấp cho bò.
Bảng 3.4. Phương thức chăn thả bò trong các hộ
Hình thức chăn thả Điện Biên (n=105) Sơn La (n=82)
Chăn dắt (%) 65,71 68,87
Bán chăn thả (%) 20,00 25,47
Thả rông (%) 14,29 5,16
64
Hình thức chăn thả bò tại các nông hộ chủ yếu là chăn dắt hàng ngày (Điện
Biên: 65,71%; Sơn La: 68,87%) và thả rông chiếm tỷ lệ nhỏ (Điện Biên: 14,29%;
Sơn La: 5,16%). Một số hộ chăn nuôi thả bò tự do trong rừng và chỉ kiểm tra hàng
tuần, đây là hình thức chăn nuôi gây nhiều khó khăn cho tiêm phòng, kiểm soát
dịch bệnh và phối giống.
Thực trạng và nguồn thức ăn cho bò
Thức ăn cho bò chủ yếu là nguồn thức ăn tự nhiên nên không ổn định, trong
giai đoạn từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau là giai đoạn thiếu thức ăn xanh. Theo
đánh giá tương đối của người chăn nuôi thì nguồn thức ăn tự nhiên qua các tháng
có thể chia thành 2 giai đoạn trong năm như hình 3.1.
Hình 3.1. Sự sẵn có của thức ăn thô xanh tự nhiên trong năm (%)
- Giải đoạn từ tháng 4 đến giữa tháng 11: là giai đoạn thuận lợi cho chăn
nuôi bò thịt trong năm, trong đó từ tháng 5 đến tháng 10 nguồn thức ăn thô xanh tự
nhiên không chỉ đủ mà còn dư thừa nhu cầu của đàn bò.
- Giai đoạn từ giữa tháng 11 đến tháng 3 năm sau: là giai đoạn thức ăn xanh
thiếu, chỉ đáp ứng được từ 12 đến 40% nhu cầu của đàn bò. Trong thời gian này
người chăn nuôi phải sử dụng đến các phụ phẩm nông nghiệp để nuôi bò.
Nguồn phụ phẩm nông nghiệp như rơm, thân lá cây ngô, ngọn lá sắn... có
trữ lượng lớn nhưng chưa được sử dung nhiều cho chăn nuôi bò thịt.
65
Bảng 3.5. Trữ lượng phụ phẩm nông nghiệp trong các hộ
Loại phụ phẩm Khối lượng VCK (kg/hộ)
Điện Biên Sơn La
Rơm lúa 2.725 2.504
Thân, lá ngô 2.317 7.269
Lõi ngô 324 1.024
Ngọn, lá sắn 66 727
Tổng số 5.431 11.524
Trữ lượng phụ phẩm nông nghiệp ở vùng này là tương đối lớn, đặc biệt là ở
Sơn La lớn hơn gấp 2 lần ở Điện Biên, đây là tiềm năng mà các hộ chăn nuôi có thể
khai thác để khắc phục sự thiếu hụt của nguồn thức ăn tự nhiên và mở rộng quy mô
chăn nuôi bò thịt.
Thu nhập từ chăn nuôi bò thịt
Bình quân thu nhập từ chăn nuôi bò thịt/người/năm tăng theo quy mô chăn
nuôi, cụ thể đối với thu nhập này cao nhất ở hộ chăn nuôi có quy mô từ 10 con trở
lên 3892,45 nghìn đồng/người/năm cao gấp 2,7 lần đối với quy mô 6 - 9 con
(1416,71 nghìn đồng/người/năm), khoảng 8,5 lần đối với các quy mô 3 - 5 con và
9,6 lần đối với quy mô 1 - 2 con.
Bảng 3.6. Thu nhập trung bình từ chăn nuôi bò trong 5 năm
Chỉ tiêu ĐVT Quy mô
1-2 con 3-5 con 6-9 con > 10 con
Số hộ (n) Hộ 16 33 24 9
Số bò bán trong 5 năm con 0,65 0,90 2,15 5,80
Giá bán/bò 1.000 đ 15.000 15.000 15.000 15.000
Doanh thu bán bò 1.000 đ 9.750 13.500 32.250 87.000
Tổng chi phí 1.000 đ 708 790 657 587
Thu nhập 1.000 đ 9.041 12.709 31.592 86.412
Số thành viên/hộ người 4,47 5,52 4,46 4,44
Thu nhập/hộ/năm 1.000 đ 2.022 2.302 7.083 19.462
Thu nhập/người/năm 1.000 đ 404 460 1.416 3.892
66
Kết quả điều tra thu được cho thấy quy mô chăn nuôi bò thịt càng lớn thì
hiệu quả thu được càng cao. Tuy nhiên, hiện nay số hộ chăn nuôi qui mô lớn còn
hạn chế nên cần phải liên kết các hộ với nhau thành các tổ hợp tác để họ cùng nhau
chăn nuôi, cùng nhau thực hiện kế hoạch chung thì mới cải thiện được hiệu quả
kinh tế.
3.1.2. Hiện trạng thị trường bò thịt vùng Tây Bắc
3.1.2.1. Thực trạng chung của thị trường tiêu thụ bò thịt vùng Tây Bắc
Thị trường nội tỉnh đóng vai trò quan trọng và chiếm trên 85% trong tiêu thụ
sản phẩm bò thịt của vùng Tây Bắc, 15% còn lại được tiêu thụ ở thị trường ngoại
tỉnh. Tham gia vào thị trường tiêu thụ bò thịt Tây Bắc bao gồm nhiều nhóm tác
nhân và được tổ chức theo sơ đồ (Hình 3.2).
Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc
Hệ thống lò mổ trong tỉnh có ảnh hưởng lớn đến sự vận hành của thị trường,
là khách hàng tiêu thụ 65% khối lượng bò thịt của thu gom huyện và 85% của thu
gom tỉnh. Có mối liên hệ chặt chẽ trong chuỗi giá trị bò thịt của Sơn La và Điện
Biên, ngoài việc thu mua bò có nguồn gốc từ trong tỉnh, các tác nhân thu gom Sơn
La còn thu mua bò do người dân trên địa bàn tỉnh Điện Biên bán ra.
Hộ chăn nuôi
Thu gom huyện Thu gom xã Thu gom tỉnh
Lò mổ trong vùng Lò mổ ngoài vùng
Người bán lẻ Người bán lẻ
Người tiêu dùng
75%
100%
25%
35%
65% 15% 85%
67
Thực trạng chung của chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc là:
- Thị trường cuối cùng của sản phẩm bao gồm: tại chỗ (cấp xã và huyện), huyện
khác, thành phố Sơn La và Điện Biên, ngoại tỉnh.
- Với các thị trường xa như Hà nội, sản phẩm được vận chuyển ở dạng bò sống
bởi các tác nhân thu gom huyện, tỉnh hoặc lò mổ Hà Nội.
- Lượng bò tiêu thụ ra ngoại tỉnh mới chiếm khoảng 15% tổng lượng tiêu thụ.
- Có 5 - 10% lượng bò được bán làm giống ở địa phương (những con còn khả
năng sinh sản).
3.1.2.2. Sự vận hành của các tác nhân trong chuỗi giá trị bò thịt vùng Tây Bắc
Tác nhân sản xuất
Hoạt động chăn nuôi bò của vùng Tây Bắc chưa mang tính hàng hóa cao, chỉ
có khoảng 62% số hộ có bán bò trong thời gian 5 năm (2007 - 2011), còn lại 38%
số hộ không bán. Hoạt động bán bò cũng không diễn ra thường xuyên trong năm,
bò được bán chủ yếu vào các tháng cuối năm (mùa lạnh) do nhu cầu tiêu dùng thịt
bò giai đoạn này tăng cao.
Bảng 3.7. Số lượng bò bán và tần suất bán bò của các hộ
Chỉ tiêu ĐVT Điện Biên (n=105) Sơn La (n=82)
Tỷ lệ hộ có bán bò từ 2007 - 2011 % 62,86 62,20
Tổng số bò bán từ năm 2007 - 2011 con 70 114
Trung bình số bò bán/năm con 0,21 0,35
Thời gian bán 1 con bò năm 4,67 2,85
Thời điểm bán bò tập trung chủ yếu trong các tháng 10, 11, 12 và tháng 1.
Có 2 lý do chính để người dân bán bò trong giai đoạn này là: (i) Đây là các tháng
mùa đông, nguồn thức ăn cho bò khan hiếm; (ii) Nhu cầu thị trường tăng cao nên
giá bán bò cao hơn so với các thời điểm khác trong năm.
Việc xác định khối lượng bò bán vẫn dựa trên cơ sở đánh giá cảm quan
(bằng mắt) nên người nông dân thường bị thiệt. Hồ Cao Việt (2012), nghiên cứu
chuỗi giá trị vùng Duyên hải Nam Trung Bộ cho biết việc xác định khối lượng
68
thiếu chính xác làm nông dân thiệt hại 5 - 10 kg thịt/con.
Tác nhân thu gom
Hoạt động thu gom diễn ra mạnh nhất vào các tháng 10 đến 12 âm lịch với số
lượng bò thu gom tăng hơn 20 - 30% so với các thời điểm khác trong năm. Số
lượng bò thu mua trong tháng của một thu gom cùng cấp ở Sơn La lớn hơn ở Điện
Biên. Tác nhân thu gom Sơn La cũng có nhiều hoạt động thu gom bò tại nhiều
huyện Điện Biên giáp với Sơn La.
Bảng 3.8. Số lượng bò thu mua hàng tháng của tác nhân thu gom
Chỉ tiêu
Điện Biên Sơn La
Số người
(n)
Số lượng bò thu
mua (con/người)
Số người
(n)
Số lượng bò thu
mua (con/người)
Thu gom cấp xã 15 16 15 32
Thu gom cấp huyện 5 57 5 74
Thu gom cấp tỉnh 2 117 3 139
Hoạt động của các tác nhân thu gom như sau:
Thu gom cấp xã: Hoạt động như mạng lưới "chân rết" trong thu mua bò từ các
hộ chăn nuôi và bán lại cho các thu gom lớn (cấp huyện, tỉnh) hoặc lò mổ trên địa
bàn huyện và tỉnh. Sau khi mua bò từ người chăn nuôi, các thu gom cấp xã thường
tiến hành nuôi lưu bò tại nhà trong thời gian từ 1 - 2 tuần để có đủ số lượng cho 1
chuyến xe từ 10 - 15 con.
Thu gom cấp huyện: Hoạt động khá chuyên nghiệp, họ có nhiều vốn và sử
dụng phương tiện vận chuyển là ô tô. Do không thể tự đi thu mua bò tại các hộ
chăn nuôi nên các thu gom cấp huyện phải liên kết với các tác nhân thu gom cấp
xã. Sau khi thu gom đủ số lượng, các thu gom huyện sẽ vận chuyển bò từ các xã
đến các nơi tiêu thụ khác nhau (lò mổ, thu gom cấp tỉnh). Hình thức liên kết này
giúp giảm chi phí thu mua và chi phí vận chuyển trung gian, giảm rủi ro trong quá
trình nuôi lưu.
Thu gom cấp tỉnh: Hoạt động rất chuyên nghiệp, có nguồn cung cấp bò đầu
69
vào và mạng lưới tiêu thụ ổn định. Họ xây dựng được mối liên kết chặt chẽ với các
thu gom cấp huyện để chủ động nguồn cung bò đầu vào thị trường tiêu thụ chính là
các lò mổ tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng... Trong điều kiện quy mô
nuôi nhỏ như hiện nay thì các hộ nông dân chưa thể xây dựng liên kết tiêu thụ sản
phẩm trực tiếp với các thu gom cấp tỉnh.
Để bán được bò trực tiếp cho các thu gom lớn hoặc lò mổ, các hộ chăn nuôi
cần liên kết với nhau để thống nhất bán bò ở cùng một thời điểm nhất định, đáp
ứng đúng yêu cầu về số lượng bò cho 1 chuyến xe. Việc bán bò theo hình thức này
sẽ giúp nâng cao giá bán bò và hiệu quả cho người chăn nuôi.
Tác nhân lò mổ
Có 3 nhóm lò mổ tham gia trong chuỗi giá trị bò thịt Sơn La và Điện Biên là
quy mô nhỏ, quy mô trung bình và quy mô lớn.
- Quy mô nhỏ: tập trung tại một số xã và thị trấn huyện, số lượng bò giết mổ
hàng tháng dưới 60 con/cơ sở giết mổ. Cơ sở vật chất không có nhà xưởng,
kho bãi và khu giết mổ riêng, thiếu hệ thống trang thiết bị bảo quản và vận
chuyển thịt bò đảm bảo tiêu chuẩn từ nơi giết mổ đến thị trường tiêu thụ. Vì
vậy, sản phẩm thịt bò từ các lò mổ này không thể bán cho các kênh phân phối
theo hướng chất lượng cao (siêu thị, cửa hàng an toàn thực phẩm).
- Quy mô trung bình và quy mô lớn: tập trung tại các huyện, thành phố Sơn La,
Điện Biên và Hà Nội. Số lượng bò giết mổ của quy mô trung bình là 60 - 90
con/tháng và của quy mô lớn là 90 - 300 con/tháng. Cơ sở vật chất có hệ
thống trang thiết bị phục vụ giết mổ, sơ chế, bảo quản, vận chuyển đảm bảo
các tiêu chuẩn vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm.
Bảng 3.9. Yêu cầu của các lò mổ ở Hà Nội đối với bò thịt vùng Tây Bắc
Yêu cầu ĐVT Quy mô giết mổ (con/ngày)
< 5 6-9 10-20 > 20
Khối lượng thịt xẻ Kg 90 -160 150 -180 90 -180 150-180
Độ tuổi Năm 2-3 2-3 Tất cả 2-5
Ngoại hình To, khỏe mạnh, ngoại hình đẹp, ưu tiên mua bò đực
70
Một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng thịt bò Sơn La và Điện Biên
cung cấp cho thị trường Hà Nội chiếm tỷ lệ nhỏ là do nguồn cung cấp bò không ổn
định và chất lượng bò thịt chưa đáp ứng đúng yêu cầu của các lò mổ Hà Nội.
Nhìn chung bò thịt Tây Bắc chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường
Hà Nội và thị trường cao cấp. Vì vậy, để xây dựng mối liên kết tiêu thụ bò thịt
vùng Tây Bắc đến thị trường Hà Nội thì cần ổn định nguồn sản phẩm cung cấp cho
thị trường và thực hiện các giải pháp kỹ thuật nâng cao tầm vóc, tăng khối lượng
hoặc vỗ béo bò trước khi bán. Ngoài ra, phải tăng cường quảng bá rộng rãi kết hợp
với hệ thống nhận diện sản phẩm để nâng cao uy tín với người tiêu dùng.
Tác nhân bán lẻ
- Người bán lẻ tại địa phương: Nguồn thịt bò được lấy trực tiếp từ các lò mổ
cấp xã, huyện. Tần suất hoạt động thường xuyên nhưng khối lượng thịt bán ra
mỗi ngày nhỏ, trung bình khoảng 10 kg/ngày. Những người bán lẻ có mối liên
kết khá chặt chẽ với các lò mổ.
- Người bán lẻ tại các chợ dân sinh của Hà Nội: Có khoảng 40% lượng thịt bò ở
các lò mổ Hà Nội cung cấp cho người bán lẻ, đây là khách hàng thường xuyên
của lò mổ. Khối lượng thịt bò bình quân bán mỗi ngày là 15 - 20 kg.
- Cửa hàng chuyên bán thực phẩm an toàn và siêu thị: Tiêu thụ khoảng 25% khối
lượng thịt bò của các lò mổ. Yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng của nhóm bán lẻ này
khá cao: chất lượng thịt tốt, được đóng gói, có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm
dịch và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong thời gian tới, cửa hàng thực
phẩm an toàn và siêu thị là một thị trường có nhiều tiềm năng để người nuôi bò
vùng Tây Bắc hướng đến xây dựng mối liên kết tiêu thụ sản phẩm ổn định.
3.1.2.3. Nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm thịt bò vùng Tây Bắc
Đặc điểm của người tiêu dùng theo thu nhập
Tiến hành điều tra 120 người tiêu dùng tại Hà Nội và vùng Tây Bắc thì thấy
rằng đặc điểm chung của người tiêu dùng có thể phân thành 4 nhóm chính có mức
thu nhập bình quân đầu người/tháng là: (i) dưới 2 triệu đồng, (ii) từ 2 đến dưới 5
triệu đồng, (iii) từ 5 đến dưới 10 triệu đồng và (iv) trên 10 triệu đồng. Kết quả thu
được qua bảng 3.10.
71
Bảng 3.10. Tỷ lệ người tiêu dùng thịt bò theo các mức thu nhập khác nhau
Chỉ tiêu Hà Nội Tây Bắc
n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Tổng số hộ điều tra 60 100 60 100
Thu nhập bình quân/người/tháng 5,83 100 3,05 100
Dưới 2 triệu 5 8,33 32 53,33
Từ 2 đến dưới 5 triệu 24 40,00 21 35,00
Từ 5 đến dưới 10 triệu 21 35,00 7 11,67
Từ 10 triệu trở lên 10 16,67 0 0,00
Thu nhập của người tiêu dùng thịt bò Hà Nội có mức thu nhập bình
quân/người/tháng cao lớn hơn so với vùng Tây Bắc (5,83 triệu đồng so với 3,05
triệu đồng). Số người tiêu dùng có mức thu nhập dưới 5 triệu đồng/tháng ở Hà Nội
là 48,33% trong khi đó ở Tây Bắc là 88,33%. Ngược lại, thu nhập từ 5 đến dưới 10
triệu đồng/tháng ở Hà Nội là 35% trong khi đó ở Tây Bắc là 11,67%. Không có
người nào ở Tây Bắc có thu nhập từ 10 triệu đồng/người/tháng trở lên trong khi ở
Hà Nội là 16,67%.
Lượng thịt bò tiêu thụ của người tiêu dùng theo thu nhập khác nhau
Là một loại thực phẩm có giá bán cao so với các loại thực phẩm khác nên
việc tiêu dùng thịt bò chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thu nhập của người tiêu dùng. Kết
quả khảo sát cho thấy lượng tiêu thụ thịt bò chịu ảnh hưởng lớn từ thu nhập, đặc
biệt là người tiêu dùng ở Hà Nội.
Bảng 3.11. Lượng thịt bò tiêu thụ/tháng của người tiêu dùng theo các
mức thu nhập khác nhau
Chỉ tiêu Hà Nội (kg) Tây Bắc (kg) So sánh Hà Nội/Tây Bắc (%)
Dưới 2 triệu 1,59 1,03 154,37
Từ 2 đến dưới 5 triệu 1,78 1,21 147,11
Từ 5 đến dưới 10 triệu 2,16 1,51 143,05
Từ 10 triệu trở lên 3,14 -
72
Qua bảng 3.11 cho thấy người tiêu dùng ở Hà Nội tiêu thụ thịt bò nhiều hơn
người tiêu dùng ở Tây Bắc từ 43 đến 54%, điều này có thể được giải thích là do
người tiêu dùng Hà Nội có mức thu nhập bình quân cao hơn nên lượng thịt bò tiêu
dùng hàng tháng cũng cao hơn so với vùng Tây Bắc.
Bảng 3.12. Tỷ lệ người tiêu dùng chọn địa điểm mua thịt bò theo các tiêu chí
ĐVT: %
Chỉ tiêu Dưới 2
triệu
Từ 2 đến
dưới 5
triệu
Từ 5 đến
dưới 10
triệu
Từ 10
triệu trở
lên
Hà
Nội
Thuận tiện 80,00 79,17 71,43 50,00
Tin tưởng người bán 100,00 87,50 76,19 50,00
Giá bán hợp lý 100,00 100,00 66,67 30,00
Chất lượng 60,00 70,83 90,48 80,00
Nguồn gốc xuất xứ 40,00 50,00 90,48 100,00
Bao bì, nhãn mác 20,00 29,17 85,71 100,00
Tây
Bắc
Thuận tiện 93,75 95,24 100,00 -
Tin tưởng người bán 96,88 100,00 100,00 -
Giá bán hợp lý 90,63 95,24 85,71 -
Chất lượng 68,75 90,48 85,71 -
Nguồn gốc xuất xứ 46,88 61,90 28,57 -
Bao bì, nhãn mác 0,00 19,05 28,57 -
Các tiêu chí thuận tiện, tin tưởng người bán, giá bán hợp lý và chất lượng
thịt bò đóng vai trò quan trọng trong lựa chọn địa điểm mua thịt bò của người tiêu
dùng. Đa số người tiêu dùng ở hai thị trường đều căn cứ vào các tiêu chí này để lựa
chọn địa điểm mua thịt bò. Các tiêu chí nguồn gốc xuất xứ và bao bì, nhãn mác
được người tiêu dùng Hà Nội quan tâm hơn và người có thu nhập càng cao thì càng
quan tâm nhiều hơn. Từ đó cho thấy trong thời gian tới cần tăng cường thực hiện
các giải pháp quảng bá, giới thiệu giúp người tiêu dùng phân biệt, nhận biết đúng
về sản phẩm thịt bò Tây Bắc.
73
Bảng 3.13. Tỷ lệ người tiêu dùng sẵn sàng chi trả giá cao hơn
ĐVT: %
Thay đổi giá Dưới 2
triệu
Từ 2 đến
dưới 5
triệu
Từ 5 đến
dưới 10
triệu
Từ 10
triệu trở
lên
Hà
Nội
Không thay đổi 60,00 29,17 9,52 0,00
Tăng dưới <5% 40,00 45,83 9,52 0,00
Tăng từ 5 đến dưới 10% 0,00 16,67 52,38 10,00
Tăng từ 10 đến dưới 15% 0,00 8,33 14,29 10,00
Tăng từ 15 đến dưới 20% 0,00 0,00 9,52 50,00
Tăng trên 20% 0,00 0,00 4,76 30,00
Tây
Bắc
Không thay đổi 78,13 57,14 0,00 -
Tăng dưới <5% 21,88 28,57 42,86 -
Tăng từ 5 đến dưới 10% 0,00 9,52 28,57 -
Tăng từ 10 đến dưới 15% 0,00 4,76 14,29 -
Tăng từ 15 đến dưới 20% 0,00 0,00 14,29 -
Tăng trên 20% 0,00 0,00 0,00 -
Ở cả hai thị trường, nhóm tiêu dùng có thu nhập dưới 5 triệu/người/tháng chỉ
sẵn sàng trả giá mua cao hơn từ 0 đến dưới 5% so với mức giá bán hiện nay. Đối
với người tiêu dùng có mức thu nhập cao hơn tại Hà Nội, mức giá sẵn sàng chi trả
cao hơn 5 đến dưới 10% chiếm 52,38% (nhóm thu nhập từ 5 đến dưới 10 triệu) và
cao hơn từ 15% trở lên chiếm 80% (nhóm thu nhập từ 10 triệu trở lên). Khi giá thịt
bò tăng càng cao thì mức độ sẵn sàng chi trả càng giảm.
Sơ bộ nhận định
- Trên 90% giống bò sử dụng ở địa phương là giống bò Vàng có tầm vóc nhỏ,
quy mô chăn nuôi nhỏ, phương thức chăn nuôi quảng canh.
- Trong các tháng mùa đông (từ tháng 12 đến tháng 3), nguồn thức ăn xanh tự
nhiên bị thiếu hụt nhiều (Hình 3.1)
74
- Nguồn phụ phẩm nông nghiệp dồi dào về số lượng, đa dạng về chủng loại.
- Quy mô chăn nuôi nhỏ và tần suất bán bò không thường xuyên, giá bán không
ổn định, người chăn nuôi thường bán với giá thấp nên hiệu quả chăn nuôi
chưa cao.
- Sản phẩm thịt bò Tây Bắc chưa có bao bì, nhãn mác và chưa được quảng bá
rộng rãi nên người tiêu dùng không phân biệt được với các loại thịt bò khác vì
vậy lượng bán còn hạn chế và giá bán còn thấp.
3.2. TUYỂN CHỌN BÒ ĐỰC KHỐI LƯỢNG LỚN LÀM GIỐNG
NHẰM NÂNG CAO TẦM VÓC VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA
BÒ ĐỊA PHƯƠNG
3.2.1. Hiện trạng đàn bò địa phương trước thí nghiệm
Khảo sát, đánh giá chất lượng đàn bò địa phương trước thí nghiệm cho thấy
nhìn chung đàn bò địa phương có tầm vóc bé, khối lượng thấp. Đàn bò có khối
lượng thấp là do bản chất của giống bò Vàng Việt Nam, đồng thời trong nhiều năm
qua công tác chọn lọc, cải tạo giống chưa được chú ý, bò cái không được chọn lọc,
bò đực giữ lại từ trong đàn vừa có tầm vóc bé vừa không có sự hoán đổi nên xảy ra
hiện tượng đồng huyết trong đàn.
Bảng 3.14. Khối lượng cơ thể đàn bò địa phương ở các mốc tuổi (kg/con)
Tháng tuổi Đực Cái
n Mean ± SE n Mean ± SE
6 27 57,3 ± 1,10 46 53,5 ± 0,66
12 23 107,4 ± 1,75 67 101,6 ± 0,93
24 18 171,7a ± 3,18 91 137,3b ± 1,03
36 21 219,5a ± 3,34 124 165,6b ± 1,19
≥48 47 259,9a ± 3,33 147 187,8b ± 1,33
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a,b khác nhau thì
sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)
Kết quả điều tra cho thấy bò thuộc sở hữu của dân nên bò nhỏ được giữ lại,
bò có khối lượng lớn đã bị bán đi mổ thịt để được nhiều tiền, mà không ai nghĩ đến
75
phải giữ lại làm giống vì vậy đã xảy ra hiện tượng “chọn lọc ngược”. Đặc biệt, đàn
bò nuôi trong dân qua nhiều thế hệ không được chọn lọc và cải tạo giống nên tỷ lệ
đồng huyết cao gây thoái hóa giống nên tầm vóc bò ngày càng nhỏ, năng suất và
hiệu quả sản xuất ngày càng giảm.
Số liệu điều tra trên đàn bò địa phương cho thấy không có sự khác nhau
nhiều về khối lượng cơ thể giữa bê đực và bê cái lúc 6 và 12 tháng tuổi (57,3 kg đối
với bê đực và 53,5 kg đối với bê cái lúc 6 tháng tuổi; 107,4 kg đối với bê đực và
101,6 kg đối với bê cái lúc 12 tháng tuổi). Từ 24 tháng tuổi trở đi, có sự khác biệt
ngày càng lớn giữa khối lượng bò đực và khối lượng bò cái. Ở 24 tháng tuổi, khối
lượng của bò đực là 171,7 kg và bò cái là 137,3 kg, đến 48 tháng tuổi bò đực có
khối lượng là 259,9 kg và bò cái là 187,8 kg. Sự khác nhau này là do từ độ tuổi 18
tháng bò đã có hoạt động sinh dục, các hóc môn sinh sản đã ảnh hưởng đến tầm
vóc và khối lượng cơ thể của bò.
Khối lượng đàn bò địa phương nằm trong khoảng trung bình của bò Vàng
Việt Nam. Lê Quang Nghiệp (1984) cho biết bò Vàng Việt Nam có khối lượng khi
trưởng thành bò đực 237 kg và bò cái là 196 kg. Nguyễn Văn Thưởng và cs. (1985)
nghiên cứu cải tạo đàn bò Vàng Việt Nam cho biết bò Vàng Việt Nam bò đực khi
trưởng thành chỉ đạt 250 - 280 kg và bò cái là 200 kg. Lê Viết Ly và cs. (1995)
công bố rằng bò Vàng Việt Nam chỉ có một giống duy nhất và tầm vóc bé, bò đực
trưởng thành đạt 250 - 280 kg, bò cái 180 - 200 kg. Đinh Văn Cải (2007) nghiên
cứu trên bò Vàng Việt Nam cho rằng khối lượng bò đực là 250 kg và cái là 180 kg.
Một số tỉnh miền núi phía Bắc có bò H’Mông có tầm vóc lớn hơn. Theo kết
quả nghiên cứu Nguyễn Thị Thoa (2011) tiến hành điều tra về giống bò H’Mông tại
các huyện của tỉnh Bắc Kạn nhận thấy tại huyện Pắc Nặm, bò cái trưởng thành có
khối lượng bình quân là 222 kg, bò đực có khối lượng bình quân là 310 kg; tại
huyện Ba Bể, bò cái trưởng thành có khối lượng bình quân là 225 kg, bò đực là 371
kg; Huyện Chợ Đồn, bò cái trưởng thành có khối lượng bình quân là 226 kg, bò
đực là 316 kg. Theo Đào Lan Nhi (2012) bò H’Mông có khối lượng sơ sinh bê đực
17 - 18 kg và bê cái 14 -16 kg; lúc 24 tháng tuổi con đực đạt khối lượng 233 - 275
kg và con cái đạt 216 - 225 kg; khi trưởng thành (60 tháng tuổi) bò đực đạt 382 -
76
388 kg và bò cái đạt 250 - 270 kg.
Nguyễn Đàm Thuyên (2012) nghiên cứu trên bò H'mông thì lại cho rằng lúc
24 tháng tuổi con đực đạt khối lượng 321 kg và con cái đạt 267 kg, đến 36 tháng
con đực đạt 371 kg và con cái đạt 280 kg.
Bảng 3.15. Tăng khối lượng trung bình của đàn bò điều tra (g/ngày)
Tháng tuổi Đực Cái
7-12 278 267
13-24 178a 100b
25-36 133a 79b
37- ≥48 112a 62b
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a,b khác nhau thì
sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
Kết quả về tăng khối lượng trung bình của đàn bò điều tra ở bảng 3.15 cho thấy
ở giai đoạn 7 - 12 tháng tuổi tăng khối lượng trung bình là 278 g/ngày đối với bê đực
và 267 g/ngày đối với bê cái, nhưng ở giai đoạn 37 đến ≥ 48 tháng tuổi chỉ còn 112
g/ngày đối với bò đực và 62 g/ngày đối với bò cái. Trong thực tế, đàn bò ở vùng
nghiên cứu được nuôi dưỡng trong điều kiện nông hộ chưa đáp ứng được đầy đủ nhu
cầu dinh dưỡng của gia súc, thức ăn vẫn còn hạn chế và thiếu nhiều nhất là trong mùa
khô đã làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng bình thường của chúng. Tăng khối
lượng trung bình của đàn bò như trên phù hợp với quy luật sinh trưởng chung của gia
súc đó là tăng khối lượng tương đối giảm dần theo giai đoạn sinh trưởng.
Một trong những biện pháp nhằm nâng cao khả năng sản xuất thịt trong
chăn nuôi bò thịt đang được áp dụng rộng rãi ở nước ta là lai kinh tế giữa bò
chuyên dụng thịt với bò nội trong nước. Quá trình cải tiến đàn bò Vàng của Việt
Nam đã được thực hiện từ thế kỷ trước, đã trở thành chương trình quốc gia và được
gọi là Chương trình Sind hoá hoặc Zebu hóa đàn bò. Các giống bò Zebu đã được
nhập trong chương trình cải tạo đàn bò gồm bò Red Sindhi và bò Sahiwal nhập từ
Pakistan trong thời gian 1985 - 1987, bò Brahman đỏ và trắng nhập từ Cuba năm
1987 và từ Úc trong những năm 2001 - 2005. Mục đích là nâng cao tầm vóc của
77
đàn cái nền, làm tiền đề cho những bước cải tiến tiếp theo là phối với những bò đực
chuyên dụng thịt.
Nghiên cứu lai tạo giống nhằm cải tiến năng suất và chất lượng thịt, Nguyễn
Văn Thưởng và cs. (1985) dùng bò đực Red Sindhi lai với bò Vàng Việt Nam nâng
khối lượng của bò cái sinh sản từ 200 kg lên 270 - 280 kg, bò đực từ 250 - 280 kg
lên 380 - 420 kg, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%. Phạm Thế Huệ (2010) cho biết khối lượng
bò lai Sind và F1 (Brahman x lai Sind) 24 tháng tuổi nuôi trong nông hộ Đăk Lăk
đạt tương ứng 302,15 và 274,19 kg.
3.2.2. Khối lượng bò đực bố và bò cái mẹ
Để đánh giá ảnh hưởng của khối lượng bò bố và bò mẹ đến khối lượng và
khả năng sinh trưởng của đàn con sinh ra thì các nghiệm thức thí nghiệm và đối
chứng đã được bố trí như trong bảng 3.16.
Bảng 3.16. Khối lượng bò đực bố và bò cái mẹ của các nghiệm thức (kg)
TT Loại bò
Khối lượng
NTĐC NT1 NT2
n Mean ± SE n Mean ± SE n Mean ± SE
1 Bò đực bố 3 260,53a ± 6,06 3 287,16b ± 5,73 3 294,26b ± 2,39
2 Bò cái mẹ 30 184,30a ± 1,73 30 185,07a ± 1,69 30 197,09b ± 2,15
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a,b khác nhau thì
sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
Qua số liệu bảng 3.16 ta thấy khối lượng bò đực bố của NT1, NT2 là tương
đương nhau lần lượt là 287,16 kg và 294,26 kg và cao hơn NTĐC (260,53 kg).
Khối lượng bò cái mẹ của NT2 là 197,09 kg cao hơn NT1 (185,07 kg) và NTĐC
(184,30 kg). Sự khác nhau về khối lượng bò đực bố và bò cái mẹ giữa các nghiệm
thức là do bò đực bố của NT1, NT2 và bò cái mẹ ở NT2 đã được tuyển chọn những
con tốt nhất trong đàn. Những bò đực bố và bò cái mẹ được tuyển chọn có khối
lượng cao hơn trung bình đàn khoảng 10%.
78
3.2.3. Khối lượng và sinh trưởng của đàn con sinh ra
3.2.3.1. Khối lượng cơ thể đàn con sinh ra qua các mốc tuổi
Khối lượng cơ thể là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự
sinh trưởng và phát dục của gia súc, đồng thời nó cũng biểu hiện khả năng sản xuất
của chúng. Qua khối lượng cơ thể sẽ phản ánh được tốc độ sinh trưởng của gia súc
ở từng giai đoạn khác nhau. Kết quả nghiên cứu về khối lượng đàn bò sinh ra được
thể hiện qua bảng 3.17.
Bảng 3.17. Khối lượng cơ thể bê ở các mốc tuổi sơ sinh đến 24 tháng tuổi
(kg/con)
Tháng
tuổi
Tính
biệt n
NTĐC
Mean ± SE
NT1
Mean ± SE
NT2
Mean ± SE
Sơ sinh Đực 10 13,83a±0,13 14,85b±0,13 15,38b±0,14
Cái 10 13,01a±0,17 13,84b±0,13 14,05b±0,21
6 tháng Đực 10 65,89a±1,07 68,82b±1,47 71,77b±0,77
Cái 10 61,29a±1,02 65,71b±1,11 67,14b±1,09
12 tháng Đực 10 103,90a±1,45 109,45b±1,47 113,33b±1,17
Cái 10 97,81a±1,16 103,83b±1,29 107,42b±1,15
24 tháng Đực 10 170,80a±1,40 182,09b±1,49 185,40b±1,67
Cái 10 156,77a±1,58 166,16b±0,43 171,38b±1,89
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a,b khác nhau thì
sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
Các giai đoạn từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi, khối lượng cơ thể của đàn con
sinh ra ở các NT thí nghiệm luôn cao hơn so với NTĐC. Giai đoạn tuổi càng lớn thì
khác biệt càng thể hiện rõ ràng hơn đã cho thấy ảnh hưởng rõ rệt của khối lượng bò
bố, bò mẹ đến khối lượng và sinh trưởng của đàn con. Khối lượng cơ thể đàn con
sinh ra ở các giai đoạn tuổi của NT1 và NT2 không có sự khác biệt nhưng hoàn toàn
khác biệt với NTĐC.
Khối lượng cơ thể bê đực và bê cái trong cùng một NT thí nghiệm hoặc
NTĐC không có sự khác biệt rõ ràng từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi, đến 12 tháng tuổi
thì bắt đầu có sự khác biệt và đến 24 tháng tuổi khác biệt khá rõ ràng.
Khối lượng của bê hai NT thí nghiệm từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi đều cao
79
hơn so với NTĐC 7 - 10%. Tuy vậy, sự chênh lệch có xu hướng giảm dần từ lúc sơ
sinh đến các giai đoạn sinh trưởng sau. Điều này có thể được giải thích là khối lượng
sơ sinh chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố di truyền, ảnh hưởng chủ yếu là từ khối lượng
bò bố, mẹ. Hệ số di truyền của tính trạng này là khá cao h2 = 0,34 - 0,41 (Nguyễn
Văn Thiện, 1995). Sau khi ra đời, bê chịu thêm ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh nên
sự khác biệt đã bị thu hẹp, điều này cho thấy vai trò của yếu tố ngoại cảnh đối với
khối lượng và sinh trưởng của bê (đặc biệt là yếu tố nuôi dưỡng). Vì vậy, việc cải
tiến di truyền luôn luôn phải đi đôi với cải tiến nuôi dưỡng nhằm đáp ứng đầy đủ nhu
cầu dinh dưỡng cho gia súc để phát huy cao nhất tiềm năng của giống.
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác về bò Vàng Việt Nam cho thấy
khối lượng bò Vàng qua các mốc tuổi là tương tự hoặc nhỏ hơn với NTĐC của
nghiên cứu này. Lê Quang Nghiệp (1984) cho thấy bò Vàng Việt Nam có khối
lượng khi sơ sinh đực là 15,56 kg, cái là 14,15 kg; 12 tháng tuổi đực là 100,25 kg,
cái là 97,08 kg; 24 tháng tuổi đực là 183,01 kg, cái là 168,07 kg. Đinh Văn Cải
(2007) nghiên cứu trên bò Vàng Việt Nam cho rằng khối lượng khi sơ sinh đực là
16 kg, cái là 11 kg; 12 tháng tuổi đực là 95 kg, cái là 85 kg; 24 tháng tuổi đực là
155 kg, cái là 140 kg.
So sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đã nghiên cứu trước đây
ta thấy khối lượng của bò Vàng qua các mốc tuổi đều nhỏ hơn so với các loại bò
khác, đặc biệt là các nhóm bò lai.
Lê Quang Nghiệp (1984) cho thấy F1 (Zebu×Bò Vàng) có khối lượng sơ
sinh 18,10 - 19,01 kg. Phạm Thế Huệ (2010) công bố bò lai Sind nuôi tại Đắk Lắk
có khối lượng sơ sinh là 19,2 kg; còn các nhóm bò lai ½ Brahman và ½ Charolais
có khối lượng sơ sinh là 23 kg. Vũ Chí Cương (2007) nghiên cứu trên các nhóm bò
lai tại huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk cho biết khối lượng sơ sinh của bò lai Sind ở
con đực là 18,9 kg và con cái là 16,8 kg; lai ½ Charolais là 23,9 kg ở con đực và
21,6 kg ở con cái.
Vũ Văn Nội (1994) đã nghiên cứu một số cặp lai và công bố bò F1 Zebu; F1
Charolais; F1 Brown Swiss có khối lượng sơ sinh tương ứng 20,5; 21,5 và 21,7 kg.
Phạm Văn Quyến (2001) thấy rằng F1 Charolais; F1 Hereford; F1 Simmental và lai
80
Sind có khối lượng sơ sinh tương ứng 20,25; 20,06 và 19,78 kg. Hoàng Văn Trường
(2001) nghiên cứu trên bò F1 Brahman và F2 ¾ Brahman cho kết quả khối lượng sơ
sinh tương ứng 21,2 kg và 20,8 kg. Đối với bò thịt nhập nội thì Đinh Văn Cải (2006)
cho biết khối lượng bê Drought Master nuôi ở các địa phương khác nhau cho kết quả
từ 19,9 kg đến 27,2 kg, còn Đinh Văn Tuyền và cs. (2008) thì cho kết quả khối lượng
sơ sinh của bê Brahman và bê Droughtmaster là 21,6 và 20,7 kg.
Ở giai đoạn 12 tháng tuổi, Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995) cho biết: F1
Charolais lúc 12 tháng tuổi nuôi chăn thả là 121 kg, nuôi có bổ sung thức ăn tinh đạt
173 kg, tương ứng bê F1 Hereford đạt 126,9; 145,8 kg; bê F1 Simmental 130 và 168
kg. Đinh Văn Cải và cs. (2001) thấy rằng bê F1 Charolais lúc 12 tháng đạt khối lượng
164,6 kg, bê lai Sind 126,5 kg. Phạm Văn Quyến (2001) cho biết F1 Charolais đạt
150,75 kg; F1 Hereford 142,63 kg; F1 Simmental 138,86 kg và lai Sind 114,75 kg.
Một số các nghiên cứu ở nước ngoài như Hyder và cs. (1999) công bố về
khối lượng sơ sinh của con lai giữa bò đực Drought Master với bò cái Bhagnari tại
Pakistan trung bình là 23,49 ± 3,76 kg. Realini và cs. (2005) thì cho biết khối lượng
sơ sinh của bò Red Sindhi 22 kg. Simm (1998) cho thấy khối lượng sơ sinh của các
giống bò thịt phụ thuộc phẩm giống rõ rệt như Charolais 42,9 kg, Simmental 40,3
kg, Limousin 37,0 kg và Aberdeen Angus 31,7 kg.
Đào Lan Nhi (2012) nghiên cứu bò H’Mông cho biết khối lương sơ sinh đực
17 - 18 kg, cái 14 - 16 kg; Đến 2 năm tuổi đực đạt 233 - 275 kg, cái 216 - 225 kg.
Nguyễn Văn Hiền (2013) nghiên cứu tuyển chọn đàn bò cái và sử dụng bò
đực H’Mông khối lượng lớn làm giống đã làm tăng khối lượng sơ sinh, 3 và 6 tháng
tuổi của bê lên xấp xỉ 10 % so với bê sinh ra của bò đại trà; khối lượng của bê sơ
sinh ở lô thí nghiệm là 20,9 kg đối với bê đực và 19,8 kg đối với bê cái trong khi ở
lô đối chứng là 19,1 kg đối với bê đực và 18,4 kg đối với bê cái; lúc 6 tháng tuổi bê
ở lô thí nghiệm là 82,1 kg đối với bê đực và 80,1 kg đối với bê cái trong khi ở lô
đối chứng là 75,9 kg đối với bê đực và 74,1 kg đối với bê cái.
3.2.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của đàn con sinh ra
Tăng khối lượng của đàn con sinh ra giai đoạn 0 - 24 tháng tuổi giữa 2 NT
thí nghiệm là không có sự khác biệt nhưng cao hơn so với NTĐC (từ 5,90 - 9,37%
81
đối với con cái và từ 6,61 - 8,48% đối với con đực). Qua đó cho thấy ảnh hưởng rõ
rệt của khối lượng bò bố, bò mẹ đến tăng khối lượng của đàn con. Theo quy luật
sinh trưởng của gia súc thì tuổi càng lớn tăng khối lượng tương đối càng giảm, gia
súc trong thí nghiệm này hoàn toàn phù hợp theo quy luật trên (ở giai đoạn 0 - 6
tháng tuổi tăng 268,72 - 313,27 g/ngày, đến giai đoạn từ 13 - 24 tháng tuổi chỉ tăng
từ 163,78 - 201,78 g/ngày).
Bảng 3.18. Tăng khối lượng của đàn con sinh ra (g/ngày)
Giai
đoạn
Tính
biệt
NTĐC NT1 NT2 So sánh (%)
Mean ± SE Mean ± SE Mean ± SE NT1/ĐC NT2/ĐC
0 - 6
tháng
Đực 287,94a ± 6,15 303,69b ± 7,93 313,27b ± 4,18 105,47 108,80
Cái 268,72a ± 5,07 288,27b ± 6,29 294,95b ± 5,21 107,28 109,76
7 - 12
tháng
Đực 211,17a ± 2,87 225,72b ± 8,54 230,89b ± 6,27 106,89 109,34
Cái 202,89a ± 5,46 211,78b ± 9,48 223,78b ± 4,51 104,38 110,30
13 - 24
tháng
Đực 185,83a ± 2,69 201,78b ± 3,16 200,19b ± 3,05 108,58 107,73
Cái 163,78a ± 2,15 173,14b ± 2,88 177,67b ± 3,85 105,71 108,48
0 - 24
tháng
Đực 217,69a ± 1,95 232,07b ± 1,98 236,14b ± 2,31 106,61 108,48
Cái 199,79a ± 2,09 211,57b ± 0,54 218,52b ± 2,39 105,90 109,37
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a,b khác nhau thì
sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
So sánh mức độ sinh trưởng tuyệt đối của đàn con sinh ra ở hai NT thí
nghiệm thì NT2 có tăng khối lượng lớn hơn NT1, lý do là NT2 cả bò bố và bò mẹ
đều được tuyển chọn trong khi NT1 chỉ có bò bố được chọn còn bò cái mẹ không
được chọn. Qua kết quả nghiên cứu này cho thấy ảnh hưởng của khối lượng bò bố
đến khối lượng đàn con sinh ra là rõ ràng, từ đó trong thực tiễn sản xuất cần chọn
lọc đàn bò thường xuyên nhằm cải tạo tầm vóc và khối lượng đàn bò.
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác về tăng khối lượng của bò Vàng
Việt Nam cho thấy khối lượng bò qua các mốc tuổi là tương tự hoặc nhỏ hơn với
NTĐC của nghiên cứu này. Lê Quang Nghiệp (1984) cho tăng khối lượng từ sơ
sinh đến 6 tháng tuổi là đực 268 g/ngày, cái là 255 g/ngày; từ 7 đến 12 tháng tuổi
đực là 202 g/ngày, cái là 205 g/ngày; từ 13 - 24 tháng tuổi đực là 227 g/ngày, cái là
82
194 g/ngày. Đinh Văn Cải (2007) thì cho rằng tăng khối lượng từ sơ sinh đến 6
tháng tuổi là đực 311 g/ngày, cái là 289 g/ngày; từ 7 đến 12 tháng tuổi đực là 128
g/ngày, cái là 122 g/ngày; từ 13 - 24 tháng tuổi đực là 164 g/ngày, cái là 151
g/ngày. Nguyễn Đàm Thuyên (2012) cho biết bò đực H’Mông từ 18 tháng đến 24
tháng tăng bình quân là 50,3 kg; từ 24 đến 36 tháng tuổi tăng bình quân 50,2 kg.
Nghiên cứu về tốc độ sinh trưởng của bê lai, Đinh Văn Cải và cs. (2001) đã
xác định được bê lai được tạo ra từ tinh bò đực Charolais, Abondance và Tarentaise
với bò cái lai Sind đạt tăng khối lượng tương ứng giai đoạn 9 - 12 tháng tuổi là
351,79 g/con/ngày; 283,85 g/con/ngày và 270,28 g/con/ngày. Hoàng Văn Trường
(2001) đánh giá khả năng sinh trưởng, cho thịt trong điều kiện chăn nuôi nông hộ tại
Bình Định của bò lai F1 (Brahman x lai Sind) và bò lai F2 (3/4 Brahman x ¼ lai Sind)
cho kết quả tăng khối lượng tương ứng 286,6 và 406,6 g/ngày. Vũ Chí Cương và cs.
(2007) cho biết con lai F1 Brahman và F1 Charolais đạt tăng khối lượng tương ứng
346 - 405 g/con/ngày.
Nghiên cứu của Phạm Thế Huệ (2010) ở hai nhóm Bò lai F1 (Charolais x lai
Sind) và F1 (Brahman x lai Sind) nuôi trong nông hộ tại Đăk Lăk sau cai sữa đạt
được tăng khối lượng cao nhất ở giai đoạn 12-18 tháng tuổi (361,99 - 436,52
g/con/ngày), trong khi ở bò lai Sind là 333,57 g/con/ngày.
3.2.4. Mối tương quan giữa khối lượng bò đực bố, bò cái mẹ và khối lượng con
sinh ra
Mối tương quan giữa khối lượng bò đực bố, bò cái mẹ và khối lượng con
sinh ra được thể hiện qua hệ số tương quan ở bảng 3.19. Kết quả thu được cho thấy
có mối tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa khối lượng bò đực bố và khối
lượng con sinh ra ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Khối lượng bò đực bố
càng lớn thì khối lượng con sinh ra ở các giai đoạn cũng tăng theo. Hệ số tương
quan giữa khối lượng bò đực bố với con sinh ra lớn hơn hệ số tương quan giữa khối
lượng bò cái mẹ với khối lượng con sinh ra (0,350 - 0,554 so với 0,079 - 0,196).
Điều đó có nghĩa là ảnh hưởng của khối lượng bò đực bố đến khối lượng con sinh
ra lớn hơn ảnh hưởng của khối lượng bò cái mẹ.
83
Bảng 3.19. Hệ số tương quan giữa khối lượng bò bố, bò mẹ và khối lượng con
TT Mối tương quan Hệ số tương quan Giá trị p
1
KL bò đực bố
Với KL con sơ sinh 0,383(**) 0,030
Với KL con 6 tháng tuổi 0,350(**) 0,006
Với KL con 12 tháng tuổi 0,554(**) 0,000
Với KL con 24 tháng tuổi 0,474(**) 0,000
2 KL bò cái mẹ
Với KL con sơ sinh 0,148 0,258
Với KL con 6 tháng tuổi 0,157 0,232
Với KL con 12 tháng tuổi 0,196 0,132
Với KL con 24 tháng tuổi 0,079 0,551
Sự ảnh hưởng của khối lượng bò đực bố đến khối lượng con sinh ra theo các
giai đoạn tuổi khác nhau được lượng hóa theo các phương trình hồi quy tuyến tính.
Các phương trình hồi quy thu được trong bảng 3.20 có giá trị p < 0,05 cho thấy các
phương trình hồi quy trên có ý nghĩa thống kê. Điều đó có nghĩa là khối lượng của
bò đực bố có ảnh hưởng đến khối lượng con sinh ra qua các mốc tuổi con sơ sinh;
6; 12 và 24 tháng tuổi với các hệ số ảnh hưởng lần lượt là 0,023; 0,102; 0,238 và
0,312. Đặc biệt, từ 12 tháng tuổi trở lên tương quan này càng thể hiện rõ sự sai
khác vì đến giai đoạn này ngoài yếu tố giống còn có các yếu tố khác ảnh hưởng đến
sự sai khác này như: thức ăn, nuôi dưỡng...
Phương trình hồi qui giữa khối lượng bò đực bố đến khối lượng đàn còn
sinh ra có kết quả như bảng 3.20.
Bảng 3.20. Phương trình hồi quy giữa khối lượng bò đực bố đến khối lượng
con sinh ra (n = 60)
TT Chỉ tiêu Phương trình R2 SE p
1 Giữa KL bò đực bố với KL
con sơ sinh Y1 = 7,631 + 0,023*X 0,146 0,906 0,003
2 Giữa KL bò đực bố với KL
con 6 tháng tuổi Y2 = 38,024 + 0,102*X 0,123 4,396 0,006
3 Giữa KL bò đực bố với KL
con 12 tháng tuổi Y3 = 40,726 + 0,238*X 0,307 5,755 0,000
4 Giữa KL bò đực bố với KL
con 24 tháng tuổi Y4 = 84,507 + 0,312*X 0,225 9,326 0,000
Ghi chú: Y: Khối lượng con theo các giai đoạn tuổi khác nhau; X: Khối lượng bò đực bố;
84
R2: Cho biết mức độ phù hợp của mô hình hồi quy. SE: Sai số chuẩn; P: Xác suất để loại
bỏ mô hình hồi quy.
Mối quan hệ giữa khối lượng bò đực bố và khối lượng con sinh ra được thể
hiện trên đồ thị như sau (hình 3.3).
Căn cứ vào các phương trình trên, người ta cũng có thể ước tính khối lượng
bê các mốc tuổi dựa vào khối lượng của bò đực giống, điều này giúp cho chăn nuôi
thấy rõ vai trò của bò đực giống và thường xuyên tiến hành tuyển chọn bò đực
giống có khối lượng lớn ở địa phương kết hợp với việc tuyển chọn đàn bò cái sinh
sản trong công tác cải tạo giống để nâng cao tầm vóc của đàn bò nhỏ con ở địa
phương mình.
Boduc
300290280270260250
16
15
14
13
12
Besosinh
Boduc
300290280270260250
75
70
65
60
55
Be6thang
Boduc
300290280270260250
130
120
110
100
90
Be12thang
Boduc
300290280270260250
200
190
180
170
160
150
140
Be24thang
Hình 3.3. Mối quan hệ giữa khối lượng bò đực giống và khối lượng bê
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa khối lượng bố, mẹ và khối lượng con sinh
ra, các nhà khoa học khác đều có kết luận là có sự tương quan thuận giữa khối
lượng bê ở các mốc tuổi và khối lượng cơ thể của bố mẹ. Các giá trị về quan hệ
Kh
ối
lượ
ng
bê
sơ s
inh
(k
g)
Khối lượng bò đực giống (kg) Khối lượng bò đực giống (kg)
Khối lượng bò đực giống (kg) Khối lượng bò đực giống (kg)
Kh
ối
lượ
ng
bê
6 t
há
ng
(k
g)
Kh
ối
lượ
ng
bê
24
th
án
g (
kg
)
Kh
ối
lượ
ng
bê
12
th
án
g (
kg
)
85
giữa khối lượng ở các mốc tuổi của bê với khối lượng của bố, mẹ đều đạt xác suất
ở mức độ tin cậy cao.
Nguyễn Đức Thạc (1983) khi nghiên cứu về sinh trưởng của nghé thấy rằng
khối lượng sơ sinh có tương quan thuận với khối lượng trâu mẹ, tính trên 65 lứa đẻ,
hệ số tương quan giữa khối lượng mẹ và khối lượng sơ sinh (R2 = 0,71). Topanurak
và cs. (1991) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng và sinh trưởng
của bê báo cáo rằng khối lượng của bê bị ảnh hưởng bởi khối lượng bò đực bố và
tính biệt của bê đặc biệt là khối lượng bê sơ sinh.
Nguyễn Văn Hiền (2013) nghiên cứu chọn lọc và sử dụng bò đực giống khối
lượng lớn để cải tạo tầm vóc và khả năng sản xuất thịt của bò H’Mông Hà Giang
thấy rằng chọn lọc bò đực khối lượng lớn phối với bò cái khối lượng lớn đã nâng
cao khối lượng sơ sinh và tốc độ sinh trưởng của bê. Khối lượng bê ở các mốc sơ
sinh, 3, 6 tháng của lô bò đực khối lượng lớn với bò cái khối lượng lớn luôn luôn
cao hơn khối lượng bê của lô bò đực đại trà và bò cái đại trà. Kích thước các chiều
đo cơ thể bê tuân theo quy luật tương tự như khối lượng. Khối lượng bò đực giống
bố và bò cái mẹ ảnh hưởng lớn đến khối lượng đàn con với mối quan hệ thuận và
chặt chẽ. Khối lượng sơ sinh của bê có mối quan hệ thuận và chặt chẽ với khối
lượng các giai đoạn sinh trưởng sau của bê.
Nghiên cứu của Mai Văn Sánh và cs. (2008) trên đàn trâu nội tại các địa
phương Ba Vì, Hà Nội và Thanh Chương, Nghệ An cũng cho thấy có mối quan hệ
thuận chiều và khá chặt chẽ giữa khối lượng nghé ở tất cả các mốc tuổi với khối
lượng của trâu bố. Hoàng Văn Phúc (2012) khi sử dụng trâu đực giống khối lượng
lớn cải tạo tầm vóc đàn trâu địa phương tại tỉnh Thanh Hóa cũng công bố giữa khối
lượng nghé ở các mốc tuổi sơ sinh tới 12 tháng tuổi với khối lượng của trâu bố có
mối quan hệ thuận chiều và khá chặt chẽ với hệ số xác định là 0,46 - 0,85.
Qua kết quả thu được về mối quan hệ giữa khối lượng bố, khối lượng mẹ và
khối lượng đời con có thể rút ra kết luận: muốn có khối lượng của bê đời con cao
thì phải sử dụng bò đực giống và bò cái giống khối lượng lớn. Trên thực tế, sử
dụng bò đực khối lượng to phối với bò cái được tuyển chọn sẽ cho khối lượng đời
con cao vì khối lượng bò đực giống và cái giống đều làm tăng khối lượng đàn con.
86
3.3. SỬ DỤNG RƠM Ủ UREA VÀ THỨC ĂN TINH NÂNG CAO KHẢ
NĂNG TĂNG KHỐI LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN CHO
BÒ SINH TRƯỞNG
3.3.1. Thành phần hóa học của thức ăn bổ sung
Thành phần hóa học và giá trị năng lượng trao đổi (NLTĐ-tính theo công
thức từ thí nghiệm in vitro gas production) của rơm ủ 4% urê và thức ăn hỗn hợp
bổ sung được trình bày ở bảng 3.21.
Bảng 3.21. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn bổ sung
Chỉ tiêu Rơm ủ urê 4% Thức ăn tinh
Vật chất khô (VCK, %) 61,49 88,92
Protein thô (Prth, % VCK) 11,00 15,40
Mỡ thô (EE, % VCK) 1,72 11,56
Xơ thô (CF, % VCK) 33,81 12,29
NDF (%) 74,52 31,36
ADF (%) 47,54 17,60
Khoáng tổng số (% VCK) 13,89 10,00
Năng lượng trao đổi (MJ/kg VCK) 8,9 9,8
Kết quả ở bảng 3.21 cho thấy nhờ xử lý urê 4% nên hàm lượng protein thô
đã tăng lên 11%, cao hơn so với kết quả này ở rơm không xử lý urê là: 5,3% (Đinh
Văn Mười, 2012). Giá trị năng lượng trao đổi (MJ/kg VCK) của rơm ủ urê 4% và
thức ăn tinh trong thí nghiệm tương ứng là 8,9 và 9,8 MJ/kg VCK.
Kết quả về hàm lượng NLTĐ/kg VCK của rơm ủ urê và thức ăn hỗn hợp
trong thí nghiệm này cũng không sai khác nhiều với kết quả nghiên cứu về hai loại
thức ăn tương tự trước đây ở Việt Nam. Theo Đinh Văn Mười (2012) rơm ủ urê 2%
và thức ăn hỗn hợp (Prth:17%) có giá trị NLTĐ tương ứng là: 6,31 và 9,83 MJ
NLTĐ/kg VCK.
Giá trị NLTĐ của thức ăn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong số đó thành
phần hóa học của thức ăn và tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng có trong thức ăn đó.
87
3.3.2. Động thái, đặc điểm sinh khí và giá trị năng lượng trao đổi của rơm ủ
urê và thức ăn hỗn hợp
Kết quả ở bảng 3.22 cho thấy: không có sự sai khác nhiều về tổng lượng khí
sinh ra sau 72 giờ giữa hai loại thức ăn, mặc dù tổng lượng khí sinh ra của thức ăn
tinh cao hơn số liệu này ở rơm ủ urê. Tuy nhiên động thái sinh khí có sự khác biệt
lớn. Trong khi giá trị a của rơm ủ thấp hơn, các giá trị b, a+b, L của rơm ủ cao hơn
các giá trị này của thức ăn tinh.
Bảng 3.22. Lượng khí sinh ra và động thái sinh khí của các thức ăn bổ sung
Thức
ăn
Chỉ
tiêu
Lượng khí sinh ra
(ml) ở các thời điểm
khác nhau
Đặc điểm sinh khí
24h 48h 72h a (ml) b (ml) a + b
(ml)
c
(fraction/h) L (h)
Rơm ủ
urê 4%
Mean
± SE
16,1b 36,6b 44,3 1,97b 63,93a 65,90a 0,016b 5,93a
0,3 1,2 1,6 0,03 4,49 4,46 0,001 0,17
Hỗn
hợp
Mean
± SE
27,4a 40,6a 44,4 2,83a 46,33b 49,17b 0,035a 4,50b
1,3 1,4 1,4 0,44 1,88 1,48 0,002 0,06
Chú thích: a là lượng khí sinh ra từ các chất dễ hoà tan thường ở ngay tại thời điểm ban đầu khi
ủ mẫu (ml); b là lượng khí sinh ra từ các chất khó hoà tan trong suốt quá trình ủ (ml); a+b là tổng
lượng khí sinh ra của khẩu phần đem ủ hay tiềm năng sinh khí của khẩu phần thức ăn đó (ml); c là
tốc tộ sinh khí (%/giờ); t là thời gian ủ mẫu khẩu phần thức ăn thí nghiệm (giờ), L: Thời gian trì
hoãn trước khi quá trình lên men bắt đầu.
Sự khác biệt này chứng tỏ các chất dễ hoà tan thường ở ngay tại thời điểm
ban đầu khi ủ mẫu (ml) ở rơm ủ thấp hơn lượng này ở thức ăn tinh; đồng thời b:
lượng khí sinh ra từ các chất khó hoà tan trong suốt quá trình ủ (ml); a+b: tổng
lượng khí sinh ra của khẩu phần đem ủ hay tiềm năng sinh khí của khẩu phần thức
ăn đó (ml); L: Thời gian pha chậm lên men bắt đầu của rơm ủ cao hơn thức ăn tinh.
Kết quả trên phản ánh một thực tế là có sự khác biệt về thành phần hóa học,
đặc biệt là thành phần cabonhydrate trong hai loại thức ăn. Kết quả (Hình 3.4) là do
có ít các phần cabonhydrate dễ lên men nên rơm ủ urê lên men chậm hơn thức ăn
tinh trong 12 giờ đầu ủ in vitro.
88
Hình 3.4. Lượng khí sinh ra (ml) ở các thời điểm rơm ủ urê và thức ăn hỗn
hợp với dịch dạ cỏ trong điều kiện in vitro
3.3.3. Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung đến tăng khối lượng của bò
Thay đổi khối lượng (KL) và tăng khối lượng (TKL) của bò được trình bày
ở bảng 3.23. Mặc dù khối lượng bò lúc bắt đầu thí nghiệm ở ba nghiệm thức là
tương đương: 176 - 178 kg, khối lượng sau 84 ngày thí nghiệm đã có khác biệt rõ
(P <0,05). Khối lượng kết thúc thí nghiệm ở ba nghiệm thức 1; 2 và 3 tương ứng là:
187,8, 201,0 và 218,5 kg.
Kết quả là tăng trọng của bò ở ba nghiệm thức cũng rất khác nhau, tăng
trọng trung bình cả giai đoạn thí nghiệm cho nghiệm thức 1, 2 và 3 tương ứng là:
0,125, 0,271 và 0,504 kg/con/ngày (P<0,05). Mức tăng trọng đương nhiên phụ
thuộc vào lượng thức ăn bổ sung và các yếu tố khác nữa. Sự khác biệt về tăng khối
lượng giữa bò chăn thả và bò chăn thả có bổ sung thức ăn có liên quan đến việc sử
dụng thức ăn bổ sung, chất lượng và số lượng cỏ sẵn có và các ảnh hưởng của khí
hậu thời tiết, các ảnh hưởng này trong điều kiện nhiệt đới và không có thức ăn bổ
sung sẽ rất lớn (Moore và cs, 1999).
Kết quả tăng trọng ở nghiệm thức chăn thả và chăn thả cộng rơm ủ urê là
khá thấp (0,125 và 0,271 kg/con/ngày) và do đó năng lượng thu được từ chăn thả là
khá thấp, đồng thời chỉ bổ sung rơm ủ urê cũng không giải quyết được nhiều. Ở
Việt Nam có rất ít các nghiên cứu về hiệu quả tăng trọng khi chỉ chăn thả không ở
89
bò nên rất khó so sánh. Tuy nhiên, các kết quả ở nhiều nước khác cho thấy kết quả
về tăng trọng của bò chăn thả và bò chăn thả bổ sung rơm ủ urê trong thí nghiệm
này của cũng tương tự với kết quả nghiên cứu ở nhiều nước khác.
Bảng 3.23. Thay đổi khối lượng của bò thí nghiệm
Chỉ tiêu Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
KL.đầu thí nghiệm (kg) 177,3ab ±20,51 178,2ab ±12,21 176,2a± 11,25
KL.sau 28 ngày TN (kg) 178,4bc ± 2,67 181,2ab ±16,31 187,2a ± 16,97
TKL sau 28 ngày TN
(kg/con/ngày)
0,04c ± 0,01 0,120b ± 0,04 0,396a ± 0,08
KL.sau 56 ngày TN (kg) 182,2c ± 22,25 191,6b ± 14,62 201,5a ± 17,93
TKL 29- 56 ngày TN
(kg/con/ngày)
0,14c ± 0,03 0,371b ± 0,08 0,509a ± 0,12
KL.sau 84 ngày TN (kg) 187,8c ± 23,59 201,0b ± 15,51 218,5a ± 15,95
TKL 57-84 ngày TN
(kg/con/ngày)
0,200c ± 0,08 0,340b ± 0,06 0,609a ± 0,10
TKL toàn thí nghiệm
(kg/con/ngày)
0,125c ± 0,12 0,271b ± 0,09 0,504a ± 0,09
Ghi chú: TN: Thí nghiệm; Kl: Khối lượng; TKL: Tăng khối lượng trung bình hàng ngày; Nghiệm
thức 1- Đối chứng: Chăn thả;, Nghiệm thức 2: Chăn thả + rơm ủ urê ăn tự do;, Nghiệm thức 3:
Chăn thả + rơm ủ urê ăn tự do + thức ăn hỗn hợp: 0,5% khối lượng; các giá trị trung bình mang
các chữ cái a, b, c khác nhau trong cùng một hàng sai khác thống kê (P<0,05).
Theo Dahlanuddin và cs. (2013) bò Bali (Indonesia) chỉ chăn thả trên đồng
cỏ tự nhiên tăng trọng 0,03 kg/ngày; còn chăn thả trên đồng cỏ tự nhiên bổ sung lá
cây Sesbania tăng trọng 0,07 kg/ngày). Theo Jones (1994) thì chỉ chăn thả trên
đồng cỏ tự nhiên Australia, bò chỉ tăng trọng từ 0,15 đến 0,23 kg/con/ngày. Bò
Ongol chăn thả trên đồng cỏ mùa khô ở Indonesia tăng trọng 0,14 kg/con/ngày
(Priyanti và cs., 2012).
Tăng khối lượng bò chăn thả phụ thuộc vào giống bò (Loại hình to hay nhỏ)
và chất lượng cỏ (Itavo và cs., 2007). Theo Jones (1994) thì nếu chăn thả trên đồng
cỏ Hyparrhenia rufa và có 10% Leucaena trên đồng cỏ bò có thể tăng trọng 0,35
90
kg/con/ngày tương đương với tăng khối lượng ở nghiệm thức 2 chăn thả cộng bổ
sung rơm ủ urê 4% trong thí nghiệm này. Trong các điều kiện đồng cỏ tốt hơn ở
Brazil, bò Creolo có thể tăng trọng 0,27 kg/ngày (Asizua và cs., 2009)
Kết quả về tăng khối lượng của bò ở nghiệm thức 3 trong thí nghiệm này
(0,504 kg/con/ngày) tương đương với kết quả nghiên cứu trước đây của Bùi Văn
Chính và cs. (1992); Lê Viết Ly và cs. (1995); Vũ Văn Nội và cs. (1999) bò ăn
khẩu phần có phụ phẩm nông nghiệp tăng trọng là 0,51- 0,58 kg/con/ngày. Tương
tự như vậy, Vũ Chí Cương và cs. (2005) thấy bò lai Sind ăn khẩu có phụ phẩm
nông nghiệp tăng trọng: 0,53 - 0,70 kg/con/ngày.
Kết quả tăng trọng ở bò nghiệm thức 3 trong thí nghiệm này thấp hơn kết
quả của Clarke và cs. (1996), tăng trọng ở bò cái lai Sind vỗ béo là 0,60 - 0,66 kg ở
bò cái loại thải. Tăng khối lượng của bò ở nghiệm thức 3 trong thí nghiệm này cũng
thấp hơn kết quả của Zhang Weixian và cs. (1995) tại Trung quốc. Các tác giả này
cho thấy bò Vàng Trung quốc khối lượng bắt đầu thí nghiệm: 160 - 210 kg, 12 - 14
tháng tuổi cho ăn rơm ủ urê cộng với 1,0; 1,5 hoặc 2,0 kg khô dầu hạt bông có tăng
trọng sau 60 ngày thí nghiệm là 0,602, 0,687 và 0,733 kg/ngày.
Kết quả về tăng trọng trong thí nghiệm này không thấp hơn nhiều so với kết
quả của Li Ying và cs. (1993). Trong nghiên cứu này, các tác giả trên cho thấy bò
lai ở Trung quốc cho ăn khẩu phần rơm lúa mì, rơm lúa mì ủ urê, và thân cây ngô ủ
urê cộng với 1,5 kg hạt bông có tăng trọng tương ứng là: 0,35; 0,51; 0,64 và 0,74
kg/ngày.
Sự khác biệt về tăng trọng của bò ở nghiệm thức 3 trong thí nghiệm này so
với các kết quả của các tác giả khác có thể do nhiều nguyên nhân. Trước hết là sự
khác biệt về giá trị dinh dưỡng của khẩu phần, tỷ lệ tinh thô.
Cùng một giống nhưng bò được cho ăn các khẩu phần có giá trị dinh dưỡng
khác nhau thì kết quả tăng trọng cũng khác nhau. Jokhank (2013) khi nuôi bò giống
Fulani trắng với 5 khẩu phần là các phế phụ phẩm chế biến ngũ cốc khác nhau có
hàm lượng protein khác nhau, nhưng năng lượng trao đổi tương tự cho thấy tăng
trọng của bò rất khác nhau dao động từ 0,66 đến 0,40 kg/con/ngày. Scarr (1986)
cũng thấy các kết quả tương tự. Trong một thí nghiệm làm tại Bangladesh trên bò
91
đỏ Chittagong (Red Chittagong), Barua và cs. (2008) cho thấy bò tơ giống này khi
nuôi bằng khẩu phần cơ sở là rơm ủ urê, rỉ mật + cỏ Đức được bổ sung 4 mức thức
ăn tinh khác nhau để tăng hàm lượng năng lượng và protein của khẩu phần đã có
tăng trọng lần lượt là: 0,10; 0,275; 0,333 và 0,291 kg/con/ngày. Theo Banerjee
(1998) khẩu phần có rơm ủ urê cho tăng trọng khoảng 0,3 kg/con/ngày. Còn theo
Dolberg và Finlayson (1995) bổ sung rơm ủ urê bò tăng trọng 0,236 kg/con/ngày.
Trong điều kiện nuôi nông hộ ở Tây nguyên, chăn thả cộng bổ sung thức ăn
thô và cám gạo hoặc cám ngô với một lượng nhỏ, tăng trọng của bò đực lai Sind
giai đoạn 13-18 tháng tuổi cũng chỉ đạt: 0,383 kg/con/ngày (Văn Tiến Dũng, 2002).
Cũng theo tác giả trên, trong điều liện nuôi nhốt thí nghiệm với khẩu phần ăn nhiều
dinh dưỡng hơn bò đực lai Sind trong độ tuổi này có thể đạt tăng trọng 0,610
kg/con/ngày.
Như vậy, kết quả tăng trọng của bò trong thí nghiệm này ở nghiệm thức 1:
(chăn thả), nghiệm thức 2: (Chăn thả + bổ sung rơm ủ urê 4%) và nghiệm thức 3:
(Chăn thả + bổ sung rơm ủ urê 4% + thức ăn tinh) tương đương với rất nhiều
nghiên cứu và là kết quả chấp nhận được.
3.3.4. Tăng khối lượng lý thuyết và khối lượng thực tế tính theo NLTĐ
Kết quả ước tính và so sánh tăng trọng thực tế với tăng trọng ước tính theo
nhu cầu NLTĐ cho tăng trọng ở bò được trình bày ở bảng 3.24.
Kết quả cho thấy, nếu sử dụng các nhu cầu NLTĐ cho duy trì của Kearl năm
(1982), nhu cầu NLTĐ duy trì = 0,5 MJ/kg khối lượng trao đổi và nhu cầu tăng
trọng của Agnew và cs, (2004) và NRC (2001): cứ 1kg khối lượng cơ thể tăng thêm
thì bò cần 25,5 MJ, thì tăng trọng lý thuyết và tăng trọng ước tính là khá gần nhau
và sai khác giữa các cặp giá trị lý thuyết ước tính và giá trị thực là không đáng tin
cậy về mặt thống kê. Như vậy, nếu áp dụng các nhu cầu NLTĐ cho duy trì của
Kearl (1982) và nhu cầu tăng trọng của Agnew và cs. (2004) và NRC (2001) kết
quả ước tính tăng trọng sẽ khá chính xác. Phương trình ước lượng mức tăng trọng
thực tế theo tăng trọng lý thuyết có dạng sau đây:
Tăng trong thực tế (kg/con/ngày) = 0,1001 + 0,9195 x tăng trọng lý thuyết
(kg/con/ngày); R-Sq(adj) = 88.8%, P<0,001.
92
Bảng 3.24. Tăng khối lượng lý thuyết và khối lượng thực tế tính theo NLTĐ
Chỉ tiêu Tăng trọng tính theo NLTĐ (Mean ±SE)
Thực tế Lý thuyết P
TKL
0-28 ngày
Nghiệm thức 1 0,0390±0,001 0,0350±0,004 NS
Nghiệm thức 2 0,1070±0,105 0,0945±0,0928 NS
Nghiệm thức 3 0,3960±0,127 0,349±0,112 NS
TKL 29-
56 ngày
Nghiệm thức 1 0,1357±0,0385 0,1197±0,0340 NS
Nghiệm thức 2 0,3714± 0,0345 0,3277±0,0305 NS
Nghiệm thức 3 0,5085±0,0483 0,4487±0,0427 NS
TKL 57-
84 ngày
Nghiệm thức 1 0,2000±0,0368 0,1765± 0,0324 NS
Nghiệm thức 2 0,3357± 0,0290 0,2962±0,0256 NS
Nghiệm thức 3 0,6094±0,0462 0,5377±0,0408 NS
TKL
cả kỳ
Nghiệm thức 1 0,1250±0,0533 0,1103±0,0470 NS
Nghiệm thức 2 0,2714±0,0418 0,2395±0,0369 NS
Nghiệm thức 3 0,5045±0,0391 0,4451± 0,0345 NS
Trong một nghiên cứu khác trên bò lai, tác giả Văn Tiến Dũng (2002) cũng
có kết quả tương tự. Nghiên cứu cho thấy: khi áp dụng tiêu chuẩn Kearl (1982) chất
khô ăn vào, NLTĐ ăn vào và thậm chí protein ăn vào của bò lai thực tế và lý thuyết
có hồi qui tuyến tính rất chặt với độ chính xác cao như đưới đây:
Đối với VCK (kg/ngày): y1 = 0,6894x + 1,5478 (R2 = 0,899)
Đối với NLTĐ (MJ/ngày): y2 = 0,7058x + 15,303 (R2 = 0,875)
Đối với Prth (g/ngày): y3 = 0,814x + 63,849 (R2 = 0,797).
Trên trâu, Nguyễn Công Định (2012) cũng thấy: khi áp dụng tiêu chuẩn
Kearl (1982) chất khô ăn vào, NLTĐ ăn vào và thậm chí protein ăn vào của trâu
thực tế và lý thuyết có hồi qui tuyến tính rất chặt với độ chính xác cao như đưới
đây:
Đối với VCK (kg/con/ngày): y1 = 1,1264x – 0,4836 (R2 = 0,9764)
93
Đối với NLTĐ (MJ/con/ngày): y2 = 1,2015x – 8,3767 (R2 = 0,8327)
Đối với Protein thô (g/con/ngày): y3 = 1,2773x – 122,03 (R2 = 0,9194)
Như vậy: Tiêu chuẩn của Kearl (1982) cho bò có tầm vóc nhỏ và trung bình
khá tốt khi áp dụng cho bò lai và bò nội Việt Nam.
3.3.5. Ước tính lượng năng lượng trao đổi ăn vào được từ chăn thả
Kết quả ước tính lượng năng lượng trao đổi và chất khô ăn vào thu được từ
chăn thả được trình bày ở bảng 3.25. Ở các tháng 8 và 10 thì bình quân một ngày từ
chăn thả bò ở nghiệm thức 2 và 3 thu nhận được bình quân: 11 - 12 MJ
NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn 0 - 28 ngày, 8 - 13 MJ NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn 28
- 56 ngày và 8 - 10 MJ NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn 57 - 84 ngày thí nghiệm.
Trung bình chung trong toàn bộ thí nghiệm: một ngày từ chăn thả bò có bổ
sung thức ăn thu được 10 - 12 MJ NLTĐ/con/ngày.
Bò ở nghiệm thức 1 (đối chứng không có thức ăn bổ sung) thu được xấp xỉ
25 MJ NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn 0 - 28 ngày, 28 MJ NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn
28 - 56 ngày và 30 MJ NLTĐ/con/ngày ở giai đoạn 57 - 84 ngày thí nghiệm. Trung
bình chung trong toàn bộ thí nghiệm: một ngày từ chăn thả bò ở nghiệm thức 1 thu
được 28 MJ NLTĐ/con/ngày.
Lượng NLTĐ thu được từ chăn thả có xu hướng giảm khi bò được bổ sung
thức ăn (P<0,05). Trong khi ở nghiệm thức 1: chăn thả không bổ sung lượng NLTĐ
thu được từ chăn thả trung bình cả thí nghiệm là 27,62 MJ NLTĐ/con/ngày, thì ở
nghiệm thức 2, số liệu này là 11,54 và ở nghiệm thức 3 là 9,719 MJ
NLTĐ/con/ngày. Lượng NLTĐ thu nhận này là khá thấp nhưng cũng phù hợp vì
đồng cỏ tự nhiên ở đây thực chất chỉ là các bãi chăn tự nhiên không được kiểm soát
trong mùa khô và các bờ bãi ven ruộng lúa, ruộng ngô và các cây trồng khác.
Tương tự như lượng NLTĐ ăn vào từ chăn thả, lượng chất khô ăn vào từ
chăn thả cũng chịu ảnh hưởng của hiệu ứng thay thế thức ăn (P<0,05). Lượng chất
khô ăn vào từ chăn thả cao nhất ở nghiệm thức 1, giảm dần ở nghiệm thức 2 và 3
khi bò được bổ sung thức ăn. Lượng chất khô ăn vào từ chăn thả tính trung bình cả
thí nghiệm cho các nghiệm thức 1, 2 và 3 tương ứng là: 3,3; 1,4 và 1,1 kg
VCK/con/ngày (P<0,05).
94
Bảng 3.25. Lượng năng lượng trao đổi (MJ/con/ngày) và vật chất khô thu
được (Kg VCK/con/ngày)
Chỉ tiêu Giai đoạn
thí nghiệm
Nghiệm
thức 1
Nghiệm
thức 2
Nghiệm
thức 3
Tổng nhu
cầu NLTĐ
ước tính*
Từ 0-28 ngày 25,21a±3,53 26,94b±2,82 33,63a±3,35
Từ 28-56 ngày 27,63a±1,23 33,57b±0,492 37,45a±1,53
Từ 58-84 ngày 29,55a±1,67 33,76b±1,14 41,281a±0,76
Bình quân cả TN 27,62a±1,77 31,65b±1,32 37,67a±1,35
NLTĐ từ
thức ăn bổ
sung
Từ 0-28 ngày - 15,91b±1,02 21,46a±0,915
Từ 28-56 ngày - 20,71b±1,27 29,35a±0,946
Từ 58-84 ngày - 23,70b±1,61 33,04a±0,343
Bình quân cả TN - 20,11b±1,13 27,95a±0,665
NLTĐ từ
chăn thả
Từ 0-28 ngày 25,21a±3,53 11,03b±3,03 12,18b±2,78
Từ 29-56 ngày 27,63a±1,23 12,85b±1,19 8,10c±0,916
Từ 57-84 ngày 29,55a±1,67 10,07b±0,590 8,24c±1,00
Bình quân cả TN 27,62a±1,77 11,54b± 0,951 9,72c±0,720
VCK ăn
vào từ thức
ăn bổ sung
Từ 0-28 ngày - 1,787b±0,114 2,337a±0,103
Từ 29-56 ngày - 2,327b±0,142 3,215a±0,104
Từ 57-84 ngày - 2,663b±0,181 3,6204a±0,036
Bình quân cả TN - 2,259b±0,127 3,0574a±0,073
VCK ăn
vào từ chăn
thả
Từ 0-28 ngày 2,980a±0,418 1,304b±0,358 1,439b±0,329
Từ 29-56 ngày 3,266a±0,145 1,519b±0,141 0,957c±0,108
Từ 57-84 ngày 3,493a±0,197 1,190b±0,0698 0,974c±0,118
Bình quân cả TN 3,265a±0,210 1,364b±0,112 1,149c±0,085
Ghi chú: TN: thí nghiệm; Các giá trị trung bình mang các chữ cái a, b, c khác nhau trong
cùng một hàng sai khác thống kê (P<0,05). (*): Ước tính dựa trên: Khối lượng 0,75 x 0,5
MJ/ngày + Tăng trọng (kg/con/ngày) x 25,5 MJ/kg tăng trọng.
Do có sự khác biệt về hàm lượng năng lượng trong thức ăn, thành phần hóa
học, khả năng tiêu hóa và có thể cả tính ngon miệng nên chất khô ăn vào từ thức ăn
bổ sung và do đó NLTĐ ăn vào từ thức ăn bổ sung cũng có sự khác biệt đáng kể ở
bò trong hai nghiệm thức 2 và 3 (P<0,05).
95
Chất khô ăn vào từ thức ăn bổ sung, NLTĐ ăn vào từ thức ăn bổ sung cho
toàn thí nghiệm của bò ở hai nghiệm thức 2 và 3 tương ứng là: 2,259 kg
VCK/con/ngày - 20,11 MJ NLTĐ/con/ngày và 3,057 kg VCK/con/ngày - 27,949
MJ NLTĐ/con/ngày.
Tóm lại, trong điều kiện chăn thả vào các tháng 8 - 10 tại Điện Biên nếu chỉ
chăn thả không, bò chỉ thu được trung bình 3,3 kg VCK/con/ngày và 27,62 MJ
NLTĐ/con/ngày. Lượng thức ăn và NLTĐ này chỉ đủ cho bò duy trì cơ thể và tăng
trọng rất thấp xấp xỉ 0,125 kg/con/ngày. Kết quả thí nghiệm bổ sung thức ăn cho bò
đang sinh trưởng khối lượng 176 - 178 kg, đã có ảnh hưởng tốt đến tăng trọng của
bò, hiệu quả sử dụng thức ăn và hiệu quả chăn nuôi. Sau 3 tháng thí nghiệm bò
chăn thả, chăn thả + rơm ủ urê và chăn thả + rơm ủ urê ăn tự do + thức ăn tinh
(0,5% khối lượng cơ thể) có TKL tương ứng là: 0,125; 0,271 và 0,504 kg/con/ngày.
HQSDTĂ tương ứng của bò sau 3 tháng thí nghiệm là: 24,76; 15,07 và 8,446 kg
VCK/kg tăng trọng.
3.3.6. Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung đến lượng thức ăn bổ sung ăn vào, tổng
lượng chất khô thức ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn
Kết quả ở bảng 3.26 dưới đây cho thấy: tổng NLTĐ ăn vào có sai khác rõ rệt
giữa các nghiệm thức (P<0,05) nên kết quả về tăng trọng cũng sai khác rõ. Bình
quân cả thí nghiệm, tổng lượng NLTĐ ăn vào cho các nghiệm thức: 1; 2 và 3 tương
ứng: 27,62; 31,65 và 37,67 MJ NLTĐ/con/ngày. Tương tự như NLTĐ ăn vào, tổng
chất khô ăn vào cho cả thí nghiệm cũng có sai khác có ý nghĩa (P<0,05) giữa các
nghiệm thức. Tổng lượng VCK ăn vào cho các nghiệm thức: 1; 2 và 3 tương ứng:
3,265; 3,623 và 4,206 kg VCK/con/ngày hay 1,9; 1,9 và 2,13% khối lượng cơ thể.
Kết quả ở bảng 3.26 cũng cho thấy: tổng NLTĐ ăn vào có sai khác rõ rệt
giữa các nghiệm thức (P<0,05) nên kết quả về tăng trọng cũng sai khác rõ. Bình
quân cả thí nghiệm, tổng lượng NLTĐ ăn vào cho các nghiệm thức: 1; 2 và 3 tương
ứng: 27,62; 31,65 và 37,67 MJ NLTĐ/con/ngày. Tương tự như NLTĐ ăn vào, tổng
chất khô ăn vào cho cả thí nghiệm cũng có sai khác có ý nghĩa (P<0,05) giữa các
nghiệm thức. Tổng lượng VCK ăn vào cho các nghiệm thức: 1; 2 và 3 tương ứng:
3,265; 3,623 và 4,206 kg VCK/con/ngày hay 1,9; 1,9 và 2,13% khối lượng cơ thể.
96
Bảng 3.26. Lượng thức ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn
Chỉ tiêu Giai đoạn Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Tổng vật chất
khô ăn vào.
(kg
VCK/con/ngày)
0-28 ngày 2,980b±0,418 3,091b±0,333 3,776a±0,391
29-56 ngày 3,266c±0,145 3,8468b±0,056 4,172a±0,174
57-84 ngày 3,493c±0,197 3,853b± 0,126 4,5948a±0,091
Cả TN 3,265c±0,210 3,623b± 0,151 4,206a±0,154
HQSDTĂ (kg
VCK/kg tăng
trọng)
0-28 ngày 22,23b±9,00 26,40a±1,53 9,409c±0,980
29-56 ngày 31,09a±6,63 10,713b±0,981 8,398c±0,548
57-84 ngày 20,96a±5,07 11,717b±0,740 7,693c±0,519
Cả TN 24,76a±14,7 15,07b±2,92 8,446c±0,358
Chú thích: TN: Thí nghiệm; HQSDTĂ: Hiệu quả sử dụng thức ăn; Các giá trị trung bình
trong cùng một hàng mang các chữ cái a, b c khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê,
P< 0,05.
Do có khác biệt về tổng lượng NLTĐ và VCK ăn vào và khác biệt về tăng
trọng nên hiệu quả chuyển hóa thức ăn cũng khác biệt giữa các nghiệm thức
(P<0,05). HQSDTĂ cho các nghiệm thức 1; 2 và 3 tương ứng là: 24,76; 15,07 và
8,446 kg VCK thức ăn ăn vào/kg tăng trọng.
Tổng lượng VCK ăn vào cho các nghiệm thức: 1; 2 và 3 tương ứng: 3,265;
3,623 và 4,206 kg VCK/con/ngày hay 1,9; 1,9 và 2,13% khối lượng cơ thể với các
mức tăng trọng tương ứng là: 0,125; 0,271 và 0,502 kg/con/ngày trong thí nghiệm
là có thể hiểu được và tương đương với nhiều nghiên cứu khác.
Theo Kearl (1982) bò thịt khối lượng từ 150 - 200 kg; tăng trọng 0,25 và
0,50 kg/con trên ngày cần: 3,8 và 4,2 kg chất khô/con/ngày hay 2,5; 2,8 % khối
lượng cơ thể. Còn theo Preston và Willis (1967) bò đực khối lượng 200 kg cần ăn
2,8 đến 3 % khối lượng cơ thể.
Chất khô ăn vào thường rất biến động và phụ thuộc vào chất lượng khẩu
phần và thức ăn cho ăn. Nghiên cứu của Barua và cs. (2008) trên bò đỏ Chittagong
cho thấy, với 4 khẩu phần: (1) rơm ủ rỉ mật urê + cỏ German grass (Echinochloa
grousgalli), (2) rơm ủ rỉ mật urê + cỏ German grass + thức ăn tinh 10% chất khô ăn
97
vào có hàm lượng protein thô 15%; (3) rơm ủ rỉ mật urê + cỏ German grass + thức
ăn tinh 10% chất khô ăn vào có hàm lượng protein thô 20% và (4) rơm ủ rỉ mật urê
+ cỏ German grass + thức ăn tinh 10% chất khô ăn vào có hàm lượng protein thô
25%, VCK ăn vào là 2,65; 3,06; 2,62 và 2,86% khối lượng cơ thể.
Jokhank (2013) cũng cho thấy trên bò White Fulani, khi sử dụng các khẩu
phần khác nhau từ các phụ phẩm ngũ cốc khác nhau làm khẩu phần cơ sở, lượng
thức ăn ăn vào rất khác nhau tùy thuộc vào giá trị dinh dưỡng của khẩu phần: VCK
ăn vào biến động từ 7,82 đến 9,14 kg/ngày.
Tóm lại, các kết quả về chất khô ăn vào trong thí nghiệm này là hoàn toàn
có thể giải thích được và cũng nằm trong khoảng chất khô ăn vào của bò có khối
lượng và mức tăng trọng tương đương trong nhiều nghiên cứu khác.
Hiệu quả sử dụng thức ăn trong nghiên cứu này cho các nghiệm thức 1, 2 và
3: 24,76; 15,07 và 8,446 kg VCK thức ăn ăn vào/kg tăng trọng là khá thấp cho
nghiệm thức 1, 2 và chấp nhận được cho nghiệm thức 3.
Tuy nhiên, kết quả này hoàn toàn không phải là một ngoại lệ. Barua và cs.
(2008) trên bò đỏ Chittagong cũng có kết quả tương tự, với khẩu phần: rơm ủ rỉ
mật urê + cỏ German grass (Echinochloa grousgalli) ăn tự do và khẩu phần rơm ủ rỉ
mật urê + cỏ German grass + thức ăn tinh (hàm lượng protein thô 15%) ở mức 10%
chất khô ăn vào cho thấy HQSDTĂ của bò này là 37,40 và 15,62 kgVCK/kg tăng
trọng. Ở các nước nhiệt đới đang phát triển bò có tăng trọng thấp, hiệu quả sử dụng
thức ăn thấp vì nguồn thức ăn chủ yếu cho chúng và các gia súc nhai lại khác chủ
yếu là các phế phụ phẩm nhiều xơ từ ngũ cốc, phụ phẩm công, nông nghiệp khác,
cỏ từ đồng cỏ tự nhiên, đồng cỏ trồng, lá một số loại cây, các loại thức ăn này
thường có tỷ lệ tiêu hóa thấp do hàm lượng cellulose, ligin cao, hàm lượng
cacbonhydrate, ni tơ và protein thoát qua thấp nên giá trị dinh dưỡng thấp (Preston
và Leng, 1987; Sundstol, 1988; Leng, 1984).
Theo ARC (1980); NRC (1984); INRA (1989); Rajan (1990); Perry (1990)
và AFRC (1993) bò thịt trong khoảng khối lượng 150 - 200 kg cần từ 7,1 đến 8,8
kg VCK/kg tăng trọng.
98
Theo Norris và cs. (2002) cho thấy HQSDTĂ phụ thuộc vào tỷ lệ tinh thô ở
bò nuôi nhốt và có thể từ: 7; 9,3 và 11,5 kg VCK/kg tăng trọng khi cho ăn tỷ lệ
thô/tinh tăng từ thấp đến trung bình và cao ở bò lai thịt.
Theo Vũ Chí Cương và cs. (2007) thì HQSDTĂ dao động lớn (6,23 - 15,95)
tùy thuộc vào khẩu phần. Theo Lâm Thái Hùng và cs. (2011) thì HQSDTĂ của bò
lai Sind nuôi bằng khẩu phần có 0 - 20% vỏ đậu phộng là 12,1 - 15,7. Văn Tiến
Dũng (2002) cho biết khi nuôi vỗ béo bò lai Sind đực, 16-19 tháng có HQSDTĂ là:
11,2 kg VCK/kg tăng trọng.
Barua và cs. (2008) trên bò đỏ Chittagong cũng có kết quả tương tự, với
khẩu phần gồm rơm ủ rỉ mật urê + cỏ German grass + thức ăn tinh (hàm lượng
protein thô 20%) ở mức 10% chất khô ăn vào; và khẩu phần với rơm ủ rỉ mật urê +
cỏ German grass + thức ăn tinh (hàm lượng protein thô 25%) ở mức 10% chất khô
ăn vào cho HQSDTĂ tương ứng là 11,04 và 13,14 kg VCK/kg tăng trọng.
Theo Vũ Chí Cương và cs. (2001) khi nuôi vỗ béo bò lai Sind với 3 khẩu
phần: 1- vỗ béo của nông dân; 5 kg cỏ voi/ngày và 1 kg bột ngô, 1 kg cám gạo (10
% protein) và rơm ăn tự do, 2- khẩu phần TMR 1 có 14 % protein, gồm 48,7% rỉ
mật, 25,3% cám gạo, 18,8% hạt bông, 5,1% khô dầu lạc, 1% urê và 0,8%
vitamin/mineral premix (Hanimix B, Hanvet Company, Vietnam); 3- khẩu phần
TMR 2: 48,4% rỉ mật, 25,7% cỏ Pangola khô, 18,7% hạt bông, 5,6% khô dầu lạc,
0,8% urê và 0,8% vitamin/mineral premix, thấy HQSDTĂ tương ứng là: 17,9, 7,3
và 6,4 kg VCK/kg tăng trọng.
Theo Surano và cs. (2011) khi sử dụng khẩu phần hoàn chỉnh với hàm lượng
protein tăng dần để nuôi bò lai Simantal thấy HQSDTĂ giảm dần từ 12,79 đến 8,06
và 7,33; 7,53 rồi tăng lên 9,21 kg VCK/kg tăng trọng khi hàm lượng protein tăng
dần từ 9, 11, 12, 13 và 14%.
Jokhank (2013) trên bò White Fulani, khi sử dụng các khẩu phần khác nhau
từ các phụ phẩm ngũ cốc khác nhau làm khẩu phần cơ sở cho thấy lượng thức ăn ăn
vào và HQSDTĂ rất khác nhau tùy thuộc vào giá trị dinh dưỡng của khẩu phần:
VCK ăn vào từ 7,82 đến 9,14 còn HQSDTĂ từ 13,7 đến 22,4 kg chất khô/kg tăng
99
trọng.
Bổ sung thức ăn cho bò chăn thả rõ ràng đã cải thiện được tăng trọng và làm
cho thức ăn được bò sử dụng có hiệu quả hơn. Theo McLennan và cs. (1985) khi
không có nhiều diện tích đồng cỏ để cải tạo thì lựa chọn hợp lý để nâng cao tăng
trọng và hiệu quả chăn nuôi bò ở các nước nhiệt đới là bổ sung thức ăn. Vấn đề là bổ
sung vào thời điểm nào, loại thức ăn nào, năng lượng hay protein hay cả hai mà thôi.
3.3.7. Ước tính hiệu quả kinh tế
Ước tính hiệu quả được tính toán trên cơ sở: giá mua thức ăn, urê, giá mua
bò, bán bò tại thời điểm bắt đầu và kết thúc thí nghiệm, không tính đến chi phí mua
rơm và công lao động. Các chi phí này được coi như ngang nhau cho cả ba NT.
Bảng 3.27. Ước tính hiệu quả kinh tế
Chỉ tiêu ĐVT NT1 NT2 NT3
Mua bò
Khối lượng Kg/con 177 178 176
Đơn giá 1.000 đ/kg 90 90 90
Thành tiền 1.000 đ/con 15.930 16.020 15.840
Mua urê
Khối lượng Kg/con - 12,3 12,2
Đơn giá 1.000 đ/kg - 10 10
Thành tiền 1.000 đ - 123 122
Mua thức ăn
tinh
Khối lượng Kg/con - - 77
Đơn giá 1.000 đ/kg - - 7,8
Thành tiền 1.000 đ - - 603
Bán bò
Khối lượng Kg/con 188 201 219
Đơn giá 1.000 đ/kg 110 110 110
Thành tiền 1.000 đ/con 20.680 22.110 24.090
Thu nhập 1.000 đ/con 4.750 5.967 7.525
So sánh với NT1 1.000 đ/con 0 1.217 2.775
Kết quả bảng 3.27 cho thấy tùy theo phương thức nuôi, lợi nhuận thu được
100
tại 2 NT thí nghiệm cao hơn NTĐC từ 1.217.000 - 2.775.000 đồng/con/12 tuần
nuôi. Đặc biệt, phương thức nuôi này cho phép sử dụng hiệu quả nguồn phụ phẩm
nông nghiệp sẵn có của hộ và giải quyết hiệu quả vấn đề thiếu thức ăn xanh cho bò
thịt trong giai đoạn mùa đông.
Tại Đắk Lắk, Trương Tấn Khanh (2012) khi sử dụng bột lá họ đậu hoặc thức
ăn hỗn hợp có bột cá và cỏ để vỗ béo bò lai Sind có khối lượng bắt đầu thí nghiệm
lớn hơn bò nuôi trong thí nghiệm này cho thấy: Lợi nhuận tính trên một bò/tháng là
370.912 đến 435.542 đồng/con/tháng, tùy thuộc vào giá của nguồn thức ăn đầu vào.
Như vậy, dù ở thời điểm nào trong quá trình nuôi dưỡng, nhất là giai đoạn
thiếu thức ăn trong vụ đông thì bổ sung thức ăn hợp lý từ nguồn phụ phẩm nông
nghiệp qua sơ chế hợp lý đơn giản đều là phương án mang lại lợi ích về kinh tế cao
hơn cho người chăn nuôi bò thịt so với đối chứng.
Sơ bộ nhận định:
- Rơm ủ urê 4% có giá trị NLTĐ: 8,9 MJ NLTĐ/kg VCK, còn thức ăn tinh
phối hợp từ cám gạo, bột sắn, bột ngô, bột đậu tương có hàm lượng Prth: 15,4%, có
NLTĐ vào khoảng 9,8 MJ NLTĐ/kg VCK.
- Bổ sung thức ăn cho bò đang sinh trưởng khối lượng 176 - 178 kg, đã có
ảnh hưởng tốt đến tăng trọng của bò, hiệu quả sử dụng thức ăn và hiệu quả chăn
nuôi. Sau 3 tháng thí nghiệm bò chăn thả, chăn thả + rơm ủ urê và chăn thả + rơm ủ
urê ăn tự do + thức ăn tinh (5% khối lượng cơ thể) có TKL tương ứng là: 0,125;
0,271 và 0,504 kg/con/ngày. HQSDTĂ tương ứng của bò sau 3 tháng thí nghiệm là:
24,76; 15,07 và 8,446 kg VCK/kg tăng trọng.
- Do chất lượng đồng cỏ kém, vào các tháng 8 - 10 tại Điện Biên nếu chỉ
chăn thả không, bò đang sinh trưởng khối lượng 176 - 178 kg chỉ thu được trung
bình 3,3 kg VCK/con/ngày và 27,62 MJ NLTĐ/con/ngày. Lượng thức ăn và NLTĐ
này chỉ đủ cho bò duy trì cơ thể và tăng trọng rất thấp xấp xỉ 0,125 kg/con/ngày.
- Tiêu chuẩn của Kearl (1982) cho bò có tầm vóc nhỏ và trung bình khá tốt
khi áp dụng cho bò nội Việt Nam.
Nhằm nâng cao hiệu quả của chăn nuôi bò nông hộ tại Tây Bắc, nếu không
có điều kiện về tài chính, ba tháng trước khi bán, bò nên được bổ sung rơm ủ urê
101
4% hoặc bổ sung rơm ủ urê 4% + thức ăn tinh (15% protein thô) 5% theo khối
lượng trong ba tháng.
3.4. SỬ DỤNG BỘT SẮN VÀ BỘT LÁ SẮN VỖ BÉO BÒ
3.4.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm
Giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn, thành phần hóa học và giá trị năng
lượng trao đổi (NLTĐ-tính theo công thức từ thí nghiệm in vitro gas production)
của cỏ xanh tự nhiên, bột sắn và bột lá sắn được trình bày ở bảng 3.28.
Bảng 3.28. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn làm thí nghiệm
Chỉ tiêu Cỏ xanh tự
nhiên
Bột sắn Bột lá
sắn
Vật chất khô (%) 20,61 88,70 92,46
Protein thô (% VCK) 12,11 2,51 25,75
Mỡ thô (% VCK) 1,78 4,81 5,16
Xơ thô (% VCK) 31,13 11,45 23,51
Khoáng tổng số (% VCK) 7,96 6,73 8,95
Năng lượng trao đổi (MJ/kg VCK) 9,02 12,27 9,90
Kết quả ở bảng 3.28 cho thấy hàm lượng protein thô cao nhất là ở bột lá sắn
(25,75% VCK), tiếp đến là cỏ xanh tự nhiên (12,11% VCK) trong khi bột sắn là
thấp nhất (chỉ có 2,51% VCK).
Giá trị NLTĐ của thức ăn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong số đó thành
phần hóa học của thức ăn và tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng có trong thức ăn đó.
Các loại thức ăn sử dụng ở thí nghiệm này có hàm lượng NLTĐ cao nhất là bột sắn
(12,27 MJ/kg VCK), bột lá sắn và cỏ xanh là tương đương nhau (9,90 và 9,02
MJ/kg VCK).
Kết quả về thành phần hóa học và giá trị năng lượng của các loại thức ăn thí
nghiệm cũng tương tự với các kết quả nghiên cứu trước đây ở Việt Nam.
3.4.2. Lượng thức ăn ăn vào
Lượng thức ăn ăn vào của bò thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.29.
102
Bảng 3.29. Lượng vật chất khô, năng lượng trao đổi và protein thô mỗi cá thể
bò thu nhận hàng ngày
Tuần
tuổi Chỉ tiêu
NTĐC
Lô thí nghiệm
NT1 NT2
Mean SE Mean SE Mean SE
0 - 4
VCK (kg) 3,44a ± 0,02 3,94b ± 0,05 3,97b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 31,03a ± 0,16 38,42b ± 0,48 37,67b ± 0,30
Pr. thô (g) 416,6a ± 2,16 391,8b ± 6,44 501,2c ± 4,05
5 - 8
VCK (kg) 3,80a ± 0,04 4,15b ± 0,02 4,22b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 34,26a ± 0,33 40,32b ± 0,18 39,93b ± 0,26
Pr. thô (g) 459,6a ± 4,5 417,2b ± 2,35 531,4c ± 3,40
9 -12
VCK (kg) 3,65a ± 0,04 4,10b ± 0,06 4,26b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 32,92a ± 0,34 39,86b ± 0,56 40,29b ± 0,23
Pr. thô (g) 441,6a ± 4,54 411,0b ± 7,46 536,4c ± 3,12
0 -12
VCK (kg) 3,63a ± 0,02 4,06b ± 0,04 4,15b ± 0,02
NLTĐ (MJ) 32,74a ± 0,15 39,53b ± 0,40 39,30b ± 0,20
Pr. thô (g) 439,3a ± 1,96 406,7b ± 5,33 523,0c ± 2,66
Ghi chú: VCK: vật chất khô; NLTĐ: năng lượng trao đổi; Pr. thô: Protein thô. Các giá trị
trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a, b, c khác nhau thì có sự sai khác có ý
nghĩa thống kê (p<0,05)
Lượng VCK ăn vào hàng ngày của bò các NT thí nghiệm cao hơn so với
NTĐC (trung bình là 4,06 và 4,15 kg/ngày so với 3,63 kg/ngày) trong khi giữa hai
NT thí nghiệm lượng thức ăn ăn vào không có sự sai khác. Sự khác nhau có thể
được giải thích bò ở NTĐC ăn chỉ có cỏ xanh tự nhiên thì hệ số choán đã hạn chế
tổng lượng VCK ăn vào, còn các NT thí nghiệm được bổ sung một lượng thức ăn
tinh có hệ số choán thấp nên tổng số lượng VCK ăn vào được tăng lên.
103
Tương tự như lượng VCK ăn vào, tổng năng lượng trao đổi thu nhận hàng
ngày của bò các NT thí nghiệm cao hơn so với NTĐC (trung bình là 39,53 MJ
NLTĐ/con/ngày và 39,30 MJ NLTĐ/con/ngày so với 32,74 MJ NLTĐ/con/ngày)
trong khi giữa hai NT thí nghiệm tổng năng lượng trao đổi thu nhận không có sự
sai khác. Sự khác nhau về tổng lượng năng lượng trao đổi thu nhận hàng ngày của
bò có thể được giải thích bò ở NT1 được bổ sung thêm 1 kg bột sắn/ngày và NT2
được bổ sung thêm 0,5 kg bột sắn và 0,5 kg bột lá sắn hàng ngày, đồng thời lượng
VCK ăn vào cao hơn so với NTĐC.
Đối với Protein thô lại có xu hướng khác, lượng Protein thô bò ăn vào hàng
ngày ở NT2 là cao nhất (523 g), tiếp theo là NTĐC (439,3 g) và thấp nhất là NT1
(406,7 g). Sự khác nhau giữa các NT có ý nghĩa thống kê. Sự khác nhau giữa các
NT có thể được giải thích NT2 được bổ sung 0,5 kg bột lá sắn/ngày mà hàm lượng
Protein thô trong bột lá sắn là khá cao (25,75%) vì vậy đã làm cho lượng Protein
thô ăn vào của NT này cao hơn các NT khác; trong khi NT1 được bổ sung 1 kg bột
sắn/ngày, hàm lượng Protein thô trong bột sắn là thấp (2,51%) dẫn đến tổng lượng
Protein thô trong khẩu phần thấp hơn các NT khác.
Theo tiêu chuẩn Kearl (1982) thì bò có khối lượng 250 kg, tăng 0,75 - 1
kg/con/ngày cần thu nhận lượng thức ăn 5,3 - 7,4 kg/con/ngày. Vũ Duy Giảng và
cs. (2008) cho rằng lượng chất khô thu nhận biến động từ 2 - 3% khối lượng cơ thể
tuỳ theo chất lượng thức ăn.
Phạm Thế Huệ (2010) sử dụng ngọn lá sắn ủ chua để vỗ béo bò đực lai Sind
20 tháng tuổi, khối lượng khoảng 190 kg cho biết lượng thức ăn ăn vào dao động từ
6,25 - 6,95 kg/con/ngày là khá cao, tuy nhiên bò cũng cho tăng khối lượng cũng
cao. Wanapat và cs. (1997) sử dụng thân cây sắn khô nuôi bò đực Holstein Friesian
thu nhận 11,2 kg chất khô/ngày và đạt 3,2% khối lượng cơ thể.
Nghiên cứu bổ sung bột sắn và bột lá sắn cho trâu, Đào Lan Nhi và cs.
(2003) sử dụng bột sắn và lá sắn chế biến bổ sung vào khẩu phần vỗ béo trâu tơ thì
lượng VCK ăn vào là 5,5 - 6,4 kg/con/ngày. Trịnh Văn Trung và cs. (2005) khi
nuôi trâu tơ ở các mức bổ sung bột sắn và bột lá sắn khác nhau thì lượng VCK ăn
vào là (4,20 - 5,46 kg/con/ngày).
104
Bảng 3.30. Lượng vật chất khô, năng lượng trao đổi và protein thô bò
thu nhận trên 100 kg thể trọng
Tuần
tuổi Chỉ tiêu
NTĐC Lô thí nghiệm
NT1 NT2
Mean SE Mean SE Mean SE
0 - 4
VCK (kg) 2,12a ± 0,03 2,35b ± 0,05 2,31b ± 0,04
NLTĐ (MJ) 19,07a ± 0,25 22,89b ± 0,48 21,95b ± 0,39
Pr. thô (g) 256,2a ± 3,42 233,4b± 5,67 291,9c ± 5,22
5 - 8
VCK (kg) 2,23a ± 0,03 2,31b ± 0,03 2,27b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 20,09a ± 0,29 22,44b ± 0,31 21,49b ± 0,31
Pr. thô (g) 269,5a ± 3,91 232,2b ± 3,41 286,0c ± 4,15
9 - 12
VCK (kg) 2,05a ± 0,02 2,16b ± 0,05 2,17b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 18,52a ± 0,18 21,00b ± 0,47 20,50b ± 0,26
Pr. thô (g) 248,4a ± 2,46 216,5b ± 5,65 272,9c ± 3,47
0 - 12
VCK (kg) 2,13a ± 0,02 2,27b ± 0,04 2,25b ± 0,03
NLTĐ (MJ) 19,23a ± 0,19 22,11b ± 0,42 21,31b ± 0,31
Pr. thô (g) 258,0a ± 2,69 227,4b ± 4,88 283,7c ± 4,11
Ghi chú: VCK: vật chất khô; NLTĐ: năng lượng trao đổi; Pr. thô: Protein thô. Các giá trị
trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a, b, c khác nhau thì có sự sai khác có ý
nghĩa thống kê (p<0,05)
Kết quả bảng 3.30 cho thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về
lượng chất khô ăn vào trên 100 kg thể trọng của bò ăn các khẩu phần khác nhau,
lượng VCK ăn vào tính cả giai đoạn từ 2,13 - 2,27 kg/con/ngày.
Theo Kearl (1982) bò 200 - 300 kg, tăng trọng 0,75 kg/con/ngày cần 5,4 -
7,4 kg chất khô/con/ngày. Như vậy, lượng chất khô ăn vào bò thí nghiệm nằm
trong khoảng tiêu chuẩn khẩu phần. Lượng chất khô ăn vào tính trên 100 kg khối
lượng cơ thể của thí nghiệm biến động từ 2,13 - 2,27 kg thấp hơn so với kết quả
nghiên cứu của Preston và Willis (1967) trên bò tơ (200 kg) lượng chất khô thu
nhận xấp xỉ từ 2,8 - 3 kg tính trên 100 kg khối lượng cơ thể.
105
3.4.3. Tăng khối lượng của bò thí nghiệm
Khối lượng bò bắt đầu thí nghiệm ở 3 NT là đồng đều và tương đương nhau
(trung bình 153 đến 156 kg), nhưng đến khi kết thúc thí nghiệm thì đã có sự khác
nhau trong đó bò ở NT2 bổ sung bột sắn và bột lá sắn đạt cao nhất (trung bình
196,6 kg), tiếp đến là NT 1 chỉ bổ sung bột sắn (trung bình 190 kg) và thấp nhất là
NTĐC chỉ cho ăn cỏ xanh (trung bình 177,8 kg).
Có sự khác nhau về khối lượng khi kết thúc thí nghiệm có thể giải thích
thông qua lượng thức ăn ăn vào ở bảng 3.31. Do lượng thức ăn ăn vào không khác
nhau nên tăng khối lượng của bò giữa hai NT thí nghiệm là không khác nhau (479
g/ngày và 431 g/ngày), tuy nhiên lượng thức ăn ăn vào của các NT thí nghiệm cao
hơn so với NTĐC vì vậy bò ở hai NT thí nghiệm tăng khối lượng cao hơn so với
NTĐC (479 g/ngày và 431 g/ngày so với 281 g/ngày).
Bảng 3.31. Tăng khối lượng bình quân của bò qua các giai đoạn thí nghiệm
Tiêu chí
NTĐC
(Mean SE)
Lô thí nghiệm
NT1
(Mean SE)
NT2
(Mean SE)
Khối lượng bắt đầu TN (kg) 154,2 ± 1,80 153,8 ± 1,88 156,4 ± 2,16
Khối lượng sau 4 tuần (kg) 162,7 ± 1,76 168,0 ± 2,19 171,8 ± 2,18
Khối lượng sau 8 tuần (kg) 170,6 ± 1,81 179,8 ± 2,16 185,9 ± 1,45
Khối lượng sau 12 tuần (kg) 177,8 ± 1,77 190,0 ± 2,19 196,6 ± 1,86
Tăng KL 0 - 4 tuần (g/con/ngày) 304 ± 10,73 507 ± 13,42 550 ± 8,94
Tăng KL 5 - 8 tuần (g/con/ngày) 281 ± 8,50 421 ± 7,16 503 ± 13,86
Tăng KL 9 - 12 tuần (g/con/ngày) 257 ± 7,16 364 ± 7,16 383 ± 7,16
Tăng KL 0 -12 tuần (g/con/ngày) 281 ± 3,13 431 ± 4,47 479 ± 5,81
Tốc độ tăng khối lượng của cả 3 NT đều cao nhất ở 4 tuần đầu (NTĐC, NT1
và NT2 lần lượt là 304 g/ngày, 507 g/ngày và 550 g/ngày) rồi giảm dần theo thời
gian vỗ béo (tăng khối lượng giai đoạn 9 - 12 tuần của NTĐC, NT1 và NT2 lần
lượt là 257 g/ngày, 364 g/ngày và 383 g/ngày). Điều này cũng phù hợp với hiện
106
tượng sinh trưởng bù của bò, bò đưa vào thí nghiệm trước đó được nuôi theo
phương thức quảng canh, chăn thả tự do, nguồn thức ăn không đáp ứng đủ nhu cầu
dinh dưỡng, vì vậy khi được nuôi vỗ béo với mức dinh dưỡng cao, bò sẽ tăng khối
lượng nhanh trong thời gian đầu, sau đó giảm dần và đi vào ổn định.
Qua tốc độ tăng khối lượng của bò có thể thấy bột sắn và bột lá sắn có ảnh
hưởng rõ đến tăng khối lượng của bò thí nghiệm. Nếu chỉ bổ sung bột sắn thì chỉ
cải thiện năng lượng thu nhận được của bò (39,53 MJ/con/ngày so với 32,72
MJ/con/ngày), còn khi bổ sung cả bột sắn và bột lá sắn sẽ cải thiện cả năng lượng
và Protein thô trong khẩu phần (39,53 MJ/con/ngày so với 32,74 MJ/con/ngày và
523,0 g/con/ngày so với 439,3 g/con/ngày).
Đối với bò Vàng thì nghiên cứu vỗ béo còn hạn chế nhưng nhiều tác giả đã
nghiên cứu vỗ béo bò lai hướng thịt bằng các phụ phẩm nông nghiệp. Lê Viết Ly
(1995) khi nghiên cứu vỗ béo bò lai F1 hướng thịt bằng phụ phẩm có hàm lượng rỉ
mật cao (45%), bò tăng trọng từ 0,6 - 0,7 kg/con/ngày. Nguyễn Trọng Tiến (1991)
nuôi bò bằng cây ngô vụ đông và cây ngô già ủ với 2,5% urê, bò cho tăng trọng 0,5
kg/con/ngày. Vũ Văn Nội và cs. (1999) nuôi bò bằng nguồn phụ phẩm nông nghiệp
cho tăng trọng 0,53 - 0,7 kg/con/ngày. Kết quả nghiên cứu của Preston (2001) sử
dụng thân, lá sắn bổ sung rỉ mật và urê để vỗ béo bò thịt đạt tăng trọng 800 g/ngày.
Cao nhất là kết quả nghiên cứu của Vũ Chí Cương và cs. (2007) thì bò được vỗ béo
bằng rơm, lõi ngô cho tăng trọng 0,839 kg/con/ngày. Nguyễn Quốc Đạt và cs.
(2008) vỗ béo bò lai Sind, Brahman và Drought Master cho tăng trọng 952 - 1.552
g/con/ngày. Đỗ Thị Thanh Vân và cs. (2009) sử dụng thân lá lạc ủ chua nuôi vỗ
béo bò lai Sind cho kết quả tăng khối lượng 0,49 - 0,58 kg/con/ngày. Trương La và
cs. (2011) đã tiến hành vỗ béo bò lai Sind bằng phụ phẩm nông nghiệp cho kết quả
tăng trọng 553 g/con/ngày.
Nguyễn Văn Thưởng và cs. (1995) nghiên cứu bổ sung chế độ vỗ béo thu
được kết quả của các cặp lai giữa bò lai Sind với F1 Zebu, F1 Brown Swiss, F1 Santa
Gertrudis đạt tăng khối lượng 400 - 622 g/con/ngày, trong đó bò lai F1 Charolais đạt
tăng khối lượng khá cao 544 - 630 g/con/ngày. Nghiên cứu của Vũ Văn Nội và cs.,
(1995) về nuôi dưỡng một số bê lai F1 bằng cỏ cắt và bánh dinh dưỡng (MUB) cho
107
tăng khối lượng đối với F1 Charolais 556 g/ngày, F1 Simmental 520 g/ngày và F1
Red Sindhi 368 g/ngày. Vũ Chí Cương và cs. (2001) vỗ béo bò lai Sind bằng khẩu
phần rỉ mật cao 45% chất khô của khẩu phần với rơm khô, không cần cỏ xanh cho
tăng khối lượng 650 - 700 g/con/ngày, trong khi nuôi đại trà chỉ đạt tăng khối lượng
300 - 400 g/con/ngày. Nguyễn Văn Hòa và cs. (2005) nghiên cứu vỗ béo bò lai Sind
bằng phụ phẩm nông nghiệp cho tăng khối lượng 600 - 760 g/con/ngày. Các nghiên
cứu về bò lai cho tăng khối lượng cao hơn bò trong nghiên cứu này là bình thường vì
bò trong nghiên cứu này là bò Vàng địa phương còn con lai có ưu thế lai.
Một số tác giả khác nghiên cứu trên một số giống bò khác cũng cho kết quả
tương tự. Rahman và cs. (1990) sử dụng lá keo dậu bổ sung nuôi bò đã cho tăng
khối lượng 341,2 g/con/ngày. Simon Quigley và cs. (2009) nuôi bò bằng bổ sung
keo dậu và keo dậu + ngô đã cho kết quả bò chỉ bổ sung keo dậu cho tăng khối
lượng là 0,336 kg/con/ngày trong khi đó bổ sung keo dậu + ngô thì cho tăng khối
lượng 0,614 kg/con/ngày. Virapol Jamsawat và cs. (2010) thí nghiệm trên bò tơ
Holstein Friesian trong đó 5 con/nghiệm thức được cho ăn: NT1 cỏ para (đối
chứng), NT2 cỏ para + sắn lát, NT3 cỏ para + lá keo dậu, NT4 cỏ para + lá keo dậu
+ sắn lát, kết quả cho thấy NT4 cho tăng khối lượng cao nhất: 0,56 kg/ngày, sau đó
là NT3: 0,54 kg/ngày, NT2: 0,53 kg/ngày và NT1: 0,42 kg/ngày. Agastin và cs.
(2012) nghiên cứu vỗ béo bò đực Creole trong 12 tháng, thí nghiện được chia ra hai
NT, NT1 (bò nuôi nhốt tại chuồng được cung cấp cỏ và thức ăn tinh), NT2 (bò
chăn thả và không được bổ sung gì), kết quả cho thấy bò vỗ béo nuôi nhốt tăng
khối lượng 786 g/con/ngày trong khi đó bò chăn thả chỉ đạt 517 g/con/ngày.
Huyen et al. (2012), Tan et al. (2012) nuôi bò với khẩu phần cơ sở là thức
ăn thô nghèo dinh dưỡng (rơm) bổ sung lá dâu dạng viên bò đã tăng khối lượng
600 g/ngày.
Nghiên cứu trên trâu tơ, một số tác giả cũng có những kết quả tương tự.
Nguyễn Đức Thạc (1983) nuôi nghé 7 đến 12 tháng tuổi cho tăng khối lượng 358 -
483 g/con/ngày. Đào Lan Nhi và cs. (1999) khi cho trâu ăn hỗn hợp bột lá sắn và
bột sắn cho tăng trọng từ 285 đến 600 g/ngày. Mai Văn Sánh (2005) khi nuôi trâu
tơ 18 tháng tuổi với các mức bổ sung lượng rơm ủ urê khác nhau thì tăng trọng từ
108
488 - 544 g/con/ngày. Còn Trịnh Văn Trung và cs. (2005) khi nuôi trâu tơ ở các
mức bổ sung bột sắn và bột lá sắn khác nhau thì tăng trọng trong khoảng 342 - 578
g/con/ngày.
3.4.4. Hiệu quả sử dụng thức ăn
Bổ sung thức ăn đã làm tăng khả năng tăng khối lượng của bò và giảm
lượng thức ăn tiêu tốn trên 1 kg tăng khối lượng. Kết quả thu được bảng 3.32.
Bảng 3.32. Tiêu tốn vật chất khô, năng lượng trao đổi, protein thô cho 1 kg
tăng khối lượng
Chỉ tiêu NTĐC
(Mean SE)
NT thí nghiệm
NT1
(Mean SE)
NT2
(Mean SE)
Tiêu tốn VCK/1kg TT 0 - 4 tuần (kg) 11,37a 0,43 7,79b 0,22 7,23b 017
Tiêu tốn VCK/1kg TT 5 - 8 tuần (kg) 13,53a 0,33 9,86b 0,22 8,42b 0,19
Tiêu tốn VCK/1kg TT 9 - 12 tuần (kg) 14,24a 0,43 11,26b 0,18 11,14b 0,21
Tiêu tốn VCK/1kg TT cả TN (kg) 13,05a 0,11 9,64b 0,12 8,93b 0,10
Tiêu tốn NLTĐ/1kg TT 0 - 4 tuần (MJ) 102,61a3,85 75,95b2,16 68,60b 1,55
Tiêu tốn NLTĐ/1kg TT 5 - 8 tuần (MJ) 122,00a2,94 95,73b2,08 79,61b 1,83
Tiêu tốn NLTĐ/1kg TT 9 - 12 tuần (MJ) 128,40a3,87 109,55b 1,72 105,33b 2,02
Tiêu tốn NLTĐ/1kg TT cả TN (MJ) 117,67a0,97 93,74b 1,16 84,51b 0,96
Tiêu tốn Protein thô/1kg TT 0 - 4 tuần (kg) 1,377a 0,05 0,775b 0,02 0,913b 0,02
Tiêu tốn Protein thô/1kg TT 5 - 8 tuần (kg) 1,636a0,04 0,991b0,02 1,059b 0,02
Tiêu tốn Protein thô/1kg TT 9-12 tuần (kg) 1,722a0,05 1,129b 0,02 1,402b 0,03
Tiêu tốn Protein thô/1kg TT cả TN (kg) 1,57a0,013 0,965b 0,01 1,125b 0,01
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái a, b, c khác nhau
thì có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Trong cả quá trình vỗ béo thì tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng thấp
nhất ở giai đoạn 0 - 4 tuần và tăng dần theo các giai đoạn sau. Hiệu quả sử dụng
thức ăn không có sự khác nhau giữa các NT thí nghiệm nhưng khác nhau rõ rệt
giữa các NT thí nghiệm và NTĐC.
Hiệu quả sử dụng VCK của bò ở NT2 (bổ sung cả bột sắn và bột lá sắn) là
109
cao nhất, tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 8,93 kg VCK và thấp nhất là NTĐC (chỉ
cho ăn cỏ xanh tự nhiên) tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 13,05 kg VCK (không có sự
khác nhau giữa hai NT thí nghiệm).
Hiệu quả sử dụng NLTĐ của bò ở NT2 (bổ sung cả bột sắn và bột lá sắn) là
cao nhất, tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 84,51 MJ và thấp nhất là NTĐC (chỉ cho ăn
cỏ xanh tự nhiên) tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 117,67 MJ (không có sự khác nhau
giữa hai NT thí nghiệm).
Hiệu quả sử dụng Protein thô của bò ở NT1 (bổ sung bột sắn) là cao nhất,
tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 0,965 kg Pr.thô và thấp nhất là NTĐC (chỉ cho ăn cỏ
xanh tự nhiên) tăng 1 kg khối lượng tiêu tốn 1,57 kg Pr.thô (không có sự khác nhau
giữa hai NT thí nghiệm).
Qua bảng 3.32 cho thấy tiêu tốn VCK/kg tăng khối lượng của bò ở hai NT
thí nghiệm là từ 8,93 - 9,64 kg tương đối phù hợp với tiêu chuẩn của ARC (1980);
NRC (1984); INRA (1989); Rajan (1990); Perry (1990) và AFRC (1993).
Kết quả nghiên cứu trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả
khác đã công bố trước đây. Phạm Kim Cương và cs. (2001) cho biết tiêu tốn thức
ăn của bò biến động trong khoảng 6,3 - 7,9 kg chất khô/kg tăng khối lượng. Vũ Chí
Cương và cs. (2005) nuôi vỗ béo bê đực HF 12 tháng tuôi cho tiêu tốn thức ăn từ
8,54 - 8,68 kg/kg tăng khối lượng. Phạm Thế Huệ (2010) sử dụng ngọn lá sắn ủ
chua để vỗ béo bò đực lai Sind 20 tháng tuổi, khối lượng khoảng 190 kg cho biết
tiêu tốn thức ăn của bò nuôi vỗ béo dao động từ 11,35 kg đến 9,48 kg chất khô/kg
tăng khối lượng.
Nghiên cứu vỗ béo trêu tơ, một số tác giả cũng có kết quả tương tự. Đào Lan
Nhi và cs. (2003) khi nghiên cứu bổ sung bột sắn và lá sắn chế biến trong khẩu
phần vỗ béo trâu tơ thì tiêu tốn trong khoảng 10,6 - 19,2 kg VCK/1 kg tăng trọng.
Trịnh Văn Trung và cs. (2005) nghiên cứu trên trâu tơ tiêu tốn 9,44 - 12,3 kg chất
khô/kg tăng khối lượng. Mai Văn Sánh (2005) khi nuôi vỗ béo trâu tơ với các khẩu
phần ăn bổ sung lượng rơm ủ urê khác nhau thì tiêu tốn trong khoảng 8,43 - 9,59
kg VCK/1 kg tăng trọng.
110
3.4.5. Mức dinh dưỡng thu nhận thực tế so với tiêu chuẩn Kearl (1982)
Muốn nâng cao năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi, điều quan trọng là
phải cung cấp cho gia súc đủ các chất dinh dưỡng. Hiện nay, chúng ta chưa có hệ
thống thống nhất nào để áp dụng tính toán nhu cầu dinh dưỡng cho bò.
Trong thực tế, chúng ta vẫn thường dựa vào các khuyến cáo từ các nước,
như ARC của Anh (1980); NRC của Mỹ (1984); INRA của Pháp (1989); AFCR
của Anh (1993) và Kearl của Mỹ (1982). Trong nghiên cứu này, chúng tôi dựa trên
tiêu chuẩn của Kearl (1982). Tiêu chuẩn Kearl (1982) là tiêu chuẩn ăn được xây
dựng để áp dụng cho gia súc nhai lại vùng nhiệt đới. Việc tính toán mức dinh
dưỡng thu nhận thực tế đối chiếu với tiêu chuẩn của Kearl (1982) là cơ sở để xây
dựng khẩu phần ăn sát với thực tế hơn.
Kết quả tính toán mức dinh dưỡng thu nhận thực tế so với tiêu chuẩn của
Kearl (1982) được trình bày ở bảng 3.33.
Bảng 3.33. Mức dinh dưỡng thu nhận thực tế so với tiêu chuẩn Kearl (1982)
Chỉ tiêu Đơn
vị
Nghiệm thức
NTĐC NT1 NT2
Giai
đoạn 0
- 4 tuần
Tăng khối lượng thực tế kg 0,304 0,507 0,550
Nhu cầu NLTĐ theo Kearl MJ 30,54 36,26 37,75
NLTĐ thực tế thu nhận MJ 31,03 38,42 37,78
Chênh lệch thực tế - tiêu chuẩn MJ 0,49 2,16 0,03
Giai
đoạn 5
- 8 tuần
Tăng khối lượng thực tế kg 0,281 0,421 0,503
Nhu cầu NLTĐ theo Kearl MJ 30,78 35,30 37,99
NLTĐ thực tế thu nhận MJ 34,26 40,32 39,93
Chênh lệch thực tế - tiêu chuẩn MJ 3,48 5,02 1,94
Giai
đoạn 9
- 12
tuần
Tăng khối lượng thực tế kg 0,257 0,364 0,383
Nhu cầu NLTĐ theo Kearl MJ 30,90 34,88 36,01
NLTĐ thực tế thu nhận MJ 32,93 39,86 40,29
Chênh lệch thực tế - tiêu chuẩn MJ 2,02 4,98 4,28
Trung
bình cả
thí
nghiệm
Tăng khối lượng thực tế kg 0,281 0,431 0,479
Nhu cầu NLTĐ theo Kearl MJ 30,74 35,48 37,25
NLTĐ thực tế thu nhận MJ 32,74 39,53 39,30
Chênh lệch thực tế - tiêu chuẩn MJ 2,00 4,06 2,08
111
Kết quả tại bảng 3.33 cho thấy: Lượng NLTĐ thu nhận trung bình của bò
ở cả 3 NT cao hơn so với mức tiêu chuẩn của Kearl. Khoảng chênh lệch cao hơn
của 3 NT lần lượt là 2; 4,06 và 2,08 MJ.
Hình 3.5. Sự chênh lệch năng lượng trao đổi giữa thực tế so với tiêu chuẩn
Kearl (1982)
3.4.6. Ước tính hiệu quả kinh tế
Kết quả bảng 3.34 dưới đây được tính toán trên cơ sở: giá mua thức ăn (cỏ
xanh, bột sắn, bột lá sắn), giá mua bò, bán bò tại thời điểm bắt đầu và kết thúc thí
nghiệm và không tính đến chi phí công lao động. Các chi phí này được coi như
ngang nhau cho cả ba lô thí nghiệm.
Kết quả này cho thấy tùy theo phương thức nuôi, lợi nhuận thu được tại 2
NT thí nghiệm cao hơn NTĐC từ 918.000 - 1.241.000 đồng/con/12 tuần nuôi.
Tại Đắk Lắk, Trương Tấn Khanh (2012) sử dụng bột lá họ đậu hoặc thức ăn
hỗn hợp có bột cá và cỏ để vỗ béo bò lai Sind có khối lượng bắt đầu thí nghiệm lớn
hơn bò nuôi trong thí nghiệm này cho thấy: Lợi nhuận tính trên một bò/tháng là
370.912 đến 435.542 đồng/con/tháng, tùy thuộc vào giá của nguồn thức ăn đầu vào.
112
Bảng 3.34. Ước tính hiệu quả kinh tế để vỗ béo 1 con bò
Chỉ tiêu ĐVT NTĐC NT1 NT2
Mua bò
Khối lượng kg 154,2 153,8 156,4
Đơn giá 1.000 đ 90 90 90
Thành tiền 1.000 đ 13.878 13.842 14.076
Mua cỏ xanh
Khối lượng kg 1.090,9 1.042,2 1.065,2
Đơn giá 1.000 đ 1,2 1,2 1,2
Thành tiền 1.000 đ 1.309 1.250 1.278
Mua bột sắn
Khối lượng kg - 84,0 42,0
Đơn giá 1.000 đ - 4 4
Thành tiền 1.000 đ - 336 168
Mua bột lá
sắn
Khối lượng kg - - 42,0
Đơn giá 1.000 đ - - 5
Thành tiền 1.000 đ - - 210
Bán bò
Khối lượng kg 177,8 190,0 196,6
Đơn giá 1.000 đ 95 95 95
Thành tiền 1.000 đ 16.891 18.05 18.677
Thu nhập 1.000 đ 1.704 2.622 2.945
So sánh với NTĐC 1.000 đ 0 918 1.241
Như vậy, khoảng ba tháng trước khi bán, việc bổ sung bột sắn 1 kg/ngày
hoặc bổ sung bột sắn 0,5 kg/ngày + bột lá sắn 0,5 kg/ngày vào khẩu phần ăn vỗ béo
bò cho hiệu quả cao hơn so với đối chứng.
3.5. LIÊN KẾT NHÓM CHĂN NUÔI BÒ THỊT VỚI CÁC TÁC NHÂN THỊ
TRƯỜNG KẾT HỢP HỆ THỐNG NHẬN DIỆN SẢN PHẨM
3.5.1. Hiện trạng chung của 2 nhóm hộ trước thí nghiệm
Tổng số 60 hộ được lựa chọn tham gia thí nghiệm, mỗi nhóm là 30 hộ theo
113
tiêu chí số bò nuôi/hộ từ 2 con trở lên và có bán bò trong 3 năm.
Bảng 3.35. Hiện trạng của 2 nhóm hộ tham gia thí nghiệm
TT Tiêu chí ĐVT Nhóm I Nhóm II
1 Số hộ tham gia Hộ 30 30
2 Tổng số bò (2013) Con 106 101
3 Quy mô nuôi trung bình Con/hộ 3,53 3,37
4 Số bò bán (2011 - 2013) Con 32 33
5 Số bò bán TB/hộ/năm Con 0,36 0,37
Trung bình quy mô nuôi bò thực tế của cả 2 nhóm hộ tham gia thí nghiệm là
3,53 và 3,37 con/hộ, số bò bán trung bình/hộ/năm của nhóm I là 0,36 con và của
nhóm II là 0,37 con. Với thời gian trung bình 3 năm mới bán 1 con bò nên người
chăn nuôi bò thịt ít quan tâm tới thị trường đầu ra cho sản phẩm. Vì vậy, muốn thu
hút được các tác nhân thị trường thì cần phải liên kết những người chăn nuôi lại với
nhau để tạo ra nguồn hàng đủ lớn và số lượng ổn định và liên kết họ với các tác nhân
thị trường. Những lý do cần phải liên kết là:
- Số lượng bò bán/lần ít, tần suất bán không thường xuyên.
- Chưa xây dựng được mối liên kết với người mua (thu gom, lò mổ).
- Chia sẻ các thông tin thị trường (giá, lượng, chất lượng) còn hạn chế.
- Phải bán bò cho các thu gom xã nên giá thấp hơn so với giá của các lò mổ Sơn
La, giá mua bò của các thu gom xã dao động từ 15 - 16 triệu đồng/con, trong
khi đó giá mua trung bình của các lò mổ từ 15,5 - 17 triệu đồng/con.
- Xác định khối lượng bò bán thường được ước lượng bằng mắt nên gây thua
thiệt cho người nông dân.
Việc xây dựng mối liên kết giữa sản xuất và thị trường kết hợp sử dụng hệ
thống nhận diện riêng cho sản phẩm để tạo lòng tin và nâng cao uy tín của sản
phẩm với người tiêu dùng nhằm tăng giá bán và hiệu quả cho các hộ chăn nuôi bò.
3.5.2. Kết quả xây dựng mối liên kết cho người chăn nuôi bò
Xây dựng các hoạt động chung cho nhóm
Trong thời gian thí nghiệm, mối liên kết giữa các hộ tham gia nhóm II đã có
114
nhiều thay đổi như liên kết để cùng nhau thực hiện các hoạt động chung. So với các
hộ trong nhóm I, các tiêu chí về xác định thời gian, địa điểm bán bò có sự khác
nhau rõ ràng.
Bảng 3.36. Sự khác nhau về các hoạt động giữa hai nhóm
TT Chỉ tiêu Nhóm I Nhóm II
1 Xác định thời điểm
bán
Riêng lẻ theo từng hộ,
mọi thời điểm trong năm
Thống nhất chung cả
nhóm, bán vào cuối năm
2 Xác định địa điểm bán Tại nhà Tại 1 điểm tập trung
3 Xác định khối lượng Quan sát, ước lượng bằng
mắt thường
Dựa trên một số chiều đo
(VN2 x DTC)
4 Xác định giá bán Tự thỏa thuận Chung cả nhóm
5 Chia sẻ thông tin thị
trường
Không Có chia sẻ thông tin trong
nhóm
6 Người mua bò Thu gom xã Thu gom lớn/lò mổ
Hiệu quả của liên kết
Mối liên kết giữa các hộ chăn nuôi, các hoạt động trong nhóm II đã làm
giảm chi phí trung gian cho việc thu mua, tạo điều kiện để người thu gom đưa ra
mức giá thu mua cao hơn cho người nông dân.
Bảng 3.37. Hiệu quả bán bò từ mô hình liên kết sản xuất
TT Tiêu chí ĐVT Nhóm I
(n=30)
Nhóm II
(n=30)
1 Có chia sẻ thông tin thị trường
trong nhóm
% 0 86,67
2 Số bò bán thời gian thử nghiệm Con 36 42
3 Giá bán bò bình quân 1.000 đ/con 15.700 16.200
4 Doang thu từ bán bò Triệu đồng 560,2 680,4
So sánh với nhóm I 1.000 đ 0 500
Lợi ích của cả nhóm 1.000 đ 0 21.000
115
Trước đây tất cả các hộ của hai nhóm đều bán bò cho các thu gom xã. Sau
khi liên kết giữa các hộ chăn nuôi thì các hộ trong nhóm II cùng nhau bán nên số
lượng bò bán/lần lớn hơn và đã xây dựng được liên kết bán trực tiếp cho thu gom
lớn/lò mổ Sơn La. Số lượng, giá bán trung bình và doanh thu từ bán bò giữa 2
nhóm có sự chênh lệch rõ rệt. Nhóm hộ I bán 36 con bò với giá bán trung bình là
15,7 triệu đồng/con và doanh thu là 560,2 triệu đồng. Nhóm hộ II bán ra 42 con bò,
giá bán trung bình là 16,2 triệu đồng/con và doanh thu đạt được 680,4 triệu đồng.
Giá bán trung bình 1 con bò của nhóm hộ II cao hơn 3,18% so với nhóm hộ I,
tương đương 500.000 đồng/1 bò thịt bán.
Kết quả trên phù hợp với nghiên cứu của Trịnh Văn Tuấn và Hoàng Xuân
Trường (2012) trong nghiên cứu đa dạng các mô hình chăn nuôi bò thịt theo vùng
sinh thái và dân tộc khác nhau đã xác định việc liên kết nông dân nhỏ tham gia
chuỗi giá trị bò thịt đã góp phần tăng giá bán và giá trị gia tăng thêm 5.000 đ/kg thịt
bò xô, tương đương 500.000 - 600.000 đồng/1 con bò sống tùy theo khối lượng.
Đinh Xuân Tùng và cs. (2015) đã chỉ ra sau khi có những tác động cải thiện
mối liên kết ngang và liên kết dọc giúp thu nhập của người chăn nuôi tăng thêm
36% (tính chung cho 3 mô hình triển khai tại Thanh Hóa, Bình Định và Đắk Lắk),
tương đương mức tăng là 417,5 ngàn đồng/1 bò thịt.
3.5.3. Kết quả của sử dụng hệ thống nhận diện sản phẩm trên thị trường
Thiết kế hệ thống nhận diện sản phẩm
Những năm gần đây đã có khoảng 10 - 15% khối lượng thịt bò Sơn La được
tiêu thụ tại thị trường Hà Nội nhưng sản phẩm của nông dân hiện nay vẫn mang đặc
điểm sau đây: (i) Chất lượng không đồng đều về mẫu mã, (ii) Không bảo đảm vệ
sinh an toàn thực phẩm, (iii) Không bảo đảm chất lượng sản phẩm và (iv) Không
thương hiệu (không nhãn mác riêng, đóng gói...) nên khả năng cạnh tranh kém.
Do đó, để giúp người tiêu dùng phân biệt và nhận biết đúng nguồn gốc xuất
xứ của sản phẩm so với các sản phẩm thịt bò khác, hệ thống nhận diện gồm LOGO
và NHÃN MÁC sản phẩm đã được thiết kế và đưa vào áp dụng. Để nâng cao sự
hiểu biết cho người tiêu dùng trên thị trường thì các công cụ quảng bá cho sản
116
phẩm như: biển quảng cáo tấm lớn, poster, tờ rơi... đã được đưa vào sử dụng. Hệ
thống này cung cấp đầy đủ thông tin sản phẩm thịt bò Sơn La trên thị trường.
Logo nhận diện
thịt bò Sơn La
Poster giới thiệu
thịt bò Sơn La
Nhãn mác giới thiệu
thịt bò Sơn La
Hình 3.6. Hệ thống nhận diện và quảng bá sản phẩm thịt bò Sơn La
Đây là công cụ góp phần nâng cao uy tín, tạo lòng tin và nâng cao khả năng
cạnh tranh và giá bán tại các thị trường tiềm năng.
Bảng 3.38. Hiệu quả sử dụng nhãn mác đến giá bán thịt bò
TT Chỉ tiêu ĐVT Không
nhãn mác
Sử dụng
nhãn mác
1 Giá bán của lò mổ Sơn La 1000 đ/kg 230 230
2
Chi phí vận chuyển lò mổ -> bán
lẻ
1000 đ/kg 9.5 9.5
3 Chi phí đóng gói, dán nhãn 1000 đ/kg 0 3
4 Chi phí bảo quản 1000 đ/kg 0.5 0.5
5 Tổng chi phí 1000 đ/kg 240 243
6 Giá bán của người bán lẻ 1000 đ/kg 255 290
7 Lợi ích người bán lẻ/1kg 1000 đ/kg 15 47
8 Tăng so với nhóm I/1kg thịt bò 1000 đ/kg 0 32
9 Tăng trung bình/1 bò thịt 1000 đ/con 0 2,240
Sản phẩm thịt bò của cả 2 nhóm sau khi được các lò mổ Sơn La thu mua,
giết mổ, bảo quản và tiến hành bán thử nghiệm tại thị trường Hà Nội. Thịt bò bán
thử nghiệm có sử dụng hệ thống nhận diện sản phẩm chỉ bán tại 4 cửa hàng cao
cấp, trong khi đó thịt bò không sử dụng hệ thống nhận diện này thì bán tại các chợ
117
dân sinh và thì trường bình dân.
Kết quả bán thử nghiệm cho thấy, chi phí cho đóng gói và gắn nhãn mác của
nhóm thử nghiệm tăng thêm 3000 đồng/1kg, trong khi đó giá bán thì có sự khác
biệt nhau rõ rệt giữa nhóm không sử dụng nhãn mác và nhóm sử dụng nhãn mác
lần lượt là 255.000 đồng/kg và 290.000 đồng/kg tương đương với lợi nhuận thu
được/1kg của người bán lẻ 15.000 đồng và 47.000 đồng.
Các cửa hàng bán lẻ cao cấp Hà Nội bán sản phẩm thịt bò Sơn La đã sử
dụng hệ thống nhận diện cho sản phẩm, có đóng gói, gắn nhãn mác riêng nên tạo
lòng tin cho người tiêu dùng và uy tín cho sản phẩm, qua đó góp phần tăng giá bán.
Giá bán lẻ thịt bò Sơn La tại Hà Nội có sử dụng hệ thống nhận diện tăng lên
13,72% cho 1 kg thịt bò từ lò mổ đến người tiêu dùng tương đương 32.000 đồng.
3.5.4. Tỷ lệ phân bổ giá trị gia tăng theo kênh phân phối
Hai kênh hàng trung bình và kênh hàng dài đã được theo dõi và tính toán
phân phối giá trị gia tăng toàn kênh, kết quả thu được tại bảng 3.39.
Bảng 3.39. Tỷ lệ giá trị gia tăng tạo ra theo kênh phân phối
Diễn giải ĐVT
Người
chăn
nuôi bò
Thu
gom xã
Thu
gom/Lò
mổ lớn
Tác
nhân
bán lẻ
Kênh phân phối tại thị trường Sơn La
Tổng chi phí 1000 đ 515.996 584.200 633.172 698.100
Tổng doanh thu 1000 đ 565.200 605.200 665.100 753.550
Tổng giá trị gia tăng 1000 đ 49.204 21.000 31.928 55.450
Trung bình thu nhập/con 1000 đ/con 1.366,8 583,0 886,9 1.540,3
Tỷ lệ phân phối thu nhập % 31,23 13,32 20,26 35,19
Kênh phân phối đến thị trường Hà Nội
Tổng chi phí 1000 đ 610.994 - 695.100 790.340
Tổng doanh thu 1000 đ 689.400 - 745.710 874.120
Tổng thu nhập 1000 đ 78.406 - 50.610 83.780
Trung bình thu nhập/con 1000 đ/con 1.866,8 - 1.205 2.240
Tỷ lệ phân phối thu nhập % 35,15 - 22,68 42,17
Tăng với từng tác nhân % 3,92 - 2,42 6,98
118
So sánh hiệu quả giữa 2 kênh phân phối sản phẩm cho 2 thị trường Sơn La
và Hà Nội (kênh có tham gia liên kết và sử dụng hệ thống nhận diện sản phẩm), kết
quả thu được như bảng 3.39 cho thấy việc xây dựng các mối liên kết và đưa vào sử
dụng hệ thống nhận diện sản phẩm trên thị trường không chỉ giúp tăng hiệu quả cho
người chăn nuôi mà còn góp phần tạo thêm giá trị gia tăng cho các nhóm tác nhân
tham gia khác. Cụ thể, khi tham gia mô hình liên kết nhóm với các tác nhân thị
trường đã làm tăng giá trị cho người chăn nuôi là 500 ngàn đồng/1 bò bán. Tác
nhân thu gom cũng tăng thu nhập là 318,1 ngàn đồng/1 bò, trong khi đó nhóm tác
nhân bán lẻ khi sử dụng hệ thống nhận diện thì tăng thu nhập là 2.240 ngàn đồng/1
bò bán. Tuy nhiên, giá trị gia tăng trung bình của 1 người bán lẻ cũng chỉ đạt được
là 320 ngàn đồng/1 bò thịt (trung bình 1 cửa hàng bán lẻ được 10kg thịt bò/ngày).
Như vậy, việc tham gia nhóm liên kết, mua bán dịch vụ đầu vào thông qua
các hoạt động chung của nhóm và bán bò chung và trực tiếp cho thu gom và lò mổ
cấp huyện/tỉnh (cấp 2) đã làm thay đổi phân bổ lợi ích giữa các tác nhân trong toàn
chuỗi. Bò được bán chủ yếu là trực tiếp cho thu gom cấp 2 thông qua hợp đồng
giúp cho thu nhập hỗn hợp và lợi nhuận của 2 tác nhân này đều tăng. Nhờ các giải
pháp kỹ thuật như chế biến, dự trữ thức ăn, quy trình vỗ béo nên chất lượng và tỷ lệ
thịt bò đều tăng, tăng lợi ích cho cả các tác nhân: lò mổ, bán buôn và bán lẻ thịt bò.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả cho các tác nhân trực tiếp tham gia, kênh
phân phối sản phẩm đến thị trường Hà Nội còn góp phần nâng cao khả năng đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng. Đó là người tiêu dùng được sử dụng
sản phẩm thịt bò Sơn La có đóng gói, gắn nhãn mác, đầy đủ thông tin về nguồn gốc
xuất xứ, chất lượng rõ ràng.
Sơ bộ nhận định
Thiết lập mối liên kết giữa người chăn nuôi với nhau và giữa những người
chăn nuôi với những tác nhân giết mổ, bán lẻ kết hợp với đưa vào sử dụng hệ thống
nhận diện, quảng bá sản phẩm tại thị trường Hà Nội đã góp phần giảm chi phí
thương mại trung gian, tăng giá bán và tăng thu nhập cho tất cả các tác nhân trong
đó người chăn nuôi được hưởng lợi cao hơn. Đây là cơ hội để mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm thịt bò cho vùng Tây Bắc nói chung và thịt bò Sơn La nói riêng.
119
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. KẾT LUẬN
- Chăn nuôi bò thịt nông hộ ở Điện Biên, Sơn La phổ biến sử dụng Bò Vàng
có tầm vóc bé, sinh trưởng chậm, được nuôi với quy mô nhỏ, thức ăn chủ yếu dựa
vào tự nhiên và thiếu trầm trọng trong các tháng mùa đông, mối liên kết giữa sản
xuất với thị trường chưa xây dựng. Đây là những trở ngại chính ảnh hưởng đến
năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Tuy nhiên, vẫn có một số lượng nhỏ những bò
đực khối lượng lớn trong các hộ nuôi bò; nguồn phụ phẩm nông nghiệp dồi dào về
số lượng, đa dạng về chủng loại; có đủ điều kiện xây dựng các mối liên kết giữa
các tác nhân trong chuỗi giá trị là những tiềm năng để nâng cao năng suất và hiệu
quả chăn nuôi bò thịt vùng Tây Bắc.
- Tuyển chọn bò đực giống khối lượng lớn và đàn bò cái địa phương đã nâng
cao được khối lượng đàn con sinh ra lúc sơ sinh, 6, 12 và 24 tháng tuổi. Khối lượng
bò bố và bò mẹ có tương quan thuận và ảnh hưởng rõ đến khối lượng đàn con sinh
ra. Khả năng tăng khối lượng trung bình của đàn con từ 0 đến 24 tháng tuổi ở các
nghiệm thức có bò bố và bò mẹ được tuyển chọn cao hơn từ 8,48 đến 9,37% so với
đàn con ở nghiệm thức có bò bố và bò mẹ đại trà.
- Sử dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp rơm ủ urê phối hợp với thức ăn tinh
đã nâng cao khả năng tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng thức ăn của bò sinh
trưởng. Tăng khối lượng hàng ngày của bò thí nghiệm là 504 g so với 125 g của bò
đối chứng. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của bò thí nghiệm là và 8,45
kg VCK so với bò đối chứng là 24,76 kg VCK.
- Sử dụng bột sắn và bột lá sắn vỗ béo bò đã làm tăng khối lượng và hiệu quả
sử dụng thức ăn của bò. Bò được ăn khẩu phần có bổ sung bột sắn và bột lá sắn đã
tăng khối lượng trung bình 479 g/con/ngày, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng
là 8,93 kg VCK, trong khi bò không được bổ sung tăng khối lượng trung bình là 281
g/con/ngày và tiêu tốn thức ăn là 13,05 kg VCK cho 1 kg tăng khối lượng.
- Thiết lập các mối liên kết giữa người chăn nuôi với nhau và giữa những
người chăn nuôi với những tác nhân giết mổ, bán lẻ kết hợp với đưa vào sử dụng hệ
thống nhận diện, quảng bá sản phẩm tại thị trường Hà Nội đã làm giảm chi phí
120
trung gian, tăng giá bán và tăng giá trị gia tăng cho các nhóm tác nhân trong chuỗi
giá trị, trong đó người chăn nuôi là nhóm tác nhân nhận được tỷ lệ giá trị gia tăng
cao hơn, giá trị gia tăng là 500.000 đồng/bò bán.
Kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp kỹ thuật về giống, dinh dưỡng và giải
pháp thị trường đã khắc phục trở ngại, phát huy được tiềm năng sẵn có của địa
phương, nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt trong nông hộ hướng tới
hình thành hệ thống sản xuất bò thịt hàng hóa vùng Tây Bắc.
2. ĐỀ NGHỊ
- Thường xuyên tuyển chọn bò đực và bò cái tốt để làm giống, sử dụng một cách
hiệu quả nguồn phụ phẩm nông nghiệp để nâng cao năng suất và hiệu quả trong
chăn nuôi bò thịt vùng Tây Bắc.
- Để phát triển chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc cần thiết bộ giải pháp tổng hợp kết hợp
giữa các giải pháp kỹ thuật và giải pháp thị trường thì hiệu quả trong chăn nuôi bò
thịt nông hộ vùng Tây Bắc mới được cải thiện.
- Tiếp tục nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và thị trường khác với quy mô lớn hơn
nhằm tìm ra giải pháp thích hợp nhất nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò
thịt nông hộ.
121
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trinh Van Tuan, Nguyen Thi Phuong, Hoang Xuan Truong, Dang Thi Hai
and Luong Anh Dung. February, 2014. Factors influencing the production
scale of fattening cattle of households in Sonla province. Trang: 65 - 73.
Journal of Animal Science and Technology. Vol .46.
2. Trinh Van Tuan, Hoang Xuan Truong, Dang Thi Hai and Nguyen Thi
Phuong. February, 2014. Current production and solutions for SonLa’s beef
development. Trang: 74 - 89. Journal of Animal Science and Technology.
Vol .46.
3. Trịnh Văn Tuấn, Phạm Kim Cương, Vũ Chí Cương, Stephen Ives, Aduli
Malau - Aduli, Nguyễn Duy Linh và Nguyễn Thị Thanh Hoài. Tháng 4,
2015. Ảnh hưởng của bổ sung rơm ủ urê hoặc rơm ủ urê cộng với thức ăn
tinh đến tăng khối lượng, hiệu quả sử dụng thức ăn của bò đang sinh trưởng
chăn thả tại Điện Biên. Trang 57 - 76. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn
nuôi. Năm thứ 10. Số 53.
122
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
Đào Thế Anh và Paule Moustier. 2009. Liên kết nông dân nghèo với siêu thị và các
kênh phân phối chất lượng cao. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Nguyễn Xuân Bả, Đinh Văn Dũng, Nguyễn Hữu Văn, Lê Đình Phùng, Lê Đức
Ngoan và Vũ Chí Cương. 2010. Ảnh hưởng của lượng thức ăn tinh đến năng
suất và chất lượng thịt của bò Vàng Việt Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ
Chăn nuôi. Số 27. Tr. 37-44.
Đinh Văn Cải, Nguyễn Ngọc Tấn, Vương Ngọc Long. 2001. Khả năng sinh trưởng
của bò lai giữa tinh bò đực Charolais, Abondance, Tarentaise với bò lai Sind.
Báo cáo khoa học Chăn nuôi - Thú y 1999-2000, TP Hồ Chí Minh 10-12
tháng 4 năm 2001. Tr. 229-235.
Đinh Văn Cải, Hoàng Văn Trường và Đoàn Trọng Tuấn. 2006. Kết quả nuôi thích
nghi và nhân thuần giống bò thịt Brahman trắng nhập từ Cu Ba nuôi tại Bình
Định. Tạp chí Khoa học Kĩ thuật Chăn nuôi. Số 10. Tr. 7-10.
Đinh Văn Cải. 2006. Kết quả nghiên cứu nhân thuần giống bò thịt Drought Master
nhập nội nuôi tại một số tỉnh phía Nam. Tạp chí Chăn nuôi. Số 1. Tr. 9 - 13.
Đinh Văn Cải. 2007. Nuôi bò thịt, Kĩ thuật - Kinh nghiệm - Hiệu quả. Nhà xuất bản
Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Đinh Văn Cải và Phạm Văn Quyến. 2007. Hiệu quả vỗ béo của các nhóm bò lai F1
giống thịt. Tạp chí Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, số 5 - 2007. Tr. 9 - 12.
Lê Xuân Cương và cs. 2001. Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu xác định giống bò
lai hướng thịt và quy trình công nghệ nuôi bò thịt chất lượng cao ở vùng Lâm
Hà, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh.
Phạm Kim Cương, Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành
Trung. 2001. Nghiên cứu sử dụng rơm lúa trong khẩu phần bò thịt. Báo cáo
khoa học. Đề tài KHCN 08-05. Tr. 174-187.
Phạm Kim Cương. 2008. Nghiên cứu sử dụng rơm lúa và nguồn thức ăn bổ sung
sẵn có ở địa phương để nuôi bò lấy thịt. Luận văn Tiến sỹ. Viện Chăn nuôi.
Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Greame Mc Crabb, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành
123
Trung, Đinh Văn Tuyền, Đoàn Thị Khang. 1999. Nghiên cứu nâng cao năng
suất, chất lượng giống bò hướng sữa, hướng thịt trong điều kiện nhiệt đới
nóng ẩm của Việt Nam giai đoạn 1996-2000. Viện Chăn nuôi Quốc gia. Báo
cáo đề tài khoa học giai đoạn 1996-2000.
Vũ Chí Cương, Vũ Văn Nội, Graeme Mc Crabb, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành
Trung, Đinh Văn Tuyền, Đoàn Thị Khang. 2001. Nghiên cứu sử dụng rỉ mật
trong nuôi dưỡng bò thịt. Báo cáo Khoa học Chăn nuôi - Thú y, phần thức ăn
và dinh dưỡng, TP. HCM ngày 10 - 12/4/2001, trang: 13 - 20.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành Trung, Phạm Hùng Cường,
Nguyễn Thiện Trường Giang, Lưu Thị Thi. 2005. Ảnh hưởng các mức lõi ngô
trong khẩu phần có hàm lượng rỉ mật cao đến tỷ lệ phân giải chất khô inssaco
bông gòng, môi trường dạ cỏ và tăng trọng bò lai Sind vỗ béo. Tạp chí Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, số 18 năm 2005 (Kỳ 2 tháng 9/2005). Số xuất
bản ISSN 0866-7020. Tr 43-46.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương và Phạm Hùng Cương. 2005. Sử dụng nguồn
thức ăn sẵn có để vỗ béo bò đực HF không dùng làm giống tại Sơn La. Tóm
tắt Báo cáo khoa học. Viện Chăn nuôi. Tr. 131.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Phạm Thế Huệ và Phạm Mạnh Hùng. 2007.
Ảnh hưởng của các nguồn xơ khác nhau trong khẩu phần vỗ béo đến tăng
trọng, hiệu quả sử dụng thức ăn của bò lai Sind tại Đắk Lắk. Viện Chăn nuôi.
Tạp chí Khoa học Công nghệ chăn nuôi. Số 4-2007.
Vũ Chí Cương. 2007. Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ
nhằm phát triển chăn nuôi bò thịt và xác định một số bệnh nguy hiểm đối với
bò để xây dựng biện pháp phòng dịch bệnh ở Tây Nguyên. Viện Chăn nuôi.
Báo cáo tổng kết khoa học kỹ thuật.
Vũ Chí Cương, Phạm Hùng Cường, Nguyễn Thành Trung và Phạm Thế Huệ. 2008.
Ảnh hưởng của tỷ lệ protein thực/nitơ phi protein trong khẩu phần đến tăng
trọng và hiệu quả kinh tế vỗ béo bò lai Brahman tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa
học kỹ thuật Chăn nuôi. Số 13. Tr. 20-26.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành Trung và Phạm Thế Huệ.
124
2008. Ảnh hưởng của việc thay thế các mức protein thoát qua (by-pass
protein) trong khẩu phần đến khả năng tăng trọng và hiệu quả kinh tế của
bò lai Brahman vỗ béo tại Đắk Lắk. Viện Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Chăn nuôi. Số 8-2008.
Đinh Văn Dũng, Nguyễn Xuân Bả, Nguyễn Hữu Văn, Lê Đình Phùng, Lê Đức
Ngoan và Vũ Chí Cương. 2009. Ảnh hưởng của mức protein thô trong thức ăn
tinh đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong giai đoạn nuôi vỗ béo
bò Vàng. Viện Chăn nuôi. Báo cáo khoa học.
Văn Tiến Dũng. 2002. Khả năng sinh trưởng, sản xuất thịt của bê lai Sind và các
con lai ½ Drought Master, ½ Red Angus, ½ Limousine nuôi tại huyện Eaka,
tỉnh Đăk lăk. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp. Viện chăn nuôi. Bộ nông nghiệp
và phát triển nông thôn, 2012
Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Văn Diện. 1995. Một số kết quả lai kinh tế bò thịt tại
huyện Củ Chi và huyện Bảo Lộc, Lâm Đồng. Báo cáo khoa học Chăn nuôi
Thú y. Tháng 9 - 1995. Tr. 14 - 19.
Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thanh Bình, Đinh Văn Tuyền. 2008. Khả năng tăng
trọng và cho thịt của bò lai Sind, Brahman và Drought Master nuôi vỗ béo tại
TP. Hồ Chí Minh. Viện Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi.
Số 15. Tr. 32-39.
Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thanh Bình và Đinh Văn Tuyền. 2008. Khả năng tăng
trọng và cho thịt của bò lai Sind. Brahman. Droughtmaster nuôi vỗ béo tại TP.
Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn nuôi. Số 15. Tr. 1-8.
Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thanh Bình, Đinh Văn Tuyền. 2013. Khả năng tăng
trọng và cho thịt của bò lai sind, Brahman và Droughtmaste thuần nuôi vỗ béo
tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu nổi bật trong lĩnh vực Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn những năm đầu thế kỷ 21. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn. Tr. 400 – 411.
Nguyễn Công Định. 2012. Ảnh hưởng của khối lượng bố, mẹ và nuôi thâm canh
đến khối lượng, sinh trưởng và sản xuất thịt của trâu. Luận án Tiến Sỹ Nông
nghiệp. Viện Chăn nuôi.
125
FAO. 2014. Số liệu thống kê Nông nghiệp, Lâm nghiệp và thủy sản.
Vũ Duy Giảng, Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Trạch, Vũ Chí
Cương, Nguyễn Hữu Văn. 2008. Dinh dưỡng và thức ăn cho bò. NXB Nông
nghiệp. Tr.71.
HAGL. 2014. Chiến lược đầu tư phát triển nông nghiệp của tập đoàn Hoàng Anh
Gia Lai. http://www.hagl.com.vn/AgriBusiness/AboutUs/6
Nguyễn Văn Hiền. 2013. Nghiên cứu ảnh hưởng của công tác chọn lọc giống đến
sinh trưởng của đàn bò H’Mông tại huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang. Luận văn
thạc sỹ đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Trần Văn Hiếu. 2005. Liên kết kinh tế giữa các hộ nông dân với các doanh nghiệp
nhà nước. Luận án tiến sỹ kinh tế. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Hòa, Đoàn Trọng Tuấn, Vũ Chí Cương. 2005. “Nghiên cứu vỗ béo bò
lai Sind bằng thức ăn là phế phụ phẩm của ngành Nông nghiệp ở huyện Nam
Đàn, tỉnh nghệ An”. Tóm tắt báo cáo Khoa học năm 2004.
Phạm Thế Huệ, Đinh Văn Chỉnh, Đặng Vũ Bình. 2009. Khả năng tăng trọng và cho
thịt của bò lai Sind, F1 (Brahman x lai Sind), F1 (Charolais x lai Sind) nuôi vỗ
béo tại Đắk Lắk. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Tạp chí Khoa học và
Phát triển. Số 3. Tr. 291-298.
Phạm Thế Huệ. 2010. Khả năng sinh trưởng, sản xuất thịt của bò lai Sind, F1
(Brahman × lai Sind) và F1 (Charolais × lai Sind) nuôi tại Đăk Lăk. Luận án
Tiến Sỹ Nông nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Lâm Thái Hùng, Lý Thị Thu Lan, Võ Văn Sơn và Nguyễn Thị Hồng Nhân. 2011.
Ảnh hưởng của vỏ đậu phộng khô lên tăng trọng của bò lai Sind nuôi vỗ béo.
Tạp chí Khoa học và Kĩ thuật Chăn nuôi. Số 11. Tr 47-51
Nguyễn Tuấn Hùng và Đặng Vũ Bình. 2003. Sử dụng thân áo lá ngô sau thu hoạch
làm thức ăn vỗ béo bò lai Sind trong mùa khô hạn. Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội.
http://www.hua.edu.vn:85/cnts/index.php?option=com_content&task=view&i
d=268&Itemid=218
Trương Tấn Khanh. 2012. Ảnh hưởng của bổ sung các nguồn protein khác nhau
126
trong thức ăn hỗn hợp của khẩu phần đến tăng khối lượng và hiệu quả kinh tế
nuôi bò vỗ béo tại Ea Kar, Đắk Lắk. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, 4. 2012. Tr. 515 - 522.
Trương La và Đậu Thế Năm. 2002. Nghiên cứu sử dụng rỉ mật và hạt bong làm
thức ăn vỗ béo bò tại Đắk Lắk. Kết quả nghiên cứu khoa học 2001 - 2002,
Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên. Tr. 310 - 316.
Trương La, Vũ Văn Nội, Trịnh Xuân Cư và Vũ Chí Cương. 2008. Tiềm năng
nguồn phụ phẩm nông công nghiệp làm thức ăn cho bò tại huyện Ea Kar, tỉnh
Đắk Lawsk. Tạp chí Khoa học công nghệ chăn nuôi – Viện Chăn nuôi, số 11,
tháng 4 – 2008. Tr. 34 – 39.
Trương La, Vũ Văn Nội, Trịnh Xuân Cư và Vũ Chí Cương. 2008. Đánh giá khả
năng phân giải chất khô của các khẩu phần sử dụng phụ phẩm nông công
nghiệp làm thức ăn vỗ béo bò. Tạp chí Khoa học công nghệ chăn nuôi – Viện
Chăn nuôi, số 12, tháng 6 – 2008. Tr. 26 – 33.
Trương La. 2010. Sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp để nuôi vỗ béo bò tại
huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk. Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp. Viện Chăn nuôi.
Trương La và cs. 2011. Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm phát
triển nuôi bò cho đồng bào dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết đề
tài. Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên.
Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt.
1995. Nuôi bê lai hướng thịt bằng thức ăn bổ sung từ nguồn phụ phẩm nông
nghiệp tại miền Trung. Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi 1994
- 1995. NXB Nông nghiệp Hà Nội. Tr. 135-140.
Lê Viết Ly. 1995. Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu bước đầu ở Việt Nam.
NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội. 1995. Kết quả nghiên cứu bò lai hướng thịt ở Việt Nam.
Viện chăn nuôi, NXB Nông nghiệp 2002. Tr. 54 - 62.
Lê Viết Ly. 2000. Dự án chăn nuôi bò thịt có lãi cao do ACIAR của Australia tài
trợ, mã số AS2/1997/18
Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Kim Đường và Nguyễn Hữu Văn. 2006. Ảnh hưởng
127
của bột sắn và khẩu phần ăn đến tiêu hoá thức ăn và hiệu quả chăn nuôi ở bò
lai Sind. Báo cáo khoa học. Viện Chăn nuôi.
Đinh Văn Mười. 2012. Nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hóa, giá trị dinh dưỡng và
xây dựng phương trình chẩn đoán các giá trị này của một số loại thức ăn dùng
cho gia súc nhai lại. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp. Viện chăn nuôi. Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn.
Lê Quang Nghiệp. 1984. Một số đặc điểm chung về sinh trưởng, cày kéo, cho
thịt của bò Vàng Thanh Hóa và kết quả lai với bò Zebu. Luận án Phó Tiến
sỹ Nông nghiệp.
Lê Đức Ngoan và Đặng Thanh Giang. 2008. Hiện trạng chăn nuôi bò thịt thâm
canh trong nông hộ với quy mô nhỏ ở Quảng Ngãi. Tạp chí KH & CN Chăn
nuôi. Số 14, tháng 10/2008. Tr 15.
Đào Lan Nhi, Mai Văn Sánh, Tiến Hồng Phúc và Trịnh Văn Trung. 1999. Nghiên
cứu ảnh hưởng của khẩu phần đến tỷ lệ tiêu hóa, cân bằng nitơ trên trâu 18 -
24 tháng tuổi và khả năng vỗ béo chúng từ nguồn thức ăn sẵn có. Tuyển tập
báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1998-1999. Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Hà Nội 1999. Tr. 40-53.
Đào Lan Nhi, Mai Văn Sánh, Tiến Hồng Phúc và Trịnh Văn Trung. 2003. Nghiên cứu
bổ sung bột sắn và lá sắn chế biến trong khẩu phần cơ sở là cây ngô hoặc cỏ tự
nhiên với rơm để vỗ béo trâu tơ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Đào Lan Nhi. 2012. Đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn gen. dự án GEF SGP
Trung tâm đa dạng và an toàn sinh học.
Nguyễn Văn Niêm. 1996. “Dự thảo quy trình nuôi dưỡng bê F1 (Charolais × lai
Sind) từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi”. Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu
bước Đầu ở Việt Nam. NXB nông nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Văn Niêm, Đỗ Hữu Hoan, Lưu Công Khánh, Đỗ Xuân Cốn. 1999. Một số
đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất và phát triển chăn nuôi của giống bò
vùng cao Hà Giang tại các tỉnh vùng núi phía Bắc. Báo cáo khoa học Viện
chăn nuôi 1999.
Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt. 1994. Nuôi bò lai
128
hướng thịt với thức ăn bổ sung là nguồn phụ phẩm nông nghiệp tại miền Trung.
Nuôi bò thịt và những kết quả bước đầu ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp Hà nội.
Vũ Văn Nội. 1994. Nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của đàn bò lai Sind, bò lai
kinh tế hướng thịt trên nền bò lai Sind ở một số tỉnh miền Trung. Luận án Phó
Tiến sỹ Khoa học Nông nghiệp. Viện Chăn nuôi. Hà Nội.
Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt. 1995. Kết quả lai
kinh tế bò thịt tại các tỉnh phía Nam, Nuôi bò thịt. NXB Nông nghiệp. Tr. 62-70.
Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt. 1995. Nuôi bò
lai hướng thịt với thức ăn bổ sung là nguồn phụ phẩm nông nghiệp tại miền
Trung. Nuôi bò thịt. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tr. 71-77.
Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền. 1999. Sử dụng phế phụ phẩm
và nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học chăn
nuôi thú y. Huế (20-30/6/1999). Tr. 25-29.
Vũ Văn Nội, Nguyễn Văn Vinh, Phạm Kim Cương, Đinh Văn Tuyền. 2001.
Nghiên cứu nâng cao năng suất, chất lượng giống bò hướng sữa, hướng thịt
trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm của Việt Nam giai đoạn 1996-2000. Viện
Chăn nuôi. Báo cáo đề tài khoa học giai đoạn 1996-2000.
Hoàng Văn Phúc. 2012. Đánh giá hiện trạng và sử dụng trâu đực giống khối lượng
lớn cải tạo tầm vóc đàn trâu địa phương tại tỉnh Thanh Hóa. Luận văn Thạc sĩ
khoa học nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Hoàng Mạnh Quân, Lê Đình Phùng và Nguyễn Xuân Bả. 2009. Hiện trạng và các giải
pháp phát triển chăn nuôi bò thịt ở các nông hộ đã được chuyển giao TBKT tại
Quảng Trạch, Quảng Bình. Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, Số 52, 2009.
Phạm Văn Quyến. 2001. Khảo sát khả năng sinh trưởng, phát triển của một số
nhóm bò lai hướng thịt tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm chăn nuôi Sông
Bé. Luận văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.
Phạm Văn Quyến, Nguyễn Văn Bôn, Nguyễn Thị Liên. 2002. Khảo sát khả năng
sinh trưởng, phát triển của một số nhóm bò lai hướng thịt tại Trung tâm
Nghiên cứu
Mai Văn Sánh. 2005. Ảnh hưởng của chọn lọc đàn trâu cái và sử dụng trâu đực có
129
khối lượng lớn làm giống đến khối lượng sơ sinh và sinh trưởng của nghé.
Mai Văn Sánh, Nguyễn Công Định và Trịnh Văn Trung (2008). “Sử dụng trâu đực
giống ngoại hình to nhằm cải tạo tầm vóc và khả năng sinh trưởng của đàn
trâu địa phương tại xã Ngọc Sơn-Thanh Chương-Nghệ An”, Tạp chí Khoa
học Công nghệ Chăn nuôi, Số 15, trang: 24- 31.
SNV. 2008. “Ngành cói Việt Nam - Hợp tác để tăng trưởng”. Hội thảo ngày
04/12/2008 tại Ninh Bình.
Tổng cục thống kê Việt Nam. 2008. Số liệu thống kê Nông nghiệp, Lâm nghiệp và
Thủy sản.
Tổng cục thống kê Việt Nam. 2014. Số liệu thống kê Nông nghiệp, Lâm nghiệp và
Thủy sản.
Thống kê Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2013. Số liệu thống kê Nông
nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản.
Thống kê Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2014. Số liệu thống kê Nông
nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản.
Nguyễn Đức Thạc. 1983. Một số đặc điểm về sinh trưởng, cho thịt sữa của loại
hình trâu to miền Bắc và khả năng cải tạo nó với trâu Murrah. Luận án PTS
khoa học NN.
Nguyễn Văn Thiện. 1995. Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôi. Nhà
xuất bản Nông nghiệp. Tr. 7 - 204.
Nguyễn Thị Thoa. 2011. Nghiên cứu một số biện pháp khoa học và công nghệ để
phục hồi và phát triển đàn bò của đồng bào Mông tỉnh Bắc kạn. Báo cáo tổng
hợp đề tài khoa học công nghệ 2008 - 2011.
Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn. 2005. Sử dụng bã sắn ủ chua với cám
đỗ xanh để nuôi vỗ béo bò. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật.
http://www.hua.edu.vn:85/cnts/index.php?option=com_content&task=view&i
d=268&Itemid=218
Ngô Thị Thủy. 2004. Liên kết kinh tế thông qua hợp đồng giữa người sản xuất mía
nguyên liệu và công ty mía đường Hòa Bình. Luận văn thạc sỹ. Trường Đại
130
học Nông nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Văn Thưởng, Trần Doãn Hối, Vũ Văn Nội. 1985. Kết quả nghiên cứu
dùng bò đực Zebu giống Red Sindhi lai cải tạo đàn bò Vàng Việt Nam.
Tuyển tập công trình nghiên cứu chăn nuôi 1969-1984. Nxb Nông nghiệp
Hà Nội. Tr. 79-93.
Nguyễn Văn Thưởng. 1995. Kĩ thuật nuôi bò sữa, bò thịt ở gia đình. Nhà XB Nông
nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Văn Thưởng, Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Văn
Niêm, Hồ Khắc Oánh, Phạm Kim Cương, Phú Văn Bộ. 1995. Những kết quả
nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm tăng năng suất thịt của đàn bò nước
ta. Nuôi bò thịt và những kết quả bước đầu ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông
nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Đàm Thuyên. 2012. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và khả năng
sản xuất thịt của bò H’Mông nuôi tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Luận
văn Thạc sĩ khoa học nông nghiệp. Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Nguyễn Trọng Tiến. 1991. Giáo trình Chăn nuôi trâu bò. Trường Đại học Nông
nghiệp I Hà Nội.
Nguyễn Xuân Trạch. 2004. Giáo trình chăn nuôi trâu, bò (Giáo trình cao học Chăn
nuôi). NXB Nông nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm. 2004. Nuôi vỗ béo bò lai Sind bằng rơm có
bổ sung cỏ xanh, urê, bã bia và cho uống dầu lạc. Tạp chí chăn nuôi
số12/2004.
Nguyễn Xuân Trạch và Trần Văn Nhạc. 2008. Ảnh hưởng của độ tuổi và mức thức
ăn tinh đến tăng trọng và hiệu quả kinh tế nuôi vỗ béo bò địa phương tại
huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Tạp chí
Khoa học và Phát triển. Số 4. Tr. 343 - 347.
Bảo Trung. 2009. Phát triển thể chế giao dịch nông sản ở Việt Nam. Luận án tiến
sỹ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh.
Trịnh Văn Trung, Mai Văn Sánh và Nguyễn Công Định. 2005. Ảnh hưởng của bổ
sung bột lá sắn trong khẩu phần ăn tới khả năng sinh trưởng và phát triển của
131
trâu tơ. Tóm tắt báo cáo khoa học. Viện Chăn nuôi. Tr. 119 - 121.
Hoàng Xuân Trường. 2010. Một số giải pháp phát triển chăn nuôi bò H’Mông tại
vùng cao huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng. Luận văn thạc sỹ Khoa học nông
nghiệp đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Hoàng Xuân Trường, Vũ Văn Đoàn và Lê Trường Giang. 2012. Nghiên cứu phát
triển thị trường cho chuỗi bò thịt Đắk Nông. Dự án IFAD.
Hoàng Văn Trường. 2001. Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản của
bò lai Brahman nuôi tại tỉnh Bình Định. Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y.
TP Hồ Chí Minh 4/2001. Tr. 220 - 228.
Đào Thế Tuấn. 1989. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa và thị trường.
Trịnh Văn Tuấn, Hoàng Xuân Trường. 2012. Nghiên cứu đa dạng hóa mô hình
chăn nuôi bò thịt theo các vùng sinh thái khác nhau và tiếp cận thị trường tại
Cao Bằng và Hà Giang. Đề tài cấp Bộ NN và PTNT - nguồn vốn ADB theo
chương trình Nông nghiệp hướng tới khách hàng.
Trịnh Văn Tuấn, Phạm Thị Hạnh Thơ, Hoàng Xuân Trường, Đặng Thị Hải, Nguyễn
Thị Phương. 2013. Báo cáo đánh giá nhanh chuỗi giá trị bò thịt Tây Bắc, dự án
Aciar, LPS/2008/049. Khắc phục cản trở về kỹ thuật và thị trường để nâng cao
thu nhập cho người chăn nuôi bò tại vùng núi Tây Bắc của Việt Nam.
Đinh Xuân Tùng, Nguyễn Đăng Thanh, Đỗ Văn Đức, Nguyễn Vương Quốc, Mạc
Thị Quý, Trần Phùng Thanh Thủy và Nguyễn Thị Loan. 2008. Hiệu quả kinh
tế kỹ thuật trong chăn nuôi bò thịt ở 4 vùng sinh thái phía Bắc Việt Nam. Tạp
chí KHCNCN. Số 11, tháng 4/2008. Tr 68.
Đinh Xuân Tùng, Phạm Kim Cương, Lê Thị Thanh Huyền, Lê Tiến Dũng, Nguyễn
Đăng Thanh, Đỗ Văn Đức, Hàn Anh Tuấn, Đinh Khánh Thùy. 2015. Nghiên
cứu các giải pháp để phát triển chăn nuôi bò thịt theo hướng sản xuất hàng
hóa. Báo cáo tổng hợp Kết quả Khoa học và Công nghệ đề tài. Viện chăn nuôi
Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Nam, Phạm Hùng Cường và Nguyễn Thiện
Trường Giang. 2008. So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi nuôi vỗ béo
132
giữa bò thuần Brahman và bò lai Sind nuôi tại Tuyên Quang. Viện Chăn nuôi.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Chăn nuôi. Số 14 tháng 10.
Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Thanh Bình.
2008. Một số chỉ tiêu sinh sản của bò Brahman và Drought Master ngoại
nhập 3 lứa đầu nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và khả năng sinh trưởng của
bò sinh ra từ chúng. Viện Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học Công nghệ chăn
nuôi. Số 15. Tr. 16-23.
Đinh Văn Tuyền, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Tấn Vui. 2009. Sinh trưởng của bò lai ½
Red Angus x lai Sind và bò lai Sind nuôi tập trung và bán chăn thả tại Đắk
Lắk. Viện Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi. Số 22.
Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Tiến Vởn, Nguyễn Xuân Bả và Tạ Nhân Ái. 2009.
Khả năng sinh trưởng từ sơ sinh đến trưởng thành của đàn bò địa phương và
Laisind hiện nuôi ở tỉnh Quảng Trị. Tạp chí KHCN&CN. Số 21, tháng
12/2009. Tr 14.
Đỗ Thị Thanh Vân, Lê Văn Hùng và Vũ Chí Cương. 2008. Nghiên cứu sử dụng
thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần ăn của bò vỗ béo tại tỉnh Quảng Trị. Viện
Chăn nuôi. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Chăn nuôi.
http://www.vcn.vnn.vn
Đỗ Thị Thanh Vân, Nguyễn Thành Trung, Vũ Chí Cương, Lê Văn Hùng và Phạm
Bảo Duy. 2009. Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua trong khẩu
phần nuôi vỗ béo bò thịt tại Quảng Trị. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn
nuôi. Số 18. Tr. 1-6.
Đỗ Thị Thanh Vân. 2014. Nghiên cứu xây dựng khẩu phần vỗ béo thích hợp cho bò
F1 ½ Droughtmaster. Báo cáo tổng kết khoa học công nghệ 2014. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Hồ Cao Việt. 2012. Chiến lược nâng cấp chuỗi giá trị bò thịt vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ.
http://iasvn.org/homepage/Chien-luoc-nang-cap-chuoi-gia-tri-bo-thit-vung-Duyen-
hai-Nam-Trung-Bo-1598.html
Đoàn Đức Vũ. 2015. Hoàn thiện quy trình nuôi bê đực hướng sữa lấy thịt. Dự án
133
sản xuất thử nghiệm. Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2015.
Tài liệu tiếng Anh
AFRC. 1993. Energy and Protein Requirements for Ruminants, University Press,
Cambridge, UK.
Agnew, R.E, Park, R.S, Mayne, C.S. and Laidlaw, A.S. 2004. Potential of near
infrared pectroscopy to predict the voluntary intake of grazed grass, Animal
Feed Science and Technology 115: 169 - 178.
Agasti M. K, Choudhuri G. and Dhar N. L. 1984. “Genetic studyon some of the
physical traits of the Jersey × Hariana and Holstein × Hariana cross-bred
cows”, Indian - Veterinary - Journal. 61. 8.
Agastin, A.M. Naves, A. Farant, X. Godard, B. Bocage, G. Alexandre and M.
Boval. 2012. Effects of feeding system and slaughter age on the growth and
carcass characteristics of tropical-breed steers. J ANIM SCI August 2013 vol.
91 no. 8 3997 - 4006
ARC. 1980. The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl.1.
Commonwealth Agicultural Bureau, Slough.
Asizua D, Mpairwe D, Kabi F, Mutetikka D, Madsen J. 2009. Growth and slaughter
characteristics of Ankole cattle and its Boran and Friesian crossbreds. S. Afr. J.
Anim. Sci. 39:81 - 85.
Ba, N.X et al. 2008a. Amount of Cassava Powder Fed as a Supplement Affects
Feed Intake and Live Weight Gain in Laisind Cattle in Vietnam. Asian-Aust.
J. Anim. Sci. Vol. 21 No. 8: 1143-1150.
Ba, N.X et al. 2008b. Effects of amount of concentrate supplement on forage
intake, diet digestibility and live weight gain in Yellow cattle in Vietnam.
Asian-Aust.J.Anim. Sci. Vol.21, No 12: 1736 - 1744.
Banerjee, G. C. 1998. A Text Book of Animal Husbandry, 8 th ed, Oxford and IBH
Pub. Co. Ltd, New Delhi, India.
Barua, S, M. J. Khan, A. K. F. H. Bhuiyan, M. N. Islam and S. S. Islam.
Supplementation of concentrate with diferent levels of protein on nutritient
intake, digestibility and growth of Red Chitagong heifers. Bang. J. Anim. Sci.
134
2008. 37 (1): 10 - 16 ISSN 0003 - 3588.
Burns, B.M, C. Gazzola, G.T. Bell, K. J. Murphy. 2001. Defining the market in
tropical Northern Australia. Enhancing tropical beef cattle genetics, reproduction
and animal breeding skill. Department of primary industries, Queensland.
Chenost and Kayuli. 1997. Roughage utilization on warm climates. FAO - Animal
production and health. Rome. pp 25 - 124.
Clarke, J.V, Le Ba Lich and Do Kim Tuyen. 1996. The results of transferring to use
cassava meal basal diet with 3% urea supplement for fattening culling cow in
Vetnam. The animal production and veterinary conference 1996. Hanoi
Agriculture Publishing House 1997, pages 41 - 48.
Cole, N. A and D. P. Hutcheson. 1990. Influence of dietary protein concentrations on
performance and nitrogen reple tion in stressed calves. J. Anim. Sci. 68:3488.
Dahlanuddin, O. Yanuarianto, D. P. Poppi, S. R. McLennan and S. P. Quigley. 2013.
Liveweight gain and feed intake of weaned Bali cattle fed grass and tree
legumes in West Nusa Tenggara, Indonesia. Animal Production Science 54 (7)
915-921 http://dx.doi.org/10.1071/AN13276
Dixon. 1998. “Reproductive performance of Swans Lagoon Brahman cross
breeder herds”, Appendix DAQ, 098, final report, September.
Dolberg, F. and Finlayson, P. 1995. Treated straw for beef production in China.
Wld. Anim. Rev. No 82, pp14 - 24.
Fearne, A. and D. Hughes (1998). Success Factors in the Fresh Produce Supply
chain: Some Examples from the UK. Executive Summary. London.
Fordyce G., Loxton I. D., Holroyd R. J. and Mayer R. J. 1993. The performance of
Brahman - Shorthorn and Sahiwal – Shorthorn cattle in the dry tropics of
north Queensland. 4. Postweaning growth and carcass traits. Autralian Journal
of Experimenttal Agriculture, 33, pp. 531 - 539.
Fordyce G. 1999. “Breeder herd management”, In Blakelys, NAD occasion no 8.
The north Australia program, 1998 review of reproduction and genetics
project, Meat and livestock Australia.
Gereffi, G and M. Korzeniewicz. 1994. The Organization of Buyer-Driven Global
135
Commodity Chains: How U. S. Retailers Shape Overseas Production
Networks. Commodity Chains and Global Capitailism. London, Praeger.
Goering, H. K. and P. J. Van Soest. 1970. Forage Fiber Analysis (apparatus, reagents,
prosedures and some applications). USDA, Agricultural Handbook No. 379.
Holroyd. 1988. “Reproductive performance of 50% Bos indicus cattle grazing the
Mitchell grasslands of north Queensland 1973-80”, Proc.Aust, Rangle, Soc, 5.
Hyder A. U, Waheed A. and Khan M. S. 1999. Genetic analysis of the growth
performance of Bhagnari and Droughtmaster x Bhagnari crossbred cows in
Pakistan, Department of Animal Breeding and Genetics. University of
Agriculture, Faisalabad, Pakistan.
Huyen, Le Thi Thanh, Dang DinhTrung , Setianingrum Rinawati, Markemann
André, Valle Zárate, Anne. 2012. Can production of Yellow cattle on small
farms in the northern highlands of Vietnam be improved through feeding
management? International Scientific conference on “Sustainable Land Use
and Rural Development in Mountain Areas”. Hohenheim University,
Stuttgart, Germany, 16 - 18 April 2012.
INRA. 1989. Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables. INRA,
Paris, France.
Itavo L. C. V, Itavo C. C. B. F, Souza S. R. M. B. O, Dias A. M, Coehlo E. M,
Morais M. G, Silva F. F. 2007. Evaluation of production of calves in feed lot
or in creep feeding systems. Arq. Bras. Med. Vet. Zootec. 59:948 - 954.
Jaturasitha S, Norkeaw R, Vearasilp T, Wicke M. and Kreuzer M. 2009. “Carcass
and meat quality of Thai native cattle fattened on Guinea grass (Panicum
maxima) or Guinea grass - Legume (Stylosanthes guianensis) pastures”, Meat
Science, 81, p. 155 - 162.
Jokhank, G. E. 2013. Effect of Different Energy Sources on Intake and Weight
Gain of White Fulani Cattle. IMPACT: International Journal of Research in
Applied, Natural and Social Sciences (IMPACT: IJRANSS). ISSN 2321 -
8851. Vol. 1, Issue 5, Oct 2013, 1 - 8.
Jones R.J. 1994. Management of anti-nutritive factors-with special reference to
136
leucaena. In: Gutteridge RC; Shelton HM, eds. Forage Tree Legumes in
Tropical Agriculture. CABI, Wallingford, UK. p. 216 - 231.
Kaplinsky R. and Morris M. 2000. A handbook for value chain research
Kearl, L. C. 1982. Nutrient requirements of ruminants in development countries.
International feedstuffs institude, Utah Agricultural experiment station, Utah
State University, Loga, Utah, USA.
Leng, R.A. 1984. The potential of solidified molasses based blocks for the
correction of multi-nutritional deficiencies in buffaloes and other ruminants
fed low quality agro-industrial by-products. In: The use of nuclear techniques
to improve domestic buffalo production in ASIA IAEA Vienna, p. 135 - 150.
Leng. 2003. Drought and dry season feeding strategies for cattle, sheep and goats.
Penambul books, Queensland, Australia, p. 85 - 118.
Li Ying, Gu Chuanxue, An Yongfu, Liu Rongchang and Cao Yufeng. 1993. Effects
of untreated and treated wheat straw and maize stover on performance of
crossbred cattle. The proceedings of the first international conference on
animal production with local resources, Beijing: 210 - 123.
Ly, Le Viet. 2001. Improved utilization of agricultural by - product for animal in
Viet Nam and Lao, p. 52 - 63.
McLennan, S.R. D.P. Poppi and B. Gulbransen. 1985. Supplementation to Increase
Growth Rates of Cattle in the Tropics - Protein or Energy. Recent Advances
in Animal Nutrition in Australia. July I995.
Menke K.H. and H. Steingass. 1988. “Estimation of the energetic feed value from
chemical analysis and in vitro gas production using rumen fluid”, Anim. Res.
Dev. 28, p. 7 - 55.
Moore J. E.,Brant M. H, Kunkle W. E, Hopkins D. I. 1999. Effects of
supplementation on voluntary forage intake, diet digestibility, and animal
performance. J. Anim. Sci. 77:122 - 135.
Norris, D. J Macala, J Makore and B Mosimanyana. 2002. Feedlot performance of
various breed groups of cattle fed low to high levels of roughage. Journal of
livestock research for rural development.14 (6) 2002.
137
NRC. 1984. The nutrient requirements of beef cattle. Washington DC, USA.
NRC. 1996. The nutrient requirements of beef cattle. Washington DC.
NRC. 2001. The nutrient requirements of beef cattle. Washington DC.
Orskov. E. R. and I. McDonald. 1979. The estimation of protein degradability in
the rumen from incubation measurements weighted according to rate of
passage. J. Agric. Sci. Camb. 90:499 - 503.
Perry, T.W. 1990. Dietary nutrient allowance for beef cattle. Feedstuffs- Reference
issue, 62, 31: 46 - 56.
Porter, M. E. 1985. The Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior
Performance. NY: Free Press, (Republished with a new introduction, 1998.)
Porter, M.E. 2008. The five Competitive Forces that Shape Strategy.
http://hbr.org/2008/01/the-five-competitive-forces-that-shape-strategy/ar/1
Preston, T. R and Willis, M.B. 1967. Intensive Beef Production from Sugar Cane.
Preston, T.R and Leng, R.A. 1987. Matching ruminant production systems with
available resources in tropics and subtropics. PENAMBUL Book Ltd.
Armidale. NSW. Australia.
Preston. 1995. Tropical animal feeding, A manual for research worker FAO animal
production and health, p. 126.
Preston TR. 2001. Potential of cassava in integrated farming systems. cassava as
livestock feed (23 - 25 july 2001) in Khon Kaen University
Priyanti, A, I.G.A.P. Mahendri, F. Cahyadi and R. A. Cramb. 2012. Income over
feed cót for small to medium scale beef cattle fattening operations in East
Java. J. Indonesian Trop. Anim. Agric. 37(3) September 2012.
Rahman, M. M, M. R. Islam and M. Islam. 1990. Development of Fodder
production programme. 1st annual progress report, BLRI.
Rajan, S. K. 1990. Nutritional Value of Animal Feeds and Feeding of Animals,
ICAR, New Dehli.
Realini C. E, Duckett S. K, Hill N. S., Hoveland C. S, Lyon B. G, Sackmann J. R.
and Gillis M. H. 2005. “Effect of endophyte type on carcarss traits, meat
quality, and fatty acid composition of beef cattle grazinh tall fescue”. J. Anim.
138
Sci, 83, p. 430 - 439.
Rodriguez-Voigt, A. Noguera, E. Rodriguez, N.O. Huerta-Leidenz, N.O. Moro’n-
Fuenmayor, O and Rinco’n-Urdaneta, E. 1997. Crossbreeding dual-purpose
cattle for beef production in tropical regions. Meat Science, 47, 177 - 185.
Rosi, J.E. Loerch, S.C. and Fluharty, F.L. 2000. Effects of crude protein
concentration in diets of feedlot steers fed to achieve stepwise increases in
rate of gain. Journal of Animal Science, 78, 3036 - 3044.
Rosi, J.E. Loerch, S.C. Keller, H.L and Willet, L.B. 2001. Effects of dietary crude
protein concentration during periods of feed restriction on performance,
carcass characteristics, and skeletal muscle protein turnover in feedlot steers.
Journal of Animal Science, 79, 3148 - 3157.
Scarr M.J. 1986. The optimal use of agro-industrial by-products and crop residues
in Nigeria. In: Little D.A and Said A.N. (eds). Utilization of Agricultural By-
products as livestock feeds for Nigeria. Proceedings of workshop by African
Research Network for Agricultural By-products (ARNAB) 1987.
International Livestock Centre for Africa
Schiere and Ibrahim. 1989. Feeding of urea-ammonia treated rice straw, Straw
Utilization Project Publication No. 3, Kandy, Sri Lanka, Centre for
Agricultủal Publishing and Documentation, Wageningen, p. 102.
Simm G. 1998. Genetics improvement of cattle and sheep, Farming press, Ipswich.
Simon Quigley, Dennis Poppi, Esnawan Budisantoso, Dahlanuddin, Marsetyo, Stu
McLennan, Dicky Pamungkas, Tanda Panjaitan and Atien Priyanti. 2009.
Final Report. ACIAR Project. Strategies to increase growth of weaned Bali
calves. LPS/2004/023. 2009. ACIAR pubblisged, GPO Bõ 1571. Canberra,
ACT. 2601, Australia.
Sundstol, F. 1988. Improvement of poor quality forages and roughages. In Orskov,
E.R. (ed) Feed Science. Flseviser Science Publishers B.V.Amsterdam.
Tan, ND. Wanapat M, Uriyapongson S, Cherdthong A, Pilajun R:Enhancing
mulberry leaf meal with urea by pelleting to improve rumen fermentation in
cattle. Asian-Aust J Anim Sci 2012,25:452 - 461.
139
Topanurak, S.J. Intaramongkol, P. Ratanapunna, S. Intaramongkol, S. Tumwasorn
and C. Chatalakhana. 1991. Factors affecting growth performance in Thai
swamp buffalo. Annual report. 1991. The national buffalo research and
development project, Bangkok, Thailand, p. 17 - 23.
Tra, Hoang Thi Huong et al. 2010. Value chain analysis of beef cattle production
feeding systems in Bac Kan province, the Northern Mountainous Region,
Vietnam. Contributed Paper prepared for presentation at the international
symposium on ‘Sustainable Land Use and Rural Development in
Mountainous Regions of Southeast Asia’, 21 - 23 July, Hanoi.
Tra, Hoang Thi Huong. 2011. Beef cattle systems in the context of sustainable
agriculture in Backan provice, the northẻn mountainous region of Vietnam.
PhD Thesis. Universite de Liege- Gembloux Agro-Biothech.
Virapol Jamsawat, Suranee Laowattanakul, and Jaruwat Chinsuwan. 2010.
Efficiency of Using Cassava Chip as Based Energy and Leucaena Leaf as
Protein Supplement for Dairy Heifer Feed, p. 328 - 333.RMUTP Research
Journal Special Issue. The 4th Rajamangala University of Technology
International Conference.
Wanapat, M, et al. 1997. “Cassava bay: A new strategic feed for ruminants during
the dry season” livestock Research for rural development, vol 9. No. 99.
Wright, Shirley Tarawali, Michael Bl¨ ummel, Bruno Gerard, Nils Teufel and
Mario Herrero. 2011. Integrating crops and livestock in subtropical
agricultural systems. J Sci Food Agric (2011). Published online in Wiley
Online Library, (wileyonlinelibrary.com) DOI 10.1002/jsfa.4556.
Zhang Weixian, Yuan Jingkai and Tian Hongli. 1995. Comparision on nutritive
value of urea, liquid ammonia treated straw and analysis of feeding benefit at
diferent supplement levels. In: The proceedings of the second international
conference on animal production with local resources.
Zhou, G.H, Liu, L, Xiu, X.L, Wang, L.Z, Sun, B.Z and Tong, B.S. 2001.
Productivity and carcass characteristics of pure and crossbred Chinese Yellow
Cattle. Meat Science, 58, 359 - 362.