€¦ · Web viewgiÁo phẬn bÀ rỊa. ĐỒng hÀnh vỚi ngƯỜi trẺ . hƯỚng tỚi sỰ trƯỞng thÀnh toÀn diỆn
Giúp Trẻ Hướng Tới Thành Công ... -...
Transcript of Giúp Trẻ Hướng Tới Thành Công ... -...
GIÚP TRẺ HƯỚNG TỚI THÀNH CÔNG
GIÚP TRẺ HƯỚNG TỚI THÀNH CÔNG
(Dịch từ nguyên tác tiếng Hoa)
Tác giả: TRÌNH ƯNG HUÂN - LÂM CÁCH
Người dịch: NGUYỄN LỆ CHI
Tích cực hành động
Nắm chắc thời cơ
Nhiệt tình
Học cách đối mặt với khó khăn
Tự tin
Tôn trọng và hiểu người khác
Giàu lòng yêu thương
Chương 1. TỐ CHẤT THÀNH CÔNG CẦN CÓ TRONG TƯƠNG LAI
Chúng ta thường nói đến giáo dục tố chất, vậy cái gì là tố chất? Đã có rất
nhiều khái niệm “tố chất”. Thực ra cũng không cần phải day dứt quá về cái gì là
“tố chất”. Quan trọng là con cái của chúng ta có chuẩn bị được một số điều kiện
tối thiểu để thích nghi với tương lai hay không, có tìm được vị trí riêng trong xã
hội tương lai và giành được thành công hay không?
Tuy nhiên căn cứ vào tố chất cơ bản của xã hội hiện đại, chí ít cũng phải
đưa ra được những đòi hỏi về tố chất nhân văn của xã hội tương lai đối với con
người. Trên thực tế tố chất nhân văn ở đây chính là tố chất phi trí lực. Qua
nghiên cứu cho thấy thành công của một con người luôn được quyết định bởi
nhân tố phi trí lực.
Những nhân tố phi trí lực này ít nhất cũng được thể hiện ở bốn phương
diện sau: một là thực tế. Tức là coi trọng tính khả thi của hiện thực, có phẩm
chất hành động tích cực, và có thể chủ động từ văn hóa sách vở đi tới văn hóa
hiện thực. Hai là lý giải con người, tôn trọng con người. Giỏi tiến hành hoạt động
mang tính sáng tạo căn cứ theo nhu cầu xã hội. Từ đó phát hiện và nắm bắt kịp
thời cơ, khắc phục được thói tham lam, ích kỷ, vượt lên chính thình, hoàn thành
mọi việc một cách tốt nhất. Ba là có tố chất tâm lý mạnh mẽ, kiên cường. Dám
đối mặt với thất bại và khó khăn, có thể phát huy được tác dụng của nhân tố phi
trí lực. Bốn là không ngừng sáng tạo cái mới. Tóm lại, những tố chất thành công
hoặc còn gọi là điều kiện phi trí lực được thể hiện chủ yếu dưới đây:
I. TÍCH CỰC HÀNH ĐỘNG
“Chỉ nói nhưng không làm” là căn bệnh thường thấy ở con trẻ, đây cũng
chính là lực cản lớn nhất trong quá trình trưởng thành của chúng. Tuy tuổi tác
còn nhỏ nhưng không thể phủ định nhiều em đã có lý tưởng và hoài bão rất xa.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào lý tưởng thì mãi mãi không thể hoàn thành được
công việc. Nhất thiết phải giúp các em học được cách nỗ lực vì lý tưởng, biến lý
tưởng thành hành động. Nếu không, lý tưởng sẽ chỉ mãi lơ lửng trong không
trung mà thôi.
Những đứa trẻ xuất sắc thường liên quan tới những từ sau: chịu kham
khổ, cần cù, nỗ lực, ham học, ham tìm hiểu, chân thực... Nếu quan sát kỹ, những
từ này thực ra đều dùng để miêu tả động từ. Do vậy, hành động là sự miêu tả tất
yếu quá trình trưởng thành của con trẻ. Nếu không có hành động sẽ không có
kết quả, lại càng không thể có thành công, đúng như câu nói “Nói thì dễ, làm thì
khó”. Nhất là đối với trẻ em, chúng có thể nảy sinh ra đủ các ý tưởng và các lý
tưởng khác nhau, thậm chí có thể vạch ra nhiều kế hoạch rất tường tận. Nhưng
vì năng lực tự khống chế còn chưa đủ nên chúng thường tự làm vỡ các kế
hoạch đó.
Nguyên tắc giáo dục:
Cuộc sống giống như một bàn cờ. Đối thủ trước mặt bọn trẻ chính là thời
gian. Nếu chúng chần chừ không quyết thì sớm muộn cũng bị đào thải. Nếu
chúng tiếp tục thì sẽ không ngừng chiến thắng chính mình trên con đường
trưởng thành.
Ví dụ một em học sinh định bảy giờ tối học bài. Nhưng do ăn tối quá no,
muốn xem ti vi để chờ tiêu cơm, thoạt đầu chỉ định xem dăm ba phút. Không ngờ
tiết mục quá hay nên lại tiếp tục xem hết. Lúc đó thời gian đã trôi qua, đợi sau
khi xem hết tiết mục, vừa định ngồi xuống học bài thì đột nhiên lại muốn gọi điện
thoại trò chuyện với bạn. Nói chuyện xong, nhìn thấy có người đang đá bóng, tay
chân lập tức ngứa ngáy, nên chạy đi đá bóng ngay. Đá bóng xong về tắm, cảm
thấy rất mệt, liền ngủ một giấc... Cứ như vậy, cả buổi tối đó đã trôi qua, thời gian
bị lãng phí.
Nhưng không thể phủ nhận rằng em học sinh đó vốn có dự định học bài
nhưng kết cục không học được. Cuộc sống của những đứa trẻ như vậy cứ lặp đi
lặp lại hết năm này sang năm khác, hết ngày này sang ngày khác: Cho đến một
ngày khi chúng đã nhận ra được thời khắc phải hành động thì đã rơi vào tình
trạng lực bất tòng tâm.
Cuộc sống giống như một bàn cờ. Đối thủ trước mặt bọn trẻ chính là thời
gian. Nếu chúng chần chừ không quyết thì sớm muộn cũng bị đào thải. Nếu
chúng tiếp tục, sẽ không ngừng chiến thắng chính mình trên con đường trưởng
thành.
Hành động không chỉ là con đường tắt giúp trẻ trưởng thành mạnh khỏe,
thích ứng được với xã hội, mà bản thân hành động còn tăng cường lòng tự tin.
Khi bạn vấp phải một vấn đề khó, không cần phải mất thời gian suy nghĩ nhiều.
Tuy nói “nghĩ trước làm sau” nhưng trong thực tế, chúng ta được chứng kiến rất
nhiều trường hợp “nghĩ rồi nhưng không làm được”. Bởi vì phải suy nghĩ quá
nhiều thứ sẽ dễ sinh nên khiếp sợ, không dám đối mặt với vấn đề khó. Từ đó sẽ
tìm cách tháo chạy, trốn tránh hoặc cố tình dây dưa kéo dài. Đương nhiên như
vậy cũng ngày càng xa rời lý tưởng của trẻ em.
1. Lập tức hành động: Con bạn có sợ thi không? Hãy lập tức dẫn con đi
tham dự một kỳ thi. Nỗi khiếp sợ sẽ lập tức bị tan biến. Nếu không nỗi sợ đó vẫn
bị kéo dài tới mức không muốn đi thi nữa, chứ chưa nói tới thi làm sao để được
điểm tốt. Con bạn có sợ giao tiếp với người xung quanh không? Hãy lập tức kêu
cháu chào hỏi, trò chuyện với những người lạ. Như vậy cháu mới có thể phát
hiện rằng, té ra sự việc không đến nỗi đáng sợ như nó hằng tưởng tượng.
2. Nói với con hãy làm xong rồi hẵng nói: Khi con bạn liến thoắng khoe
khoang những kế hoạch, lý tưởng hoặc lời hứa, bạn phải lập tức nói với con
rằng: “Hãy làm xong rồi mới kể cho bố mẹ biết”.
3. Phải giúp con xây dựng lòng tự tin: Phải học cách dùng hành động
để dẹp tan nỗi buồn phiền.
II. NẮM CHẮC THỜI CƠ
Trong kinh nghiệm trưởng thành của một con người, việc có thích nghi
được với xã hội hay không, có tồn tại được tốt hay không, phần lớn đều được
quyết định bởi người đó có nắm chắc được thời cơ hay không. Thời cơ là nhân
tố quan trọng nhất, thường có tác dụng thúc đẩy sự trưởng thành cho trẻ.
Trong đêm trao giải Mười thiếu niên xuất sắc nhất Trung Quốc, khi người
dẫn chương trình hỏi: “Đối với thành công ngày hôm nay, các em đều cho rằng
không dễ dàng. Vậy trong cuộc đời, theo các em, điều gì là quan trọng nhất, thời
cơ hay thực lực?”. Đáp án thật bất ngờ, có chín em cho rằng thời cơ quan trọng
hơn, chỉ có một em cho rằng thời cơ và thực lực đều quan trọng ngang nhau.
Từ đó, có thể thấy, thời cơ rất quan trọng đối với sự trưởng thành của một
con người.
Trẻ em thường hỏi cha mẹ những câu hỏi sau: Tại sao những đứa trẻ
khác luôn có những thứ tốt hơn con? Tại sao bạn kia được chọn làm học sinh ba
tốt, nhưng con lại không được chọn? Tại sao bạn đó dốt hơn con nhưng lại
được chọn làm lớp trưởng? Nhưng lần nào bình chọn, con cũng không được
chọn?... Đáp án cho những câu này có thể được khái quát thành một câu là: thời
cơ chỉ đến với những cái đầu đã có chuẩn bị sẵn. Nói một cách khác, chỉ khi
“mọi việc đã chuẩn bị sẵn xong xuôi”, “gió đông” mới thực sự có giá trị cao quý:
Thời cơ chính là do con người tự tạo ra: Rất nhiều người không chỉ nắm
vững thời cơ, mà còn biết sáng tạo ra thời cơ. Họ luôn nỗ lực, phấn đấu. Lúc
mới bắt đầu, họ theo đuổi tìm kiếm thời cơ. Nhưng khi thực lực bản thân họ đã
tích lũy được đến một trình độ nhất định, thời cơ sẽ tự động gõ cửa hỏi thăm họ.
Hơn nữa, cùng với tài năng của họ không ngừng được nâng cao, tiếng
tăm của họ cũng tăng dần, cơ hội phát triển tương ứng với chất và lượng cũng
được nâng cao. Có thể nói nếu không có những nỗ lực chủ quan của họ, sẽ
không thể có được những thời cơ tốt nhiều như thế. Xét từ góc độ đó, thời cơ là
do con người tự tạo ra sau khi đã có sự chuẩn bị. Đó là một dạng khẳng định và
báo đáp sau những nỗ lực.
Vì vậy trong quá trình trưởng thành của trẻ, mỗi ngày đều phải chuẩn bị
sẵn việc đón nhận thời cơ có thể tới bất kỳ lúc nào. Mỗi ngày đều phải lặp đi lặp
lại với chính mình những câu nói như: “Hôm nay, ta phải cạnh tranh với người
khác. Hôm nay ta phải cạnh tranh với chính ta. Hôm nay ta phải học nhiều thêm
một chút. Hôm nay ta phải phá vỡ kỷ lục của ngày hôm qua...”.
Thời cơ thường có những đặc trưng sau:
1. Thời cơ đi rất nhanh.
2. Thời cơ có đặc trưng cá tính: Cũng cùng một thời cơ, nhưng đối với
anh ta là thời cơ, còn đối với bạn lại không phải. Phải phù hợp với chính mình
mới là thời cơ có giá trị.
3. Thời cơ có tính dự cảm: Khi mọi người đều phát hiện ra đó là thời cơ
thì nó không còn được coi là thời cơ nữa, thậm chí có thể là một gánh nặng.
III. SÁNG TẠO
Cái xuất sắc của những đứa trẻ xuất sắc chính là chúng luôn đi trước
những người khác. Để làm được như vậy cần phải có tư duy sáng tạo. Sáng tạo
chính là thực lực căn bản nhất.
Doanh nghiệp nổi tiếng Nhật Bản Thịnh Điền Chiêu Phu có thể đem Sony
đi ra thế giới, phổ biến rộng rãi vì ông hoàn toàn là một cao thủ không ngừng
sáng tạo ra cái mới. Từ phát minh đài cassette thời kỳ đầu cho tới máy
Walkman, MP3 kỹ thuật số như ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, Sony đã
đóng vai trò lãnh đạo lĩnh vực điện tử. “Không ngừng sáng tạo cái mới” là con
đường thành công của Sony.
Sáng tạo là mắt xích trọng tâm phá vỡ trạng thái ngưng trệ phát triển của
trẻ em. Trên đường đời của trẻ em luôn có hiện tượng sau: khi mỗi một sự kiện
được tiến hành tới một trình độ nhất định sẽ xuất hiện trạng thái hiệu quả thu
được ít, khiến sự phát triển của chúng rơi vào khó khăn. Điều đó chứng tỏ rằng
việc vận dụng phương pháp, tư duy, thậm chí cả tri thức vốn có của chúng
không thể thích ứng được với xu thế mới, không thể giải quyết được mọi khó
khăn trong thực tiễn. Lúc đó, nếu muốn có sự đột phá trên con đường trưởng
thành thì nhất thiết phải dựa vào sức tưởng tượng phát huy và sáng tạo; phải
vận dụng tư duy phương pháp và tri thức hoàn toàn mới của chúng. Không
ngừng vượt qua cái cũ, vượt qua chính mình và vượt qua người khác.
Sáng tạo giúp cho đứa trẻ hình thành được nét đặc sắc độc đáo. Nếu
không có nét đặc sắc và phong cách riêng, đứa trẻ sẽ rất khó bứt phá với những
đứa trẻ khác cùng độ tuổi. Cái được gọi là đặc sắc chính là “người ta không có
nhưng mình có; người ta có nhưng mình có cái mới hơn”. Để đạt được điểm này
cần phải phát huy được đầy đủ trí tưởng tượng của con trẻ, khiến chúng có
những sáng tạo mới.
1. Rèn luyện tư duy cho trẻ: Trong quá trình giáo dục con cái, bố mẹ
phải bồi dưỡng cho con tư duy khác người và đặc sắc độc đáo. Đó chính là khai
thác sức tưởng tượng và sức sáng tạo của con trẻ.
2. Trân trọng tính tò mò của trẻ: Khi con bạn đang xếp một chiếc máy
bay giấy, đang tháo chiếc radio của gia đình hoặc không ngừng hỏi bạn vô số
câu hỏi ngốc nghếch, xin bạn đừng trách mắng hoặc lớn tiếng giáo dục con. Bạn
cần phải kiên nhẫn và nghiêm túc trả lời, có thể từ những đốm lửa nhỏ đó sẽ
bùng lên những ngọn lửa lớn.
IV. NHIỆT TÌNH
Người Nhật sáng tạo nên kỳ tích tăng trưởng kinh tế tăng vọt đã có một
câu nói rất nổi tiếng rằng: “Trên thế giới không có chuyện gì khó, chỉ sợ làm tới
phát điên mà thôi”. Câu nói này đã nói lên được mối quan hệ giữa phát triển với
kính trọng nghề nghiệp và giữa thành công với kính trọng nghề nghiệp. Nếu con
bạn ngay từ nhỏ đã học được cách luôn theo đuổi mục đích một cách nhiệt tình
nhất, chấp nhận trả giá cho lý tưởng của mình thì nó nhất định sẽ trở thành một
người hạnh phúc trong xã hội tương lai.
Bất luận tài cán hay học vấn nhiều hay ít, chỉ cần thiếu lòng nhiệt tình sẽ
chỉ như một bức tranh vẽ mà thôi. Trái lại nếu học vấn thiếu hụt một chút hoặc
tài cán có kém một chút, nhưng chỉ cần dám nỗ lực phấn đấu có lòng nhiệt tình
cao độ thì không thể ngừng thực hiện giá trị của bản thân. Dù cho chính người
đó không cảm nhận được phần giá trị đó nhưng cũng giống như cục nam châm
hút sắt, thu hút được rất nhiều người. Như vậy có thể lấy được nhiều sự giúp đỡ
hơn.
Nhân tố thành công của một con người rất nhiều, nhưng yếu tố đầu tiên
chính là lòng nhiệt tình. Nếu không có lòng nhiệt tình, dù năng lực bạn nhiều đến
bao nhiêu cũng không thể phát huy được. Vì thế bồi dưỡng tinh thần kính nghề
cho trẻ trước hết chính là bồi dưỡng lòng nhiệt tình của chúng đối với sự vật.
Bất luận là đối với học tập, hay đối với những sự vật rất nhỏ, chỉ cần thông
qua phương thức giáo dục này cũng có thể giúp con trẻ trong xã hội tương lai
sau này hiểu được phải xử lý sự việc bên mình một cách chính xác ra sao.
Một người nhiệt tình và yêu nghề luôn cho rằng nghề của mình là hay
nhất, dù anh chỉ là thợ xây nhà, công nhân vệ sinh hay Chủ tịch Hội đồng quản
trị một công ty xuyên quốc gia hoặc tổng thống một nước. Đối với những người
yêu nghề, dù công việc có gặp bao nhiêu khó khăn, phải trải qua bao nhiêu gập
ghềnh, họ vẫn nỗ lực không ngừng, tuyệt đối không dễ dàng vứt bỏ nó. Trong
lịch sử từ trước đến nay, chưa hề có một sự nghiệp vĩ đại nào thành công mà
không phải nhờ vào lòng nhiệt tình. Đó là kim chỉ nam cho sự trưởng thành và
hành động của trẻ.
Yêu nghề và nhiệt tình không chỉ có lợi cho việc bồi dưỡng những phẩm
chất kiên cường, nhẫn nại... cho trẻ, mà còn có thể hóa giải được sự việc từ chỗ
căng thẳng, hiểm nguy tới chỗ thanh bình. Và quan trọng hơn là giúp trẻ xây
dựng được giá trị quan và nhân sinh quan đúng đắn. Như vậy mới có thể giúp
trẻ giải phóng được sức mạnh to lớn trong tiềm thức.
Bồi dưỡng quá trình yêu nghề và nhiệt tình của trẻ thực ra rất đơn giản:
1. Làm những việc mà chúng thích: Giống như câu nói của Không Tử
“Người biết không bằng người làm. Người làm không bằng người làm tốt”. Ý của
câu này là khi biết được một sự việc nào đó không bằng làm nó luôn bây giờ.
Khi làm một sự việc gì không bằng làm nó với tâm trạng thật vui vẻ thậm chí say
mê.
2. Động cơ của lòng nhiệt tình cần phải trong sáng: Đây cũng chính là
cách giúp trẻ vứt đi tính tham lam, ích kỷ; biết dùng cái tâm trong sáng để học
tập và làm việc. Nếu không sẽ đi nhầm đường, lạc lối
V. HỌC CÁCH ĐỐI MẶT VỚI KHÓ KHĂN
Con cái chúng ta nếu muốn thích ứng với tương lai, muốn tồn tại tốt hơn
trong xã hội tương lai, nhất thiết phải chuẩn bị tốt tố chất tâm lý và trạng thái tinh
thần, có đủ sức kiểm nghiệm những thay đổi to lớn của môi trường bên ngoài,
có thể kiên trì theo đuổi mục tiêu và quan điểm của mình dù bị áp lực.
Bố mẹ cần phải giúp con cái hiểu rằng trên con đường trưởng thành
không thể luôn thuận lợi, làm việc gì cũng được ngay. Thành công luôn đi cùng
với vô vàn khó khăn, gập ghềnh. Và dù không có vật cản, bố mẹ cũng nên tạo ra
những khó khăn cho trẻ. Vì nếu con bạn không thể sinh tồn trong một hoàn cảnh
khó khăn thì không thể nào thích ứng được xã hội tương lai.
Trước tiên cần phải để cho trẻ đoán trước được những khó khăn trước
mắt. Bởi mỗi một sự mạo hiểm đều đem lại rất nhiều khó khăn, phong ba và biến
đổi. Nếu con bạn muốn đi du lịch, nhưng chỉ chịu đi khi “thời tiết tốt, giao thông
thuận lợi, chỗ ăn ở được sắp xếp tốt, thậm chí vé vào điểm du lịch đã được mua
sẵn” thì tới lúc nào con bạn mới có thể xuất phát? Khi con bạn đặt kế hoạch đi
tới một nơi nào đó, trước tiên phải lựa chọn sẵn tuyến đi trên bản đồ, kiểm tra
xem những thứ mang theo người, cố gắng suy tính tới cách loại bỏ những sự cố
ngoài ý muốn. Đây đều là những việc cần phải chuẩn bị tốt trước khi xuất phát,
nhưng vẫn không thể hoàn toàn dẹp bỏ được tất cả sự cố. Vì thế khi nảy sinh
khó khăn cần phải dũng cảm đối mặt với hiện thực. Nếu bạn suốt ngày chiều
theo ý con, sợ nó bị lạnh, hay bị nóng thì con bạn mãi mãi chỉ là con chim nuôi
trong lồng mà thôi. Cho đến ngày dù bạn nhất thiết phải mở cửa lồng, nó cũng
không dám bay ra.
Tiếp theo, cần phải để con bạn nhìn rõ thất bại và khó khăn. Thất bại
không đáng sợ. Đáng sợ là không thể dùng thái độ khoa học chính xác để đối
mặt với thất bại. Con người ngày nào cũng nói: “Thất bại là mẹ thành công”
nhưng sự thật chúng ta đã được chứng kiến có biết bao con người bị ngã vào
vũng bùn thất bại, nhưng rất ít người có thể bò lên được và từ đó vươn tới thành
công. Vì sao vậy? Hoặc có người cảm thấy không công bằng, đồng thời bị đòn
tấn công của thất bại, vì sao không thể gặt hái được những kết quả như nhau?
Điểm này không có gì lạ cả, chúng ta hãy xem những biểu hiện của con người
sau khi vấp phải thất bại:
Một dạng sau khi bị thất bại đã gục ngã hoàn toàn, không còn dũng khí
đứng dậy. Đó là tin người “bất tài vô tướng”.
Một dạng khác sau khi bị thất bại nhưng không chịu ngẫm lại mình, không
biết tổng kết lại nguyên nhân thất bại, chỉ biết lại lao về phía trước với bầu nhiệt
huyết nóng bỏng. Loại này làm việc gì cũng chỉ phải mất công gấp đôi, và dù cho
có gặt hái được chút ít thành công cũng chỉ là biểu hiện bề mặt mà thôi. Đó là tin
người “hữu dũng vô mưu”.
Một dạng khác là sau khi bị thất bại tích cực kiểm tra lại thời thế, điều
chỉnh lại tâm trạng, không ngừng hoàn thiện tài năng và thực lực của mình, chờ
đợi thời cơ chín muồi mới xuất kích trở lại. Thì người này “trí dũng song toàn”,
luôn thích ứng được với xã hội. Vì vậy muốn tồn tại tốt hơn thì điểm rất quan
trọng chính là phải biết tổng kết kinh nghiệm.
Xét từ góc độ đó, chúng ta thấy rằng bí quyết của người thành công chính
là chân thành nhìn nhận lại từng lần thất bại của mình, biết động não suy nghĩ,
tìm ra bằng được nguyên nhân thất bại để tránh cho những lần sau. Cần phải
trưởng thành và sinh tồn trong một môi trường khó khăn, cần phải yêu cầu con
trẻ có được tinh thần lạc quan, mạnh mẽ. Phải giúp trẻ có được tinh thần “không
quá coi trọng phú quý, không quá hám uy danh” và “không cần phải vui sướng
hay đau khổ vì vật chất”. Có như vậy, con bạn mới có thể dứt ra khỏi những
muộn phiền vụn vặt của cuộc sống cá nhân, giải thoát ra khỏi những tư lợi, cười
tươi đối diện với cuộc đời.
Vì thế khi trời quang mây tạnh, đừng ngại ngần đưa con bạn đi dạo chơi,
hít thở không gian tươi mới ở bên ngoài, ngắm nhìn thế giới thần kỳ. Khi trời nổi
gió hoặc trút mưa, đừng ngại ngần ở nhà làm một bữa tối ngon miệng. Vừa nấu
ăn vừa kể cho con nghe chuyện tiếu lâm, khiến nhà bạn luôn đầy ắp tiếng cười.
Nếu ngày nào bạn cũng kiên trì làm như vậy, bạn sẽ bồi dưỡng được cho con
không chỉ phẩm chất tốt “sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt”.
VI. LÒNG TỰ TIN
Tự tin có thể khắc phục được mọi khó khăn. Tự tin là trọng tâm của nhân
cách.
Nếu trong lòng còn ngờ vực, tất sẽ dẫn đến thất bại. Tin tưởng thắng lợi,
tất sẽ thành công.
Ngu Công có thể dời núi bởi lòng tự tin kiên định: “Đời này mình không dời
được thì đến đời con cháu mình làm tiếp, thế nào cũng làm được”. Chính lòng tự
tin đó đã khiến trời đất cảm động. Tuy đó chỉ là một truyền thuyết nhưng đã dạy
chúng ta rất sâu sắc. Tự tin có thể khắc phục được mọi khó khăn.
Về uy lực của sự tự tin, không có chuyện thần kỳ hay thần bí. Quá trình
mà lòng tự tin phát huy tác dụng chính là như sau: tin tưởng “tôi có thể làm
được”, nảy sinh những điều kiện chuẩn bị về năng lực, kỹ thuật và tinh thần. Mỗi
khi bạn tin tưởng “mình có thể làm được” thì sẽ tự khắc nghĩ ra cách “phải làm
như thế nào”. Muốn con bạn có được lòng tự tin, đừng ngại thứ áp dụng những
cách giáo dục sau:
1. Ngồi hàng ghế đầu trong lớp: Bạn có chú ý rằng vào các giờ học,
những hàng ghế phía sau luôn bị chiếm kín trước tiên? Phần lớn những người
ngồi ở hàng ghế sau này đều hy vọng mình không quá nổi bật. Nguyên nhân
khiến họ e sợ người khác chú ý tới chính là thiếu lòng tự tin. Ngồi ở hàng ghế
trước có thể xây dựng lòng tự tin. Hãy coi nó như một nguyên tắc. Bắt đầu từ
đây hãy cố gắng giáo dục con bạn dù xuất hiện ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
nên ngồi sát ở hàng ghế đầu, không sợ bị nổi bật. Vì tất cả những thứ có liên
quan đến thành công đều nổi bật.
2. Học cách nhìn thẳng người khác: Không nhìn thẳng người nói
chuyện thường có ý nghĩa sau: bạn cảm thấy tự ti, không thể so sánh được với
người đó. Tránh né ánh mắt của người khác có ý nghĩa: bạn có cảm giác có tội,
hoặc đã làm những việc mà bạn không muốn cho đối phương biết. Đó đều là
những biểu hiện không tốt. Việc nhìn thẳng vào người khác cũng ngang với việc
nói với người đó rằng: tôi rất chân thành, quang minh chính đại. Hãy giúp con
bạn nhìn thẳng người khác. Điều đó không chỉ đem lại cho trẻ lòng tự tin, mà còn
giúp nó giành được sự tin tưởng, tín nhiệm của người khác.
3. Học cách thể hiện mình trước mặt người lạ: Chúng ta thường gọi
những đứa trẻ thích thể hiện tài năng của chúng trước mặt người lạ là “đứa hợm
mình”. Nhưng thực ra phẩm chất như vậy không những không nên đả kích, mà
còn phải tích cực cổ vũ. Nếu gia đình bạn có khách tới chơi, hãy để con bạn
được thể hiện tài năng của mình, dù nhảy múa, ca hát, đánh đàn hay chỉ là đọc
thuộc một bài thơ Đường... Những thứ này đều có tác dụng lớn trong việc xây
dựng lòng tự tin cho trẻ, sẽ đem lại tiền đồ xán lạn cho trẻ.
4. Rèn luyện tài ăn nói của trẻ: Để tồn tại trong một xã hội hiện đại như
ngày nay, con người cần phải dũng cảm xông lên, tự tìm kiếm cơ hội phát triển,
tự quảng cáo mình. Những người không tự tin hoặc sợ thất bại sẽ không dám
thử sức. Điều này sẽ chỉ tạo nên một loạt những con người bình thường. Đó
cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến các nhân tài bị vùi lấp. Ngay từ nhỏ,
tài ăn nói có thể chứng minh được thiên tính của một con người. Nhưng sau khi
trưởng thành, tài ăn nói có thể chứng minh được đầu óc trí tuệ của một con
người. Tài ăn nói là cách thể hiện tốt nhất, cũng là cách trực tiếp nhất, hiệu quả
nhất. Trên thực tế, tài ăn nói là sự phản ánh nhân tố tổng hợp của một con
người như phẩm chất tư tưởng, trình độ văn hóa, tri thức, tài năng và phẩm chất
tính cách... Dù bạn có muốn hay không, có cố ý hay không, bạn vẫn luôn phải
thông qua ngôn ngữ để thể hiện chính mình ra bên ngoài. Và người khác cũng
thông qua những câu nói của bạn để tìm hiểu và làm quen với bạn.
VII. TÔN TRỌNG VÀ HIỂU NGƯỜI KHÁC
Tôn trọng và hiểu người khác là trọng tâm của tố chất nhân văn.
Qua nghiên cứu và chứng minh phân tích của các chuyên gia Mỹ, con
người hiện đại cần phải có đủ các yếu tố sau: biết lái xe ô tô, thành thạo vi tính,
rành rẽ pháp luật, hiểu kinh tế, biết giao thiệp. Con người là con người của xã
hội, muốn thích ứng được sự tồn tại của xã hội, nhất thiết phải hòa mình vào xã
hội, học cách tự mình tạo ra mối quan hệ giao thiệp tốt đẹp.
Người xưa đã có câu răn dạy rất chí lý: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa
lợi không bằng nhân hòa”. Quan hệ giao tiếp có tác dụng rất quan trọng đối với
sự trưởng thành và thành tài của con trẻ.
Trong lý luận quản lý kinh doanh phương Tây đương đại cũng có xu thế
ngày càng coi trọng “quan hệ giao tiếp giữa con người”. “Quan hệ giao tiếp” là
một khái niệm rất rộng, bao gồm quan sát con người, phân biệt con người ra
sao, giao tiếp với con người như thế nào... Bất luận là sự việc gì cũng luôn xảy
ra trong quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy hiểu được đối phương
càng nhiều, thì việc xử lý sự việc ngày càng có hiệu quả.
Trên thực tế, bất kỳ sự thành công hay thất bại của bất kỳ sự việc nào
quan trọng nhất đều ở con người. Chỉ cần hiểu con người và biết sử dụng con
người một cách chính xác, biết đoàn kết với nhau thì mọi việc đều có thể thành
công.
Đối với trẻ em, quan hệ giao tiếp tốt không chỉ giúp chúng trưởng thành
khỏe mạnh, mà còn học được nhiều năng lực và tố chất từ người khác thông
qua sự tiếp xúc, giao lưu không ngừng với những người xung quanh.
Quan hệ giao tiếp tốt còn có thể giúp trẻ thổ lộ được những vấn đề nội
tâm, có tác dụng chia sẻ tình cảm. Có rất nhiều vấn đề tâm lý mà trẻ không
muốn kể với bố mẹ, vì vậy quan hệ giao tiếp với mọi người rõ ràng là rất quan
trọng.
Đối với con trẻ, yêu cầu cơ bản trong quan hệ giao tiếp với con người là:
coi trọng tình cảm, trân trọng tình bạn, kính trọng thầy cô giáo.
Ngoài ra, chúng ta còn cần phải hiểu rõ rằng: hiểu là trọng tâm của quan
hệ giao tiếp.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ khi hiểu người khác mới có thể tôn trọng
được họ và mới có thể nhận được sự tôn trọng của đối phương.
Nguyên nhân gây ra nhiều xung đột giữa quan hệ con người vì ai nấy quá
nhấn mạnh tới lập trường của mình, không chịu đứng từ góc độ của đối phương
để lý giải vấn đề.
Nếu nói thành công có bí quyết của nó thì đó chính là năng lực như sau:
hiểu được quan điểm của người khác, nhìn nhận vấn đề từ góc độ của bạn,
đồng thời cũng đứng từ góc độ của người khác để nhìn nhận vấn đề.
Một người muốn làm nên việc lớn nhất thiết phải học cách lý giải người
khác, học cách biết nhường bước, biết khoan dung lỗi lầm của người khác: Chỉ
có tốt với người khác, bạn mới có thể khiến người khác tốt với bạn. Kết quả
không chịu lý giải, chịu hiểu người khác cũng như vậy: Những người như vậy rất
khó tìm được người cộng tác ăn ý trong sự nghiệp, lại càng không thể nhận
được sự giúp đỡ khi khó khăn.
Vì thế nếu một đứa trẻ có được phẩm chất đáng quý này, nó mới có thể có
được bạn bè, có được quan hệ giao tiếp tốt đẹp. Từ đó mới đạt được khả năng
thành công trong sự nghiệp tương lai.
Bồi dưỡng con mình hiểu được người khác, tôn trọng người khác cần
được bắt đầu từ việc tôn trọng và hiểu thầy cô giáo, bố mẹ mình. “Chỉ biết coi
mình là trung tâm” là một trong những vấn đề lớn nhất của trẻ em hiện đại ngày
nay, không thể đặt mình vào việc suy nghĩ tới nhu cầu của người khác, không
thể bắt đầu làm từ những việc nhỏ. Như vậy mọi thứ đều không thể.
Để trẻ hiểu và tôn trọng người khác, đừng ngại để trẻ thực hiện những
điểm sau:
1. Khích lệ trẻ kiên trì rửa chân cho mẹ, giặt tốt cho mẹ mỗi tuần một lần:
Có thể điều này hơi buồn cười, nhưng trên thực tế, tố chất lý giải và tôn trọng
con người luôn được bắt nguồn từ những thói quen buồn cười như vậy.
2. Yêu cầu trẻ mỗi một học kỳ phải viết một bức thư cảm ơn cho thầy chủ
nhiệm và các giáo viên bộ môn: Cảm ơn sự giáo dục vất vả mà các thầy cô đã
dành cho mình suốt một học kỳ qua.
VIII. GIÀU TÌNH YÊU THƯƠNG
Thế nào mới được gọi là “giàu tình yêu thương”? Nói đơn giản rằng đó
chính là tư tưởng quan tâm, yêu quý người khác.
Thực ra trong xã hội ngày nay, chúng ta có thể cảm nhận được sự tồn tại
của tình yêu thương dưới nhiều hình thức. Ví dụ như quyên góp tiền bạc, tôn
trọng thầy cô giáo, yêu trẻ kính già, đắp lụt hộ đê... Yêu gia đình cũng là một tình
yêu thương. Yêu tổ quốc cũng vậy. Có thể thấy xung quanh chúng ta, tình yêu
thương tồn tại ở khắp nơi với phạm vi bao hàm rất rộng rãi.
Một người giàu tình yêu thương luôn dễ dàng hòa nhập với những người
xung quanh, và dựa vào tình yêu thương để bồi dưỡng nên những phẩm chất
xuất sắc khác. Như vậy người đó mới càng dễ dàng và càng có khả năng nhanh
chóng đạt tới đỉnh cao của thành công.
Một người dám bỏ ra nhiều tình yêu thương sẽ thu hoạch được rất nhiều
thứ to lớn. Đó chính là sự tôn trọng, động viên, lòng nhiệt tình của mọi người
dành cho mình. Đó chính là sự đề cao hình tượng cá nhân và thành công sự
nghiệp bản thân, cùng với sự thăng hoa không ngừng của linh hồn cá thể.
Một người giàu lòng yêu thương tất yếu sẽ là người có nhiều bạn bè khắp
thiên hạ. Như vậy anh ta sẽ không phải buồn phiền, khổ đau hay phiền muộn.
Trái lại việc lắm bạn bè sẽ giúp anh ta phát triển và thành công hơn trong sự
nghiệp.
Để con bạn giàu lòng thương yêu, nhất định phải nỗ lực làm được các
điểm sau:
1. Để con kết giao nhiều bạn bè, trân trọng tình bạn.
2. Học cách chủ động quan tâm tới người khác.
3. Bồi dưỡng con có được một số thói quen đạo đức cơ bản, như: kính
trọng thầy cô giáo, kính già yêu trẻ, thông cảm với những người yếu ớt. Hãy để
con bạn tham gia vào sự nghiệp công ích nhiều hơn, thông qua những điều mắt
thấy tai nghe sẽ bồi dưỡng được lòng yêu thương của trẻ.
Để giúp đỡ trẻ hướng tới thành công, nhất thiết phải coi trọng bồi dưỡng
những nhân tố thành công này từ nhỏ.
Đương nhiên, do nhiệm vụ chính của trẻ vẫn là học tập. Nên càng đáng
quý hơn là kết hợp việc bồi dưỡng này cùng thực tiễn những tố chất trên hòa
vào quá trình học tập. Trên thực tế, khởi điểm của trẻ hướng tới thành công
chính là học tập.
Những vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
1. Cần phải hiểu về tố chất trong “giáo dục tố chất” như thế nào? Tóm lại
tố chất nào có vai trò quyết định tương lai của trẻ có gặt hái được cuộc sống
hạnh phúc hay không?
2. Giúp đỡ trẻ hướng tới thành công, chúng ta chủ yếu cần phải làm gì?
Những sai lầm trong việc chỉ đạo học tập ở gia đình.
Phương pháp cơ bản trong hướng dẫn học tập ở gia đình.
Những góp ý nhằm nâng cao trình độ giáo dục gia đình một cách thực
chất.
Chuơng 2. KHỞI ĐIỂM CỦA THÀNH CÔNG LÀ HỌC TỐT
Mọi người đều hiểu rằng, vấn đề học hành của con trẻ ngày nay có liên
quan tới tiền đồ và phát triển của trẻ, cũng liên quan tới sự phát triển của gia
đình, quốc gia và xã hội. Học tập là khởi điểm thành công tương lai của trẻ, giúp
đỡ trẻ vươn tới thành công. Do vậy cần phải hướng cho trẻ học tốt.
Ngày càng nhiều các bậc phụ huynh coi trọng chuyện học hành của con
cái như việc lớn hàng đầu của gia đình cần phải suy tính và đặc biệt quan tâm.
Khi trẻ giành được một số thành công nhất định, vẫn có một số bố mẹ chưa hài
lòng. Mặc dù đã tốn không ít công sức, việc học tập của trẻ vẫn đầy các vấn đề,
do vậy bố mẹ trẻ rất sốt ruột, buồn phiền. Làm thế nào để “giúp trẻ hướng tới
thành công” khiến chúng ta bắt đầu nói về sự chỉ đạo học tập ngay từ gia đình.
I. NHỮNG SAI LẦM TRONG VIỆC CHỈ ĐẠO HỌC TẬP Ở GIA ĐÌNH
Có rất nhiều nhân tố tác động tới thành tích học tập của trẻ, nhưng nếu
quan niệm và phương pháp của bố mẹ có vấn đề sẽ là một nguyên nhân rất
quan trọng. Tóm lại có ba dạng sai lầm chủ yếu dưới đây:
1. Giáo dục “kiểu không quản”:
Có bố mẹ do bận rộn công việc, bận kiếm tiền nên không quản lý con cái.
Có bố mẹ do quá tin tưởng và yêu con nên để con tùy ý, không quản lý,
mặc sức chơi đùa, không làm bài tập. Cuối cùng đổ nguyên nhân con cái học
kém lên đầu các thầy cô giáo. Như vậy không chỉ làm tổn hại tới hình tượng của
thầy cô giáo mà kẻ bị thương tổn lớn nhất chính là con cái bạn.
Có bố mẹ mất lòng tin vào con nên hoàn toàn buông lỏng, không thèm
quản lý. Chúng ta thường nghe thấy kiểu bố mẹ này nói rằng: “Tôi giao phó cháu
cho cô. Chúng tôi không biết quản, sẽ không quản nữa”. Hoặc “Đứa trẻ này chả
ra gì, chẳng cần quản”.
Có bố mẹ không hiểu biết về chuyện giáo dục, đã nói: “Không cần quản
cũng có thể nâng cao năng lực tự học tập của trẻ". Năng lực tự học của trẻ phải
do bồi dưỡng học tập mà thành, chứ không dễ dàng có được. Cách nghĩ như
vậy, mặc kệ con cái tự phát triển thực chất lại có hại đối với trẻ.
Có bố mẹ “quản không đúng cách”, giáo dục cho trẻ những quan niệm sai
lầm như: “Kiếm tiền là quan trọng hơn cả. Có tiền là có tất cả. Học nhiều cũng
chả được ích gì”... Cách giáo dục sai lầm này sẽ tác động sâu sắc tới tâm hồn
của trẻ và ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quá học tập của trẻ.
Có bố mẹ không biết chăm sóc gia đình, biến nhà cửa thành một bãi chiến
trường bừa bộn. Buổi tối, bật ti vi hoặc xem băng đĩa phim to tiếng, mời bạn bè
đến đầy nhà ăn uống, rượu chè, hút thuốc, đánh bài... khiến trẻ không có môi
trường học yên lành. Cuộc sống học tập bị xâm phạm nghiêm trọng.
Những loại bố mẹ trên ngày thường đều không để ý tới học hành của con
cái, thậm chí gây cản trở việc học của con. Nhưng tới cuối học kỳ lại nghiêm
khắc khi xem số điểm thi. Nếu thấy kết quả thi không tốt, họ sẽ mắng chửi con
cái, thậm chí đánh đập. Đứa trẻ sẽ cảm thấy ấm ức không nói được thành lời,
thường chỉ biết khóc, oán trách một hoàn cảnh gia đình như vậy.
Bố mẹ cần phải hiểu rõ rằng, quan tâm tới con, hướng dẫn cho con học
tập là trách nhiệm phải làm của các bậc phụ huynh. Dù bận đến đâu cũng phải
dành một ít thời gian ở bên cạnh con. Có thể sử dụng những phương pháp hiện
đại để thường xuyên liên lạc với con. Ví dụ nếu bạn phải đi làm càng xa nhà bao
nhiêu lại càng phải thường xuyên gọi điện thoại cho con bấy nhiêu. Câu đầu tiên
khi nhấc máy nói với con phải là hỏi thăm tình hình học tập của con. Như vậy
vừa tăng thêm tình cảm, vừa có ích cho việc học tập và trưởng thành của con.
2. Giáo dục “kiểu loạn quản”:
Có bố mẹ rất thích “kích động” con cái. Chỉ cần con cái mắc một sai lầm
bé tí trong học tập, họ sẽ lập tức than phiền, chì chiết, oán trách, châm chọc, kể
khổ, thậm chí chửi mắng suốt ngày. Các câu mắng chửi quen thuộc là: “Ngu như
lợn”, “Đồ ngu”, “Đầu óc bã đậu”, “Lại còn dám vác mặt đi à, sao không tìm lấy cái
lỗ nẻ nào mà chui xuống”... Kiểu chửi mắng này đúng là sự ngược đãi, dày vò về
tinh thần.
Có bố mẹ nói con ngay trước mặt khách là “Thằng ngu này, thằng đần
này, mày theo bố hay theo mẹ?”.
Đứa trẻ tức giận, đáp: “Tùy”.
Chúng ta cần phải hiểu rằng cách chì chiết, trách móc đó không hề có tác
dụng. Đừng nên kích động, dày vò trẻ như vậy. Điều này vừa làm tổn thương trái
tim của trẻ, vừa làm tổn thương tới tình ruột thịt giữa bố mẹ và con cái.
Có bố mẹ khuyến khích con bằng tiền bạc, lấy thành tích học tập đổi thành
tiền thưởng. Chẳng hạn như có bố mẹ đã tuyên bố với con rằng “Nếu thi được
100 điểm sẽ thưởng cho con 100 tệ. Nếu thi được 90 điểm sẽ thưởng 90 tệ”. Hai
ngày sau, đứa trẻ đòi bố 50 tệ vì thi được 50 điểm. Khi bố mẹ tỉnh ra, rất bực
mình. Trẻ còn nhỏ, kiểu khuyến khích tiền bạc như vậy rất dễ khiến trẻ nảy sinh
quan niệm sai lầm, chỉ biết theo đuổi tiền bạc một cách thuần túy.
Có một lần, một phóng viên hỏi một đứa trẻ đã nhiều lần tự sửa điểm thi.
“Em đi đâu thế?”
“Đi học”
“Đi học làm gì?”
“Lấy điểm”
“Lấy điểm làm gì?”
“Moi tiền”
Đứa trẻ còn nói thêm: “Cả nhà em kiếm được rất nhiều tiền. Em cũng moi
được của bố mẹ không ít”. Nói xong liền móc tiền trong người ra khoe. Nhìn
cảnh đó, nhiều người không khỏi cảm thấy kinh ngạc và đau lòng. Dùng tiền bạc
để khuyến khích con cái học tập sẽ đem lại tác dụng phụ rất lớn. Việc hướng
dẫn sai lầm này rất nguy hiểm đối với sự phát triển của trẻ.
Có bố mẹ sử dụng phương pháp giáo dục “thô bạo”. Tới ngày nay vẫn còn
không ít bố mẹ tin tưởng quan niệm cũ kĩ của xã hội phong kiến như “yêu cho roi
cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, “không đánh không thành tài”... Hơi một tí là nổi
cơn sấm sét, thường xuyên trừng phạt con, đánh con rất dã man. Khiến việc dạy
dỗ trở nên nặng nề và học hành thực sự là áp lực tâm lý quá lớn đối với trẻ.
Phải hướng dẫn học tập trong gia đình một cách khoa học. Cách làm thô
bạo tất yếu sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Một là khiến trẻ khiếp sợ chuyện
học hành, thi cử. Càng sợ, kết quả thi càng kém, lại càng sợ học, càng lười học.
Hai là từ khi trẻ đưa kết quả thi ra phải luôn nghiến răng chịu đòn, nếu lâu dần sẽ
trở nên “chai đòn” và sinh tâm trạng tiêu cực.
Ba là tạo nên thương tổn về thể xác và tinh thần cho trẻ. Khi xảy ra hậu
quả bi kịch, người đau khổ nhất chính là những kẻ làm cha làm mẹ. Những sự
kiện như vậy luôn được báo chí cảnh tỉnh với nhiều ví dụ thực tế đau lòng. Do
vậy cần phải dẹp bỏ ngay lối giáo dục sai lầm này.
3. Giáo dục “kiểu bao bọc”:
Có bố mẹ áp dụng lối bao bọc kiểu bảo mẫu, tạo nên tính ỷ lại cho trẻ và
tác động nghiêm trọng tới việc phát triển chủ động của trẻ.
Từ việc hướng dẫn bài cho đến làm hộ văn, từ việc tính giúp tới việc làm
hộ toán cho con..., bố mẹ giống hệt như bảo mẫu, việc gì cũng “giúp hộ”, “bao
bọc hộ”. Đứa trẻ từ chỗ dựa dẫm tới ỷ lại không chịu tự học, thành tích học tập
ngày càng kém. Chỉ cần bố mẹ buông ra, đứa trẻ lập tức sẽ bị sụp xuống. Bố mẹ
tuyệt đối không cần phải bao bọc, quan tâm tới con như vậy. Có thể giúp đỡ trẻ
học tập nhưng quan trọng hơn là hướng dẫn trẻ biết cách học như thế nào.
Gần đây hay xuất hiện tình trạng giáo dục “gia sư bao bọc”. Việc mời gia
sư tới nhà có thể giúp đỡ trẻ học tập, thay đổi được tình hình. Nếu mời được gia
sư có trình độ cao hướng dẫn cho trẻ nắm được phương pháp học tập càng tốt.
Có bố mẹ mua rất nhiều sách mẫu, lợi dụng thời gian gia sư tới dạy khá dài cho
trẻ làm đề thi, giảng bài mẫu, như vậy sẽ gây tác hại cho trẻ. Rất dễ tạo nên việc
trẻ vứt bỏ những bài học quan trọng ở trường, học lệch, học tủ. Ngoài ra còn
tăng thêm gánh nặng cho trẻ, tác động tới sự phát triển toàn diện và sức khỏe,
tâm lý của trẻ.
Bất luận là “bố mẹ bao bọc” hay “gia sư bao bọc” thì đều gây tổn hại tới
việc học tập và phát triển chủ động của trẻ.
Tóm lại, đối với vấn đề gia đình chỉ đạo học tập được khái quát thành ba
dạng trên. Tức là loại không quản lý, loại quản lý sai lung tung và loại quản lý
bao bọc. Như vậy có thể thấy việc chỉ đạo học hành của trẻ ở gia đình vẫn còn
tồn tại tính mù quáng, tính chủ quan và tính phiến diện khá phổ biến.
Những sai lầm trên khiến chúng ta nhận thức thấy rằng, chỉ đạo học tập
trong gia đình cần phải có nguyên tắc chính xác (gồm bốn nguyên tắc lớn: nhiệt
tình, bền vững, dân chủ, khoa học). Cần phải giải thích qua rằng: nhiệt tình và
kiên nhẫn, chúng ta đều có thể hiểu được. Chúng ta nhấn mạnh tới dân chủ là
nhấn mạnh tới chủ thể học tập của trẻ. Việc học tập của trẻ vốn có tính không
thể thay thế. Nhất định cần phải hiểu, tôn trọng trẻ, đối đãi với trẻ như đối đãi với
một người đang trưởng thành. Như vậy mới có thể giáo dục tốt cho trẻ. Chúng ta
điều khiển khoa học, cũng chính là phải điều khiển quy luật học tập tuân thủ hiện
đại hóa và quy luật trưởng thành của trẻ để dạy dỗ trẻ, như vậy mới thành công.
Cần phải kết hợp giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường. Đó là
nhu cầu phát triển toàn diện và hài hòa của trẻ. Lại càng là tiền đề để gia đình
tiến hành hướng dẫn chỉ đạo việc học cho trẻ một cách khoa học, là xu thế tất
yếu của sự phát triển xã hội học tập.
Trước tiên, bố mẹ cần phải hiểu được mắt xích quan trọng nhất để trẻ học
giỏi là phải đi học ở trường. Khi đi học, biểu hiện của trẻ đều như nhau nhưng
sự khác biệt nội tâm rất lớn. Có trẻ đi học rất nhiệt tình, tư duy tích cực, hoạt bát.
Nhưng có trẻ đi học lại đờ đẫn ngốc ngếch, lười biếng, tư duy đơn giản. Khi thời
gian kéo dài, kết quả rất khác nhau. Có thể nói, trong thời gian ở trường, trẻ sẽ
xuất hiện những khác biệt về tri thức, năng lực, tư duy phẩm chất đạo đức, bao
gồm cả khác biệt về tố chất.
Tiếp đó, bố mẹ còn cần phải hiểu được tình hình bài tập của trẻ. Bài tập là
phần quan trọng bồi dưỡng năng lực của trẻ.
Ngoài ra, cố gắng tìm hiểu tình hình phát triển những phương diện khác
của trẻ như tri thức, năng lực, tình cảm... Phải nắm vững quy luật trưởng thành
của trẻ.
Cuốn sách này chú trọng giảng về phương pháp học tập theo kiểu bậc
thang, ý nghĩa của nó là: Một là có lợi cho việc kích thích tính tích cực trong việc
học của trẻ. Hệ thống mục tiêu bậc thang này có thể khiến trẻ nhìn thấy rõ hơn
mối quan hệ lợi hại của sự phát triển và trạng thái của bản thân. Từ đó nâng cao
bậc thềm của trạng thái bản thân, dễ dàng tiến bộ và gặt hái được thành công.
Điều này sẽ thắp lên nguyện vọng mong muốn mọi thứ tốt đẹp hơn trong nội tâm
của các em, kích thích chí tiến thủ.
Hai là có lợi cho việc bồi dưỡng thói quen tốt.
Mục tiêu học tập theo kiểu bậc thang khiến cho việc bồi dưỡng thói quen
học tốt được cụ thể hóa, hệ thống hóa, cá tính hóa, hiện đại hóa. Phương pháp
học tập theo kiểu bậc thang là phương pháp bồi dưỡng kết hợp giữa thói quen
học tập cơ bản và chủ động tìm tòi của trẻ với thói quen của việc nghiên cứu
hợp tác. Từ đó thể hiện được đầy đủ tinh thần thời đại.
Ba là có lợi cho việc phát triển chủ động của trẻ, thể hiện sự đổi mới tự
giác về sinh mệnh của con người. Thời đại đã đi vào xã hội học tập hóa. Đã đến
thời trẻ em phải chủ động học tập và phát triển. Cần phải giao cầu thang cho trẻ
em, hướng dẫn chúng tự trèo lên, chủ động phát triển.
Nguyên tắc giáo dục:
Cần phải kết hợp giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường. Đó là
nhu cầu phát triển toàn diện và hài hòa của trẻ. Lại càng là tiền đề để gia đình
tiến hành hướng dàn chỉ đạo việc học cho trẻ một cách khoa học, là xu thế tất
yếu của sự phát triển xã hội học tập.
Có thể thấy, cần phải nắm rõ tư tưởng cơ bản của giáo dục gia đình, thì sẽ
hiểu được giáo dục nhà trường. Trong quá trình tìm hiểu giáo dục nhà trường,
cần tìm hiểu tâm lý của trẻ, nắm vững quy luật trưởng thành của trẻ. Cần phải
thống nhất giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội thành một
thể thống nhất. Đó là xu thế tất yếu của phát triển xã hội. Nhất định phải làm tốt
công việc mang tính sáng tạo này.
II. PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN TRONG HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Ở GIA ĐÌNH
1 Học cách hướng dẫn, giáo dục nghiêm khắc, chú trọng hiệu quả chân thực:
Trong một cuộc giao lưu bàn về phương pháp học tập kiểu bậc thang, một
bà mẹ vui sướng kể rằng: sau khi được nghe về phương pháp này, gia đình bà
đã áp dụng ngay. Bố đứa trẻ phụ trách học tập, làm thầy hướng dẫn cho con.
Một lần ông bố hỏi con có tình nguyện suy nghĩ tích cực không? Suy nghĩ tích
cực không chỉ khiến thành tích học tập của con tốt hơn, mà có thể còn có tác
dụng to lớn trong tương lai. Đứa trẻ đương nhiên nói muốn. Nghe xong, bố đứa
trẻ lập tức dốc toàn bộ tâm sức ra giúp đỡ, quản lý nghiêm ngặt. Sau khi áp
dụng một thời gian phương pháp phân lớp kiểu bậc thang, việc học tập của con
quả nhiên có tiến bộ rõ rệt. Chúng tôi đã khen ngợi cháu kịp thời.
Bà mẹ đó cũng cho biết bà cũng học được cách dẫn dắt, hướng dẫn
người khác ra sao. Một hôm ngẫu nhiên thấy con đang soạn một số đồ đạc.
Nhân cơ hội đó, bà mẹ không chỉ nhiệt tình khen ngợi con, mà buổi tối hôm đó
còn kịp thời tổ chức một cuộc họp toàn gia đình để động viên và hy vọng con
học được cách sống. Họ đã cùng thương lượng năm tiêu chuẩn cuộc sống với
con. Một là chuông vừa reo phải dậy ngay. Hai là tự mình thu dọn giường chiếu.
Ba là tự mình làm đồ ăn sáng cho mình, nếu làm được thêm cho bố mẹ càng tốt.
Bốn là chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ học tập rồi mới đi học. Năm là ôn lại bài ở
nhà rồi mới đi học. Đứa con cũng chấp nhận thử áp dụng.
Từ đó, bố đứa trẻ để sẵn chuông báo thức trong phòng con. Sáng hôm
sau, đứa trẻ đã dậy sớm hơn cả chuông để chờ nó reo. Khi chuông vừa reo, đã
nghe thấy tiếng trẻ rộn ràng và các dụng cụ trong bếp kêu loảng xoảng.
Bà mẹ nói đến đây rất cảm động, nghẹn ngào nói: Trước đây chúng tôi
luôn trách con không chịu nghe lời. Nhưng bây giờ đã hiểu rồi, thâm tâm con trẻ
luôn muốn tiến lên, muốn tốt đẹp hơn nhưng cách giáo dục cũ của chúng tôi
không có tác dụng. Giờ đây chúng tôi hướng dẫn và giúp đỡ trẻ cụ thể như thế
này, cùng nỗ lực hợp tác với con, tình trạng cuộc sống của con trong một ngày
đã nâng lên được ba cấp. Bà còn hưng phấn kể rằng ngày nay, việc con dậy
sớm chí ít cũng đạt tới “cấp bốn”. Những công việc này khiến cho công việc của
gia đình và của nhà trường thống nhất với nhau, rất có lợi cho việc phát triển hài
hòa tố chất tổng thể của trẻ.
Sự việc này đã gợi ý cho chúng ta rằng: phương pháp trưởng thành kiểu
bậc thang là hình mẫu phát triển và trưởng thành rất có hiệu quả, có thể ứng
dụng phổ biến ở khắp mọi nơi.
Học cách hướng dẫn, nghiêm khắc giáo dục, chú trọng hiệu quả chân
thực. Nói một cách thông tục là kết hợp cả rắn và mềm, chú trọng khích lệ.
“Mềm” chính là khơi gợi, khích lệ, cổ vũ trẻ. “Rắn” chính là nghiêm khắc giáo
dục.
Giáo dục nghiêm khắc không phải là giáo điều hoặc quản lý chặt tới ngột
thở. Mà cần phải nắm vững, không thả lỏng, kiên quyết nắm được hiệu quả thực
của những sự việc chính xác, những việc mà trẻ thực sự muốn làm.
Gia đình cần phải tiến hành quản lý nghiêm khắc những việc mà trẻ muốn
làm. Nó sẽ hình thành nên quan hệ tốt giữa bố mẹ và con cái. Còn nếu quá cưng
chiều con hoặc bỏ mặc không quản lý con mới trở thành nguyên nhân quan
trọng khiến mối quan hệ này trở nên xấu đi.
2. Mục tiêu của bậc thang, đấu tranh gian khổ, hình thành thói quen:
Sự trưởng thành của trẻ nhất định phải có mục tiêu bậc thang, khiến trẻ
thông qua nỗ lực của chính mình dần dần từng bước thực hiện mục tiêu của
mình. Để trẻ thay đổi thói quen hành vi của mình là rất khó.
Sự tiến bộ của trẻ cần sự quan tâm, cổ vũ và giúp đỡ của bố mẹ và thầy
cô giáo. Có bố mẹ không hiểu được điểm này, lúc thường nhật không quan tâm
tới con, chỉ tới cuối học kỳ khi thấy thành tích của con quá kém lại mắng chửi
hoặc đánh đập con.
Họ không hiểu rằng, thực ra trong lòng đứa trẻ rất muốn đạt thành tích tốt,
nhưng không có cách thực hiện. Là bố mẹ cần phải có cách giúp đỡ cụ thể để
trẻ hoàn thành được mục tiêu của mình, cần phải nhiều cách, bồi dưỡng thói
quen học tốt. Đó mới là cái gốc để trẻ có thể học giỏi được.
Tất nhiên trẻ muốn thay đổi mình cũng nhất định phải nỗ lực, chịu khổ sở
vất vả. Có người chỉ muốn đạt được nhưng lại không muốn mất công sức. Điều
đó là không thể. Muốn khích lệ trẻ chân thực, gian khổ đấu tranh, như vậy mới
có thể trưởng thành phát triển nhanh được.
Có thể thấy, đối với việc hướng dẫn trẻ học tập cần phải kết hợp cả tình
lẫn lý, đi sâu vào tâm lý.
Làm các bậc bố mẹ nhất định phải kiên nhẫn đối với con cái, phải kiên trì
tin tưởng và hy vọng vào con. Lại càng phải tôn trọng sự tin tưởng, khoan dung
biết chờ đợi, phải học cách thưởng phạt. Có như vậy nhất định đạt được thành
công.
Chỉ cần kiên trì hợp tác, con trẻ nhất định sẽ có những thay đổi. Bất luận
tình trạng của con bạn hiện nay ra sao nhưng trên đời không có chuyện gì không
thể thay đổi được.
Chỉ cần có tình yêu và quyết tâm thay đổi, hình thành nên mẫu thức hành
vi mới, bồi dưỡng thói quen học tập mới, nhất định sẽ gặt hái được kết quả.
3. Phát huy ưu thế, nổi bật trọng điểm, tập trung chữa trị:
Cần phải phát huy ưu thế, làm nổi bật trọng điểm. Sau khi một đứa trẻ chịu
nghe theo phương pháp học tập kiểu bậc thang, quyết tâm trên lớp đạt được
trình độ cấp hai, cấp ba, làm nổi bật trọng điểm, tích cực suy nghĩ thì phương
pháp chính của trẻ sẽ là đưa ra nhiều câu hỏi hơn. Lúc trên lớp, trẻ sẽ viết các
câu hỏi đó lên sách vở, thậm chí trên bàn tay. Bàn tay tuy đầy những vết mực
đen nhưng đứa trẻ vẫn muốn giơ bàn tay đó lên cho các bạn xem, chỉ rằng: tuy
thế này không vệ sinh nhưng không đến nỗi khó nhìn, về tinh thần là đáng vui.
Đứa trẻ từ chỗ không bao giờ hỏi thêm hoặc trò chuyện với các bạn học, nhưng
lúc này lại chốc chốc giơ tay lên xin trình bày ý kiến hoặc đề ra câu hỏi. Nói một
cách khác chúng ta là những kẻ lao động trí não. Các môn học của đứa trẻ đó rõ
ràng có tiến bộ, thậm chí còn đoạt giải thưởng trong kỳ thi vật lý ở khu vực. Đây
là một sự kiện lớn toàn trường. Đứa trẻ được biểu dương trước toàn trường,
kích thích lòng ham học của rất nhiều học sinh khác. Có thể thấy nếu biết phát
huy ưu thế, nổi bật trọng điểm có thể đạt được thành tích, cũng có thể khiến con
người phát triển toàn diện.
Cần phải hướng dẫn thực lực, tập trung trị liệu. Ví dụ có một đứa bé gái
tên là Kỷ Anh. Một lần được bạn học đùa rằng Kỷ Anh cần phải trở thành “anh
hùng trí nhớ”, con bé vui sướng muốn nhận lời ngay. Sau khi bố mẹ biết cũng
giúp đỡ con tìm sách vở, tìm thầy cô giáo, chuyên gia, trọng điểm giúp đỡ con
nâng cao năng lực ghi nhớ. Do vậy, khi đi học, Kỷ Anh có thái độ rất tích cực,
biểu hiện rất phong phú. Tới trước khi thi, cô bé đã một hơi học thuộc lòng công
thức mà cô tự chỉnh lý. Mọi người vỗ tay tán thưởng cô bởi thành tích thi, nhất là
môn ngoại ngữ tăng vọt.
Trong buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm học ngoại ngữ, cô đã tự giới
thiệu “ba phương pháp ghi nhớ” do mình tự lập ra:
Một là ghi nhớ có tình cảm tức là ghi nhớ kết hợp với tình cảm. Trước khi
muốn ghi nhớ điều gì, trước tiên cô luôn tự nhủ rằng “mình yêu nó, mình có thể
ghi nhớ”. Cô cho biết đầu tiên không quen, cảm thấy điều đó rất “không tự
nhiên”, nhưng cùng với những nỗ lực tự bỏ ra, tăng cường thử nghiệm, việc học
tập có kết quả hẳn. Dần dần cảm thấy cách tự nhủ như vậy rất tự nhiên, cũng rất
có tác dụng.
Hai là “Ghi nhớ có hành động”. Tức là học ngoại ngữ không chỉ nhìn, mà
còn phải nghe, phải đọc, phải diễn. Lúc đọc, cần phải đọc to tiếng, tốc độ nhanh,
chuẩn xác, thậm chí toàn thân phải cùng đọc. Cô còn thường đối diện với thực
tế ghi nhớ các từ vựng và nói ngoại ngữ. Ví dụ khi qua đường, lập tức nhớ tới
các từ vựng có liên quan đến xe cộ và giao thông. Khi nhìn thấy tiệm bán hoa
quả, lập tức đọc to các từ vựng về các loại hoa quả mà không sợ mọi người
cười chê như Banana (Chuối), Apple (Táo), Pear (Lê)... Học tập ngoại ngữ từ
trong thực tế và thể nghiệm, cô ấy cảm thấy thu hoạch được rất lớn.
Ba là “Ghi nhớ có tưởng tượng”: Tức là một mặt vừa đem những thứ cần
phải ghi nhớ thống kê, chỉnh lý hết một lượt để dễ nhớ. Điều quan trọng là phải
mở rộng “trí tưởng tượng thú vị”. Sử dụng phương pháp tổ hợp ý của từ với “kết
hợp âm”..., có thể khiến tư duy phong phú bội phần, sinh động hoạt bát, hiệu quả
tăng lên rõ ràng.
Khi kết hợp cả ba phương pháp này sẽ có được hiệu quả ghi nhớ rất thú
vị.
Cô học sinh này còn nói, việc làm nổi bật trọng điểm, tập trung ghi nhớ tốt
sẽ không chỉ khiến thành tích học tập được nâng cao, bồi dưỡng được năng lực
ghi nhớ, mà còn xóa bỏ được quan niệm trong quá khứ là trí nhớ mình rất tồi. Từ
đó nắm vững được phương pháp học có khoa học. Việc sử dụng ba phương
pháp trên giúp tăng thêm hứng thú học ngoại ngữ, từ đó khiến mình bước lên
được một bậc thềm mới trên lĩnh vực ham học, biết học.
Bồi dưỡng hứng thú học tập ở bất kỳ phương diện nào cũng đều rất quan
trọng. Các môn học rất đa dạng như lịch sử văn học, thiên văn địa lý, mỹ học âm
nhạc, sinh vật động vật, khoa học ngoại ngữ... Bồi dưỡng hứng thú một phương
diện nào đó, nổi bật sở thích một nội dung nào đó là hoàn toàn có thể làm được.
Nó vừa có thể hình thành được ưu thế học tập, lại vừa có thể khai phá được
tiềm năng học tập.
Học cách đột phá chính là khiến trẻ dần học được cách phát hiện và phát
triển đặc trưng và ưu thế của mình. Một khi những ưu thế về bất kỳ phương diện
nào của trẻ được thể hiện, nhận được khẳng định (ví dụ: tri thức, năng lực, tình
cảm, ý chí...), đều trở thành một phát triển mang tính đột phá quan trọng trong
quá trình trưởng thành của trẻ.
Trẻ nhất định phải học cách đột phá. Một quy luật của sự trưởng thành
con người là nỗ lực từ những đột phá ở một phương diện nào đó, khởi động
phát triển toàn diện, từ đó khiến con người trưởng thành nhanh hơn.
Biết được và nắm vững được ưu thế của mình, và đem chúng áp dụng
vào sự phát triển bản thân và phát triển xã hội. Những người như vậy là người
có trình độ cao, là con người hiện đại hóa.
Mỗi một đứa trẻ đều có những ưu điểm riêng, có tài năng, tiềm lực riêng.
Đó là thực tế của con cái chúng ta. Sự hướng dẫn con cái học tập của bố mẹ
cũng cần phải được tiến hành và cải cách từ thực tế này.
Quá trình phát hiện và phát triển ưu điểm, tài năng của con người cũng là
một quá trình mới của con người, nhất định phải cung cấp cho trẻ cơ hội và môi
trường như vậy. Trọng tâm của quan niệm giáo dục hiện đại hóa chính là khích
lệ toàn diện các nhân tố tích cực của con người, nỗ lực khai thác tiềm năng của
con người, thể hiện đầy đủ giá trị của mỗi con người, khiến người ta phải sáng
tạo.
4. Học cách hợp tác, chú trọng tìm tòi, phát triển toàn diện:
Học cách hợp tác bao gồm học cách hợp tác trong cuộc sống, trong hợp
tác, trong sự nghiệp....
Bố mẹ phải học cách hợp tác với con cái để thực hiện tốt việc học tập.
Trong một ngày, bố mẹ cần phải cố gắng sắp xếp số thời gian ở bên con. Ví dụ:
cùng làm một số việc nhà, cùng nấu bữa tối... Gần gũi với con, trò chuyện với
chúng thân mật, tự nhiên như hôm nay học được gì trên lớp? Những thứ mà
thầy giáo giảng có mới mẻ không? Mặc dù phải hướng trẻ nói đến chuyện học
tập, nhưng vẫn cần phải nhiệt tình nghe trẻ nói, cám ơn chúng vì đã cùng nói
chuyện học tập. Trong cuộc trò chuyện tự nhiên, thân mật đó, bố mẹ rất dễ dàng
phát hiện thấy những đặc điểm, ưu thế của con, cũng như dễ phát hiện ra những
vấn đề của con trong việc học tập. Từ đó có thể góp ý và giúp đỡ con thật cụ
thể. Như vậy sẽ rất tốt cho việc phát triển cá tính và khai phá tiềm năng của trẻ.
Về mặt hành vi cũng cần phải hợp tác với trẻ. Khi con của tác giả cuốn
sách này còn nhỏ, cả gia đình thảo một hiệp định học tập “ba cam kết” như sau:
Một là cam kết học đúng giờ. Thời gian trẻ học là không được vi phạm.
Mọi việc trong gia đình cố gắng tuyệt đối không làm ảnh hưởng tới trẻ. Thể hiện
cả nhà cực kỳ coi trọng việc học tập của trẻ.
Hai là cam kết chuyên tâm học tập. Trước khi học cần phải chuẩn bị sẵn
sàng tất cả các dụng cụ học tập. Trong lúc học cần phải chuyên tâm, chân
thành.
Ba là cam kết tích cực học tập. Thái độ học tập phải tích cực, nhiệt tình, tỉ
mỉ về hiệu suất học tập và thu hoạch.
Lúc mới bắt đầu, chúng ta cùng hợp tác lẫn nhau, cùng tích cực giúp đỡ,
trẻ phải tự nguyện, giáo dục phải nghiêm khắc. Sau khi trẻ đã có hành động, đã
có tiến bộ, chúng ta phải kịp thời công nhận và khen thưởng và không ngừng
tăng cường, ổn định nâng cao. Chúng ta có thể treo một tấm gương trước bàn
học của con để tăng cường ý thức tự thân của trẻ khi ngồi học, từ đó hình thành
nên thói quen.
Như vậy việc hợp tác rất có hiệu quả. Con của tác giả cuốn sách này đã
từng đứng đầu toàn trường tiểu học.
5. Học cách điều chỉnh, khống chế tình cảm, phấn chấn tinh thần:
Tình cảm tốt là nhân tố quan trọng trong thành công của trẻ. Vì vậy trong
giáo dục gia đình cũng cần phải phát huy tác dụng của tình cảm đối với sự phát
triển của con người. Tức là vừa cần phải phát huy tác dụng động lực tình cảm,
vừa phải phát huy tác dụng điều tiết tình cảm. Như vậy có thể dùng phương
pháp làm phong phú lên, khống chế được và biết lý trí để thúc đẩy phát triển tình
cảm của trẻ.
Cần phải giúp đỡ trẻ thiết lập được lý tưởng cuộc sống, lý tưởng nghề
nghiệp và lý tưởng xã hội, làm tinh thần phấn chấn.
Nỗ lực giúp trẻ tiếp xúc và cùng tham gia vào thực tiễn xã hội.
Nếu có thể, nỗ lực giúp trẻ tiếp xúc với những người thành công để cảm
nhận, thể nghiệm, thậm chí mô phỏng quan niệm tư duy và thói quen hành vi
của những người đó.
Phải giúp trẻ học được cách lựa chọn con đường đi. Tức là giúp trẻ dần
học được cách hiểu sự phát triển của bản thân và của xã hội, lấy tố chất nhân tài
tương lai làm cái đích để noi theo, thành phương hướng phát triển của mình.
Phải giúp trẻ học được cách kết hợp cuộc sống học tập ngày hôm nay với
cuộc sống tương lai, bồi dưỡng năng lực thực tiễn và sáng tạo tinh thần mới.
Giúp trẻ nhận thức được tình thế, nắm vững phát triển, yêu tổ quốc, đối mặt với
tương lai. Điều này giúp trẻ có được động lực mạnh mẽ và lâu dài, lại giúp trẻ
nắm chắc cơ hội phát triển hơn, nắm vững sách lược và phương pháp khoa học.
Điều này không chỉ có lợi cho sự phát triển tư duy và học nghiệp của trẻ mà còn
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tương lai của trẻ.
Phạm vi nội dung của giáo dục gia đình là rất rộng, ví dụ: gia đình làm thế
nào để hướng dẫn trẻ ôn tập học bài mới, tổng kết, thi thử... Làm thế nào để
thay đổi được thói ham chơi, lười biếng, vô lo của trẻ... Làm thế nào để giải
quyết được thói xấu nói dối, chửi bậy của trẻ... Phương pháp giải quyết có rất
nhiều nhưng phải lựa chọn để phù hợp với từng người. Và quan trọng nhất là
phải nắm được phương pháp chỉ đạo học tập cơ bản nhất - phương pháp học
tập kiểu bậc thang. Cần phải học tốt các phương pháp cơ bản sau: nghiêm khắc
giáo dục, mục tiêu bậc thang, kham khổ phấn đấu, hình thành thói quen, phát
huy ưu thế, làm nổi bật trọng điểm, tập trung chữa trị...
Đương nhiên, trong quá trình thực tiễn giáo dục gia đình cũng cần phải
tăng cường suy nghĩ lý tính, làm thay đổi quan niệm chỉ đạo học tập gia đình. Ví
dụ: quan niệm mang tính chủ động (nguyên tắc), quan niệm thành công (nguyên
tắc) và quan niệm phát triển bậc thang (nguyên tắc)...
III NHỮNG GÓP Ý NHẰM NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH MỘT CÁCH THỰC CHẤT
Các nhà giáo dục học đã chỉ ra rằng, mọi khó khăn trong quá trình giáo
dục trẻ em nảy sinh đều bắt nguồn từ gia đình. Có thể thấy rằng giáo dục nhà
trường là cơ sở của giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình.
Cần phải phát huy đầy đủ ưu thế độc đáo vốn có của giáo dục gia đình
như tính toàn quyền, tính tình cảm và tính kịp thời...
Nhu cầu xã hội học tập hóa yêu cầu nâng cao trình độ giáo dục gia đình,
nâng cao tố chất tổng thể của gia đình.
Dưới đây là một số góp ý trong việc nâng cao trình độ giáo dục gia đình:
1. Phát huy “gia đình ham học”:
Học tập được đề cập tới ở đây bao gồm cả học tập qua sách vở và qua
thực tiễn.
Trình độ học tập gia đình là tiêu chí chủ yếu của trình độ gia đình. Trình độ
quốc gia chỉ được nâng cao khi trình độ gia đình được nâng cao. Khi quốc gia đề
ra khoa giáo hưng thịnh đất nước, gia đình cũng cần “học tập hưng thịnh gia
đình”.
Để đạt tới việc “gia đình ham học” cũng rất dễ. Ngoài bốn nguyên tắc
được đề cập phía trước, chỉ cần thêm một nguyên tắc “gương mẫu”: Bố mẹ cần
phải làm gương hướng dẫn cho con. Năm điều kiện của “gia đình ham học” là:
gương mẫu, nhiệt tình, bền bỉ, dân chủ, khoa học”.
2. Phát huy “gia đình khoa học”:
Gia đình cần phải giáo dục có khoa học. Bố mẹ cũng cần phải trở thành
các bậc phụ huynh có giáo dục khoa học kết hợp cả ba thứ: học tập, thực tiễn,
nghiên cứu khoa học.
Sự phát triển của quốc gia cũng đòi hỏi kinh nghiệm giáo dục của các bậc
phụ huynh cũng như đòi hỏi kinh nghiệm trưởng thành, thành công của con trẻ.
Những vấn các đề bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
1. Hàng ngày, chúng ta đã làm tốt chưa? Con cái là sự nghiệp suốt đời
của chúng ta, chúng ta không có lý do gì để buông lơi chúng.
2. Chúng ta đã biến mình trở thành một “chuyên gia giáo dục” chưa?
Thường nghiên cứu cái gì? Viết cái gì?
Hứng thú là gì?
Hứng thú khiến người ta ham học, biết học và thành công.
Làm thế nào để bồi dưỡng niềm hứng thú ở trẻ?
Chương 3. HỨNG THÚ LÀ NGƯỜI THẦY TỐT
I. HỨNG THÚ LÀ GÌ?
Sự hứng thú đối với nội dung học tập hoặc tham gia vào các hoạt động
học tập gọi là hứng thú học tập. Từ ý nghĩa trên, hứng thú và hứng thú học tập
về cơ bản là giống nhau.
Từ cổ chí kim, từ trong đến ngoài nước, đã có rất nhiều ví dụ chỉ vì hứng
thú sâu sắc đối với một sự vật nào đó mà trở thành nhà chuyên gia, nhà khoa
học và những người vĩ đại.
Trong lịch sử đã có chuyện những người chuyên đi ăn trộm xác chết. Vào
một ngày năm 1536, tại Bỉ đã xảy ra một chuyện quái dị, xác chết treo trên giá
hành hình đã bị ăn trộm mất. Pháp luật Bỉ đã quy định rõ ràng, ăn trộm xác chết
cũng bị xử tử hình. Khi cảnh sát thông báo khắp nơi truy tìm tội phạm ăn trộm
xác chết, một người đang giấu xác chết dưới hầm bí mật, say sưa giải phẫu cái
đầu của xác chết vừa ăn trộm về. Sau đó, người này còn ăn trộm thêm xác chết
rất nhiều lần để giải phẫu, không biết đã làm bạn với xác chết được bao nhiêu
năm. Cuối cùng đã viết nên một cuốn sách “Cấu tạo cơ thể con người” rất kinh
thiên động địa. Và trở thành nhà khoa học đầu tiên trên thế giới nhận biết chuẩn
xác về kết cấu cơ thể con người.
Vậy hứng thú học tập là gì? Hứng thú học tập chính là khuynh hướng tâm
lý đeo đuổi nhận thức hoặc đeo đuổi tham gia đối với hoạt động học tập hoặc đối
tượng học tập.
Hứng thú là nhu cầu căn bản của con người, là một dạng động lực bên
trong của con người.
Nguồn gốc của hứng thú là tính tò mò - thiên tính lớn nhất của con người.
Chính vì vậy, mọi người mới tích cực nghiên cứu tìm tòi mọi sự vật và hoạt động
với màu sắc tình cảm tích cực. Như vậy con người mới nảy sinh khát vọng mãnh
liệt về bí mật những bí ẩn của loài người và của tự nhiên; mới có được sự đeo
đuổi kiên trì về chân lý.
Có thể thấy, hứng thú là ý thức mang tính xu thế và tính lựa chọn của con
người đối với sự vật hoặc hoạt động nhất định.
Xu thế bên trong của con người là gì, lựa chọn cái gì, đều có nội dung bao
hàm phong phú và sâu sắc. Có thể thấy hứng thú là biểu hiện chủ yếu của sức
sống cuộc đời con người.
Có người đối diện với thế giới phức tạp muôn màu sắc, với biển tri thức
mênh mông nhưng tâm tính lạnh nhạt, hững hờ mọi thứ. Chúng ta nói rằng
người đó thiếu mất niềm hứng thú, cũng tức là thiếu mất sức sống.
II. HỨNG THÚ KHIẾN NGƯỜI TA HAM HỌC, BIẾT HỌC VÀ THÀNH CÔNG
Hứng thú có tác dụng to lớn đối với việc phát triển tri thức, nâng cao trí
tuệ, khơi gợi tình cảm, hình thành phẩm chất, phát huy tiềm năng tới trưởng
thành, thành công, thành tài...
Ngày nay, đứng từ góc độ xã hội, hứng thú là cơ sở quan trọng của sự
ham học và biết học; là nhân tố quan trọng mà con người tất yếu không thể thiếu
được đối với việc học suốt đời.
Một khi trẻ được tiếp xúc tới nội dung hoặc hoạt động học tập mà chúng
có hứng thú thì thái độ sẽ tích cực ngay, tâm tính sẽ vui vẻ thoải mái, tư duy hoạt
bát. Lúc đó chúng sẽ học tập, suy nghĩ với tâm trạng phấn khởi, sẽ cảm thấy tò
mò, thậm chí kinh ngạc trước chân lý bày ra trước mắt. Trong quá trình học tập,
trẻ sẽ ý thức được và cảm nhận được năng lực trí tuệ của mình. Từ đó sẽ được
nếm trải niềm vui sướng trong sáng tạo, sẽ cảm thấy tự hào về sự vĩ đại của trí
tuệ và ý chí của con người.
Có thể thấy, hứng thú là một dạng động lực, là động lực quan trọng bên
trong của sự sinh tồn và phát triển của con người. Nó vừa có tác dụng động lực
“dẫn dắt, khơi gợi”, lại vừa có tác dụng động lực “duy trì”.
Trong cuộc sống, học tập và công việc, thường nghe thấy mọi người sử
dụng những từ ngữ dưới đây để diễn đạt niềm hứng thú mạnh mẽ đã đạt tới
cảnh giới cao: “tích cực chủ động”, “như kẻ đói khát”, “quên ăn quên ngủ”, “liên
miên ngày đêm”...
Hứng thú có mang khuynh hướng màu sắc tình cảm. Khi con người ở
trong trạng thái trên, không cần nói cũng biết rằng, con người đã bỏ ra rất nhiều
nhiệt huyết. Trạng thái này chính là quả ngọt lớn nhất thu hoạch được kể từ sau
khi con người chịu đầu tư bằng lòng nhiệt tình. Những trải nghiệm quý báu của
con người trong trạng thái này là tác đụng trực tiếp nhất đối với con người, tức là
kích thích con người có được tính tích cực hơn nữa. Đối với học tập, phải khiến
cho người ta thêm nhiệt tình ham học.
Trạng thái này cũng đẩy niềm hứng thú lên thành niềm vui. Khi học tập và
làm việc đầy ắp niềm vui thì dù khó khăn gian khổ đến đâu, con người cũng thấy
vui sướng, thậm chí là những niềm vui không thể nào so sánh được.
A.Einstein đã nói: “Thúc đẩy tôi thực hiện công tác khoa học chính là một
khát vọng không thể kìm chế nổi muốn tìm hiểu những bí ẩn của thiên nhiên,
chứ không phải vì bất cứ lý do nào khác”.
Một tiến sĩ khi được trao giải vật lý Nobel đã nói: “Điều quan trọng nhất khi
muốn trở thành một nhà khoa học kiệt xuất là phải có hứng thú với khoa học.
Phải cho rằng được làm công tác khoa học là niềm vui duy nhất của cuộc đời
bạn, mọi thứ khác đều là thứ yếu. Nếu bạn không có niềm tin đó, không nên làm
công tác nghiên cứu khoa học, nên chuyển ngành khác”.
“Nghiên cứu khoa học bản thân đã bao hàm cái đẹp. Niềm vui mà nó đem
lại chính là sự báo đáp con người”.
Trong cuộc sống, học tập và công việc, đối với những người xuất hiện ở
cảnh giới trên cũng thường được nghe thấy những từ ngữ sau: “Tập trung cao
độ”, “Vui sướng khôn xiết”, “Mê đắm như ngây dại”... “Tập trung cao độ” là kinh
nghiệm chung mà những người vĩ đại những người thành công đã có. Một nhà
thư pháp nổi tiếng Trung Quốc trong một lần đang sáng tác được học trò mời ăn
bánh chấm tương. Nhưng khi vợ ông vào, lại thấy miệng chồng mình đầy mực.
Thì ra do mải viết chữ, ông lấy bánh chấm vào nghiên mực tàu và cứ thế ăn,
không hề hay biết. Không những thế, ông còn luôn miệng nói với vợ là bánh rất
ngon. Tập trung cao độ cũng giống như xuyên qua một bức tường sắt, có thể
chiếm được đỉnh cao của tri thức. Học tập cần có sự hứng thú. Khi trạng thái
hưng phấn, tư duy của con người mới hoạt bát, tư tưởng mới rộng mở, trí liên
tưởng mới phong phú, sáng tạo mới mãnh liệt. Đồng thời mọi năng lực khác của
con người như phân tích, tổng hợp, trừu tượng, khái quát... đều mạnh mẽ. Hiệu
suất học như vậy nhất định rất cao, hiệu quả học tập nhất định sẽ tốt.
Nếu thường xuyên trong trạng thái “Tập trung cao độ”, “Vui sướng khôn
xiết” sẽ rất có lợi cho việc nâng cao thành tích học tập, có lợi cho sự phát triển
phẩm chất và năng lực học tập. Trạng thái này có thể khiến người ta hình thành
nên phương pháp sáng tạo cái mới trong học tập, từ đó càng kích thích người ta
ham học hơn.
Học tới mức “mê đắm như ngây dại” khiến người ta có thể lĩnh hội được
sâu sắc và đạt được sự lý giải độc đáo, là bước ngoặt chuyển hóa phát huy tiềm
năng của con người, là khởi nguồn tinh thần sáng tạo của con người. Ở một
phương diện nào đó, những người đã gặt hái được thành công đều có những
kinh nghiệm học tập như vậy.
Hứng thú còn có một tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của con
người, đó là tác dụng định hướng. Một người bây giờ làm gì, không làm gì đều
do hứng thú của mình định hướng. Vì vậy cần phải nỗ lực để hướng cho niềm
hứng thú của mình phát triển khỏe mạnh, tích cực, kiên quyết cự tuyệt và khống
chế những hứng thú không chính đáng, tầm thường, ví dụ đánh bạc...
Trong một xã hội hiện đại, một người hiện đang làm gì, tương lai sẽ làm gì
có mối quan hệ rất lớn tới hứng thú. Đặc biệt khi hứng thú ở một phương điện
nào đó của một người kết hợp với chí hướng của anh ta, nói một các khác là khi
hứng thú được kết hợp với lý tưởng và mục tiêu lớn trong tương lai sẽ hình
thành nên hứng thú có ý chí. Niềm hứng thú lúc này có tác dụng chuẩn bị toàn
diện đối với sự phát triển tương lai của con người. Hứng thú sâu sắc sẽ khiến
cho mục tiêu lý tưởng to lớn được kiên định, thực hiện thuận lợi, thành tích huy
hoàng.
Trong thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc chủ trương học tập
có mục đích, trong khi phương Tây nhấn mạnh tới hứng thú học tập. Ngày nay
cần phải kết hợp cả hứng thú học tập với mục đích học tập.
Bố mẹ cần phải hiểu rõ chiếc bánh lái “hứng thú” tuy phổ biến nhưng cũng
rất thần kỳ. Chỉ có xuất phát từ đó mới thực sự điều khiển tốt con thuyền cuộc
sống tương lai.
Nguyên tắc giáo dục:
Trong một xã hội hiện đại, một người hiện đang làm gì, tương lai sẽ làm gì
có mối quan hệ rất lớn tới hứng thú. Đặc biệt khi hứng thú ở một phương diện
nào đó của một người kết hợp với chí hướng của anh ta, nói một cách khác là
khi hứng thú được kết hợp với lý tưởng và mục tiêu lớn trong tương lai sẽ hình
thành nên hứng thú có ý chí.)
III. LÀM THẾ NÀO ĐỂ BỒI DƯỠNG ĐƯỢC NIỀM HỨNG THÚ Ở TRẺ:
Đối với việc bồi dưỡng niềm hứng thú ở trẻ, có mấy phương pháp cơ bản
sau:
1. Phương pháp mở rộng:
Trong quá trình con người tiếp xúc nhiều với sự vật đọc nhiều sách, liên
tưởng nhiều... tất yếu sẽ nảy sinh hứng thú.
Khi tiếp xúc với thế giới rộng lớn phức tạp, muôn màu sắc như sông núi,
non nước, thực vật, động vật, với cuộc sống, công việc, nghệ thuật, khoa học,
khoa học kỹ thuật cao..., bất kỳ lúc nào cũng có thể khơi gợi được trí tò mò của
con người.
Khi đọc lịch sử, địa lý, thi ca, tản văn, khi đọc báo, tạp chí..., con người
cũng đều có thể khơi gợi được niềm hứng thú bất kỳ lúc nào.
Hãy giúp trẻ mở rộng cuộc sống. Trong thực tiễn mở rộng đó, khi trẻ tiếp
xúc và tham gia, hãy giúp chúng suy nghĩ tích cực, phát huy trí tưởng tượng,
cảm nhận niềm vui sướng, nhấn mạnh đến thể nghiệm. Hứng thú học tập, yêu
thích học, bao gồm cả một dạng nhu cầu học tập mạnh mẽ không thể nói rõ
được cũng đều nảy sinh và phát triển tự nhiên từ nội tâm.
2. Phương pháp đột phá:
Bồi dưỡng niềm hứng thú ở trẻ cần có trọng điểm, phải tìm ra một điểm
đột phá. Nói một cách khác cần phải giúp trẻ nhận thức được, phát huy được ưu
thế của mình phong phú hơn. Ví dụ nếu trẻ có xu hướng giỏi một môn học nào
đó, hãy tập trung học và làm bài tập môn đó tốt hơn nữa. Thậm chí có thể
chuyên tâm học môn đó để trở thành “mũi nhọn học tập” để thầy cô giáo và các
bạn phải công nhận, tán dương. Đó cũng là một phương pháp có ích hình thành
nên niềm hứng thú tập trung của một con người. Một trong những đặc trưng cá
tính tốt của các nhân vật xuất sắc là có hứng thú chính và hứng thú phụ, tức là
kết hợp cả hứng thú trọng tâm và nhiều hứng thú phụ. Nhưng để tránh tính tùy
tiện của hứng thú, tức là hôm nay thích cái này, ngày mai thích cái khác, không
có cái nào ổn định cả, không chịu đầu tư lao động vào bất cứ niềm hứng thú
nào, không có thành quả. Sự tùy tiện này rất bất lợi đối với việc học tập và phát
triển của trẻ.
Một cách làm khác là tập trung sức lực để chuyển biến cái “không hứng
thứ”. Hứng thú là một dạng thể nghiệm tình cảm được hình thành trong quá trình
con người tham gia, hoạt động và trong khi đã chịu bỏ sức lao động. Nội dung
học tập ở nhà trường đều là những thứ phù hợp với nhu cầu nội tại của thanh
thiếu niên. Chúng đều cần phải có hứng thú. Ví dụ việc học ngoại ngữ, khi cả
nhà đi chơi, trẻ một mình trò chuyện cười đùa với người nước ngoài, giao lưu
được với nhau sẽ khiến bố mẹ rất vui mừng, khiến mọi người ngưỡng mộ. Sao
lại không có hứng thú cơ chứ? Tất cả những cái bị gọi là vô vị mất hứng là vô
vàn lý do khiến thành tích học tập của trẻ bị sút kém, bị phê bình, cảm thấy khó
chịu và khó khăn.
Đối với những sự vật cần cho sự phát triển cá nhân, phát triển xã hội, chỉ
cần mình không ngừng đầu tư vào nó sẽ làm nảy sinh tình cảm, và hình thành
nên niềm hứng thú.
3. Phương pháp chuyển dời:
Phương pháp chuyển niềm hứng thú của con người trong một lĩnh vực
nào trở thành niềm hứng thú học tập được gọi là phương pháp di chuyển hoặc
chuyển dời niềm hứng thú. Ví dụ, có trẻ thích ca hát, như vậy hãy khuyến khích
hát nhiều ca khúc tiếng Anh hơn sẽ giúp cháu tăng thêm hứng thú học ngoại
ngữ.
Trong niềm hứng thú của con người đối với một phương diện nào đó đều
bao gồm cả nội dung học tập, đều có quan hệ bên trong với những giáo trình cơ
bản được xây dựng ở nhà trường. Việc diễn đạt hoặc viết thành sách những
kinh nghiệm và cảm nhận của niềm hứng thú một phương diện nào đó sẽ được
chuyển thành hứng thú ngôn ngữ, làm văn... Khi muốn phát triển những hứng
thú này, rất cần có ngoại ngữ hoặc các môn khoa học làm cơ sở, từ đó dẫn dắt
sự phát triển hứng thú học tập chúng.
Giúp trẻ xuất phát từ tình huống cụ thể, không ngừng nỗ lực, thì việc đem
hứng thú trong phương diện khác chuyển thành niềm hứng thú học tập sẽ thành
công dễ dàng.
4. Phương pháp thảo luận:
Học tập bằng phương pháp thảo luận là cách học hiện đại kiểu tập thể
cùng tương hỗ lẫn nhau. Cách học này rất có lợi giúp trẻ đạt được sự nhận biết
chân thực, tăng cường năng lực, phát triển giao lưu. Học tập mang tính tìm tòi
nghiên cứu cũng có lợi cho việc hình thành và phát triển hứng thú học tập. Trong
quá trình thảo luận, trẻ có thể thể hiện được nhiều nhất tính sâu sắc của tư duy,
tính nhạy cảm, tính phong phú, tính phán đoán của mình. Thảo luận cũng là
cách dễ chinh phục tình cảm của con người nhất, nảy nở sự nhiệt tình và cảm
động. Những cuộc thảo luận và tranh cãi kịch liệt cũng có thể kích thích được
nhiều nhất niềm hứng thú học tập và hứng thú tìm tòi nghiên cứu. Do đó khuyến
khích con cái thường xuyên tham gia thảo luận cùng bạn học, cùng thầy cô giáo
hoặc bố mẹ là một phương pháp tốt kích thích niềm hứng thú của trẻ.
5. Phương pháp lý trí:
Ngày nay việc bồi dưỡng niềm hứng thú ngày càng cần phải tự tiến hành
một cách tự giác. Chúng ta còn phải không ngừng củng cố, duy trì, phát triển
niềm hứng thú thành tài. Những điều này đều cần có lý trí.
Kết hợp hứng thú với mục tiêu to lớn trong tương lai, tạo thành niềm hứng
thú có ý chí, đòi hỏi mục đích học tập. Xây dựng được lý tưởng lớn đòi hỏi phải
có lý trí.
Kết hợp đặc trưng thời đại, tiến hành quản lý niềm hứng thú một cách toàn
diện lại càng cần phải có lý trí.
Tóm lại, cần phải hướng dẫn trẻ biết tận dụng niềm hứng thú, điều chỉnh
bản thân, làm mới mình và phát triển mình.
Những vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
1. Khi một người có thể kết hợp được hứng thú và sự nghiệp bản thân sẽ
được coi là một sự kiện trọng đại. Mặt khác mọi thành công lại đều liên quan tới
hứng thú. Vậy, trên cơ sở đó, chúng ta có thể tiến hành nghiên cứu và suy ngẫm
chuyên môn về “hứng thú” không?
2. Trong quá trình phát triển hứng thú của trẻ, bố mẹ và gia đình đảm
nhận vai trò rất quan trọng. Chủ yếu là vai trò gì?
Ý thức ẩn chứa năng lực to lớn
Chương 4. KHAI PHÁ Ý THỨC TIỀM ẨN CỦA TRẺ
Trong xã hội ngày càng có nhiều người quan tâm và chú trọng việc khai
phá ý thức tiềm ẩn của con người. Muốn khai phá tiềm năng học tập của trẻ,
trước tiên cần phải nhận thức được sự tồn tại khách quan của ý thức tiềm ẩn.
I. Ý THỨC TIỀM ẨN LÀ GÌ?
Cái gì được gọi là ý thức tiềm ẩn của con người? Ý thức tiềm ẩn còn được
gọi là “vô ý thức”, nhằm chỉ những ý thức mà con người không hề ý thức được,
là một dạng ý thức không hề có ý thức tham gia.
Con người không thể cảm nhận được, cũng không thể ý thức được ý thức
tiềm ẩn. Vậy nó có tồn tại thật không? Con người thông qua những giải thích về
những hiện tượng dưới đây để chứng tỏ sự tồn tại:
- Tồn tại trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc sống hàng ngày, con
người thường xuất hiện ngôn từ và hành vi “vô ý thức”, đặc biệt thường xảy ra
trong những tình huống rất đột ngột, bất ngờ, hoặc gặp nguy hiểm. Khi xuất hiện
chúng sẽ bộc lộ ra động cơ chân thực có ý thức. Do đó ngôn ngữ và hành vi “vô
ý thức” của con người có thể thể hiện được nhân cách của con người nhất.
Ngoài ra, khi con người rơi vào tình huống khiếp sợ, sẽ xuất hiện một số chứng
bệnh tâm lý, phần lớn là kết quả hoạt động tâm lý lấy ý thức tiềm ẩn làm cơ sở.
- Khi buồn ngủ, con người cũng dễ nảy sinh ý thức tiềm ẩn, có thể nhớ lại
những cảnh thời bé mà thực ra đã quên mất từ lâu. Sau khi tỉnh giấc có thể quên
sạch tất cả mọi chuyện.
- Khi ở trong trạng thái trực giác và linh cảm mang tính sáng tạo, những
hoạt động tâm lý của con người lúc này có thể chứng minh được rõ nhất sự tồn
tại và tác dụng của ý thức tiềm ẩn. Giống như nhà khoa học, vật lý học nổi tiếng
Trung Quốc Tiền Học Sâm đã từng nói: “Có thể trực tiếp khống chế được ý thức
nhưng không thể khống chế nổi ý thức tiềm ẩn. Nhưng dù nó đang làm việc thật
nhưng vẫn không biết được nó đang làm việc gì, trạng thái công việc ra sao. Có
lúc phải đau đầu suy nghĩ, không tìm được lối ra, nhưng không biết xảy ra
chuyện gì thì nó lại đột ngột ùa tới. Đó chính là linh cảm”.
- Ngày càng có nhiều người cho rằng nằm mơ là một chứng cứ có sức
thuyết phục nhất của ý thức tiềm ẩn.
- Căn cứ vào việc lấy giả thuyết tiềm ý thức để xây dựng nên kỹ thuật
phân tích tinh thần chữa trị cho các bệnh nhân thần kinh có hiệu quả, đã gián
tiếp chứng minh được rằng ý thức tiềm ẩn thực sự tồn tại.
Có thể thấy rằng ý thức tiềm ẩn là ý thức mà con người không ý thức
được nhưng lại tác động thực sự tới hoạt động tâm lý.
Chúng ta thường nói rằng ý thức của con người là những hoạt động tâm lý
mà con người có thể cảm nhận được một cách rõ ràng hoặc có thể nghĩ tới tùy
ý. Nó có đặc điểm: tính lôgíc, tính thời gian và không gian, tính hiện thực... Để
phân biệt rõ với ý thức tiềm ẩn, người ta gọi loại ý thức thông thường là “ý thức
hiển thị”.
Fluoyide đã nói: “Ý thức như là một góc của bề mặt tảng băng trôi trên mặt
nước, còn ý thức tiềm ẩn chính là phần chìm dưới nước không biết sâu bao
nhiêu, dày bao nhiêu”. Nhiều nhà tâm lý học, nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học và
nghiên cứu tiềm năng cũng đều rất tán thành quan điểm này. Cho đến tận ngày
nay, ý thức tiềm ẩn vẫn chiếm đa số ý thức của con người. Thế nhưng con
người hiếm khi sử dụng và phát triển chúng, trái lại còn coi thường, không tôn
trọng và không rõ về ý thứ tiềm ẩn.
Nguyên tắc giáo dục:
Có thể xác định rằng, ý thức tiềm ẩn là tiềm năng to lớn tồn tại có thật
trong bộ não con người. Nếu so sánh với ý thức hiển thị thì năng lượng của ý
thức tiềm ẩn không thể cân đo đong đếm bằng các con số.
Fluoyide còn chỉ ra rằng ý thức tiềm ẩn tức là sự kích động của bản năng
trong bóng tối chi phối ý thức. Ý thức tiềm ẩn là động lực cơ bản trong hoạt động
tâm lý của con người, là động cơ của con người, cũng là khởi nguồn cho các ý
tưởng.
Ý thức là thứ có năng lượng và ý thức tiềm ẩn cũng là thứ có năng lượng.
Vì vậy có thể xác định rằng ý thức tiềm ẩn là tiềm năng to lớn tồn tại có thật
trong bộ não con người. Nếu so sánh với ý thức hiển thị thì năng lượng của ý
thức tiềm ẩn không cân đo đong đếm bằng các con số.
Trong thời kỳ thanh thiếu niên, do trong động cơ luôn có nhiều ý thức tiềm
ẩn nên những năm tháng trẻ trung này luôn đầy sức sống. Giúp đỡ trẻ hướng tới
thành công có một phần rất quan trọng chính là cần phải coi trọng ý thức tiềm ẩn
và các năng lượng còn ẩn giấu (tiềm năng).
II. HỌC TẬP BẰNG Ý THỨC TIỀM ẨN
1. Tồn tại cách học bằng ý thức tiềm ẩn: Hoạt động nhận thức của con
người là hoạt động thống nhất và liền mạch. Quá trình học tập của con người là
quá trình phát triển của cả cuộc đời. Ý nghĩa bản chất của sự tồn tại ý thức tiềm
ẩn chính là nằm ở chỗ nó tham gia vào quá trình học tập của sự phát triển cuộc
đời.
Khi một người đang học, đang thu được thông tin, tích lũy thông tin, ý thức
tiềm ẩn của anh ta cũng cùng anh ta nắm bắt và tích lũy thông tin. Nhưng có khi
lại thu được những thông tin mà anh ta không ý thức được.
Khi một người khắc khổ, nỗ lực nhận thức một sự vật, ý thức tiềm ẩn rất
có thể ghi lại được một số đặc trưng bản chất quan trọng của sự vật.
Cũng giống như việc ý thức tiềm ẩn chiếm phần lớn trong toàn bộ ý thức
của con người, việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn là một bộ phận cấu thành quan
trọng của cả quá trình học tập của con người. Nếu việc học tập không có sự
tham gia của ý thức tiềm ẩn là điều không thể.
Tác giả cuốn sách này khi còn nhỏ đúng vào thời kỳ chiến tranh trước giải
phóng, bố qua đời sớm. Mẹ để nuôi con đã phải nhờ vậy vào bạn bè, người
thân, vất vả cực nhọc tới mắc bệnh lao phổi, nhiều phen nguy kịch, bi thảm.
Cùng với tuổi tác ngày một khôn lớn, những sự kiện thời thơ ấu cũng nhạt nhòa
dần và dần quên mất; sau này cũng không có ý định hồi tưởng lại chúng. Nhưng
những lúc rỗi rãi, nhất là có khi ngủ nằm mơ, những cảnh vất vả, cô độc trong
gió mưa trước đây lại hiện ra rõ nét, hoàn chỉnh khiến chính tác giả phải kinh
ngác.
Sau khi tác giả cuốn sách tốt nghiệp phổ thông trung học, vừa tham gia
công tác đã bị rơi vào thời kỳ mười năm loạn lạc. Khi bản thân đang tràn đầy
nhựa sống, tinh thần dồi dào nhưng không có đất phát triển. Vì thế tác giả
thường trốn tránh những nơi công cộng huyên náo, một mình vào rừng vẽ tranh
hoặc đi bộ. Trước quang cảnh núi rừng núi non trùng điệp yên tĩnh mờ sương,
tác giả thực sự rung động. Cũng trong thời gian này, ý thức tiềm ẩn cũng trở nên
tích cực và hoạt bát hơn, gặt hái được nhiều cái đẹp hơn. Khi sáng tác tranh
phong cảnh và tranh con người, đặc biệt khi tác giả đang ở trạng thái hưng
phấn, tràn ngập cảm xúc thì những hình ảnh hài hòa, tuyệt diệu không ngừng loé
lên trong đầu. Tác giả là nhà vật lý học, giáo dục học, chuyện vẽ tranh chỉ là
nghiệp dư, song những tác phẩm đầy ắp tình cảm đó cũng đủ khiến các bạn bè
trong ngành hội họa phải kinh ngạc. Bản thân tác giả cũng thường bị kinh ngạc.
Tác giả nhiều lần đi giảng bài ở nhiều nơi khắp Trung Quốc. Mỗi lần đến đâu
cũng thích nghe kể về nhân tình thế thái, trào lưu xã hội, quần áo, dung mạo, cử
chỉ ngôn ngữ... đặc trưng ở vùng đó. Như vậy ý thức hiển thị và ý thức tiềm ẩn
đều đang học tập, thậm chí còn học rất sâu. Những việc học đó càng giúp nhận
thức của khán giả về cuộc đời và về mọi thứ phát triển khác thêm sâu sắc, thêm
hoàn thiện.
2. Không ngừng học tập bằng ý thức tiềm ẩn: ý thức tiềm ẩn không bị ý
thức khống chế. Hoạt động của nó không có tính thời gian. Ý thức có thể nằm ở
trạng thái đang học hoặc không học, nhưng ý thức tiềm ẩn không ngừng học tập.
3. Tự do học tập bằng ý thức tiềm ẩn: Chính vì ý thức tiềm ẩn không bị
ý thức khống chế nên nó không bị trói buộc khi tiến hành hoạt động. Một người
tiếp cận được tín hiệu gì, ý thức tiềm ẩn lập tức sẽ tiếp thu và lưu trữ ngay tín
hiệu đó.
4. Học tập bằng ý thức tiềm ẩn độc đáo: Những hoạt động ý thức tiềm
ẩn tự do, không ngừng ở trên đã là đặc tính của việc học tập bằng ý thức tiềm
ẩn. Như vậy, các nhà nghiên cứu ý thức tiềm ẩn còn cho rằng, ý thức tiềm ẩn
lưu giữ bằng phương thức khuôn hình. Nói một cách khác là tất cả những thứ
mà con người gặt hái được đều được lưu giữ trong ý thức tiềm ẩn của con
người bằng phương thức khuôn hình.
Khi một số họa sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, nhà phát minh
ở trong trạng thái có cảm xúc thì những linh cảm sáng tác quý báu đó đều được
xuất hiện bằng hình thức khuôn hình hoặc cảm giác khuôn hình.
Giấc mơ hầu như cũng xuất hiện bằng hình ảnh và cảnh vật. Có lúc nó rõ
ràng, có lúc mờ nhạt, có lúc một màu xám xịt, có lúc lại có màu sắc rực rỡ... Nó
luôn đem lại cho con người cảm giác khuôn hình điện ảnh.
Cần phải khai phá và lợi dụng nhiều hơn nữa đặc tính tồn tại bằng khuôn
hình của ý thức tiềm ẩn.
5. Phát triển học tập bằng ý thức tiềm ẩn: ý thức không thể khống chế
được việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn, nhưng ý thức có thể từ nhiều phương
diện khác phát triển việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn.
Khi con người tiếp xúc với tín hiệu gì, ý thức tiềm ẩn sẽ thu gọn, lưu trữ
ngay ý tín hiệu đó. Con người phải vận dụng tốt quy luật này để thúc đẩy sự phát
triển việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn.
Khi đang học, trẻ nỗ lực kết hợp những từ ngữ và kí hiệu trừu tượng với
hình tượng cụ thể; và cùng kết hợp với thực tiễn và thể nghiệm sinh động; kết
hợp với sự phát triển xã hội phong phú nhiều màu sắc. Như vậy ý thức tiềm ẩn
sẽ được học hỏi nhiều hơn.
Việc học tập có năm yếu tố tham gia: tư duy, tình cảm, hoạt động cơ thể,
khả năng và phẩm chất đạo đức. Khi đứa trẻ nỗ lực tiến hành học tập cùng năm
yếu tố này, ý thức tiềm ẩn cũng cùng tham gia ngày càng nhiều.
Ví dụ khi bạn tới một môi trường mới, tiếp xúc với một sự vật mới, khi cảm
thấy chưa thích ứng được, bạn sẽ phải tiếp xúc nhiều hơn, tham gia nhiều hơn.
Như vậy sẽ thích ứng được nhanh hơn. Tất nhiên nhu cầu của môi trường mới
cũng thúc đẩy bạn phải học tập bằng ý thức tiềm ẩn, và ý thức tiềm ẩn của bạn
cũng rất “bận rộn” học tập và làm việc. Sau khi trải qua sự nỗ lực suốt một thời
gian dài, đột nhiên bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã hòa nhập được với môi trường
mới, với sự vật mới một cách thân thiết.
Khi trẻ gặt hái được tiến bộ và thành công, cần phải lật đi lật lại, nhấn
mạnh tới tình cảnh thành công. Điều này rất có lợi cho sự phát triển ý thức. Điều
quan trọng hơn là ý thức tiềm ẩn cũng ở trong quá trình này, do vậy cũng gặt hái
và lưu giữ được nhiều hơn. Khi gặp phải thời khắc quan trọng phải khắc phục
khó khăn, ý thức tiềm ẩn sẽ nảy sinh động lực chiến thắng dục vọng, thúc đẩy
trẻ gặt hái được thành công hơn nữa.
Ngoài ra khi trẻ kiên định một mục tiêu nào đó của cuộc đời và nỗ lực thực
hiện nó một cách toàn tâm toàn ý thì ý thức sẽ tích cực, đạt hiệu quả cao thúc
đẩy trẻ học tập và làm việc. Xin chú ý rằng còn có rất nhiều ý thức tiềm ẩn khác
cũng giúp đỡ trẻ một cách tích cực và sống động. Khi trẻ nhận thấy việc khắc
phục khó khăn ngày một dễ dàng, thậm chí có lúc sẽ xuất hiện những thuận lợi
bất ngờ thì một lòng muốn mọi việc thành công. Nhà tâm lý học người Mỹ I.K
Uyliam đã nói, bất kỳ việc hiểu, đặt kế hoạch hoặc lập ra mục đích gì, chỉ cần có
niềm tin mãnh liệt và suy đi nghĩ lại nhiều lần, nó rất yếu mới chứa đựng cả ý
thức tiềm ẩn, biến nó thành mạch nguồn của hành động tích cực.
Khi một người học và làm việc tốt thì khi đi tới đâu tìm kiếm thầy tốt bạn
hiền, bên mình cũng luôn có một người giúp đỡ, không ngừng kích thích ý
nguyện cho anh ta, thúc đẩy những ngôn từ và hành vi của anh ta, giúp anh cảm
nhận bằng linh cảm và trực giác được chính xác nhất đâu là người cần tìm.
Người bạn vô hình đó chính là ý thức tiềm ẩn. Sẽ không có một “người bạn” nào
thân thiết và đáng quý hơn ý thức tiềm ẩn.
Nguyên tắc giáo dục:
Khi trẻ gặt hái được tiến bộ và thành công, cần phải lật đi lật lại, nhấn
mạnh tới tình cảnh thành công. Điều này rất có lợi cho sự phát triển ý thức.
Ngoài ra khi trẻ kiên định một mục tiêu nào đó của cuộc đời và nỗ lực thực hiện
nó một cách toàn tâm toàn ý thì ý thức sẽ tích cực, đạt hiệu quả cao thúc đẩy trẻ
học tập và làm việc.
Ý thức tiềm ẩn là sự tích lũy lịch sử lâu dài của nhân loại, mang tiềm năng
cực kỳ to lớn.
Đối với con cái chúng ta, nhất thiết phải nhìn nhận đúng đắn, phải hiểu rõ
về ý thức tiềm ẩn và về việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn. Phải nỗ lực phát triển,
khai thác nó. Nó được phản ánh, tác động sâu sắc và sáng tạo nên cuộc đời con
người. Nó là bộ phận cơ sở chủ yếu của cuộc đời hoàn chỉnh của con người.
III. KHAI THÁC VIỆC HỌC TẬP BẰNG Ý THỨC TIỀM ẨN
Làm thế nào để tận dụng và khai thác được việc học tập bằng ý thức tiềm
ẩn? Dưới đây là một số nỗ lực cơ bản phải làm được:
1. Khích lệ trẻ tham gia nhiều hơn, tăng cường cảm nhận, thể nghiệm:
Trước hết cần phải hướng cho trẻ học tốt môn mà chúng muốn học. Con
người cần phải phấn đấu, ý nghĩa phấn đấu của con người có nhiều mặt. Và một
trong ý nghĩa đó chính là kích thích và phát triển ý thức tiềm ẩn. “Nếu được sống
theo lý tưởng, tinh thần được tự do thực sự, nghị lực dũng cảm, tư tưởng chân
thành không ích kỷ vụ lợi thì nhất định đạt tới cảnh giới toàn mỹ nhất”.
Trong quá trình phấn đấu giành giật thành công, con người sẽ cảm nhận
được nhiều thứ còn tuyệt diệu hơn cả thành công. Trong đó có hoạt động tâm lý
với ý thức tiềm ẩn. Do vậy trong quá trình học tập, trẻ sẽ cảm nhận được sức
quyến rũ nhiều mặt từ bản thân việc lao động học tập. Đó là điểm căn bản khiến
trẻ ham học, và biết học.
Cố gắng mở rộng hơn những phạm vi liên quan tới việc học tập của trẻ.
Giúp trẻ được tiếp xúc thường xuyên với tản văn, thi ca, mỹ thuật, âm nhạc.
Chúng sẽ giúp trẻ vứt bỏ được những buồn bực, cảm nhận được cái đẹp, rất có
lợi cho việc phát triển ý thức tiềm ẩn của trẻ. Ngày nay, con người vẫn chưa tính
được tác dụng to lớn của những thứ nghệ thuật hóa đối với sự phát triển của
con người. Đối với việc học của trẻ, cần phải nỗ lực đẩy mạnh việc tham gia của
năm yếu tố đã nói ở trên. Chỉ khi phần hướng nội và hướng ngoại cùng tham gia
nhiều hơn, con người mới có thể tăng cường sự cảm nhận và thể nghiệm, từ đó
mới có thể tận dụng và phát triển ý thức tiềm ẩn một cách tốt hơn:
2. Muốn thành công, phải nhấn mạnh thành công
Muốn trẻ gặt hái được thành công, nhất thiết phải phù hợp với tâm tính
của trẻ. Mục tiêu cuộc đời nhất định phải cụ thể, vừa phải. Cần phải phù hợp với
tâm lý thanh thiếu niên “có thể hy vọng được mới có thể nỗ lực hơn”, “có thể với
tới được mới muốn làm”. Khiến chúng tìm được cảm giác “tiến bộ dễ dàng”, cảm
nhận được “mình làm được”. Đối với trẻ, nếu vận dụng được sách lược “khởi
điểm thấp, ít gập ghềnh, phấn đấu cao, phát triển lớn” thì đều có cơ hội giành
được thành công.
Phải nghĩ đủ trăm phương nghìn kế để giành được thành công. Phải nhấn
mạnh thành công.
Học cách tự mình nhấn mạnh thành công, cố gắng dùng tình cảnh, hình
ảnh để nhấn mạnh tình cảnh thành công. Điều này rất tốt cho việc khai thác ý
thức tiềm ẩn và việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn của trẻ.
3. Phải kết hợp giữa bận rộn với nhàn rỗi, phải giác ngộ phát triển:
Hướng dẫn trẻ dù việc học tập có bận rộn đến đâu cũng phải học cách
khiến mình “nhàn rỗi”.
Hướng dẫn trẻ lúc học tập trong môi trường yên tĩnh hoặc đêm khuya
thanh vắng vẫn giữ được tâm lý thoải mái, tự do. Đó là lúc nghỉ ngơi, giác ngộ,
lại càng khai phá thực tiễn của ý thức tiềm ẩn. Trong phần lớn hoàn cảnh, khi
tâm lý thoải mái, ý thức tiềm ẩn mới xuất hiện.
Nguyên tắc giáo dục:
Những nội dung mà trẻ hứng thú trong thời gian đi học có khả năng lớn
nhất trở thành nghề nghiệp tương lai. Con người được làm đúng nghề mà mình
yêu thích thì không thể tách biệt được là công việc hay là sự hưởng thụ. Đó
chính là điều hạnh phúc nhất, vui sướng nhất.
4. Cần phát triển hứng thú, hình thành thói quen: Hứng thú của con
người là một dạng tâm lý tự nhiên, nguyên sơ, bao gồm tính xúc động và tính
kích động. Do vậy hứng thú có mối quan hệ mật thiết với tiềm năng và ý thức
tiềm ẩn.
Hứng thú học tập là một dạng nguyện vọng tích cực thể hiện nguyện vọng
của một con người khát vọng đạt được tri thức. Nhất là khi trẻ đang bị kích động,
háo hức tò mò, có thể thúc đẩy trực tiếp tới hoạt động học tập, giành được hiệu
quả học tập tốt. Trên cơ sở đó, trẻ sẽ ham học và biết cách học đối với những
môn mà chúng có hứng thú. Thậm chí có thể rơi vào tình huống học quên mình.
Nếu biết cách lấy “thú vui học hành” đó chuyển sang việc học những môn khác
sẽ có tác dụng lớn đối với việc hình thành phẩm chất học tập tốt và đối với sự
phát triển của con người.
Đối với những nội dung có hứng thú, trẻ không những học nhanh, học tốt,
mà còn biết lĩnh hội sâu sắc hơn, mở rộng hơn, độc đáo hơn, sáng tạo hơn. Do
vậy A.Einstein đã nói “Hứng thú là người thầy tốt nhất”. Những nội dung mà trẻ
hứng thú trong thời gian đi học có khả năng lớn nhất trở thành nghề nghiệp
tương lai. Con người được làm đúng nghề mà mình yêu thích thì không thể tách
biệt được là công việc hay là sự hưởng thụ. Đó chính là điều hạnh phúc nhất, vui
sướng nhất.
Một công việc được yêu thích, được quan tâm sẽ giải phóng được phần
lớn tiềm năng của người làm công việc đó, hình thành nên vòng tuần hoàn tốt
đẹp của việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn và giải phóng tiềm năng. Đồng thời sẽ
thể hiện được đầy đủ giá trị bản thân, từ đó phát triển huy hoàng hơn.
Nhũng vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
Không thể tính được tiềm năng của bất kỳ đứa trẻ nào. Có người nói, mỗi
đứa trẻ đều có thể là thiên tài. Chỉ có điều chúng ta làm thế nào để khơi dậy và
phát triển được những tiềm năng đó? Chúng ta làm thế nào để thiết lập được với
trẻ một mối quan hệ hợp tác khai phá tiềm năng?
Đặc trưng thời đại của thói quen học tập
Cụ thể hóa và hệ thống hóa thói quen học tập
Nguyên tắc chủ yếu trong việc bồi dưỡng thói quen học tập Phương pháp
và sách lược cơ bản của việc bồi dưỡng thói quen học tập
Chương 5. THÓI QUEN - ĐỀ TÀI LUÔN MỚI TỪ TRƯỚC TỚI NAY
I. ĐẶC TRƯNG THỜI ĐẠI CỦA THÓI QUEN HỌC TẬP:
Nói rằng bồi dưỡng thói quen của con người là một đề tài luôn mới từ
trước tới nay là đúng. Ngày nay việc bồi dưỡng thói quen, đặc biệt là việc bồi
dưỡng thói quen học tập, đã mang tinh thần thời đại rõ rệt. Sự phát triển của con
người hiện đại và tình hình phát triển xã hội cũng chứa đựng nội dung mới, tư
tưởng và phương thức mới.
1. Thói quen học tập lành mạnh thể hiện tiến triển xã hội học tập hóa:
Thói quen hành vi học tập lành mạnh là nhu cầu của thời đại, càng là tiêu
chí cố định tiến triển xã hội học tập hóa.
Hội nghị nổi tiếng La Mã đã tuyên bố với thế giới rằng: “Học tập suốt đời là
khái niệm sinh tồn của thế kỷ XXI”. Tức là chứng tỏ tính quan trọng của học tập
sau khi bước vào thế kỷ mới, lại càng thể hiện được sự thích ứng và phản ứng
chủ động của nhân loại đối với thế kỷ XXI.
Nhiệm vụ chủ yếu mà một xã hội học tập hóa yêu cầu xã hội là thúc đẩy
việc giáo dục suốt đời. Đối với con người tức là thể hiện việc học tập suốt đời.
Cũng tức là thể hiện việc học bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào một cách tự giác và
chủ động. Hành vi xã hội và hành vi con người là thống nhất, từ đó hình thành
nên phương thức sống và học tập.
Bất luận là xét từ phương thức cuộc sống hay từ việc chủ động tích cực
bước vào thế kỷ XXI để sinh tồn đều yêu cầu con người phải có hành vi học tập
lành mạnh. Trung Quốc muốn thúc đẩy giáo dục tố chất cao cũng cần phải áp
dụng thực tế từ việc thay đổi hành vi con người.
Biểu hiện hành vi “thường có” của con người chính là thói quen. Trào lưu
xã hội cũng là biểu hiện thói quen của một nhóm người. Do vậy việc bồi dưỡng
thói quen học tập lành mạnh ngày nay có đặc trưng thời đại là phải học tập suốt
đời, chủ động thúc đẩy sự phát triển xã hội học tập hóa.
2. Thói quen học tập lành mạnh là thói quen giàu sức sống nhất:
Sự vĩ đại trong quan niệm “xã hội học tập hóa” còn bao gồm ba nội dung
sau:
- Một là nó vừa là quan niệm phát triển của xã hội, vừa là quan niệm phát
triển của con người. Đem hai quan niệm phát triển này kết hợp hữu cơ với nhau
sẽ thể hiện được quy luật cơ bản nhất của giáo dục và học tập.
- Hai là nó đề ra một cách rõ ràng lấy việc học tập nhằm đạt được sự hoàn
thiện của con người, khiến tiềm năng của con người có thể đạt tới mức phát
triển lớn nhất.
- Ba là xã hội học tập hóa đem việc học tập ở nhà trường đơn thuần của
con người phát triển thành việc học tập của tất cả bộ ngành mà con người tồn
tại. Do vậy việc học tập tất yếu bao gồm nội dung nhận thức, làm người, làm
việc, cùng chung sống... Thói quen học tập lành mạnh sẽ trở thành nhu cầu mọi
mặt của sự tồn tại của con người, là cơ sở và biểu hiện phát triển của mọi
phương diện mà con người tồn tại.
3. Việc tự bồi dưỡng của thói quen lành mạnh là sự tự giác làm mới hơn của cuộc đời con người:
Việc học tập suốt đời được bắt nguồn từ trẻ nhỏ, phải được xây dựng
chắc chắn từ thuở thiếu niên. Vì vậy việc bồi dưỡng thói quen học tập lành mạnh
trở thành nhu cầu phát triển cá thể của thanh thiếu niên. Lý luận và thực tiễn đã
chứng minh rằng thành tích học tập của trẻ tốt hay xấu, năng lực học tập mạnh
hay yếu, phẩm chất học tập là toàn vẹn hay thiếu hụt, chất lượng cuộc sống học
tập cao hay thấp, việc học tập của trẻ có tự giác hay không, có khiến bố mẹ và
thầy cô giáo mất công mất sức lo lắng hay không... đều có thể bắt nguồn từ chỗ
đứa trẻ có bồi dưỡng được thói quen học tập lành mạnh hay không.
Thói quen học tập lành mạnh là một dạng phương thức hành vi học tập có
hiệu quả. Tức là quyết định thành công trong sự nghiệp học tập của trẻ, đồng
thời cũng có tác động tới việc bồi dưỡng phẩm chất của chúng. Thói quen học
tập lành mạnh là một dạng thủ pháp của giáo dục tố chất, cũng là một nội dung
quan trọng của giáo dục tố chất.
Thói quen học tập lành mạnh kết hợp cả việc học tập chính quy bên ngoài
với việc học tập phi chính quy bên trong, có tác dụng cho việc phát triển thống
nhất của cá tính hóa và xã hội hóa con người.
Thói quen học tập lành mạnh kết hợp nhu cầu học tập ở tầng thứ sâu của
con người với hành vi tự động hóa; kết hợp nhu cầu hoàn cảnh với tài năng bẩm
sinh của con người. Thói quen học tập lành mạnh như vậy không chỉ có chức
năng động lực, mà còn là nguồn tài nguyên phong phú và tài sản của sự phát
triển cá nhân. Thói quen học tập lành mạnh bắt nguồn từ thực tế cuộc sống, bắt
đầu từ chi tiết học tập, hình thành nên phương thức hành vi tự động, gây dựng
cơ sở chắc chắn cho việc hình thành nhân cách kiện toàn, cho việc phát triển
suốt đời.
Quá trình hình thành của thói quen học tập lành mạnh là một quá trình tự
đổi mới mình thực sự. Nó thể hiện đầy đủ con người là lý luận chủ thể, lý luận
phát triển cá tính và quy luật trưởng thành của thanh thiếu niên.
Tự giác bồi dưỡng thói quen lành mạnh, khắc phục những thói quen xấu
là một tiêu chí học cách tự làm mới mình, tự vượt qua chính mình, tự phát huy.
Chỉ khi một con người tự học cách làm mới mình, cách vượt qua chính mình thì
mới sáng tạo cuộc sống tốt hơn, mới góp phần làm giàu cho đất nước, sáng tạo
thế giới.
Việc hình thành một thói quen học tập mới, lành mạnh trên thực tế là một
lần sáng tạo cái mới của việc học tập của con người.
II. CỤ THỂ HÓA VÀ HỆ THỐNG HÓA THÓI QUEN HỌC TẬP
1. Thói quen học tập là gì?
Theo giải thích của “Từ điển Hán ngữ hiện đại”, ý nghĩa đầu tiên của thói
quen là nhiều lần tiếp xúc với một tình huống mới nào đó và dần dần thích ứng
được thói quen trở thành tự nhiên.
Theo giải thích của “Từ điển tâm lý học”, thói quen là nhu cầu hoặc khuynh
hướng của con người trong một hoàn cảnh nhất định đã tự động tiến hành một
hành động nào đó.
Hai giải thích trên đều rất chuẩn xác. Nó thể hiện được tính chủ động chủ
thể của sự phát triển của con người.
Nhưng thói quen học tập mà chúng ta nói đến ở đây là lấy sự phát triển
của con người làm căn bản, thể hiện đầy đủ sự phát triển thời đại và đặc điểm
cá tính; và phương thức hành vi tự động học tập và tương đối ổn định mà trẻ đã
hình thành được trong thực tiễn không ngừng của chúng. Trong đó bao gồm cả
tính thích ứng chủ động của sự phát triển của con người, tính ổn định của hành
vi, tính thực tiễn được hình thành, tính khác biệt và tính sáng tạo của cá thể. Do
đó trong quá trình giúp đỡ trẻ vươn tới thành công, cần phải làm nổi bật và nhấn
mạnh tới việc bồi dưỡng thói quen. Và trong khi bồi dưỡng tinh thần và đặc
trưng của thời đại, phải thể hiện được năng lực thực tiễn và tinh thần sáng tạo
cái mới.
2. Thói quen học tập cơ bản và phát triển (nghiên cứu) thói quen học tập:
Nội dung chính của thói quen học tập có thể được thể hiện bởi hình vẽ kết
cấu dưới đây:
a. Thói quen học tập cơ bản:
Thói quen học tập cơ bản là thói quen học tập mang tính cơ bản mà trẻ
cần phải chuẩn bị trong giáo dục thông thường ở nhà trường hiện nay. Đó là
điều kiện cơ bản mà trẻ tiến hành học tập một cách nghiêm túc cũng là quy
phạm hành vi mà các học sinh cần phải làm được.
Thói quen học tập cơ bản bao gồm: thói quen chuẩn bị bài mới, thói quen
học bài, thói quen ôn bài cũ, thói quen làm bài tập...
Trong thói quen hành vi ôn bài cũng có thể được cụ thể hóa như sau: thói
quen chuẩn bị bài mới, thói quen tự đọc bài, thói quen lựa chọn trọng điểm, thói
Thoi quen on bai cu
Thoi quen hoc bai
Thoi quen chuan bi bai moi
Thoi quen nam chac thong tin
Thoi quen lam bai tap
Thoi quen tu duy tot
Thoi quen ket hop hoc tap va ung dung
Thoi quen khoa hoc dung nao
Thoi quen hoc tap co ban
Thoi quen hoc tap khai pha
Thoi quen hoc tap ca tinh hoa
Ket cau pham chat cua con nguoi
quen lợi dụng công cụ, thói quen đề ra câu hỏi, thói quen ghi tắt các điểm cần
ghi nhớ, thói quen khái quát các phân tích, thói quen chủ động nghiên cứu, thói
quen ham học hỏi... Những thói quen này vừa cụ thể vừa hệ thống. Thói quen
chuẩn bị bài mới vừa nâng cao được chất lượng học tập, vừa thúc đẩy được trẻ
tự chủ động học tập.
Trong thói quen hành vi học trên lớp có thể được cụ thể hóa như sau: thói
quen chuyên tâm, thói quen ghi bài, thói quen tích cực suy nghĩ, thói quen ghi
nhớ, thói quen liên tưởng mở rộng, thói quen phát huy khả năng, thói quen nâng
cao hiệu suất học tập, thói quen thu hoạch mở rộng, thói quen nâng cao thẩm
mỹ, thói quen diễn đạt rõ ràng, thói quen cùng hợp tác nghiên cứu. Những thói
quen này càng được cụ thể hóa hơn, được hệ thống hóa hơn. Đi học là một mắt
xích tốt trong việc học tập của trẻ ở nhà trường. Nếu có thói quen đi học tốt sẽ
khiến cho cả quá trình học tập được chủ động, thoải mái, nhẹ nhàng, đạt hiệu
quả cao. Vì vậy thói quen học tốt có thể nâng cao chất lượng cuộc sống tổng thể
của con người.
Trong thói quen hành vi ôn lại bài cũ sau khi đi học về có thể được cụ thể
hóa rằng: thói quen củng cố trí nhớ, thói quen học bổ sung bất kỳ lúc nào, thói
quen nắm chặt trọng điểm, thói quen lý giải sâu sắc, thói quen nắm vững tổng
thể, thói quen luyện tập trí nhớ, thói quen tích lũy kinh nghiệm, liên hệ, thói quen
tổng hợp vấn đề, thói quen sáng tạo cái mới, thói quen nghiên cứu sâu... Những
thói quen ôn tập này cũng cần phải cụ thể hóa, hệ thống hóa. Thói quen ôn lại
bài cũ có thể khiến việc học tập thêm chân thực hơn, hệ thống hơn, tăng cường
tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức, tổng hợp lại tinh thần và kết cấu lại bên
trong.
Trong thói quen hành vi làm bài tập có thể cụ thể hóa như: thói quen làm
bài tập đúng giờ và tự làm độc lập, thói quen chú ý đọc kỹ đề bài, thói quen làm
bài tập đúng quy phạm, thói quen chú trọng tới chất lượng bài tập, thói quen tự
kiểm tra và kịp thời sửa chữa, thói quen tự xem xét phê bình, thói quen hiểu rộng
một vấn đề và tổng hợp nhiều vấn đề, thói quen tổng kết kinh nghiệm bài tập.
Đồng thời cũng cố gắng cụ thể hóa, hệ thống hóa. Có thói quen làm bài tập tốt
sẽ giúp việc học tập thêm hoàn chỉnh, có thể nâng cao thành tích và trí năng của
việc học, cũng có thể nâng cao năng lực thực tiễn và tinh thần sáng tạo cái mới.
Trong thói quen hành vi cơ bản bao gồm cả thói quen học tập mang tính
mở rộng (tính nghiên cứu). Một số thói quen trong việc học tập cơ bản còn có
thể cụ thể hóa và hệ thống hóa hơn. Như vậy rất có lợi cho việc hoàn chỉnh hệ
thống mục tiêu và thao tác thực tiễn. Thói quen học tập cơ bản sau khi được cụ
thể hóa và hệ thống hóa sẽ trở thành hệ thống thói quen, cũng là phương pháp
học tập; là cơ sở cho việc biết cách học và học suốt đời.
b. Thói quen học tập mở rộng (nghiên cứu):
Tiếng Anh của từ “mở rộng” là outward bound, xuất hiện trong Đại chiến
thế giới lần thứ hai khi Anh muốn giảm bớt những thương đau chiến tranh đã
tiến hành đào tạo, rèn luyện đầy khó khăn đối với các hải quân trẻ. Sau khi quan
niệm xã hội học tập hóa ra đời, việc rèn luyện mở rộng cũng hưng thịnh khắp thế
giới, thậm chí việc học tập suốt đời, giáo dục suốt đời đã trở thành một mất thời
thượng. Việc học tập mở rộng được nói đến ở nhằm chỉ việc phát huy lớn nhất
tiềm năng và những ưu thế lớn nhất của trẻ. Từ đó đạt được trạng thái tốt nhất,
giành được hoạt động học tập có thành tích tốt nhất.
Học tập mang tính nghiên cứu được hình thành trong thực tiễn giáo dục
của đông đảo các nhà làm công tác giáo dục ở Trung Quốc trong suốt một thời
gian dài. Nó chủ yếu là một dạng hoạt động học tập để trẻ có thể chủ động lấy
được tri thức, ứng dụng tri thức, tiến hành tìm tòi, nghiên cứu, giải quyết vấn đề
Bộ Giáo dục Trung Quốc ngay từ đầu thế kỷ này đã lấy việc học tập mang tính
nghiên cứu, thực tiễn xã hội, phục vụ xã hội và giáo dục kỹ thuật lao động tập
hợp lại thành “hoạt động thực tiễn tổng hợp” trong bộ sách tham khảo “kế hoạch
học tập phổ biến trong phổ thông cơ sở và trung học, phát hành rộng rãi toàn
quốc.
Nếu so sánh giữa việc học tập mang tính mở rộng và học tập mang tính
nghiên cứu thì nội dung của học tập mang tính mở rộng được toàn diện hơn,
giàu đặc trưng thời đại hơn. Do vậy, có thể lấy những thói quen liên quan đến
học tập trong thói quen học tập cơ bản tập hợp lại trong thói quen học tập mở
rộng. Nội dung chủ yếu gồm:
Thói quen học tập suy ngẫm tốt có thể cụ thể hoá rằng: thói quen suy
nghĩ, thói quen suy nghĩ độc lập, thói quen học cách suy nghĩ trong suy nghĩ, thói
quen học cách sáng tạo cái mới trong khi mô phỏng cái khác, thói quen nghĩ lật
ngược vấn đề, thói quen chất vấn nghi ngờ...
Thói quen học tập nắm vững thông tin có thể cụ thể hóa rằng: thói quen
tận dụng các thủ pháp khoa học kỹ thuật hiện đại để kiểm tra thông tin, thói quen
thường xuyên phân tích, thói quen tích lũy và quản lý thông tin, thói quen tập
hợp thông tin, thói quen vận dụng thông tin để tìm kiếm tri thức mới.
Thói quen học tập kết hợp có thể được cụ thể hóa rằng: thói quen tự tay
làm, thói quen đích thân thực tiễn, thói quen quan tâm hiện thực, thói quen điều
tra nghiên cứu, thói quen nhiệt tình hoạt động công ích, thói quen nhiệt tình vận
dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, thói quen biết hợp nhất, thói quen sáng tạo,
phát minh...
Thói quen học tập khoa học dùng đầu óc để học tập có thể cụ thể hóa
rằng: thói quen học tập, nghỉ ngơi đúng giờ, thói quen vệ sinh não, thói quen
phát triển não trái, thói quen giữ tâm trạng được yên bình vui vẻ thói quen tâm
trạng tích cực...
Như vậy, một số thói quen trong phát triển học tập còn có thể được cụ thể
hóa và hệ thống hóa hơn nữa, vừa có lợi cho việc hoàn chỉnh hệ thống mục tiêu,
vừa có lợi cho thao tác thực tiễn.
c. Thói quen học tập theo cá tính:
Thói quen học tập theo cá tính tức là thói quen học tập mang đặc điểm cá
tính rõ nét.
Xét về mặt bản chất, các thói quen đều theo cá tính.
Thói quen học tập cơ bản và thói quen học tập mở rộng chỉ được kết hợp
với nhau thông qua cá tính của trẻ, qua thực tiễn không ngừng của cá thể mới
có thể thực sự hoàn thành.
Đối với việc lựa chọn thói quen học tập, nhất là thói quen học tập mang
tính mở rộng, những đứa trẻ khác nhau sẽ có quá trình hình thành và trình độ tự
động hóa cũng khác nhau.
Một xã hội học tập là một xã hội thể hiện được đầy đủ việc học tập mang
tính dị biệt khác nhau. Nhưng việc học tập mang tính dị biệt này lại thống nhất
với “việc học tập mang tính cộng đồng”.
Thói quen học tập theo cá tính tức là vừa bồi dưỡng thói quen học tập cơ
bản chân thực nhất, vừa phát huy được đầy đủ ưu thế và tiềm năng của mình,
bồi dưỡng được thói quen học tập mở rộng. Từ đó hình thành nên hệ thống thói
quen học tập hoàn chỉnh và tràn đầy sức sống.
Thói quen học tập không tách rời thói quen làm người và thói quen giải
quyết công việc. Chỉ khi chúng được kết hợp thành một thể thống nhất mới có
thể bồi dưỡng được nhân cách con người một cách kiện toàn nhất; mới có thể
khiến cuộc sống tổng thể thêm mới mẻ. Lúc đó trẻ mới thực sự trở thành chủ
nhân của xã hội học tập hóa.
III. NGUYÊN TẮC CHÍNH CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG THÓI QUEN HỌC TẬP
1. Nguyên tắc mang tính thời đại:
Sự phát triển của thời đại kêu gọi tính chủ thể của con người rất mạnh mẽ.
Trẻ em vừa là đối tượng của giáo dục, vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục.
Tuyệt đối không được coi trẻ em là đối tượng “rèn luyện” thói quen hành vi và
đối tượng của giáo dục.
Trẻ em cần phải chú trọng tự chủ động bồi dưỡng phẩm chất, phải hiểu rõ
ý nghĩa cuộc đời mình và vị trí lịch sử của mình.
Trong quá trình học tập cần phải phát huy được tính chủ thể. Đề cao năng
lực đổi mới mình và theo đuổi giá trị hiện thực trác việt và hiện thực phát triển
của bản thân. Tăng cường ý thức chủ thể, phát triển năng lực chủ thể, tạo dựng
nhân cách chủ thể. Việc bồi dưỡng thói quen học tập theo nhu cầu thời đại cần
phải thể hiện đầy đủ nguyên tắc mang tính thành công và mang tính chủ động
của chủ thể. Việc bồi dưỡng thói quen học tập cần phải thể hiện được đầy đủ
việc giáo dục suốt đời, xã hội học tập hóa và ý thức học tập suốt đời trong sự
phát triển quốc tế hóa rộng rãi. Cần phải thể hiện được nhu cầu của tinh thần
sáng tạo và năng lực thực tiễn trong giáo dục tố chất.
Việc bồi dưỡng thói quen học tập càng cần phải lấy tinh thần thời đại để
chỉ đạo việc bồi dưỡng thói quen học tập căn bản và thói quen học tập mở rộng.
2. Nguyên tắc mang tính tổng thể:
Chủ thể hành động cần phải phát triển đầy đủ toàn diện. Công tác giáo
dục cần phải tiến hành hài hòa đủ mọi mặt.
Con người cần phải phát triển tổng thể. Trong thực tiễn hài hòa tổng thể
của cả tri, đức, ý, hành, trẻ em mới có thể hình thành được nhanh chóng và có
hiệu quả những thói quen hành vi học tập tốt. Chỉ có việc học tập hoàn chỉnh cả
về mặt thể xác, tri thức, tình cảm, tinh thần, xã hội, thói quen học tập tốt mới có
thể thể hiện được giá trị cuộc sống.
Công tác bồi dưỡng cần có tính thống nhất. Nếu kết hợp giữa giáo dục gia
đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội sẽ là tôn chỉ cơ bản của giáo dục
suốt đời, là xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội.
Giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường cần phải thống nhất. Công tác
giáo dục của bố mẹ trong gia đình cần phải thống nhất. Công tác giáo dục của
cán bộ lãnh đạo, thầy cô giáo chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn và những người
làm công tác giáo dục ở nhà trường cũng cần phải thống nhất. Tính thống nhất
trong công tác giáo dục càng tốt, tính hình thành thói quen học tập tốt của trẻ lại
càng mạnh mẽ. Bố mẹ cần phải tác động tích cực, cùng thầy cô giáo và nhà
trường liên lạc chặt chẽ hơn nữa, cùng thống nhất được với nhau, nỗ lực hình
thành tính thống nhất.
3. Nguyên tắc tính bậc thang:
Đối với việc bồi dưỡng thói quen học tập tốt, bất kể là trẻ tự chủ động bồi
dưỡng hoặc “bị ép buộc” thì dù hình thành thói quen học tập tốt hoặc không đều
phải có một quá trình nhận thức chính xác, không ngừng luyện tập để hình thành
hành vi tự động. Do vậy, việc bồi dưỡng thói quen học tập nhất thiết phải kiên trì
nguyên tắc mang tính bậc thang. Tức là phải trải qua kinh nghiệm thực tế và cần
chú ý tới thành quả phát triển từng giai đoạn.
Có thể đem mục tiêu thói quen cần phải hình thành chia thành từng giai
đoạn, phân rõ theo trình tự phát triển bậc thang, hướng dẫn và khích lệ trẻ
không ngừng nỗ lực đi lên từng bậc thang đó để đạt tới cảnh giới lý tưởng. Thói
quen học tập của trẻ tiểu học, phổ thông cơ sở và trung học đều phải có những
nhu cầu khác nhau.
4. Nguyên tắc mang tính thực tiễn:
Thói quen học tập được phát sinh, phát triển, củng cố và nâng cao trong
thực tiễn học tập.
Việc bồi dưỡng thói quen học tập tốt, nhất là việc sửa chữa những thói
quen học tập không tốt cần phải có nỗ lực gian khổ suốt một thời gian dài mới có
thể thực hiện được.
Việc hình thành và phát triển thói quen học tập tốt cho trẻ thường có tính
tiến triển đi lên. Trong công tác thực tiễn, bố mẹ cần phải kiên trì “kỳ vọng”, phải
nhẫn nại, phải chú ý đánh giá khích lệ.
IV. SÁCH LƯỢC CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG THÓI QUEN HỌC TẬP
Xây dựng địa vị chủ thể của trẻ trong việc bồi dưỡng thói quen:
Trẻ vừa là đối tượng của hoạt động giáo dục, vừa là chủ thể của hoạt
động giáo dục. Nếu chỉ coi trẻ là đối tượng của hoạt động giáo dục thì không thể
thu được thành công.
Cần phải phát huy tính chủ thể của trẻ trong việc bồi dưỡng thói quen.
Cần phải hướng dẫn trẻ nhận thức chính xác về chúng, về xã hội bên ngoài, về
quan hệ giữa bên ngoài với bản thân. Phải bồi dưỡng trẻ hiểu rõ được tình trạng
thực của bản thân, vừa phải có nhu cầu vượt qua được sự đeo đuổi giá trị hiện
tại và năng lực làm mới mình hơn.
Việc bồi dưỡng thói quen học tập tốt cho trẻ chính là giúp trẻ làm mới và
vượt qua chính mình. Đó chính là quá trình lựa chọn và nâng cao quan niệm
vượt qua chính mình, năng lực vượt qua chính mình và nội dung vượt qua chính
mình. Đồng thời đó cũng là quá trình tự sửa chữa và hoàn thiện mình.
Xây dựng chủ thể học tập cần phải xuất phát từ tình yêu học tập, tức là
phải xuất phát từ trình độ tri thức, trình độ năng lực và mức độ hứng thú của trẻ.
Bố mẹ chỉ xuất phát từ thực tế của con cái mới có thể có được công tác quy
phạm và sự hướng dẫn, khích lệ đúng đắn, mới thang lại tác dụng tốt hơn.
2. Sách lược khơi gợi, nhận thức, giúp đỡ, thành công:
Từ góc độ giáo dục có thể thấy quá trình bồi dưỡng thói quen học tập tốt
là quá trình cùng tồn tại, cùng tác động lẫn nhau và tiến tới phát triển giữa hoạt
động của bố mẹ với con cái. Việc bồi dưỡng thói quen học tập tốt cũng là một hệ
thống học tập và giáo dục hoàn chỉnh.
a. Khơi gợi:
Nhiệm vụ hàng đầu của việc giáo dục và bồi dưỡng chính là phải khơi gợi
được ý chí tiến thủ của trẻ. Không có gì đáng quý hơn là khi một người duy trì
lòng tiến thủ, nội dung cụ thể như sau:
- Nâng cao nhận thức:
Nâng cao nhận thức của trẻ về nhận thức. Tức là nhận thức được rằng
những thói quen không tốt sẽ có tác hại ra sao, những thói quen tốt sẽ đem lại
lợi ích gì.
- Khơi gợi động cơ:
Khơi gợi nhu cầu phát triển tự thân của trẻ, nhận biết rõ quan hệ lợi hại về
sự phát triển thực tế hiện trạng của trẻ. Khơi gợi động cơ trưởng thành của trẻ.
Nguyên tắc giáo dục:
Cần phải hướng dẫn trẻ nhận thức chính xác về chúng, về xã hội bên
ngoài về quan hệ giữa bên ngoài với bản thân. Phải bồi dưỡng trẻ hiểu rõ được
tình trạng thực của bản thân, vừa phải có nhu cầu vượt qua được sự đeo đuổi
giá trị hiện tại và năng lực làm mới mình hơn.
- Khơi gợi chủ thể.
Đánh thức lòng hy vọng tiến thủ trong nội tâm của trẻ, kích thích động cơ
trưởng thành của trẻ. Khơi gợi trẻ mở rộng cánh cửa tự thay đổi mình, từ đó
khơi gợi tính chủ thể của trẻ.
Bố mẹ nên tự để con cái tự khơi gợi tính bản thể của chúng.
b. Nhận thức:
Bố mẹ phải nhận thức và hiểu được con mình toàn điện, từ đó lại càng tôn
trọng và yêu quý con mình hơn. Con cái cũng càng cần phải tự có quan niệm
nhận thức. Nội dung cụ thể như sau:
- Xác định rõ cái gì là chính:
Trên thực tế việc bồi dưỡng thói quen học tốt phần lớn là sửa đổi thói
quen học tập không tốt. Khi vừa nói đến việc thay đổi thói quen học tập không
tốt, có một số đứa trẻ đã hiểu lầm, cho rằng mình đã “hết thuốc chữa”. Do vậy,
nhất định cần phải xác định rõ trong nội tâm đứa trẻ là khát vọng tiến lên rất
mạnh mẽ. Cần phải phát triển đủ các mặt tri thức, tình cảm, suy nghĩ, hành
động, đó là những thứ chính cần phải làm. Chỉ có như vậy mới dễ dàng sữa
chữa một thói quen ở mặt nào đó và hoàn toàn đủ tự tin để sửa chữa nó.
- Phát huy ưu thế:
Thay đổi thói quen không tốt trong ưu thế của mình là một việc làm vui vẻ
và có ích lợi. Sự thay đổi này chính là ưu thế hoàn thiện và phát huy mình. Cần
phát huy đầy đủ thói quen học tập tốt mà ưu thế của trẻ tự bồi dưỡng nên, vì quá
trình trưởng thành của trẻ chính là quá trình phát triển những “điểm nhấn” và ưu
thế của mình.
- Khai phá tiềm năng:
Người biết nắm bắt ưu thế của mình cũng là người biết khai phá tốt tiềm
năng của mình.
Cần phải có ý thức phát hiện, phát triển ưu thế, tài năng, tiềm năng của
mình; “ổn định” về mặt hành vi, và “tự động hóa”. Đó là một trong những đặc
trưng thời đại và nhu cầu thời đại của việc bồi dưỡng hành vi. Việc bố mẹ nhận
thức và hiểu con cái một cách toàn diện, từ đó đi tới chỗ tôn trọng, ngưỡng mộ
con, thậm chí sùng bái con, đều có quan niệm giáo dục hiện đại rất sâu sắc.
Những quan niệm này cũng đều phải được chuyển hóa thành quan niệm nhận
thức của tự thân đứa trẻ. Sẽ rất đáng quý nếu đứa trẻ có thể độc lập tự giác tự
nhận thức được hoặc tự hào về sự tồn tại và phát triển của mình.
c. Cùng giúp đỡ:
Nội dung cùng giúp đỡ của bố mẹ bao gồm: rèn luyện, giúp đỡ, hướng
dẫn, chỉ ra vấn đề, nhấn mạnh, góp ý… Tuy “giúp đỡ” nhưng quan trọng nhất
vẫn là hành động của trẻ.
Thói quen học tập tốt được phát sinh, phát triển, củng cố và nâng cao từ
trong thực tiễn học tập. Do đó đứa trẻ nhất thiết phải phục tùng hành động. Mọi
sự kiện dù vĩ đại, to lớn đến đâu cũng đều phải xuất phát từ thực tiễn hành động
của bản thân. Công việc cụ thể như sau:
- Xác định rõ mục tiêu:
Cần phải giúp đỡ trẻ lựa chọn mục tiêu thói quen mà nó phải thực hiện.
Mục tiêu càng rõ ràng, cụ thể, có giá trị bao nhiêu, khả năng thực hiện
càng cao bấy nhiêu.
Trước tiên cần phải chú trọng bồi dưỡng một thói quen tốt, không nên lập
tức bồi dưỡng quá nhiều thói quen.
- Phương pháp bậc thang:
Cần phải cùng thảo luận phương pháp hành động với trẻ.
Cần phải để trẻ tự lựa chọn phương pháp hành động. Phương pháp mà
trẻ tự nguyện sử dụng nhất mới chính là phương pháp tốt nhất.
Cần phải hướng dẫn trẻ cẩn thận về trình tự. Tức là chú trọng quá trình
thể nghiệm, cũng chú trọng tới hiệu quả hành động. Do đó chia nhỏ mục tiêu ra
thành nhiều mục tiêu nhỏ, hình thành hình bậc thang sẽ có lợi cho việc trưởng
thành của trẻ.
- Tăng cường quy luật của bản thân:
Điểm mấu chốt trong việc bồi dưỡng thói quen tốt là lấy quy luật của người
khác chuyển biến thành của mình. Đồng thời tăng cường nó, không ngừng học
hỏi thêm.
Tăng cường quy luật của bản thân giúp trẻ duy trì được tâm trạng tích cực
trong việc bồi dưỡng thói quen học tập tốt. Từ đầu tới cuối đều phải hành động
trong tâm trạng tự nhiên, vui vẻ.
Tăng cường quy luật của bản thân, cố gắng giảm bớt những thói quen
ngoài ý muốn hoặc dứt bỏ hẳn những thói quen mà mình không muốn xuất hiện
dù trong bất kỳ tình huống nào.
Tăng cường quy luật bản thân, khống chế ý chí, khiến cho các hành vi tốt
của mình được lặp lại nhiều lần, dần dần tự động xuất hiện, thói quen cũng
thành tự nhiên.
d. Thành công.
Bố mẹ và con cái đều phải có ý thức thành quả mạnh mẽ, cần phải có
kiểm nghiệm và đánh giá có ích đối với giai đoạn hành động đó. Nội dung cụ thể
như sau:
- Nhận thức nhiều lần:
Trẻ con vẫn là trẻ con. Quy luật hình thành thói quen tốt của trẻ chính là
“trong lúc tiến lên không ngừng lặp lại, trong lúc lặp lại, không ngừng tiến lên”.
Bố mẹ cần phải kiên nhẫn, kiên trì chờ đợi và hướng dẫn. Chỉ cần không
ngừng nỗ lực hợp tác, số lần và trình tự lặp lại sẽ giảm dần, và dần dần hình
thành nên thói quen tốt.
- Củng cố nhấn mạnh:
Cần phải giúp trẻ không ngừng củng cố thói quen tốt mà trẻ sắp bồi
dưỡng thành. Thậm chí có thể dễ dàng kiểm tra thói quen của mình trong hoàn
cảnh dễ xuất hiện thói quen cũ. Cũng có thể thể hiện đầy đủ thói quen tốt của
mình trong hoàn cảnh mang tính cạnh tranh.
- Khích lệ đánh giá:
Phải kịp thời khẳng định và biểu dương sự tiến bộ của trẻ, dù đó chỉ là
những tiến bộ rất nhỏ. Trẻ em cần được khẳng định và coi trọng sự thay đổi
hành vi và những thay đổi của chúng.
Khẳng định và tán dương nhất định phải mang màu sắc tình cảm. Thể
hiện cảm nhận của mình đối với tiến bộ của trẻ chính là sự tán dương tốt nhất.
3. Bồi dưỡng thói quen cần có phương pháp thực thi thông thường:
Để thực hiện tinh thần thời đại, để quán triệt những sách lược và nguyên
tắc bồi dưỡng đã nói ở trên, để giúp trẻ giải quyết được những khó khăn trong
học tập, để giúp cho những đứa trẻ ở những trình độ khác nhau đều có thể nâng
cao và phát triển, tác giả cuốn sách trong nhiều năm qua đã tiến hành nghiên
cứu điều tra tình hình học tập của rất nhiều trẻ em và đã áp dụng thực tiễn nhiều
lần. Từ đó dần dần tạo nên được thói quen thực thi thông thường bồi dưỡng nên
thói quen học tập tốt. Đó chính là phương pháp học tập kiểu bậc thang.
Những vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
1. Vấn đề thói quen trông rất đơn giản, nhưng tại sao chúng ta cần phải
nhấn mạnh nhiều lần như vậy?
2. Bồi dưỡng thói quen học tập tốt của trẻ là một công trình có hệ thống.
Bạn có thể tổng kết được một phương pháp bồi dưỡng đơn giản và có hiệu quả
không?
Đi học có tác dụng to lớn đối với việc học tập và phát triển của con người
Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi lên lớp
Làm thế nào để giúp trẻ nâng cao trình độ học tập trên lớp
Chương 6. QUAN TÂM TỚI HIỆU QUẢ BÀI HỌC TRÊN LỚP CỦA TRẺ
Đi học là mắt xích quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình học tập của trẻ.
Các mắt xích chuẩn bị bài, ôn bài, làm bài tập...đều phát triển xoay quanh
mắt xích đi học.
Kinh nghiệm chung của tất cả những người thành công trong học tập
chính là đi học tốt, “giờ học trên lớp phải có hiệu quả, có chất lượng”.
Học cách đi học là điểm then chốt trong việc học tốt. Đồng thời cũng là
điểm then chốt để nâng cao việc tự trưởng thành và phát triển.
Làm bậc cha mẹ, trước tiên cần phải hiểu, quan tâm và giúp đỡ con cái
nâng cao hiệu quả bài học trên lớp.
I. ĐI HỌC CÓ TÁC DỤNG TO LỚN ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CON NGƯỜI
1. Trân trọng thời gian và công sức:
Nếu như theo ngày nay, mỗi tuần trẻ thông thường phải học trên 30 tiết,
mỗi năm sẽ phải học hơn 40 tuần. Như vậy phần lớn thời gian tràn trề sức lực
nhất của trẻ là ở trên lớp. Có thể nói, thời gian đẹp đẽ nhất suốt thời thiếu niên
của một con người được trôi qua trên lớp học.
Thời kỳ thanh thiếu niên chính là thời gian đẹp nhất để phát triển tri thức,
năng lực, phẩm chất, đạo đức tư tưởng của một con người. Đó chính là thời kỳ
quan trọng gây dựng cơ sở tốt nhất cho suốt cả đời, giúp trẻ phát triển toàn diện,
dần trưởng thành.
Thanh thiếu niên đầu tư rất nhiều thời gian và sức lực như vậy vào lớp
học. Vậy bạn và con cái của bạn đã coi trọng thời gian đi học chưa?
2. Trân trọng lòng nhiệt tình và sự hướng dẫn của thầy cô giáo:
Thầy cô giáo ngày nay trước khi chính thức bước vào giảng dạy cũng phải
trải qua sự thi tuyển ngặt nghèo và thời kỳ thử việc. Họ đều có tri thức và kinh
nghiệm giảng dạy phong phú.
Các thầy cô giáo dù mới hay cũ, dù giảng dạy bộ môn nào cũng chuẩn bị
bài giảng rất cẩn thận, đầy đủ, nghiêm túc trước khi lên lớp. Họ còn căn cứ vào
giáo trình và tình hình của trẻ để đặt ra mục tiêu hợp lý; xác định rõ đâu là trọng
điểm, đâu là điểm khó; cẩn thận đề ra phương pháp giảng dạy và sắp xếp quá
trình giảng dạy và học tập. Những nỗ lực này của thầy cô giáo đều nhằm giúp
cho việc học tập của trẻ được tăng tốc hơn, sinh động và đạt hiệu quả hơn. Để
giúp đỡ trẻ giải quyết được một điểm khó hoặc để giúp cho nội dung giảng dạy
thêm phong phú, thú vị, giàu hình ảnh hơn, ngày càng nhiều thầy cô giáo áp
dụng biện pháp giảng dạy trên máy tính rất hiện đại. Việc lập ra phương pháp
này cũng rất đơn giản. Có giáo viên chỉ mất thời gian rảnh rỗi trong vài tháng,
hoặc vài tuần để thu thập tài liệu, biên soạn thành một trình tự giảng dạy, rồi kết
hợp chúng với hiệu quả âm thanh và khuôn hình. Phần lớn các “trình tự giảng
dạy” này đều do các giáo viên mất công thức đêm biên soạn ra, rất vất vả.
Nhưng chỉ cần thấy học sinh thỏa mãn, hiểu bài, thầy cô đã vui rồi.
Các thầy cô giáo đã đem tri thức, năng lực, tư tưởng, tình cảm, thậm chí
toàn bộ tâm huyết đưa vào giờ lên lớp. Các bậc phụ huynh cần phải hiểu rõ điều
này và phải trân trọng nó.
Đồng thời cũng phải hướng dẫn cho trẻ trân trọng những tâm huyết và
công sức mà thầy cô đã bỏ ra.
3. Tận dụng triệt để thời gian trên lớp để nâng cao chất lượng cuộc sống học tập:
Hãy đọc bài văn “Tranh thủ bốn mươi lăm phút trên lớp” của em học sinh
lớp ba Uông Lý Cần trường cơ sở Nam Kiều, huyện Phong Từ, Thượng Hải
dưới đây:
Bốn mươi lăm phút trên lớp đối với bạn học sinh nào cũng như nhau.
Nhưng thu hoạch của mỗi bạn về từng môn học lại khác nhau, thậm chí có lúc
khác biệt rất lớn. Tôi nghĩ nguyên nhân quan trọng chính là sự khác nhau về
nhận thức và thái độ đối với bốn mươi lăm phút trên lớp. Một số bạn cho rằng
bốn mươi lăm phút trên lớp chủ yếu dựa vào thầy cô giáo, mấu chốt là mình chịu
khó mất nhiều công sức ngoài giờ học. Do vậy, trong bốn mươi lăm phút trên
lớp, các bạn luôn dùng phương pháp học tập bị động: Một số bạn bề ngoài nhìn
có vẻ rất nỗ lực, tranh thủ từng phút từng giây ngoài giờ học, thậm chí không
tham gia cả những hoạt động thể dục thông thường. Nhưng nếu quan sát kỹ sẽ
phát hiện thấy hiệu quả học tập của các bạn đó rất thấp. Vì năng lực tự học của
chúng ta hiện nay còn rất thấp kém, dù giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy
phong phú đến đâu, nhưng nếu chúng ta xem thường bốn mươi lăm phút trên
lớp, chúng ta sẽ đem trọng điểm học tập đặt ra ngoài lớp học, và luôn đánh mất
nó. Về mặt này, bản thân tôi đã có kinh nghiệm trải qua rất sâu sắc. Trước đây
tôi cũng xem thường bốn mươi lăm phút trên lớp. Trước khi lên lớp tự chuẩn bị
bài một lượt, cho rằng đã hiểu hết cả nên trên lớp thường lơ là không chú ý nghe
giảng. Kết quả thành tích học tập không được lý tưởng. Sau đó tôi tự sửa chữa
căn bệnh này. Đối với mỗi một vấn đề thầy giáo giảng trên lớp đều tiến hành
phân tích cẩn thận, suy nghĩ nghiêm túc, tích cực giơ tay phát biểu ý kiến. Như
vậy ấn tượng nội dung của một tiết học rất sâu sắc, thành tích học tập cao thấy
rõ rệt. Nắm vững bốn mươi lăm phút trên lớp không chỉ là tìm hiểu về nội dung
bài giảng, không coi thường việc chuẩn bị bài và ôn bài, mà khi ôn bài còn có thể
củng cố được nội dung học trên lớp. Hai mặt này đều nhằm phục vụ cho việc lên
lớp. Do vậy chúng cũng đều quan trọng như nhau.
Khi trẻ đi học đã đầu tư mất bao nhiêu thời gian và sức lực trên lớp. Có
biết bao sự ủng hộ của thầy giáo nhiệt tình giảng dạy và sự giúp đỡ lẫn nhau
giữa các bạn học. Còn có môi trường học tập tốt và thiết bị hiện đại hóa, cần
phải tận dụng triệt để những yếu tố đó. Phải học tốt và nâng cao chất lượng
cuộc sống học tập.
Làm thế nào để nâng cao? Cần phải nhìn vào sáu điều “có phải” của trẻ
khi trên lớp:
- Có phải đề ra càng nhiều câu hỏi tại sao sẽ khiến trẻ thêm háo hức, tò
mò vào chuyện học tập?
- Có phải khi đã suy nghĩ tích cực về tri thức, sẽ có những lý giải “của
riêng mình”, “độc đáo”. Từ đó có thể đem những tri thức học được thêm chân
thực hơn, hệ thống hơn, tận dụng được dễ hơn?
- Có phải tích cực thảo luận phát biểu sẽ tiến hành được năng lực bồi
dưỡng ý thức, tinh thần hợp tác phát triển và khả năng cùng tham gia rộng rãi?
- Có phải mở rộng đôi cánh tưởng tượng sẽ đem lại trí tưởng tượng và lý
tưởng phong phú hơn?
- Có phải càng hứng thú với những thứ học được sẽ càng nảy sinh trí tò
mò và đeo đuổi mạnh mẽ đối với việc học tập?
- Có phải có được cách nhìn và cảm nhận sâu sắc hơn đối với mình, với
những người và sự vật quanh mình thì sẽ tự tin hơn đối với việc làm mới mình
và với việc phát triển sáng tạo cái mới. Từ đó hình thành được thói quen học tốt
và nhân cách hướng lên?
Do thời gian lên lớp chiếm phần lớn thời gian thanh thiếu niên của một
con người nên thời gian lên lớp đã trở thành một bộ phận quan trọng của cuộc
sống thanh thiếu niên. Như vậy cần phải kích thích hoạt động tổng thể của lứa
tuổi thanh thiếu niên, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển toàn diện.
II. MỤC TIÊU BẬC THANG CỦA TRÌNH ĐỘ HÀNH VI LÊN LỚP
Đáng chú ý là khi lên lớp, biểu hiện của trẻ đều như nhau, nhưng sự khác
biệt về nội tâm rất lớn.
Có những đứa trẻ khi lên lớp rất nhiệt tình, tư duy tích cực, hoạt bát.
Nhưng cũng có những đứa trẻ khi lên lớp trở nên đần độn, lười biếng, tư duy
đơn giản. Sau một thời gian dài, kết quả khác hẳn nhau. Có thể nói, trong thời
gian ở trường, trẻ thường xuất hiện những khác biệt trong nhiều mặt như tri
thức, năng lực, phẩm chất đạo đức, tư tưởng... Bao gồm cả sự khác biệt về tố
chất. Phần lớn nguyên nhân này là kết quả của việc trẻ lên lớp với những trình
độ khác nhau kéo dài suốt một thời gian dài.
Do vậy, cần phải chia trạng thái học tập ra thành 5 cấp bậc, gọi là “Mức
trình độ hành vi trên lớp hình bậc thang”. Bố mẹ và con cái có thể cùng thương
lượng, căn cứ vào đó để đặt cho mình một cái mức tương ứng.
1. Cấp 1 - Đi học cho vui:
Lúc lên lớp, trẻ chỉ nghe giảng một cách đơn giản và ghi chép rất bị động.
Nếu có thể hiểu được một số kiến thức bài giảng đã được coi là khá lắm rồi.
Nhưng nếu lên lớp như vậy, sức lao động rất ít, không động não một chút nào.
Vấn đề nghiêm trọng là ngày nay có rất nhiều trẻ, bao gồm cả bố mẹ và
thầy cô giáo vẫn chưa hiểu được dạng học kiểu này. Nếu cứ “quá thụ động”
nghe giảng như vậy chỉ là đi học với trình độ thấp, là một nguyên nhân quan
trọng khiến việc học tập không thể nâng cao.
2. Cấp 2 - Đi học tích cực ghi nhớ:
Để thích hợp với sự lý giải của trẻ, được gọi là đi học tích cực ghi nhớ.
Chủ yếu gồm hai nội dung sau: Một là tích cực suy nghĩ. Tác giả cuốn sách này
lúc còn đi học, có lúc trên lớp do mải nghĩ tới mức mặt đỏ rực, sau khi học xong
nhất thiết phải ra ngoài nghỉ ngơi. Những đứa trẻ học tốt đều có những kinh
nghiệm như vậy. Có thể thấy vấn đề trẻ học tốt hay xấu chung quy lại là lúc trên
lớp có chịu suy nghĩ hay không. Vì thế nhất định phải bắt trẻ tích cực suy nghĩ
trên lớp.
Hai là cố ghi nhớ trên cơ sở đã hiểu. Sau khi học xong có thể nói được nội
dung chính trên lớp vừa giảng. Vấn đề trí nhớ của trẻ trên lớp thật nghiêm trọng.
Có những đứa chưa nói tới nội dung bài giảng cụ thể mà ngay cả đề mục thầy
giáo giảng về cái gì cũng không thể nhớ nổi. Cách học như vậy hoàn toàn không
tốt. Trí nhớ là cơ sở tư duy của con người, vừa là một trong những tiêu chí quan
trọng của trình độ tư duy. Con trẻ đang sống trong thời kỳ phát triển trí nhớ tốt
nhất, giàu tiềm lực nhất. Vì thế nhất định phải tăng cường trí nhớ có ý thức và
biết nói lại được nội dung bài giảng trên lớp vừa học.
Nguyên tắc giáo dục:
Trong thời gian ở trường, trẻ thường xuất hiện những khác biệt trong
nhiều mặt như tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức tư tưởng… Bao gồm cả sự
khác biệt về tố chất. Phần lớn nguyên nhân này là kết quả của việc trẻ lên lớp
với những trình độ khác nhau kéo dài suốt một thời gian dài.
3. Cấp 3 - Đi học liên tưởng.
Một là cần phải tích cực suy nghĩ, mở rộng đầu óc liên tưởng. Để hiểu
được con trẻ, cần phải hiểu rằng, con cái chúng ta khi lên lớp rất hiếm khi tưởng
tượng. Thậm chí còn không nghĩ, học hành rất “hạn hẹp”. Vì thế khi lên lớp, trẻ
cần phải suy nghĩ nhiều hơn, càng nhiều càng tốt, đầy trí tưởng tượng.
Việc nỗ lực nâng cao trí tưởng tượng và óc liên tưởng của trẻ rất quan
trọng và có liên quan tới sự phát triển và cường thịnh của quốc gia.
Hai là cần phải chủ động tích lũy kinh nghiệm. Có giáo viên khi lên lớp kể
hàng loạt kinh nghiệm, còn tính chủ động của trẻ cũng không cao. Vừa kiểm tra
đã phát hiện ngay thấy những kinh nghiệm tốt đẹp mà giáo viên kể đều không
biết đã chạy đi đằng nào, những thứ mà trẻ thu hoạch được lại rất ít.
Những giáo viên giàu kinh nghiệm cho biết những học sinh không tích luỹ
kinh nghiệm, kinh nghiệm không hệ thống hóa thì chưa nói tới năng lực mà ngay
cả thành tích các kỳ thi cuối năm, cuối cấp cũng không thể tốt được.
Trẻ chủ động tích lũy kinh nghiệm là một chặng đường quan trọng giúp
chúng hình thành và phát triển năng lực.
Yêu cầu của việc đi học cấp 1, cấp 2 đã nói ở trên đều rất cụ thể. Nếu
trong một thời gian dài trẻ đạt được những mục tiêu như vậy đã là rất tốt. Trong
cuộc thảo luận về phương pháp học tập hình bậc thang, các thầy cô giáo có kinh
nghiệm đều thừa nhận rằng nếu đạt được mục tiêu như vậy thì sẽ dễ dàng đạt
được từ 95 điểm trở lên ở tiểu học, từ 85 điểm trở lên ở PTCS và từ 75 điểm trở
lên ở PHTH.
4. Cấp 4 - Học nhiều hơn lên lớp:
Có ba yêu cầu:
Một là bồi dưỡng năng lực khái quát. Một người khi đối mặt với rất nhiều
sự vật phức tạp nhưng có thể dùng mấy câu khái quát được bản chất của nó là
tiêu chí quan trọng của việc anh ta có năng lực hay không. Đồng thời cũng là
một số tố chất cần phải chuẩn bị để làm người. Năng lực khái quát đến từ đâu?
Khi trên lớp giáo viên không thể không nói nhiều. Trẻ phải biết tóm tắt được ý
chính trong vô số những lời nói đó. Đó chính là một phương diện quan trọng để
đạt được năng lực khái quát. Nếu bố mẹ phối hợp được với thầy cô giáo để
hướng trẻ có ý thức nỗ lực làm vậy, năng lực khái quát sẽ nâng cao hơn.
Hai là để trẻ phát huy đầy đủ ưu thế cá tính trên lớp. Cái gì có lợi cho tư
duy logic thì nên tranh luận nhiều hơn, cái gì có ích cho tư duy hình tượng thì
nên tưởng tượng nhiều hơn. Phát huy đặc trưng lên lớp vừa thoải mái, vừa dễ
dàng gặt hái được thành tích. Đó là phần quan trọng để đạt được thành công,
vậy tại sao chúng ta lại không làm?
Ba là nỗ lực mở rộng thu hoạch bài giảng trên lớp. Giúp đỡ trẻ dùng trái
tim mình thành tâm mở rộng phát triển những thu hoạch trên lớp. Ví dụ thầy giáo
viết chữ nào đẹp, giảng câu nào hay, tư thế động tác nào thanh tao?... Tất cả
đều phải chuyên tâm học tập và tăng thêm cảm giác cảm nhận cái đẹp.
Một kinh nghiệm quan trọng trong quá trình trưởng thành của một con
người chính là để tâm hơn, tích lũy nhiều hơn. Cơ hội thường đến với những
người biết tích lũy.
5. Cấp 5 - Đi học chuyên tâm nghiên cứu:
Nó cũng có ba yêu cầu:
Một là trẻ có “hứng thú tột bậc” đối với kiến thức. Có năng lực và phương
pháp tự học, có cách lý giải độc đáo, lại có thể dùng những ngôn từ tinh tế để
diễn đạt. Tác giả cuốn sách khi dạy môn vật lý đã cổ vũ học sinh trước tiên phải
học trước, có thể cùng học tập với những người thân làm ngành vật lý trong nhà.
Nếu có thể sưu tầm những tin tức trên mạng có liên quan thì càng tốt. Vì đã học
qua nên khi lên lớp, trẻ sẽ biết cách phát hiện vấn đề. Nhưng cái gọi là cơ sở
nhất, chân thực nhất, hệ thống nhất, giúp đỡ chúng lớn nhất vẫn là bài giảng
trên lớp.
Thực tế đã chứng minh rằng, những đứa trẻ có thể đạt tới trình độ tự học
thì khi lên lớp phải chuyên tâm hơn.
Hai là có thể hình thành được chuyên đề kiến thức hoặc những chuyên đề
kết hợp được thực tiễn xã hội. Tiến hành học tập theo cách chủ động tìm tòi. Từ
đó thúc đẩy trẻ hướng tới cách học mang tính nghiên cứu ở trình độ cao.
Ba là khi thảo luận phải giao lưu thân thiện, yêu quý tập thể, có thể tiến
hành tốt “cách học mang hình thức hợp tác” hiện đại hóa.
Nếu làm như vậy, bài giảng trên lớp của trẻ sẽ cụ thể hơn. Trình độ trạng
thái cũng rõ ràng, tốt hơn cho việc tự học và cho việc giảng dạy của thầy cô
giáo.
Trẻ từ cấp 1 đến cấp 5 thuộc về phương diện mang tính xây dựng chủ thể.
Chỉ có điều khác nhau về trạng thái và trình độ chủ động.
Mức trình độ hành vi trên lớp hình bậc thang:
0. Thiếu hụt phương diện: Trên lớp lười biếng trì trệ chán nản buồn bã
phân tán tư tưởng, cười nói lung tung.
1. Đi họ cho vui: Sức chú ý tương đối tập trung, có thể căn cứ vào yêu
cầu của thầy giáo để ghi chép lại. Có thể nghe hiểu nhiều tri thức cơ bản.
2. Đi học tích cực ghi nhớ: Sức chú ý tập trung, tích cực tiến hành suy
nghĩ. Trên cơ sở hiểu được có thể cố ý ghi nhớ. Có thể trả lời câu hỏi rất tốt.
Sau khi kết thúc buổi học có thể nhắc lại được nội dung chính của bài giảng
3. Đi học liên tưởng: Có cảm hứng học tập, chú trọng hệ thống tri thức.
Có thể tích cực triển khai liên tưởng. Đối với tri thức trọng điểm, có thể chủ động
tích lũy và vận dụng kinh nghiệm. Có thể tích cực thảo luận phát biểu.
4. Học nhiều hơn lên lớp: Có thể nắm vững hệ thống tri thức, có thể chủ
động bồi dưỡng tổng hợp và năng lực khái quát. Chú trọng phương pháp học
tập và phương pháp tư duy. Phát huy đầy đủ ưu thế cá tính của giờ học. Nỗ lực
thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt phẩm chất, mỹ cảm…, mở rộng thu hoạch.
5. Đi học chuyên tâm nghiên cứu: Có năng lực và phương pháp tự học.
Có sự lý giải độc đáo về tri thức trọng điểm và hệ thống tri thức. Có thể dùng
ngôn ngữ tinh tế để diễn đạt. Có thể tùy cơ ứng biến cùng tiến hành thảo luận
chuyên đề với thây cô giáo và các bạn học. Thích được giao lưu tập thể, cùng
hợp tác học tập.
III. LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIÚP TRẺ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ HỌC TRÊN LỚP
Có bố mẹ cho rằng, trẻ đi học thì tự khắc sẽ biết học. Thực tế lại không
đúng như vậy. Từ trình độ bậc thang của việc học trên lớp đã nói ở trên có thể
thấy sự khác biệt về trình độ trên lớp là rất lớn. Điều quan trọng là trẻ có biết học
trên lớp không. Và phần quan trọng của việc biết học trên lớp chính là nâng cao
trình độ học trên lớp. Làm thế nào để nâng cao trình độ học trên lớp cho trẻ?
1. Hiểu rõ ý nghĩa của việc học trên lớp, quyết tâm thay đổi mình:
Bạn có muốn con bạn nâng cao thành tích học tập không? Có muốn con
bạn vượt qua cửa ải khó khăn trong học tập không? Có muốn con bạn chủ động,
tự do học tập, không ngừng gặt hái được thành công và phát triển không? Điều
quan trọng chính là phải nhắc nhở con bạn học tốt trên lớp.
Trước tiên, phải để trẻ hiểu rằng biết học trên lớp nhất định phải hiểu rõ ý
nghĩa của việc lên lớp, hạ quyết tâm thay đổi bản thân và nâng cao chính mình.
Nếu muốn thay đổi bản thân, nhất định phải coi trọng chính mình, coi trọng trạng
thái lên lớp mà mình đang có. Tức là phải nắm vững định vị chân thực (nhận
thức bản thân, sinh thành mục tiêu)... nắm chắc hợp tác thăng tiến (thay đổi hình
thức bài giảng, nâng cao trình độ)... nắm chắc việc thảo luận giảng dạy và học
tập (hiệu ứng đám đông, phát triển toàn diện)... nắm chắc việc phê bình đánh giá
khích lệ (xác định ước mơ, thành tựu hành vi)...
2. Chuẩn bị tốt bài trên lớp, nâng cao hiệu quả học trên lớp:
Trẻ cần phải khắc phục được những trạng thái xấu khi học trên lớp như
lười biếng, mất tập trung... Phải tập trung sự chú ý, tích cực suy nghĩ và tưởng
tượng... Nhất thiết phải chuẩn bị tốt bài trên lớp. Chủ yếu là làm tốt những chuẩn
bị dưới đây:
a. Chú ý nghỉ ngơi, nghỉ ngơi có quy luật:
Học tập là một dạng lao động trí não. Khi học tập căng thẳng, những tế
bào thần kinh của não bị hoạt động kích thích và căng thẳng. Não sẽ luôn duy trì
trạng thái hưng phấn. Nhưng thời gian duy trì trạng thái này không thể quá dài.
Qua một khoảng thời gian nhất thiết phải nghỉ ngơi, để bổ sung năng lượng của
những tế bào thần kinh đã hao tổn, khôi phục lại chức năng và xoá tan những
mệt mỏi. Nếu không con người sẽ không thể tập trung sức chú ý được, thậm chí
sẽ thấy nhức đầu chóng mặt hoặc có những phản ứng trì trệ... Do vậy để duy trì
tinh thần sảng khoái trên lớp, cần tích cực hoạt bát, cần phải hết sức chú ý nghỉ
ngơi và quy luật nghỉ ngơi. Phương pháp cụ thể là:
- Một là bảo đảm thời gian ngủ, nâng cao chất lượng giấc ngủ.
Có ngủ ngon, thể lực và tinh thần của con người mới có thể phục hồi tốt.
Tức là vừa duy trì một ngày ngủ đủ từ 8-10 tiếng, vừa phải nâng cao chất lượng
giấc ngủ. Ngủ phải sâu, phải ngon giấc. Một số trẻ học giỏi đều có thói quen ngủ
rất ngon. Chỉ cần kiên trì nỗ lực, trẻ có thể hình thành được thói quen ngủ ngon
giấc đó. Điều này chỉ có lợi cho chúng suốt đời.
Do vậy cần phải chú ý tới bốn điều nên làm và không nên làm dưới đây:
Bốn điều nên làm: Thanh thiếu niên nên đi ngủ lúc 10h tối. Mỗi ngày cần
kiên trì ngủ đúng giờ. Trước khi ngủ nên dùng nước nóng rửa chân. Nếu tự làm
được mát xa chân thì càng tốt. Nên làm cho tới lúc buồn ngủ lăn ra thì tắt đèn,
nhắm mắt lại ngủ luôn.
Bốn điều không nên làm: Trước khi ngủ không nên uống trà đặc hoặc cà
phê; không nên thực hiện những vận động mạnh; không nên xem những tiết
mục truyền hình quá kích động hoặc không nên đọc những tiểu thuyết quá gợi
tình. Trước khi ngủ nửa tiếng không nên cố nhồi nhét học hoặc suy nghĩ căng
thẳng.
Cần phải định sẵn giờ ngủ, như vậy mới ngủ rất nhanh, ngủ ngon. Chuông
sáng vừa reo phải dậy ngay, rửa ráy cho tỉnh táo, cho mới mẻ, cho ra được cái
tinh thần. Từ đó lại tiếp tục học với tinh thần tràn đầy. Chỉ cần kiên trì nguyện
vọng và nỗ lực, nhất định sẽ hình thành được thói quen ngủ tốt, có ích cho cả
cuộc đời.
- Hai là phải coi trọng thời gian nghỉ giải lao trên lớp:
Thời gian nghỉ giao lao 10 phút trên lớp không nhiều, nhất định phải tận
dụng triệt để nó để nghỉ ngơi. Trên lớp càng tranh thủ học tích cực và căng
thẳng bao nhiêu thì khi tan giờ học phải tích cực nghỉ ngơi bấy nhiêu. Tốt nhất là
nghỉ ngơi ở bên ngoài lớp học. Nhất là vào mùa đông, cần phải ra ngoài vận
động, hít thở không khí tươi mát một lúc mới có thể điều chỉnh được tâm tính.
Điều này rất có lợi cho việc chuẩn bị vào học tiết sau.
Có một số trẻ không coi trọng giờ nghỉ giải lao này. Tan tiết rồi nhưng vẫn
ngồi trong lớp đọc sách hoặc suy ngẫm vấn đề, làm bài tập... Không biết nghỉ
ngơi sẽ không thể học nổi. Điều này không những có ảnh hưởng tới thành tích
học tập, mà thậm chí còn ảnh hường tới trạng thái tinh thần của con người.
- Ba là phải coi trọng việc nghỉ ngơi mang tính tích cực:
Việc nghỉ ngơi mang tính tích cực là tham gia các hoạt động văn nghệ, thể
thao, thay đổi nội dung và hình thức học tập... Như vậy vừa đạt được mục đích
nghỉ ngơi, lại vừa có thể tăng cường năng lực, cảm nhận về cái đẹp. Từ đó
khiến việc học tập thêm sinh động, hoạt bát, phong phú, tràn đầy tình cảm.
b. Ăn uống bồi dưỡng hợp lý, ăn sáng no:
Việc phát dục và hoạt động bộ não của trẻ rất cần được bồi dưỡng, chủ
yếu hấp thụ từ ba bữa ăn trong một ngày. Các bà mẹ phải hết sức chú ý tới điều
này để nỗ lực giúp đỡ con.
Đáng chú ý là có những đứa trẻ không coi trọng việc ăn sáng no. Chúng
cho rằng “bữa sáng có thể ăn hoặc không ăn”, “không ăn cũng không sao”. Hoặc
có đứa viện lý do “buổi sáng vội quá, không kịp ăn”. Tất cả những điều này thật
sai lầm.
Buổi sáng khi ngủ dậy, tức là đã cách bữa ăn hôm trước 12 tiếng. Như
vậy “bụng đã rỗng”. Nếu không ăn sáng hoặc ăn rất ít thì tới tiết 3, tiết 4 buổi
sáng, chiếc bụng rỗng lại phải nhịn tới 16, 17 tiếng. Lúc đó cơ thể và bộ não đều
rơi vào tình trạng thiếu dinh dưỡng, lượng đường trong máu sẽ tụt xuống, nảy
sinh cảm giác đói. Lượng dinh dưỡng cần có phần lớn đều vay mượn từ “nguồn
đường của gan” hoặc “nguồn đường của cơ bắp” mà phần lớn là làm hao tổn cơ
thể. Trong tình trạng không cung cấp đủ chất dinh dưỡng như vậy, việc hoạt
động tích cực của hộ não sẽ gặp khó khăn. Lúc lên lớp sẽ xuất hiện hiện tượng
mất tập trung, lười, trì trệ, hoảng loạn, đổ mồ hôi nhiều. Những điều này đều gây
thương tổn đối với cơ thể của trẻ.
c. Chú trọng việc rèn luyện thân thể, hình thành thói quen rèn luyện:
Não là cơ quan chủ yếu của việc học tập. Sự chuyển động thông thường
của chúng cần có sự ủng hộ của một cơ thể khoẻ mạnh và những hiệu ứng vật
chất các loại ôxy là nguồn năng lực chủ yếu mà bộ não cần có để hoạt động.
Rèn luyện thể dục có thể tăng sức sống cho phổi, cải thiện được chức năng hô
hấp, tăng cường lượng ôxy trong máu, cung cấp thêm cho não.
Rèn luyện thể thao có thể tăng cường chức năng tim mạch, tăng cường
lượng cung cấp máu cho não. Có thể cải thiện được hệ thống tuần hoàn máu
của não.
Khi rèn luyện thể thao có thể khiến cho những điểm hưng phấn trên lớp da
của não di chuyển, là một cách nghỉ ngơi tích cực của lao động não lực. Để thực
hiện tốt hoạt động thể thao, cần phải làm được ba điểm sau:
- Một là tập tốt bài thể dục giữa giờ, tập một cách nỗ lực vì nó rất có lợi đối
với việc tăng cường sức khỏe cho cơ thể và thúc đẩy tinh thần tiến bộ.
- Hai là phải học tốt tiết thể dục. Nội dung các bài thể dục ở nhà trường
đều đã trải qua nhiều năm lý luận và nghiên cứu thực tiễn, rất phù hợp với nhu
cầu trưởng thành của thanh thiếu niên, rất có lợi đối với việc phát triển cơ sức
khỏe tinh thần và thể xác của trẻ.
- Ba là tự sắp xếp việc tập luyện thể thao. Những đứa trẻ bán trú hoặc chỉ
về nhà vào các dịp nghỉ đông cần phải tự mình tập thể dục buổi sáng. Nó vừa có
thể tiến hành các hoạt động cơ bắp, hít thở không khí tươi mới, nâng cao tinh
thần. Nhưng cũng không nên tập quá sức. Sau khi hết giờ học cần phải kiên trì
tới sân vận động tham gia các hoạt động thể thao rồi mới về nhà hoặc quay về
ký túc xá làm bài tập.
Tóm lại cần phải chú trọng rèn luyện thân thể, hình thành thói quen tập
luyện, duy trì thể lực và tinh thần học tập hăng hái.
3. Tích cực suy nghĩ, học cách suy nghĩ
Vấn đề gốc rễ của trẻ học tập giỏi hay kém rốt cuộc là vấn đề trẻ có biết
suy nghĩ và có biết tích cực suy nghĩ hay không. Phải tận tâm, dùng cả trái tim
để suy nghĩ là nhiệm vụ và hoạt động quan trọng của việc lên lớp. Suy nghĩ
trong quá trình phát triển toàn diện của con người sẽ đem lại tác dụng mang tính
quyết định. Cần phải học cách suy nghĩ trong quá trình suy nghĩ.
a. Cần phải “hiểu” được công sức trên dưới, xây dựng sẵn cơ sở tốt:
Mục đích học tập của trẻ không phải là biến cái đầu mình trở thành “cái
miệng túi” đựng đầy kiến thức, mà cần phải lý giải và vận dụng được mớ kiến
thức đó. Trước tiên cần phải mất công sức vào từ “hiểu”.
- Một là phải hiểu được khái niệm. Đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản
nhất trong học tập. Nếu coi hệ thống kiến thức như một tòa nhà cao tầng thì
những khái niệm được coi là những viên gạch móng của tòa nhà. Chứng bệnh
chính mà trẻ thường mắc phải khi học khái niệm chính là chỉ học thuộc những từ
ngữ định nghĩa về khái niệm. Đó là nguyên nhân chính tạo nên kết quả học tập
kém.
Khái niệm học tập chủ yếu phải hiểu rõ từ khái niệm nào? Từ ý nghĩa gì?
Từ hàm nghĩa gì? Phạm vi sử dụng khái niệm này là gì? Hãy suy nghĩ sâu thêm,
còn có thể hỏi bản thân tại sao cần phải học khái niệm này? “Cái mới mẻ” nằm ở
đâu? Suy nghĩ càng sâu càng cụ thể càng tốt.
- Hai là phải hiểu được quy luật. Hiểu được quy luật cũng chính là hiểu
được quan hệ biến đổi của sự vật. Cần phải hiểu rõ quy luật này được xây dựng
ra sao? Quá trình phát triển của con người là gì? Nội dung cụ thể của quan hệ
biến đổi là gì? Phạm vi sử dụng là gì? Có những ứng dụng cơ bản nào? Những
vấn đề trên đều phải dùng những ngôn từ lý giải của chính mình để nói ra. Nói
càng chuẩn xác càng tốt. Đương nhiên cuối cùng những thứ nói ra phải tương
đương với những “những ghi nhớ” trên sách, chỉ khác nhau giữa những thứ học
thuộc được với những thứ mà mình lý giải được.
- Ba là cần phải hiểu rõ tình cảnh. Dù là các môn khoa học xã hội hay
khoa học tự nhiên, việc tích cực suy nghĩ đều giúp cho bản thân mình bước vào
một cảnh giới mới mẻ. Nhất là đối với các môn khoa học xã hội, nhất định cần
phải lý giải việc đọc, hoặc “những ấn phẩm đọc”. Cần phải tích cực suy nghĩ về
con đường tư duy và vận dụng tâm của tác giả. Lý giải càng tốt, kiến thức càng
sâu, thu hoạch được càng nhiều.
b. Biết cách tương trợ.
Lên lớp là một quá trình nhận thức khoa học có kế hoạch, có tổ chức, có
sắp xếp của thầy cô giáo và ban lãnh đạo nhà trường. Dặn dò con cái nhất định
phải nhận thức được đầy đủ về tác dụng của thầy cô giáo trên lớp và cố gắng
học hỏi nhiều mặt từ thầy cô.
Một là học cách tư duy:
Cần chú ý tới cách thầy cô mở đầu bài giảng ra sao. Lúc mở đầu, các giáo
viên thông thường phải nói đến tình huống gì để gợi mở ra bài mới, ý nghĩa của
nó như thế nào. Cần phải chú ý tới việc sắp xếp các đầu đề bài lớn nhỏ. Các
giáo viên có kinh nghiệm đều tập trung được tư tưởng xuất sắc, lối tư duy mạch
lạc, rõ ràng, từ ngữ súc tích đơn giản. Nhưng thông thường những đề mục lớn
nhỏ trong giáo trình của thầy cô giáo không ăn khớp với giáo trình thống nhất mà
học sinh đang sử dụng. Có những từ ngữ được sử dụng rất cân nhắc.
Cũng cần phải chú ý tới kết thúc bài giảng. Khi kết thúc bài giảng, thầy cô
giáo thường làm một kết luận nhỏ. Như vậy vừa nhấn mạnh, vừa đúc rút kinh
nghiệm và tiến thêm một bước học cách đưa ra ý kiến.
Học sinh cần phải nắm chắc nội dung bài giảng. Vì thế khi giảng bài, bất
luận là các vấn đề lớn hay nhỏ, thầy cô giáo đều phải có tư duy theo trình tự, thứ
bậc rõ ràng. Có những người trong giao tiếp xã hội khi vừa cất tiếng nói, những
người khác đã biết ngay anh ta hoặc cô ta là giáo viên, cũng nhờ chính đặc điểm
phán đoán này.
Cẩn trọng về trình tự là thực chất của phương pháp khoa học. Nếu học
được cách điều chỉnh lối tư duy để tư duy được rõ ràng, mạch lạc dù chỉ trong
khoảng khắc là rất đáng quý. Điều này rất có ích đối với việc phát triển con
đường học vấn và sự nghiệp sau này của một con người.
Hai là học trọng tâm và những điểm khó:
Quá trình trẻ học hành tiến bộ chính là quá trình phá vỡ từng trọng điểm,
từng điểm khó. Về mặt này, thầy giáo có tác dụng to lớn không gì thay thế nổi.
Các giáo viên có trình độ càng cao thì trọng điểm trên bài giảng của họ
càng rõ ràng, các điểm khó càng sâu sắc. Đó là đo các giáo viên này đã vận
dụng kiến thức và năng lực của mình, sau khi gia công, lại sử dụng nguyên tắc
giảng dạy khoa học và phương pháp “thiết kế tỉ mỉ, thi công tinh tế”.
Những từ ngữ trên sách giáo khoa thường được viết đúng quy phạm, súc
tích nên rất khó hiểu. Nhưng giáo viên chỉ cần dùng vài từ ngữ, vài câu nói đã có
thể giúp trẻ hiểu ngay. Có những giáo viên giỏi rất biết cách giải quyết những
điểm khó, rất có nghệ thuật, thậm chí rất xuất sắc.
Ngày càng nhiều giáo viên để tâm và công sức trong mặt này. Con trẻ
càng kính yêu thầy cô giáo, tích cực suy nghĩ, càng cảm nhận được những công
sức của thầy cô. Điều này không chỉ giúp trẻ nắm vững kiến thức và năng lực
bồi dưỡng, mà càng cảm nhận được sự vĩ đại và tốt đẹp của tư duy. Từ đó hình
thành nên tư duy và thói quen yêu thích tư duy.
Ba là học cái đặc sắc:
Trên lớp, thầy cô thông qua giọng nói, giáo trình, động tác, thái độ biểu
cảm và nhiều phương pháp truyền thông hiện đại hóa để giảng dậy. Những thứ
này đều trải qua luận chứng khoa học và đều được chuẩn bị đầy đủ. Các giáo
viên khác nhau có những nét đặc sắc khác nhau trong cách giảng dạy. Bố mẹ
nên khuyên con cái phải biết tận dụng triệt để những nét đặc sắc đó để học tập.
Phương pháp giáo dục ngày nay ngày càng phong phú đa dạng, ngày
càng đậm tính nhân văn. Việc phát triển giáo dục đối với con trẻ có thể được coi
là sự chuyển giao từ thời đại chỉ biết học thuộc lòng kiến thức tới thời đại vội vã
tìm hiểu, nhận biết về kiến thức. Và tới ngày nay đã tiến lên thành thời đại phát
triển đầy ắp sức sống.
Nếu thực hiện tốt ba điểm trên sẽ không chỉ có lợi đối với việc tích cực suy
nghĩ, mà còn xây dựng được một cơ sở tốt đối với việc học tập.
4. Ghi chép cẩn thận - nhớ rõ cách tư duy, nhớ rõ trọng điểm, nhớ rõ những kết quả thu được, nhớ rõ các vấn đề đặt ra:
Cùng với năm tháng càng tăng, việc ghi chép bài giảng cẩn thận là yêu
cầu cơ bản đối với trẻ khi lên lớp. Học cách ghi chép tốt các bài giảng là một
trong những công việc cơ bản của học sinh khi lên lớp.
Ghi chép tốt các bài giảng sẽ đem lại ba lợi ích chính như sau:
Một là một tài liệu quan trọng cho học tập. Mỗi tiết học được cái gì, trình
độ học ra sao, tình hình thế nào... đều được thể hiện rất rõ trong phần ghi chép
này của học sinh. Vì thế những tư liệu đó là rất đáng quý.
Hai là có lợi cho việc nắm vững kiến thức. Tức là vừa có lợi để nắm vững
kiến thức một cách tổng thể, hệ thống, lại vừa có lợi cho việc nắm vững trọng
điểm và những điểm khó. Càng có lợi cho việc ôn tập lại bài đã học.
Ba là có lợi trong việc nâng cao năng lực học tập.
Nội dung ghi chép thể hiện được sức chú ý, sức quan sát và khả năng ghi
nhớ của trẻ. Đồng thời cũng thể hiện được năng lực tư duy, sức tưởng tượng và
sức sáng tạo của trẻ. Nó còn có thể giúp chúng ta nhận thấy được năng lực viết
lách, năng lực thẩm mỹ, năng lực sáng tạo cái mới và đặc điểm cá tính của trẻ...
Vậy ghi chép trên lớp cần viết những gì và ghi lại như thế nào?
Một là phải ghi lại lối tư duy và trọng điểm:
Cần phải ghi lại đề cương, nội dung chủ yếu, những giải thích quan trọng,
những ví dụ điển hình do thầy cô giáo viết trên bảng hoặc bổ sung thêm mà
trong sách giáo khoa không có.
Cần phải nhắc nhở con cái rằng nhất định phải nghe giảng là chính, ghi
chép là phụ. Những lúc nghe và ghi có mâu thuẫn với nhau thì phải ưu tiên tập
trung nghe trước để nắm được tư duy và trọng điểm. Nhất là khi giải thích trọng
điểm và điểm khó, thầy cô giáo thường nói chậm, nhấn mạnh trọng điểm. Những
lúc như vậy trẻ cần phải kịp thời nắm chặt tư duy của thầy cô, nỗ lực nghe hết
một cách có hệ thống. Sau đó mới khái quát những trọng điểm lại và ghi chép
lại. Cần phải chú ý ghi nhớ mạch tư duy và trọng điểm. Nếu nỗ lực làm vậy trên
lớp một thời kỳ dài có thể sẽ tạo nên năng lực khái quát tốt.
Hãy đọc bài văn “Phương pháp ghi chép bài của tôi”, của bạn học sinh Mã
Hiểu Cương lớp 6 trường PTCS Thứ 12 thành phố Nam Thông, tỉnh Giang Tô:
Ghi chép bài là một mắt xích quan trọng trong học tập. Nếu trên lớp không
nghiêm túc ghi chép bài, sau khi ôn lại bài cũ sẽ thiếu hụt nhiều kiến thức, dễ
quên mất trọng điểm của bài giảng, không có lợi cho việc học tập.
Ghi chép bài không có nghĩa là viết lại từng câu nói của thầy cô giáo trên
lớp. Làm như vậy vừa không thể theo kịp, lại vừa bỏ lỡ mất nội dung vừa giảng.
Phương pháp ghi chép đúng đắn phải là ghi lại những trọng điểm, điểm nhấn,
điểm khó trong bài giảng. Phải ghi lại phương pháp phân tích vấn đề, các ví dụ
chính hoặc cách giải thích các điểm khó của thầy cô. Bên lề vở có thể để một
khoảng trống to để lúc cần thiết còn viết thêm những điều cần lưu ý hoặc đánh
dấu những điểm khó. Có lúc thầy giảng rất nhanh, không thể ghi kịp, làm thế
nào? Có hai cách: một là tạm thời ghi nhớ trong não, đợi tới lúc rỗi phải ghi chép
lại ngay. Hai là từ vô số lời lẽ của thầy cô phải tóm tắt được khái quát nội dung,
nắm vững trọng điểm, ghi lại đề cương. Cách làm này phụ thuộc vào việc rèn
luyện hàng ngày. Việc ghi chép bài không thể chỉ ghi lại đúng nguyên bản mà
phải vừa ghi chép vừa lý giải, ghi lại những cách nghĩ hoặc cách nhìn nhận của
mình, có thể giải quyết chúng sau khi tiết học kết thúc. Sau khi tiết học kết thúc
vẫn cần phải đọc thêm sách và các tài liệu tham khảo, tiến hành bổ sung nội
dung ghi chép. Có vậy việc ghi chép bài mới hoàn chính hơn.
Hai là phải ghi lại những thu hoạch:
Ghi lại những cách nghĩ, cách cảm nhận và liên tưởng của mình... Có thể
dùng các phương pháp “kí hiệu”, “ẩn dụ”, “từ trọng điểm”... kết hợp lại mà tiến
hành. Nếu thầy cô nhấn mạnh tới nội dung nào là quan trọng, có thể vạch ngay
một đường gạch chân đánh dấu ở phần đó, càng quan trọng lại càng phải đánh
dấu nhiều. Bên trái cuốn vở thường phải để trống một khoảng lề rộng để kịp thời
viết thêm nội dung cần bổ sung hoặc ghi chú thêm các kí hiệu. Nếu bản thân cho
rằng một nội dung nào đó là quan trọng, có thể đánh dấu bằng kí hiệu "<" ở bên
cạnh và phía sau dấu này có thể viết những từ ngữ thật đơn giản, súc tích. Tất
nhiên trong tình huống không ảnh hưởng tới việc nghe tiếp mạch tư duy giảng
bài của thầy cô giáo nhưng vẫn viết được những liên tưởng và cách nghĩ mới
của mình lại càng tốt.
Cần phải chú ý rằng vở ghi bài là công cụ học tập của bản thân. Do vậy
làm thế nào có lợi cho việc học của mình thì cứ làm. Không thể ghi chép quá lộn
xộn, nhưng cũng không thể quá mất công vào việc ghi chép quá cẩn thận, sạch
sẽ bởi cuốn vở ghi bài không phải là vật trang sức.
Nếu có đứa trẻ vừa nghe vừa ghi chép, lại vừa dùng đầu óc cố ý ghi nhớ
lại, trên cuốn vở lại vẽ thêm nhiều kí hiệu đánh giá, thậm chí cả những đoạn mà
nó cảm thấy thu hoạch được nhiều, có hứng thú thì đều đánh dấu, tô màu hoặc
vẽ hình lên... đó mới chính là cách ghi chép bài tốt nhất. Bởi học tập phải vốn
đầy ắp cá tính.
Như vậy việc lên lớp rất tích cực, hoạt bát. Cuốn vở ghi bài có thể được
gọi là cuốn album học tập đầy sức sống của học sinh đó.
Ba là phải ghi lại các vấn đề:
Tức là phải ghi lại những vấn đề chưa hiểu và những vấn đề mà mình
phát hiện được.
Cũng cần phải ghi lại những chỗ khó, những chỗ cần phải bổ sung kiến
thức cũ. Sau giờ tan học, phải kịp thời đi hỏi thầy cô giáo hoặc bạn bè, phải giải
quyết các vấn đề chưa hiểu và các chỗ khó. Phải nỗ lực tìm kiếm nhanh những
kiến thức cũ cần phải sử dụng và ghi chép chúng lại.
Những vấn đề tự phát hiện có thể hình thành những chuyên đề để tiến
hành nghiên cứu sẽ càng tốt hơn nữa.
5. Nâng cao trình độ tham gia, hợp tác tích cực:
Trẻ em là chủ thể học tập. Hoạt động thực tiễn nhận thức đặc biệt của trẻ
có tính không thể nào thay thế nổi. Trẻ cần phải khiến cho việc học tập của mình
đạt tới sự chủ động, tự chủ, giàu tính sáng tạo. Điều này cần có quá trình bồi
dưỡng. Phương pháp chính của việc bồi dưỡng này chính là nâng cao trình độ
tham gia trên lớp của mình.
a. Trong khi tham gia, tích cực phát biểu, bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ.
Khi nói có thể khiến tư tưởng của mình rõ ràng, hoàn chỉnh, chuẩn xác
hơn. Nói có thể tăng cường ý thức tự thân, bồi dưỡng lòng tự tin. Chỉ cần khi
bản thân khắc phục được tâm lý sợ hãi, chinh phục được sự nhút nhát, có thể
đứng trước mặt thầy cô giáo và các bạn trình bày được cách nghĩ và thể hiện
được tâm tư tình cảm của mình thì mới thực sự giao lưu được về tâm linh với
mọi người. Như vậy mới có thể tạo dựng được hình tượng của mình trong con
mắt mọi người. Từ đó mới khiến mình và mọi người thân thiết và hòa hợp hơn.
Sau khi trẻ hòa nhập được vào xã hội, năng lực ngôn ngữ càng trở thành
công cụ quan trọng của cuộc sống xã hội.
Lớp học là môi trường tốt để rèn luyện và bồi dưỡng tài ăn nói. Trẻ cần
phải tận dụng triệt để giờ lên lớp, phải vượt qua được cửa ải ngôn ngữ.
b. Những điểm để nâng cao năng lực ngôn ngữ.
Một là phải có tư tưởng. Bất luận dù trả lời vấn đề hay tham gia thảo luận
cũng cần nỗ lực suy nghĩ, có được tư tưởng riêng của mình trước khi nói. Cũng
tức là trước tiên phải tự tập hợp lại nội dung trong não, chỉnh lý lại con đường tư
duy rồi mới phát biểu. Nỗ lực như vậy rất quan trọng, sẽ giúp mình từ chỗ bắt
đầu tiếp xúc vấn đề tới chỗ có thể nói được rất thấu tình đạt lý, đơn giản, súc
tích dù trong một thời gian rất ngắn. Từ đó ngăn chặn được việc nói năng loạn
xạ, không có trình tự, và bồi dưỡng được tính nhạy cảm, minh mẫn của tư duy.
Hai là phải có cá tính. Không cần phải lặp lại những câu nói của người
khác theo kiểu tuyên truyền, bắt chước. Cần phải nói ra được những lời nói từ
đáy lòng mình. Phải nói thật. Bồi dưỡng tính sâu sắc của tư duy.
Ba là phải có ý tưởng sáng tạo. Nỗ lực diễn đạt mạch tư duy mới, trí
tưởng tượng mới, cảm giác mới và thể nghiệm mới của mình. Từ đó thể hiện
được đầy đủ tinh thần sáng tạo của tư duy.
Tất nhiên nói năng cần theo đúng quy cách. Lớp học là nơi mọi người
cùng học tập nên cần có một yêu cầu kỷ luật nhất định. Nếu trên lớp cứ nói ra
những thứ không thể nói thì sẽ ảnh hưởng tới trật tự lớp. Khi có thầy cô giáo,
trước tiên học sinh cần phải giơ tay, sau khi được cho phép mới đứng lên phát
biểu. Khi nói cần phải đứng nghiêm chỉnh, thái độ tự nhiên, giọng nói to, rõ ràng.
Nếu bồi dưỡng được những phẩm chất tốt đẹp đó sẽ có ích suốt đời.
Phải học cách hợp tác với bạn học và thầy cô giáo, phát triển tốt năng lực
giao tiếp xã hội. Quan hệ giao tiếp học tập tốt có thể sáng tạo được một môi
trường học tập hòa hợp, tích cực. Có thể được thầy cô chỉ đạo và giúp đỡ nhiệt
tình hơn, kiên nhẫn hơn.
Quan hệ giao tiếp tốt có thể khiến việc học tập thu được năng lực trưởng
thành.
Ngày nay, quan hệ giao tiếp tốt có thể thúc đẩy bản thân tham gia nhiều
hơn việc hợp tác học tập, hợp tác nghiên cứu và học tập mang tính nghiên cứu.
Trong lứa tuổi thanh thiếu niên, vài người bạn thường ở bên nhau thẳng
thắn thảo luận, học tập, cùng khơi dậy niềm hứng thú học tập sẽ không chỉ kịp
thời giải quyết được các vấn đề học tập. Mà ngay cả nội dung và phương thức
thảo luận cũng có tác dụng lớn đối với công việc tương lai. 80% công trình
nghiên cứu dành được giải Nobel hiện đại đều được hoàn thành từ hợp tác.
Những vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
1. Làm thế nào mới thực sự hiểu được lợi ích bài học trên lớp của trẻ?
Bạn có cách nào tốt hơn không?
2. Bạn tình nguyện kết hợp bậc thang này với thầy cô giáo để đạt được
nhận thức chung không?
Vượt trước, chủ động, tìm tòi.
Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi chuẩn bị bài mới và các thao tác.
Hướng dẫn trẻ chuẩn bị bài có kết hợp thực tiễn.
Chuẩn bị bài mới theo đặc điểm môn học.
Chương 7. CHUẨN BỊ BÀI MỚI LÀ MỘT CÁCH TÌM TÒI TỰ GIÁC
Mắt xích thường thấy trong việc học tập kiến thức mới là chuẩn bị bài mới
- lên lớp - ôn tập bài cũ - làm bài tập. Phương pháp học tập chính xác là chuẩn
bị bài mới trước rồi mới lên lớp.
Chuẩn bị bài mới chính là tự học trước khi đi học. Đó là sự chuẩn bị sẵn
bài mới, tự học của trẻ trước khi đi học. Điều này thúc đẩy bản thân tự giác tìm
tòi chủ động học tập hơn.
I. VƯỢT TRUỚC, CHỦ ĐỘNG, TÌM TÒI
1. Hứng thú vượt trước, chuẩn bị tốt:
Rất nhiều đứa trẻ hẳn đang nghĩ nếu có thể hiểu được vô số những kiến
thức thú vị trong sách thì hay biết bao. Chính tác giả cuốn sách khi còn đi học có
hoàn cảnh gia đình rất nghèo túng, phải để dành từng đồng từng hào. Khi bước
vào PTCS đã lấy tất cả số tiền dành dụm được mua hết ba năm sách phải học,
để ở đầu giường. Rảnh rỗi lúc nào lại tranh thủ đọc, chỉ náo nức mong muốn có
thể học được nhanh hơn, nhiều hơn. Do có hứng thú muốn vượt trước như vậy
nên đã khiến bản thân nhanh chóng tìm hiểu kiến thức trước các bạn. Do đó
trước khi lên lớp đã chuẩn bị bài tốt hơn, cũng hứng thú hơn về những điều thầy
giảng trên lớp, học vào nhanh hơn. Từ đó hình thành được một hệ thống tuần
hoàn học tập rất tất nhiên việc học trở nên chủ động.
Nếu mỗi người đã có sẵn sự tò mò và tâm lý thích tìm hiểu, rất hứng thú
đối với kiến thức mới của bài giảng, xin hãy thỏa mãn nhu cầu đó. Hãy chuẩn bị
tốt trước khi lên lớp. Đối với những học sinh phổ thông cơ sở nhất định khi
chuẩn bị bài mới có rất nhiều kiến thức chưa hiểu, sẽ nảy sinh không ít vấn đề.
Từ đó sẽ gợi ra nhiều khát vọng học tập hơn nữa, nâng cao hứng thú học tập.
“Phàm làm chuyện gì cũng cần có chuẩn bị. Nếu không chuẩn bị, làm gì
cũng hỏng”. Câu nói này của cổ nhân Trung Quốc dặn dò chúng ta rằng dù làm
bất cứ điều gì, trước tiên cũng cần phải tìm hiểu, chuẩn bị tốt kế hoạch mới có
thể đạt được hiệu quả tốt, dễ giành được thành công. Chuẩn bị bài mới tức là
trước khi thầy giáo lên lớp, cần phải nắm được nội dung bài giảng, phải chuẩn bị
kỹ càng, bước đầu nắm vững trọng điểm và các điểm khó. Kiến thức mới luôn
cần có những kiến thức sẵn có làm cơ sở. Học sinh tiểu học và trung học khi học
những điểm khó, phần lớn những thứ vận dụng tổng hợp rất nhiều. Điều này
luôn đòi hỏi trước khi lên lớp phải tự học, bổ sung những chỗ kiến thức bị khuyết
hoặc ôn lại những kiến thức cũ đã học nhưng quên mất, để chuẩn bị “đánh một
trận có chuẩn bị sẵn”.
Có một số học sinh học hành rất nỗ lực nhưng thành tích học tập không
cao. Thói quen của chúng là “lúc thường nhật không xem bài trước. Ở trên lớp
chỉ đọc theo thầy. Khi tan học chỉ biết học quanh đề mục đó, thi xong là thôi,
không muốn nhìn lại”. Những câu nói này đã miêu tả rất chính xác tình trạng của
phần lớn học sinh hiện nay. Chúng không hề có tâm lý chuẩn bị kiến thức trước
khi đi học. Khi tới lớp, chỉ học theo thầy cô như “a dua”. Không có hưng phấn
học tập, tư duy trì trệ. Sau khi tan học bận rộn và mệt mỏi làm bài tập như giải
quyết cho xong. Không cần nói cũng biết những loại như vậy thành tích học tập
không thể lý tưởng được. Cách sống “thi xong là thôi, không nhìn lại kiến thức cũ
nữa” thật đau lòng và nhức đầu. Một trong những nguyên nhân chính tạo nên
tình trạng này chính là chúng coi thường việc chuẩn bị bài mới. Không nhận thức
được rằng việc học tập nhất thiết phải phù hợp một quy luật trình tự nhất định.
Từ đó nắm vững phương pháp học tập khoa học.
Những đứa trẻ càng mất công sức học tập càng coi trọng việc chuẩn bị
bài. Từ đó chúng vứt bỏ được lối học bị động, thực hiện được việc học tích cực
và chủ động.
Nguyên tắc giáo dục:
Những đứa trẻ càng mất công sức học tập càng coi trọng việc chuẩn bị
bài. Từ đó chúng vứt bỏ được lối học bị động, thực hiện được việc học tích cực
và chủ động.
2. Chủ động học tập, tự giác và vui sướng đi học:
Qua việc chuẩn bị bài, trẻ đã biết được nội đung cần phải học. Mục tiêu rõ
ràng nên tập trung nghe giảng hơn, tư duy cũng tích cực và hoạt bát.
Do đã chuẩn bị bài, trẻ sẽ biết được trong bài mới cần sử dụng kiến thức
cũ gì. Từ đó có thể phát hiện được mắt xích nào yếu trong kiến thức của mình
để kịp thời bổ sung lại.
Trước khi lên lớp, ôn lại một số kiến thức cũ là điều rất dễ dàng thực hiện.
Điều này đem lại tác dụng cực kỳ to lớn. Nó không chỉ có thể tránh được những
thứ “ách tắc” do kiến thức cũ ngáng trở khi lên lớp, làm ảnh hưởng tới hiệu quả
học tập (ví dụ có tình huống xấu là khiến trẻ rơi vào trạng thái rối loạn, tâm tính
bất an), mà còn có thể biến những thứ trên lớp trở nên dễ dàng và nhẹ nhõm
hơn. Quan trọng hơn là làm như vậy có thể khiến chính mình thực hiện được
một mối quan hệ nội tại giữa mớ kiến thức, khiến kết cấu nhận thức của bản
thân có được sự phát triển mang tính động thái.
Qua việc chuẩn bị bài, trẻ nhất định nắm được những trọng điểm và điểm
khó. Từ đó nảy sinh được vấn đề và nhu cầu, có tư duy riêng, nhiệt tình lên lớp,
chú ý nghe giảng hơn, suy nghĩ chủ động và sâu sắc hơn. Bản thân cũng thấy tự
tin và tự trọng hơn.
Qua việc chuẩn bị bài, trẻ sẽ có được những cách lý giải độc đáo của
riêng mình về nội dung cần học. Trên lớp có thể tiến hành so sánh với mạch tư
duy của thầy cô như: Thầy làm thế nào để nêu ra được vấn đề? Làm thế nào để
phân tích được vấn đề? Làm thế nào để giải quyết được vấn đề? Cái hay ở
đâu? Nét đặc sắc ở đâu? Cái đẹp ở đâu? Khi trẻ ngồi học trong lớp, tư tưởng có
thể vừa tập trung vừa mở rộng, vừa chú trọng kiến thức, vừa coi trọng tình
người, vừa nâng cao được trí năng lại vừa có thể bồi dưỡng được khả năng
cảm nhận cái đẹp, phẩm chất đạo đức và nhân cách. Việc học tập như vậy rất
có lợi cho việc phát triển toàn diện. Nếu có thể hình thành được một số chuyên
đề, theo đuổi suy nghĩ và cùng tiến hành tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận với thầy
cô giáo và bạn học thì trình độ bài giảng trên lớp sẽ cao hơn rất nhiều.
3. Bồi dưỡng năng lực tự học:
Chuẩn bị bài mới thường là lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với kiến thức
mới, độc lập đọc hoặc suy nghĩ. Chuẩn bị bài mới chính là tự học trước khi lên
lớp. Cái được gọi là năng lực tự học chính là năng lực học tập độc lập. Tức là
độc lập mở rộng trí lực, bồi dưỡng năng lực sáng tạo cái mới.
Nếu trẻ có thể kiên trì thực tiễn chuẩn bị bài mới trong suốt một thời kỳ dài
thì trình độ chuẩn bị bài sẽ dần dần tăng cao. Thực chất là kiên trì tự học một
thời gian dài. Cứ như vậy, năng lực tự học tốt sẽ nâng cao, và sẽ học được cách
học tập, ý nghĩa càng to lớn hơn.
II. MỤC TIÊU BẬC THANG CỦA TRÌNH ĐỘ HÀNH VI CHUẨN BỊ BÀI MỚI VÀ CÁC THAO TÁC
Để chuẩn bị tốt bài mới, nâng cao năng lực tự học cần có quá trình bồi
dưỡng. Nhiều năm qua, qua việc nghiên cứu, điều tra rất nhiều trẻ em có thể
chia thành 5 cấp tiêu chuẩn giúp đỡ trẻ chuẩn bị tốt bài mới, phù hợp với nhu
cầu của trẻ. Bố mẹ có thể lập một hàng sau và căn cứ vào nhu cầu giúp trẻ tự
đánh giá.
1. Cấp 1- chuẩn bị đơn giản:
Có hai yêu cầu: một là thông qua việc đọc bài mới, biết được nội dung
kiến thức cần phải học. Hai là phải kịp thời bổ sung những kiến thức cũ cần
dùng và những mắt xích yếu. Trước khi lên lớp, có thể chuẩn bị đơn giản như
vậy trong khoảng thời gian ngắn nhưng cũng phải nắm vững. Như vậy mới có lợi
cho việc chủ động học tập trên lớp.
2. Cấp 2 - chuẩn bị trọng điểm:
Có hai yêu cầu: một là bước đầu lý giải trọng điểm và điểm khó cần phải
học. Muốn lý giải chúng, trước tiên cần phải tìm ra chúng. Bản thân đó chính là
quá trình nâng cao năng lực tự học. Có thể dùng bút chì màu gạch nhẹ dưới
những từ trọng điểm. Nguyên nhân của việc chỉ gạch nhẹ là để thuận tiện cho
việc sửa chữa sau này khi học chính thức hoặc khi ôn tập. Hai là bước đầu tìm
hiểu mạch tư duy cơ bản của nội dung cần học. Nếu có thể kiên trì điều này suốt
một thời gian dài, tiến hành so sánh giữa phần chuẩn bị bài với phần nội dung
mà thầy giáo nhấn mạnh trên lớp sẽ rất nhanh chóng nâng cao được trình độ
chuẩn bị bài mới.
Hãy xem kinh nghiệm về “Các kí hiệu - công cụ chuẩn bị bài” của bạn Chu
Dẫn Phương lớp 7 trường PTCS số Một huyện Tống Giang, Thượng Hải như
sau:
“Chuẩn bị bài, nghe giảng, ôn bài là những mắt xích quan trọng của việc
học tập. Tôi rất coi trọng việc chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp. Có một số bạn
học cho rằng, chuẩn bị bài mới chẳng qua chỉ là xem lướt bài giảng trong sách
một lượt. Nhưng thực ra việc chuẩn bị bài mới không đơn giản như vậy. Vì nếu
chỉ xem qua một lượt sẽ không thể nhớ được. Phương pháp của tôi là dùng kí
hiệu làm công cụ chuẩn bị bài. Coi việc tìm ra những trọng điểm, điểm khó và
các vấn đề trong bài là nâng cao hiệu suất ích lợi của việc chuẩn bị bài mới. Tôi
tìm ra những khái niệm mới trong bài, và dùng đường vẽ lượn sóng để quy định
đánh dấu bên dưới. Đối với những công thức đại số, vật lý..., tôi gạch đậm hai
đường bên dưới. Gặp phải chỗ không hiểu, tôi đánh dấu chấm hỏi. Làm xong
những công việc này, tôi đọc đề bài luyện tập ở phía sau bài giảng. Đối với
những bài tập dễ, có thể làm ngay, tôi làm luôn. Đối với những đề bài khó, tôi
đánh một cái dấu ở bên cạnh. Khi lên lớp, tôi đã nắm rõ vấn đề. Và khi thầy giáo
giảng tới những chỗ tôi đánh dấu chấm hỏi và giải các đề bài mà tôi đánh dấu
móc ở bên cạnh, tôi đặc biệt chú ý nghe. Cứ như vậy, tôi mang các câu hỏi đi
theo lên lớp, dễ dàng nắm vững kiến thức bài giảng.
3. Cấp 3 - chuẩn bị vấn đề:
Có hai yêu cầu: Một là nêu ra vấn đề, và đem các vấn đề liên hệ lại thành
hệ thống hóa. Hai là có sự tìm tòi ban đầu của chính mình đối với các vấn đề
trọng điểm. Trong quá trình học, việc phát hiện vấn đề còn quan trọng hơn việc
giải quyết vấn đề. Chỉ có những người nêu ra được vấn đề mới học thực sự.
Thế giới thần bí chỉ mở rộng cánh cửa đối với những người dám phát biểu, nỗ
lực suy nghĩ. Biết đặt vấn đề, biết hệ thống các câu hỏi là biểu hiện quan trọng
của việc biết học.
Trong bài văn “Làm tốt nhật ký đọc sách” của cậu học sinh Vương Vỹ
Quốc lớp 8 trường trung học Tào Hành thành phố Thượng Hải có đoạn:
“Nhật ký đọc sách có thể giúp chúng ta hiểu và lý giải sâu hơn về nội dung
cuốn sách, tăng cường trí nhớ, nâng cao hiệu quả học tập.
Hồi học tiểu học, thành tích học tập của tôi rất kém. Nguyên nhân là tôi
không bao giờ viết nhật ký đọc sách. Sau khi lên trung học, tôi bắt đầu thực hiện,
và nếm được trái ngọt. Việc học có kết quả tăng rõ rệt, tích lũy được một số kinh
nghiệm. Tôi xin giới thiệu phương pháp ghi nhật ký đọc sách mà tôi thường
dùng:
a. Vẽ kí hiệu, thêm lời bình:
Đối với những quan điểm, kết luận quan trọng trong bài hoặc những đoạn
phân tích, giải thích xuất sắc, những căn cứ có ý nghĩa điển hình và những chỗ
có tính giáo dục cao, giúp bản thân khơi gợi được niềm hứng thú, hoặc những
vấn đề chưa hiểu, những điểm đáng nghiên cứu, tôi đều dùng những kí hiệu
khác nhau đánh dấu, và ghi thêm những chú thích bên cạnh. Những kí hiệu
được tạo thành bởi căn cứ vào nhu cầu bản thân. Ví dụ dùng đường gạch vàng,
đường cong, khoanh tròn, dấu chấm đậm... thể hiện những phần quan trọng.
Dùng dấu hỏi thể hiện những chỗ chưa hiểu hoặc đáng để nghiên cứu...
b. Ghi lại:
Đem những điểm quan trọng, những câu hoặc đoạn hay trong bài ghi chép
lại vào vở. Những câu hoặc từ ngữ ở phía trước, phía sau hoặc ở giữa không
cần thiết phải ghi lại đều có thể dùng kí hiệu giản lược để bỏ bớt. Để tra lại cho
đúng, phần ghi chép lại phải được ghi rõ ở đoạn nào, trang nào, sách nào... Cứ
tích lũy như vầy càng nhiều sẽ trở thành tư liệu chuyên đề sau này.
c. Khái quát và viết tóm tắt:
Tường thuật lại tóm tắt bài học vừa đọc, nói rõ trọng tâm bài đó nói về vấn
đề gì. Làm như vậy có thể rèn luyện được năng lực tổng hợp và năng lực khái
quát của chúng ta. Và cũng có lợi cho việc ôn bài sau này và nghiên cứu thêm.
d. Viết đề cương:
Đọc bài học cần phải căn cứ vào liên hệ trên nội dung, tìm ra những trọng
điểm của từng đoạn hoặc của từng phần. Dùng từ ngữ của mình để ghi chép lại.
Khi làm đề cương nhất thiết phải có trật tự rõ ràng, phải tiết kiệm được thời gian
và nêu bật được vấn đề quan trọng.
e. Ghi cảm nghĩ:
Viết lại những cảm nhận của mình sau khi đọc. Có thể phát huy thêm một
số luận điểm vốn có trong bài hoặc nêu ý kiến phê bình.
Cách làm này giúp chúng ta đạt được những kiến thức chắc chắn, có hệ
thống; có thể bồi dưỡng năng lực phân tích, tổng hợp, phê bình của chúng ta.
Cách viết này không có công thức cố định. Nó có thể là lối triết ghi chép vụn, rời
rạc, cũng có thể viết liền mạch một cách hệ thống. Có thể dùng vài dòng hoặc cả
một bài văn dài hoàn chỉnh để thể hiện.
Còn có nhiều phương pháp và hình thức khác về việc viết nhật ký đọc
sách. Những gì giới thiệu trên đây chỉ là một vài phương pháp cơ bản mà tôi
thường dùng. Các bạn có thể lựa chọn một cách khi vận dụng, cũng có thể dùng
cách khác tổng hợp lại cùng vận dụng. Các bạn đừng ngại, cứ thử xem sao.
4. Cấp 4 - chuẩn bị giải thích:
Nó gồm ba yêu cầu sau:
Một là phân tích năng lực. Căn bệnh tồn tại phổ biến của con người nằm ở
phần bề mặt của sự vật. Quá trình đi sâu vào phân tích sự vật chính là tiến triển,
thậm chí là khai phá con đường học tập và sự nghiệp của một con người. Quá
trình học của trẻ chính là học cách “đi sâu” vào sách vở. Và nếu có thể “đi vào”
được bên trong cuốn sách là điều rất đáng quý.
Hai là bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề. Chí ít cũng phải học được
cách vận dụng sách công cụ và sách tham khảo. Tự giải được các đề luyện tập
đơn giản trong sách.
Ba là nhất định phải có được cách lý giải và lối tư duy riêng. Có thể trình
bày cách nghĩ, cảm nhận của mình bằng những từ ngữ ghi chú đơn giản trên
sách (hoặc bằng những kí hiệu mà mình vẫn thường dùng). Đó vừa là phương
pháp học tập quan trọng, vừa rất có ý nghĩa.
Ghi chú là kết tinh sức lao động tư duy vất vả của con người. Nó ấp ủ sự
thúc tiến, phát triển và sáng tạo cái mới của văn minh. Cách ghi chú đọc sách
của một số người có trình độ tư duy là tài sản vô giá. Ví dụ như “Nhật ký triết
học” của Lênin là cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu tư tưởng triết học
Lênin. Hình thức và phương pháp ghi chú của ông đem lại cho chúng ta bước
khởi đầu to lớn.
5. Chuẩn bị nghiên cứu:
Nó cũng gồm ba yêu cầu:
Một là có thể hình thành chuyên đề học tập. Ví dụ khi học công thức hàm
số tam giác, hình thành nên “Bảng quan hệ công thức hàm số tam giác”, “Những
kinh nghiệm vận dụng hàm số tam giác”..., khiến việc học có tính nghiên cứu.
Hai là đối với chuyên đề có sự thể nghiệm và lý giải riêng (ý kiến riêng,
mạch tư duy riêng, bước phát triển riêng), tinh thần và năng lực sáng tạo.
Ba là có ích đối với việc thảo luận cùng thầy cô và bạn học, cũng như đối
với việc hợp tác trong học tập. Rõ ràng là mọi cấp bậc đối với việc chuẩn bị bài
mới vừa có sự khác biệt vừa có quan hệ với nhau. Những trình độ cao hơn
được hình thành cao hơn trên cơ sở một số trình độ thấp.
Bảng trình độ hành vi chuẩn bị bài mới của trẻ hình bậc thang:
1. Chuẩn bị đơn giản: Đọc bài, xác định được nội dung cần học. Kịp thời
bổ sung những kiến thức có liên quan tới bài mới. Chuẩn bị sẵn sàng đi học.
2. Chuẩn bị trọng điểm: Tìm ra và bước đầu tìm hiểu những trọng điểm
về điểm khó của nội dung sắp học. Bước đầu tìm hiểu mạch tư duy cơ bản của
nội dung cần học. Tận dụng sách công cụ để gạt bỏ chướng ngại.
3. Chuẩn bị vấn đề: Nêu ra những vấn đề trong nội dung cần học (trọng
điểm, điểm khó) một cách tương đối hệ thống. Đối với những điểm quan trọng
cần có những lý giải và tìm tòi ban đầu của chính mình. Viết đề cương hoặc
những ghi chú cơ bản.
4. Chuẩn bị giải thích: Có thể tiến hành phân tích, tổng hợp, trừu tượng,
khái quát nội dung chính trong bài học mới. Bồi dưỡng năng lực giải thích vấn đề
và giải quyết vấn đề. Có thể tận dụng sách tham khảo và sách công cụ đẻ giải
quyết vấn đề.
5. Chuẩn bị nghiên cứu: Nếu đã có phương pháp tự học, có được những
lý giải độc đáo đối với mối liên hệ nội tại và đối với kiến thức cơ bản, hình thành
chuyên đề, chủ động tiến hành tìm tòi. Phải học cách hỏi bạn, tích cực tham gia
thảo luận, cùng nhau học tập.
III. HƯỚNG DẪN TRẺ CHUẨN BỊ BÀI CÓ KẾT HỢP THỰC TIỄN
1. Bảo đảm về thời gian:
Muốn chuẩn bị bài tốt, nhất thiết phải có bảo đảm về thời gian nhất định.
Vì thế trong kế hoạch chuẩn bị, có thời gian được sắp xếp cụ thể, ít nhiều thời
gian được sắp xếp cũng căn cứ vào tình huống học tập của bản thân để quyết
định. Trong phần lớn thời gian sau khi làm xong bài tập, có thể sắp xếp được
việc chuẩn bị bài mới nhiều hơn. Rất nhiều đứa trẻ đều chuẩn bị dụng cụ học tập
và sách vở đầy đủ cho buổi học hôm sau trong tối hôm trước. Đồng thời cũng
sắp xếp một khoảng thời gian để chuẩn bị bài mới, chuẩn bị sẵn về vật chất, kiến
thức, tâm lý và dần dần hình thành nên thói quen.
2. Lựa chọn trình độ chuẩn bị bài:
Vì việc chuẩn bị bài ở trình độ cao thường thiết lập trên cơ sở của việc
chuẩn bị bài ở trình độ thấp. Giống như nội dung ở bảng chuẩn bị bài hình bậc
thang đã trình bày, không thể xuất hiện tình trạng không cần đọc trước, không lý
giải bước đầu hoặc không tìm hiểu trọng điểm mà vẫn có thể trực tiếp hiểu sâu
và tiến hành nghiên cứu được. Cũng tức là, nếu không có trình độ cấp 1, 2 thì
không thể có trình độ ở cấp 3, 4, 5.
Việc lựa chọn trình độ chuẩn bị bài mới phải căn cứ vào tình hình học tập
của mình. Đối với những môn học mà bản thân học rất vất vả thì thời gian chuẩn
bị bài mới nên sắp xếp nhiều hơn. Và trong trình độ chuẩn bị cần phải trọng
điểm làm tốt cấp 1, cấp 2.
Thực tế đã chứng minh rằng có những đứa trẻ trong những môn học khó
nếu kiên trì việc chuẩn bị bài cấp 1, cấp 2 trong suốt một thời gian dài thì có thể
phát huy được tác dụng “xoay chuyển thế cục”. Đối với những môn học mà mình
yêu thích hoặc học tương đối dễ dàng, thì trong tình huống không ảnh hưởng tới
các môn học khác hoặc khi thời gian cho phép, trình độ chuẩn bị phải cao hơn.
Tác giả cuốn sách này đã từng phụ đạo một học sinh lớp 5. Cậu học sinh
này rất thích học vật lý nhưng thành tích học tập không lý tưởng, đã tìm tới tôi
xin giúp đỡ giải quyết khó khăn. Sau khi tận dụng phương thức chuẩn bị bài mới
hình bậc thang và cách học trên lớp vài lần đã thấy có hiệu quả. Sau một nửa
học kỳ, thành tích môn vật lý của cậu đã thấy rõ. Tới đầu năm lớp 6, cậu đã
được tuyển vào lớp chọn của trường, thành tích rất xuất sắc. Tới hè năm thứ ba
cuối cấp 2, tôi đã hướng dẫn cậu chuẩn bị các môn vật lý sẽ học ở cấp ba. Cậu
rất hứng thú, cũng rất chịu khó học. Sau khi lên lớp 8, môn vật lý của cậu rất
xuất sắc tên tuổi cậu đã được xếp ở bảng đầu lớp chọn, trường chuyên và được
chọn làm cán sự vật lý của lớp. Rất nhiều bạn học khác tuy thành tích học rất
giỏi vẫn phải nhờ cậu ta giảng giải. Điều này thúc đẩy rất mạnh tới sự phát triển
và tiến bộ của cậu. Tới hè năm lớp 8, về cơ bản, cậu đã tự học hết môn vật lý
của cấp ba và bắt đầu tìm hiểu một số nội dung vật lý của đại học. Ví dụ này
chứng tỏ nhất định phải nắm vững phương pháp học tập khoa học. Bởi nó sẽ
giúp sự nghiệp học hành của trẻ trong tương lai gặt hái được thành công to lớn
hơn. Nhất định phải nắm vững được phương pháp học tập khoa học vì nó sẽ
giúp trẻ chủ động, vui vẻ, biết cách học và yêu thích học. Đồng thời cũng chứng
minh rằng mỗi một thiếu niên đều có tiềm năng học tập rất lớn, nhất định phải
phát huy và phát triển nó.
Có đứa trẻ cho rằng sau khi tự chuẩn bị bài, lên lớp sẽ không còn gì học
nữa. Thậm chí sẽ ảnh hưởng tới tính tích cực của việc học tập trên lớp, dễ chơi
đùa.. Việc học tập của những đứa trẻ như vậy sẽ không giỏi, vì nhận thức của
chúng về việc học tập rất ấu trĩ, rất hời hợt. Như vậy sẽ không hiểu được kiến
thức một cách sâu sắc và rộng rãi, không hiểu được việc nắm vững kiến thức
cần phải lao động trí óc vất vả, không hiểu được việc phải liên tục nâng cao tư
tưởng của thầy cô và con trẻ, càng không hiểu được nội dung nhân văn phong
phú mà bài giảng cần có.
Thực tiễn chứng minh rằng chỉ có những đứa trẻ không biết trời cao đất
rộng, mới chỉ vừa nhìn một chút đã lười không muốn học thì chỉ là “ếch ngồi đáy
giếng”. Chỉ có những đứa trẻ thực sự đạt tới trình độ từ học mới càng nhiệt tình
và chuyên tâm hơn khi lên lớp. Theo đuổi kiến thức và chân lý là không có giới
hạn.
VI. CHUẨN BỊ BÀI MỚI THEO ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC
Mỗi một môn học đều có những đặc điểm riêng, do vậy phương pháp
chuẩn bị bài mới của từng môn cũng khác nhau. Nói một cách khác mỗi một
môn học có những phương pháp chuẩn bị bài riêng.
1. Chuẩn bị môn ngữ văn chú trọng vào kiến thức cơ bản và đọc bài:
Việc chuẩn bị môn ngữ văn chủ yếu chú trọng vào phần đọc và kiến thức
cơ bản.
Kiến thức cơ bản của môn ngữ văn rất rộng. Các vấn đề về cách phiên
âm, từ vựng, câu... tuy không phức tạp nhưng cũng không dễ dàng. Phải là
người “thực sự để tâm” mới có thể xây dựng được kiến thức cơ bản tốt.
Khi chuẩn bị bài, trước tiên cần phải ghi lại những từ lạ hoặc không hiểu,
những câu khó lý giải trong bài khóa. Trước hết cần phải xem ở đây có những từ
ngữ nào đã từng học hoặc từng tra cứu và kịp thời ôn tập lại. Giải quyết phần
này rất quan trọng. Thông thường các thầy cô thường không giảng lại những
kiến thức đã học. Vì thế trẻ thường “tắc”, khiến việc học trên lớp không thuận lợi.
Vì thế đối với những nội dung mới cần học, bản thân mình phải nỗ lực tận
dụng triệt để những ghi chú trên sách hoặc những sách công cụ như từ điển...
Dù chỉ giải quyết được một phần cũng tốt. Khi thầy cô giải thích lại có thể sẽ
được nhấn mạnh hơn hoặc nâng cao hơn. Đối với những điểm kiến thức này,
một là cần phải giải thích, hai là trên cơ sở đã hiểu phải tăng cường ghi nhớ và
nỗ lực vận dụng. Đem những điểm kiến thức quan trọng ghi chép lại, cứ tích lũy
như vậy ngày này qua tháng khác sẽ có tiến triển.
Đối với việc đọc bài ngữ văn, cần phải chú ý đọc hiểu. Tức là trước tiên
cần phải lý giải theo trình tự tình cảm và quan niệm tư duy của tác giả bài văn.
Trên cơ sở đó rèn luyện việc nêu ra tư tưởng trọng tâm, điểm chính lập ý, tầng
thứ kết cấu và tổ chức tài liệu của bài văn. Sau khi chuẩn bị như vậy, khi lên lớp
chúng ta sẽ chủ động hơn; những điểm khó, trọng điểm cũng được rõ ràng hơn,
có lợi cho việc cùng thầy cô và bạn học cùng đi sâu vào tìm tòi, thảo luận và học
tốt môn ngữ văn.
2. Chuẩn bị môn toán chú trọng vào việc lý giải khái niệm cơ bản và công thức:
Môn Toán là một môn cơ bản, là một môn công cụ cơ bản. Toán tương đối
trừu tượng, tính lôgíc rất cao.
Chuẩn bị môn Toán trước tiên cần phải chú trọng vào việc lý giải khái
niệm cơ bản, phải tự hỏi mình nhiều. Tại sao cần phải học khái niệm này? Khái
niệm này có ý nghĩa gì? Phạm vi sử dụng của nó đến đâu? Chỉ khi thực sự nắm
vững khái niệm mới có thể phân tích và giải quyết được các vấn đề. Khi học khái
niệm, cần phải học từ ví dụ thực tế khái quát được khái niệm, trừu tượng được
khái niệm.
Một nội dung quan trọng của toán học chính là định lý và công thức. Khi
chuẩn bị bài, có thể tự xem quá trình xây dựng định lý, tự mình đảo ngược công
thức quan trọng. Trong quá trình đảo ngược này nếu cần sử dụng những công
thức cũ đã học thì phải kịp thời ôn tập ngay. Khi lên lớp có thể học thêm tư duy
của thầy, đem toàn bộ quá trình đảo ngược công thức thể hiện lại từng bước
càng rõ ràng càng tốt. Một kinh nghiệm quan trọng để học tốt môn toán chính là
phải nhớ rõ công thức. Đối với những công thức dài cần phải học tới mức nhắm
mắt lại vẫn có thể hình dung rõ mồn một từng chữ, từng từ. Công thức học thuộc
lòng càng kỹ càng tốt. Làm lại một số đề bài điển hình để củng cố và lý giải sâu
hơn. Khi lên lớp, phải chú trọng tăng cường và đi sâu vào kiến thức, phải học
theo tư duy, học kỹ thuật giải bài tập của giáo viên và tổng kết kinh nghiệm.
3. Chuẩn bị môn ngoại ngữ phải chú trọng việc đọc và khả năng diễn cảm:
Tiếng Anh là một môn phải dựa vào bản thân học tích lũy hàng ngày. Học
cách chuẩn bị bài tiếng Anh có đặc điểm tự học tiếng Anh càng rõ. Khi tổng kết
kinh nghiệm một số trẻ học tiếng Anh tiến bộ rất nhanh và có thành tích tốt,
người ta nhận thấy chúng quả thực có trình tự học nhất định.
Một là đọc ý. Tức là đọc hết bài một lượt, cố gắng tìm ra ý tổng thể của cả
bài. Phải có bước tìm hiểu ban đầu đối với nội dung của cả bài. Như vậy vừa có
thể kích thích được niềm hứng thú học ngoại ngữ, lại vừa có thể bồi dưỡng
được năng lực đọc hiểu ngoại ngữ.
Hai là học từ mới. Đối chiếu bảng từ mới hoặc tra từ điển, tự học từ mới.
Xác định rõ và ghi nhớ cách phát âm, cách viết và cách sử dụng. Đó là cơ sở tối
thiểu nhất để học tốt ngoại ngữ.
Ba là tìm hiểu ngữ pháp. Tìm hiểu thì, dạng câu, câu ngắn quan trọng, câu
thường dùng theo thói quen... Thử tìm ra trọng điểm, điểm khó, có chuẩn bị, có
mục đích khi đi học. Có thể nâng cao trình độ học ngoại ngữ.
Bốn là bồi dưỡng khả năng diễn cảm. Tức là nắm vững và cảm nhận về
ngôn ngữ. Sự xấu tốt của khả năng diễn cảm trong một trình độ nhất định phán
ánh được sự cao thấp về trình độ ngoại ngữ. Phương pháp chính của việc bồi
dưỡng năng lực diễn cảm chính là đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm bài văn cần phải
có ngữ điệu lên xuống. Những đoạn xuất sắc cần đọc truyền tải được tâm tư tình
cảm, tư tưởng, thậm chí kèm theo cả hành động.
Những đứa trẻ học giỏi ngoại ngữ đều có một kinh nghiệm quan trọng, tức
là phần lớn chúng học thuộc bài khóa, thậm chí có thể đọc làu làu những bài văn
ngoại ngữ đã học.
Như vậy có thể thấy mỗi một môn học đều có nội dung chuẩn bị khác
nhau. Quan trọng là phải kết hợp được tình hình học tập của chính mình với việc
vận dụng linh hoạt đặc điểm của môn học.
Những vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
Nhiệm vụ chính của việc chuẩn bị bài mới của trẻ thường được thực hiện
ở nhà. Vậy theo bạn, việc chuẩn bị bài mới của con bạn đã đạt tới bậc thang thứ
mấy?
Nhấn mạnh, làm sâu, khái quát hơn
Mục tiêu bậc thang và các thao tác về trình độ hành vi ôn tập. Kết hợp ôn
tập ngày thường với ôn tập theo giai đoạn
Chương 8. THỰC HIỆN SÁNG TẠO QUA VIỆC ÔN TẬP
Ôn tập chính là học đi học lại. Ôn tập là học lại bài sau khi đã chuẩn bị bài
và đã lên lớp học. Đó là một dạng học mang tính củng cố, tính sâu sắc và tính
phát triển, là tăng cường sự tự học mang tính chủ thể của trẻ. Ôn tập là mắt xích
quan trọng trong học tập.
Chúng ta thường nói đến ôn tập chủ yếu là nhằm chỉ việc ôn tập bài cũ.
Nội dung ôn tập chủ yếu là những kiến thức được học trong ngày. Việc ôn tập
nhiều hay ít và trình độ ôn tập đến đâu phần lớn cũng do tự mình sắp xếp. Nếu
đã học qua một thời gian dài, những kiến thức tích lũy lại khá nhiều, cần phải
tiến hành ôn tập tổng thể, được gọi là ôn tập hệ thống. Chẳng hạn như ôn tập
từng phần, từng giai đoạn, ôn tập tổng kết trước khi thi... Những lần ôn tập như
vậy phần lớn đều được thầy cô giáo hướng dẫn, là dạng ôn tập có yêu cầu, có
sắp xếp. Vì vậy ôn tập bài cũ càng phải có tính tự giác, tính tự học. Nó là cơ sở
để thực hiện tốt việc ôn tập hệ thống.
Đối với bố mẹ, giúp đỡ con cái ôn tập tốt cũng là một việc rất quan trọng.
Dưới đây là sự phân tích tường tận về sách lược phương pháp chủ đạo và trọng
điểm cần ôn tập đối với trẻ.
I. NHẤN MẠNH, LÀM SÂU VÀ KHÁI QUÁT HÓA
1. Quá trình trưởng thành của con người chính là quá trình không ngùng củng cố và nhấn mạnh:
Trong một ngày của trẻ, những kiến thức của các môn phải học rất nhiều.
Đối với những học sinh PTCS, dù có chuẩn bị bài mới, những kiến thức có được
rõ ràng là vẫn rất tạp nham, rất khó khăn. Phải sắp xếp một thời gian, kịp thời
chỉnh lý, củng cố những thu hoạch được từ học tập, giải quyết vấn đề là việc làm
vô cùng cần thiết. Nhất là khi lên lớp có những kiến thức không nghe rõ, không
hiểu hoặc không nhớ, phải kịp thời bổ sung những lỗ hổng đó, khiến kiến thức
thêm hoàn chỉnh, chân thực, rất có lợi cho việc học sâu hơn.
Kiến thức có mối quan hệ tương hỗ, từ thấp tới cao, từ nông tới sâu. Nếu
không chịu ôn tập hoặc không hiểu, không nhớ ngay từ bài học đầu, thì đối với
các giờ học tiếp theo sẽ xảy ra tình trạng không theo nổi, khó hiểu. Vậy có thể
thấy ôn tập là cách làm tốt để chuẩn bị bài mới, nâng cao trình độ bài giảng.
Sau một ngày học, cần phải bồi dưỡng thói quen ôn tập kịp thời, củng cố
học, làm khái quát, kết luận nhỏ. Những kiến thức được học của trẻ chủ yếu là
những kiến thức sách vở gián tiếp. Không thể có ấn tượng sâu sắc như chính
mình thực tiễn bản thân trải qua và đạt được. Do vậy cần phải kịp thời củng cố,
nhấn mạnh mới có thể nhớ rõ và nắm vững.
Các cán bộ nghiên cứu tâm lý học cho biết, quy luật cơ bản nhất của nhận
thức là cảm nhận, lý giải, củng cố và ứng dụng. Do đó, ứng dụng là mắt xích
không thể nào thiếu được của học tập.
Một nhà triết học người Đức cũng từng nói: “Lặp lại là mẹ của học tập”.
Sự phát triển tri thức, năng lực, tư tưởng, phẩm chất đạo đức con người
cũng như vậy. Quá trình trưởng thành của con người chính là một quá trình
không ngừng củng cố và tăng cường.
2. Đi sâu, đi sâu, lại đi sâu nữa:
Khi chuẩn bị bài mới là bước khởi đầu trẻ được tiếp xúc với kiến thức mới,
không thể hoàn toàn đi sâu vào hiểu biết toàn bộ được.
Lên lớp là hoạt động dưới sự chủ động của thầy cô, cũng không thể hoàn
toàn được tiến hành mà chỉ dựa vào trình độ của mình, vào ý muốn của mình.
Do vậy tất yếu sẽ dẫn đến việc xuất hiện hiểu biết còn nông, thậm chí không thể
lý giải được.
Như vậy nhiệm vụ hoàn chỉnh và đi sâu sẽ rơi vào phần ôn tập.
Ôn tập quý ở chỗ có thể đi sâu, phải phát triển đầy đủ tư duy hình tượng
cụ thể và tư duy lô lúc trừu tượng để tiến hành suy nghĩ. Nỗ lực vận dụng phân
tích và tổng hợp, trừu tượng và khái quát, so sánh và quy nạp, hệ thống hóa và
cụ thể hóa, quy luật tư duy tổng hợp và diễn biến. Đối với kiến thức cơ sở, tư
tưởng trọng tâm, quan hệ biến hóa, nếu muốn đi sâu và phân tích, cần phải có
cách nhìn và lối suy nghĩ riêng. Điều đáng kỵ nhất trong việc học tập của trẻ là
hiểu lơ mơ. Khi học những kiến thức trọng điểm, nhất định phải hiểu sâu hơn.
Trong giai đoạn ngay từ tiểu học, cần phải học chắc cơ sở, như vậy mới có ích
khi học lên cao hơn.
Khi ôn tập, cần phải đi sâu vào việc lý giải được kiến thức hơn nữa.
Nguyên tắc giáo dục:
Ôn tập quý ở chỗ có thể đi sâu, phải phát triển đầy đủ tư duy hình tượng
cụ thể và tư duy lô lúc trừu tượng để tiến hành suy nghĩ. Nỗ lực vận dụng phân
tích và tổng hợp, trừu tượng và khái quát, so sánh và quy nạp, hệ thống hóa và
cụ thể hóa, quy luật tư duy tổng hợp và diễn biến. Đối với kiến thức cơ sở, tư
tưởng trọng tâm, quan hệ biến hóa, nếu muốn đi sâu và phân tích, cần phải có
cách nhìn và lối suy nghĩ riêng.
3. Năng lực khái quát là sự thể hiện chủ yếu về trình độ năng lực của con người:
Một môn học là một hệ thống kiến thức lớn. Trong đó mỗi một đơn nguyên
kiến thức là một hệ thống kiến thức vừa hoặc nhỏ. Nội dung mỗi một bài giảng
cũng là một hệ thống kiến thức nhỏ.
Đối với việc xây dựng khái niệm, hình thành tư tưởng trọng tâm, tổ chức
nguyên lý, đối với việc biên soạn giáo trình hoặc những hoạt động trên lớp dưới
sự chỉ đạo của thầy cô đều phải cần sự sắp xếp một cách hệ thống và logic
nghiêm khắc.
Khi lên lớp, học từng đoạn từng đoạn, giải quyết từng từ từng từ, lý giải
sâu từng kiến thức cơ bản, biến cuốn vở từ mỏng thành dầy. Khi ôn tập như vậy,
phải tổng hợp, quy nạp chúng lại với nhau; phải xâu kết, tổ chức chúng lại, tạo
nên kiến thức hệ thống, tìm ra quan hệ giữa chúng, lý giải được quan hệ giữa
chúng. Như vậy mới có thể nắm vững hơn kiến thức.
Đối với hệ thống kiến thức, phải không ngừng tiến hành khái quát.
Đối với nhận thức về hệ thống bên trong giữa kiến thức với nhau, con
người cũng không ngừng đi sâu hơn, không ngừng đeo đuổi hình thức rõ hơn,
đơn giản hơn. Từ đó tạo nên một số phương pháp như so sánh, đề cương, lập
biểu, dùng hình vẽ để hiển thị. Ôn tập có thể tận dụng được đầy đủ những
phương pháp trên, khiến hệ thống kiến thức hoàn chỉnh hơn, giản lược hơn.
Biến cuốn sách từ dầy thành mỏng, thậm chí có thể biến nội dung của cả một
chương được thể hiện đầy đủ chỉ trên đề cương một trang giấy.
Hệ thống hoá kiến thức tức là vừa có lợi cho việc đi sâu vào việc lý giải
kiến thức cơ bản, lại vừa có lợi cho việc nắm vững một cách tổng thể và tổng
hợp những kiến thức vận dụng được. Học được cách lý giải và xử lý vấn đề từ
nhiều phương diện khác nhau, nhiều góc độ khác nhau. Điều này rất tốt cho việc
bồi dưỡng năng lực phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề, là sự chuẩn bị đầy đủ
đối với việc giải quyết chuyện luyện tập mang tính tổng hợp.
Quá trình đi sâu và khái quát là sự thể hiện chủ yếu của quá trình học tập.
Sự tiến triển đi sâu và khái quát không chỉ khiến người ta nắm vững được kiến
thức cơ bản, bồi dưỡng được năng lực, lại càng phát triển hơn nữa tư tưởng và
phẩm chất của con người, khai thác được tiềm năng và tính sáng tạo của con
người.
II. MỤC TIÊU BẬC THANG VÀ CÁC THAO TÁC VỀ TRÌNH ĐỘ HÀNH VI ÔN TẬP
Muốn làm tốt việc ôn tập phải có một trình tự nhất định. Qua nhiều nghiên
cứu điều tra suốt nhiều năm qua đã hình thành nên tiêu chí 5 cấp bậc về việc ôn
tập phù hợp với nhu cầu của trẻ. Hãy xem bảng “Trình độ hành vi ôn tập của trẻ
theo hình bậc thang” dưới đây.
1. Cấp 1- Ôn tập củng cố:
Củng cố những kiến thức đã học là nhiệm vụ cơ bản của ôn tập. Có trẻ
cho rằng: “Có một chút xíu kiến thức như vậy, đã chuẩn bị bài rồi, thầy giáo cũng
giảng qua rồi, ôn tập chẳng qua chỉ là đọc lại sách một lượt mà thôi”. Với cách
nghĩ sai lầm như vậy, khi đứa trẻ này đọc sách cũng giống như đọc tiểu thuyết
vậy. Dường như đều hiểu, đều có thể nhớ hết. Nhưng tới khi ứng dụng lại phát
hiện thấy rất nhiều vấn đề, quên đi khá nhiều. Tại sao lại như vậy? Rõ ràng là
những đứa trẻ này không có phương pháp nắm vững ôn tập củng cố, không tiến
hành suy nghĩ.
Làm thế nào để ôn tập củng cố tốt? Cách làm chuẩn xác là: cần phải thực
hiện tốt việc nhớ lại, hoặc còn gọi là “thử nhớ lại”. Tức là khi bắt đầu ôn tập,
trước tiên không nhìn sách và vở ghi bài, mà thử nhớ lại những nội dung cơ bản
của bài giảng trên lớp theo trình tự. Chỉ cần làm một cách nghiêm túc như vậy, ai
cũng có thể làm được. Lợi ích của việc làm này là:
Một là, bồi dưỡng thói quen suy nghĩ. Vì khi nhớ tốt không phải là chuyện
dễ dàng. Nó cần có sự kiên trì chuyên tâm, cần chuẩn bị theo đuổi tới cùng, và
quá trình tư duy khi lên lớp. Khái quát được nội dung chính của bài học trên lớp
cũng là phải mất nhiều công sức. Có lúc có một vấn đề gì đó tắc lại, cần phải
nghĩ trăm phương nghìn kế, khổ sở tìm manh mối để nhớ lại.
Hồi ức có thể bồi dưỡng tư tưởng của trẻ một cách hệ thống, hoàn chỉnh.
Dù cho đó mới chỉ là tư tưởng hệ thống hoàn chỉnh của trẻ ở lớp dưới nhưng nó
có thể thúc đẩy sự phát triển động thái của kết cấu tư duy của trẻ. Những hồi ức
như vậy càng bồi dưỡng trẻ biết suy nghĩ, và thích suy nghĩ. Đó là điều cốt lõi
của việc biết học và ham học.
Hai là, củng cố kiến thức học tập. Khi không cần đọc sách và vở ghi bài,
nhưng vẫn có thể nhớ lại đem kiến thức chính một cách tương đối hoàn chỉnh,
thậm chí rất có hứng thú. Điều này tiêu biểu cho việc đã bước đầu sơ bộ hiểu và
ghi nhớ được một phần kiến thức. Đó là điều khiến người ta phải vui mừng. Tất
nhiên có thể có một phần nhỏ kiến thức không thể nhớ lại nổi, hoặc là nội dung
cần ôn tập. Như vậy chỉ có cách thừa thắng xông lên.
Cách ghi nhớ như vậy khiến bản thân tích cực đọc và ôn tập, tìm ra và bổ
khuyết được vấn đề vẫn chưa hiểu rõ trên lớp. Nhớ lại một lượt rồi củng cố,
nhấn mạnh một lượt những thứ tự học.
Ba là, tổng kết kinh nghiệm giảng dạy, nâng cao trình độ học. Nếu bản
thân mình có thể nhớ lại toàn bộ hoặc phần lớn nội dung, cũng chứng tỏ rằng
việc chuẩn bị bài và việc lên lớp của mình có hiệu quả. Như vậy sẽ thúc đẩy bản
thân chủ động hơn, nhiệt tình học tập tích cực suy nghĩ, bồi dưỡng năng lực, mở
rộng tư tưởng, khiến trình độ lên lớp càng nâng cao.
Nếu có nhiều phần không kịp nhớ, hãy kịp thời tìm ra nguyên nhân. Chuẩn
bị đã đủ hay chưa, tư duy trên lớp đã tích cực hay chưa, có cố ý nhớ lại hay
không... Trong đó cái quan trọng nhất là tư duy có tích cực hay không. Vì những
thứ không hiểu rất dễ bị quên.
Hãy đọc bài văn “Thuật lại cách học tốt cho trí nhớ của bạn” Trần Học Lâm
- học sinh lớp 8 trường Sa Đông thành phố Diên, tỉnh Giang Tô như sau:
Phương pháp học tập có hiệu quả của tôi chính là thuật lại. Cái được gọi
là thuật lại tức là nhớ lại và giải đáp bằng miệng về những vấn đề kiến thức đã
học. Ôn tập lại nội dung chính đã học, phải khơi dậy được tác dụng tự mình
kiểm tra, tăng cường trí nhớ. Thuật lại có thể phát hiện mắt xích yếu trong học
tập, và kịp thời bổ sung. Thuật lại còn có thể tìm ra những điểm khó trong học
tập để từ đó tập trung sức lực, tinh thần, đột phá trọng điểm.
Có những phương pháp thuật lại sau: (1) Thuật lại sau buổi học. Tức là
sau khi học xong một môn hoặc đọc xong một cuốn sách, hãy dùng vài phút để
khái quát lại nội dung mà giáo viên giảng hoặc tư tưởng trọng tâm của cuốn
sách đó. Và kịp thời nắm vững trọng điểm, tăng cường độ lý giải và tiêu hóa
cuốn sách. (2) Thuật cả một ngày. Tức là sau một ngày học, hãy yên tĩnh nhớ lại
một lượt nội dung học của cả ngày đó. Cách này rất có lợi cho trí nhớ, dễ dàng
thực hiện. (3) Thuật lại giai đoạn. Tức là sau khi học xong một tiết hoặc vài tiết,
có thể nhớ lại tất cả nội dung của cả bài, tìm ra trọng điểm của từng tiết, từ từng
phần trên nhận thức đi tới tổng thể. (4) Thuật lại trước khi thi. Tức là trên cơ sở
thuật lại toàn diện, đem những kiến thức sách vở từ chỗ còn hiểu một cách thô
sơ gọt giũa thành tinh xảo, từ chỗ ôm đồm thành chắt lọc ít nhưng chất lượng.
Làm đề cương thuật lại một số nội dung chính và vấn đề chính. Như vậy trước
khi đi thi đã chuẩn bị đầy đủ. Đó là những kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được từ
quá trình học tập của mình. Và đó cũng là phương pháp học tập tốt nhất của tôi.
Tóm lại, qua việc học cách nhớ lại, có thể thúc đẩy tư duy, củng cố kiến
thức; tổng kết kinh nghiệm giáo dục, nâng cao trình độ học tập. Cách học này
cũng tăng cường ý thức tự giác học tập, nâng cao khả năng tự giác ngộ.
2. Cấp 2 - Ôn tập trọng điểm:
Có hai yêu cầu sau:
Một là cần phải nắm vững cơ bản. Một thành công quan trọng trong ngành
giáo dục cơ bản của Trung Quốc nhiều năm qua chính là nhấn mạnh tới việc xây
dựng kiến thức cơ bản và kỹ năng cơ bản. Trọng điểm ôn tập cần nắm vững cơ
bản có hai mặt sau:
- Có cách lý giải sâu của bản thân mình đối với kiến thức trọng điểm. Cần
phải suy nghĩ và lật đi lật lại câu hỏi chuyên sâu đối với kiến thức trọng điểm đã
học. Trước tiên cần phải làm rõ những thứ mà nó biểu đạt như “Là gì? (tức là ý
gì)”, “Có hiểu thật không? Làm thế nào để tường thuật một cách đơn giản?”. Bởi
vì những thứ thực sự hiểu được sẽ dễ dàng kể ra một cách giản lược.
Tiếp đó phải suy nghĩ tới những câu hỏi sâu hơn như “Tại sao? (tức là Tại
sao phải học nó)”, “Có tác dụng gì?”... Những câu hỏi kiểu này được bắt nguồn
từ nhu cầu, và cũng chứng tỏ được nó ứng dụng ra sao. Chỉ có như vậy mới có
thể thực sự củng cố được kiến thức, nắm vững được kiến thức.
- Trên cơ sở đã có được nguyện vọng đi sâu vào tìm hiểu và suy nghĩ, cần
phải xem lại vở ghi, bài giảng trong sách, sách tham khảo với tính chất đối chiếu,
so sánh.
Nội dung trong sách giáo khoa là cách biểu đạt đúng quy phạm nhất, ngắn
gọn, súc tích. Nội dung chính trong bài giảng của thầy cô là thứ phù hợp nhất để
trẻ hiểu được. Sách tham khảo có tác dụng giúp đỡ lý giải từ nhiều góc độ, nhiều
tầng thứ. Phải chỉnh lý tốt phần ghi bài sao cho phù hợp nhất với sự lý giải của
cá nhân, để lưu giữ lại một phần tài liệu học tập mà bản thân có thể đi sâu vào
tìm hiểu.
Hai là đòi hỏi phải tích cực học hỏi thêm từ thầy cô và bạn bè, tạo nên thói
quen tốt là ham học hỏi.
Vậy làm thế nào để tạo dựng được thói quen tốt này?
- Cần phải coi trọng việc hỏi và kịp thời hỏi ngay:
Ham học hỏi là một phương pháp học tập quan trọng. Chúng ta thường
trải qua kinh nghiệm này. Khi bản thân chưa hiểu được vấn đề nhưng có khi chỉ
một lời giải thích của thầy cô đã khiến chúng ta hiểu ra trong phút chốc. Hoặc khi
còn lơ mơ về vấn đề nào đó cũng có thể trao đổi, thảo luận với các bạn học, có
thể lập tức hiểu rõ.
Những người chỉ biết ôm sách một mình, không chịu học hỏi người khác
đã vô hình chung tự xoá mất tác dụng “kích thích khởi điểm” của thầy cô và tác
dụng “tương hỗ, giúp đỡ” của các bạn học. Nếu càng tích lại ngày càng nhiều
vấn đề như vậy, việc giải quyết ngày càng khó khăn hơn. Thậm chí có thể ảnh
hưởng nghiêm trọng tới hiệu quả và tính tích cực của việc học tập.
Cần coi trọng việc hỏi, kiên quyết hỏi và kịp thời hỏi ngay khi chưa hiểu.
Càng phải đi sâu vào việc lý giải và nắm vững kiến thức.
- Phải dám hỏi và chủ động hỏi:
Phần lớn trường hợp có vấn đề nhưng không hỏi chủ yếu vì “sợ”. Nỗi sợ
này thường do tự mình nghĩ quá ra mà thôi. Khi tìm thầy cô mới phát hiện ra
rằng đa số thầy cô đều rất kiên nhẫn. Thậm chí còn rất vui sướng khi có học sinh
đến tìm để hỏi thêm về các vấn đề trong học tập.
Việc dạy dỗ của thầy cô chính là giúp học sinh giải quyết những vấn đề
mà các em chưa hiểu hoặc giải quyết nổi. Giáo viên phải coi điều này là tôn chỉ
trong sự nghiệp giảng dạy, phải khích lệ các em dám hỏi và chủ động hỏi.
- Hỏi phải có suy nghĩ.
Khi có vấn đề, trước tiên mình phải tự suy nghĩ đã. Nếu tự mình giải quyết
được là tốt nhất. Nếu không tự giải quyết được, có thể suy nghĩ tìm ra điểm cốt
lõi và mạch tư duy của vấn đề. Như vậy mới có tư duy để hỏi, giáo viên mới hài
lòng đối với học sinh như vậy.
Nếu có thể hỏi một cách có kỹ thuật lại càng tốt hơn. Chẳng hạn như khi
thầy giáo dùng bút đỏ gạch một đoạn văn trong bài tập, tốt nhất là trẻ không nên
nghi ngờ rằng “tại sao lại vứt bỏ phần đó của em?”, mà cần phải hỏi rằng “em
nên sửa như thế nào thì sẽ hay hơn?”, “thầy góp ý em nên viết ra sao?”. Lúc đó
thầy giáo sẽ hướng dẫn, chỉ bảo rất nhiều điều quý giá.
Tóm lại cần phải học hỏi thêm. Đó là nguồn tài nguyên trí tuệ vô tận của
thầy cô và các bạn học mà trẻ có thể tận dụng được vô giới hạn. Đây cũng là
một phương pháp quan trọng để học tốt. Những đứa trẻ ham học hỏi luôn khiến
người ta phải nể phục.
3. Cấp 3 - Ôn tập hệ thống:
Ôn tập hệ thống là cách gọi ngắn gọn, đơn giản của việc ôn tập hệ thống
từng đơn nguyên, ôn tập hệ thống từng giai đoạn, ôn tập hệ thống trước khi thi.
Thông thường được thầy cô hướng dẫn, có đề cương ôn tập và kiểm tra việc ôn
tập...
Làm tốt việc ôn tập hệ thống cần phải tìm ra mối quan hệ bên trong giữa
kiến thức. Và từ việc nắm vững kiến thức một cách tổng thể và hệ thống, phải
bồi dưỡng năng lực khái quát.
Những kiến thức trong sách vở và những kiến thức mà thầy cô giảng trên
lớp đều có tầng thứ. Ví dụ như trong tiết 1, tiết 2 đầu tiên của môn vật lý lớp 10
có đặc điểm gì giữa lực và trọng lực, phương hướng trọng lực có đặc điểm gì.
Lớn và nhỏ có đặc điểm gì? Phương pháp đo lường chính xác là gì? Khi học, có
những đứa trẻ không tìm ra nổi những nội dung này. Còn học sinh cá biệt cho
rằng chưa từng học những kiến thức đó. Nhưng thật ra những kiến thức này lại
xuất hiện trên sách chưa đầy mười dòng. Nội dung của sách giáo khoa thường
được viết rất súc tích, nghiêm túc, đòi hỏi trẻ phải có năng lực phân tích và khái
quát cao. Các nhà biên soạn sách thường mang những ngôn ngữ mang tính
tầng thứ có quan hệ với nhau viết thành một đoạn. Chẳng hạn như trong một
đoạn ngắn chưa đầy mười dòng chữ nhưng đã bao gồm rất nhiều vấn đề. Trong
quá trình học và ôn tập, trẻ nhất thiết phải tìm ra từng điểm kiến thức đó, liên kết
chúng lại với nhau. Xác định rõ điểm kiến thức và tính tầng thứ, liên hệ tương hỗ
tiến hành lý giải là thể hiện quan trọng của việc bồi dưỡng năng lực phân tích và
khái quát, nắm được cách học.
Để đạt được yêu cầu trên, có thể sử dụng linh hoạt những phương pháp
cụ thể sau:
a. Phương pháp ghi chú:
Bên lề cuốn sách hoặc vở ghi chép, hãy suy nghĩ sử dụng những từ ngữ
đơn giản để bình luận tư tưởng trọng tâm trong nội dung của một đoạn hoặc của
cả đoạn. Cách ghi chú đơn giản, ngắn gọn, đập vào mắt như vậy có thể thể hiện
rõ ràng tư tưởng, tình cảm của cá nhân khi đọc đoạn sách đó. Sau khi sửa chữa
và suy nghĩ nhiều lần, những ghi chú như vậy là tư liệu ôn tập vô cùng quý giá.
Khi ôn tập từng đơn nguyên, có thể dùng “cách đọc mục lục”. Những đề
mục lớn nhỏ trên sách chính là đề cương nội dung của từng đoạn nhỏ, đoạn lớn.
Nếu đọc đi đọc lại và nghiền ngẫm các mục lục chính là cách tìm kiếm mối và lý
giải quan hệ bên trong kiến thức, có thể nắm được kiến thức tổng thể tốt hơn, là
phương pháp cơ bản thường dùng của người biết đọc sách và biết học.
b. Phương pháp viết đề cương.
Là phương pháp đúc rút ngắn gọn kiến thức của từng phần, từng chương
một cách có hệ thống và viết ra những điểm chính của kiến thức.
Viết đề cương là phương pháp được sử dụng nhiều khi ôn tập hệ thống.
Đặc điểm của nó là:
- Dùng nhiều khi ôn tập hệ thống kiến thức của từng phần, từng chương.
Nếu nội dung của từng tiết học là rất độc lập và rất quan trọng thì vẫn có thể làm
theo cách này.
- Đối với kiến thức cơ bản, rõ ràng nó có sự lý giải nhất định, đối với mối
quan hệ nội tại giữa kiến thức, nó có nhận thức nhất định. Để giúp cho trọng
điểm càng nổi bật hơn, quan hệ càng rõ ràng hơn và bản thân có được một tài
liệu học tập do chính mình tự biên soạn.
- Cũng chính vì nó là tài liệu thể hiện kiến thức cơ bản của mình và những
cách nghĩ có liên quan nên nó không thể ngắn gọn, súc tích như bài khoá trong
sách được. Cũng không phải là bài soạn của thầy cô giáo hoặc phần photo của
sách tham khảo. Mà là trên cơ sở gia công thêm những tư liệu đã học ở trên,
hấp thu nay đủ mọi mặt hơn nữa những thứ có tác dụng giúp đỡ mình để hình
thành nên một tư liệu hệ thống riêng.
- Viết đề cương là để “dùng”, để nắm vững kiến thức hệ thống tốt hơn. Về
bản chất nó là một công cụ. Do vậy, khi viết đề cương, tuyệt đối không đi vào
hình thức, thậm chí không cần viết lại những từ ngữ trọng điểm chép nguyên xi
từ trên sách xuống. Khi tôi đang giảng dạy môn vật lý ở cấp 3 đã luôn khuyến
khích học sinh làm đề cương hệ thống. Chẳng hạn khi làm đề cương về chương
“Lực”, một học sinh đã viết định nghĩa Lực như sau: Do lực hút của trái đất khiến
vật thể nhận được lực. Khi tôi hỏi lại “Trọng lực có phải là lực hút của trái đất đối
với vật thể không?” Cậu học sinh đó đã trả lời: “Đúng thế”. Như vậy có thể thấy
cậu học sinh này làm đề cương bằng cách chép từ sách ra, chứ không thực sự
hiểu. Một học sinh khác viết định nghĩa về trọng lực là “do...”. Vừa nhìn đã thấy
cậu học sinh này không những hiểu trọng lực, mà còn rất biết cách viết đề
cương. Cậu có thể nói rõ rằng “trọng lực do..., chứ không phải là...”. Lời lẽ tuy
ngắn gọn, đơn giản nhưng những người trong ngành đều nhất trí. Có thể thấy
khi viết đề cương có thể thúc đẩy trẻ nắm được những từ quan trọng, hiểu rõ
được kiến thức cơ bản.
Viết đề cương cũng là một trong những phương pháp quan trọng đã giúp
tôi nâng cao chất lượng giảng dạy. Lúc lên lớp, tôi hướng dẫn trẻ đọc sách chăm
chú, cùng phân tích với chúng những lớp ý nghĩa của bài văn. Điều này khiến trẻ
rất hứng thú và nói rằng hiếm khi thấy các thầy cô khoa học tự nhiên lại giúp học
sinh cách đọc sách và cách chuẩn bị bài mới như vậy. Khi sắp học xong nội
dung một chương, tôi lại yêu cầu các em viết đề cương, đem tất cả kiến thức và
nhận biết của cả một chương viết lên một tờ giấy A4. Tất nhiên còn phải chừa lề
để lấy chỗ ghi chú và bổ sung. Các em học sinh vừa đỗ cấp ba nên rất tích cực
học tập. Em nào cũng viết đề cương rất cẩn thận, còn trao đổi, đưa nhau xem
trong giờ ôn tập. Một số em viết về ba dạng lực đều căn cứ vào định nghĩa và
đặc điểm. Những nội dung liên quan tới đặc điểm lại được viết căn cứ theo
phương hướng, lớn nhỏ, tác dụng. Viết như vậy sẽ làm nổi bật kiến thức cơ bản,
nội dung cả chương rất thuận theo đúng trình tự, cảm giác về hệ thống rất mạnh
mẽ. Nội dung cả chương trở nên vừa ít đi nhưng lại rất chân thực, dễ nắm vững.
Tôi chọn ra những đề cương ôn tập hệ thống được làm rất tốt, đặc biệt là những
đề cương có đặc điểm cá nhân, treo trên lớp để mọi người cùng học tập, cùng
tham khảo.
Ôn tập hệ thống còn có thể sử dụng phương pháp so sánh (thường dùng
so sánh liệt kê), phương pháp đồ thị (thường dùng hình kết cấu) và phương
pháp liệt kê (thường dùng liệt kê phân loại)... Trẻ căn cứ vào những tài liệu học
tập khác nhau, tự linh hoạt tìm cho mình phương pháp có ích nhất. Điều này có
tác dụng một nửa tới việc củng cố, lý giải và hệ thống nắm vững kiến thức.
Yêu cầu thứ hai của ôn tập hệ thống là phải nhớ rõ hệ thống kiến thức.
Dù là ghi chú, đề cương hay làm biểu đồ mình phải tự động não để tìm ra
những mối quan hệ kiến thức. Như vậy nhất định phải cố ý ghi nhớ, thuộc lòng.
Phải yêu cầu trẻ học thuộc lòng tất cả hệ thống kiến thức của cả chương. Đọc
thuộc lòng tới mức có thể diễn đạt rất tự nhiên. Lứa tuổi thiếu niên chính là thời
kỳ đẹp nhất để phát triển trí nhớ. Như vậy việc thuật lại rất dễ dàng. Nó không
chỉ củng cố việc nắm vững kiến thức cơ bản và hệ thống, mà còn chuẩn bị tốt
cho việc ứng dụng. Lại càng phát triển được trí nhớ và tư duy cho trẻ, giúp trẻ
biết cách học.
4. Cấp 4 - Ôn tập kinh nghiệm
Mỗi khi làm xong một việc gì, con người phải có ý thức tổng kết lại kinh
nghiệm. Việc học tập và ôn tập lại càng phải làm như vậy. Việc ôn tập kinh
nghiệm có hai yêu cầu sau:
Một là học sâu và học một cách hệ thống. Sau khi ôn tập xong, về nội
dung, trình tự, cách viết... nếu bản thân mình có kinh nghiệm hay nào thì nên
tổng kết ra, viết xuống. Hệ thống kinh nghiệm chính là năng lực.
Hai là bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề. Cần phải lựa chọn một số
đầu đề để thử. Đối với những đầu đề dễ, hãy xem tự mình có thể vừa nhìn qua
đã biết được cần phải vận dụng những kiến thức cơ sở nào. Đối với những đầu
đề mang tính tổng hợp, hãy xem bản thân mình có được tư duy giải quyết vấn
đề rõ ràng không. Như vậy có thể kiểm tra được hiệu quả việc học tập và ôn tập
của bản thân. Đồng thời có thể đề cao quá trình nhận thức một cách hệ thống và
hoàn chỉnh đối với kiến thức; bồi dưỡng năng lực tổng hợp vận dụng kiến thức
giải quyết vấn đề; tích lũy kinh nghiệm ứng dụng.
5. Cấp 5 - Kinh nghiệm nghiên cứu
Bao gồm hai yêu cầu:
- Một là từng bước hình thành chuyên đề, học tập theo chuyên đề. Đó là
một cách học tập trung, triệt để. Là một cách học phá vỡ những tiêu chuẩn thông
thường nhằm đạt tới trình độ cao hơn.
Ví dụ như trong vật lý lớp 10, chuyển động theo đường trục có thể hình
thành nên hai chuyên đề. Một là chuyên đề chuyển động theo hình ảnh. Tập
trung tất cả những hình đã học xem có bao nhiêu loại, là những hình gì. Sau khi
phân tích toàn diện, sẽ không thấy sợ những đề bài về chuyển động hình ảnh
nữa. Hai là chuyên đề công thức chuyển động. Có những đứa trẻ lấy những
công thức có liên quan trong sách vở, chỉnh lý thành một hệ thống, viết lên một
trang giấy. Nào là “công thức ông”, “công thức bố”, “công thức con”, “công thức
cháu”... Tức là phản ánh được quan hệ giữa chúng, đồng thời cũng hiểu rõ được
ứng dụng giữa chúng.
Giáo dục ở tiểu học và trung học phải kết hợp chặt chẽ với thực tiễn xã
hội, tạo nên những chuyên đề phong phú đa dạng. Việc nghiên cứu những
chuyên đề này phải có kế hoạch và có hướng dẫn. Cần học tập một cách nghiên
cứu. Điều này rất có lợi đối với tài năng của trẻ. Những đứa trẻ thích tìm tòi,
nghiên cứu vẩn đề là rất đáng quý. Giống như A.Einstein đã nói: “Tôi không có
tài năng gì đặc biệt, chẳng qua chỉ thích nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề mà thôi”.
- Hai là thích thảo luận vấn đề, thích hợp tác học tập. Ở phần ôn tập và lên
lớp đã nói ở phần trước đều đã nhắc tới những yêu cầu này. Có thực hiện tốt
phần ôn tập, đặc biệt là ôn tập nghiên cứu chuyên đề lại càng cần phải hợp tác
học tập, hợp tác nghiên cứu hơn nữa.
Bảng trình độ hành vi ôn tập của trẻ theo hình bậc thang:
1. Ôn tập củng cố: Nhớ lại nội dung bải giảng. Củng cố những thu hoạch
học tập chuẩn bị bài và trên lớp. Tìm ra và bù lắp ngay những vấn đề chưa hiểu
trên lớp.
2. Ôn tập trọng điểm: Nắm vững cơ sở. Phải tự có những lý giải sâu sắc
của riêng mình về kiến thức trọng điểm và điểm khó. Khi xem sách giáo khoa, vở
ghi bài… phải có tính chất đối chiếu, chỉnh lý tốt phần ghi chép.
3. Ôn tập hệ thống: Tìm ra mối quan hệ nội tại giữa các kiến thức. Nắm
vững kiến thức về mặt tổng thể, hệ thống. Bồi dưỡng năng lực khái quát, trừu
tượng. Phải nhớ kỹ hệ thống kiến thức. Phải chuẩn bị đầy đủ cho phần ứng
dụng.
4. Ôn tập kinh nghiệm: Có kinh nghiệm nắm vững riêng đối với những
kiến thức cơ bản và mối quan hệ nội tại. Và ghi chú đơn giản trên vị trí tương
ứng. Bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề. Ước tính ứng dụng, tích lũy kinh
nghiệm tứng dụng.
5. Ôn tập nghiên cứu: Tiến thêm một bước hình thành chuyên đề. Đối
với hệ thống kiến thức phải có được cảm nhận mới mẻ, cách nhìn mới mẻ của
riêng mình. Có phương pháp riêng đối với việc vận dụng và phải ghi chép lại tóm
tắt. Thuận tiện cho việc học hỏi, thảo luận, hợp tách học tập.
III. KẾT HỢP ÔN TẬP NGÀY THƯỜNG VỚI ÔN TẬP THEO GIAI ĐOẠN
Ôn tập ngày thường nhằm chỉ những ôn tập sau các buổi lên lớp hàng
ngày. Ôn tập giai đoạn phần lớn là những ôn tập theo các đơn nguyên nhỏ hoặc
lớn, còn gọi là ôn tập hệ thống.
Ôn tập ngày thường là ôn tập sau buổi học và do mình tự sắp xếp về thời
gian. Thực chất cũng là ôn tập hệ thống thuộc loại nhỏ.
Ôn tập giai đoạn có cái do mình tự sắp xếp, có cái do thầy cô hướng dẫn,
có yêu cầu nhất định. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, cần phải kết hợp giữa ôn
tập ngày thường với ôn tập giai đoạn.
1. Ôn tập giai đoạn thu hoạch được nhiều nhất:
Những người học giỏi đều có những thể nghiệm chung rằng khi học hết
kiến thức một đơn nguyên nào đó, sẽ để ra một thời gian nhất định để đọc lại,
tổng kết một lần. Đó cũng chính là một lần ôn tập giai đoạn mà chúng ta nói tới,
cảm nhận được thu hoạch to lớn. Tại sao vậy? Nhiệm vụ quan trọng nhất của ôn
tập chính là hình thành năng lực và hệ thống kiến thức. Vì kiến thức giai đoạn là
hoàn chỉnh. Nó có lợi cho việc tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp,
trừu tượng, khái quát, cụ thể hoá, hệ thống hoá. Từ đó hình thành nên hệ thống
kiến thức. Kiến thức cơ sở, nội dung bao hàm và bên ngoài để hình thành nên
hệ thống lại càng rõ ràng hơn. Khi vận dụng cũng chuẩn xác và có tác dụng hơn.
Đồng thời, khi chuẩn bị bài hàng ngày, khi lên lớp, ôn tập hoặc trong bài
tập cũng đạt được không ít kinh nghiệm nắm vững kiến thức và vận dụng kiến
thức. Khi ôn tập giai đoạn, có một số kinh nghiệm cũng khái quát hoá, hệ thống
hoá. Từ đó khiến nó trở thành những kiến thức và kỹ năng có thể chuyển dịch
được, có giá trị ứng dụng phổ biến. Đồng thời cũng trở thành năng lực hoàn
thành hoạt động học tập một cách thuận lợi và có hiệu quả. Những giáo viên có
kinh nghiệm và những học sinh học giỏi đều rất tôn trọng việc ôn tập giai đoạn,
từ đó hình thành nên kinh nghiệm nhất định, mở rộng thu hoạch học tập.
2. Xây dựng tốt cơ sở:
Lên lớp hàng ngày hoặc ôn tập sau khi lên lớp đều là việc học tập theo
một quy luật hoặc là một đoạn văn. Nó cũng là một hệ thống nhỏ. Những sự vật
trong đó cũng là những thứ có mối liên hệ chặt chẽ, có tầng thứ nhất định. Đối
với những hệ thống nhỏ này, nếu không nắm vững, không làm rõ thì sẽ rất khó
hình thành và lý giải được hệ thống kiến thức đơn nguyên. Quá trình ôn tập có
thể được coi là quá trình tổ chức, xây dựng nên toà nhà kiến thức. Nếu việc đặt
“viên gạch nền” không tốt thì mỗi một đơn nguyên, mỗi một tầng nhà sẽ bị gắn
kết lỏng lẻo, tạo thành một công trình “mềm oặt, không có sức bền”. Như vậy
khó có thể xây dựng nên “tòa nhà kiến thức” trong giai đoạn ôn tập. Có thể thấy,
nắm vững học tập hàng ngày chính là cơ sở để thực hiện tốt việc ôn tập.
Từ đó có thể thấy quá trình học tập là một quá trình hoàn chỉnh mắt xích
này gắn kết mắt xích kia.
3. Tài liệu ôn tập quý giá:
Hệ thống kiến thức có nội dung sâu sắc và mở rộng. Nếu nghiên cứu và
lật đi lật lại vấn đề không ngừng, hình thành nên tư liệu chữ viết, không ngừng
sữa chữa tư liệu, không ngừng rèn luyện lại hệ thống kiến thức.
Tài liệu ôn tập là nhằm để dùng. Dùng nó sẽ có lợi cho việc nắm vững và
vận dụng kiến thức. Và vận dụng những thông tin phản hồi để sửa chữa lại nội
dung chính của tài liệu. Nhất định phải giữ cho mình tài liệu ôn tập quý giá.
Trẻ cần phải học cách học tập như vậy mới nhất định học tập được tốt
hơn.
Những vấn đề mà các bậc phụ huynh cần tham khảo:
Việc ôn tập không chỉ quyết định thành tích thi cử của con cái bạn, mà còn
quyết định năng lực học tập của trẻ. Vậy con bạn cần phải làm gì cho việc ôn
tập?
Tỉnh ngộ, linh hoạt, trí năng, phẩm chất
Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi bài tập và các thao tác
Làm tốt bài tập bên ngoài
Chương 9. DÙNG BÀI TẬP ĐỂ KIÊM TRA THÀNH QUẢ HỌC TẬP
Sau khi trẻ học được kiến thức, nhất thiết phải tiến hành kiểm tra và ứng
dụng. Bài tập là một trong những hình thức quan trọng để kiểm tra và ứng dụng
kiến thức. Do vậy làm bài tập là một mắt xích tất yếu và là một thủ pháp quan
trọng để hoàn toàn nắm vững kiến thức.
I. TỈNH NGỘ, LINH HOẠT, TRÍ NĂNG, PHẨM CHẤT
Có những đứa trẻ làm bài tập chỉ vì đối phó với thầy cô và bố mẹ, để được
biểu dương. Do vậy xuất hiện hiện tượng chép bài tập. Có thể thấy bố mẹ cần
phải tăng cường nhận thức cho con cái về ý nghĩa làm bài tập.
1. Học cách tự kiểm tra việc học tập của mình:
Nhà triết học cổ Hy Lạp Alisdu đã nói: “Khát vọng tri thức là bản tính của
loài người”. Một mục đích của việc con người khát vọng tri thức là để ứng dụng.
Con cái nắm vững kiến thức được bao nhiêu? Có nắm tới mức sâu sắc, linh
hoạt không? Liệu có thể vận dụng được những kiến thức đã học và bản lĩnh để
giải quyết vấn đề thực tiễn? Có chuẩn bị tốt để giải quyết vấn đề thực tiễn trong
tương lai không? Làm bài tập chính là một kiểm tra việc hoàn thành ý đồ nói ở
trên...
Trẻ cần phải tôn trọng những bài tập mà thầy cô giao về nhà. Phần lớn
các bài tập này đều là những bài tập cơ sở, là sự kiểm tra kiến thức trọng điểm,
tính tập trung cao. Những đầu đề này rất chuẩn xác, cần phải thực hiện nghiêm
túc.
Một số ít bài tập khác mang đề tài tổng hợp, cần có năng lực chuyển động
nhất định.
Thông thường, làm bài tập rất thuận lợi, độ chính xác cao, trên một trình
độ nhất định chứng tỏ việc nắm vững kiến thức phần đó rất tốt. Nếu tình hình
hoàn toàn ngược lại, chứng tỏ việc nắm vững kiến thức rất kém, cần phải kịp
thời kiểm tra, tìm ra nguyên nhân và ôn tập gấp.
Đối với hiệu quả học tập ra sao, không thể đơn giản căn cứ vào cảm giác.
Có những đứa trẻ cho rằng mình tự chuẩn bị bài, lên lớp và ôn tập “cũng không
đến nỗi”. Nhưng khi vừa làm bài tập đã phát hiện thấy rất nhiều vấn đề. Điều này
phản ánh rằng về mặt lý giải của đứa trẻ đó đối với kiến thức cơ sở không
những có vấn đề, mà về mặt vận dụng kiến thức cơ bản để phân tích và giải
quyết vấn đề cũng tồn tại vấn đề. Vì vậy tình hình bài tập có thể giúp trẻ tự nhìn
nhận lại việc học của mình.
2. Làm sâu, làm mạnh và làm sinh động hơn:
Trong quá trình giảng dạy và học tập nhiều năm qua, con người đã tích lũy
được một số đề bài hay. Có một số đề bài rất kinh điển, rất sâu sắc, rất ý nghĩa.
Đối với kiến thức cơ sở và hệ thống có sự lý giải sâu sắc hơn. Rất nhiều đứa trẻ
đều có những thể nghiệm như vậy. Tức là sau khi làm xong bài, trẻ mới thực sự
hiểu được một số kiến thức.
Đề bài phần lớn được hình thành xoay quanh những trọng điểm và điểm
khó trong toán học. Có cái được hình thành nhằm vào những nội dung mà trẻ dễ
sơ ý quên lãng hoặc dễ mơ hồ. Sau khi làm một số bài tập này sẽ khiến việc học
tập của trẻ thêm chuẩn xác hơn, chân thực hơn, khiến kiến thức được kịp thời
tăng cường.
Kiến thức của bài giảng là một dạng kiến thức gián tiếp, trừu tượng.
Thông qua việc chuẩn bị bài, lên lớp, ôn tập, chỉ có thể coi như là bước đầu
nhận thức về kiến thức. Vì thế trẻ có thể cảm nhận thấy có phần “nghiêm túc”,
“khô khan” trong kiến thức bài giảng bởi vì nội dung phong phú ẩn chứa của nó
mãi mãi không được thể hiện ra. Bài tập có thể khiến cho những kiến thức này
sinh động hẳn, đặc biệt là những bài tập giải quyết vấn đề thực tiễn, nó nhất thiết
cần phải vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học. Vì thế phần lớn trẻ em đều
tình nguyện làm bài tập và luyện tập. Không chỉ có “làm bài tập khiến tri thức
sống động” mà bài tập còn có thể bồi dưỡng được niềm hứng thú học tập, khích
động chí hướng của trẻ.
Bài tập có thể khiến cho những kiến thức được học thêm sâu sắc, mạnh
mẽ và sinh động. Ba yếu tố này luôn thống nhất, hỗ trợ thúc đẩy nhau.
3. Phát triển trí tuệ và phẩm chất:
Bài tập và luyện tập có thể hình thành nên kỹ năng cơ bản của trẻ đối với
nhiều môn. Ví dụ kỹ năng viết, kỹ năng vẽ, kỹ năng thao tác, kỹ năng vận dụng...
Trong quá trình tích lũy để kiến thức được sâu hơn, mạnh hơn, sinh động
hơn, tất yếu sẽ hướng trẻ tới việc suy nghĩ tích cực. Từ đó khiến năng lực quan
sát, năng lực ghi nhớ, năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và năng lực sáng
tạo được nâng cao.
Trong tình hình cải cách toàn diện cách mạng giáo dục, thúc đẩy giáo dục
tố chất, giáo trình và bài tập ngày càng kết hợp chặt chẽ với thực tiễn. Điều này
yêu cầu trẻ có thể đối diện với vấn đề thực tiễn, giải quyết vấn đề thực tiễn. Cần
phải chú ý bồi dưỡng năng lực phân tích giải quyết vấn đề của trẻ, năng lực tập
hợp xử lý thông tin và năng lực diễn đạt ngôn ngữ chữ viết. Từ đó phát triển trí
tuệ của trẻ. Quá trình làm bài tập của trẻ cũng chính là quá trình trẻ giải quyết
vấn đề, khắc phục khó khăn. Nó không chỉ đòi hỏi trẻ có ý chí, mà còn phải có
hứng thú và sự tự tin trong học tập. Tình hình trả bài của trẻ (vở bài tập, báo cáo
thí nghiệm, bài văn...) còn phản ánh được thái độ lao động, tác phong và tinh
thần trách nhiệm... của trẻ. Thành tích bài tập và thành tựu học tập của trẻ luôn
gắn bó chặt chẽ với nhau. Bài tập được làm tốt rất có lợi cho việc hình thành
phẩm chất tốt của trẻ.
Nguyên tắc giáo dục:
Quá trình làm bài tập của trẻ cũng chính là quá trình trẻ giải quyết vấn đề,
khắc phục khó khăn. Nó không chỉ đòi hỏi trẻ có ý chí, mà còn phải có hứng thú
và sự tự tin trong học tập.
Tóm lại, làm tốt bài tập là một mắt xích quan trọng không thể thiếu để trẻ
nắm vững kiến thức, năng lực bồi dưỡng, hình thành phẩm chất.
II. MỤC TIÊU BẬC THANG CỦA TRÌNH ĐỘ HÀNH VI BÀI TẬP VÀ CÁC THAO TÁC
Nếu chúng ta hỏi trẻ: Làm bài tập như thế nào mới có kết quả?
Rất nhiều đứa trẻ hầu như sẽ đồng thanh trả lời: “Làm nhiều”.
Có rất nhiều đứa trẻ ngày đêm chăm chỉ làm bài tập, nhưng thành tích học
tập vẫn không hiệu quả, thậm chí còn thi trượt cấp ba hoặc đại học.
Những ví dụ như vậy có rất nhiều, khiến người ta không khỏi suy nghĩ và
thông cảm.
Bài tập cần có một số lượng nhất định, nhưng nếu làm bài tập như đi đánh
nhau thì chỉ tổ hại người, mệt mỏi.
Nhất định phải để trẻ nắm vững khái niệm khoa học và phương pháp làm
bài tập.
Nhiều năm qua, rất nhiều nghiên cứu điều tra, chúng tôi đã hình thành nên
một “biểu đồ trình độ hành vi bài tập của trẻ hình bậc thang”. Nó giúp trẻ học
cách làm bài tập, nâng cao thành tích học tập, bồi dưỡng năng lực, rất có lợi cho
các bậc phụ huynh trong việc hướng dẫn con cái làm bài tập.
1. Cấp 1 - Chân thành hoàn thành bài tập:
Có hai yêu cầu:
Một là: trước tiên phải ôn tập, độc lập suy nghĩ. Tức là nhất định phải ôn
tập trước, làm bài tập sau. Nếu không ôn tập, sẽ không thể lý giải được sâu sắc
về kiến thức, không vận dụng được trí nhớ, những kiến thức học được sẽ vụn
vặt, không được chuẩn bị vận dụng. Nếu cứ như vậy làm bài tập, tất yếu sẽ dẫn
tới tình trạng tư tưởng gặp khó khăn, chất lượng không cao, hiệu quả giảm sút.
Cứ như thế không bao lâu tốt sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu quả học tập,
cũng không thể thực sự đạt được mục đích kiểm tra và ứng dụng. Những bài tập
thông thường đều yêu cầu trẻ phải tự mình hoàn tốt một cách độc lập. Khi gặp
khó khăn, phải tự mình động não, nghĩ ra nhiều cách, kiên định ý chí hoàn tốt.
Khi thực sự không thể giải quyết nổi nữa mới hỏi thầy cô và các bạn, nhưng
không được chép bài tập của người khác.
Hai là: chú ý đọc kỹ đề bài, chân thành giải bài tập, viết bài tập sạch sẽ,
hoàn chỉnh trên giấy, hoàn tốt đúng thời hạn. Chú ý đọc kỹ đề bài chính là cần
phải coi trọng việc lý giải ý nghĩa của đề bài. Hiện tượng nhìn nhầm đề bài hoặc
hiểu sai ý đề bài là rất phổ biến. Một số học sinh có thành tích học tập tốt đã có
những kinh nghiệm quan trọng chính là lúc thường nhật làm bài tập đã nuôi
dưỡng được thói quen tốt là chú ý đọc kỹ đề bài. Để làm tốt việc đọc kỹ đề bài,
cần phải thực hiện tốt bốn yêu cầu sau:
- Đọc đề bài chuẩn xác. Tức là phải đọc chậm, đọc kỹ, đọc một cách bình
tĩnh, đặc biệt đối với những từ ngữ quan trọng.
- Phân tích ý của đề bài. Tức là cần phải lý giải, phân tích đầu đề, cái nào
là mình biết, cái nào không biết. Quá trình như thế nào?... Nhất định phải làm rõ.
Còn có thể thông qua hình ảnh để thể hiện ý đồ, phân tích vấn đề.
- Tư duy thông suốt. Có thể suy nghĩ hoặc thiết kế quá trình giải đáp vấn
đề càng rõ ràng càng tốt. Thực hiện tốt quan hệ. Nhất là quan hệ giữa đề bài với
kiến thức đã học. Các bài tập cần phải chuẩn xác, hiện thực, đều phải xoay
quanh những vấn đề liên quan đến các kiến thức đã học. Dù đề bài có kết hợp
với thực tiễn nhiều như thế nào, mới mẻ ra sao, cũng không được suy nghĩ lung
tung, thậm chí tự mình “tạo ra” quy luật giải quyết vấn đề. Nhất thiết cần phải liên
hệ chặt chẽ tới quy luật, nguyên lý, công thức đã học và vận dụng linh hoạt.
Tóm lại, đọc kỹ đề bài tức là phải đọc chuẩn xác, phân tích ý của đầu bài,
tư duy thông suốt, thực hiện tốt quan hệ.
Quá trình giải đáp bài tập cần phải chân thành. Bất kỳ một điểm nhỏ nào
trong quá trình này đều tạo nên những khác biệt rất lớn đối với kết quả cuối
cùng. Cần phải căn cứ theo yêu cầu quy phạm, làm bài tập gọn ghẽ, chỉnh tề,
từng dòng rõ ràng, hoàn thành đúng thời hạn.
2. Cấp 2 - Nâng cao hiệu suất bài tập:
Gồm hai yêu cầu:
- Chuẩn bị đầy đủ, đầy tự tin. Để nâng cao hiệu suất cần chuẩn bị đầy đủ
cho việc làm bài tập. Một là chuẩn bị về kiến thức. Không chỉ phải tiến hành ôn
tập đối với kiến thức cơ bản, mà còn cần phải ôn tập về kinh nghiệm và năng
lực. Phải xác định rõ nội dung cần phát huy và sửa chữa của bài tập lần này. Hai
là chuẩn bị về hoàn cảnh. Trên bàn học cần thu dọn ngăn nắp, sạch sẽ. Những
tài liệu ít sử dụng không nên đặt trên bàn. Chỉ để những sách vở, tài liệu đang
cần dùng, vở bài tập theo đùng thứ tự. Các đồ dùng học tập cần được để cố
định tại những nơi dễ lấy. Làm như vậy sẽ nâng cao hiệu suất bài tập, còn có thể
hình thành nên thói quen học tập tốt ngăn nắp, rất có lợi cho công việc trong
tương lai. Ba là chuẩn bị về thời gian. Cần phải sắp xếp một khoảng thời gian
không bị gián đoạn, không bị quấy nhiễu để làm bài tập là tốt nhất. Những người
được chuẩn bị đầy đủ sẽ đầy tự tin làm việc. Về điểm này, bố mẹ cần phải suy
tính hộ con cái.
- Cần phải làm bài tập nghiêm túc như khi đi thi. Giờ đây có rất nhiều đứa
trẻ làm bài tập rất không khoa học, không biết rằng trước khi làm bài tập cần
phải ôn tập tốt, để khi bắt tay vào làm không bị gián đoạn, vừa làm vừa đối chiếu
với sách vở, như vậy hiệu quả đem lại sẽ rất kém. Có những đứa trẻ mắc bệnh
không tập trung. Khi làm bài tập ở trường rất tốt nhưng khi về nhà, do vừa làm
bài tập vừa nghịch đồ chơi, thậm chí cắn móng tay... làm mất nhiều thời gian.
Bây giờ làm gì cũng cần phải tính tới hiệu suất và khối lượng đầu tư. Con cái
của chúng ta cũng can phải có quan niệm hiện đại này. Trẻ con giờ nay đều có
đồng hồ đeo tay, sau khi làm bài tập ghi rõ thời gian, điều này có thể thực hiện
rất dễ dàng.
3. Cấp 3 - Tự mình thẩm định bài tập:
Thực tiễn đã chứng minh rằng, cách làm đó rất có hiệu quả đối với việc
nâng cao thành tích của trẻ. Nó gồm hai yêu cầu:
- Một là tiến hành tự mình kiểm tra bài tập và kịp thời sửa chữa. Sau khi
làm bài tập xong, tự mình tiến hành kiểm tra, tức là bảo đảm chất lượng bài tập,
lại có thể hình thành ý thức và thói quen tự mình giáo dục. Làm thế nào để tiến
hành tự mình kiểm tra bài tập? Thông thường có mấy cách thường dùng sau:
+ Từng bước kiểm tra. Bắt đầu từ chỗ đọc đề bài, từng bước từng bước
kiểm tra, phát hiện ra lỗi kịp thời sửa chữa. Cách kiểm tra như vậy thuận theo sự
kiểm tra con đường tư duy vốn có, rất khó phát hiện ra sai lầm trên con đường
giải quyết vấn đề. Phần lớn để phát hiện ra vấn đề tính toán và diễn đạt.
+ Kiểm tra lại. Nếu thời gian cho phép, hãy kiểm tra lại một lần nữa, có thể
có ý thức thay đổi tư duy, thay cách khác làm lại. Sau khi làm lại, từng bước so
sánh và giải đáp, có thể phân tích ra nguyên nhân sai lầm, cũng có thể tìm thấy
những phương pháp và kinh nghiệm hay hơn. Từ đó bồi dưỡng năng lực, mở
rộng thêm thu hoạch bài tập.
+ Dẫn dắt kiểm tra, hay còn gọi là kiểm tra ngược dòng. Đem kết quả vào
đề bài vốn có xem nó có hợp lý hay không. Khi giải các bài tập môn khoa học tự
nhiên thường dùng cách này, và cần phải rèn luyện thật thuần thục. Những môn
học khác nhau cần phải áp dụng những phương pháp khác nhau để tiến hành
kiểm tra và sửa chửa.
- Hai là tự mình đánh giá bài tập. Cách làm tự mình đánh giá bài tập rất
đơn giản, chính là yêu cầu trẻ sau khi làm xong bài tập, dùng bút xanh đỏ đánh
dấu trên đầu đề. Tất nhiên phải được sự đồng ý của giáo viên.
Có những đề bài rất đơn giản (giáo viên không muốn ra bài, học sinh cũng
không muốn làm). Chúng cho rằng nếu làm chắc chắn sẽ làm đúng nên đánh
một cái dấu số thẳng “│”. Nếu đề bài hơi khó, phải suy nghĩ hoặc có phần thú vị
thì đánh dấu “₵ ¥". Những đề bài khó thì đánh dấu “;÷”. Chỉ khi gặp những đề bài
kiểu này mới nếm được mùi vị ngọt ngào. Vì thế tôi thường khuyên lũ trẻ khi làm
bài tập nhất định phải nhớ ăn “mấy cái kẹo tam giác”.
Có những bài tập là đề bài điển hình mang tính tiêu biểu (hoặc là đề bài có
tính quy luật nhỏ) thì vẽ hình “;ỵ”. Những đề bài cực hay thì vẽ hình sao năm
cánh, đại diện cho việc thu hoạch rất lớn. Những bài khó hơn nữa thù đánh dấu
“*”.
Khi ôn tập đơn nguyên, cần phải chỉnh lý lại tất cả những ký hiệu trên, sửa
chữa một chút, nhất định sẽ làm được. Đây cũng là lý do tại sao phải dùng bút
đỏ để đánh dấu. Cách làm đơn giản như vậy có một điểm lợi là trẻ sẽ kịp thời
thẩm định được bài tập. Thông qua việc chỉnh sửa không ngừng, có thể nắm
vững được đề bài hay, cũng có nghĩa là nắm vững được ví dụ vận dụng kinh
điển. Đối với trẻ còn có tác dụng hơn nữa là giúp trẻ ý thức được việc làm bài
tập không phải là “đối phó”, làm xong bài tập giao cho giáo viên là xong việc. Mà
còn phải tăng cường tính chủ thể bài tập của trẻ.
Có những đứa trẻ thường xuất hiện hiện tượng cứ ngồi xuống là không
thể đọc nổi sách, cứ nghĩ lung tung, thiếu “ý thức thành quả”. Thiếu ý thức thành
quả là một nguyên nhân quan trọng trong việc lãng phí trong học tập và công
tác. Một vấn đề quan trọng của việc học tập của trẻ chính là vấn đề ý thức tự
thân đối với việc học tập.
4. Cấp 4 - Kinh nghiệm bài tập:
Gồm hai yêu cầu:
- Trân trọng những sửa chữa của thầy cô đối với bài tập, kịp thời sửa
chữa, làm tổng kết nhỏ. Đối với tư duy và cách diễn đạt của trẻ đối với bài tập
thường mang đặc trưng cá tính đậm nét. Do vậy, những sửa chữa của thầy cô
có tính cá biệt và tính đối chứng. Nhất là những bài tập như viết văn. Mỗi lần
thầy cô sửa bài một lần như là một lần phụ đạo. Thầy cô là những người giàu
kinh nghiệm nên nội dung sửa chữa đều rất đúng, đều mang ý nghĩa quý báu.
Rất nhiều thầy cô chấm bài thường tới canh khuya, làm việc rất vất vả. Trong
những từ ngữ sửa bài đều thấm đượm tâm huyết và hy vọng của thầy cô. Cách
tốt nhất trân trọng công sức lao động của thầy cô chính là kịp thời sửa chữa vấn
đề trong bài tập, làm những kết luận nhỏ, rút ra kinh nghiệm.
- Học cách tự mình tổng kết kinh nghiệm bài tập, tức là sau phần đề bài vẽ
hình tam giác hoặc ngôi sao năm cánh. Nếu thầy cô nói đề bài này hay, có thể
vẽ một đường thẳng đứng ở bên cạnh. Nếu đề bài rất hay, vẽ 3 hoặc 5 gạch sọc
thẳng đứng, và viết kinh nghiệm của mình. Nếu tự mình tìm ra được đề bài hay,
có thể đánh dấu “;” và viết ra kinh nghiệm của mình. Cứ làm như vậy, có thể ghi
lại được tư tưởng của mình khi học tập, và có thể hình thành được tư liệu học,
làm bài tập quan trọng, nâng cao trình độ bài tập.
Trong quá trình tổng kết kinh nghiệm, bản thân sẽ phát hiện thấy ba nội
dung sau rất quan trọng:
- Một là đối với một đề bài có thể có nhiều cách lý giải. Cũng tức là đối với
một đề bài có thể tìm nhiều cách giải, có thể dần dần tiến tới “những biện pháp
xuất sắc”. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của việc năng lực vận
dụng của trẻ đã đạt tới trình độ cao. Nó rất có lợi cho việc bồi dưỡng tư duy tản
mạn của con người và tinh thần sáng tạo.
- Hai là một đề bài, nhiều cách biến hóa. Tức là sau khi làm xong một đề
bài, nghĩ xem đề bài này có thể thay đổi được không. Nếu xem một đề bài có ba
câu hỏi, nếu đề bài này trực tiếp là câu hỏi giải cuối cùng thì xem mình có thể
làm được ra hay không? Có thể thấy nội dung biến hóa về mặt nội dung và hình
thức có rất nhiều. Rất nhiều đề bài hay và đề bài khó đều được diễn biến như
vậy. Làm như vậy có thể bồi dưỡng được tính nhạy cảm và tính mở rộng tư duy
của trẻ.
- Ba là nhiều đề bài một cách lý giải. Tức là phải tiến hành so sánh, quy
nạp đối với đề bài. Có một số đề bài quả thực có cách lý giải giống nhau. Đương
nhiên cần phải mất công tổng kết kinh nghiệm, tập hợp, chỉnh lý mới có thể gặt
hái được kết quả. Ví dụ như đề bài tổng hợp về năng lượng và động lượng trong
môn vật lý cấp 3 là phần mà học sinh cảm thấy khó khăn nhất. Chỉ cần các em
chịu khó một chút sẽ dễ dàng phát hiện thấy rằng trong những đề bài này có đặc
trưng có thể quy nạp được rất rõ nét. Và trong quá trình tìm kiếm cách giải cũng
có tư duy và phương pháp tương tự. Hoàn toàn có thể quy nạp thành mấy đề
bài điển hình, khiến những phần khó trở thành phần dễ.
Một số học sinh mất rất nhiều công sức học tập nhưng thành tích không lý
tưởng. Một trong những nguyên nhân đó chính là các em quá khổ sở về đề bài
mà quên mất phương pháp học tập quy nạp, phân loại.
Nguyên tắc giảng dạy:
Một vấn đề quan trọng trong việc học tập của trẻ chính là vấn đề tự ý thức
đối với việc học.
Nếu từ nhỏ đã nỗ lực thực hiện tổng kết kinh nghiệm, thì sau này việc ôn
tập sẽ rất dễ dàng. Có thể mời thầy cô, bạn học cùng thảo luận về những đề bài
hay. Như vậy nhất định sẽ thu được kết quả hay hơn.
5. Cấp 5 - Phát triển bài tập:
Có các yêu cầu sau
- Một là sau khi học được kiến thức và quy luật, bản thân mình có thể ước
tính được ứng dụng của nó. Như vậy mới là cách học ở trình độ cao.
- Hai là có thể tổng kết thực tiễn phát hiện vấn đề hình thành chuyên đề,
chú trọng quá trình nghiên cứu chuyên đề, phương pháp và thành quả.
Trình độ của bài tập loại này không đến nỗi quá cao. Rất nhiều trẻ thử
phát triển bài tập và đều có thu hoạch.
Biểu đồ trình độ hành vi bài tập của trẻ hình bậc thang:
1. Bài tập chân thực: Thực hiện ôn tập, suy nghĩ độc lập, tự làm bài. Chú
ý đọc đầu bài, chân thành giải đáp nội dung, hoàn thành bài tập đúng bài bản,
thời gian.
2. Bài tập hiệu quả: Chuẩn bị đầy đủ, đầy ắp tự tin. Làm bài thi chuẩn
xác, đúng quy phạm. Chú trọng hiệu quả ghi lại thời gian hoàn thành bài tập.
3. Bài tập thẩm tra: Coi trọng việc tự kiểm tra và đổi mới bài tập. Kịp thời
tiến hành đánh giá. Thông qua những chỉnh sửa không ngừng, nắm vững được
những đề bài hay trong quá trình luyện tập ở trên lớp và ngoài lớp.
4. Bài tập kinh nghiệm: Chú trọng những đánh giá, sửa chữa của thầy cô
đối với bài tập. Kịp thời tiến hành sửa chữa và làm tổng kết nhỏ. Học cách tự
tổng kết kinh nghiệm làm bài tập. Bồi dưỡng năng lực vận dụng. Rèn luyện
phương pháp một bài tập có thể giải bằng nhiều cách và quy nạp so sánh.
5. Bài tập phát triển: Có thể căn cứ vào kiến thức đã học để ước tính
ứng dụng. Có thể kết hợp thực tiễn phát hiện vấn đề, hình thành chuyên đề. Chú
trọng quá trình nghiên cứu chuyên đề, phương pháp và kết quả. Điều này có lợi
cho việc học hỏi, thảo luận và hợp tác.
III. LÀM TỐT BÀI TẬP BÊN NGOÀI
Nếu thời gian học phong phú, trẻ có thể làm thêm một số bài tập bên
ngoài, tức là những đề bài trong các sách tham khảo. Đề bài trong các loại sách
tham khảo có thể mở rộng tầm mắt, tư duy linh hoạt, tăng thêm chiều sâu và mở
rộng kiến thức, bồi dưỡng năng lực vận dụng... Nhưng cũng không thể tham
khảo lung tung nhiều sách, chỗ này một tí chỗ kia một tí. Thậm chí có những
đứa trẻ mất cả ngày làm những bài tập quá dễ, vừa mất thời gian vừa bất lợi cho
việc học. Trước tiên cần phải làm những bài tập tham khảo có liên quan đến nội
dung đang học, và chú ý những nguyên tắc sau.
1. Làm tốt những bài tập bên ngoài mà thầy hướng dẫn và sách tham khảo:
Có lúc căn cứ vào tình hình học tập của trẻ, thầy cô thường giao thêm một
số bài tập sau những giờ ôn tập. Những đề bài này phần lớn do các bộ ngành
chuyên môn biên soạn, hoặc được chọn lọc kỹ từ những sách tham khảo. Phần
lớn chúng đều được kết hợp với nội dung đang học, thích hợp với tình hình học
tập trong lớp. Vì vậy cần làm tốt chúng. Đồng thời giáo viên có sắp xếp, thông
thường có chỉ đạo, hướng dẫn, giải thích, tổng kết, từ đó mở rộng thêm thu
hoạch trong học tập.
Nên sử dụng những sách tham khảo mà thầy cô giới thiệu. Có những đứa
trẻ rất muốn đọc thêm nhiều sách tham khảo. Lúc đó tốt nhất là nên đi tìm thầy
cô, hơn nữa phải hỏi ý kiến nhiều thầy cô nên đọc loại sách nào mới phù hợp.
Nếu thầy cô cho rằng cách suy nghĩ của học sinh đó là ổn thì sẽ giới thiệu ngay
những cuốn sách tham khảo mới nhất, có trình độ.
Nguyên tắc giáo dục:
Một là phải tin tưởng vào con cái bạn. Chỉ cần phương pháp và tư duy
chuẩn xác, tất cả đều có thể. Hai là mọi sự việc đều phải tiến hành từ từ. Thành
công của trẻ phụ thuộc vào mức độ đo lường của chúng ta. Chỉ cần mỗi ngày
tiến bộ dần dần, mọi thứ đều có hy vọng. Ba là phải để cho trẻ có mục tiêu học
tập. Hãy hỏi trẻ hôm nay có mục tiêu mới gì. Mỗi ngày hỏi một lần. Chỉ cần bạn
có quyết tâm, ước mơ nhất định sẽ được thực hiên.
2. Làm kỹ bài tập:
Đối với những đề bài đơn giản, trùng lặp thì không cần mất thời gian. Cần
lựa chọn ra những đề bài quan trọng, mới mẻ, điển hình. Phải đọc kỹ bài, làm
thật nghiêm túc. Vừa làm bài vừa tự đánh giá và tổng kết về phương pháp, về
phân loại, về thu hoạch. Còn có thể cùng thảo luận, củng cố và nhấn mạnh thu
hoạch.
3. Không ngừng chỉnh lý tư liệu đề bài:
Nếu trong suốt một thời gian dài không chỉnh lý hoặc không vứt bỏ những
bài tập đã làm thì làm càng nhiều càng quên nhiều. Khi làm những bài tập trong
sách giáo khoa hoặc trong sách tham khảo thì những đề bài này đều là những tư
liệu học tập quan trọng. Phía trên có thành quả lao động của mình, ghi chép lại
phương pháp học tập, kinh nghiệm, kỹ năng của mình. Những bài tập trong sách
giáo khoa và sách tham khảo đều thể hiện được tính thần học tập chủ động, cần
cù. Cứ qua một giai đoạn lại nhìn lại tư liệu bài tập của mình sẽ rất có ích. Trước
khi thi, những tư liệu này rất đáng quý. Vì thế nhất định không được ngừng chỉnh
sửa, lưu giữ những tư liệu đó.
Chỉ cần có ý thức, việc chỉnh lý tư liệu đề bài là rất dễ dàng, có rất nhiều
phương pháp. Có thể phân loại, căn cứ theo trật tự thời gian để chỉnh lý. Có thể
cất trong túi, trong các sơ mi văn phòng hoặc đánh dấu, hoặc kí hiệu... Có
những đứa trẻ tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng chúng đều khắc phục
được, đều chỉnh lý và lưu giữ được nhiều tư liệu thông tin học tập rất gọn gàng,
ngăn nắp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến chúng học tốt.
Điều tiết mọi mặt trong cuộc sống là nguyên nhân quan trọng giúp chúng
ta học tập tốt. Đương nhiên, phương pháp thành công tốt hơn nữa và phương
pháp chỉ đạo học tập nếu không có sự “duy trì kéo dài” bảo chứng thì mọi việc
đều không có ý nghĩa. Ở đây, không cần trẻ “duy trì kéo dài”, mà chính bố mẹ
chúng phải giữ được điều đó. Có thể khẳng định rằng nếu các bậc phụ huynh
kiên trì áp dụng phương pháp giáo dục này, nhất định sẽ giúp trẻ hướng tới
thành công.
Để bảo đảm được các bậc phụ huynh duy trì được phương pháp này, xin
mách nhỏ các bạn, mỗi sáng khi nhìn thấy con mình, hãy tự nhắc nhở rằng:
Một là phải tin tưởng vào con cái bạn. Chỉ cần phương pháp và tư duy
chuẩn xác, tất cả đều có thể.
Hai là mọi sự việc đều phải tiến hành từ từ. Thành công của trẻ phụ thuộc
vào mức độ đo lường của chúng ta. Chỉ cần mỗi ngày tiến bộ một ít, mọi thứ đều
có hy vọng.
Ba là phải để cho trẻ có mục tiêu học tập. Hãy hỏi trẻ hôm nay có mục tiêu
mới gì. Mỗi ngày hỏi một lần. Chỉ cần bạn có quyết tâm, ước mơ nhất định sẽ
được thực hiện.
Vấn đề các bậc phụ huynh cần suy ngẫm:
Bài tập là một mắt xích mà chúng ta rất dễ xem nhẹ hoặc ngày nào cũng
nhắc tới nhưng chưa đủ độ sâu. Rốt cuộc vấn đề nằm ở đâu? Xin góp ý với các
bạn hãy kết hợp nội dung của chương này nhìn nhận lại tình hình bài tập của
con bạn.
MỤC LỤC
Chương 1. Tố chất thành công cần có trong tương lai
I. Tích cực hành động
II. Nắm chắc thời cơ
III. Sáng tạo
IV. Nhiệt tình
V. Học cách đối mặt với khó khăn
VI. Lòng tự tin
VII. Tôn trọng và hiểu người khác
VIII. Giàu tình yêu thương
Chuơng 2. Khởi điểm của thành công là học tốt
I. Những sai lầm trong việc chỉ đạo học tập ở gia đình
II. Phương pháp cơ bản trong hướng dẫn học tập ở gia đình
III. Những góp ý nhằm nâng cao trình độ giáo dục gia đình một cách thực
chất
Chương 3. Hứng thú là người thầy tốt nhất
I. Hứng thú là gì?
II. Hứng thú khiến người ta ham học, biết học và thành công
III. Làm thế nào đế bồi dưỡng niềm hứng thú ở trẻ
Chương 4. Khai phá ý thức tiềm ẩn của trẻ
I. Ý thức tiềm ẩn là gì?
II. Học tập bằng ý thức tiềm ẩn
III. Khai thác việc học tập bằng ý thức tiềm ẩn
Chương 5. Thói quen đề tài luôn mới từ trước đến nay
I. Đặc trưng thời đại của thói quen học tập
II. Cụ thể hóa và hệ thống hóa thói quen học tập
III. Nguyên tắc chính của việc bồi dưỡng thói quen học tập
IV. Sách lược cơ bản và phương pháp bồi dưỡng thói quen học tập
Chương 6. Quan tâm tới hiệu quả bài học trên lớp của trẻ
I. Đi học có tác dụng to lớn đối với việc học tập và phát triển của con
người
II. Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi lên lớp
III. Làm thế nào để giúp trẻ nâng cao trình độ học trên lớp
Chương 7. Chuẩn bị bài mới là một cách tìm tòi tự giác
I. Vượt trước, chủ động, tìm tòi
II. Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi chuẩn bị bài mới và các thao
tác
III. Hướng dẫn trẻ chuẩn bị bài có kết hợp thực tiễn
IV. Chuẩn bị bài mới theo đặc điểm môn học
Chương 8. Thực hiện sáng tạo qua việc ôn tập
I. Nhấn mạnh, làm sâu và khái quát hơn
II. Mục tiêu bậc thang và các thao tác về trình độ hành vi ôn tập
III. Kết hợp ôn tập ngày thường với ôn tập theo giai đoạn
Chương 9. Dùng bài tập để kiểm tra thành quả học tập
I. Tỉnh ngộ, linh hoạt, trí năng, phẩm chất
II. Mục tiêu bậc thang của trình độ hành vi bài tập và các thao tác
III. Làm tốt bài tập bên ngoài
---//---
GIÚP TRẺ HƯỚNG TỚI THÀNH CÔNG
Dịch từ nguyên tác tiếng Hoa
Tác giả: TRÌNH ƯNG HUÂN - LÂM CÁCH
Người dịch NGUYỄN LỆ CHI
NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ39 Hàng Chuối - Hà Nội
ĐT: (04) 9.717979 - 9.717980. Fax: (04) 9.712830
CHI NHÁNH:
16 Alexandre de Rhodes – Q1 - TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: (08) 8.234806 – (08) 8.228467 Fax: (08) 8.22S467
Thực hiện liên doanh:
CÔNG TY VĂN HÓA PHƯƠNG NAM
Chịu trách nhiệm xuất bản: MAI QUỲNH GIAO
Chịu trách nhiệm bản thảo: NGUYỄN THU HÀ
Biên tập: MAI HẠ
Sửa bản in: VY VY
Bìa và trình bày: AZ DESIGN
In 1000 cuốn, khổ 13 x 19cm. Tại Xí nghiệp in Công ty văn hóa Phương Nam.
Số đăng ký KHXB 13-200/CXB/13-55/PN/NXBPN. Quyết định xuất bản số.
14/PN NXB Phụ Nữ ngày 14.10.2005. In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm
2005.