giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

166
LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Chương mở đầu ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (2) Mục đích yêu cầu. - Sinh viên nhận thức được một số vấn đề cơ bản về đối tượng, phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nắm được ý nghĩa của môn học, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng một số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào việc học tập, nghiên cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn. Tài liệu tham khảo. 1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991. 2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992. 3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản, 1/1993 4. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006. NỘI DUNG I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. 1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Khái niệm tư tưởng được hiểu là toàn bộ những quan điểm, quan niệm đã phát triển thành hệ thống, được xây dựng trên một nền tảng triết học xác định, nhằm lý giải các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người.

description

giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Đại học Bách khoa đà nẵng

Transcript of giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

Page 1: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương mở đầu

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (2)

Mục đích yêu cầu.- Sinh viên nhận thức được một số vấn đề cơ bản về đối tượng, phương

pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nắm được ý nghĩa của môn học, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng một

số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào việc học tập, nghiên cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn.

Tài liệu tham khảo.1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991. 2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992.3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản, 1/19934. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998.4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006.

NỘI DUNG

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Khái niệm tư tưởng được hiểu là toàn bộ những quan điểm, quan niệm đã phát triển thành hệ thống, được xây dựng trên một nền tảng triết học xác định, nhằm lý giải các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người.

Các khái niệm “chủ nghĩa”, “tư tưởng”, “học thuyết” tuy nội hàm có những điểm khác nhau, nhưng trong những trường hợp cụ thể, chúng có thể được dùng để thay thế cho nhau.

- Cho đến nay, đã có hàng chục định nghĩa khác nhau về tư tưởng Hồ Chí Minh được công bố, ta có thể khái quát thành 3 loại ý kiến sau:

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện nước ta.

Loại ý kiến này nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, song như giáo sư Trần Văn Giàu đánh giá: Nếu chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta khó, thậm chí không thể làm cách mạng thành công.

Page 2: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là sức mạnh nội lực Việt Nam đã dung hóa, Việt hóa tư tưởng văn hóa của nhân loại để thăng hoa lên thành những sáng tạo mới mẻ. (loại ý kiến này nhấn mạnh yếu tố bản địa).

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu săc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người."

Từ những cách định nghĩa trên, ta có thể khái quát:Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các luận điểm về cách mạng Việt Nam,

từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất độc lập, dân chủ, giàu mạnh góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là không có gì quý hơn độc lập tự do.

Định nghĩa đã làm rõ các nội dung:- Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là hệ

thống các luận điểm phản ánh những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam.

- Nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.

- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: Bao gồm những vấn đề liên quan trực tiếp của cách mạng Việt Nam.

- Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.

Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:- Tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. - Tư tưởng về xây dựng một chế độ mới theo con đường XHCN.- Tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản,

sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

- …2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng HCM. a. Đối tượng nghiên cứu.

Page 3: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Là hệ thống các quan điểm lý luận được thể hiện trong các di sản của Hồ Chí Minh và quá trình vận động hiện thực hoá các quan điểm lý luận đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

- Để nắm vững các vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần tìm hiểu thông qua:

+ Các “công trình” (tác phẩm, bài nói, bài viết) do Hồ Chí Minh để lại đã được tập hợp trong bộ sách: Hồ Chí Minh, Toàn tập, 12 tập.

+ Tìm hiểu thông qua đường lối chính sách của Đảng ta được thể hiện trong các văn kiện Đảng.

+ Tìm hiểu thông qua việc làm và cách làm của Hồ Chí Minh.+ Tìm hiểu thông qua lời kể, những kỷ vật... của những người đã từng sống,

làm việc, sinh hoạt gần gũi với Hồ Chí Minh... + Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của một quá trình tìm tòi, kế thừa có

chọn lọc tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Vì vậy, phải nắm vững truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, phải tự nâng trình độ của mình lên thì mới có thể nhận thức đúng và đầy đủ về tư tưởng của người.

- Cần lưu ý tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống “mở’’, nó đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, bổ sung và phát triển tư tưởng của người, làm cho tư tưởng của Người đã và mãi mãi tỏa sáng.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.- Các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm

trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng

Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. - Quá trình quán triệt và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

qua các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý

luận cách mạng thế giới của thời đại. 3. Vị trí môn học (Sinh viên tự nghiên cứu)

Page 4: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Với đối tượng và nhiệm vụ đã xác định ở trên, bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh có quan hệ chặt chẽ với Hồ Chí Minh học, các khoa học xã hội và nhân văn, và đặc biệt là với các môn học lý luận chính trị.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, môn tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, Muốn nghiên cứu, học tập tốt môn này cần nắm vững môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

- Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận tư tưởng nền tảng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nắm vững kiến thức về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.1. Cơ sở phương pháp luận.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cần chú ý tới các vấn đề có tính phương pháp luận sau:

- Bảo đảm sự thống nhất tính Đảng và tính khoa học.- Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc Lý luận phải gắn với thực tiễn.- Quan điểm lịch sử cụ thể.- Quan điểm toàn diện và hệ thống.- Quan điểm kế thừa và phát triển. - Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm kinh điển với thực tiễn chỉ đạo cách

mạng của Hồ Chí Minh.- Quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến’’.

2. Các phương pháp cụ thể.- Phương pháp là cách thức đề cập đến hiện thực, cách thức nghiên cứu các

hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Có thể khái quát: phương pháp là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận thức.

- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài các vấn đề có tính phương pháp luận chung cần chú ý một số phương pháp cụ thể:

+ Phương pháp xuyên suốt trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgíc. Phương pháp lịch sử giúp chúng ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy Hồ Chí Minh, ngược lại nếu thiếu phương pháp lôgíc, chúng ta không thể tìm ra cái cốt lõi trong tư duy Hồ Chí Minh và hướng phát triển mà tư duy Hồ Chí Minh đã đạt tới.

Page 5: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Ngoài ra việc vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử...cũng là những phương pháp cần thiết trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.

III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊNViệc học tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa:- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác.- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính

trị

Chương ICƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH

VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (5)

Mục đích yêu cầu.Sinh viên nhận thức được một số vấn đề cơ bản: Điều kiện lịch sử - xã hội,

nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nắm được ý nghĩa của môn học, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng một

số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào việc học tập, nghiên cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn.

Tài liệu tham khảo.1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991 2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992.3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học và thực tiễn, Cộng sản, 3/1992. 4. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản, 1/19935. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998.I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

Các yếu tố con người, dân tộc, thời đại và sự nghiệp gắn bó chặt chẽ với nhau. Con người, dân tộc, thời đại chi phối sự nghiệp của cá nhân. Sự nghiệp cá nhân vừa là kết quả hoạt động của cá nhân, đồng thời là kết quả hoạt động của cả dân tộc, của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện trong các điều kiện sau:

Page 6: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Cơ sở khách quana. Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.Nghiên cứu lịch sử xã hội Việt Nam trong thời gian hơn một thế kỷ có rất

nhiều vấn đề cần được xem xét kỹ. Trong giới hạn của phần này, chúng ta cần nắm vững hai kết luận cơ bản sau:

Thứ nhất, chính sách bế quan tỏa cảng, cự tuyệt mọi đề nghị cải cách của triều đình Huế đã không phát huy được nội lực để bảo vệ và chấn hưng đất nước. Nhà Nguyễn, trong thì sợ nhân dân, ngoài thì thoả hiệp với kẻ thù...Tất cả những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp xâm lược nước ta.

Thứ hai, do sự bóc lột nặng nề của cả đế quốc và phong kiến, các phong trào kháng chiến chống Pháp nổ ra ở khắp nơi, song do không nhận thức đúng bản chất của kẻ thù, do bế tắc về đường lối nên tất cả các phong trào đấu tranh của nhân dân ta đều thất bại

Các phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tư tưởng phong kiến (Phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế…) lần lượt thất bại chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước yêu cầu của thời đại mới.

Các phong trào đấu tranh dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản (Phong trào của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học…) cũng lần lượt bị thất bại chứng tỏ cha ông ta vẫn chưa nhận thức đúng bản chất của kẻ thù nên chưa thể xác định đúng con đường đi cho dân tộc.

Thực tiễn đặt ra vấn đề muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam phải tìm ra một con đường mới.

- Quê hương và gia đình Hồ Chí Minh. + Quê hương (nghĩa hẹp), vùng Nghệ Tĩnh là vùng rất giầu truyền

thống yêu nước, cách mạng, truyền thống hiếu học. Điều này đã sớm hình thành tình yêu quê hương đất nước, tinh thần ham hiểu biết, ý chí phấn đấu vươn lên ở Hồ Chí Minh.

Hương ước của xã Kim liên quy định hai nhóm người được kính trọng nhất là người cao tuổi và người có học. Trong 56 kỳ thi Hương, xã có 82 vị khoa bảng, trong đó làng Kim Liên có 53, làng Hoàng Trù có 29 (tính từ 1635-1890).

+ Gia đình Hồ Chí Minh có đặc điểm đáng chú ý:Gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình nhà nho yêu nước gần gũi với

nhân dân sống có trước có sau, có tình có nghĩa. Ý chí kiên cường, tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị xã hội của cụ Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.

Tuổi thơ của Bác có may mắn được đi khắp các vùng trong nước (5 tuổi theo cha vào Huế, 15 tuổi đến Thái Bình, từ 1909-1911 đi tiếp vào phía

Page 7: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nam). Người đã có dịp chứng kiến nhiều cảnh đau lòng, thấu hiểu nỗi thống khổ của đồng bào mình... Trong đó, thời kỳ sống ở Huế (1895-1901;1906-1909) là thời kỳ có ý nghĩa đặc biệt nhất, giúp Hồ Chí Minh hình thành cơ bản nhân cách của mình.

+ Hồ Chí Minh có may mắn được học với những người thày giáo yêu nước thương dân, có trình độ uyên bác (Bác học chữ Nho với các cụ Vương Thúc Quý, Vương Thúc Oánh; học tiếng Pháp với ông Phạm Ngọc Thọ). Chính từ những người thầy này mà trình độ hiểu biết, lòng yêu nước của Hồ Chí Minh được nhân lên. Có thể khẳng định trước khi sang Pháp, trình độ học vấn, hiểu biết xã hội của Hồ Chí Minh đã thuộc loại hiếm của xã hội lúc bấy giờ.

Những nhân tố trên đã tác động mạnh đến Hồ Chí Minh, để khi xuống tàu sang Pháp là khác với cha, ông ta (dựa vào các tầng lớp trên của xã hội). Hồ Chí Minh đã bắt đầu sự nghiệp của mình từ một người thợ (mặc dù Người xuất thân trong một gia đình Phó bảng, bản thân là thầy giáo), điều này chứng tỏ ngay từ đầu, con đường, phương pháp ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã rất khác so với những gì mà ông cha ta đã làm trước đó.

- Thời đạiNguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh thế giới:+ CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn ĐQCN. Chính sách xâm

chiếm thuộc địa của các nước đế quốc đã khiến cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sư xâm lược của nước khác, mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc.

Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành dù chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, song Anh đã thấy rõ được con đường cứu nước của các bậc tiền bối là không phù hợp. Nguyễn Tất Thành đã vượt 3 đại dương, 4 châu lục, đến khoảng gần 30 nước, làm nhiều nghề, trở thành đảng viên Đảng Xã hội Pháp, Người cùng những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi Bản Yêu sách đến Hội nghị hòa bình tại Vécxây..., để rồi rút ra kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình và chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, Người khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (T1, 266)

+ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công mở đầu thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.

+ Quốc tế III được thành lập (3/1919). Đặc biệt, đến 7/1920, khi Báo L` humanitê đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

Page 8: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đêm kết thúc Đại hội Tua (30/12/1920) đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng mở ra bước chuyển biến cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước trở thành người cộng sản

b. Những tiền đề tư tưởng lý luận - Tư tưởng và văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho dân tộc

ta một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững. Cụ thể: + Truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và

giữ nước.Đánh giá rất cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam, Hồ Chí Minh

viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6, 171).

Giải thích về lý do Hồ Chí Minh tin và đi theo Quốc tế III, Người viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải CNCS đã đưa tôi tin theo Lênin, tin

theo Quốc tế thứ III”(T10, 128)

+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong hoạn nạn, khó khăn.

+ Truyền thống lạc quan, yêu đời. + Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo, ham học hỏi,

luôn mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại - Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây + Tư tưởng văn hóa phương Đông

* Nho giáo:Người quan niệm học Nho không phải để ra làm quan, mà Nho giáo là một

kinh nghiệm về đạo đức và cách ứng xử. Người sử dụng hầu như tất cả các khái niệm, phạm trù của Nho giáo.

Nho giáo có những mặt tích cực: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, gúp đời, mong muốn một xã hội bình trị (một xã hội không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng), tư tưởng đề cao con người “dân vi quý xã tắc thứ chi quân vi khinh”... đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học

Nho giáo có hạn chế: phân chia xã hội thành đẳng cấp, yêu cầu sự phục tùng tuyệt đối của dưới đối vối trên (tam cương), coi thường phụ nữ.* Phật giáo:

Bên cạnh mặt tiêu cực như thủ tiêu đấu tranh, chịu khuất phục trước kẻ thù... Hồ Chí Minh nhận thấy Phật giáo cũng có những mặt tích cực, như tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; tinh thần dân chủ bình đẳng chất phác chống phân chia xã hội thành đẳng cấp “Ta là Phật đã

Page 9: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”; chủ trương sống có đạo đức, trong sạch, giản dị chăm làm điều thiện; đề cao lao động, chống lười biếng; chủ trương sốn gắn bó với dân với đất nước...Hồ Chí Minh rất coi trọng những giá trị tích cực của Phật giáo, đặc biệt là những quan niệm về thiện – ác; chân, thiện, mỹ.* Lão giáo:

Lão giáo cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, nhân cách Hồ Chí Minh. Những chủ trương của Lão giáo như con người cần phải biết sống hòa hợp với tự nhiên, không tham lam vượt quá khả năng của mình... được Hồ Chí Minh rất coi trọng. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán quan điểm không cần biết, không quan tâm, không dạy cho dân biết nhiều của Lão giáo.

+ Về văn hóa phương Tây:Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan tâm

nhiều đến tư tưởng “tự do bình đẳng bác ái”, trong cách mạng tư sản Pháp và tư tưởng tư sản nói chung. Người nói: khi tôi 13 tuổi, tôi đã nghe thấy các từ tự do, bình đẳng, bác ái. Từ khi nghe, tôi luôn nghĩ và tìm cách ra đi xem ở nước ngoài, người ta làm như thế nào.

Tư tưởng tự do bình đẳng bác ái có sức hấp dẫn rất lớn đối với Hồ Chí Minh. Tư tưởng của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh không đủ sức giữ chân Người ở lại. Khi sang Pháp, Hồ Chí Minh phát hiện những từ ngữ mỹ miều đó cũng chỉ là những khẩu hiệu không hơn không kém.

Ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được thể hiện đậm nét trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.

Hồ Chí Minh cũng đã hấp thu được những tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ trong cuộc sống thực tiễn.

Người cũng đã phát hiện ra cái hồn của văn hóa phương Tây chính là tư tưởng của Đạo Thiên chúa giáo. Người đánh giá rất cao Chúa Jesuis: “Đức Chúa Trời là một tấm gương hy sinh triệt để vì người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén,

vì hòa bình công lý”. Người khuyên giáo dân làm theo lời khuyên của chúa chống lại những kẻ làm ô danh Chúa, khuyên giáo dân sống tốt đời, đẹp đạo.

Hồ Chí Minh cũng nhìn thấy rõ mặt hạn chế của Thiên chúa giáo, đó là những nguyên lý của Thiên chúa giáo mang tính không tưởng và Thiên chúa giáo vào nước ta gắn liền với bọn xâm lược. Những giáo sỹ phương Tây là những kẻ đi đầu xâm lược.

Hồ Chí Minh luôn thấy cả hai mặt của tôn giáo và khi phê phán mặt tiêu cực của tôn giáo, đã không làm phá vỡ mặt tích cực, sử dụng mặt tích cực của tôn giáo phục vụ sự nghiệp của chủ nghĩa yêu nước.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin - Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Page 10: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa nhân loại, song tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có được sự chuyển biến về chất, khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì:

Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc, tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận diện chính xác bản chất của kẻ thù từ đó giúp Người vạch ra được đường lối cứu nước đúng đắn

Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận thức được quy luật vận động của lịch sử và hàng loạt các vấn đề về phương pháp cách mạng.

+ Con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin có đặc điểm:Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn

chắc chắn, một năng lực tri tuệ sắc sảo. Trong mười năm đầu bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã hoàn thiện cho mình một vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn thực tiễn phong phú mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi nào có thể so sánh được.

Cái bản lĩnh đó đã giúp Hồ Chí Minh nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không rơi vào sao chép, giáo điều, mà biết tiếp thu, vận dụng có chọn lọc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Phương pháp tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là nắm cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở chủ yếu nhất, chủ nghĩa yêu nước là cội nguồn sâu xa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước có quan hệ mật thiết với nhau. Yêu nước chân chính như Hồ Chí Minh, chắc chắn sẽ đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, và khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thì Người là người yêu nước chân chính nhất. Vì vậy, ai phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc.

Mặc dù Hồ Chí Minh không nói cụ thể về nguồn gốc hình thành tư tưởng của mình, song ta có thể tham khảo một số nhận xét của chính Người, cũng như của những người đã từng sống và làm việc với Hồ Chí Minh:

Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân, Cơ đốc giáo có ưu điểm là lòng nhân ái, chủ nghĩa Mác - Lênin có ưu điểm là phép biện chứng trong công

Page 11: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

việc, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với Việt Nam. Khổng Tử, Jesuis, Mác, Tôn Dật Tiên có ưu điểm chung là nghĩ về nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Nếu như hôm nay còn sống trên đời này, họ sẽ họp lại với nhau... Tôi, Hồ Chí Minh nguyện làm học trò nhỏ của họ.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: Ở Hồ Chí Minh, mỗi người đều tìm thấy ở Người biểu hiện của một nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh, với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác và nhiệt tình cách mạng của Lênin.

2. Các nhân tố chủ quan (tài năng, nghị lực...của Hồ Chí Minh)- Các nhân tố khách quan tác động đến mọi người sống trong cùng một

thời đại, nhưng mỗi người có thái độ, cách lý giải, biểu hiện khác nhau. Điều này phụ thuộc hai yếu tố : + Sự hiểu biết, tầm văn hóa và trình độ nhận thức của mỗi người + Cái tâm của người đó với dân với nước.

- Các nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh được thể hiện:+ Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo khả năng phê phán tinh tường sáng

suốt không để bị đánh lừa bởi cái vỏ hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản.

+ Khả năng hấp thụ, xử lý, chuyển hóa tri thức của nhân loại thành trí tuệ và kinh nghiệm đấu tranh của bản thân phù hợp với cốt cách người Á Đông, người Việt Nam, không thỏa hiệp vô nguyên tắc, không làm biến chất tư tưởng gốc.

+ Khả năng đưa những tri thức thu nhận được vào trong quần chúng nhân dân, trước hết là vào những lớp người tiên tiến nhất trong dân tộc, thực hiện bước chuyển từ người đi tìm đường cứu nước trở thành người dẫn đường. Ở Việt Nam có nhiều người đi tìm đường cứu nước, song chỉ có Hồ Chí Minh sớm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn nhất và trở thành người dẫn đường cho dân tộc ta.

+ Tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sỹ cộng sản nhiệt tình cách mạng, thương dân, tin tưởng vào nhân dân, sẵn sàng chịu đựng những hi sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp” tư tưởng văn hóa cổ kim đông tây. Trước hết, Hồ Chí Minh phải “gộp”, tức là tiếp thu lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, tinh hoa văn hóa Đông - Tây, nhưng nếu chỉ “gộp” thôi thì chưa đủ, chưa có gì là của mình cả. Vấn đề là sau gộp, phải vượt lên, nghĩa là phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lên.II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HCM.

Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được chia làm 5 giai đoạn:

Page 12: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước. ( trước 5/6/1911) Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với việc hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp thu và hình thành cho mình một vốn văn hóa Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đồng thời chứng kiến nỗi thống khổ, tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào mình, nhờ đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho mình một hướng đi, cách đi đúng, vì vậy đã sớm thành công.

2. Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. (1911 - 30/12/1920)

- Tháng 7 năm 1911, Hồ Chí Minh đến Pháp. Người có điều kiện đi nhiều nước làm nhiều nghề khác nhau..., những điều đó đã giúp Người nhận thức được rằng, các khẩu hiệu tự do dân chủ do CNĐQ nêu ra chỉ là những khẩu hiệu giả tạo, đồng thời khẳng định ở đâu cũng có hai hạng người, và nguồn gốc của mọi khổ đau của nhân loại là ở các nước chính quốc. Các dân tộc muốn được giải phóng, chỉ có thể dựa vào chính sức lực của mình.

Cuối năm 1917, từ nước Anh, Hồ Chí Minh trở lại Pháp. Người ủng hộ nhiệt tình cách mạng Tháng Mười. Năm 1919, cùng một số người thuộc các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cùng một số người Việt Nam yêu nước ở Pháp soạn thảo và gửi Bản Yêu sách đòi tự do dân chủ tới Hội nghị Vécxây, song các nước thắng trận thế chiến thứ nhất đã hoàn toàn phớt lờ các đề nghị chính đáng của Nguyễn Ái Quốc. 1

Đầu năm 1919, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp với lý do là đảng duy nhất lúc đó ủng hộ thuộc địa.

1 “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”: Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển thành hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng lêng của các dân tộc được thừa nhận thực sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông – Pháp xin trình bày với quý chính phủ đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đang kính nói riêng những yêu sách nhỏ sau đây:1. Ân xá tất cả chính trị phạm người bản xứ. 2. Cải cách nền công lý Đông Dương bằng cách ban cho người bản xứ cũng được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu, bãi bỏ hoàn toàn và triệt để các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để kủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. 3. Quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận. 4. Quyền tự do lập hội và hội họp. 5. Quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch nước ngoài. 6. Quyền tự do giáo dục thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ. 7. Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ bầu ra tại nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ”

Page 13: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Hồ Chí Minh tiếp nhận Luận cương của Lênin (đăng trên báo “Nhân đạo” số ra các ngày 16, 17/71920) và kể từ đây, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã được xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.(1921 - 1930)

Một người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự phát của quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng (Lênin).

Thông qua một loạt các cuộc tiếp xúc, các hoạt động xã hội phong phú các cuộc hội thảo nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tích lũy cho mình một số vốn tri thức cách mạng hết sức phong phú. Từng bước hình thành ở Người tư tưởng đúng đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ đó, lý luận chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến đã từng bước được hình thành.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện thông qua hàng loạt các bài viết, các tác phẩm và đặc biệt là thông qua các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... do Hồ Chí Minh soạn thảo và được Hội nghị hợp nhất 3 Đảng Cộng sản ở Việt Nam thông qua ngày 3 tháng 2 năm 1930.

Từ khi trở thành đảng viên cộng sản, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam như cho xuất bản Báo “Người cùng khổ” (1922), “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Tạp chí Thanh niên”(1925-1927), “Đường Kách mệnh” (1927)... Từ ngày 3-7/2/1930, Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì Hội nghị Thành lập Đảng, thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

4. Thời kỳ Hồ Chí Minh vượt qua thử thách, kiên định con đường đã xác định, tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. (1930-1945).

- Những khó khăn thử thách đối với Hồ Chí Minh trong thời kỳ này:+ Ngày 6/6/1931, Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng (số 186 phố Tam

Lung), thực dân Pháp rất mừng vì trước đó chúng đã kết án tử hình vắng mặt Hồ Chí Minh. Đượ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và các cá nhân yêu chuộng hoà bình, công lý, Hồ Chí Minh đã được tuyên bố vô tôi và Người đã đến Mátxcơva an toàn.

+ Do bất đồng về quan điểm với khuynh hướng “tả” khuynh của Quốc tế Cộng sản về đường lối cách mạng Việt Nam và cách mạng ở các nước thuộc địa nói chung, sau khi đến Liên xô, Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản cử đi học tại trường Quốc tế Lênin. Tốt nghiệp, Người được cử đi học tiếp lớp nghiên cứu sinh về khoa học kinh tế và lịch sử.

Page 14: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Ngày 6/6/1938, Hồ Chí Minh viết thư gửi Quốc tế Cộng sản xin về nước. 29/9/1938, Quốc tế Cộng sản quyết định Hồ Chí Minh thôi làm nghiên cứu sinh và chuẩn bị cho Người về nước.

Vì sao có sự thay đổi này? vì hai nguyên nhân: qua thực tế ở Việt Nam (Xô viết Nghệ Tĩnh) và phong trào quần chúng trên thế giới, chứng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng. Hơn nữa, lúc này, phong trào cộng sản quốc tế phải lựa chọn không phải là giữa dân chủ vô sản hay dân chủ tư sản mà là giữa chiến tranh và hòa bình. Đường lối của Quốc tế Cộng sản thời kỳ này là đoàn kết tất cả các lực lượng yêu chuộng hoà bình, chống chủ nghĩa phát xít.

- Trong thời kỳ này, đáng chú ý nhất đối với hoạt động của Hồ Chí Minh chính là việc Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, Chương trình vắn tắt và Lời kêu gọi và trong thời gian ở Liên xô, Người đã giữ vững được các nguyên tắc của mình, song cũng hết sức mềm dẻo, linh hoạt trong xử trí các quan hệ quốc tế: đề xuất đúng mức, biết phục tùng, biết chờ đợi.

5. Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xh. (1941-1969)

- Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8, đặt mục tiêu độc lập dân tộc lên trên hết. - Ngày 2/9/1945, thay mặt quốc dân đồng bào, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Người được quốc dân đồng bào bầu làm Chủ tịch nước đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tư tưởng cách mạng và khoa học của Người đã từng bước được thể chế hóa thµnh Hiến pháp và pháp luật.

- Xây dựng đường lối kháng chiến kiến quốc (1945-1954). Hàng loạt những tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tư tưởng quân sự, tư tưởng về Đảng cầm quyền... đã hình thành và phát triển.

- Lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.

- Ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh từ trần và để lại cho dân tộc ta bản Di Chúc lịch sử cùng toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người.

III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.1. Tư tưởng HCM soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.a. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.

- Tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu những giá trị văn hoá vĩnh cửu của nhân loại, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học hiệu quả, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của cách mạng Việt Nam và của thế giới hiện nay.

Page 15: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Tư tưởng của Người đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá khứ và hiện nay nó đã trở thành hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam.

Một cuộc cách mạng chỉ có thể thành công triệt để khi nó có một hệ thống lý luận soi đường. Từ năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hệ thống lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hóa, đất nước và con người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn Việt Nam. Do đó, tư tưởng của Người đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo có hiệu quả đối với việc thực hiện những nhiệm vụ của thời đại.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Chính vì vậy, có nắm được tư tưởng Hồ Chí Minh mới hiểu được đường lối cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng là nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta kiên định mục tiêu, nâng cao nhận thức- tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách công tác... góp phần đưa công cuộc đổi mới đi tới thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi. Người đã có những cống hiến xuất sắc trên hàng loạt các vấn đề lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng…góp phần làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa M-Lênin.

- Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài ngườiCống hiến lớn nhất của HCM đối với thời đại là từ xác định con đường

cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định con đường cách mạng, một hướng đi, một phương pháp thức tỉnh người dân các nước thuộc địa.

Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, trên cơ sở đó, Người

Page 16: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đã hoạt động không mệt mỏi nhằm gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào phạm trù cách mạng vô sản. Rồi chính từ kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: “…trong thời đại ĐQCN, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất, với sự đồng tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng

mạnh, nhân dân đó nhất định thắng lợi” (T9 – 315, 316)- Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chủ tịch là “lãnh tụ của thế giới thứ

ba”; “cuộc chiến đấu của Người là kim chỉ nam cho tất cả các cuộc đấu tranh”, (Bumêđiên - Thủ tướng Angiêri), “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ đối với tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do” (Chủ tịch Ăng-go-la). Tuy Người đã mất, nhưng “Tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi soi sáng cuộc đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn áp bức bị đánh bại hoàn toàn” (Tổng thống Tan-da-ni-a)…

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Phân tích các nhân tố góp phần hình thành tư tưởng HCM. Nhân tố nào

là quan trọng nhất, quyết định bản chất tư tưởng của Người? tại sao?2. Tại sao nói tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam là cội nguồn của tư

tưởng Hồ Chí Minh?3. Tại sao nói ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ phương Tây có ảnh hưởng chi

phối đến việc lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh?4. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong những giai đoạn đó, giai đoạn nào tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vạch đường đi cho cách mạng Việt Nam? Hãy chứng minh.

Chương II

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘCVÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (4)

Mục đích yêu cầu. - Sinh viên nắm được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. - Những đóng góp cơ bản về lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc cũng như về cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời thấy được yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Page 17: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tài liệu tham khảo.1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1977.

(Các bài: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản, Báo cáo của tiểu ban về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.

3. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.

Nội dung

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.

Vấn đề dân tộc nói chung đã được chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập đến một cách tương đối toàn diện. Chúng ta đã được nghiên cứu vấn đề này trong chương trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc được nói tới trong bài này, chủ yếu là vấn đề dân tộc thuộc địa, vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành trên cơ sở:

- Tư tưởng và văn hoá truyền thống của dân tộc. (Xem chương 1)- Cách mạng tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc

và vấn đề thuộc địa.Nội dung của Luận cương có thể tóm tắt ở một số điểm chính sau:Thứ 1, con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất giải phóng các

dân tộc thuộc địa. Thứ 2, chủ trương giải phóng toàn thể các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách

áp bức của CNĐQ và địa chủ phong kiến thực hiện quyền bình đẳng thực sự giũa các dân tộc.

Thứ 3, trách nhiệm của các đảng cộng sản ở các nước chính quốc là phải giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và làm cho các phong trào này phát triển theo con đường cách mạng vô sản. Thứ 4, trong Luận cương, Lênin cũng chỉ ra bộ mặt giả dối của chế độ dân chủ tư sản về quyền bình đẳng nói chung, trong đó có quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đồng thời Người cũng khẳng định để đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa, các phong trào vô sản nói chung, cần có sự thống nhất, sự liên minh của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Khẩu hiệu “vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hợp lại” đã được Lênin chuẩn y.

Page 18: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Những luận điểm trong Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra được lời giải đáp cho những câu hỏi lớn cho các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Cụ thể:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã nhận ra sự gắn bó giữa dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị mất nước khác, đồng thời cũng giúp Người nhận thức mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và cách mạng vô sản ở Pháp, cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc.

Thứ hai, con đường cứu nước duy nhất của dân tộc Việt Nam là cứu nước theo con đường cách mạng vô sản; đồng minh của cách mạng Việt Nam là giai cấp vô sản toàn thế giới.

Thực tế mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc ở nước Nga và chủ trương của Lênin hủy bỏ mọi độc quyền của nước Nga đối với Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ... sau năm 1917, đã chứng minh sự lựa chọn của Hồ Chí Minh là đúng đắn.

- Các cuộc cách mạng và các phong trào giải phóng dân tộc và con đường cứu nước của dân tộc ta và của một số nhân vật nổi tiếng ở châu Á.

+ Thời gian ở trong nước, Người đã tìm hiểu kỹ về các phong trào đấu tranh cứu nước giải phóng dân tộc, đặc biệt là các phong trào do Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám lãnh đạo

Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh đòi độc lập của các cụ. Song, theo Hồ Chí Minh, bằng những con đường đó, không thể đi đến thành công được. Hồ Chí Minh nhận xét: Phan Bội Châu hy vọng vào sự giúp đỡ của đế quốc Nhật để đánh Pháp là “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”; Phan Chu Trinh “xin sỏ thực dân Pháp rủ lòng thương” cũng không đòi được độc lập dân tộc; cụ Hoàng Hoa Thám, thực tế hơn hai cụ Phan, song cụ còn “nặng cốt cách phong kiến” vì vậy cũng không đòi độc lập được.

+ Trong thời gian tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khá kỹ các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nga.

Về cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Bắc Mỹ, Hồ Chí Minh nhận xét: người An Nam cần phải học tập nhân dân Bắc Mỹ đứng lên giành độc lập. Song, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, cách mạng Bắc Mỹ thành công đã hơn 150 năm, mà đời sống nhân dân lao động vẫn cực khổ, vẫn phải lo làm cách mạng lần thứ hai. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, mà đã là cách mạng tư sản thì đó là cách mạng không triệt để, cách mạng không đến nơi.

Về cách mạng tư sản Pháp 1789, giống như cách mạng Mỹ, là cuộc cách mạng không đến nơi, mang danh là cộng hòa, dân chủ kỳ thực thì trong là bóc lột công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa... cách mạng Việt Nam nên nhớ lấy điều ấy.

Về cách mạng Tháng Mười Nga, Người viết: Trong thế giới bây giờ chỉ cách mạng Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là người dân được hưởng tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực sự.

+ Sau khi tìm được con đường cứu nước, Hồ Chí Minh quyết định trở về phương Đông và Việt Nam. Người đã tiếp tục quan tâm nghiên cứu các phong trào

Page 19: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đấu tranh cứu nước của các dân tộc phương Đông, đặc biệt là các phong trào đấu tranh của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Trung Quốc.

Về cách mạng dân tộc dân chủ ở Thổ Nhĩ Kỳ (1920 - 1923). Người nhân xét: cũng giống như tất cả các cuộc cách mạng tư sản, cuộc cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có lợi riêng cho một giai cấp, giai cấp tư sản.

Về cách mạng giải phóng dân tộc ở Ấn Độ chống thực dân Anh (phát triển mạnh từ 1919 - 1922) do Đảng Quốc Đại của Ganđi lãnh đạo, Hồ Chí Minh nhận thấy đường lối này không thể thực hiện độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ. Vì theo lập trường của giai cấp tư sản, không coi bạo lực là phương thức đấu tranh giành chính quyền, lại mang nặng màu sắc tôn giáo. Người nhận xét: Ganđi không phải là một nhà cách mạng, Ganđi chỉ là một nhà cải cách.

Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, do Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Người đặc biệt quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn. Người đánh giá: chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn là “Gần gũi” với Việt Nam. II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. 1. Vấn đề dân tộc thuộc địa

- Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa: + Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc+ Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình. - Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định khi CNTB chuyển sang giai đoạn

ĐQCN, đã làm xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Khi bàn về vấn đề dân tộc trong CNTB, Lênin đã nêu lên hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc:

+ Sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.

+ Sự phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB.

Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt. CNTB và chủ nghĩa dân tộc tư sản không những không giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho xung đột dân tộc ngày càng tăng lên.

Lênin yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa xô vanh.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.

- Độc lập tự do là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.+ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng. Từ cách tiếp cận về quyền của con người trong Tuyên ngôn Độc lập

1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền

tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của

Page 20: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

cách mạng Pháp, 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn

luôn được tự do bình đẳng về quyền lợi”. Trong chiến tranh thế giới I, Tổng thống Mỹ Uynxơn đưa ra chương trình 14 điểm, điểm thứ 5 khẳng định quyền tự do của các dân tộc bị áp bức..., Hồ Chí Minh khẳng định quyền tự do, bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới.

Tư tưởng các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng ở Hồ Chí Minh được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết của Người và được thể hiện rõ nhất trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (T.4, tr.41)

Các dân tộc muốn được tự do, bình đẳng thì không còn con đường nào khác là phải tự đứng lên giành lấy độc lập tự do. Có thể khẳng định luận điểm về quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới không chỉ có ý nghĩa với cách mạng Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế; không chỉ mang tính thời đại rộng lớn, mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.

+ Nội dung của độc lập dân tộc : Quyền độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả

các dân tộc, song nền độc lập phải là độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự. Hồ Chí Minh nêu lên 2 tiêu chí của độc lập thật sự: Thứ nhất, dân tộc đó phải có quyền quyết định trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Trong đó, trước hết và quan trọng nhất là độc lập về chính trị. Năm 1948, Pháp lập chính phủ bù nhìn; năm 1949, Pháp đưa Bảo Đại về làm Quốc trưởng và tuên bố Việt Nam đã có độc lập, Hồ Chí Minh đã kịch liệt phản đối cái thứ độc lập giả hiệu đó. Thứ hai, dân tộc đó phải được bình đẳng với các dân tộc khác. Quốc tế không thể can thiệp của một nước nếu không có đại diện chân chính của nước đó tham gia. Người khẳng định nhân dân Việt Nam hoan nghênh mọi sự giúp đỡ của các nước khác, đồng thời phản đối mọi sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. + Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân.

Độc lập thực sự phải là nền độc lập mà mọi phần tử quốc dân đều được hưởng thành quả của nó. Trong thư gửi ủy ban hành chính các cấp, Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”.

Độc lập dân tộc thực sự, hoàn toàn là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh. Với tinh thần ấy, trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.. .

+ Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.

Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia; đồng thời Người cũng là hiện thân của khát vọng hòa

Page 21: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

bình trong độc lập tự do. Trên cơ sở kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng về những giải pháp hòa bình tránh xung đột, tránh chiến tranh. Với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp Việt - Pháp bằng con đường hòa bình, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta chủ động ký Hiệp định sơ bộ 6-3, rồi Người trực tiếp ký Tạm ước 14- 9 với Chính phủ Pháp.

Trong thư gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp ngày 7-1-1947, Hồ Chí Minh khẳng định nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam là muốn có hòa bình để kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người Pháp chân chính. Người nói, chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của Việt Nam thì ngay lập tức chiến tranh sẽ chấm dứt, hòa bình sẽ trở lại. Cũng với tinh thần như vậy, trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn ngày 15-2-1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình... Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược... Phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam ... phải để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình”. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.

+ Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Theo Người, những người cộng sản cần phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột thực hiện CNCS. Năm 1924, trong Báo cáo về An Nam gửi Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn, một động lực vĩ đại, duy nhất của người Việt Nam, nước Việt Nam”. Người yêu cầu Quốc tế Cộng sản ra khẩu hiệu để thúc đẩy sự phát triển của “chủ nghĩa dân tộc bản xứ”, Người còn cho rằng Quốc tế Cộng sản sẽ không giúp gì được người An Nam “nếu không dựa vào chủ nghĩa dân tộc”; nếu dựa vào đó, nhất định cách mạng Việt Nam sẽ thắng và “chủ nghĩa dân tộc sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Cũng trong báo cáo đó, Hồ Chí Minh khẳng định CNCS đúng cả ở phương Đông lẫn phương Tây, song Mác xây dựng triết lý của mình dựa trên lịch sử châu Âu, mà châu Âu thì chưa phải là toàn thể nhân loại - đưa ra quan điểm trên vào năm 1924, chứng tỏ Hồ Chí Minh am hiểu rất sâu sắc về thuộc địa và trong bối cảnh quốc tế lúc đó, Người cũng thể hiện một bản lĩnh chính trị rất vững vàng.

Chủ nghĩa dân tộc, theo quan điểm của HCM, khác với chủ nghĩa dân tộc tư sản, đồng thời cũng trái ngược với chủ nghĩa dân tộc lớn, tư tưởng tự ti dân tộc. Với Người độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc

+ Trong xử lý mối quan hệ dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh yêu cầu phải ưu tiên cho vấn đề dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết. Đây là một trong những cống hiến về lý luận của Hồ Chí Minh đối với phong trào cách mạng thế giới.

* Quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản:

Page 22: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Học thuyết Mác là học thuyết về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trên phạm vi toàn thế giới. Theo Mác, muốn lật đổ CNTB khi nó đã trở thành một lực lương quốc tế thì phải làm cách mạng thế giới. Vì vậy, trong quan hệ dân tộc và giai cấp, cả Mác và Ăngghen đều nhấn mạnh tới vấn đề giai cấp, quan tâm nhiều hơn tới lợi ích của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, học thuyết Mác không hề coi nhẹ vấn đề dân tộc, mà chỉ phê phán tinh thần dân tộc ích kỷ của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi mà đại biểu là các lãnh tụ của Quốc tế II. V.I. Lênin, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn ưu tiên cho vấn đề giai cấp. Ông cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong một nước phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Sau khi Lênin qua đời, Ban Lãnh đạo Quốc tế Cộng sản tiếp tục nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc. Vì vậy mà không quan tâm thích đáng đến chủ nghĩa yêu nước, tới tinh thần dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa, thâm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

+ Tư tưởng HCM về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp được thể hiện: Một là, cần phải kết hợp hài hòa hai vấn đề này với nhau trên cả bình diện quốc tế cũng như từng quốc gia, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết. Cơ sở của vấn đề này, theo Hồ Chí Minh:

Thứ nhất, trước những kẻ áp bức, quyền lợi của những người lao động là thống nhất, gắn bó với nhau, đó là tự do bình đẳng, hòa bình ấm no hạnh phúc .

Thứ hai, đặt vấn đề dân tộc hay lợi ích dân tộc lên trên hết, theo Hồ Chí Minh là không mâu thuẫn với việc kết hợp hài hòa giữa hai lợi ích này và cũng hoàn toàn đúng tinh thần các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen.

Thứ ba, ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với CNĐQ và tay sai, nổi trội hơn cả, do đó không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước phương Tây. Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đây là mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh xác định từ những năm 30, phản ánh rõ nhất, tập trung nhất sự kết hợp lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp trong cách mạng Việt Nam nói chung, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng.

Có thể khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là luận điểm trung tâm, xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đưa dân tộc Việt Nam đi tới độc lập tự do và CNXH, trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ở mọi thời kỳ, Hồ Chí Minh luôn gắn mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH, gắn đấu tranh giải phóng dân tộc với xây dựng và bảo vệ XHCN. Đai hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định con đường đi cho cách mạng Việt Nam đã được Hồ Chí Minh vạch ra từ những năm 30, tiến tới thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Page 23: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Ba là, chỉ có giải phóng dân tộc, mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần của việc giải phóng giai cấp, và là tiền đề của giải phóng giai cấp. Với Hồ Chí Minh, quyền lợi dân tộc với quyền lợi giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thực hiện được. Vì vậy, đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức là một chiến lược của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc chính là một bộ phận của chủ nghĩa quốc tế vô sản .

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia dân tộc trên thế giới.

Hồ Chí Minh là người yêu nước hết mực, đồng thời là người quốc tế chân chính. Suốt cả cuộc đời, Người đấu tranh đòi độc lập dân tộc, hòa bình cho Việt Nam và cho các dân tộc khác trên thế giới. Trong những năm 20, đảng cộng sản ở nhiều nước chính quốc còn thờ ơ trong việc thực hiện di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc, thuộc địa, Hồ Chí Minh đã cố gắng khắc phục tình trạng này. Từ 1921 - 1923, Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa; đồng thời cũng giữ vai trò chủ chốt trong việc thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; tuyên truyền giúp các dân tộc thuộc địa nhận thức sứ mệnh tự giải phóng, đồng thời thức tỉnh giai cấp vô sản chính quốc về tình hình thuộc địa, về quan hệ gắn bó giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc.

Người chủ trương, dân tộc Việt Nam mong muốn quan hệ hữu nghị, bình đẳng, hợp tác cùng chung sống hòa bình với tất cả các dân tộc trên thế giới có chế độ xã hội khác nhau, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi dân tộc, các bên cùng có lợi. Sau ngày nước Việt Nam độc lập ra đời, tháng 9 năm 1947, trả lời nhà báo Mỹ S.Êli Mâys, Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Tháng 1-1950, Người lại khẳng định: “Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam dân chủ công hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới” (T.6, tr.8)

Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm mọi tranh chấp giữa các dân tộc, cũng như mọi vấn đề quốc tế phải được giải quyết bằng thương lượng hòa bình; quốc tế không thể bàn đến công việc của một nước mà không có đại diện chân chính của nước đó và đại diện của các nước có liên quan.

Trong quan hệ với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới quan hệ với các dân tộc theo CNXH (Người coi đây là quan hệ anh em); Người cũng rất chú trọng tới quan hệ với các nước láng giềng châu Á, Người cho rằng số phận các dân tộc châu Á buộc chặt với nhau. Vì vậy “Việt Nam và các nước châu Á phải cùng nhau quan tâm tới việc giữ gìn hòa bình, ổn định, cùng có lợi. Nếu không có hòa bình, ổn định, không có nước nào ở châu Á có thể phát triển được”.. .

Page 24: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.

a. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa.- Hồ Chí Minh khẳng định sự phân hoá giai cấp ở các nước thuộc địa

phương Đông không giống như ở các nước phương Tây và nếu như ở phương Tây, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì ở phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa thực dân. Do đó, “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây” và nếu như ở các nước TBCN phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

- Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc.

- Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa (mâu thuẫn dân tộc thuộc địa với các nước đế quốc xâm lược) quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc. (Điều này được thể hiện rõ trong Chính cương và Sách lược tóm tắt, trong Văn kiện Hội nghị TW 8)

b. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị thực dân, giành

độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc địa chưa

phải giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.

Kiên trì mục tiêu này, Hồ Chí Minh đã cố gắng khắc phục những ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều “tả” khuynh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm 20 và đầu những năm 30. Tại Hội nghị TW 8, quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hoàn toàn được khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. (Văn kiện Đảng, T7, 2000, tr.118)

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản

+ Nhận xét của Hồ Chí Minh về tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế XIX đầu thế kỷ XX:

Thứ nhất, tình hình thế giới: hầu hết các nước trên các lục địa Á, Phi, Mỹ la tinh đều trở thành thuộc địa, hoặc phụ thuộc vào CNĐQ. Chính sách xâm chiếm thuộc địa của CNĐQ đã gây ra những hậu quả:

Tạo ra sự đối lập, bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại, sự đối lập giữa các dân tộc bị áp bức, bóc lột với các dân tộc đi áp bức bóc lột, đồng thời còn

Page 25: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tạo ra mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, thông qua chính sách chia rẽ, dùng người ở thuộc địa này đánh người ở thuộc địa kia.

Kìm hãm sự phát triển của các dân tộc thuộc địa, thậm chí làm cho nhiều dân tộc bị diệt vong.

Thứ hai, ở Việt Nam, đến năm 1884, về cơ bản, Việt Nam hoàn toàn bị Pháp chiếm đóng. Chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp cùng bọn địa chủ phong kiến tay sai đã là nguyên nhân làm bùng nổ hàng loạt các phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Song, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn, tất cả đều thất bại.

+ Hồ Chí Minh khảo sát rất kỹ các cuộc cách mạng và kinh nghiệm của các phong trào đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc trên thế giới (xem phần đầu) và khẳng định con đường đi của cách mạng Việt Nam: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và cách mạng thế giới”. Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo khẳng định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (T.3, tr.1).

Khi tổng kết chặng đường 20 năm cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản“(T.9, tr.419).

- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo

Với Hồ Chí Minh, muốn giải phóng dân tộc trước hết cần phải có Đảng cách mạng... Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy

Để huy động sức mạnh của toàn dân, Hồ Chí Minh sắp xếp lực lượng của toàn dân trên lập trường của giai cấp công nhân. (Cách sắp xếp lực lượng cách mạng của Hồ Chí Minh khác hẳn cách sắp xếp lực lượng cách mạng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các bậc tiền bối khác, đồng thời cũng khác với cách sắp xếp lực lượng cách mạng của Quốc tế Cộng sản ở những năm 20 - 30). Người khẳng định:

+ Trong thời đại mới, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhận thức được tính chất của thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, trong đó “Giai cấp công nhân công nghệ” giữ vai trò trung tâm. Vì vậy, Hồ Chí Minh hoàn toàn đặt niềm tin vào giai cấp công nhân Việt Nam.

Trước các ý kiến cho rằng giai cấp công nhân Việt Nam số lượng còn nhỏ bé, trình độ còn thấp kém, không thể lãnh đạo được, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lãnh đạo được cách mạng hay không là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số lượng nhiều hay ít”, “Đặc tính của giai cấp công nhân là kiên quyết, triệt để, tập thể và có

Page 26: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tính kỷ luật” và Người kết luận: về mọi mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành động giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.

Để giai cấp công nhân đảm đương được sứ mệnh của mình, HCM yêu cầu cần không ngừng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần yêu nước cho họ.

+ Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là “gốc”, là ”chủ” của cách mạng, là “quân chủ lực của cách mạng” và sự liên minh của 2 giai cấp này là “nền”, là “gốc”, là “cơ sở” chủ yếu của Mặt trận dân tộc thống nhất.

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng Việt Nam. Vì vậy, “giải phóng dân tộc thực chất là giải phóng giai cấp nông dân”. Nếu giai cấp công nhân không “thu phục” được giai cấp nông dân thì không thể nắm quyền lãnh đạo cách mạng và không thể đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi được.

Hồ Chí Minh xếp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và cả tư sản dân tộc là động lực của cách mạng. Theo Người, tính chất cách mạng nước ta là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Giai cấp tư sản dân tộc cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức, bị ngăn trở phát triển; họ có tinh thân yêu nước, tinh thần dân chủ và có thể đứng về phía cách mạng

HCM chỉ rõ: Cách mạng tức là các giai cấp tiến bộ đánh đổ giai cấp phản tiến bộ, những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng tức là động lực cách mạng.

- Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân tộc. + Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân DT bị áp bức. Cơ sở lý luận của vấn đề này chính là lý luận của chủ nghĩa MLênin về sự

tự thân phát triển, cách mạng mỗi nước phải do chính nhân dân nước đó tiến hành. Năm 1921, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Người viết:

“Vận dụng câu nói của Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em” (T.2 tr.127-128).

Ngay từ những năm 20, Hồ Chí Minh đã nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu cần giải quyết trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, cùng các thế lực phản động khác. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc là của toàn dân, “nghĩa là sỹ, nông, công, thương đều chống lại cường quyền”, giải phóng dân tộc là công việc chung của dân chúng, của cả đồng bào ta.

Luận điểm trên được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đòi hỏi phải “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, Người yêu cầu phải “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”. Việc vận động nhân dân, xây dựng lực lượng trong nước là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông.

Page 27: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Khái nịêm “đồng bào”, “toàn dân” được Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều. Toàn dân, theo Hồ Chí Minh nghĩa là toàn thể “con Lạc cháu Hồng”, không phân biệt địa vị, đảng phái, giàu, nghèo...

Với HCM, cách mạng là "Việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai người" vì vậy phải đoàn kết toàn dân: "sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong đó công nông là gốc, là chủ của cách mạng.

Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.

+ Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: công nông là gốc, là chủ của cách mạng. Và không khi nào được nhượng dù một chút lợi ích của công nông để đi vào con đường thỏa hiệp

Người viết: "Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng người ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi" (T.2, tr.266) và "trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp'' (T.3, tr.3)

- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và thúc đẩy sự phát triển của cách mạng chính quốc.

Đây là một trong những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

+ Quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I Lênin và Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

C.Mác và Ph. Ăngghen do điều kiện lịch sử chưa cho phép, nên trong thời đại của mình, các ông chưa đề cập đến cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, hai ông cũng cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản và về lâu dài, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi chọn vẹn phải theo con đường cách mạng vô sản.

V.I Lênin phát triển các quan điểm của Mác trong điều kiện CNĐQ, đã nhận thức rõ hơn về vai trò của thuộc địa đối với sự tồn tại của CNĐQ, về quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc. Tuy nhiên, Lênin chưa thấy được tính chủ động, sáng tạo của các dân tộc thuộc địa. Người cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn, trực tiếp vào cách mạng vô sản ở chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ thắng lợi, khi cách mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi.

Thực ra, cả Mác, Ăngghen và Lênin đều không coi thường vấn đề giải phóng dân tộc, song do các ông phải tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp ở châu Âu nên chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu về các phong trào dân tộc thuộc địa.

Page 28: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Quốc tế Cộng sản trong những năm 20 - 30, tiếp tục phát triển các quan điểm của Lênin theo khuynh hướng “tả” khuynh, đặc biệt chú trọng đến cách mạng chính quốc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là hậu bị quân của cách mạng chính quốc, đặt lợi ích của đấu tranh giải phóng dân tộc dưới lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp.

Tuyên ngôn Thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 viết: "Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan, mà cả Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ được Lôiit

Gioógiơ và Clêmangxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình". Những Luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1/9/28) cũng khẳng định: "Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến".

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc.

Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã phân tích, phê phán các quan điểm “tả” khuynh của Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản ở một số nước chính quốc là không thấy được tầm quan trọng của thuộc địa đối với sự tồn tại của CNĐQ, vì vậy cũng không thấy được vai trò to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc đối với phong trào cách mạng thế giới.

Nguời nhấn mạnh, trong khi thờ ơ, không hiểu thuộc địa, họ lại giáo điều cho rằng ở thuộc địa, công nghiệp nhỏ bé, giai cấp công nhân chưa phát triển, trình độ lý luận thấp kém, không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin ..., nên không thể làm cách mạng thắng lợi được.

Với tư cách là người hiểu sâu sắc về thuộc địa, về chủ nghĩa thực dân và về sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Thứ nhất, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là CNĐQ.

Người dùng hình tượng con đỉa hai vòi, cùng hàng loạt các bằng chứng xác thực khác để chỉ rõ hiện tượng này. Theo Người, muốn giết được con đỉa đó thì phải đồng thời cắt bỏ cả hai cái vòi của nó.

Thứ hai, khi được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, được đảng cộng sản lãnh đạo thì tính chủ động, tích cực của nhân dân các nước thuộc địa có thể phát triển chưa từng thấy họ có thể vùng lên tự giải phóng trước khi cách mạng chính quốc nổ ra và giành thắng lợi đồng thờì thúc đẩy trở lại đối với cách mạng chính quốc.

Thứ ba, khi phân tích vai trò của thuộc địa với CNĐQ và sức mạnh to lớn của nhân dân các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã khẳng định “nọc độc” chủ yếu của các nước đế quốc nằm ở thuộc địa và nhân dân các nước thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh hết to lớn khi được giác ngộ.

Page 29: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chính vì vậy, ngay từ năm 1924, Người đã khẳng định: "Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước" (T2, tr.128) và "Trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của CNTB là CNĐQ, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn" (T1, tr.36).

Hồ Chí Minh thấy được vấn đề này từ rất sớm và kiên trì luận điểm này, mặc dù, có lúc vì nó, mà Người đã gặp không ít khó khăn. Giải thích về nguồn gốc sức mạnh của nhân dân các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh: “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thày duy nhất của họ... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (T.1, tr.28).

+ Luận điểm trên của Hồ Chí Minh là một sự sáng tạo to lớn. Nó là cơ sở cho mọi hoạt động sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là cơ sở lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển.

- Cáh mạng giải phóng dân tộccần được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.

+ Hồ Chí Minh kế thừa lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có lý luận về việc giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng. Trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bạo lực được coi là “bà đỡ” cho một xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác không phủ nhận khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, song coi đó là khả năng rất hiếm và rất quý.

+ Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa không thể thành công triệt để nếu không sử dụng tới bạo lực. Bởi vì ở đây sự tàn bạo của CNĐQ đã đạt tới mức cao nhất, chúng không từ bỏ một thủ đoạn nào, kể cả việc dìm các phong trào đấu tranh tay không của nhân dân thuộc địa trong biển máu.

Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh cũng khác với tư tưởng cách mạng bạo lực của một số nước, một số phong trào cách mạng ở trong nước như tư tưởng “nòng súng đẻ ra chính quyền”, tư tưởng khủng bố, ám sát cá nhân, tư tưởng say mê bạo lực vũ trang... Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Cách mạng bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để “chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.

Năm 1947, nhân kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn

Page 30: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

có lực lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm” (T.5, tr.329)

+ Mặc dù nhấn mạnh cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra các giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng. Điều này thể hiện rất đậm nét trong các hoạt động chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn 1945 - 1946; 1954 - 1959, song các thế lực đế quốc và bọn phản động tay sai đã khước từ mọi cử chỉ thiện chí, mọi cơ hội tránh đổ máu cho cả hai bên.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng của Người, cách mạng Việt Nam đã thành công, đất nước độc lập tự do, thống nhất, đồng thời góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới.

IV. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.

Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn:

- Làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa, đặc biệt là trong việc xử lý vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp; trong việc nhận thức khả năng thắng lợi của cách mạng thuộc địa.

- Làm chuyển hoá phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Đặt cơ sở xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dt của Đảng.- Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. 2. Phân tích tính sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh: Các dân tộc muốn được độc lập tự do, bình đẳng thì không có con đường nào khác là phải tự minh đứng lên giành lấy độc lập, tự do.

3. Tại sao trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và trong cách mạng Việt Nam nói chung độc lập dân tộc phải gắn liền với cnxh.

4. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. 5. Giải thích tại sao, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc tự do của nhân dân?

6. Phân tích những quan điểm cơ bản của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc.

Page 31: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

7. Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở “chính quốc” là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.

8. Phân tích tính sáng tạo trong quan điểm sau đây của Hồ Chí Minh: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.

9. Phân tích quan điểm sau đây của HCM: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

10. Giải thích tại sao Hồ Chí Minh khẳng định: ở các nước thuộc địa, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”

11. Vì sao Hồ Chí Minh chủ trương, đối với cách mạng giải phóng dân tộc, phải đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu?

12. Tại sao khi giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, HCM yêu cầu phải ưu tiên cho vấn đề dân tộc, lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc?

13. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”?

14. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công”?

15. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”?

16. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Công nông là gốc của cách mệnh”?17. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc cần

phải tiến hành chủ động và sáng tạo”?18. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc

địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?19. Cho biết ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận điểm của HCM: cách mạng

giải phóng dt ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vs ở chính quốc?20. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về sựu thống nhất biện chứng

giữa tư tưởng bạo lực cách mạng với tư tưởng nhân đạo hòa bình.

Chương III

Page 32: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘIVÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM (4)

Mục đích yêu cầu.1. Sinh viên nhận thức được những cơ sở góp phần hình thành nên tư tưởng

Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. 2. Tính tất yếu ra đời, đặc trưng bản chất, mục tiêu của CNXH theo quan

điểm Hồ Chí Minh. 3. Các giai đoạn, bước đi cụ thể trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt

Nam. 4. Trên cơ sở đó, có nhận thức đúng và tin tưởng vào con đường đi lên của

cách mạng Việt Nam do Đảng, và nhân dân ta lựa chọn 80 năm qua.

Tài liệu tham khảo.1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1 (tr. 27, 28), tập 2 (tr. 264-280), tập 8 (tr.

226, 276, 341-342), tập 10, (tr.13-17, 133, 217, 310, 461, 556, 590), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.

2. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.

3. Nguyễn Duy Quý: Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. 4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.1. Con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.

a. Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh luận chứng cho sự ra đời của CNXH dựa trên các cơ sở sau: - CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB+ Chủ nghĩa Mác - Lênin khi luận chứng cho sự ra đời của CNXH xuất

phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Khi luận chứng cho sự ra đời tất yếu của CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý đến một phương diện không kém phần quan trọng: CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Chính sự bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân đã bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính bẩm sinh, không thể khắc phục được của CNTB và đó chính là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh của mình đối với quốc gia dân tộc, chờ thời cơ để vùng dậy, thủ tiêu xiềng xích thực dân, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng chính họ thoát khỏi bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào, và đây chính là điều kiện quan trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về CNXH, CNCS.

Page 33: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định hết sức mới mẻ và táo bạo: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện nay... Bây giờ hãy xét những lý do lịch sử cho phép CNCS thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu” (T1, tr.33-35). Trong bài Đông Dương đăng trong Tạp chí Cộng sản (Pháp) số 14 năm 1921, Hồ Chí Minh: “Sự tàn bạo của CNTB đã chuẩn bị đất rồi: CNXH chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (T1, tr.28)

- Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam còn được Hồ Chí Minh luận chứng trên nhiều góc độ khác:

Thứ nhất, về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN của nước ta.

Thứ hai, cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách mạng không phải là lý tưởng, khẩu hiệu được nêu ra mà là ở quy mô giải phóng quần chúng bị áp bức. Chỉ có CNXH mới làm được việc đó.

Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Độc lập dân tộc là tiền đề để tiến lên CNXH, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (T3, tr.1). Việc đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với CNXH, đã khiến quan điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để.

Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp ở trong nước và trên thế giới, Đai hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn từ 80 năm trước và được khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. CNXH, CNCS vẫn là mục tiêu mà cách mạng Việt Nam đang hướng tới.

b. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về CNXH.Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội xuất phát từ 3 phương diện sau:

- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH trên cơ sở học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội và các quan điểm duy vật lịch sử của Mác.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã chỉ rõ lịch sử phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên của các phương thức sản xuất nối tiếp nhau, từ cộng sản nguyên thủy đến CNCS. Trên cơ sở đó, Mác xây dựng những luận điểm cơ bản về CNXH, chỉ ra những đặc trưng bản chất của nó, đặc trưng cơ bản nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng con người khỏi tình trạng bị bóc lột về kinh tế, bị áp bức về chính trị, bị nô dịch về tinh thần...Có thể khái quát học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã cung cấp cho Hồ Chí Minh hàng loạt các vấn đề lý luận về tính tất yếu, mục tiêu bản chất… của chủ nghĩa xã hội.

Page 34: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nhận thức của Hồ Chí Minh về CNXH được thể hiện qua hàng loạt các bài viết của Người đăng trên các sách, báo trong và ngoài nước, như các bài “Thường thức chính trị (thực chất là viết về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), viết năm 1950 ở Việt Bắc, “Diễn văn khai mạc lớp lý luận khóa 1”, năm 1957 ở Học viện Nguyễn Ái Quốc...

- Hồ Chí Minh tiếp thu học thuyết Mác về CNXH, trên cơ sở xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam

Xuất phát từ thực tiễn nước ta để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một luận điểm rất quan trọng: Mỗi dân tộc đi lên CNXH có những nét đặc thù riêng, không thể máy móc thực hiện như nhau với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau.

Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh chỉ ra đặc điểm “to nhất” của ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, vì vậy mà chúng ta phải đi tìm “Một mô hình khác xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của nước ta” (Tập 8, tr.227).

Với quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn tránh được tư duy giáo điều tồn tại phổ biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đồng thời làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác về CNXH và con đường đi lên CNXH.

- Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ truyền thống văn hóa phương Đông và Việt Nam.

+ Truyền thống nhân ái, yêu mến quê hương, sống với nhau có tình có nghĩa “đọc bao nhiêu sách MLN, mà sống với nhau không có tình thì cũng là không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin” Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng tiến bộ này và phát triển lên. Người thường xuyên căn dặn “trong bầu trời không gì cao quý bằng nhân dân”, Người chủ trương xây dựng một nhà nước của dân do dân và vì dân, trong đó cán bộ là “đầy tớ”, là “công bộc” của dân, phải biết tự phê bình trước dân, thành công là của dân, khuyết điểm là của cán bộ. Người nói tới trọng trách của Đảng đối với nhân dân, nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Người viết: "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và chính phủ có lỗi" (T12, tr.572)

+ Truyền thống đề cao văn hóa, lễ nghĩa, coi trọng giáo dục đạo đứcKhổng Tử đặt giáo dục cao hơn chính trị, giáo dục tốt thì chính trị tốt;

Mạnh Tử: chính trị tốt thì dân giàu, dân không giàu, chính trị không tốt. Vua có nhân thì không ai không có nhân, vua có nghĩa thì không ai không có nghĩa; Khổng Tử đề cao trí, nhân, dũng; Mạnh Tử đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... , tóm lại, các ông rất coi trọng giáo dục đạo đức bằng phương pháp nêu gương. Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhấn mạnh vấn đề nay. Người chỉ rõ: “Một nhà nước muốn được lòng dân thì người đứng đầu phải nêu gương”.

2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng của CNXH Việt Nam. - Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc trưng

của CNXH:

Page 35: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu XHCN để giải phóng sức sản xuất.

+ Có một nền đại công nghiệp cơ khí, một nền khoa học công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. Đặc trưng này đã được Lênin khái quát thành công thức CNXH = chế độ Xôviết + Điện khí hoá toàn quốc.

+ Thực hiện sản xuất có kế hoạch và tiến tới xóa bỏ hàng hóa, tiền tệ (sau này được Lênin điều chỉnh bằng chính sách kinh tế mới).

+ Phân phối theo lao động, thực hiện công bằng trong lao động và hưởng thụ.

+ Khắc phục sự khác biệt về giai cấp, tiến tới xóa bỏ sự khác biệt giữa nông thôn với thành thị, lao động trí óc và lao động chân tay; xây dựng một xã hội thuần nhất về giai cấp.

+ Giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người tận lực phát triển năng lực sẵn có.

+ Sau khi thực hiện các chức năng trên, chức năng chính trị của nhà nước sẽ dần dần bị tiêu vong.

- Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. + Hồ Chí Minh thống nhất với các nhà kinh điển về CNXH, Người trích

dẫn nhiều đặc trưng bản chất ở các giai đoạn khi chúng ta chưa bước vào thời kỳ quá độ. Song đến giai đoạn từ 1954-1964, Hồ Chí Minh đã phát biểu một số vấn đề thể hiện quan điểm mới của Người về CNXH. Con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là “không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác” (T8, 227). Hồ Chí Minh yêu cầu không được ảo tưởng chủ quan cho rằng CNXH, CNCS sẽ nhanh chóng được xây dựng ở Việt Nam.

+ Sáng tạo của Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã đưa ra các định nghĩa về CNXH một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu, dễ tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.

Khi Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, Người nói: “CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (T10, tr.17); “CNXH là làm sao cho dân giàu nước mạnh” (T8, tr.226); “CNXH là tất cả mọi người, các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” (T10, tr.317)...

+ Có thể khái quát các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh:

Thứ nhất, chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở nơi dân

Thứ hai, dân giàu nước mạnh, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công.Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển khoa học kỹ

thuật.Thứ tư, xã hội phát triển ở trình độ cao về văn hóa, đạo đức.Ngoài ra khi nói về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh còn

chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là một xã hội có quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các quốc

Page 36: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

gia dân tộc trên thế giới, trên tinh thần hữu nghị hợp tác, tôn trọng độc lập, chủ quyền và hai bên cùng có lợi; CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng…

+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH là một quan niệm hoàn chỉnh, có hệ thống từ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, con người..., song nhân tố được Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất là quyền làm chủ của nhân dân, Người yêu cầu phải nâng cao trình độ, lòng nhân ái, tình người trong nhân dân, luôn tin vào năng lực sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân; sự nghiệp xây dựng CNXH là sự nghiệp của nhân dân.

+ Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, Cương lĩnh của Đảng (năm 1991) đã khẳng định những đặc trưng cơ bản của CNXH ở nước ta: Nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏí áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Tóm lại, thông qua các đặc trưng của CNXH bằng cách xác lập mục tiêu của nó, Hồ Chí Minh khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của CNXH so với các chế độ xã hội trước đó, Người cũng chỉ ra chức năng xã hội của CNXH là giải con người một cách toàn diện, theo mọi cấp độ từ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội đến giải phóng từng cá nhân. Mục tiêu cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi người trên trái đất.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực phát triển CNXH Việt Nam.

a. Những mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là phấn đấu vì độc lập tự

do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân.Người chỉ rõ: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu

là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” (T10, tr.271)

- Mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:+ Mục tiêu về chính trị của CNXH là xây dựng Nhà nước của dân do dân

và vì dân. Người đòi hỏi phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Chính phủ phải là đầy tớ của nhân dân, nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền “đuổi” chính phủ, đồng thời Người cũng yêu cầu nhân dân phải nâng cao trình độ và phải dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vì theo Hồ Chí Minh, “quan tham là vì dân dại”.

+ Mục tiêu về kinh tế, “Phải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến”. Điều quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh quan tâm đến là vấn đề năng suất lao động, mà muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tiến hành công nghiệp hóa XHCN, tuy

Page 37: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhiên theo Hồ Chí Minh, công nghiệp hóa có thể được tiến hành bằng nhiều con đường khác nhau, chứ không nhất thiết là phải bắt đầu từ sự phát triển công nghiệp nặng.

+ Mục tiêu về văn hóa, theo Hồ Chí Minh, CNXH phải là một xã hội cao hơn hẳn CNTB về văn hóa và giải phóng con người, văn hóa phải “soi đường cho quốc dân đi”, phải lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Khi được hỏi bằng nhân tố nào phát triển CNXH, Hồ Chí Minh trả lời: bằng văn hóa (T10, tr.392)

+ Mục tiêu về xây dựng con người: muốn có CNXH trước hết phải có con người XHCN. Con người XHCN phải là con người có giác ngộ cách mạng, có phẩm chất đạo đức trong sáng..., trong các phẩm chất của con người mới, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng các phẩm chất về lý tưởng, đạo đức cách mạng và tinh thần làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện sản xuất chưa phát triển cao, điểm hơn hẳn của CNXH so với CNTB chính là ở quan hệ giữa con người với con người.

Những mục tiêu trước mắt, thiết thực, cụ thể về CNXH mà Hồ Chí Minh đề ra tuy có những khác nhau về chi tiết, tùy thuộc đối tượng, thời điểm Người nói hay viết, nhưng đều thể hiện tinh thần: chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hoá lịch sử nhân loại, là hệ thống những giá trị mà khi loài người đạt tới thì cá tính con người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện.

b. Các động lực của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.Khi nói động lực của sự phát triển, Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta phải

chú ý đến các yếu tố thúc đẩy, đồng thời cũng phải chú ý tới các yếu tố kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Để xây dựng và phát triển của CNXH, cần phải huy động được tất các các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quan trọng nhất. Bởi vì các nguồn lực khác, xét đến cùng đều phải thông qua con người. Con người trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.

“Muốn cho CNCS thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình” (T4, tr.272). Người nói: “CNXH chỉ có thể được xây dựng với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo”, và “CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên” (T10, tr.133), “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN...Có tư tưởng và tác phong XHCN” (T10, tr.310).

- Với Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.

Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm tất cả mọi tầng lớp, mọi gc, dân tộc, tôn giáo...Xây dựng CNXH không chỉ là sự nghiệp riêng của công nông mà là của toàn thể dân tộc. CNXH không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc. Chỉ xây dựng thành công CNXH mới tăng cường được sức mạnh của dân tộc, mới giữ vững độc lập dân tộc.

Page 38: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Kế thừa quan điểm này của Hồ Chí Minh, Đại hội IX Đảng ta chỉ rõ: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội'' (Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86).

- Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao động, Người đã nêu lên một số giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, phải chú trọng các giải pháp tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất thiết thân đối với người lao động.

Ngay trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến vấn đề này. Người đa ban hành Chính sách giảm tô, giảm tức; bước sang thời kỳ xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh yêu cầu phải chú ý đến lợi ích chính đáng của người lao động thông qua các chính sách về giá cả, thuế, về khoán, thưởng, phạt, coi trọng lợi ích cá nhân, tích cực tìm tòi cơ chế biện pháp kích thích trí sáng tạo của cá nhân.

Thứ hai, các giải pháp tác động vào các động lực chính trị, tinh thần. Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong khi điều kiện vật chất còn nhiều khó khăn thì các

biện pháp kích thích tinh thần có tầm quan trọng hàng đầu. Người viết: “CNXH không phải là cái gì cao xa mà cụ thể là ý thức lao động tập

thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước, tăng sản xuất cho hợp tác xã, tăng thu nhập cho xã viên, tinh thần đoàn kết, tương trợ, tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần kiệm” (T9, tr.575).

Để làm tốt công tác này, cần phát huy tinh thần và ý thức làm chủ tập thể của đông đảo quần chúng nhân dân; thực hiện công bằng xã hội; sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố tinh thần khác như văn hóa, đạo đức, pháp luật, phải nâng cao dân trí, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu...

- Ngoài các động lực bên trong, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sử dụng tốt các thành quả khoa học kỹ thuật…để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Tất cả những nhân tố động lực nêu trên mới chỉ là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Để những năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngường phát triển, Hồ Chí Minh chỉ rõ: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.

- Đi đôi với việc khai thông các động lực, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nhận diện các lực cản, và Người đã chỉ ra những căn bệnh có nguy cơ dẫn đến sự thoái hóa biến chất của CNXH, tới sự tồn vong của chế độ là:

+ Chủ nghĩa cá nhân là “căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm”, là “kẻ thù hung ác của CNXH”, “chúng ta phải kiên quyết tiêu diệt nó”. Chúng ta chú trọng đảm bảo lợi ích cá nhân, song phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chống lối

Page 39: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

sống chỉ vì mình, quê mình mà kết thành phe cánh bất chấp lợi ích của cộng đồng, của người khác.

+ Tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu+ Tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết làm giảm sút uy tín của Đảng, của cách

mạng (xem thêm T9, tr.228)+ Tệ chủ quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập cái mới.

II. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CNXH Ở VN.

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

a. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa M.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH. - Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều khẳng định rằng giữa

CNTB và CNCS tất yếu phải có một thời kỳ quá độ nhằm chuyển xã hội nọ sang xã hội kia. Thời kỳ quá độ mà Mác và Ăngghen đề cập đến ở đây, chủ yếu là thời kỳ chuyển biến lên CNCS ở các nước tư bản phát triển và quá độ ở đây, chủ yếu là quá độ chính trị. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về nước Nga, Mác đã đi đến kết luận hé mở một con đường quá độ khác “Nước Nga có thể không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ đó, mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ xã hội ấy” (chế độ xã hội mà Mác nói tới ở đây là chế độ xã hội tiền TBCN)

- Sau cách mạng Tháng Mười, Lênin đã làm phong phú thêm lý luận về thời kỳ quá độ:

+ Lênin nêu lên hai loại hình quá độ từ CNTB lên CNXH, đồng thời chỉ rõ, các nước lạc hậu có thể đi lên CNXH không cần phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Tuy nhiên cần phải tuân theo hai điều kiện: có sự giúp đỡ của một nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng thành công và nước đó phải do đảng cộng sản lãnh đạo.

+ Xác định thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ tương đối dài, cần phải thực hiện các bước đi quá độ nhỏ, sử dụng một số hình thức trung gian, Người cũng luôn nhắc nhở những người cộng sản không được chủ quan nóng vội.

b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

về thời kỳ quá độ và vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta. Người khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ có những nội dung chủ yếu sau:

- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: + Có sự lãnh đạo của Đảng, có khối liên minh công nông và trí thức đã

được củng cố vững chắc, vì vậy cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới không bắt đầu bằng một cuộc đảo lộn chính trị.

+ Đặc điểm “to nhất” của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN.

Page 40: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Chúng ta xây dựng CNXH trong điều kiện vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.

+ Về phương diện quốc tế, sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam có những thuận lợi cơ bản, song cũng có không ít những khó khăn, đó là sự can thiệp, phá hoại của kẻ thù. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường để tranh thủ thuận lợi hạn chế những khó khăn, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. - Bản chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:

+ Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là quá trình cải biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn hiện đại. Đây là một cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi chúng ta phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

+ Quá độ lên CNXH là một quá trình dần dần, khó khăn phức tạp và lâu dài, vừa phải cải tạo xã hội cũ, vừa xây dựng xã hội mới. (Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chất tuần tự, lâu dài của thời kỳ này). Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ được Hồ Chí Minh lý giải trên các cơ sở sau:

Thứ nhất, đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn khác nhau.

Thứ hai, xây dựng CNXH là một sự nghiệp mang tính kinh tế. Đây là một công việc hoàn toàn mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm phải vừa làm vừa học và không thể tránh được thiếu sót, thậm chí thất bại tạm thời.

Thứ ba, kẻ thù của CNXH luôn tìm mọi cách chống phá quá trình xây dựng CNXH.

+ Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ đảng viên tránh nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng CNXH. Phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước từ thấp lên cao “Phải kiên nhẫn bắc những nhịp cầu nhỏ và vừa, phải chọn những giải pháp trung gian và quá độ” (T7, tr.538), “Phải trải qua nhiều bước, dài, ngắn là tùy hoàn cảnh. Mỗi bước, chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc, đi bước nào, vững bước ấy tiến tới dần dần” (T7, tr.540).

- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ:Thứ nhất, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Thứ hai, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây

dựng trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm- Những nhân tố đảm bảo thắng lợi cho CNXH ở Việt Nam gồm:+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.

Page 41: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Phát huy tính tích cực chủ động của các tổ chức chính trị xã hội của quần chúng.

+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN.

2. Nội dung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên ở Việt Nam. - Về chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy cần:

Thứ nhất, Đảng phải thường xuyên được chỉnh đốn, củng cố nâng cao sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Thứ hai, tất cả các cơ quan nhà nước phải là các thể chế dân chủ, dựa vào dân, lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự kiểm soát của dân; phải xây dựng bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Thứ ba, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công nhân nông dân và trí thức, do đảng cộng sản lãnh đạo.

- Về kinh tế, Hồ Chí Minh đã đề cập một cách khá toàn diện:+ Người nhấn mạnh đến việc tăng gia sản xuất gắn liền với thực hành tiết

kiệm, không ngừng nâng cao năng xuất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa XHCN.

+ Xác định cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời coi trọng củng cố thương nghiệp làm cầu nối giữa các ngành kinh tế. Tại Hội nghị Bộ chính trị, tháng 10 năm 1954, Người nói: “Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan, Phải tăng tiến nông nghiệp. Làm trái với Liên Xô cũng là mácxít” (Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, T5, tr.572).

+ Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ. Bốn thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh đề cập đến là kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư doanh và kinh tế riêng lẻ khác. Theo Hồ Chí Minh cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH; khuyến khích và giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển…

+ Chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; đồng thời bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất “Chế độ khoán là một điều kiện của CNXH, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay” (T8, tr.341) - Về văn hóa - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc xây dựng con người mới, coi con người vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội, đồng thời Người cũng đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, nâng cao dân trí, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài trong xây dựng CNXH.

3. Quan điểm của HCM về bước đi và các biện pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ.

- Hồ Chí Minh nêu lên 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận trong việc xác đinh bước đi và cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Page 42: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là hiện tượng phổ biến, mang tính quốc tế vì vậy phải quán triệt các nguyên lý cơ bản của chu nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không được giáo, điều máy móc.

+ Xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.

- Về bước đi của thời kỳ quá độ.Trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chưa nói rõ các bước đi cụ thể, song

tìm hiểu kỹ tư tưởng của Người, chúng ta có thể hình dung ba bước sau: Thứ nhất, ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng

đầu. Người giải thích: Chúng ta vừa ra khỏi chiến tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của Đảng không thực hiện được”(T7, tr. 532), “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung thì phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” (T10, tr.180); “Phải ưu tiên phát triển nông nghiệp còn bởi vì chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng lao động nông nghiệp). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ta phải dựa vào nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng” (Bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương bàn về phát triển công nghiệp. (T10, tr.34);

Thứ hai, phát triển tiểu công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Thứ ba, phát triển công nghiệp nặng. Đề phòng bệnh duy ý chí, Người viết: "Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông

thôn, bây giời mới có thành thị...nếu muốn công nghiệp hóa gấp là chủ quan...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng, làm trái với Liên Xô cũng là mácxít".

- Về các biện pháp cơ bản tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam: + Muốn bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm phải học tập kinh nghiệm các nước

anh em, tuy nhiên không được rập khuôn, giáo điều, sao chép, mà phải học một cách sáng tạo, phải chú ý đến thực tiễn nước ta (xem thêm T8, tr.494, 227).

+ Phải đi sâu vào thực tiễn để điều tra, khảo sát, từ thực tiễn mà đề xuất các vấn đề phương pháp cho cách mạng Việt Nam.

Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể như thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính.

+ Người nhấn mạnh tới vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện và nhắc nhở khi soạn thảo và thực hiện kế hoạch phải thực hiện phương châm: Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi,... có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được

+ Biện pháp cơ bản lâu dài, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải “Đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân”.

Người chỉ rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng "đó là CNXH nhân dân'', không phải là ''CNXH nhà nước", được ban từ trên xuống. Trong xu thế tập trung quan liêu bao cấp ở khối các nước XHCN lúc bấy giờ, việc Hồ Chí Minh khẳng định như trên và coi việc xây dựng CNXH không thể bằng mệnh lệnh

Page 43: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

từ trên xuống, mà chính phủ chỉ giúp về kế hoạch, cổ động (đường lối, chính sách, xây dựng hành lang pháp lý), quả là một sự sáng tạo to lớn.

** *

Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất. trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội, về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nội dung, bước đi và biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hiện nay, cần chú ý:

- Cần khẳng định những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH là cơ sở để chúng ta tiếp tục suy nghĩ, sáng tạo để tìm ra hình thức, bước đi, cách làm mới, tức là chúng ta phải làm sống động tư tưởng Hồ Chí Minh trước tình hình mới.

- Xây dựng CNXH trong cơ chế thị trường, đó là cái mới. Chúng ta cần nghiên cứu kỹ Cương lĩnh 91, các nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, IX, và lần thứ X để nhận thức sâu hơn về sự vận dụng trung thành, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần quán triệt các quan điểm sau:

+ Phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

+ Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.+ Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh

đấu tranh chống quan liêu, tham những, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Làm rõ tính tất yếu khách quan, hợp quy luật của con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.2. Trình bày quan điểm về những đặc trưng bản chất, bước đi và biện pháp

xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh. Đảng ta đã vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc đổi mới hiện nay như thế nào?

3. Cho biết quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội có những điểm sáng tạo mới như thế nào?

4. Phân tich sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đề xuất các bước đi và biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

5. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của cnxh Việt Nam và nêu ý nghĩa của quan niệm đó đối với nước ta hiện nay.

Page 44: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hãy phân tích để làm rõ quan điểm ấy là một sáng tạo của Hồ Chí Minh.

7. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hãy phân tích để làm rõ quan điểm ấy là một sáng tạo của Hồ Chí Minh.

8. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam và nêu ý nghĩa của quan điểm đó đối với công cuộc xây dựng cnxh ở nước ta hiện nay.

9. Để phát huy vai trò của con người với tư cách là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải làm gì?

10. Lực cản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Theo anh (chị) làm thế nào để xóa bỏ các lực cản đó?

11. Phân tích các cơ sở góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

12. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm động lực con người là động lực chủ yếu nhất của chủ nghĩa xã hội?

13. Cho biết theo quan điểm của Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thuộc loại hình quá độ nào? Vì sao thời kỳ đó gặp nhiều khó khăn, trở ngại?

14. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”

15. Giải thích tại sao trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam?

16. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần?

17. Vì sao theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “Đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”?

Page 45: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương IV

TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3)

Mục đích yêu cầu.Giúp người học nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh

về Đảng Cộng sản Việt Nam. Thấy được những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực này. Từ đó củng cố niềm tin vào sựu lãnh đạo của Đảng, vào chế độ, biết vận dụng tư tưởng của người vào công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tài liệu tham khảo.1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006.3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.4. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.5. Trương Minh Dục, Hồ Chí Minh bàn về đảng cầm quyền qua cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc”, Lịch sử Đảng, số 5, 1992.

Nội dung

I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khái quát quy luật hình thành và phát triển các đảng cộng sản là kết quả của sự kết hợp 2 yếu tố lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân.

- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố trên, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước.

Trong bài viết “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, Người khẳng định: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.

- Quan điểm của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở chủ yếu sau: + Yêu nước là cái trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam là yếu tố có

trước và là một phong trào thực sự to lớn, thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhất là khi giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời.

+ Phong trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc; quyền lợi giai cấp công nhân và quyền lợi của toàn thể dân tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân, và chỉ có kết hợp với phong trào yêu nước của dân tộc, giai cấp công nhân mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.

Page 46: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam trước hết phải nói tới phong trào yêu nước của nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm khoảng 90% dân số và do điều kiện lịch sử chi phối, giai cấp công nhân Việt Nam mới được hình thành, xuất thân trực tiếp từ nông dân. Do đó, giai cấp nông dân là đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân và sự liên minh chặt chẽ giữa 2 giai cấp này hợp thành quân chủ lực của cách mạng.

Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, trí thức Việt Nam tuy số lượng không nhiều nhưng họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới” về tư tưởng của các trào lưu trên thế giới dội vào Việt Nam. Họ chính là “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp, thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước.

+ Khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân Việt Nam đã dần ý thức được trách nhiệm giai cấp và trách nhiệm dân tộc của mình, đã trở thành lực lượng tự giác, thì kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước càng trở nên chặt chẽ hơn.

- Vấn đề đặt ra là giai cấp công nhân Việt Nam ít về số lượng, lại chủ yếu là công nhân nông nghiệp, vậy, giai cấp này có thể lãnh đạo được cách mạng Việt Nam không? Hồ Chí Minh khẳng định:

+ Vai trò lãnh đạo của lực lượng cách mạng không phải do số lượng của lực lượng đó quyết định mà là do “Đặc tính” cách mạng. “Đặc tính” cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.

+ Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, thấm nhuần tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ có ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác.

+ Giai cấp công nhân Việt Nam đã xây dựng được chính đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin…Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vừa quán triệt một cách sâu sắc học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng có ý nghĩa to lớn đối với các nước có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam.

2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.- Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi

của cách mạng Việt Nam. Đưa ra quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã dựa trên các cơ sở sau:

+ Trước khi Đảng ta ra đời, ỏ Việt Nam đã có nhiều chính đảng, nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra ở khắp nơi, song đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một chính đảng có bản chất cách mạng triệt để, thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn.

Page 47: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh đó chỉ có được khi quần chúng nhân dân được tổ chức lại, và có một chính đảng với đường lối đúng đắn lãnh đạo.

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người khẳng định cách mạng “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (T2, Tr.267)

Người còn giải thích rõ hơn: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.

Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.

Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”. (T7, Tr. 228-229)

+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay chứng tỏ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là đội ngũ tiên phong là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là lực lượng duy nhất có khả năng lôi kéo, tập hợp các tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng. Cách mạng Việt Nam luôn cần có Đảng dẫn đường.

- Ngày nay, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đang tìm mọi cách để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhiều luận điệu khác nhau…họ coi cần phải đa nguyên, đa đảng, thì mới là dân chủ. Thực tế thì thế nào?

Các lực lượng chính trị khác ở Việt Nam, qua hoạt động thực tiễn đã chứng tỏ họ không có khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc giải phóng người lao động, có chăng chỉ là sự “giải phóng’’ chính bản thân họ, mà cũng là sự giải phóng dựa trên đau khổ của các giai cấp cần lao.

Đúng là một Đảng trưởng thành trong chiến tranh giải phóng dân tộc, đảng đó còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong xây dựng kinh tế, và tất nhiên không thể tránh khỏi sai lầm trong quá trình lãnh đạo đất nước. Vấn đề là ở chỗ, trong quá trình lãnh đạo đất nước, đảng đó hành động vì lợi ích của ai, đem lại lợi ích cho ai và trước những sai lầm, yếu kém, thái độ sữa chữa sai lầm của đảng đó như thế nào.

Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, ngoài ra Đảng không có mục đích nào khác. Trước những sai lầm, Đảng đều phát hiện sớm và kịp thời sửa chữa với một thái độ kiên quyết nhất. Nhờ vậy, cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay liên tục phát triển.

3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Page 48: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đảng là đảng của một giai cấp. Đây là vấn đề không cần bàn cãi. Cách hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cực đoan, tuyệt đối hóa mệnh đề “đảng của dân tộc’’, của “nhân dân lao động’’ để rồi từ đó đi tới xóa nhòa bản chất giai cấp công nhân của Đảng là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời trái với thực tế nói chung.

- Hồ Chí Minh luôn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đội tiền phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện:

+ Trong tất cả các văn kiện, các bài nói và viết của Người về Đảng. + Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng hoàn toàn quán triệt các nguyên

tắc xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới của Lênin cả về cách gọi lẫn nội dung.

+ Nội dung các vấn đề cơ bản của Đảng (thành phần, mục đích, cơ sở lý luận, tổ chức, luật phát triển Đảng), mà Hồ Chí Minh nêu lên cũng thể hiện rõ tính chất giai cấp công nhân của Đảng.

- Do lợi ích của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam chỉ có thể được đảm bảo khi toàn thể dân tộc đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, nên Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động và dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam” (T6, 175)

- Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của chính mình. Trong thành phần của Đảng, ngoài giai cấp công nhân, còn có những người ưu tú nhất trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần xã hội khác.

Chính vì vậy, khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bao giờ Hồ Chí Minh cũng gắn với nhiệm vụ để đạt mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng" (T5, 249).

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.- Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền cách mạng. Vị trí

của Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, của dân tộc. Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo...

Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí

Page 49: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. (T12, 510)

- Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng cầm quyền, dân là chủ phải thường xuyên chăm lo củng cố mối liên hệ máu thịt với nhân dân.

Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo cách mạng cốt để thiết lập quyền làm chủ của nhân dân. Trái với nguyên tắc đó, đảng sẽ thoái hóa biến chất, cán bộ đảng viên của Đảng sẽ trở thành những “ông quan cách mạng” đối lập với nhân dân.

Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng một cơ chế “Đảng cầm quyền” mà cốt lõi của cơ chế này là thiết lập mối quan hệ đúng đắn: Đảng – Nhà nước – nhân dân. Trong đó:

Đảng phải trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân.

Xác định “là người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn bộ xã hội; đối tượng lãnh đạo là toàn thể nhân dân nhằm đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải lãnh đạo nhân dân bằng giáo dục, thuyết phục, không quan liêu, mệnh lệnh, gò ép nhân dân, phải tổ chức, đoàn kết nhân dân lại thành một khối thống nhất. Chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải được đảm bảo trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải chăm lo đến đời sống nhân dân từ việc lớn đến việc nhỏ.

Với tư cách người lãnh đạo cũng bao hàm cả trách nhiệm “người đầy tớ” của dân. Song làm “đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ hay theo đuôi quần chúng mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân, nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phải phụng sự cho ra trò, nghĩa là việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh” (T6, tr. 88)

Nhà nước phải thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, cán bộ công chức nhà nước là công bộc của nhân dân.

Dân là chủ mọi quyền hành và lực lượng là ở dân. Hồ Chí Minh: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch,

Bộ trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng” (T8,375)

Dân muốn là chủ phải hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phải chịu khó học hỏi để có kiến thức tham gia làm chủ, phải dũng cảm cùng với Đảng và Nhà nước đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Người nói: “Quan tham là vì dân dại” và yêu cầu để quan bớt tham, dân phải bớt dại đi.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SẠCH VỮNG MẠNH.

1. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới – Quy luật của xây dựng Đảng.

Page 50: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Khi viết và nói về vấn đề này, người ta thường sử dụng các cụm từ “việc chính’’, “việc cần kíp’’, “việc phải làm ngay’’, “trước tiên’’, “trước hết’’... Lập luận về tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Thứ nhất, những khuyết điểm, thiếu sót trong Đảng là việc bình thường. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế mà là một công việc thường xuyên.

Người quan niệm, Đảng là một bộ phận của xã hội, nên những thiếu sót, khuyết điểm của xã hội đều ít nhiều thể hiện trong Đảng, hơn nữa những thiếu sót trong Đảng còn là những thiếu sót của những người đi tiên phong khai phá.

Trong các trường hợp sau đây thì chỉnh đốn Đảng mang tính cấp bách: 1. Khi Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm hoặc gặp khó khăn, chỉnh đốn Đảng giúp cán bộ đảng viên củng cố lập trường, quan điểm, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan dao động. 2. Khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng giúp Đảng xây dựng những quan điểm tư tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngùa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và bệnh “kiêu ngạo cộng sản’’. 3. Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, chỉnh đốn Đảng giúp Đảng nâng cao tầm lãnh đạo cả về chính trị, chuyên môn đảm bảo cho Đảng luôn giữ được vai trò tiên phong.

Thứ hai, xây dựng chỉnh đốn Đảng được chế định bởi sự phát triển không ngừng của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những yêu cầu riêng, do đó Đảng phải tự chỉnh đốn để vươn lên đáp ứng yêu cầu của giai cấp, của dân tộc.

Thứ ba, xây dựng chỉnh đốn Đảng là cơ hội để cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, tu dưỡng tốt hơn để có thể hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

- Mục đích chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò tiên phong của giai cấp, của dân tộc.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉnh đốn Đảng là: “Để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ xứng đáng là người đày tớ của nhân dân” (T7, tr.200), “Để làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn trách nhiệm Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Vì vậy, ngoài nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ, Đảng cần phải đưa ra khỏi đảng các phần tử thoái hóa biến chất.

- Quy trình chỉnh đốn Đảng là phải làm từ cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ, chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức, phải làm từng bước, có trọng tâm, kế hoạch phải rõ ràng, chu đáo.

2. Nội dung công tác xây dựng Đảng.a. Xây dựng Đảng về tư tưởng - lý luận.

- Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng thì phải có đảng, đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất trong thời đại hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tư tưởng này ở Hồ Chí Minh được thể hiện từ rất sớm. Trong cuốn đường cách mệnh, Người viết: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai

Page 51: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” và Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin’’ (T2, 268)

Chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh khẳng định là học thuyết khoa học và cách mạng bởi vì nó chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận, là kim chỉ nam cho giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ đứng lên làm cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

- Khi khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, Hồ Chí Minh yêu cầu:

+ Việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với đối tượng.

+ Khi vận dụng phải sáng tạo, tránh giáo điều, đồng thời cũng phải tránh xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh chống các khuynh hướng cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và các tư tưởng phản động khác.

+ Đảng cần chú ý tổng kết kinh nghiệm của các đảng cộng sản các nước anh em và thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin.

+ Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

b. Xây dựng Đảng về chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị bao gồm xây

dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện các nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị…trong đó xây dựng đường lối chính trị là vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng.

Đảng thể hiện vai trò của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn. Cương lĩnh, đường lối phải được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng nó vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam; phải thường xuyên học tập kinh nghiệm các đảng cộng sản anh em. Có đường lối chính trị đúng, chưa đủ, Đảng còn phải là đội tiên phong thực sự dũng cảm và là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

c. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, cán bộ.- Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ

thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ có tính kỷ luật cao, trong đó chi bộ đảng là tổ chức hạt nhân quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, gắn kết Đảng với quần chúng nhân dân.

Tất cả các nguyên tắc về xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin đều được Hồ Chí Minh quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Page 52: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản và quan trọng nhất của Đảng. nhằm làm cho “Đảng tuy đông người nhưng tiến hành chỉ như một người”.

Với Hồ Chí Minh, tập trung có nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phục tùng vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Dân chủ nghĩa là mọi người được tự do trình bày ý kiến của mình, tranh luận với các ý kiến của người khác. Hồ Chí Minh quan niệm, “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân’’ (T8, tr.279), vì vậy “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt’’ (T10, tr.118).

Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải tránh dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, tập trung quan liêu, hay mọi biểu hiện xa rời nguyên tắc này. Cần chú ý rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số đảng cộng sản trên thế giói rơi vào khủng hoảng thời gian vừa qua cũng là do xa rời nguyên tắc này.

+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.Cần phải có tập thể lãnh đạo vì, theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi

cũng không thấy và cũng không thể xem xét tất cả các mặt của vấn đề, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt khác, góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì thấy rõ tất cả các mặt của vấn đề. Hồ Chí Minh kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc’’ (T5, tr.504).

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau. Cần phải có cá nhân phụ trách vì sau khi đã bàn bạc kỹ rồi thì phải giao cho một hoặc một số ít người phụ trách, tránh tình trạng đùn đẩy và kết quả là không ai làm. Để tránh họp hành tràn lan, Hồ Chí Minh yêu cầu đối với những việc bình thường một người cũng có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cần phải tự quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Hồ Chí Minh thường sử dụng 2 câu thành ngũ: “Khôn bày hơn khôn độc” và “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” để nói về vấn đề này)

+ Phê và tự phê bìnhPhải thực hiện nguyên tắc này vì “mọi người đều có thiện - ác ở trong lòng”,

“không ai tránh khỏi khuyết điểm”, nên “Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”.

Người viết: “Mỗi người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.

Mục đích của phê và tự phê bình là để tăng cường tình đoàn kết trong Đảng và giúp nhau cùng tến bộ.

“Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. (T5, tr.232)

Thái độ phê và tự phê bình phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết và có văn hóa.

Page 53: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nếu không thực hiện kiên quyết trong phê và tự phê bình thì “Cũng giống như giấu giếm tật bệnh trong người, không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng”.

+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng.- Cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Người

coi cán bộ là “Cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Có chính quyền nhà nước, Đảng có một công cụ hết sức sắc bén để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Tuy nhiên, các cán bộ của Đảng dễ dẫn đến hiện tượng lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham ô, hối lộ, hách dịch, ức hiếp quần chúng, khiến nhân dân oán ghét. Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ ra những tiêu chuẩn và yêu cầu đội ngũ cán bộ phải rèn luyện theo các tiêu chuẩn đó:

1. Có đạo đức cách mạng. 2. Tuyệt đối trung thành với Đảng. 3. Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, 4. Có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi. 5. Luôn học hỏi cả về lý luận Mác - Lênin lẫn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 6. Có tác phong công tác tốt, chống chủ quan, quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương, không chịu xuống địa phương

Công tác cán bộ cần: 1.Hiểu và đánh giá đúng cán bộ. 2. Phải khéo dùng cán bộ. Người dạy: “Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, ta phải dùng chõ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”. 3. Biết kết hợp dùng cán bộ trẻ với cán bộ già. 4. Phải chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài, có gan cất nhắc cán bộ. 5. Phải chống bệnh địa phương, cục bộ, phe phái, cánh hẩu, họ hàng trong chính sách cán bộ.

d. Xây dựng Đảng về đạo đức. Xét về bản chất đạo đức mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương

xây dựng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân có nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh có đạo đức trong sáng, Đảng mới lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.

Hồ Chí Minh yêu cầu việc giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên phải gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức làm cho Đảng luôn trong sạch.

Tóm lại, hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu đó là những tiền đề quan trọng để dân tộc Việt Nam có thể đi đến tự do, hạnh phúc. Để thực hiện hoài bão của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đồng thời cũng là hoài bão chung của dân tộc ta, thì điều kiện quan trọng nhất là Đảng phải giữ vững

Page 54: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

quyền lãnh đạo, phải thường xuyên tự chỉnh đốn nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, đưa sự nghiệp đổi mới đến toàn thắng.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản đảm bảo cho việc xây dựng Đảng ta thực sự là một đảng mácxít - lêninnít chân chính. Việc xây dựng Đảng cần chú ý cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức:

Về chính trị, trên cơ sở kiên định mục tiêu lâu dài, Đảng cần vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, có bản lĩnh vững vàng trong mọi tình huống nhằm tập hợp được lực lượng của toàn dân, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Về tư tưởng, luôn khẳng định tư tưởng cách mạng triệt để, cách mạng tiến công, đề phòng và khắc phục những lệch lạc, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Lấy thực tiễn cách mạng Việt Nam làm mục tiêu để vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đồng thời làm giàu trí thuệ của mình bằng việc kế thừa các quan điểm truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Về tổ chức, xây dựng Đảng thành một tổ chức trong sạch vững mạnh, chiến đấu kiên cường; một tổ chức với đội ngũ cán bộ, đảng viên coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, cần kiệm, liêm chính chí công vô tư, nâng cao năng lực, gắn bó máu thịt với quần chúng, dám xả thân vì sự nghiệp cách mạng.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích và làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về sự ra đời của ĐCS VN; về vai trò của Đảng trong tiến trình cách mạng?

2. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam?

3. Cho biết quan niệm của HCM về bản chất của Đảng cộng sản VN thể hiện tính sáng tạo ở điểm nào? Ý nghĩa của sự sáng tạo đó đối với cách mạng VN?

4. Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh khẳng định Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn?

5. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm đối với Đảng cầm quyền làm “lãnh đạo” và làm “đầy tớ” thống nhất với nhau theo tinh thần “lãnh đạo tốt là đầy tớ tốt”?

6. Vì sao HCM khẳng định trong mối quan hệ với dân, Đảng phải lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, nhưng không được “theo đuôi quần chúng”

7. Tại sao theo tư tưởng HCM, trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc chỉnh đốn Đảng cần phải được làm thường xuyên và càng có ý nghĩa quan trọng?

8. Vì sao HCM khẳng định ĐCS VN phải lấy chủ nghĩa M - Lênin làm cốt?9. Vì sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyễn tắc tập trung dân chủ được

coi là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản? 10. Vì sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây dựng Đảng, “Tập thể lãnh

đạo phải đi đôi với cá nhân phụ trách”11. Vì sao trong xây dựng Đảng, HCM chủ trương: Toàn Đảng phải ra sức

giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như “giữ gìn con người của mắt mình”?

Page 55: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

12. Ví sao trong xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: kỷ luật nghiêm minh thuộc về tổ chức Đảng, kỷ luật tự giác thuộc về đảng viên”?

13. Vì sao đối với “nguyên tắc phê bình và tự phê bình”, Hồ Chí Minh chủ trương phải đặt tự phê bình lên trên, lên trước phê bình”?

14. Tại sao HCM quan niệm công tác cán bộ là “công tác gốc” của Đảng?15. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm: giáo dục đạo đức cách mạng là nội

dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng?

Chương VTƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, V Ề KẾT

HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI (4)

Mục đích yêu cầu. - Giúp người học nắm vững cơ sở khoa học, những nội dung cơ bản của tư

tưởng đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Thấy được vai trò, vị trí và các yêu cầu cụ thể của việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.

- Trên cơ sở đó đóng góp sức mình xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.

Tài liệu tham khảo.1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2003.2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng

Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.4. Văn tạo, Phát huy sức mạnh của liên minh công nhân, nông dân, trí

thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghiên cứu lịch sử, số 10, 2005.

5. Vũ Quang Vinh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản, Lý luận chính trị, số 7, 2005.

6. Đặng Văn Thái, Vấn đề đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

Nội dung

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.

1. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Page 56: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, trước hết là tư tưởng của bản thân Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của các thế hệ đi trước và thực tiễn phong trào cách mạng trên thế giới.

- Hồ Chí Minh đã kế thừa tri thức lý luận của các thế hệ đi trước:+ Các giá trị nhân văn, tính cố kết cộng đồng trong truyền thống yêu nước

của dân tộc Việt Nam. + Những giá trị tư tưởng ở phương Đông và phương Tây. Tư tưởng “đại đồng” trong Nho giáo và Phật giáo.Thuyết “Tam dân” của Tôn Dật Tiên, lòng thương dân của H. Ganđi.Các trào lưu dân chủ, tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của phương Tây. + Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng đại

đoàn kết Hồ Chí Minh là các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo chân

chính ra lịch sử; liên minh công - nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; các khẩu hiêu. “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại", “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"...

Tóm lại, từ truyền thống đoàn kết của dân tộc, tiếp thu tư tưởng nhân loại, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức đúng các giá trị trong truyền thống đân tộc, các giá trị của tư tưởng phương Đông và phương Tây, cùng những hạn chế của nó, đồng thời nâng tư tưởng đại đoàn kết lên một tầm cao mới: đại đoàn kết vừa là mục tiêu vừa là động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam.

- Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là sự đúc kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.

+ Ở trong nước, Hồ Chí Minh quan tâm nghiên cứu nguyên nhân thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta và một trong những kết luận mà Người rút ra về nguyên nhân thất bại là do thiếu một chiến lược tập hợp lực lượng đúng đắn.

Mặc dù không trực tiếp lãnh đạo phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, song từ thất bại của phong trào, Hồ Chí Minh cũng đã rút ra nhiều bài học từ phong trào này, trong đó có bài học về chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

+ Những thành công và cả thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của H.Ganđi, N.Ganđi và hàng loạt phong trào đấu tranh của nhân dân các nước khác đã cung cấp cho Hồ Chí Minh nhiều bài học quý về xây dựng khối đại đoàn kết.

2. Khái niệm, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. a. Khái niệm đại đoàn kết Hồ Chí Minh.

- Vị trí của vấn đề đại đoàn kết trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong 12 tập của Hồ Chí Minh toàn tập, thì có đến 839 bài Hồ Chí Minh đề

cập đến vấn đề đại đoàn kết (chiếm tỷ lệ 43,6%). Trong các bài đó, Bác đã 1809

Page 57: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

lần nhắc đến cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”, có bài, cụm từ này được nhắc đến 16 lần (Sửa đổi lề lối làm việc), trong Diễn văn kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9/1957, Người nhắc đến 19 lần... Điều này chứng tỏ vấn đề tập hợp, tổ chức lực lượng, đoàn kết, đại đoàn kết là một vấn đề hết sức nổi bật, trọng tâm trong suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh.

- Khái niệm đoàn kết, nhìn chung, được sử dụng tương đối thống nhất trong các tài liệu ở trong nước và trên thế giới. Đoàn kết được hiểu là sự thống nhất ý chí, hành động của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm thực hiện một mục tiêu xác định.

- Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù có ngoại diên rất rộng bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều quan hệ trên - dưới, trong - ngoài..., ta có thể tiếp cận phạm trù đại đoàn kết từ nhiều góc độ:

+ Về cơ cấu xã hội: đoàn kết các giới, các ngành nghề, các thành phần xã hội, các lứa tuổi...

+ Về địa bàn: đoàn kết nông thôn - thành thị, miền ngược - miền xuôi, trong nước - ngoài nước.. .

+ Về phạm vi: đoàn kết trong gia đình, tập thể, cộng đồng, xã hội, khu vực - quốc tế.. .

Có thể nhận định khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh: đại đoàn kết là một hệ thống các luận điểm, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Có thể diễn đạt gọn hơn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tư tưởng xây dựng, củng cố, tăng cường, mở rộng lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người

- Trên cơ sở quan điểm đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đi sâu lý giải hàng loạt các vấn đề lý luận như vì sao phải đoàn kết, làm thế nào để đoàn kết, điều kiện thực hiện đoàn kết thành công...

+ Phải thực hiện đoàn kết vì đoàn kết là sức mạnh, là lực lượng và hơn thế, đoàn kết còn là nhu cầu nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân dân.

+ Để xây dựng thành công khối đại đoàn kết cần phải tìm ra điểm tương đồng, thống nhất và dùng điểm tương đồng thống nhất để chế ngự sự khác biệt.

+ Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết là phải phân biệt rõ bạn và thù. Với quan điểm “đoàn kết là lực lượng”, Hồ Chí Minh đã nâng vấn đề đại đoàn kết trở thành một vấn đề chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ: Đoàn kết càng chặt chẽ, càng rộng khắp thì thành công càng to lớn. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

b. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. - Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành

công của cách mạng.

Page 58: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị, cũng không đơn thuần là một phương pháp tập hợp lực lượng, mà mục tiêu của đoàn kết còn là đoàn kết. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.

Để quy tụ mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, phải xử lý hàng loạt các mối quan hệ gia đình - xã hội, cá nhân - tập thể, bộ phận - toàn cục, dân tộc - quốc tế. Trong các mối quan hệ này, bao giờ cũng có những mối quan hệ đồng thuận - phi đồng thuận. Muốn xử lý hài hòa các quan hệ lợi ích, cần phải tìm kiếm, chân trọng, phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất và dùng các yếu tố đó để chế ước, giải quyết sự khác biệt. Muốn vậy cần:

Thứ nhất, coi “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Với việc xác định lợi ích: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

thổ là lợi ích tối cao của toàn dân tộc, là mẫu số chung của mọi người Việt Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã khơi dậy niềm tự hào trong mỗi con người Việt Nam từ đó tạo dựng được ngọn cờ đoàn kết dân tộc và đây chính là cái bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời cũng là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam.

Muốn giải quyết đúng các mối quan hệ lợi ích thì theo Hồ Chí Minh cốt lõi là phải giải quyết đúng quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo, lợi ích giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp, đại diện cho lợi ích chung nhất của các giai cấp.

Thứ hai, “Tất cả vì con người, cho con người” Những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động được kết tinh trong phạm

trù độc lập tự do, ấm no hạnh phúc. Những quyền lợi đó ở mỗi thời kỳ của lịch sử đều có những biểu hiện khác nhau. Hồ Chí Minh yêu cầu phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của cách mạng để đề ra những nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của quảng đại quần chúng nhân dân lao động.

Với Hồ Chí Minh độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân là chìa khóa để giải quyết tất cả các quan hệ phức tạp. Trên cơ sở hai nguyên tắc này, với phương châm “Cầu đồng, tồn dị”, Hồ Chí Minh đã xử lý hết sức thành công quan hệ giữa các lực lượng trong xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và quốc tế:Đối tượng thực hiện đoàn kết quốc tế là các lực lượng của phong trào cộng

sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, phong trào hòa bình và tiến bộ trên thế giới.

Việc xử lý quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trước hết phải nhằm mục tiêu độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời góp phần vào bước tiến chung của cách mạng thế giới.

Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực hiện đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh giải quyết các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Nhiều lần Người nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” (T7,

Page 59: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tr.392), “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta” (T7, tr.397), “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (T11, tr.22), và “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt” (T11, tr.154)…

Khẳng định vai trò của việc thực hiện khối đoàn kết dân tộc trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đoàn kết trong Mặt trân Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc” (T10, tr.604)

- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong buổi ra mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” (T6, tr. 183).

Người yêu cầu phải quán triệt nguyên tắc tin dân, dựa vào dân trong mọi suy nghĩ và hành động của Đảng, của công chức nhà nước. Với Hồ Chí Minh, tin dân, dựa vào dân nghĩa là:

Thứ nhất, coi dân là gốc, là nền tảng của đại đoàn kết. Thứ hai, dân là chủ thể của đại đoàn kết . Thứ ba, dân là nguồn gốc sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thứ tư, dân là chỗ dựa vững chắc của đảng cộng sản, của cả hệ thống chính trị.

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công phải có thực lực, thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám, và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truền huấn luyện là: Một là đoàn kết, Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà” (T11, tr.130)

Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và tinh thần hợp tác. Đảng cộng sản phải có nhiệm vụ thức tỉnh, chuyển các nhu cầu tự phát thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực được tổ chức trong khối đoàn kết tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ của công cuộc giải phóng.

3. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc.

Page 60: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm mọi người Việt

Nam, là “con dân của nước Việt”, là “mỗi một con Rồng cháu Tiên”, là không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giầu, nghèo, quý, tiện”, trong đó đông đảo nhất là công nhân và nông dân.

Nói tới đại đoàn kết dân tộc là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.

Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp – dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phụng sự Tổ quốc. Muốn vậy phải lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng, tập hợp rộng rãi mọi tổ chức và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.

+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có sự lãnh đạo dựa trên một cơ sở lý luận khoa học

Người chỉ rõ đại đoàn kết không đơn thuần là vấn đề tình cảm “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Trên cơ sở tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trên cơ sở đó, tuyên truyền, giáo dục quần chúng, biến sức mạnh tự phát của quần chúng thành sức mạnh tự giác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; giúp Hồ Chí Minh hình thành, phát triển tư tưởng đại đoàn kết theo lập trường giai cấp vô sản.

+ Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phạm vi rộng lớn, nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ. Trên phạm vi dân tộc, hình thức tổ chức đoàn kết là Mặt trận dân tộc thống nhất.

Có thể thấy rằng Mặt trận do Hồ Chí Minh sáng lập có tổ chức khoa học, chặt chẽ thống nhất từ Trung ương đến cơ sở đã đoàn kết được các tổ chức, đoàn thể, cá nhân yêu nước vào trong một tổ chức thống nhất tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc mà “không một sức mạnh nào có thể thắng nổi”.

Hội phản đế Đông Dương đã được thành lập thúc đẩy phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Sau đó căn cứ nhiệm vụ cụ thể từng thời kỳ mà Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (1939-1941), và ngày 19/5/1941 Việt Nam độc lập đồng minh đã lần lượt ra đời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.

+ Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.

Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm trên chính là ở chỗ công nhân và nông dân là hai lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất ở nước ta. Tầng lớp trí thức Việt Nam cũng rất yêu nước, trung thành với dân tộc và Tổ quốc cùng

Page 61: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

chịu cảnh mất nước, làm nô lệ, cùng có một nguyện vọng chung là độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.

+ Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh công, nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một mặt nào.

Tuyệt đôi hóa vai trò của công nông và trí thức hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi; ngược lại hạ thấp vai trò của lên minh công nông và trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên tắc, vô chính phủ.

Thực tiễn chỉ ra rằng Mặt trận càng rộng rãi bao nhiêu thì sức mạnh của liên minh công nông và trí thức càng to lớn bấy nhiêu và ngược lại khi liên minh công nông và trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận càng vững chắc, càng có sức mạnh.

+ Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận bình đẳng, mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc

Để làm tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng phải phấn đấu xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện xứng đáng cho lợi ích của dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, hướng dẫn cả dân tộc đấu tranh vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động. Mặt khác, Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông và trí thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong xã hội.

- Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người

+ Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan dung rộng lớn trước tính đa dạng của con người.

Hồ Chí Minh nhìn con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội, trong tính cách, khát vọng, phẩm chất và khả năng... Theo Người mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người đều có ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu, mặt được, mặt chưa được... nhưng tấm lòng của Người bao dung tất cả.

Người từng viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn, cũng như cái chén cái đĩa cạn” (T5, 644).

Với độ lượng sâu như biển rộng, Hồ Chí Minh đã tập hợp quanh mình và phát huy tác dụng của cả những vị vốn là đại thần của Nam triều cũ, dung nạp cả cựu hoàng Bảo Đaị, kẻ đã từng kết án tử hình Người.

Đối với những cán bộ, đảng viên có lỗi, Người mong muốn và tạo điều kiện sửa chữa lỗi lầm, Người nâng nưu mặt tốt, mặt thiện trong con người, lấy đó làm biện pháp giúp đỡ con người,

Có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, khả năng vươn lên chân, thiện, mỹ của con người, dù nhất thời họ còn thấp bé lầm lạc

+ Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần phải có lòng tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào nhân dân, sống, đấu tranh vì

Page 62: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Người.

4. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc. a. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.

- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng: “Hội ái hữu”, “công hội”, “nông hội”, “Phật giáo cứu quốc”, “Công giáo yêu nước”…Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.

- Tuỳ tình hình cụ thể, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có những nét khác nhau, tên gọi khác nhau: “Hội phản đế đồng minh (1930), “Mặt trận dân chủ” (1936), “Mặt trận Việt Minh” (1941), “Mặt trận Liên Việt” (1946) “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” (1960), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (1955, 1976)- song thực chất chỉ là một: Đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ tất cả các đảng phái, giai cấp tầng lớp, cá nhân yêu nước phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

b. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất

Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau:

Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng của khối liên minh công - nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công

nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” (T10, tr.18). Hồ Chí Minh giải thích: “Vì họ là người sản xuất tất cả mọi tài phú làm làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí

cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”. (T8, tr.214)Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh

công nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, thì sức mạnh của khối liên minh công nông trí thức càng được tăng cường, ngược lại, liên minh công nông trí thức càng được tăng cường thì sức mạnh Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc.

Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn thể dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển khi được Đảng lãnh đạo và đây cũng là một

Page 63: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

vấn đề mang tính nguyên tắc vì vậy mà phải đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng đảng, làm cho Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh; Đảng phải thực sự là đảng của trí tuệ, dân chủ, cách mạng, thống nhất; xây dựng một Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mỗi chủ trương, chính sách của Nhà nước có thể gắn kết toàn dân thành một khối và cũng có thể làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân. Người thường xuyên giáo dục và yêu cầu đội ngũ công chức nhà nước phải trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân.

Người xác định Đảng lãnh đạo Mặt trận, nhưng Đảng không thể lãnh đạo Mặt trận bằng mệnh lệnh, mà phải dùng phương pháp giáo dục, vận động, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, khêu gợi tính tự giác, tự nguyện.

Hai là, Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.

Ngay từ 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã khẳng định chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận. Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, trong đó độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc bất di bất dịch, là mẫu số chung để quy tụ tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào trong Mặt trận.

Ba là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.

Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả các vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên bàn bạc công khai để đi đến nhất trí. Đảng là người lãnh đạo Mặt trận nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận, do vậy tất cả mọi chủ trương chính sách của Đảng phải được trình bày trước Mặt trận để các thành viên khác cùng bàn bạc dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động.

Để thực hiện nguyên tắc này, Đảng cần đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp và dân tộc, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, song phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.

Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

II. TƯ TƯỞNG HCM VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI1. Nhận thức của HCM về sức mạnh dt và sức mạnh thời đại.

- Một số vấn đề về thời đại+ Thời đại HCM bước vào hoạt động chính trị là thời kỳ diễn ra những

bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử loài người về tất cả các mặt kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội... Đáng chú ý là các đặc điểm sau:

Page 64: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ nhất, cntb chuyển sang giai đoạn CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa CNĐQ và các dt thuộc địa ngày càng gay gắt.

Thứ hai, thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga mở đầu thời đại mới..., đồng thời tạo ra mâu thuẫn giữa cnxh với cntb. Ý nghĩa của cuộc cách mạng này theo HCM là: “Mở ra con đường giải phóng cho các DT và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới” (T10, 1989, 594 ).

Thứ ba, sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau ngày càng trở nên gay gắt hơn

Thứ tư, sự bóc lột của cntb làm cho mâu thuẫn giữa gcts với gccn, nhân dân lao động trong các nước tbcn ngày càng phát triển.

Thứ năm, sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo nên những thay đổi có tính cách mạng trên nhiều lĩnh vực + Cho đến nay thời đại mới đã trải qua 4 thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất (từ 1917-1945): cách mạng XHCN thắng lợi ở một nước, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới.

Thời kỳ thứ hai (1945- đầu những năm 70): thời kỳ hình thành và phát triển hệ thống các nước XHCN, sự thắng lợi của phong trào giải phóng DT và sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.

Thời kỳ thứ ba (từ cuối những năm 70 - cuối những năm 80): Cộng đồng các nước XHCN rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng; sự tấn công của các thế lực thù địch và phản bội đã làm tan vỡ CNXH ở Đông Âu và Liên xô (1990-1991).

Thời kỳ hiện nay (đầu những năm 90): Thời kỳ thoái trào của CNXH thế giới, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa MLN và CNXH đích thực.

- Sức mạnh của DT Theo HCM, sức mạnh của DT ta được thể hiện ở những điểm chính sau:+ Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường là cốt lõi của sức sống của

DTVN . Chính tinh thần này đã khiến DT ta không thể bị tiêu diệt trước chính sách

đồng hóa của phương Bắc và ách đô hộ thực dân phương Tây, mà “vẫn sống, sống mãi mãi” (T1, 28), bọn thực dân Pháp dù “đầu độc có hệ thống” cũng “Không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng” (T1, 28) của NDVN, và người Đông Dương “Giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến) (T1, 28)

Một sỹ quan Pháp tham gia chiến tranh xâm lược VN lúc bấy giờ đã thú nhận: “Chúng ta không biết rằng VN là một DT kiên cường, gắn bó với lịch sử riêng của mình, với những thể chế riêng của mình và thiết tha với nền độc lập riêng của mình; chúng ta không biết rằng VN chưa bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Tình trạng chúng ta rất đỗi khủng khiếp và chúng ta phải đương đầu với một DT thống nhất, mà ý thức DT của họ không hề bị suy yếu” (fer linand, erreurs et danger, Paris, 1901, p.11 (Trích theo, Phan Ngọc Liên: Tư tưởng HCM về kết hợp sức mạnh cuả DT với sức mạnh thời đại, Nxb CTQG, HN, 1999).

Mắcnamara: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại năng lượng nguyên tử; thời đại phản

Page 65: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

lực; thời đại điều khiển học; thời đại chinh phục vũ trụ; thời đại thông tin hóa... Dù đặt tên cho thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và người VN đều không có, sức mạnh duy nhất của họ là sức mạnh của con người”. (dugla Rannut, Làn gió mát từ thành phố HCM, Tenbo, 1975, tr.43). Chính M.c Namara đã tổng kết “11 nguyên nhân chính gây ra thảm họa cho Mỹ ở VN”, bài học thứ ba được Ông viết: “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa DT thúc đẩy một DT đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó, chúng ta vẫn tiếp tục đánh giá thấp chủ nghĩa DT ở nhiều nơi trên thế giới” (M.c Namara, Nhìn lại quá khứ. Tấm thảm kịch và những bài học về VN, Nxb CTQG, HN, 1995, 316). + Chủ nghĩa yêu nước được coi là sức mạnh nổi bật là hạt nhân của truyền thống DTVN.

HCM viết về sức mạnh của CNYN: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6, 171).

+ HCM cũng đã sớm nhận thức được sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết và đã phát triển nó thành “chiến lược đại đoàn kết HCM” .

Tóm lại, tổng hợp các mặt sức mạnh DT, HCM đã làm nổi bật sức mạnh của con người VN. Đó là sức mạnh của thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dầy lịch sử, của sự thông minh và lòng dũng cảm...sức mạnh ấy vững bền và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN

- Sức mạnh của thời đại.+ HCM khẳng định sức mạnh của thời đại là nhân tố quyết định cho sự phát

triển hợp quy luật lịch sử của mỗi DT. + Sức mạnh của phong trào cách mạng ở thuộc địa và phong trào cách

mạng chính quốc nhằm tấn công CNĐQ trên cả hai mặt trận+ Sức mạnh của hệ thống xhcn, HCM khẳng định hệ thống này cùng với

cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra trên thế giới chính là những nhân tố làm nên sức mạnh của thời đại

- Phát huy sức mạnh của thời đại, với HCM là phải biết huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng trên thế giới, các nhân tố tích cực của thời đại phục vụ cho sự phát triển của dt.2. Nội dung tư tưởng HCM về kết mạnh sức mạnh dt với sức mạnh của thời đại.

- Nguyên tắc chung của sự kết hợp sức mạnh DT với sức mạnh thời đại+ Những người bị áp bức ở tất cả các nước phải nhận thức được “đâu là

những người anh em thật sự và đâu là kẻ thù của họ” (T1, 200). + Phải nhìn nhận xu thế phát triển của thời đại trong trạng thái vận động,

phát triển không ngừng của nó, để từ đó tiên đoán triển vọng tình hình, vạch ra đường lối, chủ trương đấu tranh thích hợp

Trong thực tế, HCM có nhiều dự đoán thiên tài: dự đoán về sự thất bại của chủ nghĩa Phát xít và sự thắng lợi của CMVN năm 1945, dự báo về trận quyết chiến chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước...

Page 66: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đồng chí Trường Chinh đã viết: “Thế giới quan của chủ nghĩa MLN và kinh nghiệm đấu tranh lâu năm đã làm cho Người có khả năng tiên đoán trước thời cuộc, mau lẹ nhận ra những bước ngoặt của lịch sử và đề ra những khẩu hiệu thích hợp nhằm xoay chuyển tình hình” (Trường Chinh: HCM, lãnh tụ kính yêu của GCCN và DT VN, Nxb Sự thật, HN, 1965, 56).

Nguyên tắc nhận thức về thời đại của HCM là cơ sở phương pháp luận cho việc kết hợp sức mạnh DT với sức mạnh của thời đại. Cụ thể:

Thứ nhất, để hành động đúng, có hiệu quả phải nhận thức thời đại một cách khoa học, biện chứng, khắc phục tư tưởng chủ quan duy ý chí

Thứ hai, nhất quán trong mục tiêu, linh hoạt trong việc kết hợp các lực lượng để đấu tranh thực hiện mục tiêu đề ra.

Thứ ba, biết sắp xếp lực lượng cho phù hợp với mục tiêu đấu tranh và tình hình cụ thể của cách mạng.

- Đặt cách mạng VN trong tình hình nhiệm vụ chung của cách mạng thế giới và sự tác động qua lại giữa chúng

+ HCM xác định CMVN nằm trong phạm trù CMVS, tức là thực hiện giải phóng DT và đưa đất nước đi lên CNXH, góp phần cùng cách mạng thế giới đánh đổ CNTB, vì vậy, vấn đề DT phải gắn liền với vấn đề GC; cách mạng giải phóng DT phải gắn liền với CMVS; vấn đề thuộc địa là vấn đề quốc tế.

+ Người chỉ ra nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dt phương Đông là do sự biệt lập, thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.

+ Người yêu cầu phải làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với gcvs phương Tây để dọn đường cho sự hợp tác thật sự sau này nhằm bảo đảm thắng lợi cuối cùng

+ Khi gắn cách mạng DT với cách mạng thế giới, HCM vẫn nhấn mạnh những đặc điểm riêng về lịch sử - xã hội, chính trị, kinh tế của mỗi DT, những đặc điểm riêng của phương Đông và phương Tây để vạch ra chiến lược đấu tranh cho phù hợp

+ Trọng tâm của công tác giáo dục tinh thần quốc tế, trong các nước đi áp bức, là làm cho người lao động hiểu thấu đáo vấn đề các DT bị áp bức có quyền tự tách ra và lập thành các quốc gia độc lập, còn trong các nước bị áp bức thì trọng tâm là giáo dục vấn đề liên minh tự nguyện giữa các DT

- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng+ Xây dựng tình hữu nghị, hợp tác, đoàn kết DT trên cơ sở tình hữu ái VS

xuất phát từ lợi ích của chính mỗi DT, của cả phong trào cách mạng thế giới và đây cũng là sự hợp tác mang tính nhân văn cao cả nhất. “...Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái VS” (T1, 266).

+ HCM luôn cố gắng giúp cho các DT ý thức về khả năng cũng như nỗi nhục nhã, khổ đau mà DT mình phải gánh chịu, khơi dậy sự “thức tỉnh của nô lệ”, đồng thời tố cáo mạnh mẽ, mọi mặt và có hệ thống tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với các DT thuộc địa và GCVS chính quốc

Page 67: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ HCM đặc biệt chú ý xây dựng tình đoàn kết hữu nghị với ND các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Người nói: “Giúp ND nước bạn tức là mình tự giúp mình”

+ Muốn kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại phải kiên trì đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dt, chủ nghĩa Sôvanh, thực hiện đúng và bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa quốc tế VS.

Người kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa quốc tế VS, coi tinh thần đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chính là sức mạnh của các cuộc CMVS và đấu tranh giải phóng DT

Trước những bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, việc mất đoàn kết giữa các đảng, nhất là các đảng cầm quyền ở các nước XHCN trước đây, HCM đã làm hết sức mình để củng cố khố đoàn kết giữa các nước XHCN, không làm cho tình hình thêm xấu đi

Ngày 10-2-1963, Bộ chính trị trung ương Đảng ta ra tuyên bố đề nghị các đảng ngừng công kích lẫn nhau trên báo chí và đài phát thanh và họp hội nghị các đảng để khắc phục sự bất hòa. Hội nghi lần thứ 9 BCHTƯ (12-1963), nêu hai cách đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, tăng cường củng cố sự đoàn kết quốc tế trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa MLN, đó là:

“1. Tiến hành cuộc đấu tranh công khai về lý luận và tư tưởng, phân rõ đúng sai, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa MLN

2. Tổng kết kinh nghiêm thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và của từng nước, đi đến kết luận có tính lập luận, thông qua công tác đó mà phê phán những quan điểm sai lầm, đồng thời phát triển quan điểm của chủ nghĩa MLN một cách sáng tạo” (Bài nói của đồng chí Trường Chinh tại hội nghị phổ biến nghị quyết hội nghị lần thứ 9 của ban chấp hành trung ương Đảng (khóa III), lưu tại viện lịch sử Đảng Học viện chính trị quốc gia HCM). Trước khi mất, trong Di chúc, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em.

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa MLN và chủ nghĩa QTVS có lý, có tình” (T10, Nxb Sự thật, HN, 1989, 836). những lời căn dặn chí tình chí nghĩa của HCM thể hiện tấm lòng, tình cảm, trách nhiệm đồng thời là những nguyên tắc của HCM trong quan hệ giữa các đảng anh em.

+ Nội dung kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong điều kiện gcvs đã giành được chính quyền là phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.

- Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình

+ Trong quan hệ giữa sức mạnh dt và sức mạnh thời đại HCM khẳng định nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định. Xây dựng lực lượng của bản thân là để

Page 68: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

có thế và lực trong việc tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài trong cuộc đấu tranh cho độc lập DT.

Có nội lực mạnh sẽ giúp chúng ta: Giữ vững độc lập tự chủ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã

hội, hạn chế đến mức thấp nhất sự phụ thuộc vào nước ngoài.Giữ vững được định hướng chính trị trong quá trình phát triển đất nước,

tránh được sự ngả nghiêng, dao động, nhất là khi có những sức ép từ phía các đối tác

Chủ động, tỉnh táo, sáng suốt trong hoạt động quốc tế để phân định bạn - thù, không bỏ qua những cơ hội phát triển, những lực lượng cần liên hiệp, cảnh giác với những âm mưu lợi dụng danh nghĩa “giúp đỡ”, “nhân đạo”, “hữu nghị” để tiến hành các hoạt động phá hoại.

+ Gắn kết cuộc đấu tranh cho độc lập và phát triển của dt mình với bốn mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dt, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhằm tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân tiến bộ, cô lập, hạn chế và làm thất bại âm mưu mở rộng chiến tranh của các thế lực thù địch.

+ Tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Trên tinh thần "giúp bạn cũng là tự giúp mình"...

- Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị hợp tác trên tinh thần sẵn sàng "làm bạn với tất cả các nước dân chủ"

+ Ngay từ khi Nước VN dân chủ cộng hòa ra đời, HCM đã khẳng định mối quan hệ hợp tác thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới.

HCM: ''Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới". "Thái độ nước VN đôïi với những nưỡc Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè" (T5, tr.30, 136).

Năm 1949, trả lời phỏng vấn một nhà báo Mỹ về việc VN có hoan nghênh tư bản ngoại quốc không? HCM: Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở VN, với mục đích làm lợi cho cả hai bên, thì VN sẽ rất hoan nghênh, còn nếïu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế VN thì VN sẽ kiên quyết cự tuyệt

+ HCM đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với các nước láng giềng, nhất là với các nước có chung đường biên giới với VN.

Suốt gần thế kỷ không mệt mỏi, Người đã xây dựng mối quan hệ "vừa là đồng chí, vừa là anh em" với Trung Quốc. Ngay sau ngày Miền Bắc được giải phóng Người đã đi thăm, các nước xã hội chủ nghĩa, Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia, hình thành trục hữu nghị Hà Nội - Nưu Đêli - Giacácta

III. XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DT HIỆN NAY. 1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dt

- Thuận lợi:+ Thế giới đang vận động theo chiều hướng các DT trên thế giới ngày càng

xích lại gần nhau hơn, nhân loại ngày càng nhận thức sâu sắc và khao khát về một xã hội hòa bình, tiến bộ, hợp tác, cùng phát triển.

Page 69: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Khoa học phát triển vô cùng mạnh mẽ đã đặt cả thế giới trước xu thế tòan cầu hóa, góp phần làm tăng cường tình hữu nghị giữa các DT, tuy cũng chứa đựng khả năng phân hóa giữa các DT sẽ ngày càng trở nên gay gắt hơn.

+ Ở trong nước, chúng ta bước vào thế kỷ mới sau 15 năm đổi mới với những thành tựu đáng ghi nhận, vị thế của DT ta trên thế giới được nâng cao rõ nét, niềm tin của ND vào chính sách đổi mới được giữ vững và tăng cường.

- Khó khăn, thách thức:+ Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng ly tán, chia cắt cũng tồn tại. Đầu thế kỷ 20, thế giới có khoảng 90 nước, giữa thế kỷ là 160 nước, nay đã

xắp đạt 200 nước và trong tương lai số nước trên thế giới còn tiếp tục tăng lên). Xu hướng này động chạm đến hai vấn đề lớn ảnh hưởng âm ỉ, kéo dài là vấn đề sắc tộc và tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hợp lý.

+ Cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn ra dai dẳng, gay gắt, các thế lực thù địch vẫn muốn tìm mọi cách tiêu diệt cnxh tới tận gốc.

Một trong các thủ đoạn chúng quen dùng là tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân (sử dụng vấn đề sắc tộc, tôn giáo, làm lung lạc thế hệ trẻ, ...)

+ Nền kinh tế thị trường cùng với quá trình nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra nhiều vấn đề như sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, các vùng..., các hiện tượng tiêu cực trong xã hội vẫn còn là hiện tượng tương đối phổ biến.

Chiến tranh kéo dài nên những chia cắt, phân liệt diễn ra trong từng gia đình, những thiên kiến, mặc cảm về chính trị còn trong một bộ phận dân cư; sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường dẫn đến sự phân hóa, phân tầng, một bộ phận đảng viên thoái hóa biến chất, đi vào xu hướng thực dụng, cơ hội chủ nghĩa.

2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn DT trong thời kỳ mới ở nước ta.Để xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay, cần chú ý:- Mục tiêu chung: khơi dậy tinh thần tự tôn dt, quyết tâm chấn hưng đất

nước, không bỏ lỡ cơ hội, vận hội rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới

- Các nhiệm vụ cụ thể:+ Về chính trị: cần tiếp tục phát triển tư tưởng HCM và truyền thống

phương Đông về “Cầu đồng tồn dị”, xóa bỏ dần những mặc cảm, những thiên kiến khác nhau, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, xây dựng một nước VN dân giầu, nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh.

+ Về kinh tế - xã hội phải tạo cho mọi người dân một cơ hội bình đẳng về pháp luật trong làm ăn kinh tế. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, khuyến khích làm giầu chính đáng, đi đôi với việc giúp dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...

+ Về chính sách đối ngoại: cần có sự nhận thức đúng (cả mặt tích cực và tiêu cực) về vấn đề toàn cầu hóa từ đó xây dựng chiến lược hội nhập của đất nước ta vào khu vực và thế giới; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,

Page 70: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm “VN muốn là bạn với tất cả các nước” vì hòa bình, hợp tác và phát triển, đồng thời có sách lược mềm dẻo trong các quan hệ đa dạng và phức tạp của thế giới đảm bảo cho chúng ta hòa nhập, nhưng không bị hòa tan. 3. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Trên tinh thần muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã, trong tình hình mới, chúng ta cần chú trọng cả nội lực và ngoại lực. Trong đó nguồn nội lực bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự phát triển bền vững của mỗi nước. Để phát huy nội lực cần thực hiện tốt các việc sau:

- Xây dựng hệ thống chính sách nhằm khai thông tất cả các nguồn nội lực, đặc biệt nguồn lực về con người

- Chú trọng việc giáo dục niềm tin vào lý tưởng XHCN. - Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa, các truyền thống của DT - Giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trong việc tiếp thu sức mạnh bên ngoài,

kết hợp với sức mạnh trong nước. 15 năm đổi mới đã tạo cho chúng ta nhiều thuận lợi hơn, vị thế của VN trên

chính trường quốc tế được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên trước xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, chúng ta chỉ có thể phát triển đồng thời giữ được bản sắc riêng của minh trên cơ sở nguồn nội lực phong phú, đồng thời căn cứ vào trình độ phát triển của đất nước để chủ động đề ra các phương pháp, bước đi thích hợp.

- Công tác đối ngoại được xác định có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hỗ trợ và phát huy nội lực.

+ Nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại là tăng cường sự hợp tác mọi mặt với ND tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, bảo đảm ổn định, an ninh và phát triển

+ Xây dựng mối quan hệ hữu nghị lâu dài, bền vững với các nước láng riềng và các nước trong khu vực, mở rộng quan hệ hợp tác phát triển, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tê,ú chính trị lớn trên thế giới

Kết luận

Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh và Đảng ta đề ra từ rất sớm, trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Hiện nay việc xây dựng khối đoàn kết ở nước ta đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn cơ bản

- Thuận lợi:+ Thế giới đang vận động theo chiều hướng các dân tộc trên thế giới ngày

càng xích lại gần nhau hơn, nhân loại ngày càng nhận thức sâu sắc và khao khát về một xã hội hòa bình, tiến bộ, hợp tác, cùng phát triển.

Page 71: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Khoa học phát triển vô cùng mạnh mẽ đã đặt cả thế giới trước xu thế tòan cầu hóa, góp phần làm tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc, tuy cũng chứa đựng khả năng phân hóa giữa các dân tộc sẽ ngày càng trở nên gay gắt hơn.

+ Ở trong nước, chúng ta bước vào thế kỷ mới sau hơn hai mươi năm đổi mới với những thành tựu đáng ghi nhận, vị thế của dân tộc ta trên thế giới được nâng cao rõ nét, niềm tin của nhân dân vào chính sách đổi mới được giữ vững và tăng cường.

- Khó khăn, thách thức:+ Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng ly khai, chia cắt cũng đang

tồn tại. Đầu thế kỷ 20, thế giới có khoảng 90 nước, giữa thế kỷ là 160 nước, nay đã

là hơn 200 nước và vùng lãnh thổ và trong tương lai số nước trên thế giới còn tiếp tục tăng lên. Xu hướng này động chạm đến hai vấn đề lớn ảnh hưởng âm ỉ, kéo dài là vấn đề sắc tộc và tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hợp lý.

+ Cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn ra dai dẳng, gay gắt, các thế lực thù địch vẫn muốn tìm mọi cách tiêu diệt CNXH tới tận gốc.

Một trong các thủ đoạn chúng quen dùng là tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, sử dụng vấn đề sắc tộc, tôn giáo, lối sống thực dụng… để tuyên truyền, kích động, kêu gọi bạo động, lật đổ.

+ Nền kinh tế thị trường cùng với quá trình nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra nhiều vấn đề như sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, các vùng..., các hiện tượng tiêu cực trong xã hội vẫn còn là hiện tượng tương đối phổ biến.

Chiến tranh kéo dài nên những chia cắt, phân liệt diễn ra trong từng gia đình, những thiên kiến, mặc cảm về chính trị còn trong một bộ phận dân cư; một bộ phận đảng viên thoái hóa biến chất, đi vào xu hướng thực dụng, cơ hội chủ nghĩa; sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường dẫn đến sự phân hóa, phân tầng trong xã hội diễn ra theo xu hướng gay gắt hơn… Tất cả những điều đó đã tác động bất lợi đối với việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc.

- Việc xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay, cần chú ý:+ Mục tiêu chung: khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng

đất nước, không bỏ lỡ cơ hội, vận hội rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới

+ Các nhiệm vụ cụ thể:Về chính trị, cần tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống

phương Đông về “Cầu đồng tồn dị”, xóa bỏ dần những mặc cảm, những thiên kiến khác nhau, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, xây dựng một nước Việt Nam dân giầu, nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh.

Về kinh tế - xã hội, phải tạo cho mọi người dân một cơ hội bình đẳng về pháp luật trong làm ăn kinh tế. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, khuyến khích làm giàu chính đáng, đi đôi với việc giúp dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...

Page 72: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Về chính sách đối ngoại, cần có sự nhận thức đúng (cả mặt tích cực và tiêu cực) về vấn đề toàn cầu hóa từ đó xây dựng chiến lược hội nhập của đất nước ta vào khu vực và thế giới; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước” vì hòa bình, hợp tác và phát triển, đồng thời có sách lược mềm dẻo trong các quan hệ đa dạng và phức tạp của thế giới, đảm bảo cho chúng ta hòa nhập, nhưng không bị hòa tan.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Trong những cơ sở đó, cơ sở nào có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh?

2. Phân tích các quan điểm cơ bản của HCM về đại đk dân tộc. Ý nghĩa của luận điểm “Đk, đk, đại đk; thành công, thành công, đại thành công”.

3. Trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

4. Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh đã nâng cấp vấn đề đoàn kết dân tộc thành vấn đề chiến lược, lâu dài. 5. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng.

6. Phân tích những nguyên tắc trong xây dựng khối đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

7. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung và hình thức của đoàn kết quốc tế.

8. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – thành công, thành công, đại thành công”?

9. Vì sao Hồ Chí Minh luôn luôn đặt đại đoàn kết dân tộc lên thành nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân tộc?

10. Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: thực hiện đại đoàn kết toàn dân cần phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng đối với con người?

11. Thế nào là nguyên tắc “hiệp thương dân chủ”? Vì sao hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất cần phải dựa trên nguyên tắc này?

12. Vì sao trong quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh chủ trương phải nêu cao ý chí tự lực tự cường, “dựa vào sức mình là chính”?

Page 73: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương VI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ

VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN (3)

Mục đích yêu cầu.Giúp người học nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh

về dân chủ và xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thấy được những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin vào chế độ và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay

Tài liệu tham khảo.1. Giáo trình tư tưởng H CM, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.2. ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản

Việt Nam lần thứ XII, IX, X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, 2001, 2006.3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.4. Phạm Văn Đồng, một số vấn đề về Nhà nước, Nxb ST, Hà Nội, 1980. 5. Nguyễn Duy Quý, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì

dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện nay, Triết học, số 10, 2002.

6. Đoàn Trọng tuyến, Quán triệt những quan điểm cơ bản về nhà nước vào việc cải cách nền hành chính nhà nước, Quản lý Nhà nước, số 4, 1995.

7. Nguyễn Ngọc Thanh, Về xây dựng một chính phủ - điện tử ở Việt Nam, Giáo dục lý luận, số 1, 2003.

NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ.

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.Khái niệm dân chủ xuất phát từ chữ Hy-lạp dêmos và kratos nghĩa là nhân

dân và chính quyền. Dân chủ nghĩa là chính quyền thuộc về nhân dân. Trong lịch sử đã tồn tại hai hình thức dân chủ cơ bản là dân chủ tư sản và dân chủ vô sản. Thực ra trong xã hội có giai cấp đối kháng, nghĩa là xã hội bị chia thành hai lực lượng thống trị và bị thống trị, thì dân chủ chỉ là hình thức. Khi quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội bị đe doạ, họ sẵn sàng vứt bỏ dân chủ để thực hiện các biện pháp chuyên chính nhằm bảo vệ quyền lợi giai cấp của giai cấp mình. Chỉ khi nền dân chủ vô sản được thực hiện triệt để, các quyền dân chủ của người dân mới thực sự được đảm bảo.

Page 74: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn “dân là chủ”, (nói tới vị thế của dân) “dân làm chủ” (nói tới năng lực và trách nhiệm của dân). cả hai mệnh đề này luôn đi đôi với nhau phản ánh vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Người thường nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do dân làm chủ” (T7, tr.452) “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” (T10, tr. 251), “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” (T6, tr.515)

2. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.- Dân chủ thể hiện trong lĩnh vực đảm bảo quyền của con người, quyền công

dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất. Người chỉ rõ: “Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. thế là dân chủ” (T7, tr.218)

- Dân chủ thể hiện ở phương thức tổ chức xã hội “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, hệ thống chính trị là do “dân cử ra”, “dân tổ chức nên”.

3. Thực hành dân chủ.- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm dân chủ.Ngay từ 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh,

Hồ Chí Minh đã thiết kế một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau khi giành thắng lợi, đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ , xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh nước nhà, gắn độc lập tự do của Tổ quốc với vận mệnh của từng người dân. Trong Tuyên ngôn độc lập, ngày 2/9/1945, người nêu rõ các giá trị dân chủ được gắn với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Đặc biệt, trong Bản Hiến pháp 1946, Người đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

Với trách nhiệm chủ trì việc biên soạn Hiến pháp 1959, cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được Hồ Chí Minh phát triển, cụ thể hoá thêm (các điều 4, 5) và đặc biệt điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” (Hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.29).

- Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.

Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng các tổ chức bảo đảm:

+ Xây dựng Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn thể xã hội. Người khẳng định chỉ có phát huy được dân chủ trong Đảng mới bảo đảm dân chủ

Page 75: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

trong xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự uỷ quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng phải là hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội.

+ Nhà nước của dân, do dân và vì dân thể hiện chức năng quản lý của mình qua việc bảo đảm thực thi ý chí giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển đất nước. Nhà nước thể chế hoá toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ.

+ Xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước

- Xác định các yêu cầu cơ bản đối với nhân dân trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ làm chủ.

Hồ Chí Minh chỉ rõ dân chủ không phải từ trên trời rơi xuống, nó là kết quả hoạt động của cả hai phía chính quyền và nhân dân. Dân muốn làm chủ phải tích cực học tập để nắm vững quyền lợi và bổn phận của mình, phải có kiến thức mới làm chủ được; dân phải tích cực tham gia cùng với Đảng và Nhà nước đấu tranh chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM.

1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở nước ta trải quá một quá trình nhận thức từng bước trong suốt khoảng thời gian dài hơn 30 năm. Có thể khái quát quá trình nhận thức đó như sau:

Thứ nhất, thời kỳ từ 1911 trở về trước, tư tưởng xây dựng một nhà nước trọng dân, thân dân, khoan dân, dựa vào dân của nền văn hóa chính trị phương Đông đã được Hồ Chí Minh lĩnh hội và coi đó như hành trang trên con đường tìm đường cứu nước

Thứ hai, từ năm 1911, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, cũng như các hình thức tổ chức nhà nước của nó. Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhà nước của giai cấp tư sản: Người đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp, tư tưởng đề cao quyền lực tối cao của nhân dân trong cách mạng Mỹ.

Thứ ba, Hồ Chí Minh khẳng định rằng sau khi cách mạng thành công, phải thiết lập một chính quyền của số đông người.

“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”.

Thứ tư, một bước tiến của Hồ Chí Minh là Người chọn kiểu Nhà nước công nông binh. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng, Ngưòi viết: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập và dựng ra Chính phủ công - nông - binh” (T3, tr.1)

Page 76: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ năm, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi đến khẳng định việc xây dựng một Nhà nước dân chủ nhân dân ở nước ta - Nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.a. Xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.

- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là chủ trương của Người xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ... Đây cũng là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất giúp phân biệt Nhà nước ta với các kiểu nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử.

Hồ Chí Minh: Tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh vác một phần.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:

+ Dân là chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân .... Quyền bính của cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó cho.

Trong bài báo Dân vận, viết năm 1949, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ”, điều này có nghĩa là:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dânBao nhiêu quyền hạn đều của dânCông việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.. .Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (T 5, 698) Bởi vì, theo Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng

hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (T4, tr.56). Nếu để cho dân đói, Chính phủ có lỗi, nếu để cho dân rét, Chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không được học hành, Chính phủ có lỗi...

Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) người thay mặt mình vào Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của nhà nước; giám sát hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra và bãi miễn họ khi họ không hoàn thành nhiệm vu; được làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm.

Người yêu cầu phải xây dựng cho được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân, theo đó các vị đại diện của dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của nhân dân, là công bộc của dân theo đúng ý nghĩa của từ này.

Người cũng yêu cầu phải kiên quyết chống lại tệ lợi dụng, lạm dụng quyền lực để sách nhiễu nhân dân.

Người đã nhiều lần phê phán: "Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân: (T4, tr.57)

Page 77: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Tư tưởng Nhà nước do dân của Hồ Chí Minh được thể hiện: dân cử ra các đại diện của mình; dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động; dân phê bình, xây dựng, tạo điều kiện để Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải lắng nghe ý kiến nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người nói: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" (T5, tr.60)

+ Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi cho nhân dân là mục tiêu cơ bản của Nhà nước ta.

Hồ Chí Minh căn dặn: cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc (người phục vụ chung của xã hội) của dân, nên “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (T4, tr.56).

Người còn căn dặn cán bộ các cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân, chứ không phải để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như thời thực dân, phong kiến. Người cũng nhắc nhở chính quyền các cấp phải: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”

+ Là người phục vụ, cán bộ nhà nước đồng thời còn là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân

Người nói: "Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường". Trong Di chúc Người căn dặn đảng viên, cán bộ phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

b. Tư tưởng về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước.

- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó luôn mang bản chất giai cấp. Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam.

+ Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và sẽ tự tiêu vong khi giai cấp không còn nữa. Vì vậy mà không thể có nhà nước siêu giai cấp hay nhà nước đứng trên mọi giai cấp. Nói nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, không phải là nhà nước “toàn dân”, nhà nước phi giai cấp, mà là nói tới tính chất dân chủ nhân dân của nhà nước, nói đến khối đại đoàn kết toàn dân của nhà nước, nói đến quyền làm chủ của nhân dân lao động.

+ Nhà nước ta là nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, bởi vì: Thứ nhất, Nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật; bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước; bằng công tác kiểm tra.

Thứ hai, trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, bao giờ Hồ Chí Minh cũng chú ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc cơ bản thể hiện bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta.

Người viết: "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.

Page 78: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội" (T9, tr.592). Trong mối quan hệ với dân chủ, Hồ Chí Minh cũng không ngại nói đến chuyên chính "Chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là chuyên chính với ai?...Như cái hòm đựng của cải thì phải có khóa. Nhà thì phải có cửa...dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cải cửa để đề phòng kẻ phá hoại...Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ" (T8, tr.279)

Thứ ba, mục tiêu hoạt động của Nhà nước ta là đưa đất nước quá độ lên CNXH.

Thứ tư, cốt lõi của Nhà nước ta là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.

- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc mà thống nhất, hài hòa trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Điều này thể hiện:

+ Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng.

+ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn là chính phủ đại đoàn kết dân tộc.

+ Ngay từ khi mới ra đời nhà nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng.

c. Tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.

- Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Người yêu cầu phải “thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” (T1, tr. 436).

Trong bản Bản Yêu sách gửi Hội nghị Vécxây năm 1919, Người viết: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam” (T1, tr.345)

- Người đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến

Ngay sau khi nhà nước mới ra đời năm 1945, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý đến tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước. Vì vậy, Người hết sức chú trọng đến công tác xây dựng pháp luật và yêu cầu tất cả các cơ quan, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành đúng luật pháp. Cụ thể:

Người yêu cầu làm nhanh, “càng sớm, càng tốt”, cuộc tổng tuyển cử bầu ra quốc hội mới, lập Ủy ban Soạn thảo hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã 2 lần chủ trì soạn thảo hiến pháp (năm 1946 và năm 1959).

- Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thực thi hiến pháp, pháp luật trong thực tế. Người cho rằng soạn thảo pháp luật đã khó, song khó hơn là đưa nó vào cuộc

Page 79: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

sống để mọi người cùng hiểu đúng, làm đúng Và Hồ Chí Minh đã dùng cả cuộc đời mình để làm gương cho điều này: pháp luật là công bằng với mọi người và ngay cả với Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngoại lệ.

Với Hồ Chí Minh pháp luật là vì con người, do con người vì vậy, trong xây dựng hệ thống pháp luật, cần phải đặc biệt chú trọng tính nhân văn, đảm bảo việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công việc trên cơ sở có lý, có tình.

- Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh phải là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.

Dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Thực hiện thống nhất quyền lực, nhưng có sự phân công, phân cấp rõ ràng. Theo Người, không có sự chia xẻ, chia cắt quyền lực: các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều thống nhất là quyền lực của nhân dân.

Tuy nhiên, để tránh chồng chéo và phản quyền, HCM cho rằng cần phải có sự phân công, phối hợp nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và sự phân công đó cũng nhằm thống nhất tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân.

d. Tư tưởng về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả

Để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh các nội dung sau:

- Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước.Người yêu cầu phải chống đặc quyền, đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ cho

nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh là người phát hiện rất sớm những vấn đề tiêu cực trong quá trình xây dựng nhà nước mới.

Chỉ một tháng sau khi giành được độc lập, trong Thủ gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (10/1945), Người chỉ ra 6 căn bệnh: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Nói về những vấn đề này, Người sử dụng những ngôn từ lột tả bản chất vấn đề, như: “không phải làm quan cách mạng”, “không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân tin, dân yêu”, “Đừng có vác mặt quan cách mạng mà đặc quyền đặc lợi, thu vén cá nhân”...

Hồ Chí Minh giải thích cụ thể về các căn bệnh: "Trái phép: ..có lúc vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.

Cậy thế: cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước để ngang tàng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu ra mình là để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân.

Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức, “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô cậu ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?.

Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ, người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.

Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân dân nhân nhượng, hòa thuận với nhau.

Page 80: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Kiêu ngạo: tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi khinh nhân dân, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên.” (T4, tr.57- 58)

Bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến làng không sợ sai lầm, mà phải biết nhận ra sai và hết sức sửa chữa.

Hồ Chí Minh viết: “Không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng” (T4, tr.58)

Để chống tiêu cực, phương pháp luận của HCM là quy tất cả các quan hệ phức tạp của xã hội thành mối quan hệ với mình, với công việc, và với người.

Với mình phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải tự mình xử lý chính mình. với người phải biết thương yêu, quý trọng, tin tưởng vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; với công việc phải tận tụy.

- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.+ Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ sung cho

nhau trong thực tế trị nước.+ Trong lịch sử, những người được coi là thành công trong sự nghiệp trị

nước đều biết kết hợp giáo dục đạo đức với với tăng cường pháp luậtNhà Nho chủ trương đức trị, nhưng cũng không hề loại bỏ hình luật; các

nhà pháp trị cũng không hề bỏ qua tấm gương của các ông vua thánh, chúa minh, những vị quan đức độ và kẻ sĩ hiền tài

+ Trong xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh tới vai trò của pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Đồng thời cũng phải tránh tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật. Thực tế chỉ ra rằng pháp luật chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi nó được hỗ trợ bởi các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức.

Trong 24 năm lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo đức, đồng thời không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Người cầu "Phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp gì"

- Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu.+ Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra 3 thứ giặc nội xâm nguy hiểm cần phải

kiên quyết chống lại nhằm tránh nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết đượcNgười chỉ rõ: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là

bạn đồng minh của thực dân và phong kiến, ...Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám" (T6, tr.490)

+ Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng được Hồ Chí Minh chỉ ra là do bệnh quan liêu. Người viết: "Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt,

Page 81: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn...thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững...Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng che trở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu'' (T6, tr.489)

KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng vàhoàn thiện nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Việc xây dựng Nhà nước ta hiện nay cần:

- Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân

- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh.

+ Nền hành chính nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém: Quan liêu, xa dân, xa cơ sở; phân tán, thiếu trật tự kỷ cương; tham nhũng, lãng phí của công; bộ máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu quả; đội ngũ cán bộ còn yếu về kiến thức, năng lực, một bộ phận kém phẩm chất, hư hỏng

+ Cải cách bộ máy hành chính là một quá trình, phải được tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt. Cần làm cho đội ngũ công chức nhà nước quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, công chức nhà nước là công bộc của nhân dân. Bên cạnh chức năng quản lý, Nhà nước còn thực hiện chức năng dịch vụ công

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn xây dựng chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính nhà nước.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích các quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Sinh viên cần phải làm gì để phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay?

2. Phân tích và làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam?

3. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước ta.

4. Cho biết Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc trưng nổi bật nào?

5. Vì sao trong xây dựng nhà nước mới, Hồ Chí Minh khẳng định: pháp luật và dân chủ phải đi đôi với nhau?

Page 82: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

6. Vì sao trong xây dựng nhà nước mới, Hồ Chí Minh chủ trương tăng cường pháp luật phải đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng?

7. Phân tích mối quan hệ giữa quan điểm “Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam” và “Nhà nước ta là Nhà nước của dân” trong quan điểm HCM.

8. Phân tích quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nêu ý nghĩa của nó trong điều kiện hiện nay ở nước ta.

9. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

CHƯƠNG VII

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINHVỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI (5)

Mục đích yêu cầu.1. Học viên nhận thức được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về

đạo đức, văn hoá và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.2. Trên cơ sở đó, sinh viên lĩnh hội những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh

và bước đầu rèn luyện phấn đấu theo tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch, kế thừa phát huy nội dung tư tưởng văn hoá của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

Tài liệu tham khảo.

1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đạo đức học, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.5. Thành Duy (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996

Nội dung

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ.1. Khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

a. Định nghĩa về văn hóa. Trên thế giới đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, song vẫn

con có khá nhiều những điểm chưa thống nhất giữa những ý kiến. Có thể khái quát một số cách định nghĩa về văn hóa: đồng nhất văn hóa với học vấn; đồng nhất văn hóa với hoạt động văn hóa nghệ thuật bình thường; đồng nhất văn hóa với những

Page 83: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

di tích lịch sử văn hóa; đồng nhất văn hóa với những sáng tạo kiệt tác về lĩnh vực tinh thần.

Khái niệm văn hóa (Culture) từ tiếng Latinh: Cultur: trồng trọt, Cultur argi: trồng trọt cây cối; cultur animi: trồng trọt tâm hồn con người. Ở phương Đông, văn hóa: “văn”: vẻ đẹp, giá trị; “hóa”: trở thành. Văn hóa: trở thành giá trị, trở thành vẻ đẹp.

Theo Unesco, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống của nhân dân.

Đặc trưng của văn hóa là những giá trị do con người tạo ra, mang tính lịch sử. Nói đến văn hóa là nói đến trình độ người. Vì vậy, có tác giả đã định nghĩa: “Văn hóa là những gì còn lại sau khi chúng ta đã quên đi tất cả”, “Văn hóa là những gì còn thiếu sau khi chúng ta đã học được tất cả”.

Giáo sư Vũ Khiêu khẳng định: văn hóa là sự vun trồng của con người, xã hội làm cho con người và xã hội ngày càng tiến bộ hơn, đổi mới hơn, ngày càng xa rời trạng thái nguyên sơ. Ngày càng tách rời, xóa bỏ những đặc tính cả động vật, khẳng định đặc tính của con người.

- Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (T3, tr.431).

b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới. “1- Xây dựng tâm lý: Lý cách (lý tưởng cách mạng - TG), tinh thần độc lập tự

cường.2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị: dân quyền.5- Xây dựng kinh tế”. ( T3, tr. 431).

Qua phác thảo trên của Hồ Chí Minh ta thấy:+ Người đã đặt vấn đề xây dựng một nền văn hóa hết sức toàn diện, phản

ánh được các mặt cơ bản của đời sống xã hội. + Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc trưng của nền văn hóa phương Đông,

văn hóa Việt Nam, trong đó nổi lên vấn đề đặt lợi ích cộng đồng, lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân

+ Hồ Chí Minh đã giải quyết quan hệ văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội (đặt kinh tế ở vị trí cuối cùng trong bảng phác thảo, không giải thích gì, phải chăng Hồ Chí Minh muốn nói tới kinh tế là cơ sở, trên cơ sở đó xây dựng các vấn đề khác?)

Page 84: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bản sắc văn hóa của dân tộc được hiểu là chứng minh thư của dân tộc. Đánh rơi bản sắc văn hóa dân tộc tức là đánh rơi chính bản thân mình và trở thành cái bóng của dân tộc khác. Đồng chí Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Ở Hồ Chí Minh nhà chính trị (bao gồm cả nhà chiến lược, nhà tổ chức, nhà quân sự) hòa quyện với nhà nhân văn, nhà đạo đức, nhà văn hóa, hình thành một diện mạo, một nhân cách riêng của Hồ Chí Minh... Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó thống nhất của những quan điểm tư tưởng chính trị (về cách mạng dân tộc dân chủ, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về tổ chức lực lượng, về quân sự) với tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức, tư tưởng văn hóa... Nói chung là trình độ “người”, trình độ “người” của những quan hệ xã hội, bao gồm tất cả những gì liên quan đến sáng tạo của con người, của dân tộc và của xã hội loài người”.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí, tính chất và chức năng của văn hoá.

a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của văn hoá trong đời sống xã hội.

- Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.Người viết: “... Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của

xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện đê phát triển"“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Tại sao

không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vất chất và văn hoá của nhân dân ta” (T10, tr.59)

Về quan hệ giữa văn hoá kinh tế, chính trị, xã hội được Người xác định văn hoá phải ở trong chính trị và kinh tế, có tác động qua lại với kinh tế và chính trị. Văn hóa cùng với kinh tế, chính trị, xã hội tạo thành bốn thành tố chủ yếu của đời sống xã hội, được coi trọng ngang nhau, có liên quan mật thiết với nhau:

+ Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng, mới mở đường cho văn hoá phát triển.

Về vấn đề này, Người viết: "... Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hoá của ta vì thế không nảy sinh được”.

+ Xây dựng kinh tế tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.- Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn

hoá phải phục vụ chính trị, thúc đẩy, xây dựng và phát triển kinh tế. “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà

phải ở trong kinh tế và chính trị” (T6, tr.368).Văn hoá phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy sự

phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hoá. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đưa ra quan điểm: “Văn hoá cũng là một mặt trận”; “Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”. Văn hoá không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có tính văn hoá. Chính điểu này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Page 85: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá.Theo Hồ Chí Minh nền văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá với các tính

chất sau đây:+ Tính dân tộc (“Đặc tính dân tộc”, “đậm đà bản sắc dân tộc”, “Cốt cách

dân tộc”…) nhằm nhấn mạnh tới chiều sâu bản chất rất đặc trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn hoá các dân tộc khác.

Tính dân tộc của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phát triển những truyền thống ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước

Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu dân tộc hoá mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy giờ văn hoá thế giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hoá của mình sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hoá thế giới”. (Báo Cứu quốc, số ra ngày 9/10/1945)

+ Tính khoa học.Được thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hoá của thời

đại. Tính khoa học của nền văn hoá mới đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít…

+ Tính đại chúng.Tính đại chúng của nền văn hoá được thể hiện ở chỗ mục đích của nền văn

hoá là phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên.

c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá.- Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, làm cho ai cũng có lý tưởng độc

lập, tự chủ; phải sửa đổi được tham những, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, ...+ Văn hoá có chức năng bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân. + Văn hoá phải đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm lớn

như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân - thiện - mỹ, yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung; ghét những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất; căm thù mọi thứ giặc nội xâm.

- Văn hóa phải nâng cao dân trí.Khi đất nước độc lập, Hồ Chí Minh nói: “Một trong những công việc phải

thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí... Muốn giữ vững nền độc lập,Muốn làm cho dân mạnh nước giàu

Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” (Tập 4, tr.360)

“Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc” (T8, 494).

- Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người Việt Nam tới cái chân cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.

Page 86: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Văn hoá giúp con người bồi dưỡng những tư tưởng, tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, từ đó tham gia tạo ra những giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá xã hội.

3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hoá.

a. Văn hoá giáo dục.+ Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có những đánh giá

sâu sắc nền giáo dục phong kiến, thực dân, từ đó chuẩn bị cho việc xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này.

Nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục từ chương, kinh viện, xa rời thực tế, không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh sách thánh hiền là đỉnh cao tri thức. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu, hoàn toàn khác với kẻ bình dân, phụ nữ không được đi học.

Nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, đồi bại, xảo trá, và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Nó “chỉ dạy cho họ một lòng trung thực “giả dối”, dạy cho thanh niên yêu tổ quốc không phải Tổ quốc mình” (T1,399). Thực chất đó là nền giáo dục “ngu dân”, “nhồi sọ”.

+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục (dạy và học).

Dạy và học để mở mang dân trí, đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài. Học thực. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Trong những mục tiêu đó, học làm người là khó nhất, “Cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới”, “công nông trí thức hoá”, “trí thức công nông hoá”, đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng.

+ Kết hợp phổ cập với nâng cao, biến nước ta thành một nước văn hoá cao.Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh vừa mang tính khoa học, vừa mang

tính nhân văn vì văn hoá và tri thức là cho tất cả mọi người, không phải là đặc quyền riêng của một nhóm người trong xã hội. Vì vậy, Người yêu cầu tạo điều kiện cho mọi người được học.

+ Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của ta.

Nội dung giáo dục là giáo dục để nâng cao trình độ văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động.

+ Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải phối hợp cả ba khâu gia đình, nhà trường, xã hội, phải học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương vĩ đại về tự học, từ một thanh niên bình thường, nhờ vào con đường tự học mà chỉ sau 15 năm, Người đã trở thành một nhà văn hoá lớn.

Sự tự học của Người gắn chặt chẽ với mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Học để làm cách mạng. Cái gì có ích cho cách mạng là phải học. Người thấm nhuần tư

Page 87: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

tưởng của Khổng Tử, học không biết chán, dạy không biết mỏi, và tư tưởng của Lênin: “Học, học, nữa học mãi”. Người dạy: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn lý luận với công tác thực tiễn. Không ai có thể cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” (T.8, tr.215).

b. Văn hoá văn nghệ.+ Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc

bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. + Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.+ Phải có những tác phẩm xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân

tộc. Phải phản ánh cho hay, chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

c. Văn hoá đờì sống.Khái niệm đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả đạo đức

mới, lối sống mới và nếp sống mới.- Đạo đức mới là “... thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính” (T5,

tr. 94)- Lối sống mới. + Trước hết là lối có lý tưởng, có đạo đức. Lối sống văn minh tiên tiễn, kết

hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá của chân loại. + Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi năm cách: “sửa đổi những những việc rất

cần thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” (T5, 95). Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức - quyền – danh - lợi; trong quan hệ với mọi người phải cởi mở, chân thành, ân cần, tế nhị; giàu tình yêu thương, quý mến, trân trọng con người; với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.

- Nếp sống mới. + Kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời

của nhân dân.Người dạy: "Đời sống mới không phải cái cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng

làm mới.Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hêït tính lười biếng, tham lam.Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ

đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân, tương ái, tận

trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có

ngăn nắp" (T5, tr. 94) + Cải tạo, sửa đổi những tập quán lạc hậu, bổ sung cái mới, cái tiến bộ mà

trước chưa có.+ Phát triển những thuần phong mỹ tục tốt đẹp.

Page 88: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Xây dựng văn hoá đời sống mới nhằm biến Việt Nam thành một Quốc gia văn minh và cường thịnh là một công việc lâu dài và đòi hỏi phải có phương pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi phải có quyết tâm của cả cộng đồng dân tộc, song trước hết phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình với tư cách là một tế bào của xã hội.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC. 1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức.- “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”

Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đó là nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” (T6, tr.320), “đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. (T5, tr.252).

Quan điểm đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng của Hồ Chí Minh xuất phát từ đặc điểm cụ thể của cách mạng nước ta: phải tiến hành trong điều kiện cực kỳ khó khăn, người dân không có bất cứ quyền tự do dân chủ nào. Điều này đòi hỏi người cách mạng phải có giác ngộ, có ý chí chiến đấu cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng mới có thể hoàn thành sự nghiệp cách mạng cực kỳ khó khăn đó.

Cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. Song thắng lợi lớn hay nhỏ, bền vững hay không phụ thuộc vào đạo đức của người cách mạng. “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” (T9, 283).

Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân. Ngay chương đầu của Đường Kách mệnh, Người đã nêu 23 điều về tư cách người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với công việc. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1947, Người viết “Sửa đổi lối làm việc” và liên tiếp trong 2 năm 1957, 1958 Người viết hai tác phẩm cùng mang một tên gọi “Đạo đức cách mạng” cùng hàng loạt bài ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Một trong những bài viết cuối cùng của Hồ Chí Minh, năm 1969, bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân ...Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “’hồng” vừa “chuyên”.

Page 89: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ chốt” của người cách mạng.

Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì” (T5, tr.252), “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không” và “tuy năng lực và công việc mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng” (T5, tr.148).

Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp người cách mạng tự hoàn thiện mình và không ngừng phát triển đi lên.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, thực sự trở thành người biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”..., không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH.Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý

tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình chiến đấu cho lý tưởng đó thành hiện thực

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho mọi người. Tư tưởng đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam.

- Một trong những cống hiến đặc sắc, nổi bật nhất của Hồ Chí Minh là trên lĩnh vực đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất, hòa quyện giữa chính trị, đạo đức, văn hóa, nhân văn, một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hóa và đạo đức, văn hóa lại rất chính trị.

Chính vì vậy, những vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện với mọi đối tượng, trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người: Từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt, học tập, chiến đấu, lao động, lãnh đạo, quản lý...trên mọi phạm vi: phạm vi rộng, Người đề cập đến đạo đức trên bình diện quốc gia như đạo đức gc, dân tộc, xã hội, vùng miền, địa phương; ở phạm vi hẹp, Người bàn đến đạo đức trong từng gia đình, trong quan hệ bạn bè, đạo đức đối với bản thân... ; cả bình diện quốc gia đến quốc tế và ở từng khía cạnh cũng có nhiều cấp độ khác nhau...

Hồ Chí Minh đã chú ý khai thác các khía cạnh đạo đức trong tất cả các mặt hoạt động của con người: trong quan hệ đời công, đời tư, trong học tập, lao động, chiến đấu, rèn luyện... Những vấn đề này được Hồ Chí Minh nhìn nhận dưới góc

Page 90: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

độ đạo đức rất phong phú, song phương pháp luận chung của Hồ Chí Minh là quy tất cả về ba mối quan hệ cơ bản: đối với người, đối với việc và đối với mình

- Hồ Chí Minh không chỉ bàn về đạo đức mà chính Người đã thực hiện trước nhất, nhiều nhất những tư tưởng đạo đức do mình nêu ra và đấy chính là điều đặc sắc nhất của Hồ Chí Minh, điều mà không chỉ nhân dân Việt Nam, mà cả nhân lọai đã thừa nhận và ngợi ca.

b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.Từ lý luận và thực tiến hoạt động cách mạng, Người đã khái quát thành

những phẩm chất đạo đức chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.

- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và giữ vai trò chi phối

các phẩm chất đạo đức khác. Trung, hiếu là những khái niệm đạo đức đã ăn sâu, bám rễ trong con người

Việt Nam như một bổn phận, trách nhiệm của người dân, của con người, được Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn “trung với nước, hiếu với dân”

+ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phân đấu mang lại lợi ích cho nhân dân.

Trung với nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với sự phát triển của đất nước. Bởi vì nước là nước của dân và dân là chủ nhân của đất nước.

+ Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ, dân nắm mọi quyền hạn, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, phải thân dân, lấy trí tuệ ở dân, gắn bó, dựa vào dân, kính trọng học hỏi dân...

+ Người lãnh đạo phải nắm vững dân tính, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí; giúp dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước. Người lãnh đạo được dân tin yêu quí trọng sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.

- Yêu thương con người, sống có tình nghĩa Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một trong những

phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người có biểu hiện rất phong phú:

+ Tình yêu thương con người trước hết dành cho những người cùng khổ, người lao động.

+ Nghiêm khắc với mình mà rộng lượng, tôn trọng, nâng người khác lên, chứ không được hạ thấp hay vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với người lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.

Page 91: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

+ Tình yêu thương con người còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ và quyết tâm sửa chữa sai lầm khuyết điểm, kể cả những người đã lầm đường lạc lối.

Trong Di chúc, Người nhắc nhở Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây là tình cảm cách mạng trong sáng, thương yêu nhưng không bao che, mà phải thực hiện phê và tự phê bình một cách chân thành, thẳng thắn giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung cao cả.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.Đây là những phẩm chất đạo đức phương Đông, đạo đức Việt Nam lấy

chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh, nó diễn ra từng ngày, từng giờ, cả trong công tác và trong sinh hoạt. Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này thường xuyên nhất, nhiều nhất, từ Đường Kách mệnh đến bản Di chúc cuối cùng.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Hồ Chí Minh cải biến nội dung và đưa vào những nội dung mới. Người nói: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” (T.6, tr.321). Hồ Chí Minh giải thích về cần, kiệm, liêm, chính như sau:

“Cần tức là siêng năng chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. Ta hiểu: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. “Kiệm (...) là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi...”Ta hiểu: kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiềm từ cái to đến cái nhỏ, không hoang phí, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù.

“Liêm là trong sạch, không tham lam... tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon là bất liêm”.

“Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà” (T.5, tr. 632).

Đối với mình: không tự cao tự đại, chịu khó học tập tiến bộ, tự kiểm điểm.Đối với người: không nịnh hót người trên, không coi khinh người dưới,

chân thành, khiêm tốn, thật thà, không dối trá lừa lọc.Đối với việc: để việc công lên trước việc tư, đã phụ trách việc gì thì quyết

làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm. . .Hồ Chí Minh viết: “Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, nhưng một cây cần có

gốc rễ lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn” (T5, tr.643). “So sánh với trời, đất: trời có bốn mùa: xuân, hạ thu đông; đất có bốn phương đông, tây, nam, bắc; người có bốn đức tính cần, kiệm, liêm, chính; “thiếu một đức, thì không thành người”. Đọc các tác phẩm của Hồ Chí Minh ta thấy Người nói về vấn đề này rất tâm huyết: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm,

Page 92: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” (T.5, tr.104); “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” ( T.5, tr. 642)...

“Chí công vô tư “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Thực hành chí công vô tư là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh,v.v.”, Người khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” (T.9, tr.291). Người còn nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (T.12, tr.557)

Chống chủ nghĩa cá nhân đối với Hồ Chí Minh hoàn toàn không có nghĩa là chống lại lợi ích cá nhân, mục đích cả cuộc đời người, và cũng là mục đích của Đảng ta là chăm lo cho lợi ích của từng cá nhân, tạo mọi điều kiện cho mỗi người có thể phát huy hết mọi khả năng của mình.

Người giải thích: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Nếu nhữnglợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu” (T.9, tr.291).

Bồi dưỡng phẩm chất Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục" có thể “trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”. Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm còng là những phẩm chất đạo đức không thể thiếu của người cách mạng, người cộng sản.

Hồ Chí Minh cũng giải thích thêm rằng “Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng” (T.4, tr.240).

- Tinh thần quốc tế trong sáng Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất

rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền…

Hồ Chí Minh đã khái quát tinh thần này bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em” đoàn kết các dân tộc bị áp bức, các lực lượng tiến bộ trên thế giới,

Page 93: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhằm mục tiêu lớn là hoà bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị.

c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức + Nói đi đôi với làm là phương pháp tu dưỡng là phải gắn lời nói với hành

động trong thực tiễn, mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng.

Theo Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là nguyên tắc rèn luyện đạo đức quan trọng bậc nhất. Người thường phê phán thói đạo đức giả ở một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng” nói mà không làm, Người yêu cầu phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

+ Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, đồng thời là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức cũ.

Người viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (T.1, tr.263). Quyết liệt hơn, Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân , mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã” (T.5, tr.552).

+ Hồ Chí Minh yêu cầu đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, trong nhà trường, gia đình, xã hội.

- Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.+ Phải kết hợp giữa xây và chống là vì không phải “người người đều tốt,

việc việc đều hay”, Người yêu cầu phải kiên quyết chống ba loại kẻ thù nguy hiểm: tư tưởng thực dân đế quốc, thói quen lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân.

Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” (T9, tr.287).

+ Người yêu cầu, với từng người, trước hết phải chiến thắng lòng tà trong mình, với việc, với người nhất thiết phải phê phán, đấu tranh loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ.

+ Về quan hệ giữa chống và xây, Hồ Chí Minh chỉ rõ chống là nhằm để xây, chống đi liền với xây, lấy xây làm chính, lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau.

Tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng + Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, nó chỉ hình thành trong quá trình rèn luyện, phấn đấu suốt đời.

Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” (T.9, tr.448), vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.

Page 94: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Người viết tiếp: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên” và “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng và vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” (T.9, tr.293).

+ Hồ Chí Minh yêu cầu tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự nguyện tự giác, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người khẳng định làm cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, song vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm khuyết điểm.2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân: Đạo đức là yếu

tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị của con người.Việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày không chỉ

tôn vinh, nâng cao giá trị của chính mình, mà còn tạo ra sức mạnh nội sinh giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không hủ hoá” (T9, tr.284).

- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.Đối với sinh viên, thanh niên, trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định các

phẩm chất đạo đức tối thiểu cần thiết để sinh viên có phương hướng rèn luyện. Trong bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7/5/1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong “6 cái yêu:

Yêu Tổ quốc: yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc ta giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.

Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân.

Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.

Yêu lao động: muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động chỉ là nói suông.

Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật.” (T9, tr.173-174)

Để có được những phẩn chất trên, sinh viên phải rèn luyện cho mình các đức tính: trung thành, tận tuỵ, thật thà, chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình. người dạy: “Không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào” (T7, tr.455).

Page 95: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đồng thời phải kiên quyết chống lười biếng, xa sỉ, coi khinh lao động; chống lối sống uỷ mị, kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang.

b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay.+ Đa số sinh viên vẫn giữ được những giá trị truyền thống của dân tộc: Yêu

nước, thương người, sống tình nghĩa trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn cần cù sáng tạo, trong sạch, lành mạnh, có chí lập thân, lập nghiệp…

+ Do ảnh hưởng của kinh tế thị trường, hội nhập thế giới…, một bộ phận sinh viên đã chạy theo lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý dẫn tới những tiêu cực xã hội ngày càng phổ biến. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện hút, thiếu trung thực…

- Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần:+ Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.+ Học cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống

giản dị và đức khiêm tốn phi thường.+ Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân,

hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu với con người.

+ Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích của cuộc sống.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người.

Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề con người có thể được nhìn nhân dưới những khía cạnh sau:

- Người xem xét con người như một chỉnh thể, đa chiều: con người luôn có xu hướng vươn tới cái chân - thiện - mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”; con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện – ác, hay và dở, tốt và xấu nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có cái tình” (T7, tr.60).

- Người xem xét con người trong tính lịch sử, cụ thể của nó. Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng “Phẩm giá

con người”, Người ta”, giải phóng con người…, nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể, còn phần lớn các trường hợp, Người xem xét con người trong các quan hệ xã hội, giai cấp, giưói tính, lứa tuổi, nghề nghiệp…đó là con người cụ thể, hiện thực, cảm tính, khách quan.

Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm: “người bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người bản xứ bị bắt làm nô lệ”, “người mất nước”, “người lao động bản xứ”, “người bị bóc lột”, “người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc”, “người da vàng”, “người da đen”, “người vô sản”, “người vô sản ở thuộc địa”, “người vô sản ở chính quốc”, “người cùng khổ”. Đối lập với

Page 96: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

họ là: “Thực dân”, “thực dân độc ác”, “viên chức tàn bạo”, “bọn ăn bám đủ các cỡ”, “kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc lợi”, “đức ngài tư bản chủ nghĩa”, v.v...

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người lại thường dùng các khái niệm: “đồng bào”, “nhân dân”, “quốc dân”, “dân” và qua đó đặt con người trong mối quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc.

Với Hồ Chí Minh, không có con người trừu tượng. Người viết: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người” (T.5, 644).

- Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: Bản chất con người mang tính xã hội. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử.

Khi nói về con người, bao giờ Hồ Chí Minh cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cộng sản cao đẹp:

Một là: sự cảm thông hết sức sâu sắc với những đau khổ của người nô lệ và người cùng khổ.

Có thể thấy rõ điều này qua các bài viết của Người tố cáo tội ác mà chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gây ra cho con người.

Hai là: quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con người và đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.

Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (T.4, tr.161).

Ba là, tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con người và không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”.

a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người.- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới

không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “Vô luận việc gì, đều do người dân làm ra từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” (T5, Tr.241). Người cho rằng “Việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”.

Khẳng định tài năng của nhân dân, Hồ Chí Minh viết: “Họ biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” (T5, tr.295). Và Người kết luận: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” (T6, tr.281).

- Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. + Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh

phúc cho con người. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Hồ Chí Minh và Đảng ta đều nhằm mục tiêu giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người.

Page 97: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh yêu cầu trong đối xử với con người:Thứ nhất, yêu thương, quý trọng, giúp đỡ, lắng nghe ý kiến và học hỏi nhân

dân. Thứ hai, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, đoàn kết

thương yêu nhau như anh em một nhà. Hồ Chí Minh dành tình yêu thương đặc biệt cho những người mất nước, những người cùng khổ.

Thư ba, yêu thương nhân dân lao động trong nước phải gắn liền với yêu thương nhân loại theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”,

Trong thư gửi cho chính phủ và nhân dân Pháp, Người viết “Tôi thành thật mong muốn thanh niên Pháp và thanh niên Việt Nam hiểu biết lẫn nhau và yêu mến nhau như anh em" (T.4, 303). Trước lúc đi xa Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người...Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế” (T.12, 503,512).

Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng con người là do chính bản thân con người thực hiện. Người tin vào sức mạnh và tính sáng tạo của con người dù đó là người Việt Nam còn nô lệ.

Với Hồ Chí Minh, dân chúng rất tốt, rất sáng suốt, rất khôn khéo, rất anh hùng..., Người yêu cầu cán bộ phải luôn luôn có niềm tin không thay đổi vào nhân dân và khẳng định “Cán bộ phải ghi tạc vào đầu cái chân lý đó”

+ Hồ Chí Minh còn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân vì vậy mà “Phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân’’ (T5, tr. 65) và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “Có dân thì có tất cả”.

Con người là động lực của cách mạng được Hồ Chí Minh nhìn nhận trong phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết ở giai cấp công nhân và nông dân. Tuy nhiên không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức trên truyền thống lịch sử và văn hoá ngàn năm của dân tộc Việt Nam…Chính trị, văn hoá, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.

+ Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu của cách mạng.

Người cũng yêu cầu phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Người cũng chỉ rõ nguyên nhân của bệnh quan liêu, mệnh lệnh là do xa dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không thương yêu nhân dân và kết quả là hỏng việc.

b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “Trồng người”.- “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách

mạng.

Page 98: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển vì vậy mà “trồng người”, “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” và “công việc đối với con người”... Là “những việc làm rất quan trọng”, “rất cần thiết” và là những việc phải làm “đầu tiên”.

Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục đào tạo, rèn luyện con người. người nói tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tính chiến lược, cơ bản lâu dài nhưng cũng rất cấp bách. Điều này liên quan tới nhiệm vụ “Trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Những tư tưởng đó đã phản ánh tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người.

- “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” (T10, tr.310)

+ Phải đặt ra nhiệm vụ, ngay từ đầu xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, cá nhân mỗi người

+ Mỗi bước như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và xây dựng “con người xã hội chủ nghĩa”

+ Con người mới xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là con người kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phải hình thành nên những phẩm chất mới như: Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng…

- Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chiến lược “trồng người” phải coi trọng sự nghiệp giáo dục – đào tạo

Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng con người một cách toàn diện trên tất cả các mặt đức, trí, thể, Mỹ...Trong đó bồi dưỡng trí tuệ, nhân cách đạo đức là điều quan trọng có ý nghĩa hàng đầu và xuyên suốt sự nghiệp cách mạng.

Ngay sau ngày cách mạng thành công, Người căn dặn nhân dân phải cần, kiệm, liêm, chính, đồng thời khẳng định “dốt thì dại, dại thì hèn”; “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Phê phán nền giáo dục thực dân, Hồ Chí Minh viết: “Một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa... dạy cho thanh niên yêu một tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình, khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình” (T.1, 399), Người yêu cầu: “Phải làm sao cho dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” (T.5, 65).

Với Hồ Chí Minh, chăm lo đời sống cho dân, phát triển giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân, tổ chức nhân dân trong những đoàn thể rộng rãi... chính là chăm lo cho nước. Bởi vì dân là gốc nước, dân giàu thì nước mạnh, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân...

Page 99: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong chiến lược “trồng người”, gia đình, nhà trường và xã hội đóng vai trò rất quan trọng. Mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục có ý nghĩa quyết định tới công dân, tới đội ngũ cán bộ tương lai tốt hay không tốt. Người khẳng định nêu gương là một phương pháp tốt trong quá trình giáo dục.

Người xác định trong phương pháp dạy học tiểu học: cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ, tránh gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ người lớn... Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt. Người nói: “Những gương người tốt, việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người... Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” (T.12, tr.558).

- “Trồng người” là công việc “trăm năm”, do đó không thể nóng vội, không phải làm một lúc là xong, cũng không được tuỳ tiện đến đâu hay đó. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hoá kiệt xuất không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hoá mới ở Việt Nam, mà còn vì đóng góp của Người vào lý luân và sự phát triển chung của văn hoá nhân loại.

Trong lĩnh vực văn hoá, Hồ Chí Minh sớm nhận thức vai trò và sức mạnh của văn hoá, đã sớm đưa văn hoá vào chiến lược phát triển của đất nước. Người yêu cầu phải đưa văn hoá đi sâu vào quần chúng, coi văn hoá như một sức mạnh vật chất, một động lực, một mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển.

Hàng loạt các quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá như: “văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”, văn hoá cũng là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, “văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa sỉ”…không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc.

Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về các chuẩn mục đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng.

Về lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người Việt Nam. Trên cơ sở các quan điểm của Người, đảng ta xác định giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Page 100: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Con người, chủ thể của mọi sáng tạo ngày càng được chăm sóc, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của chủ nghĩa xã hội.

Về thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xép hạng các nước trên thế giới. UNDP đã đưa ra chỉ dẫn đánh giá sự tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân, mà dựa trên cơ sở 3 tiêu chí cơ bản: Thu nhập, trình độ giáo dục, tuổi thọ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức, xây dựng con người mới là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Nó đã trở thành một bộ phận của nền văn hoá dân tộc ta và là ngọn đèn pha soi đường cho công cuộc xây dựng một nền văn hoá và đạo đức mới ở Việt Nam. Nghiên cứu và học tập tư tưởng văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là vấn đề nhận thức mà là trách nhiệm chính trị của cả dân tộc nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập cùng nhân loại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh: “văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”?

2. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh: “văn hóa phải “thấm sâu vào tâm lý quốc dân”, phải “soi đường cho quốc dân đi”

3. Giải thích tại sao HCM coi dốt là “giặc” và chủ trương phải “diệt giặc dốt”

4. Phân tích quan điểm của HCM: văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu trnah cách mạng”?

5. Ví sao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc cải tạo lối sống cũ, xây dựng lối sống mới, nếp sống mới là quá trình rất khó khăn, phức tạp, lâu dài?

6 Ví sao Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức là gốc của người cách mạng”?7. Vì sao trong tương quan giữa đức và tài, HCM luôn khẳng định “đức là

gốc”?8. Ví sao Hồ Chí Minh khẳng định: người cách mạng nếu không có đạo đức

thì dù tài giởi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân?9. Giải thích tại sao HCM khẳng định: đối với các dân tộc phương Đông,

“một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”10. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức phải

được tiến hành thường xuyên “ví như rửa mặt phải rửa hàng ngày”?11. HCM khẳng định: “Đạo đức là gốc của người cách mạng”. Hãy phân

tích quan điểm của HCM về vai trò của đạo đức để làm sáng tỏ luận điểm trên. 12. Trình bày nội dung chủ yếu của khái niệm Trung theo tư tưởng HCM.13. Trình bày nội dung chủ yếu của khái niệm Hiếu theo tư tưởng HCM.14. Trình bày nội dung chủ yếu của khái niệm Cần, kiệm, liêm, chính theo

tư tưởng Hồ Chí Minh.15. Trình bày nội dung của khái niệm văn hóa theo tư tưởng HCM.

Page 101: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

LÊ MINH THỌ - ĐẠI HỌC KINH TẾ - BÀI GIẢNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

16. Phân tích quan điểm của HCM về chức năng của văn hóa trong quá trình phát triển xã hội.

17 Ví sao HCM khẳng định: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng?

18 Tại sao theo quan điểm Hồ Chí Minh, chiến lược “Trồng người” phải được bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng đạo đức?

19. Tại sao trong chiến lược “Trồng người”, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”?

20. Vì sao Hồ Chí Minh quan niệm “trung với nước, hiếu với dân” là chuẩn mực cơ bản nhất của đạo đức cách mạng?

21. Cho biết quan niệm của Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm có gì khác những điểm gì mới so với quan niệm Cần, Kiệm truyền thống?

22. Giải thích tại sao Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người?

23. Vì sao trong xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh quan niệm “xây” và “chống” phải đi đôi với nhau, nhưng “xây” là chủ yếu và lâu dài?

24. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm, phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm, phải trồng người”.