gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

35
Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2 Đề tài: phương thức gia công quốc tế, nhận xét hoạt đông gia công quốc tế xuất khẩu mặt hàng giày da Việt Nam I. Cơ sở lí thuyết I.1. Khái niệm I.2. Đặc điểm I.3. Tác dụng I.3.1. Tác dụng với bên dặt gia công I.3.2. Tác dụng với bên nhận gia công I.4. Các loại hình gia công II. Hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam II.1. Giới thiệu chung về mặt hàng giầy da xuất khẩu tại Việt Nam II.2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam. II.3. Cơ hội II.4. Hạn chế 1

Transcript of gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Page 1: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Đề tài: phương thức gia công quốc tế, nhận xét hoạt đông gia công quốc tế xuất khẩu mặt hàng giày da Việt Nam

I. Cơ sở lí thuyết

I.1. Khái niệmI.2. Đặc điểmI.3. Tác dụngI.3.1. Tác dụng với bên dặt gia côngI.3.2. Tác dụng với bên nhận gia côngI.4. Các loại hình gia công

II. Hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam

II.1. Giới thiệu chung về mặt hàng giầy da xuất khẩu tại Việt NamII.2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt

Nam.II.3. Cơ hộiII.4. Hạn chế

II.5. Giải pháp thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giày

III. Kết luận

1

Page 2: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Lời mở đầuNước ta là một nước có tiềm năng lớn về gia công xuất khẩu, do vậy đa dạng

hóa các hoạt động gia công xuất khẩu là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu được đề cập trong đường lối ngoại thương đổi mới. Các sản phẩm giày dép của công nghiệp gia công đang trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Gia công xuất khẩu giày dép có tác động tích cực đến giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân, tăng nguồn ngoại tệ và tiếp cận công nghệ mới. Bên cạnh đó, gia công xuất khẩu giày dép còn phục vụ cho chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển ở nước ta.

I. Cơ sở lí thuyếtI.1. Khái niệm

Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hay nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao. Gia công quốc tế là hình thức gia công thương mại mà bên đặt gia công hoặc nhận gia công là thương nhân nước ngoài.

I.2. Đặc điểm- Gia công quốc tế là một phương thức ủy thác gia công, trong đó XNK gắn

liền với hoạt động sản xuất.- Trong quá trình gia công, người nhận gia công trong nước bỏ ra lao động.

Do đó, có thể nói gia công quốc tế là một hình thức mậu dịch lao động, một hình thức XK lao động tại chỗ qua hàng hóa

- Gia công quốc tế là một phương thức buôn bán gia công “hai đầu ở ngoài”, nghĩa là thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm đó.

2

Page 3: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Song ở đây cần lưu ý, nghiệp vụ GCQT khác với nghiệp vụ XK nguyên liệu để gia công và XK thành phẩn (mua đứt bán đoạn), tuy nó cũng thuộc về phương thức buôn bán gia công “hai đầu ở ngoài” nhưng nó có điểm khác biệt rõ rệt với gia công quốc tế ở chỗ:

+Thứ nhất, trong NK nguyên liệu gia công và XK thành phần thì NK nguyên liệu và XK thành phầm là hai vụ giao dịch khác nhau, đều có xảy ra chuyển dịch quyền sở hữu, người cung ứng nguyên liệu và người mua thành phẩm không có liên hệ chắc chắn nào. Trong nghiệp vụ GCQT, nhập nguyên liệu vào và xuất thành phẩm đi không có chuyển dịch quyền sở hữu, hoặc nếu có chuyển dịch quyền sở hữu trong nhập nguyên liệu nhưng chúng đều thuộc một giao dịch, các việc có liên quan đều được quy định trong cùng một hợp đồng. Vig nghiệp vụ GCQT thuộc về ủy thác gia công, do đó, người cung ứng nguyên liệu lại chính là người nhận thành phẩm.

+Thứ hai, trong ngiệp vụ NK nguyên liệu gia công và XK thành phẩm, nhà máy trong nước mua từ nước ngoài nguyên liệu, gia công thành phẩm, làm tăng giá trị, sau đó bán ra thị trường nước ngoài, kiếm giá trị chênh lệch đến thành phẩm, nhà máy trong nước phải chị rủi ro, những phần nhận được cũng chỉ là thù lao sức lao động, còn giá trị tăng thêm lớn như thê nòa, thì không cần biết, do đó, lợi nhuận thu được của nghiệp vụ GCQT thường thấ hơn nhiều sao vói NK nguyên liệu gia công.

Nên, phấn đấu để tăng dần tỷ lện “mua đứt bán đoạn” lên thay thế gia công thuần túy đang là mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp đang thực hiện phương thức GCQT tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

I.3. Tác dụng

Áp dụng phương thức giao dich GCQT đều có tác dụng tích cực đối với cả bên đặt gia công cũng như bên nhận gia công, nên GCQT ngày này khá phổ biến trong TMQT của nhiều nước.

3

Page 4: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

I.3.1. Tác dụng với bên đặt gia công- Hạ thấp giá thành sản phẩm, do có thể tăng sức cạnh tranh trên thị trường

quốc tế của sản phẩm.- Có thể điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở nước sở tại. Phương thức gia công

quốc tế là một loại hình sản xuất dùng nhiều lao động sang các nước đang phát triển.

I.3.2. Tác dụng với bên nhận gia công- Khắc phục được mâu thuẫn giữa thừa sức sản xuất mà thiếu nguyên liệu của

nước mình, tăng thu nhập ngoại tệ cho nước mình.- Phát triển nguồn lao động, tăng thêm cơ hội tạo việc làm và làm kinh tế phát

triển.- Giúp thu hút các kĩ thuật và kinh nghiệm quản lí tiên tiến của nước ngoài,

thúc đẩy kinh tế hướng XK phát triển.

Các nước công nghiệp mới châu Á (NICS) trong thời kì đầu của sự nghiệp công nghiệp hiện đại hóa đất nước cũng thường bắt đầu từ GCQT. Điều đó giúp cho Việt Nam có nhiều bài học kinh nghiệm quý báu khi vận dung phương thức GCQT trong tiến hành sự nghiệp CNH – HĐH đất nươc hiện nay, tuy nhiên hoạt động gia công hiệu quả xuất khẩu thấp. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cần tích cực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, thực hiện nhiều khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu như khâu cung cấp nguyên vật liệu, nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, phân phối sản phẩm... chuyển dần hoạt động gia công sang xuất khẩu trực tiếp.

I.4. Các loại hình gia công

* Xét về mặt quyền sở hữu nguyên liệu:Gia công quốc tế có thể tiến hành theo những hình thức sau đây:

+ Giao nguyên liệu thu sản phẩm và trả tiền gia công.

+ Mua đứt bán đoạn: Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại sản phẩm.

Hình thức này có lợi cho bên đặt gia công vì khi giao nguyên liệu gia công bên đặt gia công dễ gặp phải rủi ro mất mát (chẳng hạn: mất trộm thành phẩm, hoả

4

Page 5: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

hoạn, bão lụt .v.v.) , điểm lợi chính của phương thức này là bên đặt gia công không bị đọng vốn.

Về vấn đề thanh toán tiền nguyên liệu, mặc dù bên nhận gia công phải thanh toán nhưng nguyên liệu chưa hẳn thuộc quyền sở hữu của hoàn toàn của họ vì khi tính tiền sản phẩm người ta thường tính lãi suất cho số tiền đã thanh toán cho bên đặt gia công khi mua nguyên liệu của họ. Do vậy về thực chất thì  tiền thanh toán cho nguyên liệu chỉ là tiền ứng trước của bên nhận gia công và có thể coi là tiền đặt cọc để đảm bảo thực hiện hợp đồng. Bên nhận gia công không có quyền bán sản phẩm cho người khác.

Thực tế cũng có trường hợp bên nhận gia công mua đứt nguyên liệu của bên đặt gia công và có quyền bán sản phẩm cho người khác. Trong trường hợp này thì quyền sở hữu nguyên liệu thay đổi từ người đặt sang người nhận gia công.

Ngoài ra người ta còn áp dụng một hình thức kết hợp trong đó bên đặt gia công chỉ giao nguyên liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu phụ.

* Xét về giá gia công: Người ta chia việc gia công thành hai hình thức.

+ Hợp đồng thực chi, thực thanh: Chi bao nhiêu cho việc gia công thì thanh toán bấy nhiêu cộng thêm tiền thù lao gia công .

+ Hợp đồng khoán gọn: Khoán luôn bao nhiêu tiền, xác định giá định mức (Target price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức đó.

Ngoài ra người ta còn áp dụng phương pháp: tính giá theo công suất dự kiến

* Xét về số bên tham gia: người ta có hai loại gia công.

+ Gia công hai bên: Trong đó chỉ có một bên đặt gia công và một bên nhận gia công

+ Gia công nhiều bên, còn gọi là gia công chuyển tiếp: Trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công cuả đơn vị sau, và bên đặt gia công có thể chỉ có một và cũng có thể nhiều hơn một.

Ưu điểm:

5

Page 6: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Đây là hình thức rất thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì các doanh nghiệp vốn đầu tư hạn chế, chưa am hiểu về luật lệ và thị trường thế giới, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp nổi tiếng qua gia công xuất khẩu vẫn có thể tham nhập ở mức độ nhất định vào thị trường thế giới.

Qua gia công xuất khẩu, doanh nghiệp có thể tích lũy kinh nghiệm tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu, kinh nghiệm làm thủ tục xuất khẩu và có thể tích lũy vốn.

Rủi ro kinh doanh xuất khẩu ít vì đầu vào và đầu ra của quá trình kinh doanh đều do phía đối tác đặt gia công nước ngoài lo.

Đây là hình thức giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thu ngoại tệ.

Thị trường tiêu thụ có sẵn, không phải bỏ chi phí cho hoạt động bán sản phẩm xuất khẩu.

Học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tạo mẫu mã bao bì. Nhược điểm:

Hiệu quả xuất khẩu thấp, ngoại tệ thu được chủ yếu là tiền gia công ngày một giảm trong điều kiện cạnh tranh lớn của những đơn vị gia công cao.

Nếu chỉ áp dụng phương thức kinh doanh xuất khẩu thì doanh nghiệp khó có thể xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối, xây dựng thương hiệu và thiết kế kiểu dáng công nghiệp cho sản phẩm.

Tính bị động cao: Vì toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công phụ thuộc vào bên đặt gia công: phụ thuộc về thị trường, giá bán sản phẩm, giá đặt gia công, nguyên vật liệu, mẫu mã, nhãn hiệu sản phẩm ...cho nên với những doanh nghiệp sản xuất lớn, chất lượng sản phẩm tốt với hình thức gia công doanh nghiệp khó có điều kiện phát triển mạnh ra thị trường thế giới.

Nhiều trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để bán máy móc cho bên phiá Việt Nam, sau một thời gian không có thị trường đặt gia công nữa, máy móc phải “đắp chiếu” gây lãng phí.

Nhiều trường hợp bên đặt gia công đưa máy móc trang thiết bị cũ, lạc hậu về công nghệ sang Việt Nam dẫn tới công nhân làm việc nặng nhọc, môi trường bị ô nhiễm.

Năng lực tiếp thị kém, nhiều doanh nghiệp bị bên phía đặt gia công lợi dụng để phân bổ để đưa hàng vào thị trường ưu đãi.

6

Page 7: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Có những trường hợp bên phía nước ngoài lợi dụng hình thức gia công để đưa các nhãn hiệu hàng hóa chưa đăng ký hoặc nhãn hiệu giả vào Việt Nam.

Quản lý định mức gia công và thanh lý các hợp đồng gia công không tốt sẽ là chỗ hở để đưa hàng hóa trốn thuế vào Việt Nam, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh nội địa.

Tình hình cạnh tranh trong gia công ở khu vực và nội địa ngày càng gay gắt làm cho giá gia công ngày càng sụt giảm, hậu quả: hiệu quả kinh doanh gia công thấp, thu nhập của công nhân gia công ngày càng giảm sút.

II. Hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam

II.1. Giới thiệu chung về mặt hàng giầy da xuất khẩu tại Việt Nam

Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007.

Vào những năm đầu thập niên 1990, ngành giày Việt Nam chủ yếu gia công sản xuất mũ giày cho các nước Đông Âu theo Hiệp định 19/5, tuy nhiên việc gia công này đã sớm sút giảm do thị trường Đông Âu bị biến động mạnh.

Vì vậy, vào giữa những năm 1990, các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam phải tự tìm kiếm thị trường và chuyển dần xuất khẩu sang các nước Tây Âu. Đến cuối năm 2000, số liệu xuất khẩu cho thấy cả ngành da giày lúc bấy giờ đã đạt mức 1.471 triệu đô la Mỹ.

Từ đầu những năm 2000 đến 2010, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp da

7

Page 8: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

giày trong nước cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh nghiệp sản xuất da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan... góp phần thay đổi nhanh chóng bộ mặt của ngành da giày Việt Nam.

Đến hết năm 2008, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt đến 4.767 triệu đô la Mỹ, tăng 3,2 lần so với năm 2000 và tăng đều đặn với tỷ lệ khá cao, trên 18% mỗi năm.

Trong nước, ngành da giày được xếp hàng thứ ba trong các ngành xuất khẩu lớn, chỉ đứng sau dệt may và dầu khí. Bên ngoài, Việt Nam được xếp hàng thứ tư trong số các nước xuất khẩu da giày lớn trên thế giới. Điều này cho thấy những chính sách đúng đắn đã có tác động tích cực vào ngành da giày.

Sang năm 2011 thì ngành dày da đã thu về 6.52 tỉ USD. Theo tính toán của Hiệp hội da giày VN (Lefaso), trong 6.5 tỉ USD xuất khẩu nói trên , mức giá trị gia tăng mà ngành thu về được ước trên 55%, tăng ít nhất 5%.

Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển

8

Page 9: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước ASEAN.

II.2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam.

Hiện tại ngành da giày được coi là một trong những ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển hàng tiêu dùng hướng ra xuất khẩu. Một trong những thế mạnh của ngành da giày Việt Nam là lợi thế giá nhân công rẻ và môi trường đầu tư thuận lợi. Với lợi thế đó ngành đã thu hút một lực lượng lao động lớn của xã hội và góp phần thu ngoại tệ cho đất nước. Ngành đã đạt sản lượng 320 triệu đôi giày dép, trong đó xuất khẩu 292 triệu đôi, đạt kim ngạch 1575 triệu USD, tạo việc làm cho 400 nghìn người lao động.

Việt Nam là một trong 10 nước xuất khẩu sản phẩm da giày hàng đầu trên thị trường quốc tế với tốc độ tăng trưởng ngành cũng như tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt trung bình trên 10%/năm. Năm 2008, kim ngạch XK đạt 4,767 tỉ USD và 8 tháng đầu năm 2009 đạt mức trên 2,790 tỉ USD.

Theo các chuyên gia, ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, tình hình chính trị ổn định và an toàn, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, sau khi nước ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ với nhiều ưu đãi giúp cho việc giao lưu hàng hóa thông suốt, ít cản trở, tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.

Có thể khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cho ngành da giày phát triển mà trước hết phải kể đến sự gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đội ngũ nhân công được đào tạo…

Cùng với đó là các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ nên trong những năm gần đây đã giúp ngành da giày có những bước tiến nhanh và mạnh mẽ. Trong đó, công tác đầu tư được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu.

9

Page 10: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Tính đến hết năm 2008, toàn ngành đã đầu tư 22 nghìn tỉ đồng, trong đó, 5 nghìn tỉ đồng đầu tư xây dựng và cải tạo nhà xưởng; 17 nghìn tỉ đầu tư mua sắm thiết bị, máy móc. Đến thời điểm này, toàn ngành đã đầu tư trên 900 dây chuyền đồng bộ để sản xuất giày với máy móc thiết bị được nhập khẩu từ các nước có nên khoa học kỹ thuật, nhất là ngành công nghiệp da giày rất phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan…

Song song đó, công tác xúc tiến thương mại cũng đã được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các DN đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử…

Không chỉ có vậy, ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội, chính vì vậy, việc đào tạo, nang cao trình độ chuyên môn và tay nghề được ngành dành sự quan tâm dúng mức. Tính đến hết năm 2008, toàn ngành có trên 650 nghìn lao động (chưa kể số lao động trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và làng nghề) chiếm 10,6% lực lượng lao động công nghiệp của cả nước và dự kiến sẽ còn tăng lên khoảng 820 nghìn người vào năm 2010 và 1,3 triệu vào năm 2020.

Nhờ những nỗ lực không ngừng đó, nên năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 5 năm liên tiếp (2005 - 2009) với mức tăng trung bình đạt trên 16%/năm với 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại (Đến hết năm 2008, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt: 715 triệu đôi giày dép các loại; 88 triệu chiếc cặp túi xách các loại) Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm (Hết năm 2008 đạt 130 triệu sản phẩm da thuộc thành phẩm).

10

Page 11: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Thị trường

2005 2006 2007 2008 2009Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị %

EU 1.789,29 59,0 1966,54 54,7 2.176,83 54,5 2.484,72 52,3 1.911,28 46,9Mỹ 611,05 20,0 802,76 22,4 855,16 22,2 1.075,13 22,6 1.039,47 25,6Nhật 93,72 3,0 113,13 3,2 114,75 2,8 137,58 2,9 122,47 3,0Khác 545,52 18,0 709,13 19,7 817,51 20,5 1.060,35 22,2 993,78 24,5Tổng cộng

3.039,58   3.591,56   3.964,25   4.757,78   4.067,00  

Thị trường xuất khẩu của da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định. Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2008, EU là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu trên 2,484 tỉ USD, và chiếm 52,32% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Sau EU là thị trường Mỹ, tại thị trường này, Việt Nam đã vượt qua Italia để trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2008, xuất khẩu vào Mỹ đạt trên 1,075 tỉ USD. Ngoài ra, giày dép Việt Nam còn được XK sang nhiều quốc gia trên thế giới.

Tại thị trường các nước Đông Á - khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á - các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2008, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt trên 137 triệu USD, hay Hồng Kong đạt trên 50,2 triệu USD.

Tại thị trường trong nước, với dân số trên 80 triệu dân, vốn được xem là thị trường đầy tiềm năng, cũng đã được ngàng da giày quan tâm và coi đây là cơ hội để ngành phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.

Để ngành da giày phát triển bền vững phải đi từng bước, trước hết là từ phía các doanh nghiệp. Việc tạo dựng một thương hiệu cho giày da Việt Nam tại thị trường quốc tế là một điều ngoài tầm của doanh nghiệp vì chi phí quá lớn. Do đó phải thực hiện theo lộ trình, trước hết là phải tạo dựng được thương hiệu và giành

11

Page 12: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

lại thị phần ở thị trường nội địa. Lâu nay, việc tập trung vào sản xuất hàng gia công xuất khẩu đã khiến các doanh nghiệp bỏ quên thị trường nội địa đầy tiềm năng. Thực tế cho thấy, 55% thị phần tại thị trường nội địa đã bị các doanh nghiệp nước ngoài chiếm giữ.

Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu da giày Việt Nam, hầu hết 3 phân khúc thị trường thấp, trung và cao cấp, giầy dép trong nước đều lép vế so với hàng ngoại nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng là sự yếu kém về khâu thiết kế mẫu mã.

II.3. Cơ hội

Tận dụng việc chuyển đổi nguồn gia công từ Trung Quốc.

Ngày 17/10, tại hội nghị về Thu mua – Sản xuất – Bán lẻ & Phân phối tại thị trường Việt Nam do Vietnam Supply Chain tổ chức, các diễn giả là những chuyên gia kinh tế, những nhà quản trị quốc tế đều có nhận định chung là ngành gia công Việt Nam đang có cơ hội lớn để trở thành trung tâm của các công ty đa quốc gia.

Ông Jonas Franceschina, giám đốc khu vực Đông Nam Á của Sourcing Agent IntercoopHG cho là hiện đang có xu hướng dịch chuyển nguồn gia công từ Trung Quốc sang Việt Nam, việc PUMA vừa dời trung tâm thiết kế từ Trung Quốc về Việt Nam là ví dụ cho xu hướng này.

Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ, bởi hai năm nay, dù tình hình kinh tế nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn nhưng các doanh nghiệp gia công ngành dệt may, da giày… nhận không hết đơn hàng gia công từ Trung Quốc. Nguyên nhân chính là lương nhân công ở Trung Quốc ngày càng tăng cao, dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2015, các doanh nghiệp gia công của Trung Quốc chuyển dần đơn hàng sang Việt Nam.

Trong xu thế đó, nhiều công ty đa quốc gia mà sản phẩm phải sử dụng nhiều nhân công đã đến Việt Nam để tìm kiếm những đơn vị gia công trực tiếp thay thế cho các đơn vị gia công ở Trung Quốc đang mất dần lợi thế do giá nhân công tăng cao.

Đẩy mạnh hiệu quả chuỗi cung ứng

12

Page 13: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Theo ông Greg Ohan, các công ty đa quốc gia nhắm đến Việt Nam không chỉ vì giá nhân công rẻ, họ đến Việt Nam trong giai đoạn khó khăn như thế này vì các nhà sản xuất nước ngoài có tầm nhìn dài hạn ở thị trường Việt Nam và chấp nhận vượt qua những thách thức trước mắt.

Việt Nam vẫn là thị trường lao động dồi dào và năng động, tiềm năng thị trường rất lớn, chính trị ổn định và khả năng tăng FDI trong các khu công nghiệp… Đây là lợi thế của Việt Nam so với các nước khác khi các công ty đa quốc gia rời bỏ thị trường Trung Quốc.

Vì vậy, theo ông Frank Vossen chuỗi cung ứng ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển, đẩy mạnh hiệu quả chuỗi cung ứng. ÔngFrank Vossen cho rằng: “Khoảng 3-4 năm nữa, tôi tin tưởng rằng Việt Nam sẽ theo kịp các quốc gia trên”.

Theo ông, điều quan trọng nhất trong chuỗi cung ứng là chất lượng. Ông nói: “Chất lượng nên được coi trọng hơn giá cả vì nếu nguồn nguyên liệu không tốt thì nó ảnh hưởng đến các bước thiết kế, sản xuất và thành phẩm. Nguyên liệu có chất lượng kém sẽ làm giảm năng suất”.

Vì vậy, ông cho rằng: “Phải tìm hiểu và chỉ định kỹ nhà cung cấp vì điều này quyết định giá và chất lượng của sản phẩm. Nếu chỉ chăm chăm vào giá thì công ty sẽ không có kế hoạch dài hạn cũng như nguồn cung bền vững”.

Theo ông Jonas Franceschina thì việc nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng còn góp phần làm giảm giá thành của sản phẩm, tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp gia công của Việt Nam. Các doanh nghiệp gia công Việt Nam còn có thể áp dụng phương pháp vận chuyển hàng hóa trực tiếp mà không cần lưu kho để giảm giá sản phẩm gia công. Ông cũng đề xuất các doanh nghiệp nên tận dụng tự do thương mại giữa Việt Nam, Campuchia và Lào để có thể liên kết làm nguyên vật liệu, thành phẩm.

Theo ông Arjan Dominicus, hiện TPHCM có rất nhiều lợi thế để đẩy mạnh hiệu quả chuỗi cung ứng như những chuyến tàu trực tiếp giữa TPHCM với Mỹ và Châu Âu; hải quan điện tử  ngay tại chỗ; sự hỗ trợ từ chính phủ, giá nhân công rẻ hơn và chi phí cho tài sản và công trình rẻ…

13

Page 14: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

II.4. Hạn chế

Mặc dù ngành da giày Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ trên tất cả các phương diện, song chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính.

Trong những hạn chế nói trên, đầu tiên và quan trọng nhất chính là trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá. Quy trình sản xuất mới đang được cơ giới hóa mà chưa đạt tới trình độ tự động hóa. Tỉ lệ công việc phải làm thủ công hiện còn ở mức cao. Bên cạnh đó, khả năng đầu tư vào chuyển giao công nghệ mới bị hạn chế bởi nguồn tài chính hạn hẹp. Thêm vào đó là đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của DN trong ngành. Cộng vào đó là kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế... Đây là những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó là hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam thì hiện có tới trên 80% công nhân trong ngành chưa qua đào tạo (Tuy đây chỉ là con số tương đối vì hiện chỉ có khoảng 30% tổng số các DN ngành da giày là hội viên của Hiệp hội) song cũng cho thấy vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là lực cản ngành phát triển. Cùng với đó là đội ngũ cán bộ quản lý của ngành chủ yếu làm trái ngành, trái nghề và vừa học, vừa làm. Vì thế, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đang là vấn đề bức xúc của ngành. Tuy nhiện, trên thực tế, chưa nhiều DN quan tâm đầu tư một cách thỏa đáng cho khâu đào tạo mà

14

Page 15: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

phần lớn người lao động chỉ được đào tạo lý thuyết trong thời gian ngắn trước khi vào làm việc chính thức, vì vậy, dù muốn hay không, bản thân các DN trong ngành cần chủ động “giúp mình” trong cả ngắn và dài hạn trước khi nhận được “phao cứu hộ” từ Nhà nước.

Một hạn chế không nhỏ nữa của ngành da giày Việt Nam là vấn đề nguyên phụ liệu và công nghiệp phụ trợ. Trong khi nguyên phụ liệu chiếm tới 68-75% tổng chi phí giá thành sản phẩm song lại đang phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Hiện nay, nguyên phụ liệu trong nước sản xuất chỉ mới đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu trong khi các vật liệu, hóa chất, máy móc, thiết bị chủ yếu trông chờ vào nguồn nhập khẩu.

Bên cạnh đó là nhiều vấn đề được chính lãnh đạo Hiệp hội da giày nêu lên, như: Hạn chế về khả năng đầu tư chiều sâu cho hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ đã ảnh hưởng bất lợi đến năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm; Vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn lao động trong sản xuất; Việc hình thành các khu công nghiệp chuyên ngành cho ngành da giày còn quá nhiều khó khăn; Hay như những thách thức trước sự cạnh tranh khốc liệt của các sản phẩm cũng loại từ các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc. Ngoài ra, còn phải kể đến những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay cũng như những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn kích cầu, các chương trình hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ… cũng được xem là vấn đề không nhỏ mà nếu vượt qua thì ngành da giày chắc chắn sẽ phát triển nhanh, mạnh hơn những gì đã có được trong thời gian qua.

Bên cạnh những thuận lợi , hoạt động gia công xuất khẩu giầy da của chung ta vân gặp 1 số khó khăn và thách thức sau:

Chỉ chú trọng đến việc rộng thị trường gia công mà chưa chú trọng đến những nhân tố quan trọng nội tại :

Trong công tác rộng thị trường gia công xuất khẩu nước ta đã đạt được nhiều kết quả (thâm nhập thị trường mới) tuy nhiên còn 1 số tồn tại sau:

- Song song với việc mở rộng tìm kiếm thị trường gia công mới thì các công ty gia công trong nước đã không củng cố thị trường gia công truyền thống , đã làm cho thị trường này mai một đi, thậm chí có những thị trường không có kim

15

Page 16: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

ngạch xuất khẩu và hợp đồng gia công xuất khẩu ở một số thị trường Châu Á như Nhật Bản , Đài Loan, Singapore.

- Gia công xuất khẩu giầy ở nước ta chủ yếu phục vụ xuất khẩu. Hoạt động này đã có các thành công đáng kể như thu ngoại tệ về cho đất nước song lại để lại khoảng trống phía sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay dân số Việt Nam khoảng 87 triệu người , số người tiêu dùng đông đảo này đã tại ra thị trường sức mua khoảng 750 triệu USD/ năm. Do vậy, một mặt các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, tránh bỏ phí thị trường này.

Thiếu vốn và công nghệ:

Thiếu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh là khó khăn lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp của chúng ta cần nhiều vốn chủ yếu đẻ đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thi trường thế giới.

Với công nghệ lỗi thời nên khi khách hàng đặt hàng cao cấp , lợi nhuận cao cũng không đủ khả năng thực hiện . Giầy dép là mặt hàng thường xuyên có sự thay đổi về mẫu mã và kiểu dáng nhưng do đội ngũ cán bộ chuên môn và các loại máy móc thiết bị chuyên phục vụ cho công việc này la rất yếu và thiếu. Mà chúng ta chưa thể chế tạo được khuôn và phụ tùng , do vậy các doanh nghiệp của nước ta vẫn còn phụ thuộc vào nước ngoài.

Bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hóa chất, phụ tùng , máy móc từ nước ngoài.

Tính tổng hợp các loại, trung bình nước ta phải nhập khẩu 75%- 80% nguyên, phụ liệu, phụ tùng khi sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành , nếu nhập nguyên liêu thô, sau đó gia công chế biến thành vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất giầy dép thì tùy theo từng loại ,giá vật liệu sẽ rẻ được 10%- 30% ( so với giá vật liệu tính do nước ngoài cung cấp).

Phần lớn các hợp đồng gia công vẫn ở dạng thuần túy.

16

Page 17: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Những hợp đồng mua bán đứt đoạn chưa nhiều nên thực tế hiệu quả chưa cao, giá trị nhận được chỉ là thù lao gia công thuần túy. Chính vì thế , khả năng tích lũy của doanh nghiệp chưa cao, khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế.

Thiếu đội ngũ nhân viên có kỹ thuật , tay nghề cao.

Đội ngũ nhân viên có kỹ thuật và tay nghề cao ở nước ta thiếu thốn nghiêm trọng . Trong nước thì chưa có một chương trình giảng dạy từ công nhân kỹ thuật đến cán bộ chuyên ngành. Lĩnh vực đào tạo cán bộ công nhan giầy dép chưa bao giờ nhận được sự hợp tác quốc tế và chưa được tài trợ quốc tế có hệ thống. Tóm lại công tác đào tạo chưa được coi trọng.

II.5. Giải pháp thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giày

Để tháo gỡ những khó khăn hiện nay và đạt được các mục tiêu để ra cho giai đoạn 2011 – 2015 với chỉ tiêu đạt trên 9,8 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015, ngành da giày Việt Nam xác định sẽ tiếp tục đầu tư phát triển ngành gắn liền với hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa sự dịch chuyển sản xuất từ các nước trên thế giới và trong khu vực. Đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Cùng với đó, ngành sẽ tập trung đầu tư cho khâu sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và thông qua các mối liên kết với các DN trong và ngoài nước, xây dựng các dự án đầu tư sản xuất giả da, da nhân tạo.

Về chính sách thị trường, ngành xác định tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu và coi đây là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng của ngành.

Trong những nỗ lực đó, rất cần có vai trò hỗ trợ tích cực và hiệu quả của Nhà nước giúp các DN và Hiệp hội nâng cao năng lực đầu tư, mở rộng sản xuất, phát triển thị trường, đào tạo nguồn nhân lực…

Giải pháp thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu giày dép

17

Page 18: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Nâng cao năng lực, trình độ sản xuất gia công

Với mục đích nâng cao năng suất lao động, giảm các chi phí không cần thiết để đem lại hiệu quả hơn chúng ta cần:

Kiểm tra nghiêm ngặt về trình độ công nghệ, quy trình sản xuất giầy có nhiều có công đoạn, do vậy cần phải có sự kiểm tra chặt chẽ những người trực tiếp sản xuất có đảm bảo công đoạn hay không

Đào tạo công nhân: Chất lượng sản phẩm được quyết định rất nhiều trong khâu sản xuất, ở chất lượng người công nhân. Nhu cầu cấp thiết của nghành gia công xuất khẩu giày dép là phải có đội ngũ công nhân tay nghề cao. Do vậy cần phải có sự quan tâm và thường xuyên bồi dưỡng tay nghề cho công nhân qua một số hoạt động như mở lớp bồi dưỡng, gửi đi học.

Nâng cao chất lượng sản phẩm gia công xuất khẩu

Gắn chặt với việc thâm nhập thị trường là hàng hóa phải có chất lượng tốt. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ tay nghề…Để nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty cần thực hiện các giải pháp sau:

Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu nhận từ bên đặt gia công trước khi tiến hành gia công. Nếu nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng thì phải trả lại bên đặt gia công, buộc họ phải giao nguyên vật liệu khác đảm bảo chất lượng hơn.

Sau khi nhận đủ nguyên vật liệu, phải tổ chức bảo quản chu đáo, tránh xuống cấp sản phẩm chất của nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất.

Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối.

Đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại hơn. Nó có tác động làm tăng năng suất lao động, nâng cao tính linh hoạt của sản xuất, nâng cao chất lượng của sản phẩm, giảm chi phí điều hành quản lý xí nghiệp.

Củng cố điều kiện sản xuất Nâng cấp nhà xưởng

18

Page 19: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Thay đổi hình thức gia công

Việc thay đổi hình thức gia công ở nước ta, từ nhận nguyên liệu giao thành phẩm sang hình thúc cung cấp một phần nguyên liệu và tiến tới hình thức mua bán đứt đoạn là việc làm cần thiết. Có thay đổi như vậy thì chúng ta mới có thể thu được lợi nhuận cao, tăng cường được chức năng kinh doanh của mình và tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu trực tiếp ở nước ta trong những năm đó.

Để chuyển đổi được hình thức gia công, nước ta cần phải tập trung khai thác các thế mạnh như liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để khai thác kịp thời các nguồn lực phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, để trao đổi thông tin về giá cả gia công cũng như giá cả nguyên vật liệu, giá cả tiêu dùng sản phẩm, mở rộng thị trườn xuất khẩu, khai thác nguồn vốn tuef bên ngoài để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.

Qua nhiều năm gia công xuất khẩu giày, chúng ta đã dần làm quen với môi trường kinh doanh quốc tế, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quản lý và điều hành sản xuất, biết được mặt hàng thị trường quốc tế ưa dùng, đồng thời rút ra được đặc điểm, tính chất, cơ cấu chủng loại, chất lượng mẫu mã của các hàng hóa đó. Từ đó chúng ta nên tận dụng cơ sở vật chất và kinh nghiệm đã được tích lũy qua nhiều năm làm hàng gia công xuất khẩu.

III. Kết luận

Gia công xuất khẩu là một khâu quan trọng trong phát triển nền kinh tế. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đảng và nhà nước ta phải luôn chú trọng hoạt động gia công xuất khẩu, đặc biệt là gia công xuất khẩu giày dép vì đây là ngành kinh tế có rất nhiều tiềm năng.

Tóm lại, từ những phân tích trên ta thấy rõ được thực trạng gia công xuất khẩu giầy ở Việt Nam. Những năm vừa qua , gia công xuất khẩu giày dép đã đạt dược những thành tựu lớn và đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp tích cực vào công cuộc ổn định và phát triển kinh tế xã hội

19

Page 20: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

của đất nước. Tuy nhiên, hoạt động gia công ở nước ta vẫn gặp phải nhiều khó khăn và thách thức. Vì vậy để tiếp tục xây dựng và phát triển ngành gia công giày dép, nước ta cần có những biện pháp tích cực nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công xuất khẩu trong những năm tới.

20

Page 21: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

Tài liệu tham khảo

1. Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế - đh thương mại

2. Cẩm nang nghiệp vụ xuất khẩu

3. Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế - nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu

4. Quản lí và nghiệp vụ kinh doanh quốc tế

5. Thời báo kinh tế Việt Nam

21

Page 22: gia công quốc tế mặt hàng giầy da Việt Nam

Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế 1.2

MỤC LỤC

Trang

I. Cơ sở lí thuyết 2

I.1. Khái niệm 2

I.2. Đặc điểm 2

I.3. Tác dụng 3

I.3.1. Tác dụng với bên dặt gia công 4

I.3.2. Tác dụng với bên nhận gia công 4

I.4. Các loại hình gia công 4

II. Hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam

7

II.1. Giới thiệu chung về mặt hàng giầy da xuất khẩu tại Việt Nam 7

II.2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giầy da tại Việt Nam.

9

II.3. Cơ hội 12

II.4. Hạn chế 14

II.5. Giải pháp thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu mặt hàng giày 17

III. Kết luận 19

22