Gi y chuy i sản xu ng h i ng bằng sông Cửu Long: Nghiên ...
Transcript of Gi y chuy i sản xu ng h i ng bằng sông Cửu Long: Nghiên ...
72 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi sản xuất lúa theo hướng hữu cơ tại
Đồng bằng sông Cửu Long: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Vĩnh Long
và các ngụ ý chính sách
Recommendations to convert from conventional to organic rice
production in the Mekong Delta: Vinh Long province case study and
policy implications
Khổng Tiến Dũng1*
1Trường Đại học Cần Thơ, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: [email protected]
THÔNG TIN TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS. econ.vi.17.1.61.2022
Ngày nhận: 11/03/2020
Ngày nhận lại: 30/03/2020
Duyệt đăng: 20/04/2020
Từ khóa:
chuyển đổi; hiệu quả tài chính;
lúa hữu cơ; Vĩnh Long
Keywords:
conversion; financial
efficiency; organic rice; Vinh
Long
Nghiên cứu này phân tích thực trạng sản xuất và tính toán hiệu
quả tài chính của mô hình sản xuất lúa thông thường và mô hình
lúa theo hướng hữu cơ tại tỉnh Vĩnh Long. Nghiên cứu sử dụng
hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên Cobb-Douglas theo phương pháp
ước lượng hợp lý cực đại (Maximum Likelihood Estimation -
MLE) nhằm tìm hiểu các nhân tố tác động đến lợi nhuận chuẩn hóa
của mô hình sản xuất lúa. Ngoài ra, mô hình nhị phân Logistic cũng
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi từ mô
hình truyền thống sang mô hình hữu cơ. Kết quả phân tích xác định
mặc dù còn nhiều khó khăn như công lao động cao và chi phí sử
dụng phân sinh học chiếm gần 50% trong cơ cấu chi phí, mô hình
hữu cơ vẫn có lợi nhuận khoảng 1.4 triệu đồng/1,000m2 tương
đương mô hình truyền thống do giá bán cao và được bao tiêu sản
phẩm. Mô hình phân tích xác định được các hộ có diện tích sản
xuất lớn mong muốn chuyển sang mô hình hữu cơ, trong khi tuổi
chủ hộ và những hộ có thu nhập từ các nguồn khác ngoài lúa là rào
cản chính để nông hộ chuyển đổi.
ABSTRACT
This study aims to analyse the current production situation and
estimate the financial efficiency of conventional and organic rice
production in Vinh Long province. The Cobb-Douglas random
profit margin function using the Maximum Likelihood Estimation
(MLE) was employed to identify the determinants affecting the
standardized profitability of the rice production using. Besides, the
Binary Logistic model also identifies factors that influence the
decision to convert from traditional to organic rice production. The
results find that, although there are some challenges such as high
labor cost and high spending for biological fertilizer accounting
about 50% of the total cost, the organic production still achieve
about 1.4 million VND/1,000m2 which is equivalent to traditional
rice production because of the high selling price and consumption
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 73
contract. This research also reveals that households with large
production areas intend to convert to organic production, while
household head age and those with incomes from other sources are
the main barriers for farmers to switch to organic rice production.
1. Giới thiệu
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là đơn vị đi đầu về xuất khẩu lúa gạo,
trái cây và thủy sản của cả nước. Mỗi năm, khu vực này xuất khẩu hơn 90% lượng gạo của cả
nước, tương ứng với hơn 20% thị phần toàn cầu. Lượng xuất khẩu này mang lại kim ngạch
khoảng 02 tỷ USD cho Việt Nam. Tính đến tháng 04/2017, ĐBSCL đóng góp 54% sản lượng
lúa, 70% sản lượng thủy sản nuôi trồng, và 36.5% lượng trái cây cả nước (Cổng thông tin điện
tử Vĩnh Long, 2018). Song song với những thành tựu đó, ngành hàng này hiện nay vẫn đang gặp
phải những khó khăn trong sản xuất như: quy mô sản xuất đơn lẻ, phương thức canh tác lạc hậu,
năng lực sản xuất yếu kém, năng suất thấp và giá thành chưa ổn định (Vo & Nguyen, 2011), nhất
là tình trạng ô nhiễm môi trường do sử dụng quá mức thuốc bảo vệ thực vật và phân bón. Do đó,
việc định hướng sản xuất lúa gạo theo qui chuẩn về chất lượng, giảm chi phí đầu tư phân hóa
học, thuốc bảo vệ thực vật để nâng cao giá trị ngành hàng và đảm bảo sử dụng bền vững nguồn
lực sản xuất là cần thiết. Sự chuyển đổi từ canh tác lúa gạo truyền thống sang canh tác lúa gạo
hữu cơ được phát động trong thời gian gần đây sẽ là một trong những giải pháp đáp ứng cho
định hướng trên (Nguyen et al., 2020). Ngoài ra, nhu cầu của người tiêu dùng gạo hiện nay đối
với sản phẩm sạch và chất lượng ngày càng cao do mức sống cải thiện, nhất là ở khu vực thành
thị. Điều này dẫn tới nhu cầu về gạo hữu cơ tăng lên. Theo đề án tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo,
trong năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho Cục trồng trọt tiến hành
xây dựng và hoàn thành đề án vùng sản xuất lúa theo quy trình GAP và hữu cơ, giảm phát thải
khí nhà kính (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2016). Theo đó, vào năm 2025 diện tích
lúa hữu cơ gieo trồng phải đạt từ 50,000 đến 70,000ha và phải đạt khoảng từ 100,000 đến
150,000ha vào năm 2030. Như vậy, việc đẩy mạnh phát triển lúa hữu cơ đang được Nhà nước
đặt biệt quan tâm trong giai đoạn sắp tới nhằm tăng giá trị thương phẩm và uy tín cho sản phẩm
lúa gạo của Việt Nam.
Thực tế cho thấy một số tỉnh thành ở khu vực ĐBSCL, nhất là tỉnh Vĩnh Long, là một trong
những địa phương đi đầu, đã mạnh dạn thay đổi từ hệ thống trồng lúa thông thường sang mô hình
trồng theo hướng hữu cơ thí điểm ở một số khu vực. Hệ thống trồng lúa hữu cơ này bước đầu đã
mang lại nhiều kết quả vượt trội hơn so với mô hình canh tác truyền thống như: lượng phân bón
và thuốc bảo vệ thực vật sử dụng đã giảm, cây lúa tăng trưởng tốt hơn, ít sâu bệnh, và giá bán cao
hơn lúa truyền thống (Cổng thông tin điện tử Vĩnh Long, 2018). Bên cạnh hiệu quả về kinh tế, về
lâu dài, mô hình được kỳ vọng làm thay đổi nhận thức và tập quán của người nông dân chuyển từ
sử dụng thuốc hóa học sang sử dụng phân sinh học, từ đó hạn chế được ô nhiễm nguồn nước và
rác thải, nguồn lợi thủy sản được phục hồi, môi trường đất được cải thiện.
Tuy nhiên, đây là mô hình mới được áp dụng thử nghiệm, năng suất chưa cao như mong
đợi. Do đó, việc tìm hiểu tình hình sản xuất và sự khác biệt về hiệu quả tài chính giữa phương thức
canh tác lúa hữu cơ và mô hình thông thường cần được tìm hiểu nhằm xác định thêm những dữ
liệu cần thiết cho các nhà làm chính sách để chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ phù
hợp, cải thiện môi trường sống, giúp người dân bảo vệ sức khỏe khỏi các tác động của phân thuốc
hóa học. Các nội dung tiếp theo của bài nghiên cứu này được trình bày như sau: (1) tìm hiểu tình
hình trồng lúa theo phương pháp truyền thống và hữu cơ ở tỉnh Vĩnh Long; (2) tính toán và so
sánh các chỉ tiêu tài chính của mô hình truyền thống và mô hình hữu cơ; (3) phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và các nhân tố tác động đến ý định chuyển đổi từ mô hình trồng
74 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
lúa thường sang lúa hữu cơ của nông hộ. Dựa trên kết quả phân tích, những hàm ý chính sách sau
đó được đề xuất để phát triển mô hình lúa theo hướng hữu cơ tại tỉnh Vĩnh Long và ĐBSCL.
2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các thông tin thu thập được từ tham khảo ý kiến của cán bộ địa phương thuộc Chi
cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Vĩnh Long và quá trình khảo sát sơ bộ, 148 hộ được phỏng
vấn trực tiếp theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện bao gồm 70 hộ hiện đang canh
tác lúa theo hướng hữu cơ và 78 hộ canh tác theo phương thức truyền thống ở xã Loan Mỹ, Ngãi
Tứ và Mỹ Lộc huyện Tam Bình. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phương
pháp so sánh để mô tả và phân tích những đặc điểm kinh tế xã hội của nông hộ và những yếu tố
có liên quan đến sản xuất. Các chỉ tiêu tính toán về doanh thu, các khoản chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận
trên đơn vị diện tích được dùng để đo lường kết quả sản xuất của nông hộ và các chỉ số tài chính
như: tỷ số doanh thu trên chi phí sản xuất (DT/CP), tỷ số lợi nhuận trên chi phí (LN/CP), lợi nhuận
trên doanh thu (LN/DT), lợi nhuận trên lao động gia đình (LN/LĐGĐ) nhằm xác định hiệu quả tài
chính của nông dân. Khi đánh giá hiệu quả tài chính, những nghiên cứu trước đây thường sử dụng
những chỉ tiêu này để phân tích (Ha & Duong, 2014; La & Mai, 2015; Ngo & Truong, 2015;
Nguyen & Vo, 2017). Tuy nhiên, theo lược khảo tài liệu nghiên cứu, hiện nay các nghiên cứu về
hiệu quả tài chính của mô hình trồng lúa hữu cơ vẫn chưa được thực hiện nhiều, nhất là có sự so
sánh với các mô hình truyền thống.
Nhằm xác định sự khác biệt về hiệu quả tài chính của mô hình thông thường và mô hình
hữu cơ, tác giả sử dụng kiểm định t (t-test) để kiểm định trung bình hai mẫu độc lập đối với các
giá trị có liên quan đến đặc điểm của nông hộ, chi phí sản xuất, doanh thu, thu nhập, và các chỉ
tiêu tài chính.
Bên cạnh đó, hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên Cobb-Douglas được phân tích để xác định
các yếu tố tác động đến lợi nhuận chuẩn hóa của nông hộ bằng phương pháp ước lượng hợp lý cực
đại (Maximum Likelihood Estimation - MLE). Hàm lợi nhuận được xây dựng từ hàm sản xuất dựa
trên cách tiếp cận đo lường hiệu quả bằng phương pháp đối ngẫu (duality approach). Trong đó,
ứng với một trình độ công nghệ và những yếu tố đầu vào cố định nhất định, hàm lợi nhuận biểu
diễn lợi nhuận biến đổi của nông trại như là một hàm số của giá đầu vào và giá đầu ra biến đổi, và
khối lượng của các đầu vào cố định. Mô hình lý thuyết của hàm lợi nhuận được xây dựng như sau:
1 2 1 2( , ,...., ; , ,...., )m ny f x x x z z z
Trong đó y là khối lượng đầu ra, xi là những đầu vào biến đổi và zi là những đầu vào cố
định. Hàm lợi nhuận có thể viết lại như sau:
1 2 1 2
1
( , ,...., ; , ,...., )m
y m n i ip f x x x z z z p x
Trong đó py là giá đầu ra và pi là giá đầu vào biến đổi thứ i, i-1, 2, … , m. Dựa vào điều
kiện bậc nhất của tối đa hóa lợi nhuận của nhà sản xuất, hàm lợi nhuận chuẩn hóa được xây dựng.
Lợi nhuận này có liên quan đến giá tương đối giữa đầu vào và đầu ra, chứ không phải giá tuyệt đối
trong hàm lợi nhuận. Cụ thể hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên Cobb-Douglas được tính toán có dạng
tổng quát như sau:
ii XXXXXXX 776655443322110 lnlnlnlnlnlnlnln
Trong đó i là mức lợi nhuận chuẩn hóa (hay lợi nhuận đơn vị sản lượng UOP) của nông
hộ thứ i, giá trị này được xác định bằng tổng doanh thu trừ đi các chỉ tiêu của chi phí biến đổi bao
gồm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và chi phí giống, sau đó chia cho giá lúa, 0 là hệ số tự do
(2)
(3)
(1)
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 75
(hệ số góc của hàm Cobb-Douglas), i là hệ số tương quan thứ i ứng với các biến độc lập như Xi
(i = 0, 1, 2, …, 7). Các giá trị i đại diện cho mức ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với lợi
nhuận. Chúng còn đo lường hệ số co giãn của lợi nhuận theo số lượng của các yếu tố đầu vào vì
chúng cho biết khi các yếu tố đầu vào tăng lên 1% thì làm cho lợi nhuận thay đổi i phần trăm
(%), mức thay đổi này cùng chiều hay nghịch chiều tùy thuộc vào dấu của giá trị i , Xi là giá
chuẩn hóa của các yếu tố đầu vào và các yếu tố cố định khác, i là sai số hỗn hợp của mô hình.
Dựa vào khung lý thuyết sản xuất và các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan, các biến đưa vào
mô hình nghiên cứu được diễn giải trong Bảng 1. Ngoài các biến là giá chuẩn hóa của các nguồn
lực đầu vào theo lý thuyết hàm sản xuất (Debertin, 2012), việc áp dụng kỹ thuật mới và có tập
huấn cũng được xem xét. Lược khảo các tài liệu trước đây như của Ha và Duong (2014) và Duong
và Nguyen (2014), việc áp dụng khoa học kỹ thuật và nông hộ khi được tập huấn cũng có tác động
rõ rệt lên mức hiệu quả tài chính của mô hình sản xuất trong nông nghiệp.
Bảng 1
Các biến độc lập được sử dụng trong mô hình hàm lợi nhuận chuẩn hóa
Biến độc lập Ký hiệu Mô tả biến Dấu
kỳ vọng
lnPnpk X1 Giá phân NPK chuẩn hóa (giá 1kg phân NPK/giá 1kg
lúa bán ra) -
lnPure X2 Giá phân URE chuẩn hóa (giá 1kg phân URE/giá 1kg
lúa bán ra) -
lnPdap X3 Giá phân DAP chuẩn hóa (giá 1kg phân DAP/giá 1kg
lúa bán ra) -
lnPthuoc X4 Chi phí mua thuốc bảo vệ thực vật (1,000
đồng/1,000m2). -
lnPgiong X5 Giá chuẩn hóa của 1kg giống (giá 1kg giống/giá 1kg lúa
bán ra) -
lnldgd X6 Số thành viên trong gia đình tham gia sản xuất lúa (số
ngày công/1,000m2) +
taphuan X7 Biến giả (1 = nông hộ có tham gia tập huấn; 0 = không
tham gia tập huấn) +
Nguồn: Tổng hợp từ lược khảo tài liệu và khảo sát sơ bộ (2019)
Trong đó X1 (Pnpk): Là giá đầu vào của một ký phân Npk chuẩn hóa được tính bằng giá
1 ký phân Npk chia cho giá 1kg lúa bán ra. Khi giá phân Npk tăng lên sẽ trực tiếp làm tăng tổng
chi phí sản xuất và ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông hộ bị giảm xuống. Do đó kỳ vọng hệ số của
biến này là âm (-).
X2 (Pure): Là giá phân Ure được chuẩn hóa được xác định bằng giá 1kg phân Ure chia cho giá
1kg lúa bán ra. Giá các yếu tố đầu vào tăng lên sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, do đó khi
giá phân Ure tăng lên sẽ làm giảm lợi nhuận và biến này được kỳ vọng mang dấu âm (-).
X3 (Pdap): Là giá của phân Dap được chuẩn hóa, được xác định bằng công thức giá 1kg
phân Dap chia giá 1kg lúa bán ra. Khi giá Dap tăng lên sẽ làm giảm lợi nhuận của nông hộ do chi
phí đầu vào tăng lên, và biến này kì vọng mang dấu âm (-).
X4 (Pthuoc): Là tổng chi phí thuốc nông dược được tính bằng tổng các loại thuốc cỏ, thuốc
sâu, thuốc bệnh, thuốc dưỡng đơn vị tính là đồng/1,000m2. Khi chi phí nông dược bỏ ra nhiều thì
tổng chi phí sản xuất sẽ tăng điều này làm ảnh hưởng ngược chiều đến lợi nhuân, do đó biến chi
phí thuốc nông dược được kỳ vọng mang dấu âm (-).
76 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
X5 (Pgiong): Giá giống chuẩn hóa được xác định bằng giá của 1kg giống chia cho giá lúa
bán ra, là số tiền mà nông hộ bỏ ra để mua giống gieo sạ. Trên thực tế, vẫn còn một số nông hộ
còn sử dụng liều lượng cao hơn mức khuyến cáo và mua giống đại trà từ các vụ mùa trước để lại
hoặc của các đại lý lúa giống gần nhà nên giá giống của nông hộ có thường thấp hoặc cao hơn giá
của các trung tâm giống và biến này được kỳ vọng mang dấu âm (-).
X6 (Lnldgd): là số thành viên trong gia đình có tham gia sản xuất lúa, chỉ tiêu này được kỳ
vọng sẽ làm tăng hiệu quả của phương thức canh tác do được đầu tư quan tâm nhiều hơn khi công
lao động gia đình đầu tư nhiều hơn.
X7 (Taphuan): biến giả, thể hiện chủ hộ hoặc người sản xuất chính có được tập huấn không.
Biến này được kỳ vọng mang dấu dương và có tác động đến lợi nhuận của mô hình sản xuất.
Bên cạnh đó, hàm nhị phân Logistic được phân tích nhằm xây dựng các luận cứ khoa học
đề xuất giải pháp tạo động cơ thúc đẩy người dân tham gia vào mô hình sản xuất theo hướng hữu
cơ trong tương lai, các yếu tố tác động đến quyết định tham gia mô hình trồng lúa hữu cơ cũng
được phân tích trong mô hình này có dạng tổng quát như sau:
Trong đó: P(Y = 1) =P0: Xác suất xảy ra sự kiện là xác suất để hộ gia đình đồng ý chuyển
đổi sang trồng lúa hữu cơ, P(Y = 0) = 1- P0: Xác suất không xảy ra sự kiện là xác suất để hộ gia
đình không tham gia mô hình trồng lúa hữu cơ, Xi: Các biến độc lập (i = 0, 1, 2, …, n), Ln: Log
của cơ số e (e = 2.714), với hệ số Odds như sau:
Odds = P0
1-P0 =
P (Xác suất chuyển đổi sang mô hình hữu cơ)
P (Xác suất không chuyển đổi sang mô hình hữu cơ) (5)
Có thể viết lại hàm Logistic dưới dạng:
Ln(Odds) = β0 + β1X1 + β2X2 + β3X3 +β4X4 + β5X5 (6)
Các hệ số hồi quy này sẽ được tính toán bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng hợp
lý cực đại (Maximum Likehood Estimation). Chủ hộ là yếu tố quan trọng nhất quyết định hướng
sản xuất theo mô hình nào trong nông hộ, ngoài ra lực lượng lao động cũng rất cần thiết và quan
trọng trong các mô hình sản xuất nông nghiệp (Debertin, 2012). Do đó, các biến được đưa vào mô
hình bao gồm tuổi, trình độ học vấn của chủ hộ (Bảng 2). Do mô hình hữu cơ còn khá mới, còn
một số hạn chế ban đầu, tuy nhiên về lâu dài sẽ mang lại lợi ích to lớn, đảm bảo chuyển đổi nông
nghiệp theo hướng chất lượng cao, bảo vệ sức khỏe nông dân và giảm ô nhiễm môi trường. Do đó,
dựa trên lược khảo tài liệu nghiên cứu và số liệu phân tích, chỉ có 05 biến độc lập được đưa vào
mô hình nhị phân và các biến này đều có liên quan đến nguồn lực của nông hộ.
Bảng 2
Các biến trong mô hình nhị phân Logistic
Tên biến Ký hiệu Diễn giải Kỳ vọng
Dientich X1 Diện tích canh tác lúa (1,000m2) +
Tuoi X2 Tuổi của chủ hộ (năm) +
Hocvan X3 Trình độ học vấn của chủ hộ +
Thanhvien X4 Số thành viên trong hộ (người) +
Thunhapkhac X5
Thu nhập khác (1 = nông hộ có nguồn thu nhập khác, 0 =
không có thu nhập khác) -
Nguồn: Tổng hợp từ lược khảo tài liệu và khảo sát sơ bộ (2019)
ii XXXYP
YPLn
...
)0(
)1(22110
0
0
01 P
PO
(4)
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 77
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thông tin chung về đặc điểm của nông hộ
Kết quả khảo sát cho thấy lao động tham gia sản xuất lúa ở cả hai mô hình chủ yếu là tuổi
trung niên (khoảng trên dưới 50 tuổi). Trình độ học vấn giữa hai nhóm nông hộ cũng tương đối
đồng nhất (trung bình cấp 02) và giá trị trung bình của diện tích canh tác khoảng 7.4 ha và 6.4 ha
lần lượt ở nhóm truyền thống và hữu cơ. Số lao động trực tiếp tham gia sản xuất từ 1 đến 3 lao
động trong một nông hộ. Sự khác biệt của những giá trị này không có ý nghĩa về mặt thống kê, nói
một cách khác, có sự đồng nhất về đặc điểm kinh tế xã hội giữa hai nhóm nông hộ, từ đó đảm bảo
không có sự sai lệch nhiều (bias) khi tìm hiểu sự khác biệt về hiệu quả tài chính từ hai nhóm này.
Kết quả khảo sát cho thấy, mô hình lúa truyền thống có 24/78 hộ được tập huấn kỹ thuật
chiếm 31% và có 54/78 nông dân không tham gia tập huấn kỹ thuật chiếm 69%, với nhiều nguyên
nhân được xác định, như cảm thấy không cần thiết, dựa vào kinh nghiệm và các buổi tập huấn
phần lớn là để giới thiệu quảng bá phân thuốc mới của các công ty thuốc bảo vệ thực vật. Trong
đó, 100% các hộ tham gia mô hình trồng lúa hữu cơ có tập huấn kỹ thuật (sự khác biệt với ý nghĩa
thống kê 1%). Đây là lợi thế, tuy nhiên cũng là khó khăn ban đầu của các hộ canh tác theo hướng
hữu cơ do nếu làm sai quy trình, không tuân thủ các quy tắc, sử dụng các loại phân thuốc BVTV
thì sản phẩm sẽ không được công ty thu mua hoặc mua với giá rẻ. Thứ hai, đây là mô hình còn
khá mới đối với người nông dân do chưa quen về liều lượng sử dụng phân thuốc cũng như chưa
biết nhiều về các loại bệnh nên cần được tham gia tập huấn. Đó cũng là lý do 100% hộ canh tác
theo hướng hữu cơ hiện nay có tham gia hợp tác xã để được bao tiêu và được hướng dẫn về mặt
kỹ thuật trong khi chỉ 1 hộ trong mô hình truyền (HTX) thống tham gia HTX. Một hạn chế khác
của mô hình truyền thống là các nông hộ còn bị động trong khâu tìm hiểu về thông tin giá cả thị
trường, chủ yếu bằng tivi, radio và cò lúa. Ngược lại, các hộ khi gia nhập HTX sẽ được cung cấp
thông tin từ chính các HTX, công ty thu mua sẽ thông báo trước giá thu mua cho nông hộ bằng
cách tổ chức họp mặt. Như vậy, các tỉnh muốn triển khai các mô hình sản xuất đạt kết quả, cần
khuyến khích nông dân tham gia vào các tổ sản xuất, kết quả này phù hợp với kết luận trong nghiên
cứu của Duong và Nguyen (2014).
3.2. So sánh chi phí của hai mô hình
Bảng 3
So sánh lượng giống giữa hai mô hình
Chi phí giống Truyền thống Hữu cơ Chênh lệch
Đông Xuân Hè Thu Đông Xuân Hè Thu Đông Xuân Hè Thu
Lượng giống
(kg/1000m2) 18.11 18.59 13.0 12.52 5.11*** 6.07***
Đơn giá
(đồng/kg) 12,282 12,295 13,000 14,000 -718*** -1,705***
Ghi chú: *** tương ứng với mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ khảo sát (2019)
Cả hai vụ Đông Xuân và Hè Thu lượng giống gieo sạ từ hình thức truyền thống lớn hơn ở
mô hình hữu cơ và mức chênh lệch khoảng 5kg/1,000m2 với mức ý nghĩa 1%. Nguyên nhân dẫn đến
sự chênh lệch là do các hộ canh tác lúa thông thường còn dựa vào kinh nghiệm của bản thân với tâm
lý sạ dày trúng hơn sạ thưa dẫn đến sự lãng phí nguồn lực. Đối với mô hình hữu cơ các nông hộ căn
cứ vào các kỹ thuật canh tác đã được tập huấn, ngoài ra một số hộ áp dụng kỹ thuật sạ hàng nên giảm
được lượng giống từ đó giảm được dịch bệnh và dẫn tới giảm chi phí sản xuất. Hiện tại, giá giống ở
78 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
cách thức canh tác theo hướng hữu cơ cao hơn cách thức cũ do giống hữu cơ do HTX phân phối và
có chất lượng cao hơn, trong khi các hộ mô hình truyền thống sử dụng giống vụ trước để lại hoặc
mua của các hộ khác nên giá của mô hình hữu cơ cao hơn khoảng 1 - 1.5 ngàn đồng/1,000m2, mặc
dù có ý nghĩa thống kê 1% nhưng mức độ chênh lệch không nhiều, có thể chấp nhận được.
Bảng 4
So sánh công lao động gia đình giữa 2 mô hình (ngày công/1,000m2)
Vụ Truyền thống Hữu cơ Chênh lệch
Đông Xuân 5.83 6.14 -0.31ns
Hè Thu 6.56 6.89 -0.33ns
Nguồn: Số liệu khảo sát thực tế (2019)
Do mô hình hữu cơ tương đối mới nên đòi hỏi công lao động gia đình nhiều hơn ở tất cả
các khâu chăm sóc, ngoài ra, do dùng ít phân thuốc và 100% phân sinh học nên cần dành nhiều
thời gian trong các khâu chăm sóc mới đạt được năng suất tốt. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai mô
hình không có ý nghĩa thống kê (Bảng 4).
Bảng 5
Cơ cấu chi phí so sánh giữa hai mô hình và hai vụ (đồng/1,000m2)
Khoản mục Truyền thống Tỷ trọng
(%) Hữu cơ
Tỷ trọng
(%) Chênh lệch
Vụ Đông Xuân
Chi phí làm đất 153,077 11.79 170,857 11.56 -17,780***
Chi phí gieo sạ 222,154 17.11 169,000 11.44 53,154***
Chi phí làm cỏ tưới tiêu 32,647 2.51 27,224 1.84 5,404ns
Chi phí phân bón 472,941 36.42 806,095 54.55 -333,154***
Chi phí thuốc nông dược 170,596 13.14 55,924 3.79 114,672***
Chi phí thu hoạch 247,173 19.03 248,586 16.82 -1,413ns
Tổng cộng 1,298.588 100 1,477.706 100 -179,118***
Vụ Hè Thu
Chi phí làm đất 153,077 11.62 170,867 10.61 -17,790***
Chi phí gieo sạ 228,308 17.34 175,280 10.88 53,028***
Chi phí làm cỏ tưới tiêu 32,741 2.49 29,098 1.81 3,643ns
Chi phí phân bón 487,947 37.05 833,116 51.73 -345,169***
Chi phí thuốc nông dược 168,628 12.81 153,600 9.54 15,028ns
Chi phí thu hoạch 246,187 18.69 248,586 15.43 -2,399ns
Tổng cộng 1,316.888 100 1,610.538 100 -293,650***
Ghi chú: *** tương ứng với mức ý nghĩa 1%, ns không có ý nghĩa thống kê
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ khảo sát (2019)
Trong cơ cấu chi phí của cả hai vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu và cả hai cách thức canh tác,
phân bón chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi phí. Ở vụ Đông Xuân, mô hình hữu cơ và mô
hình truyền thống chiếm lần lượt 55% và 35%, mức chênh lệch khoảng 300 ngàn đồng/1,000m2
với mức ý nghĩa 1%. Mức chênh lệch này cũng không thay đổi nhiều ở vụ Hè Thu. Cơ cấu các
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 79
khoản chi phí khác cũng tương tự nhau giữa hai mô hình trong tổng chi phí. Một số kết quả nghiên
cứu đáng quan tâm ở đây, (1) tỷ trọng của chi phí thuốc nông dược giảm đáng kể ở mô hình hữu
cơ, nhất là ở vụ Đông Xuân có sự chênh lệch ở mức ý nghĩa 1%; (2) mức chênh lệch ở chi phí gieo
sạ cũng rất đáng kể, điều này là do lượng giống ở mô hình hữu cơ sử dụng vừa phải và đúng kỹ
thuật, mức chênh lệch ở hai vụ có ý nghĩa 1% và khoảng 50 ngàn/1,000m2 ; (3) có hai khoản chi
phí mô hình hữu cơ cao hơn là chi phí làm đất và chi phí phân bón, sự chênh lệch đều có ý nghĩa
1%, kết quả này là do khâu làm đất phải kỹ lưỡng hơn ở mô hình hữu cơ để đảm bảo độ sạch, phân
hữu cơ giá hiện tại tương đối cao. Các khoản mục chi phí khác mô hình truyền thống cao hơn, tuy
nhiên, vì việc sử dụng phân hữu cơ quá cao, do đó, tổng chi phí mô hình truyền thống hiện tại vẫn
nhỏ hơn mô hình theo hướng hữu cơ. Tuy nhiên, khi nông dân đã quen với cách thức sản xuất lúa
hữu cơ và quản lý liều lượng phân sử dụng tốt hơn, giá tốt hơn, tổng chi phí mô hình này được kỳ
vọng sẽ giảm xuống đáng kể.
3.3. So sánh năng suất, doanh thu, lợi nhuận và tình hình tiêu thụ
Bảng 6
So sánh năng suất giữa 2 mô hình (kg/1,000m2)
Vụ Mô hình Trung bình Độ lệch
chuẩn
Thấp
nhất
Cao
nhất
Chênh
lệch
Đông Xuân Truyền thống 737.1 118.9 550 1,000
199.8***
Hữu cơ 537.3 120.8 290 900
Hè Thu Truyền thống 711.7 103.7 500 1,000
168.2***
Hữu cơ 543.5 125.5 320 940
Ghi chú: *** tương ứng với mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ khảo sát (2019)
Theo nhận định của chuyên gia nông nghiệp tại địa bàn nghiên cứu, canh tác theo hướng
hữu cơ giai đoạn đầu năng suất thấp hơn 25% so với canh tác thông thường, kết quả của nghiên
cứu này cũng tương tự. Cụ thể, mức năng suất trung bình ở vụ Đông Xuân của mô hình truyền
thống là 737.1kg/1,000m2 (thấp nhất là 550kg/1,000m2, cao nhất là 1,000kg/1,000m2), trong khi
chỉ tiêu này của mô hình hữu cơ chỉ đạt 537.3kg/1,000m2 thấp hơn 199.8kg/1,000m2 so với truyền
thống, sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Ở vụ Hè Thu năng suất trung bình của
mô hình truyền thống là 711.7kg/1,000m2 cao hơn mô hình hữu cơ 168.2kg/1,000m2 với mức ý
nghĩa thống kê 1%. Sự khác biệt này là do nông dân mới thực hiện chuyển đổi từ canh tác truyền
thống sang hữu cơ, còn nhiều vấn đề chưa quen và lượng phân thuốc hữu cơ sử dụng tác động
chưa thực sự mạnh như phân thuốc hóa học. Tuy nhiên, mô hình canh tác hữu cơ mang đến nhiều
tác động tích cực và bền vững khi canh tác trong thời gian dài.
Bảng 7
Các khoản mục đo lường lợi nhuận ở hai mô hình (đồng/1,000m2)
Khoản
mục Mô Hình
Trung
bình Độ lệch chuẩn Thấp nhất Cao nhất Chênh lệch
Vụ Đông Xuân
Doanh thu Truyền thống 3,625.321 582,798 2,716.000 4,850.000
-247.662ns
Hữu cơ 3,872.983 8,439.659 2,088.000 6,480.000
Thu nhập Truyền thống 2,326.733 592,219 1,193.167 3,631.091
-68.544ns
Hữu cơ 2,395.276 839,659 600,900 4,857.400
80 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
Khoản
mục Mô Hình
Trung
bình Độ lệch chuẩn Thấp nhất Cao nhất Chênh lệch
Lợi nhuận Truyền thống 1,452.439 444,858 743,167 2,581.091
-21.409ns
Hữu cơ 1,473.848 808,631 900 3,657.400
Vụ Hè Thu
Doanh thu Truyền thống 3,747.987 543,927 2,650.000 5,300.000
-163.575ns
Hữu cơ 3,922.562 902,998 2,304.000 6,768.000
Thu nhập Truyền thống 2,431.100 506,594 1,557.686 3,830.250
130.076ns Hữu cơ 2,301.024 893,096 690,000 5,034.500
Lợi nhuận Truyền thống 1,447.149 409,792 677,289 2,517.750
178.982ns
Hữu cơ 1,268.167 847,380 19,500 3,834.500
Ghi chú: ns tương ứng không có ý nghĩa thống kê
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ khảo sát (2019)
Phát hiện khá thú vị của nghiên cứu này là mặc dù chi phí phát sinh ở hai mô hình có sự
chênh lệch với mức ý nghĩa 1% và cao hơn ở mô hình hữu cơ. Tuy nhiên, ở vụ Đông Xuân, chỉ
tiêu doanh thu, thu nhập và lợi nhuận của mô hình hữu cơ cao hơn so với mô hình truyền thống,
vụ Hè Thu thì doanh thu của mô hình mới cao hơn mô hình cũ, còn lại thu nhập và lợi nhuận thấp
hơn mô hình truyền thống. Tuy nhiên, tất cả sự khác biệt này đều không có ý nghĩa về mặt thống
kê. Cụ thể là doanh thu của mô hình truyền thống và hữu cơ ở vụ Đông Xuân lần lượt là 3,625.321
đồng/1,000m2 và 3,872.983 đồng/1,000m2, vụ Hè Thu mức chênh lệch khoảng 160 ngàn/1,000m2
và thấp hơn mức chênh lệch ở vụ Đông Xuân. Nguyên nhân của sự chênh lệch này không phải do
năng suất (mô hình hữu cơ thấp hơn 199kg/1,000m2) mà là do giá lúa hữu cơ (7,200 đồng/kg) cao
hơn truyền thống (4,921 đồng/kg).
Thu nhập được hiểu là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí (không tính
công lao động gia đình). Ở vụ Đông Xuân, thu nhập của nông hộ hữu cơ cao hơn truyền thống lần
lượt là 2,395.276 đồng/1,000m2 và 2,326.733 đồng/1,000m2, vụ Hè Thu cũng có mức thu nhập
tương tự. Tuy nhiên, vụ Hè Thu mô hình hữu cơ thấp hơn truyền thống khoảng 130 ngàn
đồng/1,000m2, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Lợi nhuận được tính là phần lãi mà
nông hộ nhận được sau khi trừ đi tất cả các khoảng chi phí sản xuất (có công lao động gia đình).
Ở cả hai vụ mức lợi nhuận nông hộ đạt được trung bình khoảng 1,450.000 đồng/1,000m2, chỉ vụ
hè Thu nhóm hữu cơ khoảng 1,300.000 đồng/1,000m2 (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê).
3.4. Các chỉ số tài chính của hai mô hình qua từng vụ
Bảng 8
Các chỉ số tài chính của 2 mô hình ở hai vụ
Đông Xuân Hè Thu
Chỉ tiêu Truyền
thống Hữu cơ
Chênh
lệch
Truyền
thống Hữu cơ
Chênh
lệch
Lao động gia đình
(ngày/1,000m2) 5.83 6.14 -0.31ns 6.56 6.89 -0.33ns
Doanh thu/chi phí (lần) 2.82 2.62 0.20ns 2.85 2.43 0.42***
Thu nhập/chi phí (lần) 1.82 1.62 0.20ns 1.85 1.43 0.42***
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 81
Đông Xuân Hè Thu
Chỉ tiêu Truyền
thống Hữu cơ
Chênh
lệch
Truyền
thống Hữu cơ
Chênh
lệch
Lợi nhuận/chi phí (lần) 1.14 0.99 0.15ns 1.11 0.79 0.32***
Lợi nhuận/lao động gia
đình (đồng/ngày công) 254,783 259,353 -4,570ns 228,388 191,698 36,690ns
Ghi chú: *** tương ứng với mức ý nghĩa 1%, ns không có ý nghĩa thống kê
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ khảo sát (2019)
Điểm phát hiện thú vị thứ hai trong nghiên cứu này là sự chênh lệch có ý nghĩa về mặt
thống kê chỉ ở vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân không có ý nghĩa về mặt thống kê. Mặt khác, mặc dù
sự khác biệt về các chỉ tiêu lợi nhuận, chi phí và doanh thu ở hai mô hình không có ý nghĩa về
mặt thống kê, các tỷ số tài chính lại có do giá trị tuyệt đối của các chỉ tiêu này rất nhỏ so với các
chỉ về doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Cụ thể, chỉ tiêu doanh thu/chi phí cho biết 01 đồng chi phí
nông hộ đầu tư vào sản xuất sẽ thu lại được bao nhiêu đồng doanh thu. Khi chỉ số này thấp hơn
01 thì người sản xuất không có lời, nếu chỉ số này bằng 1 thì người sản xuất hòa vốn và nếu chỉ
số này lớn hơn 01 thì người sản xuất có lời. Ví dụ, vụ Đông Xuân mô hình truyền thống chỉ số
doanh thu/chi phí là 2.82 nghĩa là 01 đồng chi phí đầu tư sản xuất của nông hộ thì nhận được 2.82
đồng doanh thu, còn ở mô hình hữu cơ chỉ số này là 2.62 nghĩa là 01 đồng chi phí đầu tư sản xuất
thì nông hộ ở mô hình hữu cơ sẽ thu lại được 2.62 đồng doanh thu. Chỉ số thu nhập/chi phí cho
biết 01 đồng chi phí bỏ ra để đầu tư vào sản xuất sẽ thu được bao nhiêu đồng thu nhập. Trong vụ
lúa Đông Xuân một đồng chi phí bỏ ra sản xuất lúa truyền thống sẽ nhận lại 1.82 đồng thu nhập
con số này cao hơn ở mô hình hữu cơ, với 01 đồng chi phí đầu tư thì hộ trồng lúa hữu cơ sẽ thu
được 1.62 đồng thu nhập. Chỉ số Lợi nhuận/chi phí cho biết 01 đồng chi phí bỏ ra của nông hộ sẽ
mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ số Lợi nhuận/lao động gia đình cho biết 01 ngày công
lao động gia đình sản xuất thì sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đáng chú ý, mặc dù số ngày
công lao động gia đình trung bình/1,000m2 từ hộ trồng lúa hữu cơ lớn hơn hộ trồng lúa truyền
thống nhưng lợi nhuận/công lao động gia đình ở mô hình hữu cơ lại cao hơn cho thấy rằng ở mô
hình hữu cơ nông hộ sử dụng lao động gia đình tốt hơn ở phương thức canh tác cũ. Ở vụ Hè Thu,
giá trị doanh thu/chi phí có sự khác biệt do mô hình hữu cơ các chi phí đầu vào sản xuất còn quá
cao nên tỷ số này còn thấp hơn ở mô hình truyền thống. Một chỉ số đáng chú ý ở vụ Hè Thu là
Lợi nhuận/công lao động gia đình có sự chênh lệch do ngày công ở hộ hữu cơ cao hơn do tốn
nhiều công chăm sóc hơn.
3.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của mô hình
Trong mô hình xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ sản xuất lúa, nhóm nông
hộ hữu cơ không được phân tích vì các đầu vào sử dụng tương đối giống nhau do được tập huấn
và làm theo tập huấn từ HTX, do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng
đến lợi nhuận của mô hình truyền thống, làm luận cứ khoa học đề xuất các hàm ý chính sách
khuyến khích chuyển đổi sang mô hình hữu cơ (Bảng 9).
Bảng 9
Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận chuẩn hóa
Biến số Đông Xuân Hè Thu
Hệ số Sai số chuẩn Hệ số Sai số chuẩn
lnnpk -0.739** 0.359 -0.885** 0.356
lnure 0.449ns 0.688 -0.071ns 0.567
82 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
Biến số Đông Xuân Hè Thu
Hệ số Sai số chuẩn Hệ số Sai số chuẩn
lndap 0.036ns 0.044 -0.006ns 0.049
lnthuoc -0.180** 0.073 0.016ns 0.068
lngiong -1.203*** 0.369 -1.458*** 0.311
lnldgd 0.470*** 0.087 0.202** -0.094
taphuan 0.096** 0.408 0.090*** 0.040
Hằng số 9.241*** 1.169 7.711*** 0.937
Số quan sát 78 78
Log likehood 32.921 34.609
Prob > chi2 0.000 0.000
Sigma 0.1040 0.0996
Ghi chú: ***, ** tương ứng với mức ý nghĩa 1% và 5%, ns không có ý nghĩa thống kê
Nguồn: Tính toán từ số liệu khảo sát (2019)
Kết quả phân tích cho thấy có mối quan hệ tuyến tính giữa lợi nhuận chuẩn hóa và ít nhất
một biến độc lập trong mô hình phân tích và các biến này có khả năng giải thích khá tốt cho lợi
nhuận của nông hộ (Prob > chi2 = 0.0000 < 1%). Có ít nhất hai biến tác động tích cực đến lợi
nhuận gồm tập huấn và công lao động gia đình, hai biến ảnh hưởng ngược chiều tới lợi nhuận
chuẩn hóa bao gồm giá chuẩn hóa của phân NPK, giá giống chuẩn hóa và có ý nghĩa thống kê ở
mức 5% hoặc 1%. Bên cạnh đó, nếu giá giống, giá phân giảm 1% thì lợi nhuận sẽ tăng lần lượt
0.7% ở vụ Đông Xuân và 0.9% ở vụ Hè Thu. Hệ số tập huấn đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%
và 1% ở vụ Đông Xuân và Hè Thu và mang dấu dương cho thấy nếu được tham gia tập huấn sẽ
giúp cho lợi nhuận của nông hộ tăng lên. Như vậy, nhìn chung các nông hộ ở mô hình truyền
thống còn sử dụng đầu vào chưa hợp lý và chưa đúng kỹ thuật làm giảm lợi nhuận của mô hình
canh tác. Ngoài ra, mô hình hữu cơ đòi hỏi nhiều lao động gia đình và hộ phải tham gia hợp tác
xã và tập huấn, từ đo sẽ tăng lợi nhuận của mô hình canh tác. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi cần có
thêm phân tích kỹ thuật cho cả hai mô hình để có kết luận chính xác nhất, làm cơ sở đề xuất thêm
nhiều giải pháp có liên quan, điều này được kỳ vọng sẽ thực hiện trong các nghiên cứu tiếp theo
của nhóm. Các biến giá chuẩn hóa của phân Ure và Dap mang dấu dương nhưng không có ý
nghĩa, nguyên nhân do các loại phân này không có sự khác biệt nhiều giữa các nông hộ so với
loại phân chính là NPK.
3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tham gia mô hình sản xuất hữu cơ của nhóm
nông hộ truyền thống
Kết quả ước lượng bằng mô hình hồi quy Logistic nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của
các biến đến quyết định tham gia mô hình theo hướng hữu cơ được trình bày trong Bảng 10.
Bảng 10
Kết quả mô hình nhị phân Logistic
Biến Hệ số Ảnh hưởng biên Sai số chuẩn
Diện tích 0.396 0.075** 0.037
Tuổi -0.300 -0.057** 0.029
Học vấn 1.657 0.314ns 0.328
Thành viên 0.838 0.159ns 0.158
Thu nhập khác -3.831 -0.727*** 0.237
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 83
Biến Hệ số Ảnh hưởng biên Sai số chuẩn
Số quan sát: 78
LR Chi2 = 40.00
Prob > Chi2 = 0.0000
Pseudo R2 = 0.7488
Ghi chú: ***, ** tương ứng với mức ý nghĩa 1% và 5%, ns không có ý nghĩa thống kê
Nguồn: Tính toán từ số liệu khảo sát (2019)
Kết quả phân tích mô hình Logit trong Bảng 10 với Prob > Chi2= 0.0000 cho thấy mô hình
phân tích có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết quả nghiên cứu xác định có 3 yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định này. Biến diện tích với hệ số của ảnh hưởng biên dương nghĩa là khi diện tích tăng lên
01 đơn vị thì xác suất hộ chuyển sang canh tác theo hướng hữu cơ tăng lên. Hai yếu tố tác động
ngược chiều đến quyết định tham gia mô hình hữu cơ gồm tuổi chủ hộ và nguồn thu nhập khác.
Với mức ý nghĩa 5% (không như kỳ vọng ban đầu), những chủ hộ lớn tuổi hơn thường có tâm lý
e ngại sự thay đổi, sợ nhiều rủi ro nên thường họ ít có động lực tham gia vào các mô hình mới.
Biến thu nhập khác có tác động âm, đúng với giá trị kỳ vọng của nghiên cứu và có mức ý nghĩa
thống kê 1%. Như vậy, những hộ có nhiều nguồn thu nhập ngoài trồng lúa thì có xu hướng không
muốn chuyển đổi sang mô hình hữu cơ hơn những hộ chỉ có nguồn thu nhập chính từ trồng lúa.
Theo kết quả biến thu nhập khác có giá trị tác động biên là âm 0.727, giá trị này cho biết nếu nông
hộ có thêm nguồn thu nhập khác thì xác suất về thực hiện ý định canh tác mô hình hữu cơ nhỏ hơn
những nông hộ không có nguồn thu nhập khác ngoài trồng lúa. Hai yếu tố gồm học vấn và số thành
viên trong gia đình không có ý nghĩa, điều này chỉ ra việc không có sự khác nhau trong quyết định
chuyển đổi mô hình hữu cơ giữa người có học vấn cao và người có học vấn thấp, giữa số thành
viên trong gia đình nhiều và số thành viên trong gia đình ít.
4. Kết luận và hàm ý chính sách
Từ nội dung phân tích và so sánh tình hình sản xuất và đánh giá các chỉ tiêu tài chính của
mô hình truyền thống và theo hướng hữu cơ, một số kết luận quan trọng được tóm lại như sau: mặc
dù chi phí của mô hình hữu cơ còn cao so với mô hình truyền thống và năng suất chưa có nhiều
khác biệt. Cụ thể chi phí sử dụng phân sinh học cao chiếm gần 50% trong cơ cấu chi phí, mô hình
hữu cơ có lợi nhuận khoảng 1.4 triệu đồng/1,000m2 tương đương mô hình truyền thống do giá bán
cao và được bao tiêu sản phẩm. Bên cạnh đó, giai đoạn đầu sản xuất theo hướng hữu cơ, nông hộ
còn một số trở ngại như về kỹ thuật mới, cách sử dụng phân bón hữu cơ sinh học và nhất là tốn
nhiều công chăm sóc hơn làm cho chi phí cao hơn mô hình truyền thống; Ngoài ra, do được liên
kết bao tiêu, giá bán cao hơn 25% so với giá lúa thường mặc dù năng suất chưa bằng mô hình cũ,
chính điều này giúp cho doanh thu và lợi nhuận của mô hình hữu cơ rất khả quan về mặt lâu dài;
Mô hình phân tích với 07 biến ảnh hưởng đến lợi nhuận chuẩn hóa của mô hình truyền thống, có
02 yếu tố tác động cùng chiều gồm tập huấn và lao động gia đình, trong khi phân và giống tác động
ngược chiều dựa trên kết quả ước lượng mang dấu âm, kết quả này là đúng theo kỳ vọng và lý
thuyết và đây là tín hiệu tốt cho sự thay đổi sang mô hình mới vì rất giống với đặc điểm canh tác
của hình thức theo hướng hữu cơ. Kết quả phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển
đổi sang mô hình hữu cơ chỉ ra yếu tố diện tích làm tăng xác suất việc đồng ý canh tác mô hình
mới, trong khi nếu nông hộ có đa dạng hóa thu nhập hoặc chủ hộ lớn tuổi sẽ làm giảm xác suất này.
Cụ thể, những chủ hộ lớn tuổi thường có tâm lý e ngại sự thay đổi, do đó họ không đồng ý chuyển
sang hình thức canh tác mới. Ngoài ra, các nông hộ có thể đa dạng hóa thu nhập cũng có ít động
lực chuyển đổi hơn. Do đó, chính quyền địa phương và các cấp ban ngành có liên quan cần tăng
cường tuyên truyền vận động người dân nhận thức rõ lợi ích lâu dài của mô hình này và đây cũng
là xu hướng chuyển đổi theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước và nền nông nghiệp 4.0.
84 Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85
Như vậy, nhằm cải thiện hiệu quả tài chính của hình thức canh tác theo hướng hữu cơ và
tăng khả năng chuyển đổi sang mô hình mới, các bên liên quan cần quan tâm những giải pháp sau:
Tích cực tuyên truyền phổ biến thông tin về mô hình “lúa hữu cơ” là hình thức có sự liên
kết giữa 05 nhà (gồm cả ngân hàng - nhà bank) hướng đến xây dựng vùng nguyên liệu lúa hàng
hóa xuất khẩu. Việc chuyển đổi sang mô hình này của hộ sẽ được đảm bảo nguồn giống tốt, cũng
như phân bón và thuốc nông dược, hợp tác với doanh nghiệp thu mua lúa và khép kín từ khâu cung
ứng đầu vào đến bao tiêu sản phẩm cho thành viên tham gia. Mối liên kết này có phân chia quản
lý với cách chức năng cụ thể, cán bộ kỹ thuật sẽ trực tiếp hướng dẫn và nhắc nhở định kỳ tập huấn
cho nông hộ. Đặc biệt chủ động trong các khâu giống, phân bón, thuốc nông dược, đặc biệt là tìm
thị trường đầu ra ổn định.
Ngoài hiệu quả về mặt tài chính và kinh tế, mô hình trồng lúa hữu cơ được kỳ vọng đạt
được hiệu quả về mặt môi trường mà trực tiếp là sức khỏe của người tham gia sản xuất. Chính
quyền địa phương cần tổ chức các buổi giao lưu giữa các hộ mô hình cũ với mới để các nông hộ
thấy được những hiệu quả và lợi ích mà lúa hữu cơ mang lại. Đối với mô hình hữu cơ hiện tại, chú
ý điều chỉnh lượng phân hữu cơ sinh học hợp lý và tập huấn thêm cho người dân quen với các kỹ
thuật canh tác, từ đó giảm dần chi phí lao động.
Nhà nước cần ưu tiên thực hiện việc giảm số lượng nhập khẩu các loại thuốc bảo vệ thực
vật, từ đó giúp giảm lượng phân vô cơ và thuốc hóa học sử dụng trên đồng rộng. Ngoài ra, các cơ
quan ban ngành cũng cần tăng cường tuyên truyền và quản lý chặt chẽ các đại lý cung cấp phân
bón thuốc bảo vệ thực vật vì họ là những người thường tư vấn trực tiếp và có tác động đến hành
vi sử dụng thuốc và phân của nông dân khi sử dụng trên cây trồng. Ngoài ra, để đẩy mạnh phát
triển mô hình hữu cơ, các nhà làm chính sách cần nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chí và những tiêu
chuẩn thiết thực và phù hợp cho sản phẩm hữu cơ, tăng cường khuyến khích người dân và các
doanh nghiệp trong việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, trợ giá ban đầu
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phân bón sinh học. Cuối cùng, việc chuyển giao các kết quả
nghiên cứu về các chế phẩm sinh học, hữu cơ và tiến hành sản xuất ở quy mô công nghiệp cần
được ưu tiên thực hiện trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. (2016). Quyết định số 1898/QĐ-BNN-TT ngày 23 tháng
05 năm 2016 về phê duyệt “ Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt nam đến năm 2020 và tầm
nhìn đến nhăm 2030” [Decision 1898/QD-BNN-TT dated 23 May 2016 approving “Project
on restructuring Vietnam’s rice industry to 2020 and vision to 2030”]. Retrieved January 12,
2020, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Quyet-dinh-1898-QD-
BNN-TT-de-an-tai-co-cau-nganh-lua-gao-Viet-Nam-2020-tam-nhin-2030-2016-
313302.aspx
Cổng thông tin điện tử Vĩnh Long. (2018). Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2018 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 [The report
summarizes the implementation of the socio-economic development plan in 2018 and the
socio-economic development plan in 2019]. Retrieved January 15, 2020, from
http://www.mpi.gov.vn/Pages/chuyenmuctin.aspx?idcm=518
Debertin, D. L. (2012). Agricultural production economics. Agricultural economics textbook gallery
(2nd ed.). Lexington, Kentucky: Amazon Createspace.
Duong, T. N., & Nguyen, P. V. (2014). Đánh giá hiệu quả tài chính của hai mô hình sản xuất xoài
cát ở tỉnh Đồng Tháp [Evaluation of financial efficiency of two production models of sweet
mango in Dong Thap province]. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 33(2014), 1-10.
Khổng Tiến Dũng. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 17(1), 72-85 85
Ha, S. V., & Duong, T. N. (2014). So sánh hiệu quả tài chính giữa mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật và mô hình không ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu
Long [Comparison of financial efficiency between the model with and without technical
application in rice production in the Mekong Delta]. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ, 33(2014), 87-93.
La, D. N. T., & Mai, N. V. (2015). Phân tích hiệu quả tài chính của hộ sản xuất lúa theo mô hình
liên kết với doanh nghiệp ở tỉnh An Giang [Analysis of financial efficiency of rice-producing
households in co-opperation with enterprises in An Giang province]. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 36(2015), 92-100.
Ngo, T. T. M., & Truong, L. D. (2015). Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá lóc đen và
nhận thức của người nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long [Analysis of financial efficiency of
Channa striata farming and farmers’ perceptions in the Mekong Delta]. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 36(2015), 108-115.
Nguyen, A. T. T., & Vo, L. T. T. (2017). Phân tích hiệu quả tài chính của nông hộ trồng ớt vùng
Đồng bằng sông Cửu Long [Analysis of financial efficiency of chili farmers in the Mekong
Delta]. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 48(2017), 87-95.
Nguyen, T. V., Nguyen, T. V., Cao, T. T., Nguyen, T. T., Nguyen, C. X., Le, N. V., & Le, L. V.
(2020). Hiệu quả sản xuất lúa hữu cơ theo hợp đồng ở tỉnh Thừa Thiên Huế: Trường hợp
nghiên cứu ở xã Phú Lương [Efficiency of contract organic rice production in Thua Thien Hue
province: A case study in Phu Luong commune]. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam,
18(8), 553-561.
Vo, L. T. T., & Nguyen, S. P. (2011). Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo vùng ĐBSCL [Analysis of
the rice value chain in the Mekong Delta]. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ,
19a(2011), 96-108.
Creative Commons Attribution-NonCommercial 4.0 International License.