file Lịch sử truyền thống đại đội C440

104
1 LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) và Chỉ thị 37-CT/TU ngày 01/8/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận về việc tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống các cấp;Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về việc biên soạn lịch sử truyền thống chiến đấu các đơn vị đã được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Chỉ thị số 191/CT-QP ngày 18/2/1998 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc tổ chức nghiên cứu, biên soạn lịch sử các lực lượng vũ trang trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Bắc Bình đã chỉ đạo tổ chức biên soạn Lịch sử truyền thống Đại đội 440 Hòa Đa-Bắc Bình (1961 – 1980). Đến nay quyển sách đã hoàn thành và được phép xuất bản để phục vụ cán bộ chiến sỹ và nhân dân trong Huyện cùng bạn đọc gần xa. Trong quá trình tổ chức biên soạn, Ban Biên soạn đã thu thập rất nhiều ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy đơn vị qua các thời kỳ, kết hợp với tài liệu lưu trữ được về những thành tích chiến đấu của Đại đội 440 trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng thời cũng tham khảo nhiều sách đã xuất bản nói về chiến trường Lê Hồng Phong, vùng căn cứ kháng chiến của quân dân tỉnh Bình Thuận trong 2 thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Nội dung tập sách cố gắng phản ánh một cách trung thực về hoạt động, chiến đấu của đơn vị, làm rõ tính chất gian khổ, ác liệt của một chiến trường vùng sâu, thấy được tinh thần chịu đựng một cách phi thường của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân trong vùng. Chính những nội dung này đã nói lên rằng cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 bộ binh-bộ đội địa phương huyện- xứng đáng là một tập thể anh hùng, được Đảng bộ địa phương tin tưởng và nhân dân quý mến. Bên cạnh những thành tích xuất sắc, Ban biên soạn cũng mạnh dạn nêu lên những thiếu sót, những hy sinh tổn thất, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau những giá trị truyền thống và lòng tự hào về lực lượng vũ trang nhân dân địa phương. Nhân cuốn sách Lịch sử truyền thống Đại đội 440-Hòa Đa huyện Bắc Bình (1961-1980) được xuất bản. Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Bình xin chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị qua các thời kỳ đã có nhiều đóng góp làm phong phú thêm nội dung quyển sử. Cám ơn các đồng chí trong Ban biên soạn đã có nhiều nổ lực, cố gắng hoàn thành quyển sử đúng tiến độ để phục vụ bạn đọc nhân kỷ niệm 71 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2015). Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nội dung quyển sách cũng không thể nào tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Ban Thường vụ Huyện ủy, mong được bạn đọc góp ý, bổ sung để lần tái bản được hoàn chỉnh hơn. Trân trọng cảm ơn! BA N THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY - BẮC BÌNH

Transcript of file Lịch sử truyền thống đại đội C440

Page 1: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

1

LỜI NÓI ĐẦU

Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) và Chỉ thị 37-CT/TU ngày 01/8/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận về việc tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống các cấp;Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về việc biên soạn lịch sử truyền thống chiến đấu các đơn vị đã được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Chỉ thị số 191/CT-QP ngày 18/2/1998 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc tổ chức nghiên cứu, biên soạn lịch sử các lực lượng vũ trang trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Bắc Bình đã chỉ đạo tổ chức biên soạn Lịch sử truyền thống Đại đội 440 Hòa Đa-Bắc Bình (1961 – 1980). Đến nay quyển sách đã hoàn thành và được phép xuất bản để phục vụ cán bộ chiến sỹ và nhân dân trong Huyện cùng bạn đọc gần xa.

Trong quá trình tổ chức biên soạn, Ban Biên soạn đã thu thập rất nhiều ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy đơn vị qua các thời kỳ, kết hợp với tài liệu lưu trữ được về những thành tích chiến đấu của Đại đội 440 trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đồng thời cũng tham khảo nhiều sách đã xuất bản nói về chiến trường Lê Hồng Phong, vùng căn cứ kháng chiến của quân dân tỉnh Bình Thuận trong 2 thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Nội dung tập sách cố gắng phản ánh một cách trung thực về hoạt động, chiến đấu của đơn vị, làm rõ tính chất gian khổ, ác liệt của một chiến trường vùng sâu, thấy được tinh thần chịu đựng một cách phi thường của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân trong vùng. Chính những nội dung này đã nói lên rằng cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 bộ binh-bộ đội địa phương huyện- xứng đáng là một tập thể anh hùng, được Đảng bộ địa phương tin tưởng và nhân dân quý mến.

Bên cạnh những thành tích xuất sắc, Ban biên soạn cũng mạnh dạn nêu lên những thiếu sót, những hy sinh tổn thất, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau những giá trị truyền thống và lòng tự hào về lực lượng vũ trang nhân dân địa phương.

Nhân cuốn sách Lịch sử truyền thống Đại đội 440-Hòa Đa huyện Bắc Bình (1961-1980) được xuất bản. Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Bình xin chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị qua các thời kỳ đã có nhiều đóng góp làm phong phú thêm nội dung quyển sử. Cám ơn các đồng chí trong Ban biên soạn đã có nhiều nổ lực, cố gắng hoàn thành quyển sử đúng tiến độ để phục vụ bạn đọc nhân kỷ niệm 71 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2015).

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nội dung quyển sách cũng không thể nào tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Ban Thường vụ Huyện ủy, mong được bạn đọc góp ý, bổ sung để lần tái bản được hoàn chỉnh hơn.

Trân trọng cảm ơn!

BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY - BẮC BÌNH

Page 2: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

2

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI BẮC BÌNH- CHIẾC NÔI CỦA ĐẠI ĐỘI 440.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đến đầu năm 1946, tỉnh Bình Thuận có 1 thị xã là Phan Thiết và 6 huyện là Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Hàm Thuận, Hàm Tân, Tánh Linh (1) .

Sau khi xâm lược nước ta lần thứ hai vào tháng 01 năm 1946 cho đến tháng 3 năm 1950 thực dân Pháp đã dồn nhân dân 3 huyện Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Tuy Phong vào các khu tập trung Duồng, Phan Rí Cửa, Hòa Đa, Chợ Lầu, Hựu An, Hậu Quách,…, lập vành đai trắng, cắt đứt liên lạc giữa các vùng căn cứ kháng chiến với các khu tập trung dân.

Để phù hợp với tình hình và yêu cầu của cuộc kháng chiến, cuối năm 1950, Tỉnh ủy Bình Thuận quyết định thành lập Khu căn cứ Lê Hồng Phong.

Đến tháng 4/1951, Tỉnh ủy Bình Thuận chủ trương mở rộng Khu căn cứ Lê Hồng Phong ra phía đông huyện Hàm Thuận và ra phía nam huyện Hòa Đa, nâng toàn khu căn cứ có tất cả 11 xã (2). Đồng thời cùng thời gian này, Tỉnh cũng chủ trương sáp nhập 3 huyện Hoà Đa, Phan Lý Chàm, Tuy Phong thành huyện Bắc Bình. Như vậy, địa danh huyện Bắc Bình có mặt trên bản đồ tỉnh Bình Thuận từ tháng 4/1951.

Tháng 11-1951, tách Phan Lý Chàm ra để lập lại huyện Phan Lý riêng. Huyện Bắc Bình còn lại gồm các xã của Hoà Đa và Tuy Phong cũ (3) .

Đến năm 1952, Khu căn cứ Lê Hồng Phong đổi thành huyện Lê Hồng Phong. Cho đến tháng 7 năm 1954, ở vùng đất phía bắc tỉnh Bình Thuận, có các huyện Bắc Bình, huyện

Phan Lý, huyện Lê Hồng Phong. Cuối năm 1954, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền địch tiếp quản các vùng đất trên để

thành lập lại các quận Hoà Đa, Phan Lý Chàm, Tuy Phong như thời phong kiến và đến năm 1955 thì lập thêm quận Hải Ninh (4) . Về phía ta, vùng đất phía bắc tỉnh Bình Thuận chỉ còn lại 2 huyện là huyện Bắc Bình và huyện Phan Lý. Khu Lê Hồng Phong không còn là căn cứ của Tỉnh như trong kháng chiến chống Pháp. Đến khoảng tháng 11/1954, Tỉnh ủy chủ trương cắt các xã Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng, Hồng Thái, Hồng Tân (Lương Sơn) chuyển về lại huyện Bắc Bình; các xã phía Nam Lê Hồng Phong giao về cho Miền A (5 ).

Đầu năm 1962, Tỉnh uỷ Bình Thuận quyết định giải thể 2 huyện Bắc Bình và Phan Lý để thành lập huyện Lê Hồng Phong và Ban Cán sự Bắc Sơn. Lấy dòng sông Luỹ làm ranh giới : vùng đất phía nam sông Luỹ thuộc huyện Lê Hồng Phong; còn vùng đất phía bắc sông Luỹ thì lập Ban Cán sự Bắc Sơn để chỉ đạo.

Giữa năm 1966, Tỉnh uỷ Bình Thuận quyết định giải thể huyện Lê Hồng Phong và Bắc Sơn, lập lại các huyện Hoà Đa, Phan Lý, Tuy Phong, Thuận Phong (tức Miền A) theo ranh giới cũ.

Tháng 4 năm 1967, Khu 6 quyết định thành lập tỉnh Bắc Bình gồm 3 huyện Hoà Đa, Phan Lý, Tuy Phong và K67 (Tuyên Đức).

Tháng 8-1968, Khu 6 quyết định giải thể tỉnh Bắc Bình. Ba huyện Hoà Đa, Phan Lý, Tuy Phong lại thuộc tỉnh Bình Thuận. K67 được trả về lại tỉnh Tuyên Đức.

Đầu năm 1974, Tỉnh uỷ Bình Thuận quyết định tách các xã căn cứ của 2 huyện Hoà Đa và Thuận Phong để tái lập lại huyện căn cứ Lê Hồng Phong.

1(?) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận tập I (1930-1954), xuất bản tháng 2-1994, trang 112(?) Căn cứ Khu Lê Hồng Phong trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm (1950-1975) xuất bản năm 2008, trang 9, 10.3(?) Bắc Bình, truyền thống đấu tranh cách mạng (1930-1975), xuất bản tháng 1-2000, trang 9.4(?) Quận Hải Ninh gồm đồng bào Nùng và đồng bào dân tộc thiểu số miền Bắc di cư vào theo Sư đoàn 5 do Vòng A Sáng chỉ huy5(?) Căn cứ Khu Lê Hồng Phong trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm (1950-1975) xuất bản năm 2008, trang 61.

Page 3: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

3Tháng 12-1974, Tỉnh uỷ Bình Thuận quyết định giải thể huyện Lê Hồng Phong. Đồng thời lập huyện

Hải Ninh (tách từ Phan Lý) trực thuộc Tỉnh, có 2 Đội công tác là Đội Sông Mao và Đội Sông Luỹ.Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đầu năm 1976, 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình

Thuận, Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Tháng 2 năm 1976, Tỉnh uỷ Thuận Hải quyết định hợp nhất 4 huyện Hoà Đa, Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong thành huyện Bắc Bình.

Tháng 6-1983 cho đến nay, theo Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính Phủ), chia huyện Bắc Bình thành 2 huyện là huyện Bắc Bình và huyện Tuy Phong. Huyện Bắc Bình gồm 3 huyện cũ là Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh, nhưng có 4 xã của Hòa Đa cũ là Phan Rí Cửa, Hòa Minh, Chí Công, Hòa Phú được giao về thuộc huyện Tuy Phong.

Huyện Bắc Bình hiện nay ở tọa độ 108006’30” đến 108037’48” kinh độ Đông và 10059’48” vĩ độ Bắc, phía đông giáp huyện Tuy Phong, phía tây giáp huyện Hàm Thuận Bắc và thành phố Phan Thiết, phía nam giáp biển Đông, phía bắc giáp Tỉnh Lâm Đồng; diện tích tự nhiên 1.825 km 2 ; gồm 16 xã và 2 thị trấn, trong đó có 14 xã có đồng bào dân tộc ít người sinh sống, được Ủy ban Dân tộc và Miền núi Trung ương công nhận là huyện dân tộc-miền núi, huyện lỵ đặt tại thị trấn Chợ Lầu.

Nằm cuối dãy nam Trường Sơn, Bắc Bình có địa hình tự nhiên khá đa dạng:Vùng đồi cát phía đông ven bờ biển khá dài, có những khu rừng cây tạp nối liền nhau, tuy không cao

nhưng rậm rạp, phần lớn là cây ô-rô gai chằng chịt; cây găng, cây gũ với thân cây thường có bộng giữ được nước trong mùa mưa. Không có sông, suối nhưng bù lại vùng này có những bàu và giếng nước ngọt, mà lớn nhất và luôn có nước quanh năm là Bàu Trắng (bao gồm Bàu Ông và Bàu Bà) rộng 92,5ha, nơi sâu nhất 19m, được xem như một bầu sữa lớn nuôi đồng bào và bộ đội trong hai thời kỳ kháng chiến. Đặc biệt, trên động cát có con Dông sinh sống, được con người sống trên vùng đất này xem như kho thực phẩm. Những dải rừng cây ô rô lúp xúp rất dày xen kẽ những đồi cát nhỏ liên hoàn chạy dài hàng chục cây số, tưởng chừng như đơn giản nhưng vô cùng hiểm trở, bởi những cảnh vật đâu đâu cũng giống nhau, không có dấu vết đường mòn, cây cao làm chuẩn nên dễ bị lạc, nhưng rất thuận lợi cho việc trú quân, bố trí lực lượng, cơ động chống địch càn. Sát bờ biển có hòn Hồng, địa thế thuận lợi cho việc quan sát. Do có lợi thế trong việc bố phòng xây dựng căn cứ như vậy, nên trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, vùng này được ta xây dựng thành Khu căn cứ Lê Hồng Phong (Khu Lê), địa bàn vững chắc bảo đảm an toàn cho các cơ quan lãnh đạo Tỉnh, Huyện, nơi cung cấp nhân tài, vật lực cho cách mạng, đồng thời cũng là vùng đất gây khiếp sợ cho kẻ thù, bởi “Khu Lê đi dễ khó về. Lính đi mất mạng, quan về mất lon”.

Vùng núi và núi cao phía tây dọc theo sườn cực Nam dãy Trường Sơn, với các ngọn núi cao Gia Bang 1.136 m, Thi Két 1.017 m và các khu rừng cây cao rậm rạp, nơi sinh sống của các loại thú dữ gây nguy hiểm cho con người, là vùng thượng nguồn của các con sông, là vùng tiếp giáp, chuyển tiếp vùng đồng bằng duyên hải với vùng cao nguyên, cũng là hành lang chiến lược của cách mạng. Đây là vùng dân cư thưa thớt, giao thông liên lạc khó khăn, nhưng lại là vị trí lợi thế cho chiến tranh nhân dân - chiến tranh du kích trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Trên vùng này ta xây dựng Khu căn cứ Cà Lon.

Vùng trung du và đồng bằng phía giữa 2 vùng trên, có các sông chảy qua như Sông Lũy, Sông Ma-Ó, sông Cà Giây, sông Cà Tót, sông Tầm Ru bắt nguồn từ những dãy núi không xa biển nên ngắn và cạn, dòng chảy bất thường, mùa mưa nước lớn chảy xiết, khó di chuyển qua lại nhưng về mùa nắng nhiều đoạn sông khô cạn không còn nước, tiện việc cơ động lực lượng và ém quân. Dọc theo thung lũng giữa các con sông là những khu đất rẫy và những cánh đồng ruộng trồng lúa nước, tạo ra nguồn nông sản to lớn của Bắc Bình. Đoạn quốc lộ 1A dài 30 km song song cùng đoạn đường sắt xuyên Việt dài 35 km với các nhà ga Sông Mao, Châu Hanh, Sông Lũy chạy ngang qua, là đầu mối giao lưu với các địa phương trong Tỉnh, cả nước. Dọc theo 2 bên quốc lộ, thường là khu dân cư đông đúc, phần lớn là do địch gom dân từ các địa bàn rãi rác vùng sâu, vùng xa tập trung lại, dễ bề cho chúng quản lý, kiểm soát, cũng là thuận tiện cho việc cơ động lực lượng quân sự của chúng. Còn đi lên vùng núi, xuống miền biển trong thời kỳ chiến tranh chủ yếu là đi bộ theo các con đường mòn, đường xe trâu, xe bò, xe be chở gỗ để giao lưu, mua bán, khai thác lâm sản.

Trên vùng đất Bắc Bình có nhiều dân tộc sinh sống. Người Chăm, người Raglai, người K’Ho là cư dân bản địa có mặt trên mảnh đất này từ thuở xa xưa. Người Kinh thuộc gốc các luồng lưu dân miền Trung vào đây mở đất lập nghiệp từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1558 - 1776). Người Hoa cũng đến đây lập

Page 4: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

4nghiệp từ những thế kỷ trước. Người Nùng, người Tày từ Quảng Ninh vào định cư ở Sông Mao, Sông Lũy sau Hiệp định Giơnevơ 1954. Một số tộc người khác như Mường, Sán Chỉ, Lô Lô, Dao di dân tự do từ miền Bắc vào sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Người Kinh, Chăm, Hoa,… sống ở đồng bằng ven sông, ven biển; người Raglai, K’Ho sống dọc theo sườn cực Nam dãy núi Trường Sơn. Dân số toàn huyện Bắc Bình có trên 123.500 người (6). Đặc điểm quy tụ dân cư đã tạo cho Bắc Bình những nét văn hóa dân tộc đa sắc, phong phú. Trong suốt chặng đường đấu tranh để tồn tại và phát triển cũng như chiến đấu chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cộng đồng các dân tộc trên đất Bắc Bình luôn thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó, dễ hoà nhập và xích lại gần nhau, cùng chống thiên tai địch hoạ để mưu cầu cuộc sống; đồng thời cũng luôn có ý chí kiên cường bất khuất, trọng chính nghĩa, ghét bạo tàn, tình nghĩa thuỷ chung, luôn hướng về và kiên trung với cách mạng.

Tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc nồng nàn đã hun đúc nên truyền thống chống giặc ngoại xâm, nên khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiều sĩ phu yêu nước ở vùng này điển hình là Kiều Bình, Cao Hành, Phạm Đoan, Phạm Sằng, Dương Hoàng Nghị, Nguyễn Văn Luận, Phùng Hàn, Phùng Tố, …đã liên lạc với phong trào Cần Vương tập hợp lực lượng dân chúng, lấy vùng Bàu Vua, Bàu Khoai làm nơi luyện quân, xây dựng căn cứ và lập phòng tuyến dọc sông Kên Kên mưu tính việc chống Pháp. Là vùng đất có phong trào đấu tranh cách mạng, nên trong hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, trước khi ra nước ngoài, người thanh niên-thầy giáo yêu nước Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở Duồng, gặp gỡ sĩ phu yêu nước ở đây.

Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân các dân tộc ở Bắc Bình cũng như nhân dân cả nước một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, làm chủ đất nước và tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, vùng đất Bắc Bình với địa thế núi, rừng, sông biển có vị trí rất quan trọng về kinh tế-văn hoá-xã hội và quốc phòng của tỉnh Bình Thuận, là một trong những địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Bắc Bình đã có căn cứ khu Lê Hồng Phong nhanh chóng trở thành khu căn cứ địa kháng chiến vững chắc cho tỉnh Bình Thuận và cả Cực Nam Trung bộ, Khu 6. Bước sang cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, bên cạnh Khu Lê Hồng Phong bất khuất, huyện Bắc Bình còn có thêm các căn cứ cách mạng là Cà-Lon, Bình An, Lệ Nghi-Bá Ghe, Đá Giá luôn là chỗ dựa đóng góp sức người, sức của không nhỏ cho các lực lượng vũ trang địa phương Huyện, Tỉnh và cho cả Khu 6 chiến đấu thắng lợi.

Từ sau khi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7/1954, kẻ địch với số quân đông, được sự trợ giúp của ngoại bang, với những âm mưu thủ đoạn tàn ác thiết lập được sự chiếm đóng lâu dài và liên tục. Đi cùng với bộ máy hành chánh cai trị từ quận xuống tới xã, ấp, liên gia là hệ thống các cơ sở quân sự. Các quận lỵ Hoà Đa, Phan Lý Chàm, Tuy Phong, Hải Ninh là nơi đóng các chi khu quân sự cùng với duy trì hệ thống đồn bót ở các điểm xung yếu như đồn ga Sông Lòng Sông, đồn Duồng, đồn cầu Sông Cạn, đồn cầu Xóm Lụa, đồn ga Sông Mao, đồn ga Sông Luỹ, đồn Lương Sơn.

Ở Lương Sơn chúng đặt căn cứ huấn luyện biệt kích Mỹ thường xuyên có 1 tiểu đoàn do cố vấn Mỹ chỉ huy, ngày đêm bung ra bên ngoài đánh phá ta, nhất là khu Lê Hồng Phong.

Chúng xây dựng cứ điểm Sông Mao với qui mô rất kiên cố bao gồm căn cứ hành quân có sân bay dã chiến, thường xuyên có 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội thám kích, có lúc lên tới 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 chiến đoàn tăng thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo; khu huấn luyện quân sự thường xuyên có từ 500 – 700 tân binh để bổ sung cho các đơn vị; và có trận địa pháo với 1 tiểu đoàn gồm các loại pháo 105 ly, 155 ly, cối 106,7 ly. Sông Mao không chỉ là hậu cứ mà còn là tuyến phòng thủ hữu hiệu ngăn chận và đẩy bộ đội chủ lực của ta ra khỏi các vùng trọng yếu, là nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét, triệt phá các cơ sở cách mạng ở địa phương. Toàn bộ cứ điểm Sông Mao phối hợp cùng với 2 trại quân sự nữa là Phi Hổ (Tịnh Mỹ-Phan Lý) và Phi Mã (Phan Rí Thành-Hòa Đa) hình thành 1 cụm cứ điểm liên hoàn để chi viện và ứng cứu cho nhau khi bị ta tấn công.

Vùng rừng núi, khu căn cứ của ta thì chúng sử dụng quân chủ lực hành quân càn quét đánh phá; vùng tranh chấp thì chúng sử dụng lực lượng quân địa phương ngăn chận ta. Các vùng quản lý khó khăn thì chúng triệt phá nhà cửa gom xúc dân vào các ấp tập trung, đóng đồn và rào bao quanh, dùng lực lượng nghĩa 6(?) Tính đến đầu năm 2015.

Page 5: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

5quân, cảnh sát, tình báo, bình định nông thôn, bộ máy tề xã ấp để khống chế, kiểm soát, kèm chặt dân, triệt phá cơ sở cách mạng, ngăn chận và đẩy lực lượng ta ra xa dân.

Trước muôn vàn gian khổ, ác liệt mà kẻ địch gây ra cũng như tính chất chiến trường mà kẻ địch bố trí, dễ bị chia cắt, là vùng tranh chấp ác liệt giữa ta và địch luôn nằm trong thế cài răng lược, là chiến trường luôn biến động, lại là địa bàn nằm tận Cực Nam Trung bộ, xa sự chỉ đạo và chi viện của trên đối với phong trào cách mạng mà trực tiếp nhất là đối với các lực lượng vũ trang địa phương, nhưng cán bộ, nhân dân Bắc Bình vẫn không hề nao núng lùi bước đấu tranh. Địa thế tự nhiên hiểm trở của Bắc Bình trong kháng chiến chống Pháp, là căn cứ địa vững chắc, cung cấp phần lớn sức người sức của cho sự nghiệp cách mạng tiếp tục được phát huy vào công cuộc chống Mỹ. Trãi qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, với hàng ngàn trận đánh lớn nhỏ, táo bạo, bất ngờ đã làm cho quân thù khiếp sợ, quân và dân Bắc Bình đã góp phần xứng đáng cùng quân dân trong Tỉnh và cả nước lập nên những chiến công vang dội, chiến thắng vẻ vang, mãi mãi đi vào lịch sử truyền thống cách mạng hào hùng của quê hương xứ sở. Có thể nói, mỗi tên đất, tên làng của quê hương Bắc Bình đã đi vào lịch sử chiến tranh nhân dân của dân tộc, tạo nên truyền thống một huyện Bắc Bình anh hùng và các xã anh hùng : Hòa Thắng, Hồng Phong, Lương Sơn, Phan Sơn, Hồng Thái, Chợ Lầu, Phan Rí Thành cùng với 117 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, các Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Huỳnh Thị Khá, Võ Hữu, Lê Văn Bảng, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Cược, Nguyễn Thanh Mận, Mang Đa và 784 liệt sĩ chống Pháp, chống Mỹ mà tên tuổi sống mãi với non sông đất nước.

Khi yêu cầu của cuộc đấu tranh cần phải có lực lượng quân sự hổ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng để tiến tới lật đổ ách thống trị của Mỹ-nguỵ thì truyền thống yêu nước và lòng nhiệt tình hăng hái của tuổi trẻ ở các địa phương đã tạo thành phong trào tòng quân giết giặc cứu nước, đã đóng góp những người con ưu tú của quê hương để xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện trong đó có Đại đội bộ binh 440-Hòa Đa-bộ đội địa phương huyện. Đặc biệt ngọn cờ đầu của phong trào là thanh niên Nhơn Thiện.

Được sinh ra từ vùng đất, con người, truyền thống yêu nước và cách mạng, đặc biệt là được nuôi dưỡng, bảo bọc, động viên bởi tình nghĩa quân dân thuỷ chung son sắt của quê hương Bắc Bình, cán bộ, chiến sỹ Đại đội 440 đã rèn luyện phát triển lớn mạnh, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, lập nên những thành tích xuất sắc, góp phần cùng lực lượng vũ trang tỉnh, Quân khu và cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại đội 440 xứng đáng là đơn vị vũ trang Anh hùng trong lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, xứng đáng là đứa con thân yêu của nhân dân Bắc Bình anh hùng.

CHƯƠNG MỘT

ĐẠI ĐỘI 440 RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN, CHIẾN ĐẤU TRONG GIAI ĐOẠN CHIẾN LƯỢC

CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ-NGUỴ(1960 - 1965)

Page 6: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

6

I. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ XÂY DỰNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG, PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐỊA PHƯƠNG VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐƠN VỊ 440 (1954-1961):

Theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tạm thời còn dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai để chờ sau 2 năm (1955-1956) sẽ tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.

Nhưng với bản chất xâm lược, bọn đế quốc và tay sai tiến hành các thủ đoạn phá hoại việc thực hiện Hiệp định, để sẽ không có Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhân dân miền Nam nói chung và nhân dân các dân tộc Bắc Bình nói riêng còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Ngay từ đầu, cán bộ và nhân dân Bắc Bình cảm nhận rằng cuộc chiến đấu mới sẽ không kém phần khó khăn, ác liệt và phải tiến hành đấu tranh lâu dài với kẻ thù vô cùng hiểm độc với thực tế trước mắt là các vùng đất căn cứ kháng chiến của ta nay thuộc về địch quản lý kiểm soát. Lực lượng quân sự và nhiều cán bộ chính trị phải tập kết ra miền Bắc. Số cán bộ ở lại, hoặc ra công khai sống cùng nhân dân, hoặc được tổ chức giao nhiệm vụ bố trí ở lại hoạt động bí mật để lãnh đạo phong trào, hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn.

Sau tháng 8/1954, thực hiện quyền hành quản lý, kiểm soát, địch tiến hành thành lập, củng cố bộ máy nguỵ quyền từ ấp, xã đến quận cùng với bổ sung thêm lực lượng quân sự để làm công cụ tiến hành các cuộc đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tại khu vực phía bắc tỉnh Bình Thuận, địch lập ra 4 quận: Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý Chàm và Hải Ninh.

+ Quận Hải Ninh gồm vùng Sông Mao, Sông Luỹ mà đa số là binh lính của sư đoàn 5 nguỵ và gia đình họ từ miền Bắc di cư vào.

+ Quận Phan Lý Chàm gồm các xã người Chăm là Lạc Trị, Hậu Quách, Hựu An, Tịnh Mỹ và các xã đồng bào miền núi bị chúng dồn dân.

+ Quận Hoà Đa gồm 6 xã là Nhơn Thiện, Lương Sơn, Chợ Lầu, Phan Rí Thành, Phan Rí Cửa và Chí Công. Ở mỗi xã chúng thành lập hội đồng hương chính làm luôn nhiệm vụ chính quyền, ở một số xã chúng lập nha phái viên hành chánh do bang tá phụ trách như tên bang tá Mỹ ở Nhơn Thiện, bang tá Thái ở Lương Sơn, bang tá Sâm ở Chí Công…Các tiểu đội, trung đội lính dân vệ, bảo an đóng tại các vùng trọng điểm như Nhơn Thiện, Lương Sơn, Phan Rí Thành, Phan Rí Cửa, Chí Công. Lực lượng công an, cảnh sát được tổ chức thành hệ thống từ quận xuống các ấp. Chúng thiết quân luật, bắt người, hăm dọa bắt bỏ tù và giết cán bộ Việt Minh, treo thưởng cho ai bắt được cán bộ cách mạng thoát ly. Chúng phân loại cán bộ kháng chiến, loại phải trình diện và bị quản chế tại xã, ban đêm ngủ tập trung, ban ngày đi làm xâu. Chúng buộc nhân dân làm giấy tuỳ thân. Chúng lập nhà giam tại quận, bắt buộc những cán bộ, đảng viên của ta phải ra trình diện và làm giấy đầu thú, làm giấy xuất thú quy thuận, ai không chấp nhận thì chúng giam cầm tra tấn. Số cán bộ, đảng viên đấu tranh kiên quyết không chịu đầu thú, đầu hàng thì chúng chuyển vào nhà lao Phan Thiết, vào khám Chí Hoà hoặc đày ra Côn Đảo. Đi đôi với đàn áp khủng bố, địch trắng trợn tước đoạt các quyền lợi của nhân dân đã giành được trong kháng chiến chống Pháp, chúng thực hiện xáo cấp lại công điền, tước đoạt những suất công điền của gia đình có người đi tham gia kháng chiến.

Về phía ta, trong tháng 8/1954, Tỉnh đã có Hội nghị bàn chuyển hướng tổ chức và đề ra nội dung, phương pháp cho cuộc đấu tranh mới, đảm bảo nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ. Lúc này, tổ chức của ta ở vùng đất phía bắc Bình Thuận chỉ còn 2 huyện là Bắc Bình và Phan Lý. Mỗi huyện bố trí có từ 3 đến 5 đồng chí bí mật ở lại bám đất, bám dân lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh với địch. Ở huyện Bắc Bình thành lập Huyện uỷ bí mật có 3 đồng chí do đồng chí Nguyễn Quý Kỳ phụ trách chung. Huyện Phan Lý có các đồng chí Nguyễn Chay, Đặng Chế Hoa, Tạ Đức Mạnh hoạt động bí mật. Các đồng chí hoạt động bí mật phải đổi họ thay tên, thường xuyên di chuyển chỗ ở, thực hiện khẩu hiệu “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, tuy được trang bị vũ khí để bảo vệ nhưng không được sử dụng tuỳ tiện để lộ cho địch biết. Về liên lạc giữa tỉnh và huyện có đường dây giao liên bí mật. Ngoài những người đi tập kết và bố trí ở lại hoạt động bí mật, còn hầu hết cán bộ đảng viên, cốt cán về lại gia đình, làm ăn sinh sống công khai và chờ lệnh trên. Ai cũng băn khoăn, lo lắng, bỡ ngỡ về cách ăn ở, đi lại, hoạt động bởi vì phương thức hoạt động lúc này là chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị bất bạo động, chống những hành động địch khủng bố, đàn áp phá cơ sở, bắt cán bộ và quần chúng cách mạng của ta; đấu tranh giữ lấy các

Page 7: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

7quyền lợi mà quần chúng đã giành được trong kháng chiến chống Pháp; đấu tranh pháp lý đòi địch thực hiện Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước đồng thời hết sức tránh manh động vũ trang.

Đầu năm 1955, đồng chí Nguyễn Quý Kỳ chuẩn bị ra miền Bắc, Tỉnh điều động đồng chí Lê Thanh Hải- nguyên Bí thư Huyện ủy Lê Hồng Phong- làm Bí thư Huyện uỷ Bắc Bình (7). Để phù hợp với tình hình mới, huyện Bắc Bình được chia thành 4 miền, mỗi miền có Bí thư Ban cán sự Đảng bí mật để bám sát chỉ đạo phong trào. Tại huyện Phan Lý, đồng chí Nguyễn Chay làm Bí thư phụ trách chung và chịu sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ mà trực tiếp là đồng chí Lê Thanh Hải. Tại địa bàn quận Hải Ninh, Tỉnh thành lập bộ phận mang tên “Cựu Giang” do đồng chí Đào Bích phụ trách, liên hệ trực tiếp với Tỉnh uỷ. Sau khi hình thành được tổ chức, các đồng chí trong Huyện uỷ cùng với các Ban cán sự phân công nhau xuống các địa phương liên hệ, móc nối, xây dựng lại số cán bộ, đảng viên, quần chúng cốt cán làm cơ sở để tổ chức và tập hợp hướng dẫn quần chúng vào cuộc đấu tranh quyết liệt với chính quyền Ngô Đình Diệm và tay sai diễn ra căng thẳng, gay gắt ở khắp các làng, xã của Bắc Bình và Phan Lý.

Trong các năm từ 1955 đến 1958, địch phát động chiến dịch “Tố cộng” đợt 1 và đợt 2, mỗi đợt chia thành nhiều bước, làm xong bước này làm sang bước khác, để đàn áp cách mạng, tấn công tiêu diệt những người Cộng sản; chúng tuyên bố không có Hiệp thương tổng tuyển cử và bày trò “Trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống. Chúng vu cáo, nói xấu Đảng, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, đề ra khẩu hiệu mỵ dân “đả thực” “bài phong”. Từ tháng 5 năm 1959, chúng đưa ra Luật 10/59 đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, mở phiên toà xử và chém ngay tại chỗ những người cách mạng, tăng cường khủng bố, bắt bớ, tù đày, bắn giết với khẩu hiệu “giết lầm hơn bỏ sót” mà trọng điểm đánh phá của chúng là vùng tự do, vùng căn cứ kháng chiến và vùng bị tạm chiếm nhưng có phong trào mạnh như Lương Sơn, Phan Rí Cửa, Duồng. Chúng phân loại các gia đình theo các thành phần khác nhau để đối xử; tăng cường công an, cảnh sát, mật vụ, lập các tổ chức, đảng phái phản động; dựng các đồn Phi Mã, Phi Hổ, Trường bia Lương Sơn, yếu khu Bàu Thiêu để trấn áp phong trào cách mạng trong các Huyện. Chúng bắt con phải tố cha mẹ, anh tố em, vợ ly dị chồng đi tập kết, ngăn cấm không cho ai lui tới gia đình có người theo cách mạng. Càng nguy hiểm hơn khi vào tháng 7/1957, Võ Xuân Viên, Thường vụ Tỉnh uỷ Bình Thuận đầu hàng địch và về chỉ đạo học tập “Tố cộng” ở Bắc Bình, Phan Lý, thẳng tay đàn áp, bắt bớ cán bộ, cơ sở nào đã từng nuôi dưỡng, cùng công tác với hắn.

Trước tình hình trên, chấp hành chỉ đạo của Tỉnh uỷ, từ tháng 7/1955, Huyện uỷ các huyện Bắc Bình, Phan Lý đã lãnh đạo quần chúng nhân dân dấy lên phong trào đấu tranh chính trị trực diện, rộng khắp với nhiều hình thức kiên quyết, linh hoạt, mềm dẻo, đòi hiệp thương tuyển cử, đòi tự do dân chủ, đòi giải quyết đời sống, đòi chấm dứt “Tố cộng”.

Trong tháng 9 năm 1955, đã có nhiều xã như Lương Sơn, Nhơn Thiện, Phan Rí Cửa, Chợ Lầu,… đấu tranh, đưa bản kiến nghị đòi hiệp thương tổng tuyển cử, có lúc phong trào quần chúng lên cao biến thành những cuộc biểu tình lớn, đấu tranh kiên quyết với địch. Nhiều nơi dùng pháp lý của Hiệp định Giơnevơ và lý lẽ đanh thép đối thoại, vạch mặt bọn tay sai ác ôn. Chị Lê Thị Hiền vạch tội tên Võ Xuân Viên trong buổi “tố cộng” ở xã Hồng Chính (Khu Lê Hồng Phong). Bà Năm Lý ở Thái An hỏi : Ngô Đình Diệm thời kỳ phong kiến thì làm tuần vũ, thượng thư bộ lại, thời chống Pháp thì ở bên Mỹ nay về nước thì sao gọi chính phủ ông Diệm là “bài phong” “đả thực” được. Ở Hoà Thắng, trong lớp học “tố cộng”, tên Hồng Đức ca ngợi Ngô Đình Diệm là chí sĩ yêu nước thì ông Phú Đen đã hỏi lại : “Ông Ngô Đình Diệm là chí sĩ yêu nước thì sao trong kháng chiến chống thực dân Pháp ông không có tên tuổi, không tham gia kháng chiến”. Ở Lương Sơn, Chợ Lầu, Phan Rí Thành, Phan Rí Cửa, do không giải đáp được những vấn đề quần chúng chất vấn, đấu lý, bọn địch thường xuyên kiếm cớ lãng tránh. Đông đảo cử tri của các xã trong huyện Bắc Bình và huyện Phan Lý trong ngày bỏ phiếu “trưng cầu dân ý” đã không đi hoặc xé rách phiếu, hoặc bỏ truyền đơn vào thùng phiếu, cải lộn gây ẩu đả ở một số khu vực bỏ phiếu.

Các cuộc đấu tranh chính trị nhìn chung đã biểu lộ được sức mạnh của quần chúng, diễn ra nhiều nơi, vào các thời điểm khác nhau, làm cho địch hoang mang dao động, đối phó lúng túng. Nhưng trong các cuộc đấu tranh này, các cán bộ cốt cán và đảng viên ta bị lộ, các cuộc biểu tình lớn bị đàn áp, một số cán bộ cơ sở bị bắt.

7(?) Trang 17, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập II, xuất bản năm 2000.

Page 8: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

8Qua hơn 3 năm “tố cộng”, địch gây cho phong trào cách mạng tổn thất rất lớn. Tổ chức Đảng bị bể

vỡ; cán bộ, đảng viên bị bắt và hy sinh nhiều; quần chúng nhân dân bị địch kìm kẹp gắt gao, phong trào cách mạng bị đẩy lùi. Cuối năm 1956, bộ phận “Cựu Giang” hoạt động tại địa bàn Hải Ninh bị xoá trắng. Giữa và cuối tháng 12 năm 1958, các đồng chí Nguyễn Chay, Đặng Chế Hoa, Tạ Đức Mạnh lần lượt bị địch bắt, phong trào cách mạng Phan Lý không còn bộ phận lãnh đạo. Huyện Bắc Bình chỉ còn vài cơ sở đơn tuyến ở Nhơn Đức (Nhơn Thiện) và Hiệp Hoà (Hồng Thái), cán bộ huyện phụ trách các miền đều bị bắt hết, quần chúng cốt cán bên trong không liên lạc được bên ngoài. Các nhà lao của địch ở Hoà Đa, Phan Lý Chàm, Phan Thiết giam cầm hàng trăm cán bộ và cơ sở của ta.

Ngoài căn cứ, lúc này chỉ còn các đồng chí Lê Thanh Hải, Trần Văn Tình (được Tỉnh tăng cường cho mãng Bắc Bình từ năm 1958), Đặng Bá Sang, Cao Cẩn, Lê Minh Sơn tiếp tục bám địa bàn, móc nối bên trong xây dựng cơ sở để dần đần khôi phục lại phong trào. Đồng chí Đặng Bá Sang bám trụ ở Lương Sơn, Hiệp An xây dựng cơ sở ở Xóm Ruộng, Mã Lăng, Cát Lợi. Đồng chí Cao Cẩn bám trụ ở Hiệp Hoà, Hiệp Thành, phải sống dưới hầm bí mật, móc nối cơ sở từ Hiệp Thành đến Xuân Quang và một số cơ sở mật ở Phan Rí Cửa, Chí Công. Bám trụ ở xã Nhơn Thiện, đồng chí Trần Văn Tình móc nối gây dựng được cơ sở, xây dựng được đội công tác có 7 người gồm các đồng chí Nguyễn Hược, Nguyễn Thành (Mẫn), Lê Nhịn, Huỳnh Na, Lê Điền, Nguyễn Hồng do Trần Văn Tình làm đội trưởng. Từ đó đội công tác tiếp tục móc nối, xây dựng cơ sở trong các ấp phát triển.

Tuy nhiên, qua thực tiễn đấu tranh, cán bộ, đảng viên và những người yêu nước đều thấy, đối với Mỹ-Diệm không thể đấu tranh bằng lý lẽ đơn thuần, không thể bằng tay không mà chống lại tên đế quốc đầu sỏ và nguỵ quyền tay sai gian ác, xảo quyệt được. Đã đến lúc phong trào chống địch không thể không dùng bạo lực cách mạng. Ý thức đòi hỏi cần có lực lượng vũ trang đã nhen nhóm trong quần chúng nhân dân. Nhân dân nhiều nơi cũng đề nghị cấp trên nên cho tổ chức lực lượng vũ trang để đánh địch, nhưng chưa được chấp thuận. Dù vậy, lẻ tẻ một số nơi trong Tỉnh, cán bộ cơ sở và nhân dân đã bí mật thủ tiêu một vài tên ác ôn khét tiếng hoặc dùng súng và dao đánh lại bọn bắn giết nhân dân. Ngày 14 tháng 9 năm 1955, tổ thanh niên Bàu Thiêu (Khu Lê Hồng Phong) đã tự động diệt tên ác ôn phản động Lê Văn Tròn.

Giữa năm 1958, Hội nghị Liên khu uỷ V đề ra phương hướng chuyển phong trào và xác định phương châm đấu tranh là : “ Dùng vũ trang bộ phận để phối hợp với đấu tranh chính trị, tiêu diệt bọn Mỹ để khơi dậy tinh thần dân tộc chống Mỹ, diệt bọn phản động để tranh thủ bọn lưng chừng, diệt đầu sỏ bên trên để lay chuyển bọn bên dưới” (8) . Ngày 20/7/1958, Đội vũ trang công tác của Tỉnh được thành lập do đồng chí Phạm Hoài Chương làm Đội trưởng, cùng 3 đội viên Nguyễn Lựu, Nguyễn Văn Thắng, Đào Ngọc Trác hoạt động ở đồng bằng với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở chính trị, diệt ác hổ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.

Ngày 13/1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp lần thứ 15 ra Nghị quyết về đường lối cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Nghị quyết nêu rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam là con đường bạo lực, lấy sức mạnh bạo lực của quần chúng, dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ quyền thống trị của đế quốc Mỹ và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân…

Tháng 7 năm 1959, Tỉnh ủy mở Hội nghị tại Ra Pú (Di Linh) triển khai chủ trương của Hội nghị Liên tỉnh 3 và tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 Trung ương phổ biến như luồng gió mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh, cán bộ các cấp rất vui mừng, phấn khởi. Vấn đề tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang được cả hội nghị nhất trí và thảo luận sôi nổi nhất. Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Thường vụ Tỉnh ủy quyết định chọn xã Nhơn Thiện, thuộc căn cứ Lê Hồng Phong huyện Bắc Bình, là địa bàn có quần chúng tốt, phong trào mạnh để vận động thanh niên thoát ly tham gia xây dựng bộ đội của Tỉnh. Nhiệm vụ tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang được giao cho đồng chí Phạm Hoài Chương, đội trưởng đội vũ trang công tác của Tỉnh.

Sau Hội nghị, đồng chí Phạm Hoài Chương xuống ngay Khu Lê Hồng Phong liên lạc với đồng chí Tạo là giao liên đường thủy của Liên tỉnh 3 đang sống hợp pháp tại Bình Nhơn cùng lo việc vận động thanh niên. Khó khăn lớn nhất là làm sao đưa được một số lớn thanh niên thoát ly ra rừng mà kẻ địch không có chứng cứ để buộc tội gia đình hoặc hạn chế thấp nhất thiệt hại cho gia đình khi con em họ đi làm cách mạng.8(?) Nam Trung bộ kháng chiến 1945-1975-xuất bản năm 1992, trang 276

Page 9: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

9Sau thời gian động viên, giáo dục và chuẩn bị, kế hoạch vận động thanh niên thoát ly tiến hành 2

đợt, đưa ra được 21 thanh niên. Với lực lượng có được, ngày 02 tháng 9 năm 1959, tại vùng căn cứ ARA, Di Linh, đồng chí Nguyễn Gia Tú, Bí thư Tỉnh ủy công bố quyết định của Tỉnh uỷ thành lập trung đội vũ trang tập trung đầu tiên của Tỉnh lấy tên là đơn vị 2/9 do đồng chí Phạm Hoài Chương làm Chỉ huy trưởng kiêm chính trị viên, Bí thư Chi bộ kiêm y tá. Tuy đã có lực lượng vũ trang nhưng lãnh đạo còn dè dặt, chưa dám công khai dùng vũ khí để đánh địch. Đơn vị 2/9 tập trung vào nhiệm vụ huấn luyện quân sự, học tập chính trị và tuyên truyền xây dựng cơ sở. Lãnh đạo còn có chỉ thị “khi tiếp xúc với dân, không được để cho dân thấy súng”.

Cho đến khi nội dung Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chính thức được phổ biến và triển khai ở Bình Thuận vào cuối năm 1959, lực lượng vũ trang tỉnh đã có thể bước vào hoạt động, tạo thuận lợi cho lực lượng vũ trang huyện và đội mũi công tác ở các địa phương ra đời hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Một số nơi đã móc nối, xây dựng, tổ chức lại cơ sở cũ và phát triển cơ sở mới, đồng thời một số thanh niên nòng cốt được chọn và đưa lên để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Lực lượng cơ sở ở Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Trung, Hồng Thanh, Hồng Thịnh phát triển khá mạnh, hình thành các tổ nòng cốt trung kiên để tiến tới thành lập các tổ vũ trang tự vệ.

Cũng trong thời gian này, số cán bộ đi tập kết ra Bắc lần lượt trở về miền Nam chiến đấu. Tỉnh tăng cường đồng chí Hồ Hồng về Bắc Bình phụ trách quân sự cùng với đồng chí Phan Văn Hiếu (Sáu Thảo), Đặng Thanh Thùy để xây dựng lực lượng vũ trang. Khí thế cách mạng trong các tầng lớp nhân dân dần được khơi dậy. Huyện tập trung chỉ đạo tích cực vận động nhân dân bung ra, bám ruộng rẫy để sản xuất, vận động thanh niên thoát ly tham gia đánh Mỹ.

Những ngày đầu tháng 8 năm 1960, một bộ phận của lực lượng 2/9 do Nguyễn Thanh Đức, Nguyễn Hữu Ích (Năm Hưng) chỉ huy phối hợp với địa phương đánh vào các ấp Vĩnh Hảo, Cà Lon, Xuân Quang diệt một số tên ác ôn và dân vệ, thu 30 súng, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng vùng lên phá ấp mở kèm, trở về ruộng đất cũ làm ăn.

Những tháng cuối năm 1960, sau chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng và chiến thắng Nha Thiện Phú, phong trào cách mạng ở vùng căn cứ kháng chiến phát triển nhanh chóng, vùng đồng bằng kể cả vùng địch tạm chiếm thanh niên thoát ly tham gia cách mạng ngày một đông, tạo điều kiện bổ sung quân số xây dựng lực lượng vũ trang, đội mũi công tác, đẩy mạnh hoạt động diệt ác, phá kèm, hỗ trợ quần chúng nhân dân quay về ruộng đất cũ làm ăn. Lực lượng vũ trang Tỉnh từ Trung đội 2/9 phát triển thành 1 đại đội với phiên hiệu là 529.

Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở các địa phương lên bước mới, đi đôi với việc xây dựng, phát triển bộ đội tập trung, xuất phát từ tình hình thực tế của phong trào đòi hỏi phải đưa hoạt động quân sự vào vùng sâu, hổ trợ cho đồng bào đấu tranh chống địch, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ miền núi làm hậu thuẩn vững chắc cho việc mở phong trào giải phóng ở vùng đồng bằng và phát triển cơ sở cách mạng trong xã, thị trấn để tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện và lâu dài, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục động viên sức người, sức của xây dựng lực lượng vũ trang huyện, phát triển lực lượng dân quân du kích.

Đáp ứng từ yêu cầu của phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đặt ra, được sự chấp thuận của Tỉnh ủy Bình Thuận, ngày 25 tháng 7 năm 1961, tại Dốc Găng, ranh giới giữa Hồng Thái và Hồng Lâm, Huyện ủy Bắc Bình thành lập Đội vũ trang tập trung đầu tiên của Huyện do đồng chí Phan Văn Hiếu (Sáu Thảo) chỉ huy, lấy tên là “bộ đội Quang Trung”.(9)

Lễ thành lập có treo cờ Mặt trận, có đồng chí Bí thư Huyện uỷ Lê Thanh Hải đến dự (10). Đồng chí Phan Văn Hiếu, thay mặt đơn vị đứng dưới cờ và đọc 10 lời thề danh dự của quân đội. Đơn vị có 1A gồm 10 đồng chí được rút từ nhân viên trong cơ quan, trong đội công tác các xã và thanh niên trong ấp tình nguyện thoát ly tham gia cách mạng. Trong đó đồng chí Phan Văn Hiếu (Hồng Thái) phụ trách chung, anh Phạm Minh Chính (Lương Sơn) làm A trưởng, anh Nguyễn Tâm (Hồng Chính) làm A phó và 7 chiến sĩ là Nguyễn Thắng (Hồng Lâm), Trần Hùng (Phan Rí Thành), Nguyễn Mạnh (Hồng Thái), Trần Thiên (Hồng Lâm), Nguyễn Minh (Hồng Lâm), Phạm Cẩn (Phan Rí Cửa), Trần Hồng (Hồng Lâm). Trang bị gồm có : 1

9(?) Trang 170, tập sách Bắc Bình, truyền thống đấu tranh cách mạng 1930-1975, xuất bản 01/2000.10(?) Hồi ký của đồng chí Phan Văn Hiếu.

Page 10: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

10tiểu liên, 2 súng Mas36, 5 súng trường la-ben (sào vịt), 1 mã tấu, 5 dao găm. Đồng chí Bí thư Huyện uỷ huấn thị và giao các nhiệm vụ cho đơn vị :

-vũ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian.-xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào.-chuẩn bị chiến trường cho lực lượng trên hoạt động.-trước mắt xây dựng 2 đội du kích xã Hồng Lâm và Hồng Thái.Chưa đầy một tháng sau khi mới thành lập, đơn vị Quang Trung được Tỉnh giao nhiệm vụ, nội

trong tháng 8/1961 phải vào ấp lấy cho được 1 tấn gạo và 100 đôi nước mang vào rừng cất dấu, xong báo cáo về trên để trên đưa lực lượng về hoạt động.

Thực hiện mệnh lệnh trên giao, chỉ huy đơn vị nghiên cứu và đề ra kế hoạch đánh tiểu đội bảo an đi bảo vệ chiếc xe chở lương thực đi lại trên tuyến đường Hồng Lâm-Lương Sơn, lấy vũ khí địch trang bị cho lực lượng ta đồng thời lấy 1 tấn gạo được Tỉnh giao. Khó khăn là trên xe luôn có 1 tiểu đội lính bảo an, trang bị bén hơn ta, chúng lại đi chung trên xe với dân, nên làm thế nào phải diệt bằng được tiểu đội bảo an, lấy được gạo mà không ảnh hưởng đến tính mạng của dân. Nhưng thuận lợi là trận địa ta bố trí phục kích sát đường, ở vào đoạn dốc xe không chạy nhanh được, ta dễ lựa thế làm chướng ngại vật buộc xe dừng lại; lực lượng của ta mới thành lập tinh thần anh em phấn chấn, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về trang bị gồm 1 tiểu liên, 2 súng trường, 10 anh em trang bị mỗi đồng chí 1 búa cầm tay, có lệnh thì xung phong lên đánh bằng búa, không được nổ súng. Ngoài ra còn điều thêm trong các cơ quan, một tiểu đội dân công để cùng lực lượng mang gạo.

Đúng như phán đoán và kế hoạch, khoảng 3 giờ chiều, xe chở lính và gạo từ Lương Sơn đi Hồng Lâm lọt vào trận địa phục kích của ta. Nghe lệnh xung phong, lực lượng ta nhảy lên xe. Trên xe chỉ có tên Dương Tế (tự Thành)(11) , cảnh sát Hòa Đa phụ trách xã Nhơn Thiện, hành khách và gạo. Ta bắt tên Thành và mời đồng bào xuống xe, mở mét-ting đọc tội ác tên Thành, tuyên bố xử tử tại chỗ. Xong ta lấy được 500 kg gạo mang về. Đây là kết quả hoạt động đầu tiên diệt được ác, thu được lương thực, anh em rất phấn khởi. Sau đó, đơn vị Quang Trung cũng hoàn thành 100 đôi nước mang về cất dấu cùng gạo ở rừng sâu. Đầu tháng 9, Tỉnh đưa lực lượng của Tỉnh về Bắc Bình chuẩn bị đánh trường bia Lương Sơn.

Tháng 8/1961, Tỉnh ủy Bình Thuận tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch công tác: Đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện ở các địa phương, tập trung sức xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng dân quân du kích; tích cực tấn công địch, củng cố, mở rộng căn cứ miền núi, tập trung sức mở phong trào đồng bằng, phát triển cơ sở trong thị xã, thị trấn và giao cho Ban chỉ huy Quân sự Tỉnh chọn điểm, sử dụng lực lượng và phương thức hoạt động.

Đêm 12/9/1961, đơn vị Quang Trung phối hợp cùng lực lượng của Tỉnh gồm đại đội 486-Hoành Sơn và đại đội 481-đặc công tập kích vào trường bia Lương Sơn ở Dốc Lỡ, diệt và bắt 1 trung đội dân vệ địch thu toàn bộ vũ khí, có 3 trung liên và 1 xe lương thực. Một bộ phận đột nhập vào khu tập trung Lương Sơn làm mét-ting rút 70 thanh niên. Một bộ phận khác phá sập cầu Dốc Vạt. Trên đường rút về căn cứ, lực lượng ta vào xóm Cát Lợi diệt 2 tên ác ôn Bân và Bồi. (12)

Ngày 14/9 địch lần theo dấu ta chuyển lương thực để truy kích ta, nhưng đến dốc Cây Sầm (Trủng Lợi) thì bị ta chặn đánh gây cho chúng nhiều thiệt hại, giải thoát một số đồng bào bị chúng bắt.

Phát huy thắng lợi, đêm 25 rạng 26/9/1961, ta tiếp tục vào ấp Rạng vũ trang tuyên truyền xóa phiên hiệu 1 trung đội dân vệ thu 7 súng. Có 2 dân vệ xin theo, ta tiếp nhận và đặt tên mới là Thống, Nhất. Lực lượng rút về Bàu Tàn phát động quần chúng, tuyên truyền chiến thắng.

Đến 15 giờ ngày 27/9, một đại đội bảo an từ Phan Thiết ra sục sạo vào ấp Bàu Tàn liền bị ta chặn đánh quyết liệt, diệt và bắn bị thương một số tên, chúng vội vã tháo chạy về lại Phan Thiết.

Tiếp đến đêm 27/9, đơn vị Quang Trung phối hợp với 1 bộ phận của đại đội 486 tổ chức phục kích tại ấp Tà Nung, chặn đánh diệt 2 xe quân sự và 1 trung đội thủy quân lục chiến, thu 2 trung liên và 1 súng trường.

Đến ngày 4 tháng 10, đơn vị Quang Trung hợp với Đại đội 486 và Đại đội 481 đánh bọn thủy quân lục chiến càn vào Bến Ngạch khu căn cứ của ta, diệt, bắn bị thương hơn 40 tên địch.

11(?) Hồi ký của đồng chí Năm Thịnh.12(?) Hồi ký của đồng chí Năm Thịnh.

Page 11: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

11Gần 2 tháng hoạt động, nhất là sau chiến thắng ở Trường bia Lương Sơn và đánh bọn thủy quân

lục chiến ở Bến Ngạch, bọn địch ở Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp hốt hoảng tháo chạy. Đội, mũi công tác và đơn vị Quang Trung vào ấp tuyên truyền, phát động quần chúng, giải tán bọn tề, vệ, giải phóng Nhơn Thiện và Bàu Thiêu, đưa gần 5.000 dân trở về vườn đất cũ làm ăn. Địch điên cuồng phản ứng bằng cách đem máy bay thả bom vào ấp Nhơn Đức làm cháy nhà, chết một em nhỏ (13). Một số đồng bào hoảng hốt chạy ra các ấp ở quốc lộ 1 sống hợp pháp trong vùng kiểm soát của địch, một số không chịu khuất phục chạy vô rừng ở xây dựng lại căn cứ, tổ chức du kích chiến tranh để kháng chiến như trong chống Pháp.

Cũng từ đó, phong trào thanh niên tình nguyện tham gia lực lượng vũ trang phát triển. Hàng loạt thanh niên các xã Hòa Thắng, Lương Sơn, Hồng Thái tình nguyện thoát ly nhập ngũ. Nhờ nguồn này, Tỉnh cho phép bổ sung cho đơn vị Quang Trung-lực lượng vũ trang huyện- đủ 1 trung đội 32 đồng chí biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Phan Văn Hiếu làm trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Phượng làm chính trị viên, trang bị trung, tiểu liên, súng trường đầy đủ. Kể từ đây (khoảng tháng 10, 11 năm 1961) đội vũ trang Quang Trung có phiên hiệu là Trung đội 440 (14) . Hai đội du kích của 2 xã Hồng Lâm và Hồng Thái cũng được đơn vị xây dựng (15).

Từ một vùng căn cứ kháng chiến, có Đảng lãnh đạo, có chính quyền, đoàn thể, có lực lượng vũ trang và bán vũ trang nhưng khi đình chiến đã trở thành vùng địch kiểm soát. Kẻ thù luôn tìm mọi biện pháp để đàn áp, dập tắt phong trào, tách nhân dân ra khỏi cách mạng. Nhưng với truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn luôn tin Đảng, tin Bác Hồ, nhân dân Bắc Bình đã đoàn kết một lòng, tôi rèn ý chí kiên trung bất khuất đã vượt qua tất cả những khó khăn đó để vươn lên góp phần tích cực vào công cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai từ những ngày đầu. Đó là niềm tự hào luôn động viên, cổ vũ cán bộ chiến sỹ 440 hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

II. CHIẾN ĐẤU GIẢI PHÓNG NHIỀU VÙNG NÔNG THÔN, GIỮ VỮNG CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ NGỤY (1961-1965)

Những tháng đầu năm 1962, tình hình cách mạng miền Nam cũng như trên địa bàn từng tỉnh đã có những chuyển biến rất quan trọng. Kẻ thù đang ở thế thất bại buộc chúng phải đối phó một cách mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Mỹ tiến hành chủ trương bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, lấy quân Ngụy làm lực lượng chủ yếu dưới sự chỉ đạo và chi viện của Mỹ. Dùng biện pháp quân sự kết hợp chính trị, tình báo, cảnh sát tâm lý để tiêu diệt cơ sở Đảng, giành lại trận địa nông thôn nhất là vùng đông dân nhiều của. Kết hợp phong tỏa biên giới, ngăn chặn vùng biển, cắt đứt mọi chi viện từ Bắc vào để cuối cùng bóp chết phong trào cách mạng của quần chúng trong một thời gian ngắn. Trên cơ sở đó rút bớt cố vấn Mỹ về nước, tăng cường viện trợ cho chính quyền tay sai Sài Gòn, tiến tới giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh vào cuối năm 1965 (16).

13(?) Hồi ký của đồng chí Năm Thịnh.

14(?) Đơn vị có phiên hiệu 440 vì sau khi đồng chí Lê Văn Hiền về làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận kiêm trưởng ban quân sự tỉnh (7/1961) Ban chỉ huy được kiện toàn có tham mưu, chính trị, hậu cần phục vụ và mang phiên hiệu mới là 400 (Ban Chỉ huy quân sự Tỉnh về đóng ở đồi 400). Các lực lượng vũ trang tỉnh cũng như các huyện đều bắt đầu từ số 4. Ví dụ Hàm Thuận 430 - đại đội 529 của Tỉnh đổi thành 486, bộ đội huyện Bắc Bình là 440, Phan Thiết 480, Tuy Phong 490, .v.v…

Nhưng cũng có Chú thích ghi tại tập sách lịch sử Tiểu đoàn 840 rằng: “ Mật danh “trăm” là sắp theo số thứ tự của một số cơ quan đơn vị trực thuộc Quân khu VI, từ con số 100 dành cho cơ quan Quân khu, 200 cho Lâm Đồng, 300 cho Ninh Thuận, 400 cho Bình Thuận, 500 Tiểu đoàn 186, 600 cho Tiểu đoàn 840.

15(?) Hồi ký của đồng chí Phan Văn Hiếu.

Page 12: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

12Trên chiến trường Bắc Bình, ngoài căn cứ quân sự Sông Mao của sư đoàn 5 do Vòng A Sáng chỉ huy

còn có các đại đội bảo an được cắm chốt từ quận đến các xã, biến bảo an thành một loại quân chủ yếu ở địa phương. Địch còn tổ chức lực lượng bán vũ trang, bắt thanh niên kể cả nữ giới tập quân sự, trang bị vũ khí để canh gác bảo vệ. Với nhân dân lao động trong các ấp chiến lược, địch thực hiện quân sự hóa, tổ chức thành tiểu đội, trung đội và bắt buộc mỗi người phải có 4 loại : đèn, cây, dây, mác trực tiếp canh gác bảo vệ tại ấp. Trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chương trình bình định gom dân lập ấp và kết quả thu được, ngày 17/4/1962, địch nâng lên thành “Quốc sách ấp chiến lược”, hành động theo phương châm lấy dân để chiếm đất, chứ không phải chiếm đất để giữ dân.

Địch tập trung quân càn quét đánh phá sâu vào vùng căn cứ kháng chiến, thúc ép đồng bào gom dân lập ấp chiến lược. Ở mãng phía tây quận Hòa Đa, chúng dồn hết dân ở rải rác trên quốc lộ 1A vào các ấp chiến lược Lương Sơn, Hiệp An, Hiệp Bình và Hiệp Hòa. Đặc biệt, chúng quyết xây dựng Lương Sơn thành một ấp chiến lược kiểu mẫu nhất toàn miền Nam. Trong các ấp chiến lược, chúng bắt mọi người dân từ 18 tuổi trở lên phải nộp đủ chông tre, chông sắt, trụ rào, phải đào hào, đắp lũy xây dựng vành đai ấp. Ai không làm đầy đủ thì bị coi là phần tử chống đối hoặc phần tử nguy hiểm mà sự sống hay cái chết đều nằm trong tay bọn ác ôn định đoạt. Cũng phải mất gần nửa năm trời (10/1961 – 4/1962) ấp chiến lược Lương Sơn mới hoàn thành. Hôm tổ chức khánh thành (08/4/1962) có Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, đại tướng Lê Văn Tỵ, Tham mưu trưởng Quân ngụy Sài Gòn, Trung tướng cố vấn Mỹ Lem- nít-dơ và bọn tay sai ngụy quân, ngụy quyền từ trung ương đến địa phương về dự rất đông nhằm động viên khích lệ đám thuộc hạ và thúc đẩy việc xây ấp chiến lược ở các nơi khác.

Ấp chiến lược Lương Sơn với một hệ thống hầm, hào kiên cố, bọn dân vệ và thanh niên chiến đấu ngày đêm thay phiên nhau tuần tra canh gác rất nghiêm ngặt. Mọi người dân ra vào chỉ bằng 2 cổng chính trên quốc lộ. Bọn mật thám giả danh cán bộ xuống cùng ăn cùng ở cùng làm với nhân dân nhưng thực chất là để dò la, tra xét tình hình, hoạt động chiến tranh gián điệp và tình báo. Các ấp khác tình hình cũng tương tự, chúng quy định bà con đi làm rẫy, ruộng chỉ được mang cơm không được mang gạo và cũng chỉ đủ cho một người ăn trong ngày. Ấp chiến lược thực chất là trại giam khổng lồ và là một cứ điểm quân sự để chống lại phong trào cách mạng của quần chúng. Mọi hoạt động của cơ sở ta bên trong và đội, mũi công tác gặp nhiều khó khăn.

Quyết chống lại âm mưu của địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Bắc Bình chủ trương xây dựng vùng căn cứ vững mạnh, tích cực tăng gia sản xuất, tăng cường bố phòng; đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến lược, mở rộng vùng căn cứ giải phóng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đủ mạnh để làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc.

Sau khi giải phóng 2 xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp, các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện liên tục tấn công địch vũ trang tuyên truyền vào các vùng Bàu Thiêu, Bàu Đế, Suối Nước, Long Sơn,.v.v…bọn bảo an, dân vệ và bộ máy tề ở đây bỏ chạy. Huyện tổ chức lại 6 xã như hồi kháng chiến chống Pháp: Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng, Hồng Trung, Hồng Thịnh và Hồng Thanh. Tiến hành Hội nghị đại biểu nhân dân, thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng và các đoàn thể cách mạng ở từng xã và tổ chức Chi bộ Đảng để lãnh đạo.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các xã tích cực xây dựng căn cứ, ổn định thế ăn ở, tổ chức bố phòng chống địch, bảo vệ xóm làng, bảo vệ sản xuất. Đẩy mạnh công tác phát triển lực lượng dân quân du kích, mỗi xã có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích, mỗi thôn có 1, 2 tiểu đội dân quân.

Địch biết rằng nếu để ta xây dựng lại được căn cứ Lê Hồng Phong thì chúng sẽ ăn ngủ không yên, nên chúng kiên quyết xóa cho được khu căn cứ lõm này. Chúng tổ chức liên tiếp nhiều cuộc càn với những chiến thuật như “tát nước bắt cá”, “đổ nước bắt dế”.

Đầu tháng 01 năm 1962 ( từ ngày 04 đến ngày 09/01/1962), địch mở cuộc càn quét cấp tiểu đoàn với ý đồ nhằm tiêu diệt lực lượng còn non trẻ của ta và lùa xúc hết dân căn cứ của ta về vùng kiểm soát của địch.

16(?) Thực hiện kế hoạch đầy tham vọng trên. Mỹ dự định xây dựng quân chủ lực ngụy từ 17.000 tên lên 20.000 tên vào cuối năm 1962, và từ 20.000 tên lên 278.000 tên vào cuối năm 1965. Cố vấn Mỹ từ 848 tên dự kiến tăng 10.960 tên vào cuối năm 1962. Quốc sách ấp chiến lược làm thí điểm ở 4 tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Tuy sau đó làm đồng loạt ở cả miền Nam để dồn dân vào 17.000 ấp chiến lược vào cuối năm 1965.

Page 13: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

13Khoảng 4 giờ sáng địch có mặt tại Hồng Chính, lực lượng của chúng 1 tiểu đoàn, trong đó có 1 trung đội dân vệ. Ta dự đoán địch sẽ lùa dân về Mũi Né theo đường biển, nên bố trí 1 tiểu đội của Trung đội 440 phục kích tại Rừng Ngang sát biển để đánh địch bảo vệ dân. Đến 4 giờ chiều, từ đài quan sát, ta thấy rõ địch lùa dân Hồng Chính cùng với một đàn bò đi về hướng Lương Sơn. Lập tức ta cho lực lượng phục kích vận động từ Rừng Ngang của xã Hồng Thịnh di chuyển qua Đá Bàn của xã Hồng Chính chặn đánh địch 2 đợt. Đợt đầu lúc 5 giờ chiều, khi địch lọt vào ổ phục kích của ta, lệnh nổ súng, ta đánh khoảng 15 phút, ta lui quân và đến đoạn khác phục kích tiếp. Địch băng bó số bị thương, chặt cây khiêng số bị thương và xác chết tiến về hướng Lương Sơn. Khi địch tiếp tục lọt vào đoạn ta phục kích, ta nổ súng. Do trời tối, không quan sát được, địch hoang mang bắn loạn xạ. Ta lui quân về Hồng Chính. Còn số dân bị địch lùa, cũng tranh thủ thời cơ lúc ta đánh địch, bung chạy về Hồng Chính. Địch không dám đi tiếp, dừng lại ngủ đêm tại Đá Bàn, cho đến sáng hôm sau thì chúng quay lại Hồng Chính. Đến 15 giờ chiều địch gọi 13 chiếc thuyền máy ra chở chúng về Mũi Né. Lúc này lực lượng ta về phục tại núi Hòn Hồng quan sát khá rõ. Ta lợi dụng địa thế địa hình cho 2 tổ có trang bị trung liên, tiếp cận đánh vào chiếc thuyền đi sau cùng của chúng. Kết quả trận Hồng Chính-Hòn Hồng, ta bắn chết và bị thương 31 tên địch. Bên ta vô sự. Số dân mà địch lùa, kể cả bò, đều thoát được.

Đến tối 28/01/1962, ta tổ chức tập kích vào ấp Lương Sơn, đánh thiệt hại 1 trung đội dân vệ địch. Đầu tháng 2/1962, địch điều 1 đại đội biệt động quân từ Sài Gòn ra Mũi Né để tăng cường càn quét

đánh phá hỗ trợ cho bọn địch ấp Lương Sơn. Chúng cho 1 trung đội phục kích ở Giếng Đế thuộc Khu căn cứ Lê Hồng Phong. Trung đội 440 phối hợp với đại đội 489 tổ chức vận động bao vây tấn công diệt và bắn bị thương 27 tên, chúng vội vàng rút chạy. Trận này ta hy sinh 2 đồng chí, có đồng chí Hà Văn Tuy đại đội trưởng Đại đội 489.

Ngày 11/3/1962, Trung đội 440 phối hợp với Đại đội 450 chặn đánh 1 trung đội dân vệ do tên Sỏi, một tên tay sai phản động khét tiếng dẫn đầu. Chúng đến giếng Hộ Mậu (Triền) thì lọt vào ổ phục kích bị ta nổ súng tấn công phủ đầu gây thương vong một số. Hai giờ sau một trung đội bảo an của chi khu Hải Long chi viện đến nơi, ta chủ động tiếp tục chiến đấu quyết liệt, buộc địch rút chạy về Mũi Né. Trận này, ta diệt tại chỗ 18 tên bảo an, 3 dân vệ, thu 10 súng và đạn dược (17).

Tháng 3/1962, Trung đội 440 được bổ sung quân số để thành lập Đại đội 440 do đồng chí Phan Văn Hiếu làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Phượng làm Chính trị viên . Đại đội 440 có 2 trung đội: trung đội 1 do đồng chí Tâm làm trung đội trưởng; đồng chí Mai Khá làm trung đội trưởng trung đội 2. Về công tác Đảng, lúc mới thành lập chưa có Chi bộ. Sau đó phát triển được 3 đảng viên mới là Phạm Minh Chính, Nguyễn Tâm, Nguyễn Thắng và thành lập Chi bộ vào ngày 03/2/1962 gồm 4 đảng viên, trên chỉ định đồng chí Phan Văn Hiếu làm Bí thư Chi bộ. Đại đội có 1 bộ phận sản xuất đứng ở Hố Đất làm rẫy để cải thiện đời sống bộ đội.

Tháng 5/1962, để chỉ đạo phong trào cách mạng trong các vùng giải phóng và củng cố khu căn cứ Lê Hồng Phong vừa mới mở ra và xây dựng lại, Tỉnh uỷ Bình Thuận quyết định giải thể 2 huyện Bắc Bình và Phan Lý để thành lập lại huyện Lê Hồng Phong và Ban Cán sự Bắc Sơn.

Lấy dòng sông Luỹ làm ranh giới : vùng đất phía nam sông Luỹ thuộc huyện Lê Hồng Phong gồm các xã Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng, Hồng Trung, Hồng Thanh, Hồng Thịnh do đồng chí Lê Thanh Hải, Tỉnh ủy viên làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thanh Tâm (Rợ) làm Phó bí thư, đồng chí Nguyễn Anh Dũng làm Huyện đội trưởng. Đại đội 440 từ lúc này thuộc về huyện Lê Hồng Phong.

Một số xã còn lại phía bắc sông Luỹ gồm cả Tuy Phong và Phan Lý thành lập Ban cán sự Bắc Sơn chỉ đạo do đồng chí Nguyễn Định (Giáp) làm Bí thư, Nguyễn Hữu Ích (Năm Hưng) ủy viên phụ trách quân sự và được tăng cường một số đồng chí: Cao Cẩn, Lê Minh Sơn và Vũ Đình Bá (Bảy Bá). Sau khi thành lập Ban cán sự Bắc Sơn, các đội, mũi công tác Châu Hanh, Xuân Quang, Bá Ghe, Chợ Lầu, Phan Rí Cửa, Chí Công được thành lập và các xã Liên Hương, Vĩnh Hảo ta bố trí cán bộ để gây dựng lại phong trào. Đồng thời Tỉnh điều một tiểu đội của Đại đội 440 và tăng cường thêm 1 tiểu đội của tỉnh để thành lập đơn vị bộ đội địa phương Bắc Sơn (tiền thân của Đại đội 470 Phan Lý sau này).

Sau khi ổn định tổ chức, Huyện ủy Lê Hồng Phong, Ban cán sự Bắc Sơn và các lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh công tác chiến đấu, đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, diệt ác ôn, hạ uy thế tề điệp,

17(?) Trang 20, tập sách Đại đội 450-Thuận Phong trên vùng đất kiên trung (1961 – 1975)

Page 14: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

14phát động quần chúng vùng lên chống lại âm mưu lập ấp chiến lược, trước hết là chống dồn dân, chống càn quét cướp phá của địch.

Ngày 27 tháng 7 năm 1962, một đại đội biệt kích ở Khu Thạch Long càn quét lên Bàu Tàn bị Đại đội 440 phối hợp với Đại đội 489 chặn đánh diệt hơn 1 tiểu đội, thu toàn bộ vũ khí có 2 trung liên; sau đó đột vào các ấp Rạng, Long Hoa, Long Hiệp, Long Lâm bắt trừng trị một số tên ác ôn và phá hàng trăm mét rào ấp chiến lược. Tuy nhiên các hoạt động quân sự của ta lúc này chưa mạnh, chưa thường xuyên liên tục nên việc hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược còn bị hạn chế, có nơi ta phá banh, phá rã từng ấp, nhưng không giữ được để địch bắt dân củng cố lại.

Trong hai tháng 8 và 9 năm 1962, địch liên tiếp tổ chức nhiều cuộc càn từ cấp tiểu đoàn đến trung đoàn có máy bay, tàu chiến, xe cơ giới và trọng pháo yểm trợ đánh vào huyện căn cứ Lê Hồng Phong từ Bàu Thiêu, Bàu Đế đến Hố Đất, Rừng Ngang, Rừng Điểu. Chúng triệt phá vườn tược, đốt nhà dân, bắn giết đồng bào và dồn dân vào các ấp chiến lược. Chỉ trong một thời gian ngắn bằng các thủ đoạn thâm độc, chúng đã dồn hơn 1.700 dân vùng căn cứ giải phóng đưa về các ấp chiến lược phần lớn là người già và trẻ em.

Đại đội 440 cùng dân quân du kích và nhân dân ngày đêm tham gia chống càn quét hết đợt này sang đợt khác đã gây cho địch nhiều tổn thất. Ở các xã sau khi địch càn xúc dân, số còn lại lo việc bố phòng, cất dấu tài sản và chuẩn bị nơi tránh lánh, do đó các cuộc càn sau địch không xúc được dân và tài sản cũng ít bị cướp phá.

Phong trào thi đua làm chông bố phòng bảo vệ căn cứ được toàn dân hăng hái tham gia. Nơi nào cũng tổ chức làm chông, nhà nhà làm chông, người người làm chông chống giặc giữ làng. Từ đó nhân dân vùng căn cứ kháng chiến có câu ca rằng:

Đi ngang Hố Đất - Gò CàTai nghe tiếng rựa đều là vót chôngĐêm đêm bên bếp lửa hồngTrẻ già trai gái làm chông diệt thù.

Toàn Huyện căn cứ Lê Hồng Phong đã bố phòng và rào hơn 10 km, cắm 5 tuyến chông trên 7,5 km, có 700 hầm chông sắt, chông bàn, 310 hầm chống xe cơ giới, 232 hầm chống phi pháo dọc đường. Trên địa bàn xã Hồng Lâm đã có 12 tên địch bị sụp hầm chông trong lúc đi càn buộc chúng phải rút lui.

Ở các xã vùng địch tạm chiếm như Lương Sơn, Hồng Thái, Đại đội 440 cùng dân quân du kích và đội công tác liên tục đột ấp, xây dựng cơ sở vận động bà con phá ấp chiến lược trở về ruộng đất cũ làm ăn. Chỉ trong 3 tháng (từ tháng 9 đến tháng 12/1962) đã có 691 quần chúng bỏ ấp chiến lược ra vùng giải phóng làm ăn xây dựng căn cứ chống địch.

Tháng 10/1962, Tỉnh đặt kế hoạch chặn đánh 3 xe tải của địch, thường xuyên chở muối trên đường lộ 1 từ Phan Thiết đi Cà Ná, để lấy muối đưa về hậu cứ cung cấp cho Tỉnh và Khu 6 phân phối các nơi. Theo kế hoạch, Đại đội 440 do đồng chí Vũ Bình Phong, Huyện đội phó Lê Hồng Phong chỉ huy mai phục tại cầu Ông Tầm đã tiến hành chận và buộc 3 xe chở muối chạy vào rừng dầu Bà Én đổ muối để dân công chuyển vào cây xây Láng Le trên dốc động thuộc Giếng Chanh, từ đó chuyển dần về căn cứ; có lực lượng Đại đội 450 phối hợp chặn viện địch từ Tà Nung lên. Sau đó đơn vị 440 di chuyển xuống rừng dầu Bà Én bảo vệ dân công chuyển muối, gặp địch phục kích, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, làm cho địch thương vong một số và phải rút lui về Tà Nung. Ta tiếp tục điều dân công chuyển hết số muối. Trận đánh này, riêng đơn vị 440 hy sinh 2 đồng chí Lợi và Lượng và nơi đây có địa danh “Cây xây muối” xã Hồng Sơn (18).

Sau hơn 1 năm chiến đấu trong thế giằng co quyết liệt, chống địch gom dân lập ấp chiến lược, Đại đội 440 thật sự trở thành đơn vị nòng cốt, có lúc phối hợp với lực lượng tỉnh như Đại đội 486, Đại đội 489 đánh địch, chống càn quét gom dân lập ấp, có lúc cùng lực lượng dân quân du kích và đội công tác đột ấp tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng cơ sở, phát triển phong trào du kích chiến tranh bảo vệ xóm làng. Bước đầu đã giành được những thắng lợi đáng kể, nhưng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai chắc chắn không cam chịu thất bại mà chúng sẽ lao sâu hơn nữa bằng một kế hoạch chiến lược mới “Kế hoạch Tổng tiến công” huy động mọi lực lượng và phương tiện chiến tranh liên tiếp mở nhiều cuộc càn quét đánh phá nhằm bình định cho được nông thôn, tiêu diệt các tổ chức quân sự, chính trị của ta, kiểm soát chặt chẽ từng địa phương cũng như trên toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam.18(?) Trang 23, 24 tập sách Đại đội 450-Thuận Phong trên vùng đất kiên trung (1961 – 1975)

Page 15: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

15Ở miền núi, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Hữu Ích (Năm Hưng) phụ trách quân sự Ban cán

sự Bắc Sơn, được tỉnh tăng cường một bộ phận của Đại đội 481 phối hợp với Đội công tác miền Tây do đồng chí Cao Cẩn làm Đội trưởng tiến công ấp Trinh Hòa, giải trang 1 trung đội dân vệ, thu toàn bộ vũ khí, giải phóng ấp Trinh Hòa ngày 26/3/1963 đưa dân về xây dựng vùng căn cứ Cà Lon, làm chỗ dựa cho mảng đồng bằng đồng thời nối liền hành lang chiến lược giữa các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng.

Để đối phó với âm mưu mới của địch, Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Quân sự Tỉnh chủ trương: “Ra sức phát triển phong trào du kích chiến tranh ở vùng căn cứ, vùng làm chủ và vùng tranh chấp. Đẩy mạnh các hoạt động vũ trang hỗ trợ cho phong trào phá ấp mở vùng, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Đánh nhỏ, ăn chắc, đánh nhanh diệt gọn, thọc sâu vào vùng sau lưng địch, đánh có chuẩn bị, đánh có điểm, có diện. Tích cực chống càn quét lấn chiếm…”.

Đêm 29/3/1963, Đại đội 440-Lê Hồng Phong phối hợp với Đại đội 486 và Đại đội 489 của Tỉnh, dưới sự chỉ huy của 2 đồng chí Nguyễn Thanh Đức, Nguyễn Văn Lâu (Mười Lan), tổ chức phục kích độn thổ tại khu vực núi Rễ, trận địa trải dài theo cua Bàu Sen gần sát quốc lộ 1A từ km 30 trở ra Lương Sơn. 10 giờ 30 phút trưa ngày 30 tháng 3, một đoàn xe 3 chiếc GMC có kéo rơ-moóc chở đầy lính từ Phan Thiết ra lọt vào trận địa, mìn chặn đầu nổ, lập tức các chiến sỹ ta lao lên xung phong diệt địch. Chỉ 15 phút chiến đấu ta hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt tại chỗ 115 tên địch, bắt 30 tên, thu 160 súng các loại, có 2 súng cối, 2 đại liên, 10 trung liên và rất nhiều chiến lợi phẩm khác chất đầy 2 xe GMC chở về căn cứ xã Hồng Liêm. Chiến thắng núi Rễ làm nức lòng đồng bào trong tỉnh, lần đầu tiên hành khách đi trên những chiếc xe đò chứng kiến Quân giải phóng Bình Thuận truy đuổi địch giữa ban ngày, mọi người vỗ tay hoan hô bộ đội ta đánh giỏi, thắng to.

Cay cú trước thất bại, hai hôm sau (01/4/1963), địch đưa 1 tiểu đoàn càn lớn vào Hồng Liêm nhằm lấy lại số chiến lợi phẩm của ta, bị Đại đội 440 cùng du kích đánh trả quyết liệt. Qua 2 ngày chiến đấu, ta gây cho chúng thiệt hại nặng buộc chúng phải rút ngay ra Bàu Sen cắm cờ trắng xin cho trực thăng hạ xuống nhiều lần để lấy xác. Trận này ta vừa bảo vệ được căn cứ vừa giữ được chiến lợi phẩm không cho địch lấy lại (19).

Phát huy thắng lợi, cũng lực lượng trên có tăng cường Đại đội bộ binh 489 tiếp tục tấn công đồn Long Phú (Gộp) diệt 70 tên địch. Những ngày tháng 4 năm 1963, khí thế tiến công của các lực lượng vũ trang, dân quân du kích và đội mũi công tác phát huy mạnh mẽ, liên tục giành được nhiều thắng lợi, làm chủ được nhiều thôn ấp hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng trở về ruộng đất cũ làm ăn. Nhiều thanh niên nam nữ tình nguyện thoát ly gia nhập lực lượng kháng chiến, vào các đơn vị bộ đội chiến đấu, vào các cơ quan phục vụ chiến đấu.

Thực hiện “Kế hoạch Tổng tiến công” càn quét, tháng 4 năm 1963, bọn địch ở Bình Thuận huy động lực lượng tại chỗ kết hợp lực lượng trên chi viện lại mở tiếp cuộc càn “Bình Lâm” cấp trung đoàn, kết hợp với lực lượng hải thuyền đổ quân vào khu Lê Hồng Phong, liên tục đánh vào vùng căn cứ ta, chà đi xát lại vùng giải phóng đồng bằng, làm cho cuộc sống và chiến đấu của quân và dân ta vô cùng khó khăn. Hầu hết các cuộc càn quét lớn, nhỏ của địch đều bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt. Trong đợt chống càn, hình ảnh người cán bộ Đại đội 440 vì lo cho tánh mạng, tài sản của nhân dân mà quên đi hạnh phúc riêng của mình đã để lại trong lòng chiến sĩ và nhân dân căn cứ Lê Hồng Phong một tình cảm tiếc thương và kính phục. Đó là đồng chí Nguyễn Xuân Phượng, Chính trị viên phó Đại đội 440. Anh quê ở Chí Công (Duồng) tập kết ra Bắc học tập, xây dựng quân đội chính qui, được cử vào Nam chiến đấu theo tinh thần Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, anh được trở lại quê hương và về Đại đội 440. Mặc dù đang được nghỉ phép để chuẩn bị xây dựng gia đình, nhưng khi nghe tin địch càn vào căn cứ, anh vội vã chạy về chỗ đơn vị chiến đấu chỉ huy đánh địch chống càn. Đồng đội khuyên anh nên tạm nghỉ để lo việc riêng, còn đánh giặc có anh em đơn vị và du kích rồi. Thế nhưng anh nói : Giặc đến nhà mình phải đánh, đánh xong rồi hãy cưới vợ có muộn gì đâu. Trong trận chiến đấu quyết lịêt với 1 tiểu đoàn lính cộng hoà của nguỵ, thấy chiến sĩ bắn trung liên của đơn vị bị địch bắn bị thương, anh Phượng vừa chỉ huy vừa ôm trung liên bắn diệt nhiều địch, nhưng chẳng may 1 quả đạn cối đã rơi trúng anh. Anh đã anh dũng hy sinh ngày 15/5/1963. Đó là một tổn thất không nhỏ của Đại đội 440 và của lực lượng vũ trang huyện nhà.

19(?) Hồi ký của đồng chí Vũ Bình Phong.

Page 16: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

16Vào nữa cuối năm 1963, phong trào cách mạng ở Bình Thuận có những bước đột phá mạnh mẽ. Hòa

cùng khí thế chiến thắng của nhân dân miền Nam, các đơn vị tập trung tỉnh, bộ đội địa phương huyện, du kích và đội công tác đều được bổ sung quân số, kiện toàn tổ chức và tăng cường trang bị khá mạnh (mặc dù là vũ khí chiến lợi phẩm), bước vào hoạt động.

Ngày 27/7/1963, Đại đội 440 phối hợp cùng Đại đội 450 chia làm 2 mũi tập kích vào ấp Hòa Vinh (Xa Ra) đánh tan 1 trung đội của đại đội 443 bảo an ngụy, diệt 2 tên, làm bị thương 3 tên; ta thu 5 súng các loại. Trận này ta diệt địch ít nhưng tác dụng lớn là tạo ra khí thế mới cho phong trào địa bàn Xa Ra-Tùy Hòa. Ban đêm, địch không dám ngủ tại ấp, sợ ta tập kích. Quần chúng phấn khởi, còn địch thì lo sợ (20).

Các mũi công tác Châu Hanh, Thanh Kiết, Hậu Quách phối hợp với bộ đội Bắc Sơn do Nguyễn Hữu Ích chỉ huy thường xuyên đánh vào các ấp để xây dựng và phát triển phong trào chính trị của đồng bào Chăm, đánh ấp Vĩnh Hảo diệt 1 trung đội dân vệ, thu toàn bộ vũ khí.

Các xã vùng địch như Lương Sơn, Hồng Thái thuộc huyện Lê Hồng Phong, đội vũ trang công tác phối hợp cùng Đại đội 440 thường xuyên đột ấp xây dựng cơ sở du kích mật để đánh địch bên trong. Em Trần Giỏi một thiếu niên gan dạ, là 1 thành viên du kích mật ở thôn Hiệp An, dũng cảm dùng lựu đạn đánh vào đoàn xe của lính ngụy tiếp tế lương thực, thực phẩm từ Lương Sơn ra. Tiếp đến tháng 9 năm 1963, em dùng lựu đạn đánh vào đại đội bảo an 445 làm chết, bị thương nhiều tên trong đó có 1 sỹ quan chỉ huy, phá hỏng 1 máy bộ đàm PRC 10. Em bị địch bắt đánh đập tra khảo rất tàn nhẫn nhưng em nhất quyết không khai. Biết không khuất phục được tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của em, chúng đày em ra nhà tù Côn Đảo.

Ở huyện Lê Hồng Phong, đồng bào vùng căn cứ đã ổn định nơi ăn chốn ở và tập trung sản xuất, xây dựng làng, xã chiến đấu và thành lập lực lượng du kích tập trung và dân quân chiến đấu. Đêm 3/9/1963, đồng chí Nguyễn Thành-Bí thư Chi bộ cùng đồng chí Mãn Ngọc Hy-Xã đội phó Hồng Chính dẫn 1 tiểu đội du kích đột nhập vào khu tập trung Mũi Né (chi khu quận Hải Long) bắt liên lạc với cơ sở bên trong đưa hơn 360 đồng bào và đồ đạc bị chúng lùa dồn vào đây từ đầu năm 1963, về lại khu căn cứ an toàn. Phong trào nhân dân tham gia bố phòng, xây dựng làng xã chiến đấu có những bước tiến mới. Nhân dân xã Hồng Liêm với dân số 192 người (năm 1963) đã xây dựng thành công một xã chiến đấu hoàn chỉnh, có tuyến bố phòng chông mìn vững chắc có khả năng ngăn chặn, hạn chế sự càn quét lùng sục của địch, có lực lượng du kích tập trung và dân quân chiến đấu thường xuyên canh gác bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất không để địch cướp phá.

Ở các xã vùng địch tạm chiếm, Đại đội 440 cùng đội công tác tăng cường hoạt động móc nối cơ sở, xây dựng lực lượng du kích mật để đánh địch, nắm tình hình phục vụ cho lực lượng vũ trang diệt ác. Các ấp Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Thành thuộc xã Hồng Thái cũng đã xây dựng được lực lượng du kích phục vụ chiến đấu và thường xuyên tham gia cùng nhân dân phá bỏ ấp chiến lược.

Ngày 24/12/1963, Đại đội 440-Lê Hồng Phong phối hợp cùng Đại đội 450 tổ chức phục kích tại đường hầm Bàu Sen-Thiện Nghiệp tiêu diệt trung đội dân vệ 47 do tên Sỏi ác ôn khét tiếng chỉ huy. Để nhử địch vào thế trận gài sẵn, ta cho Tổ trinh sát bám sát địch bắn tĩa và rút chạy về hướng mai phục. Tên Sõi dẫn trung đội truy kích đến nơi bị ta nổ súng diệt cùng 7 tên khác, làm bị thương 3 tên, số sống sót bỏ chạy. Ta thu 1 súng ngắn, 1 tiểu liên và 5 súng trường. Tên Sõi và trung đội của hắn bị diệt, đã gây phấn khởi cho đồng bào ở ấp Giồng Thầy Ba đang chờ ngày được giải phóng trở về đất cũ làm ăn tự do (21).

Thực hiện nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, huyện Lê Hồng Phong và Ban cán sự Bắc Sơn chỉ đạo, phát động toàn dân toàn quân ở địa phương tập trung sức thực hiện hai nhiệm vụ chính: “Xây dựng vững chắc căn cứ phía sau, tích cực tấn công địch ở phía trước. Cụ thể là tích cực xây dựng, củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang, bộ đội địa phương huyện, dân quân du kích xã, thôn, du kích mật, tự vệ mật trong từng thôn ấp đủ mạnh để sẵn sàng tấn công địch, bảo vệ căn cứ, bảo vệ nhân dân. Tăng cường bố phòng, tích cực tăng gia sản xuất, động viên nhân dân đóng góp sức người sức của cho kháng chiến.

Trước mắt tập trung xây dựng Đại đội 440 bộ đội địa phương huyện, đủ biên chế và trang bị để làm tốt chức năng đánh địch ở phía trước. Tổ chức học tập chính trị, huấn luyện quân sự để cho anh em trở thành người

20(?) Hồi ký của đồng chí Vũ Bình Phong21(?)Trang 32 tập sách Đại đội 450-Thuận Phong trên vùng đất kiên trung (1961 – 1975)

Page 17: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

17chiến sỹ giỏi, an tâm chiến đấu công tác. Đặc biệt một số chiến sỹ mới bổ sung phải cho anh em học tập kỹ chiến thuật người lính trước khi tham gia chiến đấu.

Đầu năm 1964 (22), Đại đội 440 huyện Lê Hồng Phong được tăng cường quân số và tổ chức lại đủ 3 trung đội do đồng chí Phan Văn Hiếu làm đại đội trưởng, đồng chí Vũ Bình Phong (Vũ Bảo) làm Chính trị viên- Bí thư Chi bộ.

Trung đội 1 do đồng chí Tâm (Nhịn) làm trung đội trưởng.Trung đội 2 do đồng chí Mai Khá làm trung đội trưởng.Trung đội 3 do đồng chí Lý (Luận) làm trung đội trưởng.Trang bị có cối 60 ly, trung liên, tiểu liên, súng trường đầy đủ theo biên chế.Đại đội 440 ngày phục kích, chống càn, đêm đột ấp đánh địch, vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ

sở. Từ các ấp Phú Hài, Hiệp Thành, Hiệp Hòa, Hiệp An, Lương Sơn, Suối Nhum, Bàu Ốc, Gộp, Tà Nung không ấp nào mà Đại đội 440 không vô được, không vô ấp đánh địch được, nên những ấp chiến lược của địch bị lỏng rã từng mãng, ban đêm địch trốn ngủ nơi khác, ban ngày mới có mặt trong ấp để kềm kẹp nhân dân.

Ngoài ra Đại đội còn có 1 bộ phận sản xuất gồm 10 người do đồng chí Huỳnh Tầm chỉ huy đứng ở Hố Đất chuyên sản xuất mì khoai bắp bảo đảm một phần lương thực cho đơn vị.

Với các xã vùng giải phóng, tổ chức xã đội, thôn đội và lực lượng du kích, tự vệ chiến đấu và dân quân gương mẫu (Đã có 7 xã đội 21 cán bộ, 10 thôn đội 24 cán bộ, du kích 52 người, tự vệ chiến đấu 110 người, dân quân 446 người). Lực lượng du kích các xã đã phát huy tốt, dựa vào tuyến bố phòng phối hợp cùng bộ đội địa phương huyện đánh địch càn quét cướp phá hàng trăm trận, diệt nhiều địch, bảo vệ được vùng căn cứ giải phóng.

Phong trào chiến tranh du kích đang phát triển khá mạnh thì ngày 19/5/1964, đồng chí Lê Thanh Hải, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận, Bí thư Huyện ủy Lê Hồng Phong do đau nặng đã trút hơi thở cuối cùng trên mảnh đất khu Lê, mảnh đất mà đồng chí đã gắn bó suốt cuộc đời trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Với cương vị là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Đảng bộ và nhân dân chiến khu Lê Hồng Phong, đồng chí Lê Thanh Hải đã để lại một nhân cách lớn, một tấm lòng trung kiên bất khuất với Đảng với nhân dân. Đồng bào đồng chí tiếc thương mỗi khi nhắc tới “Ông Mười” ai ai cũng bùi ngùi xúc động.

Để tiếp tục lãnh đạo phong trào kháng chiến ở địa phương, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Trần Hữu Tình làm Bí thư Huyện ủy Lê Hồng Phong, bổ sung đồng chí Bảy Lam-Bí thư miền A vào Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Quốc Thịnh vào Huyện ủy viên. Đồng chí Nguyễn Anh Dũng-Huyện ủy viên làm Huyện đội trưởng, đồng chí Phan Văn Hiếu-Huyện ủy viên vẫn giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 440, đồng chí Vũ Bình Phong-Chính trị viên đại đội. Các trung đội trưởng có sự thay đổi chút ít : Đồng chí Tâm làm trung đội trưởng trung đội 1, đồng chí Thanh-trung đội trưởng trung đội 2, đồng chí Lý (Luận) trung đội trưởng trung đội 3. Đặc biệt trong thời gian này, Đại đội 440 còn tổ chức Ban chỉ huy cấp trung đội để sẳn sàng cơ động chiến đấu độc lập trên khắp địa bàn. Mỗi trung đội có phương án tác chiến riêng, có thể đánh địch bất cứ tình huống nào. Việc tập trung, phân tán linh hoạt đã tạo cho đơn vị một tác phong chiến đấu khẩn trương, chính xác, góp phần đưa hiệu suất tiêu diệt địch rất cao.

Bộ phận sản xuất vẫn đứng chân tại Hố Đất trồng các loại cây lương thực như bắp, mỳ, đậu và dưa lấy hạt. Nhiều lúc vào vụ mùa thiếu nhân lực, anh em tự vần đổi công với nhân dân trong vùng để bảo đảm thời vụ. Nhiều lúc địch càn, ban ngày không sản xuất được phải tranh thủ làm ban đêm. Thanh niên nam nữ trong căn cứ hăng hái giúp đỡ bộ đội sản xuất. Họ vừa làm vừa hát với nhau thật vui vẻ :

“Em yêu anh lính bốn mươi (440).Gian lao mà vẫn tươi cười như hoa”hoặc : “Anh đi đánh giặc giữ làng, Nhớ mang chiến thắng sẵn sàng tặng em”Những câu hát mộc mạc nhưng đầy ý nghĩa đó đã động viên, cổ vũ, thôi thúc anh em hăng say lao

động, chiến đấu lập nhiều thành tích xuất sắc. Anh em sản xuất phía sau tự xác định mỗi hạt bắp, củ khoai 22(?) Hồi ký của đồng chí Phan Văn Hiếu.

Page 18: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

18làm ra để nuôi bộ đội là đã góp phần đánh Mỹ, thắng Mỹ ở chiến trường. Nhờ tích cực tăng gia sản xuất, đơn vị đã tự túc được 3 tháng ăn trong năm trong điều kiện địch càn quét đánh phá liên miên là một thành tích không nhỏ, góp phần cho chiến đấu thắng lợi.

Địch không thực hiện được ý định lùa hết dân ở căn cứ về các vùng tạm bị chiếm, nên chúng ra sức bao vây kinh tế triệt để, không để một lon gạo, một hạt muối, một thước vải, một viên thuốc, một cuốn vở, một cây viết,…lọt ra vùng căn cứ, để đồng bào đói khổ quá phải chạy vào ấp. Từ đó đặt ra cho Đại đội 440 một nhiệm vụ phức tạp không kém phần quan trọng ngoài nhiệm vụ đánh địch là mỗi lần vào ấp vũ trang tuyên truyền làm công tác phát động quần chúng thì Đại đội 440 phải báo cho dân các xã căn cứ biết, để đồng bào theo bộ đội vào ấp mua lương thực, thuốc men và những thứ cần dùng khác. Việc làm này đã càng gắn chặt tình quân dân như cá với nước.

Tháng 6/1964, Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh họp đề ra nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm là phải tập trung sức tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng căn cứ giải phóng, động viên nhân tài vật lực phục vụ kháng chiến,…Nhiều cuộc “họp bạn” được tổ chức, có hàng trăm thanh niên nam nữ trong các ấp chiến lược ra dự. Đây là dịp để tuyên truyền, giáo dục, học tập tình hình đường lối chủ trương của cách mạng, động viên mọi người hăng hái thoát ly lên đường giết giặc và đã có hàng trăm nam nữ thanh niên tình nguyện gia nhập các lực lượng vũ trang. Nhờ nguồn bổ sung này mà lực lượng kháng chiến của tỉnh, của huyện ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lê Hồng Phong quyết đập tan âm mưu củng cố ấp chiến lược của địch, tiêu diệt lực lượng kèm và hỗ trợ kèm để mở rộng diện tranh chấp và làm chủ các xã dọc theo quốc lộ 1A. Ban chỉ huy Đại đội 440 quyết tiêu diệt địch, giải phóng các ấp từ Tùy Hòa ra Hồng Thái.

Sáng ngày 24/7/1964, Đại đội 440-Lê Hồng Phong phối hợp với Đại đội 486, cùng lực lượng du kích tập trung và các đội công tác phía trước tập kích vào ấp chiến lược Tà Nung (Hồng Sơn) diệt gọn 1 trung đội bảo an của đại đội 443, đánh tan 1 trung đội dân vệ khác, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy phá banh ấp chiến lược.

Phản ứng lại hoạt động của ta, ngày 26/7/1964, địch sử dụng 2 tiểu đoàn cộng hòa, 2 đại đội bảo an chia làm 5 mũi tấn công càn quét vào các xã Hồng Sơn, Hồng Trung, Hồng Thịnh, Hồng Chính, Hồng Lâm. Đại đội 440 và dân quân du kích các xã giải phóng đã liên tục bám đánh địch suốt nửa tháng (26/7 - 8/8/1964), vừa tiêu hao cầm chân địch, vừa bảo vệ dân đưa đi tránh lánh địch sát hại, ác liệt và gian khổ kéo dài, có lúc cả dân và quân đói cơm phải đào đất chôn khoai đốt nóng cho chín để ăn, thiếu nước phải len lỏi vượt qua bên kia đường 1, tìm mang về đỡ khát. Thế nhưng với tinh thần quả cảm, chịu đựng hy sinh, chiến đấu không mệt mỏi, lực lượng ta đã diệt trên 100 tên địch, bắn rơi 1 máy bay trực thăng tại Suối Nước - Hòn Rơm. Bị thiệt hại nặng, địch phải kết thúc cuộc càn sớm hơn kế hoạch.

Đến đêm 14-9-1964, Đại đội 440 và Đội công tác Lương Sơn đã đánh bắt sống 1 tiểu đội thanh niên chiến đấu, bắn bị thương 1 bảo an, thu trang bị vũ khí, trong đó có 1 súng mic mã lai, 1 súng các-bin và một số súng khác, 1 số lựu đạn, bắt 02 tên ác ôn Q. và H. (23).

Sau các đợt chống càn, Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết tập trung lực lượng đánh tiêu diệt Đồn Gộp, phá ấp chiến lược Long Hoa để mở rộng vùng giải phóng. Đồn Gộp đóng trên đồi cao, bình độ khoảng 50 mét về phía Đông quốc lộ 1A, phía Bắc là cầu Bằng Lăng thuộc xã Hồng Liêm, có 1 đại đội bảo an chiếm giữ, bọn này thường lùng sục ra xung quanh, xúc hết dân về thành lập ấp chiến lược Long Hoa (Gộp). Trong ấp chiến lược chúng bố trí 1 trung đội dân vệ canh giữ cùng với bọn tề điệp ác ôn kèm kẹp nhân dân.

Lực lượng ta có Đại đội 440 huyện Lê Hồng Phong phối hợp với Đại đội 486 và Đại đội 489 của tỉnh cùng Đại đội 450 Thuận Phong và 2 trung đội trợ chiến. Phương án đánh diệt Đồn Gộp vừa chuẩn bị xong thì ta phát hiện hàng đêm đại đội bảo an ở đồn di chuyển xuống ấp nhằm tránh bị tiêu diệt do đó ta phải chuyển phương án từ đánh đồn sang đánh ấp. Trận đánh đặt dưới sự chỉ huy chung của Tỉnh đội trưởng Lê Đình Nguyên.

Rạng sáng ngày 13/10/1964, các đơn vị tiếp cận mục tiêu, Đại đội 486 vừa lọt vào ấp thì gặp ngay đại đội bảo an địch nổ súng quyết liệt. Đại đội 489 chưa vận động lên kịp, bọn địch lợi dụng địa hình phức tạp phản kích liên tục gây thương vong cho Đại đội 486. Chỉ huy trưởng lệnh cho Đại đội 440 hình thành 2 23(?) Hồi ký của đồng chí Năm Thịnh.

Page 19: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

19mũi đánh thọc vào phía sau lưng địch. Lúc này Đại đội 489 cũng vừa đến nơi hình thành thế bao vây diệt địch. Sau 30 phút chiến đấu, ta làm chủ trận địa diệt và bắt gọn đại đội bảo an 441 và 1 trung đội dân vệ của địch, thu toàn bộ vũ khí. Trong quá trình tảo trừ, chiến sĩ Nguyễn Thế Vị của Đại đội 440 phát hiện có 1 tiểu đội địch đang lẫn trốn, đồng chí đã mưu mẹo hô to : Trung đội 1, trung đội 2 bao vây, trung đội 3 xung phong. Cả tiểu đội địch không dám chống trả và đưa tay xin hàng. Tổ của đồng chí Vị bắt gọn 1 tiểu đội địch 11 tên, góp phần vào chiến thắng chung. Sau đó ta phá banh ấp chiến lược Long Hoa, mở đầu phong trào phá ấp chiến lược mùa khô 1964-1965 trong Huyện.

Phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đánh tiêu diệt bọn bảo an, dân vệ, huyện Lê Hồng Phong và Ban cán sự Bắc Sơn đã huy động các đội công tác, dân quân du kích ra phía trước cùng bộ đội và nhân dân tiếp tục phá đi phá lại từng mảng ấp chiến lược dọc theo quốc lộ 1A và tập kích ấp chiến lược xã Chợ Lầu diệt 1 trung đội dân vệ. Các ấp Vĩnh Hanh, Tuy Tịnh, Châu Hanh phong trào phát triển mạnh mẽ, thanh niên ở các làng Chăm cũng hăng hái lên đường tòng quân giết giặc làm cho khí thế cách mạng ở những ngày cuối năm 1964 và đầu năm 1965 rất sôi động, phấn khởi. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của quần chúng ngày càng mạnh mẽ, phong trào đấu tranh của Phật giáo, của học sinh ngày càng tăng cao. Tiểu khu Bình Thuận có tiếng là tiểu khu cứng rắn nhất nay cũng phải thú nhận: “Hiện nay toàn lãnh thổ Việt Nam cộng hòa nói chung và lãnh thổ Bình Thuận nói riêng đang ở trong tình trạng cực kỳ nghiêm trọng. Sự chia rẽ nội bộ, sự phân hóa hàng ngũ đã đặt xứ sở trước một viễn cảnh đen tối !”(24).

Phát huy những thắng lợi đã giành được, Huyện ủy Lê Hồng Phong và Ban cán sự Bắc Sơn tiếp tục chủ trương đẩy mạnh tấn công địch, chẳng những bằng mũi vũ trang để giữ vững vùng căn cứ giải phóng, mà còn tấn công địch bằng tăng cường công tác binh địch vận, tuyên truyền giáo dục vận động anh em trong hàng ngũ địch quay về với cách mạng hoặc ít ra cũng có thiện cảm và bớt tính hung hăng đối với bà con nhân dân trong thôn xóm. Được sự chỉ đạo của Ban binh vận tỉnh, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Thiết Khanh, Ban binh vận huyện do đồng chí Phan Đài phụ trách đã giao nhiệm vụ cho cơ sở Trần Thị Tính tuyên truyền vận động anh Nguyễn Phú (Phú Tượng), là chỉ huy trung đội dân vệ BTH32 của địch, để tổ chức làm binh biến. Đêm 01 tháng 2 năm 1965 (tức đêm 30 Tết Ất Tỵ) được sự hỗ trợ của Đại đội 440, các cơ sở của ta trong trung đội dân vệ BTH32 như anh Nhung, anh Nghiệm, anh Đợi do anh Phú chỉ huy nổi dậy bắt ác ôn, phá ấp chiến lược Bàu Ốc thuộc xã Lương Sơn mang toàn bộ vũ khí ra vùng giải phóng gia nhập Đại đội 440 tham gia kháng chiến. Đây là trung đội địch phản chiến đầu tiên ở chiến trường Bình Thuận, Quân khu 6. Nhiều anh em trong trung đội địch ra tham gia cách mạng chiến đấu tốt sau này trở thành Đảng viên, cán bộ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một số đồng chí đã chiến đấu rất kiên cường và anh dũng hy sinh. Ấp chiến lược Bàu Ốc hoàn toàn giải phóng. Bọn dân vệ và bọn tề xã Hồng Liêm, Hồng Sơn cũng hoang mang rệu rã, đến tháng 3/1965 bọn địch ở 2 ấp này tháo chạy. Hai xã Hồng Liêm, Hồng Sơn hoàn toàn giải phóng.

Hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965 ta giành thắng lợi lớn, Tỉnh chủ trương mở tiếp đợt hoạt động Hè 1965 để phối hợp chiến trường toàn miền đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ-ngụy. Đến cuối năm 1964, trong khu căn cứ Lê Hồng Phong của ta, chỉ còn một ấp chiến lược của địch, đó là ấp chiến lược Giồng Thầy Ba ở giữa Triền và Rạng, địch dồn dân Bàu Tàn, Bàu Sen tập trung về đây. Nó án ngữ con đường vào Mũi Né và cũng để làm bàn đạp đánh khu căn cứ của ta, đã gây cho ta nhiều khó khăn trở ngại. Ta đã đánh đi đánh lại nhiều lần, có lúc có lực lượng Tỉnh phối hợp, có lúc chỉ có Đại đội 440, nhưng vẫn chưa giải phóng được ấp. Đã đến lúc không thể để mãi “cái ung nhọt ấy trong bụng ta” được nữa, phải giải phóng Mũi Né, Giồng Thầy Ba, Rạng. Từ đó, Tỉnh có chủ trương xác định trọng điểm từ ấp chiến lược Giồng Thầy Ba, Bà La, Rạng thuộc 2 xã Thiện Nghiệp, Thiện Khánh, với yêu cầu giải phóng vùng duyên hải vào đến Phú Hài, Phước Thiện Xuân và Phú Long; diện trực tiếp là trục đường 1 từ Lương Sơn đến Chợ Lầu với yêu cầu giải phóng Lương Sơn và đưa Chợ Lầu lên thế tranh chấp mạnh. Ban chỉ huy chung đợt hoạt động gồm các đồng chí Lê Văn Hiền-Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội, Lê Đình Nguyên-Tỉnh đội trưởng, Nguyễn Văn Lâu-Tham mưu phó Tỉnh đội, Trần Văn Tình-Bí thư Huyện ủy Lê Hồng Phong, Nguyễn Ninh-Bí thư Huyện ủy Thuận Phong. Quyết tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy Bình Thuận và Huyện ủy Lê Hồng Phong là phải tiêu diệt địch, giải phóng mãng, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng tạm bị chiếm. Nếu ta vẫn hoạt động theo lối cũ là ban đêm đột ấp đánh địch, ban ngày rút về căn cứ nghỉ ngơi, thì không thể nào hổ trợ cho đồng

24(?) Trích báo cáo của Trung tá Tỉnh trưởng Bình Thuận- Đàm Văn Quý, ngày 24/9/1964 gửi cho Phủ Tổng thống Sài Gòn. Hồ sơ lưu tại Ban Khoa học Quân sự tỉnh Bình Thuận.

Page 20: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

20bào nổi dậy phá ấp, phá kềm được mà phải thay đổi cách đánh là ban đêm vào ấp đánh địch rồi trụ lại trong ấp, chờ sáng ngày địch đi trốn ngủ về thì ta đánh địch.

Đầu tháng 5/1965, Tỉnh sử dụng lực lượng và giao nhiệm vụ cho Đại đội 489 của Tỉnh đánh tiêu diệt trung đội dân vệ đóng giữ ấp Giồng Thầy Ba; Đại đội 440 huyện Lê Hồng Phong đóng vai trò chủ công đánh tiêu diệt trung đội dân vệ đóng giữ ấp Rạng, xong đào hầm trụ lại, buộc địch phải đến giải tỏa; Đại đội 450 huyện Thuận Phong chận viện địch hướng Phan Thiết ra. Nhận định của Ban Tham mưu Tỉnh là địch muốn giải tỏa Rạng, chúng phải qua Bàu Me, chớ chúng không dám đi đường biển. Từ nhận định đó, ta bố trí 1 tiểu đoàn thuộc lực lượng của Tỉnh phục kích tại Bàu Me để tiêu diệt 2 đại đội bảo an của địch, rồi thừa thắng tiến về giải phóng Mũi Né.

Sau khi chiếm lĩnh trận địa, đêm 03/5/1965, Đại đội 440 không tìm được trung đội dân vệ địch giữ ấp Rạng vì chúng ngủ lưu động, cho đến mờ sáng mới phát hiện địch ngủ ngoài bìa ấp. Lực lượng Đại đội 440 nổ súng đánh địch, chúng chết tại chỗ 9 tên, số còn lại chạy lên đồi cao chống trả. Cùng lúc đó bọn địch ở Giồng Thầy Ba cũng chạy xuống đó, kết hợp hai lực lượng với nhau chống lại ta quyết liệt. Ta để một bộ phận đánh chính diện, còn lại tổ chức thành 2 bộ phận đánh vu hồi, buộc địch phải đầu hàng vô điều kiện. Ta đánh dứt điểm vào lúc 8 giờ sáng ngày 04/5/1965, bắt sống 51 tên, thu toàn bộ vũ khí và báo cáo về Bộ chỉ huy tại Bàu Me. Thực hiện mệnh lệnh của trên, Ban chỉ huy Đại đội 440 cho giải tù binh về Triền và đào hầm trong ấp Rạng trụ lại. Ta bị thương 6 đồng chí, không tổ chức đưa ra mà để sau đưa về Mũi Né.

Đến 10 giờ trưa ngày 04/5/1965, có 2 đại đội bảo an địch từ Mũi Né đi theo bờ biển lên Rạng giải tỏa, liền bị lực lượng của Đại đội 440 đánh bật ra. Chúng trụ lại trên đồi cao, đánh cầm chừng, chờ viện Phan Thiết ra và cho 2 chiếc máy bay khu trục oanh kích vào đội hình ta trong xóm cho đến gần 14 giờ chiều. Trong thời gian đó, do bị đứt liên lạc với Bộ chỉ huy ở Bàu Me, chưa được lệnh lui binh nên Đại đội 440 phải trụ lại ở trận địa suốt ngày dưới bom pháo của địch để chận đánh viện binh từ Mũi Né của chúng, gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể.

Đến 16 giờ chiều ngày 04/5/1965, có sự hội ý trong Ban chỉ huy Đại đội, đang điều dân công vô Rạng khiêng thương binh ra, thì 2 đại đội bảo an 887 và 443 của địch từ Phan Thiết ra chi viện, nhưng lúc này Đại đội 450 đã bỏ vị trí chận viện. Lực lượng địch từ 2 mũi : từ Phan Thiết ra và 2 đại đội bảo an từ Mũi Né bị ta đánh bật ra, siết chặt vòng vây, tiếp cận sát ấp Rạng và bắt đầu nổ súng phản kích. Đại đội 440 và Đại đội 489 trong thế bị bao vây, phải đánh trả bọn địch quyết liệt mở đường máu rút ra, đến 18 giờ ta diệt và bắn bị thương rất nhiều địch, nhưng ta cũng bị thương vong. Đại đội 440 hy sinh gần 1 trung đội có đồng chí Nguyễn Thành Tâm (Hàm Thuận)-trung đội trưởng. Đại đội 489 cũng bị tổn thất, đồng chí Ngô Tấn Hải-Chính trị viên phó đại đội và 8 dân công bị bắt. Sau trận này, ta giải phóng được Giồng Thầy Ba, khu Lê Hồng Phong không còn một đồn bót nào của địch. Được tin “nhà tù” Giồng Thầy Ba đã bị xóa sổ, nhân dân ở Triền, Bàu Tàn phấn khởi vui mừng trước chiến thắng quan trọng có ý nghĩa cả về quân sự, chính trị và binh vận.

Sau trận đánh ấp chiến lược Giồng Thầy Ba, Rạng trụ lại đánh phản kích, lực lượng ta bị tổn thất cần phải được củng cố. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, Huyện đội Lê Hồng Phong có sự điều chỉnh nhân sự. Đồng chí Nguyễn Anh Dũng Huyện đội trưởng được Tỉnh rút về Ban tham mưu Tỉnh đội, bổ nhiệm đồng chí Vũ Bình Phong làm Huyện đội trưởng, đồng chí Ba Cung, Thường vụ Huyện ủy làm Chính trị viên Huyện đội.

Trước tình hình Đại đội 440 bị tổn thất lớn, Thường vụ Huyện ủy Lê Hồng Phong chủ trương dừng lại ít ngày để củng cố đơn vị, làm lễ truy điệu cho những đồng chí hy sinh, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết biến đau thương thành sức mạnh. Ban Chỉ huy Đại đội có sự sắp xếp mới: Đồng chí Phan Văn Hiếu làm Đại đội trưởng, đồng chí Vũ Bình Phong kiêm Chính trị viên. Đồng chí Trương Minh Biên làm Trung đội trưởng trung đội 1, đồng chí Võ Ngọc Thanh làm Trung đội trưởng trung đội 2, đồng chí Lý (Luận) làm Trung đội trưởng trung đội 3, đồng chí Trần Đông làm Trung đội trưởng trung đội 4 (trung đội hỏa lực). Trang bị gồm 1 cối 60 ly, 1 thượng liên, trung liên, tiểu liên, súng trường đầy đủ theo biên chế.

Đại đội vẫn giữ 1 trung đội đứng chân tại Hố Đất để tiếp tục sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho bộ đội. Bộ phận này còn cùng với đồng bào sản xuất lúa ở cánh đồng Hồng Thái do đồng chí Trần Thanh Đồng phụ trách. Đơn vị tổ chức 1 trại xay lúa do các đồng chí nữ như các chị Mai, Mai, Hoa, Thu, Điệp Lan, Lan, Chanh,…đảm nhiệm, để cung cấp gạo cho bộ đội. Ngoài phần do đơn vị sản xuất, lúa còn

Page 21: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

21được thu mua thêm ở cánh đồng Thái An. Nhờ thế mà đơn vị chủ động bảo đảm lương thực phục vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt. Ngoài ra Hố Đất còn là nơi để cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 nghỉ dưỡng sau những đợt hoạt động.

Sau khi học tập chính trị, huấn luyện quân sự, động viên tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sỹ; được sự chỉ đạo của Tỉnh, Huyện uỷ Lê Hồng Phong chủ trương đánh diệt địch ngay trong ấp và giải phóng Lương Sơn nhằm phá tan âm mưu dồn dân lập ấp của địch. Nhiệm vụ được giao cho Đại đội 440 và chỉ định Ban chỉ huy trận đánh gồm các đồng chí : Phan Văn Hiếu (Sáu Thảo) làm Chỉ huy trưởng, Vũ Bình Phong làm Chính trị viên, Đặng Phúc Vinh, Đội trưởng Đội công tác Lương Sơn làm Chính trị viên phó. Đồng chí Đặng Bá Sang, Thường vụ Huyện uỷ, trực tiếp chỉ đạo. Toàn thể cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 đều hạ quyết tâm biến đau thương thành sức mạnh, lần này quyết đánh diệt trung đội dân vệ BTH 31 của địch và giải phóng ấp chiến lược Lương Sơn, một ấp chiến lược kiểu mẫu của Mỹ ngụy ở miền Nam được địch khoác lác là Điện Biên Phủ thứ hai. Sau khi nghiên cứu địa hình và được cơ sở cung cấp tình hình, thấy rằng trung đội dân vệ BTH 31 của địch đang hoang mang dao động, ban đêm trốn ngủ, ban ngày có mặt trong ấp, nếu dùng lực lượng lớn sẽ đánh không được địch, từ đó Ban chỉ huy trận đánh quyết định sử dụng lực lượng nhỏ với chiến thuật phục kích vận động ban ngày, từ giao thông hào trong ấp chờ địch đi trốn ngủ sáng mò về ấp, ta vận động xông lên tiêu diệt địch. Trung đội 1 đảm nhiệm hướng chủ yếu, trung đội 2 khoá đuôi. Một tiểu đội du kích và đội công tác làm nhiệm vụ nghi binh, chặn địch và đón lỏng. Bộ phận hoả lực và Ban chỉ huy trận đánh ở phía sau hướng chủ yếu. Khoảng 5 giờ 30 sáng ngày 29/5/1965, toàn bộ đội hình đã chiếm lĩnh xong trận địa. 6 giờ sáng, địch kéo vào ấp, trung đội 1 vận động cắt rào, bám theo và phát triển đến Chùa thì nổ súng. Trung đội 2 cũng vừa vận động vào ấp cùng hoả lực nổ súng mãnh liệt vào bọn địch, dồn chúng vào một chỗ. Nhiều tên chạy xuống sông hòng trốn thoát nhưng cũng bị hoả lực của bộ phận đón lỏng diệt thêm một số. Kết quả ta diệt trung đội dân vệ BTH 31 do tên Năm chỉ huy và 1 tiểu đội cộng hòa ở trường bắn, bắn chết 14 tên, bắt sống 4 tên, thu 10 súng các loại, ta làm chủ và giải phóng hoàn toàn xã Lương Sơn. Số đông tề, điệp ra thú tội xin được đi cải tạo. Đồng bào nổi dậy phá hết ranh rào ấp chiến lược, lấp hết giao thông hào, phá sập cầu Dốc Vạt, cắt đứt đường giao thông trên quốc lộ 01 từ Phan Thiết ra. Nhân dịp này, phần đông đồng bào đã trở về ruộng vườn cũ làm ăn; một số đồng bào vùng căn cứ bị địch dồn về Lương Sơn thì trở về lại vùng căn cứ Hồng Lâm; một số bung ra cất nhà ở Bùng Binh (giáp ranh vùng căn cứ). Sau khi giải phóng ấp Lương Sơn và làm chủ nhiều đoạn trên quốc lộ 1A, ta tổ chức thành lập ủy ban tự quản xã xây dựng các đoàn thể cách mạng trong toàn xã Lương Sơn, vận động thanh niên thoát ly tham gia bộ đội chiến đấu và đi dân công tiền tuyến.

Giải phóng Lương Sơn, địch ở các nơi lo sợ phập phồng, không biết lúc nào sẽ đến mình đây. Quân ta thì tràn đầy phấn khởi với khí thế liên tục tiến công địch “mùa mưa chiến thắng, mùa nắng lập công”, Đại đội 440 đêm nào cũng có mặt trong các ấp để hổ trợ cho đồng bào phá ấp chiến lược.

Đồng bào ấp Hiệp Bình, với khí thế tiến công địch, lấy mũi binh vận làm chủ yếu, ban ngày đã nhất tề nổi dậy vác cuốc xẻng ra phá banh ranh rào, giao thông hào ấp chiến lược Hiệp Bình, trong lúc đó thì số binh sĩ ngụy vẫn ngồi ngó và còn xúi đồng bào phá nhanh để chúng lấy cớ là không còn công sự để rút về quận.

Ấp Hiệp An, ấp Hiệp Hòa, đêm nào Đại đội 440 và Đội công tác cũng vào ấp phát động quần chúng và làm công tác binh vận. Địch rất hoang mang, dao động, nên chúng cũng rút bỏ Hiệp An, Hiệp Hòa luôn. Như vậy là sau khi ta giải phóng Lương Sơn, ta giải phóng tiếp Hiệp Bình, Hiệp An, Hiệp Hòa không tốn một viên đạn, một giọt máu. Ấp Hiệp Thành chỉ còn bót cầu số 4 (cầu Sông Lũy) và đồn Phi Hổ, nhưng phong trào tại chỗ ở đây rất vững vàng.

Đại đội 440 và Đại đội 470 liên tục vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng nổi dậy phá lỏng các ấp chiến lược Châu Hanh, Mai Lãnh, Cánh Diễn, Trí Thái, Thanh Kiết và diệt gọn 1 trung đội dân vệ của quận Phan Lý Chàm.

Ở Tuy Phong ta diệt 1 trung đội dân vệ giữ cầu sông Lòng Sông, vũ trang tuyên truyền vào các ấp chiến lược Phú Điền, Vĩnh Hảo, La Gàn, Duồng diệt một số tên tề điệp ác ôn.

Liên hoàn với vùng giải phóng mới Thuận Phong và các ấp mới giải phóng của huyện Phan Lý (thuộc Bắc Sơn), ta có một vùng mới giải phóng nối liền nhau, chạy dài theo 2 bên quốc lộ 1A từ Xa Ra, Tùy Hòa (Hàm Thuận) ra đến Hiệp Hòa (Hòa Đa) dài 50 km. Vùng căn cứ Lê Hồng Phong lại có thêm 3 xã Hồng

Page 22: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

22Thanh, Hồng Sơn, Hồng Tân. Vùng tạm bị chiếm của huyện Lê Hồng Phong lại thêm xã Chợ Lầu của Bắc Sơn giao qua, dân số khu căn cứ Lê Hồng Phong lại tăng vọt. Đại đội 440 lúc này được tăng cường bổ sung thêm có 4 trung đội đầy đủ cùng với trang bị vũ khí tương đối tốt.

Như vậy từ năm 1961 đến năm 1965, Đại đội 440-bộ đội địa phương huyện Lê Hồng Phong và dân quân du kích, đội công tác các xã trong huyện đã chiến đấu, phối hợp chiến đấu đánh giải phóng nhiều vùng nông thôn, giữ vững vùng căn cứ kháng chiến góp phần cùng các lực lượng vũ trang tỉnh, quân khu và toàn Miền làm thất bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những thắng lợi bước đầu. Nhân dân huyện Lê Hồng Phong cũng như nhân dân Bình Thuận và cả nước đang đứng trước một thử thách mới, một cuộc đọ sức mới với lực lượng và phương tiện chiến tranh hiện đại của một đội quân xâm lược nhà nghề Mỹ.

Quyết giữ vững quyền chủ động chiến trường, quyết đánh Mỹ và thắng Mỹ trên chiến trường địa phương, quân dân huyện Lê Hồng Phong, mà nòng cốt vẫn là Đại đội 440 quyết đoàn kết một lòng, khẩn trương xây dựng, củng cố đơn vị, xây dựng các vùng căn cứ giải phóng vững chắc, đẩy mạnh chiến tranh du kích sẵn sàng góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ trong thời gian tới.

CHƯƠNG HAI

ĐẠI ĐỘI 440 KIÊN CƯỜNG BÁM TRỤ ĐÁNH QUÂN XÂM LƯỢC MỸ VÀ BÈ LŨ TAY SAI, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI

CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ (1966 - 1968)

I. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ ĐẠI ĐỘI 440 BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG HUYỆN, XÁC ĐỊNH QUYẾT TÂM CHIẾN ĐẤU ĐÁNH QUÂN XÂM LƯỢC MỸ VÀ BÈ LŨ TAY SAI

Bị thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt, “quốc sách ấp chiến lược” bị phá sản, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc phản công chiến lược lấn chiếm lại các nơi bị mất đồng thời đẩy mạnh chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc nhằm buộc ta phải thương lượng theo điều kiện của chúng.

Khu căn cứ huyện Lê Hồng Phong là trọng điểm để Mỹ ngụy chà đi xác lại bằng nhiều cuộc càn quét, bằng nhiều chiến thuật, phương tiện. Chúng sử dụng máy bay rãi chất độc hóa học làm cháy rụi hết cỏ cây hoa màu trên rừng rẫy. Khu căn cứ Lê Hồng Phong như một vùng đất chết, tưởng chừng không còn một sinh vật nào sống được. Trước tình hình căng thẳng quá, thời gian này ta có chủ trương cho những người già yếu, phụ nữ có con mọn và trẻ nhỏ tạm thời lánh về vùng địch tạm chiếm, số khỏe mạnh ở lại quyết tâm bám căn cứ “một tấc không đi, một li không rời”, sản xuất, bố phòng, sẵn sàng chiến đấu và tham gia phục vụ chiến đấu chống địch càn quét. Sản xuất, lấy nước ban ngày không được thì sản xuất, lấy nước ban đêm, lợi dụng ánh trăng, tối trời thì dùng đèn dầu tự chế.

Cùng với các hoạt động càn quét đánh phá bên ngoài, bên trong bọn ngụy quyền ra sức củng cố hệ thống tề điệp, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, tuyên truyền sức mạnh của Hoa Kỳ để lung lạc tinh thần và ý chí cách mạng của quần chúng.

Tháng 9/1965, theo yêu cầu của Miền, Quân khu 6 chỉ thị cho Bình Thuận điều động hẳn trung đội 3 của Đại đội 440 do đồng chí Lý (Luận) làm trung đội trưởng bổ sung cho Miền, đồng thời chỉ đạo cho Huyện uỷ Lê Hồng Phong kiện toàn lại lực lượng vũ trang địa phương. Ban chỉ huy Đại đội 440 được sắp xếp mới: Đồng chí Trương Minh Biên làm Đại đội trưởng, đồng chí Hồ Kim Khánh làm Chính trị viên. Đồng chí Nguyễn Thành Tâm làm trung đội trưởng trung đội 1; đồng chí Nguyễn Minh làm trung đội trưởng trung đội 2; đồng chí Võ Tự làm trung đội trưởng trung đội 3; đồng chí Trần Đông làm trung đội trưởng trung đội hoả

Page 23: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

23lực. Đơn vị tập trung huấn luyện quân sự, học tập chính trị nhất là học tập tình hình nhiệm vụ mới để sẵn sàng chiến đấu đánh quân xâm lược Mỹ.

Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ xã Hồng Thái tổ chức phương án đánh địch ở trại huấn luyện Phi Hổ. Theo trinh sát báo cáo thì ở đây có khoảng 1 trung đội địch, chiều tối xuống gác giữ cầu Xóm Lụa, sáng trở về lại trại, đã thành qui luật. Ta có thể dùng mìn bố trí đánh bọn địch trở về ngay tại cổng vì ở gần đấy có 1 cái xa cá, bọn địch thường tập trung xem. Nhiệm vụ được giao cho đồng chí Nguyễn Hoài Ân, xã đội trưởng, dùng mìn ĐH25 đặt trước cửa trại huấn luyện và ngụy trang bằng một đống cỏ khô. Sáng ngày 9/10/1965, trung đội địch đi gác cầu về, nghe người dân nói có vật lạ trong đống cỏ khô thì xúm lại xem. Liền lúc đó, đồng chí Ân bấm mìn, một tiếng nổ long trời lở đất, khói bụi mù mịt bao trùm cả đội hình giặc, giết chết và làm bị thương toàn bộ trung đội này. Đây là một trong những trận đánh táo bạo của du kích địa phương, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Sau trận này phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ trong toàn Huyện nhất là kỹ thuật đánh mìn đã góp phần tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm cho chúng rất hoang mang dao động. Đồng chí Ân được bầu là chiến sỹ thi đua và đi dự Đại hội chiến sỹ thi đua của Quân khu 6 sau đó.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Đại đội 440 đẩy mạnh tấn công tiêu diệt địch ở ven quốc lộ 1A và tích cực hỗ trợ cho dân quân du kích chống càn, bắn máy bay địch rải chất độc hóa học phá hoại hoa màu của nhân dân vùng căn cứ giải phóng.

Ngày 12/11/1965, trung đội 3 thuộc Đại đội 440 phối hợp với Đại đội 450 đánh 1 tiểu đoàn địch càn vào khu vực Sara - Tùy Hòa diệt một số tên sau đó chúng rút.

Ngày 15/11/1965, cũng lực lượng trên đột ấp Nha San vũ trang tuyên truyền rồi rút ra khu vực núi Tà Dôn tổ chức đánh phản kích. Sáng 16/11, một tiểu đoàn lính cộng hòa từ Phan Thiết lên, trận đánh diễn ra ác liệt dưới sự chi viện của máy bay trực thăng và trọng pháo của địch. Các chiến sĩ trung đội 3-Đại đội 440 đã cùng các chiến sỹ Đại đội 450 chiến đấu quyết liệt, đánh bật các mũi tấn công của địch, diệt một số tên nhưng ta cũng hy sinh một số đồng chí. Đại đội 450 hy sinh đồng chí Nguyễn Công Thị-Đại đội trưởng. Trung đội 3-Đại đội 440 hy sinh đồng chí Võ Tự-trung đội phó, đồng chí Lê Huyền Minh-tiểu đội trưởng, đồng chí Lê Tấn Nhất-chiến sĩ.

Tháng 01 năm 1966, địch tái chiếm Lương Sơn, lập lại bộ máy kèm, xây dựng đồn bót và bố trí 1 tiểu đoàn biệt kích có cố vấn Mỹ chỉ huy mở nhiều cuộc càn quét đánh phá ra bên ngoài nhất là huyện căn cứ Lê Hồng Phong. Xóm Bùng Binh địch xúc về ấp một số, còn lại 25 gia đình với 48 khẩu chạy vào Rừng Ngang lập một thôn căn cứ, sau thành xã Hồng Tân thuộc huyện Lê Hồng Phong.

Ngày 31/01/1966, bọn biệt kích nống ra vùng Trủng Bò (rẫy hoang ngoài rìa xã Lương Sơn) gặp và đánh tổ trinh sát của Đại đội 440 làm cho đồng chí Nguyễn Văn Bạnh hy sinh. Đại đội 440 đang học tập trong rừng, được tin báo Đại đội trưởng Trương Minh Biên lệnh cho đơn vị chia làm 2 mũi truy kích địch giữa rẫy trống. Các chiến sỹ ta xung phong dũng mãnh vận động bám đánh địch bỏ chạy liên tục gần 2km, dồn chúng xuống trủng để tiêu diệt gần 2 trung đội địch lớp chết, lớp bị thương chỉ còn 1, 2 tên liều chết chạy thoát thân về đồn. Địch ở Lương Sơn chi viện có cả máy bay yểm trợ, ta vừa đánh vừa lui về hậu cứ an toàn. Trận này ta diệt 2 trung đội biệt kích, thu 4 súng.

Sau khi học tập rút kinh nghiệm, Đại đội 440 phối hợp với Đại đội 450 Thuận Phong do Đặng Tính Quang làm Đại đội trưởng tổ chức đánh vào ấp Phước Thiện Xuân đêm 21 tháng 3 năm 1966. Sau 30 phút chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt và bắt gần 1 trung đội địch, thu vũ khí. Ta hy sinh 3 đồng chí : đồng chí Đặng Văn Thắng-trung đội phó và 2 chiến sĩ Trịnh Quốc Linh và Huỳnh Văn Chín.

Đầu năm 1966, Mỹ-Nguỵ bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất trên chiến trường trọng điểm miền Đông Nam bộ và cả Khu 6. Mỹ tiến hành cuộc hành quân lớn để tìm diệt lực lượng và cơ quan đầu não của cách mạng. Tháng 4 năm 1966, Mỹ sử dụng 1 lữ đoàn mở cuộc hành quân Austin đánh phá vùng giáp ranh 2 tỉnh Bình Thuận, Bình Tuy và một số nơi trong các căn cứ của Bình Thuận như Ara-Salôn, khu căn cứ Lê Hồng Phong…

Theo chỉ đạo của Huyện uỷ Lê Hồng Phong, Ban Chỉ huy Huyện đội giao nhiệm vụ cho Đại đội 440 tổ chức lực lượng đánh bọn biệt kích ở Sông Luỹ nống ra càn quét đánh phá vùng giải phóng Hồng Liêm (khu vực Bàu Sen) để hổ trợ cho đội công tác.

Page 24: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

24Ban Chỉ huy Đại đội 440 giao nhiệm vụ cho trung đội 2 do đồng chí Nguyễn Thành Tâm-trung đội

phó và đồng chí Định-chính trị viên trung đội, chỉ huy đưa lực lượng đến khu vực này cùng với du kích xây dựng phương án chiến đấu đánh địch bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng căn cứ giải phóng (đồng chí Nguyễn Minh-trung đội trưởng bị ốm không đi đợt này).

8 giờ ngày 18/4/1966, có một cánh quân của địch đánh vào lực lượng du kích ở khu vực Bàu Sen trên Quốc lộ 1. Nghe súng nổ, trung đội 2-Đại đội 440 vận động theo phương án tác chiến. Mũi 1 do đồng chí Lộc-tiểu đội trưởng chỉ huy, mũi 2 do đồng chí Nguyễn Hữu Nhận-tiểu đội trưởng chỉ huy, mũi 3 do đồng chí Xuân Thuỷ chỉ huy và có ban chỉ huy trung đội đi theo. Khoảng 9 giờ, mũi của đồng chí Lộc chạm súng tại khu vực Giếng Học (Bàu Sen), đồng chí Lộc, đồng chí Trần Công Bỉ hy sinh. Mũi 2 và 3 vận động đến biết có 2 đồng chí hy sinh, Ban chỉ huy trung đội cho dừng lại để tổ chức trận địa phục kích và đưa tử sĩ vào rừng. Đến 9 giờ 30 phút thì địch vào trước trận địa. Đi đầu là những tên lính Mỹ cao to, mang ba lô nặng, trong tay lăm lăm khẩu súng AR15. Đợi chúng đến cách chừng 30 mét, ta bất ngờ nổ súng xung phong, bọn địch ở phía sau bắn mạnh vào đội hình làm đồng chí Quân-du kích bị thương gãy chân nên không lấy được súng, ta tổ chức lui quân. Đến 15 giờ, ta đưa thương binh, tử sĩ về phía sau, trên đường đi gặp Mỹ, ta nổ súng diệt một số tên rồi rút luôn về căn cứ. Ngay sau đó, Mỹ đổ quân và cắm chốt ở những nơi xung yếu, nhất là những khu vực có nước. Gần một tuần sau, máy bay đến bốc lực lượng này ra biển. Trận càn bất ngờ này địch không gây thiệt hại gì cho nhân dân vùng căn cứ. Trung đội 2-đại đội 440 lần đầu tiên đánh Mỹ tuy ta có thương vong tổn thất nhưng cũng diệt được một số lính Mỹ.

Thời gian này tuy chưa có mặt quân chiến đấu Mỹ đồn trú, nhưng bọn nguỵ quân, nguỵ quyền tăng cường các hoạt động đánh phá ngày càng quyết liệt hơn. Bọn biệt kích ở Lương Sơn liên tục đột kích đánh phá nhất là ở căn cứ Lê Hồng Phong. Mặc dù vậy nhưng nhân dân trong các vùng căn cứ kháng chiến và vùng địch kiểm soát vẫn đẩy mạnh công tác diệt ác, phá kèm làm lỏng rã nhiều ấp chiến lược ven các trục lộ giao thông. Các nữ du kích mật ở Xuân An, Xuân Hội, Liêm Bình đã diệt được nhiều tên ác ôn, thu cả súng ngắn, tiểu liên.

Để vận động sức dân phục vụ cho kháng chiến, trong các vùng căn cứ, các vùng mới giải phóng, các tổ chức, đoàn thể, mặt trận tiếp tục được xây dựng củng cố. Chính quyền tự quản các địa phương còn vận động bà con san sẻ ruộng đất cho nhau để phát triển sản xuất. Trong lao động bà con còn tổ chức các tổ vần đổi công, tổ đoàn kết sản xuất. Địch càn quét đánh phá ban ngày, ta tổ chức sản xuất ban đêm, phong trào “rẫy mì, rẫy đậu chống Mỹ” được bà con hưởng ứng mạnh mẽ. Các em thiếu niên còn có phong trào “con gà chống Mỹ” dành gởi tặng cho các chú thương binh đang điều trị ở bệnh viện, bệnh xá. Chị em là hội viên phụ nữ giải phóng, là du kích mật tham gia đánh mìn, đánh trái nổ diệt ác ôn và cùng gia đình ngày ngày xay lúa cung cấp lương thực cho bộ đội, đi dân công tải đạn phục vụ chiến trường.

Tháng 7/1966, Hội nghị Tỉnh ủy họp đề ra nhiệm vụ cụ thể là động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vượt mọi khó khăn gian khổ, liên tục tấn công địch. Kiên quyết đập tan các cuộc hành quân càn quét, bình định lấn chiếm của địch, phát triển phong trào du kích chiến tranh phục vụ yêu cầu phá ấp chiến lược, giành dân mở rộng vùng căn cứ giải phóng, xây dựng căn cứ địa hậu phương để chuẩn bị điều kiện sẵn sàng đánh quân chiến đấu Mỹ. Tỉnh ủy cũng quyết định giải thể huyện Lê Hồng Phong và Bắc Sơn, lập lại các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong, Thuận Phong (theo ranh giới cũ). Đồng chí Trần Văn Tình, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Lê Hồng Phong được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy Hòa Đa. Đồng chí Vũ Bình Phong làm Huyện đội trưởng Hòa Đa. Các xã Hồng Trung, Hồng Liêm, Hồng Sơn, Hồng Thanh, Hồng Thịnh giao về cho huyện Thuận Phong do đồng chí Nguyễn Ninh làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Quốc Thịnh, Nguyễn Khiêm, Huyện ủy viên Hòa Đa được phân công tiếp tục phụ trách các xã căn cứ của huyện Hòa Đa. Đại đội 440 huyện Lê Hồng Phong chuyển thành Đại đội 440-Hòa Đa hoạt động chủ yếu là phía trước, được bổ sung thêm đồng chí Phan Thanh Đa làm Đại đội phó, đồng chí Trương Hữu Nghị làm Chính trị viên phó đại đội, đồng chí Nguyễn Minh hy sinh đồng chí Thủy thay làm trung đội trưởng. Cũng năm 1966, đồng chí Hồ Kim Khánh, Chính trị viên đại đội hy sinh đồng chí Nguyễn Minh Hoàng thay làm Chính trị viên đại đội. Thường vụ Huyện ủy Hòa Đa cũng quyết định thành lập Trung đội 2-9 (thành lập ngày 02/9/1966) do đồng chí Nguyễn Thành Tâm làm Trung đội trưởng, đồng chí Tầm làm Chính trị viên; sau đồng chí Tầm hy sinh, đồng chí Bùi Tâm thay. Trung đội 2-9 có 21 cán bộ, chiến sỹ rút từ du kích các xã và Đại đội 440 qua

Page 25: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

25làm nòng cốt. Nhiệm vụ là giữ vững vùng căn cứ, tổ chức sản xuất, khi cần có thể phối hợp với lực lượng huyện đánh địch ở phía trước.

Đối với huyện Phan Lý, tháng 9/1966, Ban cán sự Phan Lý chuyển thành Huyện ủy Phan Lý do đồng chí Nguyễn Hữu Ích (Năm Hưng) làm Bí thư, đồng chí Châu làm Huyện đội trưởng. Đại đội 470 do đồng chí Hiến làm Đại đội trưởng nhưng thực chất Đại đội này khoảng 30 đến 40 cán bộ chiến sỹ (đại đội thiếu).

Từ khi tiểu đoàn biệt kích Mỹ đóng quân tại Lương Sơn (tháng 01/1966), các vùng căn cứ giải phóng của ta như Lê Hồng Phong, Bình An, Bá Ghe luôn luôn bị địch đánh phá, các Đội công tác phải lánh sâu vào căn cứ, các cơ quan, trạm xá huyện Hòa Đa chuyển về rừng Thái An, rừng Nhu. Huyện Thuận Phong về đóng ở rừng Hồng Liêm, bệnh xá đóng ở rừng Ô Rô. Bọn biệt kích Lương Sơn thường đột vào bìa rẫy Lương Sơn, Sông Lũy phục kích đánh cán bộ, đội công tác gây cho ta thương vong. Tiêu diệt bọn biệt kích Mỹ là một yêu cầu cấp thiết lúc bấy giờ để khôi phục tình hình địa phương. Huyện ủy Hòa Đa, Ban Chỉ huy Huyện Đội giao cho Đại đội 440 bằng mọi cách phải đánh diệt cho được bọn này để bảo vệ nhân dân, bảo vệ cán bộ và đội công tác tạo đà cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở khu vực Lương Sơn, Sông Lũy phát triển. Quyết tâm tiêu diệt bọn biệt kích Mỹ là một yêu cầu cấp bách của quân dân huyện Hòa Đa mà trước hết là cán bộ chiến sỹ đại đội 440 để thể hiện bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, trình độ tổ chức chỉ huy và hiệp đồng chiến đấu giỏi, xứng đáng với truyền thống quyết chiến quyết thắng của quân dân tỉnh nhà và cũng để trả thù cho đồng bào đồng chí ta bị chúng giết hại.

Ngày 15/8/1966, đồng chí Trương Minh Biên, Đại đội trưởng 440 nhận được tin đại đội biệt kích Mỹ mở đường từ Lương Sơn lên đến ấp Suối Nhum đã không rút về mà lại co cụm ở phía nam ấp, liền tổ chức 2 trung đội chia thành 2 mũi đang vận động tiếp cận vị trí địch để tiến công, cách khoảng 300m thì địch phát hiện. Ta chủ động nổ súng trước, địch cũng chống trả quyết liệt. Trận đánh dằng dai đến 15 phút thì địch rút vào ấp Suối Nhum chốt giữ luôn tại đó. Do yếu tố bí mật không còn nên ta phải chuyển phương án đánh địch vào ngày mai.

Căn cứ vào tình hình địch và nhận định đánh giá của Cấp ủy đơn vị, Đại đội trưởng Trương Minh Biên quyết đánh địch bung duỗi ra ngoài trước, sau đó mới đột ấp, bằng phương án tổ chức một bộ phận dụ đưa địch vào trận địa phục kích của ta để ta vận động tấn công đánh tiêu diệt địch. Trận địa phục kích được tổ chức ở khu vực Gũ Sà- một địa danh nằm về phía Nam, cách ấp Suối Nhum khoảng 5 cây số. Lực lượng tham gia trận đánh có 61 đồng chí của Đại đội 440 và 1 tiểu đội du kích xã Hồng Liêm gồm 10 đồng chí; với trang bị gồm 1 thượng liên, 9 trung liên, 1 cối 60 ly và tiểu liên, súng trường đầy đủ; chia thành 3 mũi đánh địch. Nhiệm vụ được phân công như sau : Trung đội 1 trang bị 3 trung liên đánh tạt sườn phải và khoá đuôi do đồng chí Đa-đại đội phó và đồng chí Thủy-trung đội trưởng chỉ huy. Trung đội 3 có tăng cường du kích Hồng Liêm, trang bị 2 trung liên, làm nhiệm vụ đánh sườn trái do đồng chí Nguyễn Minh chỉ huy. Trung đội 2 có 2 trung liên và tăng cường hỏa lực đại đội gồm 1 thượng liên, 1 cối 60 ly làm nhiệm vụ đánh chính diện vào đội hình địch, do đồng chí Biên-Đại đội trưởng và đồng chí Đông-trung đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Bộ phận dụ địch quân số 10 đồng chí ( có 4 chiến sĩ đại đội 440 và 6 đồng chí du kích), do đồng chí Thành-trung đội trưởng trung đội 3 chỉ huy, có nhiệm vụ bám sát ấp Suối Nhum gặp địch nổ súng và lùi dần về trận địa phục kích.

Khoảng 6 giờ 30 ngày 16/8/1966, bộ phận đồng chí Thành chỉ huy, bám sát đường 1 ấp Suối Nhum, đánh bọn biệt kích mở đường. Bọn này nổ súng áp đảo, bộ phận đồng chí Thành lui dần về hướng trận địa, bọn biệt kích liền cho quân bám theo truy kích. Cùng lúc đó trung đội thám báo của địch ở Sông Luỹ cũng vận động đến đánh vào phía trái của bộ phận đồng chí Thành. Các chiến sĩ ta vừa nổ súng chiến đấu với bọn biệt kích trước mặt, vừa đánh trả bọn thám báo bên sườn trái hết sức quyết liệt, vừa lùi dần. Đồng chí Thành cử 2 chiến sĩ về báo cáo cho đơn vị.

Đại đội trưởng Biên lệnh cho các trung đội vận động vào các vị trí phục kích được phân công, sẵn sàng chờ địch lọt vào để nổ súng. Đến 8 giờ 10 phút, ta phát hiện đại đội biệt kích dàn hàng ngang tiến vào hướng chính diện. Đợi địch đến gần khoảng 10 mét, đồng chí Biên lệnh nổ súng. Tất cả thượng liên, trung liên, tiểu liên, súng trường, thủ pháo, lựu đạn đánh dồn dập vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ, phần lớn bọn địch chết, bị thương ngay loạt đạn đầu, bọn còn lại vội chạy tán loạn về phía sau. Theo hợp đồng chiến đấu, các trung đội vận động chận đầu, đánh vào sườn làm chúng hoàn toàn rối loạn; nhiều tên hoảng hốt chạy vào đội hình của ta, bị các chiến sĩ dùng báng súng và lưỡi lê đánh giáp lá cà để diệt địch. Bọn biệt kích, bọn

Page 26: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

26thám báo bị dồn vào giữa vòng vây, chống trả yếu ớt. Đại đội trưởng Biên lệnh cho cối 60 ly và trung liên bắn chế áp để các trung đội xung phong tiêu diệt địch, một vài tên sống sót chạy vào rừng. Đến 8 giờ 55 phút trận đánh kết thúc; ta làm chủ trận địa, giải quyết thương binh, thu chiến lợi phẩm. Nhưng sơ sót không phát hiện để một tên địch bắn lén mấy loạt tiểu liên vào đội hình làm ta hy sinh 3 đồng chí ( đồng chí Tạ Sơn, đồng chí Trương Minh Côi và đồng chí Tạo-du kích, hy sinh sau chiến đấu). Chiến thắng Gũ Sà ta diệt tại chỗ 93 tên địch, thu 6 súng (Do sau khi có thương vong, chiến sĩ ta ngại lục soát để thu chiến lợi phẩm, mặt khác rừng kín khó quan sát), xóa sổ đại đội biệt kích Mỹ, đánh thiệt hại nặng trung đội thám báo Nùng. Ta hy sinh 3, bị thương 3 đồng chí.

Trận Gũ Sà là một trận đánh hay, ta thắng lợi dòn dã. Ta 1 đại đội (Đại đội 440-Hòa Đa) đánh diệt 1 đại đội biệt kích và 1 trung đội thám báo địch là một trận đánh thắng ít có đối với lực lượng vũ trang huyện. Qua trận đánh, tập thể đại đội 440 và đồng chí Trương Minh Biên-Đại đội trưởng được Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3. Nhiều cán bộ chiến sỹ trong đơn vị được tặng bằng khen, giấy khen.

Tiêu diệt được bọn biệt kích Mỹ, một đối tượng ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân trong vùng là 1 thành tích rất đáng khâm phục. Qua chiến thắng này cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 càng tin tưởng, yêu mến, gắn bó nhau hơn trong chiến đấu công tác. Nhân dân các xã Hàm Trí, Lương Sơn, Sông Lũy và các xã căn cứ Lê Hồng Phong thì vui mừng phấn khởi thấy con em mình trưởng thành. Đội, mũi công tác có điều kiện đột ấp xây dựng phong trào, phát triển thực lực cách mạng. Sau trận đánh này, bọn địch ở địa phương thì khiếp vía kinh hồn và bắt đầu co lại cố thủ trong các ấp chiến lược, hạn chế rất nhiều việc bung duỗi, lùng sục đánh phá ra bên ngoài.

Khoảng tháng 10/1966, Mỹ dùng một lực lượng lớn đổ quân càn vào căn cứ Lê Hồng Phong, nhưng không lùng sục đánh phá mà chỉ chốt giữ các vị trí như Bàu Trắng, Bàu Thiêu, những sườn đồi có ưu thế về quân sự. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy đại đội 440 xin cấp trên cho đánh để thăm dò phản ứng của địch, nhưng trên còn đang cân nhắc. Đến ngày thứ 6, cấp trên cho đánh thử bằng tập kích địch dã ngoại để rút kinh nghiệm. Đại đội 440 tổ chức lực lượng trinh sát bám địch, đến 19 giờ cho lực lượng áp sát và nổ súng. Thượng liên, trung liên, tiểu liên, súng trường đồng loạt nhã đạn vào đội hình địch. Địch không phản ứng gì nhưng đề phòng chúng bắn pháo vào đội hình ta, Đại đội trưởng Biên cho đơn vị rút và giữ lại 8 chiến sĩ súng trường để theo dõi phản ứng của chúng. Lúc đó có một phát súng nổ ngay trong đội hình địch. Đồng chí Biên nhận định như vậy là còn địch, nên tập trung 8 khẩu súng trường bắn vào đội hình địch và tổ chức rút lui. Ngày hôm sau địch cho nhiều tốp máy bay bốc hết toàn bộ lính Mỹ về lại Camp Écépic. Đồng chí Biên trực tiếp kiểm tra trận địa thấy bông băng địch bỏ lại rất nhiều, chứng tỏ địch có thương vong, tổn thất. Sau đó chúng dùng máy bay B52 ném bom rải thảm xuống căn cứ này từ xã Hồng Liêm, Hồng Trung ra đến xã Hồng Lâm nhằm hủy diệt sự sống ở đây. Có thể nói sự có mặt của quân đội Mỹ và các loại phương tiện chiến tranh hiện đại đã làm xáo trộn cuộc sống của nhân dân vùng căn cứ kháng chiến, làm thay đổi tư duy chiến thuật và hiệu quả chiến đấu của các lực lượng vũ trang.

Để đối phó với cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, lãnh đạo Huyện ủy Hòa Đa, Thuận Phong chủ trương đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh, tăng cường công tác bố phòng quanh căn cứ. Vận động nhân dân cùng với bộ đội, du kích chống càn, bảo vệ căn cứ bằng nhiều kiểu cách sáng tạo, mưu mẹo; cải biến bom, mìn, đầu đạn chưa nổ của địch để đánh địch; làm chông bàn, chông dắt trên cây, chông ngắn chống bộ binh, chông dài chống máy bay trực thăng nhảy cóc đổ quân, chông hầm chống xe tăng, tạo thành bãi chông, tuyến chông. Thời kỳ này nhân dân căn cứ không còn ăn ở được trên mặt đất mà phải làm nhà hầm để ở. Lúc đầu làm hầm nổi, nhưng sau để chống lại loại trực thăng “Tàu gáo”, nhà hầm làm ngang bằng mặt đất và phải ngụy trang trên hầm, cửa hầm thật kỹ tránh bị địch phát hiện. Nhà hầm dưới lòng đất không chỉ để ở mà còn làm cả hội trường để hội họp, để dạy học cho trẻ em. Mỗi nhà hầm có thể chứa 50 - 60 người. Nhân dân cũng được quân sự hóa, mọi đồ dùng sinh hoạt cá nhân phải gọn gàng trong chiếc bồng trên vai, bình đông nước, cơm vắt bên lưng, dân quân có thêm khẩu carbine hay AR15 của Mỹ, ngày ngày lao động sản xuất nhưng phải sẵn sàng trong tư thế chiến đấu chống càn. Mỗi xã phải xây dựng từ 1 đến 2 căn cứ dự phòng, ở đấy có cả lương thực và nước uống dự trữ đề phòng địch càn quét dài ngày. Cuộc sống của nhân dân vùng căn cứ hết sức khó khăn, căng thẳng nhưng chẳng ai nản lòng mà quyết tâm bám trụ, xây dựng, bảo vệ đến cùng.

Page 27: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

27Đại đội 440 về đứng ở Thái An (Hồng Thái) để chỉnh đốn lực lượng và chuẩn bị hoạt động ở khu

vực Liêm Bình (Phan Rí Thành) theo chủ trương của Huyện uỷ Lê Hồng Phong. Được đội công tác Liêm Bình cung cấp tình hình và phối hợp hoạt động, ngày 11/11/1966, Đại đội 440 tổ chức phục kích tại khu vực Vườn Đào thôn Liêm Bình đánh diệt địch 1 trung đội bảo an thuộc đại đội 445 và sau đó ngày 04/12/1966, cũng tại khu vực này, Đại đội 440 đánh tiêu hao đại đội bảo an 118 và bọn dân vệ. Trong 2 trận trên, ta hy sinh 3 đồng chí (đồng chí Lê Thành, đồng chí Trần Minh Tuẩn, đồng chí Trần Văn Hòa) và 1 bị thương( đồng chí Minh-trung đội trưởng).

Vào những tháng cuối năm 1966, trên chiến trường ở các huyện phía bắc Tỉnh chưa có gì thay đổi lớn. Từ Sông Lũy ra đến Vĩnh Hảo địch vẫn tổ chức 4 chi khu: Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh, Tuy Phong và 2 yếu khu Sông Lũy, Duồng. Mỗi chi khu có từ 1 đến 2 đại đội địa phương quân, mỗi ấp có từ 1 đến 2 trung đội nghĩa quân (dân vệ). Ngoài ra địch còn có 2 đại đội biệt kích ở Lương Sơn và trung đoàn 44 (trung đoàn thiếu) thuộc sư đoàn 23 ngụy ở Sông Mao cơ động chi viện cho 2 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận.

Về ta tổ chức thành 3 huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong. Lực lượng vũ trang chỉ Hòa Đa là có đại đội, còn lại Tuy Phong, Phan Lý chỉ là đại đội thiếu. Tuy nhiên, hầu hết các xã đều có đội vũ trang công tác chừng một tiểu đội hoạt động theo phương thức vũ trang tuyên truyền xây dựng phong trào, phát triển thực lực ở cơ sở. Trong thời gian này ta xác định đối tượng tác chiến không rõ ràng, còn đơn giản, chủ quan chưa chuẩn bị một thế trận mới sẵn sàng đối đầu với quân chiến đấu Mỹ. Công tác chuẩn bị cơ sở vật chất chưa tốt, nhất là chưa có kế hoạch đối phó có hiệu quả với những cuộc càn quét đánh phá ác liệt dài ngày của quân Mỹ. Hơn hai tháng qua mà bộ đội, dân quân du kích vẫn chưa đánh được Mỹ kể cả những đơn vị thiện chiến như tiểu đoàn 482 của tỉnh, đại đội 430 Hàm Thuận, đại đội 440 Hòa Đa.

Đứng trước kẻ thù mới, ta chưa có biện pháp đối phó thích hợp, nhiều cán bộ, chiến sỹ lần đầu tiên giáp mặt với quân Mỹ với những phương tiện chiến tranh hiện đại tỏ ra lúng túng nảy sinh tư tưởng ngán ngại trực thăng, bom dây pháo bầy của Mỹ.

Để giải quyết tình hình trên, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của chiến trường. Tư lệnh Quân khu 6 Nguyễn Minh Châu quyết định tấn công tiêu diệt yếu khu Duồng tạo khí thế cho lực lượng vũ trang quân khu, tỉnh và bộ đội địa phương huyện tiến tới đánh Mỹ. Đêm ngày 07 tháng 01 năm 1967, Tiểu đoàn 840 nổ súng tấn công địch ở yếu khu Duồng, tiêu diệt gọn 1 đại đội bảo an, 2 trung đội dân vệ, thu 34 súng, thắng lợi không lớn nhưng là một trận đánh tiêu diệt địch trong cứ điểm, chỗ dựa chủ yếu của địch trong việc kèm dân giữ ấp, có tác động mạnh mẽ đến tình hình chung trên chiến trường.

Phản ứng những đòn trừng trị của ta, ngày 20/2/1967, Mỹ mở cuộc càn lớn vào căn cứ Lê Hồng Phong với lực lượng gồm 6 tiểu đoàn lính Mỹ và Nam Triều Tiên quyết tìm diệt lực lượng và cơ quan đầu não của ta. Cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 và dân quân du kích căn cứ bám địch chống càn bảo vệ nhân dân. Trưa 23/2, tổ của đồng chí Thẩm phát hiện 1 tiểu đội lính Mỹ đang cụm tại trại xay lúa của huyện ở rừng Hồng Thái. Đồng chí Thẩm cho tổ bí mật bò sát và đồng loạt nổ súng. Chỉ 2 phút chiến đấu tổ của đồng chí Thẩm diệt gọn tiểu đội Mỹ và rút lui an toàn. Cùng ngày tổ của đồng chí Ngô Hồng Hải phát hiện tốp xe bọc thép đang trú tại khu vực Giếng Chùa, tổ tiếp cận và nổ súng làm hỏng 1 chiếc xe M113, thu 1 AR15. Tin Đại đội 440 diệt 1 tiểu đội lính Mỹ, bắn hỏng xe bọc thép, thu súng nhanh chóng lan truyền khắp vùng, gây không khí hào hứng phấn khởi thi đua đánh Mỹ. Hôm sau 24/2, Đại đội 440 và quân dân du kích chia nhiều tổ luồng lách bám các cánh quân Mỹ Nam Triều Tiên nổ súng. Qua 7 ngày đêm chiến đấu liên tục, Đại đội 440 và dân quân du kích vùng căn cứ đã diệt 250 tên Mỹ và Nam Triều Tiên, bắn cháy, hỏng 2 xe bọc thép. Riêng Đại đội 440 đã diệt 120 tên Mỹ, bắn cháy, bắn hỏng 2 xe bọc thép M113. Qua trận chống càn này, nhiều cán bộ chiến sĩ được bình chọn đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt cơ giới.

Từ thực tiễn đó đã giúp cho lãnh đạo Khu 6, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Bình Thuận trong cuộc họp rút kinh nghiệm 6 tháng đối đầu với quân chiến đấu Mỹ, chư hầu và kết luận: “Đánh Mỹ cũng không khó lắm, cứ sáp vô là đánh được, sáp vô càng gần thì diệt được nhiều Mỹ và hạn chế được phi pháo của chúng”, quả là đúng với khẩu hiệu “Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh” một kinh nghiệm quý báu của chiến trường bạn.

Trước tình hình quân Mỹ nhảy vào, chiến tranh cục bộ đã bắt đầu, chiến trường Bình Thuận dài dằng dặc dễ bị chia cắt, điều kiện chi viện hỗ trợ cho nhau gặp nhiều khó khăn, tháng 4/1967, Khu ủy Khu 6 quyết định tách 3 huyện Hòa Đa, Tuy Phong, Phan Lý của Bình Thuận và huyện K67 của Tuyên Đức thành lập Tỉnh Bắc Bình do đồng chí Nguyễn Gia Tú làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Quý Đôn làm Phó bí thư,

Page 28: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

28Lê Đình Nguyên (Chín Bền) làm Tỉnh đội trưởng, Võ Như Loan làm Chính trị viên, Lê Văn Nhật làm Tỉnh đội phó. Điều Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn 482 làm bộ đội địa phương tỉnh Bắc Bình do Phạm Ngọc Anh (Anh Nả) làm Đại đội trưởng, phiên hiệu đại đội 489. Bộ đội địa phương huyện có Đại đội 440 Hòa Đa, Đại đội 470 Phan Lý, Đại đội 490 Tuy Phong.

Sau khi tách lập tỉnh, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và dân quân du kích các xã đều được củng cố cả về số lượng và chất lượng. Tuy quân số ở mỗi đơn vị không nhiều nhưng hoạt động thì đa dạng, phong phú hơn. Tuy nhiên lúc này không quân Mỹ vẫn chiếm ưu thế trên chiến trường, gây cho bộ đội và nhân dân ta nhiều khó khăn trong việc ăn ở, đi lại hoạt động. Chiến thuật dùng trực thăng nhảy cóc, đổ chụp ta vẫn chưa diệt được.

Trên quốc lộ 1A, đông bắc Phan Thiết tình hình gặp nhiều khó khăn, địch thiết lập lại cứ điểm Gộp, xây dựng căn cứ dã ngoại Bàu Ốc để hành quân càn quét đánh phá sâu vào vùng căn cứ ta nhất là căn cứ Lê Hồng Phong.

Ngày 13/5/1967, Đại đội 440 làm nhiệm vụ chặn viện từ Lương Sơn xuống Hiệp An để hỗ trợ cho Tiểu đoàn 840-Quân khu đánh ấp chiến lược Châu Hanh, một ấp người Chăm có chừng 200 dân nằm bên bờ bắc con sông Lũy cạnh đường sắt giữa Sông Mao và Sông Lũy. Vì sự lộ liễu của những trận câu nhữ địch trước đó không thành công, mặt khác ngay trong đêm đánh, địch đã án ngữ sẵn ở đây 2 đại đội biệt kích Lương Sơn, 1 đại đội bảo an 118 và 1 đoàn bình định đồn trú; trong khi ta thì đơn giản theo cách một trận đột ấp thông thường mà đối tượng chỉ là 1 đại đội địa phương quân. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt, Tiểu đoàn 840 đánh diệt được khá nhiều địch nhưng không dứt điểm được vì địch co cụm vào ngôi chùa Bà-ni giữa ấp chống trả. Đi với Tiểu đoàn lần này có đồng chí Năm Hưng, Bí thư Huyện ủy Phan Lý không muốn bộ đội bắn ĐKZ, Cối và B40 vào ngôi chùa sẽ hỏng chùa, ảnh hưởng đến chính sách đoàn kết dân tộc đối với đồng bào Chăm. Dù sao trận này ta cũng diệt được 1 đại đội biệt kích Lương Sơn, 1 đại đội bảo an 118 và 1 đoàn bình định nhưng Tiểu đoàn 840 hy sinh 14 đồng chí. Ở phía chặn viện, do địch không tiếp viện nên đến sáng ngày 14/5/1967, Đại đội 440 rút về nơi đóng quân. Trực thăng địch phát hiện Đại đội 440 rút quân liền đổ quân của chúng đánh vào đội hình ta với sự hổ trợ của máy bay làm Đại đội 440 hy sinh 21 đồng chí, mất 1 khẩu thượng liên.

Đại đội 440 tổn thất nặng phải rời địa bàn Hồng Thái xuống khu Rừng Nhu, giữa căn cứ Hồng Thắng và Hồng Lâm 2, để củng cố. Lãnh đạo Huyện ủy, Huyện đội và cả nhân dân vùng căn cứ đều rất lo lắng, sợ rằng Đại đội 440 sẽ suy sụp không gượng dậy nổi. Nhưng với truyền thống đoàn kết chiến đấu, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, sự giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân vùng căn cứ, Đại đội 440 từng bước khắc phục vượt qua để vươn lên. Đó là bản sắc những người lính 440 đang chiến đấu trên một chiến trường đầy khó khăn gian khổ và ác liệt. Tại đây đơn vị được bổ sung cán bộ, chiến sỹ đầy đủ 3 trung đội.

Sau đó, do yêu cầu địa bàn cần có lực lượng vũ trang hổ trợ, Huyện ủy Hòa Đa tiếp tục chỉ đạo rút 1 tiểu đội của Đại đội 440 và du kích để thành lập Trung đội độc lập 1/5 do đồng chí Tạ Canh làm Trung đội trưởng để hỗ trợ cho các đội công tác Lâm Lộc, Chí Công và Phan Rí Cửa đột ấp vũ trang tuyên truyền xây dựng phát triển cơ sở.

Ở Khu Lê Hồng Phong, ngày 14/5/1967, địch sử dụng nhiều lượt máy bay trực thăng đổ quân xuống khu vực núi Hòn Hồng (Hồng Chính) chia thành nhiều mũi, nhiều cánh đánh vào khu vực ven rừng và chốt giữ những nơi có nước ở khu căn cứ. Đồng bào Hồng Chính rút vào căn cứ thứ hai. Sáng ngày 18/5/1967, khi du kích đi bám địch nhưng không nghe nổ súng và cũng không thấy về thì các cán bộ lãnh đạo xã cho rằng chắc không có gì nên đến 8 giờ đã cho đồng bào trở về lại căn cứ thứ nhất. Không ngờ đến 10 giờ Mỹ dùng 16 lượt máy bay trực thăng đổ thêm quân xuống khu vực Bàu Đế. Đến 10 giờ 30 thì địch từ Hòn Hồng chia thành 2 cánh và địch ở Bàu Đế cũng chia làm 2 cánh đánh vào Gò Cà. 11 giờ ngày 18/5, có máy bay thả bom yểm trợ, 4 cánh quân Mỹ tấn công vào căn cứ, đi đến đâu chúng bắn giết đến đó không chừa một ai, có gia đình chúng giết sạch. Lực lượng vũ trang ở căn cứ vừa đánh địch ngăn chặn các mũi tấn công đồng thời nhanh chóng chuyển đồng bào vô lại căn cứ thứ hai, rồi chuyển vào căn cứ thứ ba. Trong lúc di chuyển bị máy bay địch phát hiện và gọi bộ binh Mỹ bao vây giết hại 48 người dân xã Hồng Chính hầu hết là phụ nữ, trẻ em. Nhiều gia đình bị chúng giết cả 2 vợ chồng, 2 đứa con (gia đình anh Dương Trực), gia đình ông Nguyễn Thời vợ chết và 3 đứa con, gia đình anh Trần Bi vợ chết và 4 đứa con,…Dã man hơn khi chúng gặp

Page 29: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

29ông Trần Hốt bị thương nặng, chúng buộc dây vào cổ lôi đi cho đến chết. Nhân dân căn cứ không bao giờ quên tội ác tày trời của giặc Mỹ và luôn khắc sâu lời thề “Thề cùng giặc Mỹ có tao không mày”. Toàn dân căn cứ đoàn kết một lòng quyết tâm tiêu diệt giặc Mỹ đến cùng.

Trước những hành động dã man của giặc Mỹ càng làm cho hình ảnh cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 gắn bó keo sơn hơn nữa với nhân dân trong vùng căn cứ. Những đợt hoạt động phối hợp với lực lượng cấp trên, Đại đội 440 vắng mặt trên địa bàn, đã làm cho nhân dân thấy lo lắng nhớ thương, nên khi được gặp lại đơn vị, nhân dân mừng vui vô hạn, càng quyết tâm bám trụ để sản xuất, giúp đỡ bộ đội chiến đấu, chia xẽ những mất mát hy sinh. Có thể nói trong khói lửa chiến tranh, tình quân dân như cá với nước càng thể hiện một cách sinh động, trong sáng và đẹp đẽ nhất ở Đại đội 440. Đó cũng là động lực để toàn đơn vị xông lên giết giặc lập công.

Sau khi học tập chính trị, huấn luyện quân sự và động viên tinh thần tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ, đại đội 440 bước vào hoạt động. Tại rừng Thái An (Hồng Thái) bọn thám báo phát hiện kho lúa của ta, chúng điều 2 đại đội bảo an có máy bay yểm trợ vào cướp lúa. Đại đội 440 cử 1 tổ 3 đồng chí do đồng chí Muộn chỉ huy bí mật bám sát, chờ chiếc máy bay trực thăng vận tải lấy lúa xong bay lên, cả tổ đồng loạt nổ súng, đồng chí Muộn dùng súng trường bá đỏ (K44) bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay này, ta diệt 1 tiểu đội bảo vệ,thu 3 súng gồm 1 đại liên Mã Lai, 1 carbine và 1 súng ngắn colt 45. Toàn bộ lính kể cả vợ con lính trên máy bay đều chết cháy. Duy nhất có tên quận trưởng Hải Ninh kịp nhảy xuống máy bay trốn thoát. Đây là chiếc máy bay trực thăng vận tải đầu tiên bị bắn hạ trên địa bàn Bắc Bình, Bình Thuận.

Đầu tháng 8/1967, Mỹ tiếp tục càn vào phía bắc Khu Lê với lực lượng rất đông. Quyết tâm tiêu diệt giặc Mỹ xâm lược, trong 15 ngày đầu tháng 8 chống càn, Đại đội 440, Trung đội 2-9, dân quân du kích, cán bộ chính trị các xã trong căn cứ và cả y tá cơ quan dùng chông mìn, đầu đạn cải tiến bố trí đánh địch, tiêu diệt nhiều lính Mỹ, Nam Triều Tiên, bắn rơi 2 máy bay trực thăng, phá hủy 4 xe bọc thép M113. Nhiều đồng chí được công nhận là Dũng sĩ diệt Mỹ. Vì lực lượng Mỹ quá đông, Đại đội 440 phải phân tán từng tổ nhỏ bám đánh tiêu hao địch ban ngày, ban đêm tập kích vào những nơi co cụm của Mỹ tiêu diệt từng tiểu đội, trung đội Mỹ. Phong trào bắn máy bay của du kích Hồng Thanh phát triển mạnh, đồng chí Trần Văn Tiễn cùng tổ du kích dùng súng trường bắn rơi 2 máy bay trực thăng, đồng chí Nguyễn Văn Xí một thành viên du kích 17 tuổi với 2 viên đạn súng trường đã bắn hạ 2 máy bay trực thăng. Ta bảo vệ được cơ quan, kho tàng và rút ra được kết luận : Đúng là “đánh Mỹ dễ hơn đánh ngụy”. Lực lượng Mỹ bị tiêu hao nặng nên cuộc càn của Mỹ chỉ kéo dài 15 ngày thì phải rút. Đợt này quân ta tiêu diệt 120 tên Mỹ. Riêng Đại đội 440 diệt được 90 tên Mỹ.

Tháng 12/1967, một đại đội biệt kích Lương Sơn đột vào gần nơi đóng quân của đơn vị bắn nữ đồng chí Cẩm bị thương tại trại xay lúa. Đại đội triển khai đội hình chiến đấu tiếp cận địch và nổ súng tấn công, các trung đội hình thành thế bao vây tiêu diệt địch. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt, địch bị tổn thất nặng phải co cụm chờ máy bay chi viện. Máy bay phản lực, trực thăng phóng pháo đến dội bom, bắn rốc két nhưng cự ly giữa ta và địch quá gần nên phần lớn bom đạn trúng vào đội hình địch gây thêm thiệt hại cho chúng. Đại đội 440 tổ chức đánh trả máy bay quyết liệt và bắn rơi 2 máy bay trực thăng, 1 phản lực rơi xuống Bàu Trắng. Ta tiêu diệt gần hết đại đội biệt kích Lương Sơn, nhưng trong trận này đồng chí Trần Thanh Được-trung đội trưởng trung đội 3 Đại đội 440 hy sinh (ngày 28/12/1967).

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và nhận định: “Do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và những thắng lợi to lớn của ta trong Đông Xuân này, địch khó có khả năng mở cuộc phản công lần thứ 3. Xu thế tình hình địch trong năm 1968 là chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”. Căn cứ nhận định trên, Bộ Chính trị ra Nghị quyết: “…Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nổ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả 2 miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định” (25).

II. ĐẠI ĐỘI 440 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BẮC BÌNH TRONG TỔNG TẤN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968

25(?) Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước. Trang 70, Tập II, 1965 – 1970, NXB Sự thật - Hà Nội 1968 .

Page 30: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

30Vào những ngày trước Tết Mậu Thân (1968) hệ thống phòng thủ của địch ở tỉnh Bắc Bình và các

vùng phụ cận có lơi lỏng, chệch choạc do ảnh hưởng sắp ngưng bắn trong dịp Xuân về. Nhưng ở đây địch có 1 lực lượng đáng kể thường xuyên cơ động gồm 1 trung đoàn 44 thuộc sư đoàn 23 bộ binh, 1 chi đoàn xe tăng xe bọc thép, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 1 đại đội thám kích đồn trú tại căn cứ Sông Mao. Ngoài ra, các chi khu Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong mỗi nơi có 1 đại đội bảo an thường xuyên canh giữ và lực lượng địa phương quân (dân vệ) ở mỗi xã ấp đều có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội và bọn cảnh sát, bình định nông thôn.

Lực lượng liên quan có thể chi viện nhanh có lữ đoàn 506 kỵ binh không vận Mỹ đóng ở Camp Ésécpic gồm 2 phi đoàn trực thăng 24 chiếc, chi đoàn xe tăng 48 chiếc, tiểu đoàn pháo 16 khẩu 105 m/m, 155m/m và 3 tiểu đoàn bộ binh.

Về ta, tỉnh Bắc Bình mới thành lập ở những tháng đầu năm 1967, cơ cấu tổ chức cũng chưa hoàn thiện, lực lượng vũ trang tỉnh chỉ có đại đội 489 và các trung đội phục vụ như trinh sát, thông tin. Để tăng cường lực lượng cho tỉnh, Tỉnh điều trung đội 2/9-Hòa Đa bổ sung cho đại đội 489-tỉnh Bắc Bình. Cấp huyện chỉ có Hòa Đa là có đại đội tương đối đầy đủ, các huyện còn lại chỉ đại đội thiếu. Ở xã, thôn có dân quân du kích. Nhìn chung tuy địch có ưu thế về binh hỏa lực và sức cơ động lực lượng nhanh nhưng ở những tháng cuối năm 1967, cả quân Mỹ lẫn quân Ngụy đều bị những đòn đau choáng váng làm cho tinh thần binh lính giảm sút nghiêm trọng. Trái lại ta bước vào Xuân 1968 với khí thế Tổng tiến công mạnh mẽ, quyết tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Theo tinh thần Nghị quyết tháng 12/1967 của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định mở cuộc Tổng tấn công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Thường vụ Khu ủy 6 hạ quyết tâm: phối hợp với toàn Miền, Quân khu tập trung lực lượng đánh dứt điểm 2 thị xã là Phan Thiết và Đà Lạt, trong đó Phan Thiết là trọng điểm 1, lực lượng Tiểu đoàn 840 Quân khu cùng với Tiểu đoàn 482 của tỉnh và các đại đội đặc công, trợ chiến đều tập trung vào mặt trận Phan Thiết. Đại đội 489 của tỉnh Bắc Bình cũng được Quân khu điều tăng cường cho trọng điểm 1 Phan Thiết, lúc còn đang hành quân trên đường thì cuộc Tổng tấn công nổ ra.

Tại địa bàn Bắc Bình chỉ còn lại một bộ phận của Đại đội 489, Đại đội đặc công 481 của tỉnh, Đại đội 440 Hòa Đa có Trung đội 1/5 sáp nhập vào, Đại đội 470 Phan Lý, Đại đội 490 Tuy Phong và lực lượng du kích, dân quân các xã đều được huy động ra phía trước để chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Các lực lượng tham gia chiến đấu dưới sự chỉ huy chung của Ban chỉ huy, Đảng ủy Mặt trận gồm: Nguyễn Quý Đôn-Phó Bí thư tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng Bắc Bình-Lê Đình Nguyên, Huyện đội trưởng Hòa Đa-Vũ Bình Phong và Nguyễn Thanh Lực-Chính trị viên Huyện đội. Lực lượng được tổ chức thành các mũi đánh vào các mục tiêu.

Mũi 1 có 3 trung đội 1, 2, 4 của Đại đội 440, 1 bộ phận đặc công của đại đội 481 và trinh sát Huyện do đồng chí Trương Minh Biên- Đại đội trưởng và Trương Hữu Nghị-Chính trị viên Đại đội 440 chỉ huy đánh vào ấp Long Lễ, tổ chức bao vây tiến tới bứt rút chi khu Hòa Đa.

Mũi 2 có Đại đội 490 và 1 bộ phận đặc công của Đại đội 489 do đồng chí Hồ Giáp-Đại đội trưởng Đại đội 490 và đồng chí Phan Thành Đa-Đại đội phó Đại đội 440 tăng cường chỉ huy đánh vào Phan Rí Cửa.

Mũi 3 có trung đội 3 của Đại đội 440 do đồng chí Nguyễn Thành Tâm-trung đội trưởng và đồng chí Ngô Hồng Hải-trung đội phó chỉ huy đánh chiếm cầu Nam.

Đêm 3 tháng 2 năm 1968 (tức mồng 4 Tết năm Mậu Thân), với tư tưởng chỉ đạo là đánh chiếm, làm chủ, vận động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, các mũi tiếp cận mục tiêu nổ súng tấn công. Mặc dù các chiến sỹ ta chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng trong điều kiện quân địch đã biết trước, đã tổ chức canh gác, đề phòng rất nghiêm ngặt và chống trả quyết liệt, làm cho ta thương vong phải lui ra, tổ chức bao vây bắn tỉa tiêu diệt từng tên địch. Cả 3 mũi tấn công đều không chiếm được mục tiêu, không nơi nào trụ được. Ở hướng Hòa Đa, Mũi 1 đánh vào ấp Long Lễ, vây ép chi khu Hòa Đa diệt nhiều địch, thu 1 súng và cũng chỉ trụ lại làm chủ trong đêm đánh nhiều đợt phản kích cho đến 10 giờ trưa hôm sau (mồng 5 Tết) ta có thương vong phải lui ra. Ở hướng Lâm Lộc, cầu Nam, trước sức ép của quân ta, đại đội bảo an 119 địch lên chi viện cho Hòa Đa, bị lực lượng trung đội 3-Đại đội 440 do Trung đội trưởng Nguyễn Thành Tâm chỉ huy, chặn đánh diệt một số tên địch, xung phong thu 3 súng, trong đó có 1 súng M79.

Page 31: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

31Phối hợp với các lực lượng vũ trang tấn công địch ở phía trước, nhân dân trong các ấp chiến lược

cũng như nhân dân vùng căn cứ giải phóng động viên nhau hăng hái thực hiện mọi mặt công tác kháng chiến, tham gia giúp đỡ bộ đội, tiếp tế cơm nước, vận động thanh niên nam nữ tình nguyện thoát ly tham gia cách mạng. Trong những ngày Xuân 1968, huyện Hòa Đa có 88 thanh niên thoát ly trong đó có 20 nữ tuổi từ mười tám, đôi mươi tham gia hoạt động cách mạng.

Ngày 06/2/1968, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trương Minh Biên, Đại đội trưởng Đại đội 440, đơn vị tổ chức cải trang dân đi làm củi ngồi trên chiếc xe bò đi vào xã Hậu Quách. Khi tiếp cận gần địch, bất ngờ các chiến sỹ ta nhảy xuống dùng trung liên, tiểu liên quét từng loạt đạn vào đội hình của trung đội dân vệ ở Hậu Quách làm chết và bị thương nhiều tên. Trung đội bảo an của quận Hòa Đa tiếp viện, các chiến sỹ ta chiếm từng mô đất, bờ ruộng đánh địch; quân địch cũng lợi dụng địa hình địa vật chống trả dữ dội làm 1 đồng chí ta hy sinh. Trước sức chiến đấu dũng mãnh của các chiến sỹ Đại đội 440, trận đánh ác liệt kéo dài đến 18 giờ tối, quân địch tháo chạy, ta làm chủ trận địa thu vũ khí. Trận này ta diệt 1 trung đội địch, ta 1 hy sinh (đồng chí Tạ Canh-trung đội trưởng).

Tiếp tục tấn công địch, ta tổ chức phục kích đoạn khu 3 Liêm Bình đánh đại đội 118 của địch nống ra để bảo vệ chi khu Hòa Đa. Lực lượng tham gia có Đại đội 489-tỉnh Bắc Bình (mới bổ sung thành lập lại) do Nguyễn Minh Hoàng làm Đại đội trưởng, đồng chí Huy-Chính trị viên, bố trí phía Bắc quốc lộ 1. Trung đội 3-Đại đội 440 do Đại đội phó Nguyễn Thành Tâm chỉ huy, bố trí phía Nam quốc lộ 1. Đêm 13/2/1968, toàn bộ lực lượng chiếm lĩnh trận địa, 6 giờ sáng ngày 14/2 địch xuất hiện chia làm 2 cánh đi 2 bên quốc lộ 1. Đến 6 giờ 30 phút sáng, ta nổ súng tấn công ở cả 2 phía nam và bắc quốc lộ, trận địa vang rền tiếng súng, khói bụi mù trời. Khoảng 15 phút sau, Đại đội 489 bị vỡ trận, Đại đội trưởng Hoàng và Chính trị viên Huy hy sinh, anh em chiến sĩ chạy dạt về phía sau. Lúc này trung đội 3-Đại đội 440 đánh diệt nhiều địch và phát triển qua phía Bắc đường theo hợp đồng chiến đấu, thì lọt vào vòng vây của địch. Ta và địch chiến đấu giằng co quyết liệt trong hơn 1 giờ, ta hy sinh một số đồng chí. Lúc này đạn tiểu liên, súng trường hết, chỉ còn một ít đạn trung liên. Đại đội phó Tâm thấy tình hình khó khăn, liền đến hội ý với đồng chí Ngô Hồng Hải đề nghị tập trung hết đạn trung liên cho anh, anh sẽ nằm lại đây chiến đấu thu hút địch. Anh Tâm nói “Em cố gắng đưa 2 khẩu trung liên và anh em thoát ra, nếu anh không về thì coi như anh đã hy sinh”. Không tán thành với đề nghị này, đồng chí Hải liền ôm khẩu trung liên đứng dậy, xông lên và nói một cách cương quyết “Sống thì sống hết, chết thì chết hết, không đồng chí nào rời trận địa lúc này”. Tức thì cán bộ xông lên, chiến sĩ xông lên, đánh thẳng vào đội hình địch. Trước khí thế mạnh mẽ của ta, địch dạt ra và co lại, tạo thời cơ thuận lợi, lực lượng ta liền nhanh chóng thoát ra khỏi vòng vây của địch, về lại căn cứ.

Đêm 18/2/1968, Đại đội 440 Hòa Đa phối hợp với Đại đội 490 Tuy Phong và Đại đội 481 đặc công, do đồng chí Vũ Bình Phong (Vũ Bảo) Huyện đội trưởng, Nguyễn Thanh Lực chính trị viên Huyện đội Hòa Đa chỉ huy, sử dụng 1 bộ phận đặc công 481 và 1 tổ trinh sát huyện đánh lô cốt phía Nam cầu Phan Rí. Đại đội 490 do đồng chí Hồ Giáp-Đại đội trưởng chỉ huy tổ chức chốt trụ ở phía Bắc cầu chờ đánh viện. Đại đội 440 do đồng chí Trương Minh Biên-Đại đội trưởng chỉ huy phục kích trên đường số 1, tổ chức 1 bộ phận đặc công 481 thọc vào thị trấn Phan Rí Cửa đánh quấy rối rồi rút ra. Đến 1 giờ sáng ngày 19/2/1968, lực lượng nổ súng tấn công lô cốt phía Nam cầu Phan Rí nhưng không chiếm được cầu phải lui ra. 8 giờ ngày 19/2, đại đội bảo an 119 từ Duồng kéo lên bị Đại đội 490 chặn đánh. Cuộc chiến đấu tại đây hết sức ác liệt. Đại đội trưởng 490 Hồ Giáp bình tĩnh chỉ huy đơn vị, tổ chức một mũi từ phía sau lưng địch đánh thốc tới, Đại đội 440 đánh tạt sườn phía trái diệt một số địch và ghìm chúng trước trận địa, đồng chí Biên cho các loại hỏa lực thượng liên, trung liên, tiểu liên ở mặt chính diện bắn quét từng loạt ngắn, hạ từng tên địch. Trận đánh kéo dài đến 12 giờ trưa, có 3 máy bay trực thăng đến bắn rốc két, thả đạn cối vào trận địa làm ta thương vong một số đồng chí. Bộ phận hỏa lực phòng không do đồng chí Đông trung đội trưởng của Đại đội 440 chỉ huy dùng thượng liên bắn hạ 1 chiếc và bắn bị thương 1 chiếc trực thăng khác. Ta tổ chức lui quân, khi ra đến cánh đồng Hậu Quách gặp 1 tiểu đoàn địch từ Sông Mao tiếp viện xuống bao vây. Tình thế hết sức khó khăn, đồng chí Vũ Bình Phong tổ chức 2 trung đội bộ binh và khẩu cối 60 mm do đồng chí Biên-Đại đội trưởng và đồng chí Nghị-Chính trị viên Đại đội 440 chỉ huy đánh kèm chế và lôi kéo địch để đưa thương binh tử sỹ ra. Cuộc chiến đấu một mất một còn với quân địch rất đông và máy bay liên tục dội bom bắn phá vào đội hình ta nhất là khi bộ phận đưa thương binh tử sỹ qua cánh đồng trống bị máy bay phát hiện ném bom làm ta thương vong thêm một số đồng chí.

Page 32: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

32Trận chiến đấu kéo dài đến 15 giờ, ta tổ chức lui quân. Tuy tiêu diệt gần hết đại đội bảo an, nhưng ta

cũng thương vong khá nặng gần 20 cán bộ chiến sỹ, 7 dân công hy sinh và bị thương. Sau trận này trên cho kết thúc đợt 1 để lui về phía sau củng cố bổ sung quân số và trang bị.

Sau đó, tỉnh Bắc Bình điều trung đội 1, 3, 4 của đại đội 440 và cả đại đội trưởng Trương Minh Biên về để xây dựng lại đại đội 489 của tỉnh. Đại đội 440 lúc này chỉ còn có trung đội 2 do đồng chí Mai Khá và Trương Hữu Nghị chỉ huy về căn cứ Lê Hồng Phong để củng cố. Huyện ủy Hòa Đa chỉ đạo rút du kích ở các xã, đội mũi công tác và cán bộ trong các cơ quan huyện, động viên thanh niên trong các vùng căn cứ giải phóng tham gia bộ đội đánh Mỹ. Chỉ một thời gian ngắn đã bổ sung gần 60 anh em để xây dựng lại Đại đội 440 và biên chế thành 3 trung đội để chuẩn bị bước vào hoạt động đợt 2. Ban Chỉ huy Đại đội 440 lúc này gồm : đồng chí Mai Khá- Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thành Tâm-Đại đội phó, đồng chí Trương Hữu Nghị-Chính trị viên. Về chỉ huy các trung đội : Trung đội 1 do Phạm Xuân Thành; Trung đội 2 do đồng chí Nguyễn Tấn Kiệt ; Trung đội 3 do đồng chí Lê Thanh Xuân (Bá).

Những ngày đầu tháng 3 năm 1968, địch ra sức củng cố lực lượng, tăng cường phòng thủ bên trong và từng bước lấn dần ra vùng ven để giải tỏa thế bị bao vây. Về phía ta, Quân khu 6 điều Tiểu đoàn 840 từ Bình Thuận ra Bắc Bình để cùng với bộ đội địa phương đánh địch, căng kéo địch ra để tiêu diệt hỗ trợ cho Bình Thuận tiếp tục vây ép thị xã Phan Thiết và tổ chức Ban Chỉ huy – Đảng ủy đợt hoạt động gồm các đồng chí: Nguyễn Quí Đôn-Chính ủy-Bí thư Đảng ủy, Lê Đình Nguyên-Tỉnh Đội trưởng-Chỉ huy trưởng, Võ Như Loan-Chính trị viên Tỉnh Đội – Phó Chính ủy, Nguyễn Khuê-Tác chiến Quân khu, Lê Văn Liệu-Tiểu đoàn trưởng 840, Phạm Văn Tý-Chính trị viên Tiểu đoàn-Đảng ủy viên.

Đêm 4/5/1968, Đại đội 440 cùng đội công tác Chợ Lầu đột vào ấp diệt 1 trung đội dân vệ, đánh tan 1 trung đội dân vệ khác, làm chủ Chợ Lầu và tổ chức trụ lại đón đánh địch từ hướng chi khu Hòa Đa, Phan Lý đến. Đại đội 489 cùng 1 tiểu đội đặc công của tỉnh và Đại đội 470 Phan Lý triển khai lực lượng bố trí phía Tây bắc Chợ Lầu do đồng chí Trần Xuân Diệu-Chính trị viên Huyện đội Phan Lý chỉ huy để đón đánh địch từ Sông Mao (Hải Ninh) xuống chi viện. Tiểu đoàn 840 bố trí ở bờ nam sông Lũy để yểm trợ đường lui của quân ta và đón đánh địch trên 2 hướng từ Lương Sơn xuống (qua cánh đồng Thái An), từ chi khu Hòa Đa lên (vòng qua sông đánh vào Chợ Lầu).

Được tin Chợ Lầu bị quân ta chiếm giữ, sáng ngày 5/5/1968, quận Phan Lý Chàm cho 1 trung đội ra giải tỏa, gặp trung đội 3-Đại đội 440 do đồng chí Kiệt làm trung đội trưởng có lực lượng du kích Chợ Lầu phối hợp và đồng chí Nguyễn Thành Tâm-Đại đội phó Đại đội 440 đi cùng bộ phận này chỉ huy chặn đánh quyết liệt, diệt rất nhiều địch. Trận đánh giằng co, ta hy sinh 2 đồng chí (Dĩ-an ninh xã, Lan-du kích xã).

Đến 9 giờ cùng ngày, ở mũi hướng Tây Bắc có 5 tên địch từ kết nước Xuân Quang về Sông Mao đi vào trận địa trung đội 3-Đại đội 489 do đồng chí Ngô Hồng Hải chỉ huy, ta diệt tại chỗ 3 tên, còn 2 tên chạy thoát, nhưng trận địa vẫn giữ được bí mật. Đến 16 giờ đại đội bảo an 126 quận Hải Ninh của địch men theo đường sắt băng qua cánh đồng Xuân Quang để chi viện cho đồng bọn liền bị một bộ phận của Đại đội 489 phục kích chặn đánh ghìm chân chúng tại đây. Đại bộ phận lực lượng của Đại đội 489 và Đại đội 470 do đồng chí Võ Như Loan-Chính trị viên Tỉnh Đội Bắc Bình và đồng chí Trần Xuân Diệu-Chính trị viên Huyện Đội Phan Lý chỉ huy vận động hình thành 2 mũi tiến công bao vây tiêu diệt địch. Sau 30 phút chiến đấu ta đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an 126 của địch, chết tại chỗ 37 tên, bắn bị thương 24 tên, diệt hết Ban chỉ huy đại đội. Ta thu 1 đại liên, 1 trung liên, 11 tiểu liên và súng trường, 1 máy PRC25. Ta hy sinh 1 đồng chí ( đồng chí Long-trung đội trưởng đại đội 470 ), bị thương 4 đồng chí do sơ suất, bất cẩn khi sử dụng vũ khí thu được của địch tự gây sát thương.

Ở hướng Chợ Lầu, 11 giờ cùng ngày, địch cho 1 đại đội địa phương quân từ chi khu Hòa Đa theo trục đường số 1 đến giải tỏa. Đại đội 440 Hòa Đa tiếp tục chặn đánh, trận chiến đấu ác liệt kéo dài đến chiều tối ngày 5/5 thì đại đội 440 rút qua bến Thanh Tu, phía nam Chợ Lầu và bọn địch cũng rút về lại chi khu Hòa Đa. Ban chỉ huy trận đánh thấy bộ phận đánh ấp chưa đủ sức buộc địch phải tung lực lượng ra đối phó nên quyết định tăng cường cho đại đội 440 một tiểu đội của tiểu đoàn 840 do đồng chí Vũ Bình Phong-Huyện đội trưởng chỉ huy, ngay trong đêm 5 tháng 5 vào lại Chợ Lầu tổ chức công sự phòng ngự đánh địch ở 2 đầu ngã 3 Chợ Lầu (đường 1 và đường đi Sông Mao) và cầu xóm Lụa (tây Chợ Lầu).

Sáng ngày 6/5, hai đại đội địa phương quân từ Phan Lý, Hòa Đa chạm súng với đại đội 440 ở ngã 3 Chợ Lầu. Cùng lúc 1 đại đội địa phương quân khác của chi khu Hòa Đa sau khi lội sông Cạn qua phía Liêm

Page 33: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

33Bình men theo bờ nam con sông này tiến về phía tây nam ngã 3 Chợ Lầu. Đến 11 giờ thì chạm súng với chốt của đại đội 2 tiểu đoàn 840 ở bến Thanh Tu. Đợi cho địch tập trung gỡ chốt, tiểu đoàn trưởng Liệu, chính trị viên Tý cho đại đội 2 xuất kích, vận động vòng bên sườn phía sau đánh tới, đại đội địch lọt hẳn xuống sông và bị thiệt hại nặng.

12 giờ cùng ngày, địch cho 1 đại đội từ phía Hiệp Hòa theo đường 1 tiến vào chạm súng với bộ phận chốt tại cầu Xóm Lụa của đại đội 440. Cùng lúc đó 2 đại đội biệt kích Lương Sơn theo cánh đồng Thái An tiến về bến Lò Gạch gặp bộ phận chốt của đại đội 1/840 nổ súng chặn địch. Địch tập trung gở cả 2 chốt thì bất ngờ tiểu đoàn 840 xuất kích vận động bao vây đánh địch. Vòng vây mỗi lúc một xiết chặt dần, 2 đại đội biệt kích Lương Sơn và đại đội địa phương quân từ thế tiến công đã phải quay sang bám từng bờ đất, gốc cây chống cự. Nhưng trước sức tiến công mạnh mẽ và hỏa lực áp đảo, bọn địch lớp chết, lớp bị thương giữa cánh đồng Lò Gạch - Thái An. Hai ngày 5, 6 tháng 5/1968, đại đội 440, tiểu đoàn 840 đã đánh thiệt hại nặng 4 đại đội địch, gây tác động mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho phong trào cách mạng ở địa phương phát triển.

Đêm 6/5/1968, đại đội 440, đại đội 489 Bắc Bình và các đội vũ trang công tác tiếp tục truy quét địch làm chủ khu vực Chợ Lầu. Tiểu đoàn 840 sau khi thu dọn chiến trường nghi binh rút về Khu Lê và trong đêm bí mật vượt qua đường số 1 dấu quân ở suối Cây Trâm, ở đây bộ phận trinh sát thực địa đã đón đơn vị và chuẩn bị tổ chức chiến đấu cho trận Bàu Mặn.

7 giờ ngày 11/5/1968, địch cho 1 đại đội địa phương quân từ chi khu Hòa Đa theo đường số 1 ra giải tỏa chốt ở cầu Bà Bốn (cầu Nam). Qua theo dõi trên máy PRC25, chúng thông báo cho nhau: Đại đội 440-Hòa Đa đang ở Chợ Lầu, đại đội 489 tỉnh Bắc Bình đang ở Xuân Quang Cà Giây, tiểu đoàn 840-Khu 6 còn đang ở Khu Lê. Vì vậy mà đại đội địa phương quân này có phần chủ quan khi đến chùa Long Lễ gần cầu Bà Bốn gặp chốt của ta nổ súng chặn lại, chúng lập tức dồn đội hình lên để tháo gở chốt. Đại đội 2-tiểu đoàn 840 bố trí tại ngã 3 Long Lễ đón đánh địch theo đường 1 lên đã nhanh chóng vận động ra đánh thiệt hại nặng đại đội này.

Sau các đợt hoạt động, Huyện ủy Hòa Đa chỉ đạo thành lập Trung đội nữ (B68) do đồng chí Trần Thị Huê làm Trung đội trưởng, Trần Thị Lụa làm Trung đội phó, đồng chí Huỳnh Thị Chanh-Chính trị viên, Lê Thị Thành-Chính trị viên phó. Đơn vị có hơn 21 chị em thường xuyên tham gia chiến đấu với Đại đội 440-bộ đội địa phương huyện.

Ngày 19/5/1968, Đại đội 440 cùng Trung đội nữ (B68) phối hợp với Đại đội 489 tổ chức phục kích đoạn cuối ấp Lâm Lộc đến chân dốc Hồi Long chặn đánh đại đội bảo an 119 từ Duồng ra giải tỏa mô do ta tổ chức đắp. Khi bọn địch lọt vào trận địa, các bộ phận chặn đầu, khóa đuôi, chính diện đồng loạt nổ súng. Ngay từ phút đầu ta bắn cháy 1 xe jeep, diệt 2 tên cố vấn Mỹ đi trên xe. Toàn bộ lực lượng xung phong áp đảo địch, diệt và bắn bị thương trên 60 tên lính Ngụy, thu 1 trung liên, 2 súng ngắn, 7 súng tiểu liên Thompson và 1 máy PRC25. Trận này, đồng chí Cần, Chính trị viên Đại đội 489 hy sinh.

Tháng 8/1968, Khu ủy Khu 6 quyết định giải thể tỉnh Bắc Bình, 3 huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong lại thuộc về tỉnh Bình Thuận, K67 chuyển về lại tỉnh Tuyên Đức. Ở huyện Hòa Đa, đồng chí Đặng Bá Sang được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Vũ Bình Phong làm Huyện đội trưởng. Huyện Phan Lý, đồng chí Nguyễn Hữu Ích (Năm Hưng) làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Trần Xuân Diệu làm Huyện đội trưởng.

Trên chiến trường Bình Thuận (bao gồm Bắc Bình) địch tăng cường củng cố hệ thống phòng thủ, tăng cường pháo binh cơ giới, bộ binh án ngữ ngăn chặn. Đưa phi đoàn trực thăng và chiến đoàn kỵ binh thiết giáp 1/50 thuộc lữ đoàn 506 Mỹ đến Bình Thuận, đưa chi đoàn xe thiết giáp M113 gồm 29 chiếc từ Nha Trang vào Phan Thiết thay cho chi đoàn 4/8 đã bị thiệt hại nặng. Mỹ ngụy xúc tiến mạnh mẽ chương trình bình định một cách quyết liệt hơn, kết hợp đánh phá mạnh vùng căn cứ giải phóng, vùng du kích gây cho ta nhiều khó khăn tổn thất. Bộ đội, cơ quan, du kích, đội công tác phải dạt ra xa dân, cơ quan lãnh đạo lui về núi cao, trở lại cảnh “muối trường kỳ, mỳ chiến lược”. Lương thực, thuốc men, đạn dược nhất là quân số các đơn vị chiến đấu thiếu hụt nghiêm trọng.

Nhằm tăng cường lực lượng cho Bình Thuận, đầu tháng 9/1968, Quân khu 6 điều tiểu đoàn đặc công 200C do đại úy Nguyễn Văn Bổng làm tiểu đoàn trưởng từ miền Bắc vừa vào chiến trường xuống đứng chân ở Bình Thuận hoạt động.

Page 34: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

34Chi khu Hòa Đa một cứ điểm quân sự lớn ở phía Bắc tỉnh, cần phải đánh tiêu diệt để tạo thuận lợi

cho phong trào cách mạng ở vùng này phát triển. Quân khu 6 chỉ thị cho tiểu đoàn 200C chuẩn bị chiến trường và xây dựng phương án tác chiến, hạ quyết tâm đánh tiêu diệt chi khu Hòa Đa để báo cáo Quân khu phê chuẩn và phương án đã được duyệt. Nhằm đảm bảo chiến thắng trận đầu ra quân, Quân khu tăng cường 1 bộ phận đặc công của Tiểu đoàn 840, 1 tiểu đội đặc công của huyện Hòa Đa, 1 khẩu ĐKZ75 của đại đội trợ chiến 130 và Đại đội 440 bộ đội địa phương huyện làm nhiệm vụ đánh phối hợp do thượng úy Vũ Bình Phong-Huyện đội trưởng Hòa Đa chỉ huy. Quân khu chỉ định đại úy Nguyễn Khuê-cán bộ tác chiến Quân khu làm chỉ huy trưởng trận đánh. Đại úy Nguyễn Văn Bổng-Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 200C chỉ huy trận nội. Theo phương án tác chiến được duyệt, khi các mũi đặc công tiếp cận mục tiêu và nổ súng tấn công chi khu, Đại đội 440 sẽ tập kích vào trung đội địa phương quân ở ấp Long Lễ tiêu diệt địch, cầm chân không cho chúng chi viện.

1 giờ ngày 15/9/1968, các mũi cho bộc phá nổ, đánh sập các lô cốt mục tiêu, thọc thẳng vào Sở chỉ huy tiêu diệt địch. ĐKZ75, B40, B41 bắn cự ly gần khá chính xác dập tắt các ổ đề kháng của địch. Sau 40 phút chiến đấu dũng mãnh, ta đánh dứt điểm chi khu Hòa Đa, làm chủ trận địa, tảo trừ thu vũ khí và đưa thương binh tử sỹ ra. Trận này ta diệt 70 tên địch có 5 cố vấn Mỹ, bắn bị thương 50 tên khác, bắt 12 tên, thu toàn bộ vũ khí trang bị, ta hy sinh 5, bị thương 16 đồng chí. Đại đội 440 đánh ấp Long Lễ diệt một số tên cầm chân địch để lực lượng đánh chi khu rút quân an toàn.

Để chuẩn bị cho hoạt động Đông Xuân 1968 - 1969, Quân khu tăng cường Tiểu đoàn 186, Tiểu đoàn 240 và Tiểu đoàn 130 cho Bình Thuận. Đồng thời chỉ thị cho Bình Thuận khẩn trương củng cố, bổ sung lực lượng và tổ chức huấn luyện đặc công cho tất cả các đơn vị để phối hợp hoạt động. Vì địa thế của huyện Hòa Đa có khó khăn, phức tạp bởi con sông Lũy và quốc lộ 1A chia cắt địa bàn hoạt động của huyện ra làm 2 mãng nam và bắc, nên bộ đội địa phương huyện từng lúc cũng phải chia tách, lập ra nhiều đơn vị. Cuối năm 1968, Đại đội 440 Hòa Đa tách ra thành 2 đơn vị: Đại đội 440A là lực lượng vũ trang cơ động của Huyện do đồng chí Tô Xuân Tính làm Đại đội trưởng, rồi đến đồng chí Phạm Xuân Thành làm Đại đội trưởng. Sau khi đồng chí Thành hy sinh ngày 04/6/1969, đồng chí Nguyễn Văn Lãnh làm Đại đội trưởng. Sau khi đồng chí Lãnh hy sinh ngày 12/8/1969 thì đồng chí Trần Thanh Nhung làm Đại đội trưởng, các đồng chí Huỳnh Đông Pha, Đặng Thành Tâm (Lương Sơn) làm Đại đội phó, đồng chí Lê Hùng Đức-xã đội trưởng xã Hồng Trung được điều lên làm Chính trị viên phó đại đội. Đơn vị 440B là Trung đội độc lập hoạt động theo cách đánh đặc công do Huỳnh Đào làm Trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thiết làm Chính trị viên. Thành lập mới Trung đội 31 do Nguyễn Văn Chiến làm Chính trị viên, đồng chí Nguyễn Tấn Kiệt làm Trung đội trưởng; sau đồng chí Kiệt về Huyện, đồng chí Nguyễn Văn Mạnh làm Trung đội trưởng, quân số thường xuyên từ 20 đến 22 đồng chí hoạt động ở địa bàn Xuân Hội, Xuân An, Chợ Lầu, Hồng Thái...

Chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề trên toàn chiến trường miền Nam cũng như trên từng địa phương buộc Mỹ phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari để bàn việc chấm dứt chiến tranh. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, GiônXơn - Tổng thống Mỹ đề ra kế hoạch “phi Mỹ hóa” cuộc chiến tranh thay cho chiến lược chiến tranh cục bộ đã bị phá sản.

Trên địa bàn tỉnh Bắc Bình (4/1967 – 8/1968), các lực lượng vũ trang địa phương như Đại đội 440 Hòa Đa, Đại đội 470 Phan Lý, Đại đội 490 Tuy Phong và dân quân du kích liên tục chiến đấu, phối hợp chiến đấu với lực lượng cấp trên giành được nhiều thắng lợi quan trọng, giữ vững địa bàn, khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn để vượt qua. Đại đội 440 Hòa Đa càng chiến đấu, càng trưởng thành và lập được nhiều chiến công xuất sắc. Có thể nói, qua thực tiễn chiến đấu, Đại đội 440-Hòa Đa thể hiện rõ là một đại đội bộ binh mạnh, đánh độc lập giỏi, đánh phối hợp cũng rất hay. Trong chiến lược chiến tranh đặc biệt cũng như trong chiến tranh cục bộ đối đầu với quân xâm lược Mỹ, Đại đội 440 luôn là một tập thể đoàn kết cao, gắn bó máu thịt với nhân dân, với đồng đội. Cán bộ Đại đội luôn suy nghĩ tìm tòi đưa ra các cách đánh độc đáo, tạo ra một khí thế hào hùng “Khí thế Mậu Thân” góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ Ngụy trên chiến trường địa phương.

Page 35: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

35Tuy nhiên trước những khó khăn thách thức mới, đòi hỏi Đảng bộ, quân dân Hòa Đa nhất là các lực

lượng vũ trang đặc biệt là Đại đội 440 phải cố gắng nhiều hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ hơn nữa để vượt qua, luôn thể hiện được vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc.

Bằng những nổ lực của chính mình, Đại đội 440 Hòa Đa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Xuân 1968 góp phần làm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân tỉnh nhà có điều kiện phát triển cùng quân dân cả nước giành những thắng lợi quyết định trong thời gian tới.

CHƯƠNG BA

PHỐI HỢP VỚI LỰC LƯỢNG CẤP TRÊN, ĐẨY MẠNH TẤN CÔNG ĐỊCH, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI

CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH CỦA MỸ NGỤY (1969 - 1972)

I. ĐẠI ĐỘI 440 CÙNG QUÂN DÂN TRONG HUYỆN KIÊN CƯỜNG BÁM TRỤ ĐÁNH ĐỊCH, GIỮ VỮNG VÙNG CĂN CỨ GIẢI PHÓNG

Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân đã làm đảo lộn mọi tính toán của địch trên chiến trường, đẩy chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ vào tình trạng phá sản. Quốc

Page 36: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

36hội và nhân dân Mỹ tuyệt vọng phát sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt buộc chính quyền Mỹ phải thay đổi về chính sách chiến tranh (26).

Vừa mới vào Nhà trắng, Ních-Xơn điều chỉnh ngay chủ trương “phi Mỹ hóa” của Giôn-Xơn bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm thực hiện 3 mục tiêu chiến lược là hủy diệt, giành dân và bóp nghẹt. Việt Nam hóa chiến tranh với những thủ đoạn hết sức thâm độc như dùng người Việt đánh người Việt với công thức: Quân ngụy cộng vũ khí trang bị, tài chính và cố vấn Mỹ. Lấy bình định nông thôn làm biện pháp chủ yếu là kế hoạch trung tâm của chiến lược. Từng bước chuyển giao trách nhiệm cho quân ngụy Sài Gòn tiếp tục cuộc chiến, tháo gỡ dần vai trò trực tiếp chiến đấu của quân Mỹ, trên cơ sở đó lái cuộc chiến tranh dưới dạng một cuộc nội chiến, nhưng mục tiêu chiến lược vẫn là thôn tính Việt Nam.

Trong báo cáo về đường lối ngoại giao của Mỹ, Ních-Xơn khẳng định nếu rút được quân Mỹ về nước là phản ánh kết quả của Việt Nam hóa chiến tranh, còn Tổng thống Ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu trong thông điệp đầu năm 1969 cũng khẳng định sự tồn vong của chế độ tùy thuộc vào chương trình bình định, là chiếc gậy thần của Việt Nam hóa chiến tranh.

Địch đã thay đổi chiến lược, thay đổi binh khí kỹ thuật, thay đổi cách đánh. Ở Bình Thuận, Mỹ tung quân ra càn quét, đóng chốt một số nơi trong vùng giải phóng như cứ điểm Tà Dôn có chiến đoàn 1/50 thiết xa vận, 1 tiểu đoàn pháo 9 khẩu, lập đài quan sát trên đỉnh núi. Bố trí trận địa pháo Tân Nông 9 khẩu, trận địa Nỗng Cà Tang 6 khẩu, trận địa pháo Kim Ngọc 6 khẩu, Gộp 2 khẩu. Căn cứ Lương Sơn có từ 1 đến 2 đại đội bộ binh cơ giới làm nhiệm vụ cơ động hỗ trợ cho các cụm dã chiến Tà Nung - Cây Táo.

Căn cứ Sông Mao sau khi bị ta tiêu diệt (27), ở đây thường xuyên có 1 tiểu đoàn cùng với Sở chỉ huy Trung đoàn 44 và Sở chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 Ngụy, chi đoàn xe bọc thép 2/8, một trận địa pháo 105 ly - 155 ly. Với thế triển khai lực lượng từ đầu năm 1969, vùng đồng bằng ven biển Bình Thuận từ Phan Thiết ra đến Phan Rí, địch tập trung trên 300 xe tăng, xe bọc thép, 67 pháo và phần lớn máy bay của Lữ đoàn 506 kỵ binh không vận Mỹ, với lối đánh trực thăng-cơ giới-pháo binh (dùng hỏa lực phi-pháo bắn chế áp ngăn chặn, bộ binh cơ giới thực hành đột kích bao vây tiêu diệt).

Ở vùng giáp ranh, vùng căn cứ, địch tăng cường phi pháo và biệt kích theo lối sâu đo dũi dần ra. Bên trong chúng tăng cường đôn quân bắt lính, gom dân vào các khu tập trung, kiểm soát việc đi lại của nhân dân rất nghiêm ngặt. Các xã trong quận, chúng thành lập Phân chi - Cuộc cảnh sát do bọn sỹ quan chỉ huy trực tiếp nắm lực lượng nghĩa quân, phòng vệ dân sự,…Đẩy mạnh phát triển Đảng dân chủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến tận xã ấp và trong công chức, trường học. Các loại gián điệp, tình báo, phượng hoàng, thiên nga cài cắm trong nhân dân để truy tìm cơ sở cách mạng và tìm cách chui vào hàng ngũ của ta.

Với những cố gắng đó tuy chưa mang lại kết quả như chúng mong muốn nhưng cũng đã gây cho ta rất nhiều khó khăn tổn thất. Mặc dù vậy, quân dân Hòa Đa đã cùng quân dân trong tỉnh liên tiếp tấn công kẻ thù giành nhiều thắng lợi quan trọng và từng bước giữ vững thế chủ động chiến trường để tấn công địch.

Như thường lệ cứ mỗi lần Tết đến Xuân sang, đồng bào chiến sỹ ở hai miền Nam Bắc đều mong ngóng chờ đợi giây phút thiêng liêng đó là giờ giao thừa để nghe Bác Hồ chúc Tết. Vào lúc 0 giờ ngày 16/2/1969 tức mồng một Tết Kỷ Dậu, từ chiếc máy thu thanh, tiếng Bác Hồ đọc thư chúc Tết nghe thật ấm áp và lạc quan tin tưởng, Bác kết thúc bằng mấy vần thơ đầy hào khí thiêng liêng của Tổ quốc:

“Năm qua thắng lợi vẻ vang Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to Vì độc lập, vì tự do Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào Tiến lên chiến sỹ đồng bào Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn”Lời tiên đoán cũng là mệnh lệnh tiến công của Bác đã thôi thúc chiến sỹ cả nước cũng như trên quê

hương Hòa Đa kiên quyết tiến lên quét sạch quân xâm lược và bè lũ tay sai để Bắc Nam sớm được đoàn tụ.

26(?) Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và qui luật hoạt động của Mỹ-ngụy trên chiến trường B2 – Phòng tổng kết địch – Ban Tổng kết chiến tranh B2 xuất bản 1984, trang 168.27

(?) Phát biểu của Trung tướng Lê Mạnh, Tư lệnh Quân khu 7 trong Hội thảo Chiến thắng Sông Mao tổ chức tại huyện Bắc Bình – xuất bản 11/2008, trang 31.

Page 37: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

37Sáng 22 tháng 2 năm 1969, Tiểu đoàn 482, Tiểu đoàn 840, Đại đội 1/430 Hàm Thuận đánh ấp Bình

Lâm và bố trí đánh địch giải tỏa trên đường 8, diệt và đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an, 2 đại đội cộng hòa của tiểu đoàn 4/44 và 1 trung đội Mỹ, bắn hỏng 3 xe M41, bắn rơi 2 máy bay trực thăng, buộc địch phải điều tiểu đoàn 2/44 và chi đoàn xe bọc thép từ Sông Mao theo đường 1 vào chi viện. Bọn địch vừa đến Bàu Sen cách Phan Thiết 34 cây số thì lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 186, Tiểu đoàn 240, Đại đội 440 và dân quân du kích Hòa Đa. Trận đánh quyết liệt suốt cả buổi chiều 22/2, ta đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2/44, bắn cháy 35 xe quân sự có 5 xe tăng, bắn rơi 2 máy bay trực thăng.

Tiếp theo đêm 29/2, đặc công Tiểu đoàn 240 và đặc công của Hòa Đa phối hợp tập kích chi khu Hải Ninh diệt 1 đại đội bảo an, 2 trung đội dân vệ, 1 trung đội thám báo và 1 trung đội cảnh sát quận.

Sau những trận tấn công liên tục của lực lượng vũ trang quân khu, tỉnh, bộ đội địa phương huyện và dân quân du kích xã, bọn Mỹ Ngụy có phần co lại, tạo điều kiện cho các lực lượng ta bám địa bàn, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, thu mua lương thực, giải quyết được tình hình khó khăn chung của chiến trường. Tuy nhiên trước âm mưu, thủ đoạn mới của địch ta chưa kịp chuyển chỉ đạo đấu tranh thích hợp, nặng về đánh tập trung tiêu diệt các lực lượng cơ động, chưa chú trọng đúng mức các lực lượng kèm và hỗ trợ kèm tại xã ấp.

Nhằm nâng cao khả năng chiến đấu bằng cách đánh đặc công cũng như cải tiến bom mìn, đầu đạn lép của địch để đánh địch và phong trào bắn máy bay tầm thấp bằng súng bộ binh, Ban chỉ huy Tỉnh đội tổ chức lớp tập huấn quân sự cho cán bộ chủ trì ở các đơn vị, địa phương và phát động phong trào toàn quân, toàn dân bắn máy bay địch, tích cực thu nhặt bom đạn lép, cải tiến đánh địch.

Những tháng đầu năm 1969, phản ứng những đòn tiến công của ta, Mỹ ngụy liên tục cho máy bay phản lực, trực thăng bắn phá vùng căn cứ. Bộ đội địa phương các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Thuận Phong và du kích các xã ngày đêm chiến đấu bắn rơi, bắn bị thương hàng chục máy bay giặc Mỹ. Điển hình là tổ du kích Cà Lon (Phan Lý) dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng Mang Đa, chỉ trong tháng 2/1969 đã bắn rơi 6 máy bay trực thăng, 2 chiếc F105 và bắn bị thương 1 chiếc L19 (máy bay trinh sát).

Bước vào Hè Thu 1969, quân khu chuyển hướng hoạt động ra phía Bắc Bình Thuận nhằm phá thế ngăn chặn, căng kéo địch để tiêu diệt, mở rộng vùng nông thôn.

Ngày 14/4/1969, đại đội 1 Tiểu đoàn 482 cùng Trung đội 31 Hòa Đa phối hợp với Tiểu đoàn 186 quân khu do đồng chí Phạm Ty chỉ huy tổ chức phục kích vận động tại khu vực Núi Ách trên quốc lộ 1 để đánh bọn từ yếu khu Sông Lũy vào giải tỏa Bàu Ốc đang bị bao vây bắn tỉa. 2 ngày sau, tức ngày 16 tháng 4 năm 1969, bọn địch ở Sông Lũy vào giải tỏa lọt vào trận địa phục kích của ta. Đoàn xe địch đã bị hỏa lực, bộ binh ta chặn đứng, lập tức các mũi vận động tấn công, thọc sâu chia cắt không cho địch co cụm. Sau hơn 1 giờ chiến đấu quyết liệt ta đã bắn hỏng, phá hủy 30 xe quân sự có 3 xe tăng M41 và 8 xe bọc thép M113, bắn rơi 1 trực thăng, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên địch. Trận này ta hy sinh 8, bị thương 10 đồng chí. Trung đội 31 Hòa Đa đã góp công lớn nên được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3.

Cũng trong tháng 4/1969, Đại đội 440 Hòa Đa tấn công vào Phan Rí Cửa gặp địch nổ súng, bọn dân vệ bỏ chạy. Khi ta rút ra, gặp đại đội 119 địch ngủ tại ngã ba Thanh Lương kéo lên, Đại đội 440 chặn đánh phủ đầu gây thiệt hại nặng 1 trung đội bảo an địch thu 3 súng và 1 máy thu thanh.

Ngày 12 tháng 5, Đại đội 440 Hòa Đa phối hợp với Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 240 tổ chức phục kích đánh địch giải tỏa khu vực Liêm Bình trên quốc lộ 1 đoạn giữa chi khu Phan Lý Chàm và chi khu Hòa Đa do 2 đồng chí Lê Công Kỉnh-Tiểu đoàn trưởng 840 và đồng chí Vũ Bình Phong-Huyện đội trưởng Hòa Đa chỉ huy. Nhưng do bị lộ nên chi đoàn thiết vận xa từ Sông Mao ra đã dừng lại trước cánh đồng gần chi khu Phan Lý Chàm chờ máy bay trực thăng phóng pháo đến bắn phá vào trận địa ta, sau đó dùng hỏa lực trên xe tăng đánh vào chính diện, một cánh xe tăng khác đột kích bên sườn Tiểu đoàn 240. Trận đánh diễn ra quyết liệt suốt cả ngày trong điều kiện ta bố trí đội hình phục kích độn thổ, công sự sơ sài, trang bị vũ khí chống tăng hạn chế. Tuy ta có đánh thiệt hại 2 đại đội địch, bắn hỏng 5 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay trực thăng nhưng ta thương vong lớn với 30 cán bộ chiến sỹ hy sinh, bị thương (lực lượng Khu 22, Đại đội 440-Hòa Đa 8).

Đi đôi với tấn công quân sự nhằm tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, lãnh đạo cũng rất quan tâm xây dựng chính quyền cách mạng ở những nơi có điều kiện để phát triển thực lực. Tháng 6/1969, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Bình Thuận ra đời do đồng chí Nguyễn Quý

Page 38: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

38Đôn làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Đức Thuận làm Ủy viên thư ký. Ở Hòa Đa, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Huyện do đồng chí Đặng Bá Sang làm Chủ tịch. Cùng với hệ thống chính quyền từ cơ sở đến huyện, tỉnh được hình thành, đánh dấu bước phát triển mới có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

Các xã Khu căn cứ Lê Hồng Phong của 2 huyện Hòa Đa, Thuận Phong sau khi củng cố tổ chức, phát triển lực lượng dân quân du kích, đẩy mạnh các mặt công tác kháng chiến từng bước ổn định cuộc sống nhân dân làm cho kẻ địch tức tối điên cuồng luôn tìm cách đánh phá quyết liệt vùng này. Từ giữa năm 1969, địch liên tiếp dùng máy bay, pháo binh kể cả pháo hạm ngoài biển bắn phá vùng căn cứ, cho lực lượng nhỏ đột kích, phục kích giết hại cán bộ và nhân dân ta. Chúng sử dụng tiểu đoàn 2 trung đoàn 44 Ngụy, lữ đoàn 2/8 Mỹ dùng xe tăng, xe ủi đất phát quang địa hình, tạo thành những vệt trống rộng trên 50 mét từ xã Lương Sơn - Hồng Thái ra đến bờ biển tiếp đến từ Hồng Trung - Hồng Thịnh ra đến Phú Hải, chia cắt các xã trong căn cứ thành từng ô vuông như bàn cờ. Cụm rừng nào cây to không ủi phá được thì chúng rải chất độc hóa học làm chết cây, trụi lá. Hàng ngày cho trực thăng bay lượn trên vùng căn cứ tìm kiếm vị trí cơ quan, bộ đội để ném bom đánh phá rồi bất thần dùng bộ binh Mỹ đổ chụp đánh phá trong ngày rồi rút. Với cách làm này chúng hy vọng có thể dễ dàng tiêu diệt được lực lượng cách mạng trong các căn cứ.

Tuy lúc đầu, nhân dân ta ở căn cứ cũng hoang mang, các Đội công tác Lương Sơn, Hồng Thái đứng chân ở đây cũng gặp nhiều khó khăn vất vả. Nhưng sau đó, khi đã nắm được qui luật hoạt động của địch thì đồng bào ta lại bình tĩnh, tổ chức canh gác trên cao, phát hiện xe địch đến thì tạm lánh tránh một bên, chờ xe địch đi qua khỏi thì trở ra lại trên đường xe vừa chạy qua. Phong trào thi đua diệt xe cơ giới địch nở rộ trong năm 1969. Dân quân du kích các xã Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Phong, Hồng Trung liên tục bám địch nổ súng tiêu diệt từng tiểu đội lính Mỹ, tổ chức bắn tỉa, gài mìn diệt xe cơ giới. Trong những ngày địch càn phá căn cứ, dân quân du kích các xã đã đánh diệt hàng trăm tên Mỹ Ngụy, làm nổ tung 15 xe tăng, xe ủi đất của địch. Nhiều chiến sỹ du kích đã chiến đấu ngoan cường tiêu diệt được lính Mỹ và đánh trái nổ diệt được xe tăng đã trở thành Dũng sỹ diệt xe cơ giới, Dũng sỹ diệt Mỹ như Hồ Ngọc Vĩnh, Nguyễn Sinh, Võ Thành,..

Ngày 27/6/1969, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Cang-Tham mưu trưởng Tỉnh đội, Đại đội 440 Hòa Đa phối hợp với Tiểu đoàn 840 tổ chức phục kích vận động tại khu vực Suối Nhum đánh thiệt hại nặng chi đoàn thiết xa vận Mỹ, phá hủy 8 xe bọc thép có 5 xe tăng M41.

Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đánh tiêu diệt và làm thiệt hại nặng sinh lực địch, phá thủ đoạn ngăn chặn và ứng cứu bằng thiết xa vận của Mỹ, hỗ trợ cho phong trào phá ấp mở vùng, làm chủ nông thôn như Nghị quyết của Khu ủy 6 đã đề ra. Đại đội 440 và du kích liên tiếp đột ấp vũ trang tuyên truyền vận động nhân dân bung về đất cũ làm ăn. Nhiều gia đình đã tìm mọi cách bám lại ruộng đất, bất chấp bom pháo địch bắn phá. Ngày 15/7/1969, một đoàn xe địch từ Giếng Chanh lên ủi phá cánh đồng thôn 1 xã Hồng Sơn, đồng chí Nguyễn Thị Bính phó bí thư chi bộ vận động hơn 50 chị em phụ nữ ra giăng hàng ngang chặn xe địch. Trước lý lẽ kiên quyết có lý có tình, bọn Mỹ chịu quay đầu xe về lại căn cứ của chúng.

Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào, Quân khu quyết định tập kích vào hậu cứ Sông Mao lần 3. Nhiệm vụ được giao cho 3 đại đội đặc công của 3 tiểu đoàn 186, 240, 840; 1 đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 130 cùng với 5 chiến sĩ bộ binh của Đại đội 440 và 5 chiến sĩ đặc công của Đại đội 470 Phan Lý. Đêm 11/8/1969, sau 30 phút chiến đấu ta đánh thiệt hại nặng 3 đại đội và Sở chỉ huy trung đoàn 44 ngụy, làm thương vong 450 tên, đánh sập 6 lô cốt, phá hủy 2 pháo 105 ly, đánh hỏng 6 xe quân sự có 3 xe tăng đốt 4 tấn đạn, thu 34 súng các loại.

Phối hợp với lực lượng trên, Đại đội 440, dân quân du kích, đội mũi công tác liên tục đột ấp phát động quần chúng, thu mua lương thực, diệt bọn ác ôn, dân vệ, tổ chức đánh trái nổ diệt xe tăng địch. Từ 14/6 đến 20/8/1969, du kích và đội công tác Vĩnh Hảo liên tục đánh mìn trên đường 1. Du kích Hồng Lâm đã dùng đầu đạn địch làm trái nổ đánh tại các cụm đổ xe trên đường địch càn vào căn cứ đã diệt 15 xe bọc thép, làm chết và bị thương hàng trăm tên địch. Du kích Hồng Sơn, Hồng Thịnh gài lựu đạn, mìn tự tạo đánh địch càn vào căn cứ diệt 160 tên có 90 tên Mỹ, phá hủy 15 xe bọc thép. Du kích Hồng Chính dùng đầu đạn địch đánh hư nặng 1 xe tăng lúc đi càn, có máy bay hồng thập tự xuống lấy xác, chúng phải kéo chiếc xe hư về, bỏ dỡ cuộc càn.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta trên chiến trường đang trải qua những năm tháng đầy khó khăn thử thách, bước đầu giành lại được thế đứng trên chiến trường, thì Đài tiếng nói Việt

Page 39: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

39Nam thông báo tình trạng sức khỏe của Bác. Những ngày này cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 ai cũng bồn chồn lo lắng, mọi hoạt động của đơn vị đều diễn ra âm thầm lặng lẽ nhưng cũng rất khẩn trương. Sáng ngày 4/9/1969, Đài tiếng nói Việt Nam thông báo Bác từ trần. Một tổn thất lớn lao đến với mọi người, cả Đại đội không ai cầm được nước mắt, mọi người thầm hứa quyết biến đau thương thành hành động cách mạng, kiên quyết xông lên đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, thực hiện lời dạy của Bác “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” để xứng đáng với muôn vàn tình thương yêu của Bác.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng “Biến đau thương thành hành động cách mạng”, quân dân Hòa Đa, Phan Lý liên tục tấn công địch, diệt ác phá kèm giành quyền làm chủ ở nhiều nơi. Đại đội 440A, Đại đội 470, Trung đội 440B, Trung đội 31, Trung đội nữ 68 và du kích các xã, đội mũi công tác đột ấp tuyên truyền phát động quần chúng, tổ chức phục kích đánh địch trên quốc lộ 1 diệt và làm tan rã 6 trung đội phòng vệ dân sự với gần 300 tên.

Đối phó với các hoạt động của ta, ngay từ tháng 1/1970, địch tăng cường các hoạt động quân sự, chiến tranh tâm lý, đẩy mạnh các kế hoạch bình định cấp tốc, bình định đặc biệt. Phối hợp với các cuộc hành quân đánh phá rộng ra bên ngoài, bọn bảo an, dân vệ liên tục hành quân càn quét vùng bàn đạp từ Lương Sơn ra đến Hồng Thái để ngăn chặn ta, hỗ trợ cho bọn bên trong truy tróc cơ sở cách mạng, đẩy mạnh đôn quân bắt lính.

Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, sử dụng máy bay rãi chất độc hóa học, cỏ cây hoa màu đều bị chết rụi, đồng bào không còn sản xuất tự túc như trước được, nhân dân vùng căn cứ thiếu lương thực, đời sống gặp nhiều khó khăn, phải nhờ gia đình ở trong ấp tiếp tế nhỏ giọt. Lúc bí quá phải đi lượm hột gũ, hột nhãn, hái trái xương tế để ăn, nhiều người bị say, có người bị chết. Đảng bộ Huyện và các ban ngành đoàn thể bàn kế hoạch giải quyết, tổ chức lực lượng phối hợp với đội mũi công tác đột vào các ấp chiến lược vận động nhân dân, thu mua lương thực giải quyết cấp thiết nhu cầu của nhân dân căn cứ. Bên cạnh lương thực, khi địch càn, nước là vấn đề gay go, căng thẳng nhất. Địch đột kích, phục kích các chỗ lấy nước. Ta tổ chức lực lượng chốt giữ các giếng nước, bảo vệ nhân dân đi lấy nước. Nước uống đối với bộ đội và nhân dân vùng căn cứ có khi phải đổ máu, phải hy sinh. Có khi máu đổ mà nước không có như mùa khô năm 1969, du kích xã Hồng Thắng do đồng chí Lê Phận làm tổ trưởng đi trinh sát bảo vệ cho dân lấy nước lọt vào ổ phục kích địch, cả tổ hy sinh tại Giếng Pi làng Hưng Long.

Đại đội 440 Hòa Đa ngoài nhiệm vụ chiến đấu, phối hợp chiến đấu với lực lượng cấp trên (tỉnh, quân khu) còn phải thường xuyên cùng với du kích, đội công tác đột ấp vũ trang tuyên truyền, thu mua lương thực để giải quyết tình hình khó khăn chung của huyện. Mỗi lần đột ấp được xem như là 1 trận chiến đấu đòi hỏi cán bộ chiến sỹ phải hết sức cảnh giác, sẵn sàng đánh địch bất cứ lúc nào. Nhiều lúc phải hy sinh, bị thương để có được bồng gạo mang về căn cứ. Các ấp Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Thành xã Hồng Thái không những là nơi cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng mà còn là địa bàn liên lạc móc nối cơ sở, là nơi nuôi dưỡng che chở cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 hoạt động.

II. PHỐI HỢP VỚI LỰC LƯỢNG CẤP TRÊN, ĐẠI ĐỘI 440 KIÊN CƯỜNG CHIẾN ĐẤU GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH”

Tháng 1 năm 1970, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 đề ra nhiệm vụ: Động viên sự nổ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân toàn dân trên cả 2 miền tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, tiến công chính trị kết hợp với tiến công ngoại giao, đánh bại âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Cũng trong tháng 1 năm 1970, Khu ủy Khu 6 họp hội nghị đề ra nhiệm vụ: Ra sức đẩy mạnh tiến công và xây dựng, làm chuyển biến cục diện chiến trường, tiến tới cao trào tiến công và nổi dậy mạnh mẽ. Trước mắt đợt hoạt động Xuân Hè, lấy Bình Thuận làm trọng điểm.

Về phía địch, đẩy mạnh kế hoạch bình định nông thôn phục vụ cho chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Địch sử dụng trung đoàn 44 và trung đoàn 53 của sư đoàn 23 đánh sâu vào vùng căn cứ ta. Lữ đoàn 119 Mỹ đổ quân đóng chốt nhiều nơi, tiến hành càn quét rộng, sâu vào các căn cứ địa cách mạng để hỗ trợ cho bọn ngụy quân ngụy quyền địa phương hành quân cảnh sát tăng cường bắt lính đôn quân một cách ráo riết. Đẩy mạnh chiến dịch Phượng hoàng nhằm thanh lọc, nắm từng người, từng gia đình, từng ấp để phân loại quần chúng, tiến hành truy phá cơ sở ta. Tiếp tục gom dân lập ấp khẩn trương hơn, quyết liệt hơn.

Page 40: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

40Tuy địch có nhiều nổ lực cố gắng nhưng đã vấp phải sự chống trả mạnh mẽ của phong trào đòi dân

sinh dân chủ, đòi hòa bình của các tầng lớp nhân dân nhất là trong các thành phố, thị xã làm cho địch phải bị động đối phó. Mặc khác ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở xộc xệch, lực lượng nhân dân tự vệ ở xã ấp tan rã từng mảng sau những đòn tiến công của ta.

Thực hiện Chỉ thị 136 của Trung ương Cục miền Nam và chủ trương của Tỉnh ủy Bình Thuận, Đảng bộ 2 huyện Hòa Đa, Phan Lý tiến hành đại hội Đảng bộ. Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm và rút ra một số điểm cần phải khắc phục đó là công tác đánh phá bình định chưa mạnh nhất là đánh tiêu diệt bọn kèm và hỗ trợ kèm còn hạn chế, chưa chuyển, mở phong trào mạnh để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và đề ra phương hướng nhiệm vụ tới “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong huyện cố gắng cao nhất, liên tục tấn công tiêu hao tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại cơ bản âm mưu bình định của Mỹ Ngụy…Phát động quần chúng nổi dậy phá ấp mở vùng giành quyền làm chủ ở nông thôn, thị trấn. Trên cơ sở đó động viên sức người sức của phục vụ tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…”. Ở huyện Hòa Đa, đồng chí Đặng Bá Sang được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Vũ Bình Phong làm Huyện đội trưởng. Ở huyện Phan Lý, đồng chí Đặng Chế Hoa được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Trần Xuân Diệu làm Chính trị viên Huyện đội, đồng chí Phan Văn Hiếu làm Huyện đội trưởng.

Đại đội 440 cũng có sự sắp xếp mới. Đồng chí Ngô Hồng Hải làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Chiến làm Chính trị viên, đồng chí Nguyễn Thanh Hà làm Chính trị viên phó đại đội. Đồng chí Nguyễn Hộ-trung đội trưởng trung đội 1. Đồng chí Lê Thanh Bình-trung đội trưởng trung đội 2. Đồng chí Trần Hữu Định (Lâm Nguyên)-trung đội trưởng trung đội 3. Đồng chí Nguyễn Xuân Thành-trung đội trưởng trung đội 4. Quân số và trang bị cũng được bổ sung đầy đủ, sẵn sàng làm nhiệm vụ.

Phối hợp với các hoạt động của lực lượng vũ trang tỉnh, quân khu, bộ đội địa phương và dân quân du kích Hòa Đa cũng đẩy mạnh tấn công địch ở các ấp trên trục đường số 1. Đêm 20 tháng 5 năm 1970, Trung đội 31, Trung đội 68 (nữ) cùng du kích đột vào ấp Hiệp Thành xã Hồng Thái bị vướng mìn của địch làm hy sinh một số đồng chí, trong đó có đồng chí Huỳnh Thị Khá, tiểu đội trưởng của trung đội nữ 68 Huyện bị thương nặng gãy cả 2 chân, nhưng chị vẫn bình tĩnh nén đau, dùng tiểu liên AK, lựu đạn đánh trả quyết liệt diệt nhiều địch, để đồng đội thoát khỏi vòng vây của địch. Chị chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi anh dũng hy sinh. Hình ảnh nữ đồng chí Huỳnh Thị Khá là tấm gương sáng của phụ nữ Việt Nam anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang. Tuy mới 19 tuổi đời, hơn 1 tuổi quân, đồng chí chiến đấu trên 30 trận lớn nhỏ, diệt trên 50 tên địch. Đồng chí được Quốc hội Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1970, Đại đội 440 Hòa Đa phối hợp với Đại đội 5 đặc công của Tiểu đoàn 840, do đồng chí Nguyễn Văn Luân-Đại đội trưởng Đại đội 5 và Tạ Quang Kính-Chính trị viên phó Tiểu đoàn 840 chỉ huy, tổ chức đánh vào căn cứ Sông Mao lần thứ 6. Sau 45 phút chiến đấu ta làm chủ các mục tiêu được phân công và cắm cờ giải phóng lên Sở chỉ huy trung đoàn 44 sư đoàn 23 Ngụy. Diệt 300 tên có 85 tên Mỹ, phá hủy 3 pháo 105 ly, 1 cối 106,7 ly, 13 xe bọc thép M113 và toàn bộ khu thông tin điện đài, đốt cháy 1 kho hóa chất. Trong quá trình phát triển chiến đấu tiêu diệt địch, mũi đồng chí Luân bị lạc không biết đường ra, đồng chí Luân trụ lại đến sáng, bọn địch đến bao vây áp đảo đánh anh em ta hy sinh trong đó có đồng chí Luân. Trên đường rút về Xuân Quang, mũi của đồng chí Kính bị xe bọc thép địch kẹp hai bên đường sắt đánh vào đội hình làm anh em ta hy sinh, trong đó có đồng chí Kính. Trận này ta hy sinh 6 đồng chí, bị thương 5 đồng chí, mất 2 súng B40, 3 súng AK.

Phối hợp tấn công Sông Mao, Đại đội 470 Phan Lý đánh vào xã Hải Ninh, chiếm trụ sở, khu thông tin diệt 30 tên dân vệ. Ta hy sinh 2 đồng chí.

Tháng 8/1970, quân chiến đấu Mỹ bắt đầu rút các chiến đoàn 1/50, 2/1, tiểu đoàn 3/506 Mỹ khỏi chiến trường Bình Thuận. Một số đơn vị binh khí kỹ thuật còn lại để tiếp tục kèm cặp quân Ngụy. Để thay thế địch điều toàn bộ trung đoàn 44/23 về Bình Thuận, ghép một số tiểu đoàn và liên đội bảo an làm nhiệm vụ cơ động thay cho quân chủ lực. Từng bước giao cho bảo an, dân vệ, cảnh sát đảm nhiệm phòng thủ địa phương. Chúng tích cực khôi phục, củng cố bộ máy tề ấp, lập phân chi khu, cuộc cảnh sát, ủy ban Phượng Hoàng để kèm cặp quần chúng.

Trong lúc này, thế tiến công của ta chưa thường xuyên, liên tục, nhất là vai trò của bộ đội địa phương và dân quân du kích chưa tập trung đánh phá bình định có hiệu quả. Lực lượng chủ lực của khu, bộ

Page 41: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

41đội tập trung tỉnh chủ yếu đánh vào lực lượng cơ động, đánh vào các mục tiêu quân sự lớn nên trận địa xã ấp và chương trình bình định của địch chưa bị tiêu diệt.

Ở Hòa Đa, sau khi tiếp thu Nghị quyết của Tỉnh ủy, một số cán bộ các ngành các giới được tăng cường xuống cơ sở, phong trào đấu tranh cách mạng được khôi phục, cơ sở bên trong tiếp tục củng cố. Công tác Đảng, công tác chính trị lúc này là tập trung lãnh đạo tư tưởng cho bộ đội địa phương, dân quân du kích và cả nhân dân vùng căn cứ giải phóng thấu suốt nhiệm vụ trung tâm là đánh phá kế hoạch bình định. Thường xuyên tổ chức huấn luyện cho bộ đội địa phương, dân quân du kích thông thạo các cách đánh thông thường như rà, gỡ mìn, cải tạo các loại mìn đánh trả lại địch, chống đột kích, phục kích, tăng cường diệt ác phá kèm, xây dựng thực lực cách mạng trong vùng địch tạm chiếm. Tổ chức những trận đánh nhỏ, đánh vừa, đánh hiểm làm hạn chế và từng bước đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch.

Ban chỉ huy Huyện đội Hòa Đa giao nhiệm vụ cho Trung đội 31 đánh, diệt bọn dân vệ ở ấp Phú Hải để hổ trợ quần chúng phá ấp, phá kèm, xây dựng thực lực cách mạng. Thực hiện ý định trên, đồng chí Nguyễn Văn Mạnh, Trung đội trưởng Trung đội 31 cùng đội công tác nghiên cứu và tiến hành bí mật 3 lần treo cờ trên tháp nước và rãi truyền đơn. Cả 3 lần địch trong ấp huy động trung đội dân vệ ra tháo cờ, nhặt truyền đơn đều an toàn nên địch có phần chủ quan. Nắm được qui luật địch, ta nghiên cứu bố trí trận địa phục kích để tiêu diệt chúng. Trong trận này ta có 11 chiến sĩ tham gia chia thành 3 tổ do đồng chí Nguyễn Văn Mạnh trực tiếp chỉ huy. Hổ trợ bảo vệ phía sau (đường rút về) cho lực lượng đồng chí Mạnh có lực lượng du kích của các Đội công tác Liêm Bình, Thoại Thủy và Phú Hải do đồng chí Trần Ngọc Sáng-Xã đội trưởng Đội công tác Liêm Bình chỉ huy. Lúc 01 giờ ngày 07/8/1970, đơn vị chiếm lĩnh trận địa an toàn, bí mật. Đội công tác nhanh chóng treo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên tháp nước và rãi truyền đơn. Các chiến sĩ Trung đội 31 đặt 2 quả mìn ĐH 10 và ngụy trang xong trước 5 giờ sáng, sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.

Trời sáng, dân đi làm ăn thấy cờ và truyền đơn, về ấp báo cho địch. Khoảng 7 giờ, trung đội dân vệ địch do tên Cơ chỉ huy kéo ra. Một số tên nhặt truyền đơn; mấy tên khác đi thẳng đến tháp nước chuẩn bị tháo cờ. Chờ cho trung đội địch đi hết qua cầu vào đúng vị trí ta đặt mìn, đồng chí Mạnh lệnh cho điểm hỏa. Hai quả mìn ĐH 10 đồng loạt nổ xé tan đội hình địch. Các chiến sĩ ta dùng trung liên, tiểu liên, súng trường, thủ pháo, lựu đạn đánh dồn dập vào quân địch. Nhiều tên chết ngay tại chỗ, một số tên lọt xuống cầu, một vài tên chạy ngược về phía sau. Tổ khóa đuôi dùng tiểu liên bắn diệt từng tên địch. Sau 10 phút chiến đấu, địch chết 20 tên. Ta tiêu diệt gần hết trung đội dân vệ địch, thu được 3 khẩu súng AR15, 2 khẩu súng M79 và hoàn toàn vô sự. Trận Phú Hải thắng lợi đã hỗ trợ tích cực cho phong trào cách mạng ở địa phương phát triển.

Trước tình hình mới, Miền có chỉ thị 01/CT71…“Nắm vững phương châm chiến lược kiên trì đấu tranh liên tục tấn công, liên tục nổi dậy kết hợp chặt chẽ với xây dựng, tăng cường lực lượng cách mạng đánh bại từng bước, nắm vững phương châm hai chân ba mũi ba vùng, vận dụng đường lối chiến tranh của ta là toàn dân, toàn diện,…” (28).

Cụ thể hóa chỉ thị 01/CT71 của Miền, trên chiến trường Bình Thuận lãnh đạo quyết tâm xây dựng lực lượng theo hướng nâng cao chất lượng chuyên môn hóa đặc công biệt động với 3 yêu cầu:

1. Đánh tiêu diệt cả bộ máy kèm, bọn ác ôn2. Đánh tập kích diệt bọn dã ngoại, đánh sâu, đánh hiểm thường xuyên vào thị xã, thị trấn3. Tổ chức gọn nhẹ, tinh và mạnh, luồn sâu đi êm đánh địch trong hậu cứ của chúngĐể phù hợp với tình hình mới, Huyện ủy Hòa Đa chỉ đạo giải thể trung đội nữ B68 để tăng cường

lực lượng cho Đội, Mũi công tác. Mở đầu đợt hoạt động, quân khu chủ trương tập trung lực lượng đánh phá bình định ở Hàm Thuận (Bình Thuận) nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá kèm hỗ trợ cho bộ đội địa phương, du kích đánh phá ngăn chặn bung xỉa của địch.

Phối hợp với trọng điểm đánh phá bình định, Huyện ủy Hòa Đa chỉ đạo Đại đội 440 chuẩn bị phương án, tổ chức lực lượng đánh giải trang trung đội phòng vệ dân sự địch ở Liêm Bình. Tại đây ta đã đánh 3 lần nhưng không đạt mục tiêu đề ra và bị tổn thất do địch phục kích. Mặt khác, địa hình nơi này có 2 con sông là sông Lũy và sông Mù U kẹp 2 bên như 2 gọng kèm cho nên việc chuyển quân qua 2 con sông

28(?) Trích Chỉ thị 01/CT71, ngày 5/1/1971 của Miền lưu tại BKHLSQS Bình Thuận.

Page 42: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

42này đã gây nhiều khó khăn cho ta. Với quyết tâm phải hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao đợt này, tháng 3 năm 1971, đồng chí Nguyễn Văn Chiến-Chính trị viên đại đội 440 đã vào ấp nằm hầm bí mật để thống nhất kế hoạch với anh Tạ Thành (Sáu Quang) là chỉ huy trung đội phòng vệ dân sự địch về giờ giấc, bố trí người trực gác và địa điểm tập trung vũ khí của địch (Anh Tạ Thành được giáo dục giác ngộ thông qua cơ sở cách mạng bên trong là ông Trần Đình Cận (Bảy Cận) vận động chịu theo ta). Sau khi nắm chắc tình hình, Đại đội 440 do Ngô Hồng Hải-Đại đội trưởng chỉ huy, tổ chức lực lượng tiếp cận mục tiêu dùng 2 quả thủ pháo đánh khống chế. Do làm tốt công tác binh địch vận và hợp đồng trong ngoài chặt chẽ, nên khi ta đánh vào bọn địch nằm im không có sự chống trả, ta nổ súng áp đảo và bắt toàn bộ trung đội, thu toàn bộ vũ khí gồm 13 khẩu súng các loại (có 1 tên chạy thoát). Ta tổ chức mét-ting, phát động quần chúng, giáo dục và thả 15 người tại chỗ, có 3 người tình nguyện xin theo và gia nhập Đại đội 440, sau này chiến đấu có 2 hy sinh được công nhận liệt sĩ là Nguyễn Văn Lâu và Trần Văn Hai. (29)

Ngày 15/3/1971, đội vũ trang công tác Hậu Quách phối hợp với tiểu đoàn 840 do đồng chí Quốc Hải-Tham mưu trưởng Tiểu đoàn-chỉ huy tổ chức đột ấp để móc ráp cơ sở, xây dựng phong trào và thu mua lương thực. Khi vào ấp, địch phát hiện nổ súng rồi tháo chạy về hướng chi khu Hòa Đa, gặp Đại đội 2-Tiểu đoàn 840 phục đón lõng do đồng chí Hựu-Đại đội trưởng chỉ huy nổ súng đánh diệt gần hết trung đội địa phương quân và trung đội nghĩa quân, địch chết, bị thương 35 tên. Ta làm chủ ấp, truy quét địch, đội công tác phát động quần chúng, xây dựng phong trào, thu mua lương thực. Đến gần sáng ta rút.

Những hoạt động trên có thu được kết quả nhất định, lực lượng vũ trang làm được vai trò đòn xeo trong công tác đánh phá bình định, bám sát ấp, sát dân, nắm được quy luật hoạt động của chúng, vận dụng được những hình thức thích hợp để ngăn chặn, bẻ gãy một số thủ đoạn kèm kẹp mới của địch. Nhưng do sức ta có hạn nhất là thiếu quân số nghiêm trọng, bộ đội địa phương, dân quân du kích quá ít nên không giữ được, về sau địch vẫn lắp lại và tiếp tục bung xỉa đánh phá vùng bàn đạp của ta. Vùng bàn đạp trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch, mỗi lần vào ấp để vũ trang công tác, các đơn vị phải tổ chức cấp trung đội, đại đội và có phương án tác chiến cụ thể. Vậy mà có lần tổ chức đột ấp thu mua lương thực, gặp địch phục kích, ta nổ súng đánh nhau ở rìa ấp rồi quay về. Việc mất dân, không làm chủ được địa bàn nên ra vào ấp gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến thiếu thốn về lương thực.

Các tiểu đoàn chủ lực của quân khu đứng trên đất Bắc Bình thường xuyên bị thiếu lương thực, đơn vị phải cử đoàn về phía bắc đường 1 để chuyển tải lương thực, vũ khí và thường xuyên bị phục kích, vướng mìn làm thương vong tổn thất. Tiểu đoàn 186 đứng ở căn cứ Lê Hồng Phong phải ăn củ nần, một loại củ ở vùng đất cát quá đắng, để ăn được phải sắt từng lát mỏng ngâm nước xả sạch chất đắng vài lần mới nấu ăn được. Nhưng nước ở khu Lê cũng rất khó khăn đôi khi phải đổi bằng máu mới có nên anh em sơ chế củ nần không đủ các công đoạn như đồng bào do đó nhiều lúc ăn bị say. Tình hình khó khăn kéo dài nên quân khu phải đưa tiểu đoàn về đứng ở Hàm Phú để giải quyết lương thực và xây dựng củng cố.

Tiểu đoàn 840 dựa vào núi Ga Lăng để đào củ từ một loại củ nấu ăn rất ngon giống như củ từ ta trồng nhưng lại mọc trong các hốc đá rất khó đào, phải dùng xà beng, cuốc, thuổng cậy, xeo mới lấy được. Và sau những bữa ăn chống đói, đơn vị lại tổ chức vào các ấp Xuân Quang, Xuân Hội để lấy gạo, nhưng mỗi lần vào ấp là những trận chiến đấu xảy ra..

Đại đội 440 bám trụ trên chiến trường tuy có thuận lợi hơn về mặt lương thực nhờ có tổ chức tăng gia sản xuất tự túc tại chỗ. Đội sản xuất của đơn vị thường bảo đảm cung cấp lương thực, thực phẩm từ 3 đến 4 tháng trong năm. Hơn nữa đơn vị cũng có ít người và thường xuyên phân tán bám ấp, bám dân, cùng với du kích, đội công tác vận động nhân dân đấu tranh chống địch và thu mua được lương thực để giải quyết đời sống cho đơn vị.

Các lực lượng vũ trang Hòa Đa, Phan Lý tuy quân số có giảm, nhưng hoạt động đa dạng hơn, liên tục tổ chức đột ấp vũ trang tuyên truyền, tổ chức phục kích đánh bọn bung duỗi ra càn quét lấn chiếm ra vùng bàn đạp. Đại đội 440A phục kích chặn đánh bọn biệt kích ở khu vực Dốc Chùa diệt một số tên, phối hợp với đội công tác Chợ Lầu đột ấp vũ trang tuyên truyền diệt gần 1 trung đội thám sát quận Hòa Đa, thu 3 súng AR15. Ta hy sinh 1 đồng chí.

29(?) Theo tư liệu do đồng chí Ngô Hồng Hải-Đại đội trưởng 440 cung cấp, trận này không có 200C, không có Đội công tác, chỉ có Đại đội 440 vào đánh giải trang trung đội phòng vệ dân sự Liêm Bình; đồng chí Nguyễn Văn Mạnh không làm đại đội trưởng 440 chỉ huy trận chiến đấu này.

Page 43: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

43Trung đội 31 do đồng chí Nguyễn Văn Mạnh chỉ huy tập kích vào quận Phan Lý Chàm, tổ chức kéo

địch ra khu vực chợ Hiệp Phước lọt vào trận địa phục kích của ta để tiêu diệt. Trận này ta đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an 445 địch, thu 1 súng AR15.

Vào những tháng cuối năm 1971, trên địa bàn Hòa Đa có nhiều chuyển biến có lợi cho ta. Cuộc đấu tranh 2 chân 3 mũi có nhiều bước phát triển mới. Cùng với tiến công vũ trang, công tác binh vận ngày càng có nhiều tiến bộ. Nhiều nơi đã có từ 10 đến 20 gia đình ngụy quân ngụy quyền được ta giáo dục và họ hứa sẽ tìm cách thuyết phục, ngăn chặn và gọi con em họ về với nhân dân, có nơi ta tranh thủ được số chỉ huy trong lực lượng dân vệ, phòng vệ dân sự hoạt động cho cách mạng. Để tăng cường chỉ huy lãnh đạo hoạt động vũ trang, Ban chỉ huy Huyện đội Hòa Đa có sự sắp xếp mới : Đồng chí Trương Minh Biên thay đồng chí Trần Việt Tân làm Huyện đội trưởng; đồng chí Mai Khá, đồng chí Đặng Tính Quang, đồng chí Trần Công Định làm Huyện đội phó; đồng chí Nguyễn Thanh Lực làm Chính trị viên, đồng chí Trương Hữu Nghị làm Chính trị viên phó Huyện đội. Đồng chí Đặng Bá Sang làm Bí thư Huyện ủy Hòa Đa. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, Huyện đội, Trung đội 31 sáp nhập vào Đại đội 440 để tăng cường sức mạnh chiến đấu.

Bước vào năm 1972, địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu bình định phát triển sang bình định củng cố. Chúng cho rằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Tiếp tục quân sự hóa, cảnh sát hóa bộ máy kèm ở cơ sở, loại bỏ bọn tề dân sự, đưa bọn sỹ quan quân đội cảnh sát về nắm giữ các vị trí chủ chốt trong chính quyền xã, ấp, tích cực mở rộng mạng lưới gián điệp “tình báo nhân dân” để phục vụ cho âm mưu bình định của chúng. Tổng thống Ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu cho phát triển mạnh đảng dân chủ để làm nồng cốt cho bộ máy lãnh đạo, đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng với những chiến dịch “Tìm về nẻo sống”, “Cánh chim tìm về tổ ấm”, “Sống tình thương”, “Về nguồn”, “Lòng mẹ”,…để lừa bịp, mê hoặc mọi người.

Thiệu còn ban hành “9 biện pháp khẩn cấp”, “10 điều bắn bỏ” nhằm ngăn chặn phong trào quần chúng nổi dậy. Bằng những âm mưu và thủ đoạn cực kỳ nham hiểm đó, kết hợp với các cuộc hành quân càn quét đánh phá vùng bàn đạp, giành giật quyết liệt với ta ở trận địa nông thôn hòng ngăn chặn các cuộc nổi dậy phá ấp mở vùng. Tuy nhiên, những cố gắng đó cũng không làm thay đổi được tình hình bất lợi cho chúng.

Cuối tháng 3/1972, quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Bình Thuận. Tình hình đó đã tạo thuận lợi cho địa phương mở nhiều chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định, tiêu diệt lực lượng kèm và hỗ trợ kèm, làm lỏng rã bộ máy ở cơ sở, tạo điều kiện đưa dân về ruộng đất cũ làm ăn, khôi phục lại vùng giải phóng, mở thêm vùng giải phóng mới, xây dựng thực lực cách mạng, phát triển lực lượng vũ trang để tấn công địch mạnh mẽ hơn, giành thắng lợi quyết định.

Quyết tâm thực hiện chiến lược của Trung ương về đánh bại cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ trên chiến trường, Quân khu mở chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định, lấy Bình Thuận làm chiến trường chính, chọn khu vực từ Lương Sơn đến Tà Nung trên trục đường 1 làm điểm để thu hút tiêu diệt địch, tam giác đường 8 là địa bàn nổi dậy.

Mở màn chiến dịch, ngày 6/4/1972, ta sử dụng đặc công đánh cứ điểm Lương Sơn nhưng không dứt điểm, chuyển sang vây ép gài thế đánh quân chi viện. Cùng đêm, Đại đội 440 Hòa Đa, Đại đội 470 Phan Lý và dân quân du kích các xã đồng loạt đánh vào các ấp Hiệp Hòa, Xuân Quang, Xuân Hội, Long Lễ, Xuân An, Hiệp Phước, Liêm Bình, Long Hà, Thoại Thủy, Lâm Lộc...hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy giành quyền làm chủ, bung về đất cũ làm ăn.

Tập kích cứ điểm Lương Sơn không thành công, ngày 18/4/1972, Tiểu đoàn 840 tiếp tục đánh phá ấp Lương Sơn, đánh thiệt hại 1 đại đội bảo an, 2 trung đội dân vệ. Tiểu đoàn 186 đánh phá ấp Tà Nung, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an. Đêm 10/5, đặc công của Tiểu đoàn 186 tập kích đồn Gộp diệt 2 trung đội dân vệ; Tiểu đoàn 840 phục kích vận động đoạn Cây Táo - Cầu Vĩ đường 1 đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an. Đại đội 440 có du kích xã Hồng Thái phối hợp vào ấp Hiệp Bình đánh 1 trung đội bảo an, 1 trung đội dân vệ, 1 toán bình định và bọn phòng vệ dân sự. Địch phát hiện lực lượng ta, chúng bỏ chạy thoát thân. Ta vào ấp móc nối cơ sở, xây dựng thực lực cách mạng. Tiếp theo Đại đội 440 do đồng chí Ngô Hồng Hải chỉ huy đột vào ấp Hiệp An có cơ sở nội tuyến giúp đỡ, ta diệt một số tên địch, thu 3 súng AR15.

Page 44: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

44Tháng 5/1972, Đại đội 440 cùng Đội công tác xã Lương Sơn có cơ sở nội tuyến phục vụ đánh vào ấp

Lương Sơn diệt gọn Ban chỉ huy trung đội dân vệ, ta làm chủ ấp, phát động quần chúng bung về đất cũ làm ăn, ta đưa một cơ sở nội tuyến ra căn cứ hoạt động.

Trong 2 tháng 4, 5/1972 ta liên tục tấn công địch, tuy chưa có trận đánh nào then chốt, quyết định nhưng với thế trận chung trong toàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng nổi dậy phá ấp, diệt ác, làm lỏng rã hệ thống kèm kẹp của địch, bung về đất cũ làm ăn. Trên địa bàn Hòa Đa, nhân dân và các lực lượng vũ trang, dân quân du kích địa phương cũng đẩy mạnh thế tấn công địch, làm chuyển biến tình hình có lợi cho ta, phát triển phong trào bằng 3 mũi giáp công, đặc biệt là mũi công tác binh vận có nhiều thành tích tiến bộ.

Tháng 10/1972, Bộ Tư lệnh Miền chỉ thị tất cả các lực lượng vũ trang từ khu, tỉnh, huyện, xã đều triển khai xuống các địa bàn xã, ấp, áp sát đường giao thông để tấn công địch hỗ trợ cho mặt trận ngoại giao giành thắng lợi.

Cuộc Hội nghị 4 bên tại Paris về Việt Nam đã tiến hành được 4 năm nhưng vẫn bế tắc. Để tỏ rõ thiện chí của mình, ngày 8/10/1972, phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra bản dự thảo hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trước những thất bại nặng nề trên chiến trường và những khó khăn nhiều mặt ở trong nước, đế quốc Mỹ buộc phải đồng ý đến ngày 31/10/1972 sẽ ký kết hiệp định. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, có nhiều âm mưu xảo quyệt, ngày 23/10/1972 Mỹ lật lọng và buộc ta phải chấp nhận những điều kiện hết sức ngang ngược do Mỹ đưa ra. Căm phẩn thái độ tráo trở của Tập đoàn Nich-Xơn-Kít-Xinh-Giơ ở hội nghị Paris, nhân dân cả nước đã xuống đường biểu tình hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ - Thiệu ngoan cố, hòa bình phải được thực hiện ở miền Nam”.

Hòa cùng cao trào đấu tranh của nhân dân cả nước, anh em binh sỹ trong hàng ngũ ngụy quân cũng đồng tình ủng hộ. Nhiều nơi bọn ngụy quyền cũng tỏ ra hoang mang dao động, cầu an, tiêu cực. Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, các lực lượng vũ trang liên tục tấn công địch ở các ấp chiến lược, ven trục đường giao thông, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.

Ở Hòa Đa, Tiểu đoàn 482, Đại đội 440 và dân quân du kích tổ chức đánh địch ở khu vực Thái An, bọn này phải lui về giữ các ấp Hiệp Hòa, Hiệp Bình. Đội vũ trang phối hợp chặt chẽ với du kích bộ đội địa phương mở rộng vùng làm chủ ở Lương Sơn, Chợ Lầu, bảo vệ mùa màng, thu mua lương thực để bảo đảm hậu cần cho thời gian tới.

Theo chỉ đạo của Quân khu, các lực lượng vũ trang tiếp tục đẩy mạnh hoạt động để giành thêm thắng lợi trong thời cơ ký hiệp định Paris về Việt Nam. Từ tháng 12/1972 trở đi, tất cả các lực lượng phải áp sát mục tiêu theo kế hoạch “Chồm lên” đồng thời cũng phải chuẩn bị kế hoạch đối phó với chiến tranh có thể tiếp tục kéo dài. Tất cả các cơ quan đơn vị phía sau, dân quân du kích và nhân dân vùng căn cứ cũng phải chuẩn bị sẵn sàng tại chỗ để đón thời cơ đến.

Mặc dù bị thua đau trên chiến trường nhưng với bản chất ngoan cố, xảo quyệt, đế quốc Mỹ âm mưu dùng sức mạnh quân sự tối đa để buộc nhân dân ta phải khuất phục. Từ ngày 18 đến ngày 30/12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược với quy mô lớn vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố đông dân cư khác trên miền Bắc, nhưng đã bị thất bại nặng nề. Ngày 23/1/1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký tắt Hiệp định Paris về Việt Nam giữa đồng chí Lê Đức Thọ cố vấn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Kít-Xinh-Giơ (Kissinger) cố vấn của Tổng thống Hoa Kỳ.

Nắm vững thời cơ chiến lược, các lực lượng vũ trang đồng loạt “Chồm lên” chiếm giữ một số địa bàn quan trọng và đánh trả quyết liệt bọn địch lấn chiếm, giữ vững vùng mới giải phóng thì được tin từ Paris, thủ đô nước Pháp, hồi 11 giờ 30 phút (giờ Paris) ngày 27/1/1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết chính thức và có hiệu lực lúc 7 giờ ngày 28/1/1973.

Lúc này các lực lượng vũ trang ta đã áp sát và chiếm giữ một số địa bàn quan trọng. Trên quốc lộ 1 từ Lương Sơn ra đến Chợ Lầu, Hồng Thái, sự có mặt của các đơn vị Tiểu đoàn 482, Đại đội 440 Hòa Đa và dân quân du kích địa phương ở nhiều xóm ấp đã động viên khí thế của quần chúng vùng lên làm chủ thôn ấp của mình. Cờ cách mạng tung bay ở những nơi có lực lượng ta chiếm giữ. Tương quan lực lượng ta lúc này tuy quân số có ít nhưng với quyết tâm “Chồm lên” cắm cờ giữ đất, giữ dân, ta vẫn trụ vững trên địa bàn nhiều ngày, chiến đấu liên tục đánh lui nhiều đợt phản kích của địch.

Page 45: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

45Gần 5 năm chiến đấu đánh phá kế hoạch bình định của địch, Đại đội 440 Hòa Đa đã trụ vững trên

chiến trường ác liệt, đầy khó khăn gian khổ và lập được nhiều thành tích xuất sắc, góp phần cùng quân dân tỉnh nhà và cả nước đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Đảng bộ và nhân dân Hòa Đa luôn đồng hành cùng lực lượng vũ trang, những người con thân yêu của quê hương khu Lê bất khuất vượt qua những hy sinh mất mát, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chắc chắn trong khoảng thời gian đó còn có những thiếu sót, khuyết điểm về chỉ đạo điều hành, về chỉ huy chiến đấu, về tổ chức thực hiện nhưng qua đó có thể khẳng định rằng tập thể cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 đã phấn đấu hết sức mình cùng quân dân huyện nhà giành nhiều thắng lợi quan trọng góp phần cùng quân dân cả nước buộc địch phải ký kết hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Thắng lợi to lớn và thế trận vô cùng thuận lợi đã động viên quân dân Hòa Đa tiến lên mạnh mẽ hơn, đánh cho ngụy quân ngụy quyền sụp đổ hoàn toàn trên chiến trường địa phương, góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi quyết định.

CHƯƠNG BỐN

ĐẠI ĐỘI 440 NỔ LỰC VƯƠN LÊN PHỐI HỢP CHIẾN ĐẤU ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO, THỰC HÀNH TỔNG TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975, GIẢI PHÓNG QUÊ

HƯƠNG (1973 - 1975)

I. CHỒM LÊN CẮM CỜ, GIỮ ĐẤT, KIÊN QUYẾT ĐÁNH ĐỊCH LẤN CHIẾMHiệp định Paris về Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ

cứu nước của dân tộc ta, tạo điều kiện thuận lợi cho quân dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước. Mặc dù Hiệp định đã được ký chính thức, nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố chưa chịu từ bỏ miền Nam Việt Nam, âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược, tiếp tục thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh với công thức “Quân ngụy + viện trợ kinh tế, trang bị và cố vấn Mỹ”. Được chủ Mỹ tiếp sức, Nguyễn

Page 46: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

46Văn Thiệu luôn tỏ thái độ ngoan cố đi ngược lại tinh thần của Hiệp định Paris, tuyên bố không thực hiện ngừng bắn và ra lệnh cho quân ngụy tiến hành kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm đánh chiếm các vùng du kích, vùng do ta làm chủ, vùng nông thôn đồng bằng. Ngay từ đầu địch đã vi phạm lệnh ngừng bắn, ra sức giành giật quyết liệt với ta ở từng địa bàn xã ấp và trên các trục lộ giao thông. Chúng sử dụng nhiều lực lượng bộ binh cơ giới, pháo binh, không quân phản kích điên cuồng hòng giành lại các mục tiêu mà ta đã “Chồm lên” đánh chiếm trước giờ ngừng bắn. Chúng còn dùng phi pháo tăng cường đánh phá một số vùng giáp ranh để ngăn chặn ta và giải tỏa thế vây ép xung quanh các thị xã, thị trấn.

Bên trong địch ráo riết thực hiện kế hoạch bình định lấn chiếm mới, ngoài các hoạt động như hành quân cảnh sát bắt bớ, truy phá cơ sở, ngăn chặn không cho quần chúng bung ra làm ăn, chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, bưng bít, xuyên tạc Hiệp định, xuyên tạc thắng lợi của ta, gây phân vân hoài nghi trong dân chúng và bỉ ổi hơn là vu cáo ta vi phạm Hiệp định. Đặc biệt chúng tiếp tục đẩy mạnh âm mưu di dãn dân, ủi phá địa hình, từng bước lấn sâu vào vùng ta.

8 giờ sáng ngày 28/1/1973, thời điểm ngừng bắn có hiệu lực. Địch chẳng những không chấp hành mà còn xua quân lấn chiếm, có cả xe tăng, pháo binh và máy bay đánh phá liên tục suốt ngày 28/1 và những ngày tiếp theo. Lấn chiếm đến đâu chúng gỡ cờ ta, treo cờ chúng lên để ủy ban giám sát ngừng bắn quốc tế công nhận là vùng do chúng kiểm soát. Đoán biết trước âm mưu của địch nên các lực lượng vũ trang ta đã áp sát địch kiên cường chiến đấu đánh trả chúng quyết liệt, giành giật với địch từng tất đất, bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được.

Đại đội 490 Tuy Phong, du kích, đội công tác bám sát ấp Long Phước, Long Điền, Tuy Tịnh, Phước Thể, Long Hương, Long Hải; Đại đội 440 Hòa Đa, du kích, đội công tác áp sát Lâm Lộc, Long Lễ; Đại đội 470 Phan Lý, du kích và đội công tác bám sát ấp Châu Hanh, Xuân Quang; Tiểu đoàn 482 và du kích xã Hồng Thái bám ấp Hiệp Hòa, Hiệp Thành, Hiệp An, Cầu Quẹo.

Với thế bố trí mới, các lực lượng vũ trang đã chặn đánh địch bung ra càn quét diệt một số tên. Ở Hồng Thái, bọn lính ở Hòa Đa càn lên ấp Hiệp Hòa, bị Tiểu đoàn 482 và du kích chặn đánh buộc chúng phải rút. Sáng 29/1, lính từ quận Phan Lý Chàm phối hợp với lính quận Hòa Đa có xe tăng yểm trợ tổ chức nhiều cánh đánh vào ấp Hiệp Thành, Hiệp Hòa. Các lực lượng ta đánh trả quyết liệt, diệt nhiều địch. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 29/1, chúng điều thêm lực lượng tổ chức đánh vòng từ phía sau định bao vây tiêu diệt lực lượng ta. Nhưng các chiến sỹ ta kiên cường bám trụ đánh trả quyết liệt, diệt rất nhiều địch, nhưng ta thương vong khá lớn, 19 cán bộ chiến sỹ hy sinh và bị thương, ta phải tạm lui ra.

Đại đội 440 phân tán lực lượng cùng dân quân du kích ở Chợ Lầu, Liêm Bình đánh bọn bảo an nống ra khu vực ta nhổ cờ, lấn đất. Với thế trận đã bố trí sẵn có chông mìn hỗ trợ, các lực lượng ta đã đánh trả quyết liệt buộc chúng phải tháo lui vướng phải mìn làm chết, bị thương nhiều tên. Ở Lâm Lộc, Long Lễ, một bộ phận của Đại đội 440 cùng dân quân du kích vào ấp vũ trang tuyên truyền, cắm cờ mặt trận giải phóng rồi rút ra phục kích ở rìa động. Sáng 28/1 địch duỗi ra bìa rừng, ta cử đồng chí Nguyễn Thị Lừa-Ủy viên Ban cán sự Hòa Đa giải thích những nội dung chủ yếu của Hiệp định, kêu gọi anh em binh lính nên nghiêm chỉnh chấp hành lệnh ngừng bắn, không được đi càn vào vùng do cách mạng kiểm soát. Nhưng bọn địch bất chấp nổ súng buộc ta phải đánh trả quyết liệt đẩy lui quân địch vào lại ấp, ta vẫn bám giữ địa bàn.

Ở Lương Sơn một bộ phận của Đại đội 440 cùng du kích vào ấp ban đêm vũ trang tuyên truyền, giải thích chính sách của Mặt trận và một số điểm trong nội dung Hiệp định, kêu gọi anh em binh lính chấp hành lệnh ngừng bắn, bỏ súng quay về sum họp với gia đình, không đi càn quét bắn phá để bà con làm ăn.

Các xã Trinh Hòa, Gia Hòa, Phú Nhiêu (Sông Mao) là vùng địch kiểm soát chặt chẽ, chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định, gieo rắc tư tưởng hoài nghi thắng lợi của cách mạng, thắng lợi của Hiệp định. Nhưng nay được tiếp xúc với cán bộ chiến sỹ ta, những nội dung cơ bản của Hiệp định được cán bộ chiến sỹ ta giải thích cụ thể rõ ràng, họ đã hiểu và tin tưởng cách mạng nhất định thắng lợi. Ngay sau đó ở Trinh Hòa (Sông Mao) đã có hơn 20 binh sỹ bỏ súng trở về với nhân dân hoặc mang súng ra vùng ta giao nộp cho cách mạng. Cũng trong thời gian này trên địa bàn Hòa Đa đã có hàng trăm lính bỏ ngũ về với gia đình. Hàng ngũ địch bị phân hóa, nhiều binh sỹ không đồng tình với hoạt động phá hoại Hiệp định của cấp trên. Nhiều binh sỹ lơ là trong việc kiểm soát dân đi lại làm ăn.

Mặc dù vậy nhưng địch vẫn cố gắng tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 của kế hoạch bình định “Cộng đồng tái thiết, cộng đồng phát triển địa phương 1972 - 1975”, với 3 mục tiêu cơ bản: Bảo vệ an ninh lãnh

Page 47: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

47thổ và an ninh dân chúng; củng cố bộ máy thôn, ấp, xã; ổn định đời sống dân chúng. Chúng hô hào phát triển kinh tế xã hội để tiến tới một nền kinh tế “tự lực, tự cường” theo kế hoạch kinh tế hậu chiến. Mặc khác chúng tăng cường đôn quân bắt lính, đóng thêm đồn bót, tích cực ủi phá địa hình, thực hiện di dãn dân.

Lợi dụng việc bà con bung ra làm ăn ngày càng nhiều, chúng đưa bọn chỉ điểm trà trộn để nắm tình hình phục vụ cho âm mưu lấn chiếm mới và ám sát cán bộ, đội công tác. Trên địa bàn Hòa Đa, Phan Lý, chúng phục kích bắn chết đồng chí Đinh Thị Cúc, Huyện ủy viên Phan Lý, Đội trưởng Đội công tác Hải Ninh (Sông Mao).

Ở Chợ Lầu, có tên Nguyễn Duy Bạn (Sáu Bạn) là cảnh sát quận Hòa Đa, hoạt động tích cực được bọn địch tin dùng. Tội ác tên này không chỉ ở Chợ Lầu mà còn gây nợ máu nhiều nơi. Đến nơi nào, tên Sáu Bạn đều nhúng tay vào máu, nhân dân đều oán thù căm ghét. Chính y đã tra tấn, gây nhiều thương tích cho nhiều cơ sở và cán bộ ta bị bắt. Sau đợt “chồm lên” thứ 3 tháng 1/1973, Huyện ủy Hòa Đa chủ trương đưa phong trào xã Chợ Lầu tiến lên làm chủ một số ấp, trước tiên Đội công tác phải tập trung sức kết hợp với lực lượng bên trong diệt cho được tên Sáu Bạn ác ôn. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy Hòa Đa, chiều ngày 02/3/1973, Đội công tác Chợ Lầu gồm các đồng chí Trần Thị Liên-chỉ huy cùng Nguyễn Kính và Phan Văn Minh bí mật đột ấp cải trang thành lính dân vệ ém lót sẵn trong hầm tại chùa Ông Râu. Đến 17 giờ 30 hôm sau, ngày 03/3/1973, khi trời vừa chạng vạng tối, được tin cơ sở báo rằng tên Sáu Bạn đi hon-đa về nhà, thì cả tổ rời hầm vận động nhanh, tiếp cận dùng súng diệt tên ác ôn Sáu Bạn và rút lui an toàn. Sau khi tên Sáu Bạn bị ta diệt, nhân dân hả lòng hả dạ còn bọn tề điệp thì hoang mang dao động, nhiều tên bỏ việc. Tình hình phong trào địa phương có nhiều bước phát triển mới.

Cùng thời gian trên, du kích, đội công tác xã Hồng Thái do đồng chí Nguyễn Ngọc Minh chỉ huy phục kích diệt và bắt nhiều tên ác ôn, phối hợp với trung đội 3 Đại đội 440 chặn đánh đại đội bảo an 118 địch tại cầu Ông Soạn diệt nhiều tên trong đó có 1 tên trung đội trưởng.

Để khắc phục những tư tưởng hữu khuynh do dự, chưa mạnh dạn đánh trả địch vi phạm Hiệp định, Tỉnh ủy Bình Thuận dưới sự chủ trì của đồng chí Bí thư đã mở Hội nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm và hạ quyết tâm thực hiện bằng được nhiệm vụ của Khu ủy đề ra: “…tiếp tục trụ, bám, tấn và xây, chuyển mạnh phương thức, ra sức giữ vững và mở rộng vùng tranh chấp, xóa đại bộ phận ấp trắng, tích cực mở vào vùng sâu, vùng yếu kết hợp chặt với phá kèm, giành dân, giành quyền làm chủ…xây cả lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài…” (30).

Thực hiện chủ trương trên, ta điều chỉnh thế đứng bám trụ của một số đơn vị. Quân khu rút Tiểu đoàn 840 về phía sau củng cố, tăng cường Tiểu đoàn 15 cho Bình Thuận đứng chân tại chiến trường Tam giác. Rút gọn Tiểu đoàn 482 tổ chức thành 1 đại đội với quân số gồm 70 chiến sĩ, gọi là Đại đội 70 do đồng chí Ngô Hồng Hải làm Đại đội trưởng, Hồ Thành Lập-Đại đội phó, Trần Minh Hùng-Chính trị viên, Phạm Ngọc Sanh-Chính trị viên phó, bố trí đứng chân ở mảng nam Hòa Đa. Sau đó Tỉnh điều đồng chí Ngô Hồng Hải về Trường Huấn luyện, đưa đồng chí Nguyễn Văn Mạnh thay làm Đại đội trưởng.

Đại đội 440 cũng có sự điều chỉnh, sau khi đồng chí Ngô Hồng Hải về làm Đại đội trưởng Đại đội 70 (482 rút gọn), đồng chí Nguyễn Tấn Kiệt thay làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Mạnh làm Chính trị viên, đồng chí Trần Hòa làm Đại đội phó, các trung đội trưởng không có gì thay đổi. Đơn vị lúc này phân tán lực lượng một nửa ở mảng Nam, một nửa ở mảng Bắc Hòa Đa để bám địa bàn hoạt động, hỗ trợ cho đội mũi công tác và du kích địa phương tiếp tục bám ấp đánh bọn địch bung xỉa và phát động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng.

Lợi dụng việc ra vùng giải phóng làm ăn, tên Hốt, một tên gián điệp đã chỉ điểm cho địch dùng xe tăng chạy theo dấu vạt cây, cò cây đánh vào nơi ở của đội công tác Hồng Thái. Nhờ có tuyến bố phòng chông, mìn khá tốt và có phương án chiến đấu tại chỗ, các đơn vị Đại đội 70, Đại đội 440 và du kích phối hợp chặn đánh địch, bắn hỏng 1 xe tăng, diệt một số tên địch buộc chúng phải rút lui. Sau đó an ninh xã Hồng Thái bắt tên Hốt, đưa ra trước nhân dân xét xử công khai và tuyên bố tử hình, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.

Đại đội 440, du kích và đội công tác xã Chí Công tổ chức tập kích vào trụ sở xã diệt một số tên địch trong đó có tên ác ôn Hoàng Văn L.

30(?) Trích Nghị quyết tháng 5 năm 1973 của Khu ủy Khu 6.

Page 48: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

48Trên cánh đồng sông Khiêng, Đại đội 470-Phan Lý phối hợp với Đại đội 70 (482 rút gọn) đã chặn

đánh thiệt hại đại đội bảo an nống ra càn quét phá hoại mùa màng, bảo vệ được đồng bào và thu mua lương thực đạt kết quả.

Thực hiện âm mưu lấn chiếm mới trong chương trình bình định cấp tốc, địch đưa 300 hộ gia đình từ Bình Định vào phía bắc đập Đồng Mới lập ấp Lương Nhơn thuộc xã Lương Sơn, sau đó tiếp tục đưa thêm một số đồng bào ở Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Sông Lũy lập xã Nghĩa Thuận, tổ chức san ủi lấn chiếm để mở rộng vùng kiểm soát.

Được sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy, Huyện ủy Hòa Đa thành lập Ban chỉ đạo chống lấn chiếm do đồng chí Bùi Quốc Thắng làm Trưởng ban, đồng thời thành lập Ban cán sự Hải Ninh do đồng chí Nguyễn Xuân Trà làm Bí thư, đồng chí Liên phụ trách quân sự.

Lực lượng vũ trang, du kích, đội công tác lập thế bám địch, tổ chức tập kích địch đóng dã ngoại, phá phương tiện (máy ủi, ủi phá địa hình). Cán bộ tìm cách tiếp cận đồng bào tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận, vạch rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù là đưa bà con đến đây để làm lá chắn, bảo vệ bọn đầu sỏ ở Phan Thiết và thực hiện âm mưu lấn chiếm ra vùng giải phóng.

Năm 1973 là năm địch đẩy mạnh bình định và phá hoại Hiệp định Paris một cách quyết liệt nhất. Nguyễn Văn Thiệu quyết tập trung lực lượng quân sự, chính trị, kinh tế xã hội với nhiều thủ đoạn xảo quyệt để tiến hành lấn chiếm, ủi phá địa hình di dãn dân lập những khu tập trung mới, cắm thêm đồn bót với mục đích bao trùm là mở rộng vùng kiểm soát của chúng, thu hẹp vùng ta, xóa dần hình thái “da beo” tạo ra hai vùng rõ rệt giữa ta và địch. Mặc dù vậy, nhưng các lực lượng vũ trang trên toàn tỉnh cũng như trên địa bàn Hòa Đa đã phối hợp chặt chẽ với du kích, đội mũi công tác ngày đêm bám ấp, bám dân, bám địa bàn, tổ chức nhiều trận đánh tập kích, phục kích diệt nhiều địch, ngăn chặn được âm mưu phá hoại của chúng.

Quần chúng càng tin tưởng, phấn khởi trước thắng lợi của phong trào cách mạng ở địa phương, hăng hái đấu tranh bằng pháp lý của Hiệp định Paris. Các lực lượng vũ trang, dân quân du kích càng thể hiện ý chí kiên cường, quyết tâm đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn lấn chiếm mới của địch, thực hiện thắng lợi Nghị quyết 21 của Trung ương: “…Dù phát triển theo hướng nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực, bất kể trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên…” và phương châm đấu tranh quân sự: “Kiên quyết phản công và tiến công, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định các vùng giáp ranh” (31).

Cuối năm 1973, đồng chí Nguyễn Tấn Kiệt-Đại đội trưởng hy sinh (ngày 09/11/1973), Huyện đưa đồng chí Lê Văn Ênh lên làm Đại đội trưởng Đại đội 440, Trần Hữu Định (Lâm Nguyên)-Chính trị viên, Trần Hòa-Đại đội phó. Đại đội 440 Hòa Đa mặc dù quân số giảm lại phân tán làm hai nơi để hoạt động, nhưng đã ra sức giúp đỡ dân quân du kích, đội công tác bám dân, bám địa bàn đánh địch, xây dựng thực lực chính trị ở địa phương. Tuy trong thời gian này chưa có trận đánh lớn xảy ra, nhưng các lực lượng vũ trang đã tạo được thế tấn công mới, vây ép địch sẵn sàng trừng trị khi chúng vi phạm.

II. ĐẠI ĐỘI 440 CÙNG LỰC LƯỢNG CẤP TRÊN, ĐẨY MẠNH TẤN CÔNG ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG

Đầu năm 1974, địch tiếp tục đẩy mạnh việc ủi phá địa hình, di dân lấn chiếm một số vùng ta. Tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét ra bên ngoài để hỗ trợ cho bọn phản động bên trong tuyên truyền xuyên tạc nói xấu cách mạng, đồng thời lợi dụng bọn này để củng cố phe cánh, tăng áp lực chính trị ở một số địa bàn quan trọng. Tiếp tục đưa bọn sỹ quan quân đội, cảnh sát, cán bộ bình định xuống xã ấp để tăng cường cho bộ máy kèm đánh phá, truy tróc cơ sở ta. Song những cố gắng đó cũng không làm thay đổi được cục diện chiến trường ngày càng bất lợi cho chúng.

Thế và lực của ta ngày một phát triển, các lực lượng vũ trang ta được tăng cường quân số và bổ sung trang bị khá đầy đủ (quân số, vũ khí được tăng cường từ miền Bắc vào) để bước vào nhiệm vụ mới, nhiệm vụ tiêu diệt bọn tay sai phản động, giải phóng quê hương, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận xác định nhiệm vụ trong năm 1974 là động viên mọi lực lượng chính trị, quân sự cả bên trong và bên ngoài, cả phía trước và phía sau ra sức đánh bại kế hoạch bình định

31(?) Những sự kiện Lịch sử Đảng - Tập 3 - NXB Thông tin lý luận - Trang 689 - 690.

Page 49: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

49của địch, phát huy sức mạnh và thế tiến công mới, đảm bảo giữ vững và cải thiện thế chiến trường của ta, tạo thế vây ép địch, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.

Trong nửa đầu tháng 3/1974, các lực lượng vũ trang ta liên tiếp trừng trị bọn lấn chiếm, diệt và bắn bị thương 110 tên địch, phá hủy 5 xe bọc thép, bắn rơi 3 máy bay, đẩy lùi 5 tiểu đoàn địch càn quét đánh phá vào vùng ta.

Để phù hợp với tình hình đánh địch chống lấn chiếm phía trước, xây dựng và bảo vệ vùng căn cứ phía sau, ngày 25 tháng 3 năm 1974, Thường vụ Tỉnh ủy quyết định lập lại Huyện căn cứ Lê Hồng Phong gồm 6 xã, trong đó có 3 xã căn cứ của Hòa Đa và 3 xã căn cứ của Thuận Phong, do đồng chí Nguyễn Đức Lương (Sáu Thiết) làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Khiêm làm Trưởng ban quân sự Huyện. Huyện căn cứ không tổ chức bộ đội địa phương mà tập trung xây dựng lực lượng dân quân du kích mạnh. Toàn Huyện có 58 du kích tập trung vừa tích cực tăng gia sản xuất sẵn sàng chống địch càn quét bảo vệ căn cứ và khi cần có thể phối hợp với lực lượng trên đánh địch ở phía trước.

Huyện căn cứ có khoảng 205 hộ với 714 khẩu, về tổ chức Đảng có 8 chi bộ với 130 Đảng viên, 61 Đoàn viên. Sau khi ổn định về tổ chức, huyện tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, tích cực sản xuất làm ra nhiều lương thực, thực phẩm nhằm bảo đảm cung cấp tại chỗ, vừa tạo nguồn dự trữ theo yêu cầu của cách mạng trong thời gian tới.

Việc thành lập lại Huyện căn cứ Lê Hồng Phong nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển phong trào du kích chiến tranh, bảo đảm an ninh trật tự, xây dựng văn hóa xã hội, xây dựng nếp sống mới để hình thành dần một bước chế độ dân chủ nhân dân thật sự, làm ngọn cờ hiệu triệu đối với đồng bào vùng địch kiểm soát.

Để động viên và nâng cao trình độ tác chiến tập trung, phát huy quả đấm chủ lực nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, trên cơ sở các tiểu đoàn hiện có, ngày 19/5/1974, đồng chí Lê Văn Hiền thay mặt Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 6 công bố quyết định của Bộ Tư lệnh Miền thành lập Trung đoàn 812 gồm các tiểu đoàn 840, tiểu đoàn 186, tiểu đoàn 15 và một số đơn vị trực thuộc như thông tin, trinh sát, công binh

Cùng với việc thành lập Trung đoàn 812, Quân khu cũng đã bổ sung quân số cho Bình Thuận, chỉ đạo tổ chức lại Tiểu đoàn 482, củng cố bộ đội huyện và dân quân du kích xã.

Quân khu triệu tập cán bộ chủ trì của tỉnh, huyện và chỉ huy các đơn vị đi dự các lớp tập huấn về kinh nghiệm đánh phá bình định và chống lấn chiếm của địch và hội nghị du kích chiến tranh, học tập các Chỉ thị 04 về công tác phát động quần chúng, Chỉ thị 05 về việc tăng cường giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức tác phong của cán bộ chiến sỹ, chống và ngăn ngừa mọi biểu hiện tiêu cực của Trung ương cục do Quân khu ủy tổ chức. Từ tháng 5/1974 trở đi, các huyện trong tỉnh tổ chức học tập các nội dung trên cho tất cả cán bộ, chiến sỹ từ tỉnh đến huyện, xã. Qua học tập, tư tưởng và quyết tâm của cán bộ chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang cũng như cán bộ, nhân viên cơ quan các ngành, các giới từ tỉnh đến cơ sở đều được nâng lên và nhận thức sâu sắc rằng: Địch không thi hành Hiệp định, tiếp tục chiến tranh thì không có con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng tiêu diệt chúng giải phóng quê hương, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Được củng cố về mặt tổ chức, sắp xếp lại lực lượng, tư tưởng quyết tâm được xác định, trình độ chiến kỹ thuật được nâng lên, các lực lượng vũ trang đã tích cực tấn công địch.

Phối hợp với lực lượng Quân khu, Đại đội 440 Hòa Đa, du kích và đội công tác các xã liên tục đột ấp diệt ác, đánh sập cầu Xóm Lụa cắt đứt giao thông trên quốc lộ 1, chặn đánh bọn ủi phá địa hình ở nam Lương Sơn. Đại đội 5-đặc công tỉnh và du kích Hồng Thái tập kích đồn Tịnh Mỹ. Du kích mật diệt tên Thành ác ôn ở Hiệp Thành. Cơ sở bên trong ấp Hiệp Hòa tổ chức tuyên truyền, vận động một số anh em binh lính địch bỏ súng về với gia đình.

Được cơ sở nội tuyến trong lực lượng phòng vệ dân sự phục vụ, đại đội 440 và du kích Hồng Thái tổ chức đánh giải trang toàn bộ trung đội phòng vệ dân sự ấp Hiệp An, thu 21 súng các loại, 1 máy phát điện. Số phòng vệ dân sự này được tổ chức học tập tình hình cách mạng trong giai đoạn hiện nay, hiểu được xu thế phát triển của cách mạng địa phương cũng như trên cả nước, một số người xin được ở lại vùng giải phóng Thái An, có người xin được tham gia bộ đội chiến đấu.

Tên Lê Văn Ân ở ấp Cầu Quẹo (nay là thôn Thái Thuận xã Hồng Thái), một tên phản bội đầu hàng làm tay sai cho địch, trực tiếp giết hại cán bộ, đồng bào ta ở vùng căn cứ, nhiều lần dẫn đường, chỉ điểm cho địch đánh phá đội công tác xã Hồng Thái. Phải tiêu diệt tên ác ôn này là một yêu cầu cấp bách để ổn định

Page 50: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

50tình hình địa phương, Ban Thường vụ Huyện ủy quyết định giao cho đồng chí Nguyễn Thanh Lực, Thường vụ Huyện ủy, Chính trị viên Huyện đội Hòa Đa tổ chức lực lượng du kích thực hiện và trực tiếp chỉ huy trận đánh. Bằng phương pháp cải trang, đi vào ấp ban đêm ém sẵn trong dân (nhà bà Xá, gần nhà tên Ân), hiệp đồng chặt chẽ, bất ngờ xuất kích để tiêu diệt. Sáng 11/10/1974, khi tên Ân về nhà, tổ diệt ác xuất kích diệt tên ác ôn Lê Văn Ân tại nhà của y đúng như kế hoạch, được quần chúng đồng tình ủng hộ, bọn tề ấp thì hoang mang dao động có đứa bỏ việc, phong trào cách mạng xã Hồng Thái có điều kiện phát triển mạnh mẽ, cơ sở nhà bà Xá vẫn an toàn.

Các hoạt động quân sự ngày càng dồn dập, quyết liệt, phong trào đấu tranh chính trị, binh vận phát triển mạnh ở khắp các xã trong huyện, đặc biệt là phong trào đấu tranh chống bắt lính, dồn quân, chống tăng thuế, đòi tự do đi lại làm ăn của đồng bào Hồng Thái, Chợ Lầu, Lương Sơn được đông đảo nhân dân tham gia và lôi kéo cả tề vệ, binh lính hưởng ứng, làm cho bọn địch ở địa phương càng thêm lúng túng.

Tình hình cách mạng Miền Nam có những bước phát triển hết sức thuận lợi và trước thái độ hiếu chiến của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, ngày 8 tháng 10 năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã tuyên bố không thương thuyết với chính quyền Sài Gòn. Tiếp đó Bộ Tư lệnh Miền phát lệnh cho toàn thể các lực lượng Quân giải phóng Miền nam Việt Nam tiến lên. “Kiên quyết trừng trị bọn Mỹ - Thiệu ngoan cố, hiếu chiến, kiên quyết đập tan hệ thống đồn bót của địch, mở rộng vùng giải phóng, giành quyền làm chủ về tay nhân dân”. Đồng thời phát động toàn quân, toàn dân: “Hãy vượt mọi gian khổ khó khăn, đạp lên đầu thù xốc tới giành thắng lợi. Hãy đánh mạnh, đánh liên tục, đánh tiêu diệt gọn quân địch. Giương cao cờ quyết chiến quyết thắng Tấn công như năm 1972, Nổi dậy như Đồng Khởi, diệt gọn nhiều đơn vị, đồn bót địch, giải phóng nhân dân…Toàn thể các đồng chí hãy anh dũng tiến lên !...”.

Với tinh thần trách nhiệm cao trong giai đoạn cách mạng mới, nhân dân Hòa Đa nhất là đồng bào dân tộc ở các xã miền núi, nhiều thanh niên hăng hái tham gia đi dân công tiếp lương, tải đạn phục vụ chiến trường. Đồng bào trong các vùng căn cứ giải phóng ra sức thi đua phát triển sản xuất, ổn định đời sống và sẵn sàng tham gia phục vụ phía trước. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và du kích thay phiên nhau vào ấp vũ trang tuyên truyền, diệt ác phá kèm, làm hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh chính trị - binh vận. Lực lượng vũ trang, du kích, đội công tác bám đánh địch giữ vững địa bàn, bảo vệ nhân dân thu hoạch lúa Đông Xuân thắng lợi.

Trên cánh đồng Hồng Thái, Đại đội 440, đội công tác và du kích tổ chức giáo dục nhân dân không chở lúa về vùng địch kiểm soát, để cho kinh tài huyện thu mua đưa về căn cứ phục vụ cách mạng. Nhựng trước sự kèm kẹp của địch, tình hình lương thực cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bộ đội thiếu đói phải ăn đậu, sắn thay cơm. Anh em Đại đội 440 cùng nhân dân căn cứ ban đêm dùng liềm ra cắt lúa của một số gia đình cơ sở trên cánh đồng xã Hồng Thái mang về căn cứ sử dụng. Đội công tác Hồng Thái và cán bộ binh vận huyện tổ chức viết thư mời các gia đình có con em đi lính địch ra học tập để họ kêu gọi con em bỏ súng trở về với cách mạng, với nhân dân.

Các xã trong huyện từ Lương Sơn ra đến Chợ Lầu, Hồng Thái, cán bộ lực lượng vũ trang, đội mũi công tác đã lãnh đạo, tổ chức cho nhân dân đấu tranh với địch không được bắn pháo vào xóm làng, ruộng rẫy, để nhân dân đi lại làm ăn, tuyên truyền và kêu gọi binh lính bỏ ngũ về với gia đình. Đã có trên 300 cuộc vận động với hơn 4.000 lượt người tham gia, làm cho bọn địch ở địa phương hết sức hoang mang dao động, bọn tề ấp lo sợ không dám hoạt động.

Ngày 27 tháng 11 năm 1974, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hòa Đa lần thứ III được tổ chức có 42 đại biểu chính thức. Đại hội kiểm điểm công tác nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng công tác đến. Bầu Ban chấp hành Đảng bộ có 17 đồng chí, đồng chí Đặng Bá Sang được bầu tiếp tục giữ chức Bí thư Huyện ủy.

Đại đội 440 tiếp tục hoạt động, phối hợp du kích, đội công tác tấn công địch trong một số ấp trên địa bàn huyện, hỗ trợ cho cán bộ chính trị đi sâu công tác tuyên truyền, vận động quần chúng dùng pháp lý của Hiệp định đấu tranh buộc địch thi hành lệnh ngừng bắn. Vận động các gia đình binh lính ngụy có người chết trận phản đối bọn cầm đầu ở địa phương, nguyền rủa Nguyễn Văn Thiệu tên tổng thống bù nhìn ngoan cố hiếu chiến không chịu chấm dứt chiến tranh để gia đình họ phải chịu đau thương tang tóc.

Những tháng cuối năm 1974, tình hình địa phương phát triển nhanh chóng. Trước yêu cầu mới, để các huyện Hòa Đa, Thuận Phong có căn cứ làm bàn đạp tấn công địch phía trước, tháng 12/1974, Tỉnh ủy Bình Thuận quyết định giải thể huyện Lê Hồng Phong, giao các xã căn cứ Hồng Thịnh, Hồng Trung, Hồng

Page 51: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

51Thanh cho huyện Thuận Phong và lập Ban cán sự căn cứ do đồng chí Trần Văn Năm-Huyện ủy viên làm Bí thư. Các xã Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng giao cho huyện Hòa Đa và lập Ban cán sự căn cứ gồm các đồng chí Bùi Tiến Công, Nguyễn Khiêm, Nguyễn Văn Thoan do Huyện ủy Hòa Đa lãnh đạo.

Trên địa bàn Hòa Đa, Đại đội 440, du kích, đội công tác liên tục tấn công vào các trung đội phòng vệ dân sự ở hầu hết các ấp trên trục đường 1 (20/24 ấp) có trận diệt và bắt toàn bộ trung đội địch, thu 21 súng các loại.Trước tình hình phát triển thuận lợi, công tác binh địch vận được đẩy mạnh ở hầu hết các ấp, làm cho tinh thần binh lính, bọn tề điệp ác ôn hoang mang rệu rã. Các xã, ấp đều thành lập Ban khởi nghĩa và phân công cụ thể từng đoàn thể, từng bộ phận khi có thời cơ đến thì nhanh chóng vận động nhân dân đứng lên giành chính quyền.

Những ngày tháng 3/1975 sôi động, cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực của Bộ với thế trận thần tốc, táo bạo đã lập được nhiều chiến công vang dội, giải phóng hoàn toàn khu vực bắc Tây Nguyên và các tỉnh ven biển miền Trung từ Trị Thiên - Đà Nẵng đến Khánh Hòa. Quân đoàn 1, quân đoàn 2 của ngụy bị tiêu diệt và tan rã, bọn còn lại tinh thần rệu rã, xô đạp lẫn nhau tháo chạy theo đường 1, đường biển vào phía Nam.

Bộ đội địa phương các huyện Tuy Phong (đại đội 490), Hòa Đa (đại đội 440), Phan Lý (đại đội 470), dân quân du kích, đội công tác chặn đánh địch rút chạy theo đường 1 và bao vây tấn công các đồn bót lẽ. Các ấp Lâm Lộc, Liêm Bình, Hiệp Hòa, Hiệp Bình, Hiệp Thành, Hiệp An, Cầu Quẹo, Xóm Ruộng ven đường 1 và các ấp Long Phước, Long Lễ, Bình Thạnh, Duồng, Phan Rí Cửa cơ sở đã nắm được một số phòng vệ dân sự, xây dựng thành lực lượng ta, chờ thời cơ giải phóng xã ấp.

Ở xã Hồng Thái du kích mật diệt tên Anh ác ôn, ở Hiệp Thành cơ sở bên trong viết thư kêu gọi bọn chỉ huy cầu Xóm Lụa không được có hành động chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, động viên anh em bỏ súng về với gia đình.

Ở Chợ Lầu, Lương Sơn cán bộ binh vận công khai tuyên truyền tin chiến thắng của ta và kêu gọi anh em binh lính, phòng vệ dân sự không đi canh gác và hãy tham gia công việc cách mạng để lấy công chuộc tội. Không khí chuẩn bị giải phóng quê hương được mọi người khẩn trương chuẩn bị, các tổ chức, đoàn thể đã sẵn sàng lực lượng để tiếp quản địa phương.

Sau khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Ninh Thuận, trên đường tiến quân vào Phan Thiết, cánh quân Duyên Hải nhiều lần bị máy bay, pháo biển bắn ngăn chặn, các chiến sỹ ta đánh trả quyết liệt, bắn bị thương một số máy bay, bắn cháy một số tàu chiến của địch trên vùng biển Cà Ná - Vĩnh Hảo.

Trước sức tiến quân thần tốc của ta, bọn địch ở quận Hòa Đa, Phan Lý Chàm và căn cứ Sông Mao, đồn Lương Sơn đã rệu rã, bọn chỉ huy ra lệnh đốt hồ sơ giấy tờ và tìm đường tháo chạy. Chúng dùng một chiếc xe hỏng làm chướng ngại và gài mìn chống tăng trên quốc lộ 1, đoạn dốc lỡ Lương Sơn. Khi đoàn xe bộ đội ta đang hành tiến thì vướng mìn gây hỏng 1 xe, hy sinh 2, bị thương 3 đồng chí. Ta nhanh chóng khắc phục và tiến quân theo kế hoạch. Bọn bảo an còn dùng mìn đánh sập cầu Nam (cầu Bà Bốn), cầu Sông Cạn, cầu Xóm Lụa hòng ngăn chặn đường tiến quân của ta, nhưng nhờ được nhân dân giúp đỡ chỉ đường, đoàn quân ta vẫn tiếp tục tiến vào Phan Thiết. Quân chủ lực tiến đến đâu, quần chúng các địa phương ven quốc lộ 1 lập tức nổi dậy phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích truy bắt tề điệp, ác ôn giải phóng xã, ấp mình. Ngay chiều 17/4/1975, đại đội 440 chia thành nhiều bộ phận. Một bộ phận do đồng chí Bùi Khánh chỉ huy bắt liên lạc với đại quân từ Phan Rang vào. Các bộ phận còn lại rãi đều ở Lâm Lộc, Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành, Chợ Lầu, Hồng Thái, Lương Sơn do đồng chí Nguyễn Thanh Lực-Chính trị viên Huyện đội chỉ đạo sẵn sàng đánh địch hổ trợ cho các đoàn thể quần chúng vùng lên giành chính quyền và thiết lập lại trật tự trị an ngay trong đêm 17/4/1975.

Sáng ngày 18/4/1975, trên quê hương Hòa Đa, Phan Lý, cờ mặt trận tung bay trước trụ sở làm việc, nhà dân ven quốc lộ. Ban khởi nghĩa và các tổ chức đoàn thể tiếp quản ở các xã, thôn triển khai công việc, tổ chức thu vũ khí, kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện và vận động nhân dân huy động một số phương tiện xe ô tô tải, xe chở khách cùng với các xe chiến lợi phẩm để vận chuyển xăng dầu, lương thực thực phẩm phục vụ cho bộ đội tiến vào giải phóng Phan Thiết.

Công tác bảo vệ chính quyền mới, bảo vệ trật tự trị an ở xã, ấp do đại đội 440 làm nòng cốt được tổ chức chặt chẽ, bảo đảm các sinh hoạt bình thường như chợ búa, trường học, bệnh viện, bệnh xá nhanh chóng ổn định và đi vào hoạt động.

Page 52: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

52Biết được tình hình địch ở Phan Thiết đang hoang mang dao động, cầu Phú Long cửa ngỏ vào Phan

Thiết được giữ vững, Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên Hải quyết định sử dụng lữ đoàn xe tăng và trung đoàn bộ binh 18 cùng trung đoàn 812 Quân khu 6 và lực lượng địa phương Bình Thuận tiến công Phan Thiết theo quốc lộ 1 ngay trong đêm 18/4. Sau 2 giờ chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ thị xã, chiếm lĩnh sở chỉ huy tiểu khu, tòa hành chính, Camp Ésépic, Lầu Ông Hoàng, đồn Trinh Tường và các mục tiêu quan trọng khác, phá nhà lao giải thoát cho gần 1.000 người bị địch bắt giam giữ.

Đến 13 giờ ngày 19 tháng 4 năm 1975, Tỉnh Bình Thuận đã hoàn toàn giải phóng, Ủy ban quân quản vào tiếp quản thị xã và bắt đầu thực hiện quyền lực của chính quyền cách mạng, chính quyền dân chủ nhân dân.

Đêm 26 tháng 4 năm 1975, được sự chi viện của đoàn 385 Hải quân, một bộ phận lực lượng đặc công Hải quân và một bộ phận của đại đội 490 Tuy Phong cùng một số cán bộ chính trị của tỉnh, huyện dùng 5 thuyền máy vượt biển tiến ra giải phóng đảo Cù Lao Thu. Hơn 1 giờ chiến đấu, toàn bộ quân địch trên đảo đã hạ vũ khí đầu hàng, ta thu 1890 súng các loại. Đảo Cù Lao Thu phần đất cuối cùng của Tỉnh Bình Thuận đã hoàn toàn giải phóng.

Hơn 50 ngày đêm liên tục tiến công và nổi dậy, quân và dân Bình Thuận đã nổ lực vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần cùng quân dân cả nước làm nên chiến thắng vĩ đại Mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.

Thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trước hết là thành quả chung của cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ trong đó có sự đóng góp của từng Đảng bộ địa phương. Lực lượng vũ trang nhân dân cả nước cũng như lực lượng vũ trang huyện Hòa Đa, Đại đội 440 rất đổi tự hào về chiến công này.

Trong không khí khẩn trương, hào hùng của những ngày mới giải phóng, đơn vị 440 ra sức học tập chính trị, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật quân sự để sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Với truyền thống tốt đẹp và bản lĩnh chiến đấu kiên cường, Đại đội 440 Hòa Đa chắc chắn sẽ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời gian tới, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng bộ và nhân dân địa phương.

CHƯƠNG NĂMĐẠI ĐỘI 440 - BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG BẮC BÌNH

TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

I. ĐẠI ĐỘI 440 CHIẾN ĐẤU TRUY QUÉT TÀN QUÂN, FULRO GIỮ GÌN AN NINH CHÍNH TRỊ Ở ĐỊA PHƯƠNG

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tỉnh Bình Thuận có các huyện Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý, Thuận Phong, Hàm Thuận, thị xã Phan Thiết và đảo Phú Quý. Ủy ban Quân quản huyện, xã được tổ chức, phần lớn là cán bộ quân sự đứng đầu. Ở Huyện Hòa Đa, đồng chí Đặng Bá Sang, Bí thư Huyện ủy làm Chủ tịch Ủy ban quân quản, đồng chí Nguyễn Thanh Lực làm Chính trị viên Huyện đội, đồng chí Trương Minh Biên-Huyện đội trưởng, đồng chí Trần Hồng Trinh làm ủy viên. Ngoài ra mỗi tỉnh đều có trại cải tạo để quản lý giáo dục tù hàng binh.

Page 53: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

53Chính quyền cách mạng mới thành lập, các thành viên trong chính quyền đều chưa có kinh nghiệm

điều hành, quản lý xã hội trong buổi giao thời đầy phức tạp, các thành phần trong xã hội đều có những tâm trạng khác nhau, thái độ chính trị khác nhau nên rất khó quản lý và cũng rất khó lường.

Các lực lượng vũ trang từ đồng chí dân quân du kích ở các xã đến bộ đội địa phương huyện và các đơn vị chủ lực của cấp trên đứng chân trên địa bàn đều rất phấn khởi, tự hào và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân. Đây là chỗ dựa tin cậy, vững chắc nhất của cách mạng.

Khắp thôn, xóm từ miền núi, đồng bằng, ven biển và trong các thị trấn, nhân dân vui mừng phấn khởi, làm cho cuộc sống trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Bên cạnh cuộc sống mới có ý nghĩa tốt đẹp bao nhiêu thì những tệ nạn xã hội của chế độ cũ để lại cũng hết sức phức tạp nhức nhối, đó là nạn thất nghiệp, các băng cướp, nạn cờ bạc, mại dâm, trẻ mồ côi bụi đời,…đã làm cho bức tranh xã hội những ngày đầu càng trở nên hỗn độn.

Tuy số lượng ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện khá đông nhưng với âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ trước khi rút chạy, chúng đã vạch sẵn kế hoạch hậu chiến và cài cắm lại những tên đầu sỏ phản động để móc nối, tổ chức lực lượng phản động chống đối lại chính quyền, phá hoại cuộc sống mới của nhân dân.

Thực tế trên địa bàn huyện, những tên đầu sỏ gian ác không ra trình diện vẫn ngoan cố lẫn trốn trong dân, nơi rừng núi, nhất là vùng đồng bào dân tộc để tiếp tục hoạt động phá hoại. Ở Hòa Đa, Phan Lý nhiều toán tàn quân bắt đầu hoạt động chống phá, đêm đêm lẻn về những địa điểm quy định để nhận sự chỉ đạo của những tên cầm đầu đội lốt, trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau, tiến hành khủng bố, ám sát cán bộ, cướp giật gây hoang mang trong dân chúng.

Ngày 8 tháng 5 năm 1975, Quân ủy Miền chỉ thị cho các lực lượng vũ trang Quân khu và lực lượng vũ trang địa phương huyện, tỉnh tiến hành sắp xếp đầy đủ theo biên chế tổ chức, tăng cường truy quét các lực lượng chống đối đang lẫn trốn, tập trung quản lý giáo dục tù hàng binh trong các trại cải tạo, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu lúc bấy giờ.

Ngày 10 tháng 5 năm 1975, được sự chỉ đạo của Ban chỉ huy Quân sự Tỉnh, Đại đội 440 Hòa Đa có sự sắp xếp mới lại cán bộ chỉ huy: Đồng chí Huỳnh Đông Pha-Đại đội trưởng, các đồng chí Trần Ngọc Sáng và Hà Minh Sông làm Đại đội phó, đồng chí Lê Công Chính-Chính trị viên Đại đội. Đồng chí Tô Thanh Phan-trung đội trưởng trung đội 1, đồng chí Hoàng Cẩn-trung đội trưởng trung đội 2, đồng chí Nguyễn Văn Đủ-trung đội trưởng trung đội 3, đồng chí Mạc Tấn Minh-trung đội trưởng trung đội 4 (hỏa lực)

Địa bàn huyện Hòa Đa, bọn tàn quân lẩn trốn khu vực núi Ga Lăng, đêm đêm lẻn về ấp lấy lương thực và móc nối một số tên phản động trong dân. Được nhân dân báo cáo, Đại đội 440 tổ chức truy quét khu vực trên diệt 2 tên bắn bị thương một số tên và bắt toàn bộ 2 toán tàn quân ở chân núi Ga Lăng. Tiếp sau Đại đội 440 tổ chức phục kích tại khu vực núi Nạng bắt gọn một toán tàn quân do trung úy Minh cầm đầu. Hơn một tuần lễ sau, Đại đội 440 tiếp tục tổ chức truy quét vào khu vực núi Đá Nhà, phía bắc Sông Mao diệt và bắt toàn bộ toán tàn quân ở đây. Sau nhiều đợt truy quét liên tục, bắt và diệt được nhiều toán tàn quân, tình hình hoạt động của chúng bắt đầu lắng xuống và đi vào chiều sâu.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về việc giải thể một số quân khu và tỉnh, thành lập một số tỉnh mới theo yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.

Tháng 2 năm 1976, giải thể Quân khu 6, thành lập Tỉnh Thuận Hải gồm 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy. Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh Thuận Hải dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu 5.

Đi đôi với việc sáp nhập tỉnh, một số huyện cũng được sắp xếp mới. Các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh và Tuy Phong sáp nhập lại thành huyện Bắc Bình. Ban chỉ huy quân sự Huyện do đại úy Vũ Bình Phong làm Huyện đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thanh Lực làm Chính trị viên. Sau đó đồng chí Văn Minh Trường thay đồng chí Phong làm Huyện đội trưởng, đồng chí Hồ Kim Việt thay đồng chí Nguyễn Thanh Lực làm Chính trị viên Huyện Đội.

Lực lượng vũ trang huyện cũng được củng cố, sắp xếp mới. Mỗi huyện chỉ còn lại 1 đại đội bộ binh và cơ quan quân sự huyện. Chỉ riêng huyện Ninh Sơn do đặc điểm địa hình rừng núi rộng vẫn còn giữ 2 đại đội.

Page 54: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

54Từ tháng 2/1976, Đại đội 440 Hòa Đa trở thành Đại đội 440 Bắc Bình và có sự sắp xếp lại cán bộ

chỉ huy: Đồng chí Đặng Huy Hoàng làm Đại đội trưởng, đến tháng 5/1976 đồng chí Lê Văn Ênh làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Chiến làm Chính trị viên. Đại đội có 3 trung đội: Đồng chí Hoàng Cẩn-trung đội trưởng trung đội 1, Đồng chí Trần Văn Giác-trung đội trưởng trung đội 2, Đồng chí Nguyễn Văn Tâm-trung đội trưởng trung đội 3.

Song song với công tác tổ chức biên chế, Đảng ủy Quân sự tỉnh chỉ đạo củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng trong tất cả các đơn vị như: Ban cán sự Đảng quân sự huyện, thị; Đảng ủy các tiểu đoàn và chi bộ ở các đại đội. Tổ chức học tập cho cán bộ, chiến sỹ nội dung chủ yếu là quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, học về bản chất, truyền thống lực lượng vũ trang, truyền thống cách mạng. Đặc biệt trong thời kỳ này là xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bản chất và làm trong sạch nội bộ đơn vị. Đại đội 440 Bắc Bình tổ chức cho đơn vị học tập các nội dung trên với một tinh thần trách nhiệm cao và một thái độ nghiêm túc nên thu được kết quả khá.

Phát huy truyền thống hào hùng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng năm 1975, Đại đội 440 Bắc Bình tiếp tục vẫn là đơn vị chủ công trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ Đảng và là công cụ sắc bén để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đơn vị đã cùng với lực lượng an ninh, dân quân tự vệ liên tục tấn công trấn áp bọn lưu manh côn đồ, bọn phản động trong tôn giáo, trong dân tộc ít người, bọn tàn quân chưa chịu cải tạo lén lút hoạt động phá hoại thành quả cách mạng hoặc âm mưu trốn ra nước ngoài. Đặc biệt là hoạt động của bọn phản động Fulro trong vùng đồng bào dân tộc Chăm và ở miền núi.

Từ năm 1976, nhiều toán Fulro xuất hiện. Toán Fulro hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc Chăm do 2 tên Vạn Thanh Bình và Huỳnh Ngọc Sắng chỉ huy và toán Fulro hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc miền núi do Imagun chỉ huy. Cả hai toán này phối hợp chống phá ta một cách quyết liệt trên các địa bàn thuộc các huyện Ninh Sơn, An Phước, Bắc Bình.

Cuối năm 1976, lực lượng Fulro phát triển khá mạnh, sau một thời gian chúng đã hình thành một số khung từ tiểu đoàn đến trung đoàn, nhằm tạo ra một hệ thống ấp bộ, quận bộ bám chắc trong dân để chống phá ta.

Ngày 21/11/1976, chúng ra mắt cái gọi là “tiểu đoàn Pô Sanư” gồm 2 đại đội, hoạt động tại địa bàn xã Lạc Trị. Ngay sau khi thành lập, tiểu đoàn Pô Sanư hoạt động rất táo bạo, kích động lôi kéo thanh niên ra rừng, phát triển cơ sở ngay trong thị trấn và cơ quan có nhiều người Chăm như nông lâm súc, y tế, giáo dục. Chúng lôi kéo được 35 thanh niên gia nhập Fulro và ngày 18/10/1976 tổ chức tập kích vào Ủy ban nhân dân xã Lạc Trị làm bị thương 3 đồng chí ta. Ngày 26/01/1977, tại khu vực núi Kà-rìn chúng huy động hàng trăm đồng bào Chăm đến dự lễ ra mắt “Mặt trận giải phóng Cham-Pa”.

Ở Phan Điền chúng tổ chức cái gọi là “khung tiểu đoàn Pô Cai Mao” do tên Chế Tôn Dinh làm tiểu đoàn trưởng trang bị 3-4 súng hoạt động ở khu vực Đá Giá, Giếng Chùa. Có lần chúng bắn chết 2 người dân ở Phan Rí Thành đi làm rừng. Tuyến giáp ranh giữa Bắc Bình và Lâm Đồng có đặc khu KaRaVơn do đại úy Ka Đin cầm đầu lấy ngã ba suối Pêlon làm căn cứ (Phan Sơn). Ngoài ra còn có các tổ chức rãi đều trên các vùng có đồng bào dân tộc. Bên trong chúng móc nối cơ sở, gây chia rẽ dân tộc, lén lút chuyền tay tập thơ “Em gái Chàm” rất phản động trong một số phần tử lạc hậu ở Phan Hiệp. Thực tế vấn đề Fulro ở thời kỳ này rất cộm, chúng tăng cường hoạt động luồn lách bám vào trong dân nhất là vùng đồng bào dân tộc Chăm, xây dựng cơ sở chính trị, hậu cần trong nhiều thôn, ấp ở Phan Thanh, Phan Hiệp, Châu Hanh, tiếp tục móc nối với bọn Fulro vùng đồng bào dân tộc miền núi và bọn tàn quân liên tục đánh phá ta gây nhiều tổn thất cho bộ đội và nhân dân.

Trước tình hình trên, về phía Tỉnh, Bộ chỉ huy Quân sự Thuận Hải quyết định đưa Tiểu đoàn 15 phối hợp với lực lượng địa phương tiến hành truy quét bọn Fulro ở khu vực các huyện phía Bắc, điều Tiểu đoàn 482 đang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế ở Đa Kai về phối hợp với Đại đội 440 Bắc Bình truy quét bọn tàn quân và Fulro ở khu vực này. Về phía Huyện, đồng chí Nguyễn Ninh-Bí thư Huyện ủy Bắc Bình đã chỉ đạo Đại đội 440 Bắc Bình phối hợp với Công an Huyện tổ chức tập kết tiêu diệt bọn này. Qua 2 lần phát hiện, ta nổ súng diệt 4 tên, bắn bị thương một số tên khác. Đặc biệt là thu được tài liệu trong đó có quyển sổ nhật ký của tên Bùi Thế Tài, giúp ta nắm thêm được nhiều tình hình về địch.

Page 55: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

55Song song với công tác truy quét Fulro ngoài rừng, Huyện ủy còn chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên

truyền vận động và gọi hàng, đồng thời phát động nhân dân, bộ đội, công an truy bắt những tên đầu sỏ như Huỳnh Ngọc Sắng, Từ Thị Nhung, Hà Giáo, …Từ năm 1976 đến năm 1978, Đại đội 440 đóng quân tại thôn người Chăm xã Phú Lạc. Đơn vị rất coi trọng công tác dân vận, giáo dục cho cán bộ chiến sĩ nhận thức và quán triệt tầm quan trọng của công tác này, nên người dân ở đây rất quí mến bộ đội và không nghe theo lời bọn xấu kích động nữa.

Sau những ngày lễ tết, Tiểu đoàn 482, Đại đội 440 Bắc Bình liên tục mở các đợt truy quét vào Lạc Trị, Tuy Tịnh và đánh vào căn cứ của tiểu đoàn Pôsanư ở đồi Thông. Đại đội 440 dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Đặng Huy Hoàng tổ chức truy quét vào khu vực Bá Ghe, Phan Thanh, Phan Điền, nơi có cơ sở chính trị, hậu cần của bọn Fulro.

Địa bàn huyện Bắc Bình khá dài và có nhiều bãi ngang thuận lợi cho bọn vượt biên thường tụ tập về đây để liên lạc móc nối tổ chức trốn ra nước ngoài đồng thời cũng là nơi dễ xâm nhập, đưa lực lượng từ biển vào đất liền để phá hoại. Đại đội 440 Bắc Bình ngoài nhiệm vụ truy quét tàn quân, bọn phản động Fulro, còn có nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, truy bắt bọn vượt biển và chống bọn xâm nhập từ biển. Được sự chỉ đạo, lãnh đạo của Ban chỉ huy thống nhất gồm Chỉ huy trưởng Quân sự huyện, Trưởng Công an, Công an vũ trang, Cấp ủy, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Đại đội 440 tiến hành quán triệt nhiệm vụ đến từng cán bộ chiến sỹ trong đơn vị. Xây dựng bồi dưỡng cho lực lượng dân quân tự vệ biển, ven biển và ngư dân, hình thành các thuyền tự vệ để phát hiện và chiến đấu trên biển. Quản lý chặt chẽ các bến bãi, ghe thuyền ra vào và người sử dụng, chú ý các bãi ngang và nơi hẻo lánh. Tổ chức các chốt quan sát, theo dõi để kịp thời phát hiện địch, chú ý những nơi xung yếu.

Năm 1976, riêng trên địa bàn Liên Hương, Phước Thể, Phan Rí Cửa, Đại đội 440 Bắc Bình và dân quân tự vệ biển, ven biển bắt 14 vụ. Những đối tượng vượt biển ở đây chủ yếu là bọn phản động trong công giáo di cư, trong số ta bắt có 3 tên khoác áo linh mục, tu sĩ và một số công chức chế độ cũ từ Sài Gòn ra. Năm 1977, xảy ra 34 vụ, ta bắt được 25 vụ đạt 73,9%. Năm 1978 trên địa bàn huyện Bắc Bình xảy ra 52 vụ, bắt được 32 vụ. Trong đấu tranh chống vượt biển, Đại đội 440 đã bắt 171 tên và thu 5 thuyền máy cùng nhiều chiến lợi phẩm khác. Ngoài nhiệm vụ chống phá, bắt bọn vượt biển, Đại đội 440-bộ đội địa phương Bắc Bình còn phát hiện và bắt được một số tên xâm nhập vào vùng biển Phan Rí Cửa. Năm 1978, Đại đội 440 phối hợp với công an vũ trang bắt 1 xuồng máy có 7 tên người Xingapo đột nhập vào bãi biển Chí Công, sau đó bắt vụ 2 tên sỹ quan ngụy và bắt tiếp 1 nữ gián điệp, thu 1 quyển nhật ký có ghi mật mã liên lạc.

Những kết quả trên của Đại đội 440 Bắc Bình có tác dụng rất lớn cho việc ổn định tình hình chính trị ở địa phương, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội để nhân dân làm ăn, phát triển kinh tế xây dựng đất nước.

II. ĐẠI ĐỘI 440 TÍCH CỰC HỌC TẬP QUÂN SỰ, CHÍNH TRỊ, NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ, TỪNG BƯỚC TIẾN LÊN CHÍNH QUI, HIỆN ĐẠI

Đầu năm 1978, theo tinh thần các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Quốc phòng, việc sắp xếp, ổn định biên chế tổ chức các đơn vị lực lượng vũ trang từ tỉnh đến huyện, thị xã theo hướng giảm dần quân thường trực, tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở cơ sở và quản lý tốt lực lượng dự bị động viên.

Theo quy định biên chế chung của Bộ Quốc phòng cũng như chỉ lệnh của Quân khu 5. Bộ đội địa phương mỗi huyện, thị chỉ còn lại 1 trung đội bộ binh, 1 tiểu đội trinh sát, 1 tiểu đội thông tin. Hai huyện Bắc Bình, Ninh Sơn tình hình còn rất phức tạp, địa bàn rừng núi rộng, bọn tàn quân, bọn Fulro còn đang hoạt động mạnh nên trước mắt vẫn giữ nguyên tổ chức để tiếp tục đẩy mạnh công tác truy quét đánh địch, ổn định tình hình chính trị ở địa phương.

Đầu năm 1978, Đại đội 440 Bắc Bình có sự điều chỉnh Ban chỉ huy: Đồng chí Đỗ Đồng Bảo làm Đại đội trưởng, đồng chí Cao Minh Bắc làm Đại đội phó, đồng chí Lê Thái An làm Chính trị viên. Vẫn giữ tổ chức 3 trung đội để tiếp tục làm nhiệm vụ quân thường trực huấn luyện, quản lý lực lượng dự bị động viên.

Quý 4 năm 1978, theo đề nghị của Bộ chỉ huy Quân sự và Thường vụ Tỉnh ủy Thuận Hải, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 5 đơn vị và 8 cán bộ thuộc lực lượng vũ trang Bình Thuận, riêng huyện Bắc Bình có đơn vị xã Hồng Thái và các cá nhân liệt sỹ Võ Hữu, liệt sỹ Huỳnh Thị Khá, đồng chí Nguyễn Thanh Mận, đồng chí Mang Đa.

Page 56: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

56Năm 1979, huyện Bắc Bình tập trung xây dựng củng cố Đại đội 440 vững về chính trị, mạnh về quân

sự đồng thời xây dựng và phát triển lực lượng dân quân tự vệ ở hầu hết các xã khá nhanh cả về số lượng và chất lượng.

Để giải quyết căn bản vấn đề Fulro là vấn đề chính trị sâu sắc, dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thuận Hải, Đảng ủy Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh cùng Đảng bộ địa phương Huyện tập trung chỉ đạo phối hợp giữa các lực lượng quân sự, công an tích cực truy quét bên ngoài, các ban ngành, đoàn thể phát động quần chúng bên trong, dựa vào các chức sắc như Cả, Mum, Tiếp, Chang và gia đình có người làm Fulro kêu gọi con em họ trở về. Trong 5 đợt tấn công bóc gỡ tổ chức phản động Fulro (từ năm 1976 đến tháng 3 năm 1979), Đại đội 440 đã tham gia sát cánh cùng lực lượng Công an huyện và tỉnh tăng cường về, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giác ngộ đồng thời đấu tranh truy quét, đã xóa sổ 02 tiểu đoàn vũ trang và cái gọi là “Mặt trận giải phóng Champa”, làm tan rã 01 khung đại đội, 01 quận bộ, 01 xã bộ, 12 ấp bộ của bọn phản động Fulro, tiêu diệt 04 tên, gọi hàng 64 tên, thu 25 súng, bóc gỡ 366 cơ sở bên trong và thu hủy nhiều tài liệu, con dấu phản động.

Cùng với giải quyết vấn đề Fulro, Đại đội 440 còn phối hợp với lực lượng Công an huyện phục kích tại Cầu Quẹo bắt gọn 14 tên trong tổ chức “Hưng Long phục quốc” do tên Sáu Rỗ cầm đầu đang di chuyển địa bàn hoạt động trên 1 chiếc xe tải, thu toàn bộ vũ khí.

Đến cuối năm 1979, đã giải quyết cơ bản vấn đề Fulro và bọn tàn quân trên đất Bắc Bình. Trong quá trình đối phó với lực lượng này, ta cũng có tổn thất (đồng chí Mai Chí Thành, trinh sát Tỉnh hy sinh).

Khi chiến tranh biên giới xảy ra năm 1979, Huyện Đội Bắc Bình được vinh dự làm nhiệm vụ đăng cai tổ chức huấn luyện và bổ sung lực lượng cho Tiểu đoàn quân tình nguyện của Bình Thuận làm nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchea. Riêng Đại đội 440 có 15 cán bộ tham gia, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Mạnh được cử làm Tiểu đoàn trưởng và tất cả đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Lợi dụng chiến tranh biên giới và cái gọi là “Nạn kiều” do đối phương kích động, tình hình vượt biển trốn ra nước ngoài diễn ra ồ ạt, có những vụ diễn ra rất nghiêm trọng như dùng vũ khí cướp thuyền, xăng dầu, lương thực gây ra cảnh hỗn loạn trên biển. Trong năm 1979, trên địa bàn huyện Bắc Bình, Đại đội 440, dân quân du kích và lực lượng công an vũ trang (biên phòng) phối hợp bắt được 36 vụ / 52 vụ. Cùng với các vụ vượt biển, bọn địch còn dùng thuyền lén lút xâm nhập vào vùng bờ biển của ta để nắm tình hình phục vụ cho âm mưu đổ bộ từ biển vào nhằm đánh phá, gây mất trật tự an toàn ở địa phương. Cảnh giác trước âm mưu phá hoại của địch và tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, Đại đội 440 Bắc Bình đã bắt gọn 1 toán gián điệp 10 tên dùng thuyền buồm từ đảo Hải Nam Trung Quốc xâm nhập vào bờ biển Bình Thạnh (La Gàn).

Song song với nhiệm vụ truy quét, giữ gìn trật tự trị an, Đại đội 440 tiếp tục phát huy tinh thần chủ động tích cực, thường xuyên có 1 trung đội thay phiên nhau tăng gia sản xuất tự túc ở ruộng Phùm thuộc khu căn cứ thời kháng chiến của Huyện đội Tuy Phong, mỗi vụ thu hoạch trên 5 tấn lúa để cải thiện đời sống cho đơn vị. Năm 1977, bà con người Chăm ở Phú Lạc lâm vào cảnh thiếu đói, đơn vị đã giúp cho bà con mượn 230 ký lúa để cứu đói. Số lượng tuy không lớn, nhưng thể hiện được tình quân dân như cá với nước. Sau đó bà con thu hoạch hoàn trả đủ cho đơn vị. Từ đó lòng tin và quí mến của bà con đối với đơn vị được nhân lên gấp bội; khi đơn vị thiếu dụng cụ sản xuất đã được bà con giúp đỡ rất đầy đủ, tạo điều kiện đơn vị sản xuất thuận lợi. Ngoài ra, Đại đội 440 đã rà, phá, tháo gỡ hàng ngàn quả mìn các loại, giải phóng nhiều diện tích đất nông nghiệp cho sản xuất.

Tháng 9/1979, Ban chỉ huy Đại đội 440 có thay đổi. Đồng chí Trần Ngọc Sáng làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Bá Ngọc làm Chính trị viên, đồng chí Cao Minh Bắc tiếp tục làm Đại đội phó.

Từ năm 1980 trở đi, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân đã đi dần vào nề nếp và có những chuyển biến rõ nét. Tất cả các địa phương, cơ quan, trường học đều có tổ chức lực lượng dân quân tự vệ để sẵn sàng chiến đấu. Cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp có từ 1 đến 2 tiểu đội, xã, phường có từ 1 đến 2 trung đội, huyện, thị có từ 1 đến 2 đại đội dân quân tự vệ, có phân công thay phiên thường trực sẵn sàng chiến đấu.

Từ tháng 6/1980, Đại đội 440 Bắc Bình đã phát triển thành Tiểu đoàn 440, tiểu đoàn dự bị động viên làm nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và quản lý các lực lượng này đưa vào kế hoạch và chương trình huấn luyện hàng năm để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra.

Page 57: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

57Có được những thành công trên, cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 luôn quán triệt đường lối chủ trương

của Đảng cấp trên và của Đảng bộ địa phương một cách nghiêm túc. Trong chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng, dù biên chế rút gọn hay trở thành lực lượng dự bị động viên, cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 luôn là lực lượng vũ trang đáng tin cậy, là công cụ sắc bén sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ Quốc.

KẾT LUẬN

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7/1954, nhân dân miền Nam nói chung cũng như nhân dân Bắc Bình-Bình Thuận tiếp tục đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà. Nhưng đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp, dựng lên chính quyền và thành lập quân đội tay sai để phá hoại việc thực hiện Hiệp định, thẳng tay đàn áp dã man, tàn bạo phong trào cách mạng của quần chúng. Sự đòi hỏi bức xúc của tình hình đặt ra là phải xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh chính trị với địch. Trong hoàn cảnh đó, ngày 25 tháng 7 năm 1961, tại Khu căn cứ Lê Hồng Phong, đội vũ trang tập trung đầu tiên của huyện Bắc Bình được chính thức thành lập với quân số 10 chiến sĩ do đồng chí Phan Văn Hiếu (Sáu Thảo) trực tiếp chỉ huy, thực hiện nhiệm vụ diệt ác phá kèm, hổ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và xây dựng phong trào cơ sở.

Trong suốt 15 năm chiến đấu chống Mỹ-ngụy, quá trình chiến đấu cũng là quá trình xây dựng và phát triển trưởng thành của đơn vị. Từ 1 tiểu đội-bộ đội Quang Trung của huyện Bắc Bình với 10 chiến sĩ ở những ngày đầu (25/7/1961), sau đó đã phát triển thành 1 trung đội 440 với 3 tiểu đội gồm 30 chiến sĩ (tháng 11/1961). Cho đến tháng 3/1962, được bổ sung thêm quân số thành 1 đại đội, chính thức thành Đại đội 440 gồm 2 trung đội. Từ đó Đại đội 440 thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của bộ đội địa phương với 3 chức năng : vận động quần chúng mở vùng chiến đấu; bảo vệ nhân dân sản xuất và xây dựng căn cứ; trực tiếp và phối hợp lực lượng để tác chiến tiêu diệt địch. Tháng 5/1962 trở thành Đại đội 440 Lê Hồng Phong và từ năm 1964 trở đi, đơn vị được biên chế đủ 3 trung đội xung lực và 2 tiểu đội hỏa lực. Đến tháng 7/1966, trở thành Đại đội 440 Hòa Đa cho đến tháng 2/1976 mang tên Đại đội 440 Bắc Bình.

Đại đội 440 Hòa Đa - Bắc Bình sinh ra và trưởng thành từ những ngày đồng khởi trên vùng đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm và đã chiến đấu trên một chiến trường gian khổ vào loại bậc nhất của Tỉnh Bình Thuận. Mặc dù địa bàn huyện Hòa Đa luôn có sự biến động theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng có ảnh hưởng nhất định đến công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Tuy nhiên Đại đội 440-bộ đội địa phương huyện đã trụ vững suốt 15 năm ròng rã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, cùng nhân dân các dân tộc trong huyện chiến đấu giải phóng quê hương, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng củng cố chính quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, được Đảng bộ và nhân dân tin tưởng yêu mến.

Chiến đấu trên một chiến trường gian khổ đầy biến động nhất Tỉnh, địa bàn hoạt động của Đại đội 440, không chỉ ở vùng căn cứ Lê Hồng Phong và các xã, ấp vùng địch tạm chiếm ở Hòa Đa mà còn nới rộng bao trùm cả 3 huyện Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh (Bắc Bình) đến Gộp (Hàm Thuận) và Rạng (Phan Thiết) theo sự lãnh đạo chỉ huy tác chiến cả Huyện đội Hòa Đa và Tỉnh đội Bình Thuận.

Với một địa bàn vô vàn khó khăn gian khổ và ác liệt; phải đương đầu với địch hơn hẳn về số lượng và phương tiện vũ khí trang bị, cán bộ, chiến sĩ Đại đội440-Hòa Đa đã biết nêu cao truyền thống đoàn kết nội bộ một lòng, thương yêu giúp đỡ nhau, coi nhau như anh em ruột thịt; truyền thống đoàn kết gắn bó máu thịt sống chết với nhân dân, thắt chặt “tình quân dân như cá với nước”, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ; ngày bám đánh địch, đêm đột ấp vũ trang tuyên truyền; vừa chiến đấu, vừa sản xuất tự túc tự cường, phải đổi cả máu để lấy nước ngọt trên vùng đất Khu Lê mà sống và chiến đấu; đánh địch phía trước, giữ vững căn cứ tuyến sau; tiêu diệt địch thu vũ khí để tự trang bị; xây dựng, phát triển từ lực lượng tại chỗ để vừa cho đơn

Page 58: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

58vị trưởng thành lớn mạnh vừa là nơi cung cấp chi viện cán bộ, chiến sĩ cho Tỉnh, Quân khu 6 và Miền để trưởng thành thành cán bộ cấp cao, giữ các chức vụ chủ chốt của Đảng và quân đội ở địa phương. Đại đội 440 còn tích cực hổ trợ dìu dắt, giúp đỡ dân quân du kích và cùng dân quân du kích làm trụ cột, nòng cốt của chiến tranh nhân dân các xã trong Huyện.

Trong thực hành chiến đấu, Đại đội 440 từng bước học tập rút kinh nghiệm và trưởng thành : tổ chức chặt chẽ, hiệp đồng nhuần nhuyển với bản lĩnh quyết tâm cao, chủ động đánh địch bằng nhiều cách đánh mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, đa dạng cả tập trung và phân tán, đánh phục kích, đánh giải trang kỳ tập, tập kích đặc công, đánh giao thông, đánh vũ trang tuyên truyền binh vận trong ấp,… Càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành, Đại đội 440-bộ đội địa phương huyện Hòa Đa - Bắc Bình không những chiến đấu độc lập giỏi mà còn phối thuộc với lực lượng cấp trên đánh nhiều trận giành thắng lợi lớn.

Trong suốt chặng đường hơn 15 năm chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Đại đội 440 Bắc Bình đã độc lập chiến đấu hơn 120 trận, tiêu diệt hàng ngàn tên địch, có 420 tên Mỹ và lính chư hầu, bắt 25 tù binh. Thu 214 súng các loại, bắn cháy bắn hỏng 20 xe quân sự, có 5 xe tăng xe bọc thép. Bắn rơi 6 máy bay, có 1 phản lực, 1 trực thăng vận tải. Về phối hợp chiến đấu, đơn vị đã cùng lực lượng vũ trang Tỉnh như Tiểu đoàn 482, Đại đội 5 đặc công và các tiểu đoàn chủ lực của Quân khu 6 như Tiểu đoàn 186, 840, 240, 200 C đặc công đã đánh hàng trăm trận, diệt hàng ngàn tên địch; phá huỷ, bắn cháy, bắn rơi hàng chục máy bay và xe tăng địch trên đất Hòa Đa, Bắc Bình. Đơn vị đã giúp đỡ, dìu dắt lực lượng du kích địa phương tích cực chống địch càn quét cướp phá, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất. Đơn vị cùng các ban ngành, đoàn thể của Huyện có trên 100 lần đột ấp chiến lược vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng, giáo dục gia đình và binh lính địch, vận động 32 binh sỹ về với cách mạng, có hàng trăm lính bỏ ngũ về với gia đình. Tham gia giúp dân sửa lại hàng trăm căn nhà, đào hàng trăm hầm trú ẩn, tham gia hàng nghìn ngày công bố phòng bảo vệ vùng căn cứ giải phóng.

Có thể nói vùng đất, con người, truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương Hòa Đa - Bắc Bình đã nuôi dưỡng và rèn luyện cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 812 trong kháng chiến chống Pháp năm xưa và Đại đội 440 Hòa Đa trong kháng chiến chống Mỹ sau này, không ngừng phát triển lớn mạnh và lập nên những thành tích xuất sắc, góp phần cùng lực lượng vũ trang tỉnh, quân khu và cả nước làm nên Đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tuy nhiên trong chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 Hòa Đa, Bắc Bình cũng có những khuyết điểm như chậm đối phó với tình hình, thiếu quyết đoán, không tổ chức cho chiến sĩ bắn máy bay địch để địch tự do bắn phá gây thiệt hại nặng cho ta (trận phối hợp đánh ấp Châu Hanh).

Sau mỗi lần tổn thất, cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 lại đứng lên một cách mạnh mẽ, xây dựng củng cố đơn vị một cách kịp thời để tiếp tục chiến đấu và lập công. Đó là sự quan tâm của Đảng bộ địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ Đại đội 440 biết dựa vào dân, bám dân, bám địa bàn chiến đấu bảo vệ dân, được nhân dân tin tưởng đùm bọc, giúp đỡ. Đó là kết quả, là thành tích nổi bật của công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang của lãnh đạo Huyện và cán bộ lãnh đạo chỉ huy Đại đội 440 Hòa Đa, Bắc Bình.

Phát huy truyền thống cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ sau ngày giải phóng quê hương, Đại đội 440 bộ đội địa phương Bắc Bình vẫn là đơn vị chủ công trong nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ Đảng và là công cụ sắc bén để trấn áp bọn phản động, bọn vượt biển, bọn tàn quân, và bọn Fulrô, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra đơn vị đã tham gia rà phá, tháo gỡ hàng nghìn quả mìn các loại, giải phóng hàng trăm héc ta đất để cho dân sản xuất. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đại đội 440 đã có đội ngũ cán bộ tham gia quân tình nguyện của Tỉnh và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, Đại đội 440 được Bộ Tư lệnh Quân khu 6 công nhận là “Đại đội diệt đại đội địch” (trận Gũ Sà) và là Đơn vị bộ đội địa phương khá nhất trong Quân khu 6, được tặng cờ luân lưu Quân khu 6 trong 4 năm liền.

Tập thể cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 được Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng 3; 2 Huân chương Chiến công hạng 1 và hạng 2; được phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”. Nhiều cán bộ, chiến sỹ được tặng thưởng huân chương quân công, huân chương chiến công, dũng sỹ diệt Mỹ, dũng sỹ diệt cơ giới, dũng sỹ bắn hạ máy bay, dũng sỹ quyết thắng và nhiều bằng giấy khen.

Page 59: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

59Suốt quá trình chiến đấu và xây dựng, Đại đội 440 luôn quán triệt và chấp hành đường lối chính trị,

đường lối quân sự của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Rèn luyện, xây dựng cho mình một bản lĩnh chiến đấu vững vàng, bản lĩnh chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Đến năm 1980, để phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại đội 440 hoàn thành vai trò, nhiệm vụ lực lượng vũ trang thường trực địa phương huyện và phát triển thành Tiểu đoàn dự nhiệm làm nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho quân dự bị động viên của Huyện. Hàng năm được Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Thuận kiểm tra đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Quá trình chiến đấu của cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 Hòa Đa, Bắc Bình có thể rút ra những bài học sau :

1. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 luôn đoàn kết chiến đấu, xây dựng cho mình một ý chí tiến công, quyết chiến, quyết thắng.Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất

nước là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và sự lãnh đạo sáng tạo của Đảng. Nhưng đường lối thật sự có hiệu quả và phát huy được sức mạnh khi nó được vận dụng đúng đắn, sáng tạo thật cụ thể vào tình hình của từng địa phương.

Đảng bộ huyện Hòa Đa - Bắc Bình luôn biết phát huy tính sáng tạo, tinh thần đoàn kết và ý chí bất khuất của nhân dân và các dân tộc trong huyện. Với lòng yêu nước nồng nàn, khao khát độc lập tự do, toàn dân đã hăng hái tham gia công tác cách mạng, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh thì không một kẻ thù nào ngăn cản được.

Lực lượng vũ trang (Đại đội 440) là con em ruột thịt của nhân dân, từ nhân dân mà hình thành, chiến đấu vì nhân dân. Mối quan hệ mật thiết này luôn luôn được bồi đắp, bổ sung cho nhau để phát triển.

Nhân dân trong các vùng giải phóng cũng như nhân dân trong vùng địch tạm chiếm, cả người Kinh, người Thượng, từ già đến trẻ đều hăng hái tham gia công tác cách mạng và lập được nhiều thành tích trong công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Mọi công việc trong chiến tranh đều có nhân dân tham gia, nhân dân là lực lượng cụ thể vừa là nguồn bổ sung vô tận cho lực lượng vũ trang. Cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 luôn luôn chiến đấu với một ý chí quyết chiến quyết thắng rất cao. Tiêu biểu như:

- Đại đội phó Nguyễn Thành Tâm trong trận đánh diệt đại đội bảo an ở Liêm Bình, anh bị mọc mụn nhọt rất to ở bẹn, đi lại rất khó khăn, anh em đề nghị anh nên ở nhà chữa trị, nhưng anh nhất quyết từ chối. Anh nói đây là trận đánh lịch sử, mình là cán bộ, vắng mình thì không được. Khi trận chiến đấu xảy ra, đơn vị bị bao vây có nguy cơ bị tiêu diệt, anh đề xuất còn bao nhiêu đạn trung liên tập trung hết cho anh, anh sẽ nằm lại đây chiến đấu thu hút địch, để đơn vị thoát ra. Trung đội trưởng Ngô Hồng Hải không đồng tình với đề xuất của Đại đội phó Tâm, cương quyết ôm trung liên xông lên chiến đấu. Anh Hải nói có chết cùng chết, không đồng chí nào được rời trận địa. Thế là cán bộ xông lên, chiến sỹ xông lên, trận chiến đấu quyết liệt, đơn vị đã đánh tan quân địch. Tuy trận đánh có bị tổn thất nhưng đơn vị cũng diệt khá nhiều địch.

- Chiến sỹ Đặng Tính Tâm bị quáng gà hành quân thường không đi theo kịp anh em, nhiều trận chiến đấu ý định của chỉ huy để anh ở nhà nhưng anh nhất quyết xin được đi chiến đấu. Anh phải bám, phải vịn vào vai anh em để tiếp cận vào đồn giặc và cũng lập được nhiều thành tích xuất sắc.

- Tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Thành là một cán bộ trẻ xông xáo, đánh giặc với một quyết tâm rất cao, một hành động dũng cảm, có trận đánh “giáp lá cà” với quân địch, anh xông lên bóp cổ địch, dùng báng súng đập chết tên địch giành thắng lợi.

-Đại đội trưởng Nguyễn Tấn Kiệt, một cán bộ dũng cảm, thường nhận khó khăn về mình, anh chiến đấu hết mình vì đồng đội, luôn luôn giúp đỡ, tạo thuận lợi cho chiến sỹ vươn lên. Anh đã chỉ huy chiến đấu nhiều trận giành thắng lợi lớn. Có trận đánh với 1 đại đội địch, đơn vị bị bao vây, địch phát loa gọi hàng nhưng anh bình tĩnh chỉ huy đơn vị chiến đấu đánh trả từng đợt tấn công của địch, anh đã anh dũng hy sinh. Toàn đơn vị nêu gương anh kiên quyết đánh địch, không một ai nao núng.

Cuộc chiến đấu một mất một còn với quân giặc, cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 đã tạo nên tác phong chiến đấu dũng cảm ngoan cường, một ý chí quyết chiến quyết thắng cao, một tập thể “Đại đội 440 anh hùng”, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng bộ và sự quý mến của nhân dân.

Page 60: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

60

2. Tin dân, dựa vào dân để chiến đấu, để xây dựng đơn vị. Chiến đấu tiêu diệt địch gắn liền với giành dân, bảo vệ dân, chiến đấu vì dân.Bất cứ cuộc chiến tranh nào, mục tiêu tối thượng của nó là phải giành cho được dân. Có dân là có tất

cả. Chiến đấu mà không giành được dân thì không thể nói là thắng lợi. Kẻ địch thừa biết chỗ dựa của cuộc kháng chiến, của cách mạng là dân, nên bằng mọi âm mưu, thủ đoạn đánh phá hết sức quyết liệt nhằm đánh bật ta ra khỏi dân. Sau chính sách “Tố cộng” bị thất bại, chương trình quốc sách ấp chiến lược thực chất là cuộc chiến tranh giành dân. Nhưng tất cả mọi hành động của địch đều không được lòng dân nên không được quần chúng nhân dân ủng hộ.

Đại đội 440 Bắc Bình là con em của nhân dân, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, mỗi bước trưởng thành của đơn vị đều có sự đùm bọc, che chở của nhân dân.

Trong thời điểm địch tập trung đánh phá khốc liệt nhất vào vùng căn cứ giải phóng Lê Hồng Phong, càn đi quét lại vùng bàn đạp ven quốc lộ 1 từ Lương Sơn ra đến Hồng Thái nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến, cô lập cách mạng với nhân dân. Đại đội 440 có lần bị tổn thất nặng phải lui về phía sau củng cố, chính những lúc ấy nhân dân lại càng thể hiện sự đoàn kết gắn bó giúp đỡ cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 nhiều hơn. Hình ảnh Bộ đội cụ Hồ, Tình quân dân như cá với nước, chiến đấu do dân, vì dân lại được thắp sáng trong lòng nhân dân.

Đảng bộ Hòa Đa - Bắc Bình luôn lãnh đạo, giáo dục nhân dân nhận thức sâu sắc rằng: Muốn tồn tại và phát triển, muốn thoát khỏi cuộc đời nô lệ thì không có con đường nào khác là phải làm cách mạng, phải kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang để chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.

Độc lập dân tộc, hạnh phúc gia đình và cuộc sống ấm no là động cơ thúc đẩy mọi người từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược đều tự nguyện đứng lên làm cách mạng, gia nhập lực lượng vũ trang để chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Đó chính là yếu tố cơ bản giúp Đại đội 440, bộ đội địa phương huyện Bắc Bình tồn tại và phát triển, giúp lực lượng dân quân du kích ngày càng trưởng thành.

Trong những năm Mỹ Ngụy thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, chiến trường Bắc Bình gặp vô vàn khó khăn. Vùng căn cứ bị càn đi quét lại tưởng chừng như không còn sự sống, vùng giải phóng bị thu hẹp, mất dân, lực lượng bị tiêu hao, thiếu lương thực, thuốc men, bộ đội phải ăn củ mì, củ rừng, nhưng cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 đã khắc phục vượt qua, đứng vững trên các địa bàn quan trọng, lập thế bám trụ, thực hiện 3 bám: bám dân, bám ấp, bám địch để liên tục chiến đấu tiêu diệt địch, phá ấp giành dân và đơn vị đã thành công nhờ có sự giúp đỡ của nhân dân.

Tin dân, dựa vào dân, Đại đội 440 bộ đội địa phương Hòa Đa, Bắc Bình chẳng những phát triển ngày càng mạnh mẽ, vững chắc mà còn xây dựng được lực lượng dân quân du kích rộng khắp, tạo chỗ dựa vững chắc để tiến công địch, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Đây vừa là 1 kinh nghiệm thực tiễn, 1 bài học quý giá trong chiến tranh và còn có thể vận dụng vào công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước hôm nay và mãi mãi về sau.

3. Lãnh đạo chỉ huy Đại đội 440 luôn nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang phù hợp với thực tiễn chiến trường.Thực tiễn các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta bao giờ cũng phát triển từ khởi nghĩa

vũ trang đến chiến tranh cách mạng trong đó sức mạnh của nhân dân là vô cùng to lớn. Chiến tranh nhân dân là chiến tranh chính nghĩa và cũng chỉ có chiến tranh chính nghĩa mới tổ chức và huy động được toàn dân tham gia một cách tự nguyện. Nó hoàn toàn khác với các cuộc chiến tranh xâm lược dù quy mô lớn thế nào cũng chỉ có một số ít người đại diện cho các tập đoàn tư bản lủng đoạn nhà nước tham gia điều hành chiến tranh và không sớm thì muộn nó cũng sẽ bị tàn lụi.

Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược của dân tộc ta là cuộc chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp với thực tiễn chiến trường là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi.

Trong chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng nồng cốt cho toàn dân đánh giặc, lực lượng nồng cốt càng vững mạnh thì thắng lợi càng được bảo đảm. Đại đội 440 Hòa Đa – Bắc Bình

Page 61: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

61qua các thời kỳ đã vận dụng sáng tạo quy luật đó vào hoàn cảnh cụ thể của đơn vị, của chiến trường và có những chủ trương, biện pháp phù hợp để xây dựng đơn vị ngày càng phát triển.

Từ 1 đội vũ trang 10 đồng chí vừa công tác chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn trên một chiến trường gian khổ thiếu lương thực, vũ khí nhưng nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ địa phương và được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, lực lượng ngày càng lớn mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu, vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân càng cụ thể rõ ràng phù hợp với khả năng của địa phương, tạo những bước đi vững chắc để phát triển lực lượng. Đảng bộ Hòa Đa – Bắc Bình đã xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang của mình theo đúng đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

Đại đội 440 không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, là một đơn vị bộ đội địa phương khá nhất trong quân khu. Đơn vị đã đánh tiêu diệt gọn 1 đại đội địch (trận Gũ Sà) được Quân khu công nhận là “Đại đội diệt đại đội” và liên tiếp lập được nhiều chiến công xuất sắc, được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu cao quý: “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Trong chiến tranh, kẻ địch luôn tìm trăm phương nghìn kế để đẩy cuộc chiến đến đỉnh cao hòng giành thắng lợi. Chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến lược chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh, tất cả đều phá sản và thất bại. Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ 20, địch ra sức thực hiện chương trình bình định: bình định cấp tốc, bình định đặc biệt đã gây cho ta rất nhiều khó khăn ở hầu khắp các chiến trường. Đặc biệt ở Hòa Đa – Bắc Bình một chiến trường cực kỳ gian khổ thiếu thốn lại càng khó khăn gấp bội. Nhưng nhờ có chủ trương và biện pháp đúng đắn kịp thời của Đảng bộ, Đại đội 440 được bổ sung quân số, trang bị, xây dựng thành 1 đại đội mạnh để làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc. Bên cạnh xây dựng lực lượng du kích, đội mũi công tác rộng khắp đáp ứng được yêu cầu đánh phá chương trình bình định của địch giành thắng lợi.

Từ tình hình trên cho thấy Đảng bộ Hòa Đa – Bắc Bình đã nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, và Đại đội 440 đã vận dụng đúng đắn, linh hoạt đường lối đó vào điều kiện cụ thể của địa phương mình xây dựng và phát triển đơn vị phù hợp và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

4. Phát huy truyền thống tự lực, tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang, Đại đội 440 liên tục chiến đấu và chiến thắng.Qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc

Việt Nam. Nhân dân ta, quân đội ta thường xuyên đối mặt với mọi kẻ thù mà tiềm lực kinh tế, quân sự bao giờ cũng hơn hẳn ta gấp nhiều lần. Để chiến thắng các kẻ thù này, đất nước ta, nhân dân ta, quân đội ta không thể trông chờ vào sự giàu, mạnh hơn chúng được mà cần phải có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, có Đảng mác xít lãnh đạo. Toàn dân, toàn quân thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng để tiến hành chiến tranh. Ta đánh địch trên tư thế chủ động sáng tạo để tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng.

Trong điều kiện đất nước cũng như trên từng địa phương còn nhiều khó khăn, việc xây dựng ý thức tự lực tự cường và phát huy ý thức này để chiến đấu và chiến thắng là một yêu cầu tất yếu trong quá trình tiến hành chiến tranh.

Để làm tốt yêu cầu đó, hơn nữa thế kỷ qua, Đảng bộ và nhân dân Hòa Đa – Bắc Bình luôn quán triệt đầy đủ tinh thần trên, động viên nhau khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn để vượt qua, để chiến thắng. Cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 đã ý thức sâu sắc rằng: sinh ra và lớn lên trên một chiến trường vùng sâu, xa sự chỉ đạo của trên, mọi nguồn chi viện, tiếp tế đều gặp rất nhiều trở ngại. Việc tự lực tự cường là một đòi hỏi thực tế khách quan, bản thân đơn vị cũng phải tự nổ lực để vươn lên, không được trông chờ ỷ lại.

Ngay từ ngày mới thành lập, Đơn vị 440 tuy quân số ít nhưng cũng dành ra một số đồng chí để làm nhiệm vụ sản xuất, làm ra lương thực, thực phẩm để đảm bảo đời sống cho đơn vị, bộ phận này tiếp tục duy trì trong suốt quá trình phát triển của đơn vị. Trong chiến đấu, cán bộ chiến sỹ đều ý thức sâu sắc rằng tiết kiệm đạn dược cũng là một yêu cầu không thể thiếu. Mỗi viên đạn một mạng thù, muốn được như vậy, đơn vị phải thường xuyên tổ chức giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng để anh em thấu suốt được tình hình và ra sức rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật giỏi thì truyền thống tự lực tự cường mới có hiệu quả.

Page 62: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

62Phải diệt địch, phải tận thu chiến lợi phẩm và hạn chế được thương vong tổn thất của ta cũng là một

nội dung tự lực tự cường rất quan trọng mà cán bộ chiến sỹ đại đội 440 quyết tâm thực hiện và đã thực hiện thành công.

Phát huy truyền thống tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang không phải là khẩu hiệu hành động mà nó trở thành bản chất của cán bộ chiến sỹ đại đội 440. Trong các phong trào thi đua của đơn vị đều lấy chất lượng hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo để xem xét đánh giá kết quả.

Vấn đề nêu trên cho thấy việc phát huy truyền thống phải là một quá trình liên tục, có kế thừa và phát triển, không dàn trải chung chung mà phải nắm bắt kịp thời những điểm mấu chốt để tập trung giải quyết không chỉ những lúc khó khăn mà cả khi thành công thắng lợi. Mục đích cao nhất của việc phát huy truyền thống tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang là làm cho lực lượng vũ trang hoàn thành tốt chức năng tối thượng của mình là đánh thắng mọi kẻ thù và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bất cứ hoàn cảnh nào!

5. Kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và xây dựng, Đại đội 440 đã khắc phục được tình trạng thiếu hụt quân số để hoàn thành nhiệm vụ trên giao.Địa bàn Hòa Đa – Bắc Bình là một chiến trường vùng sâu rất hạn chế về sức người sức của. Trên chi

viện luôn gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng lại là một chiến trường luôn ác liệt. Địch luôn vận dụng sức mạnh về quân số đông và phương tiện chiến tranh hiện đại để đánh phá ta.

Với tình hình trên, làm thế nào để lực lượng vũ trang địa phương giữ vững và phát triển thế tiến công địch. Đây là vấn đề mà xuyên suốt cuộc chiến tranh mà cán bộ lãnh đạo chỉ huy Đại đội 440 luôn trăn trở suy nghĩ. Sắp xếp biên chế tổ chức một cách hợp lý, khoa học là khâu rất quan trọng để phát huy tính hiệu quả của số lượng. Số lượng ít thì phải có chất lượng cao để bù đắp, khắc phục. Nhưng nói đến sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết phải có số lượng thích hợp, làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phải có du kích, dân quân tự vệ để sẵn sàng hỗ trợ và phát triển chiến đấu.

Cuộc chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt, địch luôn giành giật sức người sức của với ta. Nhiều thời kỳ phong trào chính trị ở địa phương gặp vô vàn khó khăn, nhất là sau Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968, ta bị tổn thất khá lớn, quân số thiếu hụt nghiêm trọng nhưng việc vận động thanh niên thoát ly bị nhiều hạn chế. Để khắc phục tình hình trên, cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 bằng mọi cách phải nâng cao chất lượng đơn vị qua học tập chính trị để nâng cao quan điểm lập trường, xây dựng quyết tâm. Tích cực rèn luyện chiến thuật, kỹ thuật để nâng cao khả năng chiến đấu và chiến thắng, kết hợp với tổ chức biên chế hợp lý để nâng chất lượng bộ đội. Chính chất lượng của bộ đội mới thật sự phát huy giá trị của tổ chức biên chế hợp lý, mới nhân được sức mạnh của số lượng lên. Đó là tư tưởng chỉ đạo của Đảng bộ huyện Hòa Đa – Bắc Bình và cũng là việc làm của cán bộ chiến sĩ Đại đội 440.

Nâng cao chất lượng bộ đội chính là nâng cao trình độ chiến kỹ thuật, trình độ tổ chức chỉ huy và khả năng tác chiến của đơn vị. Ngoài chương trình học tập chính trị, huấn luyện quân sự hàng năm theo quy định, Đại đội 440 còn tổ chức huấn luyện theo yêu cầu chiến đấu sát với thực tế. Đảm bảo cho cán bộ chiến sỹ làm chủ được trang bị kỹ thuật mà đơn vị có. Rút kinh nghiệm sau mỗi trận đánh để xây dựng giáo án huấn luyện kịp thời cho đơn vị.

Chú trọng huấn luyện kỹ thuật bắn súng, động tác cá nhân, phân đội nhỏ, làm cho cán bộ chiến sỹ nhận thức sâu sắc rằng chỉ có giác ngộ về lý tưởng cách mạng, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị, giỏi về chiến thuật, kỹ thuật, có biên chế và trang bị vũ khí hợp lý, bắn trúng đích, hạ mục tiêu trước mới bảo vệ được mình để tiếp tục diệt địch nhiều hơn, ta giảm thương vong sẽ tăng niềm tin tưởng, đó là cơ sở để hạ quyết tâm chiến đấu chính xác, hoàn thành nhiệm vụ được giao, mới bảo đảm giành thắng lợi cho mỗi trận đánh.

Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được xem là công tác trung tâm trong xây dựng nâng cao chất lượng bộ đội. Tuy quân số thường xuyên thiếu nhưng đơn vị mạnh dạn cử cán bộ luân phiên đi học ở các trường đào tạo ở tỉnh, Khu và Miền.

Nhờ tích cực xây dựng bồi dưỡng cho lực lượng vũ trang thường xuyên nên huyện đã khắc phục được tình trạng thiếu quân số mà còn phát huy được sức mạnh của các lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng.

Page 63: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

63Một đặc điểm nổi bật trong bài học này cũng là niềm tự hào của cán bộ chiến sĩ Đại đội 440 là đã

đóng góp nhiều cán bộ cho Khu, Tỉnh, Huyện để giữ những trọng trách, lãnh đạo chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh nhà như Nguyễn Thành Tâm, Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Văn Mạnh, Ngô Hồng Hải,… và các đồng chí đó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bước đầu xây dựng, bảo vệ thành công Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cho phép những thế hệ cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 Hòa Đa – Bắc Bình có quyền tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã dày công giáo dục rèn luyện quân đội ta nói chung trong đó có Đại đội 440 bộ đội địa phương Hòa Đa – Bắc Bình.

Bằng xương máu, mồ hôi, công sức và trí tuệ của mình, bộ đội địa phương Hòa Đa – Bắc Bình đã kiên cường chiến đấu, phối hợp chiến đấu với nhiều đơn vị cấp trên, đã trụ vững trên một chiến trường đầy gian khổ, ác liệt và lập nên nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xây đắp nên truyền thống “Tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang”.

Nhiều cán bộ chiến sỹ đã anh dũng hy sinh trên chiến trường mãi mãi, nhắc nhở cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 luôn vững bước tiến lên, đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, sống chiến đấu xứng đáng với đồng đội, đồng chí của mình, xứng đáng với sự đùm bọc, giúp đỡ to lớn của nhân dân, xứng đáng với truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông. Góp phần làm rạng rỡ truyền thống cách mạng của quê hương Hòa Đa – Bắc Bình.

Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong huyện luôn luôn ghi nhớ công lao và thành tích rất đáng tự hào của cán bộ chiến sỹ Đại đội 440 anh hùng.

Càng tự hào, các lực lượng vũ trang và thế hệ trẻ trong huyện càng phải ra sức phát huy truyền thống anh hùng của Đơn vị 440, tích cực học tập, rèn luyện, công tác, chiến đấu góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, đưa Bắc Bình hôm nay cùng cả nước sớm tiến lên giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bình Thuận kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ Bình Thuận xuất bản, tập 2 – 19942. Hồ Chí Minh với các Lực lượng vũ trang nhân dân, NXB Quân đội nhân dân – Hà Nội – 19753. Lịch sử Khu 6 kháng chiến chống Mỹ cứu nước, NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội – 20024. Lịch sử Nam Trung bộ kháng chiến, Viện Lịch sử Đảng – 1992.5. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sự thật – Hà Nội – 1980.6. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân-Hà Nội-1974.7. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và Quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Ban Tổng kết B2 – 1994.8. Văn kiện Quân sự của Đảng, NXB Quân đội nhân dân – 1980.9. Võ Nguyên Giáp- Chiến đấu trong vòng vây, NXB Quân đội nhân dân- 1995.10. Phạm Hoài Chương-Đường chiến đấu, NXB Quân đội nhân dân-Hà Nội- 200311. Nguyễn Trọng Xuyên-Nhớ về chiến trường khu 6, NXB Quân đội nhân dân- Hà Nội-200412. Bắc Bình-Lịch sử truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân (1945 – 1975) , Huyện Đảng bộ Bắc Bình - 1999.13. Căn cứ khu Lê Hồng Phong trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm (1950-1975), Đảng bộ Bình Thuận – 200814. Bắc Bình - Truyền thống đấu tranh cách mạng (1930 - 1975), Đảng bộ Bắc Bình – 199315. Lịch sử Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Thuận (1945 – 2000), NXB Quân đội nhân dân – 200416. Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị - Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Thuận (1945 – 2000), NXB Chính trị quốc gia – 200917. Lịch sử Tiểu đoàn bộ binh 482 – Bình Thuận, Ban Chỉ huy QS Tỉnh Bình Thuận – 1994.18. Những trận đánh tiêu biểu trên đất Bắc Bình (1945-1975), Huyện ủy Bắc Bình - 1991.

Page 64: file Lịch sử truyền thống đại đội C440

6419. Chiến thắng Sông Mao trong chống Mỹ cứu nước, Huyện ủy Bắc Bình – 2008.20. Đại đội 450 Thuận Phong trên vùng đất kiên trung (1961 – 1975), Huyện ủy Hàm Thuận Bắc – 1999.21. Hồi ký một số nhân chứng lịch sử.

Chỉ đạo thực hiện:BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY BẮC BÌNH (khóa X).

Chịu trách nhiệm xuất bản:Võ Văn Hòa,

Bí thư Huyện ủy Bắc Bình.

Biên soạn:Phạm Văn Được,

Trung tá – Cử nhân Khoa học Lịch sử Quân sựNguyên Trưởng Ban Khoa học Lịch sử Quân sự tỉnh Thuận Hải.

Với sự tham gia và hoàn chỉnh bản thảo:Thiềm Quán Thư : Ủy viên Thường vụ Huyện ủy-

Trưởng Ban Tuyên giáo huyện Bắc Bình Cửu Văn Thắng : Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bắc Bình

Trình bày và sửa bản in:Cửu Văn Thắng