LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững...

145
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội. Hoạt động ngoại thương phát triển vượt trội, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao qua mỗi năm cùng với với sự đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất nhập khẩu, tạo sức cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Chúng ta đang từng bước đa phương hóa các đối tác buôn bán, mở rộng thị trường ra nhiều quốc gia chứ không hạn chế ở một số thị trường truyền thống. Quá trình hội nhập đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải am hiểu các luật lệ, tập quán kinh doanh quốc tế, nếu không sẽ gặp nhiều khó khăn và rủi ro. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, có rất nhiều rủi ro, tổn thất và tranh chấp đối với các doanh nghiệp Việt Nam do chưa nắm vững và vận dụng đúng các nguyên tắc, tập quán trong kinh doanh quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sử dụng các điều kiện

Transcript of LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững...

Page 1: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều

thành tựu kinh tế xã hội. Hoạt động ngoại thương phát triển vượt trội, kim ngạch

xuất nhập khẩu tăng cao qua mỗi năm cùng với với sự đa dạng hóa và nâng cao

chất lượng sản phẩm xuất nhập khẩu, tạo sức cạnh tranh với hàng hóa nước

ngoài. Chúng ta đang từng bước đa phương hóa các đối tác buôn bán, mở rộng

thị trường ra nhiều quốc gia chứ không hạn chế ở một số thị trường truyền thống.

Quá trình hội nhập đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải am hiểu các

luật lệ, tập quán kinh doanh quốc tế, nếu không sẽ gặp nhiều khó khăn và rủi ro.

Thực tiễn cho thấy, trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với

thương nhân nước ngoài, có rất nhiều rủi ro, tổn thất và tranh chấp đối với các

doanh nghiệp Việt Nam do chưa nắm vững và vận dụng đúng các nguyên tắc,

tập quán trong kinh doanh quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện

nay sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế Incoterms do Phòng thương mại

quốc tế ICC ban hành, tuy nhiên, không phải là doanh nghiệp nào cũng có thể sử

dụng hiệu quả và vận dụng đúng các điều kiện thương mại quốc tế đó.

Gần đây nhất, vào tháng 9/2010, Phòng thương mại quốc tế ICC đã cho

phát hành ấn bản Incoterms 2010. Đây là một bộ các quy tắc cập nhật những tập

quán mới nhất trong thương mại quốc tế. Incoterms 2010 chứa đựng nhiều thay

đổi so với Incoterms 2000 và các bản trước đây nhằm đảm bảo tính cấp thiết và

tính thực tiễn. Kể từ nay, các doanh nghiệp và doanh nhân trên thế giới sẽ sử

dụng Incoterms 2010 như một bộ cẩm nang trong quá trình tham gia vào thương

mại quốc tế. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất nhập

Page 2: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

khẩu, mở rộng thị trường đòi hỏi phải tiếp thu và vận dụng tốt Incoterms 2010

một cách nhanh chóng.

Những vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

đổi trong Incoterms 2010 và khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

Việt Nam trong việc sử dụng các điều khoản của Incoterms 2010” mà tác giả đã

chọn làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp với hy vọng giúp mọi người có thể dễ

dàng hiểu và sử dụng tốt Incoterms 2010, qua đó hy vọng có thể giúp cho các

doanh nghiệp tránh khỏi những bỡ ngỡ và áp dụng có hiệu quả hơn cho không

chỉ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của bản thân doanh nghiệp mà còn có

thể mang lại lợi ích cho đất nước.

2. Mục đích nghiên cứu

Đề tài này được nghiên cứu nhằm những mục đích sau:

- Nêu lên tầm quan trọng của việc sử dụng những điều kiện thương mại

quốc tế giúp có thể tận dụng những dịch vụ liên quan như nắm quyền thuê

phương tiện vận tải hay mua bảo hiểm hàng hóa.

- Giới thiệu chung về Incoterms 2010, từ đó rút ra những thay đổi trong

Incoterms 2010 so với Incoterms 2000 và với các ấn bản được phát hành trước.

- Phân tích những ảnh hưởng của những thay đổi trong Incoterms 2010 đối

với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đồng thời nêu ra những điểm lưu

ý khi sử dụng Incoterms 2010.

- Nêu ra những khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong quá trình

sử dụng Incoterms 2010 từ đó đề xuất một số khuyến nghị giúp doanh nghiệp

xuất nhập khẩu trong việc sử dụng hiệu quả các điều khoản của Inoterms 2010.

Page 3: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

3. Mục tiêu nghiên cứu

Hiện nay, các điều kiện thương mại quốc tế được nhắc đến nhiều nhưng có

rất ít tài liệu đưa ra đầy đủ về lợi ích cũng như hướng dẫn sử dụng hiệu quả các

điều kiện của Incoterms. Vì thế, khi khóa luận hoàn thành có thể giúp cho chúng

ta có cái nhìn khái quát và rõ ràng về Incoterms 2010, điều đó giúp cho doanh

nghiệp có thể sử dụng linh hoạt để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Mặt khác,

khóa luận hy vọng tạo được tác động cho việc phát triển các ngành vận tải, bảo

hiểm trong nước.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là Incoterms 2010. Vấn đề này được nghiên cứu

thông qua việc tìm hiểu Incoterms 2010 và Incoterms 2000 do Phòng thương mại

quốc tế ICC ban hành và tình hình nắm bắt và sử dụng các điều kiện thương mại

của Incoterms 2010, qua đó khuyến nghị một số giải pháp cho các doanh nghiệp.

5. Phạm vi nghiên cứu

Các đối tượng được nghiên cứu tại Việt Nam gắn liền với các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cùng các ngành liên quan như ngành vận tải

giao nhận, ngành bảo hiểm trong thời gian gần đây.

6. Phương pháp nghiên cứu

Thông tin và số liệu được đưa ra trong khóa luận được tìm kiếm và tổng

hợp từ các số liệu của tổng cục thống kê, từ báo chí, sách, giáo trình, internet

theo yêu cầu của khóa luận.

Khóa luận được thực hiện thông qua các bước:

- Nghiên cứu và đưa ra về mặt lý luận của các đối tượng như nội dung

Incoterms 2010, những thay đổi về mặt kết cấu và mặt nội dung, điểm lợi

và bất lợi khi sử dụng từng điều kiện Incoterms 2010.

Page 4: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

- Từ các số liệu thu thập và tổng hợp được đưa ra tình hình nắm bắt và sử

dụng các điều kiện thương mại của doanh nghiệp

- Rút ra những khó khăn và hạn chế của doanh nghiệp sau khi so sánh giữa

thực trạng với lý luận ban đầu.

- Từ những khó khăn rút ra được, đưa ra các giải pháp, đề xuất để nâng cao

hiệu quả sử dụng Incoterms 2010.

7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục các tài liệu tham khảo,

khóa luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương:

Chương I: Tổng quan về Incoterms

Chương II: Những thay đổi trong Incoterms 2010

Chương III: Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong

việc sử dụng các điều khoản của Incoterms 2010

Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên khóa luận không tránh khỏi

những thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể học

hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện khóa luận cũng như trau dồi thêm kiến thức. Em

xin chân thành cảm ơn GS,TS.NGƯT Hoàng Văn Châu đã hướng dẫn, giúp đỡ,

tạo điều kiện cho em hoàn thành bài khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn.

Page 5: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS

1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Incoterms1.1.1 Sự ra đời của các điều kiện thương mại quốc tế

Cuối năm 1918, khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước tập

trung khôi phục nền kinh tế quốc gia, từ đó từng bước phục hồi nền kinh tế thế

giới vốn bị hủy hoại nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh. Hàng loạt nhà

máy, cơ sở sản xuất được tu sửa, xây mới và đưa vào hoạt động; đường xá giao

thông cũng được cải tạo xây dựng lại, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất buôn

bán hàng hóa. Nhu cầu mua bán ngày càng tăng, không chỉ trong phạm vi giữa

các vùng miền trong cùng một quốc gia mà còn cả giữa các nước trên thế giới.

Trước tình hình đó,các quốc gia đều xúc tiến tiến hành ký kết các hiệp định

thương mại song phương và đa phương nhàm giúp cho việc trao đổi buôn bán

diễn ra dễ dàng và thuận lợi hơn.

Trong quá trình buôn bán trao đổi hàng hóa với nhau, các quốc gia luôn

gặp phải rất nhiều khó khăn do bất đồng ngôn ngữ, hai bên không hiểu được ý

nhau. Luật pháp của các quốc gia cũng không giống nhau. Tuy vấn đề này

không gây trở ngại nghiêm trọng cho việc giao lưu buôn bán như sự khác biệt về

chế độ chính trị nhưng cũng gây ra không ít thiệt hại, tốn kém cho đôi bên: đặc

biệt là khi xảy ra tranh chấp, một số trường hợp không thể đi đến một phán quyết

đúng đắn, hợp lý và nhanh chóng vì ko biết dựa vào đâu để xác định quyền lợi và

nghĩa vụ các bên. Để khắc phục những khó khăn trên, một số quốc gia đã đưa ra

các điều kiện thương mại quốc tế của mình về tiêu chuẩn hóa quy định trong các

Page 6: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hợp đồng cho những vấn đề thời gian, địa điểm và phương thức trao đổi hàng

hóa giữa người bán và người mua.

Tại Hoa Kỳ, bộ luật thương mại thống nhất đã định nghĩa các điều kiện

thương mại theo quan niệm về luật pháp của họ để áp dụng cho những giao dịch

trong nước và quốc tế. tại Anh, việc định nghĩa các điều kiện thương mại quốc tế

được dựa trên quan niệm của một quốc gia theo luật án lệ… Mặc dù vậy, hầu hết

luật pháp các quốc gia đều cho phép các bên có quan hệ hợp đồng được tự chọn

các định nghĩa thống nhất theo cơ quan luật pháp của một quốc gia hoặc của một

cơ quan tổ chức nào đó.

1.1.2 Sự ra đời của Incoterms

Incoterms ( viết tắt của International Commercial Terms – Các điều kiện

thương mại quốc tế ) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận

và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterms quy định những quy tắc liên

quan đến giá cả của hàng hóa cũng như trách nhiệm của các bên tham gia

( người mua và người bán ) trong hoạt động thương mại quốc tế. Năm 1936,

phòng Thương mại quốc tế ICC - International Champer of Commerce tại Paris

đã phát hành Incoterms nhằm thống nhất tập quán thương mại quốc tế, tránh

được những vụ tranh chấp và kiện tụng làm lãng phí thời gian và của cải của con

người và xã hội. Trong ấn phẩm đầu tiên này, ICC mới chỉ đưa ra những điều

kiện về giao nhận hàng hóa, trách nhiệm của các bên như: ai sẽ trả cước vận tải,

ai sẽ chịu các chi phí thủ tục hải quan, bên nào sẽ có nghĩa vụ mua bảo hiểm…

cũng như phân thời điểm chuyển giao rủi ro và trách nhiệm đối với hàng hóa.

Trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, Incoterms đang dần được hoàn thiện để

gần gũi với bối cảnh thương mại ngày càng phát triển như hiện nay, có thể nói

Page 7: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Incoterms là cuốn sách không thể thiếu trong kệ sách của những nhà kinh tế,

doanh nhân và doanh nghiệp trên khắp thế giới.

1.1.3 Sự phát triển và hoàn thiện của Incoterms

Incoterms được nhiều nhà doanh nghiệp trên thế giới thừa nhận và áp

dụng vì tính thiết thực, rõ ràng và dễ hiểu, phản ánh xác thực các tập quán

thương mại phổ biến trong buôn bán quốc tế. Trong bối cảnh nền kinh tế như

hiện nay, khi mà môi trường và điều kiện kinh doanh quốc tế liên tục được đổi

mới, Incoterms cũng đã được thay đổi, hoàn thiện nhằm bắt kịp với xu hướng

phù hợp với tính năng động và thực tiễn của nó. Kể từ lần đầu tiên được ra mắt

vào năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng mang tính toàn cầu này thường xuyên

được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thương mại quốc tế. Tính đến

nay, Incoterms đã trải qua 7 lần sửa đổi và bổ sung vào các năm 1953, 1967,

1976, 1980, 1990, 2000 và 2010. Qua mỗi lần sửa đổi, Incoterms cũng đã thể

hiện được tính cải tiến và hoàn thiện về phương pháp trình bày, giúp người đọc

và các nhà doanh nghiệp dễ hiểu, dễ nhớ và dễ nắm bắt từ đó tạo điều kiện thuận

lợi trong việc so sánh, đối chiếu và lựa chọn các điều khoản trong Incoterms để

áp dụng vào hợp đồng thương mại quốc tế. Có thể thấy được các bản Incoterms

xuất bản trước năm 1990 thường lộn xộn, khó hiểu, các điều kiện được sắp xếp

không có hệ thống và không có sự phân nhóm. Mỗi điều kiện được trình bày

riêng rẽ, độc lập, không thấy được mối quan hệ giữa chúng. Trong bản Incoterms

1990, Incoterms 2000 và gần đây nhất là Incoterms 2010 chúng ta có thể thấy rõ

được những cải tiến rõ rệt trong cách trình bày. Các điều kiện được sắp xếp theo

trật tự logic và khoa học: Các điều kiện được chia thành nhóm, mỗi điều kiện

thương mại trình bày nghĩa vụ của người mua và người bán trong 10 nhóm nghĩa

Page 8: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

vụ chính một cách đối ứng trên cùng một trang sách. Điều đó cho thấy một cách

rõ ràng: mỗi nghĩa vụ áp đặt đối với bên này sẽ giải phóng cho đối tác chính

nghĩa vụ đó.

Sự đổi mới và hoàn thiện của Incoterms qua từng thời kỳ được thể hiện cụ

thể như sau:

Bản Incoterms đầu tiên được pháp hành vào năm 1936. Trong đó nội dung

bao gồm 7 điều kiện thương mại được sử dụng cho phương thức vận chuyển

hàng hóa bằng đường biển. Vào thời điểm này, thương mại đường bằng đường

hàng không chưa phát triển.

Incoterms 1953 bao gồm 9 điều kiện thương mại được trình bày chuyên

sâu hơn so với bản đầu tiên, nhưng vẫn trung thành với cách sắp xếp các điều

kiện thương mại theo thứ tự tăng dần nghĩa vụ của người bán, từ điều kiện Ex

Works ( giao tại xưởng ) mà tại đó nghĩa vụ của người bán là tối thiểu cho đến

điều kiện Ex Quay , Ex Ship, ở đó người mua có nghĩa vụ tối thiểu. Trong thời

kỳ này, vận tải hàng không đã phát triển nhưng chưa thực sự phổ biến trong

chuyên chở hàng hóa vì chi phí cao, do đó vận tải bằng đường biển vẫn là

phương thức vận tải chủ yếu trong thương mại quốc tế. Vì vậy, thời điểm này

vẫn chưa có các điều kiện thương mại áp dụng cho các phương thức vận tải

khác.

Incoterms 1967 bao gồm 11 điều kiện thương mại. So với Incoterms 1953,

Incoterms 1967 đã có thêm 2 điều kiện thương mại nhóm D là điều kiện DAF

( giao hàng tại biên giới) dùng cho vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ và

đường sắt và điều kiện DDP ( giao hàng tại nơi đến, đã nộp thuế ) dùng cho vận

tải đa phương thức. Việc bổ sung thêm 2 điều kiện này làm cho Incoterms được

Page 9: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

áp dụng rộng rãi hơn, phù hợp hơn với xu hướng người bán chịu trách nhiệm ký

hợp đồng vận tải và chịu rủi ro vận chuyển hàng hóa đến tận tay người mua.

Incoterms 1976 bao gồm 12 điều kiện thương mại do được bổ sung thêm

điều kiện FOB airport dùng trong vận chuyển bằng đường hàng không. Thời

điểm này, vận tải hàng không phát triển mạnh, Incoterms ngay lập tức đã thể

hiện tính cập nhật của mình, giúp vận tải đường hàng không có điều kiện phát

huy tính tích cực trong vận chuyển hàng hóa thương mại.

Incoterms năm 1980 được bổ sung thêm 2 điều kiện thương mại, bao gồm

14 điều kiện. Đó là : Ex Works; Free carrier; Free on Rail/ Free on Truck; Fob

Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost and Freight; Cost, Insurance

and Freight; Freight Carriage paid to; Freight Insurance paid to; Ex Ship; Ex

Quay; Delivered at frontier; Delivered Duty paid. So với Incoterms 1976, ấn bản

mới này có thêm 2 điều kiện là Freight Carriage paid to (CPT) và Freight

Insurance paid to (CIP). Hai điều kiện này được bổ sung nhằm đáp ứng được

những thay đổi trong kỹ thuật vận tải và lập chứng từ. Thay vì chủ yếu vận

chuyển bằng đường biển, lấy lan can tàu làm điểm chuyển giao rủi ro giữa bên

bán và bên mua, Incoterms còn cho phép việc di chuyển rủi ro được thực hiện ở

một địa điểm khác phù hợp hơn với phương thức vận chuyển bằng container hay

vận tải đa phương thức.

Incoterms 1990 gồm 13 điều kiện:EXW, FCA, FAS, FOB, CFR, CIF,

CPT, CIP, DAF, DES, DEQ, DDU, DDP. 13 điều kiện trên được phân chia

thành 4 nhóm theo đặc trưng cơ bản về trách nhiệm nghĩa vụ và phân chia rủi ro

của bên bán và bên mua. Inoterms 1990 sửa đổi đã cho phép các bên sủ dụng

chứng từ điện tử thay cho chứng từ giấy truyền thống làm cơ sở bằng chứng cho

việc đã giao hàng. Sự thay đổi này đánh dấu một bước phát triển lớn trong

Page 10: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

thương mại, phù hợp với sự phát triển mạnh mẽcủa công nghệ thông tin. Từ đó,

việc sử dụng và trao đổi các dữ liệu điện tử, thư điện tử (email) và các chứng từ

điện tử bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Incoterms 2000 vẫn giữ nguyên 13 điều kiện thương mại như trong

Incoterms 1990, nhưng trong bản mới này, ICC đã cố gắng sử dụng những thuật

ngữ và cách diễn đạt thống nhất trong cả 13 điều kiện. Ngoài ra, Incoterms 2000

còn có một sô thay đổi về nghĩa vụ của các bên trong vấn đề thông quan hàng

hóa và giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về điều kiện FCA ( giao cho người

chuyên chở). Những thay đổi này không nhiều nhưng có ý nghĩa quan trọng

trong việc làm cho Incterms ngày càng hoàn thiện, phản ánh đúng nhu cầu thực

tiễn và xu hướng của thương mại ngày nay.

Ấn bản Incoterms mới nhất là bản Incoterms 2010. Incoterms 2010 đã

giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống còn 11 bằng việc thay thế bốn điều

kiện cũ là DAF, DES, DEQ, DDU bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho

mọi phương thức vận tải là DAT ( giao hàng tại bến) và DAP ( giao tại nơi đến).

Ngoài ra, Incoterms 2010 cũng đề cập đến sự xuất hiện ngày càng nhiều của các

khu vực miễn thủ tục hải quan; việc sử dụng công nghệ thông tin trong kinh

doanh ngày càng phát triển và cả những thay đổi trong các tập quán vận tải. Đặc

biệt, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình, Incoterms 2010 đã đề cập đến

nghĩa vụ của người mua và người bán một cách bình đẳng. Với sự trình bày nội

dung đơn giản và rõ ràng hơn, Incoterms 2010 đã chứng tỏ được tính hoàn thiện

và cập nhật của mình, bắt kịp được những xu hướng mới trong thương mại hiện

đại. Incoterms đã và đang trở nên gần gũi và thân thiết hơn đối với người sử

dụng.

Page 11: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

1.2 Mục đích, vai trò và phạm vi áp dụng của Incoterms 1.2.1 Mục đích của Incoterms:

Incotems ra đời nhằm cung cấp một hệ thống trọn vẹn các quy tắc quốc tế

nhằm giải thích những điều kiện thương mại thông thường được sử dụng rộng rãi

trong ngoại thương. Từ đó có thể tránh được hoặc ít nhất giảm được đáng kể sự

không chắc chắn do cách giải thích khác nhau về những điều kiện đó tại các

nước khác nhau. Nhiều khi các bên ký kết hợp đồng không biết rõ các tập quán

thương mại của nước bên kia bởi mỗi nước đều có tập quán buôn bán và vận tải

khác nhau, việc đó có thể gây ra những sự hiểu lầm, những vụ tranh chấp và kiện

tụng gây lãng phí thời gian và tiền bạc. Incoterms ra đời đã khắc phục được

những khó khăn đó bằng cách đưa ra những điều kiện thương mại chung, đã

được công nhận và có hiệu lực ở nhiều nước trên thế giới.

1.2.2. Vai trò của Incoterms

Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, hàng hóa được mua bán giữa các bên

ở nhiều quốc gia hơn, với số lượng ngày càng lớn hơn và chủng loại phong phú

hơn. Chính vì lẽ đó, Incoterms đã và đang thể hiện mạnh mẽ vai trò to lớn của

mình.

1.2.2.1 Incterms là 1 bộ các quy tắc:

Incoterms hệ thống hóa các tập quán thương mại được áp dụng phổ biến

bởi các doanh nghiệp trên khắp thế giới. các tập quán này đã xuất hiện và tồn tại

trong quá trình phát triển của thương mại quốc tế, nhưng trước đây chưa được

biết đến theo một trật tự khoa học và logic. Incoterms ra đời, tập hợp những gì đã

Page 12: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

được thực hiện và kiểm nghiệm phổ biến trong thực tiễn với mục đích giúp cho

mọi doanh nghiệp ở khắp nơi trên thế giới vó thể nắm rõ và sử dụng một cách dễ

dàng mà không cần mất nhiều thời gian để tìm hiểu tất cả các luật lệ tập quán

thương mại riêng biệt các các đối tác nước ngoài.

1.2.2.2 Incoterms trở thành ngôn ngữ quốc tế trong hợp đồng ngoại

thương:

Là một bộ thuật ngữ thống nhất quốc tế trong giao nhận và vận chuyển

hàng hóa ngoại thương, Incoterms bao gồm các điều kiện về nghĩa vụ giao nhận

và vận tải hoàng hóa của các bên trong hợp đồng ngoại thương. Những điều kiện

thương mại có tên ngắn gọn, trình bày đơn giản, ở mỗi điều kiện thương mại xác

định 10 phân nhóm nghĩa vụ cơ bản cho mỗi bên mua bán phải thực hiện. Đa số

các nghĩa vụ quy định có liên quan đến giao nhận, vận tải hàng hóa và các chứng

từ có liên quan. Trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương, Incoterms sẽ

giúp các bên không gặp khó khăn trong việc bất đồng ngôn ngữ cũng như không

phải giải thích quá nhiều về nghĩa vụ của các bên trong vấn đề giao nhận ,vận tải

và cung cấp các chứng từ liên quan.

1.2.2.3 Incoterms là phương tiện quan trọng giúp đẩy nhanh tốc độ trong

đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương:

Incoterms tập hợp thành chuẩn mực thống nhất các tập quán thông dụng

có liên quan đến nghĩa vụ của các bên trong mua bán quốc tế. Vì vậy, khi xác

định sẽ áp dụng Incoterms nào, mỗi bên có thể hình dung ra những nghĩa vụ cơ

bản mà mình sẽ phải thực hiện. Điều này giúp đẩy nhanh tốc độ giao dịch đàm

Page 13: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

phán và đơn giản hóa nội dung hợp đồng. mà vẫn đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ

và mang tính pháp lý cao.

1.2.2.4 Incoterms là cơ sở quan trọng để xác định giá cả mua bán hàng hóa:

Chi phí vận tải và cước phí là những yếu tố gây ảnh hưởng trực tiếp đến

việc hình thành và biến động giá cả hàng hóa trên thị trường. Do đó, người bán

và người mua đều phải quan tâm đến yếu tố vận tải trong khi tính toán giá cả

hàng hóa xuất nhập khẩu.

Giá cả của cùng một loại hàng hóa được tính theo điều kiện CIF thường có

xu hướng gần bằng nhau tại các thị trường tiêu thụ trong khi giá hàng hóa tính

theo điều kiện FOB lại rất khác nhau. Sự khác nhau này là do điều kiện sản xuất

khác nhau, cước phí các tuyến đường chuyên chở của thị trường.

Incoterms quy định những nghĩa vụ quan trọng nhất về giao nhận, vận

tải hàng hóa , về các chi phí cơ bản; giá trị hàng hóa; thủ tục và thuế xuất nhập

khẩu; chi phí vận tải; phí bảo hiểm hàng hóa; đại điểm chuyển rủi ro hàng hóa từ

người bán sang người mua; địa điểm giao hàng hóa và nhận hàng… khi các bên

thỏa thuận lựa chọn áp dụng Incoterms thì đây là cơ sở quan trọng nhất để xác

định giá cả trong mua bán ngoại thương. Với các điều kiện thương mại khác

nhau, doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể tính toán và so sánh giá cả của các đối

tác khác nhau, từ đó lựa chọn và ký được những hợp đồng đem lại lợi ích kinh tế

cao nhất cho mình.

1.2.2.5 Incoterms là một căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh

chấp:

Incoterms đóng vai trò làm cơ sở để thực hiện khiếu nại và giải quyết

tranh chấp (nếu có) giữa người mua và người bán trong quá trình thực hiện hợp

Page 14: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

đồng ngoại thương. Nếu trong hợp đồng có dẫn chiếu đến loại Incotems được áp

dụng thì khi có tranh chấp xảy ra, văn bản Incoterms và các tài liệu giải thích

chuẩn mực về Incoterms sẽ là những căn cứ quan trọng mang tính pháp lý giúp

các bên thực hiện và giải quyết khiếu nại hoặc khiếu nại ra tòa án hoặc trọng tài.

1.2.3 Phạm vi áp dụng của Incoterms

Incoterms chỉ giới hạn đối với những vấn đề liên quan đến quyền lợi và

nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán về việc giao hàng hóa được bán.

Hàng hóa ở đây mang ý nghĩa là hàng hóa hữu hình, không bao gồm hàng hóa vô

hình ví dụ như phần mềm vi tính…

Thông thường, người ta thường có hai quan niệm sai lầm về Incoterms.

Thứ nhất, Incoterms nhiều khi được hiểu là dùng để áp dụng cho hợp đồng vận

tải hơn là hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ hai là đôi khi người ta hiểu sai là các

điều kiện này quy định tất cả các nghĩa vụ mà các bên muốn đưa vào trong hợp

đồng mua bán hàng hóa.

ICC đã luôn lưu ý rằng, Incoterms chỉ quy định về quan hệ giữa người

mua và người bán thuộc hợp đồng mua bán hàng hóa, và hơn nữa là chỉ quy định

trong một số trường hợp cụ thể mà thôi. Người nhập khẩu và người xuất khẩu

cần phải biết rõ rằng trong giao dịch thương mại quốc tế, không chỉ có một hợp

đồng mua bán hàng hóa là loại hợp đồng duy nhất mà các bên cần ký kết, bên

cạnh đó còn có rất nhiều loại hợp đồng khác nhau như hợp đồng vận tải, hợp

đồng bảo hiểm… được sử dụng đồng thời với hợp đồng mua bán hàng hóa và

chúng có mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau. Khi tiến hành ký kết hợp

đồng thương mại, nhà xuất nhập khẩu cần phải xem xét mối liên quan thực tế

giữa các loại hợp đồng với nhau, cần thiết để thực hiện một vụ mua bán hàng

Page 15: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hóa quốc tế. Tuy vậy, việc các bên thỏa thuận sử dụng một điều kiện của

Incoterms thì nó thường mang ý nghĩa ảnh hưởng đến các hợp đồng khác. Ví dụ

như khi người bán đã đồng ý ký hợp đồng với điều kiện CFR hay CIF thì đồng

nghĩa với việc không thể dùng bất kỳ phương thức vận tải nào khác ngoài

phương thức vận tải bằng đường thủy, bởi theo các điều kiện này thì người bán

phải gửi vận đơn đường biển hay chứng từ vận tải biển cho người mua để làm

bằng chứng cho việc giao hàng. Hơn nữa, tính hợp lệ của bộ chứng từ thanh toán

cũng phụ thuộc vào phương thức vận tải được sử dụng.

Thứ hai, Incoterms còn quy định một số nghĩa vụ được xác định cụ thể đối

với các bên như nghĩa vụ thông quan, nghĩa vụ mua bảo hiểm, nghĩa vụ xếp dỡ

hàng hóa… đồng thời quy định địa điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang

người mua. Mặc dù Incoterms có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện hợp

đồng mua bán hàng, song còn nhiều vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng mà

Incoterms không điểu chỉnh như việc chuyển giao quyền sở hữu và các quyền về

tài sản khác, sự vi phạm hợp đồng và các hậu quả của sự vi phạm hợp đồng cũng

như miễn trừ nghĩa vụ trong các trường hợp nhất định. Cần nhấn mạnh rằng

Incoterms không có ý điịnh thay thế các điều khoản và điều kiện cần phải có đối

với một hợp đồng mua bán hàng hóa hoàn chỉnh bằng việc đưa vào các điều kiện

chuẩn hoặc các điều kiện được thỏa thuận riêng biệt.

Nhìn chung, Incoterms không điều chỉnh hậu quả của sự vi phạm hợp

đồng và bất kỳ sự miễn trừ nghĩa vụ nào do nhiều trở ngại gây ra. Các vấn đề

này phải được giải quyết bằng những quy định khác trong hợp đồng mua bán

hàng hóa và các luật điều chỉnh hợp đồng đó.

1.3 Nội dung cơ bản của Incoterms 2010

Page 16: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn chưa từng thấy để doanh

nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hoá được bán ra ở

nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại đa dạng hơn. Khi khối

lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, và nếu hợp đồng mua bán

hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì khả năng dẫn đến sự hiểu

nhầm và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên.

Incoterms, quy tắc chính thức của ICC về việc sử dụng các điều kiện

thương mại trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát

triển. Việc dẫn chiếu Incoterms 2010 trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ phân

định rõ ràng nghĩa vụ tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ rắc rối về mặt

pháp lý.

Kể từ khi Incoterms được ICC soạn thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp

đồng mang tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ

phát triển của thương mại quốc tế. Incoterms 2010 có tính đến sự xuất hiện ngày

càng nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan, việc sử dụng thông tin liên lạc bằng

điện tử trong kinh doanh ngày càng tăng, mối quan tâm cao về an ninh trong lưu

chuyển hàng hoá và cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms 2010 cập

nhật và gồm những điều kiện “giao hàng tại nơi đến”, giảm số điều kiện thương

mại từ 13 xuống 11, trình bày nội dung một cách đơn giản và rõ ràng hơn.

Incoterms 2010 cũng là bản điều kiện thương mại đầu tiên đề cập tới cả người

mua và người bán một cách hoàn toàn bình đẳng.

Incoterms 2010 được ICC xuất bản tháng 9/2010 với 11 quy tắc mới và

chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.

Page 17: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

1.3.1 Các thuật ngữ được sử dụng trong Incoterms 2010

Trong Incoterms 2010, có rất nhiều thuật ngữ được sử dụng. Sau đây là một số

thuật ngữ cơ bản:

Agreed destination: nơi đến thỏa thuận

Agreed place: nơi thỏa thuận

At its own risk and expense: phải tự chịu rủi ro và phí tổn

At the buyer’s request, risk and expense: khi người mua yêu cầu, chịu chi phí và

rủi ro

At the buyer’s risk and expense: với rủi ro và chi phí do người mua chịu

At the disposal of the buyer: đặt dưới sự định đoạt của người mua

Before the contract of sale is concluded: trước khi hợp đồng được ký kết

Carry out all customs formalities for the export of the goods: làm thủ tục hải

quan để xuất khẩu hàng hóa

Clear the goods for export: làm thủ tục thông quan xuất khẩu

Commodities: Hàng nguyên liệu đồng nhất

Container terminal: bến container

Cost of handling and moving the goods: chi phí xếp dỡ và di chuyển hàng hóa

Critical points: điểm tới hạn, điểm phân chia trách nhiệm và chi phí giữa hai bên

Delivery document: chứng từ giao hàng

Electronic records or procedure: Chứng từ hoặc quy trình điện tử

For the account of the seller: do người bán chịu

Fulfils its obligation: hoàn thành nghĩa vụ

Guidance note: Hướng dẫn sử dụng

Page 18: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Import clearance: thủ tục thông quan nhập khẩu

Incurred by the seller: mà người bán đã chi

Information that the buyer needs for obtaining insurance: những thông tin mà

người mua cần để mua bảo hiểm

Latter stage: thời điểm muộn hơn

Load the goods from any collecting vehicle: bốc hàng lên phương tiện vận tải

Make arrangement for the carriage of the goods: tổ chức việc vận chuyển hàng

hóa

Manufactured goods: hàng hóa sản xuất công nghiệp

Match this choice precisely: phù hợp với địa điểm này

Named place of destination: nơi đến chỉ định

On board the vessel: xếp lên tàu

Otherwise agreed between the parties: trừ khi có thỏa thuận khác giữa hai bên

Over which the buyer has no control: qua địa điểm đó người mua không có

quyền kiểm soát

Physical inspection obligation: nghĩa vụ kiểm tra thực tế

Place of destination: nơi đến

Point within the named place of delivery: địa điểm tại nơi giao hàng chỉ định

Precise point in the place of destination: một điểm cụ thể tại nơi đến

Procure goods shipped: mua hàng đã gửi

Provided that the goods have been clearly identified as the contract goods: với

điều kiện là hàng đã được phân biệt rõ là hàng của hợp đồng

Ready for unloading: sẵn sàng để dỡ khỏi phương tiện vận tải

Receipt: biên lai

Risks of loss of or damage to the goods: rủi ro bị mất mát hoặc hư hỏng của hàng

Page 19: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hóa

Specific points/named place of delivery: địa điểm cụ thể tại nơi giao hàng chỉ

định

Stowage of packaged goods: sắp xếp hàng hóa có bao bì

String sales: Bán hàng theo chuỗi

Terminal handling charges: phí xếp dỡ tại bến bãi (THC)

Terminal operator: người điều hành bến bãi

The named place of destination: nơi đến được chỉ định

The named place: nơi được chỉ định

The named terminal: bến được chỉ định

The parties are well advised to specify as clearly as possible: Các bên nên quy

định càng rõ càng tốt

The point of delivery: địa điểm giao hàng

Unloaded from the arriving vehicle: đã dỡ khỏi phương tiện vận tải

When a ship is used as a part of the carriage: khi một phần chặng đường được

vận chuyển bằng tàu biển

Whether one or more mode of transportation: sử dụng một hay nhiều phương

thức vận tải.

Within the named place of delivery destination/ several points: tại nơi giao hàng

chỉ định có nhiều địa điểm có thể giao hàng.

1.3.2 Cấu trúc của Incoterms 2010

Incoterms 2010 bao gồm 11 điều kiện thương mại được viết tắt bằng ba

chữ cái in hoa, thể hiện tập quán giao dịch giữa các doanh nghiệp trong hợp

đồng mua bán hàng hóa. Điều kiện Incoterms chủ yếu mô tả các nghĩa vụ, chi

Page 20: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

phí và rủi ro trong quá trình hàng hóa được chuyển giao từ người bán sang người

mua.

11 điều kiện của Incoterms 2010 được chia thành hai nhóm riêng biệt như

sau:

Các điều kiện áp dụng cho mọi phương thức vận tải:

EXW: Giao tại xưởng

FCA: Giao cho người chuyên chở

CPT: Cước phí trả tới

CIP: Cước phí và bảo hiểm trả tới

DAT: Giao tại bến

DAP: Giao tại nơi đến

DDP: Giao hàng đã nộp thuế

Các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa:

FAS: Giao dọc mạn tàu

FOB: Giao lên tàu

CFR: Tiền hàng và cước phí

CIF: Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí

1.3.3 Nội dung chính của Incoterms 2010:

Trong Incoterms 2010 các nghĩa vụ của bên mua và bên bán được sắp xếp tương

ứng theo thứ tự từ A1 đến A10 và B1 đến B10 lần lượt là:

Các nghĩa vụ nói chung của người bán và người mua.

Giấy phép xuất khẩu/ nhập khẩu, ủy quyền chính thức được xuất nhập

khẩu và các thủ tục hải quan xuất khẩu/ nhập khẩu.

Hợp đồng vận tải và bảo hiểm.

Page 21: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Giao hàng - nhận để giao hàng.

Chuyển giao rủi ro.

Phân bổ chi phí.

Thông báo cho người bán/ người mua.

Xuất trình chứng từ.

Kiểm tra, đóng gói, ký hiệu.

Hỗ trợ liên quan đến thông tin và chi phí liên quan.

Theo đó, các nấc thang với các nghĩa vụ chuyển dần từ người bán sang người

mua, từ trách nhiệm tối thiểu tới trách nhiệm tối đa của người bán và ngược lại

đối với người mua.

Dưới đây là nội dung cơ bản của từng điều kiện thương mại trong Incoterms

2010:

EXW – EX Works :Giao tại xưởng

Giao tại xưởng có nghĩa là người bán giao hàng, chưa thông quan xuất

khẩu và cũng chưa được bốc lên bất cứ phương tiện vận tải nào đến nhận hàng,

khi đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua tại cơ sở của người bán

hoặc tại địa điểm chỉ định.

Điều kiện này thể hiện nghĩa vụ của người bán ở mức tối thiểu và nghĩa vụ

của người mua ở mức tối đa. Người mua phải nhận hàng tại địa điểm của người

bán, tự thuê phương tiện vận tải và hàng hóa, làm thủ tục và chịu chi phí thông

quan xuất khẩu, quá cảnh và nhập khẩu.

Điều kiện này có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải và có thể sử

dụng khi có nhiều phương thức vận tải tham gia.

Page 22: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

FCA- Free carrier : Giao cho người chuyên chở

“ Giao hàng cho người chuyên chở” có nghĩa là người bán giao hàng đã

thông quan xuất khẩu cho người chuyên chở hay cho một người khác do người

mua chỉ định tại cơ sở của người bán hay một địa điểm quy định khác. Cần chú ý

rằng địa điểm giao hàng được chọn có ảnh hưởng đến nghĩa vụ bốc hàng và dỡ

hàng. Nếu địa điểm giao hàng là cơ sở của người bán, người bán có nghĩa vụ bốc

hàng. Nếu việc giao hàng tại địa điểm khác thì người bán không có trách nhiệm

phải dỡ hàng.

Nếu không có địa điểm giao hàng cụ thể nào được thỏa thuận ở nơi quy

định và có một số địa điểm có thể giao hàng, người bán có thể chọn địa điểm tại

nơi giao hàng phù hợp nhất với mục đích của mình.

Điều kiện này có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải, phù hợp với

trường hợp hàng hóa được đóng trong container, thường được giao tại các bến

bãi.

CPT- Carriage paid to: Cước phí trả tới

Cước phí trả tới có nghĩa là người bán giao hàng cho người chuyên chở

hoặc một người khác do người bán chỉ định tại một nơi thỏa thuận (nếu điểm đó

đã được các bên thỏa thuận) và người bán phải ký hợp đồng và trả các chi phí

vận tải cần thiết để đưa hàng hóa tới địa điểm đến được chỉ định.

Điều kiện này có hai điểm tới hạn, vì rủi ro và chi phí được chuyển giao

tại hai địa điểm khác nhau. vì vậy, trong hợp đồng các bên nên quy định càng rõ

càng tốt địa điểm giao hàng và nơi đến.

Page 23: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Điều kiện này có thể sử dụng được cho mọi phương thức vận tải và có thể

sử dụng nhiều phương thức vận tải tham gia.

CIP – Carriage and Insurance paid to : Cước phí và bảo hiểm trả tới

Cước phí và bảo hiểm trả tới có nghĩa là người bán giao hàng hóa cho

người chuyên chở hoặc người khác do người bán chỉ định tại địa điểm đã thỏa

thuận. Ngoài ra, người bán cũng phải trả chi phí vận tải cần thiết để đưa hàng

hóa tới nơi đến quy định.

Trong điều kiện này, người bán có nghĩa vụ phải mua bảo hiểm cho hàng

hóa tuy nhiên người bán chỉ phải mua bảo hiểm ở phạm vi tối thiểu, nếu người

mua muốn người bán mua ở phạm vi lớn hơn thì phải thỏa thuận rõ với người

bán trong hợp đồng hoặc người mua phải tự mua.

DAT- Delivered at Terminal : Giao tại bến

Giao tại bến có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hóa sau khi đã dỡ

khỏi phương tiện vận tải , được đặt dưới sự định đoạt của người mua tại một bến

chỉ định, tại cảng hay tại nơi đến chỉ định. Bến bao gồm bất kỳ nơi nào như cầu

cảng, kho, bãi container hoặc ga đường bộ, đường sắt hoặc hàng không. Người

bán chịu mọi chi phí và rủi ro liên quan để đưa hàng hóa đến và dỡ hàng tại bến

ở cảng hoặc nơi đến chỉ định.

Điều kiện này yêu cầu người bán phải có nghĩa vụ thông quan xuất khẩu

cho hàng hóa.

DAP - Delivered at Place: Giao hàng tại nơi đến

Page 24: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Giao hàng tại nơi đến có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hóa được

đặt dưới quyền định đoạt của người mua trên phương tiện vận tải, sẵn sàng để dỡ

tại nơi đến quy định.

Người bán có nghĩa vụ thông quan xuất khẩu, thuê phương tiện vận tải và

chịu mọi cước phí trong quá trình vận tải.

Trong điều kiện này, các bên nên quy định càng rõ càng tốt địa điểm giao

hàng tại nơi đến và người bán nên ký hợp đồng vận tải đến đúng địa điểm đó.

DDP – Delivered Duty Paid: Giao hàng đã thông quan nhập khẩu

Giao hàng đã thông quan nhập khẩu nghĩa là người bán giao hàng khi

hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người mua, đã thông quan nhập khẩu,

trên phương tiện vận tải chở đến và đã sẵn sàng để dỡ tại nơi đến quy định.

Điều kiện DDP thể hiện nghĩa vụ tối đa của người bán. Người bán không

chỉ có nghĩa vụ thông quan xuất khẩu cho hàng hóa và còn có trách nhiệm thông

quan nhập khẩu và trả các khoản thuế, phí và thực hiện các thủ tục cho thông

quan xuất khẩu và thông quan nhập khẩu.

FAS – Free alongside ship – Giao hàng dọc mạn tàu

Giao dọc mạn tàu nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hóa được đặt dọc

mạn con tàu do người mua chỉ định tại cảng giao hàng chỉ định. Rủi ro về mất

mát hoặc hư hỏng của hàng hóa di chuyển khi hàng hóa đang ở dọc mạn tàu, và

người bán phải chịu mọi chi phí cho tới thời điểm này, bao gồm cả việc thông

quan xuất khẩu.

Các bên quy định càng rõ càng tốt địa điểm xếp hàng tại cảng giao hàng

chỉ định, vì mọi chi phí và rủi ro về hàng hóa tới địa điểm đó do người bán chịu

Page 25: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

và các chi phí này và chi phí làm hàng có thể thay đổi tùy theo tập quán của từng

cảng.

Điều kiện này chỉ áp dụng với vận tải biển hoặc vận tải thủy nội địa.

FOB – Free On Board : Giao hàng trên tàu

Giao hàng trên tàu nghĩa là người bán giao hàng, đã thông quan xuất khẩu,

lên con tàu do người mua chỉ định tại cảng xếp hàng chỉ định hoặc mua được

hàng hóa hoặc mua được hàng hóa đã sẵn sàng giao như vậy. Rủi ro về mất mát

và hư hỏng của hàng hóa được di chuyển từ người bán sang người mua sau khi

hàng hóa được xếp lên tàu và từ thời điểm này trở đi, người mua chịu trách

nhiệm hoàn toàn cho mọi tổn thất có thể xảy ra đối với hàng hóa.

Trong điều kiện này, người bán phải giao hàng lên tàu hoặc mua sẵn hàng

hóa đã được giao như vậy. Trường hợp “mua sẵn” chỉ việc bán hàng nhiều lần

trong quá trình vận chuyển rất phổ biến trong mua bán hàng nguyên liệu.

CFR – Cost and Freight : Tiền hàng và cước phí

Tiền hàng và cước phí có nghĩa là người bán phải giao hàng, đã thông

quan xuất khẩu, lên tàu hoặc mua hàng để giao như vậy. Người bán phải ký hợp

đồng và trả các chi phí và cước phí cần thiết để đưa hàng hóa đến cảng đến quy

định.

Điều kiện này có hai điểm tới hạn khác nhau. Địa điểm chuyển giao rủi ro

từ người bán sang người mua là tại cảng xếp hàng trong khi chi phí lại được

phân chia tại cảng đến theo quy định. Chính vì vậy, trong hợp đồng, các bên nên

quy định càng rõ càng tốt địa điểm gửi hàng cũng như địa điểm dỡ hàng.

CIF – Cost, Insurance and Freight : Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí

Page 26: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí có nghĩa là người bán phải giao hàng

hóa đã thông quan xuất khẩu lên tàu hoặc mua hàng được giao như vậy. Người

bán phải có trách nhiệm ký hợp đồng vận tải và trả các chi phí cần thiết để đưa

hàng hóa đến nơi đến quy định.

Ngoài ra, người bán cũng phải mua bảo hiểm để bảo hiểm cho những rủi

ro của người mua về mất mát và hư hỏng hàng hóa trong quá trình vận chuyển.

1.3.4 Lưu ý khi sử dụng Incoterms 2010:

1.3.4.1 Dẫn chiếu các điều kiện Incoterms 2010 vào hợp đồng mua bán hàng

hóa:

Nếu muốn áp dụng các quy tắc của Incoterms 2010 vào hợp đồng mua bán

hàng hóa thì phải làm rõ điều đó trong hợp đồng bằng cách dùng các từ ngữ như

“điều kiện được chọn, tên địa điểm, Incoterms 2010”

Ví dụ: điều khoản giá: giá hàng là 250USD/ MT FOB Haiphong Incoterms 2010

Incoterms 2010 được hiểu là áp dụng Quy tắc của ICC về các điều kiện

thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 2010. Việc nêu cụ thể Incoterms 2010 sẽ

giúp chúng ta tránh áp dụng các bản sửa đổi Incoterms trước đó, như bản sửa đổi

năm 1990, 2000…

Tại một số nước (đặc biệt là Hoa Kỳ) luật lệ nhiều địa phương điịnh nghĩa

điều kiện bán hàng FOB rất khác nhau. Do vậy, nếu trong hợp đồng ký với một

hãng Hoa Kỳ, chúng ta ghi – “giá FOB…” có nhiều rủi ro là hai bên sẽ phải

tranh cãi trong quá trình thực hiện: “đó là FOB Hoa Kỳ hay FOB Incoterms”

Do không ghi rõ, chúng ta có thể phải chấp nhận điều kiện FOB Hoa Kỳ

theo đó nghĩa vụ của người bán sẽ nặng hơn.

Page 27: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

1.3.4.2 Lựa chọn điều kiện Incoterms phù hợp

Điều kiện Incoterms 2010 được chọn phải phù hợp với hàng hóa, phương

tiện vận tải và quan trọng nhất là phải xem các bên có ý định đưa ra cho người

mua hoặc người bán các nghĩa vụ bổ sung, ví dụ như nghĩa vụ tổ chức vận tải

hay mua bảo hiểm. Incoterms chỉ quy định một số trách nhiệm nhất định giữa

người mua và người bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa chứ không quy định

trách nhiệm giữa người vận tải hay người nhận trong hợp đồng vận tải hay với

các quan hệ khác, do đó các bên phải nghiên cứu kỹ trước khi ký kết hợp đồng,

tránh nhầm lẫn. Tóm lại, dù chọn điều kiện nào thì các bên vẫn cần biết rằng

việc giải thích hợp đồng còn chi phối mạnh mẽ hơn tập quán riêng của từng cảng

hoặc từng địa phương.

1.3.4.3 Quy định địa điểm, nơi hoặc cảng càng chính xác càng tốt.

Điều kiện Incoterms được lựa chọn áp dụng chỉ phát huy hiệu lức khi các

bên chỉ định một địa điểm hoặc một cảng, và nó sẽ phát huy tối đa chức năng của

mình khi các bên quy định chính xác nơi hoặc cảng đó.

Ví dụ như cần quy định: “ FCA 38 Cours Albert 1er, Paris, France Incoterms

2010”

Theo các điều kiện EXW, FCA, FAS, FOB, DAT, DAP, DDP thì nơi

được chỉ định là nơi diễn ra việc giao hàng và là nơi rủi ro được chuyển từ người

bán sang người mua. Còn theo các điều kiện CFR, CIF, CPT và CIP thì địa điểm

được chỉ định khác với nơi giao hàng. Theo bốn điều kiện này thì địa điểm được

Page 28: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

chỉ định là nơi đến mà cước phí được trả. Việc ghi chính xác một địa điểm cụ thể

tại nơi hoặc đích đến đó nhằm tránh sự nghi ngờ hoặc tranh chấp.

1.3.4.4 Incoterms không phải là luậtTrong hợp đồng mua bán hàng hóa, Incoterms chỉ được áp dụng khi:

- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định.

- Các điều ước quốc tế liên quan quy định

- Luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn không có hoặc có

nhưng không đầy đủ.

Trong một số trường hợp, Incoterms vẫn có thể được áp dụng ngay cả khi

không được nêu cụ thể trong hợp đồng như trường hợp coi việc áp dụng

Incoterms như một thông lệ thương mại hay việc sử dụng Incoterms được thừa

nhận bởi luật áp dụng.

1.3.4.5 Các điều kiện Incoterms không làm cho hợp đồng đầy đủIncoterms đã chỉ rõ bên nào trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ thuê

phương tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người

mua và chi phí mỗi bên phải chịu. Song, Incoterms không bao gồm tất cả các

điều khoản trong hợp đồng mua bán mà chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Cụ

thể, Incoterms không đề cập đến mức giá phải trả hay phương thức thanh toán;

sự chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa/ tài sản- vấn đề về luật áp dụng - ủy

quyền có điều khoản cụ thể trong hợp đồng và hậu quả của việc vi phạm hợp

đồng; phương thức người bán giao hàng đến điểm đến; người mua và người bán

nên làm gì để yên tâm cho mình (ví dụ: mua bảo hiểm- trừ điều khoản CIF và

CIP ); mất mát, hư hỏng do đóng gói không cẩn thận, ký hiệu v.v… Những vấn

đề này thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng, hay các

hợp đồng đơn lẻ đi kèm với hợp đồng mua bán thương mại như hợp đồng bảo

Page 29: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hiểm, hợp đồng vận tải…hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên nên biết

rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất hiệu lực bất kỳ nội dung nào

của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được lựa chọn.

Chương 2: NHỮNG THAY ĐỔI TRONG INCOTERMS 2010

2.1. Về mặt kết cấuKể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936, trải qua 7 lần sửa đổi và bổ

sung, Incoterms ngày càng khẳng định tính thiết thực của mình trong thương mại

quốc tế. trong mỗi phiên bản Incoterms được phát hành, ICC lại có những thay

đổi nhất định về mặt cấu trúc và nội dung nhằm đảm bảo cập nhật nhất những

quy tắc mới, những tập quán mới đang được áp dụng thông dụng trong thương

mại. Trong ấn bản thứ 8 này, Incoterms cũng có khá nhiều thay đổi quan trọng

về mặt kết cấu.

2.1.1. Incoterms 2010 bao gồm 11 điều kiện thương mại

Số điều kiện trong Incoterms 2010 đã giảm từ 13 xuống còn 11. có được

điều này là nhờ việc thay thế bốn điều kiện cũ trong Incoterms 2000 là DAF,

DES, DEQ, DDU bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức

vận tải là DAT- Giao hàng tại bến và DAP- Giao hàng tại nơi đến.

2.1.2. Các điều kiện thương mại trong Incoterms 2010 chia thành hai nhóm

riêng biệt

Nếu như trong các ấn bản trước đây của ICC như Incoterms 1990 hay

Incoterms 2000, các điều kiện thương mại được chia thành bốn nhóm chính là

nhóm E bao gồm điều kiện EXW; nhóm F bao gồm các điều kiện FCA, FAS,

Page 30: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

FOB; nhóm C bao gồm các điều kiện CFR, CIF, CPT, CIP và nhóm D gồm các

điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU và DDP thì Incoterms 2010 lại được chia

thành hai nhóm riêng biệt:

Nhóm các điều kiện dùng cho một hay nhiều phương thức vận tải.

Nhóm thứ nhất này bao gồm bảy điều kiện có thể sử dụng mà không phụ

thuộc vào phương thức vận tải lựa chọn và cũng không phụ thuộc vào việc sử

dụng một hay nhiều phương thức vận tải. Nhóm này bao gồm các điều kiện

EXW ( Giao tại xưởng), FCA (Giao cho người chuyên chở), CPT (Cước phí trả

tới), CIP (Cước phí và bảo hiểm), DAT (Giao tại bến), DAP (Giao tại nơi đến),

DDP (Giao hàng đã nộp thuế). Các điều kiện này có thể được sử dụng khi hoàn

toàn không có phương thức vận tải biển.Tuy vậy, các điều kiện này vẫn có thể

được sử dụng khi một phần chặng đường được tiến hành bằng tàu biển.Các điều

kiện của nhóm này đều có chung một đặc điểm là tên địa điểm đi kèm với các

điều kiện này cũng chính là tên điểm giới hạn trách nhiệm chuyên chở của người

bán và cũng tại đó được xác định là nơi giao hàng từ người bán sang người mua,

ngoại trừ hai điều kiện CPT và CIP thì điểm giới hạn trách nhiệm gắn liền với

tên điều kiện và địa điểm giao hàng là hai địa điểm riêng biệt tách rời nhau.

Nhóm các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội

địa:

Trong nhóm thứ hai này, địa điểm giao hàng, dỡ hàng và nơi hàng hóa

được chở tới người mua đều là cảng biển, vì vậy chúng được xếp vào nhóm các

điều kiện đường biển và đường thủy nội địa. Nhóm này bao gồm các điều kiện

FAS ( Giao dọc mạn tàu), FOB ( Giao lên tàu), CFR ( Tiền hàng và cước phí),

CIF ( Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí). Ở ba điều kiện FOB, CFR, CIF, tất cả

các cách đề cập đến lan can tàu như một điểm giao hàng bị loại bỏ. Thay vào đó,

Page 31: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hàng hóa được xem như đã được giao khi chúng đã được xếp lên tàu. Điều này

phản ánh sát hơn với thực tiến thương mại hiện đại ngày nay, xóa đi một quan

niệm lỗi thời về việc rủi ro được chuyển giao qua một ranh giới tưởng tượng.

Việc chia thành hai nhóm thay vì bốn nhóm như trước đây là một thay đổi

lớn về mặt kết cấu của Incoterms 2010. Nếu như trước đây, việc chia các điều

kiện theo nhóm với các chữ cái đầu tiên của điều kiện chỉ mang lại lợi ích giúp

người sử dụng có thể dễ nhớ tên thì hiện nay, với việc chia thành hai nhóm theo

phương thức sử dụng, các doanh nghiệp có thể dễ dàng áp dụng các điều kiện

của Incoterms trong hợp đồng mua bán hàng hóa một cách chính xác nhất.

2.1.3. Các điều kiện được giải thích rõ ràng hơn.

Trong mỗi điều kiện của Incoterms 2010 đều được viết và giải thích rất rõ

ràng. Trước mỗi điều kiện luôn có phần hướng dẫn sử dụng ngắn gọn, dễ hiểu,

khiến cho người đọc có thể dễ dàng hiểu một cách cơ bản được nội dung của mỗi

điều kiện. Các lưu ý hướng dẫn không phải là một phần của các quy tắc trong

Incoterms 2010, mà chỉ nhằm mục đích giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn về

các quy tắc này.

Ví dụ, lưu ý hướng dẫn sử dụng của các điều khoản CPT và CIP của

Incoterms 2010 nhấn mạnh rằng theo những điều khoản này, người bán được coi

là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi anh ta giao hàng cho người vận

tải chứ không phải là giao hàng tại đích đến chỉ định. Những quy tắc này có hai

điểm mấu chốt bởi rủi ro và chi phí được chuyển giao ở hai địa điểm khác nhau.

Rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua khi hàng hóa

được chuyển cho người vận tải đầu tiên, tuy nhiên người bán còn phải chịu trách

nhiệm thuê hay mua hợp đồng vận tải hàng hóa đến điểm đích xác định. Tương

Page 32: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

tự như vậy trong các điều khoản CFR và CIF Incoterms 2010, điểm chuyển giao

rủi ro và chi phí cũng là hai địa điểm khác nhau.

Ngoài ra, trong mỗi điều kiện thương mại của Incoterms 2010, nghĩa vụ

của người bán và người mua được sắp xếp một cách tương xứng với nhau lần

lượt từ A1 đến A10 và từ B1 đến B10. Các nghĩa vụ này được sửa đổi đến mức

rõ ràng nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch thuật cũng như tra cứu của

người đọc. Sự sửa đổi này đã giúp cho Incoterms 2010 gần gũi hơn với người sử

dụng.

2.2. Về mặt nội dung:Nội dung luôn phần quan trọng nhất trong Incoterms. Việc xem xét để

thay đổi nội dung của Incoterms nói chung và các điều kiện thương mại nói riêng

sao cho bám sát được thực tiễn và gần gũi với người sử dụng là một công việc

khó khăn, đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm tòi trong nhiều năm của các chuyên gia.

Trong Incoterms 2010, chúng ta có thể nhận thấy nhiều thay đổi lớn nhỏ về mặt

nội dung. Incoterms 2010 quy định trách nhiệm của người mua và người bán

trong việc giao hàng theo hợp đồng bán hàng cụ thể và rõ ràng hơn các phiên

bản trước đây. Incoterms 2010 cũng sẽ đưa vào áp dụng các thông lệ mới nhất

trong thương mại, cập nhật và tổng hợp một số quy tắc cũ.

2.2.1 Hai điều kiện thương mại mới

Sự thay đổi lớn nhất trong Incoterms 2010 là sự xuất hiện của hai điều

kiện mới DAT- Giao hàng tại bến và DAP- Giao hàng tại nơi đến. Hai điều kiện

này đã thay thế cho bốn điều kiện cũ trong Incoterms 2000 là DAF, DES, DEQ,

DDU.

Page 33: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Sự thay đổi lớn nhất trong Incoterms 2010 là sự xuất hiện của hai điều

kiện mới DAT- Giao hàng tại bến và DAP- Giao hàng tại nơi đến. Hai điều kiện

này đã thay thế cho bốn điều kiện cũ trong Incoterms 2000 là DAF, DES, DEQ,

DDU. Xu hướng container hóa và giao hàng từ điểm này đến điểm khác ngày

càng nhiều dường như đã khiến cho ICC phải có những sửa đổi quan trọng và

đưa ra hai điều khoản mới về “đã giao hàng”, đó là:

Delivered At Place (DAP) được sử dụng thay cho DAF, DES, DDU

Delivered At Terminal (DAT) được sử dụng thay cho DEQ

Những điều khoản này có thể được sử dụng với bất kỳ phương thức vận

tải nào. Một lý do có ít điều khoản hơn đơn giản là các bên thường chọn nhầm

điều khoản hoặc lẫn lộn các điều khoản, dẫn đến hợp đồng có nội dung mâu

thuẫn hoặc không rõ ràng.

Điều khoản DAF của Incoterms 2000 không còn đáp ứng nhu cầu thương

mại và thực tế còn gây ra vấn đề khi người mua không thể kiểm tra hàng hóa

trước khi hàng đến điểm đích, mà thường điểm đích lại nằm xa hơn điểm giao

hàng (tức là biên giới).

Đối với cả hai điều khoản mới DAP và DAT việc giao hàng diễn ra tại

điểm đích đến đã xác định.

Quy tắc mới DAP trong Incoterms 2010 (Delivery At Place) bao gồm tất

cả các trường hợp người bán giao hàng cho người mua trên phương tiện vận tải

đến mà chưa dỡ hàng xuống, là những trường hợp trước đó được quy định bởi

các điều khoản DAF, DES cũng như tất cả các trường hợp giao hàng tại cơ sở

của người mua hay điểm đích nào khác tại nước của người mua mà trước đó

được quy định bởi điều khoản DDU.

Page 34: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Đối với các điều khoản DAP, “ phương tiện vận tải đến” cũng có thể là

một con tàu, và “điểm đích xác định” có thể là cảng biển hay cảng dỡ.

Với quy tắc mới DAT của Incoterms 2010 (Delyvery At Terminal), việc

giao hàng được diễn ra khi hàng hóa được giao vào quyền định đoạt của người

mua tại ga/trạm xác định, tại cảng hoặc tại điểm đích – chưa được dỡ khỏi

phương tiện vận tải đến. Điều khoản DAT của Incoterms 2010 thay thế cho điều

khoản DEQ trước đó của Incoterms 2000 (Delivered Ex Quay) vốn chỉ phù hợp

cho hàng nguyên liệu.

Incoterms 2000 đã không có giải pháp thỏa đáng cho điều khoản “D” đối

với trường hợp hàng hóa được giao mà chưa dỡ xuống khỏi phương tiện vận tải

đến tại trạm/ ga. Điều khoản mới DAT của Incoterms 2010 đã giải quyết được

vấn đề này và bao gồm tất cả các trường hợp trước đó được quy định bởi điều

khoản DEQ. “Trạm xác định” trong điều khoản DAT có thể là cầu cảng tại cảng

dỡ hoặc trạm container tại cảng dỡ.

2.2.2 Các điều kiện dùng cho thương mại quốc tế và nội địa

Các điều kiện trong Incoterms 2010 được áp dụng cho cả mua bán hàng hóa

quốc tế cũng như mua bán hàng hóa trong nội bộ khối hoặc trong phạm vi một

quốc gia.

Theo truyền thống, các điều kiện thương mại Incoterms thường được sử

dụng trong các hợp đồng mua bán quốc tế, khi có sự di chuyển hàng hóa qua

biên giới quốc gia. Ngày nay,trong những năm đầu của thế kỷ XXI, tại nhiều nơi

trên thế giới, nhiều khu vực tự do hình thành, sự xuất hiện và phát triển của các

khối liên minh thương mại, như Liên minh Châu Âu EU đã khiến cho định nghĩa

biên giới quốc gia không còn ý nghĩa trong các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa

Page 35: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

các thương nhân các nước với nhau. Ngoài ra, trong thực tiễn thương mại ngày

nay, các thương nhân có xu hương sử dụng Incoterms trong cả các hợp đồng

mua bán hàng hóa trong nội địa quốc gia. Đặc biệt ở Mỹ, trong thương mại nội

địa, các thương nhân thường thích sử dụng các điều kiện Incoterms hơn là các

điều kiện giao hàng trong Bộ luật Thương mại thống nhất. Chính vì vậy, các điều

kiện thương mại cũng phải được sửa đổi và điều chỉnh để phù hợp với các điều

kiện mới của thực tiễn. Trong Incoterms 2010, các chuyên gia cũng đã lưu ý đến

điều này, nên trong trách nhiệm của người bán và người mua liên quan đến thủ

tục xuất nhập khẩu cho hàng hóa đã đưa thêm điều “nếu có”, tức là các nghĩa vụ

thông quan xuất nhập khẩu chỉ tồn tại khi có áp dụng. Còn nếu “không có” thì

không ảnh hưởng đến trách nhiệm của mỗi bên. Vì vậy, Phòng thương mại quốc

tế đã khuyến cáo là, với những điều kiện thương mại quốc tế của Incotemrms

2010, có thể vận dụng trong mua bán hàng hóa trong phạm vi một khối hay

phạm vi một quốc gia.

2.2.3 Thay đổi thuật ngữ “lan can tàu” bằng thuật ngữ “ở trên tàu”

Nếu như trong Incoterms 2000, trong phương thức giao hàng bằng điều

kiện FOB, CIF, CFR, người bán chỉ chịu trách nhiệm tới “lan can tàu” (ship rail)

thì ở Incoterms 2010, thuật ngữ này được thay thế bằng “ở trên tàu” (on board

the vessel), tức là điểm di chuyển rủi ro về tổn thất và mất mát hàng hóa chuyển từ

người mua là khi hàng được xếp lên tàu chứ không phải là lan can tàu như trước

kia.Theo đó, người bán sẽ chuyển giao rủi ro của lô hàng mình bán thực sự cho

người mua khi hàng hóa đã thực sự “ở trên tàu” chứ không phải là “lan can tàu”

như trước kia.Thuật ngữ ra đời nhằm nhấn mạnh việc phân chia rủi ro từ người

bán sang người mua một cách rõ ràng hơn so với Incoterms 2000. Trong hợp

Page 36: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

đồng thương mại quốc tế, điểm chuyển giao trách nhiệm có ý nghĩa rất quan

trọng đối với các bên, vì từ thời điểm này, nghĩa vụ thực hiện hợp đồng và việc

chịu trách nhiệm cho những rủi ro liên quan đến hàng hóa được chuyển giao từ

người bán sang người mua. Việc lấy một đường ranh giới trừu tượng và không

chính xác là “lan can tàu” đã gây khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp xuất

nhập khẩu trong việc xác định điểm chuyển giao trách nhiệm. Trong thực tế, để

giảm bớt được khó khăn, việc giao hàng tại cảng thường diễn ra khác với quy

định. Xuất phát từ thực tế đó, dựa vào mục tiêu xây dựng và hiện chỉnh các điều

kiện giao hàng trong Incoterms 2010 là phải mang tính thực tế và chính xác, nên

trong ba điều kiện chỉ áp dụng cho các phương thức vận tải đường biển và đường

thủy nội địa là FOB, CFR, CIF, giao hàng qua lan can tàu đã được thay thế bằng

giao hàng lên tàu để phù hợp hơn với thực tiễn.

2.2.4 Người bán phải chịu các chi phí liên quan đến việc dỡ hàng tại cảng

đến quy định:

Thực ra đây không phải là vấn đề mới nhưng nhóm soạn thảo các điều

kiện thương mại quốc tế Incoterms 2010 đã căn cứ vào thực tiễn hoạt động mua

bán hàng hóa quốc tế và trong nước để lưu ý vấn đề này khi giải thích các điều

kiện của Incoterms mới.

Trong Incoterms 2010, theo các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT,

DAP và DDU người bán phải tổ chức việc vận chuyển hàng hóa tới nơi theo thỏa

thuận, tức là các chi phí khi nhận hàng tại cảng đến như lệnh nhận hàng ( Deliver

Order), phí vận đơn đường biển (Bill of lading) và nhất là phí nâng hạ container (

Terminal Handing Charges) đều do người bán chịu. Trên thực tế, dù người bán là

người chịu cước phí và các chi phí liên quan, nhưng thực chất người mua mới là

Page 37: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

người chịu các chi phí này, vì thông thường chi phí này đã được tính trong tổng

giá bán. Đôi khi, khi hàng hóa được đưa tới cảng đến, người chuyên chở hoặc

người điều hành bến bãi có thể yêu cầu người mua phải trả các chi phí xếp dỡ

hoặc di chuyển hàng hóa trong bến container, như vậy, người mua đã phải trả 2

lần cho cùng một khoản, một lần trả trực tiếp cho người chuyên chở hoặc người

điều hành, một lần trả gián tiếp cho người bán dưới dạng giá cả của hàng hóa.

Incoterms 2010 đã khắc phục được điều này bằng cách quy định rõ ràng việc

chịu các chi phí này trong mục A6/B6 của các điều kiện kể trên. Chính vì vậy,

các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi rõ trong hợp đồng ai sẽ chịu các chi phí này

một cách rõ ràng, nếu không phần thiệt thòi sẽ nghiêng về các doanh nghiệp Việt

Nam.

2.2.5 Nêu rõ tham chiếu đến việc sử dụng “các phương tiện ghi chép điện tử

có giá trị tương đương”, nếu như các bên đồng ý như vậy, hoặc đó là tập

quán thương mại.

Các phiên bản trước đây đã chỉ rõ những chứng từ nào có thể được thay

thế bằng thông điệp dữ liệu điện tử và giá trị pháp lý của những chứng từ điện tử.

Tuy vậy, giờ đây, Incoterms 2010 đã cho phép việc trao đổi thông tin bằng điện

tử cũng có hiệu lực tương đương với việc trao đổi thông tin bằng giấy, miễn là

được các bên đồng ý hoặc theo tập quán thương mại. Điều này phản ánh sự thừa

nhận của ICC về tầm quan trọng ngày càng tăng và tính chắc chắn của hợp đồng

(nhờ tốc độ chuyển thông tin nhanh chóng) mà giao tiếp bằng điện tử mang lại,

đảm bảo sự phù hợp của Incoterms 2010 trong tương lai khi các giao tiếp/ thủ

tục bằng điện tử ngày càng phát triển.

Page 38: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Incoterms 2010 yêu cầu người bán và người mua phải thống nhất rõ ràng

là sẽ giao dịch với nhau bằng đường điện tử để trao đổi các dữ liệu điện tử tương

đương và chấp nhận chúng như bằng chứng về chứng từ giao hàng và vận tải.

Các quy định mới này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các giao dịch điện tử

mới trong suốt thời gian Incoterms 2010 có hiệu lực.

2.2.6 Sửa đổi các điều khoản bảo hiểm

  Incoterms 2010 là phiên bản điều kiện thương mại đầu tiên kể từ khi “Các

điều kiện bảo hiểm hàng hóa” được sửa đổi vào năm 2009 và đã tính đến sự thay

đổi của các điều kiện này.Trong phần trách nhiệm mua bảo hiểm rủi ro và tổn

thất cho hàng hóa đã chỉ ra cụ thể và rõ ràng hơn để tránh những hiểu lầm không

cần thiết. Ví dụ như người bán phải chịu phí tổn mua bảo hiểm hàng hóa như

thỏa thuận trong hợp đồng với mức bảo hiểm tối thiểu theo điều khoản (C) của

Hiệp hội những người bảo hiểm London ( LMA/IUA) hoặc bất kỳ điều khoản

nào tương tự. Khi người mua yêu cầu và chịu phí tổn thì người bán, dựa trên các

thông tin người mua cung cấp theo yêu cầu của mình, sẽ mua bảo hiểm bổ sung,

nếu có thể, như điều kiện A hoặc B, điều kiện bảo hiểm chiến tranh ( Institue

War Clauses) và/ hoặc điều kiện bảo hiểm đình công ( LMA/IUA). Incoterms

2010 đưa ra nghĩa vụ về thông tin liên quan đến bảo hiểm trong các mục A3/B3,

mục quy định về hợp đồng vận tải và bảo hiểm. Những điều khoản này được

chuyển từ các mục A10/B10 trong Incoterms 2000 vốn được quy định chung

chung hơn. Ngôn từ liên quan tới bảo hiểm trong các mục A3/B3 cũng đã được

hiệu chỉnh nhằm làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.

2.2.7. Thủ tục an ninh và các thông tin cần thiết để làm thủ tục

Page 39: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Ngày nay, nguy cơ khủng bố quốc tế ngày càng tăng, mối quan ngại về an

ninh trong quá trình vận tải hàng hóa ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải có bằng

chứng xác nhận hàng hóa ko gây nguy hiểm cho con người và cho tài sản vì bất

cứ lý do gì trừ bản chất tự nhiên của hàng hóa. Do đó, Incoterms 2010 trong các

mục A2/B2 và A10/B10 của nhiều điều kiện đã phân chia nghĩa vụ tương ứng

giữa người mua và người bán trong việc cung cấp hoặc hỗ trợ để lấy được các

chứng từ và thông tin cần thiết nhằm thông quan liên quan đến an ninh, ví dụ

như thông tin về quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

2.2.8. Bán hàng theo chuỗi

Bán hàng theo chuỗi, hay còn gọi là bán lại hàng khi hàng hóa đang trên

đường vận chuyển. Vấn đề này thường xuyên được thực hiện trong thương mại

quốc tế, thường người bán bán lại hàng đang trên đường vận chuyển hoặc đã tới

cảng bằng cách chuyển giao vận đơn chuyên chở sang cho người thứ 3 khác, tuy

nhiên trong lần soạn thảo này các chuyên gia của Phòng thương mại quốc tế đã

tính đến việc làm cho hoạt động này được chính thức hóa và phát triển hơn nữa

trong buôn bán quốc tế nói chung cũng như trong nội địa. Trong thực tế thương

mại, các loại hàng hóa nguyên liệu đồng chất, khác với hàng hóa chế biến,

thường được bán nhiều lần trong quá trình vận chuyển theo một chuỗi. Khi điều

này diễn ra, người bán ở giữa chuỗi không phải là người gửi hàng mà thực chất

là người mua hàng của người bán trước đó, và hàng hóa đã được gửi bởi người

bán hàng đầu tiên của chuỗi. Người bán ở giữa chuỗi, do đó, thực hiện nghĩa vụ

của mình đối với người mua không phải bằng việc gửi hàng mà bằng việc mua

hàng hóa đã được gửi trước đó. Nhằm mục đích làm rõ vấn đề này, Incoterms

Page 40: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

2010 đã đưa thêm nghĩa vụ “mua hàng đã gửi” để phản ánh những thông lệ hiện

nay trong mua bán hàng hóa theo dây chuyền.

2.2.9. Trách nhiệm thuê tàu biển của người bán trong điều kiện CFR và

CIF.

Trách nhiệm thuê tàu biểm của người bán trong điều kiện CFR và CIF

trong Incoterms 2010 cũng có sự khác biệt so với điều kiện CFR và CIF của

Incoterms 2000 trước đó. Đó là, trước năm 2010, người bán dành quyền thuê tàu,

theo nguyên tắc trách nhiệm tối thiểu của người bán, người bán chỉ cần thuê

“con tàu đi biển – Seagoing vessel”. Chính vì vậy đã đặt người mua trong tình

trạng không yên tâm về trách nhiệm thuê tàu của người bán cũng như những rủi

ro có thể xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển, nhiều tranh chấp

đã phát sinh xung quanh vấn đề này do người mua không nắm kỹ và hiểu rõ bản

chất của nghĩa vụ này hoặc người mua không nắm vững kiến thức liên quan đến

vận tải biển. Vì vậy, đến năm 2010, để tránh những tình huống không mong

muốn có thể xảy ra, các nhà soạn thảo đã chỉnh sửa lại cho đảm bảo với tính thực

tiễn hơn. Theo đó, trong điều kiện CFR và CIF, người bán phải có trách nhiệm

thuê một con tàu thuộc loại thường sử dụng để vận chuyển mặt hàng đó, tức là

phù hợp với đặc tính và phẩm chất của hàng hóa. Hơn nữa, trong điều kiện FOB

năm 2010 đã tăng thêm trách nhiệm của người bán trong việc thuê phương tiện

chuyên chở nếu người mua có yêu cầu và chịu chi phí ( trong điều kiện FOB của

Incoterms trước đây không có điều này), tuy nhiên người bán có thể từ chối việc

này bằng cách thông báo ngay cho người mua biết.

2.2.10. Sử dụng cụm từ “đóng gói”

Page 41: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

“ Đã được đóng gói”- cụm từ này thường được sử dụng cho nhiều mục đích khác

nhau như:

Đóng gói hàng hóa theo yêu cầu trong hợp đồng vận tải.

Đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với việc vận chuyển hàng hóa.

Việc xếp hàng đã đóng gói trong container hay trong các phương tiện vận

tải khác.

Trong quy tắc Incoterms 2010, đóng gói mang cả hai nghĩa thứ nhất và thứ

hai kể trên tức là việc đóng gói hàng hóa phải đảm bảo rằng hàng hóa được đóng

gói đồng thời phù hợp với yêu cầu trong hợp đồng vận tải và phù hợp với việc

vận chuyển hàng hóa. Các quy tắc Incoterms 2010 không đề cập đến nghĩa vụ

của các bên trong việc xếp hàng vào container và do đó các bên phải thống nhất

với nhau về vấn đề này trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Incoterms 2000

không có những quy định rõ ràng về vấn đề này.

2.3. Phân tích một số nội dung cụ thểNhư đã trình bày ở phần trên, chúng ta có thể thấy: về căn bản, Incoterms

2010 vẫn dựa trên những nội dung chính của Incoterms 2000. Tuy nhiên những

thay đổi trong bản mới này, nhằm giải quyết những bất cập của bản 2000 và để

bắt kịp với nhịp độ phát triển hiện nay của thương mại quốc tế. Đối với các

doanh nhân trên toàn thế giới, trong suốt bao nhiêu năm qua, Incoterms luôn là

cuốn sách gối đầu giường quý giá nhằm giúp họ thuận lợi hơn trong hợp tác,

kinh doanh quốc tế. Vậy, những thay đổi trong ấn bản mới nhất này của

Incoterms có tác động như thế nào đến các bên tham gia trong thương mại quốc

tế, chúng ta sẽ cùng xem xét một số khía cạnh sau:

Page 42: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

2.3.1. Incoterms 2010 đối với rủi ro bảo hiểm trong việc vận chuyển hàng

hoá.

Trong bất kỳ loại hình kinh doanh nào cũng vậy, yếu tố rủi ro là luôn luôn

tồn tại và có thể xảy ra ở mọi lúc mọi nơi. Do đó để đảm bảo cho lợi ích cũng

như hạn chế tối đa những tổn thất gặp phải khi có rủi ro, chúng ta dùng đến bảo

hiểm.

Xét riêng trong lĩnh vực thương mại quốc tế, rủi ro xuất hiện chủ yếu

trong việc vận chuyển hàng hoá. Về nguyên tắc, người vận tải sẽ chịu trách

nhiệm đưa hàng đến đích với tốc độ thông thường, hàng không bị hư hỏng hay

mất mát gì. Tuy nhiên, trách nhiệm này được giới hạn thông qua các thông lệ

quốc tế và thông qua các luật pháp, quy định của các quốc gia, với quy tắc chủ

yếu là người vận tải chịu trách nhiệm về mất mát hàng hóa do sự bất cẩn gây

nên. Trong khi đó, vì những khó khăn trong nghĩa vụ chứng minh nên trách

nhiệm này đôi khi lại được giảm bớt đáng kể và cũng rất hạn chế về giá trị tài

chính. Nhiều chủ hàng cứ tưởng rằng nếu như hàng hóa bị mất hay hư hỏng

trong quá trình vận chuyển thì người vận tải sẽ phải chịu trách nhiệm hoặc sẽ bồi

thường. Suy nghĩ như vậy là bình thường và lôgic, nhưng trên thực tế lại không

phải như vậy. Do thiếu hiểu biết về những khía cạnh này mà nhiều khi các chủ

hàng gửi hàng đi mà không mua bảo hiểm cho hàng hóa, từ đó dẫn đến việc hàng

hoá bị hư hỏng và thiệt hại là không nhỏ.

Từ thực tế nêu trên mà việc đưa những ràng buộc về rủi ro bảo hiểm vào

các hợp đồng thương mại quốc tế là tất yếu khách quan. Điều khoản giao hàng

trong hợp đồng mua bán cần quy định rõ ai sẽ phải chịu trách nhiệm về việc mất

Page 43: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

mát, hư hỏng hàng hóa trong quá trình vận chuyển, có nghĩa là ai sẽ phải gánh

trách nhiệm pháp lí về mất mát hư hỏng đối với hàng hóa. Nếu như người bán và

người mua đã thống nhất về điều khoản cụ thể trong Incoterms áp dụng cho việc

giao hàng, thì điều khoản Incoterms đó cũng đã qui định ai phải chịu rủi ro đối

với phần nào của cả quá trình vận chuyển. Do đó, có thể thấy được những thay

đổi trong Incoterm 2010 là rất quan trọng và việc nắm các điều kiện trong đó để

áp dụng là rất cần thiết. Để làm rõ hơn những thay đổi so với phiên bản cũ, sau

đây chúng ta sẽ cùng xem xét trách nhiệm bảo hiểm của mỗi bên tham gia qua

từng điều kiện của Incoterms 2010:

- Điều kiện EXW:

Bảo hiểm hàng hóa do người mua lo.

Nếu hàng không được nhận vào ngày giao hàng đã thống nhất do lỗi hay

sự bất cẩn của người mua hoặc người chịu trách nhiệm nhận hàng, thì rủi

ro đã chuyển sang người mua khi hàng hóa đặt trong kho của người bán.

Bảo hiểm hàng hóa của người mua sẽ bảo hiểm cho rủi ro này.

- Điều kiện FCA:

Người mua thanh toán tiền bảo hiểm hàng hóa.

Người bán nên mua bảo hiểm cho phần vận chuyển từ khi hàng bắt đầu

được chuyển đi cho đến địa điểm giao hàng mà người mua chọn hoặc cho

đến địa điểm mà hàng được chuyển lên phương tiện vận tải của người

mua.

Hư hỏng đối với hàng hóa mà có thể nhìn thấy rõ khi giao hàng cho người

vận tải cần được ghhi lại trong phần chú thích hàng hóa để tránh tranh

Page 44: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

chấp về tình trạng hư hỏng và thời điểm xảy ra hư hỏng, và làm rõ bảo

hiểm của bên nào chịu trách nhiệm về hư hỏng này.

- Điều kiện CPT:

Người bán lo bảo hiểm cho đoạn đầu của quá trình vận chuyển cho đến

người vận tải đầu tiên.

Người mua chịu trách nhiệm và mua bảo hiểm cho đoạn vận chuyển hàng

đến điểm đích đã định.

- Điều kiện CIP:

Người bán có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì quyền lợi của người mua cho đến

điểm đích đã nêu.

Người mua nên kiểm tra xem các điều khoản bảo hiểm có phù hợp với

mình hay không.

Nếu không thống nhất được về điều khoản bảo hiểm, người bán chỉ có

nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hóa đến điểm đích theo phạm vi bảo

hiểm tối thiểu (không bảo hiểm cho tổn thất một phần) và giá trị hàng hóa

nêu trong hợp đồng cộng với 10% bằng đồng tiền sử dụng trong hợp đồng.

- Điều kiện DAT (tên ga tại cảng hay điểm đích) Incoterms 2010:

Người bán mua bảo hiểm cho đến khi hàng hóa được dỡ tại ga ở cảng.

Người mua mua bảo hiểm cho hàng hóa từ điểm hàng được dỡ xuống tại

ga ở cảng hay ở điểm đích.

Page 45: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Các bên cũng có thể thống nhất là phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo

hiểm của người bán sẽ bao gồm toàn bộ quá trình vận chuyển.

- Điều kiện DAP (tên điểm đích) Incoterms 2010:

Người bán mua bảo hiểm cho hàng hóa cho đến trạm hải quan được nêu ở

nước nhập khẩu nếu là ở ngoài khối EU hoặc cho đến điểm đích được nêu

trong EU sẵn sàng để dỡ.

- Điều kiện DDP (tên điểm đích) Incoterms 2010:

Người bán mua bảo hiểm cho hàng hóa đối với toàn bộ quá trình vận

chuyển cho đến chỗ trong điểm đích nơi mà hàng hóa được giao vào

quyền định đoạt của người mua, đã làm thủ tục nhập khẩu, hàng vẫn nằm

trên phương tiện vận tải đến, sẵn sàng để dỡ.

- Điều kiện FAS (tên cảng đi) Incoterms 2010:

Người bán lo bảo hiểm cho hàng hóa cho đến cầu cảng dọc theo mạn tàu

bốc hàng hoặc một tàu nhẹ đậu dọc theo mạn tàu mẹ.

Người mua lo bảo hiểm cho hàng hóa từ khi hàng được đặt dọc theo mạn

tàu ở cảng đi.

Nếu tàu đến chậm hơn so với ngày bốc hàng dự kiến, người mua chịu

trách nhiệm lưu hàng tại cầu cảng.

- Điều kiện FOB (tên tàu, cảng đi) Incoterms 2010:

Người bán chi trả cho bảo hiểm hàng hóa cho đến khi bốc hàng lên boong

tàu được người mua chỉ định tại điểm bốc hàng tại cảng bốc hàng đã nêu.

Page 46: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Người mua lo bảo hiểm cho phần chính của quá trình vận chuyển, tức là từ

khi hàng được bốc lên boong tàu tại cảng đi.

Nếu tàu đến chậm, người bán có thể bỏ chi phí lưu hàng tại cảng đi. Về

nguyên tắc thì đây là nhiệm vụ của người mua vì anh ta phải đảm bảo tàu

đến cảng vào ngày đã thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, người bán

thường chịu chi phí này và vì thế người bán cần đảm bảo rằng hợp đồng

bảo hiểm của mình có bảo hiểm rủi ro về chi phí lưu hàng.

- Điều kiện CFR (tên cảng đích) Incoterms 2010:

Người bán lo bảo hiểm hàng hóa cho đến khi giao hàng trên boong tàu.

Người mua lo bảo hiểm cho phần vận chuyển sau khi hàng đã được giao

lên boong tàu tại cảng đi.

Nếu tàu đến muộn, người bán cần đảm bảo rằng phạm vi hợp đồng bảo

hiểm của mình có bảo hiểm rủi ro chi phí lưu hàng tại cảng đi.

- Điều kiện CIF (tên cảng đích) Incoterms 2010:

Người bán có nghĩa vụ mua hợp đồng bảo hiểm cho rủi ro của người mua

là hàng bị mất mát hoặc hư hỏng trong quá trình vận chuyển đến đích từ

khi giao hàng lên boong tàu tại cảng đi.

Người bán chỉ có nghĩa vụ mua bảo hiểm với phạm vi tối thiểu (điều

khoản bảo hiểm chuẩn là C), tức là không bao gồm mất mát hay tổn thất

một phần, và bảo hiểm giá trị nêu trong hợp đồng cộng thêm 10% theo

đồng tiền ghi trong hợp đồng.

Page 47: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Dựa trên nền tảng của Incoterms 2000, phiên bản 2010 cũng vẫn chỉ có

hai điều kiện liên quan tới bảo hiểm đó là CIF và CIP. Theo các điều kiện này

người bán có nghĩa vụ mua bảo hiểm vì lợi ích của người mua. Còn trong các

trường hợp khác các bên tự quyết định về việc có mua bảo hiểm hay không và

bảo hiểm theo mức độ nào. Người bán có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho người mua

hưởng, song lại không rõ yêu cầu chính xác của người mua về việc này. Căn cứ

theo các Điều khoản bảo hiểm hàng hoá (Institute Cargo Clauses) do Hiệp hội

những người bảo hiểm Luân đôn soạn thảo, bảo hiểm được tiến hành ở "phạm vi

tối thiểu" thuộc Điều khoản C, bảo hiểm "phạm vi trung bình" thuộc Điều khoản

B và bảo hiểm "phạm vi tối đa" thuộc Điều khoản A. Do việc bán hàng theo điều

kiện CIF, người mua có thể bán số hàng đang trong quá trình vận chuyển đó cho

một người mua khác – và người mua này lại có thể muốn bán tiếp số hàng đó đi

– nên không hề biết phải mua bảo hiểm như thế nào để phù hợp với những người

mua tiếp sau, do vậy việc mua bảo hiểm theo điều kiện CIF từ trước tới nay là ở

phạm vi tối thiểu song người mua vẫn có quyền yêu cầu người bán mua thêm các

loại bảo hiểm khác. Việc mua bảo hiểm ở phạm vi tối thiểu không phù hợp với

việc bán hàng công nghiệp chế tạo do các rủi ro về mất cắp, mất trộm chi tiết

hoặc bốc dỡ không đúng hoặc yêu cầu canh giữ các mặt hàng này đòi phải được

bảo hiểm ở phạm vi rộng hơn so với phạm vi quy định của điều khoản C. Do có

sự khác biệt với điều kiện CIF, nên điều kiện CIP không được sử dụng trong

mua bán hàng hoá (nguyên liệu) và lẽ ra nên quy định mua bảo hiểm phạm vi tối

đa theo theo điều kiện CIP chứ không phải bảo hiểm phạm vi tối thiểu. Song nếu

hai điều kiện CIF và CIP lại có sự khác nhau về trách nhiệm mua bảo hiểm của

người bán thì dễ dẫn đến sự nhầm lẫn và do vậy cả hai điều kiện này đều quy

định nghĩa vụ của người bán là mua bảo hiểm phạm vi tối thiểu.

Page 48: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Hợp đồng bảo hiểm tối thiểu phải bảo hiểm giá trị hàng hóa theo giá ghi

trong hợp đồng cộng với 10% (tổng cộng 110%) và sử dụng loại tiền ghi trong

hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm sẽ bảo hiểm hàng hóa từ điểm giao hàng ghi trong

A4 v A5 cho đến ít nhất là điểm đích được nêu. Theo đó Hợp đồng bảo hiểm

phải được kí với người bảo hiểm hoặc công ty bảo hiểm, cho phép người mua

hoặc một ai khác được chỉ định được hưởng quyền lợi bảo hiểm đối với hàng

hóa có thể trực tiếp đòi bồi thường từ người bảo hiểm. Khi người mua yêu cầu và

cung cấp bất kì thông tin cần thiết đối với người bán, thì người bán phải mua

thêm phạm vi bảo hiểm (chi phí do người mua chịu) nếu có phạm vi đó, ví dụ

như những phạm vi trong các điều khoản (A) hoặc (B) của Các điều khoản bảo

hiểm hàng hóa chuẩn (LMA/IUA) hay bất kì điều khoản tương tự nào khác, hay

bất kì phạm vi bảo hiểm nào phù hợp với các điều khoản bảo hiểm chiến tranh,

đình công hay bất kì điều khoản tương tự nào khác. Người bán phải cung cấp

cho người mua hợp đồng bảo hiểm hay bất kì bằng chứng nào khác về phạm vi

bảo hiểm. Hơn nữa, người bán phải cung cấp cho người mua, nếu người mua yêu

cầu và chịu chi phí và rủi ro, bất kì thông tin gì mà người mua cần để mua thêm

phạm vi bảo hiểm.

Khi quyết định về các điều khoản bảo hiểm, cần cân nhắc xem loại tổn

thất, hư hỏng nào có thể xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Có

thể nói rằng hàng chế biến gia công được bảo hiểm tốt nhất theo phạm vi bảo

hiểm A do những rủi ro mất cắp, ăn cắp vặt, kê nhấc hoặc bảo quản không đúng,

trong khi những hàng nguyên liệu thô lại có thể sử dụng các điều khoản B hoặc

C là đủ. Nếu người mua theo điều kiện CIP thấy đặc biệt cần thiết phải quan tâm

tới vấn đề này, và việc bảo hiểm thêm là cần thiết, thì người mua phải quy định

với người bán rằng người bán phải mua bảo hiểm thêm hoặc tự bản thân người

Page 49: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

mua phải thu xếp mua bảo hiểm thêm. Cũng có những trường hợp đặc biệt người

mua có thể muốn được bảo hiểm ở phạm vi rộng hơn phạm vi quy định trong

điều khoản A, ví dụ bảo hiểm đối với trường hợp xảy ra chiến tranh, bạo động,

dân biến, đình công hoặc các biến động khác trong giới lao động. Nếu người

mua muốn người bán thu xếp các loại bảo hiểm đó thì phải thông báo cho người

bán biết và trong trường hợp đó người bán sẽ phải mua các loại bảo hiểm đó nếu

pháp luật nước sở tại quy định mua được.

Một cách tổng quát thì căn bản các điều kiện bảo hiểm trong Incoterms

2010 vẫn giống như phiên bản cũ, nhưng có một điểm nổi bật đó là từ ngữ được

hiệu chỉnh cho phù hợp và rõ ràng hơn. Đồng thời với đó là việc chuyển toàn bộ

các vấn đề liên quan đến bảo hiểm vốn ở mục A10/B10 trong phiên bản 2000

sang hết mục A3/B3, tạo được tính liên kết cũng như sự thống nhất, tránh nhầm

lẫn khi tra cứu. Từ đó, giúp các hợp đồng có hiệu quả cao hơn.

2.3.2 Incoterms 2010 đối với phương thức thanh toán.

Trong các hợp đồng kinh doanh, đặc biệt là trong thương mại quốc tế thì

rủi ro thanh toán là rất lớn. Với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, mỗi bên tham gia

đều hướng tới những mục đích riêng của mình. Với người bán, họ quan tâm nhất

là việc người mua có thanh toán đầy đủ và đúng thời hạn hay không. Với người

mua, thì điều này lại hướng về lô hàng của mình, xem nó có đảm bảo chất lượng,

số lượng và hàng đến đúng thời hạn trong hợp đồng để không trì hoãn kế hoạch

kinh doanh. Nhưng trong thực tế, người bán lại có quyền kiểm soát về hàng hoá,

thông qua các chứng từ sở hữu, hay do một người chỉ định còn người mua thì

ngược lại, kiểm soát số tiền trong hợp đồng, chủ động trong việc thực hiện thanh

toán. Do lợi ích và quyền hạn khác nhau như thế, mà mỗi bên tham gia hợp đồng

Page 50: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

đều cần phải xem xét kỹ lưỡng khi ký kết hợp đồng, nhằm chọn lựa được những

phương thức thanh toán phù hợp nhất, vừa đảm bảo lợi ích, vừa đảm bảo việc

kinh doanh diễn ra thuận lợi.

Trong thương mại quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác

nhau. Mỗi phương thức lại có ưu điểm cũng như hạn chế riêng, cũng như có

thuận lợi và khó khăn đối với cả người mua và người bán. Dưới đây là một số

phương thức thanh toán cơ bản thường được áp dụng trong mua bán ngoại

thương (sắp xếp theo mức độ rủi ro tăng dần về phía người bán):

Trả trước, điện chuyển tiền (T/T): là hình thức mà người mua hàng, bằng

một phương thức nào đó, thanh toán trước cho người bán số tiền của hợp đồng

theo một tỷ lệ nhất định mà hai bên thoả thuận.

Thư tín dụng (L/C): thực chất là một sự thỏa thuận, trong đó ngân hàng

(Ngân hàng mở thư tín dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (Người xin

mở thư tín dụng) cam kết hay cho phép một ngân hàng khác (Ngân hàng ở nước

xuất khẩu) chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người hưởng lợi với điều

kiện người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các

điều khoản đã ghi trong thư tín dụng.

Phương pháp nhờ thu: là một phương thức thanh toán trong đó người xuất

khẩu uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ tiền hàng của người nhập khẩu trên

cơ sở xuất trình chứng từ. Ngân hàng người bán (người xuất khẩu) xuất trình bộ

chứng từ cho người mua (người nhập khẩu) thông qua ngân hàng của người mua

để được thanh toán số tiền hàng còn lại hoặc nhận được chấp nhận thanh toán

hối phiếu trả chậm vào một thời gian xác định trong tương lai. Trách nhiệm pháp

lý của ngân hàng theo phương thức nhờ thu sẽ bị ràng buộc theo sự chỉ dẫn của

người bán trong việc phát hành và gửi các chứng từ. Trách nhiệm đó sẽ thay đổi

Page 51: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

trong hai trường hợp “nhờ thu chấp nhận chứng từ” (documents against

acceptance - viết tắt: D/A) hoặc “nhờ thu đổi chứng từ” (Documents against

Payment - viết tắt: (D/P).

Thanh toán Ghi sổ: người xuất khẩu mở một tài khoản để ghi nợ người

nhập khẩu yêu cầu người nhập khẩu trả tiền cho người xuất khẩu vào thời điểm

xác định trong tương lai. Phương thức này chỉ thuận tiện và an toàn trong trường

hợp hai bên thực sự tin cậy lẫn nhau, đã mua bán hàng nhiều lần và người mua

có uy tín thanh toán.

Do khuôn khổ và nội dung của khóa luận không cho phép, chúng ta sẽ

không phân tích kỹ lưỡng về nội dung, hay cách thức thực hiện của từng phương

thức thanh toán trên đây. Một cách đơn giản, ta cùng xem xét bảng dưới đây:

Bảng tóm tắt ưu và nhược điểm của các hình thức thanh toán trong nghiệp

vụ mua bán quốc tế

Page 52: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay
Page 53: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Qua việc quan sát bảng tóm tắt trên, có thể thấy: Với mục đích là tối đa

hoá lợi nhuận và hạn chế rủi ro, nhà xuất khẩu sẽ ưa thích phương pháp trả trước

vì sẽ không chịu sức ép phát sinh thêm rủi ro, đồng thời lại thu được tiền hàng

sớm để quay vòng vốn trong kinh doanh. Trong khi đó, nhà nhập khẩu lại

nghiêng về hình thức ghi sổ như để nắm lợi thế về mình, đảm bảo chất lượng

hàng gửi đến hơn. Do đó, khi ký kết các bên sẽ gặp một số điểm bất đồng về

quan điểm cần giải quyết, do đó mà trong thời gian gần đây, phương thức tín

dụng chứng từ khá được ưa chuộng. Lí do chính của hiện trạng trên là trong

phương thức thanh toán này thì quyền lợi của các bên tham gia là đảm bảo như

nhau, thông qua tổ chức thứ ba là ngân hàng. Theo đó, phía có trách nhiệm cao

nhất là Ngân hàng mở thư tín dụng.  Họ sẽ quyết định thanh toán hoặc không

thanh toán cho việc giao dịch mua bán giữa hai bên. Tuy nhiên, phương thức này

có nhược điểm là: Thời gian thanh toán chậm (do phải kiểm soát chặt chẽ chứng

từ) và chi phí cao (do vận chuyển chứng từ nhiều lần, từ nơi này đến nơi khác,

giữa các bên.

Hiện nay, có một điều khá bất cập là ngay cả khi các bên đã thống nhất

được điều kiện giao hàng cũng như thanh toán thì việc thực hiện hợp đồng vẫn

không diễn ra một cách suôn sẻ. Điều này là do các bên tham gia một cách vô

tình đã phạm phải những lỗi không đáng có, làm ảnh hưởng đến thương vụ làm

ăn. Chúng ta có thể dễ dàng liệt kê ra những lỗi thường mắc phải như:

- Về phía nhà nhập khẩu:

Điều khoản giao hàng không phù hợp.

Không nhất quán giữa các điều khoản giao hàng và các chứng từ cần thiết.

Không nhất quán về logic (phương thức vận chuyển, điều khoản giao

hàng, chứng từ).

Page 54: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

- Về phía nhà xuất khẩu:

L/C không phù hợp với hợp đồng mua bán – do người nhập khẩu đưa ra

yêu cầu sai cho ngân hàng.

L/C không phù hợp với hợp đồng mua bán – lỗi/khác biệt do khâu xử lí

chứng từ của ngân hàng.

Người xuất khẩu tin rằng L/C phản ánh đúng hợp đồng mua bán mà không

kiểm tra kỹ - coi thường vấn đề.

Thường không hiểu hết tầm quan trọng của những chứng từ được yêu cầu.

Không hiểu rõ các yêu cầu của UCP 600 và thông lệ chuẩn của các ngân

hàng trong thương mại quốc tế.

Rủi ro đáng kể về sự khác biệt chủ yếu trong chứng từ do bên thứ ba đưa

ra.

Những lỗi trên, kể cả của người xuất khẩu hay nhập khẩu, trước hết, một

cách chủ quan là do chính bản thân của các bên tham gia, do chưa có hiểu biết

một cách đầy đủ về các quy định, thông lệ quốc tế. Nhưng khách quan mà nói,

điều đó cũng một phần là do quy định còn chưa thật sự rõ ràng, dễ hiểu. Và

nhiệm vụ của Incoterms 2010 chính là giải quyết vấn đó.

Mặc dù không hướng dẫn một cách cụ thể từng điều kiện này sẽ phù hợp

với phương thức thanh toán nào nhưng bằng cách diễn đạt của mình, Incoterms

2010 vẫn giúp người sử dụng có được cách lựa chọn hợp lý nhất. Có thể lấy ví

dụ cụ thể là phương thức thanh toán nhờ thu sẽ không dùng trong trường hợp nhà

xuất khẩu sử dụng điều khoản EXW của phiên bản mới này, hay chúng ta cũng

có thể thấy một điều căn bản nữa là: do các điều kiện "C" là các điều kiện của

loại hợp đồng gửi hàng đi, nên phương thức thanh toán hay được sử dụng trong

các điều kiện này là tín dụng chứng từ. Khi đã được các bên thống nhất và quy

Page 55: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

định trong hợp đồng mua bán hàng rằng người bán sẽ được thanh toán khi xuất

trình các chứng từ giao hàng quy định với một ngân hàng theo một phương thức

tín dụng chứng từ, thì việc người bán phải chịu rủi ro và chi phí sau thời điểm đã

được trả tiền theo các phương thức tín dụng chứng từ hoặc phương thức tương tự

khác sau khi đã gửi hàng đi là hoàn toàn trái với mục đích tín dụng chứng từ.

Tuy nhiên, người bán phải chịu chi phí vận chuyển cho dù đó là cước trả khi gửi

hàng hoặc cước trả khi hàng tới nơi đến (cước trả sau), còn các chi phí phát sinh

thêm do các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng đi do người mua phải chịu.

Thêm vào đó, việc phân chia lại bố cục của Incoterms 2010 như: mục

A1/B1 thêm phần cho phép các trao đổi thông tin bằng điện tử có hiệu lực tương

đương với việc trao đổi thông tin bằng giấy, mục A2\B2 giấy phép kiểm tra an

ninh và các thủ tục khác hay ở mục A8\B8 nêu rõ chứng từ giao hàng là một

chứng từ vận tải hoặc một chứng từ điện tử tương ứng, đối với điều kiện EXW,

FCA, FAS, FOB thì chứng từ giao hàng có thể là một biên lai và chứng từ giao

hàng có thể là một phần trong quy trình thanh toán. Điều đó đã cung cấp cho các

bên tham gia hợp đồng một cái nhìn toàn diện hơn về các chứng từ cần thiết, từ

đó khắc phục được các lỗi về sai sót trong bộ chứng từ thanh toán, nâng cao

được chất lượng thực hiện các hợp đồng. Ngoài ra, có thể nhắc đến việc

Incoterms 2010 sử dụng các từ ngữ dể hiểu, thông dụng cũng đã phần nào giúp

cho việc dịch thuật các phiên bản ở nhiều quốc gia được thuận lợi hơn, từ đó

việc tìm hiểu áp dụng cũng diễn ra thuận lợi hơn.

2.3.3 Incoterms 2010 và vấn đề an ninh chuỗi cung ứng toàn cầu.

Từ trước đến nay, an ninh nói chung và an ninh trong thương mại nói

riêng luôn luôn được coi là một trong những vấn đề cấp thiết và được đặt lên

hàng đầu. Đặc biệt trong thời gian gần đây thì vấn đề này càng được quan tâm,

Page 56: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

xét riêng trong thương mại quốc tế những quan ngại về an ninh trong vận chuyển

hàng hoá cũng ngày càng tăng. Có thể lấy một mốc lịch sử khá cụ thể là sự kiện

11/9/2001 xảy ra khủng bố ở Mỹ. Kể từ đó đến nay, các quốc gia đều chú ý đẩy

mạnh an ninh của mình hơn. Ví dụ điển hình là: khối liên minh EU đã bổ sung

nội dung về an toàn và an ninh trong Luật Hải quan (Từ 1/7/2009, các dữ liệu về

an ninh phải được cung cấp trước khi hàng rời đi hay đến một địa điểm trong địa

giới hải quan của Cộng đồng châu Âu ). Về phía Mỹ: ngày 1/3/2003, thành lập

cơ quan Hải quan và Phòng vệ biên giới thuộc Bộ An ninh nội địa, ngoài ra từ

tháng 11 năm 2001 còn thực hiện chương trình C-TPAT (US Custom – Trade

Partnership Against Terrorism) là chương trình an ninh phối hợp giữa Hải Quan

Hoa Kỳ và các Hiệp Hội Nhập Khẩu vào Hoa Kỳ, hiện tại có rất nhiều hãng lớn

và các công ty nhập khẩu hàng háo vào Hoa Kỳ đều tham gia chương trình này

và họ cũng mong muốn các công ty đối tác và nhà máy sản xuất cần tuân thủ

theo quy định của C-TPAT để bảo đảm an toàn cho tài sản và con người... Tuy

mỗi quốc gia đều thực hiện những quy định riêng của mình nhằm đảm bảo về

vấn đề an ninh nhưng khi thực hiện kinh doanh quốc tế hoặc ngay cả trong

những khối liên minh với nhau thì các quy định này lại chưa được hài hòa hoàn

toàn và chưa đảm bảo tính thống nhất, vì thế khi thực hiện hợp đồng vẫn còn

những khúc mắc và chưa thống nhất. Trong incoterms 2010 đã có những thay

đổi và điều chỉnh nhằm giải quyết tình trạng trên.

Kể từ khi được Phòng Thương Mại Quốc Tế (ICC) giới thiệu vào năm

1936, Incoterms đã thiết lập nên một tập hợp các qui tắc cộng đồng thương mại

toàn cầu có thể sử dụng cho việc diễn giải các điều kiện trong hợp đồng vận

chuyển. Luôn luôn được xem xét trên khía cạnh nhiệm vụ của bên bán trong việc

giao hàng, Incoterms tập trung vào trách nhiệm đối với rủi ro về thất lạc hay hư

Page 57: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hại đối với hàng hóa bán ra, việc phân định chi phí vận chuyển và những chi phí

liên quan đến hải quan giữa bên bán và bên mua, và nghĩa vụ thực hiện các hoạt

động theo chức năng nhất định liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa. Trong

suốt 72 năm qua, ICC đã không ngừng nỗ lực trong việc cập nhật Incoterms

nhằm theo kịp với những tiến triển của thực tiễn thương mại quốc tế. Hai ví dụ

điển hình của việc cập nhật này là việc sửa đổi việc áp dụng đối với hàng hóa

trong container vận chuyển theo đường biển và chiết khấu trong thương mại điện

tử. Khi Incoterms được cập nhật mới vào năm 2010, chúng ta có thể chắc chắn

rằng mối quan tâm hàng đầu sẽ là khả năng điều chỉnh đối với Incoterms trước

những thách thức về an ninh chuỗi cung ứng.

Trên phương diện đó, điểm mấu chốt mà ICC cần phải phân tích chính là

việc xác định các yếu tố đặc thù về an ninh trong nghĩa vụ giao hàng của bên bán

và về việc những cam kết về trách nhiệm đối với những hoạt động đó có thể

động viên như thế nào cho những nỗ lực về an ninh hàng hóa trên khắp thế giới.

Vì Incoterms vốn đã đề cập đến những chức năng trong đó bao gồm việc đóng

gói hàng hóa và hợp đồng vận chuyển, ICC hoàn toàn có cơ hội mở rộng phạm

vi của Incoterms sao cho bao gồm luôn việc xem xét đến các vấn đề về an ninh.

Và tất nhiên, điều quan trọng là phải tiếp tục đưa ra các quy tắc nhằm đảm bảo

các ưu tiên hàng đầu về an ninh và vừa duy trì được vị thế của Incoterms là một

tập hợp những tiêu chuẩn để cho tất cả các quốc gia áp dụng. Một tin tốt lành

cho ICC là Incoterms vốn đã bao hàm những điều khoản có thể được áp dụng

cho vấn đề an ninh hàng hóa. Ví dụ như trong Incoterms 2000 có một phần

“Giấy phép, việc cấp phép và các thủ tục”. Chính ngay tại phần này bên mua sẽ

thấy nghĩa vụ nhập khẩu của mình có nghĩa là “…tự mình chịu những rủi ro và

chi phí để đạt được bất kỳ giấy phép nhập khẩu hay sự cấp phép chính thức nào

Page 58: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

khác và tiến hành thích hợp các thủ tục hải quan cho việc nhập khẩu hàng hóa”.

Ngược lại, một phần tổng quát gọi là “Các nghĩa vụ khác” quy định một phần

trách nhiệm của bên bán như sau “…hỗ trợ bên mua trong việc thu thập bất kỳ

tài liệu hay các tin nhắn điện tử tương đương nào được ban hành hay phát đi từ

nước chở hàng và/hoặc từ nơi xuất xứ mà bên mua có thể yêu cầu cho việc nhập

khẩu những hàng hóa đó.” Những phần trích dẫn trên và những phần khác trong

Incoterms 2000 thực sự đã thiết lập một nền tảng vững chắc cho việc phân định

trách nhiệm trong vấn đề an ninh hàng hóa chuyên chở, cũng cần phải lưu ý đến

những nét khác biệt nhất định về mặt ý nghĩa trong ấn bản 2010.

Lần đầu tiên, với phiên bản 2010, Incoterms đã đề cập đến vấn đề an ninh

trong vận chuyển hàng hóa một cách rõ ràng và cụ thể nhất. Một thực tế cho

thấy, ngày nay, khi không chỉ nạn khủng bố mà việc gian lận trong mua bán

hàng hóa ngày càng tăng, các thủ đoạn lừa đảo ngày càng trở lên tinh vi, đồng

thời các mặt hàng ngày càng phong phú thì vấn đề an ninh đối với hàng hóa luôn

được đặt lên hàng đầu. Trong Incoterms 2010, chúng ta có thể thấy được sự xuất

hiện của các nghĩa vụ liên quan đến việc giải phóng hàng hóa vì lý do an ninh.

Incoterms cũng phản ánh nhiệm vụ của mỗi bên về nghĩa vụ thông tin và phân

bổ chi phí. Các nghĩa vụ này được đề cập tại các khoản A2/B2 – Giấy phép kiểm

tra an ninh và các thủ tục khác và A10/B10 – Hỗ trợ thông tin và chi phí liên

quan.

Tiến hành phân tích, so sánh Incoterms 2000 và Incoterms 2010 một cách

kỹ lưỡng. Cho ta thấy những nội dung của phiên bản cũ cần được sửa đổi theo

một cách để có thể giúp chúng ta đặt trách nhiệm an ninh chuỗi cung ứng lên vai

những người điều hành. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý rằng có một số

bước ban đầu các công ty cần tiến hành nhằm hỗ trợ cho các nỗ lực của ICC.

Page 59: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Điều đầu tiên là các công ty phải bắt đầu tham khảo Incoterm trong tất cả các

hợp đồng quốc tế của mình. Ngày nay có quá nhiều hợp đồng được thực thi (đặc

biệt là tại Mỹ) mà không hề đề cập đến Incoterms. Bên cạnh đó, các công ty nên

thêm vào trong hợp đồng một phần nêu rõ bên bán sẽ phải nỗ lực đáp ứng mọi

yêu cầu hợp lý của bên mua về việc cung cấp các thông tin hay tài liệu cần thiết

cho việc tuân thủ các luật lệ về an ninh của nước nhập khẩu. Loại điều khoản

phụ này rất phù hợp với tình hình thế giới hiện tại, đồng thời sẽ hỗ trợ rất nhiều

cho phần diễn giải và điều đó đã được thể hiện trong Incoterm 2010.

Rõ ràng là ấn bản cập nhật đã bao gồm việc diễn giải chi tiết nhằm chỉ rõ

sự khác biệt giữa “các thủ tục hải quan” với “các chức năng liên quan đến an

ninh”. Vì chính phủ nhiều nước có sự phân biệt về luật giữa hai hoạt động này,

nên điều quan trọng là ICC đã chỉ ra được chúng là các chức năng riêng biệt,

không chỉ thế Incoterms 2010 còn bao hàm các trách nhiệm của bên bán/bên

mua về cả vấn đề hải quan lẫn an ninh. Bên cạnh đó, một thay đổi cũng rất quan

trọng là việc chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ “buyer” (bên mua) mà ta vẫn sử

dụng với cái mà nhiều cơ quan Hải quan gọi là “importer of record” (nhà nhập

khẩu). Một điểm có vẻ như về ngữ nghĩa này lại trở nên đặc biệt quan trọng

trong các giao dịch mà ở đó bên mua và nhà nhập khẩu không phải là một.

Qua đó cho ta thấy một điều: dù không hoàn toàn là trách nhiệm của mình

nhưng với những thay đổi trong Incoterms 2010, ICC đã hoàn thành khá tốt việc

nâng cao sự hiểu biết của mọi người đối với các quy tắc về cam kết an ninh. Và

một khi các tiêu chuẩn toàn cầu được áp dụng nhằm làm cho luật pháp của các

quốc gia có chủ quyền trở nên tương thích với nhau hơn, nó sẽ là nền tàng góp

phần buộc các bên kinh doanh phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của

mình bất kể họ ở đâu hay họ đang kinh doanh trong lĩnh vực nào, từ đó an ninh

Page 60: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hàng hóa trên phạm vi toàn thế giới cũng sẽ được đảm bảo. Thương mại quốc tế

nhờ thế mà cũng được mở rộng hơn.

Tóm lại, qua những phân tích trên ta có thể thấy được ảnh hưởng to lớn

của các thay đổi trong Incoterms 2010 đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu. Từ đó,

thấy được những nỗ lực của phòng thương mại quốc tế ICC trong việc góp phần

phát triển nền kinh tế thế giới, với đội ngũ chuyên gia của mình, ICC luôn kịp

thời phân tích và đưa ra những giải pháp phù hợp nhất với xu hướng của nền

kinh tế.

Page 61: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Chương 3: KHUYẾN NGHỊ CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT

NHẬP KHẨU VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC ĐIỀU

KHOẢN INCOTERMS 2010

3.1 Hiểu biết và vận dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu Việt Nam3.1.1 Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong quý I năm

2011

3.1.1.1 Hoạt động xuất khẩu

a/ Kim ngạch và tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

Đã gần 4 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, mọi hoạt động kinh tế

của nước ta phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh

qua từng năm. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD,

tăng 24% so với năm 2009 và 17% so với kế hoạch. Kim ngạch xuất khẩu đạt

mức khả quan do đóng góp từ tăng cả giá và lượng trước sự phục hồi phần nào

của kinh tế thế giới so với năm 2009. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã và đang

có những chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng nhóm hàng công

nghiệp và giảm dần xuất khẩu hàng thô. Kết quả khả quan trong xuất khẩu năm

2010 không chỉ góp phần vào tăng trưởng GDP cả nước mà còn giúp tiêu thụ

hàng hoá, cải thiện đời sống của nhân dân và kết quả này là cơ sở để các cơ quan

hữu quan tiếp tục phấn đấu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, phấn đấu đạt kim

ngạch xuất khẩu trong năm 2010, tạo nền tảng thuận lợi cho công tác điều hành,

chỉ đạo và thực hiện tốt công tác xuất nhập khẩu trong năm 2011 và các năm tiếp

theo.

Page 62: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Sang năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của cả nước 3 tháng đầu năm 2011

ước tính đạt 19,2 tỷ USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo đánh giá

của Bộ Công thương, đây là những con số khả quan, đáng khích lệ nhờ vào nỗ

lực của cộng đồng các doanh nghiệp. Sau đây là bảng thống kê giá trị xuất khẩu

của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2011:

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu và chỉ số phát triển của Việt Nam 3 tháng đầu năm

2011 và chỉ số phát triển (so với tháng trước đó)

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Công thương Việt Nam

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2011 ước tính đạt 7,1 tỷ USD,

tăng 45,4% so với tháng trước và tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Tính

chung quý I/2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 19,2 tỷ USD, tăng 33,7%

so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 8,8 tỷ

USD, tăng 40,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,4

tỷ USD, tăng 28,7%.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng cao một mặt do lượng xuất

khẩu tăng, mặt khác do đơn giá xuất khẩu một số mặt hàng tăng. Một số mặt

hàng có đơn giá xuất khẩu tăng cao là: Giá cao su tăng 70%; hạt tiêu tăng

60%; cà phê tăng %; hạt điều tăng 37,8%; than đá tăng 56%...Nếu loại trừ yếu

tố tăng giá thì kim ngạch xuất khẩu quý I đạt 17,5 tỷ USD, tăng 21,7% so với

cùng kỳ năm 2010.

Trong hai tháng đầu năm, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của

Việt Nam với kim ngạch đạt 2,1 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng kim ngạch xuất

khẩu, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, tiếp đến là các thị trường: ASEAN

Page 63: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

1,7 tỷ USD, tăng 15,6%; Trung Quốc 1,3 tỷ USD, tăng 60,9%; Nhật Bản 1,2 tỷ

USD, tăng 17,5%.

Trong quý I năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ

USD đạt mức tăng cao là: Hàng dệt may đạt 2,8 tỷ USD, tăng 27,9% so với

cùng kỳ năm trước; dầu thô 1,6 tỷ USD, tăng 15,7%; giày dép đạt 1,3 tỷ USD,

tăng 29,7%; thủy sản đạt 1,1 tỷ USD, tăng 30,5%; cà phê đạt 1 tỷ USD, tăng

115,1%. Một số mặt hàng xuất khẩu khác có kim ngạch tương đối lớn đạt mức

tăng khá là: Gạo đạt 849 triệu USD, tăng 7,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 816

triệu USD, tăng 9,2%; điện tử máy tính đạt 791 triệu USD, tăng 13,1%; máy

móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 782 triệu USD, tăng 20,1%; cao su 774

triệu USD, tăng 134,1%.

3.1.1.2 Hoạt động nhập khẩu

Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu và chỉ số phát triển của Việt Nam (so với tháng

trước đó) trong quý I năm 2011

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Công thương

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 3/2011 ước tính đạt 8,2 tỷ USD,

tăng 37,6% so với tháng trước và tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính

chung quý I/2011, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 22,3 tỷ USD, tăng 23,8%

so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 12,8 tỷ USD,

tăng 20,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,5 tỷ USD, tăng 28,4%.

Nhìn chung, nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất trong

nước vẫn tăng cao, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,4 tỷ

USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu đạt 2,4 tỷ USD tăng

Page 64: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

53,8%; sắt thép đạt 1,3 tỷ USD, tăng 18%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt

1,3 tỷ USD, tăng 29,7%; vải đạt 1,4 tỷ USD, tăng 42%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ

USD, tăng 40,1%; nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 623 triệu USD, tăng

22,1%. Nhập khẩu ôtô quý I đạt 734 triệu USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ

năm trước, trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 262 triệu USD, tăng 62,2%.

Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I tăng do

cả yếu tố lượng tăng và giá nhập khẩu một số mặt hàng trên thị trường thế giới

tăng. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I tăng

14,7% so với cùng kỳ năm trước.

Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn

nhất với kim ngạch nhập khẩu hai tháng đầu năm là 3,1 tỷ USD, tăng 25% so

với cùng kỳ năm trước; ASEAN 2,7 tỷ USD, tăng 22%; EU 935 triệu USD, tăng

5,3%; Nhật Bản 1,4 tỷ USD, tăng 25%; Hoa Kỳ 605 triệu USD, tăng 30%.

Nhập siêu tháng 3/2011 ước tính 1,15 tỷ USD, bằng 16,3% kim ngạch

hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu quý I là 3 tỷ USD, bằng 15,7% tổng kim ngạch

hàng hóa xuất khẩu.

Page 65: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

3.1.1.3 Nhận xét chung về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong

quý I năm 2011

Từ đầu năm đến nay, mặc dù còn có nhiều khó khăn về nguyên vật liệu

đầu vào, diễn biến bất ổn của khu vực và thế giới, ảnh hưởng động đất, sóng thần

Nhật Bản ít nhiều cũng tác động vào hoạt động xuất khẩu của một số doanh

nghiệp, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn có những tiến bộ rõ

rệt. Nhìn vào tổng thể bức tranh chung ngoại thương quý 1/2011, mức thay đổi

chóng mặt so với cùng kỳ được ghi nhận ở đa số các mặt hàng xuất, nhập khẩu

chính như gạo,cà phê, cao su, sắn và sản phẩm, sắt, thép, xăng dầu... Duy nhất

chỉ có 3 mặt hàng là chè, than đá, phương tiện vận tảu và phụ tùng có kim ngạch

xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước. Đạt được kết quả khả quan như trên là

do trong 3 tháng đầu năm, giá lương thực và thực phẩm thế giới tăng mạnh, xuất

nhập khẩu các mặt hàng này có lợi lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Đối với

nhập khẩu, tình hình cũng tương tự như xuất khẩu. Nhập khẩu hàng hóa tăng do

nhiều mặt hàng có khối lượng và giá nhập khẩu tăng. Trong 30 mặt hàng được

Tổng cục Thống kê đưa vào báo cáo, chỉ có 5 mặt hàng giảm về giá trị kim

ngạch so với cùng kỳ, bao gồm rau quả, thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu

và phương tiện vận tải, phụ tùng. Những mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong

tháng 3 ngoài máy móc, phụ tùng, xăng dầu còn có các mặt hàng như máy vi

tính, sản phẩm, linh kiện điện tử, sắt thép các loại, ôtô nguyên chiếc, đá quý, kim

loại quý... Tuy kim ngạch xuất nhập khẩu trong quý 1 năm 2011 có những kết

quả khả quan, nhưng nhìn vào tỷ trọng xuất nhập khẩu của từng mặt hàng, chúng

ta có thể dễ dàng nhận thấy, xuất khẩu hàng nông sản và thủy hải vẫn chiếm tỷ

trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu và các mặt hàng công nghiệp, ô tô và đồ

quý hiếm chiếm phần lớn tỷ trọng trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam.

Page 66: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, Bộ Công thương cùng các bộ

ngành liên quan cần quyết tâm thực hiện nhiệm vụ này, đặc biệt trong lúc giá

lương thực, thực phẩm tăng cao, cần phải tận dụng triệt để để phát triển nông

nghiệp và đem lại hiệu quả thiết thực cho nông dân. Cụ thể là:

- Các bộ, ngành liên quan cùng các Hiệp hội, ngành hàng đề xuất và thực

hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường, khai thác tốt những

thị trường hiện có và những thị trường tiềm năng để nâng cao kim ngạch xuất

khẩu nhóm hàng nông sản và thủy sản

- Nắm bắt tình hình và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu

- Xem xét điều chỉnh cơ cấu thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng ưu tiên

các dự án sản xuất, trong đó khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, giảm tỷ

trọng các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phi sản xuất. Các tập đoàn, tổng công ty

rà soát tình hình thực hiện việc nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư nguyên vật

liệu trong thời gian qua

- Xác định các chủng loại máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu trong nước

đã sản xuất được bảo đảm chất lượng phù hợp để tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định

thầu trong nước

- Sử dụng tối đa các sản phẩm sản xuất trong nước.

3.1.2 Tình hình nắm bắt và sử dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu Việt Nam

Incoterms 2010 là ấn bản mới nhất do Phòng thương mại thế giới phát

hành và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2011. Kể từ khi có hiệu lực đến nay, các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã và đang làm quen với các điều kiện

thương mại mới cũng như những đổi mới của Incoterms 2010 so với Incoterms

Page 67: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

2000. Thực tế cho thấy, các DN hoạt động trong lĩnh vực XNK ở Việt Nam đang

ngày càng phát triển, mở rộng về quy mô và tầm vóc. Tuy nhiên, càng phát triển

và càng hoạt động sâu trong hoạt động giao thương quốc tế thì càng nảy sinh

nhiều vấn đề vướng mắc, tranh chấp trong hoạt động kinh doanh XNK. Việc am

hiểu và sử dụng hiệu quả Các điều khoản thương mại quốc tế Incoterms 2010

của ICC sẽ thuận lợi nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trước hết, khi

Incoterms 2010 có hiệu lực thì các đối tác của doanh nghiệp Việt Nam sẽ áp

dụng bộ quy tắc này. Thứ nữa, bộ quy tắc này được sửa đổi và cập nhập các quy

tắc và tập quán mới trong thương mại quốc tế và trở thành kỹ năng cần thiết,

không thể thiếu của các nhà xuất nhập khẩu, người làm thương mại, giao nhận

vận tải, bộ phận tín dụng thu hồi nợ trong các ngân hàng, các chuyên gia tài

chính và luật sư...

Một thực tế cho thấy là dù Incoterms 2010 đã có hiệu lực được 3 tháng, nhưng

hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam vẫn đang quen sử dụng

Incoterms 2000 và áp dụng Incoterms 2000 trong các hợp đồng mua bán hàng

hóa của mình.

3.1.2.1. Doanh nghiệp Việt Nam ít chủ động chọn các điều kiện thương mại

nên không giành được quyền ký hợp đồng vận tải hay bảo hiểm.

Theo nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, đa số các doanh nghiệp XNK

Việt Nam thường chọn sử dụng các điều kiện nhóm F như FCA, FOB cho các

hợp đồng xuất khẩu và các điều kiện nhóm C cho các hợp đồng nhập khẩu. Điều

này có nghĩa là doanh nghiệp đang chọn các điều kiện cơ sở giao hàng mà theo

đó giao quyền ký hợp đồng thuê phương tiện vận tải và hợp đồng mua bảo hiểm

hàng hóa cho đối tác nước ngoài. Đây là thực trạng khá phổ biến của các doanh

Page 68: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

nghiệp Việt Nam từ khi chúng ta tham gia buôn bán trên thị trường thế giới.

Phần đông cho rằng, nguyên nhân của thực trạng này chính là vấn đề lợi nhuận

của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi cân nhắc về vấn đề lợi nhuận giữa việc

mình là người giành được quyền vận tải và mua bảo hiểm với việc để cho đối tác

làm việc này thì nhận thấy lợi nhuận thu được trong hai trường hợp trên là tương

đương nhau, và điều này làm họ yên tâm hơn trong việc giữ thói quen mua bán

như trước đây là xuất khẩu thì dùng điều kiện FOB, nhập khẩu thì dùng điều

kiện CIF. Chính điều này đã cho thấy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt

Nam chưa có sự quan tâm đúng mức tới lợi ích của việc giành được quyền vận

tải và ký hợp đồng mua bảo hiểm cho hàng hóa. Chúng ta có thể đưa ra một số

lợi ích mà doanh nghiệp có thể nhận được khi giành được quyền thuê tàu là:

- Nếu giành được quyền thuê tàu, doanh nghiệp sẽ chủ động về thời gian.

Đối với nhà xuất khẩu thì có thể chủ động tập kết hàng tại cảng giao đúng thời

hạn, với nhà nhập khẩu thì có thể tới nhận hàng kịp, tránh trường hợp hàng đã tới

mà ta vẫn chưa ra nhận hàng và có thể bị coi là hàng đã giao cho dù người mua

chưa chính thức nhận được hàng.

- Doanh nghiệp có quyền chỉ định dung sai cho hàng hóa (người được chỉ

định dung sai đối với hàng hóa là người thuê phương tiện vận tải). Doanh nghiệp

có thể điều chỉnh số lượng hàng giao trong trường hợp giá hàng hóa tăng giảm so

với giá thời điểm ký hợp đồng.

- Người ký hợp đồng trực tiếp với hãng vận tải hay hãng bảo hiểm có thể

nhận được những khoản tiền hoa hồng hay chênh lệch.

- Nếu ta là người nhập khẩu và áp dụng Incoterms điều kiện nhóm C, thì

khi hàng hóa được giao tại nước đối tác và chúng ta phải chịu mọi rủi ro đối với

Page 69: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

hàng hóa. Nếu giành được quyền ký hợp đồng bảo hiểm thì chúng ta có thể dễ

dàng làm việc với công ty bảo hiểm nếu có rủi ro xảy ra.

3.1.2.2. Doanh nghiệp Việt Nam ít lựa chọn các hãng vận tải trong nước khi

giành được quyền thuê vận tải và mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập

khẩu.

Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu việt nam, có một hạn chế lớn xảy ra, đó là việc các nhà xuất nhập khẩu

trong nước không đặt niềm tin vào các hãng cung cấp dịch vụ vận tải trong nước.

Tức là dù có giành được quyền vận tải tải và ký hợp đồng bảo hiểm thì cũng ít

khi chọn các hãng kinh doanh dịch vụ này của nước mình. Điều này có thể xuất

phát từ tâm lý e sợ trình độ cũng như cơ sở vật chất còn non kém ở trong nước,

không tạo được sự tin tưởng ở khách hàng, đôi khi ở Việt Nam không có các loại

phương tiện có trọng tải phù hợp với yêu cầu của hàng hóa.

3.1.2.3. Doanh nghiệp XNK Việt Nam còn thiếu hiểu biết đối với thị trường

nước ngoài để có thể sử dụng thành thạo và đa dạng các điều kiện

Incoterms mang tính chủ động

Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đang vận dụng Incoterms một cách thụ động

và theo thói quen. Chính vì thiếu hiểu biết thị trường nước ngoài, cho nên mặc

nhiên, các doanh nghiệp chỉ sử dụng các điều kiện vốn trước giờ vẫn hay dùng

như xuất FOB nhập CIF, thậm chí hầu như chưa có doanh nghiệp nào sử dụng

các điều kiện nhóm D và EXW và cho rằng ở trong trường hợp đó, nghĩa vụ và

trách nhiệm của mình là ít nhất.

Page 70: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Có thể thấy được từ thực trạng sử dụng Incoterms của doanh nghiệp Việt Nam

đã bộc lộ nhiều hạn chế:

- Doanh nghiệp chưa có sự đa dạng hóa trong việc sử dụng các điều kiện

thương mại quốc tế, đồng nghĩa với việc chúng ta đang bó hẹp mình trong các

phương thức kinh doanh cũ.

- Doanh nghiệp sử dụng Incoterms đa số đều thiếu tính chủ động, khi mà

chúng ta giao hết quyền vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm cho đối tác.

3.1.2.4. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường ít quan tâm đến

vấn đề chi phí và rủi ro phát sinh giữa người bán – người mua trong quá

trình giao nhận hàng hóa được quy định trong các điều kiện thương mại

quốc tế Incoterms 2010

Trong Incoterms 2010, nhiều nghĩa vụ về chi phí được sửa đổi. Cụ thể là trong

các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP, DDU, người bán phải tổ chức

vận chuyển hàng hóa đến nơi quy định tức là mọi chi phí vận tải và các chi phí

liên quan đều do người bán chịu.

Vì đây là một trong những nghĩa vụ mới của Incoterms 2010 nên các doanh

nghiệp thường không chú ý đến vấn để này, vì vậy tạo ra những thiệt thòi không

đáng có.

3.1.2.5. Không dẫn chiếu đúng đến Incoterms 2010

Các doanh nghiệp trong khi ký kết hợp đồng thương mại nhiều khi chưa nhận

thấy tầm quan trọng của việc dẫn chiếu đúng tới Incoterms 2010. Hiện nay,

nhiều doanh nghiệp khi tiến hành ký kết hợp đồng cho rằng chỉ cần ghi các ký

hiệu FOB, CFR, CIF... thì những ký hiệu đó đương nhiên được giải thích theo

Page 71: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Incoterms hiện hành. Vì vậy, trong mọi hợp đồng của mình, doanh nghiệp không

dẫn chiếu đến một ấn bản Incoterms cụ thể nào. Quan niệm đó hết sức sai lầm vì

ngoài cách giải thích các điều kiện thương mại quốc tế của ICC còn có cách giải

thích khác theo Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC) và những định nghĩa

Ngoại thương của Mỹ (AFTD). So với cách giải thích của ICC về các điều kiện

thương mại thì hai cách giải thích này có rất nhiều điểm khác biệt. Hơn nữa, các

ấn bản khác nhau của Incoterms có giá trị pháp lý độc lập và thay đổi qua các

năm. Việc không dẫn chiếu năm nào sẽ gây ra khó khăn cho các bên trong quá

trình thực hiện hợp đồng.

Ví dụ như, trong hợp đồng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp chỉ quy định điều

khoản về giá trong hợp đồng là 250USD/MT CIF Haiphong mà không ghi cụ thể

Incoterms 2010 vì cho rằng sẽ đương nhiên áp dụng bản Incoterms mới nhất.

Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp. Nếu đối tác hiểu và áp dụng

theo Incoterms 2000, trong đó chỉ quy định rằng bên bán chỉ phải cung cấp một

con tàu đi biển để chở hàng hóa, thì có thể gây ra thiệt hại lớn cho người mua.

Việc cung cấp một con tàu đi biển không phù hợp với đặc tính của hàng hóa sẽ

gây ra thiệt hại lớn cho bên mua vì hàng hóa đã được chuyển giao rủi ro từ người

bán sang người mua khi hàng được đưa lên tàu, mọi thiệt hại hoặc hư hỏng của

hàng hóa sẽ cho người mua chịu. Trong khi đó, trong Incoterms 2010 đã quy

định rất cụ thể rằng, người bán phải cung cấp con tàu thuộc loại thường sử dụng

để chở mặt hàng đó.

Page 72: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

3.2. Những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt

Nam khi sử dụng Incoterms 20103.2.1 Chưa hiểu rõ các điều khoản trong Incoterms 2010

Incoterms 2010 là ấn bản mới nhất quy định về các điều kiện thương mại

quốc tế của ICC. Incoterms 2010 mới chỉ được phát hành từ tháng 9/2010 và bắt

đầu có hiệu lực từ tháng 1/2011. Vì thời gian có hiệu lực chưa lâu nên các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không tránh khỏi gặp nhiều bỡ ngỡ trong quá

trình sử dụng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa nắm hết được những thay đổi

trong Incoterms 2010 và cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất. Trong

nhiều trường hợp, việc chưa nắm chắc Incoterms 2010 có thể gây ra nhiều thiệt

hại cho chúng ta hoặc làm mất cơ hội lớn trong thị trường xuất nhập khẩu thế

giới.

3.2.2 Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu

Áp dụng Incoterms 2010 đòi hỏi chúng ta phải có cơ sở vật chất tốt, hiện

đại. Incoterms 2010 được ra đời xuất pháp từ thực tế vận tải container ngày càng

phát triển. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta cần phải có những bãi container

rộng lớn, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, những nghĩa vụ

mới của Incoterms 2010 cũng yêu cầu chúng ta phải có hệ thống các phương tiện

vận tải hiện đại mới có thể đáp ứng được.

Hiện nay, tuy việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng các bến cảng,

kho bãi đã được chú trọng, nhưng tốc độ phát triển của các đội tàu còn hạn chế,

tỷ trọng vận chuyển không tăng. Sự phát triển còn chưa đáp ứng được yêu cầu

của hội nhập khu vực và quốc tế. Vận tải bằng đường sắt và đường hàng không

chưa phát triển, mới chỉ giới hạn trong các mặt hàng cụ thể. Thực tế này cho

Page 73: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

thấy, sức cạnh tranh của ngành vận tải nước ta còn kém so với khu vực và thế

giới. Điều này gây ra nhiều thiệt thòi cho không những các doanh nghiệp kinh

doanh vận tải mà còn đến cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi không thể sử

dụng các doanh nghiệp vận tải trong nước mà phải thuê doanh nghiệp vận tải

nước ngoài trong trường hợp dành được quyền vận tải.

3.2.3 Khả năng nắm bắt và cập nhật thông tin còn kém

Kênh thông tin của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ra còn kém. Các

doanh nghiệp luôn gặp khó khăn và chậm trễ trong việc nắm bắt thông tin về thị

trường thế giới. Điều này gây ra trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị

trường mới hay việc cập nhật các yêu cầu mới của thị trường. Doanh nghiệp

không thể có những cải tiến kịp thời cho sản phảm để có thể đáp ứng được nhu

cầu và yêu cầu của thị trường nước ngoài, gây ra khó khăn trong quá trình xuất

nhập khẩu hàng hóa.

3.2.4 Khả năng mở rộng, nghiên cứu thị trường nước ngoài của doanh

nghiệp còn yếu, lo ngại không thực hiện tốt yêu cầu của hợp đồng

Hiện nay ở Việt Nam không có nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu có được

các đại lý giao nhận của mình ở các nước đối tác, bên cạnh đó, doanh nghiệp

chúng ta còn không nắm chắc các vấn đề về tập quán, luật pháp nước đối tác.

Khi trao đổi với phóng viên VnExpress, giám đốc một công ty thủy sản

lớn của An Giang cho biết:“ Nước Mỹ có hơn 1 triệu luật sư đang hoạt động.

Các vụ kiện tụng liên quan đến sản phẩm của chúng tôi xảy ra như cơm bữa.

Xuất hàng sang đó, luật pháp chúng tôi không rành, nếu xảy ra kiện tụng thì rất

rắc rối, tốt nhất để người mua chịu phí bảo hiểm sản phẩm „ Ông còn cho biết

Page 74: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

thêm, các nhà nhập khẩu Mỹ thường giành quyền mua bảo hiểm trong nước để

khi có vấn đề phát sinh họ giải quyết ở Mỹ cho dễ dàng.

Qua đó có thể thấy, một khi không nắm được những vấn đề như thế, các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam có thể gặp nhiều bất lợi và bị rơi vào thế

bị động trong quá trình ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa.

3.3. Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam

trong việc sử dụng các điều khoản Incoterms 20103.3.1 Cơ sở đề xuất khuyến nghị:

Hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng với tốc độ ngày càng nhanh cùng

với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tất cả các quốc gia đều đẩy mạnh hoạt động

xuất nhập khẩu để phát triển kinh tế. Muốn đẩy mạnh xuất nhập khẩu, nâng cao

hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương thức tiếp cận

thị trường. Sử dụng tốt Incoterms 2010 mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia nói

chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng trong

việc giao lưu buôn bán hàng hóa quốc tế, tăng lợi nhuận trong kinh doanh đồng

thời nâng cao được vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới. tuy nhiên. Do

Incoterms 2010 là ấn bản mới ra đời và có hiệu lực chưa lâu, nên các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không tránh khỏi tình trạng bỡ ngỡ khi tiếp xúc

với các điều kiện mới này, gây ra việc có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi khi tham

gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với các đối tác nước ngoài. Đây chính là

cơ sở để đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam

vận dụng Incoterms 2010 hiệu quả hơn. Các giải pháp được đưa ra dưới góc độ

vĩ mô và vi mô nhằm giúp các doanh nghiệp có thể tự tin khi sử dụng các điều

khoản và sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất.

Page 75: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

3.3.2 Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi sử

dụng Incoterms 2010

3.3.2.1 Các khuyến nghị mang tính vĩ mô:

a/ Khuyến khích doanh nghiệp thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm

trong nước

Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuê

phương tiện vận tải trong nước bằng những quy định cụ thể nhằm khuyến khích

các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng các điều kiện mà theo đó giành được

quyền vận tải và mua bảo hiểm về mình.

Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên chuyên chở hàng chính phủ

cho đội tàu trong nước. Với những lô hàng liên quan đến dự án đầu tư, thực hiện

hiệp định tài chính hoặc hợp đồng liên chính phủ, những hàng do chính phủ vay

tiền, được cấp tín dụng hay hàng do chính phủ bảo trợ phải được vận chuyển

bằng đội tàu trong nước nhằm tạo nguồn hàng cho đội tàu Việt Nam, giúp các

doanh nghiệp vận tải phát triển.

b/ Chính sách phát triển ngành vận tải và bảo hiểm trong nước

Nhà nước cần đẩy mạnh các biện pháp nhằm quảng bá sản phẩm dịch vụ

nói chung và dịch vụ vận tải và bảo hiểm nói riêng tới các nước trên thế giới, tạo

điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải bảo hiểm có cơ hội phát triển

thị trường ngoài nước. Chính phủ tăng cường thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ vận tải

và bảo hiểm thông qua các hiệp định song phương và đa phương nhằm tạo điều

kiện cho doanh nghiệp Việt Nam được đối xử cạnh tran công bằng. Nhà nước

Page 76: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

còn cần làm tốt công tác thông tin thị trường để giúp cho các doanh nghiệp nắm

được cơ hội do nắm bắt thông tin sớm, chính xác.

c/ Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở vật chất

Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở vật chất là một trong những nhiệm vụ

quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Nhà nước ta cần

chú trọng công tác đầu tư phát triển đội tàu nước ta theo hướng “trẻ hóa, chuyên

dụng hóa”, cần có những quy định rõ ràng về tuổi sử dụng của các con tàu, đầu

tư những con tàu có trọng tải lớn, trang thiết bị hiện đại, những con tàu chuyên

dụng để đáp ứng nhu cầu chuyên chở bằng đường biển ngày càng tăng.

Đối với vận tải đường sắt, Nhà nước cần đầu tư xây dựng nhiều tuyến

đường sắt, cải tiến và đưa vào sử dụng những tàu hỏa hiện đại, giúp cho hàng

hóa có thể được vận chuyển một cách thuận tiện nhất. Đầu tư xây dựng và hiện

đại hóa các sân bay, tạo điều kiện thuận lợi nhất để có thể đưa hàng ra vào sân

bay một cách dễ dàng.

Bên cạnh đó, nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng cơ sở mặt bằng, xây

dựng nhiều kho cảng, bến bãi, bãi container… để có thể chứa được số lượng

hàng lớn, vận chuyển hàng ra vào thuận tiện.

d/ Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành

Trước thực tế hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới, cần tiếp

tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành nhằm vừa

tạo điều kiện thuận lợi vừa nâng cao hiệu lực quản lý đối với các hoạt động vận

tải.

Page 77: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Quốc hội đã thông qua luật kinh doanh bảo hiểm, cần sớm ban hành các

văn bản hướng dẫn và hoàn thành hệ thống các văn bản pháp quy về hoạt động

kinh doanh bảo hiểm, tạo môi trường kinh doanh ổn định trong ngành bảo hiểm,

tạo được lòng tin cho khách hàng.

e/ Tổ chức các buổi họp mặt, trao đổi, trau dồi kinh nghiệm thực tiễn

Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan tổ chức các buổi họp mặt các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhằm hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật

mới. Giới thiệu và tổ chức các khóa học ngắn và dài hạn hướng dẫn cách sử

dụng Incoterms 2010 để cho các doanh nghiệp tránh khỏi bỡ ngỡ khi sử dụng

trong thực tế.

3.3.2.2. Các khuyến nghị mang tính vi mô

a/ Khuyến nghị cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu

Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên.

Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần quan tâm đến vấn đề đào tạo và bồi

dưỡng nghiệp vụ, ngoại ngữ trong kinh doanh xuất nhập khẩu, vận tải, bảo hiểm

cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, để doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả.

Song song với việc đào tạo cơ bản, các doanh nghiệp phải đào tạo các nhân viên

về các nghiệp vụ thuê phương tiện vận tải, mua bảo hiểm… Tăng cường giới

thiệu và làm quen với các điều kiện thương mại mới của Incoterms 2010 để nhân

viên hiểu và vận dụng một cách tối ưu nhất

Doanh nghiệp Việt Nam nên giành quyền mua bảo hiểm và thuê tàu

Page 78: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Hiện nay, khoảng 80% các thương vụ của doanh nghiệp Việt Nam khi

xuất khẩu thì chọn điều kiện FOB, và khi nhập khẩu thì chọn CIF, CFR. Thật sai

lầm khi cho rằng mua hàng theo điều kiện CIF nghĩa là mọi rủi ro trục trặc trong

quá trình thực hiện hợp đồng cho tới khi hàng về đến cảng Việt Nam đều do

người bán chịu.

Theo tinh thần Incoterms, điều kiện giao hàng FOB quy định người mua

chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ

mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều

kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng

đã được giao lên boong tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải

trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua

những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo

hiểm này được phía xuất khẩu ký và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Như vậy,

dù mua hàng theo điều kiện FOB hay CIF thì mọi rủi ro về hàng hoá sau khi

hàng đã được giao lên boong tàu đều do người mua chịu. Ở đây hợp đồng CIF

chỉ khác hợp đồng FOB là người bán thay mặt người mua mua luôn bảo hiểm (I)

và thuê hộ tàu (F). Các chi phí I và F đã được tính đủ vào giá hàng. Chính vì vậy

để tăng phần lợi nhuận trong giá hàng CIF người bán tìm đủ mọi cách hạ thấp

chi phí I và F bằng cách ký các hợp đồng thuê tàu và hợp đồng bảo hiểm theo

những điều kiện lỏng lẻo bất lợi cho người mua sau này.

Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp nhập khẩu yêu cầu đối tác nước ngoài

chào hàng theo điều kiện FOB cũng rất có lợi đối với doanh nghiệp. Họ sẽ phải

trả ít tiền ký quỹ hơn để mở Thư tín dụng (L/C), không phải lo ngay tiền vận

chuyển vì khi hàng cập cảng họ mới có nghĩa vụ phải chi tiền, doanh nghiệp

Page 79: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

cũng không bị tồn vốn hoặc không phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền

cước tàu, giảm được giá thành hàng nhập khẩu.

Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên chuyển dần từ điều kiện FOB

sang các điều kiện khác như CIF, CFR, bởi điều kiện FOB theo Incoterms 2010

chứa đựng rất nhiều rủi ro. Ví dụ, như khi giao hàng lên tàu, mặc dù người bán

còn giữ các chứng từ nhận hàng (Bill Of Lading) nhưng đã mất quyền kiểm soát

lô hàng của mình mua vì người bán không phải người thuê tàu nên không thể ra

lệnh cho hãng tàu ngừng giao hàng cho người. Trong khi đó, nếu áp dụng CIF,

CFR, khi đối tác chưa thanh toán đủ hoặc không thanh toán tiền thì các doanh

nghiệp chỉ tốn một ít chi phí chở hàng chứ không mất cả lô hàng.

Quy định chi phí nhận hàng tại cảng

Trong Incoterms 2010, các chi phí khi nhận hàng tại cảng đến như lệnh

giao hàng (Deliver Order), phí vận đơn đường biển (Bill Of Lading) và nhất là

phí nâng hạ container (Terminal Handing Charges) được quy định rõ hơn so

với Incoterms 2000. Theo đó, Incoterms 2010 quy định các chi phí trên đều do

người bán chịu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi rõ trong hợp đồng ai

sẽ chịu các chi phí này một cách rõ ràng, nếu không phần thiệt thòi sẽ nghiêng về

các doanh nghiệp Việt Nam.

Doanh nghiệp cần linh hoạt trong việc bổ sung các quy định trong

hợp đồng mua bán để bảo vệ quyền lợi của mình.

Quy định về phương thức vận tải:

Page 80: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Để ngăn chặn việc người bán theo điều kiện C thuê những phương tiện

vận tải cũ, không phù hợp với việc vận tải loại hàng hóa, người mua có thể quy

định về giới hạn tuổi của phương tiện, loại phương tiện chuyên dụng trong hợp

đồng.

Quy định về điều kiện bảo hiểm:

Trong điều kiện CIF hay CIP, người bán có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho

hàng hóa thay cho người mua. Để bảo vệ lợi ích của mình, tránh tình trạng phải

mua thêm các bảo hiểm phụ, người mua nên quy định trong hợp đồng về nghĩa

vụ mua bảo hiểm của người bán một cách rõ ràng như công ty bảo hiểm, điều

kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm…

Quy định về cảng bốc hàng, dỡ hàng, thời gian giao hàng và nghĩa vụ

thông báo

Trong hợp đồng sử dụng điều kiện FAS hay FOB, cảng bốc hàng nên quy

định cụ thể thể thuận lợi cho người bán trong việc giao hàng. Còn đối với hợp

đồng theo điều kiện CFR hay CIF, cảng dỡ hàng cũng nên quy định cụ thể để tạo

điều kiện thuận lợi cho người mua trong việc dỡ hàng. Đối với các điều kiện

CIP, CPT, nơi chuyển giao rủi ro và nơi giao hàng là hai địa điểm khác nhau,

nên trong hợp đồng, các doanh nghiệp nên yêu cầu viết địa chỉ nơi nhận hàng

càng cụ thể càng tốt, tránh xảy ra trường hợp nơi giao hàng có nhiều địa điểm

giao hàng và chúng ta không biết rõ địa điểm giao hàng là ở đâu.

Cần phân biệt nhóm phương thức vận tải, từ đó sử dụng các điều kiện

Incoterms phù hợp với phương thức vận tải và địa điểm giao hàng.

Page 81: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Trong Incoterms 2010, các quy tắc giao hàng cũng được chia làm hai

nhóm so với bốn nhóm trong Incoterms 2000: Nhóm 1 áp dụng cho bất kỳ

phương thức vận tải nào, và nhóm 2 áp dụng khi có vận tải biển hay nội thuỷ.

Nhóm 1 gồm các điều kiện EXW - giao tại xưởng; FCA - giao cho người

chuyên chở; CPT - cước phí trả tới; CIP - cước phí và phí bảo hiểm trả tới; DAT

- hàng đến đích đã dỡ xuống; DDP - giao hàng đã nộp thuế.

Nhóm 2 gồm các điều kiện FAS - giao dọc mạn tàu; FOB - giao lên tàu;

CFR - tiền hàng và cước phí; CIF - tiền hàng, bảo hiểm và cước phí.

Các doanh nghiệp cần nắm vững các điều kiện này để có thể vận dụng

đúng và hiệu quả các điều kiện, tránh trường hợp xảy ra tình trạng áp dụng các

điều kiện lẫn lộn cho nhau

Cần tìm hiểu tập quán tại các cảng và các quy định pháp luật của

ngành buôn bán có liên quan trước khi quyết định lựa chọn các điều

kiện Incoterms.

Tập quán giao nhận hàng ở mỗi cảng và của từng ngành hàng đều có sự

khác nhau ở mỗi nơi, vì thế muốn sử dụng Incoterms mà doanh nghiệp có nhiều

nghĩa vụ đối với hàng hóa thì trước đó, doanh nghiệp phải nắm chắc được các

quy định có liên quan tới việc giao hàng tại các cảng các nước đối tác, đồng thời

phải tìm hiểu về mặt hàng cũng như đặc tính của mặt hàng giao dịch sắp tới

tránh những rắc rối phát sinh trong quá trình vận chuyển và giao nhận hàng hóa.

Page 82: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

b/ Các khuyến nghị cho các doanh nghiệp vận tải giao nhận và bảo hiểm

Nâng cao chất lượng dịch vụ

Tình hình thực tiễn hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch

vụ vận tải giao nhận ở nước ta còn tồn tại nhiều điểm yếu kém. Nguyên nhân là

do cơ sở vật chất chưa đạt tiêu chuẩn, nhiều phương tiện vận tải cũ, quá hạn sử

dụng, phương tiện trọng tải thấp; đội ngũ nhân viên còn non kém, chưa có nhiều

kinh nghiệm thực tế - gây ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của bản thân các

doanh nghiệp. Bên cạnh sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp cần có những

chính sách sửa chữa, cải tạo, thay mới phương tiện vận tải, nâng cao năng suất

vận tải và chất lượng chuyên chở, xây dựng được uy tín với khách hàng.

Các công ty bảo hiểm cũng cần nâng cao chất lượng bảo hiểm, đổi mới

quy trình thủ tục bảo hiểm, đưa ra nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, có chất lượng

và có lợi cho người bảo hiểm, từ đó tạo ra năng lực cạnh tranh với các đối thủ

khác. Bên cạnh việc đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, nâng cao chất lượng phục

vụ, đơn giản hóa thủ tục bồi thường khi có rủi ro xảy ra cũng là những yếu tố

then chốt thúc đẩy tình hình kinh doanh phát triển.

Đẩy mạnh phát triển thị trường.

Các công ty vận tải và bảo hiểm không chỉ tập trung khai thác thị trường

trong nước mà còn cần đẩy mạnh phát triển thị trường nước ngoài. Các doanh

nghiệp cần tập trung nghiên cứu xu hướng, nhu cầu sử dụng dịch vụ trên thế giới

để xây dựng chiến lược kinh doanh cho mình. Nhanh chóng nắm bắt thông tin,

tình hình thế giới để điều chỉnh chiến lược cho phù hợp, đảm bảo tính cạnh tranh

với các doanh nghiệp khác.

Page 83: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Để phát triển thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam phải

không ngừng quảng bá hình ảnh, đẩy mạnh hoạt động marketing, gây dựng được

uy tín với các đối tác trong nước cũng như nước ngoài.

Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên

Các công ty bảo hiểm và vận tải cần thường xuyên trau dồi kiến thức,

nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của mình thông qua các

khóa đạo tạo ngắn hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của ngành nghề và

theo kịp trình độ của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Các công ty

cần nỗ lực nâng cao trình độ ngoại ngữ của cho cán bộ, nhân viên để loại bỏ rảo

cản bất đồng ngôn ngữ khi tham gia ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài.

Ngoài những chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo

chuyên sâu cho cán bộ nhân viên, các công ty vận tải và bảo hiểm cũng cần quan

tâm đến chính sách lương bổng, phụ cấp, chế độ đãi ngộ cho các nhân viên của

công ty để giữ được người tài tránh xảy ra tình trạng chảy máu chất xám.

Page 84: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

KẾT LUẬN

Việc sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế Incoterms như thế nào vốn

là vấn đề đối với không chỉ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và còn cần nhiều

sự quan tâm của các cấp bộ ngành liên quan.

Quan phân tích nội dung Incoterms 2010 cho thấy việc lựa chọn các điều

kiện thương mại này ảnh hưởng nhiều đến tính hiệu quả của hoạt động kinh

doanh quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu, ngoài ra nó còn ảnh hưởng rộng

tới hoạt động của các ngành dịch vụ có liên quan như giao nhận vận tải và bảo

hiểm, và nó quyết định một số lợi ích ngoại thương của một quốc gia.

Tại Việt Nam hiện nay, khi mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngày

càng phát triển về số lượng và chất lượng, việc áp dụng Incoterms 2010 một

cách hiệu quả là một trong những phương pháp cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, do tính mới mẻ

của Incoterms 2010, nên không tránh khỏi những thiếu sót cho doanh nghiệp

trong quá trình sử dụng. Doanh nghiệp thường sử dụng theo thói quen giống

Incoterms 2000 và chưa hiểu hết được những thay đổi của Incoterms 2010. Điều

này làm giảm hiệu quả kinh doanh của bản thân doanh nghiệp, và còn gây thiệt

hại cho lợi ích quốc gia.

Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế, đòi

hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững, vận dụng linh hoạt các điều kiện này trong

từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó đòi hỏi các cơ quan hữu quan khác phải có

sự phối hợp đồng bộ. Nhiệm vụ này đặt ra không chỉ cho các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu, mà là của tất cả các cơ quan ban ngành có liên quan về thương mại,

vận tải, bảo hiểm, tài chính, hải quan…

Page 85: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

Đây là vấn đề vừa mang tính vi mô, vừa mang tính vĩ mô. Các doanh nghiệp

cần phải trau dồi kiến thức, kinh nghiệm của mình trong kinh doanh xuất nhập khẩu

và cả trong các lĩnh vực khác có liên quan, mặt khác Nhà nước cũng cần phải có

những chính sách, định hướng cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp về mọi mặt.

Page 86: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh.

NXB Lao động xã hội, Hà Nội

2. GS.TS Hoàng Văn Châu – Th.s Tô Bình Minh (2008), Các điều kiện

thương mại quốc tế (Incoterms 2000) Giải thích và hướng dẫn sử dụng,

NXB Khoa học và kỹ thuật

2. Nguyễn Hồng Đàm (2005), Trường Đại học Ngoại Thương, Giáo trình

Vận tải và giao nhận trong Ngoại thương, Nhà xuất bản Lý luận chính trị,

Hà Nội

3. Nguyễn Lệ Hằng (2003), Thực trạng và các giải pháp phát triển vận tải

hàng không quốc gia, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Ngoại thương.

5. GS.TS Bùi Xuân Lưu – PGS.TS. Nguyễn Hữu Khải (2007), Giáo trình

kinh tế ngoại thương, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội

4. Tô Bình Minh (2001), Sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế tại Việt

Nam – Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Đại học Ngoại Thương.

5. Võ Thanh Thu (2002), Incoterms 2000 và hỏi đáp về Incoterms, Nhà xuất

bản Thống kê

6. Vũ Hữu Tửu (2009), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

9. PGS.TS Nguyễn Văn Hồng, Những điểm mới của Incoterms 2010, Tạp chí

Kinh tế đối ngoại, số 45 tháng 12/2010

7. Bài “Một loạt thay đổi trong Incoterms 2010” đăng ngày 30/12/2010,

Doanh nhân Việt Nam Toàn cầu

Page 87: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

8. http://dvt.vn/20101130083950359p0c47/mot-loat-thay-doi-trong-

incoterm-2010.htm

9. Bài “Incoterms 2010: Lợi thế của người biết luật”, đăng ngày 10/12/2010,

Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam

www.dddn.com.vn/201012100954315cat77/incoterms2010-loi-the-cua-

nguoi-biet-luat.htm

10. Bài “Công cụ đẩy mạnh thuận lợi thương mại hóa Việt Nam”, đăng ngày

8/12/2010, http://www.baomoi.com/Cong-cu-day-manh-thuan-loi-hoa-

thuong-mai-Viet-Nam/45/5344085.epi

11. Bài “Phụ Phí trong lĩnh vực Incoterms”, đăng ngày 8/12/2010, trang web

giaonhanhang.com, http://www.giaonhanhang.com/content/134-Ph

%E1%BB%A5-ph%C3%AD-trong-l%C4%A9nh-v%E1%BB%B1c-

Incoterms

12. Bài “Lựa chọn tập quán thương mại quốc tế”, đăng ngày 14/11/2010,

trang web mtonlawfirm.vn, http://mtonlawfirm.vn/index.php?

option=com_content&view=article&id=81%3Alua-chon-tap-quan-

thuong-mai-quoc-te&catid=29%3Ay-kien-ban-doc&Itemid=31&lang=vi

13. Bài “Thua thiệt vì thiếu hiểu biết tập quán thương mại”, đăng ngày

25/12/2010, Diễn đàn Pháp luật Việt Nam ,

http://www.phapluatvn.vn/kinhte/201012/Thua-thiet-vi-thieu-hieu-biet-

tap-quan-thuong-mai-2023710/

Page 88: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

14. Bài “Bộ quy tắc Incoterms 2010 – Tài liệu và những thay đổi cần chú ý”,

đăng ngày 16/12/2010, Diễn đàn Giao nhận và Vận tải Việt Nam,

http://www.vietship.vn/showthread.php?t=10687

15. Bài “ Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tháng 1 năm 2011”, đăng ngày

28/1/2011, http://www.ttnn.com.vn/nuoc-lanh-tho/256/kim-ngach-xuat-

nhap-khau/29507/kim-ngach-xuat-nhap-khau-viet-nam-thang-1-nam-

2011.aspx

16. Bài “ Tình hình xuất nhập khẩu tháng 2 và hai tháng đầu năm 2011”,

đăng ngày 19/3/2011, Diễn đàn Doanh nghiệp và Thương mại online,

http://dntm.vn/news/vi/news/So-lieu-thong-ke/Tinh-hinh-xuat-nhap-khau-

thang-2-va-2-thang-dau-nam-2011-3614/

17. Bài “Incoterms và an ninh chuỗi cung ứng toàn cầu”, đăng ngày

20/10/2010, http://diendancaphe.com/forum/showthread.php?

t=3593&page=1

18. Bài “Có nên mua bảo hiểm hàng hóa XNK tại các doanh nghiệp bảo hiểm

Việt Nam” tháng 5/2010,

http://vietnamese.vietradeinchile.gov.vn/website/article.aspx?

article_id=10844

19. Trang web của Bộ Công thương Việt Nam www.moit.gov.vn

20. Trang web của Bộ Giao thông vận tải www.mt.gov.vn

21. Trang web của Tổng cục thống kê Việt Nam www.gso.gov.vn

22. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam http://www.vla.info.vn/

Page 89: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS.........................................................................5

1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Incoterms.......................................................................5

1.1.1 Sự ra đời của các điều kiện thương mại quốc tế............................................................5

1.1.2 Sự ra đời của Incoterms...................................................................................................6

1.1.3 Sự phát triển và hoàn thiện của Incoterms....................................................................7

1.2 Mục đích, vai trò và phạm vi áp dụng của Incoterms....................................................11

1.2.1 Mục đích của Incoterms:................................................................................................11

1.2.2. Vai trò của Incoterms....................................................................................................11

1.2.3 Phạm vi áp dụng của Incoterms...................................................................................14

1.3 Nội dung cơ bản của Incoterms 2010...............................................................................15

1.3.1 Các thuật ngữ được sử dụng trong Incoterms 2010...................................................17

1.3.2 Cấu trúc của Incoterms 2010........................................................................................19

1.3.3 Nội dung chính của Incoterms 2010:............................................................................20

1.3.4 Lưu ý khi sử dụng Incoterms 2010:.............................................................................26

Chương 2: NHỮNG THAY ĐỔI TRONG INCOTERMS 2010.........................................29

2.1. Về mặt kết cấu...................................................................................................................29

2.1.1. Incoterms 2010 bao gồm 11 điều kiện thương mại....................................................29

2.1.2. Các điều kiện thương mại trong Incoterms 2010 chia thành hai nhóm riêng biệt. .29

2.1.3. Các điều kiện được giải thích rõ ràng hơn..................................................................31

2.2. Về mặt nội dung:...............................................................................................................32

2.2.1 Hai điều kiện thương mại mới......................................................................................32

2.2.2 Các điều kiện dùng cho thương mại quốc tế và nội địa..............................................34

2.2.3 Thay đổi thuật ngữ “lan can tàu” bằng thuật ngữ “ở trên tàu”...............................35

2.2.4 Người bán phải chịu các chi phí liên quan đến việc dỡ hàng tại cảng đến quy định:..........................................................................................................................................36

Page 90: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay

2.2.5 Nêu rõ tham chiếu đến việc sử dụng “các phương tiện ghi chép điện tử có giá trị tương đương”, nếu như các bên đồng ý như vậy, hoặc đó là tập quán thương mại..........37

2.2.6 Sửa đổi các điều khoản bảo hiểm.................................................................................38

2.2.7. Thủ tục an ninh và các thông tin cần thiết để làm thủ tục.........................................38

2.2.8. Bán hàng theo chuỗi......................................................................................................39

2.2.9. Trách nhiệm thuê tàu biển của người bán trong điều kiện CFR và CIF.................40

2.2.10. Sử dụng cụm từ “đóng gói”........................................................................................40

2.3. Phân tích một số nội dung cụ thể....................................................................................41

2.3.1. Incoterms 2010 đối với rủi ro bảo hiểm trong việc vận chuyển hàng hoá................42

2.3.2 Incoterms 2010 đối với phương thức thanh toán.........................................................49

2.3.3 Incoterms 2010 và vấn đề an ninh chuỗi cung ứng toàn cầu......................................55

Chương 3: KHUYẾN NGHỊ CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC ĐIỀU KHOẢN INCOTERMS 2010.....................61

3.1 Hiểu biết và vận dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam .........................................................................................................................................61

3.1.1 Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong quý I năm 2011............61

3.1.2 Tình hình nắm bắt và sử dụng Incoterms 2010 của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.........................................................................................................................66

3.2. Những khó khăn đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi sử dụng Incoterms 2010.........................................................................................................................72

3.2.1 Chưa hiểu rõ các điều khoản trong Incoterms 2010...................................................72

3.2.2 Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu.........................................................................72

3.2.3 Khả năng nắm bắt và cập nhật thông tin còn kém.....................................................73

3.2.4 Khả năng mở rộng, nghiên cứu thị trường nước ngoài của doanh nghiệp còn yếu, lo ngại không thực hiện tốt yêu cầu của hợp đồng...............................................................73

3.3. Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong việc sử dụng các điều khoản Incoterms 2010.....................................................................................................74

3.3.1 Cơ sở đề xuất khuyến nghị:..........................................................................................74

3.3.2 Khuyến nghị cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi sử dụng Incoterms 2010.........................................................................................................................75

KẾT LUẬN...............................................................................................................................84

Page 91: LỜI MỞ ĐẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luat/luat-thuong-mai/file... · Web viewNhững vấn đề nêu trên cho thấy tính khách quan của vấn đề: “Những thay