đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a) bai gui lop

85
1 NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ĐỀ TÀI : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM Á NĂM 1997 GVHD : PGS., TS. LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO HV THỰC HIỆN : NHÓM 4 LỚP : CAO HỌC 16A TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2015

Transcript of đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a) bai gui lop

Page 1: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

1

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI :

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM

Á NĂM 1997

GVHD : PGS., TS. LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO

HV THỰC HIỆN : NHÓM 4

LỚP : CAO HỌC 16A

LỜI MỞ ĐẦU

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2015

Page 2: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

2

Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do

hóa thị trường tài chính đã trở nên phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việt

Nam cũng nằm trong số những quốc gia này, Đảng và nhân dân ta đã và đang tích

cực cải thiện, phát triển các định chế kinh tế để Việt Nam có thể trở thành một phần

trong guồng máy thương mại thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực như dễ dàng

tiếp cận và tận dụng được những kinh nghiệm, công nghệ cũng như những nguồn

vốn hỗ trợ lớn từ các nước công nghiệp đã phát triển, chúng ta hiện phải đối mặt với

những mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình

toàn cầu hóa làm gia tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia với nhau. Khi xảy ra

những rủi ro tài chính ở một quốc gia nào đó hậu quả của nó không chỉ tác động đến

nền kinh tế của nước này mà là hàng loạt những ảnh hưởng đến tất cả các nước khác

có liên hệ và hợp tác với quốc gia đó, đặc biệt là khi khủng hoảng tài chính lại xảy

ra ở Mỹ - nền kinh tế hùng mạnh nhất hành tinh.

Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đặt biệt là sự phát triển

của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, ngân hàng – các tổ chức tín dụng,

đã và đang thu hút một lượng lớn nguồn ngoại tệ đầu tư từ nước ngoài. Đây là

nguồn ngoại tệ lớn, quan trọng giúp tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển mạnh. Bên

cạnh đó, nó hàm chứa nhưng nguy cơ rủi ro cao và có khả năng xảy ra khủng hoảng

tài chính - kinh tế.

Để sử dụng tốt nguồn ngoại tệ này, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được

những cơ chế, chính sách phù hợp. Muốn làm được như vậy, Việt Nam cần tìm hiểu

các bài học kinh nghiệm từ những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ đã

xảy ra trước đây trong khu vực và trên thế giới.

Bằng phương pháp mô tả và phân tích các số liệu, thông tin về hiện trạng

nền kinh tế Đông Nam Á thập niên 90 của thế kỷ XX, đề tài “Khủng hoảng tài

chính Đông Nam Á năm 1997” được thực hiện nhằm làm rõ những nguyên nhân

cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng và đề xuất các giải pháp đối phó với khủng

hoảng tài chính để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Page 3: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

3

Bài nghiên cứu gồm 3 phần:

Phần 1: Cơ sở lý luận về khủng hoảng tài chinh

Phần 2: Phân tích cuộc khủng hoàng tài chính Đông Nam Á 1997

Phần 3: Liên hệ thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại Việt

Nam

BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Page 4: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

4

STT Họ và tên Nội dung thực hiện

1 Phạm Thị Thúy Hằng Viết phần nội dung chương 3

2 Đặng Thị Thúy Nga Viết phần 2.1 & tổng hợp

3 Vũ Nguyễn Hồng Ngọc Viết phần 2.2 & thuyết trình

4 Nguyễn Thị Vân Nhung Viết phần nội dung chương 3 & thuyết trình

5 Trần Thị Bích Phương Viết phần 2.3 & làm Powerpoint

6 Tạ Ngọc Thiện Thảo Viết phần nội dung chương 1

MỤC LỤC

Page 5: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

5

DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH

Page 6: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

6

BẢNG:

Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)

Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)

Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối

Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,

Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD

Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,

Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-1996 - Tỷ USD

Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%).

Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997

Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính

Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp

Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính

Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay

Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á

Bảng phụ lục.: Các chỉ tiêu kinh tế khu vực Đông Á giai đoạn 1990-199

HÌNH ẢNH

Hình 1.1: Bộ ba bất khả thi

Hình 2.1: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế

biến của các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%)

Hình phụ lục: Biểu diễn các chỉ số kinh tế khu vực ASENA-4

Page 7: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

1.1. Khái niệm, phân loại khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền

kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Một số

dấu hiệu của khủng hoảng tài chính như các ngân hàng thương mại không thể hoàn

trả các khoản tiền gửi của người gửi tiền, các khách hàng vay vốn (cá nhân, tập thể,

chính phủ) gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả các khoản

vay cho ngân hàng, chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Khủng hoảng tài

chính được chia làm ba dạng: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân hàng và

khủng hoảng nợ.

1.1.1. Khủng hoảng tiền tệ (Currency Crisis)

Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “khủng hoảng tiền tệ là trạng

thái mà ở đó một cuộc tấn công vào đồng nội tệ dẫn tới sự thâm hụt phần lớn dự trữ

ngoại tệ và làm đồng tiền nội tệ mất giá nhanh chóng hoặc buộc các cơ quan chức

năng phải có biện pháp phòng vệ bằng cách sử dụng một lượng dự trữ ngoại tệ lớn

hoặc nâng cao mức lãi suất”. Khủng hoảng tiền tệ chiếm vị trí trung tâm trong các

nghiên cứu về khủng hoảng tài chính vì khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ thường đi

kèm hoặc kéo theo các dạng khủng hoảng khác, chẳng hạn như khủng hoảng ngân

hàng (còn được gọi là “khủng hoảng kép”).

Lý thuyết nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ

Các mô hình nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ ra đời cùng với các cuộc

khủng hoảng tiền tệ đã từng diễn ra trong lịch sử và được xây dựng thành ba mô

hình tương ứng với ba cuộc khủng hoảng.

Mô hình thứ nhất dùng để giải thích cho cuộc khủng hoảng xảy ra tại các

nước Châu Mỹ Latinh vào những năm cuối thập kỷ 70 do Krugman(1979) phát triển

trên cơ sở các nghiên cứu trước đó của Salant và Henderson (1978). Trọng tâm của

các nghiên cứu này là các chính sách vĩ mô với tỷ giá hối đoái được neo giữ cố

Page 8: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

8

định. Tình trạng thiếu đồng bộ trong các chính sách kinh tế tạo ra nhiều bất ổn cho

nền tảng kinh tế, khiến tỷ giá hối đoái cố định không thể tiếp tục duy trì và hệ quả

tất yếu là sẽ có sự điều chỉnh về tỷ giá. Các nguyên nhân vĩ mô của khủng hoảng

loại này là do tăng trưởng kinh tế quá nóng, những yếu kém trong hệ thống ngân

sách và do nền kinh tế hoạt động nghèo nàn.

Mô hình thứ hai bắt đầu bằng những nghiên cứu của Obsbteld (1986 và

1996). Khủng hoảng tiền tệ xảy ra do có sự dịch chuyển từ trạng thái cân bằng này

sang trạng thái cân bằng khác, như từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái thả

nổi hoặc từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái cố định khác nhưng với tỷ

giá thấp hơn. Một điển hình khác của loại khủng hoảng này liên quan tới các khoản

thâm hụt tài chính của Chính phủ dẫn đến việc các nhà cho vay đồng loạt thu hồi lại

vốn cho vay và gây sụp đổ hệ thống tiền tệ hoặc do hoạt động đầu cơ của các quỹ

đầu tư lớn.

Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ có thêm một bước tiến mới sau khủng

hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Những nghiên cứu từ cuộc khủng hoảng này

đã phát triển thành mô hình khủng hoảng thuộc thế hệ thứ ba của khủng hoảng tiền

tệ. Khủng hoảng xảy ra khi đất nước bị sụt giảm nhanh chóng về nguồn vốn do

những hoảng sợ về tài chính đến từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong một số

trường hợp, các nước duy trì một tỷ giá cố định với chức năng như một “hợp đồng

bảo hiểm rủi ro tỷ giá” cho các nhà đầu tư nước ngoài. Một khi có dự báo về việc tỷ

giá cố định không thể tiếp tục được duy trì sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy khoản

đầu tư của mình không an toàn nữa và đồng loạt rút vốn để đầu tư vào những tài sản

ít biến động hơn. Sự ra đi ồ ạt của các khoản vay ngân hàng làm cho đất nước thiếu

hụt trầm trọng dự trữ ngoại tệ và yếu kém về khả năng thanh toán.

1.1.2. Khủng hoảng ngân hàng ( Banking Crisis)

Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái theo đó các ngân hàng lâm vào tình

trạng rút tiền ồ ạt và bị phá sản. Các ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các

cam kết của mình, hoặc để tránh tình trạng này nhà nước phải can thiệp bằng các

Page 9: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

9

biện pháp hỗ trợ đặc biệt. Khủng hoảng ngân hàng có thể bùng phát tại một ngân

hàng và lan ra toàn bộ hệ thống.

Lý thuyết phân tích khủng hoảng ngân hàng

Trước thập niên 70, thế giới chỉ xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng vào

diện rộng vào những năm 1929- 1933. Nhưng từ thập niên 70 trở lại đây, khủng

hoảng ngân hàng theo kiểu dây chuyền đã xảy ra ở rất nhiều quốc gia, kể cả các

nước phát triển, đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Đặc biệt là

tại Châu Mỹ Latinh, khủng hoảng tài chính- ngân hàng đã xảy ra đôi ba lần ở cùng

một quốc gia (hai lần ở Brazil, Venezuela và Chile, ba lần ở Argentina, Costa Rica

và Mexico). Khủng hoảng còn xảy ra ở Đông Á năm 1997, ngân hàng của nhiều

nước Châu phi cũng lâm vào tình trạng tương tự.

Đặc trưng của khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi các

ngân hàng gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán cục bộ và có thể lan rộng

sang các ngân hàng khác. Đã có nhiều cách lý giải cho hiện tượng này,

(Kindleberger-1978, Diamond và Dybvid- 1983) cho rằng nguyên nhân có thể do

thông tin bất cân xứng giữa ngân hàng và người gửi tiền hoặc có thể do kết quả của

“ sự kích động tâm lý của đám đông hỗn loạn”. Các lý thuyết giải thích hiện tượng

rút tiền ồ ạt xuất phát từ yếu tố tâm lý cho rằng, mỗi người gửi tiền sẽ rút vốn khỏi

ngân hàng khi nghĩ những người gửi tiền khác đang rút vốn, thậm chí khi ngân hàng

của họ không có bất cứ vấn đề nào trong bảng cân đối tài sản.

Một hình thức lan truyền khác được đề cập đến trong nghiên cứu của

Diamond và Rajan (2002) giả định rằng các ngân hàng có một cơ chế chung về

thanh khoản. Sự sụp đổ của ngân hàng sẽ tạo ra những hạn chế về thanh khoản, từ

đó gây nên những hạn chế về khả năng thanh toán và có thể dẫn đến sự suy sụp của

một loạt các ngân hàng, thậm chí khi không có bất cứ một thông tin hoặc liên kết

nào giữa các ngân hàng. Các yếu tố vĩ mô có thể trở thành những yếu tố quan trọng

gây nên sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, trong nhiều trường hợp sự can thiệp sớm

một cách thiếu tổng thể của Chính phủ làm cho sự suy sụp ở mức độ nhỏ trở thành

Page 10: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

10

khủng hoảng ngân hàng. Chẳng hạn, các biện pháp chính sách nhất thời có thể gây

sự hiểu lầm cho người gửi tiền gây nên việc rút tiền ồ ạt và dẫn đến một cuộc khủng

hoảng ngân hàng toàn bộ.

Nguyên nhân phát sinh khủng hoảng ngân hàng không chỉ xuất phát từ các

yếu tố nội sinh mà đôi khi các yếu tố kinh tế bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan

trọng. Điển hình là các cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu thập niên 80 tại các nước

đang phát triển chủ yếu là do giá dầu biến động và một số mặt hàng xuất khẩu chủ

lực khác ở các nước này giảm sút, ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh

nghiệp. Trả nợ nhiều và trả lãi tiền vay cao cho các nước phát triển cũng góp phần

tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

1.1.3. Khủng hoảng nợ nước ngoài ( Debt Crisis)

IMF định nghĩa “Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không

có khả năng trả nợ nước ngoài, bao gồm khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực

tư nhân”. Khủng hoảng nợ xảy ra nhiều ở các nước đang phát triển mà nguyên nhân

chủ yếu là do chủ các ngân hàng quốc tế. Dưới sức ép của các khoản tiền gửi ngày

một tăng lên từ phía các nước xuất khẩu khi giá mặt hàng xuất khẩu đó tăng nhanh,

các ngân hàng buộc phải tìm ra các con nợ để cho vay. Các ngân hàng quốc tế đã

cho Chính phủ các nước phát triển vay những khoản rất lớn sau khi xem qua quýt

về triển vọng trả nợ của họ. Khác với những khoản nợ tư nhân có thể thu hồi dựa

trên cơ sở pháp luật, mức độ rủi ro vỡ nợ của các Chính phủ rất lớn. Tuy nhiên, với

quan điểm gần như phổ biến là nợ Nhà nước bao giờ cũng được chính phủ hoàn trả

nên dù rủi ro cao, các ngân hàng nước ngoài vẫn sẵn sàng cho chính phủ các nước

đang phát triển vay mà không tiên liệu được khả năng là gánh nặng trả món nợ nhà

nước có thể trở nên gay go đến mức vượt quá dự trữ ngoại hối của quốc gia đó. Một

nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến khủng hoảng nữa chính là những cơn sốc kinh

tế toàn cầu do giá cả của một số hàng hóa thay đổi đột ngột và những chính sách

kinh tế ở nhiều nước cho vay.

Page 11: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

11

1.2. Các mô hình kinh tế được sử dụng để mô phỏng quá trình khủng hoảng

1.2.1. Mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá giá”

Trong giai đoạn phát triển ổn định, hầu hết các nước đều cố định đồng tiền

của mình với đô la Mỹ. Khi lạm phát của các nước này cao hơn ở các nước có đồng

tiền mạnh (như USD, FRF, JPY..) thì chính tỷ giá cố định này đã khiến cho hoạt

động xuất khẩu trở nên khó khăn hơn đồng thời cũng khuyến khích hoạt động nhập

khẩu do hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa nhập khẩu.

Kết quả là cán cân thương mại có xu hướng xấu đi và có thể dẫn đến thâm hụt

thương mại nếu như không được cải thiện kịp thời. Để bù đắp lại khoản thâm hụt

này (trả nợ cho khoản chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu) thì Nhà nước phải

bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp trả nợ hoặc vay nợ nước ngoài để bù đắp. Thông

thường các quốc gia sẽ chọn cách thứ hai thông qua các hình thức thu hút vốn đầu

tư trực tiếp cũng như gián tiếp. Việc vay nợ nước ngoài chỉ là giải pháp mang tính

tạm thời, bên cạnh việc tích cực tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng hàng

hóa để cạnh tranh với hàng xuất khẩu của các nước khác nhằm giảm thâm hụt

thương mại mà vẫn giữ được lãi suất cố định. Tuy nhiên, do việc vay nợ nước ngoài

quá dễ dàng khi các nước đang phát triển mở rộng cửa nền kinh tế và tăng lãi suất

để chào đón các nhà đầu tư nước ngoài nên các nước đang phát triển đã để nền kinh

tế của nước mình phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài thay vì

tự thân vận động. Khi số nợ ngày càng nhiều thì quốc gia đó khó có thể vay thêm

nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt thương mại và tỷ giá cố định sẽ khó mà giữ

được. Và rõ ràng nếu rơi vào tình trạng này tỷ giá sẽ tăng lên, thu nhập của nhà đầu

tư nước ngoài nếu quy đổi ra đô la Mỹ sẽ giảm rất nhiều. Để tránh điều này, một số

nhà đầu tư đã lợi dụng ngay khi tỷ giá còn giữ cố định để bán vốn của mình bằng

đồng nội tệ để mua ngoại tệ chuyển ngay về nước làm cho cầu về ngoại tệ tăng đột

ngột. Lúc này, nếu nhà nước không có đủ ngoại tệ dự trữ để bán ra thì áp lực tăng tỷ

giá sẽ rất lớn vì ngoài cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu còn có cầu về

ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài muốn rút vốn về nước. Trong trường hợp

Page 12: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

12

nhà nước buộc phải thả nổi thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh làm cho các nhà đầu tư

còn lại và cả người dân cũng sẽ bắt đầu bán vốn và tài sản, càng làm cho cầu ngoại

tệ tăng và càng đẩy tỷ giá lên cao.

1.2.2. Mô hình “Nguy cơ phá sản doanh nghiệp”

Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, quá trình cạnh tranh sẽ đào thải

những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Chính quy luật này đã tạo ra áp lực

buộc các doanh nghiệp phải tìm cách để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành đơn

vị, tăng khả năng cạnh tranh và coi đó là cơ sở quyết định sự tồn tại hay phá sản của

doanh nghiệp. Như vậy, quá trình cạnh tranh tất yếu sẽ làm các doanh nghiệp kém

hiệu quả nhất bị phá sản và trong trường hợp đó các nguồn lực xã hội sẽ được sử

dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế không có khả năng loại bỏ các doanh

nghiệp kém thì có nghĩa là đã khuyến khích cho việc sử dụng lãng phí các nguồn tài

nguyên và tích lũy dần sự yếu kém cho nền kinh tế. Lúc này, chỉ cần một tác động

làm tăng chi phí đầu vào hoặc giảm chi phí đầu ra một cách đột ngột thì sẽ khiến

cho hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản kéo theo nhiều hậu quả về kinh tế xã hội

cho đất nước. Doanh nghiệp phá sản sẽ không trả được nợ ngân hàng và có thể kéo

theo các ngân hàng cũng phá sản theo vì mất khả năng thanh khoản.

Có nhiều nguyên nhân làm doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Doanh

nghiệp phung phí vốn, thiếu quan tâm đến hiệu quả đầu tư và làm cho nợ ngày càng

gia tăng. Nguồn vốn vay giống như “một con dao hai lưỡi”; nếu doanh nghiệp hoạt

động hiệu quả, đòn bẩy nợ sẽ giúp doanh nghiệp phát triển nhanh hơn vì có chi phí

sử dụng thấp hơn tương đối so với các nguồn vốn khác; nhưng nó cũng có thể đưa

doanh nghiệp đến chỗ phá sản nhanh chóng nếu sử dụng vốn vay phung phí, không

hiệu quả. Vay vốn bất chấp hiệu quả đầu tư thì nguy cơ dẫn đến phá sản là rất lớn.

Khi quốc gia bị thâm hụt tài khoản thương mại kéo dài, Chính phủ phải nâng lãi

suất nội địa lên để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chính lãi suất quá cao này

lại hạn chế các doanh nghiệp nội địa mượn tiền để đầu tư đổi mới trang thiết bị công

Page 13: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

13

nghệ. Kết quả là hiệu quả sản suất vẫn không cao, khả năng cạnh tranh của hàng

hóa vẫn kém.

Cơ cấu sản phẩm và chiến lược kinh doanh không phù hợp cũng là một trong

những nguyên nhân khiến doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, làn

sóng đầu tư đổi mới công nghệ đã làm giá cả nhiều loại sản phẩm giảm mạnh và

ngày càng có nhiều sản phẩm mới ra đời thay thế sản phẩm cũ. Chính vì vậy mà các

doanh nghiệp chậm đổi mới cơ cấu sản phẩm sẽ dần mất đi thị trường tiêu thụ, giảm

thu nhập và có nguy cơ phá sản rất cao.

Môi trường kinh doanh vĩ mô bị biến động nhưng Chính phủ không có sự

điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Ví dụ như trong trường hợp các nước cố gắng

duy trì tỷ giá cố định trong khi lạm phát trong nước gia tăng sẽ khiến hạn chế xuất

khẩu, khuyến khích nhập khẩu càng làm gia tăng áp lực cạnh tranh và phá sản trong

nước.

Tỷ giá hối đoái tăng mạnh gần như trở thành một đòn quyết định đốn ngã các

doanh nghiệp có nhiều khoản vay nợ nước ngoài để thanh toán hàng nhập khẩu

hoặc đầu tư. Khi tỷ giá tăng lên đột ngột khiến gánh nặng nợ nần của các doanh

nghiệp này tính bằng đồng nội tệ tăng lên, dần vượt quá khả năng thanh toán nợ của

doanh nghiệp và đi đến phá sản doanh nghiệp.

1.2.3. Mô hình “Nguy cơ phá sản các ngân hàng”

Ngân hàng và các công ty tài chính là những mắt xích quan trọng trong nền

kinh tế của một quốc gia. Hệ thống ngân hàng được ví như huyết mạch của nền kinh

tế, có chức năng thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư để sử dụng hiệu quả

hơn. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng xảy ra tình trạng quản lý yếu

kém, làm ăn không hiệu quả. Nếu ngân hàng sử dụng các nguồn lực tài chính của xã

hội một cách lãng phí, cho vay bất chấp hiệu quả đầu tư thì tác hại của nó lại nhân

lên gấp bội. Trong trường hợp đó, nếu nền kinh tế không thể loại bỏ được những

ngân hàng này thì chính nền kinh đó đang tích lũy dần các điều kiện gây nên khủng

hoảng. Những yếu tố dẫn đến nguy cơ phá sản một ngân hàng:

Page 14: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

14

Các doanh nghiệp- con nợ chính của các ngân hàng làm ăn thua lỗ, bị phá

sản. Khi các doanh nghiệp phá sản hàng loạt khiến cho số nợ khó đòi của ngân hàng

tăng lên, hậu quả là ngân hàng mất dần khả năng thanh toán và cuối cùng là đi đến

phá sản.

Nhu cầu rút vốn tăng lên đột ngột, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của

ngân hàng. Điểm nguy hiểm của hệ thống ngân hàng là tính lan truyền rất nhanh

chóng, chỉ vì có một ngân hàng yếu kém để xảy ra tình trạng trên cũng có thể kéo

theo hàng loạt các ngân hàng đang hoạt động bình thường khác cũng bị ảnh hưởng.

Nghiêm trọng hơn nữa là nếu các ngân hàng này không có đủ dự trữ hoặc không

được hỗ trợ kịp thời cũng hoàn toàn có thể xảy ra nguy cơ phá sản.

Sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động cho vay của ngân hàng, nhất là các

ngân hàng nhà nước. Chính phủ có thể can thiệp bằng nhiều cách như: buộc ngân

hàng cho vay ưu đãi hoặc bảo lãnh cho các khoản vay. Sự nhúng tay quá sâu của

Chính phủ như vậy khiến cho các thủ tục thẩm định tín dụng vốn rất cần thiết nay

chỉ mang tính hình thức, không được coi trọng đúng mức. Vì thế, vốn vay có thể

đến tay những doanh nghiệp yếu kém, khả năng trả nợ thấp khiến nợ khó đòi của

ngân hàng tăng lên và làm tăng nguy cơ phá sản của ngân hàng.

1.2.4. Mô hình “ Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán”

Đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng để phát triển

kinh tế đất nước. Song trong một số điều kiện nhất định, loại đầu tư này có thể tạo

ra nguy cơ mất khả năng thanh toán cho một quốc gia. Để thu hút đầu tư nước ngoài

thì điều kiện cần thiết là lãi suất trong nước phải cao hơn lãi suất nước đi đầu tư.

Nhưng lãi suất cao đồng nghĩa với việc số lãi phải trả tính bằng ngoại tệ càng nhiều,

nợ quốc gia càng tăng. Hơn nữa, một khi nhà đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về

nước thì nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ lớn để trả cho họ. Lượng ngoại tệ

này quá lớn sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối, nếu dự trữ ngoại tệ không đủ quốc gia

mất khả năng thanh toán.

Page 15: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

15

Một số quốc gia vay nợ ngắn hạn nhưng lại đầu tư vào những dự án dài hạn

và ít đem lại nguồn thu ngoại tệ như các công trình xây dựng nhà ở, văn phòng, viễn

thông… khi đến hạn trả quốc gia sẽ không có nguồn ngoại tệ để trả. Đây là nguy cơ

mất khả năng thanh toán do cơ cấu đầu tư không hợp lý. Ngay cả đối với những

khoản hỗ trợ chính thức như ODA mà nước nhận tài trợ lựa chọn những dự án kém

hiệu quả thì khả năng hoàn vốn cũng rất đáng lo ngại. Đến hạn trả nợ, Chính phủ

phải xuất dự trữ ngoại tệ hoặc phải vay nợ mới để trả nợ cũ làm nợ nước ngoài càng

tăng. Một khi nguy cơ mất khả năng thanh toán đến gần, quốc gia càng phải nhanh

chóng thu hút nguồn ngoại tệ bổ sung. Khi đó biện pháp cơ bản nhất được áp dụng

là tăng lãi suất cơ bản trong nước cao hơn lãi suất ở nước ngoài, điều này tiếp tục

làm tăng khả năng quốc gia mất khả năng thanh toán. Quốc gia rơi vào vòng lẩn

quẩn, càng trả nợ thì nợ lại càng tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán càng đến

gần.

1.3. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính

1.3.1. Lý thuyết về Bộ ba bất khả thi

Theo lý thuyết kinh tế học Bộ ba bất khả thi (Triangle of Impossibility): chính phủ

không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô gồm: ổn

định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn, chính sách tiền tệ độc lập mà chỉ có thể thực hiện

đồng thời hai trong ba chính sách này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình

thế kinh tế dễ đổ vỡ (nguy cơ khủng hoảng) khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba

chính sách trên cùng lúc trong một khoảng thời gian dài.

Sơ đồ 1.1: Mô phỏng lý thuyết Bộ ba bất khả thi

Page 16: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

16

Hình 1.1. Bộ ba bất khả thi (Nguồn: Tổng hợp của tác giả)

Ở các quốc gia khác nhau, bộ ba bất khả thi sẽ được thể hiện dưới dạng thức

cụ thể khác nhau nhưng về bản chất là không thay đổi. Tỷ giá thể hiện ở: dự trữ

ngoại tệ, cán cân thanh toán,... Tự do lưu chuyển vốn được thể hiện ở: tăng trưởng

GDP, đầu tư nước ngoài, nhập siêu, tài khóa ngân sách công, nợ nước ngoài,... và

Chính sách tiền tệ độc lập thể hiện ở: lạm phát, lãi suất, ...

Lý thuyết này được gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và

Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào năm những 1980, khi vấn

đề kiểm soát dòng vốn tại nhiều quốc gia bị thất bại do mâu thuẫn giữa việc neo tỷ

giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng. Từ đó, lý thuyết Bộ ba bất khả

thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô quan trọng trong điều hành kinh tế.

Trong điều hành một nền kinh tế thì không thể theo đuổi ba mục tiêu trên cùng

một lúc. Chẳng hạn khi một quốc gia muốn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để

kích cầu nền kinh tế lúc đó NHTW sẽ tăng cung tiền làm giảm lãi suất, lãi suất giảm

sẽ khuyến khích dòng vốn chuyển ra khỏi quốc gia. Nếu chính phủ tự do hóa giao

dịch vốn dòng vốn sẽ tạo ra áp lực tăng tỷ giá. Nếu chính phủ muốn cố định tỷ giá,

NHTW phải tăng cung ngoại tệ bằng cách bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối,

việc làm này làm giảm cung tiền. Và nếu chính phủ muốn thực hiện mục tiêu nới

lỏng tiền tệ NHTW bắt buộc phải tăng cung tiền. Cung tiền tăng tạo áp lực gia tăng

lạm phát làm ảnh hưởng đến mục tiêu kích cầu nền kinh tế. Do vậy, nếu chính phủ

Page 17: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

17

kiên định trong thực hiện chính sách tiền tệ thì phải từ bỏ một trong hai mục tiêu

còn lại là phải kiểm soát giao dịch vốn hoặc thả nổi tỷ giá. Hoặc nếu muốn tự do

hóa giao dịch vốn và cố định tỷ giá thì không thể độc lập trong điều hành tiền tệ.

1.3.2. Lý thuyết ngang giá sức mua

Ngang giá sức mua (purchasing power parity – PPP) là một trong những mô

hình lý thuyết sớm nhất và đơn giản nhất về việc xác định tỷ giá hối đoái. Điều kiện

cân bằng mà lý thuyết PPP đưa ra cũng là một trong những cơ sở căn bản cho việc

hình thành và phát triển các lý thuyết hiện đại về tỷ giá. Lý thuyết này mô tả mối

quan hệ giữa giá cả và tỷ giá, được xem là một trong những thước đo đo lường mức

độ sai lệch của tỷ giá.

Quy luật một giá

Cơ sở hình thành lý thuyết ngang giá sức mua là quy luật một giá. Quy luật

một giá được định nghĩa là khi thị trường là cạnh tranh hoàn hảo và bỏ qua các rào

cản thương mại, chi phí vận chuyển, bảo hiểm… thì các hàng hoá giống hệt nhau

trên các thị trường khác nhau sẽ có giá như nhau khi quy về cùng một đồng tiền

chung (Ví dụ: 1 lít dầu ở Mỹ sẽ có giá bán bằng giá bán ở Việt Nam). Giá trong

nước cao hơn nước ngoài và do tỷ giá là cố định nên kinh doanh chênh lệch giá

hàng hóa làm giá cân bằng ở hai quốc gia thể hiện theo công thức như sau

Pi = S.Pi*

Trong đó:

S: là tỷ giá giao ngay

Pi: là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước

Pi*: là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài

1.3.3.1. Ngang giá sức mua tuyệt đối

Page 18: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

18

Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối xem xét mối quan hệ giữa giá cả

hàng hoá và tỷ giá hối đoái tại một thời điểm nhất định. Ngang giá sức mua tuyệt

đối được xây dựng trên các giả thuyết sau:

- Thị trường hàng hoá quốc tế cạnh tranh hoàn hảo.

- Không tồn tại cước phí vận chuyển;

- Hàng hoá được lưu chuyển tự do, không tồn tại hàng rào thuế quan và các

hàng rào phi thuế quan;

- Các nhà kinh doanh trung lập đối với rủi ro;

- Rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước và nước ngoài có thành phần và cấu

trúc như nhau;

- Quy luật một giá được duy trì cho tất cả các hàng hoá trao đổi mua bán

quốc tế.

Nếu đẳng thức Pi = S.Pi* là đúng cho mọi hàng hoá và dịch vụ thì khi tính giá

một loại rổ hàng hoá và dịch vụ giống nhau ta cũng có: S = P:P*

Trong đó:

S : là tỷ giá giao ngay

P : là rổ hàng hoá và dịch vụ trong nước

P*: là giá rổ hàng hóa và dịch vụ nước ngoài

Ta có thể xác định tỷ giá giữa hai đồng tiền của hai quốc gia nếu như chúng ta

biết mức giá của rổ hàng hoá tiêu chuẩn ở trong nước tính bằng nội tệ và mức giá

của rổ hàng hóa tiêu chuẩn ở nước ngoài tính bằng ngoại tệ. Tỷ giá niêm yết trực

tiếp S tại một thời điểm có thể xác định bằng cách lấy mức giá của rổ hàng hóa tiêu

chuẩn trong nước tính bằng nội tệ chia cho mức giá cả của rổ hàng hóa tiêu chuẩn

tính bằng ngoại tệ. Nếu mức giá cả hàng hóa tiêu chuẩn trong nước P tăng cao hơn

tương đối so với mức giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn nước ngoài P * thì S sẽ tăng,

tức là nội tệ sẽ giảm giá so với ngoại tệ, và ngược lại.

Page 19: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

19

Lý thuyết này giải thích sự thay đổi tỷ giá một cách đơn giản, dễ hiểu. Tuy

nhiên, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối được xây dựng trên nhiều giả thuyết,

trong đó có nhiều giả thuyết đưa ra không có tính thực tiễn. Vì rổ hàng hóa ở mỗi

quốc gia là khác nhau và tỷ trọng hàng hóa trong rổ cũng là khác nhau; trên thị

trường hàng hóa quốc tế luôn tồn tại cước phí vận chuyển; môi trường kinh doanh

và môi trường văn hóa khác nhau giữa các quốc gia cũng có thể là rào cản ảnh

hưởng đến các quyết định kinh doanh của các nhà kinh doanh hàng hóa quốc tế…

Như vậy, lý thuyết ngang giá sức mua tuyệt đối khó có thể duy trì trong thực tế.

Page 20: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

20

1.3.3.2. Thuyết ngang giá sức mua tương đối

Ngang giá sức mua tương đối được phát triển tiếp từ ngang giá sức mua tuyệt

đối. Mẫu lý thuyết ngang giá sức mua này đưa ra mối quan hệ tương đối giữa giá cả

và tỷ giá giữa hai thời điểm bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền. Đồng

tiền nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền đó giảm giá. Tỷ lệ giảm giá gần

bằng chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền.

PPP tuyệt đối đưa ra mối quan hệ giữa giá cả và tỷ giá tại một thời điểm.

Trong khi đó ngang giá sức mua tương đối đưa ra mối quan hệ tương đối giữa tỷ giá

và giá cả giữa hai thời điểm. Mặc dù được phát triển từ PPP tuyệt đối, PPP tương

đối có thể dể dàng được chấp nhận hơn so với PPP tuyệt đối do PPP tương đối chấp

nhận sự tồn tại của các yếu tố như cước phí vận chuyển và các rào cản thương mại

(Moosa 2010).

Để hình thành biểu thức biểu diễn nội dung lý thuyết PPP tương đối chúng ta

sử dụng các ký hiệu:

Po*: giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 0.

Pi* : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng ngoại tệ tại thời điểm 1

Po : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 0

Pi : giá của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ tại thời điểm 1

: tỷ lệ lạm phát trong nước giữa hai thời điểm 0 và 1

: tỷ lệ lạm phát nước ngoài giữa hai thời điểm 0 và 1

e: tỷ lệ thay đổi tỷ giá giữa hai thời điểm 0 và 1

Ta có công thức sau:

e =

Page 21: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

21

S1 = S0.( )

Ví dụ 1: Tính tỷ giá theo PPP tương đối

Trong một khoảng thời gian nhất định, mức lạm phát ở Việt Nam là 10%, còn

mức lạm phát ở Mỹ là 6%. Giả sử PPP được duy trì một cách chính xác. Tỷ giá thay

đổi như thế nào nếu tỷ giá ban đầu là 21,000 – VND/USD?

Theo PPP tương đối, tỷ giá sẽ thay đổi theo một tỷ lệ là: 10% - 6% = 4%

Tỷ giá mới sẽ cao hơn tỷ giá cũ khoảng 4%, vì thế tỷ giá mới sẽ là:

S(VND/USD) = 21,000 x (1.04) = 21,840

USD tăng giá so với VND

Ví dụ 2: Tỷ giá theo PPP tương đối và tỷ giá thị trường

Năm 2014 Năm 2015

Tỷ giá S(VND/USD) 21,300 21,500

Mức giá tại VN 100 104

Mức giá tại Mỹ 100 101

Tính tỷ giá tương thích với PPP và so sánh với tỷ giá thực tế trên thị trường?

S(VND/USD) = 21,300 x = 21,933 VND/USD

Tỷ giá tương thích với PPP cao hơn so với tỷ giá thực tế được giao dịch trên

thị trường . USD đang được định dưới giá, có nghĩa là giá USD tại Việt Nam đang

định giá thấp hơn so với giá USD thực tế.

Page 22: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

22

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG

NAM Á 1997

2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997

Khủng hoảng bắt đầu bùng phát từ Thái Lan & đất nước này đã phải gánh

chịu những tổn thất nặng nề khi bong bóng đầu tư bị vỡ vụn. Khủng hoảng mang

tính lây lan, hiệu ứng domino sang các nước trong khu vực như Indonesia,

Philippines, Malaysia, lan sang Hàn Quốc, Hồng Kong, cả Nga & Brasil cũng chịu

tác động, trong đó chịu thiệt hại nhiều nhất là Thái Lan, Indonesia & Hàn Quốc

Khuôn khổ bài nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực Đông Nam Á

nên nhóm xin trình bày về diễn biến khủng hoảng tại các nước trong khu vực này,

nói thêm một vài ý về tình hình của Hàn Quốc để thấy rõ mức ảnh hưởng của nó

Thái Lan: Đất nước này bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa từ 1961, tốc độ

tăng trưởng trong thập niên 60 đạt mức 8%, 7% trong thập niên 70 & trong thập

niện 80 là 8%; tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440usd lên 3.012

usd năm 1996; nông nghiệp giảm tỷ trọng trong nền kinh tế từ mức 39% (1961)

xuống còn 26.7% (1976) và chỉ còn 10.4% (1996). Từ những bước phát triển nhanh

trọng trong thập niên 60 & 70, chính phủ Thái Lan đã thực thi chính sách phát triển

kinh tế dựa vào xuất khẩu. Từ 1986-1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân

là 28%/năm; giá trị xuất khẩu tính theo đầu người đạt 630 usd/người năm 1991 lên

1177 usd/người năm 1996. Đến cuối năm 1996, Báo cáo triển vọng phát triển kinh

tế của IMF cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng, khả năng vỡ bong

bóng nhanh chóng sẽ xảy ra. Thực vậy, việc tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng

quy mô sản xuất bằng nguồn nợ vay ngắn hạn từ các giới đầu tư quốc tế khiến cho

cán cân thanh toán vãng lai của Thái Lan thâm hụt, xuống 8% GDP năm 2996. Lo

ngại đồng baht mất giá, nhiều nhà đầu tư & người dân rút vốn hàng loạt ra khỏi các

ngân hàng & các định chế tài chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường vốn

của đất nước này. Ngày 03-03-1997, Chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng

Page 23: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

23

khoán trong ngày này. Đến ngày 4 & 05-03-1997, 21.4 tỷ baht, tương đương với

820 tỷ usd bị rút ra khỏi các ngân hàng & các công ty tài chính. Ngày 09-04-1997,

phải mất 26.8 bath mới đổi được 1 usd, mức cao nhất kể từ năm 1991. Ngày 14,15-

05-1997, đồng baht bị tấn công quy mô lớn, TTCK ngập tràn lệnh bán đồng tiền

này, chính phủ buộc phải chi ra 10 tỷ usd trong 2 tuần để giữ giá baht, 25 baht ăn 1

usd. Ngày 25-06-1997, 16 công ty tài chính đóng cửa, nâng tổng số lên 91 công ty,

chiếm 61% số công ty trên cả nước. Lúc này, cung ngoại tệ tăng cao, chính phủ phải

bán ra để giảm áp lực tăng giá ngoại tệ, khiến dự trữ ngoại tệ từ 38,87 tỷ usd tháng

6/1996 xuống còn 41.4 tỷ usd vào tháng 6/1997. Ngày 30/6, thủ tướng Thái Lan vẫn

cam quyết sẽ không phá giá baht, nhưng rút cuộc lại thả nổi đồng tiền này vào ngày

2.7.1997, ngay lập tức baht bị mất giá 50%. Tháng 1/1998, 56 baht mới ăn 1 usd.

Mức vốn hóa thị trường sụt giảm từ 141.1 tỷ usd xuống còn 23.5 tỷ usd. Finance

Once-công ty tài chính lớn nhất Thái Lan bị phá sản. Ngày 11.8.98, IMF tuyên bố

sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20-08-1998,

IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. Đến năm 2003, Thái Lan đã

hoàn trợ số nợ trước thời hạn & phục hồi kinh tế đất nước. Tuy nhiên, kinh tế Thái

Lan hiện vẫn còn gặp rào cản về chính trị do cuộc đảo chính quân sự vào tháng

6/2006, lật đổ thủ tướng cầm quyền Thaksin & tồn đọng những bất đồng hiện vẫn

chưa giải quyết ổn thỏa.

Indonesia: Trước khủng hoảng, Indonesia phát triền thần kỳ với thu nhập trên vốn

đầu tư tăng gấp đôi từ năm 1990 đến 1997, nhờ vào xuất khẩu dầu & ga; kinh tế

phát triển thúc đẩy kinh tế vĩ mô phát triển bền vững, ngân sách cân bằng, lạm phát

ở mức thấp, tỷ giá cố định. Cuối năm 1996, đầu năm 1997, xuất khẩu giảm nhẹ với

thời điểm trước đó. Khủng hoảng bắt đầu lan sang Indonesia khi chính phủ Thái thả

nổi đồng baht ngày 02-7-1997, mặc dù kinh tế vĩ mô bền vững hơn Thái tại thời

điểm đó nhưng rupiah vẫn buộc phải thả nổi; đến tháng 9 & 10/1997, rupiah mất giá

hơn 10% so với thời điểm tháng 7/1997, mức giảm nhanh nhất so với các nước bị

khủng hoảng trong khu vực. Ngày 05/11/1997, IMF cam kết gói cứu trợ 10 tỷ usd

nhưng Chính phủ Indonesia đã từ chối sự giúp đỡ này. Đến tháng 6/1998, rupiah

Page 24: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

24

chạm đáy 16.650 rupiah mới ăn 1 usd. Áp lực buộc tổng thống buộc phải từ chức.

Kinh tế dần phục hồi sau đó, tỷ giá khả quan hơn ở mức 11.075 rupiah/usd. Cuối

tháng 8/1998, tỷ giá là 8.000 rupiah/usd.

Malaysia: Nếu so sánh với một số nước trong khu vực và, có thể nói rằng về

mặt kinh tế và tài chính thì tình hình của Malaysia có tốt hơn Thái Lan, Hàn Quốc

và Indonesia. Điều này thể hiện rõ lực lượng lao động đều có việc làm, tỷ lệ lạm

phát thấp, ngân sách chính phủ thặng dư, nhưng quan trọng hơn cả là Malaysia

không có mức nợ nước ngoài cao như Hàn Quốc(154 tỷ USD), Thái Lan (92 tỷ

USD), Inđonesia (138 tỷ USD), Malaysia chỉ nợ 44,1 tỷ USD. Phần lớn nợ nước

ngoài của Malaysia là nợ trung hạn và nợ dài hạn, cho nên Malaysia không phải trả

nợ gấp như Thái Lan và Hàn Quốc. Trong khi đó, mức dự trữ ngoại tệ của

Malaysia lên tới 23 tỷ USD. Chính phủ Malaysia đã rút kinh nghiệm từ Thái Lan,

Hàn Quốc và Indonesia nên các biện pháp ngăn chặn khủng hoảng của

Malaysia được thực hiện đúng lúc và có hiệu quả hơn. Đồng ringgit của Malaysia

bị phá giá 13%.

Philippines: Giống như Malaysia, Philipines chịu tác động của cuộc khủng

hoảng tài chính ít hơn so với Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia do hệ thống

ngân hàng của Philipines lành mạnh hơn. Các cơ sở kinh tế vĩ mô ổn định và cân

đối, nền kinh tế Philipines phát triển với mức độ vừa phải, không quá nóng như

Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia. Tuy vậy, chính phủ Philipines đã có

những biện pháp kịp thời để ngăn chặn tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng.

Đến cuối tháng 8-1997 đồng peso đã mất giá 28%.

Singapore: Đồng đôla Singapore bị phá giá ở mức 6%, đây là một trong

những quốc gia ít chịu tác động của cuộc khủng hoảng. Do vậy, ngay từ cuối

tháng 8/1997, các nước lâm vào khủng hoảng đã cố gắng bằng mọi giá cắt cơn

sốc tiền tệ như tung USD ra mua đồng nội tệ vào, đánh thuế cao vào các khoản lợi

nhuận do kinh doanh đầu cơ tiền tệ đem lại, nâng lãi suất tiền gửi đối với đông nội

tệ, tiết kiệm chi tiêu ngân sách, kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế…

Page 25: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

25

Việt Nam: Kinh tế Việt Nam thời điểm đó thực sự chưa hội nhập sâu với

quốc tế, nền sản xuất chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang các nước bạn,

đầu tư nước ngoài không nhiều, chưa phát triển thị trường chứng khoán, giới đầu cơ

quốc tế không thể tấn công vnd như tấn công các đồng tiền khác trong khu vực như

baht Thái hay rupiah Indonesia. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến Việt Nam là sự

ảnh hưởng gián tiếp trong việc xuất nhập hàng hóa từ các nước bị ảnh hưởng, dù tác

động không nhiều nhưng nhờ đó mà Việt Nam, cũng như những nước ít bị tác động

khác trong khu vực (như Laos, Bruney,… ) nhận thấy được bài học rút ra từ cuộc

khủng hoảng để củng cố chính sách vĩ mô của mình. Phần Việt Nam sẽ được trình

bảy kỹ hơn ở chương cuối của bài viết “Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc

khủng hoảng”

Các đồng tiền trong khu vực tiếp tục có nhiều biến động mạnh vào cuối năm

1997 và đã giảm giá đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1997 và đã giảm đến

mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1998. Tính đến ngày 12-6-1998, đồng rupiah của

Indonesia bị phá giá 82,4%, các đồng tiền của Philipines, Malaysia, Hàn Quốc bị

phá giá ở mức từ 35% đến 37%. Đồng đôla Đài Loan và đôla Singapore bị phá

giá ở mức thấp hơn tương ứng là 20.5% và 18%.

Sự hoảng loạn trên thị trường ngoại hối đã nhanh chónh lan sang thị trường

chứng khoán làm giá cổ phiếu của Châu Á giảm từ 30% đến 50%. Mọi người bắt

đầu hoảng sợ rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á có thể không chỉ

dừng lại và trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu.

2.2 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997:

Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á năm 1997 được coi là một chấn động

lớn cuả thị trường tài chính thế giới trong suốt những thập kỉ vừa qua. Nghiên

cứu nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng

này sẽ giúp chúng ta có những giải pháp thực tiễn để ngăn ngừa, hạn chế việc phát

sinh các cuộc khủng hoảng sau này. Những nguyên nhân sau được coi là những

Page 26: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

26

nguyên nhân cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ hình thành và bùng nổ.

Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế thiếu tính hợp lý, chủ động:

Nhờ sự chuyển đổi chiến lược từ công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu

sang chiến lược công nghiệp hoá tập trung đẩy mạnh xuất khẩu đã tạo động lực

kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và ổn định kinh tế của Thái Lan và

một số nước Đông Nam Á trong vòng hơn 1 thập kỷ trước khi diễn ra khủng

hoảng. Điều này được biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ 7.5%

đến 8%.

Tuy nhiên, các nguy cơ cũng nảy sinh từ sự thay đổi chiến lược này. Từ

năm

1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển

(cũng đối tác chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam Á ) suy giảm

làm cho lượng cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam Á

giảm mạnh. Hơn thế nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại

đang đứng trước nguy cơ bão hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch

xuất khẩu giảm mạnh làm cho thâm hụt cán cân thương mại lớn và có thể nhìn

nhận thông qua số liệu sau đây :

Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi mới làm cho

tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu

giảm sút trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông

Âu và Mỹ Latinh.

Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một

số ngành kinh tế ở các nước Đông Nam á như kinh doanh địa ốc và ngành sản

xuất hàng xuất khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức,

đặc biệt ở khu vực tư nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu

tư đã không kịp thời điều chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở

Thái Lan và Indonesia vào những năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây

Page 27: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

27

dựng khách sạn và nhà ở đắt tiền bằng vốn ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập

trong nợ nần. Cung vượt cầu đã gây khủng hoảng lớn trong ngành kinh doanh bất

động sản, dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các hiệu ứng dây chuyền đối

với thị trường chứng khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và mất cân đối vốn

có của nền kinh tế kh vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị ảnh hưởng

nặng nề khi thị trường bất động sản chao đảo và thua lỗ.

Thứ hai: Cán cân thanh toán quốc tế mất cân bằng: Thâm hụt cán cân vãng

lai liên tục, kéo dài:

Theo Keynes, công thức xác định trạng thái cán cân thương mại được xác định

theo phương trình sau:

(X-M) = (T-G) + (S-I)

Trong đó,

X: Giá trị xuất khẩu

M: Giá trị nhập khẩu

T: Thuế

G: Chi tiêu của chính phủ

S: Tiết kiệm

I: Khoản đầu tư của tư nhân

Trong phân tích, chênh lệch giá trị xuất nhập khẩu hang hóa, dịch vụ được

xem là đại diện trạng thái cán cân vãng lai do nó chiếm tỷ trọng lớn trong các giao

dịch vãng lai. Như vậy, thâm hụt cán cân vãng lai sẽ bằng với mức thâm hụt ngân

sách cộng với chênh lệch giữa tiết kiệm đầu tư của tư nhân. Theo phương trình

trên, có 3 nguyên nhân gây thâm hụt cán cân vãng lai. Một là ngân sách thâm hụt và

đầu tư lớn hơn tiết kiệm, hai là ngân sách thặng dư nhưng đầu tư quá lớn so với tiết

kiệm, ba là tiết kiệm nhiều hơn đầu tư nhưng ngân sách quốc gia bị thâm hụt lớn.

Page 28: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

28

Về mặt lý thuyết, nếu cán cân vãng lai thâm hụt do nguyên nhân thứ hai thì

không đáng lo ngại. Bởi vì, trong trường hợp này, nguyên nhân chính gây thâm hụt

cán cân vãng lai là đầu tư vượt trội tiết kiệm. Đầu tư tang mạnh thể hiện nền kinh tế

được kỳ vọng tang trưởng. Ngân sách thặng dư cũng là dấu hiệu của nền kinh tế

đang tang trưởng hiệu quả. Đầu tư cao làm gia tang nhập khẩu máy móc, thiết bị,

nguyên vật liệu… gây thâm hụt cán cân vãng lai hiện tại. Tuy nhiên, đầu tư hiệu

quả sẽ góp phần gia tang giá trị xuất khẩu hoặc giảm giá trị nhập khẩu góp phần hạn

chế thâm hụt cán cân vãng lại trong dài hạn.

Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một

nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Khi một nền kinh tế có tiềm năng tăng trưởng tốt,

có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm

trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó

để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Tức là một quốc gia có thể sử dụng nguồn lực của

nước khác để phát triển kinh tế trong nước. Một ví dụ điển hình là tài khoản vãng

lai của nền kinh tế Hoa Kỳ luôn ở trong tình trạng thâm hụt trong những năm gần

đây. Điều này không thể hiện Hoa Kỳ là một nền kinh tế yếu kém. Ngược lại, một

tài khoản vãng lai có thặng dư lại có thể là dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, dòng

vốn trong nước chảy ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn. Tức là

nguồn lực không được sử dụng cho phát triển nền kinh tế trong nước. Và trong

nhiều trường hợp khác, thì sự mất cân bằng của cân cân thương mại (thặng dự hay

thâm hụt) chẳng phải là một dấu hiệu nghiêm trọng nào.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thì thâm hụt thương mại (nhập siêu) và

hệ quả là thâm hụt tài khoản vãng lai thực sự gây ra nhiều vấn đề cho một số nước.

Nhiều nước đã lâm vào khủng hoảng (khủng hoảng nợ, khủng hoảng đồng tiền) sau

khi có mức thâm hụt thương mại lớn, thường xuyên và lâu dài. Điển hình là cuộc

khủng hoảng Châu Á những năm 1997-1998.

Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai thường được hiểu là

nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản

Page 29: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

29

xuất. Làm thế nào để một quốc gia có thể duy trì thâm hụt thương mại và thâm

hụt tài khoản vãng lai? Tương tự như ở một hộ gia đình, để có thể tiêu dùng nhiều

hơn thu nhập, một gia đình sẽ có hai cách để có tiền trang trải cho tiêu dùng cao

hơn thu nhập của mình. Đó là: (i) đi vay; và (ii) bán tài sản. Ở cấp quốc gia, khi có

thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, thì để có tiền (ngoại tệ) trả cho

các khoản nhập khẩu và thâm hụt này, cần có dòng vốn chảy vào (FDI, đầu tư gián

tiếp, vay ngắn hạn, dài hạn, kiều hối, ODA). Nên thông thường, thâm hụt thương

mại (và tài khoản vãng lai) thường đi cùng với thặng dư trên tài khoản vốn. Nếu

không có thặng dư trên tài khoản vốn (tương tự như cấp ở hộ gia đình là không vay

đủ tiền), thì nước nhập siêu buộc phải sử dụng đến dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho

các nhu cầu nhập khẩu của mình (bán tài sản). Nếu dự trữ ngoại hối không đủ đáp

ứng, thì chắc chắn sẽ dẫn tới việc đồng tiền buộc phải mất giá.

Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị

thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới

14,7 tỉ USD.

Bảng 2.1.: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)

Nguồn: NHTG, “Chỉ số phát triển thế giới 2002”.

Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được

khuyến khích do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát

trong nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so

với đồng USD. Cũng như nhiều nền kinh tế mới công nghiệp hoá Đông Nam Á

khác, nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng chủ yếu dựa vào mức tăng trưởng của xuất

khẩu, trong đó đặc biệt lệ thuộc vào mức tăng trưởng của xuất khẩu điện tử. Thế

Page 30: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

30

nhưng, sau năm 1996 sức tăng trưởng xuất khẩu của Thái Lan bị suy yếu nhanh

chóng. Năm 1996, xuất khẩu của Thái Lan tăng chưa đầy 4%, so với mức tăng bình

quân hơn 25% của giai đoạn 1985 - 1995. Nguyên nhân của tình hình này là sự sụt

giảm nhu cầu trên thị trường hàng điện tử của thế giới, đồng thời thị trường tiêu thụ

hàng dệt, sợi của Thái Lan cũng bị giảm sút mạnh do sự nổi lên của Trung Quốc với

tư cách là đối thủ cạnh tranh hùng mạnh nhất trong lĩnh vực này (Do giá nhân công

ở Thái Lan làm mất lợi thế cạnh tranh của mình so với Trung Quốc).

Bảng 2.2.: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)

Nguồn: NHTG, “East Asia – The Road to Recoverty”, 1998.

Ngoài ra do sự đánh giá quá cao giá trị đồng Baht trong một thời gian dài đã

làm suy yếu sức cạnh tranh xuất khẩu và giảm tính hấp dẫn của ngành du lịch. Đồng

thời cũng giống như các nước Đông Nam Á khác để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh

tế cao, Thái Lan đã liên tục nhập khẩu nhiều tư bản để tài trợ các cơ hội đầu tư. Do

đó, có thể thấy Thái Lan trở thành quốc gia có mức gia tăng thâm hụt tài khoản

vãng lai lớn nhất trên thế giới. Năm 1996, mức thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái

Lan, Malaysia ngang với mức thâm hụt của Mehico năm 1994 (khoảng 8,2% GDP).

Theo tính toán của IMF nếu mức thâm hụt của tài khoản vãng lai của một nước ở

Page 31: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

31

mức 5% của GDP thì nước đó được coi là đang đứng trước nguy cơ của cuộc khủng

hoảng.

Để bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi

năm, con đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, các

doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước). Vì vậy nợ nước ngoài của

Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996,

gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn chiếm: 67% tổng

nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và

1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất

khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Đến tháng 6.1997 nợ nước ngoài

của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Kết quả là dự trữ ngoại

tệ cạn kiệt, tỉ giá hối đoái sẽ tăng, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ

ngày càng cao.

Bảng 2.3.: Nợ nước ngoài & dữ trự ngoại hối

Thái Lan Philipin Malaysia Inđônêxia

Nợ nước ngoài

Tỷ USD 89.8 41.9 28.9 109.3

Nợ ngắn hạn/tổng nợ(%)

Nợ tư nhân/ tổng nợ(%)

40

78.8

25

34.6

25

40.7

29

51.2

Dự trữ ngoại hối

Tỷ USD

% so với nợ Nhà nước

28.3

67.2

10.1

127.5

19

171.2

20.4

59.6

Đông Nam Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ

ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn trong nước đều

Page 32: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

32

muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từ chối đảo nợ và ngưng cho

vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và

chuyển ra ngoài. Riêng trong năm 1997, hơn 20 tỷ USD ròng được đưa ra khỏi 5

nước Đông Á chịu khủng hoảng, trong khi trong năm 1996 vẫn còn nhận được

gần 66 tỷ USD .

Bảng 2.4.: Vốn tư nhân nước ngoài ở 5 nước Đông Á (Hàn Quốc, Thái Lan,

Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD

Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 3/2000.

+ Chính sách tỷ giá cố định:

Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã

thực hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao

động gắn chặt với đồng đôla Mỹ.

Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công

trong vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý

với Mỹ, bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu Á; giúp nhà

đầu tư ngân hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ

trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công

này là do họ lợi dụng được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần

50% giá trị so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định,

gia tăng giá trị xuất khẩu, kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu

tư nước ngoài.

Page 33: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

33

Thái Lan thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD. Điều

đó đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht nên đã làm giảm sút

năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Thái Lan. Thật vậy, ngay từ đầu năm 1996 người

ta đã dự báo rằng các đồng tiền châu Á, trong đó có đồng Baht đã duy trì tỷ giá hối

đoái của mình căn cứ theo đồng USD, trong khi đó giá trị của đồng USD so với

đồng Yên Nhật và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa

đồng Baht so với đồng USD có tăng lên, nhưng nếu theo thuyết ngang giá trong sức

mua thì đồng Baht đã giảm giá rất nhiều (khoảng 20%) so với đồng USD mà lại chỉ

được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Chính vì thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái cố

định, Chính phủ đã hy sinh chính sách độc lập tiền tệ (theo lý thuyết về “bộ ba bất

khả thi’’), các công cụ của chính sách tiền tệ chạy theo để ổn định tỷ giá.

Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định

quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các

đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ

ngày càng lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc

phải thả nổi đồng tiền nội địa-tức tăng tỷ giá hối đoái chỉ là vấn đề thời gian. Khi

một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại

tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy ngoại

tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để

duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả

nổi tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu,

trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu

hóa thiệt hại cho mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt.

Hơn nữa khi các nhà đầu cơ dự đoán thấy đồng Baht được định giá quá cao họ

sẽ đua nhau đi vay đồng Baht ở ngân hàng, rồi đem số tiền đó để đi mua USD và

chờ đợi khi đồng Baht bị phá giá thì họ sẽ thu lợi lớn. Quá trình này đã thúc đẩy

cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan chóng xảy ra.

Page 34: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

34

Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng

tiền nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ

không có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các

doanh nghiệp nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không có đủ vốn

để kinh doanh, càng sớm bị đảy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì

các ngân hàng, công ty tài chính không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn

Mặt khác, để giữ đồng Baht ngang giá với USD, chính phủ nước này đã

thực hiện chính sách lãi suất đồng Baht cao. Các doanh nghiệp trong nước phải cơ

cấu lại các món nợ từ đồng nội tệ sang ngoại tệ (với mức lãi suất thực thấp hơn),

còn các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn ngắn hạn vào trong nước do sự đầu cơ

đồng Baht. Các nhà tài chính mất niềm tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể duy

trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời gian dài, cùng với sự giảm sút xuất

khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam Á. Khi luồng vốn bị rút ra liên tục,

chính phủ Thái Lan không thể nào khống chế được, và buộc phải thả nổi đồng

tiền. Tình trạng cũng tương tự với Philipin, Indonesia và Malaysia.

Thứ ba: Tự do hóa tài khoản vốn, đầu tư tăng liên tục nhưng cơ cấu thiếu tính

ổn định:

Trong giai đoạn trước khủng hoảng, nguồn vốn nước ngoài đổ vào khu

vực Đông Nam Á liên tục tăng lên, góp phần duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở

mức 7.5%-8%/năm. Từ năm 1990 đến 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước

đang phát triển tang 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút

một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa đầu thập niên 90 (theo

NHTG 1998).

Bảng 2.5.: Vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á (Hàn Quốc,

Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines), 1991-96 - Tỷ USD

1991 1992 1993 1994 1995 1996

Vốn tư nhân ròng

24,8

29,

0

31,

8

36,

1

74,

2

65,

8

Page 35: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

35

Đầu tư trực tiếp ròng 6,2 7,3 7,6 8,8 7,5 8,4

Đầu tư chứng khoán ròng 3,2 6,4 17, 9,9 17, 20,

Vay thương mại và đầu tư

khác

15,4 15,

3

7,0 17,

4

49,

2

37,

1Viện trợ chính thức ròng 4,4 2,0 0,6 0,3 0,7 -

0,4Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000.

Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển và sự thần kỳ trong tăng

trưởng của Đông Á là những động lực thúc đẩy dòng vốn dịch chuyển từ Nhật

Bản, Hoa Kỳ và EU tới các nền kinh tế Đông Á. Chênh lệch lãi suất giữa các nền

kinh tế Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương. Dòng vốn tư

nhân càng được thúc đẩy vào giữa thập niên 90 với chính sách tiền tệ mở rộng ở

Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu và tình trạng bong bóng đồng yên

ở Nhật Bản. Thêm vào đó, một số chính phủ Đông Á (ví dụ như Hàn Quốc) đã tự

do hóa tài khoản vốn theo hướng khuyến khích dòng vốn nước ngoài ngắn hạn.

Cụ thể, chính sách của Hàn Quốc là hạn chế đầu tư nước ngoài dài hạn dưới dạng

FDI hay đầu tư chứng khoán, trong khi chỉ cho phép các ngân hàng được vay ngắn

hạn nước ngoài. Tỷ giá hối đoái cố định mà nhiều chính phủ Đông Á duy trì cũng

là yếu tố khuyến khích dòng vốn nước ngoài do rủi ro tỷ giá được loại bỏ. Lãi suất

nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng là một

khuyến khích cho các tổ chức kinh doanh và tài chính nội địa đi vay vốn nước

ngoài. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư

nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định

rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn

thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng

trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có

thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn.

Dòng vốn chảy vào đã tạo nên sự bùng nổ tín dụng trong khu vực. Trong thập

niên 1990, tín dụng ngân hàng cấp cho khu vực tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tới

cuối năm 1996, tổng giá trị nợ tài chính của khu vực tư nhân trên GDP lên tới hơn

Page 36: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

36

140% ở Hàn Quốc và Thái Lan (bảng 2). Mức cung tiền M2 ở Hàn Quốc, Thái

Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia tăng gần 20%/năm trong năm 1996 và

1997.

Bảng 2.6.: Nợ tài chính của khu vực tư nhân so với GDP (%)

Thailand

Nguồn: Radelet và Sachs (1998).

Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư lại không hợp lý chỉ khoảng 20-30% là vốn

đầu tư trực tiếp còn lại là vốn ngắn hạn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, tín phiếu…

Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam Á lệ thuộc tương đối vào

nước ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi

luồng vốn bị rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng

nội tệ giảm giá và giá cổ phiếu giảm mạnh.

Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn

được đầu tư dài hạn. Một tỷ trọng lớn vốn cho vay của ngân hàng và các tổ chức

tài chính phi ngân hàng được tập trung vào khu vực bất động sản. Ở Indonesia,

các khoản cho vay khu vực bất động sản tang 37%/năm trong giai đoạn 1992-

95 (trong khi tổng tín dụng ngân hàng chỉ tăng 22%/năm). Ở Thái Lan, các

khoản cho vay bất động sản của những công ty tài chính tăng 41%/năm trong giai

đoạn 1990-95 (trong khi tổng tín dụng chỉ tăng 33%/năm). Ở Hàn Quốc, các

khoản cho vay của ngân hàng được tập trung chủ yếu vào các tập đoàn lớn

(Chaebol).

Page 37: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

37

Hình 2.1.: Tỷ lệ % giá trị cho vay bất động sản và công nghiệp chế biến của

các công ty tài chính Thái Lan trong tổng dư nợ (%)

Nguồn: Marcus Miller và Pongsak Luangaram (1998).

Thứ tư: Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng:

Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả,

quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận

vốn nước ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu

tư dài hạn, thêm nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc

chặt đồng đôla Mỹ và lãi suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá…

Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng

nóng và tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam Á lại phải tiếp

tục vay nóng từ các ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ

nợ vượt quá dự trữ ngoại tệ trong nước. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính

phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần

làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các

ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn

hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ khó đòi trong hệ thống

ngân hàng tăng lên, một phần là do các khoản cho vay không sinh lợi cấp cho các

Page 38: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

38

doanh nghiệp nội địa, một phần là do các khoản cho vay các cá nhân đầu tư chứng

khoán, giờ đây không thể hoàn trả so giá chứng khoán giảm sút.

Thứ năm: Sự tấn công của các tổ chức tài chính nước ngoài:

Các nhà đầu tư lớn rút vốn có thể gây tác động lớn đến nền kinh tế mà họ

đã đầu tư. Tương tự như vậy, họ cũng có thể đầu cơ và đánh cược vào tình hình tài

chính của một nền kinh tế. Theo như lời buộc tội của Thủ tướng Malaysia Mahatir,

cuộc khủng hoảng 1997/98 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư

chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Thực tế

của nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ trước cho thấy khi tỷ giá kỳ hạn được định

dựa trên tỷ giá cố định thì các nhà đầu cơ có thể kiềm lời bằng cách bán khống

đồng nội tệ (hay mua ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn, tương lai) và rút ngoại tệ khi

đồng nội tệ sụt giá.

Tuy nhiên, tại Đông Á không thấy có bằng chứng rõ ràng cho thấy có hoạt

động đầu cơ lớn. Chí có trường hợp dolla Hong Kong là có dấu hiệu đầu cơ, tuy

nhiên đã thất bại. Một số quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá đúng là có bán

khống đồng baht nhưng vào thời điểm giữa năm 1997 thì nhiều nhà đầu tư trong

nước cũng làm như vậy. Có vẻ như là các nhà đầu cơ theo đuôi các công ty trong

nước chứ không phải là ngược lại.

2.1.3. Tác động của cuôc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới:

Tác động tiêu cực:

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Đông Nam Á năm 1997

đã gây ra những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh

hưởng đến các nước khác ở khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng này là để

lại những hậu quả nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.

Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng: Có

thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia (Thái

Page 39: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

39

Lan, Philipines, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy

nhất của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này:

Bảng 2.7.: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 199

Năm

Thái Lan

(Baht/usd)

Philippines

(peso/uds)

Malaysia

(ringgit/usd)

Indonesia

(rupiah/usd)

Hàn Quốc

(won/usd)

1996 26 26 3 2,308 844

1997 47 40 4 5,400 1,696

Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là

sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài

chính quốc gia:

Bảng 2.8.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài

chính

Nước

Năm tài chính từ 1/4/97 đến 31/3/98

Năm tài chính

từ 1/4/1996

đến 31/1/1997

(tổng số Ngân

hàng)

Số ngân

hàng bị

đình chỉ

hoạt

động

Số ngân

hàng bị

quốc

hữu hóa

Số ngân

hàng bị

sát

nhập

Số

ngân

hàng bị

bán

cho

công ty

nước

ngoài

Tổng số

ngân hàng

có vấn đề

lớn

Thái Lan 108 56 4 0 4 65 (59%)

Page 40: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

40

Malaysia 60 0 0 41 0 41(68%)

Inđônêxia 228 16 56 11 0 83(36%)

Hàn quốc 56 16 2 0 0 18(32%)

Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và

tốc độ bất thường của các doanh nghiệp:

Bảng 2.9.: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp

Nước Năm Số doanh nghiệp phá sản

Thái Lan 1/1998-5/1998 582

Malaysia1996

1997

489

6583

Inđônêxia 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động

Hàn Quốc1997

1998

14000

53000

Page 41: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

41

Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả

trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút

Bảng 2.10.: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính

NướcTăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp

(%)1996 1997 1998 1996 1997 1998

Thái Lan 6.70 (0.40) (8.30) 3.30 3.70

Malaysia 8.20 7.00 2.00 2.60 2.70 5.00

Inđônêxia 7.80 4.60 (13.70) 2.20 3.00

Philipin 5.80 5.20 (0.50) 9.50 10.40 13.80

HànQuốc 7.10 5.50 (5.80) 2.30 2.50 8.00

Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát,

giảm dòng vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở

các nước này.

Page 42: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

42

Bảng 2.11.: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay

NướcLạm phát (%) Dòng vốn vào (tỷ usd) Nợ nước ngoài (tỷ usd) Lãi suất cho vay(%)

1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998 1996 1997 1998

Thái Lan 4.

80

5.

60

8.

10

19.

50

(9.

10)

(9.

50)

89.0

0

97.0

0

  15.

00

18.

00

11.

50

Malaysia 3.

80

2.

80

7.

00

9.

50

2.

70

  33.9

0

31.0

0

93.2

0

9.

20

8.

40

11.

05

Inđônêxia 6.

60

11.

60

47.

00

10.

80

(0.

60)

  115.0

0

129.0

0

140.0

0

19.

20

21.

80

34.

00

Philipin 7.

10

7.

30

10.

30

43.

00

45.

00

47.

00

14.4

0

15.4

0

  14.

80

16.

20

13.

50

Hàn

Quốc

5.

00

9.

50

6.

70

23.

90 -9. 2

  112.0

0

137.0

0

154.0

0

8.

80

9.

00

 

Đối với thị trường tài chính tiền tệ thế giới: Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền

kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm 23% so với cùng kỳ năm trước. Các khoản

cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở Hồng Kông, Singapores, Thái Lan và

Malaysia. Các chính sách kinh tế chống khủng hoảng bắt đầu bằng chính sách thắt lưng

buộc bụng để thúc đẩy tìm tới ổn định, sau đó là nới lỏng chính sách này và quản lý các

nhu cầu xã hội trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ toàn cầu không dẫn đến một sự phát

triển bền vững.

Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền

kinh tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần

như mất khả năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu.

Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các công

ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu Á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài.

Page 43: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

43

Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với Châu

Á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế khu vực này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở

Châu Á trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng

thêm do những biến động nên ngoài liên quan đến môi trường tài chính quốc tế và trật

tự buôn bán quốc tế.

Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và

ngắn hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và

được quy định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ.

Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức

196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh tế Âu

Mỹ phát triển ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu Á trở lại Âu

Mỹ. GDP của Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ. Nền kinh

tế Mỹ phát triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với các đồng

tiền Châu á. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu á vẫn mất giá từ 13% - 16% so

với trước khủng hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồngYên cần được giao

dịch với tỷ giá 123-124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của đồng Yên

Nhật Bản cùng với khả năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích thích nhu cầu

trong nước. Tuy nhiên, biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và đồng đôla Mỹ

không có lợi cho các nền kinh tế Châu á.

Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành IMF kêu gọi một sự ổn định tiền tệ lớn

hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ phá hoại các nền kinh tế mới nổi ở Châu

Á. Các nước này cần xác định một cơ chế phù hợp cho mình để cùng tìm ra một chính

sách tỷ giá thích hợp. Trong khi khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tài

chính gấp 50 lần khối lượng tiền tệ giao dịch trên thị trường hàng hoá, đồng USD vẫn

là đồng tiền chi phối trên thị trường tài chính toàn cầu và mang lại cho Mỹ một lợi

thế vô cùng to lớn. Do mở cửa thị trường vốn toàn cầu và những tiến bộ trong công

Page 44: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

44

nghệ máy tính và thông tin, Mỹ càng ngày tăng cường được ảnh hưởng đối với các nền

kinh tế mới nổi với tư cách là nền tài chính lớn và mạnh nhất thế giới.

IMF báo động rằng tình hình trên thị trường vốn quốc tế chứa đựng những nguy

cơ bất ổn định lớn cũng như khả năng biến động cao và những điều chỉnh lớn về giá

bất động sản. Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường vốn của

các nước mới nổi.

Tác động tích cực:

Bên cạnh những tác hại của khủng hoảng kinh tế gây ra nó cũng có nhiều mặt tích

cực, mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng.

Việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp chính phủ giảm thiểu lượng

ngoại tệ can thiệp, giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu

dài, khuyến khích, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đỏ cải thiện những cân đối tài

chính của đất nước.

Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế

chính thức với khối lượng lớn phục vụ các mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc

khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sản xuất sản phẩm

mới có suất cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi phí kém hiệu quả sẽ bị cắt

giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích.

Page 45: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

45

CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

NĂM 1997 TẠI VIỆT NAM

3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam

Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn chính:

thời kỳ trước đổi mới từ năm 1976 đến năm 1985 và sau đổi mới từ năm 1986. Từ khi đổi

mới, Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới. Do đó,

là một quốc gia nằm trong khu vực ảnh hưởng, Việt Nam cũng đã phải chịu những ảnh

hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng một cách trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực

đến các mặt kinh tế - xã hội.

3.1.1. Tác động về thương mại:

Theo ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các nước

Đông Á và phần lớn được thanh toán bằng USD. Cho nên trong khi các đồng tiền khác

trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với đồng USD, đồng tiền Việt Nam mới

chỉ mất giá khoảng trên 10% so với đồng USD, điều này làm cho hàng nhập khẩu từ các

nước Đông Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng

tiền các nước. Do đó hàng nhập từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta do giá rẻ,

lượng hàng nhập khẩu tăng cao bằng cả hai con đường chính thống và buôn lậu. Theo

Báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20% đến 40%, linh kiệm điện

tử giảm từ 10 -30 %, bông xơ các loại giảm từ 10 -15% đều này sẽ gây áp lực lên cán cân

thanh toán vãng lai cũng như việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong nước. Tuy

nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các cơ hội đầu tư, giảm chi phí đầu vào

và tiếp cận công nghệ sản xuất

Page 46: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

46

Đồng thời, do các đồng tiền Đông Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với

hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này phải giảm giá. Do vậy nguồn thu vì

xuất khẩu sẽ giảm vì giá xuất khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có

thể phải ngừng sản xuất vì doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào. Ngoài

ra, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường khác khi bị ép giá, nhưng lượng

xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất khẩu hạ. Riêng sáu

tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của mặt hàng nông sản

đã bị mất khoảng 500 triệu USD. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan

rộng, xuất khẩu của Việt Nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD (1996) xuống còn

1.787 triệu USD (1997), mức giảm là 465 triệu USD. Số liệu đầu năm 1998 cho thấy xuất

khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997, tốc

độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% trong khi cùng kỳ năm 1997

tăng 32%.

3.1.2. Tác động về tỷ giá:

Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tác động mạnh mẽ đến

tâm lý của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ.Ở nước ta thể

hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế quy đổi

sang ngoại tệ hay các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền

gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết

kiệm của dân chúng. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt trần

gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị

trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn cung.

Thời kỳ 1997 – 1998 cũng ghi nhận ba lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 7-1997

(bình quân 11.690 VND/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12.664 VND/USD) và tháng 8-

1998 (bình quân 13.715 VND/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng

nhu cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất

Page 47: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

47

đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được

USD hoặc phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng.

Ngoại trừ đồng SGD bị phá giá 8,3%, bốn đồng tiền khác của khu vực ĐNA bị

phá giá từ 32% đến 56% so với USD, trong khi đó đồng Việt Nam chỉ bị mất giá ít so với

USD (ngày 17/10 ta mới bắt đầu phá giá 4,5% giá trị đồng Việt Nam)

Bảng 3.1: Tình hình phá giá của các đồng tiền Đông Nam Á

ĐồngTỷ giá so với  USD Mức độ 

phá giáNgày 1/7 Ngày 6/10

Baht / USD 25,65 36,37 42%

Rupi / USD 24,75 38,65 56%

Peso / USD 26,37 34,92 32%

MR / USD 2,5  3,38 35%

SGD / USD 1,43 1,548 8,3%

Nguồn : Tổng hợp của tác giả

3.1.3. Tác động về đầu tư

Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào

Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó

là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông A', là những nước đang

bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho nên cũng giống như đối với Trung

Quốc, họ không muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh tế của bản thân nước

họ, tạo thành làn sóng rút vốn đầu tư ra khỏi châu Á. Những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam

đến từ các quốc gia láng giềng trong khu vực cũng tức thì lâm vào trạng thái thiếu tiền

mặt. Số lượng dự án đăng ký mới giảm sút từ 349 năm 1997 xuống còn 285 và 327 trong

Page 48: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

48

các năm 1998 và 1999. Nhưng quy mô vốn đầu tư mới thực sự là yếu tố suy giảm mạnh.

Năm 1997 có 5,6 tỉ USD FDI đăng ký vào Việt Nam. Con số này chỉ còn 5 tỉ USD trong

năm 1998. Và trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng ký chỉ còn khoảng 50% của năm

1997. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998 – 2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ

USD mỗi năm.

Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu thế mở

cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có những

ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế riêng

biệt, do đó việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính 1997

là không thể tránh khỏi.

Nền kinh tế nước ta cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của cuộc

khủng hoảng tương tự như một số nước trong khu vực như:

Nền kinh tế chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao một phần quan trọng là do

tốc độ tăng xuất khẩu cao 20-30%/năm, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng

trưởng GDP chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn FDI và ODA nên khi nguồn nay

giảm sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Cán cân

thanh toán vãng lai thâm hụt trong nhiều năm (từ năm 1992) ở mức cao so với

GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ

nước ngoài của Việt Nam. Riêng năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai 2 tỷ đô la

(chiếm khoảng 10% GDP) và năm 1997 mặc dù đã giảm nhưng vẫn thâm hụt cao

(khoảng 1,5 tỷ USD).

Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài. Đặc biệt là việc bao cấp cho một số doanh

nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để, ngân sách thường xuyên bi bội chi

gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn ngoại tệ từ bên ngoài và lượng dự trữ quốc gia

còn eo hẹp.

Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn

định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo

nên sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại tiềm ẩn rủi ro khi tỷ giá

Page 49: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

49

tăng về lâu dài dẫn đến gánh nặng nợ không còn là con số ước tính ban đầu, ảnh

hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhu cầu ngoại tệ khi đến hạn, nhất là

khi các khoản vay nước ngoài sử dụng không hiệu quả, thất thoát hay doanh

nghiệp mất khả năng trả nợ. Ngoài ra còn do hệ thống thông tin thiếu minh bạch,

thị trường tài chính sơ khai chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế.

Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực ĐNA (về mức độ biến động tỷ giá,

thương mại và đầu tư) thì ảnh hưởng của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng là không

đáng kể. Có một vài nguyên nhân để giải thích cho luận điểm trên:

Thứ nhất, thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa

phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường tài chính khu vực. Ngoài ra

việc đầu tư của nước ngoài vào giấy tờ có giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát

chặt chẽ chưa được cho phép nên khả năng đầu cơ gây bất lợi cho tiền đồng Việt

Nam được hạn chế. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu dưới dạng đầu tư

trực tiếp, thời hạn dài theo các dự án sản xuất nên các nhà đầu tư nước ngoài cũng

không thể lập tức chuyển vốn ra. Vì vậy sức ép của việc chuyển vốn ngắn hạn ra

khỏi Việt Nam không thể gây ra những cú sốc đột biến.

Thứ hai, chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam tương đối chặt chẽ, kể cả các

giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, góp phần tạo ra một rào cản trước những áp

lực của luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ. Chính sách tỷ

giá từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại, tạo điều

kiện cho đồng Việt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tệ

góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng xuất khẩu. Cụ thể, năm

1986-1998 ta chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên: từ năm 1986-

1990, tỷ giá VND/USD đã tăng dần từ 80đ/USD lên tới 6.500đ/USD, năm 1991

lên tới 12.00đ/USD. Trước khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra ta có giải pháp

nâng dần tỷ giá chính thức của ngân hàng thương mại từ 1 đến 5% so với tỷ giá

chính thức tháng 2.1997 là 10% và tháng 8.1998 là 7%). Những giải pháp này đã

kịp thời góp phần giảm bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam. Trong

Page 50: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

50

khi đó, nhiều nước bị khủng hoảng đã giữ tỷ giá cố định quá lâu, nên đã mất nhiều

dự trữ để can thiệp bảo vệ cho mức tỷ giá đó trước khi phải thả nổi hoàn toàn.

Chẳng hạn như Thái Lan giữ cố định mức tỷ giá 25 Baht đổi 1 USD trong suốt 13

năm và vừa qua bỏ ra hơn 6 tỷ USD để can thiệp.

3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm

1997

Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính 1997 là một cơ hội để các nước nhìn nhận và xây

dựng chiến lược phát triển để đối phó và ngăn ngừa các biến động trong tương lai.

Trước tiên tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến xu hướng xuất khẩu theo hướng: tỷ giá

tăng => xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm =>cán cân thương mại thặng dư =>giảm

nợ nước ngoài. Như vậy xét về góc độ tạo thu nhập ngoại tệ cho quốc gia, xu

hướng phá giá đồng nội tệ là thích hợp nhưng xét ở khía cạnh ngược lại việc tăng

tỷ giá hối đoái lại ảnh hưởng xấu đến việc thu hút vốn đầu tư. Tỷ giá hối đoái càng

tăng nhanh thì nguốn vốn nước ngoài đầu tư càng giảm mạnh. Như vậy vai trò

quản lý vĩ mô của nhà nước phải điều tiết sự thay đổi của tỷ giá sao cho vừa thu

hút vốn đầu tư nước ngoài, vừa đảm bảo khả năng trả nợ trước biến động tỷ giá

Thứ hai, kiểm soát các luồng vốn, cần hết sức hạn chế và phân bổ một cách thận

trọng những khoản cho vay mới theo chỉ đạo của nhà nước đối với các doanh

nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Lãi suất tín dụng phải được hình

thành qua cung cầu vốn thị trường chứ không nên dựa hoàn toàn vào ý chí của

Nhà nước. Không thể lập luận rằng để tăng trưởng GDP nhanh, cần nhiều vốn, do

đó phải đặt lãi suất tín dụng cao để thu hút vốn đẩu tư của nước ngoài trong khi

hiệu quả của các doanh nghiệp trong nước không chịu được mức lãi suất cao đó.

Nếu lãi suất cho vay cao hơn khả năng sinh lời, một doanh nghiệp thận trọng sẽ

không dám vay và một khi đã vay cũng sẽ không đảm bảo về khả năng thanh toán.

Chính sự chủ quan này dẫn đến một vòng khủng hoàng lòng vòng giữa doanh

nghiệp và ngân hàng, dẫn đến tình trạng phá sản hàng loạt.

Page 51: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

51

Trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hoà nhập với thị trường tài chính

quốc tế, việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là hết sức cần thiết, song việc

mở rộng vốn phải có tỷ lệ thích hợp giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.

Cần tránh trường hợp vốn vay ngắn hạn lớn không ổn định. Cần xác định mối

quan hệ giữa thời hạn vay vốn và đối tượng được đầu tư. Nếu thời hạn vay ngắn,

nhưng lại được đầu tư vào bất động sản gây mất ổn định trong hệ thống tài chính

khi thị trường bất động sản bế tắc. Ngoài ra, cần phải tiếp tục tăng đáng kể tỷ lệ

tích luỹ trong nước để tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào các nguồn vốn nước ngoài,

đặc biệt phải giảm thiểu nợ nước ngoài.

Thứ tư, tăng cường hơn nữa tính công khai và cung cấp những thông tin đáng tin

cậy và chính xác góp phần hạn chế tình trạng rút vốn đầu tư đồng thời thực hiện

những biện pháp cải cách cụ thể và phát triển ngành tài chính nhằm tránh sự tích

tụ đến mức nguy hiểm của các khoản nợ không hiệu quả. Chính phủ cần chỉ đạo

một cách chặt chẽ về việc xử lý vấn đề vốn, tài sản thế chấp và nợ khó đòi do

những nguyên nhân bất khả kháng nhằm giúp các ngân hàng thương mại lành

mạnh hoá về tài chính.

Thứ năm, cần kiểm soát hoạt động thương mại, hạn chế việc khập khẩu tràn lan,

tăng cường công tác chống buôn lậu, có chính sách nhập khẩu những mặt hàng

thiết yếu, tiết kiệm ngoại tệ và khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa

 Việt Nam chúng ta đang chịu ảnh hưởng chung từ khủng hoảng kinh tế thế giới, vì vậy

những bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng trong lịch sử là một điều quan trọng. Mọi

nền kinh tế đều có điểm chung là sự liên kết chặt chẽ giữa mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó là

sự điều tiết trong việc quản lý thị trường của các cơ quan quản lý. Điều chú trọng ở đây là

các nước phải biết được sự khác biệt giữa các cuộc khủng hoảng để rút ra biện pháp thích

hợp nhất cho nền kinh tế đất nước mình

Page 52: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

52

PHỤ LỤC

Một số chỉ tiêu kinh tế khu vực Đông Nam Á giai đoạn 1990~1999

Quốc gia Chỉ tiêu (%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Indonesia Tốc độ tăng trưởng GDP 9.00 8.90 7.20 7.30 7.50 8.20 8.00 4.60 (13.60) (3.90)

  Lạm phát 7.80 9.40 7.50 9.70 8.50 9.40 7.90 9.60 60.70 25.40

  Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP (2.80) (3.40) (2.20) (1.50) (1.70) (3.30) (3.20) (3.00) (0.10) 2.80

  Nợ chính phủ trên GDP 1.34 0.04 (1.15) (0.71) 0.01 0.77 1.16 (0.67) (4.46) (6.48)

  Tốc độ tăng trưởng cung tiền 29.70 24.60 22.60 21.10 21.80 26.70 27.00 27.40 61.70 15.60

  Nợ khu vực tư Trên GDP 46.10 45.80 45.50 48.90 51.90 53.50 5.40 61.00 51.60 ….

Korea Tốc độ tăng trưởng GDP 9.50 9.10 5.10 5.80 8.60 8.90 7.10 5.50 (5.50) 2.00

  Lạm phát 8.60 9.30 6.20 4.80 6.30 4.50 4.90 4.40 7.50 1.80

  Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP (0.80) (2.80) (1.30) 0.30 (1.00) (1.90) (4.70) (1.80) 13.10 7.10

  Nợ chính phủ trên GDP (0.67) (1.62) (0.49) 0.64 0.32 0.35 0.28 0.28 (3.78) (5.12)

  Tốc độ tăng trưởng cung tiền 17.20 21.90 14.90 16.60 18.70 15.60 15.80 14.10 25.20 ….

  Nợ khu vực tư Trên GDP 52.50 52.80 53.30 54.20 56.80 57.00 61.80 69.80 73.60 ….

Malaysia Tốc độ tăng trưởng GDP 9.60 8.60 7.80 8.30 9.30 9.40 8.60 7.70 (7.50) (1.60)

  Lạm phát 2.80 2.60 4.70 3.50 3.70 3.40 3.50 2.70 5.30 3.80

  Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP (2.10) (8.80) (3.80) (4.80) (7.80) (10.00) (4.90) (5.10) 12.30 8.70

  Nợ chính phủ trên GDP (3.08) (2.48) 0.13 0.52 1.45 1.30 1.07 2.58 (1.91) (6.05)

  Tốc độ tăng trưởng cung tiền 18.20 24.40 18.10 23.80 15.80 18.20 23.70 9.60 1.30 6.10

  Nợ khu vực tư Trên GDP 71.40 75.30 74.30 74.10 74.60 84.80 89.80 100.40 108.70 ….

Philippines Tốc độ tăng trưởng GDP 3.00 (0.60) 0.30 2.10 4.40 4.70 5.80 5.20 (0.50) 2.30

  Lạm phát 14.10 18.70 9.00 7.60 9.10 8.10 8.40 6.00 9.70 8.50

  Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP (5.80) (1.90) (1.60) (5.50) (4.60) (4.30) (4.40) (5.10) 1.80 2.10

  Nợ chính phủ trên GDP (3.80) (2.40) (1.30) (1.60) (1.70) (1.30) (0.60) (0.70) (2.60) (2.70)

  Tốc độ tăng trưởng cung tiền 15.50 15.50 11.00 24.60 26.50 25.30 15.80 20.90 7.40 15.00

  Nợ khu vực tư Trên GDP 20.50 18.90 21.50 27.20 30.00 38.20 50.00 57.60 50.50 46.90

Thailand Tốc độ tăng trưởng GDP 11.60 8.10 8.20 8.50 8.60 8.80 5.50 (0.40) (8.00) 1.00

Page 53: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

53

  Lạm phát 6.00 5.70 4.10 3.40 5.10 5.80 5.90 5.60 8.10 0.50

  Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP (8.30) (7.50) (5.50) (5.00) (5.40) (7.90) (7.90) (1.90) 12.20 8.80

  Nợ chính phủ trên GDP 4.60 4.14 2.53 1.98 1.98 2.49 1.04 (1.62) (2.88) (3.84)

  Tốc độ tăng trưởng cung tiền 26.70 19.80 15.60 18.40 12.90 17.00 12.60 16.40 9.50 4.70

  Nợ khu vực tư Trên GDP 64.50 67.70 72.20 79.80 90.90 97.50 100.00 116.30 109.50 ….

Bảng phụ lục. Các chỉ tiêu kinh tế khu vực Đông Á giai đoạn 1990-1999 (Nguồn: báo

cao của IMF 1999 – Carl-Johnan et al (1999), Financial Sector Crisis &

Restructuring, Lesson from Aisa, IMF, W.D.C)

Theo bảng số liệu trên ta thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia trong khu vực

đều có xu hướng giảm, đỉnh điểm là cuối 1997-1998, sụt giảm nhất như Indonesia là -

13.6% (năm 1998); mức độ lạm phát các quốc gia tăng cao, cán cân vãng lai thâm hụt,

cung tiền mở rộng cho khu vực (broad money), nợ khu vực tư đều tăng, đặc biệt làThái

Lan, dư nợ khu vực tư tăng gần gấp đôi từ đầu thập kỷ 90 đến khủng hoảng năm 1997

Page 54: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

54

Hình phụ lục: Biểu diễn các chỉ số kinh tế khu vực ASEAN-4 (Nguồn: trích số liệu từ

bảng Bảng phụ lục)

Nhận thấy, hầu hết các quốc gia trong khu vực đều có các khoản nợ ngắn hạn trên 50%

mức thâm hụt tài khoản vãng lai; tự do hóa khu vực tài chính & tự do hóa tài khoản vốn;

nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan & Malaysia có dự nợ khu vực tư trên 100%

GDP, hay như Malaysia & Philippines có mức dự nợ khu vực tư tăng trưởng hơn 20%

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PGS.TS Lê Phan Thị Diệu Thảo (2015), Tài chính quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh –

Nhà xuất bản Phương Đông.

GS.TS Trần Ngọc Thơ (2010), “Điều hành bộ ba bất khả thi như thế nào?’, Tham khảo

tại website http://vietstock.vn/2010/12/gs-ts-tran-ngoc-tho-dieu-hanh-bo-ba-bat-kha-thi-

nhu-the-nao-761-176995.htm (ngày tham khảo 08/5/2015).

Bùi Ngọc Diễm (2009), ‘Phân Tích Những Ảnh Hưởng Của Khủng Hoảng Tài Chính

Toàn Cầu Đến Nền Kinh Tế Việt Nam’, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân ngành kinh tế nông

lâm, Đại Học Nông Lâm TP.HCM.

Nguyên Đức Lệnh (2013), ‘Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với thị

trường tài chính, năm vấn đề đặt ra cần quan tâm’, Tham khảo tại

websitehttp://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?

uuid=051b9c30-c9c9-4f3e-94ec-1fbc57907ef5&groupId=13025 (Ngày tham khảo

06/05/2015).

Nguyễn Minh Hà (2008), Tóm Tắt Nguyên Nhân Khủng Hoảng Tài Chính Và Tác Động

Của Khủng Hoảng Đối Với Nền Kinh Tế Châu Âu, Kỷ yếu tọa đàm “Khủng hoảng tài

chính và giải pháp phát triển bền vững thị trường tài chính Việt Nam”- Vụ Kinh Tế - Văn

phòng Trung Ương Đảng.

Hoàng Xuân Hòa (2009) ‘Những Biện Pháp Ứng Phó Với Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính

Toàn Cầu Của Các Nước Và Một Số Khuyến Nghị Về Chính Sách Đối Với Việt Nam, Kỷ

Page 55: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

55

yếu hội thảo - Giải Pháp Ngăn Chặn Thoái Kinh Tế: Thế Giới Và Việt Nam’- Vụ Kinh

Tế - Văn phòng Trung Ương Đảng.

Báo Mới, Châu Á năng động trở lại sau 10 năm khủng hoảng,, Tham khảo tại trang website

baomoi.com, InfoTV - 05/07/2007 18:03, baomoicom, tại đường link

http://www.baomoi.com/Chau-A-nang-dong-tro-lai-sau-10-nam-khung-hoang/

127/3337808.epi (Ngày tham khảo 06/05/2015).

Song Hongbing (2007), Currency wars, tham khảo bản dịch tiếng Việt, Hồ Ngọc Minh -

Chiến tranh tiền tệ, Nhà xuất bản Trẻ 2008, 2009, Cuộc chiến tiền tệ ở châu Á, Trang

362-376

Carl-Johnan et al (1999), Financial Sector Crisis & Restructuring, Lesson from Aisa,

IMF, W.D.C

Fulbright (niên khóa 2011-2013), Đại học kinh tế Fulbright, Chương trình giảng dạy kinh

tế Fulbright, Ghi chú bài giảng 5: Khủng hoàng tài chính

Youtube, youtube.com, Asian crisis, các thước phim ngắn tham khảo trên website

youtube, , The Asian Financial Crisis in 1997 – In the Light of the Global Financial

Crisis in 2008, tham khảo nguồn tại youtube, linhk https://www.youtube.com/watch?

v=AKXyJkfvkiQ, Asian Financial Crisis, https://www.youtube.com/watch?

v=vpyvrg5aS4A, Asian Financial crisis 1997 documentary, tham khảo nguồn clip tháng

5/2015 tại trang web youtube, đường link https://www.youtube.com/watch?

v=dpxio4mItlY, Ngày tham khảo khảo 03/05/2015.

Page 56: đề Tài số 4 khủng hoảng tài chính đông nam á 1997 (ch16 a)   bai gui lop

56