Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong...

84
Dự thảo ĐỀ ÁN TỔNG THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ CƠ SỞ. Phần thứ nhất SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN, I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN; 1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở: Theo Điều 118 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 quy định cơ sở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cấp xã hoặc cấp cơ sở) là đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi” 1 . Cấp xã ổn định thì an ninh, chính trị, xã hội của đất nước ổn định. Cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống; Chính quyền cấp xã, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức Đoàn thể chính trị- xã hội là cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với dân, là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, khai thác mọi tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Cán bộ cấp xã bao gồm cán bộ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể chính trị- xã hội. Thực tiễn ở cấp xã đã khẳng định “cán bộ nào thì phong trào nấy”; tình hình cấp xã tốt hay yếu kém chủ yếu là do cán bộ 1 Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5 - NXB Chính trị quốc gia - năm 1995, trang 371.

Transcript of Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong...

Page 1: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Dự thảoĐỀ ÁN

TỔNG THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ CƠ SỞ.

Phần thứ nhấtSỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN,

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN;1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở:Theo Điều 118 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 quy

định cơ sở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cấp xã hoặc cấp cơ sở) là đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”1. Cấp xã ổn định thì an ninh, chính trị, xã hội của đất nước ổn định.

Cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống; Chính quyền cấp xã, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức Đoàn thể chính trị- xã hội là cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với dân, là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, khai thác mọi tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

Cán bộ cấp xã bao gồm cán bộ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể chính trị- xã hội. Thực tiễn ở cấp xã đã khẳng định “cán bộ nào thì phong trào nấy”; tình hình cấp xã tốt hay yếu kém chủ yếu là do cán bộ quyết định. Cán bộ cấp xã là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với người dân và là người trực tiếp tổ chức để nhân dân thực hiện.

1.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở cần hoàn thiện chế độ chính sách phù hợp cho cán bộ, công chức cấp xã

Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”.

Nghị quyết đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm là: đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở; đổi mới và nâng cao hiệu lực của Chính quyền cơ sở; đổi mới công tác của Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân; xây dựng 1 Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5 - NXB Chính trị quốc gia - năm 1995, trang 371.

Page 2: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

đội ngũ cán bộ cơ sở; đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở. Do vậy, vấn đề thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý cho cán bộ, công chức cấp xã là một trong những nội dung cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX góp phần xây dựng hệ thống chính trị cấp xã vững mạnh và hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung trong tiến trình cải cách nền hành chính hiện nay.

1.3. Yêu cầu của thực tiễn cần có văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã:

Những yếu kém, bất cập của hệ thống chính trị ở cơ sở trong thời gian qua, có nhiều nguyên nhân: do bản thân hệ thống chính trị ở cơ sở, do toàn bộ hệ thống chính trị; nhưng có một nguyên nhân quan trọng như ý kiến của Trung ương, Bộ chính trị đã nhấn mạnh trong Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5, khoá IX là: “Nguyên nhân chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu, để một thời gian quá dài không có chính sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường cơ sở”.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, khoá X cũng đã nêu rõ nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém hiện nay có nguyên nhân khách quan, song chủ yếu là do một số nguyên nhân chủ quan, trong đó: “ việc ban hành các quy định, hướng dẫn của trung ương về công tác xây dựng đảng còn chậm, thiếu đồng bộ, một số quy định hướng dẫn chưa sát thực tế. Chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; đội ngũ cấp uỷ viên ít được bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ công tác xây dựng đảng và cập nhật những kiến thức mới, nhất là về kinh tế, xã hội và pháp luật”.

Các Nghị định của Chính phủ đối với cán bộ, công chức cơ sở (Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, Nghị định số 114/2003/NĐ- CP) hơn 5 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập từ khâu quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, quản lý đến chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cơ sở. Bản thân đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở chưa được chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng, đến nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhiều cán bộ không vượt qua được khó khăn thử thách đã vi phạm pháp luật hoặc không được nhân dân tín nhiệm để tiếp tục công tác.

1.4. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: Văn phòng Chính phủ có công văn số 5875/VPCP- VX ngày 15 tháng 10

năm 2007 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ “ Giao Bộ Nội vụ tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở và soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị

Page 3: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

trấn phù hợp với nội dung các đề án sẽ trình và triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X, trình Chính phủ xem xét ...”.

Đề án này đề cập vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở bắt đầu từ việc xây dựng tổng thể về chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Nghị quyết Hội nghị trung ương 6, khoá X ; góp phần tạo ra khung pháp lý, môi trường thuận lợi, chế độ, chính sách thống nhất phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước để thu hút và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.

II. CĂN CỨ VÀO NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN:

2.1.Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”;

2.2. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X;2.3 Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 01 tháng 8 năm 2007, hội nghị lần thứ 5,

Ban chấp hành trung ương đảng khoá X về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”;

2.4. Nghị quyết số 22/NQ- TW ngày 02 tháng 2 năm 2008 hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành trung ương đảng khoá X “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”;

2.5. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003; 2.6. Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Chủ tịch nước Cộng hoà

XHCN Việt Nam công bố ngày 28/11/2008;2.7. Pháp lệnh thực hiện Dân chủ ở xã, phường, thị trấn;2.8. Căn cứ các Nghị định của Chính phủ:- Nghị định số 114/2003/ NĐ - CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán

bộ, công chức xã, phường, thị trấn; - Nghị định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ

chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; - Nghị định số 107/2004/ NĐ - CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ quy định

số lượng phó chủ tịch, cơ cấu thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp; - Nghị định số 159/2005/ NĐ - CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính

phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn;2.9. Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ Phê duyệt

Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010;

Page 4: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

2.10. Công văn số 5875/VPCP- VX ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: “Giao Bộ Nội vụ tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở và soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị trấn phù hợp với nội dung các đề án sẽ trình và triển khai thực hiện Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X, trình Chính phủ xem xét trong quý II năm 2008”.

Phần thứ haiĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY; CÔNG TÁC

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

I. VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ SỐ LƯỢNG, CHỨC DANH CÁN BỘ CẤP XÃ:

1.1. Số lượng, chức danh cán bộ cấp xã ở mỗi thời điểm được Chính phủ quy định khác nhau:

a. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến năm 1980: Từ 1945 đến 1946, Uỷ ban hành chính xã; số lượng Uỷ viên ở mỗi xã, từ 5

đến 7 người;Từ 1947 đến 1957, Uỷ ban hành chính kháng chiến xã; số lượng Uỷ viên ở

mỗi xã từ 5 đến 7 người;Từ 1958 đến 1979, Uỷ ban hành chính xã; số lượng uỷ viên ở mỗi xã từ 5

đến 7 người;b. Thời kỳ từ 1980 đến nay: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân

dân đều quy định cụ thể số thành viên Uỷ ban nhân dân mỗi cấp, trong đó cấp xã giảm dần số thành viên Uỷ ban nhân dân (Luật năm 1983 quy định Uỷ ban nhân dân cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên nhưng đến Luật năm 2003 quy định Uỷ ban nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên).

1.2. Số cán bộ làm công tác Đảng, công tác Hội đồng nhân dân, thành viên Uỷ ban nhân dân, cán bộ làm công tác đoàn thể, cán bộ giúp việc cho tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở xã, phường, thị trấn ngày càng được quy định rõ. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã cho thực hiện thí điểm mô hình tự đề xuất của thành phố từ ngày 20/3/1981 (đối với phường có 31 chức danh, đối với xã có 33 chức danh).

Hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay, bên cạnh các tổ chức “cứng” như: tổ chức cơ sở đảng (có các ban của Đảng); chính quyền (có Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và công chức chuyên môn); Mặt trận Tổ quốc và

Page 5: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

các Đoàn thể chính trị - xã hội, còn có các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp khác như: hội Người cao tuổi, hội Chữ thập đỏ, hội khuyến học, hội Người mù, hội Chất độc da cam, hội Tù yêu nước, hội Từ thiện, hội Đông y, hội Cựu quân nhân, hội Kế hoạch hoá gia đình, hội Làm vườn, hội Liên hiệp thanh niên, hội đình sản, Công đoàn xã, phường, thị trấn, Ban liên lạc hưu trí... giúp việc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ngoài các bộ phận công chức chuyên môn nghiệp vụ, còn các Ban chỉ đạo và hội đồng như: Ban chỉ huy Quân sự xã, Ban Công an xã; Ban Thanh tra nhân dân; Ban vì sự tiến bộ Phụ nữ; Trạm y tế, Đài truyền thanh; Nhà văn hoá; Tổ thuế, trường học …và gần 30 Ban chỉ đạo: Ban chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở; xoá đói giảm nghèo; dân số, kế hoạch hoá gia đình; xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ hạnh phúc; phòng chống lụt, bão; tuyên truyền pháp luật; phòng chống tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường; bảo vệ rừng; xây dựng trường chuẩn Quốc gia; phòng chống dịch cúm gia cầm; phòng chống tội phạm; vận động phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng quỹ vì người nghèo; xây dựng quỹ Bảo trợ trẻ em; xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa; xây dựng xã văn hoá; xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp ví trẻ em; xây dựng quỹ hỗ trợ nông dân; ban chỉ đạo sinh hoạt hè; hội đồng nghĩa vụ quân sự; hội đồng tư vấn thuế; hội đồng tư vấn xét giao quyền sử dụng đất; trung tâm giáơ dục cộng đồng…dưới thôn, tổ dân phố có tổ dân vận, tổ hoà giải, tổ liên gia tự quản...

1.3. Bên cạnh những chuyển biến, tiến bộ nêu trên, Uỷ ban nhân dân một số xã, phường, thị trấn chưa quy định chế độ làm việc cụ thể, còn sai sót trong vận dụng quy định của pháp luật, nặng về tập quán, thói quen, tình cảm; sự chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế còn lúng túng. Một số Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn còn biểu hiện trì trệ, kém năng động, thiếu nhậy bén, hiệu quả quản lý còn hạn chế; một số nơi có biểu hiện dồn việc xuống cho trưởng thôn hoặc đùn đẩy công việc lên cấp trên, nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời sẽ dẫn đến việc quan liêu xa dân, nhất là khi cán bộ cấp xã chuyển sang chế độ công chức.

Để giải quyết một số nhiệm vụ liên quan đến các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, một số chính quyền cấp xã vẫn thực hiện mô hình quyết định số 112/HĐBT ngày 15 tháng 10 năm 1981 của Hôi đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ và Tổ chức Bộ máy của Chính quyền cấp xã để thành lập một số ban giúp việc cho chính quyền cấp xã như: ban Tài chính, ban Văn hoá- Xã hội, ban kinh tế- kế hoạch, ban chỉ huy Quân sự xã, Công an xã...

Đặc biệt điều 130 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: “Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương”.

Tuy nhiên, hiện nay ở cấp xã chưa được điều tra xác định rõ nhiệm vụ quản lý hành chính cụ thể để có cơ sở xây dựng bộ máy; chưa có văn bản của Chính phủ

Page 6: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

quy định thống nhất chính quyền cấp xã tổ chức theo 3 khối như tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX (Khối kinh tế - tài chính; Khối văn hoá- xã hội; Khối nội chính), mỗi Khối bao gồm những thành phần nào để giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của cấp trên và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở.

II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CƠ SỞ 2.1 Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX và

kết hợp thực hiện các chỉ thị, nghị quyết khác của Trung ương, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở đã có một số chuyển biến tiến bộ và đạt được kết quả bước đầu về số lượng, chất lượng, cụ thể như sau:

Theo số liệu điều tra năm 2005, tổng số cán bộ, công chức cấp xã toàn quốc có 192.438 người (trong khi đó cán bộ, công chức hành chính ở Bộ, ngành Trung ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện của cả nước có 195.422 người). So với dân số tại thời điểm điều tra (toàn quốc 83.119.600 người) thì cán bộ, công chức cấp xã chiếm 0,23% dân số. Như vậy, cứ 10.000 dân có 23 cán bộ, công chức cấp xã và 24 cán bộ, công chức hành chính từ Trung ương đến địa phương. So với diện tích tự nhiên (toàn quốc 32.992.918 km2) bình quân cứ 10km2 có 06 cán bộ công chức hành chính và cũng có gần 06 cán bộ, công chức cấp xã, trong đó:

+ Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử (sau đây gọi tắt là cán bộ chuyên trách) có 111.124 người = 57,75% so với tổng số;

+ Công chức chuyên môn cấp xã (sau đây gọi tắt là công chức) có 81.314 người = 42,25% so với tổng số;

+ Cán bộ, công chức là nam giới: 161.240 = 83,79%; nữ giới: 31.198 = 16,21%; người dân tộc thiểu số: 41.936 = 21,79%; đảng viên: 162.932 = 84,67%; tôn giáo: 7.469 = 3,88%.

- Về độ tuổi của cán bộ, công chức : + Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử: dưới 30 tuổi có 7.716 người =

6,94 %; từ 30- 45 tuổi có 42.397 = 38,15%, từ 46- 60 tuổi có 55.535 = 49,98% và trên 60 tuổi có 5.476 = 4,93%;

+ Công chức: dưới 30 tuổi có 20.243 người = 24,89%, từ 30- 45 tuổi có 39.215 = 48,23%, từ 46- 60 tuổi có 21.486 = 26,42% và trên 60 tuổi có 370 = 0,46%.

Page 7: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Về cán bộ nữ: tỷ lệ bình quân 16,21%. Một số nơi tỷ lệ khá cao như thành phố Hồ Chí Minh 40%, Hà nội 29%; một số tỉnh chỉ dưới 8% như: Sơn La, Quảng Ngãi, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cà Mau.

- Về Đảng viên: tỷ lệ đảng viên 84,67% nhưng không đồng đều, nhiều địa phương trên 90% như: Hải phòng, Hải dương, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Ninh Bình, Vĩnh Phúc; nhưng có nơi chỉ đạt 60% như: Khánh Hoà, Gia Lai, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Trình độ văn hoá: chưa biết chữ có 253 = 0,13%, tiểu học 5644= 2,93%, THCS 41.343= 21,48%, THPT 145.198= 75,45%. Nhìn chung trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ cơ sở còn thấp, một số tỉnh, thành còn có cán bộ trình độ học vấn tiểu học, nhất là các tỉnh miền núi, Tây nguyên như: Lai Châu 42%, Lào Cai 30%, Hà Giang 20%, Kon Tum 21%.

- Trình độ chuyên môn: số cán bộ có trình độ trên đại học 64 = 0,04%; Cao đẳng& Đại học 17.391= 9,04%; Trung học 62.295 = 32,37%; Sơ cấp 18.886 = 9,81%. Còn lại 93802 = 48,74% chưa được đào tạo về chuyên môn. Số cán bộ có trình độ đại học ở các thành phố khá cao như: thành phố Hà Nội trên 33%, thành phố Hồ Chí Minh 21%, Đà Nẵng 19%, Hải Phòng 14%. Các tỉnh trung du, miền núi, Tây nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ này chỉ dưới 2%.

- Trình độ lý luận chính trị: cán bộ có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị là 7.847= 4,09%; trung cấp 73.429 = 38,15%; sơ cấp 44.106 = 22,94%; còn lại 67.056 = 34,82% chưa được đào tạo về lý luận chính trị.

- Trình độ quản lý hành chính nhà nước và ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ ở cơ sở còn rất thấp: 55,53% chưa được đào tạo về quản lý hành chính nhà nước; 98,81% chưa có trình độ ngoại ngữ và trên 87% chưa có trình độ tin học.

- Kiến thức An ninh- Quốc phòng: mới có 37.277 = 19,37% cán bộ được bồi dưỡng kiến thức về An ninh; 23.048 = 12,16% cán bộ được bồi dưỡng kiến thức về Quốc phòng.

- Về thâm niên công tác: số cán bộ có thâm niên công tác giữ chức vụ hiện tại dưới 5 năm 12.411 = 64,49%; từ 5 - 10 năm có 46.415 = 24,11%; trên 10 năm có 21.912 = 11,38%.

- Về thời gian công tác nói chung của cán bộ: dưới 5 năm có 95.172 = 49,74%; từ 5- 10 năm có 64.745 = 33,65%; từ 16 - 30 năm có 27.039 = 14,05%; trên 30 năm có 4.933 = 2,56%.

- Về nguồn cán bộ: có 100.508= 90,45% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử là người tại chỗ; 3.585 =3,23% là cán bộ tăng cường; 7.026 = 6,03% là cán bộ hưu trí, mất sức (một số nơi cán bộ hưu trí, mất sức tham gia đông như Hà Nội, Đà Nẵng 19%, thành phố Hồ Chí Minh 14%).

Page 8: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Nhìn chung, trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện tại còn nhiều bất cập và thấp so với yêu cầu của thực tế.

* Về cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố: toàn quốc có 764.733. Trong đó cán bộ không chuyên trách cấp xã: 197.025; cán bộ thôn, tổ dân phố, công an viên: 567.708. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ không chuyên trách thấp, chưa đáp ứng được với nhiệm vụ được giao (nhất là ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên).

2.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng; - Theo số liệu thống kê, trong 5 năm thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐ-

TTg ngày 7 tháng 5 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001- 2005; tổng số lượt cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng cả nước đạt 976.000 lượt người; việc nâng cao trình độ và năng lực hoạt động cho cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, góp phần phục vụ tốt mục tiêu của chương trình tổng thể cải cải cách hành chính và chiến lược cán bộ của Đảng. Số cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng tăng lên gấp 3 lần so với giai đoạn 1996- 2000, trong đó số được đào tạo trình độ trung cấp chuyên môn trở lên tăng gấp 2 lần so với thời điểm năm 2000. Những năm gần đây đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động thực thi công vụ chuyên sâu theo chức danh như các khoá bồi dưỡng kỹ năng cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, đào tạo tiếng dân tộc, thiểu số cho gần 3.500 lượt cán bộ, công chức; quý 4/2004, quý 1/2005 các địa phương đã tiến hành đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động cho đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp trong đó đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã là 267.960/278.960 đại biểu, đạt 96%.

- Năm 2006, kết quả đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo quản lý, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc đựơc 137.494 lượt người; bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ không chuyên trách cấp xã và thôn, tổ dân phố được 91.310 lượt người.

- Năm 2007,kết quả đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo quản lý, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc đựơc 183.021 lượt người; bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ không chuyên trách cấp xã và thôn, tổ dân phố được 134.812 lượt người.

Tóm lại: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở trong những năm qua mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, nhưng cũng tồn tại những yếu, kém bất cập:

+ Nội dung chương trình đào tạo bồi dưỡng còn chậm đổi mới, chưa cập nhật kịp thời những thay đổi từ thực tiễn; giáo trình, tài liệu phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn thiếu.

Page 9: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

+ Cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở còn thiếu;

+ Chế độ, chính sách cho người học còn chậm đổi mới chưa động viên kịp thời người học (nhất là cán bộ, công chức ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ).

2.3 Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; Thời gian qua, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống

chính trị ở cơ sở đã được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo tích cực; nhiều xã, phường, thị trấn đã xây dựng được quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt và Ban chấp hành Đảng bộ xã, phường, thị trấn nhiệm kỳ 2005- 2010. Những năm gần đây việc thực hiện chế độ cử tuyển để đào tạo cán bộ, công chức theo địa chỉ và khuyến khích, thu hút sinh viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có chuyên môn phù hợp về địa phương công tác được một số tỉnh xác định là những biện pháp quan trọng để tiến tới chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở (đặc biệt ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ ).

Tỉnh Lào Cai hợp đồng với 175 sinh viên trong đó bố trí đảm nhận các chức danh chuyên môn cấp xã 60 sinh viên, làm công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện chương trình 135 được 46 sinh viên; tỉnh Hà Giang bố trí được 262 sinh viên về công tác ở xã; Nghệ An 360, Thành phố Hồ Chí Minh 280, Tuyên Quang 200, Khánh Hoà 90, Quảng Ngãi 84, Trà Vinh 64, Đà Nẵng 60, Ninh Thuận 19...

Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập tiểu ban quy hoạch cán bộ dài hạn, thực hiện tuyển chọn học sinh, sinh viên khá, giỏi có khả năng phát triển để đưa đi đào tạo, bồi dưỡng hoặc đưa về cơ sở làm việc theo chế độ công chức dự bị, ngoài ra còn luân chuyển 114 cán bộ của Quận về công tác tại phường, luân chuyển 132 cán bộ giữa các phường. Các tỉnh khác cũng thực hiện luân chuyển cán bộ về cơ sở như: Nghệ An 120 cán bộ, Quảng Ninh 40, Đăk Lăk 34, Kon Tum 33, Phú Yên 20...nhiều cán bộ luân chuyển về cơ sở đã phát huy tác dụng, có bước trưởng thành, góp phần đưa phong trào địa phương từ yếu, kém vươn lên.

Về tạo nguồn cán bộ cơ sở : Các địa phương còn chú ý tới đối tượng tạo nguồn cán bộ cho cơ sở bao gồm những người đã sản xuất tại địa phương (đặc biệt các em là con em người dân tộc thiểu số), người đã được đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tình nguyện về địa phương công tác, bộ đội hết nghĩa vụ quân sự cho đi đào tạo ở nhiều loại hình: dài hạn, ngắn hạn, tập trung, tại chức ở các trường của trung ương, tỉnh, huyện.

* Tóm lại: Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cơ sở trong những năm qua mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, nhưng cũng tồn tại một số vấn đề:

Page 10: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cơ sở tuy đã được quan tâm nhưng trong một thời gian dài còn thiếu và yếu, chưa chủ động, chưa tích cực, chưa đều ở tất cả các địa phương.

III. ĐÁNH GIÁ CỤ THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ Ở CƠ SỞ QUA CÁC THỜI KỲ:

3.1.Trước khi có Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn:

Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội, chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở từ năm 1945 đến nay luôn được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng đổi mới; việc quy định về chế độ, chính sách qua các thời kỳ luôn gắn liền với việc quy định chức danh, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ:

3.1.1.Giai đoạn từ 1945 đến trước tháng 6 năm 1975:- Sắc lệnh số 22- A ngày 18 tháng 2 năm 1946 của Chủ tịch nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà sửa đổi điều 65 sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 tổ chức các Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: các công chức được bầu vào Uỷ ban hành chính xã có thể vừa làm công chức vừa tham gia vào Uỷ ban hành chính xã, nhưng chỉ được lĩnh hoặc lương công chức hoặc phụ cấp của Uỷ viên hành chính xã.

Thời kỳ này mỗi xã có 01 Uỷ ban hành chính gồm có 5 Uỷ viên chính thức (01 chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch, 01 Thư ký, 01 thủ quỹ , 01 Uỷ viên) và 02 Uỷ viên dự khuyết; phân công như sau: Hành chính, Tư pháp; Xã hội, y tế, cứu tế, tài chính; Kinh tế, giao thông, địa bạ; Giáo dục, tuyên truyền, khánh tiết; Trị an và Quân vụ .

3.1.2. Giai đoạn từ tháng 6/1975 đến tháng 5/1993:Cán bộ cấp xã (từ đây gọi chung là cán bộ xã) giai đoạn này thực hiện theo

Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ; Các thông tư hướng dẫn số 45- BT ngày 24/3/1976 và số 196- BT ngày 8/9/1977 của Bộ trưởng Phủ thủ tướng; Quyết định 111- HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư hướng dẫn số 01- TCCP- CQ ngày 12/1/1982 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ; Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng; Thông tư hướng dẫn số 74- ĐP/TCCP ngày 26/11/1985 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ.

Đặc điểm của giai đoan này là đất nước ta đã hoàn toàn giải phóng, chế độ, chính sách thực hiện thống nhất trong toàn quốc; nền kinh tế của nước ta vừa trải qua giai đoạn dài có chiến tranh, gặp nhiều khó khăn, trì trệ; cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp nặng nề. Năm 1986 Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta vẫn trong giai đoạn suy thoái nhưng đã có dấu hiệu khởi sắc.

Page 11: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

3.1.2.1.Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:Giai đoạn này số lượng cán bộ xã được quy định theo quy mô xã và xem xét

các yếu tố cụ thể về tình hình chính trị, kinh tế, dân số, địa dư của xã để quyết định.

Theo quyết định số 130/CP xã được bố trí từ 5 đến 6 cán bộ chuyên trách, từ 9 đến 10 cán bộ nửa chuyên trách tùy theo loại xã. Đến Nghị định 235/HĐBT tùy theo loại xã được bố trí trong khoảng từ 20 đến 30 cán bộ (không kể cán bộ y tế). Đối tượng cán bộ xã được quy định cụ thể từng chức danh, bao gồm cán bộ đảng, chính quyền (gồm Hội đồng nhân dân và các cán bộ thuộc Ủy ban nhân dân), cán bộ phụ trách công tác Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ; ở phía Nam có thêm chức danh Bí thư Nông hội; cán bộ Y tế xã.

Theo quy định chung của Nhà nước, UBND các tỉnh quyết định việc bố trí số lượng và các chức danh cán bộ cụ thể.

3.1.2.2. Về chế độ đối với cán bộ cơ sở:Chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã trong giai đoạn này có một số lần điều

chỉnh, sửa đổi:- Theo Quyết định số 130/CP, mức sinh hoạt phí được quy định dựa vào 3

yếu tố: theo chức danh, theo quy mô xã, là cán bộ chuyên trách hoặc nửa chuyên trách (cán bộ nửa chuyên trách mức sinh hoạt phí hưởng bằng ½ cán bộ chuyên trách).

- Theo Quyết định số 111- HĐBT, cán bộ xã được hưởng mức sinh hoạt phí khá cao, tùy theo chức danh và thâm niên công tác (Bí thư đảng ủy, Chủ tịch UBND hưởng ngang mức lương Trưởng phòng huyện; Phó Bí thư và Phó Chủ tịch UBND hưởng ngang mức lương Phó Trưởng phòng huyện; Trưởng các đoàn thể ngang Ủy viên thường trực của tổ chức đoàn thể cấp huyện; cán bộ, nhân viên của UBND hưởng ngang mức lương cán sự, nhân viên của huyện có cùng trình độ…).

- Theo Nghị định số 235- HĐBT, mức sinh hoạt phí được quy định dựa vào các yếu tố tương tự như Quyết định 130/CP. Các cán bộ nửa chuyên trách được hưởng sinh hoạt phí bằng ½ cán bộ chuyên trách.

Cán bộ xã còn được hưởng một số chế độ khác:- Tại Quyết định 130/CP quy định cán bộ xã chỉ cần có 15 năm công tác giữ

các chức vụ trưởng, phó ngành trở lên, trong đó có 5 năm là cán bộ chuyên trách, nửa chuyên trách (được tính cả thời gian làm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng HTX, thời gian hoạt động trước cách mạng tháng tám), nếu đủ điều kiện về tuổi đời theo quy định (nam 55 tuổi, nữ 50 tuổi), khi “ già yếu nghỉ việc” được hưởng trợ cấp hàng tháng. Chính phủ cũng quy định những trường hợp được xét giảm tuổi khi nghỉ công tác (ốm đau, bệnh tật...).

Page 12: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Ngoài chế độ già, yếu nghỉ việc, theo quy định của Chính phủ, cán bộ xã còn được hưởng các chế độ đào tạo bồi dưỡng, chế độ khen thưởng, chế độ khám chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ, chế độ trợ cấp khó khăn, mai táng phí, chế độ gửi con vào nhà trẻ đối với cán bộ xã là nữ...

- Kể từ Quyết định số 111- HĐBT, thời gian công tác tại các hợp tác xã, bưu điện xã không được tính gộp vào thời gian là cán bộ xã để giải quyết chế độ khi nghỉ việc.

Nhìn chung các chế độ, chính sách của nhà nước đối với cán bộ xã trong giai đoạn khá thông thoáng, cả về đối tượng cán bộ xã và chế độ chính sách. Việc bảo đảm các chế độ của cán bộ xã do ngân sách cấp xã tự cân đối là chủ yếu, thiếu thì ngân sách cấp huyện, tỉnh hỗ trợ, kể cả trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc của cán bộ xã. Các chức danh cán bộ được quy định cụ thể, tạo sự thống nhất trong cả nước. Cán bộ y tế xã là một bộ phận không tách dời của đội ngũ cán bộ xã, thậm chí từ khi thực hiện Quyết định 111-HĐBT cán bộ y tế xã được hưởng sinh hoạt phí tương đương cán bộ y tế của nhà nước cùng nghiệp vụ, chuyên môn đào tạo. Có thể khẳng định: Quyết định 130/CP là một bước ngoặt lịch sử về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với cán bộ xã. Nhiều chế độ lần đầu tiên được quy định, đặc biệt là chế độ trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc tạo sự phấn khởi, yên tâm công tác đối với cán bộ xã. Chế độ trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc còn được áp dụng hồi tố đối với những trường hợp đã nghỉ trước khi Quyết định 130/CP có hiệu lực, góp phần tạo sự công bằng về mặt chính sách cán bộ.

Quyết định 111-HĐBT năm 1981 là một bước cải tiến rất lớn về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, khẳng định rõ vị trí cán bộ xã, đồng thời đã có sự phân biệt, tách bạch giưa những người ở khu vực sản xuất kinh doanh với những người cán bộ xã do ngân sách xã đài thọ.

Tuy nhiên, một số chế độ chưa có quy định cụ thể như chế độ quản lý, sử dụng, kỷ luật cán bộ. Số lượng cán bộ xã giai đoạn này khá đông do không quy định chặt chẽ. Bộ máy hành chính cấp xã nhiều ban, trạm cồng kềnh. Nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ khó khăn nhất là khu vực nông thôn mà việc chi trả các chế độ đối với cán bộ xã chủ yếu do ngân sách xã đảm nhiệm, trong khi nguồn thu ngân sách xã có hạn, không đủ sức cân đối các khoản chi theo chế độ cho cán bộ xã, phường, thị trấn. Việc xét quyết định cán bộ được hưởng chế độ trợ cấp khi nghỉ việc theo hai quyết định trên thuộc thẩm quyền cấp huyện, có phần chưa chặt chẽ, mức trợ cấp hàng tháng lại không lớn và do ngân sách địa phương chi trả. Mặt khác, cán bộ xã nếu không đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian công tác theo quy định thì khi nghỉ việc lại không được hưởng chế độ gì. Vì vậy đã có nhiều trường hợp không đủ điều kiện theo quy định cũng được chính quyền địa phương giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc, không chấp hành đúng quyết định của chính phủ.

Page 13: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

3.1.3. Giai đoạn từ tháng 6/1993 đến tháng 12 năm 1997: Chế độ, chính sách ở cấp cơ sở giai đoạn này thực hiện theo Nghị định số

46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ và Thông tư số 22 Liên bộ/TT ngày 09/10/1993 của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ và Bộ Tài chính; Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ và Thông tư số 97/TTLB/TCCBCP-BTC ngày 16/8/1995 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Bộ Tài chính.

Trong giai đoạn này các văn bản về chế độ chính sách đối với cán bộ xã tập trung vào một số vấn đề trọng tâm đó là việc giảm bớt số lượng và đối tượng hưởng chế độ sinh hoạt phí; ổn định và chuyên môn hoá một số cán bộ chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp xã và sửa đổi quy định về chế độ trợ cấp đối với cán bộ khi nghỉ việc.

3.1.3.1. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:- Nghị định 46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ quy định tuỳ theo quy mô

dân số để bố trí số lượng cán bộ Đảng, HĐND, UBND (từ 8-11 người). Theo quy định này số lượng cán bộ xã sẽ giảm được khoảng 50% so với trước đây, gỉảm chi khá lớn đối với ngân sách cấp xã. Việc quy định các đoàn thể chính trị – xã hội được cấp kinh phí cho hoạt động và sinh hoạt phí (thay cho quy định cấp trưởng của các tổ chức này hưởng sinh hoạt phí trước đây) nếu thực thi được sẽ giúp cho việc quản lý đội ngũ cán bộ xã dành mạch hơn, tiết kiệm chi ngân sách, tuy nhiên có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này tiến tới việc phải điều chỉnh sau đó.

- Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ (thay thế Nghị định 46/CP) nhằm từng bước thực hiện Nghị quyết Trung ương VIII khoá 7; kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách và từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã, đồng thời cải thiện một bước đời sống cán bộ xã phù hợp điều kiện kinh tế đất nước. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã hưởng sinh hoạt phí được tăng thêm so với Nghị định 46/CP. Tuỳ thuộc vào dân số, vị trí địa lý, điều kiện khó khăn cụ thể, xã được bố trí từ 17-25 cán bộ đảng, chính quyền (quy định rõ 4 cán bộ chuyên môn của UBND) và cấp trưởng của 5 đoàn thể chính trị xã hội (Nghị định 46/CP không quy định). Quy định này là phù hợp với thực tế hơn so với Nghị định 46/CP.

3.1.3.2 Về chế độ đối với cán bộ xã.- Theo Nghị định 46/CP, sinh hoạt phí đối với cán bộ xã chỉ có 3 mức:Bí thư đảng uỷ và Chủ tịch UBND mức 160.000 đ/tháng; Phó Bí thư, Phó

Chủ tịch UBND mức 140.000 đ/ tháng; các chức danh khác 120.000đ/tháng. Cán bộ nghỉ công tác hưởng trợ cấp hàng tháng trước đây nay chỉ có 2 mức phụ cấp: Bí thư, Chủ tịch UBND 40.000đ/tháng; các chức danh khác 30.000đ/tháng. Việc quy định này là chưa sát thực tế, mức phụ cấp quá thấp, không tương xứng với nhiệm vụ.

Page 14: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Nghị định quy định cán bộ xã thuộc các đối tượng theo quy định khi nghỉ việc chỉ được xét hưởng chế độ trợ cấp một lần nếu có thời gian công tác ở xã liên tục từ 10 năm trở lên và không bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên. Bãi bỏ chế độ trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc. Những quy định trên đây tác động rất lớn đến tâm tư, tình cảm của cán bộ xã. Họ có mặc cảm cho rằng bị phân biệt, đối xử, không được bình đẳng như cán bộ của cấp tỉnh, cấp huyện. Chính những quy định chưa sát hợp trên đây làm cho nghị định có tính khả thi thấp, việc tổ chức triển khai thực hiện gặp nhiều vướng mắc, khó khăn, kém hiệu quả. đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra sự thiếu yên tâm, kém phấn khởi công tác đối với cán bộ xã; là nguyên cớ để nhiều cán bộ xã kém phẩm chất lợi dụng chức quyền, lợi dụng cơ chế thị trường để trục lợi cá nhân. Những cán bộ xã liêm khiết mà nghỉ công tác trong giai đoạn này thì chịu thiệt thòi về chế độ. Đã có rất nhiều kiến nghị, đề nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định này không chỉ từ cấp cơ sở. Chính vì vậy, chỉ sau 2 năm ban hành, thấy được sự bức xúc từ thực tế khách quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 thay thế Nghị định 46/CP.

Theo Nghị định 50/CP, chế độ sinh hoạt phí được phân thành 4 mức theo các chức danh cán bộ và đã được nâng cao hơn so với trước. Cán bộ xã được hưởng phụ cấp tái cử cùng một chức vụ sau 5 năm công tác. Tuy các quy định này đã thể hiện sự cải tiến một bước so với Nghị định số 46/CP, song mức sinh hoạt phí so với mặt bằng chung thì vẫn còn thấp, chưa đáp ứng nguyện vọng cán bộ xã, chế độ phụ cấp tái cử quy định “cứng” hơn với chế độ tái cử ở các cấp khác.

Nghị định 50/CP cũng quy định chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã đương chức, trợ cấp hàng tháng của cán bộ xã nghỉ chế độ theo quyết định 130/CP và quyết định 111-HĐBT do ngân sách xã chi trả, nếu thiếu thì ngân sách cấp trên hỗ trợ. Cán bộ xã thuộc đối tượng được nhà nước quy định nếu có ít nhất 5 năm công tác liên tục là cán bộ xã và không bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên, khi nghỉ công tác cũng chỉ được xét trợ cấp một lần, không hưởng trợ cấp hàng tháng. Đây cũng chính là 2 vấn đề tồn tại.

Thứ nhất: ngân sách cáp xã không tự cân đối được, cả nước mới chỉ khoảng 30% số đơn vị hành chính cấp xã tự cân đối được ngân sách. Mặt khác, nhiều địa phương cấp huyện và tỉnh cũng chưa đủ khả năng cân đối được ngân sách dẫn đến tình trạng “nợ đọng” sinh hoạt phí và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã khá phổ biến ở nhiều nơi, gây tác động thiếu an tâm công tác đối với cán bộ xã; dẫn đến tình trạng có xu hướng đùn đẩy việc của xã cho cán bộ thôn, bản, khu dân cư, tổ dân phố làm thay nhiệm vụ của cán bộ xã.

Thứ hai, Chính phủ không quy định chế độ “già yếu nghỉ việc” được hưởng trợ cấp hàng tháng như Quyết định 130/CP và Quyết định 111-HĐBT. Đối với cán bộ xã thuộc các đối tượng theo quy định của nhà nước khi nghỉ việc chỉ được hưởng chế độ trợ cấp một lần nhằm tạo khả năng tự điều tiết đối với ngân sách cấp xã, giảm đối tượng cán bộ hưởng trợ cấp thường xuyên khi nghỉ việc, bớt gánh

Page 15: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

nặng đối với ngân sách xã. Song với quy định này, cán bộ xã cho rằng họ chưa được hưởng sự công bằng về chế độ, chính sách như cán bộ các cấp khác, tâm lý thiếu phấn khởi khi đương chức cũng như khi nghỉ công tác. Mặt khác chế độ như vậy cũng là một trở lực, không tạo được sức hút đối với tầng lớp trẻ được đào tạo chính quy, có trình độ chuyên môn tham gia công tác và gắn bó với cấp cơ sở, nhất là ở nông thôn, xu hướng thoát ly địa phương khá phổ biến.

3.1.3.3.Nhận xét: Có thể nhận thấy chủ trương của Chính phủ trong quá trình ban hành hai Nghị định 46/CP và Nghị định 50/CP nhằm tinh giảm, gọn nhẹ bộ máy cấp xã và tiết kiệm chi ngân sách đối với cấp xã là hết sức rõ ràng. Nhưng về mức sinh hoạt phí và chế độ chính sách khác là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn và đặc thù của nước ta. Việc hoạch định chế độ, chính sách đối với cán bộ xã thiếu đồng bộ, toàn diện nên các chế độ, chính sách ban hành chưa thể hiện được sự kế thừa, tính khả thi không cao, thiếu sự ổn định, chưa tương xứng với vai trò to lớn của cấp cơ sở. Chính phủ đã sớm nhìn nhận được những mặt tồn tại, vì vậy đã tiến hành việc điều chỉnh và sửa đổi.

3.1.4. Giai đoạn tháng 1/1998 đến trước khi có Nghị định số 121/2003/NĐ- CP:Giai đoạn này thực hiện theo các Nghị định của Chính phủ: Nghị định số

09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; Nghị định số 58/1998/NĐ- CP ngày 13/8/1998 về chế độ bảo hiểm y tế; Nghị định số 40/1999/NĐ- CP ngày 23/6/1999 về Công an xã; Nghị định số 46/2000/NĐ- CP ngày 12/9/2000 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 35/CP ngày 12/6/1996 của Chính phủ quy định chi tiết thực hiện Pháp lệnh dân quân tự vệ.

3.1.4.1. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:- Theo điều 1 Nghị định số 09/1998/NĐ- CP, số lượng cán bộ xã quy định

theo dân số. Xã dưới 10.000 dân: 17- 19 cán bộ; xã từ 10.000 dân đến 20.000 dân: 19 đến 21 cán bộ; xã có trên 20.000 dân, cứ thêm 3.000 dân thêm 01 cán bộ, tối đa không quá 25 cán bộ.

Đối tượng cán bộ Đảng, Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể được hưởng sinh hoạt phí gồm:

+ Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ;+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;+ Các thành viên UBND;+ Bốn chức danh chuyên môn: Địa chính, Tư pháp, Tài chính- Kế toán, Văn

phòng UBND và các chức danh khác thuộc UBND.+ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và truởng các đoàn thể: Hội phụ nữ, Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân.

Page 16: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Theo Nghị định số 40/1999/NĐ- CP, công an xã gồm Trưởng Công an, Phó trưởng công an và Công an viên (mỗi thôn, ấp, bản bố trí một người).

- Theo Nghị định số 46/2000/NĐ- CP, Ban chỉ huy quân sự xã gồm Chỉ huy trưởng (Xã đội trưởng), Phó chỉ huy trưởng (Xã đội phó) và Chính trị viên (do Bí thư đảng uỷ kiêm nhiệm).

3.1.4.2. Về chế độ: a..Chế độ sinh hoạt phí được quy định cụ thể đối với từng chức danh cán bộ

đảng, chính quyền, Chủ tịch Mặt trận và Trưởng các đoàn thể. Sinh hoạt phí có nhiều mức: Mức đối với Bí thư đảng uỷ; mức đối với Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND; mức đối với Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Mặt trận và Trưởng các đoàn thể, Xã đội trưởng và trưởng Công an xã; mức đối với Uỷ viên UBND; mức đối với 4 chức danh chuyên môn (có bằng cấp chuyên môn hưởng theo ngạch, bậc; không có bằng cấp hưởng mức 154.000 đồng/tháng); mức đối với các chức danh khác; mức đối với công an viên (bằng 1/3 mức của trưởng Công an).

Chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã được cân đối từ ngân sách nhà nước và được cấp qua kho bạc nhà nước cấp huyện.

b. Các chế độ khác:- Cán bộ xã được thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội: khi nghỉ việc được trợ

cấp một lần hoặc thường xuyên tuỳ theo thời gian đóng bảo hiểm, được hưởng chế độ mai táng phí khi chết. Thời gian công tác liên tục từ năm 1997 trở về trước nếu giữ chức danh cán bộ theo quy định của nhà nước thì cũng được tính là có tham gia bảo hiểm xã hội.

- Cán bộ xã còn được hưởng các chế độ đào tạo bồi dưỡng, công tác phí, khen thưởng, theo quy định của nhà nước.

- Theo quy định tại Nghị định số 58/1998/NĐ- CP về chế độ bảo hiểm y tế, cán bộ đương nhiệm được thực hiện chế độ bảo hiểm y tế như cán bộ công chức nhà nước.

3.1.4.3.Nhận xét:a. Những mặt tích cực: Những chế độ, chính sách đối với cán bộ xã quy định

tại các Nghị định của Chính phủ sau hơn 5 năm thực hiện đã thể hiện những mặt tích cực:

- Mức sinh hoạt phí của cán bộ xã và mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc theo Quyết định 130/CP và Quyết định 111- HĐBT trước đây được điều chỉnh rõ rệt, nhìn chung có sự hợp lý hơn trước. Chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã và trợ cấp hàng tháng được ngân sách nhà nước bảo đảm chi trả qua hệ thống kho bạc cơ bản khắc phục tình trạng “nợ đọng” triền miên diễn ra ở nhiều nơi trước đây. Điều này, thể hiện sự quan tâm, cố gắng rất lớn của Chính phủ.

Page 17: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Bốn chức danh chuyên môn của UBND được tiếp tục khẳng định mục tiêu chuyên môn hoá, ổn định lâu dài bằng việc có những quy định chặt chẽ trong tuyển dụng, quản lý, sử dụng và chế độ sinh hoạt phí được vận dụng theo ngạch, bậc lương của cán bộ khu vực hành chính có cùng trình độ chuyên môn đào tạo và cũng được xét nâng mức sinh hoạt phí cứ sau 5 năm công tác.

- Có nhiều chế độ mới được quy định: Chế độ bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc, tính thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm 1997 trở về trước; chế độ đào tạo, bồi dưỡng, công tác phí, khen thưởng, bảo hiểm y tế. Đây là những chế độ mà trước đây chưa từng được thực hiện, tạo sự động viên rất lớn đối với cán bộ. Có thể nhận thấy rõ Nghị định 09/1998/NĐ- CP và các Nghị định của Chính phủ về cán bộ xã ban hành 3 năm qua đã giải quyết tương đối cơ bản về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở, là một bước tiến so với trước đây, tạo được sự yên tâm phấn khởi công tác đối với đại bộ phận cán bộ đang ở cấp cơ sở, khích lệ cán bộ xã chịu khó rèn luyện, học tập nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất.

b. Những tồn tại:Tuy nhiên, các Nghị định ban hành trong giai đoạn 1998- 2001 cũng bộc lộ

khá rõ một số tồn tại, chưa giải quyết được một cách nhất quán, công bằng, có tình có lý, thống nhất trong cả nước và giữa các loại cán bộ, biểu hiện ở các mặt sau đây:

- Việc quy định số lượng cán bộ xã chỉ tính theo quy mô dân số là chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Đối với xã quá ít dân cư (dưới 1.000 dân) thì quy dịnh số lượng cán bộ 17 là nhiều; xã có quá đông dân cư (trên 30.000 dân) và lại có địa hình tự nhiên và tình hình kinh tế- xã hội phức tạp thì số lượng cán bộ tối đa 25 thì lại là ít, phát sinh tư tưởng muốn chia tách thêm đơn vị hành chính để giảm nhẹ công việc, lại được tăng thêm cán bộ. Quy định Phó công an và công an viên, Phó xã đội chung cho cả nước khi thực hiện có sự phát sinh mới về số lượng cán bộ xã và chế độ, chính sách cũng chưa hợp lý.

- Cấp hành chính cơ sở gồm 3 loại hình xã, phường, thị trấn. Ba loại hình này có những khác biệt căn bản trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, văn hoá, truyền thống, quan hệ dân cư. Theo yêu cầu cải cách hành chính, Nghị định 09/1998/NĐ- CP chưa thể hiện được sự phân biệt, khác nhau giữa xã và phường, thị trấn cả về khối lượng công việc và nguyên tắc quản lý để có chế độ, chính sách cán bộ với từng mô hình quản lý hành chính.

- Về quy định mức sinh hoạt phí, tuy đã có sự điều chỉnh lại mức sinh hoạt phí phân theo chức vụ, chức danh công tác, nhưng chưa đạt được sự tương quan về quyền lợi- vai trò- trách nhiệm giữa các cán bộ trong cùng xã, phường, thị trấn và sự tương quan giữa cấp xã với cấp huyện. Qua kết quả khảo sát và điều tra cán bộ xã, phường, thị trấn có nhiều ý kiến cho rằng mức sinh hoạt phí của trưởng các đoàn thể nhân dân bằng mức Phó chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch UBND là chưa sát

Page 18: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

thực tế đối với cấp xã. Quy định mức sinh hoạt phí đối với cán bộ chuyên môn không có bằng cấp đào tạo là quá thấp so với công việc và trách nhiệm họ phải đảm nhận hàng ngày và so với cán bộ xã khác là quá thiệt thòi. Quy định mức phụ cấp đối với công an viên ở thôn cao hơn mức của trưởng thôn dẫn đến nhiều vấn đề nảy sinh mới trong quá trình thực hiện.

- Mức sinh hoạt phí đối với cán bộ xã nhìn chung còn thấp. Cán bô xã tái cử 2 đến 3 nhiệm kỳ vẫn chỉ được hưởng một mức phụ cấp tái cử 5% so với mức sinh hoạt phí hiện giữ là chưa công bằng so với cấp huyện, tỉnh.

- Chức danh cán bộ xã không có sự quy định thống nhất qua các thời kỳ, trước đấy lại do địa phương quy định cụ thể. Do đó, việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã của tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với thời gian công tác trước năm 1998 đều có vướng mắc với ngành bảo hiểm xã hội, đến nay vẫn chưa tháo gỡ được.

- Về chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã, phường, thị trấn chỉ gồm trợ cấp khi nghỉ việc và mai táng phí. Một số chế độ khác về bảo hiểm xã hội không được thực hiện thống nhất theo Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ, cụ thể là cán bộ xã, phường, thị trấn không được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, tuất...chế độ hưởng bảo hiểm xã hội khi cán bộ xã, phường, thị trấn bị kỷ luật cũng chưa được quy định rõ.

3.2. Từ khi có Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn đến nay:

- Nội dung cơ bản của Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, quy định:

“Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức cấp xã1. Cán bộ chuyên trách cấp xã quy định tại khoản 1, điều 2 của Nghị định

này được hưởng chế độ tiền lương như sau:a) Bí thư đảng uỷ, Bí thư chi bộ cấp xã (nơi chưa thành lập Đảng uỷ xã); hệ

số 2,0 mức lương tối thiểu;b) Phó Bí thư Đảng uỷ, Phó Bí thư chi bộ cấp xã (nơi chưa thành lập đảng

uỷ cấp xã), Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân: hệ số 1,9 mức lương tối thiểu;

c) Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Thường trực đảng uỷ (nơi chưa có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng), Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc: hệ số 1,8 mức lương tối thiểu;

d) Bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội cựu chíên binh: hệ số 1,7 mức lương tối thiểu;

Page 19: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

đ) Các chức vụ trên nếu được tái cử, kể từ nhiệm kỳ thứ 2 (từ tháng 61 trở đi) được hưởng phụ cấp thêm 5% hàng tháng theo mức lương chức vụ đảm nhiệm;

e) Trường hợp công chức cấp xã được bầu giữ các chức vụ qua bầu cử nếu xếp lương theo chức vụ bầu cử mà thấp hơn mức lương của chức danh chuyên môn hiện hưởng thì được hưởng lương chức vụ đó và bảo lưu hệ số chênh lệch giữa mức lương chuyên môn và mức lương chức vụ.

2. Công chức cấp xã được hưởng chế độ tiền lương như sau:a. Công chức cấp xã tốt nghiệp đào tạo đại học trở lên phù hợp chuyên môn

của chức danh được hưởng lương theo bảng lương hành chính, ngạch chuyên viên; tốt nghiệp trung cấp phù hợp chuyên môn của chức danh được hưởng lương theo ngạch cán sự; tốt nghiệp sơ cấp phù hợp chuyên môn của chức danh được hưởng lương theo ngạch nhân viên văn thư. Được nâng lương theo niên hạn như đối với cán bộ, công chức ngạch tương ứng ở cấp huyện trở lên.

b. Người đang tập sự công chức cấp xã được hưởng 85% lương theo các ngạch công chức tương ứng; thời gian hưởng lương tập sự thực hiện theo quy định hiện hành của nhà nước;

c. Công chức cấp xã đang công tác chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn theo quy định thì được hưởng: hệ số lương bằng 1,09 mức lương tối thiểu.

d. Riêng đối với Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng quân sự, hưởng theo lương chức danh, nếu thấp hơn mức sinh hoạt phí hiện hưởng thì được bảo lưu khoản chênh lệch để bằng mức sinh hoạt phí hiện hưởng cho đến hết năm 2005 sau đó hưởng theo lương chức danh”.

Về phụ cấp tái cử: Liên Bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ, quy định:

“Cán bộ chuyên trách cấp xã nếu được tái cử cùng chức vụ hoặc được bầu giữ chức vụ khác trong số cán bộ chuyên trách thì từ tháng thứ 61 trở đi kể từ thời điểm được bầu giữ chức vụ lần đầu theo Nghị định số 09/1998/NĐ - CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ hoặc theo Nghị định số 121/2003/NĐ - CP, được hưởng phụ cấp thêm 5% hàng tháng theo mức lương chức vụ hiện đang đảm nhiệm (sau đây gọi là phụ cấp tái cử); mức hưởng phụ cấp tái cử thêm 5% hàng tháng ổn định trong suất thời gian tái cử...

Chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế1. Cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội theo

Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ và Nghị định số 01/2003/NĐ- CP ngày 09/1/2003 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ và Bảo hiểm y tế theo điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 58/1998/NĐ- CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ;

Page 20: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động, nếu có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng chế độ hưu trí.

2. Cán bộ chuyên trách cấp xã khi thôi đảm nhiệm chức vụ, có đủ 10 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên và còn thiếu tối đa 5 năm thì đủ tuổi nghỉ hưu, chưa nhận trợ cấp một lần về bảo hiểm xã hội và tự nguyện đóng tiếp 15% tiền bảo hiểm xã hội hàng tháng theo mức lương trước khi thôi đảm nhiệm chức vụ cho cơ quan bảo hiểm xã hội nơi cư trú cho đến khi đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu thì được hưởng chế độ hưu trí...

Cán bộ không chuyên trách cấp xã bao gồm: Trưởng ban tổ chức đảng; Chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra đảng; Trưởng ban tuyên giáo; cán bộ văn phòng đảng uỷ; Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó chỉ huy trưởng Quân sự; Cán bộ kế hoạch giao thông thuỷ lợi- nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; Cán bộ lao động- thương binh và xã hội; cán bộ dân số – gia đình và trẻ em; Thủ quỹ văn thư lưu trữ; Cán bộ phụ trách đài truyền thanh; cán bộ quản lý nhà văn hoá; Phó chủ tịch uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã (Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh); Chủ tịch hội người cao tuổi; Chủ tịch hội chữ thập đỏ Việt Nam...

Cán bộ không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố bao gồm: Bí thư chi bộ; Trưởng thôn; Công an viên ở thôn và Bí thư chi bộ, Tổ trưởng tổ dân phố ở phường, thị trấn.

Số cán bộ không chuyên trách được hưởng phụ cấp; mức phụ cấp của một chức danh do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

Sau hơn 01 năm thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ- CP thì thực hiện điều chỉnh lại bậc lương của cán bộ chuyên trách cấp xã tại Nghị định số 204/2004/NĐ- CP.

- Nội dung cơ bản của Nghị định số 204/2004/NĐ- CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó quy định :

Bảng lương cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn(Ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ- CP )

STT Chức danh lãnh đạo Bậc 1 Bậc 2

1 Bí thư Đảng uỷ Hệ số lương Mứclương thực hiện 01/10/2004

2,35681.500 đ

2,85826.500 đ

Page 21: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

2

Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND Hệ số lương Mức lương thực hiện 01/10/2004

2,15623. 500 đ

2,65768.500 đ

3

Thường trực Đảng uỷ, Chủ tịch UBMTTQVN, Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND

Hệ số lương Mức lương thực hiện

1,95565.500 đ

2,45710.500 đ

4Trưởng các đoàn thể, Uỷviên UBNDHệ số lương Mức lương thực hiện 01/10/2004

1,75507.500 đ

2,25652.500 đ

Ghi chú:1. Các đoàn thể ở cấp xã bao gồm: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông

dân, Hội cựu chiến binh.2. Những người tốt nghiệp trung cấp trở lên được bầu giữ chức danh chuyên

trách, nếu mức lương chuyên trách thấp hơn mức lương bậc 1 của công chức có cùng trình độ, thì vẫn xếp lương chuyên trách và được hưởng hệ số chênh lệch, khi được xếp bậc 2 của chức danh chuyên trách thì giảm tương ứng hệ số chênh lệch. Khi thôi giữ chức danh chuyên trách chuyển sang công chức thì thời gian này được tính để xếp bậc lương chuyên môn theo chế độ nâng bậc lương thường xuyên.

3. Công chức cấp xã được bầu giữ chức danh chuyên trách, thực hiện theo điểm e, khoản 1, điều 4 Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ.

4. Chế độ tiền lương đối với cán bộ xã đội quy định tại điều 22 Nghị định số 184/2004/NĐ- CP ngày 2/11/2004 của Chính phủ được tính lại mức lương mới để hưởng từ 01/10/2005 theo mức lương mới của cán bộ chuyên trách (riêng hệ số 1,46 của Xã đội phó được xếp 1,86).

Thực hiện quy định trên đây thì lương của Xã đội phó (với hệ số 1,86) sẽ cao hơn lương cuả Xã đội trưởng là thành viên Uỷ ban nhân dân xã (hệ số 1,75). Vì vậy Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến: “Giao Bộ quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan dự thảo nội dung sửa đổi Nghị định của Chính phủ số 184/2004/NĐ- CP ngày 02/11/2004 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh dân quân tự vệ, để đảm bảo tính thống nhất về chế độ, chính sách đối với cán

Page 22: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

bộ, công chức cấp xã”. (Công văn số 2304/VPCP- NC ngày 29/4/2005 của Văn phòng Chính phủ).

3.2.1.Về ưu điểm: Việc tổ chức quán triệt Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX ở hầu hết các địa phương (từ cấp xã đến cấp tỉnh) đều triển khai thực hiện theo chỉ thị số 11/ CT- TW ngày 08 tháng 4 tháng 2002 của Ban Bí thư và hướng dẫn của Ban tư tưởng- Văn hoá Trung ương. Sau học tập và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí của hệ thống chính trị ở cơ sở được nâng lên, tuyệt đại cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng, đồng tình với Nghị quyết của Đảng.

a) Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX thì đây là lần đầu tiên Đảng và Nhà nước có quy định “Cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước” nên khi thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi) và các Nghị định của Chính phủ về cán bộ, công chức cấp xã đã tạo ra không khí yên tâm, phấn khởi trong cán bộ và nhân dân.

b) Kết quả thu được từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX và các Nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương về chế độ chính sách cho cán bộ, công chức cấp xã là:

- Chế độ chính sách mới của Đảng và Chính phủ đã được tổ chức thực hiện nghiêm túc, bước đầu đã tạo sự khấn khởi, phát huy được sự năng động sáng tạo của cán bộ công chức cơ sở, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh toàn diện.

- Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhờ việc thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ và một số địa phương có chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên mới tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có chuyên môn phù hợp về công tác ở cơ sở nên đã từng bước nâng được trình độ và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

- Kỷ cương hành chính, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực, được nhân dân đồng tình.

- Dân chủ ở cơ sở được phát huy, thu hút đông đảo nhân dân tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức và thẳng thắn, chân tình góp ý phê bình cán bộ cơ sở. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất đối với công tác quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã.

c) Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức cấp xã đã được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm giải quyết cụ thể, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở.

Page 23: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

d) Phong cách, ý thức trách nhiệm và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt ở một số cơ sở có chuyển biến tiến bộ theo hướng sát dân và có trách nhiệm với dân hơn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

3.2.2.Những tồn tại, vướng mắc trong thực hiện chế độ, chính sách hiện nay đối với cán bộ, công chức cơ sở:

a. Về chức danh cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã: một số Bộ, ngành ở Trung ương và nhiều địa phương đề nghị tăng thêm chức danh cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế ).

- Một số địa phương đề nghị các chức danh: Trưởng ban Tổ chức, Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra, Trưởng ban Tuyên giáo, cán bộ Văn thư- Thủ quỹ, cán bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cán bộ Dân số Gia đình và Trẻ em, cán bộ Tài nguyên- Môi trường hiện đang là cán bộ không chuyên trách cấp xã được là cán bộ chuyên trách hoặc công chức cấp xã;

- Một số chức danh như Phó Bí thư xây dựng hệ thống chính trị các xã trọng điểm vùng Tây Nguyên (đã có hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương); cán bộ chuyên trách làm công tác biên giới theo quyết định số 120/2003/QĐ- TTg đến nay Chính phủ chưa có hướng dẫn cụ thể để các địa phương thực hiện.

b. Về số lượng: - Về số lượng đơn vị hành chính cấp xã:Năm 2002 khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX cả

nước có 10.590 xã, phường, thị trấn (trong đó có: 8.973 xã, 1.042 phường, 575 thị trấn). Đến ngày 15 tháng 04 năm 2008 cả nước có 11.011 xã, phường, thị trấn (trong đó: 9.103 xã, 1.290 phường, 618 thị trấn), tăng 421 xã, phường, thị trấn. Tổng số thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố hiện nay là: 103.840 (trong đó: thôn là: 81.202, tổ dân phố: 22.638).

- Hiện nay Nghị định số 159/2005/NĐ- CP về phân loại đơn vị hành chính cấp xã đã được thực hiện nhưng chưa có chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức hoặc chưa tăng số lượng cán bộ cho xã, phường, thị trấn đạt loại 1 và loại 2.

- Thực tế cho thấy, cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã đảm đương rất nhiều công việc quản lý trên địa bàn và đang tiếp tục được phân cấp, uỷ quyền thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước nhưng chỉ chiếm 1/3 tổng số cán bộ xã; trong khi đó cán bộ không chuyên trách chiếm tới 2/3 tổng số cán bộ xã. Cán bộ xã (bao gồm cả cán bộ chuyên trách, công chức, cán bộ không chuyên trách) thì cán bộ khu vực đảng, đoàn thể chiếm tỷ lệ cao (khoảng 60%), cán bộ làm công tác chuyên môn ít hơn (khoảng 40%).

c. Về chế độ, chính sách:

Page 24: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Không ổn định:Việc nghiên cứu chế độ, chính sách cho cán bộ xã, phường, thị trấn chưa cơ

bản, toàn diện, thường là chạy theo giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, nên chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở thay đổi luôn. Chỉ trong vòng 10 năm (1993 - 2003), Chính phủ đã 4 lần ra nghị định về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn (Nghị định số 46/CP năm 1993; Nghị định số 50/CP năm 1995, Nghị định số 09/1998/NĐ-CP năm 1998 và Nghị định 121/2003/NĐ-CP năm 2003).

- Thiếu nhất quán, không đồng bộ:+ Đối tượng được hưởng chế độ do Chính phủ quy định, mỗi giai đoạn một

khác. Giai đoạn 6/1975 - 5/1993, đối tượng được hưởng chế độ không chỉ có cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể mà còn có cả cán bộ sự nghiệp và cán bộ kinh tế. Từ tháng 6/1993 đến nay, các Nghị định 46/CP, 50/CP và 09/1998/NĐ-CP chỉ quy định các đối tượng hưởng chế độ là cán bộ Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các đối tượng khác do các văn bản của các Bộ, ngành điều chỉnh dẫn đến sự thiếu thống nhất và bất hợp lý giữa các loại cán bộ ở cơ sở. Nghị định 40/1999/NĐ-CP ngày 23/6/1999 và Nghị định 46/2000/NĐ- CP ngày 12/9/2000 cho Phó công an, Phó chỉ huy trưởng quân sự hưởng sinh hoạt phí và bảo hiểm xã hội, nhưng đến Nghị định số 121/2003 thi các chế độ của Phó công an, Phó chỉ huy trưởng quân sự hưởng chế độ của một cán bộ không chuyên trách cấp xã.

+ Chế độ chi trả hàng tháng: lúc thấp, lúc cao so với mặt bằng chung; khi thì lấy mặt bằng kinh tế - xã làm cơ sở, khi thì dựa vào mức thu nhập của cán bộ, công chức làm căn cứ.

+ Về chế độ trợ cấp nghỉ việc: có giai đoạn cán bộ khi nghỉ việc chỉ được hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên (từ tháng 6/1975 - 5/1993), có giai đoạn chỉ được giải quyết chế độ một lần (từ tháng 6/1993 - 12/1997). Từ năm 1998 đến nay có cả chế độ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp một lần. Đến Nghị định 121/2003/NĐ- CP thì khó giải quyết với các trường hợp chưa đủ tuổi, thiếu năm đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng sau khi nghỉ việc....

- Bất hợp lý:+ Cấp cơ sở là một trong 4 cấp thuộc hệ thống hành chính Nhà nước, nhưng

cán bộ, công chức 3 cấp Trung ương, tỉnh, huyện được hưởng lương và đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội khi đang công tác cũng như khi về hưu, trong khi đó cán bộ cấp cơ sở lúc thì được hưởng, lúc thì không được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội khi đang công tác, chỉ được hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên.

Page 25: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

+ Lương của cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử thấp hơn lương của công chức có cùng trình độ đào tạo (vì chỉ có 2 bậc lương, còn công chức được nâng bậc lương thường xuyên). Cán bộ chuyên trách (Bí thư hoặc Phó Bí thư) kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân chưa được hưởng 10% phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo (chỉ vì Hội đồng nhân dân không có tài khoản riêng ở kho bạc- theo Thông tư số 78/2005/TT- BNV ngày 10/8/2005 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ, công chức, viên chức kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác);

+ Thời gian đóng bảo hiểm và tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức cấp xã qua các thời kỳ cũng thay đổi …làm cho cán bộ cơ sở suy nghĩ có sự phân biệt đối xử giữa cán bộ, công chức Nhà nước với cán bộ cơ sở. Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội thì thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức xã là 20 năm và phải đủ 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam mới đủ điều kiện nghỉ hưu trí là rất khó khăn cho cán bộ, công chức cấp xã.

+ Xã, phường, thị trấn rất đa dạng nhưng số lượng cán bộ giữa các xã, phường, thị trấn chênh nhau không lớn (từ 17 đến 25 định biên), mức lương và chế độ chính sách các chức danh lại như nhau: xã đồng bằng, xã miền núi, xã hải đảo, xã ven đô; xã thuần nông, xã kinh tế ngành nghề phát triển; có xã lớn diện tích, dân số đông (trên 30.000 dân) đến xã nhỏ về diện tích, dân số thấp (dưới 1000 dân) chế độ chính sách đều như nhau. Vì chưa có chế độ, chính sách và cơ chế phù hợp nên các xã, phường, thị trấn lớn về diện tích, đông về dân số muốn chia tách thành các xã nhỏ nên địa giới hành chính cấp xã trong những năm qua không ổn định, ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực quản lý.

+ Mặc dù Nghị định 121/2003/NĐ-CP quy định cán bộ, công chức cơ sở được hưởng các chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nhưng thực tế khi cán bộ cơ sở đi học tập, bồi dưỡng thì kinh phí khó khăn hơn nhiều so với cán bộ, công chức đi học tập, bồi dưỡng (nhất là đối với cán bộ, công chức ở các vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên).

+ Xã và phường (đô thị và nông thôn) có những đặc điểm rất khác nhau; nội dung và khối lượng công việc quản lý Nhà nước khác nhau, chế độ làm việc khác nhau, điều kiện và môi trường sống khác nhau nhưng chế độ, chính sách đối với cán bộ lại như nhau.

- Chưa có tác dụng khuyến khích và thu hút:Những mặt chưa được nêu trên làm cho cán bộ, công chức cấp xã đương

chức thiếu yên tâm công tác; đã có một số xã cán bộ xin nghỉ công tác. Những người còn trẻ, ngay cả các cán bộ là người địa phương được đào tạo cơ bản không muốn về cơ sở công tác; ở đô thị xảy ra tình trạng nhiều người không muốn làm tổ trưởng, tổ phó dân phố.

Page 26: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Về một số vấn đề khác:- Một số chức danh như: Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Chủ

tịch Hội nông dân tập thể, Chủ tịch Hội Phụ nữ có tuổi tham gia lần đầu quá cao (55 đến 65 tuổi) không phù hợp với Luật lao động; đối với công chức cấp xã tuổi tuyển dụng lần đầu lại quá thấp (không quá 35 tuổi) không phù hợp với Pháp lệnh cán bộ, công chức.

-Ý kiến của một số địa phương: bỏ khái niệm “cán bộ chuyên trách”, “cán bộ không chuyên trách”, “ở cấp xã; mà quy định chung cấp xã có “cán bộ cấp xã”... ; ở thôn, tổ dân phố thì có “cán bộ không chuyên trách”...

Nếu quy định như vậy thì đỡ nhầm lẫn, không gây sự phân biệt đối với cán bộ ở cấp xã.

- Cán bộ xã già yếu nghỉ việc theo Quyết định số 130/HĐBT và Quyết định số 111/CP của Chính phủ chưa có quy định được tiếp tục hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng khi chấp hành xong hình phạt tù.

- Chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã tham gia bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 09/1998/NĐ- CP của Chính phủ đã nghỉ việc trước khi chuyển sang Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ, mà không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng, đến nay không giải quyết được vì các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội không có quy định chuyển tiếp cho đối tượng này.

- Theo hướng dẫn tại khoản 6, mục IV Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH ngày 14/5/2004 thì cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã là người đang hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, bệnh binh hạng 1 và hạng 2 không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khi nghỉ việc không được tính hưởng bảo hiểm xã hội. Nhưng theo quy định tại khoản 1, mục I Thông tư liên tịch số 82/2005/TTLT- BNV- BTC ngày 10/8/2005 về sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT- BNV- BTC thì cán bộ cấp xã đang hưởng chế độ thương binh các hạng, bệnh binh các hạng mà không hưởng chế độ hưu trí hoặc trợ cấp mất sức lao động thì được xếp lương theo chức danh đang đảm nhận. Tuy nhiên, cũng tại thông tư số 82/2005/TTLT- BNV- BTC này, mục IV về hiệu lực thi hành không quy định thay thế khoản 6 mục IV thông tư số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH. Mặt khác, các văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định một người vừa hưởng chế độ bệnh binh, vừa hưởng chế độ hưu trí; do đó, Bảo hiểm xã hội Việt Nam không có cơ sở để thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cấp xã đang hưởng chế độ bệnh binh hạng 1 và hạng 2.

- Đối với những người trước đây đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hoặc sinh hoạt phí cán bộ chức danh theo quy định được cấp có thẩm quyền quyết định điều động làm cán bộ lãnh đạo hợp tác xã quy mô toàn xã là Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp chưa được tính hưởng bảo hiểm xã hội, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng có ý kiến chỉ đạo liên Bộ xem xét giải quyết trong nội dung

Page 27: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP. Vấn đề này đang còn nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng cán bộ này đã được hưởng chế độ khi làm chủ nhiệm hợp tác xã.

- Đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, cấp thôn : Hiện nay có tình trạng là lương của cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã được quy định và áp dụng thống nhất (quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ- CP của Chính phủ) trong khi đó phụ cấp của cán bộ không chuyên trách lại do địa phương quyết định; cơ chế này dẫn đến chênh lệch mức phụ cấp giữa các địa phương có khả năng cân đối ngân sách với địa phương không có khả năng cân đối ngân sách quá lớn, gây bất hợp lý; thậm chí có địa phương không cân đối được ngân sách quyết định mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách cao hơn địa phương cân đối được ngân sách gây áp lực lớn đến hỗ trợ của ngân sách trung ương (mức phụ cấp hiện nay đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã nơi cao như An Giang là 1,75 mức lương tối thiểu, thấp như Bắc Kạn là 0,45 mức lương tối thiểu; ở thôn, tổ dân phố phụ cấp cao như Kiên Giang là 1,13 mức lương tối thiểu, thấp như Sơn La là 0,20 mức lương tối thiểu). Một số địa phương đề nghị Trung ương quy định mức phụ cấp (tối thiểu, tối đa) đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã để thực hiện thống nhất trong toàn quốc.

Nhiều địa phương quyết định thêm nhiều chức danh cán bộ không chuyên trách ngoài quy định của Nghị định số 121/2003/NĐ- CP làm cho số lượng cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn quá đông, gây khó khăn cho ngân sách địa phương. Tổng số cán bộ không chuyên trách tính đến ngày 01 tháng 9 năm 2007 toàn quốc có 764.733 người. Trong đó bố trí theo quy định của Nghị định số 121/2003/NĐ- CP là 589.166 người( trong đó ở cấp xã 178.727= 30,34%; ở thôn, tổ dân phố 410.439= 69.66%). Có 41/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo tự quy định và bố trí thêm chức danh cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố (đến cả đoàn thể cấp xã, trưởng ban Mặt trận Tổ quốc thôn, tổ dân phố; dưới thôn, tổ dân phố một số tỉnh còn có tổ dân vận, tổ hoà giải, tổ liên gia... được hưởng phụ cấp).

Một số Bộ, ngành tham mưu cho chính phủ, Thủ tướng Chính phủ văn bản triển khai nhiệm vụ chuyên môn để địa phương thực hiện trong đó quy định cả số lượng cán bộ tới cấp xã, cấp thôn (ngoài số lượng quy định ở Nghị định số 121/2003/NĐ- CP); Bộ, ngành có chương trình dự án thì quy định mức phụ cấp cho cán bộ ở cơ sở; Bộ ngành không có chương trình dự án thì đề nghị địa phương quyết định mức phụ cấp cho cán bộ, như:

+ Thông tư số 95/2002/TTLT: BTC- DSGĐ&TE ngày 22 tháng 10 năm 2002 của Bộ Tài chính và Uỷ ban Dân số Gia đình & Trẻ em lấy từ chương trình dự án hỗ trợ cho cán bộ ở cấp xã là 170.000 đồng, 190.000 đồng, 210.000 đồng (tuỳ theo vùng địa lý);

Page 28: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

+ Nghị định số 22/2004/NĐ- CP ngày 12 tháng 1 năm 2004 của Chính phủ về kiện toàn bộ máy làm công tác công giáo thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp (cấp xã có cán bộ làm công tác công giáo);

+ Nghị định số 134/2004/NĐ- CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn (cấp xã có cán bộ làm công tác phát triển công nghiệp nông thôn);

+ Công văn số 835/MTTQTW ngày 25 tháng 10 năm 2005 của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam về phụ cấp của Trưởng ban Mặt trận ở khu dân cư;

+ Nghị định số 122/2005/NĐ- CP ngày 4 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ về Tổ chức làm công tác thi đua – khen thưởng đã quy định 1/2 biên chế công chức làm công tác thi đua- khen thưởng ở Uỷ ban nhân dân cấp xã;

+ Nghị định số 56/2005/NĐ- CP ngày 26 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư quy định cấp xã ít nhất có 01 cán bộ khuyến nông, khuyến ngư;

+ Nghị định số 33/2005/NĐ- CP ngày 15 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh thú y quy định cấp xã có nhân viên thú y;

+ Quyết định số 100/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về cán bộ thể thao ở cấp xã;

+ Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật (cấp xã có 01 cán bộ bảo vệ thực vật);

+ Nghị định số 33/2006/NĐ- CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định 01 công chức lâm nghiệp ở những xã có rừng;

+ Nghị định số 38/2006/NĐ- CP ngày 17 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ và Thông tư sô 02/2007/TTLT- BCA- BLĐTB&XH- BTC ngày 01 tháng 3 năm 2007 của Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 38/2006/NĐ- CP của Chính phủ về bảo vệ dân phố; trong đó đã quy định mức phụ cấp cho các chức danh Trưởng ban,. Phó trưởng ban, Tổ trưởng, tổ viên bảo vệ dân phố từ ngân sách cấp xã;

+ Quyết định số 13/QĐ- BCĐGN ngày 6 tháng 12 năm 2007 ban hành quy chế hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện các chương trình giảm nghèo (PTT Nguyễn Sinh Hùng ký). Tại khoản 10, điều 6 quy định: giao Bộ Nội vụ xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với cán bộ làm công tác giảm nghèo ở các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp xã.

Đa số các địa phương đề nghị cho cán bộ không chuyên trách cấp xã được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...

Page 29: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

d) Về công tác đào tạo, bồi dưỡng và quản lý, sử dụng cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập:

- Công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở nhiều địa phương còn mang tính hình thức, nhất là ở những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào tôn giáo chưa được quan tâm đúng mức; công tác quy hoạch chưa gắn với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, do vậy nhiều địa phương bị hẫng hụt trong quá trình sắp xếp, bố trí cán bộ; tỷ lệ cán bộ trẻ (6,91%; yêu cầu 20%) và cán bộ nữ thấp (16,21%; yêu cầu 30%)

- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhìn chung còn thấp so với tiêu chuẩn quy định; do vậy, nhìn chung cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới (có thống kê số liệu cụ thể ở phần phụ lục kèm theo).

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã chậm được đổi mới, giáo trình, giáo án lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn;

- Quản lý và sử dụng cán bộ cơ sở là một trong những khâu yếu nhất, cụ thể là:

+ Hầu hết các cơ sở xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã còn mang tính hình thức.

+ Tiêu chuẩn từng loại cán bộ, công chức cấp xã chưa cụ thể, rõ ràng.+ Đã phân cấp cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng quy chế khen thưởng

kỷ luật đối với cán bộ, công chức cơ sở để Uỷ ban nhân dân cấp dưới thi hành nhưng nhìn chung chưa thực hiện nghiêm.

+ Công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức cấp xã không thường xuyên.Do buông lỏng công tác quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã nên có

không ít cán bộ, công chức cấp xã thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, tham nhũng lãng phí, quan liêu, gia trưởng, kèn cựa địa vị, cục bộ, bè phái, dẫn đến mất đoàn kết, xuất hiện một số "điểm nóng" ở cơ sở.

3.3. Nguyên nhân:3.3.1. Ưu điểm:Lần đầu tiên Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương đảng

khoá IX nêu rõ: “ Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được hưởng chế độ, chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước”, đây là một dấu mốc quan trọng, vì tính từ thời điểm này, cán bộ cấp xã được hưởng lương từ ngân sách, được đóng bảo hiểm xã hội và được nhận lương hưu.

Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nên Nghị quyết của Đảng, các Nghị định của

Page 30: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Chính phủ đã đi vào cuộc sống, trở thành động lực cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ sở xã, phường, thị trấn.

3.3.2. Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm:Về mặt nhận thức, quan điểm: Chúng ta chưa nhận thức rõ ràng, cụ thể, mạch

lạc về vị trí, vai trò, đặc điểm, tính chất của cấp hành chính cơ sở và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nhiệm vụ tự quản của thôn, tổ dân phố. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn đã có những thay đổi nhưng về mặt tổ chức và cơ chế vận hành vẫn theo tư duy bao cấp, chưa làm rõ những nhiệm vụ đích thực về quản lý hành chính nhà nước trong cơ chế thị trường; do đó đã và đang tồn tại những quan điểm khác nhau, thậm trí trái ngược nhau về vấn đề này. Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ những nội dung yêu cầu cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở và của từng chức danh cán bộ cơ sở dẫn tới công tác tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ, công chức ở cơ sở xã, phường, thị trấn còn nhiều bị động lúng túng. Mặt khác, những nhận thức của chúng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng mới chỉ bước đầu; Nghị quyết trung ương 5, khoá IX tuy đã thể hiện một bước phát triển mới về nhận thức, quan điểm đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nhưng có thể nói rằng đây mới chỉ là bước khởi đầu, cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ.

Về mặt tổ chức chỉ đạo: trong tổ chức chỉ đạo cụ thể của các cấp, các ngành để thực hiện mực tiêu, phương hướng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở trong nhiều năm qua, kể cả việc triển khai thực hiện theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5, khoá IX nói chung còn có những hạn chế, cụ thể là:

+ Tổ chức triển khai xây dựng, hoàn thiện chế độ, tạo khuân khổ pháp lý cho việc xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở còn chậm, chất lượng một số văn bản pháp luật liên quan đến đội ngũ cán bộ cơ sở còn có những hạn chế, chưa đồng bộ, thiếu rõ ràng và cụ thể, chưa thật phù hợp với tình hình thực tế đa dạng và phức tạp của cấp cơ sở.

+ Trong tổ chức chỉ đạo và thực hiện của các cấp, các ngành còn thiếu quyết tâm, chưa mạnh mẽ. Nhiều chủ trương, giải pháp đề ra nhưng tổ chức thực hiện chưa đến nơi đến chốn, chưa đi sâu, đi thẳng vào những vấn đề cần giải quyết do vậy ít tác dụng thiết thực.

+ Kỷ cương hành chính chưa được thực hiện nghiêm; nhiều Bộ, ngành và cơ quan cùng tham muu để trình Chính phủ ban hành văn bản quy định thêm về số lượng cán bộ, chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở; một số dịa phương tự quy định tăng thêm số lượng, chức danh cán bộ không chuyên trách ngoài quy định của Nghị định 121/2003/NĐ- CP, dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, không thực hiện được hoặc gây quá tải về ngân sách đối với cơ sở.

+ Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) đã nêu: Về tổ chức, bộ máy cơ quan hành chính cấp xã “Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm Văn phòng Uỷ ban nhân dân

Page 31: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

& 3 khối công việc: khối kinh tế - tài chính (kể cả kế toán), khối văn hoá - xã hội và khối nội chính” (đối với phường có thể vận dụng cho phù hợp), nhưng đến nay chưa được triển khai.

+ Việc chia, tách, thành lập mới đơn vị hành chính cấp xã từ năm 2002 đến nay tăng trên 400 xã, cùng với việc Bộ, ngành nào cũng muốn có cán bộ chuyên môn của ngành mình ở cấp xã làm cho số lượng cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách cấp xã tăng lên quá nhanh. Nếu tiếp tục tăng thêm số lượng cán bộ chuyên trách cấp xã thì ngân sách nhà nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn, (khi tăng 1 chức danh thì cả nước sẽ tăng thêm gần 1,1 vạn cán bộ, công chức cấp xã)

Về mặt chủ quan của đội ngũ cán bộ cơ sở:+ Ý thức trách nhiệm chính trị, tinh thần phấn đấu rèn luyện, nâng cao giác

ngộ chính trị và trình độ năng lực công tác chưa cao. Một số cán bộ, công chức cơ sở còn có động cơ không đúng đắn, tham gia công tác lo thu vén cho lợi ích cá nhân, dòng họ, còn để xẩy ra tình trạng cán bộ hách dịch, tham nhũng, gây phiền hà đối với nhân dân.

+ Sự phát triển về kinh tế- xã hội, về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở và yêu cầu thực hiện nhịêm vụ chính trị của chính quyền cấp xã ngày một tăng lên, như: nhiệm vụ “một cửa”; chứng thực, trợ giúp pháp lý; thanh tra an toàn thực phẩm, bảo vệ thực vật, chăm sóc trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội, lao động việc làm, xoá đói giảm nghèo và yêu cầu khác của tổ chức chính trị- xã hội…dẫn đến một số quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở không còn phù hợp. Cơ chế kinh tế thị trường đòi hỏi chính sách đãi ngộ thích hợp mới động viên được đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở.

Phần thứ baMỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN

NGHỊ THỰC HIỆN TỔNG THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

I. MỤC TIÊU:1.1.Mục tiêu chung:- Đánh giá thực trạng, nghiên cứu đề xuất những giải pháp để hoàn thiện chế

độ, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn.

Phấn đấu cơ bản thống nhất chế độ chính sách cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính 04 cấp.

Page 32: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ,công chức cấp xã có đủ năng lực, yên tâm công tác đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

- Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: "Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh tiêu chuẩn; định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, côngchức yếu kém và thoái hoá. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ xã, phường, thị trấn".

1.2. Mục tiêu cụ thể:- Giải quyết những vướng mắc, bất cập về chế độ chính sách hiện nay đối với

cán bộ cơ sở.- Xác định cụ thể số lượng và cơ cấu chức danh cán bộ, công chức cơ sở, tiếp

tục hoàn thiện chế độ tiền lương, phụ cấp... theo từng loại cán bộ, công chức cấp xã và phân loại đơn vị hành chính cấp xã

- Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó cần quan tâm hơn đối với các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.

- Tổ chức thực hiện có hiệu quả chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ công chức cấp xã hiện chưa được chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và trình độ quản lý nhà nước.

- Thực hiện chương trình cải cách chế độ tiền lương của Chính phủ giai đoạn 2008 – 2012.

II.QUAN ĐIỂM

Xây dựng tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng hoàn thành tốt nhiệm vụ và có chế độ, chính sách hợp lý, đồng bộ, thống nhất; trước hết cần quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng đã được xác định trong Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6, khoá X, cụ thể là:

2.1. Xác định rõ nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trong nền kinh tế thị trường để xác định bộ máy, cán bộ, công chức cơ sở cho phù hợp; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở phải đặt trong tổng thể xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Không thể xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở tách rời việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, mà nó phải được đặt trong tổng thể chiến lược về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.

2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở phải dựa trên cơ sở phân loại và tiêu chuẩn hóa từng loại cán bộ, công chức cơ sở. Phải căn cứ vào vị trí, vai trò và đặc điểm, tính chất của từng loại đối tượng cán bộ, công chức để có quy định tiêu chuẩn phù hợp. Trên cơ sở đó quy định việc bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm,

Page 33: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

đào tạo, bồi dưỡng và chế độ, chính sách hợp lý đối với từng loại cán bộ, công chức cơ sở.

2.3. Xây dựng chế độ chính sách phù hợp với đặc điểm, tính chất của các vùng, miền; trên cơ sở việc phân loại đơn vị hành chính cấp cơ sở. Điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của các đơn vị hành chính cấp cơ sở nước ta rất khác nhau: có xã diện tích chỉ vài km2, dân số chưa đến 1.000 người, nhưng có xã lại có diện tích bằng một huyện, hoặc có phường dân số lên đến 60- 70.000 dân; nhiều xã, nhất là ở vùng miền núi, kinh tế kém phát triển, nguồn thu ngân sách của xã hoàn toàn dựa vào tỉnh và trung ương, nhưng có thị trấn hoặc phường có nguồn thu ngân sách hàng năm lên đến vài chục tỷ đồng. Do đó việc quy định số lượng và bố trí cán bộ, công chức cơ sở cũng như xây dựng chế độ, chính sách phải căn cứ vào việc phân loại đơn vị hành chính cấp cơ sở.

“Một số chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn cần và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ thì được xem xét chuyển thành công chức nhà nước để tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp; các chức danh cán bộ chuyên trách khác không đủ điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành công chức nhà nước thì thực hiện theo chế độ hiện hành, khi được giữ chức vụ do bầu cử thì hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm và thực hiện chế độ bảo hiểm, khi thôi đảm nhiệm chức vụ thì thôi hưởng phụ cấp và đóng bảo hiểm tự nguyện. Cán bộ không chuyên trách thì thực hiện theo hướng khoán kinh phí hoạt động và đóng bảo hiểm tự nguyện. Chính phủ quy định khung số lượng và khung mức phụ cấp để các địa phương thực hiện phù hợp với tình hình cụ thể”; “ Có cơ chế, chính sách để giải quyết đối với những cán bộ chưa được chuẩn hoá nhưng chưa đủ tuổi, đủ năm công tác để nghỉ theo chế độ”; “ Có chế độ phụ cấp thu hút đối với cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số ”.

Áp dụng cơ chế khoán ngân sách và tự chủ tài chính cho cấp cơ sở; tạo điều kiện và đảm bảo cho các cơ sở có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tạo thêm các nguồn thu (ngoài nguồn thu ngân sách được cân đối theo luật) và quy định các khoản chi thường xuyên theo định mức…Từ đó, cơ sở được chủ động sắp xếp, bố trí, xử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ cơ sở ( kể cả cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách) theo quy định của cấp có thẩm quyền.

2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, thiết thực, cụ thể. Các tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở vừa có các mối quan hệ ngang giữa các tổ chức này ở cấp cơ sở, lại vừa có mối quan hệ dọc của mình từ trung ương đến cơ sở. Do đó việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở không thể tiến hành một cách độc lập, tách rời mà phải được đặt trong tổng thể các mối quan hệ ngang, dọc; phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ của cả hệ thống chính trị ở cơ sở.

Page 34: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Phân cấp nhiều hơn cho chính quyền địa phương trong việc quản lý cán bộ, công chức cơ sở. Do tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của cấp cơ sở ở các vùng, miền, khu vực khác nhau, cần thiết phải phân cấp, phân quyền mạnh hơn, rõ hơn cho các cấp chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Chính phủ nên tập trung vào các giải pháp chung, cơ bản làm cơ sở, chỗ dựa cho từng địa phương áp dụng.

2.5. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở phải được tiến hành một cách tích cực, khẩn trương nhưng phải từng bước vững chắc phù hợp với thực trạng cán bộ cơ sở, với trình độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi vùng, miền, của mỗi loại hình đô thị, nông thôn. Từ sau Nghị quyết trung ương 5 (khóa IX) việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở có bước phát triển mới cả về lượng và chất, được triển khai rất khẩn trương, ráo riết nhưng đồng thời có một vài biểu hiện nóng vội, chủ quan, hình thức. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở cần thiết được tiến hành tích cực nhưng phải từng bước, vững chắc, phù hợp với tình hình đặc điểm, thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội, đặc điểm tính chất của mỗi loại hình cơ sở.

III. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH

- Chế độ, chính sách (tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm, quản lý, tuyển dụng, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng...) liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở; giải quyết một số tồn đọng về bảo hiểm xã hội đối với cán bộ ở cơ sở;

- Số lượng cán bộ, công chức theo phân loại đơn vị hành chính cấp xã; khung số lượng, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở.

IV.MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

4.1. Tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá IX, Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá X, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khoá X; “tạo sự thống nhất về quan điểm và quyết tâm chính trị giữa các cấp, các ngành trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở”.

- Các địa phương cần tổ chức tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX và quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá X, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khoá X “tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở”.

- Các cơ quan Trung ương, tổ chức nghiên cứu, khảo sát đánh giá thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và khả năng đáp ứng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ ở cơ sở để xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở trong đó có các nội dung: xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với

Page 35: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 114/2003/NĐ- CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 04/2004/QĐ- BNV ngày 16 tháng 1 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 13/2002/QĐ- BNV ngày 6 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy chế tổ chức, hoạt động của thôn, tổ dân phố ở xã, phường, thị trấn. Nghiên cứu, khảo sát cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã, đề xuất hướng nghiên cứu Nghị định về Tổ chức Bộ máy chính quyền cấp xã; giải quyết một số tồn đọng về bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cơ sở.

4.2. Về số lượng và cơ cấu Về số lượng: cần xác định rõ các chức danh cụ thể trên cơ sở quy mô, đặc

điểm, tính chất của mỗi loại hình cơ sở, trong đó yếu tố quyết định khi xác định số lượng cán bộ, công chức là quy mô dân số.

Số lượng cán bộ chuyên trách công chức ở cấp xã phải được bố chí theo kết quả thực hiện Nghị định số 159/2005/NĐ- CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính ở xã, phường , thị trấn bảo đảm không tăng số lượng so với nghị định số 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ.

Về cơ cấu: Xác định rõ từng vị trí, quy mô, khối lượng tính chất phức tạp và yêu cầu chất lượng của từng nhiệm vụ ở từng vị trí công việc chuyên môn của cán bộ, công chức; căn cứ vào đặc điểm của đơn vị hành chính (phường, thị trấn) ở các đô thị trong việc xác định các chức danh cán bộ chuyên trách, công chức chuyên môn khác với các đơn vị hành chính xã ở vùng nông thôn, như : chức danh Chủ tịch hội Nông dân chỉ có ở vùng nông thôn hoặc chức danh địa chính- xây dựng ở đô thị gọi là địa chính – xây dựng - đô thị và môi trường (nhưng ở xã là địa chính- nông nghiệp - xây dựng và môi trường).

4.3. Thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở:Việc xây dựng tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý là căn cứ cơ bản, chỗ dựa chủ yếu để

triển khai các nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Việc xác định tiêu chuẩn cụ thể phụ thuộc vào các yếu tố sau:- Đặc điểm, tính chất của từng loại nhiệm vụ công tác: công tác Đảng, đoàn

thể, chính quyền, chuyên môn; lãnh đạo, quản lý, điều hành hoặc thực thi nghiệp vụ.- Cán bộ do bầu cử theo nhiệm kỳ hay các chức danh chuyên môn (công

chức cơ sở);- Đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế- xã hội và trình độ dân trí của từng

vùng, miền, từng địa phương.

Page 36: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Cần phải có những tiêu chí cụ thể về lượng và chất, không chỉ về trình độ, bằng cấp mà còn có cả tiêu chí về kinh nghiệm công tác, về năng lực thực tiễn thực thi các nhiệm vụ…

- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức và các chức danh theo quy định của pháp luật.

4.4. Tạo nguồn cán bộ, công chức cơ sở: phải tích cực và chủ động tạo nguồn một cách cơ bản, vững chắc. Đồng thời với việc tiêu chuẩn hóa, vấn đề tạo nguồn cán bộ, công chức cơ sở cũng đang là đòi hỏi cấp bách, cần triển khai một cách tích cực, khẩn trương. Việc tạo nguồn cán bộ, công chức cơ sở cần đi theo các hướng sau:

- “ Để trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, cần sớm ban hành chính sách thu hút để thực hiện chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn... đối với các tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường thiếu sinh quân; phối hợp với các quân khu lựa chọn những thanh niên người dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự đưa đi đào tạo nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để tạo nguồn cán bộ cho cơ sở” (trích Nghị quyết hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X).

- Mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức cơ sở đương nhiệm đang ở độ tuổi 25- 35 có điều kiện và khả năng phát triển.

- Lựa chọn học sinh, thanh niên có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học và có nguyện vọng công tác lâu dài ở cơ sở đưa đi đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ theo diện cử tuyển và hợp đồng.

- Có chế độ, chính sách hợp lý để thu hút con em học sinh, sinh viên là người địa phương tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng về cơ sở công tác.

- Phối hợp, liên kết với lực lượng Công an, Quân đội để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự thành nguồn cán bộ kế cận cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, đặc biệt là đối với chức danh chuyên môn: Trưởng Công an, Phó công an và Xã đội trưởng, Xã đội phó.

- Quy định chế độ luân chuyển cán bộ, công chức cấp huyện và cấp tỉnh về công tác ở cấp cơ sở, đặc biệt là đối với cán bộ, công chức trẻ mới được tuyển dụng về đảm nhiệm các chức danh chuyên môn trong một thời gian nhất định.

- Đối với các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần chú ý tạo nguồn từ các trường phổ thông nội trú, tăng cường học sinh hệ cử tuyển theo đúng địa chỉ, đúng mục tiêu phục vụ cơ sở theo các địa chỉ cụ thể.

4.5. Hoàn thiện cơ chế bầu cử, tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức cơ sở.

Page 37: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Hoàn thành cơ chế lựa chọn, giới thiệu người ứng cử để đảm bảo vừa đúng cơ cấu, vừa có thể chọn được những người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực và khả năng thực hiện nhiệm vụ.

Tổ chức tuyển dụng các chức danh chuyên môn phải đảm bảo công khai, dân chủ, khách quan, công bằng, đúng tiêu chuẩn đối với từng chức danh nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cơ sở; Tuyển dụng công chức cấp xã phải theo đúng quy định của Chính phủ.

Bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở hợp lý có vai trò rất quan trọng trong việc phát huy năng lực, sở trường, kinh nghiệm, tạo điều kiện thực tế cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức. Để bố trí, sử dông hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở cần chú ý những đặc điểm sau:

+ Công chức chuyên môn nghiệp vụ là những công chức làm việc không theo nhiệm kỳ, cần phải được sử dụng ổn định, lâu dài; họ cần phải được đào tạo cơ bản về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và giải quyết chế độ, chính sách như công chức nhà nước.

Việc sử dụng cán bộ, công chức cơ sở cần phải tính đến các phương án bố trí, kiêm nhiệm, nhất là ở những cơ sở có quy mô nhỏ, dân số ít. Tất nhiên việc bố trí kiêm nhiệm phải phù hợp với khối lượng tính chất công việc của từng chức danh.

+ Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng chức danh cán bộ, công chức cơ sở, đặc biệt là Bí thư đảng ủy và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

+ Tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Có thể thông qua các kỳ họp của Hội đồng nhân dân để lấy ý kiến về sự tín nhiệm của nhân dân đối với những cán bộ chủ chốt ở cấp cơ sở. Có chế tài xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với những trường hợp vi phạm luật, có hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.

4.6. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở; gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy họach từng loại cán bộ, công chức cơ sở.

- Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tinh gọn, thiết thực, phù hợp với trình độ văn hóa, khả năng nhận thức của cán bộ, công chức cơ sở, hạn chế tình trạng trùng lặp trong nội dung chương trình của một khóa học.

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cơ sở nên có hai loại: chương trình đào tạo trung cấp theo hướng thống nhất hai chương trình lý luận chính trị và chương trình quản lý hành chính nhà nước với thời gian đào tạo 2 năm, được cấp bằng theo hệ giáo dục quốc dân. Đối tượng được đào tạo theo chương trình này chủ yếu là cán bộ, công chức cơ sở theo quy hoạch của địa phương. Loại chương trình bồi dưỡng áp dụng cho những cán bộ chủ chốt đã lớn

Page 38: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

tuổi vừa được trúng cử, chưa được đào tạo theo các chương trình đào tạo nói trên với thời gian từ 1 đến 3 tháng.

Phương thức đào tạo, bồi dưỡng phải linh hoạt, đa dạng phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, công chức cơ sở, đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng, gắn lý thuyết với thực hành, quan điểm lý luận với hoạt động thực tiễn thông qua các chính sách và việc xử lý các công việc cụ thể, trang bị kiến thức và các kỹ năng làm việc, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học viên trong giải quyết các nội dung học tập.

- Tiếp tục sắp xếp và kiện toàn hệ thống các trường chính trị địa phương ở cấp tỉnh và huyện, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật để đảm bảo yêu cầu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở.

- Xây dựng, củng cố đội ngũ giảng viên, giảng viên kiêm nhiệm cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở.

4.7. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã:- Về chế độ tiền lương: do đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở,

không nên chỉ quy định cứng một nguồn thu nhập là tiền lương mà cần phải được bổ sung điều chỉnh bằng việc trích từ các hoạt động kinh tế công, các khoản tiết kiệm chi phí thường xuyên theo cơ chế khoán thu, chi ngân sách và tự chủ tài chính ở cơ sở. Phần này vừa có tác dụng động viên, khuyến khích cán bộ, công chức cơ sở vừa cho phép khắc phục những bất hợp lý của chế độ, chính sách chung. Khi đã áp dụng rộng rãi cơ chế khoán và tự chủ tài chính- ngân sách ở cấp xã thì việc quy định mức tiền lương cho từng chức danh cán bộ, công chức cơ sở chỉ còn là căn cứ để tính bảo hiểm, còn thu nhập thực tế của mỗi cán bộ, công chức cơ sở là do cơ sở tự quyết định một cách công khai, dân chủ, công bằng và hợp lý.

Khuyến khích cán bộ, công chức cơ sở thực hiện việc kiêm nhiệm công việc gắn với chế độ phụ cấp (phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp theo phân loại xã, phụ cấp kiêm nhiệm chức danh). Có thể quy đinh cho cán bộ, công chức kiêm nhiệm thêm chức danh được hưởng phụ cấp bằng 20% của chức danh kiêm nhiệm.

Đối với cán bộ không chuyên trách thực hiện theo hướng khoán kinh phí hoạt động và đóng bảo hiểm tự nguyện; quy định khung số lượng cho từng loại xã và mức phụ cấp tối đa để các địa phương thực hiện phù hợp với tình hình cụ thể.

- Về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công chức cơ sở; giải quyết những tồn đọng về bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cơ sở

Page 39: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

4.8. Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý cỏn bộ, công chức cơ sở.

Để tạo hành lang pháp lý cần thiết cho xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, cần phải nhanh chóng xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy để cụ thể hóa từng nội dung của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Hiện nay việc triển khai cú phần còn chậm và thiếu đồng bộ, thậm chí có chỗ còn chưa ăn khớp nhau giữa các văn bản, gây khó khăn cho việc tổ chức triển khai thực hiện.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chế độ, chính sách của Chính phủ quy định đối với cỏn bộ, cụng chức cấp xã và trong phạm vi quyền hạn của mình mà luật pháp quy định trình HĐND tỉnh có Nghị quyết ban hành những chính sách riêng, có lợi cho địa phương trong việc quản lý, thu hút, tạo nguồn, để bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã mà không trái với luật pháp hiện hành.

V. KIẾN NGHỊ :5.1. Đối với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân:- Về chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở

mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ đó quá 2 nhiệm kỳ:Khoản 3, điều 6 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa

đổi năm 2003) quy định: “ Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục”.

Nghị quyết số 22/NQ- TW ngày 02 tháng 2 năm 2008, hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành trung ương khoá X về “ Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tại điểm 3.3, khoản 3, mục II viết: “ ... Đối với những nơi có khó khăn về cán bộ, có thể vận dụng linh hoạt hơn chủ trương Chủ tịch hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không giữ một chức vụ quá 2 nhiệm kỳ...”.

5.2. Đối với Nghị định số 114/2003/NĐ- CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn:

Phương án 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ, về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

Nghị định mới gồm 3 điều:Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 114/2003/NĐ-CP

ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Cụ thể như sau:

1. Sửa đổi, bổ sung điểm d, khoản 1 và điểm d, khoản 2 và bổ sung khoản 3, Điều 2

Page 40: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

“Điều 2. Đối tượng điều chỉnh1…d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc,……., Chủ tịch Hội Nông dân (nơi

có ngành nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp),….Lý do sửa đổi, bổ sung điểm d, khoản 1, Điều 2: đối với chức danh Chủ tịch

Hội nông dân. Vì trước đây do quy định chung chưa có việc lưu ý chỉ bố trí chức danh này ở những nơi có ngành nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp thì ở những nơi mặc dù không có ngành nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp cũng vẫn bố trí chức danh này. Đây là một điểm bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn ở địa phương.

2…d) Địa chính - Xây dựng- Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn); Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã)”.

Lý do sửa đổi, bổ sung điểm d, khoản 2, Điều 2: đối với chức danh Địa chính-Xây dựng vì mô hình quản lý về địa chính, xây dựng ở khu vực đô thị khác với khu vực nông thôn:

- Đối với khu vực đô thị: Nhiệm vụ của chức danh công chức này ngoài việc quản lý đất đai trên địa bàn còn rất cần phải chú trọng đến công tác xây dựng, quy hoạch chỉnh trang đô thị theo quy định của pháp luật về phát triển đô thị ở địa phương.

- Đối với khu vực nông thôn: Nhiệm vụ chủ yếu của chức danh này là quản lý đất đai trên địa bàn: đất công cộng, đất nông nghiệp, đất nhà ở; còn đối với công tác quản lý về xây dựng, phát triển đô thị sẽ được giảm nhẹ.

Với những lý do như trên do vậy, cần phải sửa đổi, quy định tên gọi của chức danh này theo 2 khu vực đô thị và nông thôn, điều này sẽ liên quan đến việc quy định nhiệm vụ, chức trách của công chức phụ trách công tác này theo từng khu vực.

3. Số lượng cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn được bố trí theo cấp xã đã được phân loại theo quy định của Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.

2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và bổ sung khoản 3, Điều 7 “Điều 7. Tiêu chuẩn cụ thể1. Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ chuyên trách cấp xã làm việc trong các tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội do Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp Trung ương quy định”.

Trước đây Nghị định quy định: “Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ chuyên trách cấp xã làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội do các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp Trung ương quy định”. Do không có đơn vị chủ trì nên việc phối hợp quy định để ban hành những quy định về tiêu

Page 41: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

chuẩn cụ thể đối với từng chức danh trong nhóm cán bộ chuyên trách này còn có những bất cập, tồn tại cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

3. Cán bộ, công chức cấp xã có đủ thời gian công tác liên tục từ 5 năm trở lên và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ thì được chuyển thành công chức nhà nước.

Theo tinh thần Nghị quyết số 22/NQ-TW6, khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”

3. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 và khoản 4, Điểu 13“Điều 13. Tuyển dụng công chức cấp xã2. Người được tuyển dụng làm công chức cấp xã phải thông qua thi tuyển

theo quy định của Bộ Nội vụ. Việc tuyển dụng công chức cấp xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số thì có thể thực hiện thông qua xét tuyển.

Việc tuyển dụng công chức cấp xã thông qua thi tuyển rất ít khi được các địa phương thực hiện, hầu hết vẫn thực hiện việc tuyển dụng bằng hình thức tuyển dụng, mặc dù trong NĐ114/2003/NĐ-CP đã quy định UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm quy định Quy chế thi tuyển công chức cấp xã, nhưng do chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể, thống nhất chung trong toàn quốc về tiêu chuẩn, điều kiện dự tuyển, thi tuyển nên các địa phương đều viện vào lý do này để không áp dụng việc tuyển dụng thông qua thi tuyển.

Người được tuyển dụng vào làm công chức cấp xã phải thực hiện chế độ tập sự như công chức nhà nước cấp huyện trở lên.

Kể từ khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành thì cán bộ cấp xã mới thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh, được chuyển từ chế độ hưởng sinh hoạt phí và phụ cấp sang hưởng chế độ lương như công chức nhà nước cấp trên. Trước đây nhằm khuyến khích, thu hút cán bộ, công chức làm việc ở cơ sở Nhà nước đã quy định chế độ tập sự của công chức cấp xã (tất cả các loại công chức A, B, C) đều chỉ phải tập sự trong thời gian 6 tháng, nhưng đến nay thì việc quy định như vậy là chưa phù hợp với quy định chung đối với công chức từ cấp huyện trở lên, tạo sự bất hợp lý, không công bằng trong đội ngũ công chức các cấp.

4. Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 3, Điều 17“Điều 17. Kỷ luật và xử lý vi phạm1. Việc kỷ luật, bãi nhiệm đối với cán bộ, công chức cấp xã thực hiện theo

quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Cụ thể như sau:

Page 42: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

a) Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội do Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương quy định.

b) Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã làm việc trong Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và công chức cấp xã do Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định.

tại khoản 1, Điều 17, NĐ số 114/2003/NĐ-CP quy định: Việc kỷ luật, bãi nhiệm đối với cán bộ chuyên trách cấp xã thực hiện theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Quy định như vậy là còn quá chung chung bởi trên thực tế ở các địa phương khi phát hiện ra cán bộ chuyên trách vi phạm kỷ luật, đặc biệt là cán bộ chuyên trách giữ các chức danh trong MTTQ, các Đoàn thể khi thực hiện xem xét kỷ luật gặp rất nhiều vướng mắc như: tổ chức nào đứng ra thành lập hội đồng, thi hành kỷ luật như thế nào…. Xuất phát từ việc chưa có hướng dẫn cụ thể của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, chưa có cơ chế phối hợp giữa Đảng, Chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong công tác xem xét, thi hành kỷ luật đối với cán bộ chuyên trách cấp xã. Do vậy Liên ngành ở Trung ương cần phải có hướng dẫn cụ thể để các địa phương có cơ sở thực hiện.

3. Cán bộ, công chức cấp xã bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo thì bị kéo dài thời gian nâng bậc lương thêm một năm.

Bỏ cụm từ cách chức: vì đối với công chức thì chỉ có chức danh chứ không có chức vụ, còn đối với cán bộ chuyên trách nếu cách chức là đồng nghĩa với miễn nhiệm, bãi nhiệm”.

5. Bổ sung khoản 3, Điều 24“Điều 24: Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã của Bộ Nội vụ 3. Quy định tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã; quy định những tiêu chuẩn

cụ thể đối với một số chức danh cán bộ chuyên trách cấp xã có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ để được xem xét chuyển thành công chức Nhà nước, tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.

Theo tinh thần Nghị quyết TW6 (khóa X), nhưng chúng tôi còn có băn khoăn trong Nghị quyết chỉ nêu “….quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với một số cán bộ chuyên trách cấp xã…..” chứ không đề cập đến công chức cấp xã và công chức là người làm chuyên môn được đào tạo cơ bản trước khi được tuyển dụng vào làm công chức, như vậy sẽ có sẵn điều kiện tương đồng, có thể liên thông trong đội ngũ công chức nhà nước ở các cấp.

Điều 2: Hiệu lực thi hành.Điều 3: Trách nhiệm thi hành

Page 43: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Phương án 2: Xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

Với một số nội dung chính: Cơ bản dựa trên nội dung Nghị định số 114/2003/NĐ-CP bãi bỏ những nội dung không phù hợp và quy định một số nội dung mới phù hợp với yêu cầu quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay. Với các nội dung cơ bản như sau:

1. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh2. Quy định về số lượng cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.3. Quy định tiêu chuẩn cán bộ, công chức cấp xã + Tiêu chuẩn chung: + Tiêu chuẩn cụ thể: + Quy định tiêu chuẩn cụ thể về luân chuyển (liên thông)4. Nghĩa vụ, quyền lợi và những việc không được làm đối với cán bộ, công

chức cấp xã.5. Bầu cử, tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức cấp xã6. Khen thưởng và xử lý kỷ luật 7. Quản lý cán bộ, công chức cấp xã.5.3.Đối với Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21

tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn:

Thứ nhất, về tên của Nghị định mới thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP: Vì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ,

công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP và Nghị định số 114/2003/NĐ- CP của Chính phủ cần xác định được tên của Nghị định làm sao chứa đựng được quyền lợi, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở cơ sở và những chế độ, chính sách được Chính phủ quan tâm đối với đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn mà các văn bản pháp luật trước đó chưa đề cập hoặc đề cập còn thiếu.

Thứ hai, về bố cục của Nghị định mới: Nghị định mới cần được bố cục khoa học, hợp lý; giúp cơ sở rễ hiểu, rễ tổ chức thực hiện.

Thứ ba, về phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Nghị định mới: Nghị định này quy định về chức danh, số lượng và một số chế độ, chính sách đối với cán bộ chuyên trách, công chức ở xã, phường, thị trấn; cán bộ không chuyên trách ở xã; ở thôn, tổ dân phố và mở rộng tới đối tượng cán bộ xã già yếu, nghỉ việc theo Quyết định số 130/CP ngày 30 tháng 6 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ, Quyết định số

Page 44: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

111/HĐBT ngày 13 tháng 10 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nhằm bổ sung một số chế độ mà Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn chưa đề cập đầy đủ.

Thứ tư, về chức danh cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã: Thực hiện Nghị quyết hội nghị trung ương 5, khoá IX và Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X; Nghị định mới không tăng thêm chức danh công chức cấp xã; quy định số lượng cán bộ không chuyên trách theo phân loại xã, khuyến khích cán bộ, công chức kiêm nhiệm thêm chức danh, nhằm giảm chi ngân sách, tăng hiệu quả làm việc và thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; thực hiện bố trí cán bộ, công chức ở phường, xã có sự khác nhau.

Cán bộ chuyên trách ở cấp xã:

Nghị định mới giữ nguyên 11 chức danh như cũ:a) Bí thư đảng uỷ;b) Phó Bí thư đảng ủy;c) Chủ tịch Hội đồng nhân dân;d) Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;đ) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;e) Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;g) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc;h) Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;i) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;k) Chủ tịch Hội Nông dân (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động

nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội nông dân Việt Nam); l) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.Công chức cấp xã:Nghị định mới cần xếp sắp hợp lý nội dung quản lý công việc cho mỗi chức

danh, phân biệt giữa phường với xã, thị trấn; cụ thể:Công chức ở cấp xã có 07 chức danh như sau:a) Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);b) Chỉ huy trưởng quân sự;c) Văn phòng – Thống kê ;d) Địa chính - Xây dựng – Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn);

Địa chính – Nông nghiệp – Xây dựng và Môi trường (đối với xã)

Page 45: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

d) Tài chính – Kế toán;e) Tư pháp – Hội tịch;g) Văn hóa – Xã hội;- Đổi tên một số chức danh công chức để bao hàm được cơ bản các nhiệm vụ

ở cơ sở, chẳng hạn: Chức danh: Địa chính – Xây dựng - Đô thị và Môi trường (đối với phường,

thị trấn); Địa chính- Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã).Thứ năm, về số lượng cán bộ chuyên trách, công chức ở cấp xã: Số lượng cán bộ chuyên trách, công chức ở cấp xã phải được bố trí theo kết

quả thực hiện Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính ở xã, phường, thị trấn bảo đảm không tăng số lượng so với Nghị định số 121/2003/NĐ- CP (cấp xã loại 1 không quá 25 người; cấp xã loại 2 không quá 23 người; cấp xã loại 3 không quá 21 người).

Thứ sáu, Về xếp lương, nâng lương và phụ cấp:Xếp lương- Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:+ Cán bộ chuyên trách cấp xã có trình độ sơ cấp hoặc chưa đào tạo trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện xếp lương chức vụ theo bảng lương như sau:Bảng lương dành cho cán bộ chuyên tráchcó trình độ sơ cấp hoặc chưa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ

STTChức danh

Hệ số lương

Bậc 1 Bậc 2

1 Bí thư Đảng uỷ 2,35 2,85

2- Phó Bí thư Đảng uỷ- Chủ tịch Hội đồng nhân dân- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

2,15 2,65

3- Thường trực Đảng uỷ (nơi không có Phó Bí thư chuyên trách công tác Đảng)- Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc- Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân- Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

1,95 2,45

Page 46: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

4- Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh- Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ- Chủ tịch Hội Nông dân- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh

1,75 2,25

+ Cán bộ chuyên trách cấp xã đã tốt nghiệp trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên thực hiện xếp lương theo công chức hành chính quy định tại bảng lương số 2 (Bảng lương chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước) ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ- CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

+ Cán bộ chuyên trách cấp xã là người đang hưởng chế độ hưu trí hoặc trợ cấp mất sức lao động, ngoài lương hưu hoặc trợ cấp mất sức lao động hiện hưởng, hằng tháng được hưởng 90% mức lương bậc 1 của chức danh hiện đảm nhiệm theo quy định tại bảng lương (quy định trên) và không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

- Đối với công chức cấp xã:+ Công chức cấp xã tốt nghiệp trình độ đào tạo từ sơ cấp trở lên phù hợp với

chuyên môn của chức danh đảm nhiệm, thực hiện xếp lương như công chức hành chính quy định tại bảng lương số 2 và bảng lương số 4 (bảng lương nhân viên thừa hành, phục vụ trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước).

+ Những người hiện đang đảm nhiệm chức danh công chức cấp xã chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định thì được hưởng lương bằng 1,18 so với mức lương tối thiểu chung.

Nâng lương:Cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã có bằng cấp chuyên môn thực hiện

chế độ nâng bậc lương theo quy định tại điều 7 Nghị định số 204/2004/NĐ- CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Cán bộ chuyên trách chưa có bằng cấp xếp lương theo Bảng lương dành cho cán bộ chuyên trách có trình độ sơ cấp hoặc chưa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ (nêu trên), thực hiện nhiệm kỳ thứ nhất xếp bậc 1, nhiệm kỳ thứ 2 xếp bậc 2.

Thực hiện chế độ phụ cấp: Phụ cấp chức vụ lãnh đạo (phụ cấp chức vụ của Bí thư, Chủ tịch cấp xã bằng mức phụ cấp của trưởng phòng cấp huyện; số tiền tăng lên do bổ sung phụ cấp chức vụ lãnh đạo là 275,617 tỷ đồng/ năm); Phụ cấp thâm niên vượt khung; Phụ cấp theo phân loại xã.

Page 47: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Thực hiện xếp lương, nâng lương và phụ cấp như trên đã giải quyết bất hợp lý đối với cán bộ chuyên trách có bằng cấp chuyên môn được thực hiện xếp lương theo ngạch, bậc công chức hành chính; nếu xếp như vậy thì khuyến khích được cán bộ cơ sở học tập để chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở (Số tiền tăng lên do xếp lương theo bằng cấp chuyên môn đối với cán bộ chuyên trách là 185,329 tỷ đồng/năm); không quy định lương Uỷ viên Uỷ ban nhân dân xã (giải quyết được mâu thuẫn giữa Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ với Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Liên Bộ); Những người hiện đang đảm nhiệm chức danh công chức cấp xã chưa có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì hưởng lương bằng 1,18 so với mức lương tối thiểu chung (không quy định thời hạn xử lý thôi không làm việc đối với người chưa có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ). Chế độ phụ cấp theo phân loại xã đã động viên, khuyến khích được cán bộ chuyên trách ở xã loại 1 và xã loại 2 khi thực hiện nhiệm vụ); Phụ cấp kiêm nhiệm chức danh (phụ cấp kiêm nhiệm chức danh linh hoạt hơn, nhằm giảm số lượng và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức cơ sở).

Thứ bảy, về một số chế độ khác:Về chế độ tập sựCần quy định chế độ tập sự đối với công chức cấp xã thực hiện Luật cán bộ,

công chức;Về chế độ đào tạo, bồi dưỡng: cần quy định rõ + Chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã; + Chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán

bộ không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố; + Chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã

và cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán bộ không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố các xã vùng cao, biên giới, hải đảo;

Về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế :Thực hiện quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với

cán bộ, công chức cơ sở; giải quyết những tồn đọng về bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cơ sở.Liên Bộ có văn bản quy định thống nhất hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định:

* Đối với cán bộ xã thực hiện theo Quyết định 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã và Quyết định 111/HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi, bổ sung một số chính sách, chế độ đối với cán bộ xã, phường:

- Quy định được điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng khi nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu chung.

Page 48: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Khi từ trần thì người lo mai táng được nhận tiền mai táng phí bằng 10 tháng mức lương tối thiểu chung.

- Được chuyển phụ cấp đến nơi ở hợp pháp.- Cán bộ xã già yếu đã nghỉ việc bị phạt tù giam thì trong thời gian bị phạt tù

giam không được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù giam được tiếp tục hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng..

* Đối với cán bộ xã (kể cả “chức danh khác”) thực hiện Nghị định số 09/1998/NĐ- CP :

- Chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã tham gia bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 09/1998/NĐ- CP của Chính phủ đã nghỉ việc trước khi chuyển sang Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ, mà không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng, đến nay không giải quyết được vì các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội không có quy định chuyển tiếp cho đối tượng này.

- Cán bộ xã, phường, thị trấn có thời gian công tác và đóng bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ, khi nghỉ việc chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí thì được bảo lưu thời gian có đóng bảo hiểm xã hội để tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện hoặc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở cơ quan, đơn vị khác.

- Theo hướng dẫn tại khoản 6, mục IV Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH ngày 14/5/2004 thì cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã là người đang hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, bệnh binh hạng 1 và hạng 2 không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khi nghỉ việc không được tính hưởng bảo hiểm xã hội. Nhưng theo quy định tại khoản 1, mục I Thông tư liên tịch số 82/2005/TTLT- BNV- BTC ngày 10/8/2005 về sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT- BNV- BTC thì cán bộ cấp xã đang hưởng chế độ thương binh các hạng, bệnh binh các hạng mà không hưởng chế độ hưu trí hoặc trợ cấp mất sức lao động thì được xếp lương theo chức danh đang đảm nhận. Tuy nhiên, cũng tại thông tư số 82/2005/TTLT- BNV- BTC này, mục IV về hiệu lực thi hành không quy định thay thế khoản 6 mục IV thông tư số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH. Mặt khác, các văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định một người vừa hưởng chế độ bệnh binh, vừa hưởng chế độ hưu trí; do đó, Bảo hiểm xã hội Việt Nam không có cơ sở để thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cấp xã đang hưởng chế độ bệnh binh hạng 1 và hạng 2.

- Chế độ đối với những người trước đây đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đã được cấp có thẩm quyền quyết định điều động làm Chủ nhiệm hợp tác xã quy mô toàn xã, thời gian làm Chủ nhiệm Hợp tác xã quy mô toàn xã được tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc.

Thứ tám, về cán bộ không chuyên trách cấp xã và cán bộ không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố:

Page 49: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

Quy định thống nhất mức phụ cấp tối đa đến 1,0 hệ số mức lương tối thiểu nhằm hạn chế không để cán bộ không chuyên trách có mức hưởng cao hơn công chức chưa có trình độ đào tạo (đang cho hưởng hệ số 1,18). Thực hiện cơ chế khoán kinh phí, đóng bảo hiểm tự nguyện tăng cường tự quản kiêm nhiệm để tinh giảm biên chế cán bộ và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức có khả năng làm kiêm nhiệm chức danh. Đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ nâng mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách từ 1/3 lên 1/2 mức lương tối thiểu (từ 150.000 đồng lên 270.000 đồng thì số tiền tăng lên là 561 tỷ đồng/năm).

Số lượng cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố thống nhất trong toàn quốc:

Cấp xã loại 1: không quá 22 người;Cấp xã loại 2 : không quá 20 người;Cấp xã loại 3 : không quá 19 người.Ở mỗi thôn, tổ dân phố được bố chí không quá 03 người.Tuy vậy cũng sẽ có một số khó khăn khi Nghị định thay thế Nghị định số

121/2003/NĐ- CP được thực hiện:- Ngân sách tăng là 1.212,563 tỉ đồng/năm (lương xếp theo bằng cấp đối với

cán bộ chuyên trách 185,324 tỉ đồng/năm; phụ cấp chức vụ: 275,617 tỉ đồng/năm; phụ cấp theo phân loại xã: 190,617 tỉ đồng /năm; hỗ trợ cán bộ không chuyên trách: 561 tỉ đồng/năm).

- Việc quy định phụ cấp chức vụ và phụ cấp theo phân loại xã, tuy đáp ứng được mục đích, yêu cầu của Nghị định số 159/2005/NĐ- CP, nhưng chưa đảm bảo được sự công bằng; vì cán bộ chuyên trách được xếp lương như công chức, cộng phụ cấp chức vụ, trong khi công chức không có phụ cấp chức vụ; Nếu công chức cấp xã có phụ cấp theo phân loại xã thì lại chưa phù hợp với công chức cấp huyện trở lên; phụ cấp theo phân loại xã chỉ mới áp dụng đối với xã loại 1, loại 2, còn xã loại 3 chưa được hưởng. Có ý kiến đề nghị chỉ nên áp dụng 1 trong 2 loại phụ cấp này, vì phân loại xã theo Nghị định số 159/2005/NĐ- CP đã quy định tăng số lượng cán bộ chuyên trách, công chức cho xã loại 1 và xã loại 2; như vậy sẽ giảm chi cho ngân sách nhà nước.

- Chế độ phụ cấp kiêm nhiệm chức danh: quy định cán bộ, công chức cấp xã kiêm chức danh mà giảm định xuất trong số lượng giao, được hưởng 10%, tuy phù hợp với Thông tư của Bộ Nội vụ, nhưng mức hưởng như vậy chưa khuyến khích được người lao động. Hiện tại theo quy định tại Thông tư số 78/2005/TT- BNV ngày 10 tháng 8 năm 2005 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ, công chức, viên chức kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác thì cán bộ kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã chưa được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm (vì chưa có tài khoản riêng tại kho

Page 50: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

bạc nhà nước). Nhiều ý kiến đề nghị nâng hưởng mức phụ cấp kiêm nhiệm lên 30% đến 50 % để khuyến khích cán bộ, công chức kiêm nhiệm chức danh..

- Qua điều tra khảo sát : đa số địa phương đề nghị cho cán bộ không chuyên trách được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; được nâng mức phụ cấp và thực tế nhiều địa phương tuy ngân sách khó khăn nhưng quy định mức phụ cấp cao hơn cả nơi có điều kiện, gây sức ép đối với ngân sách nhà nước. Có một số ý kiến đề nghị nên quy định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định hỗ trợ cán bộ không chuyên trách cấp xã đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện (thực tế hiện nay số cán bộ, công chức cấp xã trong cả nước tương đối lớn; tổng số có 97 vạn người trong đó có 20 vạn cán bộ, công chức và 77 vạn cán bộ không chuyên trách. Nếu mở rộng đối tượng không chuyên trách được đóng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì khả năng ngân sách nhà nước hỗ trợ rất khó khăn và liên quan đến các quy định của Luật bảo hiểm xã hội phải điều chính).

- Một số Bộ, ngành, địa phương đề nghị tăng thêm cán bộ chuyên trách, công chức chuyên môn; nếu tiếp tục tăng thêm số lượng cán bộ chuyên trách cấp xã thì ngân sách nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn (khi tăng thêm một chức danh cán bộ cấp xã thì cả nước sẽ tăng thêm gần 1,1 vạn cán bộ, công chức và cần 145,539 tỷ đồng cho một chức danh/năm) và như vậy sẽ khác nhiều với kết luận của các Nghị quyết của Trung ương.

2.5. Đối với Quyết định số 04/2004/QĐ- BNV ngày 16 tháng 1 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc Ban hành quy định Tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn:

Việc xây dựng tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý là căn cứ cơ bản, chỗ dựa chủ yếu để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Việc xác định tiêu chuẩn cụ thể phụ thuộc vào các yếu tố sau:- Đặc điểm, tính chất của từng loại nhiệm vụ công tác: công tác Đảng, đoàn thể,

chính quyền, chuyên môn; lãnh đạo, quản lý, điều hành hoặc thực thi nghiệp vụ.- Cán bộ do bầu cử theo nhiệm kỳ hay các chức danh chuyên môn (công

chức cơ sở);- Đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế- xã hội và trình độ dân trí của từng

vùng, miền, từng địa phương.Cần phải có những tiêu chí cụ thể về lượng và chất, không chỉ về trình độ,

bằng cấp mà còn có cả tiêu chí về kinh nghiệm công tác, về năng lực thực tiễn thực thi các nhiệm vụ…

(Hiện nay, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Phụ nữ cấp xã tuổi tuyển dụng lần đầu quá cao (55 đến 65 tuổi) không phù hợp với Luật lao động; Tiêu chuẩn cụ thể ở mỗi chức danh không còn

Page 51: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

phù hợp với tình hình thực tiễn ở các vùng, miền nữa như: trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ; về tuổi tuyển dụng lần đầu...).

2.6. Đối với Quyết định số 13/2002/QĐ- BNV ngày 6 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Thôn, tổ dân phố: Cần phải sửa đổi cho phù hợp

- Điều 8 về thành lập thôn mới;- Điều 14 về thành lập Tổ dân phố mới;- Nhiệm vụ của trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố cần được bổ sung phù hợp

với Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Phần thứ tưTỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. SẢN PHẨM CỦA ĐỀ ÁN:1.1. Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở. 1.2. Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ - CP ngày

21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 114/2003/NĐ- CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và Thông tư hướng dẫn.

1.3. Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 04/2004/QĐ- BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ v/v ban hành quy định Tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

1.4. Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 13/2002/QĐ- BNV ngày 15/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy chế hoạt động của Thôn, Tổ dân phố.

1.5. Báo cáo điều tra, khảo sát xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã trong điều kiện cải cách hành chính làm cơ sở đề xuất xây dựng Nghị định về Tổ chức, Bộ máy chính quyền cấp xã và bổ sung, hoàn thiện chế độ, chính sách sau khi có Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP.

1.6. Phối hợp các Bộ, ngành liên quan giải quyết những tồn đọng về bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cơ sở.

2. PHÂN CÔNG THỰC HIỆN

2.1. Trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ; Trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ giải quyết những vướng mắc khi tổ

chức thực hiện đề án.2.2. Trách nhiệm của Bộ Nội vụ:

Page 52: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

- Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án Tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở trong đó có Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP và Nghị định số 114/2003/NĐ- CP của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và các nội dung khác của đề án trình Thủ tướng Chính phủ.

- Chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu hướng dẫn địa phương xây dựng và thực hiện quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ cán bộ cơ sở giai đoạn 2009- 2015;

- Chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh căn cứ các đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã xây dựng nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng riêng cho từng chức danh cán bộ cơ sở phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền khác nhau trong cả nước.

- Phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp dự toán kinh phí xây dựng đề án Tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở, trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Nội vụ trình cấp có thẩm quyền quyết định.

2.3.Trách nhiệm của Bộ Tài chính;- Bố trí ngân sách để thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở trong

dự toán ngân sách hàng năm trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật ngân sách nhà nước;

- Chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ bố trí kinh phí xây dựng đề án trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Nội vụ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2.4.Trách nhiệm của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội;- Chủ trì kiểm tra, giải quyết những nội dung liên quan tới chế độ bảo hiểm

xã hội đối với cán bộ, công chức cơ sở đã nêu trong đề án;- Phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện đề án Tổng thể về chế độ, chính

sách đối với cán bộ cơ sở .2.5.Trách nhiệm của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam;- Tổng hợp những nội dung về chế độ bảo hiểm xã hội còn tồn đọng đối với

cán bộ cấp xã đã nêu trong đề án và đề xuất hướng giải quyết;- Hướng dẫn, bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện chế độ bảo

hiểm xã hội đối với cán bộ cơ sở theo các văn bản pháp luật hiện hành.2.6. Trách nhiệm của các Bộ liên quan: Quốc phòng, Công an, Y tế, Công

thương, Giao thông Vận tải, Xây dựng, Thông tin và Truyền thông, Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban Dân tộc: căn cứ chức năng, nhiệm vụ tạo điều kiện

Page 53: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

để cán bộ, công chức ở cơ sở hoạt động có hiệu quả đồng thời phối hợp với Bộ Nội vụ đề xuất những nội dung liên quan về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trình cấp có thẩm quyền quyết định.

2.7.Trách nhiệm của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

- Trên cơ sở tổ chức sơ kết Nghị quyết hội Nghị Trung ương 5, khoá khoá IX theo Thông báo kết luận 176 ngày 13/4/2005 của Ban Bí thư và triển khai thực hiện Nghị quyết họi Nghị Trung ương 6 khoá X, cần đánh giá đúng thực trạng hệ thống chính trị cơ sở của địa phương, đặc biệt những mặt còn tồn tại, yếu kém trong công tác đào tao, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ cơ sở.

- Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Đề án để chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ cán bộ cơ sở và tổ chức triển khai thực hiện tại địa phương;

- Tăng cường kiểm tra cấp dưới tổ chức thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ở cơ sở, khen thưởng, nhân rộng kịp thời những địa phương và cá nhân thực hiện tốt;

- Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện có hiệu quả các giải pháp đề án đã nêu.

3. TIẾN ĐỘ THỜI GIAN- Quý III/2008 các địa phương hoàn thành quán triệt nâng cao nhận thức cho

cán bộ, đảng viên, nhân dân về Nghị quyết hội nghị trung ương 5, khoá IX, Nghị quyết hội nghị trung ương 5, khoá X, Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X và tổng hợp ý kiến đề nghị các cấp, các ngành Trung ương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở;

- Quý III/2009 các Bộ, ngành Trung ương hoàn thành Đề án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt trong đó có Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và Nghị định 114/2003/NĐ- CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và hướng dẫn địa phương triển khai thực hiện.

- Năm 2010 nghiên cứu xây dựng Thông tư sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 04/2004/QĐ- BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn cán bộ công chức cấp xã và xây dựng Thông tư sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 13/2002/QĐ- BNV ngày 6/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy chế hoạt động của thôn, tổ dân phố.

- Năm 2011 nghiên cứu, khảo sát cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã, đề xuất hướng nghiên cứu Nghị định về Tổ chức Bộ máy chính quyền cấp xã.

Page 54: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

4. NGUỒN NHÂN LỰC4.1 Về nhân lực: sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện đang công tác

trong lĩnh vực tổ chức cán bộ và chính quyền địa phương; kết hợp và tranh thủ sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước trong quá trình xây dựng và thực hiện Đề án; tổ chức tham quan, học tập kinh nghiệm một số nước trong khu vực:

4.2 Về Tài chínhCăn cứ kế hoạch tài chính đã được Chính phủ phê duyệt, Bộ Nội vụ thống

nhất với Bộ Tài chính phân bổ kinh phí để các Bộ, ngành, địa phương liên quan tổ chức thực hiện. Nội dung chi gồm:

- Chi xây dựng chương trình kế hoạch xây dựng đề án;- Chi tổ chức khảo sát trong nước;tham quan, học tập kinh nghiệm ở 02 nước

(thuộc châu Á, châu Úc ).- Thuê chuyên gia tư vấn trong nước, ngoài nước; - Hội thảo lấy ý kiến các nhà khoa học; nhà quản lý Bộ, ngành, địa phương;- Tổ chức tập huấn và hướng dẫn thực hiện Đề án. - Kinh phí thực hiện đề án là 1.675.430.000 đồng (có phụ lục kèm theo).

Kết luận

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, việc quyết tâm xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn đang được đặt ra như một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta, đối chiếu với thực tiễn trong nước; đề án đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ,công chức ở cơ sở đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Việc tạo ra khung pháp lý và môi trường thuận lợi để thu hút và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở như: tiếp tục hoàn thiện chế độ đãi ngộ, xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở... có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện hiện nay.

Xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn để phân định công chức hành chính với viên chức và cán bộ, công chức cơ sở (đặc biệt là cán bộ, công chức ở phường, thị trấn với xã) là nền tảng để thiết lập thể chế quản lý thích hợp, từ xác định tiêu chuẩn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, quản lý, chế độ, chính sách đối với từng loại đối tượng cán bộ, công chức. Giữa các khâu này có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau; phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để xác định tiêu chuẩn của từng

Page 55: Dự thảo · Web viewVì cán bộ, công chức cấp xã mới được điều chỉnh trong Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi năm 2003); lần này Nghị

loại cán bộ,công chức vả trên cơ sở tiêu chuẩn để đánh giá, xét kỷ luật...Do đó, hệ thống thể chế quản lý cán bộ, công chức phải đảm bảo tính khoa học và đồng bộ, tiếp tục được hoàn thiện theo hướng xây dựng Luật công vụ mới.

Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở vừa là mục tiêu thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX và Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X vừa là động lực thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ sở xã, phường, thị trấn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp và Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra.