CÔNG TY TNHH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM … · trong quá trình biến nạp....
Transcript of CÔNG TY TNHH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM … · trong quá trình biến nạp....
1
CÔNG TY TNHH
SYNGENTA VIỆT NAM
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TÓM TẮT BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ RỦI RO CỦA NGÔ BIẾN ĐỔI GEN MANG
SỰ KIỆN 3272 ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ CON NGƯỜI, VẬT NUÔI
I. Thông tin chung
1. Tên, địa chỉ liên lạc của tổ chức đăng ký, người đứng đầu và người đầu mối liên
lạc
Công ty TNHH Syngenta Việt Nam
Tên người đại diện: Kumardev Datta
Chức vụ: Tổng giám đốc
Tên người đại diện liên lạc: Phạm Đức Tuấn
Chức vụ: Phụ trách Pháp lý và An toàn sinh học
Địa chỉ liên hệ: Văn phòng đại diện Công ty TNHH Syngenta tại Hà Nội, Số 1708- tòa
nhà Charm Vit, 117 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: (04) 3555 3266 Ext. 172 Fax: (04) 3555 3267
E-mail: [email protected]
2. Tên cây trồng biến đổi gen: tên khoa học, tên thông thường, mã sự kiện chuyển gen
và mã nhận dạng duy nhất, nếu có
Tên thông thường : Ngô/Bắp Tên khoa học : Zea mays L.
Sự kiện chuyển gen: 3272 Mã nhận diện duy nhất: SYN-E3272-5
II. Thông tin liên quan đến cây chủ nhận gen:
Ngô hay còn gọi là bắp có tên khoa học là Zea mays L., thuộc chi Maydeae, họ
hoà thảo (Poaceae hay gramineae). Ngô (Zea mays L.) là cây lương thực một năm, thân
cây thẳng, có chiều cao khoảng 2-3m, có nhiều mấu. Lá hình mũi mác rộng bản, dài
50-100cm và rộng 5-10cm, lá tỏa ra từ mỗi mấu với bẹ nhẵn. Bắp ngô là các cụm hoa
cái phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ 1-3 chồi khoảng giữa thân mới tạo thành bắp.
Hoa cái xếp thành 8-16 hàng trên một trục gọi là lõi ngô với chiều dài khoảng 30cm.
2
Trên đỉnh của thân cây là cụm hoa đuôi sóc hình chùy chứa các hoa đực, được gọi là cờ
ngô. Hoa đực mọc thành bông nhỏ gọi là bông chét, bông con hoặc gié. Ở mỗi hoa có
thể thấy dấu vết thoái hóa và vết tích của nhụy hoa cái, quanh đó có ba chỉ đực mang ba
nhị đực và hai mày nhỏ gọi là vẩy tương ứng với tràng hoa. Ngô thụ phấn nhờ gió, quá
trình thụ phấn có hai dạng là tự thụ và thụ phấn chéo. Quá trình tung phấn diễn ra trong
vòng 10-30 phút hoặc cũng có thể lâu hơn trong điều kiện thuận lợi.
Ngô là cây lương thực có lịch sử canh tác, sử dụng lâu dài và được trồng phổ
biến thứ hai trên thế giới. Ngô có nguồn gốc từ loại cỏ teosinte hoang dại gần giống với
ngô ngày nay và loại cỏ ngô này vẫn mọc trong lưu vực sông Balsas thuộc Mexico.
Một số giả thuyết cho rằng vào năm 1500 TCN ngô bắt đầu được phổ biến rộng và
nhanh, ngô là lương thực chính của phần lớn các nền văn hóa tiền Columbus tại Bắc
Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ và khu vực Caribe. Ngô sau đó được giới thiệu và phát triển ở
châu Âu và phần còn lại của thế giới.
Cây ngô ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo Lê Quý Đôn trong
“Vân Đài loại ngữ “ hồi đầu đời Khang Hi (1662-1762), Trần Thế Vinh, người huyện
Tiên Phong (Sơn Tây, phủ Quảng Oai) sang sứ nhà Thanh lấy được giống ngô đem về
nước. Khắp cả hạt Sơn Tây đã dùng ngô thay cho lúa gạo. Từ đó ngô được phổ biến và
phát triển ra khắp đất nước. Hiện nay, diện tích ngô cả nước tính đến năm 2010 là hơn
1,1 triệu ha với sản lượng lên tới 4,6 triệu tấn.
Ngô trồng phổ biến ở Việt Nam chủ yếu là ngô cho thức ăn gia súc, ngoài ra
còn có ngô ngọt, ngô nếp và ngô bao tử dùng để chế biến thực phẩm hoặc ăn trực
tiếp cho người. Ngô không có tính gây dị ứng và gây độc do vậy nó là một thực phẩm
không có tiềm năng gây bệnh cho người, động vật và thực vật.
III. Thông tin về sinh vật cho gen
- Cổ vi sinh vật Thermococcales order: là loài vi sinh vật ưa nhiệt, tồn tại trong
những điều kiện khắc nhiệt nhất trên trái đất
- Vi khuẩn Escherichia coli: là trực khuẩn Gram âm thường xuất hiện trong hệ
tiêu hóa của sinh vật máu nóng.
Gen alpha-amylase chuyển vào ngô sự kiện 3272 là gen tổng hợp từ các gen có
cùng chức năng mã hóa cho enzyme alpha-amylase của 3 loài cổ vi sinh vật ưa nhiệt
của Bộ cổ khuẩn Thermococcales. Cổ khuẩn là một trong ba vực sinh học của ngành
khoa học sự sống. Cổ khuẩn bao gồm các loài sinh vật sống được trong những điều
kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt (Landry et al, 2003). Hầu hết các loài
Thermococcales là các vi sinh vật yếm khí nghiêm ngặt và có khả năng chịu nhiệt cao.
3
Chúng mang cấu tạo liên tế bào và có thể có hoặc không có tiên mao. Bộ cổ khuẩn
Thermococcales có 3 chi đại diện là Pyrococcus, Thermoccocus và Paleococcus.
Những enzyme nội sinh của các loài cổ khuẩn này đều là những enzyme chịu nhiệt và
đặc tính ưu việt này khiến chúng được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghệ sinh
học (Bertoldo and Antranikian 2006).
E. coli là vi khuẩn cư trú thường trực trong đường ruột người và động vật. Phần
lớn E. coli là vi khuẩn không gây bệnh trừ một số kiểu huyết thanh (serotype) của vi
khuẩn này gây bệnh tiêu chảy. Ngày nay, E. coli là vật liệu thường xuyên sử dụng trong
công nghệ sinh học hiện đại, do đó tần xuất xuất hiện của vi khuẩn này trở nên rất phổ
biến.
IV. Thông tin về thực vật biến đổi gen
1.
gen.
Ngô biến đổi gen sự kiện 3272 có khả năng biểu hiện enzyme alpha-amylase
AMY797E chịu nhiệt được tạo ra từ phôi non của dòng ngô độc quyền (Negrotto và
cs., 2000) bằng phương pháp chuyển gen nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens.
Alpha-amylase AMY797E là enzyme xúc tác phản ứng thủy phân tinh bột thành các
đường hòa tan ở nhiệt độ cao và được ứng dụng trong quy trình chế biến ngô.
Quá trình chuyển gen bắt đầu bằng bước tổng hợp gen đích, dòng hóa và biến
nạp gen vào vector chuyển gen. Gen amy797E được tổng hợp từ gen mã hóa enzyme
alpha-amylase chịu nhiệt 797GL3 có nguồn gốc từ 3 loài cổ khuẩn ưa nhiệt độ cao
Thermococcales bằng phương pháp sắp xếp trình tự GeneRassemblyTM
của hang
Diversa Corporation, San Diego, Hoa Kỳ. Sau đó, trình tự 797GL3 bị cắt ngắn đầu N-
terminal và thay thế bằng trình tự 19 axit amin tín hiệu gamma-zein của ngô (GZein
ss). Bổ sung trình tự SEKDEL ở đầu C-terminal là trình tự tín hiệu duy trì mạng lưới
nội chất (ER ss). Sự cải biến này giúp tối ưu hóa biểu hiện và duy trì enzyme alpha-
amylase chịu nhiệt AMY797E trong nội nhũ ngô. Toàn bộ vùng mã hóa của gen
amy797E được tổng hợp để tối ưu hóa sử dụng bộ ba ưu tiên cho ngô.
Ngoài gen amy797E, gen pmi được đồng thời biến nạp vào vector chuyển gen.
Gen này có nguồn gốc từ vi khuẩn Escherichia coli mã hóa cho enzyme
phosphomannose isomerase (PMI) xúc tác quá trình chuyển mannose-6-phosphate
thành fructose-6-phosphate được sử dụng để làm gen chỉ thị. Ngô biểu hiện protein
PMI có thể sinh trưởng và phát triển trên môi trường sử dụng mannose như nguồn dinh
dưỡng duy nhất.
Gen amy797E và pmi được biến nạp vào plasmid pNOV7013 và nhân dòng
trong vi khuẩn E. coli DH5α. Plasmid pNOV7013 được biến nạp vào vi khuẩn A.
tumefaciens LBA4404 mang Ti-plasmid bất hoạt đã loại bỏ T-DNA. Ti-plasmid này
4
chứa gen virG mã hóa protein cần thiết cho việc biến nạp đoạn gen chuyển trong
pNOV7013 vào tế bào thực vật để thực hiện việc chèn gen mới vào hệ gen ngô.
Thành phần các gen biến nạp chuyển vào hệ gen ngô gồm có hai cassette, một
cassette hoạt động biểu hiện gen amy797E được điều hòa bởi Gzein promoter có nguồn
gốc từ ngô khiến protein AMY797E chỉ biều hiện trong mô nội nhũ hạt ngô và trình tự
kết thúc 35S (35S terminator) có nguồn gốc từ virut khảm súp lơ mang chức năng cung
cấp trình tự đa adenyl hóa (polyadenylation). Ngoài ra, cassette chỉ thị chọn lọc mang
gen pmi được hiều hòa bởi trình tự khởi động polyubiquitin của ngô (ZmUbilnt
promoter) và trình tự kết thúc NOS có nguồn gốc từ gen sinh tổng hợp nopaline của vi
khuẩn A. tumefaciens cũng tạo vị trí đa adenyl hóa.
2.
Ngô 3272 biểu hiện 2 protein được mã hoá bởi hai gen chèn vào hệ gen của ngô:
- Gen amy797E được tổng hợp từ 3 gen mã hóa enzyme alpha-amylase của 3 chủng
vi sinh vật thuộc bộ cổ khuẩn ưa nhiệt Thermococcales. Gen amy797E mang chức
năng biểu hiện alpha-amylase chịu nhiệt trong mô nội nhũ hạt ngô sự kiện 3272.
- Gen Phosphomannose isomerase (pmi), mã hoá protein PMI có nguồn gốc từ vi
khuẩn gram dương Escherichia coli được sử dụng với vai trò là chỉ thị chọn lọc
trong quá trình biến nạp.
a) Gen amy797E
Protein AMY797E là protein tổng hợp bao gồm trình tự 19 axit amin tín hiệu
gamma-zein nội nhũ ở đầu N-terminal, trình tự alpha-amylase chịu nhiệt 797GL và kết
thúc bằng trình tự SEKDEL tín hiệu duy trì mạng lưới nội chất ở đầu C-terminal. Sự
cải biến này giúp tối ưu hóa biểu hiện và duy trì enzyme alpha-amylase chịu nhiệt
AMY797E trong nội nhũ hạt ngô. Toàn bộ vùng mã hóa của gen amy797E được tổng
hợp để tối ưu hóa sử dụng bộ ba ưu tiên cho ngô.
AMY797E là enzyme alpha-amylase chịu nhiệt xúc tác phản ứng bẻ mạch α-
1,4-glucosid khi thủy phân tinh bột thành các phân tử đường mạch ngắn như dextrin,
maltose và glucose.
b) Gen pmi
Ngô 3272 có chứa gen pmi (hay còn gọi là manA) từ E. coli, mã hóa cho
phosphomannose isomerase (PMI) một loại protein có trọng lượng phân tử 42,8 kDa và
gồm có 391 axit amin. PMI xúc tác chuyển hóa mannose 6-phosphate và fructose 6-
phosphate và sử dụng làm chỉ thị chọn lọc trong quá trình biến nạp gen ở nhiều loài
thực vật. Tế bào thực vật đã được biến nạp với gen pmi mã hóa cho PMI có thể sống
5
sót và sinh trưởng trên môi trường có chứa mannose là nguồn dinh dưỡng duy nhất.
Dưới các điều kiện tương tự, tế bào thực vật thiếu PMI tích lũy mannose-6-phosphate
và không sinh trưởng. PMI có mặt phổ biến trong tự nhiên và được tìm thấy ở cả sinh
vật nhân sơ và nhân thật, nhưng protein này chỉ có mặt trong một số loài thực vật.
3.
Ngô 3272 kiểm soát sâu đục rễ ngô đã được phê chuẩn cho phép làm thực phẩm
và thức ăn chăn nuôi lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 2007. Tính đến cuối năm 2015,
đã có 13 nước cho phép sử dụng ngô 3272 như sản phẩm truyền thống, cụ thể là: (1)
cho phép canh tác ở 2 quốc gia: Canada và Hoa Kỳ; (2) cho phép làm thực phẩm ở 12
quốc gia: Úc/New Zealand, Canada, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mexico, Philippines, Nam Phi, Nga, Đài Loan và Hoa Kỳ; (3) cho phép làm thức ăn
chăn nuôi tại 10 quốc gia: Canada, Trung Quốc, Colombia, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mexico, Philippines và Hoa Kỳ.
V. Đánh giá nguy cơ ảnh hưởng của thực vật biến đổi gen đối với con người và vật
nuôi
.
Mô t tóm t t các kh ă â c, gây d ng, gây b nh ho ng
i v i s c khỏ i n u s d ng làm th c phẩm.
Các nghiên cứu đánh giá nguy cơ ảnh hưởng của ngô biến đổi gen 3272 đối với
sức khỏe con người và vật nuôi được công ty Syngenta thực hiện tại những phòng
nghiên cứu tiên tiến trên thế giới. Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm các nội dung đánh giá
sự khác biệt về thành phần dinh dưỡng, khả năng gây độc, gây dị ứng, khả năng hình
thành chất mới khi sử dụng ngô biến đổi gen hoặc các sản phẩm của ngô biến đổi gen
làm thực phẩm hoặc thức ăn chăn nuôi. Tất cả các kết quả đạt được đều cho thấy ngô
3272 và các sản phẩm của nó có giá trị dinh dưỡng tương đương như ngô truyền thống
và an toàn cho sức khỏe con người và vật nuôi. Các nghiên cứu và kết quả được trình
bày tóm tắt dưới đây.
1. So sánh thành phần dinh dưỡng của ngô 3272 và ngô thông thường.
Lá và hạt ngô 3272 và ngô đối chứng không chuyển gen được thu thập từ 6-7
điểm trồng ngô đại diện cho các vùng sinh thái trồng ngô khác nhau ở Hoa Kỳ năm
2003-2004. Cây được tự thụ phấn bằng tay và khi bắp phát triển thì được che bằng túi
bao bắp để tránh thụ phấn chéo. Mẫu lá được thu ở giai đoạn R4 và hạt ngô được thu ở
giai đoạn R6. Tất cả các mẫu sau khi thu đều được bảo quản ở -20oC cho đến khi phân
tích. Phân tích thành phần dinh dưỡng trong lá và hạt ngô được tiến hành tại phòng thí
nghiệm Covance Laboratories, Inc., (Madison, WI, USA) và thực hiện theo hướng dẫn
của “Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế” (OECD, 2002). Tất cả các phân tích tuân
6
theo phương pháp đã được xuất bản và phê duyệt bởi Hiệp hội các Cộng đồng Phân
tích quốc tế (AOAC). Căn cứ vào độ ẩm của mỗi mẫu, thành phần phân tích được
chuyển đổi thành đơn vị tương ứng với trọng lượng khô.
Tóm tắt kết quả: Trong số các phân tích thành phần dinh dưỡng của lá và hạt
ngô đã thực hiện, hầu hết đều không phát hiện thấy sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
giữa ngô biến đổi gen sự kiện 3272 và ngô đối chứng không chuyển gen. Đối với các
thành phần dinh dưỡng so sánh thống kê giữa ngô 3272 và ngô không chuyển gen, bao
gồm cả các thành phần khác nhau có nghĩa thống kê đã quan sát được thì các giá trị
trung bình này đều nằm trong phổ tài liệu đã công bố đối với ngô lai thông thường
(OECD, 2002; ILSI, 2004; USDA, 2004; Souci, 1994). Dựa vào các số liệu nêu trên, có
thể kết luận rằng lá và hạt ngô biến đổi gen sự kiện 3272 có thành phần dinh dưỡng
không khác so với ngô không chuyển gen và ngô thông thường như đã mô tả trong tài
liệu. Ngoài ra, ngô sự kiện 3272 có thành phần dinh dưỡng tương đương với cả hai
giống ngô đối chứng sử dụng trong nghiên cứu này và với các giống ngô lai thương
phẩm có lịch sử sử dụng an toàn.
2. Đánh giá khả năng chuyển hóa các thành phần dinh dưỡng, đặc biệt là các chất
mới là sản phẩm biểu hiện của gen được chuyển
Protein AMY797E là enzyme α-amylase có tác dụng phân cắt tinh bột thành
những mạch nhỏ dễ hấp thu hơn. Enzyme amylase có mặt ở phổ biến trong hệ sinh thái
(từ động vật, thực vật đến vi sinh vật). Ở thực vật, amylase được tìm thấy trong hạt ngũ
cốc nảy mầm với hàm lượng cao giúp phân hủy tinh bột trong nội nhũ thành glucose
cung cấp năng lượng cho sự nảy mầm của phôi. Ở động vật, amylase có mặt trong nước
bọt, trong dịch tụy giúp phân giải các phân tử tinh bột lớn không hòa tan thành tinh bột
hòa tan (amylodextrin, erythrodextrin, achrodextrin – có kích thước từ 5-50 đơn vị
glucose) và cuối cùng là maltose và glucose. Do đó, việc có mặt enzyme AMY797E
trong ngô 3272 chỉ làm tăng khả năng chuyển hóa tinh bột thành các tiểu phần dễ hấp
thu hơn.
Protein PMI là enzyme phosphomannose isomerase sử dụng mannose-6-
phosphate là cơ chất đặc hiệu. Tuy nhiên, phân tích thành phần dinh dưỡng của ngô
biến đổi gen 3272 và ngô đối chứng cho thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa về
hàm lượng các chất dinh dưỡng. Do đó, PMI không gây ảnh hưởng đến việc chuyển
hóa các thành phần dinh dưỡng ở ngô biến đổi gen 3272.
Nghiên cứu gà thịt ăn thức ăn chế biến từ ngô 3272 trong 49 ngày để đánh giá
khả năng sống sót, tăng trọng và chuyển hóa thức ăn tới trọng lượng gà. Ba loại hạt ngô
được sử dụng để chuẩn bị thức ăn cho gà bao gồm: (1) hạt ngô sự kiện 3272; (2) hạt
ngô đối chứng cùng dòng không chuyển gen và (3) hạt của một giống thương phẩm ở
North Carolina (Hoa Kỳ). Ở cả 3 công thức, không thấy bất cứ tác dụng phụ nào xuất
hiện trong vòng đời của gà thịt. Không có tác động bất lợi nào từ ngô 3272 đến sinh
7
trưởng, phát triển, tỷ lệ tử vong của gà khi so sánh với đối chứng. Nhìn chung, thức ăn
gia cầm bổ sung ngô biến đổi gen 3272 làm tăng sinh trưởng của gà thịt ở mức độ tỷ lệ
chết thấp và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn tốt và không gây ảnh hưởng tiêu cực đến năng
suất thịt. Không phát hiện thấy tác động có hại nào đối với gà thịt sử dụng thức ăn từ
ngô 3272 so với ngô hạt đối chứng cùng dòng không chuyển gen. Kết quả của nghiên
cứu này hỗ trợ cho kết luận rằng ngô biến đổi gen 3272 an toàn như ngô thông thường
đối với sinh vật tiêu thụ.
Kết luận: Từ những kết quả đã nêu ở trên về (1) sự không thay đổi về các chu trình
chuyển hóa trong cây, (2) sự giống nhau về các thành phần dinh dưỡng so với ngô
thường, và (3) tốc độ sinh trưởng và phát triển bình thường của gà thịt khi cho ăn ngô
3272 so với gà cho ăn ngô đối chứng không chuyển gen, có thể kết luận rằng thành
phần dinh dưỡng của ngô biến đổi gen 3272 được chuyển hóa trong cơ thể người và
động vật hoàn toàn giống như ngô thông thường không chuyển gen.
3. Đánh giá khả năng gây độc tố của các chất mới là sản phẩm biểu hiện của gen
chuyển
Sự khác biệt giữa ngô 3272 và ngô truyền thống là sự có mặt của protein
AMY797E và protein PMI, do vậy khả năng gây độc từ ngô 3272 phụ thuộc vào khả
năng hình thành các sản phẩm có tiềm năng gây độc của gen chủ đích và gen chỉ thị
này. Hai protein này được đánh giá bằng nghiên cứu tin sinh học để xác định có hay
không axit amin tương đồng với protein gây độc, bên cạnh đó là các nghiên cứu độ độc
cấp tính trên chuột. Các kết quả nghiên cứu cho thấy protein AMY797E và PMI không
có trình tự tương đồng với các protein gây độc và chúng không ảnh hưởng bất lợi tới
chuột khi cho chúng ăn protein với liều cao. Cụ thể:
a) Protein amy797E
Trình tự protein này được so sánh với trình tự mới nhất trong cơ sở dữ liệu
Protein của NCBI (National Center for Biotechnology Information (NCBI) Entrez
Protein Database (NCBI, 2014)). Các kết quả so sánh cho thấy rằng không có bất kỳ
tương đồng có ý nghĩa với trình tự của bất kỳ protein gây độc nào ngoại trừ protein Cry
từ vi khuẩn Bt.
Nghiên cứu độc tính cấp tính qua đường miệng ở chuột đã chứng minh protein
AMY797E không gây độc cho chuột. Thí nghiệm được thực hiện khi dùng protein tái
tổ hợp từ vi sinh vật (Protein đích chiếm 42% w/w) trên 5 chuột đực và 5 con chuột cái
với liều cho ăn là 0 và 1511 mg AMY797E /kg trọng lượng cơ thể. Chuột được quan
sát trong suốt 14 ngày sau ăn. Theo dõi chết lâm sàng, trọng lượng cơ thể, và khả năng
tiêu hóa được theo dõi. Sau 14 ngày chuột bị giết để khám nghiệm tử thi. Các mẫu máu
tim được lấy để đánh giá bệnh lý lâm sàng, các cơ quan trên cơ thể được cân để tính
trọng lượng. Các mô đặc biệt được kiểm tra để phát hiện mô bệnh học. Khi cho chuột
ăn protein AMY797E với liều cao nhất (1511 mg/kg trọng lượng cơ thể chuột), không
8
có con chuột nào chết và không có dấu hiệu lâm sàng bất lợi đối với chuột thí nghiệm.
Không có ảnh hưởng bất lợi về tăng trọng, tiêu hóa, thông số huyết học, thông số hóa
học trong máu, trọng lượng các bộ phận cơ thể và bệnh lý. Với liều cho ăn cao nhất
cũng không có bất cứ tác dụng phụ nào xuất hiện.
b) Protein PMI
Kiểm tra trình tự của NCBI Entrez cho trình tự PMI (391 axit amin) cho kết quả
protein này không giống với bất kỳ trình tự của protein gây độc cho người và động vật
được biết đến.
Nghiên cứu độ độc cấp tính trên chuột được thực hiện bằng phương pháp cho ăn
qua đường miệng với thức ăn là protein tái tổ hợp từ vi sinh vật (60% là protein đích)
trên 7 con chuột đực và 6 con chuột cái với liều 0 và 3030 mg PMI /kg trọng lượng cơ
thể vào một ngày duy nhất. Chuột được quan sát trong suốt 14 ngày sau khi cho ăn. Với
liều độc cao nhất (3030 mg/kg trọng lượng cơ thể chuột), không có con chuột nào chết
và không có dấu hiệu lâm sàng bất lợi đối với chuột thí nghiệm. Không có ảnh hưởng
bất lợi về tăng trọng, tiêu hóa, thông số huyết học, thông số hóa học trong máu, trọng
lượng các bộ phận cơ thể và bệnh lý. Khi chuột ăn với liều cao nhất cũng không gây
bất cứ tác dụng phụ cho chuột thí nghiệm.
Kết luận: Protein AMY797E và PMI không có trình tự axit amin giống với các
protein gây độc đã biết. Hai protein này cũng không gây ra các tác dụng phụ khi cho
chuột ăn với liều cao nhất được dùng trong thí nghiệm đối với người và động vật. Do
đó, protein AMY797E và PMI trong ngô 3272 không có khả năng gây độc cho người
và động vật.
4. Đánh giá khả năng gây dị ứng của các chất mới là sản phẩm biểu hiện của gen
được chuyển
Để kiểm tra có hay không khả gây dị ứng của protein AMY797E và PMI trong
ngô 3272, công ty Syngenta Hoa Kỳ đã áp dụng phương pháp “tiếp cận trọng lượng”
theo hướng dẫn của Ủy ban Codex, FAO/WHO (CODEX, 2003). Các dữ liệu và thông
tin xem xét trong nghiên cứu gồm: nguồn gốc của protein mới tạo ra bởi gen đưa vào,
đánh giá liệu protein tạo ra có trình tự axit amin tương đồng với các protein gây dị ứng
đã biết, tính nhạy cảm của protein với các enzyme thủy phân trong đường tiêu hóa và
tính bền nhiệt của các protein này.
a) Ngu n g c c a protein m i
Protein AMY797E có nguồn gốc từ cổ khuẩn Thermococcales là là loài vi sinh
vật tồn tại được trong những điều kiện sống khắc nhiệt nhất. Cho đến nay, chưa có tài
liệu nào công bố cổ khuẩn Thermococcale / Pyrococcus là tác nhân liên quan đến khả
năng gây độc hay dị ứng. Protein AMY797E là enzyme α-amylase chịu nhiệt có tác
dụng xúc tác cho phản ứng thủy phân tinh bột thành các đường có mạch phân tử ngắn
9
hơn ở nhiệt độ cao. Về bản chất, AMY797E cũng giống như các loại amylase có nguồn
gốc từ động vật hoặc thực vật khác và chúng tồn tại trong cơ thể người, động vật và
thực vật mà không được coi là một chất gây dị ứng.
Protein PMI mã hóa bởi gen pmi phân lập từ vi khuẩn E. coli là vi khuẩn thường
trực trong đường ruột và không có báo cáo về khả năng gây dị ứng.
b) S ng v trình t axit amin c a protein m i v i các ch t gây d ng
Trình tự axit amin của protein được so sánh với các trình tự axit amin của
protein gây dị ứng bởi Trung Tâm Công nghệ Sinh Học Syngenta Hoa Kỳ (SBI). Khi
so sánh peptide gồm 80 axit amin protein PMI với các trình tự của protein trong cơ sở
dữ liệu, SBI sử dụng bằng thuật toán tìm kiếm FASTA (Pearson và Lipman, 1988).
Theo khuyên cáo của FAO/WHO (2001), bất kỳ đoạn peptide dài 80 axit amin của
protein nào có độ tương đồng lớn hơn 35% khi so sánh với trình tự của các chất gây dị
ứng thì được cho là một chất có tiềm năng gây dị ứng. Tuy nhiên, truy xuất từ phép so
sánh cho thấy các trình tự axit amin của AMY797E và PMI không tương đồng với trình
tự axit amin của các protein gây dị ứng nào. Do vậy protein AMY797E và PMI hay
ngô 3272 không có khả năng gây dị ứng cho người và động vật.
c) Kh ă â y in vitro c a protein
Thí nghiệm ủ protein AMY797E và PMI độc lập trong môi trường dịch dạ dày
nhân tạo (SGF) có chứa pepsin và môi trường dịch ruột nhân tạo (SIF) có chứa
pancreatin đều cho thấy: (1) protein AMY797E bị phân hủy hoàn toàn trong môi
trường SGF chỉ sau 5 phút nhưng không bị phân hủy ở môi trường SIF; tuy nhiên (2)
protein PMI bị phân hủy hoàn toàn trong cả 2 môi trường này. Do đó, protein
AMY797E và PMI dễ dàng bị phân hủy trong dịch dạ dày của động vật có vú dẫn đến
việc dễ dàng tiêu hóa các protein này.
d) Tính b n v i nhi t c a protein
Protein AMY797E là enzyme α-amylase xúc tác phản ứng thủy phân tinh bột ở
nhiệt độ cao ứng dụng trong công nghiệp sản xuất Ethanol từ ngô. Do đó, hoạt tính của
enzyme này được đánh giá ở giải nhiệt độ cao từ 25, 37, 65, 95, 120, 150, 170 và 200oC
trong 30 phút và đối chứng ủ ở 4oC trong 30 phút. Phản ứng ELISA được sử dụng để
xác định ảnh hưởng của nhiệt độ đối với khả năng phản ứng miễn dịch của protein này
với các kháng thể đặc hiệu. Kết quả phân tích ELISA cho thấy phản ứng miễn dịch của
AMY797E ở nhiệt độ 25, 37 và 65 o
C tăng so với đối chứng lần lượt 16, 10 và 19% so
với hoạt tính ở nhiệt độ đối chứng 4oC chứng tỏ hoạt tính enzyme tăng tại giải nhiệt độ
này. Tại mốc 95 o
C hoạt tính enzyme bắt đầu giảm 11% và chỉ còn 57% tại 120 o
C. Tại
nhiệt độ 150, 170 và 200oC enzyme này hòan toàn mất hoạt tính.
10
Tính bền nhiệt của protein PMI được đánh giá ở điều kiện nhiệt độ 25, 37, 65 và
95oC trong 30 phút và đối chứng ủ ở 4
oC trong 30 phút. Kết quả phân tích ELISA cho
thấy khi ủ ở nhiệt độ 25 và 37oC trong 30 phút không có ảnh hưởng đến phản ứng miễn
dịch của protein này. Tuy nhiên, ủ PMI ở 65oC làm giảm 94% phản ứng miễn dịch và
mất hoàn toàn phản ứng miễn dịch ở nhiệt độ 95oC .
e) H amy797E P I ỷ ỏ
trong lá
Giá trị trung bình hàm lượng protein AMY797E đạt cao nhất trong hạt ngô giai
đoạn chín sáp với đạt là 4,1% trong lượng protein tổng số. Theo kết luận của Fuchs và
Astwood (1996) về tỉ lệ chung của các chất gây dị ứng trong thực phẩm phải chiếm tỉ lệ
từ 2-80% protein tổng số thì hàm lượng AMY797E nằm trong khoảng đánh giá. Tuy
nhiên, AMY797E bản chất là enzyme α-amylase, là loại enzyme có mặt phổ biến trong
cơ thể người, động vật. Do đó, AMY797E không được coi là chất gây dị ứng.
Hàm lượng PMI đạt cao nhất trong lá ngô 3272 và chỉ chiếm khoảng 0,0012-
0,0014% so với protein tổng số có trong lá ngô 3272. Do đó, nếu theo kết luận của
Fuchs và Astwood thì protein PMI hoàn toàn không có nguy cơ gây dị ứng.
Kết luận về tiềm năng gây dị ứng của protein AMY797E và PMI: Thông tin và số
liệu cung cấp cho thấy hai protein này không có khả năng gây dị ứng khi được dùng
làm thực phẩm hay thức ăn cho động vật
5. Đánh giả khả năng hình thành các hợp chất mới khả năng gây bệnh hoặc các
tác động bất lợi khác đến sức khoẻ con người và vật nuôi
- Khả năng hình thành chất mới: Duy nhất 01 đoạn chèn T-DNA nguyên vẹn
được chèn vào hệ gen ngô 3272 và không có trình tự backbone của vector biến nạp
pMZ26 trong hệ gen ngô 3272. Điều này chứng minh rằng, ngoài protein đích
AMY797E và protein chỉ thị chọn lọc PMI, ngô 3272 không có khả năng hình thành
các hợp chất mới.
- Ngoại trừ việc có mặt của protein AMY797E và PMI, ngô 3272 hoàn toàn
giống với ngô thông thường. Hai protein này đã được chứng minh không có khả năng
gây độc hay gây dị ứng. Do vậy, ngô 3272 dù được sử dụng trực tiếp hay thông qua chế
biến cũng không có sự thay đổi nào về chất lượng và chức năng dinh dưỡng. Sự tích
lũy các chất mới trong cơ thể khi sử dụng ngô này hay việc mang các tác động bất lợi
tiềm ẩn là hoàn toàn không có.
11
VI. Đề xuất các biện pháp quản lý rủi ro của thực vật biến đổi gen đối với sức
khỏe con người và vật nuôi: Mô tả tóm tắt các biện pháp quản lý rủi ro (nếu có) được
đề xuất.
Ngô biến đổi gen mang sự kiện 3272 được tạo ra bằng sự thay đổi di truyền có
chủ đích nhằm đưa vào đặc tính một đặc mới kháng sâu hại rễ ngô. Các bằng chứng
khoa học đưa ra đã chứng minh được rằng, ngoài đặc tính có khả năng kháng sâu hại rễ
ngô thuộc bộ cánh cứng, thì các đặc tính còn lại cũng như thành phần các hợp chất và
giá trị dinh dưỡng của ngô 3272 không có sự khác biệt so với ngô truyền thống. Mặt
khác, các đánh giá về khả năng chuyển hóa các thành phần dinh dưỡng, khả năng gây
độc, gây dị ứng hay khả năng hình thành các hợp chất mới, khả năng gây bệnh hoặc tác
động bất lợi khác đến sức khỏe con người và vật nuôi đã khẳng định mức độ an toàn
của sự kiện biến đổi gen này. Vì vậy việc quản lý rủi ro đối sự kiện 3272 sau khi được
thương mại hóa sẽ được thực hiện tương tự như quản lý ngô truyền thống.
Khi ngô biến đổi gen sự kiện 3272 được cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện sử dụng
làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi và được phép thương mại ở Việt Nam, nhằm tuân
thủ các quy định hiện hành của nhà nước về quản lý và thương mại sản phẩm biến đổi
gen và đảm bảo mức độ an toàn của sản phẩm đối với sức khỏe con người và vật nuôi,
công ty TNHH Syngenta Việt Nam đề xuất chương trình quản lý rủi ro đối đối với sự
kiện ngô này như sau :
1. Quản lý tuân thủ :
Công ty đảm bảo tuân tuyệt đối tuân thủ các quy định của nhà nước về quản lý
và thương mại sản phẩm biến đổi gen, bao gồm :
- Nghị định số 69/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2010 về an toàn sinh học đối
với sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền và sản phẩm của sinh vật biến đổi gen ;
- Thông tư số 02/2014/TT-BNNPTNT ngày 24 tháng 1 năm 2014 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Quy định trình tự, thủ tục cấp và thu hồi Giấy xác
nhận thực vật biến đổi gen đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi ;
- Luật an toàn thực phẩm
- Quy định về sản xuất và kinh doanh sản phẩm tại Việt Nam
2. Giám sát an toàn sản phẩm biến đổi gen, xử lý sự cố và biện pháp khắc phục
Thường xuyên theo dõi thông tin trên thế giới và trong nước về tính an toàn của
sản phẩm đối với sức khỏe con người và vật nuôi.
Nếu có bằng chứng khoa học mới liên quan đến an toàn sức khỏe con người và
vật nuôi của sự kiện ngô biến đổi gen 3272, công ty TNHH Syngenta cam kết :
a) Lập tức báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
12
b) Tuân thủ yêu cầu về xử lý sự cố của các cơ quan chức năng theo đúng quy định hiện
hành của Chính phủ Việt Nam
c) Phối hợp cùng với các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp nhập khẩu phong
tỏa và thu hồi các sản phẩm đang có trên thị trường
d) Thông báo về sự cố trên các phương tiện thông tin đại chúng
3. Báo cáo thường niên:
Định kỳ hàng năm báo cáo bằng văn bản gửi tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn cập nhật thông tin khoa học liên quan đến an toàn làm thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi của ngô biến đổi gen sự kiện 3272. Cập nhật kết quả tin sinh học mới nhất trên cơ
sở dữ liệu về chất độc và chất gây dị ứng.
VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Các kết luận về tính an toàn của ngô biến đổi gen mang sự kiện 3272 đối với sức
khỏe con người và vật nuôi
- Không có sự khác biệt về thành phần dinh dưỡng giữa ngô 3272 và giống ngô cùng
dòng không chuyển gen;
- Khả năng chuyển hóa các thành phần dinh dưỡng có trong ngô 3272 và ngô thông
thường trong cơ thể người và động vật là hoàn toàn giống nhau khi được sử dụng làm
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi;
- Trình tự axit amin của hai protein mới AMY797E và PMI của ngô 3272 không giống
với bất kỳ trình tự protein gây độc cho người và động vật đã biết. Hai protein này
không gây tác dụng phụ trên cơ thể chuột khi cho ăn ở liều cao nhất được dùng trong
thí nghiệm. Do đó, cả hai protein này đều không có khả năng gây độc cho người và
động vật;
- Protein AMY797E và PMI không phải là protein gây dị ứng;
- Ngô 3272 không có khả năng gây bệnh hoặc tác động bất lợi đến sức khỏe người và
động vật.
Dựa trên các tài liệu, báo cáo khoa học cũng như từ các kết quả nghiên cứu về
tính an toàn của ngô biến đổi gen mang sự kiện 3272, công ty Syngenta kết luận rằng
“Ngô 3272 an toàn như các giống ngô không chuyển gen truyền thống”.
Ngô 3272 đã được cấp phép làm thực phẩm cho người và thức ăn cho động vật ở
13 quốc gia như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc …
13
2. Đề nghị
Căn cứ vào tính an toàn và lợi ích của ngô biến đổi gen 3272 có chứa enzyme
anpha-amylase AMY797E và protein chỉ thị chọn lọc PMI, công ty TNHH Syngenta
Việt Nam kính đề nghị bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, phê duyệt
và cấp chứng nhận an toàn và cho phép sử dụng các sản phẩm của ngô 3272 làm
thực phẩm, thức ăn chăn nuôi.
Trân trọng,