Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản
-
Upload
hoc-huynh-ba -
Category
Documents
-
view
36.012 -
download
2
description
Transcript of Chuyên đề văn bản và soạn thảo văn bản
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
CHUYÊN ĐỀ VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢN
Đà Nẵng, tháng
01.
2010
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢNI. Khái
niệm và chức năng
của văn bản
Văn bản (VB) là gì?1 Khái
niệm:
- Văn bản
nói
chung
là
một loại phương
tiện
ghi
tin và truyền
đạt
thông
tin bằng
ngôn
ngữ
(hay một loại kí hiệu)
nhất
định. VB được
hình
thành
trong
nhiều lĩnh
vực của
đời sống
xã
hội. Tùy theo từng
lĩnh
vực cụ
thể
của
đời sống
XH
và
QLNN (quản
lý
nhhà
nước) mà
VB có
những
nội
dung và
hình
thức thể
hiện
khác
nhau.
- Văn bản là sản phẩm của hoạt
động
giao
tiếp bằng
ngôn ngữ ở dạng
viết. Văn bản thường
là
tập hợp của
các
câu
có
tính
trọn vẹn về
nội
dung và
hoàn
chỉnh
về
hình
thức, có tính
liên
kết chặt chẽ
và
hướng
tới 1 mục tiêu giao tiếp nhất
định.
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢN2. Văn bản hành chính (VBCH) là gì ?VBHC là
VB của các cơ
quan
NN dùng
để
ghi
chép,
truyền
đạt
các
quyết
định
QL (quản
lý) và
các
thông tin cần thiết
cho
hoạt
động
QL theo
đúng
thể
thức,
thủ
tục, và
thẩm
quyền luật
định. -
Nói
cách
khác, Văn bản HC là phương
tiện
quan
trọng
để
đảm bảo
thông
tin cho
QL và
nó
phản
ánh
kết quả hoạt
động
của QL, đồng
thời nó truyền
đạt
ý chí, mệnh
lệnh
của
các
CQNN (cơ
quan
nhà
nước)
cho
cấp dưới. VBHC là
thông
tin giao
dịch
chính
thức giữa các cơ
quan,
tổ
chức với
nhau
hoặc giữa
NN với tổ
chức và công dân.
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng
của văn bản hành chính
1. Chức năng
thông
tin:Đây
là
chức năng
cơ
bản và tổng
quát
nhất của
VBHC nói
chung:
vì trong trong quá trình QL, điều
hành
và
trong
các
hoạt
động của
các
CQNN thì
VB là
phương
tiện truyền tải
thông
tin quan
trọng
nhất
để
điều hành bộ
máy
QLNN + Thông
tin về
chủ
trương
đường
lối của
Đảng
và
Nhà
nước liên
quan
đến mục tiêu và phương
hướng
hoạt
động
lâu
dài
của cơ quan; về
nhiệm vụ, mục tiêu hoạt
động
cụ
thể
của từng
cơ
quan
+ Ghi
lại
các
thông
tin quản lý+ Truyền
đạt
thông
tin QL từ
nơi này đến nơi
khác
trong
hệ
thống
QL hay từ
CQQLNN đến quần
chúng
nhân
dân.+ Giúp
cho
các
CQQLNN đánh
giá
các
thông
tin thu
được qua
các
hệ
thống
truyền
đạt
thông
tin khác.
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng
của văn bản
hành
chính
(QL).
2. Chức năng
quản lý-
VBHC là
phương
tiện hữu hiệu
trong
việc
truyền
đạt các quyết
định
QL cho
cấp dưới một cách thuận lợi
và
chính
xác.
-
VBHC giúp
cho
các
nhà
QL tổ
chức, điều hành tốt công
việc QL của mình và là cơ
sở để theo
dõi,
kiểm
tra, đánh
giá
cấp dưới
theo
quy
trình
quản lý. Nó là cơ
sở
pháp
lý
để
đề
ra
các
quy
định
đảm bảo
tính
pháp
luật.
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢNII. Chức năng
của văn bản
hành
chính
(QL).
3. Chức năng
pháp
lý-
VBHC là
phương
tiện
để
ghi
chép
và
truyền
đạt
các
quy
phạm
pháp
luật và để
điều tiết các mối
quan hệ
xã
hội bằng
hệ
thống
luật
pháp
đã
được văn bản
hóa, tạo
điều kiện phổ
biến rộng
rãi, đầy
đủ
chính xác
việc thực
thi
pháp
luật
và
QLNN, quan
hệ
xã
hội
được
nghiêm
minh, đúng
đắn và thống
nhất. - Nó là cơ
sở
pháp
lý
cho
các
quyết
định
QL và
các
thông
tin QL khác
của
các
CQNN từ
TW đến
địa phương.
VĂN BẢN VÀ
SOẠN THẢO VĂN BẢNIII. Hệ
thống
VB của nước
CHXHCNVN:
1. Văn bản
quy
phạm
pháp
luật:L, PL, L, NQ, NQLT, NĐ, QĐ, CT, TT, TTLT.
2. Văn bản cá biệt: (Quyết
định, chỉ
thị
thành
văn mang tính áp dụng
pháp
luật do cơ
quan, công
chức
NN có
thẩm quyền
ban hành
theo
trình
tự, thủ
tục
nhất
định..)
3. Văn bản
hành
chính
thông
thường: ( không
đưa
ra
các
quyết
định
quản lý, do đó
không
dùng
để
thay
thể
cho
văn bản
QPPL hoặc văn bản cá
biệt)
4.Văn bản quản lý lĩnh
vực
chuyên
môn: (các
loại hóa đơn, séc, các
loại
văn bằng, chứng
chỉ)
5. Các
loại hợp
đồng: (hợp
đồng
kinh
tế, hợp
đồng
dân
sự, hợp
đồng
lao
động)
6. Các
văn bản
chuyển
đổi: (Nội
quy, quy
chế, quy
định
của từng
cơ
quan
đơn
vị
trong
từng
lĩnh
vực QL cụ
thể)
Các
loại văn bản hành chính (VBHC)* Văn bản cá biệt: (VBCB) là
những
quyết
định
QL
thành
văn mang tính áp dụng
luật, do cơ
quan, công chức NN có thẩm
quyền
ban hành
theo
trình
tự, thủ
tục nhất
định
nhằm
đưa
ra
các
quy
tắc xử
sự
riêng đối với 1 hoặc
1 nhóm
đối tượng
cụ
thể, được chỉ
rõ,
hay nói
cách
khác
để
giải
quyết công việc cụ
thể. (VD: QĐ của GĐ Bưu
điện
khen
thưởng
các
đơn vị,
cá
nhân
có
thành
tích
cao
trong
công
tác
thi
đua
6 tháng
đầu năm
2008)
Văn bản cá biệt có 2 loại: Quyết
định
cá
biệt và Chỉ thị
cá
biệt.
Văn bản cá biệt: (VBCB)-Quyết
định
cá
biệt: (QĐ áp
dụng
PL)
là
VB được ban
hành
để
giải
quyết
các
công
việc cụ
thể đối với
đối tương
cụ
thể. Đó là những
quyết
định
lên
lương,
khen
thưởng, kỷ
luật, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, phê duyệt dự
án
…)
- Chỉ
thị
cá
biệt: là
VB được
ban hành
để
vận hành bộ máy
thuộc
quyền QL của
đơn vị
và
nhằm thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ
mà
NN giao
cho
đơn vị, có nội
dung chứa
đựng
các
mệnh
lệnh
của cấp trên giao
cho
cấp dưới
trong
việc thực hiện
pháp
luật và các nhiệm vụ
cụ
thể
phát
sinh
trong
quá
trình
QL
Văn bản
hành
chính
thông
thường: (VBHCTT)- Văn bản
HCTT là
loại văn bản mang tính thông tin, điều
hành
nhằm thực
thi
các
VBQPPL (văn bản
quy
phạm pháp
luật), hoặc
dùng
để
giải quyết
các
công
việc cụ
thể,
phản
ánh
tình
hình, giao
dịch, trao
đổi, ghi
chép
các
công việc trong các cơ
quan
tổ
chức. Nội
dung của
thông
tin
mang
tính
chất
điều hành tác nghiệp hành chính.VBHCTT không
đưa
ra
các
quyết
định
QL do đó
không
được dùng để
thay
thế
cho
VBQPPL hoặc VBCB-
Các
hình
thức
VBHCTT:
+ VBHC không
có
tên
loại: (công
văn hành chính)+ VBHC có
tên
loại: Điều lệ, quy
chế, quy
định, kế
hoạch,
quy
hoạch, chương
trình, chiến lược, đề
án, thông
báo, báo cáo…
Văn bản chuyên
môn-kỹ
thuật: (VBCM-KT)- Văn bản
chuyên
môn-kỹ
thuật là loại văn
bản
do một cơ
quan
QLNN trong
một lính vực nhất
định, được
NN ủy
quyền
ban
hành, dùng
để
QL một lĩnh
vực
điều
hành của bộ
máy
NN, loại
VB này
mang
tính
đặc
thù
và
thuộc thẩm quyền
ban hành
riêng của từng
cơ
quan
NN theo
quy
định
của
pháp
luật.(+ Giấy
khai
sinh: do cơ
quan
Tư
pháp
ban
hành; Bệnh
án: do Bộ
Y tế
ban hành…)
Sơ đồ
hệ
thống
VBQLNNSơ đồ hệ
thống
VBQLNN
CQLP (Đ13)
QHHP,Lt, NQ
UBTVQHPL,NQ
HĐNN các
cấpNQ
CQHP (Đ15,16)
CQHP-QLC
CP: NQ,NĐ
CTN: L, QĐ (Đ 14)
TTg: QĐ, CT
Các
Bộ:QĐCTTT
TTLT
CQHP-QLCM
CQTP (Đ17)
TANDTCHĐTPTANDTC
NQ
CA.TANDTCQĐCTTT
VKSNDTC
VTVKSNDTC
QĐCTTT
UBNN các
cấpQĐ. CT
QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ
BAN HÀNH VĂN BẢN
Quy
trình
soạn thảo
và
ban hành
VB là
trình tự
các
bước
được sắp xếp khoa học mà cơ
quan
QLNN nhất thiết phải tiến
hành
trong công
tác
soạn thảo
và
ban hành
văn bản
theo
đúng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt
động
(4 bước)
- Chuẩn bị- Lập
đề
cương, viết bản thảo
-
trình
duyệt, ký
văn bản-
Hoàn
thiện thủ
tục
hành
chính
để
ban hành
VB
QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ
BAN HÀNH VĂN BẢN
Bước 1: chuẩn bị-
Phân
công
soạn thảo: cơ
quan
đơn vị
hoặc cá
nhân
soạn thảo-
Xác
định
mục
đích
ban hành
VB, đối tượng
và
phạm vi áp dụng
của VB-
Xác
định
tên
loại VB
-
Thu thập và xử
lý
thông
tin
QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ
BAN HÀNH VĂN BẢNBước 2: lập
đề
cương
và
viết bản thảo
- Lập
đề
cương:+ Đề
cương
VB là
bản trình bày những
điểm cốt yếu dự định
thể
hiện
ở
nội
dung VB+ Đề
cương
VB được
xây
dựng
trên
cơ
sở
những
vấn
đề
được xác
định
trong
mục
đích
và
giới hạn của VB+ Có
thể
XD đề
cương
chi tiết, hoặc sơ
lược
- Viết bản thảo:+ Dùng
lời văn, câu
chữ để cụ
thể
hóa
những
ý tưởng, những
dự
kiến
được
xác
lập
ở đề cương+ Khi
viết bản thảo, cần phải
bám
sát
đề
cương, phân
chia
dung
lượng
trong
từng
chương, mục, đoạn cho hợp
lý. Sử
dụng
linh hoạt các từ, cụm từ, liên
kết các câu, đoạn
để
VB trở
thành
một
thể
thống
nhất, trọn vẹn về
nội
dung và
hình
thức.+ Kiểm tra, rà
soát
bản thảo: kiểm tra bố
cục nội
dung: đã
lôgic
chưa, đầy
đủ
các
ý cần trình bày chưa, các
ý trình
bày
đã
phù
hợp với mục
đích
ban hành
VB hay chưa, ý trọng
tâm
của VB đã nổi
bật
hay chưa.+ Kiểm tra về
thể
thức VB, về
ngôn
ngữ
diễn
đạt và trình bày
QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ
BAN HÀNH VĂN BẢNBước
3: trình
duyệt, ký
văn bản
- Cơ
quan, đơn vị
soạn thảo VB trình hồ
sơ
trình
duyệt dự
thảo VB lên
cấp
trên
(tập thể
hoặc
cá
nhân) để
xem
xét
thông
qua.
- Hồ
sơ
trình
duyệt
bao
gồm các
giấy tờ
sau:+ Tờ
trình
hoặc phiếu trình dự
thảo VB
+ Bản dự
thảo+ VB thẩm
định
(nếu có)
+ Bản tập hợp ý kiến tham gia (nếu có)+ Các
văn bản giấy tờ
khác
liên
quan
(nếu có)
Trường
hợp
không
có
hồ
sơ
trình
duyệt thì phải trực tiếp tường trình
với thủ
trưởng
về
VB
* Đối với
VB thông
qua theo
chế độ tập thể
và QĐ theo
đa số: các thành
viên
dự
họp phải
đúng
thành
phần, có
đủ
tư
cách
và
thẩm
quyền. VB được
thông
qua khi
đảm bảo số
phiếu
theo
quy
định của PL.
* Đối với VB được
thông
qua theo
chế độ một thủ
trưởng: trên
cơ sở
bàn
bạc, tìm
hiểu, thống
nhất ý kiến với ban lãnh đạo, thủ
trưởng
xem
xét
ký
ban hành
và
phải chịu
trách
nhiệm pháp lý về VB mình
đã
ký.
QUY TRÌNH SOẠN THẢO VÀ
BAN HÀNH VĂN BẢNBước
4: hoàn
thiện thủ
tục
hành
chính
để
ban hành
VB (thuộc
nhiệm vụ
của
cán
bộ
văn thư)- Ghi số, ngày
tháng
năm
ban hành
VB
- Vào sổ
VB đi, sổ
lưu VB- Kiểm tra lần cuối về
thể
thức VB
- Nhân VB đủ
số
lượng
ban hành-
Đóng
dấu cơ
quan
-
Bao
gói
và
chuyển giao VBVới những
VB quan
trọng, ban hành
kèm
theo
phiếu
gửi VB, cần tiếp tục
theo
dõi
sự
phản hồi của cơ quan
nhận VB.
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHC1. Soạn thảo
quyết
định
cá
biệt:
-
Về
thể
thức: gồm
9 thành
phần cơ
bản và một số
thành
phần bổ
sung (tên
người
đánh
máy, số
lượng
ban hành). Trình
bày
theo
quy
định
của
1 VBHC có
tên
loại.-
Về
bố
cục: gồm 2 phần
+ Phần mở đầu: nêu
các
căn cứ để ban hành
quyết
định+ Phần nội
dung: nêu
các
quy
định
(được trình bày dưới dạng
điều: từ
2-5 điều)* Điều 1: quy định
thẳng
vào
vấn
đề
chính
(đã
được nêu ở
phần trích yếu nội
dung, nhưng
cần
được
trình
bày
cụ
thể hơn)
* Điều
2, và
các
điều tiếp theo quy định
những
hệ
quả
pháp lý
nãy
sinh
từ điều 1
* Điều cuối
cùng: quy
định
hiệu lực và các đối tượng
thi hành
quyết
định. (xem
phụ
lục I)
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHC2. Soạn thảo công văna.
Yêu
cầu: -
Mỗi
công
văn chỉ
chứa
đựng
1 chủ đề
và
chỉ
nêu
một sự
vụ
nhất
định-
Công
văn phải viết ngắn gọn, súc
tích, rõ
ràng, ý
tưởng
phản ánh sát với chủ đề.-
Ngôn
ngữ
sử
dụng
trong
công
văn phải
khoa
học,
lịch
sự, nghiêm
túc, có
tính
thuyết phục- Phải
đúng
với thể
thức
quy
định
của
pháp
luật, đặc
biệt phải có phần trích yếu nội
dung
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHC2. Soạn thảo công văn.b. Bố
cục của
công
văn
- Phải có quốc hiệu và tiêu ngữ-
Tác
giả
ban hành
(tên
cơ
quan
chủ
quản và tên cơ
quan
ban
hành
văn bản)- số
và
ký
hiệu của
công
văn
-
Địa danh và ngày tháng năm
ban hành- Chủ
thể
nhận công văn
- Trích yếu nội
dung của công văn- Nội
dung của công văn
- chữ
ký
và
đóng
dấu, họ
và
tên
người
ký
công
văn- Nơi gửi
công
văn
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHCc. Kỹ
thuật soạn thảo nội
dung của công văn
- Viện dẫn (Phần mở đầu): phải
nêu
rõ
lý
do tại sao phải ban hành
CV
đó. (Lý
do hoặc cơ
sở để ban hành
CV)
-
Nội
dung chính: Phải nêu sát với chủ đề hoặc những
vấn đề
đã
được nêu trong viện dẫn. Tùy
theo
từng
loại chủ
đề, công
văn có những
cách
viết
cho
phù
hợp. Trước
khi viết phải xin ý kiến của lãnh đạo
để
được hướng
dẫn về
nội
dung công
văn. Sắp xếp ý nào nêu trước, ý nào
nêu sau
để
công
văn thể
hiện tính logic. Văn
phong
phải
phù
hợp với từng
loại công việc và cần phải có lập luận chặt chẽ
các
vấn
đề
đưa ra. (CV cám
ơn: nhẹ
nhàng, chân
tình, CV đề
xuất: phải
nêu
lý
do xác
đáng, CV tiếp
thu
ý kiến: thể
hiện sự
mềm dẻo, khiêm
tốn, CV từ
chối: thẻ
hện sự
lịch
sự, phải có lời
động
viên
an ủi..)
- Kết
thúc: phải ngắn gọn và chủ
yếu
để
nhấn mạnh
chủ đề và
xác
định
trách
nhiệm của người thực hiện và có
những
công
văn lưư
ý cần phải có lời chào lịch
sự
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHC3. Phương
pháp
soạn thảo báo cáo
a. Yêu
cầu: khi
soạn thảo
báo
cáo
phải
đảm bảo tính trung thực
và
chính
xác, phải phản
ánh
trung
thực
và
khách
quan.
Nêu
đúng
ưu, khuyết
điểm, những
việc cần giải quyết và những
việc còn tồn
đọng, không
được thiên vị, thêm
bớt,
bóp
méo
sự
thật.- Nội
dung báo
cáo
phải cụ
thể, có
trọng
tâm, trọng
điểm. Yêu
cầu này đặt ra vấn
đề
là
không
được viết
chung
chung, thu thập và xữ
lý
số
liệu, chọn lọc tư
liệu
đưa
vào
báo
cáo
phải
tuyệt
đối
chính
xác.-
Báo
cáo
phải kịp thời: thể
hiện ý thức tổ
chức kỷ
luật và tôn
trọng
cấp
trên, có
trách
nhiệm với
công
việc, để
lãnh
đạo nắm
được
thông
tin một
cách
kịp thời và đưa ra những
quyết
định
chính
xác.
3. Phương
pháp
soạn thảo báo cáob. Phương
pháp
* Chuẩn bị: - Phải xác định
mục
đích, yêu
cầu của bản
báo
cáo
đó.
- Phải xây dựng
đề
cương
khách
quan
của
báo
cáo:+ Đánh
giá
tình
hình, mô
tả
sự
việc … đã xẩy ra
+ Phân
tích
nguyên
nhân, đánh
giá
tình
hình, xác
định
những công
việc cần phải
được tiếp tục
+ Đề
ra
phương
hướng
và
những
biện pháp tổ
chức hoạt
động-
Thu thập số
liệu
để
đưa
vào
báo
cáo
- Xử
lý
tư
liệu và số
liệu- Dự
kiến
đề
xuất
Phương
pháp
soạn thảo một
số
loại VBHC
Phương
pháp
soạn thảo báo cáob. Phương
pháp
* Xây
dựng
dàn
bài: - Mở đầu: Nêu
điều kiện và hoàn cảnh
ảnh
hưởng
đến việc
thực hiện.-
Nội
dung:
+ Đánh
giá
những
việc làm được và chưa làm được+ Nêu
ra
những
khuyết
điểm
trong
quá
trình
thực hiện
+ Đánh
giá
khái
quát
và
rút
ra
những
bài
học
kinh
nghiệm-
Kết luận:
+ Phương
hướng
và
những
mục tiêu phấn
đấu+ Những
nhiệm vụ để khắc phục thiếu
sót, khuyết
điểm
+ Các
biện pháp tổ
chức thực hiện+ Những
ý kiến
đề
xuất
để
kiến
nghị đối với cấp trên
+ Nêu
lên
những
triển vọng
sắp tới
Phương
pháp
soạn thảo báo cáob. Phương
pháp
* Viết dự
thảo
báo
cáo: -
Nên
dùng
ngôn
ngữ
phổ
thông
- Cần nêu những
sự
kiện
kèm
theo
số
liệu
đánh
giá- Có thể
trình
bày
theo
kiểu mẩu, sơ đồ
-
Hành
văn
trong
báo
cáo
phải mạch
lạc, rõ
ràng, lôgic, chặt chẽ, tránh
hiện tượng
phô
trương
sáo
rỗng. Nếu
báo
cáo
chuyên
đề
phải
kèm
theo
bản phụ
lục. Nếu báo cáo quan trọng
thì
cần phải tổ
chức lấy ý kiến
thông
qua
* Trình
lãnh
đạo thông qua:- Phải có sự
xét
duyệt của lãnh đạo trước khi gửi báo cáo hoặc
trước khi trình bày
Phương
pháp
soạn thảo một số
loại VBHC4. Soạn thảo biên bảna. Yêu
cầu của biên bản:
- Số
liệu và sự
kiện phải
chính
xác, cụ
thể.- Ghi chép phải
trung
thành, đầy
đủ, không
suy
diễn
chủ
quan. - Ghi chép phải có trọng
tâm, trọng
điểm
-
Thủ
tục phải chặt chẽ, thông
tin có
độ
tin cậy cao, nếu có tang vật hoặc vật chứng
phải
kèm
theo
biên
bản-
Đòi
hỏi trách nhiệm
cao
của người lập biên bản và
những
người ký xác nhận.
Phương
pháp
soạn thảo biên bảnb. Cách
xây
dựng
bố
cục của biên bản:
- Tuân theo thể
thức của một văn bản
hành
chính. (không
có
số
và
ký
hiệu)
-
Tên
của biên bản và trích yếu nội
dung-
Ngày
tháng
năm, giờ
phút
-
Địa
điểm-
Thành
phần tham dự
- Nội
dung: ghi
đầy
đủ
theo
trình
tự- Phần kết
thúc: ghi
ngày, giờ
kết
thúc, chữ
ký
của
người ghi (lập) biên
bản và chữ
ký
của người xác nhận (nhân chứng: ký
nếu có)
THỂ
THỨC VĂN BẢN1. Quốc hiệuQuốc hiệu ghi trên văn bản
bao
gồm 2 dòng chữ: “Cộng
hoà
xã
hội
chủ
nghĩa Việt Nam” và “Độc lập - Tự
do -
Hạnh
phúc”.2. Tên
cơ
quan, tổ
chức
ban hành
văn bản (VB)
Tên
cơ
quan, tổ
chức
ban hành
VB bao
gồm tên của cơ
quan, tổ chức
ban hành
VB và
tên
của cơ
quan, tổ
chức chủ
quản cấp trên
trực tiếp (nếu
có) căn cứ
quy
định
của pháp luật hoặc căn cứ
văn bản thành lập, quy
định
tổ
chức bộ
máy
của cơ
quan, tổ
chức có
thẩm quyền, trừ
trường
hợp
đối với các Bộ, cơ
quan
ngang
Bộ, cơ
quan
thuộc
Chính
phủ, Văn
phòng
Quốc hội, Hội
đồng
dân
tộc và các Ủy Ban của
Quốc hội. Tên
của cơ
quan, tổ
chức
ban hành
văn bản
được ghi đầy
đủ
theo
tên
gọi chính thức căn cứ
VB thành
lập, quy
định
tổ
chức bộ
máy, phê
chuẩn, cấp giấy
phép
hoạt
động
hoặc
công
nhận tư
cách
pháp
nhân
của cơ
quan, tổ
chức có thẩm quyền; tên
của cơ
quan, tổ chức chủ
quản cấp trên trực tiếp có thể
viết tắt những
cụm từ
thông
dụng
như: uỷ
ban nhân
dân
(UBND), Hội
đồng
nhân
dân (HĐND).
3. Số, ký
hiệu của văn bảna. Số, ký
hiệu của văn bản
quy
phạm
pháp
luật
Số, ký
hiệu của văn bản
quy
phạm
pháp
luật
do Quốc hội, Uỷ
ban thường
vụ
Quốc hội và các cơ
quan
nhà
nước có thẩm
quyền khác ở
Trung
ương
ban hành được thực hiện
theo
quy
định
tại
Điều 3 của Nghị
định
số
101/CP ngày
23 tháng
9 năm
1997 của Chính
phủ
quy
định
chi tiết
thi
hành
một số điều của
Luật
Ban hành
văn bản quy phạm
pháp
luật và hướng
dẫn tại
Thông
tư
này, cụ
thể
như
sau:
- Số
của văn bản quy phạm
pháp
luật bao gồm số
thứ
tự đăng ký
được
đánh theo từng
loại văn bản
do cơ
quan
ban hành
trong
một năm và năm ban hành văn bản
đó. Số được ghi bằng
chữ
số ả - rập, bắt
đầu từ
số
01 vào
ngày
đầu năm và
kết
thúc
vào
ngày
31 tháng
12 hàng
năm; năm ban hành phải ghi đầy
đủ
các
số, ví
dụ: 2004, 2005,
- Ký hiệu của văn bản quy phạm
pháp
luật bao gồm chữ
viết tắt tên loại văn bản theo Bảng
chữ
viết tắt tên loại văn bản
và
bản
sao
kèm
theo
Thông
tư
này
(Phụ
lục
I) và
chữ
viết tắt tên cơ
quan
hoặc chức danh nhà nước (Chủ
tịch
nước,
Thủ
tướng
Chính
phủ) ban hành
văn bản.- Số, ký
hiệu của văn bản
quy
phạm
pháp
luật do Hội
đồng
nhân
dân, Uỷ
ban nhân
dân
ban hành
được thực hiện theo quy
định
tại
Điều 7 của Luật Ban hành văn bản
quy
phạm
pháp
luật của Hội
đồng
nhân
dân, Uỷ
ban nhân
dân
số 31/2004/QH11 ngày
03 tháng
12 năm
2004.
b. Số, ký
hiệu của văn bản hành chính* Số
của văn bản hành chính là số
thứ
tự đăng
ký
văn bản do
cơ
quan, tổ
chức
ban hành
trong
một năm. Tuỳ
theo
tổng số
văn bản và số
lượng
mỗi loại văn bản hành chính được
ban hành, các
cơ
quan, tổ
chức quy định
cụ
thể
việc
đăng ký
và
đánh
số
văn bản. Số
của văn bản
được ghi bằng
chữ
số ả - rập, bắt
đầu từ
số
01 vào
ngày
đầu năm và kết thúc vào
ngày
31 tháng
12 hàng
năm.
* Ký
hiệu của văn bản hành chính- Ký hiệu của quyết
định
(cá
biệt), chỉ
thị
(cá
biệt) và
của các
hình
thức văn bản có tên loại khác bao gồm chữ
viết tắt tên
loại văn bản theo Bảng
chữ
viết tắt tên loại văn bản và
bản
sao
kèm
theo
Thông
tư
này
(phụ
lục
I) và
chữ
viết tắt tên
cơ
quan, tổ
chức hoặc chức danh nhà nước
ban hành
văn bản. Ví dụ:
Quyết
định (QĐ), Chỉ
thị
(CT)…
- Ký hiệu của công văn bao gồm chữ
viết tắt tên cơ
quan, tổ chức hoặc chức danh nhà nước
ban hành
công
văn và chữ
viết tắt tên đơn vị
soạn thảo hoặc chủ
trì
soạn thảo
công
văn đó (nếu
có), ví
dụ:
Công
văn của
Chính
phủ
do Vụ
Hành
chính
Văn
phòng
Chính phủ
soạn thảo: Số:.../CP –
HC;
Công
văn của Thủ
tướng
Chính
phủ
do Vụ
Văn xã Văn
phòng Chính
phủ
soạn thảo: Số:.../TTg
–
VX;
Công
văn của Bộ
Xây
dựng
do Cục quản lý nhà Bộ
Xây
dựng soạn thảo: Số:.../BXD –
QLN;
Công
văn của
UBND tỉnh...do tổ
chuyên
viên
(hoặc thư
ký) theo
dõi
lĩnh
vực văn hoá – xã hội soạn thảo: Số:.../ UBND
–
VX;Công
văn của Sở
Công
nghiệp tỉnh...do Văn
phòng
Sở
soạn
thảo: Số:.../SCN –
VP.Chữ
viết tắt tên cơ
quan, tổ
chức ban hành văn bản và chữ
viết
tắt tên các đơn vị
trong
mỗi cơ
quan, tổ
chức phải
được quy định
cụ
thể, bảo
đảm ngắn ngọn, dễ
hiểu.
4. Địa
danh
và
ngày, tháng, năm ban hành
văn bảna. Địa danh ghi trên văn bản là tên gọi
chính
thức của
đơn vị
hành
chính
(tên
riêng
của tỉnh, thành
phố
trực thuộc
Trung
ương, huyện, quận, thị
xã, thành
phố
thuộc tỉnh, xã, phường, thị
trấn) nơi cơ
quan, tổ
chức đóng
trụ
sở, đối với những
đơn vị
hành
chính
được
đặt
tên
theo
tên
người hoặc bằng
chữ
số
thì
phải
ghi tên
gọi
đầy
đủ
của
đơn vị
hành
chính
đó, cụ
thể
như
sau:-
Địa danh ghi trên văn bản của các cơ
quan, tổ
chức
Trung
ương
là
tên
của tỉnh, thành
phố
trực thuộc Trung
ương
hoặc tên của
thành
phố
thuộc tỉnh
(nếu
có) nơi cơ
quan, tổ
chức
đóng
trụ
sở.
-
Địa
danh
ghi
trên
văn bản của
các
cơ
quan, tổ
chức cấp tỉnh:+ Đối với
các
thành
phố
trực thuộc Trung ương; là
tên
của
thành
phố
trực thuộc Trung ương, ví
dụVăn bản của
UBND thành
phố
Hà
Nội và của các sở, ban,
ngành
thuộc
thành
phố: Hà
Nội,...; của
UBND thành
phố Hồ
Chí
Minh
và
của các sở, ban ngành
thuộc
thành
phố:
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh
…,+ Đối với các tỉnh: là
tên
của thị
xã, thành
phố
thuộc tỉnh
hoặc
của huyện nơi cơ
quan, tổ
chức
đóng
trụ, sở-
Địa danh ghi trên văn bản của các cơ
quan, tổ
chức cấp
huyện
là
tên
huyện, quận, thị
xã, thành
phố
thuộc tỉnh-
Địa
danh
ghi
trên
văn bản của HĐND, UBND và
của các tổ
chức cấp xã là tên của xã, phường, thị
trấn
đó-
Ngày, tháng, năm ban hành văn bản
quy
phạm
pháp
luật
khác
và
văn bản
hành
chính
là
ngày, tháng, năm văn bản được ký ban hành.
5. Tên
loại và trích yếu nội
dung của văn bảna. Tên
loại văn bản là tên của từng
loại văn bản
do cơ
quan, tổ
chức
ban hành. Khi
ban hành
văn bản quy phạm
pháp
luật và văn bản
hành
chính, đều phải
ghi
tên
loại, trừ
công
văn.b. Trích
yếu nội
dung của văn bản là một
câu
ngắn
gọn hoặc một cụm từ, phản
ánh
khái
quát
nội
dung chủ
yếu của văn bản
6. Nội
dung văn bảna. Nội
dung văn bản
Nội
dung văn bản
là
thành
phần chủ
yếu của một văn bản, trong
đó, các
quy
phạm
pháp
luật (đối với văn bản quy
phạm
pháp
luật), các
quy
định
được
đặt
ra; các
vấn
đề, sự việc
được
trình
bày
Nội
dung văn bản phải bảo
đảm những
yêu
cầu cơ
bản sau:- Phù hợp với
đường
lối, chủ
trương, chính
sách
của
Đảng
phù
hợp với qui định
của pháp luật- Các qui phạm
pháp
luật, các
qui định
hay các
vấn
đề, sự
vciệc phải
được trình bày ngắn gọn, rõ
ràng, chính
xác;- Sử
dụnh
ngôn
ngữ
viết, cách
diễn
đạt
đơn giản dễ
hiểu;
-
Dùng
từ
ngữ
phổ
thông; không
dùng
từ
ngữ địa phương
và
từ ngữ
nước ngoài nếu
không
thực sự
cần thiết. Đối với thuật
ngữ
chuyên
môn
cần xác định
rõ
nội
dung thì
phải
được giải thích
trong
văn bản;
b. Bố
cục của văn bảnTuỳ
theo
thể
loại và nội
dung, văn bản có thể
có
phần
căn cứ
pháp
lý
để
ban hành, phần mở đầu và có thể được bố
cục theo phần, chương, mục, điều, khoản,
điểm hoặc
được phần
chia
thành
các
phần, mục từ lớn
đến nhỏ
theo
một trình tự
nhất
định.
•
Văn bản hành chính có thể được bố
cục như
sau:- Quyết
định
(cá
biệt); theo
điều, khoản, điểm; các
quy
chế( quy
định) ban hànhkèm
theo
quyết
định; theo chương, mục, điều, khoản, điểm;
- Chỉ
thị( cá
biệt); theo
khoản, điểm;-
Các
hình
thức văn bản
hành
chính
khác; theo
phần,
mục, khoản, điểm
7. Chúc
vụ: họ
tên
và
chữ
ký
của người có thẩm quyềna/ Việc
ghi
quyền hạn của người ký được thực hiện như
sau:- Trường
hợp ký thay mặt tập thể
thì
phải ghi chữ
viết tắt
"TM" (thay
mặt) vào
trước tên tập thể
lãnh
đạo hoặc tên cơ
quan, tổ
chức;- Trường
hợp ký thay người
đứng
đầu cơ
quan, tổchức
thì
phải ghi chữ
viết tắt
"KT" (ký
thay) vào
trước chức vụ
của người
đứng
đầu.- Trường
hợp ký thừa lệnh
thì
phải ghi chữ
viết tắt
"TL" (thừa lệnh) vào
trước
chức vụ
của người
đứng
đầu cơ
quan, tổ
chức;-
Trường
hợp ký thừa uỷ
quyền
thì
phải ghi chữ
viết tắt
"TUQ" (thừa uỷ
quyền) vào
trước chứuc
vụ
của người
đúng
đầu cơ
quan, tổ
chứcb. Chức vụ
của người kýChức vụ
ghi
trên
văn bản là chức danh lãnh đạo
chính
thức của người ký văn
bản trong cơ
quan, tổ
chức; chỉ
ghi
chức danh như
Bộ
trường
(Bộ
trưởng, Chủ
nhiệm), Thứ
trưởng, Chủ
tịch, Phó
Chủ
tịch, Giám
đốc, Phó
Giám
đốc
vv.. không
ghi
lại tên cơ
quan, tổ
chức, ban hành; văn bản ký thừa lệnh, thừa uỷ
quyền và những
trường
hợp cần thiết khác do các cơ
quan, tổ
chức
quy
định
cụ
thể.
c. Họ
và
tên
gồm họ, tên
đệm (nếu
có) và
tên
của người ký văn bản. Đối với văn
bản
quy
phạm pháp
luật và văn bản
hành
chính, trước họ
tên
của người ký, không
ghi
học hàm, học vụ
và
các
danh
hiệu danh dự
khác, trừ
văn bản của các
tổ
chức sự
nghiệp giáo dục, y tế, nghiên
cứu khoa học, trong
những
trường
hợp
cần thiết, có
thể
ghi
thêm
học hàm, học vị
8. Dấu của cơ
quan, tổ
chứcViệc
đóng
dấu trên văn bản
được thực hiện
theo
quy
định
tại Nghị
định
số 110/2004/NĐ-CP ngày
08 tháng
4 năm
2004 của Chính phủ
về
công
tác
văn thư
và
quy
định
của pháp luật có liên quan
9. Nơi nhậnNơi nhận xác định
những
cơ
quan, tổ
chức, đơn vị
và
cá
nhân
văn
bản với mục
đích
và
trach
snhiệm cụ
thể
như để kiểm tra, giám sát; để
xem
xét, giải quyết; để
thi
hành; để
trao
đổi
công
việc; để
biết và để
lưuNơi nhận phải
được xác định
cụ
thể
trong
văn bản. Căn cứ
quy
định
của pháp luật; căn cứ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan; căn cứ
yêu
cầu giải quyết công việc, đơn vị
hoặc cá nhân
soạn thảo hoặc chủ
trì
soạn thảo
có
trách
nhiệm để
xuất những
cơ quan, tổ
chức, đơn vị
và
cá
nhân
nhận văn bản trình người ký văn
bản quyết
định.Đối với văn bản chỉ
gửi cho một số đối tượng
cụ
thể
thì
phải ghi tên
từng
cơ
quan, tổ
chức, cá
nhân
nhận văn bản; đối với văn bản được gửi cho một hoặc một số
nhóm
đối tượng
nhất
định
thì
nơi
nhận
được
ghi
chung
10. Dấu chỉ
mức
độ
khẩn, mậta. Dấu chỉ
mức
độ
khẩn, mật
Việc xác định
mức
độ
khẩn của văn bản
được thực hiện như sau:
- Tuỳ
theo
mức
độ
cần
được
chuyển
phát
nhanh, văn bản
được xác
định
độ
khẩn theo ba mức sau: hoả
tốc, thượng
khẩn
hoặc khẩn;- Khi soạn thảo văn bản có tính chất khẩn, đơn vị
hoặc cá nhân
soạn thảo văn bản
đề
xuất mức
độ
khẩn trình người ký văn bản quyết
định
Dấu
độ
khẩn phải
được khắc sẵn theo hướng
dẫn tại
điểm k khoản 2 Mục
III của
Thông
tư
này. Mực
dùng
để
đóng
dấu
độ
khẩn dùng mực màu đỏ
tươi.b. Dấu chỉ
mức
độ
mật
Việc xác định
và
đóng
dấu
độ
mật (tuyệt mật, tối mật hoặc mật), dấu thu hồi
đối với văn bản có nội
dung bí
mật nhà
nước
được thực hiện theo quy định
của pháp luật về
bảo vệ bí
mật nhà nước.
11. Các
thành
phần thể
thức
khácCác
thành
phần thể
thức khác của văn bản
bao
gồm:
a, Địa chỉ
cơ
quan, tổ
chức; địa chỉ
E -
Mail; địa chỉ
trên
mạng (Website); số điện thoại, số
Telex, số
Fax đối với công văn, công
điện, giấy giới thiệu, giấy mời, phiếu gữi, phiếu chuyển
để
tạo
điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ.
b, Các
chỉ
dẫn về
phạm vi lưu hành như
"Trả
lại
sau
khi
họp (hội nghị)", "xem
xong
trả
lại", "lưu hành nội bộ" đối với những
văn
bản có phạm vi, đối tượng
phổ
biến, sử
dụng
hạn chế
hoặc chỉ
dẫn về
sự
thảo văn bản như
"dự
thảo" hay "dự
thảo lần...". Các
chỉ
dẫn trên có thể được
đánh
máy
hoặc
dùng
con dấu khắc sẵn
để đóng
lên
văn bản hoặc dự
thảo văn bản;
c, ký
hiệu người
đánh
máy
và
số
lượng
bản phát hành đối với những bản cần
được quản lý chặt chẽ
về
số
lượng
bản
phát
hành;
d, Trường
hợp văn bản có phụ
lục
kèm
theo
thì
trong
văn bản phải có
chỉ
dẫn về
phụ
lục
đó. Phụ
lục văn bản phải có tiêu đề, văn bản
phải có từ
hai
phụ
lục trở
lên
thì
các
phụ
lục phải
được
đánh
số thứ
tự
bằng
số
La Mã;
đ. Số
trang: văn bản và phụ
lục văn bản gồm nhiều trang thì từ trang
thứ
hai
trở đi phải
được
đánh
số
thứ
tự
bằng
chữ
số ả-rập;
số
trang
củ
phụ
lục văn bản
được
đánh
riêng
theo
từng
phụ
lục.
KỸ
THUẬT TRÌNH BÀY1. Khổ
giấy, kiểu
trình
bày
và
định
lề
trang
văn bản.
a. Khổ
giấyVăn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính được
trình
bày
trên
giấy khổ
A4 (210 mm x 297 mm).Các
loại văn bản như
giấy giới thiệu, giấy biên nhận hồ
sơ,
phiếu gửi, phiếu chuyển có thể được
trình
bày
trên
khổ
A5 (148 mm x 210 mm) hoặc trên giấy mẫu in sẵn.b. Kiểu trình bàyVăn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính được
trình
bày
theo
chiều dài của
trang
giấy khổ
A4 (định
hướng bản in theo chiều dài).
Trường
hợp nội
dung văn bản có các bảng, biểu nhưng không
được
làm
thành
các
phụ
lục riêng thì văn bản có thể
được
trình
bày
theo
chiều rộng
của trang giấy (định
hướng bản in theo chiều rộng).
KỸ
THUẬT TRÌNH BÀY
c. Định
lề
trang
văn bản (đối với khổ
giấy A4)- Trang mặt trước:Lề
trên: cách
mép
trên
từ
20-25 mm;
Lề
dưới: cách
méo
dưới từ
20-25 mm;Lề
trái: cách
mép
trái
từ
30-35 mm;
Lề
phải: cách
mép
phải từ
15-20mm;- Trang mặt sau:Lề
trên: cách
mép
trên
từ
20-25 mm;
Lề
dưới
: cách
mép
dưới từ
20-25 mm;Lề
trái
: cách
mép
trái
từ
15-20 mm;
Lề
phải
: cách
mép
phải từ
30-35 mm;
2. Kỹ
thuật trình bày các thành phần thể
thức văn bản.Vị
trí
trình
bày
các
thành
phần thể
thức văn bản trên một
trang
giấy khổ
A4 được thực hiện theo sơ đồ bố
trí
các thành
phần thwr thức văn bản
kèm
theo
Thông
tư
này
(Phụ
lục
II). Vị
trí trình bày các thành phần thể
thức văn bản trên một trang giấy khổ
A5 được áp dụng
tương
tự
theo
sơ đồ
trên.Các
thành
phần thể
thức văn bản
được trình bày như
sau
:
a. Quốc hiệuQuốc hiệu
được trình bày tại ô số
1.
Dòng
chữ
trên
: "Cộng
hoà
xã
hội chủ
nghĩa Việt
Nam" được
trình
bày
bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
12 đến
13, kiểu
chữ đứng, đậm.Dòng
chữ
dưới : "Độc lập - Tự
do -
Hạnh
phúc" được
trình
bày
bằng
chữ
in thường, cỡ
chư
từ
12 đến
13, kiểu chữ đứng, đậm; chữ
cái
đầu của các cụm từ được viết
hoa, giữa
các
cụm từ
có
gạch
ngang
nhỏ; phía
dưới có dòng kẻ
ngang, nét
liền, có
độ
dài
bằng
độ
dài
của
dòng
chữ.
b. Tên
cơ
quan, tổ
chức
ban hành
văn bản.Tên
cơ
quan, tổ
chức ban hành văn bản
được
trình
bày
tại ô
số
2.Tên
cơ
quan, tổ
chức chủ
quản cấp trên trực tiếp
được trình
bày
bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
12 đến
13, kiểu chữ đứng.Tên
cơ
quan, tổ
chức ban hành văn bản
được
trình
bày
bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
12 đến
13, kiểu chữ đứng, đậm; phía dưới có đường
kẻ
ngang, nét
kiền, có
độ
dài
bằng
từ
1/3 đến
½
độ
dài
của
dòng
chữ
và
đặt cân đối so với
dòng
chữ.c. Số, ký
hiệu của văn bản.
Số, ký
hiệu của văn bản dược trình bày ở
ô số
3.Từ
"số" được trình bày bằng
chữ
in thường, ký
hiệu bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
13, kiểu chữ đứng; sau
từ
"số" có
dấu hai chấm; giữa số, năm
ban hành
và
kí
hiệu văn bản có dâu
gạch
chéo
(/); giữa
các
nhóm
chữ
viết tắt
trong
kí
hiệu văn bản có dấu gạch
nối
không
cách
chữ
(-), ví
dụ
:
Số: 33/2002/NĐ-CP; Số: 15/QĐ-UBND; Số: 23/BC-BNV; Số: 234/SCN-VP.
d. Địa
danh
và
ngày, tháng, năm
ban hành
văn bản.Địa
danh
và
ngày, tháng, năm ban hành
văn bản
được
trình
bày
ở
ô só
4, bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiểu chữ nghiêng
; sau
địa danh có dấu phẩy.
Ví
dụ: Hà
Nội, ngày
05 tháng
02 năm 2008đ. Tên
loại
và
trích
yếu nội
dung văn bản.
Tên
loại
và
trích
yếu nội
dung của các loại văn bản có ghi tên loại được
trình
bày
tại ô số
5a; tên
loại văn bản (nghị định, nghị
quyết,
kế
hoạch, báo
cáo, tờ
trình
và
các
loại văn bản
khác) được
đặt canh
giữa (cân đối
ở
giữa
dòng) bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
14 đến
15, kiểu chữ đứng, đậm; trích
yếu nội
dung văn bản
được
đặt canh
gữa, ngay
dưới tên loại văn bản, bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
14, kiểu chữ đứng, đậm; bên
dưới trích yếu có đường
kẻ
ngang, nét
liền, có
độ
dài
bằng
từ
1/3 đến 1/2 độ
dài
của dòng chữ
và
đặt
cân
đối với dòng chữ.Trích
yếu nội
dung công
văn
được
trình
bày
tại
ô só
5b, sau
chữ
viết tắt
"V/v" (Về
việc) bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
từ
12 đến
13, kiểu chữ đứng.
e. Nội
dung văn bản.Nội
dung văn bản
được trình bày tại ô số
6.
- Phần nội
dung (văn bản) được trình bày bằng
chữ
in thường, cõ
chữ
từ
13 đến
14; khi
xuống
dòng, chữ đầu
dòng
có
thể
lùi
vào
từ
1 cách
mạng
đến 1,27 cách mạng
(1default tab); khoảng
cách
giữa các đoạn văn
(paragraph) đặt tối
thiểu
là
6pt; khoảng
cách
giữa
các
dòng
hay hay
cách
dòng (line spacing) chọn tối thiểu từ
cách
dòng
đơn
(single line
spacing) hoặc từ
15pt (exactly line spacing) trở
lên.-
Đối với những
văn bản
qui phạm
pháp
luật và văn bản hành
chính
có
phần căn cứ
pháp
lý
để
ban hành
thì
sau
mỗi căn cứ
phải xuống
dòng
có
dấu chấm phẩy, riêng
căn cứ
cuỗi
cùng
kết thúc bằng
dấu phẩy.
g. Chức vụ, họ
tên và
chữ
ký của người có
thẩm quyền- Quyền hạn, chức vụ
của người ký được
trình
bày
tại
ô số
7a; Chức vụ
khác
của người ký được
trình
bày tại ô số
7b; các
chữ
viết tắt
"TM"; "KT"; "TL",
"TUQ" hoặc
"Q" (quyền), quyền hạn và chức vụ
của người ký được
trình
bày
bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiễu chữ đứng, đậm.- Họ
tên
của người ký văn bản và học làm, học vị
(nếu có) được
trình
bày
tại ô số
7b; bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiễu chữ đứng, đậm.
- Chữ
ký
của người có thẩm
quyền
được
trình
bày
tại ô số
7c.
h, Dấu của cơ
quan, tổ
chứcDấu của cơ
quan
tổ
chức
được trình bày tại ô số
8
I, Nơi nhậnNơi nhận
được
trình
bày
tại ô số
9a và
9b.
Phân
nơi nhận tại ô số
9 a (chỉ
áp
dụng
đối với văn bản hành chính) được
trình
bày
như
sau:
- Từ
"kính
gữi' và
tên
các
cơ
quan, tổ
chức hoặc cá nhân nhận văn bản
được trình bày bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
14, kiểu
chữ đứng;- Sau từ" kính
gửi" có
dấu
hai
chấm; nếu công văn gửi cho
một cơ
quan, tổ
chức hoặc một
cá
nhân
thì
từ
"kính
gửi" và tên
cơ
quan, tổ
chức hoặc cá nhân được
trình
bày
trên
cùng
một
dòng; trường
hợp
công
văn gửi cho hai cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân trở
lên
thì
tên
mỗi cơ
quan, tổ
chức, cá
nhân
hoặc mỗi
nhóm
cơ
quan, tổ
chức, cá
nhân
được trình bày trên một
dòng
riêng, đầu dòng có gạch
ngang, cuối
dòng
có
dấu chấm phẩy, cuối
dòng
cuối cùng có dấu chấm.
Phần nơi nhận tại ô số
9b (áp
dụng
chung
đối với công văn hành
chính
và
các
loại văn bản khác) được
trình
bày
như
sau:- Từ
"nơi nhận" được
trình
bày
trên
một
dòng
riêng, sau
đó có
dấu hai chấm, bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
12, kiểu chữ nghiêng, đậm;
- Phần liệt kê các cơ
quan, tổ
chức, đơn vị
và
cá
nhân
nhận văn bản
được trình bày bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
11, kiểu chữ
đứng; tên
mỗi cơ
quan, tổ
chức, đơn vị
và
cá
nhân
hoặc mỗi nhóm
cơ
quan, tổ
chức, đơn vịnhận văn bản
được trình bày
trên
một
dòng
riêng, đầu dòng có gạch
ngang, cuối
dòng
có dấu chấm phẩy; riêng
dòng
cuối cùng bao gồm chữ
"lưu"
sau
đó có dấu hai chấm, tiếp theo là chữ
viết tắt "VT"( văn thư
cơ
quan, tổ
chức), chữ
viết tắt tên đơn vị
(hoặc bộ
phận)
soạn thảo văn bản và số
lượng
bản lưu (chỉ
trong
những trường
hợp cần thiết) được
đặt
trong
ngoặc
đơn, cuối cùng
là
dấu chấm.
k. Dấu chỉ
mức
độ
khẩn, mậtMẫu dấu
độ
mật (tuyệt mật, tối mật hoặc mật) và
dấu
thi
hồi
đối với văn bản có nội
dung bí
mật
nhà
nước được thực hiện
theo
quy
định
của
pháp
luật về
bảo
vệ
bí
mật
nhà
nước. Dấu
độ
mật
được
đóng
vào
ô số 10a, dấu thu hồi
được
đóng
vào
ô số
11. dấu
độ
khẩu
được
đóng
vào
ô số
10b. Con dấu các độ
khẩn có hình
chữ
nhật, trên
đó, các
từ
"hoả
tốc“,
"thượng
khẩn" hoặc "khẩn" được
trình
bày
bằng
chữ in hoa, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiểu chữ đứng, đậm và
được
đặt
cân
đối
trong
khung
chữ
nhật viền
đơn, có kích
thước tương
ứng
là
30mmx8mm, 40mmx8mm
và
20mm x 8mm
3. Các
thành
phần thể
thức
khácCác
thành
phần thể
thức khác được trình bày như
sau:
- Các chỉ
dẫn về
phạm vi lưu hành được
trình
bày
tại ô số
11; các cụm từ
"trả
lại
sau
khi
họp (hội nghị)", "xem
xong
trả
lại" , “lưu
hành
nội bộ" được trình bày cân đối trong một
khung
hình
chữ nhật viền
đơn, bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiểu chữ
đứng, đậm- Chỉ
dẫn về
dự
thảo văn bản
được
trình
bày
tại ô số
12; từ
"dự
thảo" hoặc cụm từ
"dự
thảo lần…”
được
trình
bày
trong
một khung
hình
chữ
nhật viền
đơn, bằng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
13 đến
14, kiểu chữ đứng, đậm;- Ký hiệu người
đánh
máy
và
số
lượng
bản phát hành được trình
bày
tại ô số
13; ký
hiệu bằng
chữ
in hoa, số
lượng
bản bằng
chữ
số ả
- rập, cỡ
chữ
11, kiểu chữ đứng;
-
Địa chỉ
cơ
quan, tổ
chức; địa chỉ
E-Mail; địa chỉ
trên
mạng (Website); số địên
thoại, số
Telex, số
Fax được
trình
bày
trên
trang
đầu của văn bản, tại ô số
14, bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
từ 11 đến
12, kiểu chữ đứng, dưới một
đường
kẻ
nét
liền kéo dài hết
bề
ngang
của vùng trình bày văn bản;
- Phụ
lục văn bản: phụ
lục kèm theo văn bản
được trình bày trên
các
trang
giấy
riêng; từ
"phụ
lục" và
số
thứ
tự
của phụ
lục (trường
hợp có từ
hai
phụ
lục trở
lên) được
trình
bày trên
một
dòng
riêng, canh
giữa, bằng
chữ
in thường, cỡ
chữ
14, kiểu chữ đứng
đậm, tiêu
đề
(tên) của phục lục
được trình bày canh giữa, bừng
chữ
in hoa, cỡ
chữ
từ
13 đến 14, kiểu
chữ đứng, đậm;-
Số
trang
của văn bản: được trình bày tại
chính
giữa trên đầu
trang
giấy (phần
heaher) hoặc tại góc phải, ở
cuối
trang
giấy (phần
footer) bằng
chữ
số ả - rập, cỡ
chữ
bằng
cỡ
chữ
của
phần lời văn
(13-14), kiểu chữ đứng-
Mẫu chữ
và
chi tiết
trình
bày
các
thành
phần thể
thức văn
bản
được minh hoạ
tại Phụ
lục IV- Mẫu chữ
và
chi tiết trình bày
thể
thức văn bản và thể
thức bản
sao
keo
theo
-
Phông
chữ: VnTime
đối với chữ
in thường
và
VnTimeH
đối với chữ
in hoa. (hoặc
Times New Roman)
1
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 là công cụ trực tiếp xác lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động lập pháp nhờ đó, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam ngày càng có nhiều tiến bộ, cải thiện hệ thống pháp luật cả về số lượng các văn bản quy phạm pháp luật và chất lượng của hệ thống pháp luật. Việc triển khai thực hiện các luật này, một mặt, đã giúp đẩy nhanh quá trình xây dựng hệ thống pháp luật và mặt khác, đã tạo sự chuyển biến một bước về chất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung và trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo đường lối, chính sách của Đảng.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn những tồn tại, hạn chế lớn như sau:
Thứ nhất, về việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
Về nguyên tắc, việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là giai đoạn hết sức quan trọng, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, nhằm xác định nhu cầu xã hội, chính sách pháp luật phù hợp để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh, cũng như để điều chỉnh công tác quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhìn chung còn chưa thực sự khoa học, thiếu những định hướng chính sách pháp luật, làm cho quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ít nhiều gặp khó khăn, lúng túng, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng soạn thảo văn bản. Một số luật, pháp lệnh được ban hành thiếu tính khả thi hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, gây lãng phí các nguồn lực.
Mặt khác, việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cũng chưa quan tâm đúng mức đến việc xác định thứ tự ưu tiên của văn bản, dẫn đến trên thực tế có văn bản thực sự cần thiết lại chưa được ban hành hoặc có văn bản cần ban hành trước, nhưng lại được ban hành sau.
Thứ hai, về việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
- Chưa có sự phân công thật rành mạch và hợp lý giữa các cơ quan trong quá trình soạn thảo, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan liên quan trong quá trình đó, dẫn đến tình trạng chờ đợi, dựa dẫm nhau, làm chậm tiến độ soạn thảo và giảm chất lượng của văn bản (ví dụ: chưa quy định hợp lý trách nhiệm của cơ quan trình, cơ quan chủ trì soạn thảo, ban soạn thảo, ...).
2
- Còn thiếu các quy định bảo đảm việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải dựa trên những nghiên cứu, đánh giá khoa học, đánh giá ảnh hưởng dự kiến của những chính sách pháp luật hoặc những quy định của pháp luật sẽ được ban hành; các kết quả nghiên cứu, đánh giá đã có cũng chưa được công bố rộng rãi hoặc cung cấp đầy đủ cho các cơ quan có thẩm quyền như Chính phủ, Quốc hội khi xem xét, thảo luận, thông qua văn bản.
- Quy trình soạn thảo văn bản chưa phát huy triệt để sự tham gia của các tổ chức, cá nhân liên quan. Việc lấy ý kiến của nhân dân, của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản còn hình thức; thiếu cơ chế đề cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo.
- Chưa có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa luật, pháp lệnh với việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết thi hành theo hướng bảo đảm cho luật, pháp lệnh đi vào cuộc sống đúng vào thời điểm có hiệu lực.
Thứ ba, về quy trình thảo luận, xem xét, thông qua dự thảo văn bản của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Vai trò của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự thảo luật, pháp lệnh chưa được quy định đúng mức, đầy đủ trong việc bảo vệ, giải trình trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dự thảo, nhất là trong trường hợp dự thảo luật, pháp lệnh được xem xét, thông qua tại hai kỳ họp, hai phiên họp, dẫn đến việc hướng dẫn thi hành và triển khai thi hành một số văn bản gặp khó khăn nhất định và trong một số trường hợp dẫn đến sự không rõ ràng về trách nhiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư, về vấn đề áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
Quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn nhiều chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đang rất phức tạp, nhiều tầng nấc, nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành với nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; thiếu quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan trong việc hợp nhất, pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật, càng làm cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật gặp khó khăn hơn. Mặt khác, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trên thực tế cũng chưa thống nhất, bởi thiếu một số quy định có tính nguyên tắc về áp dụng pháp luật, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về áp dụng văn bản.
Do những tồn tại, hạn chế lớn nêu trên, năm 2002, đồng thời với việc phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, tập trung vào đổi mới quy trình thông qua luật, pháp lệnh và việc minh bạch hoá quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Quốc hội đã giao Chính phủ tiếp tục nghiên cứu để trình Quốc hội xem xét sửa đổi Luật này một cách toàn diện hơn. Do vậy, việc tiếp tục sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần này là cần thiết, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành Luật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
3
của Bộ Chính trị và các cam kết của nước ta khi gia nhập WTO.
Ngày 02 tháng 6 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG, BAN HÀNH LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 được xây dựng, ban hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới quy trình lập pháp, lập quy, về hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;
- Bảo đảm sự phù hợp của Luật với Hiến pháp và tính thống nhất của Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật;
- Bảo đảm tính kế thừa, luật hoá một số quy định của các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm; giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Thể hiện tinh thần cải cách hành chính thông qua việc phân định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản, đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật;
- Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhằm đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, ban hành văn bản, nhưng vẫn phải bảo đảm chất lượng của văn bản; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong việc bảo đảm chất lượng của dự thảo, cũng như kỹ thuật soạn thảo văn bản để Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội dành nhiều thời gian tập trung vào thảo luận, biểu quyết những chính sách lớn, những vấn đề lớn của dự thảo văn bản.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT
Luật gồm 12 chương, 95 điều được bố cục như sau:
Chương I - Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 10), gồm các quy định về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và một số quy định chung khác.
Chương II - Nội dung văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 11 đến Điều 21) quy định về nội dung điều chỉnh của mỗi hình thức văn bản quy phạm pháp luật, gồm nội dung của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; nội dung của pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;...
Chương III - Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
4
Với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, Luật đã
luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (từ Điều 22 đến Điều 57).
Chương này gồm 6 mục: Mục 1 - Lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Mục 2 - Soạn thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Mục 3 - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Mục 4 - Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội. Mục 5 - Thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Mục 6 - Công bố văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Chương IV, V, VI và VII từ Điều 58 đến Điều 74 quy định quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.
Chương VIII - Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy trình rút gọn (từ Điều 74 đến Điều 77), quy định các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn; hồ sơ trình dự án, dự thảo và việc xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Chương IX - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp dụng, công khai văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 78 đến Điều 84) trong đó quy định cụ thể thời điểm có hiệu lực và việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề hiệu lực trở về trước, ngưng hiệu lực, những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng và việc đăng tải, đưa tin văn bản quy phạm pháp luật.
Chương X - Giải thích văn bản quy phạm pháp luật (Điều 85 và Điều 86) gồm các quy định về thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh; xây dựng, ban hành dự thảo nghị quyết giải thích luật, pháp lệnh.
Chương XI - Giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, hợp nhất văn bản và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (từ Điều 87 đến Điều 93), quy định việc kiểm tra, giám sát, nội dung kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, xử lý và thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật, việc hợp nhất, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
Chương XII - Điều khoản thi hành (Điều 94 và Điều 95) quy định thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật, kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
IV. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
5
sửa đổi một cách toàn diện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ khâu lập dự kiến chương trình, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thông qua văn bản theo hướng tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý dự thảo, cơ quan ban hành chỉ tập trung vào việc thảo luận và quyết định chính sách. Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung các quy định nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hệ thống pháp luật có chất lượng, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và có tính khả thi cao.
Sau đây là một số điểm mới quan trọng của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật :
1. Thu gọn các loại văn bản quy phạm pháp luật
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm hơn 20 loại văn bản, do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành; mỗi cơ quan ban hành từ 2 đến 3 loại văn bản. Điều này làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật rất phức tạp, việc theo dõi, áp dụng và xác định thứ bậc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật gặp không ít khó khăn, đặc biệt là khó xác định được khi nào, về vấn đề gì thì cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức nào.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Điều 2 của Luật quy định một số cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức văn bản. Theo đó, Chính phủ chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức nghị định, thay vì nghị quyết và nghị định; Thủ tướng Chính phủ chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết định, thay vì chỉ thị và quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức thông tư, thay vì quyết định, chỉ thị, thông tư như trước đây.
Tuy nhiên, để phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 bổ sung thẩm quyền của Tổng Kiểm toán Nhà nước trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết định.
2. Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản, điều, khoản, điểm được quy định chi tiết
Để khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh chờ nghị định, nghị định chờ thông tư…, cũng như tình trạng hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh một cách tràn lan, thậm chí sao chép lại các quy định của luật, pháp lệnh, các quy định của Luật đặt ra các yêu cầu cụ thể:
- Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung (khoản 2 Điều 5 của Luật).
6
- Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay, chỉ trường hợp văn bản có nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, những vấn đề chưa có tính ổn định cao thì có thể giao cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được uỷ quyền tiếp (khoản 1 Điều 8 của Luật).
- Xác định trách nhiệm của cơ quan ban hành khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới (dù là văn bản luật, pháp lệnh hay là văn bản quy định chi tiết); có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới trước khi văn bản, điều, khoản, điểm mới đó có hiệu lực (khoản 2 Điều 9 của Luật).
- Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết (khoản 2 Điều 8 của Luật).
- Trong trường hợp một cơ quan được giao ban hành quy định chi tiết về nhiều nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật thì có thể ban hành một văn bản để quy định chi tiết nhiều nội dung của một văn bản hoặc các nội dung của nhiều văn bản khác nhau (khoản 3 Điều 8 của Luật)
- Quy định cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh có trách nhiệm kiến nghị việc phân công cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các điều, khoản, điểm của dự thảo (khoản 8 Điều 33 của Luật).
- Áp dụng kỹ thuật "một văn bản sửa nhiều văn bản", theo đó, một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ nhiều văn bản do cùng một cơ quan ban hành...(khoản 3 Điều 9 của Luật)
Như vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đặt ra yêu cầu văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay, hạn chế tình trạng giao Chính phủ ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết và bỏ quy định giao Chính phủ ban hành nghị định để hướng dẫn toàn bộ nội dung của luật, pháp lệnh một cách chung chung. Các nội dung cần được quy định chi tiết phải được giới hạn cụ thể hơn và việc uỷ quyền ban hành văn bản quy định chi tiết phải tuân theo nguyên tắc cơ quan đã được giao ban hành văn bản quy định chi tiết phải ban hành văn bản, không được phép uỷ quyền tiếp cho cơ quan khác ban hành văn bản quy định chi tiết. Đồng thời, với yêu cầu việc ban hành văn bản quy định chi tiết phải được thực hiện trước khi văn bản, điều, khoản, điểm được quy định chi tiết có hiệu lực để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết, sẽ hạn chế được tình trạng văn bản quy định
7
chi tiết được ban hành chậm, việc soạn thảo kéo dài làm ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản được hướng dẫn.
Ngoài ra, nhằm hạn chế tình trạng một cơ quan được giao nhiệm vụ quy định chi tiết nhiều nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật phải ban hành nhiều văn bản để quy định chi tiết các nội dung đó, Luật quy định theo hướng trừ trường hợp cần phải quy định trong nhiều văn bản khác nhau, cơ quan được giao quy định chi tiết soạn thảo, ban hành một văn bản để quy định chi tiết các nội dung cần hướng dẫn thi hành. Trong trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết các nội dung ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì có thể ban hành một văn bản để quy định chi tiết (khoản 3 Điều 8).
3. Áp dụng kỹ thuật “một văn bản sửa nhiều văn bản”
Quy trình lập pháp, lập quy chặt chẽ, nhiều công đoạn là nhằm mục đích bảo đảm có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, công dân, bảo đảm trách nhiệm của các cơ quan đối với chất lượng của dự án, dự thảo. Do vậy, việc cắt bỏ một khâu nào trong quy trình này khi xây dựng một văn bản sửa đổi, bổ sung một văn bản đều khó thuyết phục mặc dù giữa việc soạn thảo một văn bản hoàn toàn mới với việc sửa đổi một vài điều hoặc chỉ rất ít điều, thậm chí 1 hoặc 2 điều là có sự khác nhau. Với trình tự soạn thảo, ban hành văn bản được quy định chặt chẽ, khi soạn thảo văn bản, mỗi Ban soạn thảo hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo chỉ quan tâm đến việc soạn thảo hoặc sửa đổi, bổ sung một dự án, dự thảo. Việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật thường áp dụng theo trình tự xây dựng, ban hành văn bản mới.
Việc nghiên cứu, sửa đổi đồng thời một lúc nhiều văn bản cho phép tuân thủ các bước tối thiểu của quy trình xây dựng, ban hành văn bản mà vẫn bảo đảm đúng chức năng, thẩm quyền của các cơ quan, đồng thời khắc phục được sự mâu thuẫn của hệ thống pháp luật, khắc phục được sự lãng phí về thời gian nghiên cứu, thời gian tổ chức soạn thảo, thông qua văn bản cũng như tiết kiệm kinh phí nghiên cứu, soạn thảo, ban hành văn bản.
Chính vì lý do trên, Khoản 3 Điều 9 của Luật quy định “Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành”. Như vậy, trong trường hợp có nhiều văn bản cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ do cùng một cơ quan ban hành, cơ quan đó chỉ cần ban hành một văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ tất cả các nội dung đó mà không cần phải ban hành nhiều văn bản để sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ từng văn bản.
4. Trách nhiệm xây dựng báo cáo đánh giá tác động
Nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí và tăng cường hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và chương trình xây dựng nghị định, tránh tình trạng đưa vào chương trình cả những văn bản mà tính thực tế, tính khả thi và tính hợp lý còn thấp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị
8
định phải được gửi kèm báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản (Khoản 1 Điều 23, Khoản 1 Điều 59 của Luật).
Để cung cấp thêm thông tin cho cơ quan có thẩm quyền cũng như các đối tượng liên quan trong việc xem xét, thảo luận, thông qua văn bản, đồng thời, nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải bảo đảm chất lượng của dự thảo, Luật quy định cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản có trách nhiệm xây dựng báo cáo đánh giá tác động của văn bản. Nội dung báo cáo phải nêu rõ được các vấn đề cần giải quyết và các giải pháp đối với từng vấn đề đó, chi phí, lợi ích của các giải pháp, so sánh chi phí- lợi ích của các giải pháp (Khoản 2 Điều 33 và Khoản 2 Điều 61 của Luật).
Đánh giá tác động pháp luật (viết tắt Tiếng Anh là RIA)1 là một tập hợp các bước lôgíc hỗ trợ cho việc chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc nghiên cứu sâu các hoạt động đi kèm với quá trình xây dựng chính sách và chính thức hóa các kết quả nghiên cứu bằng một bản báo cáo độc lập. Tiến hành RIA bao gồm việc trả lời một số câu hỏi chủ yếu sau: Đâu là bản chất, mức độ và sự phát triển của vấn đề? Đâu là các mục tiêu mà quốc gia theo đuổi? Đâu là các tác động về môi trường, xã hội và kinh tế của các lựa chọn chính sách? Đâu là ưu và nhược điểm của các lựa chọn chính sách chính? Việc giám sát và đánh giá về sau được tổ chức như thế nào?
Thực hiện RIA là bảo đảm, thu hút sự tham gia của công chúng vào quá trình hoạch định chính sách. Quá trình thực hiện RIA giúp cơ quan soạn thảo có cái nhìn tổng thể, toàn diện về vấn đề sẽ được giải quyết trong văn bản, trong đó bao gồm những đánh giá mặt được và mặt hạn chế của các phương án đưa ra; từ đó tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền hướng giải quyết đúng và sát thực hơn. Về phía cơ quan ban hành, RIA chính là nguồn cung cấp thông tin đầy đủ, toàn diện về các phương án lựa chọn, không lựa chọn – làm cơ sở để các thành viên Chính phủ, đại biểu Quốc hội, thảo luận, quyết định phương án giải quyết vấn đề một cách phù hợp, hiệu quả và kinh tế.
Đứng về mặt ban hành chính sách mang tính vĩ mô, RIA mang lại những kết quả sau đây:
Thứ nhất: giảm bớt rủi ro các lỗi về chính sách, vì các cơ quan có thẩm quyền đã:
- Xác định được mục tiêu của việc ban hành văn bản;
- Đánh giá tác động đầy đủ sự thay đổi dự kiến;
- Xác định và đánh giá các phương án lựa chọn để đạt được mục tiêu;
- Đảm bảo tính hài hoà, thống nhất với các phương án đang sử dụng;
- Biết trước là liệu lợi ích có lớn hơn chi phí hay không;
- Đảm bảo quá trình xây dựng chính sách có sự tham gia của người dân và đảm bảo tính minh bạch của việc xây dựng chính sách;
1 (Regulatory Impact Assesment )
9
Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định trong quá trình soạn thảo, toàn văn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là 60 ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời gian tiếp cận, chủ động nghiên cứu, tham gia ý kiến (khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 61, khoản 1 Điều 62, khoản 2 Điều 67, khoản 2 Điều 68, khoản 2 Điều 69, khoản 2 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 2 Điều 72, khoản 3 Điều 73 và khoản 3 Điều 74 của Luật); cơ quan tổ chức lấy ý kiến có trách nhiệm nghiên cứu các ý kiến góp ý để tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định ngay trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày, kể từ ngày công bố hoặc ngày ban hành để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thời gian
- Tính đến bảo đảm tuân thủ các thoả thuận quốc tế.
Thứ hai: cải thiện tình hình lạm phát về văn bản quy phạm pháp luật, vì văn bản chỉ được ban hành sau khi đã cân nhắc tương đối đầy đủ các tác động kinh tế - xã hội và thấy lợi ích của việc thi hành lớn hơn chi phí.
Về nguyên tắc, cơ quan nào đề xuất các biện pháp thực hiện thì cơ quan đó chịu trách nhiệm thực hiện RIA. Điều này không hạn chế quyền thuê các chủ thể khác đánh giá ở một số công đoạn nhất định, nhưng cơ quan đề xuất phải là người chịu trách nhiệm về nội dung đánh giá.
RIA là một quá trình gồm nhiều giai đoạn, từ lúc đề xuất xây dựng chương trình cho đến khi ban hành văn bản. Tuy nhiên, ở giai đoạn đề xuất đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (tức là giai đoạn đánh giá để giúp xác định liệu có đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật không), thì việc đánh giá chỉ dừng ở mức độ sơ bộ.
Trong quá trình soạn thảo văn bản, cơ quan được giao soạn thảo chịu trách nhiệm thực hiện RIA tổng thể (đánh giá tổng thể). Nội dung của bản đánh giá phải luôn luôn được bổ sung cùng với quá trình chỉnh lý dự thảo. Đặc biệt là sau giai đoạn thẩm định, giai đoạn trình, giai đoạn thẩm tra.
5. Công khai, minh bạch trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công bố, công khai văn bản quy phạm pháp luật
Công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật nói chung cũng như trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong việc sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần này. Việc công khai, minh bạch từ khâu soạn thảo cho đến khâu ban hành không những giúp cho người dân sớm biết được định hướng chính sách, pháp luật trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện mà còn là một trong những kênh để người dân có thể tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế, làm cho pháp luật phản ánh được sát hơn ý chí, nguyện vọng của nhân dân... Đây cũng là một nội dung quan trọng nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng. Đồng thời, cũng là để thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
01
Quy trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) là rất chặt chẽ, phải qua nhiều bước để bảo đảm chất lượng của văn bản. Tuy nhiên, quy trình này, nếu áp dụng cho tất cả các văn bản, thì sẽ
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện (đoạn 1 khoản 1 Điều 78 của Luật); văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và văn bản ban hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai, dịch bệnh; văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc (khoản 2 Điều 78 của Luật).
Bên cạnh đó, Luật quy định trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo; trách nhiệm của cơ quan Công báo phải đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản (khoản 2 Điều 78 của Luật).
6. Quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phát biểu ý kiến về những vấn đề của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách
Nhằm nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền có thêm cơ sở thuyết phục khi xem xét, đánh giá các quy định của dự án, dự thảo, Luật quy định các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về dự án, dự thảo, trong đó, Bộ Tài chính có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn tài chính, Bộ Nội vụ có trách nhiệm góp ý về nguồn nhân lực, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm góp ý kiến về tác động đối với môi truờng, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm góp ý kiến về sự tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Khoản 3 Điều 35 của Luật).
Cũng với mục đích nâng cao chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, Luật bổ sung quy định về chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và dự thảo nghị định của Chính phủ trước khi trình Chính phủ. Theo đó, trong trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ triệu tập cuộc họp gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan để giải quyết trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào ý kiến tại cuộc họp này, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo để trình Chính phủ (Điều 38 và Điều 65 của Luật).
7. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn
11
cứng nhắc và thiếu hiệu quả, vì trên thực tế có những văn bản có nội dung sửa đổi, bổ sung đơn giản, là do hệ quả, tác động của các văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm bảo đảm thống nhất với nội dung của các văn bản đã được ban hành trước đó; hoặc có những văn bản cần được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm lợi ích chung.
Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đã bổ sung một chương (Chương VIII, từ Điều 75 đến Điều 77 của Luật) quy định về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn. Theo đó, việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Đồng thời, thủ tục rút gọn cũng chỉ áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn được quy định như sau: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành pháp lệnh, nghị quyết của mình và trình Quốc hội xem xét quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội; Chủ tịch nước quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ và quyết định của mình. Bên cạnh đó, quy định rõ các bước, các khâu có thể được rút gọn khi áp dụng trình tự, thủ tục này (Điều 76 và Điều 77 của Luật). Tuy nhiên, để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, khả thi của văn bản, dù là soạn thảo theo quy trình rút gọn thì vẫn phải tiến hành thẩm định, thẩm tra dự thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền.
8. Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật
Trong thực tế, có nhiều văn bản được sửa đổi, bổ sung nhiều lần hoặc có những văn bản được sửa đổi, bổ sung khá nhiều nội dung so với văn bản gốc. Điều này gây khó khăn cho quá trình thực hiện khi cùng một lúc phải có sự so sánh, đối chiếu trên nhiều văn bản để áp dụng cho một vấn đề.
Do vậy, để tạo điều kiện cho việc áp dụng, tra cứu văn bản được thuận lợi, tăng thêm tính minh bạch của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tính rõ ràng của pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 bổ sung quy định về hợp nhất văn bản (Điều 92 của Luật). Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật là việc đưa các nội dung của văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung vào văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm sự toàn vẹn về hình thức và nội dung của văn bản sau khi được sửa đổi, bổ sung. Việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật sau khi sửa đổi, bổ sung không được làm ảnh hưởng đến nội dung và hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật được hợp nhất. Như vậy, việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật sau khi sửa đổi, bổ sung là một hoạt động thuần tuý có tính kỹ thuật, không tạo ra quy phạm pháp luật mới và cũng không tạo ra văn bản quy phạm pháp luật mới.
12
Theo quy định tại Điều 92 của Luật, văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản quy phạm pháp luật phải được hợp nhất về mặt kỹ thuật với văn bản được sửa đổi, bổ sung. Những vấn đề cụ thể của việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, Luật giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
9. Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
Ở nước ta, có nhiều cơ quan được ban hành văn bản quy phạm pháp luật, và trên thực tế, các văn bản hướng dẫn thường được quan tâm hơn là văn bản được hướng dẫn vì các văn bản hướng dẫn thường gắn với thẩm quyền quản lý của một cơ quan hoặc hệ thống cơ quan cụ thể cũng như quy định những nội dung cụ thể mà các đối tượng thi hành văn bản phải tuân thủ. Trong khi đó, hệ thống quy phạm pháp luật hiện nay chưa được tập hợp theo từng chủ đề nên gây rất nhiều khó khăn cho công tác tra cứu và áp dụng, nhất là khó có thể biết được quy phạm pháp luật có còn hiệu lực hay không. Việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật không những tạo điều kiện thuận lợi cho người dân dễ tra cứu, thực hiện pháp luật mà còn giúp cho cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, áp dụng được chính xác các quy định của pháp luật; đồng thời, qua đó cũng phát hiện ra được các quy định của pháp luật còn chồng chéo để đề xuất tiến hành sửa đổi, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, với mục đích là tạo thuận lợi cho mọi đối tượng trong việc tra cứu, trích dẫn và áp dụng pháp luật, việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật theo chủ đề thành những bộ pháp điển đã và đang được nhiều nước áp dụng.
Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới, Việt Nam lại chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chỉ quy định một số nguyên tắc tạo cơ sở pháp lý cho công tác pháp điển hoá và giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể việc pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (khoản 2 Điều 93 của Luật).
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Để các quy định của Luật có thể đi ngay vào cuộc sống khi Luật có hiệu lực, các cơ quan có liên quan đã và đang triển khai các hoạt động sau đây:
- Xây dựng văn bản quy định chi tiết thi hành Luật. Theo quy định của Luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được giao ban hành văn bản để quy định về việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (Điều 92 và Điều 93 của Luật); Chính phủ cần khẩn trương ban hành văn bản quy định chi tiết một số điều của Luật.
Bên cạnh đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần căn cứ vào những nguyên tắc đã được Luật quy định để ban hành quyết định quy định cụ thể và đầy đủ cơ chế xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền cũng như xây dựng các văn bản được giao chuẩn bị để trình cơ quan nhà nước cấp trên.
- Tổ chức tập huấn, giới thiệu các quy định của Luật đến các cơ quan, tổ chức và nhân dân: đây là công việc quan trọng, thiết thực nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người
dân cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Củng cố tổ chức, lực lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản.
- Cần bảo đảm tốt hơn các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
13