Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

160
Chương 1 HUYỆN TÂN KỲ THÀNH LẬP I. VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT TÂN KỲ TRƯỚC NĂM 1963 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên * Vị trí địa lý, địa hình, đồi núi Huyện Tân Kỳ có tọa độ từ 18 0 58 đến 19 0 32 vĩ độ Bắc và từ 105 0 02 đến 105 0 14 kinh độ Đông. Phía Bắc huyện Tân Kỳ giáp với huyện Nghĩa Đàn và huyện Quỳ Hợp, phía Nam và Đông Nam giáp với huyện Đô Lương và huyện Anh Sơn, phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Yên Thành và một phần huyện Quỳnh Lưu; phía Tây và Tây Nam giáp với huyện Anh Sơn. Tân Kỳ có diện tích tự nhiên là 72.890,23 ha. Nếu xét về diện tích tự nhiên, huyện Tân Kỳ có diện tích tự nhiên đứng thứ 9 trong tổng số 20 huyện, thành, thị của cả tỉnh Nghệ An. Là một trong những huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, địa hình Tân Kỳ bị chia cắt bởi các dãy núi, khối núi và hệ thống sông suối lớn nhỏ đưa nước trên địa bàn các xã, thị của huyện, hợp lưu vào sông Lam. Tính chung toàn huyện, diện tích đồi núi chiếm tới 80% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Quan sát trên bản đồ địa lý tự nhiên huyện Tân Kỳ và qua khảo sát thực địa ta thấy,

Transcript of Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Page 1: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Chương 1HUYỆN TÂN KỲ THÀNH LẬP

I. VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT TÂN KỲ TRƯỚC NĂM 1963

1. Khái quát về điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý, địa hình, đồi núi

Huyện Tân Kỳ có tọa độ từ 18058’ đến 19032’ vĩ độ Bắc và từ 105002’ đến

105014’ kinh độ Đông. Phía Bắc huyện Tân Kỳ giáp với huyện Nghĩa Đàn và huyện

Quỳ Hợp, phía Nam và Đông Nam giáp với huyện Đô Lương và huyện Anh Sơn,

phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Yên Thành và một phần huyện Quỳnh Lưu;

phía Tây và Tây Nam giáp với huyện Anh Sơn.

Tân Kỳ có diện tích tự nhiên là 72.890,23 ha. Nếu xét về diện tích tự nhiên,

huyện Tân Kỳ có diện tích tự nhiên đứng thứ 9 trong tổng số 20 huyện, thành, thị

của cả tỉnh Nghệ An.

Là một trong những huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, địa hình Tân Kỳ bị

chia cắt bởi các dãy núi, khối núi và hệ thống sông suối lớn nhỏ đưa nước trên địa

bàn các xã, thị của huyện, hợp lưu vào sông Lam. Tính chung toàn huyện, diện tích

đồi núi chiếm tới 80% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Quan sát trên bản đồ địa

lý tự nhiên huyện Tân Kỳ và qua khảo sát thực địa ta thấy, núi đồi cao thấp lớn nhỏ

bao quanh tất cả các xã, thị, trên địa bàn huyện, tạo thành những vòng cung lớn, vẽ

nên một dạng địa hình lòng chảo, mang tính đặc thù của địa bàn miền núi mà ta

thường gặp khi đi lên vùng phía tây Nghệ An.

Các xã Tân Hợp, Tân Xuân, Giai Xuân được coi là vùng đỉnh của huyện, có

cấu trúc địa hình nghiêng dần về phía sông Con (một trong những song nhánh đổ

về sông Lam). Đỉnh núi cao nhất trên địa bàn huyện Tân Kỳ là đỉnh Pù Loi, có độ

cao 1.100m. Dãy núi Pù Loi chạy dài xuống tận lèn Pha Lồ, cắt ngang qua Trại Lạt

- Cây Chanh đổi hướng qua đồi Hoong Bà rồi chạy qua đồi Nho học, sang đồi Độc

Lập ở vùng Tiên Kỳ. Đến đây, dãy Pù Loi đổi hướng, thế núi thấp dần, chạy qua

Page 2: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Khe Lòa đến chân Pù Hà và vươn dài đến Khe Sắn. Từ xưa tới nay, đỉnh Pù Loi

nói riêng và dãy núi hùng vĩ Pù Loi gắn liền với bao câu chuyện thần thoại, truyền

thuyết, dã sử.v.v… của những nhân vật bước ra từ thế giới thần tiên và cả những

nhân vật có thật trong lịch sử, phản ánh đời sống tôn giáo tín ngưỡng của các thế

hệ cư dân sống dưới những thung lũng núi, nơi có những cánh đồng nhỏ hẹp và

ngay sau đó là rừng rậm suốt trong dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước của

dân tộc. Đặt chân đến vùng đất Pù Loi, trí tưởng tượng của con người dường như

phong phú hơn và khi đứng trên đỉnh Pù Loi, phóng tầm mắt ra bốn hướng ta cảm

nhận được vẻ đẹp hùng vĩ nên thơ, hùng vĩ mà tạo hóa đã tạo nên cách ngày nay

hàng trăm triệu năm để ban tặng cho con người nơi đây.

Đứng sau đỉnh Pù Loi là đỉnh Pù Á có độ cao chỉ là 490m và tiếp đến là đỉnh

Bồ Bồ (472m). Dãy Bồ Bồ chạy dài từ xã Quỳnh Tam huyện Quỳnh Lưu đến làng

Vĩnh Giang ở khu vực Truông Dong, hình thế vững chãi, bề thế chẳng khác gì một

con rồng lớn đang uốn mình bay lượn, tạo nên nét chấm phá khá độc đáo cho cả

bốn huyện là Quỳnh Lưu, Yên Thành, Đô Lương và Tân Kỳ. Dãy núi Bồ Bồ trước

đây chừng một thế kỷ còn là cả một vùng rừng nguyên sinh với ngút ngàn cây cối

rậm rạp, chim thú đủ loại.

Từ km số 0, vượt qua cầu Rỏi, men theo con đường nhựa chạy sát dưới chân

lèn Rỏi, ngược lên vùng Liên Hoàn xưa, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái,

đến tận xã Nghĩa Phúc là cả một bức tranh đa chiều: một bên là lèn đá, có độ dốc

trên 250, núi non hùng vĩ, cây cối um tùm của rừng cũ tái sinh, rừng trồng mới,

chạy điệp điệp trùng trùng, mỗi ngọn núi, dòng suối, ngọn khe được người xưa đặt

cho một cái tên mang một giá trị lịch sử riêng của nó, nghe vừa lạ vừa gợi trí tò

mò; với một bên là những cánh đồng tương đối bằng phẳng bát ngát một màu xanh

của ngô, mía, lạc, rau, đậu, bầu bí, đủ các loại.

Đến xã Nghĩa Hoàn, với một thương hiệu “ngói Cừa” đã tạo một ấn tượng

tốt cho nhân dân trong khu vực và cả nước. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước, nhờ

Page 3: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, nhân dân Nghĩa Hoàn đã làm thay đổi toàn bộ

diện mạo bức tranh kinh tế, văn hóa - xã hội tại vùng đất này. Nghĩa Hoàn là một

trong số ít xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An đủ khả năng tự cân đối ngân sách và

hàng năm đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn ngân sách chung của toàn

huyện trong suốt nhiều năm qua. Từ Nghĩa Hoàn ngược lên các xã phía Tây và

Tây Bắc của huyện, địa hình cao dần, núi đồi cao thấp chạy theo nhiều hướng

khác nhau, cùng với nhiều khe suối lớn nhỏ. Tất cả như một bức tranh thiên nhiên

vừa đẹp, quyến rũ làm nức lòng những ai đã một lần đến thăm.

Qua cầu Rỏi, rẽ trái, xuôi dòng sông Con, men theo Lèn Rỏi đến nông

trường An Ngãi theo hướng Đông Nam, địa hình tương đối bằng phẳng, cánh đồng

trải rộng, ít núi cao, thuận tiện cho việc phát triển cây công ngiệp ngắn ngày, rau

màu và trồng lúa, hai ba vụ trong năm.

Từ Km số 0, theo đường Hồ Chí Minh đi lên xã Nghĩa Bình địa hình có

hướng cao dần, hệ thồng đồi núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam là chính,

nhưng cũng có một số núi ở xã Nghĩa Hợp và khu vực trại giam, chạy theo hướng

Bắc - Nam, có độ cao từ 50 - 200m. Sự xuất hiện của các dãy núi này đã tạo ra

những thung lũng nhỏ hẹp mà từ lâu con người đã sớm khai phá để trồng ngô,

khoai, sắn, lúa, mía,... Cách đây vài thập kỷ, vùng đất này có mật độ dân cư khá

thưa thớt, chỉ khi tuyến đường Hồ Chí Minh được mở thì mật độ dân cư ở đây mới

có sự thay đổi nhanh chóng theo xu hướng hình thành cụm dân cư tập trung dọc

theo tuyến đường Hồ Chí Minh suốt từ km số 0 đến tận vùng đất giáp huyện Nghĩa

Đàn.

Tóm lại, trên địa bàn Tân Kỳ có nhiều dãy núi chạy dài, cộng với hàng trăm

ngọn núi nhỏ, có độ cao thấp và hướng khác nhau, chia cắt địa hình thành nhiều

tiểu vùng, với sự xuất hiện của nhiều thung lũng và các cánh đồng nhỏ hẹp, chạy

dọc theo thung lũng núi hoặc dọc theo đôi bờ sông Con. Tại các thung lũng núi, hệ

Page 4: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

thống ruộng bậc thang là phổ biến rất khó để đầu tư thâm canh, tăng năng suất cho

cây lúa cũng như các loại hoa màu khác. Riêng những dải đồng bằng chật hẹp,

chạy dọc theo sông Con có độ chênh so với lòng sông tương đối lớn do đó về mùa

hạn, tình trạng thiếu nước là khá phổ biến. Nhưng đến mùa mưa lũ, lòng sông hẹp,

các khe suối dốc đưa nước từ các ngọn núi cao đổ về gây ngập úng nghiêm trọng1.

* Khí hậu, thời tiết

Là một trong những huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, Tân Kỳ có chế độ

khí hậu chung là nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều theo mùa giống như nhiều

huyện thành khác. Song, do điều kiện địa hình tương đối phức tạp lại bị chia cắt

bởi các dãy núi, khối núi lớn, nên ngay trong địa bàn huyện vẫn hình thành nhiều

tiểu vùng khí hậu. Thông thường, từ tháng 11 đến tháng 3, thời tiết khô hanh, gây

nên tình trạng khô hạn kéo dài. Từ tháng 4 đến tháng 8, do chịu ảnh hưởng của gió

Phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào), nắng hạn tiếp tục diễn ra, trời nóng như đổ

lửa, nhiệt độ bình quân có thể lên tới 37,5 - 390c, đặc biệt có những tuần ở tháng 5,

tháng 6 nhiệt độ lên tới 40,5 - 41,50c. Tổng số giờ nắng bình quân ở Tân Kỳ hàng

năm từ 1500 - 1700 giờ. Do có khá nhiều núi đá vôi, lượng nhiệt mặt trời hấp thụ

vào đá, nên đến 9 -10 giờ đêm nhiệt độ vẫn nóng hầm hập, cây cỏ chết khô, đồng

ruộng nứt nẻ, hồ đập cạn nước, gây nhiều khó khăn cho đời sống nhân dân và phát

triển sản xuất. Nhiệt độ bình quân ở Tân Kỳ hàng năm vào khoảng 230c, trong khi

đó nhiệt độ cao nhất lên tới 420c (chênh lệch tới 190c). Về mùa Đông nhiệt độ

xuống thấp, có ngày xuống dưới 130c, thậm chí xuống đến 4 - 50c, thấp nhất là 10c.

Lượng mưa bình quân hàng năm ở Tân Kỳ khoảng 2000 - 2200mm, chia

thành 2 mùa rõ rệt:

1Số liệu về đồi núi, địa hình do văn phòng UBND huyện Tân Kỳ cung cấp. Chúng tôi có tham khảo tài liệu trong

cuốn: Lịch sử đảng bộ huyện Tân Kỳ, tập 1(1963 - 2005).

Page 5: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

- Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 âm lịch năm sau, lượng mưa chỉ

chiếm 15 - 20% tổng lượng mưa cả năm. Trong đó, khác với một số địa phương

khác trong tỉnh Nghệ An, nhất là các huyện đồng bằng, vào tháng 1 tháng 2 thường

có mưa xuân rả rích, kéo dài trong nhiều ngày, trong khi ở Tân Kỳ lượng mưa chỉ

đạt khoảng 50 - 60mm/tháng, tức là mỗi tháng lượng mưa chỉ chiếm khoảng 1/30

tổng lượng mưa cả năm.

- Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, với lượng mưa chiếm tới 80 -

85% tổng lượng mưa cả năm. Trong đó, riêng lượng mưa bình quân tháng 8 và

tháng 9 đạt từ 250 - 550mm/tháng.2

Khi mưa bão ập đến, nước ào ạt từ các khe suối đổ về, lòng sông con nước

dâng cao, trải rộng gấp 4 - 5 lần ngày thường, nước tung bọt trắng xóa, chảy xiết,

cuốn theo đất đá, cây cỏ hoa màu và cả nhà cửa, tài sản, hoa màu của nhân dân dọc

đôi bờ sông. Những năm gần đây, do diện tích rừng nguyên sinh cạn kiệt, diện tích

rừng trồng tăng nhanh, song chưa đủ khả năng để điều hòa lượng nước, làm giảm

lượng nước tập trung đổ về sau mưa, nên tình trạng ngập úng diễn ra trên địa bàn

nhiều xã, gây không ít khó khăn cho giao thông đi lại cũng như phát triển sản xuất.

Mưa lớn, tập trung theo mùa và thậm chí là vài ngày liên tục còn gây nên tình trạng

xói mòn, sạt lỡ, hư hỏng cầu cống, các công trình phục vụ dân sinh, đặt cán bộ,

đảng viên và nhân dân Tân Kỳ luôn trong tình trạng chưa kịp khắc phục hậu quả

khô hanh, nắng hạn kéo dài đã phải tập trung phòng chống, khắc phục hậu quả lũ

lụt.

Độ ẩm không khí trung bình hàng năm duy trì ở mức độ cao, khoảng 80 -

90%, tháng 9 là tháng có độ ẩm cao nhất trong năm, thông thường lên tới 90 -

2 Số liệu về chế độ khí hậu thời tiết, do Văn phòng UBND huyện Tân Kỳ cung cấp. Chúng tôi thành thật cảm ơn các

đồng chí đã tận tâm cung cấp số liệu để chúng tôi hoàn thành việc biên soạn nội dung cuốn sách này. NQH.

Page 6: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

93%. Riêng tháng 7 độ ẩm thấp nhất, chỉ đạt khoảng 74%. Lượng nước bốc hơi

hàng năm ước đạt 780mm, chiếm hơn 1/3 tổng lượng mưa hàng năm.

Ngoài gió Phơn Tây Nam, hàng năm Tân Kỳ nói riêng Nghệ An và các tỉnh

ở Bắc Trung Bộ còn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Thường bắt đầu từ

tháng 10 gió mùa Đông Bắc xuất hiện và kéo dài cho đến hết tháng 3: “Rét nàng

Bân” mới kết thúc. Theo số liệu của Cục khí tượng thủy văn Bắc Trung Bộ, hàng

năm Nghệ An thường phải chịu ảnh hưởng của 30 đợt gió mùa Đông Bắc, trong đó

đợt kéo dài có thể lên tới trên 1 tuần, đợt ngắn cũng thường mất 2 - 3 ngày. Tân Kỳ

cũng nằm trong tình trạng chung đó. Những ngày có gió mùa Đông Bắc, trời rét,

nhiệt độ xuống thấp, bầu trời âm u, độ ẩm thấp, gây tác hại không nhỏ đối với cây

trồng, vật nuôi và cả với sức khỏe của con người.

Riêng vùng Giai Xuân, Tân Xuân, Tân Hợp, Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái… mặc

dầu ở liền kề nhau, song chế độ mưa, độ ẩm, nhiệt độ bình quân hàng năm có

những nét khác nhau. Đó chính là nét riêng khá độc đáo mà ta thường bắt gặp khi

nghiên cứu về chế độ thời tiết khí hậu ở các huyện miền núi nói chung và miền núi

Nghệ An nói riêng.

* Tài nguyên đất

Theo số liệu thống kê của UBND huyện Tân Kỳ, trên địa bàn huyện, hiện tại

có các nhóm đất chính sau đây:

- Nhóm đất phù sa: Đất phù sa được bồi đắp hàng năm có diện tích: 3.084ha,

chỉ chiếm 4,23% diện tích đất tự nhiên của huyện. Toàn bộ diện đất đất phù sa

phân bố dọc theo đôi bờ tả hữu sông Con, hay nói cách khác, những cánh đồng phù

sa này là sản phẩm mà dòng sông Con đem ban tặng cho các thế hệ cư dân ở Tân

Kỳ. Đất có độ phì nhiêu cao, được sử dụng từ lâu vào việc trồng mía, lạc, ngô, đậu,

rau, bầu bí,v.v.. mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Tuy nhiên, do

phân bố dọc bờ sông Con nên về mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, mang phù sa

bồi đắp, nhưng cũng làm ngập chìm các loại cây trồng.

Page 7: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

- Đất phù sa không được bồi đắp thường xuyên, có độ Glây mạnh, phân bố ở

các xã Đồng Văn, Tiên Kỳ, Nghĩa Phúc,v.v.. với tổng diện tích là 342ha. Loại đất

này thích hợp cho việc trồng lúa và một số loại cây rau màu khác.

- Đất phù sa không được bồi chua, Glây yếu, có diện tích 3.640 ha, chiếm

4,99% diện tích tự nhiên của toàn huyện. Diện tích đất này phân bố chủ yếu ở các

xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Phúc, Tân Xuân, Giai Xuân.

- Đất phù sa có nhiều sản phẩm Feralít có diện tích 3,731 ha, chiếm 5,12%

diện tích tự nhiên toàn huyện, được phân bố chủ yếu ở hầu hết các xã trên địa bàn

huyện. Loại đất này chủ yếu để trồng lúa và nếu giải quyết tốt nguồn nước tưới có

thể trồng từ 2 - 3 vụ trong năm.

- Nhóm đất vàng: Đất nâu vàng phát triển trên nền phù sa cổ, với 1.312 ha,

chiếm 1,8% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Loại đất này phù hợp cho việc

trồng cây ăn quả như: cam, dứa, cà phê,v.v…

- Nhóm đất lúa vàng vùng đồi núi:

+ Đất Feralít biến đổi do trồng lúa có diện tích 1.470ha, chiếm 2,02% diện

tích tự nhiên, loại đất này chủ yếu là ruộng bậc thang, thường chỉ trồng lúa 1

vụ/năm, cho năng suất không cao.

+ Đất dốc tụ có 75 ha, chiếm 0,1% diện tích tự nhiên của huyện.

- Nhóm đất Fera lít đỏ vàng miền núi bao gồm các loại: đất Feralít đỏ vàng

trên đá kết, có diện tích 1.242 ha… Đất Feralít đỏ vàng trên phiến thạch có: 2.311

ha, chiếm 3,1% diện tích tự nhiên. Đất Feralít đỏ vàng trên đá Mác ma axít có:

6.196ha, chiếm 8,5% diện tích tự nhiên toàn huyện. Đất Feralít phát triển trên nền

đá vôi có 8.332 ha, chiếm 11,43% diện tích đất tự nhiên. Nhóm Feralít xói mòn trơ

sỏi đá có 1.150ha, chiếm 1,58% đất tự nhiên.

- Nhóm đất đen gồm có các loại: Đất đen trên Tuýp có 1.841 ha, chiếm

1,51% đất tự nhiên. Đất đen trên đá Các bon nát có 1.104 ha, chiếm 1,51% đất tự

Page 8: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nhiên toàn huyện. Đất Feralít đỏ vàng ở vùng đồi núi thấp có các loại: đất Feralít

đỏ vàng trên phiến sét có 563ha chiếm 0,77% đất toàn huyện, chủ yếu để phát

triển nông nghiệp; đất Feralít đỏ vàng trên đá cát kết có 3.286 ha, chiếm 4,5%

diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Loại đất này độ mùn thấp, chủ yếu để trồng cây

gây rừng3.

Nguồn tài nguyên đất đai ở Tân Kỳ nhìn chung là khá phong phú, đa dạng

về chủng loại, song ngoài phần đất phù sa dọc sông Con, còn các loại đất khác

phần do khai thác sử dụng lâu dài nên bạc màu, phần do xói mòn rất khó để phát

triển cây trồng. Một diện tích lớn đất đai lại rất khó khăn trong việc chủ động

nguồn nước tưới, do đó, về mùa khô hanh, nắng hạn, tình trạng thiếu nước diễn ra

trầm trọng, rất khó cho việc thâm canh tăng vụ. Hiểu rõ tình trạng đất đai ở Tân

Kỳ, khi đặt chân đến vùng Lèn Rỏi, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng, Nghĩa Đồng, Nghĩa

Hợp,… hay vùng Tân Xuân, Giai Xuân, nhìn những cánh đồng lúa, mía, ngô, lạc,

ớt, sắn, khoai, bầu bí, hay những cánh rừng tràm xanh ngát, ta mới hiểu hết những

nỗ lực của các cấp chính quyền để cùng nhân dân biến đất cằn khô sỏi đá thành

những cánh đồng mang lại hiệu quả kinh tế cao để từng bước thoát khỏi đói nghèo,

đưa Tân Kỳ vươn lên trở thành một vùng quê đẹp về phong cảnh, giàu về kinh tế,

ổn định về chính trị - xã hội và có đời sống dân trí ngày càng cao.

*Tài nguyên nước

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lượng mưa hàng năm bình

quân lên tới 2000 - 2200mm, nên lượng nước trên bề mặt ở Tân Kỳ khá dồi dào.

Sông Con chảy qua địa bàn huyện có chiều dài 65km góp phần không nhỏ trong

việc cung cấp điều hòa lượng nước. Đó là chưa kể tổng chiều dài các khe suối đổ

nước về sông Con trên địa bàn huyện là khoảng 400km cũng góp một phần quan

trọng trong việc duy trì nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất. Trong số hàng chục 3 Số liệu về diện tích và các loại đất đai do Văn phòng UBND huyện Tân Kỳ cung cấp.TG.

Page 9: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

khe suối lớn nhỏ, có 06 con suối nước chảy quanh năm là: khe Lòa, khe Lá, khe

Sanh, khe Thiềm, khe Thần và khe Cừa.

Kể cả sông Con và các khe suối ở Tân Kỳ thường có chung một điểm là lòng

hẹp, dốc, do đó, về mùa mưa lũ, nước dâng cao, chảy xiết, rất khó khăn trong việc

đi lại, thậm chí còn gây ngập úng sạt lở nguy hiểm. Về mùa hanh khô và mùa nắng

nóng, lượng nước nhỏ, nhiều cồn, đụn cát chạy dài ngay giữa lòng sông, cản trở

việc thông thương đi lại. Nhìn chung, sông Con không tạo ra một tuyến đường

thủy quan trọng trên địa bàn mà chỉ có giá trị trong việc cung cấp nguồn nước tưới

phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Để có thể phát triển sản xuất, ổn định đời sống bền vững, lâu dài cho nhân

dân, trong suốt thời gian qua, các cấp chính quyền địa phương cùng nhân dân phát

huy tính chủ động, khai thác nguồn nội lực, tranh thủ mọi sự đầu tư giúp đỡ của

tỉnh và Trung ương, xây dựng cả một hệ thống hồ đập ở nhiều xã với tổng trữ

lượng nước là 47,22 triệu m3. Nhờ hệ thống hồ đập nhân tạo này mà vấn đề nước

tưới phục vụ phát triển nông nghiệp trên địa bàn các xã từng bước đi vào thế chủ

động. Nguồn nước ngầm ở Tân Kỳ tương đối dồi dào, chỉ trừ hai xã là Tân Hợp và

Giai Xuân, qua khảo sát thực tế, nguồn nước ngầm thấp, gây không ít khó khăn

trong việc khai thác nguồn nước ngầm phục vụ đời sống dân sinh.

Công tác nghiên cứu, thăm dò nguồn nước khoáng có sẵn trong thiên

nhiên trên địa bàn huyện đã và đang tiếp tục được tiến hành. Theo kết quả sơ bộ

của các nhà địa chất, ở độ sâu khoảng 250 - 300m vùng giáp với Quỳ Hợp và

khu vực dọc theo Lèn Rỏi có nguồn nước tốt. Đây là một tín hiệu đáng mừng,

bởi đó sẽ là một nguồn tài nguyên quý, góp phần vào việc phát triển kinh tế

huyện trong những năm tới.

* Tài nguyên rừng

Theo tài liệu của người Pháp để lại, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phần

lớn diện tích đất đai ở địa bàn Tân Kỳ ngày nay là những cánh rừng nguyên sinh

Page 10: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

với đủ loại gỗ quý như: lim, dổi, vàng tâm, kiền kiền, đinh hương, dạ hương,…

đến các loại tre, nứa, mét, mây, song. Các loại cây dược liệu để làm thuốc,... Dưới

tán rừng là đủ loại chim thú từ voi, hổ, báo, bò rừng, trâu rừng, lợn rừng,… đến các

loại chồn, cáo, trăn, rắn, chim muông.

Sau khi phong trào chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương của các văn thân sĩ

phu yêu nước tổ chức và lãnh đạo thất bại (1885 -1895), một bộ phận người Thái

từ Như Xuân, Như Thanh, Cẩm Thủy,… Thanh Hóa, người Thổ đến định cư ở

vùng Liên Hoàn xưa cho đến vùng Tân Xuân, Giai Xuân. Họ khai thác các loại gỗ

quý ở những cánh rừng dọc sông Con để làm nhà sàn, trong đó có những cây cao

tới 30 - 40m, đường kính từ 1,5 - 2,5m. Vào những năm 30, 40 của thế kỷ trước số

người Kinh từ các huyện Yên Thành, Đô Lương, Thanh Chương,… lên định cư ở

vùng đất Tân Kỳ ngày càng đông. Thêm vào đó là việc một số điền chủ người

Pháp đến vùng đất Phủ Quỳ và Tân Kỳ ngày nay để chiếm hữu đất đai, lập đồn

điền trồng cao su, cà phê,… Họ đã phải thuê mướn người dân sở tại khai phá rừng

rậm, sau đó, chiếm hữu hàng ngàn ha đất đai để trồng cao su, cà phê, trồng đay,

ngô,… đem về Bến Thủy xuất khẩu kiếm lời. Vùng đất phù sa dưới chân Lèn Rỏi

lên đến vùng Cừa (Nghĩa Hoàn ngày nay) có đồn điền của người Pháp, nhưng

không ít nhân công đã bỏ mạng hoặc phải bỏ về quê vì khí hậu khắc nghiệt, bệnh

sốt rét, vàng da,… hoành hành.

Nguồn lợi gỗ, tre nứa, mét,… ở những cánh rừng dọc theo tuyến đường Hồ

Chí Minh, đoạn chạy qua Tân Kỳ ngày nay, hay ở khu vực Lèn Rỏi, Nghĩa Hoàn

đến Tân Xuân, Giai Xuân,… được nhân dân ở vùng đất Tân Kỳ và cả một số người

ở Thanh Chương, Đô Lương,… ngày nay khai thác để làm nhà và kết bè theo dòng

sông Con, xuôi ra sông Lam đem về xuôi để trao đổi buôn bán. Ngay như trong

thời kỳ kháng chiến chống Pháp, để phục vụ cho chiến dịch Thượng Lào và chiến

dịch Điện Biên Phủ (1953 -1954), tỉnh Nghệ An huy động hàng vạn dân công lên

mở đường Lâm La - Kẻ Bàng để vận chuyển lương thực, thực phẩm,… từ hậu

Page 11: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

phương Nghệ An ra phục vụ chiến trường thì vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn ngày

nay cho đến tận vùng Như Xuân (Thanh Hóa) vẫn còn bạt ngàn những cánh rừng

nguyên sinh, do đó có câu: “Muỗi Lâm La, ma Kẻ Bàng” là để chỉ vùng rừng

thiêng nước độc với bệnh sốt rét, bệnh vàng da.

Do khai thác quá mức, nhất là vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, diện

tích rừng nguyên sinh ở Tân Kỳ ngày càng thu hẹp dần. Trước thực trạng đó, trong

vòng hơn 3 thập kỷ qua các cấp chính quyền và nhân dân địa phương đã làm tốt

công tác giao đất, giao rừng để nhân dân khoanh nuôi, chăm sóc, bảo vệ rừng và

trồng mới rừng trên những vùng đất trống đồi trọc ở tất cả các xã trên địa bàn

huyện. Kết quả, đến năm 2010, diện tích đất lâm nghiệp của huyện lên tới 37.306,8

ha, chiếm tới 60,43% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Trong đó, độ che phủ

của rừng năm 2000 chỉ chiếm 21,56% đã tăng lên 26,56% năm 2005 và đến năm

2010 diện tích rừng che phủ đã đạt đến 31,7%. Theo số liệu thống kê của UBND

huyện Tân Kỳ, đến cuối năm 2012, diện tích che phủ của rừng ở Tân Kỳ đã đạt

33,5% . Huyện Tân Kỳ đang phấn đấu để đến năm 2015 đưa diện tích che phủ của

rừng trên địa bàn huyện lên tới 37 - 38%.

Công tác giao đất, giao rừng ở Tân Kỳ được tiến hành sớm, nhận được sự

đồng thuận của đông đảo nhân dân trên địa bàn tất cả các xã, nhờ đó, độ che phủ

của rừng tăng nhanh, liên tục trong nhiều năm. Hiện nay, có nhiều hộ dân ở Nghĩa

Dũng, Tân Hợp, Tân Xuân, Giai Xuân,… đang nhận khoanh nuôi, bảo vệ từ 5 - 25

ha rừng. Nhiều cánh rừng Keo tràm, Bạch đàn đã cho thu hoạch. Các chủ rừng bắt

đầu có được nguồn lợi ổn định từ rừng. Trong khoảng 15 năm lại nay, ngoài việc

phát triển rừng Keo tram, Bạch đàn,… nhân dân Tân Kỳ đang khôi phục lại những

cánh rừng tái sinh, trồng mới lát hoa, dổi,… và chỉ trong khoảng vài thập kỷ tới số

diện tích rừng tái sinh này sẽ mang lại hiệu quả cao về kinh tế. Đây thực sự là một

hướng đi đúng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tân Kỳ từ cuối thế kỷ XX

Page 12: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

đầu thế kỷ XXI trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững trên địa bàn huyện

theo mô hình: Nông - Lâm nghiệp kết hợp mà đại hội Đảng bộ các cấp đề ra.

* Tài nguyên khoáng sản

Theo kết quả khảo sát, thăm dò của phòng Tài nguyên môi trường huyện

Tân Kỳ và Sở Tài nguyên môi trường Nghệ An, hiện tại, nguồn tài nguyên khoáng

sản ở Tân Kỳ tập trung chủ yếu vào một số loại sau đây:

- Đá Vôi: phân bố chủ yếu ở khu vực Lèn Rỏi, có trữ lượng khoảng 2,8 tỷ

tấn. Đá vôi ở Lèn Rỏi có chất lượng tốt để sản xuất xi măng. Trong thời gian qua,

một số mỏ đá vôi đã được cấp phép để khai thác nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng

nhà cửa, cầu cống, đường giao thông,… trên địa bàn huyện. Quy mô của các mỏ đá

tương đối nhỏ, sản lượng khai thác hàng năm đủ đáp ứng cho nhu cầu của nhân

dân trên địa bàn huyện.

- Mỏ đất Sét ở Lèn Rỏi: có trữ lượng khoảng 760 triệu tấn. Loại đất sét này

cung cấp cho các nhà máy xi măng để làm chất phụ gia.

- Ngoài ra còn có một số khoáng sản như cát, sạn dọc sông Con, các khe

suối, đá Granít, đá trắng,… ở Đồng Văn, Tiên Kỳ, Tân Hợp, Tân Phú và một số địa

phương khác.

Thiên nhiên không có sự ưu đãi đặc biệt cho các thế hệ cư dân sinh sống và

lập nghiệp ở vùng đất Tân Kỳ xưa và nay. Song với truyền thống lao động cần cù,

sáng tạo, tinh thần đoàn kết, từ bao đời nay các thế hệ người Kinh, người Thái,

người Thổ sống trên vùng đất Tân Kỳ đã chung lưng đấu cật khai phá núi rừng, cải

tạo đồng chua phèn, ruộng bậc thang, ngăn chặn lũ lụt, đào kênh mương dẫn nước,

tưới tiêu cho đồng ruộng,… dựng làng, lập bản, chống chọi với rừng thiêng nước

độc, bệnh tật thú dữ,… từng bước tạo lập cuộc sống. Mồ hôi, trí tuệ của lớp lớp

cha ông đã biến những bãi bồi dọc sông Con, những cánh đồng bậc thang dọc các

thung lũng núi và cả những sườn đồi núi dốc,… thành những cánh đồng lúa 2 - 3

vụ trong năm, những bãi mía, nương ngô, đồng lạc, đậu,v.v… và cả những cánh

Page 13: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

rừng xanh ngát màu xanh của cuộc sống. Đất và người Tân Kỳ xưa và nay gắn kết,

thủy chung và chính trên vùng đồi núi điệp trùng ấy các thế hệ cư dân tiếp nối đã,

đang viết nên những bài ca lao động sáng tạo để đưa Tân Kỳ vững bước đi tới trên

bước đường hội nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới.

* Đường giao thông

So với một số huyện miền núi phía Tây Nghệ An, huyện Tân Kỳ có hệ thống

đường bộ khá phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, vận chuyển

hàng hóa, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân. Trong hệ thống đường bộ ở Tân

Kỳ, có các tuyến đường chính yếu sau đây:

- Đường Hồ Chí Minh - “con đường huyền thoại” đoạn chạy qua Tân Kỳ có

chiều dài 38 km cho phép đi từ thị trấn Lạt ra thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc

một cách thuận lợi. Nếu đi theo hướng Nam, người ta có thể dễ dàng đi từ km 0 ở

thị trấn Tân Kỳ vào hầu hết các tỉnh phía Nam.

- Đường tỉnh lộ 545 nối Tân Kỳ - Đô Lương - Nghĩa Đàn, đoạn chạy qua địa

phận Tân Kỳ dài 28 km, nối liền với quốc lộ 7 với quốc lộ 48. Tân Kỳ ngày nay, đi

từ km 0 về Đô Lương, sau đó có thể ngược lên Anh Sơn, Con Cuông,... theo đường

quốc lộ 7; hoặc từ đó theo quốc lộ 7 về Diễn Châu đi vào Vinh với chiều dài

khoảng 100km. Người ta cũng có thể đi từ Km 0 về Đô Lương, sau đó đi về Nam

Đàn, Hưng Nguyên, Vinh, qua dốc Truông Bồn huyền thoại với tinh thần quả cảm

của 13 nữ thanh niên xung phong đã anh dũng ngã xuống trước bom đạn kẻ thù và

cả hàng ngàn thanh niên xung phong anh dũng bám đường, thông xe trên tuyến

đường chiến lược nối Tân Kỳ - Đô Lương - Nam Đàn - Đức Thọ - Can Lộc,…

trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

- Đường liên xã nối từ huyện lỵ Tân Kỳ đi các xã trên địa bàn, và từ các xã

trong vùng, có 11 tuyến, với tổng chiều dài gần 200km, phần lớn đã được rải nhựa,

hoặc bê tông, có chiều rộng từ 4 - 8m đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, giao

lưu văn hóa, phục vụ sản xuất và khá thuận lợi cho các phương tiện cơ giới chuyên

Page 14: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

chở hàng hóa, vật liệu xây dựng,… Các tuyến đường này còn đóng vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo quốc phòng an ninh.

Với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong khoảng 20 năm

qua, các tuyến đường liên xã, liên thôn trên địa bàn huyện được mở rộng từ 4,5m -

6m, nhiều tuyến đường được bê tông hóa không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế, văn

hóa phát triển mà còn làm thay đổi diện mạo nông thôn ở Tân Kỳ. Trong đó, tuyến

đường từ thị trấn Lạt lên Cừa, đi vào các xã vùng cao của huyện thực sự là một

huyết mạch giao thông quan trọng.

Hình ảnh những con đường nhỏ hẹp len lỏi giữa những cánh rừng hay những lối

mòn nhỏ, chạy men theo bờ sông Con, men theo sườn núi, bờ ruộng nối xã này, xã

khác, làng này sang làng khác của 30 - 40 năm trước đã lùi xa, nếu có, chỉ còn lại

trong ký ức của những người cao tuổi. Hệ thống giao thông đường bộ đã và đang

đóng vai trò thúc đẩy đời sống kinh tế, văn hóa ở Tân Kỳ phát triển và xóa đi hình

ảnh một Tân Kỳ xa xôi, hẻo lánh với bao vất vả, gian truân trước đây trong ký ức

của những người từng đặt chân đến vùng đất này cách đây 30 - 40 năm, tạo nên

một dáng vóc mới cho huyện miền núi Tân Kỳ trên bước đường công nghiệp hóa -

hiện đại hóa đất nước.

2. Vài nét về dân cư

Theo khảo sát nghiên cứu của các nhà khảo cổ học người Pháp và các nhà

khảo cổ học, sử học, dân tộc học, xã hội học Việt Nam tại các di chỉ khảo cổ

học ở Thẩm Ôm, Thẩm Bua (Quỳ Châu), Làng Vạc (Nghĩa Đàn), Đồng Trương

(Hội Sơn, Anh Sơn), Lèn Chùa (Tân Kỳ),v.v… cách đây hàng chục vạn năm

trên vùng đất thuộc các huyện miền núi phía Tây Nghệ An nói chung, Nghĩa

Đàn, Tân Kỳ nói riêng đã xuất hiện các nhóm người tối cổ 4. Họ chính là chủ

4.Vấn đề các nhóm người Việt cổ cư trú ở vùng Quỳ Châu - Quế Phong, Nghĩa Đàn - Tân Kỳ được trình bày trong

cuốn: “ Lịch sử Nghệ Tĩnh” Tập 1, NXB Nghệ Tĩnh, 1984, “ Lịch sử Đảng bộ Nghệ An”, Tập 1 và nhiều công trình,

bài viết khác. Do khuôn khổ cuốn sách, chúng tôi xin phép không đi sâu trình bày về vấn đề này. TG.

Page 15: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nhân tạo ra nền văn hóa bản địa từ thời kỳ đồ đá đến thời đại đồ đồng, đồ sắt

trên vùng rừng núi điệp trùng, hùng vĩ và rộng mênh mông này. Trong buổi đầu

của bình minh lịch sử những bầy người nguyên thủy sống dựa vào các hang

động, mái đá, cuộc sống của họ dựa vào việc săn bắt hái lượm, khai thác các

nguồn lợi sẵn có trong tự nhiên. Trải qua hàng vạn năm khai thác, chinh phục,

cải tạo tự nhiên để sinh tồn, các tộc người tối cổ sống trên vùng đất này dần dần

thoát khỏi đời sống săn bắt, hái lượm, chuyển sang săn bắn, trồng trọt và chăn

nuôi. Họ rời khỏi hang động, mái đá đi xuôi dòng sông Lam và các nhánh sông

phụ của con sông huyền thoại đứng hàng thứ ba trong hệ thống sông của nước ta

(sau sông Cửu Long và sông Hồng) về các huyện trung du, đồng bằng để sinh

sống. Tại Bảo tàng tổng hợp Nghệ An, hiện đang trưng bày hàng ngàn hiện vật

từ thời đại đồ đá như các mảnh tước, rìu đá, cuốc đá, chày đá,… đến rìu đồng,

lưỡi dao găm bằng đồng, lưỡi cày đồng, trống đồng, thạp đồng,v.v… phát hiện

được tại các di chỉ khảo cổ ở các huyện miền núi Nghệ An nói chung và không

ít hiện vật thời đại đá, thời đại đồ đồng tìm thấy ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ nói riêng,

là minh chứng cho sự phát triển liên tục và bền vững của dòng văn hóa - văn

minh bản địa mà tổ tiên xưa đã tạo nên cách ngày nay hàng chục vạn năm.

Cũng có giả thiết cho rằng, so với vùng đất Quỳ Châu - Quế Phong, vùng

đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn dấu tích con người định cư muộn hơn và có thể phải đến

giai đoạn đá muộn - sơ kỳ đồ đồng các nhóm người Việt cổ mới đến định cư tại

đây? Từ kết quả nghiên cứu các hiện vật tìm thấy tại di chỉ Thẩm Ồm, Thẩm Bua,

Đồng Trương, Làng Vạc, Lèn Chùa,v.v… của thời đại đá và thời đại đồ đồng các

nhà khảo cổ học, dân tộc học và sử học đã thống nhất ý kiến khi khẳng định nền

văn hóa - văn minh mà các tộc người đầu tiên định cư trên vùng đất Nghĩa Đàn -

Tân Kỳ nói riêng, miền núi phía Tây Nghệ An nói chung tạo ra là hết sức phong

Page 16: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

phú, đa dạng và họ đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hình thành, bảo vệ nhà

nước Văn Lang - Âu Lạc từ thời Hùng Vương, An Dương Vương.

Trải bao thăng trầm biến đổi của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,

thành phần cư dân sinh sống lập nghiệp trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay có nhiều

thay đổi. Không ít người từ vùng đất Tân Kỳ di cư về các huyện đồng bằng hoặc đi

đến các huyện Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Anh Sơn,… và cả các địa phương khác trong

cả nước sinh sống. Và cũng không ít người từ nhiều vùng miền khác đến định cư,

lập nghiệp trên vùng đất Tân Kỳ5.

Qua khảo sát, đến nay, thành phần dân cư ở Tân Kỳ chủ yếu tập trung vào 3

dân tộc là: Kinh, Thái, Thổ. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm tới 82% dân số toàn

huyện, có mặt ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện. Về nguồn gốc người Kinh sống

ở Tân Kỳ, ngoài một số dòng họ như: Trần, Lê, Phạm, Phan, Nguyễn,v.v… định

cư ở Tân Kỳ từ 12 - 15 đời hoặc ít hơn là 8 - 10 đời theo phả tộc, còn có khá đông

người Kinh từ các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Yên Thành,

Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,… đến định cư ở đây mới khoảng vài chục

năm. Một số ít người Kinh từ Thanh Hóa, Hà Tĩnh và một số tỉnh thành khác vì

những lý do khác nhau cũng đến định cư ở Tân Kỳ trong khoảng nửa thế kỷ lại

nay.

Ngoài cư dân bản địa, dòng người thuộc dân tộc Kinh đến định cư ở Tân Kỳ

từ cuối thế kỷ XIX đến nay tập trung vào các giai đoạn chủ yếu sau đây:

5 . Mặc dầu ngành khảo cổ học và dân tộc học, sử học đã đạt được nhiều thành tựu khi nghiên cứu về vùng núi Nghệ

An nói chung và Tân Kỳ - Nghĩa Đàn nói riêng. Tuy nhiên, các cuộc khai quật khảo cổ trên địa bàn Tân Kỳ còn rất

khiêm tốn, mà chỉ tập trung ở Làng Vạc, Thẩm Ồm, Thẩm Bua, Đồng Trương,… do đó giả định cho rằng người đến

định cư ở Tân Kỳ - Nghĩa Đàn có thể muộn hơn so với vùng Quỳ Châu – Quế Phong, theo chúng tôi là cần phải tiếp

tục trao đổi khi mà hệ thống hang động dọc khu vực Lèn Rỏi chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, đồng

bộ.TG.

Page 17: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

- Sau khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn và Đặng Như Mai năm 1874 và

sau thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp (1885 - 1895), để tránh sự

thảm sát của Pháp và triều đình, một số nghĩa quân tham gia khởi nghĩa Giáp

Tuất, phong trào Cần Vương trên địa bàn các huyện Nam Đàn, Đô Lương,

Thanh Chương,Yên Thành, Hưng Nguyên, Quỳnh Lưu, Diễn Châu,v.v… cùng

gia đình của họ buộc phải rời bỏ quê hương trốn lên định cư dọc đôi bờ sông

Con, khu vực Lạt, Cừa,v.v… Con cháu của những gia đình này có mối liên hệ

khá bền chặt với anh em nội ngoại ở quê cũ. Một số họ đã phân nhánh và lập họ

(Trung chi, hoặc Tiểu chi), hàng năm vào rằm tháng 10, rằm tháng 12, rằm

tháng giêng, hay tết nguyên đán, anh em con cháu thường tụ họp tại nhà thờ để

thăm hỏi, chúc tết hoặc tiến hành nghi lễ cúng tế tổ tiên. Số người này đã đến

định cư ở Tân Kỳ hơn một thế kỷ.

- Cùng với công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được tư bản Pháp tiến

hành trên phạm vi toàn Đông Dương, sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất (1918)

kết thúc, một số tập đoàn tư bản Pháp đổ vốn đầu tư vào khu vực Vinh - Bến Thủy,

biến đây thành trung tâm công nghiệp - giao thông vận tải - thương mại lớn nhất ở

vùng Bắc Trung Kỳ; một số điền chủ người Pháp cấu kết với bộ máy chính quyền

bao chiếm hàng vạn ha đất đai ở vùng Phủ Quỳ để làm đồn điền. Trại Lạt, Trại

Cừa và vùng đất phù sa dọc sông Con nằm trong tầm mắt của các điền chủ người

Pháp. Bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt các điền chủ người Pháp đã bao chiếm phần

lớn diện tích đất đai màu mỡ ở đây, thuê nhân công, phát cây, trồng ngô, lạc, đay,

thầu dầu, cà phê, cao su,v.v… chăn nuôi gia súc như trâu, bò. Theo báo cáo của Sở

Công chính Trung Kỳ, đến năm 1928, riêng vùng đất Nghĩa Đàn có tới 10 đồn điền

lớn, chiếm tới 14.700ha6. Trên vùng đất các xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Hợp hiện nay 6. Tham khảo: Bành Thị Thúy Hà: Đồn điền của người Pháp ở Phủ Quỳ. Luận văn tốt nghiệp Cao học Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Lưu tại thư viện Đại học Vinh.

Page 18: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

có đồn điền của Gom be (Gombert) .Vùng đất Tân Phú, Nghĩa Hoàn, Tân Long,

Nghĩa Đồng có đồn điền của Pa pa Đa tô (Papa Zato). Giống như hệ thống đồn

điền ở Phủ Quỳ, cuộc sống của công nhân đồn điền ở đây hết sức cực khổ, bệnh

tật, đói rét hoành hoành, nhiều người bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc, nhiều

người phải phiêu tán đi nơi khác. Sau khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, các ông

chủ đồn điền người Pháp ở Tân Kỳ phải bán lại đồn điền này cho người khác. Đến

cách mạng tháng Tám năm 1945, trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay còn tồn tại hai

đồn điền là Vực Rồng và Đào Nguyên.

Sự xuất hiện ngày càng nhiều các đồn điền của các điền chủ người Pháp ở

Phủ Quỳ nói chung và vùng đất Tân Kỳ nói riêng trong những năm 20 - 30 của thế

kỷ trước đã kéo theo sự thay đổi về thành phần dân cư trên vùng đất này. Nhiều

người từ các huyện miền xuôi của Nghệ An, lên định cư tại vùng đất Tân Kỳ. Cũng

có một số người từ tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ vào sinh sống lập

nghiệp tại đây. Tuy nhiên, số công nhân đồn điền này sống tập trung chủ yếu ở

vùng Nghĩa Đàn, riêng ở Tân Kỳ số lượng không đông và chủ yếu cư trú ở khu vực

quanh các đồn điền.

- Khi hòa bình lập lại, công cuộc tái thiết miền Bắc được thực hiện với nhịp

độ khẩn trương. Ở nửa sau thập kỷ 50 và thập kỷ 60 của thế kỷ trước, theo tiến gọi

của Đảng, nhiều nam nữ thanh niên ở các huyện miền xuôi Nghệ An tình nguyện

lên xây dựng vùng nông trường và kinh tế mới ở vùng Phủ Quỳ xưa, trong đó có

Tân Kỳ. Các nông trường Tây Hiếu, Nông trường Đông Hiếu, nông trường Cờ Đỏ,

nông trường sông Con, nông trường An Ngãi, v.v… dần dần được thành lập. Ngoài

lực lượng thanh niên Nghệ An tình nguyện, trong số hàng vạn công nhân nông

trường ở vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ còn có một lực lượng đông đảo cán bộ,

đảng viên và nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc theo hiệp định Giơ ne vơ. Nông

trường sông Con, nông trường An Ngãi ra đời trong bối cảnh lịch sử miền Bắc gấp

rút xây dựng HTX, hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -1964). Ngoài

Page 19: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

ra, trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay còn có một số lượng khá đông đảo nhân dân An

Ngãi, nhân dân Vĩnh Linh, Cam Lộ, Do Linh,… ra sinh sống, lập nghiệp trong thời

kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một lần nữa vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn

được bổ sung một lực lượng dân cư khá đông đảo.

- Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương phân

bố lại dân cư của Đảng, Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh chủ trương đưa một số lượng lớn

dân cư ở Nghệ An, Hà Tĩnh đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Đắc Lắc và các

huyện miền núi phía Tây Nghệ Tĩnh. Vùng đất Tân Kỳ là nơi dừng chân của

nhiều hộ gia đình ở Đô Lương, Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh

Chương, Nam Đàn,v.v… Chỉ trong vòng khoảng 20 năm (1975 - 1995), dân số

Tân Kỳ tăng nhanh một phần do tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao; kéo dài trong

nhiều năm; một phần do di dân tự do.

Từ năm 1995 đến nay, lực lượng di dân tự do lên Tân Kỳ ngày càng ít. Dân

số ở Tân Kỳ tăng chậm vì thực hiện chính sách sinh đẻ có kế hoạch đạt được nhiều

kết quả cao trong suốt nhiều năm. Tân Kỳ được coi là quê của muôn quê.

Từ khi chọn Tân Kỳ làm quê hương mới, những người dân sống ở đây dù ở

Nam hay ở Bắc, dù ở các huyện miền xuôi Nghệ An hay dân bản địa đều đoàn

kết, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, cần cù sáng tạo cùng chung tay góp sức

xây dựng, bảo vệ quê hương.

* Vài nét về nguồn gốc, quá trình định cư của dân tộc Thái ở Tân Kỳ

Kết quả nghiên cứu của các nhà sử học và dân tộc học trong suốt thời gian

qua đã khẳng định, dân tộc Thái vào định cư ở nước ta từ khá sớm. Một số ý kiến

cho rằng, người Thái định cư ở nước ta hiện nay có nguồn gốc từ vùng Vân Nam -

Quý Châu (Trung Quốc) và từ Lào sang. Riêng số đồng bào Thái định cư ở các

huyện miền núi phía Tây Nghệ An nói chung, Tân Kỳ nói riêng, được các nhà sử

học và dân tộc học thống nhất là vào khoảng cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII. Cũng

Page 20: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

có một số ý kiến cho rằng, phải đến thế kỷ XV - XVI đồng bào Thái mới đến vùng

miền núi Nghệ An để định cư. Nhiều giả thiết khoa học cho rằng, chính vùng đất

Quế Phong - Quỳ Châu ngày nay là nơi mà đồng bào Thái ở Nghệ An đến định cư

sớm nhất7.

Dân tộc Thái định cư ở Nghệ An thuộc nhiều nhóm khác nhau, nhưng tập

trung vào ba nhóm địa phương chính là:

- Nhóm Tày Mường hay còn gọi là Tày Chiềng, Hàng Tổng, Nhà Làng.

- Nhóm Tày Thanh hay còn gọi là Man Thanh.

- Nhóm Tày Mười.

+ Nhóm Tày Mường hay Tày Chiềng thường gọi là nhóm Thái Trắng được

nhiều nhà khoa học cho rằng, nhóm đến định cư ở vùng Con Cuông, Tương Dương

từ thế kỷ XIII - XIV. Trong “Đại Việt sử ký toàn thư”8 và “Lam Sơn thực lục”,9 có

chép về tù trưởng Cầm Quý đem lực lượng theo nghĩa quân Lam Sơn và cả sự giúp

đỡ của đồng bào các dân tộc miền núi ở miền Tây Nghệ An đối với nghĩa quân

Lam Sơn vào năm 1424.

Ở Quế Phong, Quỳ Châu, nhóm Tày Mường, chọn vùng đất Mường Nọc

làm nơi định cư khi họ đặt chân đền vùng đất Nghệ An. Nhiều giả thiết cho rằng,

vùng Châu Tiến, Châu Bình, Quỳ Châu ngày nay thuộc vùng đất Mường Chiềng

7 Về nguồn gốc người Thái đến định cư ở các huyện miền núi Nghệ An đã được trình bày trong sách: “ Các dân tộc

ít người ở Việt Nam”, do NXBKHXH, Hà Nội, phát hành năm 1978 và: “ Sổ tay các dân tộc ở Việt Nam”

NXBKHXH, Hà Nội, 1980 và trong Luận án Phó Tiến sĩ: “ Các dân tộc ít người ở miền núi Nghệ An” của Nguyễn

Đình Lộc, cùng nhiều công trình của Cầm Trọng, Nghiêm Đình Vạn,v.v.. trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí

Dân tộc học trong thời gian qua, chúng tôi xin phép không đi sâu trình bày về vấn đề này. TG.8 ? Tham khảo: Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê: “ Đại Việt sử ký toàn thư”, phần: “ Kỷ nhà Lê”, NXB KHXH,

Hà Nội, 1998.9 Tham khảo: Nguyễn Trãi: “ Lam Sơn thực lục” bản dịch của…. NXB KHXH, Hà Nội, 2002. Ngoài Cầm Quý,

trên địa bàn các huyện miền núi Nghệ An còn có một số tù trường người Thái tham gia nghĩa quân Lam Sơn, được

Lê Lợi phong thưởng. Do khuôn khổ cuốn sách chúng tôi xin phép không trình bày chi tiết về vấn đề này. TG.

Page 21: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Ngâm và Mường Choong (tức Mường Khủn Tinh, thuộc Quỳ Hợp ngày nay là

những địa bàn mà người Thái đã đến định cư cách ngày nay nhiều thế kỷ. Từ vùng

đất Quỳ Châu, Quỳ Hợp, người Thái di cư đến định cư ở phần đất thuộc nhiều

huyện miền núi Nghệ An, khai sơn phá thạch, dựng bản, lập làng. Khi Lê Lợi và

bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn chuyển vào hoạt động trên vùng đất Quỳ Châu,

Quế Phong,… làm nên:

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật

Miền Trà Lân (Trà Long) trúc chẻ tro bay

(Cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi)

Vùng đất Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tương Dương, Kỳ Sơn, Con

Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ,v.v… người Thái đã khá đông đúc và có không ít tù

trưởng, nghĩa dũng ở vùng đất này đã trực tiếp tham gia các trận đánh của nghĩa

quân Lam Sơn, lập được nhiều chiến công, được Lê Lợi phong thưởng, trước và

sau khi lên ngôi Hoàng Đế, mà chúng tôi xin phép không đi sâu trình bày ở đây10.

+ Nhóm Tày Thanh còn gọi là Man Thanh, có nguồn gốc chủ yếu từ Mường

Thanh, Điện Biên , di cư vào vùng đất Nghệ An. Chúng tôi cho rằng, nhóm này có

thể di cư theo cả hai con đường: từ Mường Thanh vào Thanh Hóa, vào Nghệ An;

hoặc từ Mường Thanh qua Lào, sau đó vào Nghệ An. Tiến sỹ dân tộc học Nguyễn

Đình Lộc trong công trình nghiên cứu: “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An” đã vẽ

nên con đường thiên di của dân tộc Thái nói chung và nhóm Man Thanh nói riêng

vào vùng miền núi phía Tây Nghệ An và vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ cách ngày

nay khoảng 400 năm.

10 Tham khảo: Địa chí huyện Quỳ Châu, NXBKHXH, Hà Nội, 2012, Địa chí huyện Quỳ Hợp, Lịch sử huyện Đảng

bộ huyện Quỳ Châu, Lịch sử huyện Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn tập 1, Lịch sử huyện Đảng bộ huyện Con Cuông,

LỊch sử huyện Đảng bộ huyện Tân Kỳ, tập 1,v.v…

Page 22: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

+ Nhóm Tày Mười: Nhóm Tày Mười ở Nghệ An có nguồn gốc chủ yếu ở

vùng Tây Bắc theo con đường thiên di vào Thanh Hóa rồi đi dần đến Nghệ An.

Nhóm này cũng định cư ở Nghệ An khá sớm, có thể là trên 400 năm.

Tóm lại, các nhà sử học và dân tộc học tuy còn có một số vấn đề trao đổi

thảo luận về nguồn gốc, con đường và thời gian xuất hiện của người Thái trên đất

Nghệ An, song nhìn chung, họ đều thống nhất là người Thái vào Nghệ An có

nguồn gốc chủ yếu ở Tây Bắc và Lào. Nguyên nhân các nhóm người Thái vào định

cư ở Nghệ An khác nhau và thời gian cũng khác nhau, song người Thái ở Nghệ An

ít nhất có lịch sử định cư ở Nghệ An khoảng 400 - 500 năm.

Trong cuộc điều tra dân số ngày 1/4/1989, số người Thái định cư trên địa

bàn huyện Tân Kỳ lên tới 10.000 người. Hiện Nay, số người Thái ở Tân Kỳ có:…..

Theo ý kiến của PGS Ninh Viết Giao, trong cuốn: “Tân Kỳ truyền thống và làng

xã”, do nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội phát hành năm 1992, người Thái ở

Tân Kỳ tập trung vào hai nhóm Thái Đen tức Man Thanh, Thái Trắng tức Tày

Chiềng và Tày Mường, không có người Tày Mười, Tày Khăng hay Tày Puộc, Tày

Pao,… Tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc và một số nhà nghiên cứu dân tộc học khác cũng

đồng nhất với quan điểm này11.

Do quá trình cộng cư lâu dài, hiện tại người Thái ở Tân Kỳ sống xen kẽ với

người Kinh ở địa bàn các xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Thái, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Bình,

Phú Sơn (nhóm Thái Đen). Qua khảo sát thực tế trên địa bàn, hiện nay, số người

Thái sống ở các xã này nói riêng và vùng Anh Sơn, Con Cuông, Quỳ Hợp, Nghĩa

Đàn,Tân Kỳ,… đang bị “Kinh hóa” nhanh chóng mà biểu hiện là đại bộ phận

người Thái ở đây không còn biết chữ viết của tổ tiên họ, mà họ chỉ biết nói tiếng

11 Nguyến Đình Lộc: Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An. Nhà xuất bản Nghệ An, 2008. Vấn đề nguồn gốc, thời gian

định cư của các nhóm người Thái trên địa bàn Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn,… còn được trình bày trong

các bài viết của một số nhà sử học, dân tộc học đăng trên tạp chí Dân tộc học. Do khuôn khổ cuốn sách chúng tôi

xin phép không trình bày kỹ về vấn đề này. TG.

Page 23: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Thái, số nhà sàn cũng ít dần, trang phục, phong tục, tập quán cũng đã thay đổi rất

nhiều so với vài chục năm trước đây.

Nhóm Thái Trắng sống tập trung ở xã Đồng Văn và xã Tiên Kỳ. Đầu thế kỷ

XXI, khi thu thập tư liệu để biên soạn “Lịch sử đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa

Hoàn (1930 - 2005)”, “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Hợp (1930 -

2005)”, chúng tôi có điều kiện được tiếp xúc với một số cụ cao tuổi là người dân

tộc Thái sống ở xã Nghĩa Hoàn, Nghĩa Dũng, Nghĩa Thái,… họ cho rằng, người

Thái ở Tân Kỳ có lịch sử lâu đời và có quan hệ huyết thống với người Thái ở Quỳ

Hợp, Nghĩa Đàn, Con Cuông,… đặc biệt là người Thái ở Như Thanh, Như Xuân,

Cẩm Thủy,… (Thanh Hóa). Theo các cụ, ngoài số người Thái định cư lâu đời trên

đất Tân Kỳ, có một bộ phận người Thái ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn ngày nay, mới di cư

đến sinh cơ lập nghiệp tại Nghĩa Đàn - Tân Kỳ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ

XX. Theo giải thích của các cụ, nguyên nhân thứ nhất là trong phong trào Cần

Vương chống Pháp (1885 -1895), nhiều người Thái ở vùng núi phía Tây Thanh

Hóa tham gia cuộc khởi nghĩa của Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân.

Khi bị Pháp đàn áp, vợ con, gia định họ đã rời Thanh Hóa, chạy vào vùng Nghĩa

Đàn - Tân Kỳ ngày nay sinh sống trong các bản làng người Thái đã đến đó định cư

từ trước và có quan hệ gần gũi với họ. Thứ hai, là đầu thế kỷ XX, khi người Pháp

chiếm đất, mở đồn điền ở vùng Phủ Quỳ, một bộ phận người Thái từ Thanh Hóa

vào Nghĩa Đàn - Tân Kỳ và sinh cơ lập nghiệp tại đây.

Trên cơ sở đối sánh nhiều nguồn tư liệu, chúng ta có thể khẳng định dân tộc

Thái đã đến định cư ở vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn và các huyện miền núi ở Nghệ

An từ khá sớm. Theo dòng lịch sử, vì nhiều nguyên nhân, cho đến cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX, vùng đất Tân Kỳ và Nghĩa Đàn nói riêng, miền núi Nghệ An nói

chung vẫn là một trong những địa bàn di cư của người Thái. Điều khá thú vị là

người Thái chỉ dừng lại ở Tân Kỳ, Anh Sơn,… mà không tiếp tục men theo dãy

Trường Sơn để đến định cư ở Thanh Chương, hay vùng đất Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Page 24: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Đến định cư ở Tân Kỳ trong những khoảng thời gian khác nhau và từ nhiều

vùng miền khác nhau, người Thái ở đây đã phát huy truyền thống lao động cần cù

sáng tạo, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng để cùng chung lưng đấu cật với

người Kinh, người Thổ, khai thiên lập địa, lập bản, dựng làng, từng bước ổn định

đời sống văn hóa vật chất, tinh thần, góp phần xây dựng, bảo vệ, phát triển vùng

đất Tân Kỳ ngày càng giàu đẹp.

* Vài nét về nguồn gốc, quá trình định cư của dân tộc Thổ ở Tân Kỳ

Dân tộc Thổ là một cộng đồng dân cư, gồm các nhóm người mang tên: Kẹo,

Mọn, Cuối, Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng. Dân tộc này sống tập trung trên địa

bàn các huyện: Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Con Cuông và một số ít sống ở

huyện Tương Dương. Số liệu điều tra của Ban dân tộc miền núi tỉnh Nghệ -Tĩnh

năm 1989, cho biết đến thời điểm đó, số người Thổ sinh sống trên địa bàn Nghệ

Tĩnh lên tới 40.445 người. Riêng ở Tân Kỳ, năm 2012, số đồng bào Thổ có:…..

người, sống tập trung ở các xã Giai Xuân, Tân Xuân, Tân Hợp và một số đồng bào

Thổ sống rải rác ở các xã Đồng Văn, Nghĩa Phúc, Nghĩa Hoàn.

Từ trước tới nay, không ít nhà dân tộc học và sử học đã có sự tranh luận về

nguồn gốc của người Thổ ở Nghệ An nói chung và Tân Kỳ nói riêng. Do sự khác

nhau trong tên gọi của các nhóm người Thổ, nên việc nghiên cứu về nguồn gốc của

dân tộc Thổ ở Tân Kỳ nói riêng và Nghệ An nói chung gặp không ít khó khăn,

thậm chí là các ý kiến ngược chiều nhau. Tên gọi dân tộc Thổ đã được nhà nước

công nhận từ năm 1975, nhưng cho đến nay, một số nhà dân tộc học vẫn chưa thể

đi tới thống nhất về nguồn gốc của dân tộc này12.

Từ kết quả nghiên cứu về người Thổ ở miền Tây Nghệ An của PGS Ninh

Viết Giao, TS Nguyễn Đình Lộc, GS Đặng Nghiêm Vạn,… và Ban dân tộc miền

12 Tham khảo: Bùi Dương Lịch: “Nghệ An ký”, NXBKHXH, H, 1993 Ninh Viết Giao: “Tân Kỳ làng xã và truyền

thống”, sdd, Nguyễn Đình Lộc: “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An” sdd, v.v…

Page 25: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

núi tỉnh Nghệ Tĩnh trước đây (1975 -1991), Nghệ An từ 1991 đến nay, đối chiếu

với một số tài liệu nghiên cứu về ngôn ngữ, tài liệu điền dã trên địa bàn Tân Kỳ,

Nghĩa Đàn, Con Cuông, chúng tôi có một số ý kiến về nguồn gốc của các nhóm

người Thổ định cư ở Nghĩa Đàn - Tân Kỳ và một số huyện lân cận như sau:

-Một bộ phận khá đông đồng bào Thổ ngày nay có nguồn gốc là người Kinh

ở huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn,

Thanh Chương,… lên định cư ở Tân Kỳ - Nghĩa Đàn, Con Cuông, Quỳ Hợp

khoảng từ thế kỷ XIX, tức là mới có lịch sử hình thành khoảng 150 - 180 năm.

Nguyên nhân họ buộc phải bỏ quê hương đồng bằng ngược lên sinh sống tại đây có

thể là do mất mùa, dịch bệnh, nhưng theo chúng tôi nguyên nhân chính là để tránh

các cuộc đàn áp của triều đình nhà Nguyễn khi họ hoặc người thân trong gia đình

họ tham gia vào các cuộc khởi nghĩa nông dân để chống lại triều đình. Một bộ

phận khác rời các huyện đồng bằng vào cuối thế kỷ XIX, khi khởi nghĩa Giáp Tuất

do Trần Tấn và Đặng như Mai bùng nổ vào năm 1874 ở Núi Đài xã Thanh Chi,

huyện Thanh Chương, sau đó lan rộng ra địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Thực

dân Pháp và triều đình phong kiến tay sai đã huy động binh lực từ đồng bằng Bắc

bộ vào, do chính Tôn Thất Thuyết chỉ huy và lực lượng từ Huế ra, hợp quân với

lực lượng đóng tại Nghệ An, Hà Tĩnh, mở các cuộc càn quét, bao vây quy mô lớn

trên địa bàn hầu khắp các địa phương ở Nghệ An, Hà Tĩnh có lực lượng tham gia

khởi nghĩa. Quân đội Pháp và quân đội triều đình Huế đã tàn sát hàng ngàn người

trực tiếp tham gia khởi nghĩa hoặc ủng hộ cuộc khởi nghĩa và đốt cháy hàng trăm

làng mạc từ Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Đông Thành, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam

Đàn, Thanh Chương,v.v… Để tránh sự truy đuổi và đàn áp thảm khốc đó, không ít

gia đình, thậm chí là cả gia tộc, có người tham gia khởi nghĩa hoặc ủng hộ khởi

nghĩa, bỏ làng chạy ngược ngược lên Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông, Quỳ

Hợp,v.v… Một số người ở Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương ngược theo

dòng sông Lam đến vùng Tân Kỳ, Con Cuông, Quỳ Hợp, sinh sống. Số người này

Page 26: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

thường chọn những thung lũng núi nằm sâu giữa những cánh rừng bạt ngàn, đường

xá đi lại khó khăn, ít có người sinh sống như ở vùng Bản Búng, Cò Phạt,… ở Con

Cuông hay vùng Tân Xuân, Giai Xuân, Tân Kỳ13.

Do phải sống lâu giữa những cánh rừng già, ít có điều kiện giao lưu với thế

giới bên ngoài và tiếp xúc với các dân tộc anh em trong cùng một khu vực, nên số

người Kinh này dần dần trở thành các nhóm người trong cộng đồng dân tộc Thổ.

Điều này cũng góp phần giải thích tuy cùng một cộng đồng người Thổ nhưng đồng

bào Thổ ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Quỳ Hợp lại có ngôn ngữ, phong tục,

trang phục,v.v… nhiều nét khác nhau. Thậm chí người Đan Lai thuộc nhóm Đan

Lai - Ly Hà (một nhóm của dân tộc Thổ được coi là có nguồn gốc từ Thanh

Chương) ở bản Búng, bản Cò Phạt huyện Con Cuông, chỉ cách đây chưa đầy 10

năm, đồng bào còn giữ phong tục ngủ ngồi và được giải thích là kinh nghiệm mà tổ

tiên họ để lại để giúp họ chạy nhanh ra rừng lẫn trốn nhằm tránh bị bắt và bị giết.

Số người Thổ này mới có lịch sử định cư ở Tân Kỳ - Nghĩa Đàn, Con Cuông, Quỳ

Hợp khoảng 120 - 140 năm.

Một bộ phận khác đến định cư ở Tân Kỳ - Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp,Con

Cuông,v.v… vào cuối thế kỷ XIX, khi phong trào Cần Vương chống Pháp diễn ra

và thất bại (1885 - 1895), Pháp cùng triều đình phong kiễn tay sai thẳng tay đàn áp

tất cả những người tham gia khởi nghĩa và ủng hộ khởi nghĩa. Yên Thành, Diễn

Châu, Đô Lương, Quỳnh Lưu là địa bàn chính của cuộc khởi nghĩa lớn do Tiến sĩ

Nguyễn Xuân Ôn tổ chức lãnh đạo. Ở Nam Đàn có cuộc khởi nghĩa của Vương

Thúc Quý, Vương Thúc Mậu. Thanh Chương là địa bàn của nhiều cuộc khởi nghĩa

đồng thời là nơi lực lượng còn lại của Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Văn Chất, Vương

Thúc Mậu,… rút lên tiếp tục hoạt động. Khi phong trào Cần Vương bị thực dân

13 Nguyễn Quang Hồng – Hoàng Văn Lân: Thêm một số ý kiến về nội dung, tính chất, đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất năm 1874”. Tạp chí nghiên cứu lịch sử số … trang,…. Và: Nguyễn Quang Hồng - Hoàng Thị Minh Thu: “ Nơi tế cờ và nơi yên nghỉ của An nam đại lão tướng quân Trần Tấn “. Tạp chí nghiên cứu lịch sử số…. trang…. Năm 2007.

Page 27: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Pháp đàn áp thảm khốc, không ít dân làng phải bỏ chạy và một trong số đó, trở

thành dân tộc Thổ ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và một số huyện khác.

Số người Thổ này mới có lịch sử định cư ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp,…

khoảng 115 - 125 năm lại nay. Nhiều nhà dân tộc học còn cho rằng, trong số đồng

bào Thổ ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và Quỳ Hợp ngày nay còn có một số có nguồn gốc

ở các huyện Như Xuân, Như Thanh, Cẩm Thủy,… thuộc tỉnh Thanh Hóa bỏ chạy

đến định cư ở vùng đất này vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Lịch sử định cư của họ

cũng chỉ mới trên một thế kỷ.

Tóm lại, dân tộc Thổ ở Tân Kỳ nói riêng, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Anh Sơn,

Con Cuông nói chung có lịch sử định cư muộn hơn so với các dân tộc khác. Nguồn

gốc của họ theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học, sử học, văn hóa dân

gian chủ yếu là người Kinh và tổ tiên họ phần lớn sống trên địa bàn các huyện

đồng bằng và trung du ở Nghệ An. Họ đến định cư ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và ở các

địa phương khác ở miền Tây Nghệ An, vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó,

nguyên nhân trốn chạy khỏi sự truy sát của triều đình nhà Nguyễn và thực dân

Pháp vào thập niên 70, 80, 90 của thế kỷ XIX được nhiều người đồng thuận.

Đồng bào Thổ ở Tân Xuân, Giai Xuân, Tân Hợp, Nghĩa Hoàn,… do được

sống gần gũi với đồng bào Kinh và đồng bào Thái, nên trong khoảng nửa thế kỷ lại

nay đã có nhiều thay đổi trên tất cả các phương diện từ đời sống văn hóa vật chất

đến đời sống văn hóa tinh thần. Con em đồng bào Thổ ở Tân Xuân, Giai Xuân,

Nghĩa Hoàn, Tân Hợp được cắp sách đến trường. Có nhiều em tốt nghiệp THCS,

THPT, Đại học, Cao Đẳng, nhiều hủ tục, phong tục lạc hậu trong ma chay, cưới

xin, sinh nở,v.v… đã được xóa bỏ. Ngay cả nhà cửa, trang phục, đồ dùng, vật

dụng,v.v… trong gia đình cũng thay đổi nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, so với

đồng bào Kinh và đồng báo Thái, đồng bào Thổ ở Tân Kỳ có mặt bằng dân trí và

đời sống vật chất thấp hơn nhiều. Số hộ nghèo và cận nghèo ở Tân Xuân, Giai

Page 28: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Xuân, Tân Hợp, Nghĩa Hoàn và cả số trẻ em bỏ học nửa chừng hay mới chỉ học hết

Tiểu học, THCS vẫn chủ yếu tập trung vào đồng bào Thổ.

Trong suốt 50 năm qua kể từ ngày thành lập huyện Tân Kỳ, nhất là từ những

năm 90 của thế kỷ trước đến nay, cấp ủy, chính quyền địa phương và các đoàn thể

quần chúng từ huyện đến xã, thôn xóm đã và đang tiếp tục triển khai nhiều giải

pháp đồng bộ nhằm từng bước đưa đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của đồng

bào Thổ ở Tân Xuân, Tân Hợp, Giai Xuân, Nghĩa Hoàn,… ngày càng được nâng

cao. Tuy đã đạt được nhiều kết quả, song bài toán đưa toàn bộ số hộ nghèo và cận

nghèo trên địa bàn Tân Kỳ nói chung, các hộ gia đình người Thổ nói riêng vượt

qua được khó khăn, nghèo đói phải là cả một quá trình và đòi hỏi nhiều ở chính sự

nỗ lực của các thành viên trong các gia đình đó.

II. MỘT SỐ NÉT VỀ VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC,

CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN TRÊN VÙNG ĐẤT TÂN KỲ TRƯỚC NĂM

1963.

1. Về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Thái

* Văn hóa vật chất

Vùng đất Tân Kỳ nằm sát với các huyện đồng bằng như: Quỳnh Lưu, Yên

Thành, Đô Lương, ở phía Đông, Đông Nam và Đông Bắc; ở phía Nam tiếp giáp

với huyện Thanh Chương, phía Tây giáp Quỳ Hợp, phía Tây Bắc giáp với huyện

Nghĩa Đàn. Với vị trí địa lý đó, từ bao đời nay, cộng đồng cư dân sinh sống và

định cư ở Tân Kỳ luôn duy trì hai nền văn hóa mà các nhà nghiên cứu gọi là văn

hóa văn minh núi rừng - văn minh nông nghiệp lúa nước. Đồng bào dân tộc Thái

định cư trên đất Tân Kỳ suốt nhiều thế kỷ đã bảo tồn, duy trì nền văn hóa, văn

minh truyền thống của tổ tiên họ từ phương thức canh tác, chế tạo công cụ sản

xuất, trang phục, xây dựng nhà cửa, chế biến món ăn hàng ngày,v.v…

Đồng bào Thái ở Tân Kỳ xây dựng bản làng dọc bên tả hữu dòng sông Con

và thường chọn những thung lũng núi tương đối rộng để định cư lâu dài. Họ vẫn

Page 29: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

duy trì nền kinh tế nương rẫy với phương thức chặt - đốt - gieo hạt - thu hoạch

trong suốt nhiều thế kỷ. Mỗi hộ gia đình thường chọn cho mình một hoặc hai vùng

thung lũng, cách xa nơi cư trú từ 2 - 3 km đến 5 - 7 km. Các hộ gia đình trong cùng

một bản làng thường có vùng rẫy khá tập trung, phân bố gần nhau. Đến mùa lên

nương, phần lớn các lao động trong nhà thường dậy từ rất sớm, chuẩn bị cơm

nước, vật dụng để đi vào rừng. Trong bản chỉ còn lại một số người già, hay những

người ốm yếu, không đủ sức trực tiếp tham gia công việc trên nương ở nhà làm các

công việc nhẹ nhàng hơn.

Đàn ông dùng dao, rìu chặt cây lớn, đàn bà, trẻ em chặt cây nhỏ. Khi rẫy đã

phát xong, chờ cây khô, dùng lửa đốt và sau đó là mùa gieo hạt. Khi gieo hạt người

đàn ông dùng cây vót nhọn (có thể có bọc thép ở đầu), chọc lỗ, người đàn bà đi

sau, cho hạt giống ngô, lúa nếp, lúa tẻ,… xuống lỗ, lấp đất lại. Chờ khi cây giống

mọc lên, đồng bào có thể nhổ cỏ, loại bỏ một số cây dại mới mọc lên và chờ mùa

thu hoạch. Mỗi gia đình thường làm một cái lán nhỏ trên nương để cất trữ lương

thực và đồng bào chỉ đem lương thực về nhà vừa phải để đề phòng bất trắc, hỏa

hoạn. Một phần thời gian khá dài của đồng bào Thái ở Tân Kỳ nói riêng và Nghệ

An nói chung gắn liền với nương rẫy, nhất là phụ nữ.

Ngoài sản xuất lúa nương, đồng bào Thái ở Tân Kỳ còn rất nổi tiếng bởi

việc canh tác lúa nước. Chính họ đã góp phần khai phá vùng đất dọc đôi bờ sông

Con, dưới chân núi Rỏi, hoặc trong các thung lũng rộng trên địa bàn các xã khác

của huyện. Để canh tác lúa nước đồng bào phải dùng dao để phạt cỏ, đắp bờ giữ

nước, dùng trâu bò cày kéo, hoặc dùng cuốc xới đất. Công việc cải tạo đồng ruộng

diễn ra từ đời này sang đời khác và đòi hỏi tính cần cù, bền bỉ củanhiều người. Tại

những cánh đồng lúa ở thung lũng hay dọc đôi bờ sông Con, đồng bào Thái bằng

chính trí tuệ và ý chí sắt đá của mình đã cùng đồng bào Kinh, đồng bào Thổ, tạo

nên những cánh đồng lúa, được coi là những kỳ tích mà nhiều thế hệ cha anh đã

tạo ra và trao lại cho cháu con trong suốt nhiều thế kỷ qua.

Page 30: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Đồng bào Thái ở Tân Kỳ nói riêng và người Thái ở Nghệ An nói chung,

dựa vào nền kinh tế tự cung, tự cấp là chủ yếu. Trong đó, ngoài kinh tế nương

rẫy và một phần quan trọng nguồn lợi lương thực thu được từ những ruộng lúa

nước ở thung lũng núi, hay những cánh đồng dọc đôi bờ sông Con, nền kinh tế

săn bắn hái lượm cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc ổn định đời

sống vật chất cho nhân dân, nhất là trong những năm mất mùa, đói kếm. Khảo

sát trên thực tế, đồng bào Thái nổi tiếng với nghề săn bắn, đánh bắt cá, thu gom

hái lượm những sản phẩm có sẵn trong núi rừng mà trong cuốn sách này, chúng

tôi xin phép không trình bày sâu về hoạt động sản xuất của đồng bào Thái trên

địa bàn Tân Kỳ trong suốt thời gian qua. Nếu như hoạt động hái măng, rau rừng,

đánh bắt cá, tôm,… chủ yếu dựa vào từng cá nhân của từng hộ gia đình thì hoạt

động săn bắn lại mang tính cộng đồng cao. Thông thường mỗi bản làng hoặc có

khi là hai bản làng ở gần kề thành lập một phường săn. Phường săn thường do

một người có kinh nghiệm, bản lĩnh đứng đầu. Mỗi phường săn thường có một

đàn chó săn đông từ 10 đến 30 - 40 con. Trong đàn chó săn thường có từ một

đến hai hoặc ba con chó đánh hơi để phát hiện con mồi. Số chó săn còn lại dùng

cho việc săn đuổi, bao vây, dồn đuổi con mồi. Chó đánh hơi thường nhỏ, nhanh

nhẹn và điều quan trọng nhất là mũi thính, thông minh có thể phát hiện ra con

mồi từ xa sau đó, đánh tiếng để cả đàn chó tham gia truy đuổi và cắn xé con

mồi. Chó săn thường nuôi trong nhiều hộ gia đình, mỗi hộ vài ba con, được chủ

nhân huấn luyện và chỉ cần nghe tiếng tù và hay tiếng mõ, tiếng cồng,… là

chúng hoàn toàn có đủ khả năng để hoàn thành công việc mà phường săn đặt ra.

Mùa đi săn thường vào mùa xuân, hoặc khi xong mùa thu hoạch, những đêm

trăng sáng. Phường săn thường là những người đàn ông khỏe mạnh và ham thích

săn bắn trong bản. Vũ khí, phương tiện của họ chỉ là cung tên, giáo mác, gậy

gộc, hoặc có cả súng tự chế, lưới đan bằng sợi gai, đay. Trong trường hợp phát

hiện hổ, báo, lợn lòi, gấu,v.v… các phường săn còn có thể dùng bẫy để đạt được

Page 31: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

mục tiêu. Người Thái ở Tân Kỳ và Nghệ An xưa nay nổi tiếng trong việc tạo ra

nhiều loại bẫy từ bẫy cò ke, bẫy sập, đến bẫy lao,v.v.. để có thể bắt được các

loại gà rừng, chồn, cáo, cầy, sóc, nhím, … đến hươu, nai, lợn rừng thậm chí là

cả hổ, báo, sư tử. Hoạt động săn bắn vừa thể hiện tính cộng đồng vừa thể hiện

tinh thần thượng võ và còn có tác dụng bảo vệ mùa màng, bản làng và cũng góp

phần trong việc tạo ra một nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng cho gia đình.

Tuy nhiên, khi những cánh rừng nguyên sinh không còn, địa bàn cư trú, sinh

sôi nảy nở của các loài thú lớn nhỏ, chim muông thu hẹp lại, thì hoạt động săn bắn

của đồng bào Thái ở Tân Kỳ và Nghệ An cũng thưa dần, không còn quy mô như

cách đây vài thập kỷ trước. Hiện nay, chỉ còn một số gia đình đồng bào Thái còn

nuôi chó săn, các phường săn cũng ít hẳn và hoạt động săn bắn thú rừng gần như

không còn trong khoảng 10 - 15 năm lại nay mà chỉ còn lại trong ký ức của những

thành viên đã từng tham gia phường săn từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Đến Tân Kỳ định cư, sinh sống, đồng bào Thái thường chọn những thung

lũng có sẵn nguồn nước, tương đối thuận tiện cho việc đi lại và giao thương để

dựng nhà. Nhà của đồng bào Thái trước đây chủ yếu là nhà sàn, theo cấu trúc

truyền thống của tổ tiên. Có những nhà sàn dài tới 12 - 15 m, cấu trúc vững chãi

bởi những dãy cột săng lẻ, kiền kiền, dổi, lim, sến,v.v… có đường kính 30 - 40 cm,

cao tới 5 - 6 m. Nhà sàn của đồng bào Thái ở Tân Kỳ thường rộng rãi, thoáng mát,

mỗi bản có từ 30 - 40 nóc nhà, có khi lên tới 50 - 60 nóc nhà. Nguyên liệu làm nhà

như gỗ, tranh tre, mây song,… đều được lấy từ núi rừng. Klhi dựng nhà cả bản

tham gia, người góp công đẻo cột, người góp chẻ tre, nứa mét, người làm cầu

thang,v.v… Người Thái ở Tân Kỳ chỉ di chuyển bản làng trong những trường hợp

bất khả kháng và khi dời bản thường có sự đồng thuận của tất cả các hộ gia đình

trong bản. Trong khoáng 20 năm lại nay, đồng bào Thái ở Tân Kỳ có xu hướng

chuyển từ nhà sàn sang nhà trệt giống như người Kinh. Sự thay đổi trong kiến trúc

xây dựng nhà cửa của người Thái ở Tân Kỳ do nhiều nguyên nhân, trong đó có

Page 32: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nguyên nhân nguồn gỗ để xây dựng nhà sàn ngày càng khan hiếm, xây dựng nhà

sàn truyền thống có chi phí cao, trong khi xây dựng nhà cửa theo kiến trúc của

người Kinh chi phí thấp hơn. Mặt khác, sự thay đổi này cũng cho thấy khả năng

tiếp xúc, tiếp biến văn hóa của đồng bào Thái ở Tân Kỳ nói riêng miền Tây Nghệ

An nói chung trước những thay đổi mau lẹ của môi trường sống. Đến Tân Kỳ trong

thời gian gần đây, người ta không khỏi ngạc nhiên khi số nhà sàn trong các bản

làng đang ít dần đi, thay vào đó là nhà được xây bằng gạch ngói theo cách thức của

người Kinh đang dần dần trở nên phổ biến. Sự đan xen giữa văn hóa Thái với văn

hóa của người Kinh diễn ra trong từng bản làng trên địa bàn Tân Kỳ đang diễn ra

nhanh chóng, toàn diện trên nhiều lĩnh vực mà thay đổi trong việc xây dựng nhà

cửa chỉ là một trong những thay đổi cụ thể, khá điển hình trong đời sống văn hóa

vật chất mà thôi. Những thay đổi trong đời sống văn hóa vật chất của người Thái

nói chung, kiến trúc nhà cửa nói riêng trong khoảng 20 - 30 năm qua đang đặt ra

một vấn đề là có thể trong một thời gian ngắn nữa, những ngôi nhà sàn truyền

thống của đồng bào Thái ở Tân Kỳ sẽ không còn và các bản làng của người Thái ở

Tân Kỳ chẳng khác gì những thôn xóm của người Việt, nếu chỉ nhìn từ góc độ kiến

trúc nhà cửa.

Tuy là huyện miền núi, song do vị trí địa lý khá thuận lợi, từ lâu, chợ Cừa

(Liên Hoàn xưa, Nghĩa Hoàn nay), chợ Lạt (thị trấn Tân Kỳ nay) trở thành những

trung tâm buôn bán trao đổi hàng hóa thuận lợi giữa cộng đồng cư dân các huyện

miền xuôi với cộng động cư dân sống ở Tân Kỳ, trong đó có đồng bào Thái. Khảo

sát tại vùng đất Liên Hoàn xưa, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hoạt động

trao đổi hàng hóa ở chợ Cừa vẫn được duy trì theo hai phương thức: dùng tiền để

trao đổi và dùng vật đổi vật. Thậm chí, một số cụ cao tuổi lên định cư ở vùng

Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hợp từ những năm 70 của thế kỷ trước khẳng định là đến

những năm 70, 80 của thế kỷ trước một số đồng bào Thái, đồng bào Thổ ở Tân Kỳ

vẫn sử dụng phương thức vật đổi vật như cha ông họ trước đó.

Page 33: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Tuy nhiên, khi thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động buôn bán trao đổi

của đồng bào Thái ở Tân Kỳ thay đổi mau lẹ. Từ thị trấn Lạt đến vùng Cừa và ở

hầu hết các làng xã có đồng bào Thái cư trú, có không ít phụ nữ Thái trở thành chủ

nhân của các cửa hàng kinh doanh buôn bán đủ loại hàng hóa. Nhiều gia đình

người Thái trở thành chủ cửa hàng cửa hiệu, kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ

sữa chữa xe máy, đồ điện gia dụng, điện tử, điện lạnh,v.v… Người Thái ở Tân Kỳ

sớm thay đổi nhận thức, từ nền kinh tế nương rẫy mang tính tự cung tự cấp, dựa

vào thiên nhiên, đồng bào Thái chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường và không

ít người trong số họ đã chuyển hẳn sang buôn bán, kinh doanh. Theo thống kê của

Văn phòng UBND huyện Tân Kỳ, số con em đồng bào Thái ở Tân Kỳ, trong

khoảng 20 năm qua thi đỗ vào các trường Đại học kinh tế, Cao đẳng kinh tế, tài

chính kế toán, Đại học Thương mại,v.v… tăng nhanh theo cấp số nhân và cũng

không ít con em đồng bào Thái ở Tân Kỳ trở thành kế toán trưởng, trưởng phòng

tài chính, kế toán, chủ doanh nghiệp,v.v… ở nhiều tỉnh thành trong cả nước.

Giống như phụ nữ Thái ở các huyện khác, phụ nữ Thái ở Tân Kỳ có đôi bàn

tay khéo léo và óc thẩm mỹ phong phú, đa dạng. Chính họ đã tạo nên nghề dệt thổ

cẩm nổi tiếng và cũng chính họ dệt ra vải để may quần áo, khăn chít đầu, làm nệm

bông lau, gối, túi,v.v… cho các thành viên trong gia đình và có thể đem trao đổi ở

chợ Cừa, chợ Lạt, hay ngay tại bản làng. Trang phục của đàn ông, đàn bà, trẻ em,

phụ nữ Thái đều do phụ nữ dệt, may, mang nhiều nét tương đồng với người Thái ở

miền Tây Nghệ An.

Nhưng, trong vòng ba thập kỷ qua, nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Tân

Kỳ dần dần bị thu hẹp. Trang phục truyền thống của người Thái ngày càng ít xuất

hiện, có chăng chỉ là những người cao tuổi hoặc trong các dịp lễ hội, tết cổ truyền

hay trong ngày cưới. Số người Thái mặc quần áo may mặc sẵn, hay quần áo ở các

hiệu may tăng lên nhanh chóng, nhất là nam nữ thanh niên. Trong những năm gần

đây, trang phục của người Thái ở Tân Kỳ chẳng có mấy điểm khác biệt so với

Page 34: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

người Kinh. Ngay cả trong ngày cưới, cô dâu mặc váy hiện đại, chú rể diện

comple, thắt cà vạt, đi giày đen ngày càng trở nên phổ biến. Các khung dệt vải

truyền thống của người Thái cũng ít dần và có lẻ chỉ khoảng vài mươi năm nữa, số

phụ nữ biết dệt thổ cẩm truyền thống trong các bản làng người Thái ở Tân Kỳ cũng

không còn nữa. Sự chuyển biến quá mau lẹ này đang đặt ra vấn đề cấp thiết là làm

sao bảo tồn được các giá trị văn hóa vật chất truyền thống nói chung, ăn mặc, trang

phục của đồng bào Thái nói riêng.

Nhìn chung, văn hóa vật chất của người Thái trên địa bàn Tân Kỳ từ kiến

trúc nhà cửa, ăn mặc, trang phục đến sản xuất kinh tế nông nghiệp, buôn bán, trao

đổi,… đã và đang thay đổi nhanh chóng, toàn diện từ sau ngày đất nước giải

phóng, nhất là trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Những thay đổi trong đời sống văn hóa vật chất của đồng bào Thái ở Tân Kỳ đã và

đang tiếp tục diễn ra trên mọi phương diện đang đặt ra nhiều vấn đề cần trao đổi

mà trong công trình này, chúng tôi chưa có điều kiện để trình bày và lý giải một

cách hệ thống.

* Văn hóa tinh thần

Nếu nhìn tổng thể số người Thái định cư ở Tân Kỳ chỉ chiếm một tỷ lệ khá

khiêm tốn so với tổng số người Thái định cư ở các huyện miền núi Nghệ An. Năm

1990, số người Thái có mặt ở miền tây Nghệ An là 211.306 người, chiếm tỷ lệ

72,09% số cư dân các dân tộc ít người trong cả tỉnh, và chiếm tới 24,4% tổng số

người Thái trên phạm vi cả nước; trong khi đó số người Thái ở Tân Kỳ chỉ có trên

10.000 người. Trong quá trình dựng bản lập làng đồng bào Thái ở Tân Kỳ một mặt

chung tay góp sức khai phá cải tạo, chinh phục tự nhiên để ổn định cuộc sống, mặt

khác tìm mọi cách để bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần của cha ông.

Người Thái ở Nghệ An nói chung và Tân Kỳ nói riêng quan niệm, đấng thần

linh tối cao quyết định số phận từng con người là Pò Then (Then lớn). Vùng

Mường Then (Mường Trời) có Then Bun (hạnh phúc), Then Chăng (chức dịch),

Page 35: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Then Xội (tội lỗi), Then Ló (bà mẹ sinh đẻ), Then Chát (tuổi thọ), Then Chương

(chiến tranh), Then Thum (tạo ra gió mưa), Then Khao (giữ linh hồn và sắc đẹp

phụ nữ),v.v… Người Thái coi nơi trú ngụ của tổ tiên con người là “dằm doi”, ở

đây linh hồn của tầng lớp quý tộc và dân quần tụ. Mường Then Hít, Then Hay là

nơi trú ngụ của những người nghèo khổ, chết bất đắc kỳ tử không được vào trú ngụ

tại các “dằm dơi”. Có ý kiến cho rằng, quan niệm của người Thái về Mường Then

có ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo Liên pán luông, Liên phán mọi - nơi linh hồn

của tầng lớp quý tộc quần cư vĩnh viễn được coi như cõi Niết Bàn trong đạo Phật.

Then là người trực tiếp cai quản các vị thần, ruộng nương, ma nương rẫy,

ma tổ tiên, phần hồn và phần xác của các thần dân sống trong đất chúa cai quản.

Mỗi dòng họ, nhất là các dòng họ quý tộc thường có nơi thờ cúng tổ tiên riêng.

Việc thờ cúng tổ tiên, chúa đất, bản mường,… thường gắn với tổ chức các lễ hội

gắn với sản xuất nông nghiệp14. Đồng bào Thái ở Tân Kỳ trước đây, thường tổ

chức lễ hội Xén nương, Xén bản, Xén hươn, trang trọng. Người Thái mời cả thần

trời, thần đất, thần núi, thần sông, tổ tiên các dòng họ về dự lễ hội. Bên cạnh các

nghi lễ truyền thống với vai trò của ông Mo môn , đồng bào còn tổ chức phần hội

với nhiều trò chơi như ném còn, nhảy múa,v.v… mang đậm dấu ấn tín ngưỡng có

sức thu hút đông đảo mọi tầng lớp tham gia. Bên cạnh đó, đồng bào Thái ở Tân Kỳ

còn có tục đón tiếng sấm đầu xuân, tục cúng cơm mới, mỗi khi ốm đau, người nhà

thường mời thầy Mo về nhà giết lợn, gà, đồ xôi,… để cúng tế thần linh với niềm

tin thầy Mo sẽ đuổi được con ma ra khỏi thân xác của người bệnh. Quan niệm của

người Thái về vũ trụ khá phức tạp, nhưng nhìn chung người Thái có tín ngưỡng đa

thần giáo, họ thờ cả thần mặt trời, thần sông, thần núi, thần cây,... họ quan niệm

vạn vật đều có linh hồn. Tín ngưỡng vòng đời của người Thái ở Tân Kỳ cũng mang 14 Nguyễn Đình Lộc: Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, sdd trang 78, 79 và: Ninh Viết Giao: Tân kỳ làng xã và

truyền thống, sdd trang 134 – 140 và một số tài liệu khác. Do khuôn khổ cuốn sách, chúng tôi xin phép không đi sâu

trình bày về nội dung này.TG.

Page 36: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nhiều nét tương đồng của đồng bào Thái ở Nghệ An. Họ tin có nhiều loại ma như

ma nhà, ma nương rẫy,… phân loại ma thành hai loại là ma ác và ma hiền lành.

Trong khi dựng nhà, cưới vợ, tang ma,… niềm tin về thế giới thần linh của người

Thái được biểu hiện khá sinh động từ việc chọn hướng nhà, chọn gỗ làm nhà, làm

cầu thang, nơi đặt bếp, nơi nằm của đàn ông, phụ nữ, con dâu,v.v…

Giống như đồng bào Thái ở Nghệ An, đồng bào Thái ở Tân Kỳ có cả một

kho tàng văn học dân gian gồm nhiều thể loại: từ truyền thuyết, thần thoại, cổ tích,

… đến thơ ca. Nội dung của các tác phẩm này cũng hết sức phong phú đa dạng: từ

những câu chuyện ly kỳ về các vị thần linh, đến những bài thơ đầy chất trữ tình, ca

ngợi đất nước con người, ca ngợi tình yêu nam nữ, ca ngợi đức tính cần cù, chăm

chỉ, phê phán thói lười nhác, gian tham,… đến những câu tục ngữ, thành ngữ,.. nói

về kinh nghiệm thời tiết, kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi,v.v… Không chỉ có

ngôn ngữ riêng mà người Thái còn có chữ viết riêng, được viết trên lá cây, hoặc

trên giấy. Qua khảo sát thực tế, hiện tại ở Tân Kỳ phần lớn đồng bào vẫn giữ được

tiếng nói riêng nhưng lại có rất ít người biết viết chữ Thái xưa của cha ông họ. Cần

phải tạo cơ hội để thế hệ trẻ người Thái ở Tân Kỳ biết được chữ viết của cha ông,

bởi đó cũng là một cách để góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc.

Trong quá trình cộng cư với người Kinh, đồng bào Thái ở Tân Kỳ dần dần

bỏ bớt những hủ tục ma chay, cưới xin phiền phức, tốn kém, lạc hậu. Đời sống văn

hóa tinh thần có nhiều thay đổi nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay. Qua khảo

sát thực tiễn trên địa bàn Tân Kỳ, hiện tại các hủ tục mê tín dị đoan trong tang ma,

cưới xin,… đã bị bãi bỏ. Đồng bào chỉ giữ lại những nét đẹp trong đời sống tôn

giáo tín ngưỡng của ông cha và tiếp thu nhiều nét mới trong đời sống văn hóa cộng

đồng, góp phần xây dựng bản làng ngày càng giàu đẹp, văn minh.

2. Vài nét về văn hóa vật chất và tinh thần của người Thổ

* Văn hóa vật chất

Page 37: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Dân tộc Thổ có đời sống kinh tế khá khó khăn so với các dân tộc khác. Từ

khi đến định cư ở Tân Kỳ, họ đã chọn những vùng đất nằm sâu trong thung lũng

núi, đường xá đi lại khó khăn và dựa chủ yếu vào kinh tế nương rẫy để tồn tại.

Trên thực tế, nương rẫy của đồng bào Thổ trước đây thường cách xa nơi cư trú vài

km, nằm trên sườn núi dốc, dễ bị xói mòn do đó cho năng suất thu hoạch thấp. Mặt

khác, do sống biệt lập giữa những cánh rừng, ít giao lưu với các cộng đồng cư dân

khác trên địa bàn cư trú, nên công cụ lao động, đồ dùng, vật dụng trong gia đình,

nhà cửa, ăn mặc, trang phục,v.v… của đồng bào Thổ ở Tân Kỳ có phần đơn giản

nếu không nói là quá sơ sài, lạc hậu . Phần lớn vật dụng trong gia đình từ chỗ nằm,

chỗ ăn cơm,… đến đồ đựng lương thực, giống các loại,v.v… đều do đồng bào tự

làm ra với các nguyên liệu có sẵn, không trau chuốt, mà chỉ cốt dễ làm, nếu cần có

thể làm lại ngay.

Công cụ lao động chủ yếu là cuốc, dao, rìu,… đáng chú ý nhất có chiếc cày

nại (cần nộn) và chiếc que để chọc lỗ tra hạt (gọi là tầm nón). Phương thức canh

tác ít thay đổi, nguồn giống nếp, lúa, ngô, bầu bí,v.v…trước đây cũng thường

không mấy thay đổi từ đời này qua đời khác. Điểm đáng lưu ý trong sản xuất của

người Thổ là việc làm chung: thông thường 3 người đàn ông cùng nhau chọc lỗ

(tẩm), 7 đến 8 phụ nữ đi theo tra hạt (rói). Sau khi làm cho gia đình này xong, họ

chuyển sang làm cho gia đình khác. Ngoài trồng lúa, ngô, khoai, sắn, bầu bí,…

người Thổ giỏi trồng đay và chế biến các sản phẩm từ cay đay để phục vụ cuộc

sống.

Do đó, việc thiếu đói quanh năm là tình trạng khá phổ biến đối với các hộ

gia đình người Thổ ở Tân Kỳ từ những năm 50 của thế kỷ trước. Cách chế biến

món ăn của đồng bào Thổ trước đây cũng hết sức đơn giản, chủ yếu là nướng và

nấu chín, ít có các loại gia vị và pha chế như người Thái, người Kinh.

Điều khá thú vị là phần đông người Thổ ở Tân Kỳ có nguồn gốc từ các

huyện đồng bằng miền xuôi Nghệ An, vốn rất giỏi trong việc trồng lúa nước,

Page 38: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nhưng từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước diện tích trồng lúa nước của đồng bào

gần như không đáng kể. Lý giải cho hiện tượng này, theo chúng tôi là do nhiều

nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là việc đồng bào Thổ

chọn địa bàn cư trú ở các thung lũng núi không mấy thuận lợi, phần ruộng bậc

thang ở thung lũng có độ dốc cao, rất khó đảm bảo việc giữ nước, trong khi mùa

khô hạn lại kéo dài rất khó cho việc triển khai trồng lúa. Hơn nữa, vấn đề huy động

nhân lực để cải tạo, loại bỏ các loại thú như chuột, đến các loại sâu keo để cây lúa

có thể phát triển cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một nguyên nhân khác là các thế hệ

đầu tiên khi đến định cư ở Tân Kỳ đã lựa chọn nương rẫy để duy trì sự sống, các

thế hệ nối tiếp không có điều kiện học hỏi kinh nghiệm trồng lúa nước từ ông bà tổ

tiên họ, và dần dần trong nhận thức của họ việc trồng lúa nước dường như là cả

một công việc quá sức với những công cụ cầm tay quá thô sơ mà tổ tiên để lại. Và

rồi theo năm tháng các thế hệ người Thổ ở Tân Kỳ chỉ còn quen với công việc làm

nương rẫy mà họ tiếp thu từ chính gia đình họ ngay từ khi đôi chân của họ có thể

đưa họ đi từ nơi cư trú đến phần đất mà cha anh họ khai phá. Kỹ thuật làm lúa

nước xa dần và rơi vào quên lãng.

Để giải quyết những khó khăn về lương thực, thực phẩm, trước đây, đồng

bào Thổ thường phải dựa vào việc hái lượm các loại rau, quả trong rừng hoặc sáng

tạo ra những dụng cụ bắt cá, tôm đơn giản, từ những vật liệu có sẵn như tre, nứa

mét, làm ra những chiếc nơm, lờ, lưới đan từ sợi đay, hoặc lưới trao đổi mua bán

của người Kinh,... để thực hiện việc bắt cá, tôm dưới các khe suối và sông Con,

hay những vũng nước cạn. Cuộc sống thiếu thốn, cộng với tâm lý xa lánh cộng

đồng của các bậc cao niên trong làng khiến các thế hệ đời sau ngày càng lâm vào

tình cảnh túng quẫn và họ không có cách nào để thoát ra khỏi những ngôi nhà tồi

tàn và cả thung lũng chật hẹp như chính cuộc đời của họ.

Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là sau khi cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước kết thúc, đời sống của cộng đồng người

Page 39: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Thổ ở Nghệ An nói chung, Tân Kỳ nói riêng bắt đầu có những thay đổi mau lẹ. Chỉ

trong vòng 3 thập kỷ, đồng bào Thổ ở Tân Xuân, Giai Xuân,… đã lột bỏ được tâm

lý tự ty, trốn tránh, sợ hãi của cha ông trước đây, thực sự hòa nhập vào cộng đồng.

Thay đổi nhận thức đồng thời với việc thay đổi phương thức làm ăn, phương thức

canh tác đã giúp cộng đồng người Thổ ở Tân Kỳ sớm có những thay đổi trên nhiều

phương diện. Bắt đầu là việc rời bỏ những thung lũng sâu, những vùng xa xôi hẻo

lánh chuyển ra sống gần gũi với người Kinh, người Thái. Tiếp đó, đồng bào Thổ

làm quen dần với việc trồng lúa nước, trồng các loại giống lúa, nếp, ngô, khoai,

sắn, bầu , bí, rau đậu,.. cho năng suất cao. Với người Thổ hòa nhập với cộng đồng

người Kinh, người Thái trong vùng đã là một kỳ tích. Công cuộc hòa nhập của họ

diễn ra trong 3 - 4 thập kỷ qua đã đưa họ thoát khỏi đời sống thiếu thốn, nhà cửa

được xây dựng khang trang, thoáng mát. Vật dụng, công cụ, nông cụ, trang phục,

cách chế biến thức ăn, tổ chức bữa ăn cho gia đình, tổ chức lễ tết,v.v… cũng thay

đổi nhanh chóng. Tuy còn có nhiều hộ gia đình người Thổ ở Tân Xuân, Giai Xuân,

Nghĩa Hoàn,v.v… nằm trong diện hộ nghèo hoặc cận nghèo, nhưng nếu những ai

đã từng đến thăm các gia đình người Thổ ở Tân Kỳ cách đây 25 - 30 năm thì

những thay đổi trong đời sống vật chất của đồng bào Thổ hiện tại thực sự là một

điều kỳ diệu. Hy vọng, trong một thời gian ngắn nữa với sự nỗ lực của từng cá

nhân, từng hộ gia đình cộng với sự quan tâm giúp đỡ của các cấp chính quyền,

đoàn thể địa phương, đồng bào Thổ ở Tân Kỳ sẽ vĩnh viễn chấm dứt cuộc sống

nghèo túng; và nếu có nhắc lại những năm tháng gian truân, vất vả, luôn sống trong

tình trạng thiếu thốn, thì đó chỉ là câu chuyện kể của ông bà cha mẹ cho con cháu

của họ nhớ về một quá khứ đau thương mà chính tổ tiên họ đã trải qua trong suốt

nhiều thập kỷ.

* Văn hóa tinh thần

Page 40: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Đến Tân Kỳ định cư từ nhiều vùng miền khác nhau và vì nhiều nguyên nhân

khác nhau, người Thổ ở Tân Kỳ có đời sống văn hóa tinh thần khá đa dạng. Trong

đời sống tôn giáo, tín ngưỡng đồng bào Thổ tin vào nhiều vị thần linh, và họ cho

rằng có nhiều loại ma quỷ. Người Thổ ở Tân Kỳ tin rằng, các vị thần ngự trị ở trên

trời, còn ma quỷ tồn tại dưới mặt đất. Ở các sông suối có thần “Tô khụ” (thần

Thuồng Luồng). Trước đây, ở vùng Tân Xuân, Giai Xuân, Nghĩa Hoàn,... có

những làng người Thổ thờ tới cả chục vị thần từ thần sấm sét, thần mưa, thần núi,

thần sông, thần cây, thần Đông, thần Tây, Thủy tề, … đến các vị thần có công với

nước và thậm chí là cả những vật vô tri như hòn đá lớn bên dòng suối hay trên đỉnh

núi, đồng bào cho đó là nơi vị thần đầy quyền uy trú ngụ. Có khi họ còn thờ cả

thần Sơn Dương, thần Cả, thần Đẹt,... Trong niềm tin của đồng bào Thổ thì “vạn

vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn). Ma bao gồm hai loại ma lành, ma ác. Ma

hiền lành chuyên giúp con người gieo trồng trên nương, xua đuổi chim muông, thú

dữ chuột bọ,… đến phá hoại mùa màng hay giúp con người săn được con thú, bắt

được nhiều cá dưới sông suối, ao hồ, nuôi được lợn gà, hay thoát khỏi ốm đau,

bệnh tật,…Ma ác chuyên làm hại con người như làm cho súc vật bị chết, con người

ốm đau, cây trồng trên rẫy bị chim thú phá hoại,v.v… Giống như người Kinh, đồng

bào Thổ ở Tân Kỳ tin rằng trẻ con là do Mụ bà vắt nên, con trai hay con gái nhiều

khi là do nhầm lẫn của Mụ bà, đàn bà có 3 hồn chín vía, còn đàn ông chỉ có ba hồn

7 vía, khi ốm đau họ thường cúng vía, cúng mụ bà, buộc chỉ vía vào cổ tay,v.v…

Trước đây, một số gia đình khá giả như Trùm làng (người đứng đầu làng như Lý

trưởng ở miền xuôi) hoặc các chức dịch, khi có người chết thường tổ chức cúng tế

nhiều ngày, nghi lễ phức tạp, tốn kém. Thi thể người chết để trong nhà nhiều ngày,

con cháu bà con trong làng đến tham dự lễ hết sức mệt mỏi, nhiều người lăn ra ốm.

Trong khoảng vài chục năm lại nay, những hủ tục này đã bị bãi bỏ. Việc tang ma

của đồng bào Thổ ở Tân Kỳ nhìn chung không có điểm nào quá khác biệt so với

đồng bào Kinh. Chẳng hạn, họ cúng 3 ngày, 50 ngày, 100 ngày, làm giỗ cho người

Page 41: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

đã khuất, hay thăm mộ vào dịp cuối năm để mời tổ tiên về ăn tết cùng con cháu.

Có một điểm hơi đặc biệt là đồng bào Thổ ở Tân Kỳ không tiến hành bốc mộ cho

ông bà tổ tiên (gọi là cát táng) như đồng bào Kinh.

Khảo sát một số làng người Thổ ở Tân Xuân, Giai Xuân, Nghĩa Hoàn,

chúng tôi thấy rằng, đồng bào rất coi trọng lễ xuống đồng, lễ cúng cơm mới, lễ

mừng nhà mới,... Về điều này chúng tôi cho rằng, có thể đây là một trong những

dấu ấn để khẳng định thêm về nguồn gốc của số đồng bào Thổ ở Tân Kỳ có quan

hệ gần gũi thậm chí là quan hệ huyết thống với đồng bào các huyện miền xuôi như

Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn Châu, Nam Đàn, Hưng Nguyên.

Trong lễ xuống đồng, chúng tôi chú ý tới việc đồng bào Thổ lựa chọn người

có sức khỏe, siêng năng và thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống để phát

nhát dao đầu tiên, chọc lỗ, tra hạt giống đầu tiên. Người này được gọi là “chủ

giống”.

Tuy đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn, song đồng bào Thổ ở Tân Kỳ có

cả một kho tàng văn học dân gian khá phong phú và đa dạng. Trong đó, có nhiều

truyền thuyết kể về các vị thần linh, nhiều câu chuyện kể về nguồn gốc tổ tiên, hay

những điệu hát có dấu ấn của hát ví, hát nhà tơ,.. Ngôn ngữ của đồng bào Thổ

thuộc nhóm Việt - Mường. Gần đây một số ý kiến cho rằng, ngôn ngữ của người

Thổ ở Nghệ An, ngoài nhóm Việt - Mường còn có cả nhóm Môn - Khơ Me và Tày

- Thái. Trong quá trình hòa nhập với người Thái và người Kinh, văn hóa vật chất

và tinh thần của đồng bào Thổ ở Tân Kỳ đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng

tích cực. Đồng bào Thổ đã và đang nỗ lực vươn lên để có cuộc sống ấm no, hạnh

phúc, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng quê hương Tân Kỳ ngày càng

giàu đẹp, văn minh.

3. Văn hóa vật chất và tinh thần của người Kinh

* Văn hóa vật chất

Page 42: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Ngoài cư dân bản địa, trên vùng đất Tân Kỳ hiện tại có nhiều dòng họ từ

khắp các vùng miền trong tỉnh, ngoài tỉnh vì nhiều nguyên nhân khác nhau đến

định cư, sinh sống. Khi đến Tân Kỳ họ mang luôn cả các giá trị văn hóa vật chất và

tinh thần của chính vùng quê họ đến quê hương mới. Do đó, nếu khảo sát kỹ thì

ngay cả phong tục, tập quán, ngôn ngữ, cách chế biến món ăn, thức uống,… của

đồng bào kinh ở Tân Kỳ trong cùng một địa bàn cư trú vẫn có nhiều nét riêng biệt.

Trong phạm vi công trình này, chúng tôi xin phép không đi sâu trình bày những

điểm riêng trong đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào Kinh ở Tân Kỳ mà

chỉ trình bày những nét chung nhất trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của

bộ phận dân cư chiếm trên 80% cư dân sống trên vùng đất Tân Kỳ.

Trước hết, đồng bào Kinh sống tập trung ở thị trấn Lạt, thị trấn Cừa có mặt

ở hầu hết các xã trong huyện, nhưng thường có mối liên hệ huyết thống, hoặc họ là

đồng hương, cùng làng, hay cùng huyện trước khi chuyển đến sống ở Tân Kỳ. Về

nhà cửa, trước đây, phần lớn người Kinh ở nhà lợp tranh, phên đất hoặc tre nứa,

với cấu trúc nhà tranh 3 gian nhà chính và có một hoặc hai gian bếp, một chuồng

nuôi gia súc theo cách truyền thống. Nguyên liệu làm nhà chủ yếu khai thác từ núi

rừng. Từ nửa sau thế kỷ XX lại nay, đại bộ phận các hộ gia đình người Kinh đã

xóa bỏ nhà tranh tre, nứa lá, tạm bợ, dột nát, để làm nhà ngói, hoặc xây dựng nhà

cao tầng. Cấu trúc nhà cửa của đồng bào Kinh ở Tân Kỳ không có gì riêng biệt so

với các huyện đồng bằng.

Về cách thức chế biến món ăn, do có nguồn gốc từ nhiều vùng miền khác

nhau nên trong văn hóa ẩm thực ở Tân Kỳ hết sức đa dạng, phong phú, từ cách

chế biến món ăn đến sử dụng nguyên liệu, gia vị,… Các hộ gia đình vẫn giữ truyền

thống “Cơm ngày ba bữa, đỏ lửa ba lần”. Trước những năm 90 của thế kỷ trước,

bữa ăn sáng được coi là bữa ăn phụ, thường là ngô, khoai, sắn,… Nhưng trong

khoảng 20 năm lại nay, đời sống no đủ, các hộ gia đình không lo thiếu gạo nên cả

ba bữa gần như là bữa chính. Các ngày giỗ, tết, cưới hỏi,v.v… gia đình thường làm

Page 43: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

mâm cỗ thịnh soạn, trước cúng ông bà tổ tiên, sau anh em, bà con láng giềng, bạn

bè bằng hữu xa gần chung vui.

Trước đây, không ít gia đình người Kinh vẫn uống nước lấy từ khe suối.

Song từ nửa sau thế kỷ XX lại nay, đồng bào Kinh thay đổi tập quán, đào giếng,

lấy nước, đun chín, uống sôi. Nước uống ưa thích, phổ biến là chè xanh. Hầu như

vườn nhà nào cũng trồng ít chè xanh để dùng. Các gia đình thường lấy gạo, nếp,

chưng cất rượu để uống. Trước đây, họ còn dùng cả ngô, khoai, sắn, mật mía để

nấu rượu.

Nhờ công cuộc đổi mới, kinh tế phát triển, nên hầu hết các hộ gia đình người

Kinh ở Tân Kỳ đều có xe đạp, xe máy, một số gia đình khá giả mua sắm ô tô để đi

lại. Đời sống văn hóa vật chất của người Kinh ở các xã Nghĩa Hoàn, Thị trấn Lạt,

thị trấn Cừa, Nghĩa Dũng, Tiên Kỳ, Phú Sơn,… thay đổi nhanh chóng. Ngoài sản

xuất nông nghiệp, đồng bào Kinh còn nhạy bén trong hoạt động kinh doanh, buôn

bán, dịch vụ,… kết hợp mô hình nông - lâm nghiệp, nhận đất trồng rừng, quản lý

rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, cá, ếch, lợn rừng, ong,v.v… quy mô lớn. Do đó,

số hộ gia đình gia đình giàu và khá chiếm tới 85% tổng số hộ giàu, khá trên địa bàn

huyện.

Nhìn chung đời sống văn hóa vật chất của người Kinh sống trên địa bàn Tân

Kỳ từ ăn, uống, mặc, đi lại, kiến trúc nhà cửa,… cơ bản giống với đồng bào Kinh

ở những huyện, thành trong tỉnh. Số người từ các tỉnh khác đến định cư trên vùng

đất Tân Kỳ sớm tiếp thu văn hóa vật chất của những người trong cùng một cộng

đồng cư dân, do đó, một số nét khá riêng trong cách chế biến món ăn, hay cách xây

dựng nhà cửa,… không mang tính phổ quát và ít được cộng đồng dân cư thừa

nhận. Đây có thể là một trong những nguyên nhân để sau một thời gian an cư lập

nghiệp trên vùng đất Tân Kỳ, đời sống văn hóa vật chất của đồng bào Kinh ở hầu

hết các xã, thị trên địa bàn huyện đều có nhiều nét tương đồng. Một nguyên nhân

khá quan trọng khác là đời sống kinh tế của người Kinh phát triển nhanh, trình độ

Page 44: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

dân trí cao và điều kiện giao lưu với cư dân các vùng miền trong khoảng 30 năm

lại nay thuận tiện, nên một số nét riêng trong đời sống vật chất của một số hộ gia

đình vốn có nguồn gốc từ các tỉnh phía Bắc hay phía Nam đến định cư ở Tân Kỳ

không còn đủ cơ sở đê tồn tại bền vững.

* Văn hóa tinh thần

Giống như đồng bào Kinh ở các huyện, thành khác trong và ngoài tỉnh, đời

sống văn hóa tinh thần của người Kinh ở Tân Kỳ hết sức đa dạng, phong phú. Trước

hết là ngôn ngữ nói ở trong cùng một xã, một huyện nhưng những người sống lâu ở

Tân Kỳ có thể phân biệt rõ, người đang giao tiếp sống với mình ở xã nào, người gốc

Nghệ An hay ở tỉnh khác đến. Do nguồn gốc dân cư đa dạng nên phong tục, tập

quán, lối sống, đến niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng,… của người Kinh ở đây cũng khá

đa dạng.

Ở Tân Kỳ có một bộ phận đồng bào theo đạo Thiên chúa, sống tập trung ở

các xã Kỳ Tân, Tân Hương, Nghĩa Hành, Đồng Văn,… Đại bộ phận giáo dân đều

sống tốt đời đẹp đạo, có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng, phát triển quê

hương và bảo vệ đất nước. Đảng bộ, chính quyền các cấp luôn tạo mọi điều kiện

thuận lợi để bà con giáo dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng theo đúng pháp luật.

Mối đoàn kết lương giáo luôn được củng cố.

Tín ngưỡng vòng đời của đồng bào Kinh ở Tân Kỳ không có nét riêng biệt so

với các vùng miền khác. Trên địa bàn Tân Kỳ, phong trào xây dựng nhà thờ họ, quy

hoạch nghĩa trang dòng họ, gia tộc, gia đình, bắt đầu phát triển khá mạnh trong

khoảng 30 - 40 năm lại nay. Tuy nhiên, phần lớn các họ mới có lịch sử định cư từ 5 -

7 đời (tương ứng khoảng 120 -150 năm), do đó, nhà thờ họ ở đây chủ yếu là trung

chi và tiểu chi, trừ một số họ ở thị trấn Lạt, Cừa,… có lịch sử định cư vài ba trăm

năm. Hàng năm đến Rằm tháng 7, rằm tháng 10, 12 hoặc Rằm tháng Giêng âm lịch,

con cháu đi tảo mộ, thắp hương sau đó về nhà thờ làm lễ cúng tổ tiên và cùng chung

vui chén rượu. Do mối liên hệ huyết thống với các dòng họ có lịch sử định cư lâu đời

Page 45: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

ở nhiều vùng miền khác nhau, nên ngày Rằm tháng Giêng hoặc dịp tết Nguyên đán,

nhiều người ở Tân Kỳ vẫn về quê cũ để cúng tế tổ tiên. Đây là một nét đẹp trong đời

sống văn hóa tinh thần, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, chim có tổ, người có

tông” mà đồng bào Kinh ở Tân Kỳ vẫn giữ trong suốt nhiều thế kỷ qua.

So với một số huyện thành khác trong tỉnh, số đồng bào theo Đạo Phật ở Tân

Kỳ chiếm một tỷ lệ nhỏ và số chùa thờ Phật rất ít. Trên địa bàn huyện, có một số đền

thờ, thờ thần Cao Sơn, Cao Các (Thần Núi), thờ thần sông, thờ những người có công

với nước như, Mai Thúc Loan, Lý Nhật Quang, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,v.v… Trong

bối cảnh giao lưu văn hóa ngày càng rộng mở, nhiều người dân ở Tân Kỳ thường

xuống đền thờ Lý Nhật Quang ở Đô Lương, đền thờ Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá

Thốn ở Yên Thành, đền thờ Bạch Mã ở Thanh Chương, đền thờ vua Mai ở Nam

Đàn, đền Cờn ở Quỳnh Lưu,v.v… đi lễ vào dịp đầu xuân năm mới, hay trong các đợt

lễ hội được tổ chức. Gần đây, không ít hộ gia đình người Kinh ở Tân Kỳ, ngoài bàn

thờ tổ tiên còn có bàn thờ Hồ Chủ Tịch, bàn thờ Phật. Một số hộ gia đình kinh

doanh, buôn bán,… còn thờ thần Lộc, thần Tài, xây cột Thiên Đài,v.v…

Trong tang ma, cưới xin,… các hủ tục lạc hậu, các hiện tượng đồng bóng, bói

toán,v.v… đã bị xóa bỏ. Cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa”, “ Làng xã

văn hóa”,… nhận được sự đồng thuận của đại bộ phận nhân dân, nhờ đó, đời sống

văn hóa mới đã và đang đến tận từng hộ gia đình, từng làng xã, đơn vị làm thay đổi

hoàn toàn bức tranh văn hóa của mọi người dân nói chung và đồng bào Kinh nói

riêng trên địa bàn huyện.

Tóm lại: Trong dòng chảy lịch sử xây dựng, bảo vệ quê hương, góp phần

vào công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc, các thế hệ cư dân ở vùng đất

Tân Kỳ xưa và nay đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất tinh thần đa dạng

phong phú. Bức tranh văn hóa đa chiều ấy cần được nghiên cứu, tìm hiểu một

cách hệ thống, toàn diện để lớp lớp cháu con giữ gìn, phát huy và tạo nên một sức

Page 46: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

mạnh tinh thần trên bước đường đi tới văn minh, hội nhập với cộng đồng khu

vực, thế giới.

III. Khái quát truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân vùng

đất Tân Kỳ trước khi thành lập huyện

1. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân sống trên vùng

đất Tân Kỳ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

Tuy kết quả khai quật khảo cổ trên địa bàn Tân Kỳ còn khá khiêm tốn song

các nhà khảo cổ học, dân tộc học, sử học đã khẳng định chính các tộc người Việt

cổ cư trú trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay đã góp phần cùng cộng đồng cư dân xứ

Nghệ cùng chung tay góp sức với các bộ tộc khác dựng nên nhà nước Văn Lang -

Âu Lạc. Trước khi Thục An Dương Vương để mất nước (năm 179 TCN), cộng

đồng cư dân xứ Nghệ đã từng trải qua một thời gian khá dài cùng cả dân tộc nêu

cao tinh thần đoàn kết, nhiều lần cùng các vua Hùng và cả Thục Phán đánh bại

ngoại xâm, bảo vệ nền tự chủ của dân tộc.

Thất bại của An Dương Vương như một lát cắt lịch sử, đưa dòng chảy lịch

sử dân tộc đi sang một hướng khác: cả dân tộc suốt hơn 1000 năm phải chịu ách

thống trị tàn bạo của các thế lực phong kiến phương Bắc (179 TCN - 905). Nhưng,

trong tình thế lịch sử đầy khó khăn đó, tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự

chủ của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội nước ta từ vùng núi phía Bắc đến đồng

bằng Bắc Bộ vào tận vùng Thanh - Nghệ đã kết thành một khối để chống lại mọi

âm mưu đồng hóa vừa xảo quyệt, vừa tàn bạo của kẻ thù để bảo vệ, giữ gìn, làm

phong phú thêm nền văn hóa, văn minh mà cha ông đã tạo nên. Không dừng lại ở

đó, với tinh thần quật khởi năm 40 cả dân tộc vùng dậy dưới lá cờ nghĩa do hai Bà

Trưng dựng nên, lật đổ ách thống trị của phong kiến phương Bắc, giành và giữ

được nền độc lập tự chủ trong suốt 3 năm (40 - 43). Cộng đồng cư dân xứ Nghệ

Page 47: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nói chung, cư dân Nghĩa Đàn - Tân Kỳ nói riêng đã góp phần không nhỏ vào cuộc

đấu tranh ngoan cường đó15.

Năm 248, Bà Triệu dựng cờ khởi nghĩa ở núi Nưa (Thanh Hóa). Nhân dân

Hoan - Diễn cùng các vùng miền khác nhất loạt vùng lên ứng nghĩa. Tiếp đến là

cuộc khởi nghĩa vũ trang do Lý Bí, Tinh Thiều, Phạm Tu,… tổ chức, lãnh đạo

bùng nổ vào năm 543. Tài năng và uy tín của bộ chỉ huy nghĩa quân, nhất là Lý Bí

đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi trọn vẹn. Lý Bí xưng Đế,

đặt tên nước là Vạn Xuân, xây dựng, phát triển đất nước trong một thời gian.

Trong hai cuộc đấu tranh vũ trang quyết liệt đó, cùng với nhân dân khắp mọi miền

tổ quốc, nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay đã không tiếc máu xương

để giành lại độc lập tự chủ.

Đặc biệt, năm 713, Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa ở Vạn An (nay

thuộc xã Vân Diên, huyện Nam Đàn), lập tức nhận được sự hưởng ứng của đông

đảo nhân dân khắp mọi vùng miền. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê khi biên

soạn “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép “Mai Thúc loan liên kết với 32 châu

quanh vùng và các nước Xảo Oa, Ja Va, Chân Lạp, Kim Lân,v.v… xây dựng cả

đạo quân đông tới 30 - 40 vạn người”. Các châu mà Đại Việt sử ký nhắc đến ở

đây là vùng đất phía Tây Thanh - Nghệ - Tĩnh và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ,...

Các tài liệu chính sử hiện có, không cho biết nhiều về những đóng góp to lớn cả

về sức người, sức của mà nhân dân Hoan - Diễn đã dành cho cuộc khởi nghĩa

này, song rõ ràng là thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc

Loan đứng đầu và sự ra đời , tồn tại của nhà nước Vạn An độc lập có một phần

đóng góp hết sức to lớn của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh nói chung, nhân dân

sống trên vùng đất Tân Kỳ nói riêng.

15Lịch sử Nghệ Tĩnh, tập 1, NXB Nghệ Tĩnh, 1984 và Tân kỳ truyền thống và làng xã, sdd

Page 48: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Trong thời kỳ Bắc thuộc còn có cuộc khởi nghĩa vũ trang lớn do Phùng

Hưng, Phùng Hải tổ chức lãnh đạo, tiếp đó là cuộc khởi nghĩa do Dương Thanh tổ

chức vào năm 819. Đất tổ của Dương Thanh ở vùng Đô Lương, Nghệ An. Đây là

một trong những dòng họ có thế lực trong cả một vùng rộng lớn. Khi Dương

Thanh cùng hơn 3.000 binh sĩ dưới quyền bao vây chiếm thành Tống Bình (Hà Nội

ngày nay), sau đó tổ chức lực lượng kiên quyết chống xâm lược của nhà Đường,

thì ngay lập tức con cháu họ Dương nói riêng, nhân dân vùng Đô Lương, Tân Kỳ,

Nghĩa Đàn và rộng hơn là cả vùng Thanh - Nghệ nhất loạt hưởng ứng.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ chớp thời cơ thuận lợi, giành lại độc lập tự chủ

cho dân tộc. Thời kỳ Bắc thuộc kết thúc, từ đây cả dân tộc chuyển sang thời kỳ xây

dựng bảo vệ đất nước.

Trải qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, các thế hệ nhân dân sống trên

vùng đất Anh Sơn, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn nói riêng và Nghệ An nói chung đã đóng

góp nhiều sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam

Hán (938), kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980); cũng như trong công cuộc

xây dựng, phát triển đất nước. Châu Hoan, Châu Diễn vốn là vùng đất biên viễn

của quốc gia Đại Cồ Việt, nhân dân phải cùng với Đinh Tiên Hoàn, Lê Hoàn,… lo

chống đỡ, đối phó với nguy cơ xâm lược của phong kiến phương Bắc lại phải trực

tiếp đối phó với các cuộc tiến công, lấn chiếm đất đai từ phía Nam hay từ phía Tây.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết ít nhiều về các lần Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn

trực tiếp dẫn đại quân từ Hoa Lư, Ninh Bình vào vùng Hoan - Diễn để bảo vệ độc

lập chủ quyền, ổn định tình hình chính trị xã hội. Các thế hệ nhân dân ở vùng Hoan

- Diễn nói chung, Tân Kỳ - Nghĩa Đàn - Anh Sơn ngày nay nói riêng phát huy tinh

thần đoàn kết, tinh thần yêu nước, góp phần xứng đáng vào công cuộc giữ yên bờ

cõi ở vùng đất biên viễn phương Nam.

Năm 1009, Lý Thái Tổ lên ngôi, đặt nền móng vững chắc cho sự tồn tại bền

vững của vương triều Lý trong suốt 215 năm (1009 - 1225). Mối lo thường trực đối

Page 49: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

với vùng đất biên viễn phía Nam của quốc gia Đại Cồ Việt và Đại Việt được thể

hiện khá rõ nét trong các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng,…

của các vị vua đầu triều Lý như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý

Nhân Tông. Tháng 4, năm 1036, vua Lý Thái Tông đổi tên châu Hoan thành Trấn

Nghệ An. Tên gọi Nghệ An có từ đó16. Tháng giêng, năm Quý Mão 1044, vua Lý

Thái Tông thân chinh dẫn đại binh vào Nghệ An đánh Chiêm Thành để ổn định

tình hình phía Nam. Được sự giúp đỡ của nhân dân và ba quân tướng sĩ trong cả

nước, nhất là quân dân Nghệ An, cuộc tiến công vào Chiêm Thành đại thắng.

Tháng 8, năm 1044, khi đưa đại quân về tới hành dinh Nghệ An, vua cho gọi Uy

minh hầu Nhật Quang đến úy lạo, rồi trao cho tiết việt, trấn thủ châu Nghệ An, gia

phong tước vương.

Uy minh vương Lý Nhật Quang là người văn võ song toàn. Trong suốt thời

gian làm trấn thủ châu Nghệ An, ông đã thay mặt triều đình thực thi nhiều chính

sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, v.v… mang lại cuộc sống yên vui cho

mọi người dân. Thời gian này, lỵ sở Nghệ An đóng ở Đô Lương, chỉ cách thị trấn

Lạt ngày nay chưa đầy 20km. Nhìn thấy vị thế chiến lược của vùng đất phía Tây

Nghệ An, Uy minh vương Lý Nhật Quang quyết định huy động binh lính và dân cư

khai thông tuyến đường bộ nối lỵ sở Nghệ An ở Đô Lương lên trại Lạt Tân Kỳ sau

đó lên vùng Cừa và đi ngược lên vùng Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương,… tạo

điều kiện thuận lợi cho việc giao thương đi lại của nhân dân miền Tây Nghệ An về

miền xuôi. Mặt khác, Ông còn cho quân sĩ, binh lính khai thông tuyến đường bộ

nối Nghệ An với kinh thành Thăng Long đi qua vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn

ngày nay ra vùng Như Xuân - Như Thanh,…(Thanh Hóa) mà đời sau gọi là con

đường Thượng đạo. Chưa dừng lại ở đó, Uy minh vương Lý Nhật Quang còn chiêu

dân lập ấp, khuyến khích dân chúng từ Quỳnh Lưu, Yên Thành Diễn Châu, Nghĩa

16 Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê: Đại Việt sử ký Toàn thư, NXB KHXH, Hà Nội, Tập 1, 1998, trang 258

Page 50: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Đàn, Tân Kỳ, Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn,…(Nghệ An), Đức Thọ,

Hương Sơn, Can Lộc, Thạch Hà,… (Hà Tĩnh) khai phá đất đai, lập làng, dựng bản,

yên cư lạc nghiệp. Qua khảo sát chưa đầy đủ, trên địa bàn các huyện ở tỉnh Nghệ

An, Hà Tĩnh ngày nay có tới gần 80 đền thờ thờ Uy minh vương Lý Nhật Quang

và tôn ông làm thành hoàng làng. Về quân sự, ngoài lực lượng triều đình đóng giữ,

Lý Nhật Quang còn triệt để thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, thành lập các

đội dân binh ở hầu khắp các làng xã nhằm đảm bảo trật tự an ninh và khi cần có

thể huy động toàn bộ lực lượng dân binh vào sự nghiệp chống ngoại xâm, mở

mang bờ cõi. Sau khi Lý Nhật Quang mất, triều đình nhà Lý tiếp tục cử nhiều

vương hầu vào coi giữ vùng đất Nghệ An. Trong suốt hơn hai thế kỷ nhà Lý nắm

quyền trị vì đất nước, đất Nghệ An thực sự trở thành bàn đạp chiến lược để các vị

vua nhà Lý mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Nhân dân Nghệ An nói chung, nhân

dân vùng đất Tân Kỳ ngày nay nói riêng đã góp phần to lớn vào công cuộc xây

dựng đất nước và bảo vệ nền độc lập tự chủ.

Năm 1075 - 1077, quân dân Đại Việt buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến

chống Tống lần thứ hai trong tình thế nhà vua còn nhỏ tuổi. Tuy nhiên , Lý

Thường Kiệt và các trung thần của nhà Lý đã đoàn kết trăm họ muôn dân từ vùng

biên viễn phía Nam đến đồng bằng Bắc bộ và cả đồng bào các dân tộc miền núi

phía Bắc, vượt qua mọi gian khó, hy sinh, quét sạch ngoại xâm, bảo vệ vững chắc

giang sơn xã tắc. Đúng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt đã khẳng định:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Trong số hàng vạn anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến

oanh liệt đó, có không ít người con trung dũng ra đi từ khắp các vùng quê Nghệ An

nói chung và Tân Kỳ nói riêng. Máu xương của họ đã góp phần tô đậm trang sử

Page 51: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc và giúp cho vương triều nhà Lý tiếp tục

đưa đất nước Đại Việt bay cao như mong ước của vị vua đầu triều Lý khi đặt tên

quốc đô là Thăng Long.

Thời đại nhà Trần (1225 - 1400) thường được các thế hệ tiếp nối nhắc tới

bởi những võ công hiển hách trong sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm cũng

như sự phát triễn rực rỡ của nền văn hóa Đại Việt trên khắp các phương diện kinh

tế, chính trị, văn hóa,… và sự thăng hoa của Phật giáo. Biên giới Đại Việt đã vào

tận vùng Ô - Lý sau cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân với vị vua Chiêm

Thành. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vùng đất Nghệ An, các vị vua nhà Trần

đã đưa các tướng lĩnh và cả con cháu có tài năng vào coi giữ vùng đất này. Trần

Quốc Khang thay mặt triều đình vào coi giữ Nghệ An. Ông huy động binh lính,

nhân dân và cả tù binh người Chăm vào việc khai phá đất đai, lập đồn điền, làng

xã, xây dựng chùa chiền dọc đôi bờ sông Lam nhất là vùng đất phía Tây. PGS

Ninh Viết Giao và một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, có nhiều khả năng vùng

đất Trại Lạt và Trại Cừa cũng như dải đất dọc sông Con Tân Kỳ ngày nay được

khai phá từ thời Lý và được mở rộng thêm vào thời Trần. Đến thời Trần cư dân ở

Trại Lạt, Trại Cừa, dọc đôi bờ sông Con đã khá đông đúc. Ngoài lực lượng quân

đội nhà Trần đồn trú trên đất Nghệ An, với chính sách ngụ binh ư nông, nhà Trần

có cả hàng vạn dân binh ở khắp làng xã từ vùng Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc,

… đến vùng Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Anh Sơn,… Điều này được chính vua

Trần Nhân Tông khẳng định ngay trong tình thế khó khăn nhất của cuộc kháng

chiến chống Mông - Nguyên:

Cối kê cựu sự quân tu ký

Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh

Tạm dịch:

Cối kê chuyện cũ ngươi nên nhớ

Hoan, Diễn đang còn chục vạn binh

Page 52: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Trong ba lần đối đầu với quân xâm lược Mông - Nguyên từ 1258 - 1288,

quân dân Đại Việt nói chung, quân dân Hoan - Diễn thực sự là chỗ dựa vững chắc

cho vương triều nhà Trần cả trên hai phương diện: cung cấp lương thực, thực

phẩm, vũ khí và nhất là hàng vạn binh sĩ giàu tinh thần quả cảm, mưu trí, sáng tạo

trong các trận đánh mang tính quyết định làm thay đổi cục diện chiến trường, đưa

sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm đi đến thắng lợi trọn vẹn. Tuy không

nhiều, nhưng qua nguồn tư liệu văn học dân gian mà GS Nguyễn Đổng Chi, PGS

Ninh Viết Giao sưu tầm hay các thần tích, thần phả tại các đền thờ như đền thờ

Đức Hoàng ở Yên Thành, Diễn Châu (thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn) và

một số đền thờ khác ở Đô Lương, Nam Đàn, Thanh Chương, Hưng Nguyên,v.v…

cùng nguồn tư liệu không nhiều trong các bộ chính sử như: Đại Việt sử ký toàn

thư, Khăm định Việt sử thông giám cương mục,v.v… đã cho thấy điều đó. Nghiên

cứu về những đóng góp của nhân dân ở vùng đất Tân Kỳ ngày nay trong sự nghiệp

kháng chiến chống Mông - Nguyên và công cuộc mở đất về phương Nam dưới thời

Trần vẫn còn là một khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử, cần phải được tiến

hành bổ khuyết.

Ngay cả trong cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng đầu thế

kỷ XV để loại bỏ ách thống trị của nhà Minh, giành lại độc lập tự chủ, vùng đất

Nghệ An - Hà Tĩnh là địa bàn chiến lược của nghĩa quân. Đây là một trong những

vùng đất cung cấp nguồn nhân lực, vật lực quan trọng để các tướng lĩnh tài ba như:

Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị,v.v…cùng ba quân

tướng sĩ giành được nhiều thắng lợi quan trọng, song do nhiều nguyên nhân mà

cho tới nay việc nghiên cứu về những đóng góp của cộng đồng cư dân xứ Nghệ nói

chung, Tân Kỳ nói riêng đối với nhà Hậu Trần vẫn còn nhiều khoảng trống.

Năm 1417, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn Thanh Hóa, thu hút đông

đảo nhân tài từ khắp các vùng miên đến tham gia. Từ năm 1417 đến năm 1423, tuy

giành được một số thắng lợi quan trọng trên địa bàn Thanh Hóa, song nghĩa quân

Page 53: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Lam Sơn luôn bị kẻ địch bao vây, tấn công từ nhiều phía, đẩy vào tình thế hết sức

khó khăn:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Lúc Khôi huyện quân không một lữ

(Nguyễn Trãi - Cáo Bình Ngô)

Thực hiện kế hoạch táo bạo của tướng quân Nguyễn Chích, Bộ chỉ huy nghĩa

quân Lam Sơn quyết định đưa toàn bộ lực lượng vào hoạt động trên địa bàn Nghệ

An. Ngay sau khi hạ đồn Đa Căng ở Như Xuân, Thanh Hóa, thẳng tiến vào Nghệ

An, nghĩa quân Lam Sơn đã lập tức nhận được sự ủng hộ hết sức nhiệt thành của

đại bộ phận dân chúng. Sách: Đại Việt sử ký toàn thư và sách Lam Sơn thực lục

đều chép về việc vua (chỉ Lê Lợi) đi đến đâu nhân dân đem trâu bò, dê rượu, đến

úy lạo nghĩa quân và đều vui mừng vì còn thấy uy nghi của nước cũ. Được sự ủng

hộ cả về nhân lực, vật lực của cộng đồng các dân tộc ở miền Tây Nghệ An, nghĩa

quân Lam Sơn đã lập nên chiến công vang dội đập tan toàn bộ lực lượng quân

Minh và tay sai tại Bồ Đằng (Quỳ Châu), tiếp đó giải phóng phần lớn vùng đất

Quỳ Châu, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quỳ Hợp,v.v… làm nên chiến

thắng Trà Lân (Trà Long) lẫy lững:

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay

Sĩ khí đã hăng

Quân Thanh càng mạnh

(Nguyễn Trãi - Cáo Bình Ngô)

Nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ đã có đóng góp to lớn vào những chiến

công vang dội đó. Nguồn sử liệu cho biết nhân dân sống trên địa bàn xã Tiên Kỳ

và xã Đồng Văn ngày nay nhất loạt theo Trương Hán - một thủ lĩnh người Thái ở

Kẻ Trằng (trước thuộc Tân Kỳ nay thuộc Anh Sơn) gia nhập nghĩa quân Lam Sơn.

Ngoài Trương Hán, gia đình này còn có Trương Tham (hay Thám?), Trương Tâm

Page 54: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

ngay từ khi được tin nghĩa quân Lam Sơn vào Nghệ An đã đi khắp các bản làng

của người Thái ở Tân Kỳ ngày nay, vận động nhân dân đưa trâu bò, dê lợn,

rượu,v.v… đến úy lạo nghĩa quân. Nhờ thông thạo địa hình, đường đi lối lại trong

vùng Trương Hán, Trương Thám cùng một số thủ lĩnh người Thái khác trên địa

bàn các huyện Quỳ Hợp, Anh Sơn, Con Cuông ngày nay đã dẫn đường cho nghĩa

quân Lam Sơn hình thành thế trận bao vây địch từ nhiều hướng ở vùng Trà Lân

(Con Cuông ngày nay). Cùng anh em Trương Hán, nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ

nay, người động viên chồng con tham gia nghĩa quân, người đem lương thực, vũ

khí ủng hộ nghĩa quân. Phụ nữ, người già vào rừng chặt tre vót tên, làm cung, rèn

đao kiếm cho con em tham gia giết giặc. Cùng với nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ,

nhân dân Nghĩa Đàn, Yên Thành, Đô Lương, Quỳ Hợp, Con Cuông, Anh Sơn,…

đồng tâm hiệp sức phá giặc. Đây chính là một trong những nhân tố quyết định để

Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn cùng ba quân tướng sĩ liên tiếp lập nên những

chiến công oanh liệt trên vùng đất miền Tây Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng đất

chiến lược trải rộng từ Nghĩa Đàn - Tân Kỳ - Quỳ Châu - Quế phong - Quỳ Hợp -

Con Cuông - Anh Sơn,… vào tận Thanh Chương, và cả Hương Sơn, Hương Khê,

Hà Tĩnh trong một thời gian ngắn. Theo đoàn quân chiến thắng ấy, nhân dân sống

trên vùng đất Tân Kỳ luôn dõi theo bước chân của nghĩa quân Lam Sơn, bởi trong

đoàn quân ấy có không ít cháu con của họ đang ngày đêm luyện tập võ nghệ, mài

sắc ý chí, quyết tâm lập công báo ơn vua đền nợ nước.

Đất nước sạch bóng ngoại xâm, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, ban thưởng công

lao cho các công thần, dũng sĩ có công lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng

dân tộc. Trương Hán được nhà vua phong là Khả Lãm quốc công. Nhà vua còn

tặng cho nhân dân một con dao vàng để nhớ công dân làng đã vào rừng hái quả

khẩu, cây khẩu, cũng như ủng hộ lương thảo, giúp nghĩa quân trong những ngày

gian khó trên đất Nghệ An.

Page 55: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Cũng có ý kiến cho rằng, địa danh Tiên Kỳ ngày nay có nguồn gốc từ cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Nguyên do là khi đưa quân vào

Nghệ An, Lê Lợi đã nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của nhân dân khắp vùng.

Một trong những người đó chính là Trương Hán. Sau khi gặp được Lê Lợi, ông lập

tức về vận động hết thảy con cháu trong dòng họ và nhân dân quanh vùng tham

gia, ủng hộ, nghĩa quân. Ông cũng chính là người dẫn đường. Do đó, chữ Tiên Kỳ

có nghĩa là người dẫn đường, người tiên phong. Theo dã sữ, vùng đất Tiên Kỳ xưa

được vua Lê Thái Tổ ban cấp có phạm vi không gian rộng tới tam bách đỉnh sơn

(có tới 300 ngọn núi).

Nguồn tài liệu địa phương thu được ở vùng đất Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hợp và

dọc sông Con còn cho biết thêm về những đóng góp to lớn của nhân dân trên vùng

đất Tân Kỳ nay trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ấy. Cũng có ý kiến cho rằng,

vùng đất Liên Hoàn, Trại Cừa và cả Trại Lạt, Phú Sơn, Kỳ Sơn… là nơi nghĩa

quân Lam Sơn từng dừng chân để nhận thêm binh sĩ, lương thảo, khí giới của nhân

dân trong vùng. Đây cũng là nơi luyện tập quân sĩ để những nghĩa binh mới gia

nhập nghĩa quân biết hiệu lênh tiến lui, công thủ,… Những địa danh như: Đồng tập

trận, Bãi Trận, Bãi Voi, Trại ngựa, Bãi Loi Loi (hay bãi Lê Lợi?) v.v…còn tồn tại

cho đến tận ngay nay có thể là những địa danh lịch sử ghi dấu bước chân hành

quân của nghĩa quân Lam Sơn trên đất Tân Kỳ mà lớp bụi thời gian chưa thể xóa

nhòa trong ký ức của các thế hệ người dân sống trên vùng đất Tân Kỳ xưa và nay.

Ở vùng Lèn Rỏi, Trại Cừa, Phú Sơn, Kỳ Sơn, Tiên Kỳ,… còn có một số địa

danh lịch sử và không ít tư liệu dã sử ghi nhận những năm tháng hoạt động của

nghĩa quân do ông Hoàng Lê Duy Mật lãnh đạo để chống lại nhà Trịnh trong

những năm 1738 - 1740. Vùng Gia Xuân ngày nay còn có phế tích của hệ thống

đồn lũy mà Lê Duy Mật huy động binh sĩ và nhân dân quanh vùng xây dựng để

chống lại các cuộc tiến công của quân đội nhà Trịnh mà nhân dân quen gọi là

thành Hoàng Mật. Trong tâm thức của nhân dân Tân Kỳ, Lê Duy Mật là người

Page 56: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

thương yêu dân bản, chăm lo cho dân tựa như một bậc minh quân; trong khi trên

thực tế Lê Duy Mật chỉ là con cháu trong Hoàng tộc nhà Lê, người đứng đầu một

cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, địa bàn hoạt động trải dài ở miền tây Thanh Hóa

vào tận miền Tây Nghệ An, đến tận vùng Trấn Ninh. Vùng đất Tân Kỳ ngày nay

chỉ là một trong những địa bàn đóng quân và hoạt động của lực lượng khởi nghĩa

mà ở đó Lê Duy Mật đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.

Trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất năm 1874, khi Trần Tấn, Đặng Như Mai đưa

quân từ Nam Đàn, Thanh Chương ra hoạt động trên vùng đất phía Bắc Nghệ An,

tầng lớp tri thức Nho học yêu nước ở vùng đất Đô Lương, Yên Thành, Quỳnh

Lưu,v.v… và đông đảo nhân dân từ Anh Sơn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn đến

các huyện đồng bằng ở phía bắc Nghệ An đã tích cực ủng hộ nghĩa quân. Trước sự

đàn áp thảm khốc của quân đội triều đình có sự giúp sức của người Pháp, cuộc

khởi nghĩa nhanh chóng bị nhấn chìm trong biển máu. Không ít gia đình có người

tham gia khởi nghĩa, hoặc ủng hộ cuộc khởi nghĩa Trần Tấn ở Yên Thành, Quỳnh

Lưu, Diễn Châu, Nam Đàn, Thanh Chương,… buộc phải bỏ trốn, thay tên đổi họ,

định cư trên vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ. Nhân dân Tân Kỳ đã dang rộng vòng

tay che chở giúp đỡ họ vượt qua khó khăn.

Ngày 20 tháng 7 năm 1885, Sô Mông (Chaumond) đem quân từ Cửa Hội lên

chiếm thành Nghệ An. Từ đây, cộng đồng cư dân xứ Nghệ buộc phải cầm vũ khí

để tiến hành cuộc đấu tranh một mất một còn nhằm chống lại tham vọng áp đặt nền

thống trị của người Pháp ở vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh. Các văn thân sĩ phu yêu

nước dương cao ngọn cờ Cần Vương mà Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi khởi

xướng, vận động nhân dân từ Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc,

Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương,… đến các huyện miền Tây Nghệ An

mài sắc gươm giáo, vót nhọn cung tên, đào đắp chiến lũy, tích trữ lương thảo, rèn

tập quân sĩ để ứng nghĩa. Phong trào đấu tranh vũ trang quyết liệt dưới danh nghĩa

Cần Vương bùng nổ trên khắp địa bàn Nghệ An. Ở Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ

Page 57: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Hợp, Anh Sơn,… đồng bào theo Lang Văn Bông, Lang Văn Thiết,v.v… ngoan

cường chiến đấu suốt nhiều năm trời để giữ bản giữ làng. Tại Quỳnh Lưu, Yên

Thành, Diễn Châu, Nghĩa Đàn, Đô Lương, Tân Kỳ, Anh Sơn, Con Cuông ngày

nay là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Bá

Niên, Trần Quang Diệm, Dương Quế Phổ,v.v… Nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ

nay, người đi theo Lê Doãn Nhạ, người đứng dưới cờ của Phan Bá Niên, Trần

Quang Diệm, Dương Bá Phổ và không ít người về Đồng Thông, Yên Thành, đứng

dưới lá cờ nghĩa của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn. Những gia đình khá giả ở Trại Lạt,

Trại Cừa, Hương Sơn, Phú Sơn, Tiên Kỳ, Đồng Văn, Nghĩa Đồng, Nghĩa Dũng,

Nghĩa Hợp,… ủng hộ lương thảo, vũ khí để nghĩa quân Cần Vương chống giặc.

Vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ - Anh Sơn - Con Cuông - Quỳnh Lưu - Đô Lương -

Diễn Châu trở thành địa bàn hoạt động của lực lượng Cần Vương đông tới hàng

vạn người trong những năm 1886 - 1889. Từ lương thảo, vũ khí đến quân trang,

quân dụng và cả công việc đào đắp công sự chiến lũy, chăm sóc, cứu chữa thương

binh, chôn cất những người hy sinh trong cuộc chiến quyết liệt với kẻ thù đều do

nhân dân đảm nhiệm. Khi Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, cuộc khởi nghĩa Đồng Thông

thất bại, vòng vây của kẻ thù ngày càng khép chặt, Phan Bá Niên, Lê Trọng Vinh,

Lê Doãn Nhạ và nhiều tướng sĩ từng chiến đấu dưới cờ Nguyễn Xuân Ôn, rút lên

vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn hoạt động thêm một thời gian.

Thực dân Pháp và triều đình phong kiến tay sai tăng cường viện binh, liên tiếp

tổ chức bao vây càn quét trên cả một vùng rộng lớn từ Quỳnh Lưu, Diễn Châu,

Yên Thành, Đô Lương lên Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Anh Sơn,

Con Cuông…. Những trận đánh cuối cùng của nghĩa quân Cần Vương diễn ra trên

đất Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Anh Sơn,… Hàng ngàn người con trung dũng

đã ngã xuống trên vùng đất thân yêu. Một số nghĩa binh của Phan Bá Niên, Hoàng

Trọng Vinh, Lê Doãn Nhạ,v.v… thoát khỏi vòng vây vào Hương Khê, Hà Tĩnh

tiếp tục chiến đấu dưới ngọn cờ của Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng.

Page 58: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Phong trào Cần Vương chống Pháp thất bại nhưng tinh thần yêu nước của nhân

dân Nghệ An nói chung, nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ nói riêng sống mãi với

non nước Hồng Lam. Kẻ thù có thể dập tắt phong trào Cần Vương, đốt trụi hàng

trăm làng mạc từ miền xuôi đến miền ngược nhưng tinh thần yêu nước và ý chí sẵn

sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ quê hương đất nước của văn thân sĩ phu yêu nước

cùng đông đảo nhân dân Nghệ An đã ngấm sâu vào máu thịt của các thế hệ tiếp nối

để khi có thời cơ là sẵn sàng bùng lên.

Đầu thế kỷ XX, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nghệ An tích cực hưởng

ứng phong trào yêu nước do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Đặng Nguyên

Cẩn, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân, Ngô Đức Kế,v.v… tổ chức lãnh đạo. Ở

vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ ngày nay có nhiều gia đình ủng hộ tiền bạc cho

phong trào Đông Du của cụ Phan và một số thanh niên yêu nước hưởng ứng phong

trào học chữ quốc ngữ, cắt tóc ngắn,v.v… Nhìn chung, ảnh hưởng của phong trào

Duy Tân và phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX đối với nhân dân các huyện miền

Tây Nghệ An nói chung, nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ nói riêng không sâu

đậm như các huyện miền xuôi. Song các phong trào yêu nước theo xu hướng dân

tộc dân chủ do thế hệ nhà nho yêu nước tổ chức và lãnh đạo đã góp phần khơi dậy

tinh thần dân tộc và khát vọng độc lập tự chủ cho mọi tầng lớp nhân dân ở Nghệ

An cũng như cả nước và tạo ra mảnh đất tốt để lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các học

trò của mình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin, chuẩn bị cho một thời kỳ mới của

cách mạng Việt Nam.

Rõ ràng, trong dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các thế

hệ nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay luôn nêu cao tinh thần đoàn kết,

tinh thần yêu nước, đóng góp sức người, sức của góp phần cùng cả dân tộc giành

thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc.

Nhiều người con ưu tú sinh ra và lớn lên trên vùng đất Tân Kỳ đã ngã xuống không

chỉ trên quê hương mà khắp mọi miền tổ quốc. Truyền thống yêu nước và tinh thần

Page 59: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

sẵn sàng xả thân cho sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm của cha ông thực sự là

nguồn sức mạnh để các thế hệ nối tiếp trên vùng đất Tân Kỳ, đi theo con đường

cách mạng vô sản mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mang về cho dân tộc để viết tiếp

trang sử hào hùng của cha anh.

2. Nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ trong sự nghiệp đấu tranh giành chính

quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1945)

Những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc liên

tiếp chứng kiến sự bùng nổ và thất bại của các phong trào yêu nước theo nhiều xu

hướng khác nhau. Chính trong bối cảnh lịch sử đó, bằng tài năng và tâm huyết của

mình, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc (tháng

7 năm 1920). Từ đó, cho đến năm 1929, dù hoạt động ở Pháp, ở Liên Xô, ở Quảng

Châu (Trung Quốc) hay ở Đông Bắc, Thái Lan, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn tìm

mọi cách để đưa học thuyết cứu nước mới về với dân tộc. Khát khao có một con

đường cứu nước đúng đắn, ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước cả dân tộc ta đã

đón nhận học thuyết cứu nước mới như: “người đi đường đang khát mà gặp nước,

như cây khô nắng hạn gặp mưa rào”. Nghệ An là một trong những địa phương

sớm có người đi theo học thuyết cứu nước mới và trở thành những cán bộ xuất sắc

của Đảng trong việc truyền bá học thuyết cứu nước mới đến với nhân dân trong

tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung.

Trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914), lần thứ hai

(1919 - 1929), Vinh, Bến Thủy, Trường Thi trở thành một trong những trung tâm

đầu tư lớn của tư bản Pháp. Năm 1899, trung tâm đô thị Vinh chính thức được

thành lập cùng với 5 trung tâm đô thị khác ở Trung Kỳ là Thanh Hóa, Huế, Hội

An, Đà Nẵng và Quy Nhơn. Năm 1914, Trung tâm đô thị Bến Thủy thành lập.

Năm 1916, trung tâm đô thị Trường Thi chính thức ra đời. Đến năm 1927, chính

quyền thuộc địa quyết định thành lập thành phố Vinh - Bến Thủy trên cơ sở sát

nhập 3 trung tâm đô thị Vinh, Bến Thủy, Ttường Thi. Thành phố Vinh - Bến Thủy

Page 60: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

có diện tích 20km2 với dân số là 2 vạn người. Đây là một trong những trung tâm

kinh tế công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại lớn nhất ở Trung Kỳ. Tại đây

có cả một đội ngũ công nhân hùng hậu với số lượng lên tới 7.000 người, chiếm 1/3

dân số nội thành17.

Bên cạnh đầu tư vào Vinh, Bến Thủy, Trường Thi nguồn lợi đất đai ở Phủ

Quỳ nói riêng và Nghệ An nói chung thực sự hấp dẫn đối với các điền chủ người

Pháp. Do đó, từ đầu thế kỷ XX, đến trước khi khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 nổ

ra, một phần lớn diện tích đất đai ở Phủ Quỳ đã nằm trong tay các điền chủ người

Pháp. Hệ thống đồn điền trồng cao su, cà phê, ngô, đay, chăn nuôi gia súc lớn, hình

thành ở vùng đất Nghĩa Đàn, Tân Kỳ ngày nay kéo theo sự hình thành ngày càng

đông đảo đội ngũ công nhân trên vùng đất đỏ ba gian trù phú này.

Điều quan trọng là từ nửa sau thập kỷ 20 của thế kỷ trước Vinh, Bến Thủy,

Trường Thi và nhiều huyện khác ở Nghệ An, quần chúng cách mạng đã được tiếp

thu học thuyết cứu nước mới một cách có hệ thống. Kết quả là đến cuối năm 1928

đầu năm 1929, trên địa bàn Nghệ An các tổ chức Nông hội, Sinh hội, Công hội,

v.v… lần lượt được thành lập thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Đến cuối

năm 1929, phong trào công nhân ở Vinh - Bến Thủy nói riêng và Nghệ An nói

chung phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh của công nhân ở Phủ Quỳ có sự tham

gia của đông đảo nông dân làng xã. Đây chính là yếu tố thúc đẩy cho sự ra đời của

các tổ chức cộng sản ở Nghệ An vào cuối năm 192918. Ngày 3 tháng 2 năm 1930,

tại Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản được tổ chức tại Hương Cảng (Trung

Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (6/1 - 7/2/1930), Đảng cộng

17 Nguyễn Quang Hồng: Thành phố Vinh- Quá trình hình thành và phát triển (1804 -1945), Nhà xuất bản Nghệ An,

năm 2003 và: Kinh tế Nghệ An từ năm 1885 đến năm 1945. NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008

18 Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An(1930 -1954), tập 1, NXB Nghệ An 1990 và:

Ban chấp hành huyện ủy Tân Kỳ: Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Kỳ (1930 - 2005), NXB Nghệ An, Ban chấp hành

huyện Đảng bộ Nghĩa Đàn: Lịch sử đảng bộ huyện Nghĩa Đàn,v.v…

Page 61: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

sản Việt Nam chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời cùng với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt

đúng đắn thực sự trở thành một mốc soi chói lọi đối với sự nghiệp đấu tranh giải

phóng dân tộc.

Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, chỉ sau một thời gian ngắn kể từ khi Đảng cộng sản Việt

Nam thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, công tác

hợp nhất các tổ chức cộng sản trên địa bàn Nghệ An được tiến hành và Đảng bộ

Nghệ An chính thức được thành lập19. Sự kiện lịch sử quan trọng này có ý nghĩa

đặc biệt đối với toàn bộ cán bộ đảng viên, nhân dân trên địa bàn tỉnh nói riêng và

cả nước nói chung. Dường như ngay lập tức, phong trào đấu tranh cách mạng của

quần chúng công - nông trên địa bàn Nghệ An và các giai tầng khác trong xã hội

bùng nổ liên tiếp, quyết liệt mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh.

Ở Tân Kỳ nói riêng và vùng Phủ Quỳ nói chung, tình hình cũng biến chuyển

mau lẹ. Cuối năm 1928 đầu năm 1929, các cơ sở bí mật của Công hội, Nông hội

được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Con đường cứu nước do Lãnh tụ Nguyễn

Ái Quốc mang về như ánh mặt trời chói lọi, thức tỉnh công nhân ở đồn điền Phủ

Quỳ và nông dân ở hầu khắp làng xã từ Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn đến vùng đất Tân

Kỳ, Anh Sơn,… ngày nay đứng dậy tham gia. Các cuộc đấu tranh của công nhân

tại các đồn điền của người Pháp và người Việt ở vùng đất Tân Kỳ, Nghĩa Đàn

mang hình thức mới và có sự kết hợp chặt chẽ giữa công nhân đồn điền với nông

dân làng xã.

Con đường cứu nước mới qua thực tiễn đã nhận được sự hưởng ứng của đông

đảo quần chúng nhân dân trên vùng đất phía Tây Nghệ An và thúc đẩy sự ra đời

của các tổ chức đảng trên địa bàn các huyện Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Tân Kỳ, Đô

Lương, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Con Cuông ngày nay.

19

Page 62: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Tuy nhiên, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan phải đến tháng 10 năm

1930, khi phong trào cách mạng ở Vinh - Bến Thủy, Hưng Nguyên, Nam Đàn,

Thanh Chương,v.v… đã chuyển từ đấu tranh chính trị sang hình thức đấu tranh

chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, lật đổ chính quyền phong kiến tay sai ở

làng xã, thành lập chính quyền xô viết với tên gọi là Thôn bộ nông và Xã bộ nông

thì đồng chí Võ Nguyên Hiến và đồng chí Võ Thược mới chính thức thành lập

được chi bộ cộng sản ở tổng Cự Lâm. Chi bộ cộng sản tổng Cự Lâm - Thọ Lộc ra

đời gồm có 5 đồng chí đảng viên, do đồng chí Phan Đình Lại làm bí thư và đồng

chí Võ Thược làm Ủy viên thư ký và kiêm luôn cả nhiệm vụ liên lạc với lãnh đạo

cấp trên.

Thực hiện chỉ thị của Xứ ủy Trung kỳ và Tỉnh ủy Nghệ An, chi bộ Cự Lâm -

Thọ Lộc (chịu trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo phong trào trên một địa bàn rộng lớn

cả Nghĩa Đàn và Tân Kỳ ngày nay) một mặt vận động công nhân đồn điền và đông

đảo nhân dân vùng dậy đấu tranh chống đánh đập, đòi tăng lương, giảm giờ làm,

chống sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ,… một mặt vận động quần chúng tham

gia vào các tổ chức như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Hội phụ nữ,v.v… Đồng thời

với những hoạt động đó, chi bộ Đảng tổng Cự Lâm còn tích cực vận động quần

chúng tham gia vào đội Tự vệ đỏ. Kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn, các đội

Tự vệ đỏ đã được thành lập tại làng Nghĩa Liệt, Tràng Thi, Hồng Lam, Tri Chỉ,

Tri Lễ, Yên Hòa (thuộc Nghĩa Bình và Nghĩa Đồng) và Trọt Lách, Môn Sơn, Khe

Sắn, Vực Bài (thuộc xã Phú Sơn, Tân Kỳ),v.v…

Phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền Phủ Quỳ và nông dân làng xã ở

vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn phát triển nhanh, thu được nhiều kết quả. Trước tình

hình đó, theo chủ trương của Tỉnh ủy Nghệ An, tháng 01 năm 1931, đồng chí Phan

Đình Lại và đồng chí Võ Thược chủ trì cuộc họp, quyết định thành lập chi bộ Cự

Lâm trên cơ sở tách chi bộ Cự Lâm - Thọ Lộc. Chi bộ Cự Lâm có 6 đảng viên do

đồng chí Nguyễn Đình Thục làm bí thư, đồng chí Nguyễn Chiểu làm Phó bí thư,

Page 63: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

đồng chí Nguyễn Hoát làm ủy viên thư ký. Riêng chi bộ Thọ Lộc vẫn do đồng chí

Phan Đình Lại làm bí thư, gồm một số đồng chí đảng viên trong chi bộ ghép Cự

Lâm - Thọ Lộc trước đây và một số đồng chí đảng viên mới được kết nạp qua thực

tiễn đấu tranh.

Cuối năm 1930, đầu năm 1931, thực dân Pháp và phong kiến tay sai huy động

mọi lực lượng, sử dụng đủ các âm mưu từ tàn bạo đến xảo quyệt, thâm độc tổ chức

hàng trăm trận càn quét, nhằm dập tắt hoàn toàn phong trào đấu tranh ở Nghệ An

và Hà Tĩnh. Ở các huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh

Lưu, Nam Đàn, Thanh Chương,v.v… có hàng ngàn cán bộ, đảng viên, quần chúng

cách mạng bị bắn, bắt tù đày. Nhà Lao Vinh, chật ních những người tù yêu nước và

cách mạng. Đến tháng 6 tháng 7 năm 1931 hầu hết các Thôn bộ nông, Xã bộ nông,

Nông hội, Công Hội,...được thành lập trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ở các

huyện Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn,

đều bị tan rã. Riêng ở Thanh Chương đến cuối tháng 9 đầu tháng 10 năm 1931, các

thành quả của cách mạng dành được cũng bị kẻ thù xóa bỏ. Xô Viết Nghệ Tĩnh đi

vào thoái trào, Đảng bị tổn thất nặng nề, nhất là hệ thống tổ chức Đảng từ Xứ ủy

Trung Kỳ, Đảng bộ Nghệ An, Đảng bộ Vinh, Đảng bộ Hà Tĩnh đến các huyện ủy,

… đều bị phá vỡ. Các tổ chức đoàn thể như Nông hội, Công hội, Tự vệ đỏ,… cũng

không còn có điều kiện tồn tại.

Trước sự khủng bố gắt gao của kẻ thù, từ tháng 2 tháng 3 năm 1931, Chi bộ

Cự Lâm và chi bộ Thọ Lộc phải đảm nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn là đảm

bảo an toàn cho một số đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy và một số huyện ủy khác trên

địa bàn Nghệ An đang bị địch truy bắt ráo riết có cơ sở bí mật để tiếp tục hoạt

động. Để thực hiện được nhiệm vụ khó khăn này, dưới sự lãnh đạo của các đồng

chí trong chi bộ Thọ Lộc và chi bộ Cự Lâm, các đội Tự vệ Đỏ ở Yên Hòa, Tri Lễ,

Nghĩa Liệt, Tràng Tri, Hồng Lam, Tri Chỉ (thuộc xã Nghĩa Đồng và Nghĩa Bình

ngày nay) được phân công cùng nhân dân trên địa bàn bảo đảm an toàn, bí mật

Page 64: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

tuyệt đối cho các đồng chí lãnh đạo của Đảng. Nhờ sự đồng tâm hiệp lực của nhân

dân, từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1931, vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ ngày nay trở

thành nơi hoạt động bí mật của nhiều cán bộ đảng viên đến từ nhiều huyện khác

trên địa bàn Nghệ An.

Trong thời gian này một điểm khá độc đáo là lực lượng Tự vệ đỏ ở Nghĩa Đàn

- Tân Kỳ phát triển khá mạnh và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng

trên địa bàn. Sự có mặt của nhiều cán bộ, đảng viên cốt cán trên vùng đất Nghĩa

Đàn - Tân Kỳ trong khoảng thời gian đầy cam go thử thách này góp phần không

nhỏ trong việc thúc đẩy phong trào cách mạng ở vùng Nghĩa Đàn - Tân Kỳ tiếp tục

phát triển. Hệ thống tổ chức đoàn thể quần chúng như Nông hội, Công hội, hội Phụ

nữ,… được mở rộng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Tiêu biểu

cho phong trào đấu tranh trong thời điểm lịch sử khó khăn này là cuộc biểu tình

của hàng trăm quần chúng nhân dân có sự tham gia của lực lượng Tự vệ đỏ thuộc

làng Yên Hòa, Làng Cồn Mô, Làng Sen (thuộc xã Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng ngày

nay) được tổ chức vào cuối tháng 4 năm 1931. Tiếp đó, đầu tháng 5 năm 1931, có

khoảng 300 đồng bào Kinh, đồng bào Thái, Thổ ở ở làng Sen, làng Sẻ, có sự bảo

vệ của Tự vệ đỏ tham gia biểu tình,v.v…

Sau khi cơ bản đàn áp xong phong trào cách mạng ở các huyện miền xuôi

Nghệ An, từ tháng 5, tháng 6 năm 1931, Công sứ Nghệ An cùng Tổng đốc Nghệ

An huy động quân đội, tay sai, chỉ điểm tổ chức hàng trăm cuộc càn quét, lùng sục,

vây bắt ở các xã miền núi huyện Quỳnh Lưu, huyện Yên Thành và dốc lực lượng

tổ chức càn quét vùng Tân Kỳ - Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Con Cuông,v.v… Trước sự

đàn áp dữ dội của kẻ thù, các đồng chí đảng viên trên địa bàn Tân Kỳ - Nghĩa Đàn,

Anh Sơn, Quỳ Hợp, Con Cuông,…lần lượt bị bắt. Các cơ sở Đảng bị phá vỡ, các

đoàn thể quần chúng tan rã. Phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng trên

vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn và các huyện miền núi phía Tây Nghệ An bị thực

dân Pháp và phong kiến tay sai nhấn chìm trong biển máu. Tuy nhiên, qua phong

Page 65: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

trào đấu tranh, quần chúng cách mạng ở vùng đất Tân Kỳ nói riêng và các huyện

miền núi phía Tây Nghệ An nói chung đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý

báu. Sự hy sinh của các đồng chí cán bộ, đảng viên và sự kiên trung của nhiều

đồng chí khác trước đòn roi tra tấn của kẻ thù đã để lại niềm tin cho đông đảo quần

chúng nhân dân. Kẻ thù có thể dập tắt được phong trào cách mạng trước mắt nhưng

niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng

vạch ra đã ăn sâu vào máu thịt của hàng chục vạn quần chúng nhân dân ở miền Tây

Nghệ An nói chung và vùng đất Tân Kỳ nói riêng.

Từ cuối năm 1931 đến năm 1933, phong trào cách mạng ở Nghệ An nói

chung, vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn nói riêng rơi vào thời kỳ thoái trào. Sang năm

1934, nhờ nỗ lực của Ban Lãnh đạo hải ngoại của Đảng và một số đồng chí Đảng

viên ở trong nước vừa vượt ngục thành công khỏi nhà tù hoặc được tha, phong trào

cách mạng ở trong nước bắt đầu được hồi phục. Từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3

năm 1935, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Ma Cao

(Trung Quốc). Đại hội giải quyết nhiều vấn đề quan trọng mà cách mạng Việt Nam

đề ra, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 13 đồng chí và cứ đoàn đại biểu

Đảng ta đi dự Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VII tổ chức tại Mát xcơ va, do đồng

chí Lê Hồng Phong dẫn đầu.

Sau khi dự Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VII trở về Ban chấp hành Trung

ương Đảng họp, quyết định phát động phong trào đấu tranh cách mạng trên phạm

vi cả nước với khẩu hiệu: chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ,

cơm áo và hòa bình,v.v… Hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, bất hợp pháp,

đấu tranh trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí, trên nghị trường, mít tinh,

biểu tình,v.v… đều được tổ chức. Phong trào cách mạng phát triển mạnh trên phạm

vi cả nước với nhiều hình thức khác nhau. Ở Nghệ An, phong trào phát triển khá

mạnh ở các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,

Nam Đàn,… nhất là ở địa bàn thành phố Vinh - Bến Thủy. Các huyện miền núi

Page 66: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Nghệ An nói chung, vùng đất Tân Kỳ nói riêng vì nhiều nguyên nhân chủ quan và

khách quan, phong trào đấu tranh phát triển không đều. Một số công nhân ở các

đồn điền ở Phủ Quỳ cùng với nhân dân các làng xã đấu tranh đòi các chủ đồn điền

phải tăng lương, không đánh đập, chấm dứt hợp đồng vô cớ, chống bọn cường hào

ở làng xã tăng thuế, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.

Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Chưa đầy một năm sau vào

tháng 6 năm 1940, Pháp mất nước cho Đức. Ba tháng sau đó, tháng 9 năm 1940,

Nhật cho quân tràn qua biên giới Việt - Trung và đổ bộ từ biển Hải Phòng lên nước

ta. Chính quyền thuộc địa nhanh chóng bắt tay với Nhật, ký các Hiệp ước, Hiệp

định bất bình đẳng như Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, Hiệp Định Tôkyo,

… Cả dân tộc bị đặt trong tình cảnh một cổ hai xiềng nô lệ, vận mệnh dân tộc nguy

vong hơn lúc nào bằng. Trong tình thế lịch sử đầy khó khăn đó, ngày 27/9 năm

1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy vũ trang khởi nghĩa. Tiếng súng khởi nghĩa Bắc

Sơn vừa bị Pháp - Nhật dập tắt thì đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11 năm 1940, nhân

dân Nam Kỳ vùng dậy khởi nghĩa. Ngày 13 tháng 1 năm 1941, dưới sự lãnh đạo

của Đội Cung và Cai Á, binh lính đồn Chợ Rạng ở Thanh Chương, Nghệ An nổi

dậy khởi nghĩa20. Hai cuộc khởi nghĩa và một cuộc binh biến nổ ra trong khoảng

thời gian ngắn, chứng tỏ mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với thực dân Pháp và

phát xít Nhật cùng bọn tay sai đã quá gay gắt. Vấn đề giải phóng dân tộc thoát khỏi

mọi gông xiềng nô lệ của phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng phong kiến tay sai

trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Ở Nghệ An nói chung, vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ và dọc tuyến đường 7 từ

Yên Lý (Diễn Châu) lên Mường Xén - Cửa Rào ngay từ cuối năm 1940, quân đội

20 . Đồn Chợ Rạng thuộc huyện Thanh Chương, chứ không phải huyện Đô Lương như một số tài liệu viết

trước đây. Vì tên huyện Đô Lương chính thức có từ ngày 19/4/1963 cùng với huyện Tân Kỳ và một số huyện

khác, khi cuộc binh biến này nổ ra, huyện Đô Lương chưa thành lập. TG.

Page 67: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Nhật đã đóng đồn bốt khắp nơi. Ở vùng đất Phủ Quỳ, chúng bắt nhân dân nhổ lúa,

ngô trồng đay, thầu dầu. Lính Nhật lùng sục vào tận chợ Cừa, Chợ Lạt để mua

thuốc phiện, da lông thú, bạc trắng,v.v… Chính sách thu thóc tạ và vơ vét lúa gạo,

nguyên vật liệu để ném vào cuộc chiến tranh. Công nhân đồn điền ở Nghĩa Đàn,

Tân Kỳ cũng như nhân dân làng xã bị đẩy vào tình cảnh hết sức nguy khốn.

Trong hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VII (11/1939), Hội nghị

Ban chấp hành Trung ương lần thứ VIII (11/1940), Đảng ta xác định nhiệm vụ giải

phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Để tập hợp lực

lượng quần chúng cách mạng Đảng chủ trương thành lập Mặt trận phản đế. Phong

trào cách mạng trong nước có những bước chuyển biến mau lẹ. Trong bối cảnh lịch

sử trong nước và thế giới đầy biến động, ngày 28 tháng 01 năm 1941, Lãnh tụ

Nguyễn Ái Quốc bí mật vượt biên giới Việt -Trung về nước trực tiếp chỉ đạo cách

mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, tại Pắc bó, Cao Bằng

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng diễn ra dưới sự chủ trì của lãnh tụ

Nguyễn Ái Quốc.

Tại hội nghị lịch sử này Đảng ta xác định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ

phận của giai cấp nguy vong hơn lúc nào bằng. Nếu không đòi lại được độc lập

cho dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa

trâu mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại

được”. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp, giai cấp trong xã hội tham gia vào công

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, căn cứ vào thực

tiễn cách mạng Đông Dương, các đại biểu tham dự hội nghị quyết định thành lập ở

Việt Nam, Lào, Cam pu chia mỗi nước một mặt trận. Việt Nam độc lập đồng minh

(gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Trong tôn chỉ mục đích của Mặt trận Việt Minh xác

định rõ: Mặt trận Việt Minh ra đời cốt để thực hiện hai điều mà đồng bào ta hằng

mơ ước là:

- Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập.

Page 68: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

- Làm cho dân ta ai cũng được sung sướng, tự do.

Mặt trận Việt Minh công bố Cương lĩnh gồm 44 điểm, sau sửa lại thành 10

chính sách lớn của Việt Minh. Mặt trận Việt Minh ra đời đáp ứng được nguyện

vọng của đông đảo quần chúng nhân dân trên khắp cả 3 miền Bắc - Trung - Nam

và cả Việt kiều yêu nước ở nước ngoài. Phong trào cách mạng trong cả nước phát

triển đều khắp và được gọi là phong trào Việt Minh.

Riêng ở Nghệ An, tình hình lại diễn biến không mấy thuận lợi. Năm 1939 -

1940, phong trào phát triển khá mạnh ở Vinh - Bến Thủy và một số huyện đồng

bằng. Các huyện miền núi phía Tây do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách

quan phong trào không mấy phát triển. Đến năm 1941, sau binh biến đồn Chợ

Rạng, Pháp - Nhật, tay sai thân Pháp, thân Nhật tăng cường đàn áp khủng bố,

nhiều cán bộ đảng viên của Đảng bị bắt, một số cơ sở Đảng vừa mới được xây

dựng lại bị địch phá vỡ. Phong trào cách mạng ở Nghệ An nói chung và các

huyện miền núi phía Tây Nghệ An rơi vào giai đoạn khó khăn trong suốt những

năm từ 1941 đến 1943. Trong bối cảnh chung đó, phong trào đấu tranh của công

nhân ở Phủ Quỳ và vùng đất Tân Kỳ cũng như nông dân làng xã cũng không có

điều kiện để phát triển.

Tình thế của nhân dân Nghệ An nói chung và nhân dân vùng đất Phủ Quỳ,

Tân Kỳ nói riêng ngày càng khốn khó. Các chủ đồn điền tìm cách bóc lột công

nhân, tăng giờ làm, vơ vét tài nguyên khoáng sản để thu hồi vốn. Địa chủ tay sai,

nấp bóng quân Nhật, quân Pháp vừa chiếm đất đai, vừa câu kết với quan lại ở làng

xã tăng thuế, phù thu lạm bổ, đẩy các tầng lớp nhân dân vào tình cảnh khốn cùng.

Giữa lúc đó, nạn đói khủng khiếp diễn ra từ giữa năm 1944 kéo dài cho đến đầu

năm 1945, đẩy đại bộ phận nhân dân Nghệ An vào bước đường cùng. Hàng ngàn

hộ gia đình có người chết đói, không ít gia đình phải bỏ làng xóm phiêu dạt khắp

nơi. Nạn đói ập đến từng bản làng của người Thái, người Thổ, người Kinh ở vùng

Liên Hoàn, Sen, Sẻ, Trại Lạt, Trại Cừa, Giai Xuân, Tiên Kỳ, Phú Sơn,v.v… và

Page 69: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

cướp đi không biết bao sinh mạng của những người dân vô tội ở vùng đất Tân Kỳ.

Các đồn điền Vực Rồng, Đào Nguyên,… trên vùng đất Tân Kỳ không có tiền trả

tiền công cho công nhân và những người làm thuê, đẩy họ vào tình thế điêu đứng.

Không còn con đường nào khác là phải vùng dậy đập tan gông xiềng nô lệ

của Pháp - Nhật phong kiến tay sai để giành lại quyền sống, quyền làm người và

độc lập tự do. Những nỗ lực của các cán bộ đảng viên ở Nghệ An đã cho kết quả to

lớn là chắp nối được liên lạc với Tổng bộ Việt Minh từ năm 1944. Bất chấp mọi sự

khủng bố, đàn áp của kẻ thù, các đồng chí cán bộ đảng viên ở các huyện thành trên

địa bàn tỉnh bí mật thành lập Việt Minh liên tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh21.

Sau khi Việt Minh liên tỉnh thành lập, Mặt trận Việt Minh huyện Yên

Thành, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu, Thanh Chương, Nam Đàn,v.v…lần lượt được

thành lập thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Phong trào Việt Minh ở

Nghệ An phát triển nhanh chóng và lan rộng từ khắp các làng xã từ Quỳnh Lưu,

Diễn Châu, Nghi Lộc, Yên Thành, Vinh - Bến Thủy, Hưng Nguyên, Nam Đàn,

Thanh Chương lên tới nhiều bản làng ở Quỳ Hợp, Anh Sơn, Con Cuông,v.v…

Riêng vùng đất Nghĩa Đàn - Tân Kỳ ngoài việc thành lập Mặt trận Việt Minh,

nhiệm vụ khôi phục và xây dựng các chi bộ đảng cũng diễn ra gấp rút dưới sự chỉ

đạo của Huyện ủy Nghĩa Đàn, Huyện ủy Yên Thành và Huyện ủy Quỳnh Lưu22,…

Nhân dân 6 tổng: Cự Lâm, Thái Thịnh, Hạ Sưu, Nghĩa Hưng, Thạch Khê, Lâm La,

kế thừa tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của cha ông, tích cực tham gia

21 Do khuôn khổ cuốn sách chúng tôi xin phép không trình bày sâu về phong trào cách mạng ở Nghệ An từ năm

1939 – 1945, cũng như những nguyên nhân làm cho phong trào cách mạng ở tỉnh nhà gặp khó khăn trong giai đoạn

này. Xin tham khảo: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, Tập 1, Lịch sử Nghệ Tĩnh, tập 1, Lịch sử Đảng bộ Huyện Nghĩa

Đàn,v.v…TG.22 Vùng đất Tân Kỳ ngày nay gồm có một phần đất Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu, Yên Thành trước đây, do đó, trong giai

đoạn cách mạng này, nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay tham gia phong trào đấu tranh do các chi bộ

Đảng và tổ chức Việt Minh các huyện trên tổ chức lãnh đạo chứ không phải chỉ do Huyện ủy Nghĩa Đàn và Việt

Minh Nghĩa Đàn lãnh đạo như một số tài liệu đã công bố trước đây.

Page 70: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Việt Minh, thành lập các đội du kích, tự vệ, rèn sắm vũ khí, hăng hái luyện tập

quân sự, chuẩn bị vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Không khí sục sôi

chuẩn bị khởi nghĩa lan nhanh ra tất các các bản làng của người Kinh, người Thái,

người Thổ trên vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông

Dương. Ngay trong đêm Nhật đảo chính, Ban thường vụ Trung ương đã họp tại

làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, xác định kẻ thù chính của dân tộc là

Phát xít Nhật và tay sai thân nhật. Đảng quyết định thay khẩu hiệu: “Đánh Pháp

đuổi Nhật” bằng khẩu hiệu: “Đánh đuổi phát xít Nhật” và phát động Cao trào

“Kháng Nhật cứu quốc” trên phạm vi cả nước. Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị: “Phá

kho thóc của Nhật để cứu đói”, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của toàn bộ nhân

dân. Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển rầm rộ trên phạm vi cả nước, hình

thái khởi nghĩa từng phần xuất hiện ở một số địa phương. Thời cơ phát động quần

chúng nhân dân vùng dậy khởi nghĩa đang đến gần.

Hòa chung vào dòng thác đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước, nhân

dân Nghệ An nói chung và nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay nói riêng

gấp rút chuẩn bị tinh thần và lực lượng, sẵn sàng vùng dậy tổng khởi nghĩa, đập tan

gông xiềng nô lệ giành chính quyền về tay nhân dân.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu quốc đang phát triển rộng khắp trên phạm

vi cả nước và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, thì tình hình thế giới có nhiều

chuyển biến thuận lợi. Hồng quân Liên Xô và quân đồng Minh sau khi đập tan

phát xít Đức, phát xít Ý đã mở cuộc tiến công như vũ bão trên mặt trận châu Á -

Thái Bình Dương, đập tan hoàn toàn mọi sự chống cự của phát xít Nhật, buộc Nhật

hoàng phải tuyên bố đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Thời cơ tổng khởi

nghĩa giành chính quyền đã đến, Đảng ta và Hồ Chủ Tịch triệu tập Hội nghị Ban

chấp hành Trung ương mở rộng (13 - 15/8), phát động Tổng khởi nghĩa giành

chính quyền trên phạm vi cả nước. Tiếp đó, từ ngày 16 - 17/8/1945, Đại hội quốc

Page 71: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

dân Tân Trào được tổ chức, với sự tham dự của 60 đại biểu thay mặt cho nhân dân

cả nước. Đại hội thông qua kế hoạch Tổng khởi nghĩa của Đảng, thành lập Ủy ban

dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh đứng đầu, chọn Quốc ca là bài Tiến quân ca,

quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh.

Thực hiện Quân lệnh số 1, cán bộ, đảng viên và Mặt trận Việt Minh trong

cả nước phát động toàn dân vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Cả dân tộc

vùng dậy như trào dâng thác cuốn, chính quyền thực dân phong kiến tay sai tan rã

sụp đổ hoàn toàn. Hòa chung vào dòng thác cách mạng ấy nhân dân Nghệ An,

nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ với tất cả tinh thần và lực lượng sẵn có đã đồng

tâm vùng dậy đập tan toàn bộ xiềng xích nô lệ từ các làng xã ven biển, các huyện

đồng bằng, trung du đến thành phố Vinh - Bến Thủy. Riêng ở vùng đất Nghĩa Đàn

- Tân Kỳ, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 8 lực lượng tự vệ, du kích cùng các tổ

chức, đoàn thể Việt Minh chuẩn bị băng cờ, vũ khí sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa.

Ngày 18 tháng 8 năm 1945, nhân dân các xã Cự Lâm, Vĩnh Lại, Yên Hòa, Tri Chỉ,

Tri Lễ, Thọ Lộc,.. kéo đến bao vây huyện lỵ. Tri huyện hoảng sợ, chính quyền tay

sai ở các làng xã trong huyện tan rã, sụp đổ. Thời cơ giành chính quyền đã thực sự

chín muồi. Ngày 22 tháng 8, quần chúng nhân dân các tổng Cự Lâm, Thạch Khê,

Hạ Sưu, Thái Thịnh, phối hợp với công nhân đồn điền trên vùng đất Nghĩa Đàn -

Tân Kỳ ngày nay, hàng ngũ chỉnh tề, băng cờ, khẩu hiệu rợp trời, có lực lượng tự

vệ với gậy gộc, giáo mác,… đi đầu, tập trung tại gốc đa Vĩnh Ngại, sau đó kéo về

huyện đường. Trước sức mạnh của quần chúng nhân dân, tri huyện Hoàng Mộng

Kham cùng toàn bộ bộ máy chính quyền tay sai xin đầu hàng, nộp toàn bộ giấy tờ

sổ sách và xin được hưởng khoan hồng của cách mạng.

Từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 8, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng và

mặt trận Việt Minh, nhân dân ở các làng, bản: Thọ Lộc, Cự Lâm, Vĩnh Lại, Tri

Chỉ, Tri Lễ, Yên Hòa, Yên Thái, Phúc Hiếu,v.v… đã khởi nghĩa giành chính quyền

thắng lợi. So với các huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Tổng khởi nghĩa

Page 72: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

giành chính quyền ở Nghĩa Đàn và một số huyện miền núi phía Tây có muộn hơn.

Song trong mùa thu cách mạng lịch sử ấy, những cán bộ, đảng viên và những

người trong mặt trận Việt Minh trên vùng đất Tân Kỳ luôn kề vai sát cánh với nhân

dân để tuyên truyền, vận động, tổ chức và lãnh đạo nhân dân vùng dậy đòi lại

quyền sống, quyền tự do độc lập. Chính họ đã góp phần cùng nhân dân Nghệ An

và cả nước đập tan mọi xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, phát xít Nhật, phong

kiến tay sai, chấm dứt cả một thời kỳ đen tối trong dòng chảy lịch sử dân tộc đưa

cách mạng Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên xây dựng, bảo vệ

và phát triển thành quả của cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của

Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cách mạng Tháng Tám thành công đã mang lại

sự đổi đời sâu sắc cho mọi người dân Việt Nam: từ thân phận những người nô lệ

làm thuê trở thành công dân của một nước Việt Nam độc lập.

3. Nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp

(1945 -1954)

Nhân dân cả nước nói chung, nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ nói riêng

vừa được hưởng độc lập đã phải đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách: Giặc

đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đẩy con thuyền cách mạng Việt Nam vào tình thế

ngàn cân treo sợi tóc.

Ở Nghệ An, nạn đói hoành hành khắp mọi làng quê. Chưa hết, trận lũ lụt

lịch sử năm 1945 làm vỡ nhiều đoạn đê sông Lam đẩy hàng trăm làng xã dọc đôi

bờ sông Lam vào vùng ngập úng nghiêm trọng: nhà cửa, trâu bò, hoa màu bị nước

lũ cuốn trôi. Khó khăn chồng chất khó khăn. Ở vùng đất Phủ Quỳ trước đây và hầu

hết các huyện miền núi phía Tây Nghệ An, hơn 95% dân số mù chữ. Riêng các bản

làng người Thái, người Thổ trên địa bàn các xã Nghĩa Hoàn, Tân Xuân, Giai Xuân,

Tiên Kỳ,v.v… gần như cả bản không có người biết đọc biết viết. Hồ Chủ Tịch đã

Page 73: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

khẳng định trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời vào ngày 3/9/1945:

“Nước nhà đã độc lập mà để dân đói, dân dốt thì nền độc lập đó chẳng có ý nghĩa

gì…”. Nhiệm vụ đặt ra lúc này với các cấp chính quyền ở Nghệ An là phải tìm mọi

cách để đẩy lùi nạn đói và nạn dốt. Vấn đề này đối với các huyện đồng bằng đã

khó, đối với các huyện miền núi phía Tây Nghệ An và vùng đất Tân Kỳ ngày nay

lại càng khó khăn gấp bội. Riêng ở vùng đất Tân Kỳ ngày nay, đường sá đi lại rất

khó khăn, các bản làng của người Thái, người Thổ lại ở rải rác. Vùng đất định cư

của đồng bào Kinh dân cư thưa thớt, trong làng xã lại có quá ít người biết đọc, biết

viết, trường lớp, thầy giáo đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học hầu như không có

gì. Đó là chưa kể đến tình trạng từ tháng 10 năm 1945, trên vùng đất Nghĩa Đàn -

Tân Kỳ ngày nay và dọc theo tuyến đường 7 từ Diễn Châu đi Cửa Rào, quân đội

Tưởng kéo đến gây không ít khó khăn cho chính quyền cách mạng và nhân dân sở

tại. Tình thế càng trở nên khó khăn hơn, khi bọn phản động ở Quỳ Hợp, Quỳ Châu,

Mường Xén, Cửa Rào,v.v… cấu kết với tầng lớp lang đạo, chức dịch trước đây

ngấm ngầm xây dựng lực lượng, âm mưu câu kết với thực dân Pháp ở Nọng Hét,

Na Pê (Lào) để lật đổ bộ máy chính quyền cách mạng non trẻ.

Một trong những khó khăn lớn đối với bộ máy chính quyền ở các huyện

miền núi phía Tây Nghệ An nói chung và ở Nghĩa Đàn nói riêng là đội ngũ cán bộ,

đảng viên thiếu trầm trọng, lại chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý, vận động,

tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân. Vượt lên trên muôn vàn khó khăn thử

thách đó, cán bộ, đảng viên và đồng bào Kinh, đồng bào Thái, Thổ sống trên vùng

đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn phát huy tinh thần đoàn kết, đạo lý “thương người như thể

thương thân” quyết tâm đẩy lùi giặc đói bằng những việc làm cụ thể, thiết thực

như: không dùng gạo, ngô, sắn nấu rượu, làm bánh mà để dành gạo cứu đói, các

chi hội phụ nữ vận động chị em lập “Hũ gạo đồng tâm”, nhường cơm sẻ áo cứu

những người đói,v.v… Đặc biệt, chính quyền lâm thời ở các xã vận động nhân dân

hưởng ứng lời kêu gọi tăng gia sản xuất của Hồ Chủ Tịch, tích cực khai hoang,

Page 74: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

phục hóa mở rộng diện tích trồng khoai lang, trồng ngô, trồng bầu bí, các loại rau

màu,… Nhân dân tích cực hưởng phong trào diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản

xuất, thực hành tiết kiệm, nhờ đó nạn đói từng bước được đẩy lùi.

Công cuộc chống giặc dốt ở các làng bản thuộc vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa

Đàn ngày nay thực sự là một phong trào cách mạng sôi nổi, sâu rộng thực sự của

đại bộ phận nhân dân. Theo phương châm mà Hồ Chủ Tịch đã vạch ra: “Người biết

đọc dạy cho người chưa biết đọc, người biết viết dạy cho người chưa biết viết, vợ

không biết thì chồng bảo, kẻ ăn người làm không biết thì nhà chủ bảo,…”, cán bộ,

đảng viên và nhân dân khắp các bản, làng hăng hái tham gia các lớp bình dân học

vụ. Tại Chợ Lạt, Chợ Cừa, ngay trước cổng chợ người ta có sáng kiến viết các chữ

cái và con số trên các tấm bản bằng gỗ, thậm chí là trên cái nống, ai muốn vào chợ

phải đọc được chữ cái và các con số. Mọi người, mọi nhà đều tham gia học chữ.

Nhờ đó, đến cuối năm 1946 đầu năm 1947, có nhiều gia đình đã biết đọc, biết viết.

Nhân dân vô cùng phấn khởi và họ gọi là: “Học chữ Cụ Hồ”. Thông qua phong

trào diệt giặc đói và giặc dốt đại bộ phận nhân dân trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay

đã thực sự tin tưởng vào Đảng và Hồ Chủ Tịch. Mặt khác, qua hai phong trào đó,

nhân dân cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và ý thức trách nhiệm cao đối với quê

hương đất nước.

Song song với phong trào diệt giặc đói và diệt giặc dốt, nhân dân Tân Kỳ

chung tay xây dựng củng cố chính quyền cách mạng. Ngày 6 tháng 1 năm 1946,

phát huy tinh thần yêu nước 100% số cử tri trên vùng đất Tân Kỳ đã tham gia đi

bầu cử Quốc hội lần thứ nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, mọi công dân đủ 18 tuổi

dù là người Kinh, người Thái hay người Thổ đều có trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền

lợi như nhau khi cầm lá phiếu để bầu chọn ra các đại biểu vào cơ quan quyền lực

cao nhất của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau Tổng tuyển cử chung cả

nước, cử tri ở Tân Kỳ còn tích cực tham gia vào cuộc bầu cử bầu Hội đồng nhân

dân các cấp. Bộ máy chính quyền của dân, do dân, vì dân đã được nhân dân cả

Page 75: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

nước nói chung, nhân dân vùng đất Tân Kỳ - Nghĩa Đàn nói riêng xây dựng nên

trong tình thế lịch sử đầy khó khăn thể hiện ý thức dân tộc và quyết tâm bảo vệ

thành quả cách mạng của cả một dân tộc.

Xuất phát từ thiện chí hòa bình, muốn giải quyết mọi vấn đề bằng con đường

thương lượng, Đảng ta và Hồ Chủ Tịch ngay từ đầu đã chủ trương nhân nhượng

với quân đội Tưởng để dồn lực lượng đánh pháp ở miền Nam. Từ tháng 2 năm

1946, khi Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết (28/2/1946), Đảng ta đứng đầu là Hồ

Chủ Tịch chủ trương hòa hoãn với Pháp để loại bỏ quân đội Tưởng ra khỏi miền

Bắc. Kiên trì con đường hòa bình thương lượng Đảng ta đã chủ động ký với Pháp

Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, cử đoàn đại biểu tham dự hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội

nghị Phông ten nơ bơ lô, ký Tạm ước 14/9/1946. Bất chấp thiện chí hòa bình của

dân tộc, Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 chưa ráo mực thì Pháp

đã âm mưu dùng sức mạnh quân sự để tái chiếm lại toàn bộ nước ta. Khi giới hạn

của mọi sự nhân nhượng đã kết thúc, ngày 19/12/1946, Hồ Chủ Tịch thay mặt

Đảng ta ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động toàn dân, toàn quân đứng

dậy đánh Pháp cứu nước, cứu nhà. Người viết:

“Hỡi đồng bào toàn quốc !

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta cần

nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng âm mưu cướp nước ta lần

nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu để mất nước,

nhất định không chịu làm nô lệ.

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo,

đảng phái,dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì đều phải đứng dậy đánh thực dân

Pháp, cứu tổ quốc.

Page 76: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng

cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để cứu nước,

…”

Vâng theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, quân dân

cả nước nhất loạt vùng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Ở thành

phố Vinh, ngay trận đầu ra quân đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng quân

đội Pháp đóng tại khu Ba Bò và sân bay Yên Đại. Chiến thắng của quân dân Nghệ

An làm nức lòng quân dân cả nước.

Thực hiện lệnh Tiêu thổ kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, chỉ trong một thời

gian ngắn, toàn bộ thành phố Vinh - Bến Thủy và các thị trấn trên địa bàn Nghệ An

đã bị tháo dỡ hoàn toàn. Vùng đất Thanh Chương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn,… vừa là

địa bàn nhân dân thành phố Vinh và thị trấn Đô Lương, thị trấn Diễn Châu,… tản

cư, vừa là địa bàn xây dựng các cơ sở chế tạo vũ khí, sản xuất của quân trang quân

dụng, nơi làm việc của các cơ quan cấp tỉnh và Liên khu IV. Tại xã Liên Hoàn có

xưởng chế tạo, sản xuất lựu đạn, súng cối, súng trường, xưởng đóng giày da. Ngoài

ra, còn có xưởng dệt và cơ quan của Sở kinh tế Liên khu IV. Sở tài chính của Ủy

ban hành chính Trung bộ đóng tại chòm Quyết Thắng. Binh công xưởng Huỳnh

Thúc Kháng đóng tại làng Sẻ (Nghĩa Đồng). Xưởng chế tạo cơ khí Hoàng Hữu

Nam đóng tại Bến Hói (Hương Sơn). Xưởng sản xuất giấy Việt Thành đóng tại

vùng Cồn Mô - Vực Lồ (thuộc xã Nghĩa Hợp, Nghĩa Bình ngày nay). Xưởng hóa

chất Quách Văn Cự, xưởng hóa chất Lê Đình Dụ (Nghĩa Hợp, Nghĩa Bình). Vùng

Đức Thịnh là ATK của Liên khu IV. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp vùng

đất Tân Kỳ ngày nay còn có nhiều cơ quan của tỉnh Nghệ An, Liên khu IV đóng

một thời gian và quân dân Tân Kỳ nhiều lần được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo

của Đảng, Liên khu IV về chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển bảo vệ hậu phương

và vận động nhân dân đóng góp sức người sức của cho chiến trường.

Page 77: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ và Ủy ban kháng chiến hành

chính Liên khu IV, đến giữa năm 1947, các làng xã nhỏ trên địa bàn huyện Nghĩa

Đàn hợp nhất thành 16 xã. Trong đó, vùng đất Tân Kỳ ngày nay bao gồm các xã:

Giai Xuân, Tiên Đồng, Liên Hoàn, Đại Đồng, Tân Hợp. Phần đất Nghĩa Đàn gồm

các xã: Thái Hòa, Tân Hưng, Tân Lập, Thuận Hòa, Xuân Thành, Mai Thọ, Đức

Thịnh, Trung Hội, Minh An, Mỹ Hòa.

Để đảm báo an toàn cho các cơ sở sản xuất vũ khí, quân trang quân dụng và

các cơ quan của tỉnh, Liên khu IV dóng trên địa bàn, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của

Huyện Đảng bộ Nghĩa Đàn và Huyện đội Nghĩa Đàn từ tháng 3 năm 1947, lực

lượng dân quân tự vệ được thành lập ở tất cả các xã, thường xuyên luyện tập quân

sự, tuần tra canh gác trên các tuyến đường quan trọng. Vấn đề tuyên truyền vận

động nhân dân tham gia xây dựng củng cố hậu phương, phát triển kinh tế, đẩy

mạnh công tác xóa mù chữ, vệ sinh bản làng, ăn chín uống sôi, từ bỏ các hủ tục mê

tín trong tang ma, cưới hỏi, đảm bảo an ninh làng xã,v.v… đặc biệt được các cấp

chính quyền, đoàn thể từ huyện đến xã quan tâm và đạt được nhiều thành tựu to

lớn. Kết quả là, Huyện đội Nghĩa Đàn đã xây dựng được một đại đội bộ đội địa

phương để tham gia chiến đấu với lực lượng vũ trang của tỉnh23, còn các xã lực

lượng dân quân tự vệ vừa đông vể số lượng vừa đảm bảo về chất lượng, hoàn

thành tốt công tác đảm bảo an ninh, quốc phòng trên địa bàn rộng lớn và quan

trọng này trong suốt cuộc kháng chiến. Thế trận chiến tranh toàn dân, toàn diện

được xây dựng, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại hậu phương kháng chiến của

địch, đảm bảo cho các binh công xưởng, xí nghiệp sản xuất vũ khí, quân trang

23 Thực hiện chủ trương của Đảng và Quân ủy Trung ương, Tỉnh ủy Nghệ An và Ban chỉ huy quân sự Nghệ An

(Tỉnh đội) quyết định từ tháng 3 năm 1947, các huyện trên địa bàn tỉnh thành lập Ban chỉ huy quân sự huyện (Ban

chỉ huy quân sự huyện còn gọi là Huyện đội) nhằm tham mưu cho Ủy ban kháng chiến hành chính các huyện và trực

tiếp xây dựng, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ ở các địa phương. Tiếp đó, thực hiện chủ trương của quân khu

IV và Tỉnh đội Nghệ An, mỗi huyện thành lập một đại đội bộ đội địa phương. Lực lượng bộ đội địa phương thoát ly

sản suất, trang thiết bị, vũ khí, lương thực,thực phẩm đều do nhân dân trong huyện đóng góp.

Page 78: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

quân dụng, hàng hóa phục vụ bộ đội và nhân dân. Điều đặc biệt quan trọng là từ

năm 1947 đến năm 1950, theo số liệu của Ban chỉ huy quân sự huyện Nghĩa Đàn

và Ban chỉ huy quân sự huyện Tân Kỳ số thanh niên tại các xã: Giai Xuân, Tiên

Đồng, Liên Hoàn, Đại Đồng, Tân Hợp nhập ngũ luôn vượt chỉ tiêu và trong đó có

cả các nam thanh niên đồng bào dân tộc Thái, Thổ tham gia ngay từ những đợt

tuyển quân đầu tiên.

Từ năm 1947 đến năm 1950 trên địa bàn các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương,

Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, có một số thanh niên người Thái bị lực lượng

phản động trong đảng Bào ca hắc xạt dụ dỗ, cưỡng ép đi theo lực lượng phản động

chống phá cách mạng. Riêng trên địa bàn Nghĩa Đàn - Tân Kỳ tình trạng đó không

xảy ra24.

Song song với việc đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, tuần

tra canh phòng trên địa bàn 61 làng bản, thuộc vùng đất Tân Kỳ nói riêng và toàn

huyện Nghĩa Đàn nói chung, Huyện ủy Nghĩa Đàn còn chỉ đạo các cấp chính

quyền đoàn thể quần chúng vận động nhân dân tích cực khai hoang phục hóa, mở

rộng diện tích trồng lúa, ngô, khoai, sắn, bầu bí, v.v… để ổn định đời sống vật chất

cho nhân dân. Nghĩa Đồng, Tân Xuân, Giai Xuân, Nghĩa Đồng, Kỳ Sơn, Tiên Kỳ,

…được chọn để thành lập các đội dân quân bán sản xuất (vừa sản xuất để tự túc

lương thực, vừa thường xuyên luyện tập quân sự) với số lượng trên 200 người. Lực

lượng dân quân huyện Nghĩa Đàn vừa bảo đảm công tác an ninh trên địa bàn vừa

chi viện lực lượng để cùng lực lượng vũ trang Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tương Dương,

Kỳ Sơn loại bỏ lực lượng phản động trên địa bàn và cả lực lượng phản động tràn

qua biên giới phá hoại hậu phương kháng chiến. Năm 1948, trước tình hình bọn

24.Tham khảo: Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Châu, Lịch sử Đảng bộ huyện Tương Dương, Lịch sử đảng bộ huyện Kỳ

Sơn, Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Hợp và Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An , tập 1,… Đảng Bào ca Hắc xạt là một tổ

chức phản động lôi kéo dụ dỗ thanh niên ở các huyện miền núi Nghệ An chống phá cách mạng gây không ít khó

khăn cho ta. Tổ chức này đã bị ta loại bỏ.TG.

Page 79: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

phản động dọc biên giới Nghệ An - Lào, thường xuyên đột nhập qua biên giới móc

nối với bọn phản động địa phương chống phá chính quyền cách mạng, Tỉnh ủy

Nghệ An chủ trương thành lập Ban cán sự liên huyện Nghĩa - Quỳ do 3 đồng chí:

Lê Nguyên Mãn, Phan Đình Lại, Nguyễn Quốc Sủng, trực tiếp phụ trách. Ban cán

sự liên huyện Nghĩa - Quỳ thay mặt Tỉnh ủy Nghệ An chỉ đạo cấp ủy Đảng, chính

quyền đoàn thể trên địa bàn vừa tăng cường công tác tuyên truyền vận động nhân

dân tích cực tham gia kháng chiến, vạch trần âm mưu của bọn phản động, củng cố

hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền loại bỏ những phần tử cơ hội, hữu khuynh,

tham quyền cố vị ra khỏi bộ máy, chỉ đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất không

ngừng củng cố an ninh quốc phòng trên địa bàn, củng cố khối đoàn kết toàn dân.

Đây chính là một trong những nhân tố quan trọng giúp đảng bộ, chính quyền và

các tổ chức đoàn thể quần chúng ở Quỳ Châu, Nghĩa Đàn cùng nhân dân từng

bước vượt qua khó khăn thử thách, đẩy mạnh công cuộc xây dựng hậu phương

kháng chiến, đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, tích cực cung cấp

sức người sức của cho chiến trường.

Hưởng ứng lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm

1948, đồng bào Kinh, Thái , Thổ trên địa bàn huyện Tân Kỳ ngày nay cùng các các

tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng đoàn kết hăng hái thi đua, đẩy mạnh sản

xuất, xây dựng củng cố lực lượng dân quân tự vệ, tuần tra canh phòng đảm bảo an

toàn tuyệt đối cho các cơ sở sản xuất, các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn các xã,

động viên chồng con tham gia tòng quân giết giặc, không ngừng đẩy mạnh công

tác xóa mù,v.v… Năm 1949, huyện Nghĩa Đàn có cả một đại đội bộ đội địa

phương, được tổ chức chặt chẽ gồm 68 đồng chí, cả huyện xây dựng được một lực

lượng dân quân hùng hậu bao gồm 847 người; lực lượng tự vệ gồm 3.800 người,

trong đó 586 nữ dân quân tự vệ. Ngoài ra, huyện Nghĩa Đàn còn xây dựng được

Page 80: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

lực lượng thiếu niên quân gồm 630 người, 1.448 hội viên Lão dân quân25. Trong

hai năm 1949 -1950, toàn huyện Nghĩa Đàn huy động 3.650 thanh niên lên đường

nhập ngũ chi viện cho các chiến trường.26 Trong đó, có nhiều nam nữ thanh niên,

thiếu niên quân, lão dân quân là người Thổ, người Thái, người Kinh sống trên địa

bàn huyện Tân Kỳ ngày nay.

Cùng với nhân dân Nghệ An, nhân dân Nghĩa Đàn - Tân Kỳ trong suốt cuộc

kháng chiến chống Pháp phải thực hiện nghĩa vụ hậu phương cho cả ba chiến

trường: chiến trường chính ở Bắc Bộ, chiến trường Bình - Trị - Thiên và làm nghĩa

vụ quốc tế đối với cách mạng Lào. Từ năm 1950, sự nghiệp kháng chiến của dân

tộc đạt được nhiều thắng lợi quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Thắng lợi trong

chiến dịch Biên Giới thu - đông năm 1950, đã đập tan kế hoạch Rơ ve và âm mưu

thiết lập hành lang Đông - Tây của Pháp, khai thông tuyến biên giới Việt - Trung

dài hơn 750 km; tạo điều kiện thuận lợi để nối liền căn cứ địa Việt Bắc với hệ

thống các nước xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi này còn đẩy Pháp vào tình thế bị động,

lúng túng đối phó với ta trên khắp chiến trường. Điều quan trọng, sau thắng lợi

vang dội ấy, Đảng ta quyết định Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II để đưa

Đảng ra công khai hoạt động và giải quyết những yêu cầu cấp thiết do sự nghiệp

kháng chiến đặt ra. Từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, dưới sự chủ trì của

25, 2. Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện Tân Kỳ: Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Tân Kỳ (1930 -

2010). NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 2011, tr 45 - 4726, 2 Do khuôn khổ cuốn sách, chúng tôi xin phép không trình bày kỹ về nội dung của Đại hội đại biểu Đảng toàn

quốc lần thứ II cũng như những hoạt động đánh phá liên tục của Pháp và tay sai vào địa bàn Nghệ An từ năm 1950 -

1953, gây những tổn thất lớn về người và của cho quân dân Nghệ An nói chung và Nghĩa Đàn nói riêng trong giai

đoạn này. Những nội dung này được trình bày khá cụ thể trong các cuốn sử như: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An tập 1,

Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, Lịch sử Đảng bộ huyện Diễn Châu, Lịch sử Đảng bộ huyện Nghi Lộc, Lịch sử

Đảng bộ huyện Yên Thành, Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Châu, Lịch sử Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn, Lịch sử Đảng bộ

huyện Tân Kỳ,… Lịch sử lực lượng vũ trang Nghệ An, tập 1, Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Yên

Thành,v.v… TG.

Page 81: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Hồ Chủ Tịch, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II được tổ chức tại căn cứ

địa Việt Bắc. Đánh giá về thành công của đại hội, Hồ Chủ Tịch khẳng định: “Đây

là đại hội đưa sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi”27.

Thất bại liên tiếp trên khắp các chiến trường, được sự giúp đỡ viện trợ về tài

chính và vũ khí của Mỹ, từ năm 1951 đến năm 1952, Pháp triển khai kế hoạch

quân sự quy mô lớn của Đờ Lát Đờ tát xi nhi, với nhiều nội dung, trong đó có việc

tập trung binh lực, hỏa lực đánh phá vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng giáp

ranh giữa ta và địch.

Dọc biển Nghệ An từ Quỳnh Lưu đến Nghi Lộc, tàu chiến Pháp liên tục bắn

phá gây rất nhiều khó khăn cho ngư dân. Máy bay Pháp liên tục bắn phá vào các

vùng đông dân cư ở Nghệ An như: Đô Lương, thị trấn Nam Đàn, Chợ Cồn (Thanh

Chương), Cầu Giát (Quỳnh Lưu), Thái Hòa, Xuân Thành, Thuận Hóa, xưởng giấy

Lê Hồng Phong, xưởng quân giới Huỳnh Thúc Kháng (Nghĩa Đàn),v.v… gây hậu

quả nghiêm trọng về người và của cho nhân dân. Chúng còn liều lĩnh cho đổ quân

vào vùng biển Quỳnh Lưu, tiến sâu và đất liền, đốt nhà cửa, bắn giết nhân dân.

Chưa dừng lại ở đó, một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo còn móc nối với các

phần tử phản động ở Tràng Nứa (Hưng Nguyên), Vạn Lộc, Quy Chính (Nam

Đàn),v.v… cưỡng ép giáo dân rào làng chiến đấu, ngang nhiên, trắng trợn chống

lại chính quyền địa phương. Ở các huyện miền núi, quân Pháp câu kết với lực

lượng phản động thường xuyên thâm nhập qua biên giới Kỳ Sơn, Quỳ Châu,… phá

hoại kinh tế, bắt giết cán bộ,… gây nhiều khó khăn cho ta.

Nhưng mọi tham vọng của kẻ địch nhằm phá hoại hậu phương Nghệ An đều

bị quân dân Nghệ An đập tan. Từ năm 1951 - 1953, quân dân Tân Kỳ - Nghĩa

Đàn nói riêng, quân dân Nghệ An nói chung đã vượt qua mọi khó khăn thử thách,

bảo vệ vững chắc hậu phương kháng chiến, chi viện đến mức cao nhất sức người

27

Page 82: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

sức của cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, chiến trường Lào, chiến trường

chính Bắc bộ.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ II, từ năm

1951- 1953, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta liên tiếp giành thắng lợi trên khắp

các chiến trường từ Bắc bộ đến Nam Trung bộ và cả đồng bằng Nam Bộ, Tây

Nguyên. Sự nghiệp kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Cam pu chia

cũng giành nhiều thắng lợi quan trọng. Ngoan cố và hiếu chiến, dựa vào sự viện trợ

về mặt tài chính và vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ, nhằm cứu vãn tình thế

bi đát trên chiến trường Đông Dương, tháng 5 năm 1953, Pháp đưa Đại tướng

Nava sang Đông Dương làm tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp. Chỉ sau hai

tháng nhận chức, Nava đưa ra kế hoạch quân sự quy mô lớn mang tên y với hy

vọng giành một thắng lợi quân sự quan trọng trong khoảng thời gian 18 tháng để

tìm lối thoát danh dự cho Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Nắm rõ tham vọng của Pháp và Mỹ, Ban chấp hành Trung ương Đảng và

Quân ủy Trung ương đã vạch ra kế hoạch tác chiến trong chiến cuộc đông - xuân

1953 -1954 và xác định nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Thực hiện

chủ trương của Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền,

đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh tiến hành đồng thời

nhiều nhiệm vụ quan trọng như: Tiến hành giảm tô và thí điểm cải cách ruộng đất

nhằm từng bước thực hiện khẩu hiệu: “Ruộng đất cho dân cày”, huy động dân

công hoàn thành việc sửa chữa, mở đường vận chuyển lương thực, thực phẩm vũ

khí, quân trang, quân dụng,… phục vụ chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch Trung

Lào, chiến dịch Điện Biên, huy động nhân dân đóng góp sức người sức của cho

chiến trường, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ,v.v Phát huy truyền thống

yêu nước, truyền thống cách mạng của cha anh, cán bộ, đảng viên và nhân dân trên

vùng đất Tân Kỳ ngày nay đã làm tất cả để góp phần cùng cả dân tộc đưa sự

nghiệp kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng.

Page 83: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Được sự chi viện kịp thời của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, căn cứ địa

Việt Bắc và nhân dân ở vùng tự do, trong chiến cuộc đông - xuân 1953 -1954 quân

và dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng

Lào, chiến dịch Trung Lào, chiến dịch Tây Nguyên (từ tháng 11/1953 đến tháng

01/1954), sau đó giành thắng lợi quyết định tại chiến dịch Điện Biên Phủ Lịch sử

(13/3 - 7/5/1954), đưa sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi hoàn

toàn.

Trong 9 năm kháng chiến, ngoài nhiệm vụ xây dựng củng cố, bảo vệ hậu

phương, huy động nguồn lực vật chất chi viện cho các chiến trường, nhân dân trên

vùng đất Tân Kỳ đã huy động hàng ngàn thanh niên nhập ngũ, chiến đấu trên khắp

các chiến trường. Nhân dân Tân Kỳ còn huy động hàng ngàn người tham gia dân

công phục vụ khắp các chiến trường.

4. Quân dân trên vùng đất Tân Kỳ trong công cuộc xây dựng hậu phương

(1954 -1962)

Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đã đưa lịch sử chuyển sang

một trang mới. Cơ hội thống nhất đất nước bằng con đường tổng tuyển cử mở ra

cho nhân dân hai miền Nam - Bắc. Nhưng tham vọng của Mỹ - Ngụy đã tước mất

cơ hội đó và buộc cả dân tộc lại phải bước vào cuộc đối đầu lịch sử với đế quốc

Mỹ cùng bè lũ tay sai để thống nhất đất nước.

Sau Hiệp định Giơnevơ, Pháp rút quân khỏi miền Bắc, nhưng quân dân miền

Bắc đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Nghệ An là vùng tự do trong suốt 9

năm kháng chiến song, quân dân Nghệ An cũng đứng trước muôn vàn khó khăn

thử thách cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế,v.v… Trong bối cảnh chung

đó, các huyện miền núi phía Tây Nghệ An nói chung, nhân dân sống trên vùng đất

Tân Kỳ - Nghĩa Đàn ngày nay nói riêng cũng đối mặt với không ít khó khăn. Chỉ

tính vùng Giai Xuân, Tân Xuân, Liên Hoàn, Trại Cừa, Phú Sơn, Tiên Kỳ,… thuộc

địa bàn Tân Kỳ ngày nay, phần lớn các hộ gia đình nông dân trong tình trạng thiếu

Page 84: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

đói vào tháng 3, tháng 8, riêng đồng bào Thổ và đồng bào Thái tình trạng thiếu đói

kéo dài tới 4 - 5 tháng trong một năm. Diện tích ruộng đất đã ít, các công trình thủy

lợi hầu như chưa có gì, do đó, một phần lớn đất đai bỏ hoang, hoặc nằm trong tay

địa chủ và một số gia đình có thế lực. Hệ thống đường giao thông nối liền các xã,

các làng bản chủ yếu chỉ phục vụ cho người đi bộ, men theo các thung lũng núi

hoặc bờ ruộng, cầu cống tạm bợ, mùa mưa lũ việc đi lại của nhân dân hết sức khó

khăn. Kinh tế khó khăn, hệ thống trường lớp cấp 1 và cấp hai quá ít, giáo viên

thiếu trầm trọng, số người học hết cấp 1 và cấp hai có thể tính đầu ngón tay. Tình

trạng mù chữ trở lại trong các bản làng người Thái, người Thổ và ngay cả người

Kinh cũng khá phổ biến. Cơ sở y tế, hộ sinh, đội ngũ y tá, y sĩ vô cùng thiếu, bệnh

sốt rét, bệnh tả lỵ,…hoành hành khắp các bản làng. Tình trạng hữu sinh vô dưỡng

kéo dài đang đặt ra cho cấp ủy, chính quyền địa phương và các đoàn thể quần

chúng những yêu cầu hết sức cấp thiết cần phải giải quyết. Một khó khăn lớn là số

cán bộ, đảng viên ở các xã vừa thiếu lại vừa yếu, nhất là trong địa bàn các xã có

nhiều đồng bào Thái, Thổ sinh sống như Tân Xuân, Giai Xuân, Liên Hoàn,v.v…

Thêm vào đó là trận lũ lụt lịch sử vào năm 1954 gây hậu quả nghiêm trọng

cho đời sống kinh tế của nhân dân. Đó là chưa kể việc tình hình bất ổn về chính trị

do hoạt động di dân của đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo trước sự cưởng ép, dụ

dỗ của bọn phản động trên địa bàn nhiều huyện trong tỉnh và hoạt động phá hoại

của các ổ nhóm phản động càng làm cho tình hình thêm khó khăn.

Vượt lên những khó khăn đó, thực hiện chủ trương của Đảng trong 2 năm

1954 - 1956, tỉnh Nghệ An tiến hành cải cách ruộng đất ở tất cả các huyện đồng

bằng và trung du. Công cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại nhiều kết quả song

cũng phạm không ít sai lầm nghiêm trọng. Ở các huyện miền núi phía Tây Nghệ

An, lực lượng phỉ Vàng Pao cấu kết với lực lượng phản động địa phương, đột nhập

vào vùng Na Ngoi, Keng Đu, Mường Lống, Kỳ Sơn và vùng Quế Phong, Quỳ

Châu bắt giết cán bộ, cưỡng ép nhân dân bỏ bản làng sang bên kia biên giới. Tỉnh

Page 85: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

ủy Nghệ An chủ trương thành lập Ban miền Tây và huy động lực lượng vũ trang

lên Kỳ Sơn, Quỳ Châu, Quế Phong,… phối hợp với chính quyền địa phương và

nhân dân đập tan các toán thổ phỉ, bắt nhiều ổ nhóm phản động lập lại trật tự trên

vùng biên giới.

Cùng với nhân dân toàn tỉnh, nhân dân Nghĩa Đàn tổ chức đón tiếp, giúp đỡ

cán bộ, chiến sĩ từ miền Nam tập kết lên xây dựng các nông trường ở vùng Nghĩa

Đàn - Tân Kỳ sớm ổn định cuộc sống. Chỉ trong một thời gian ngắn, trên vùng đất

Phủ Quỳ xưa các nông trường quốc doanh lần lượt được thành lập thu hút một lực

lượng lớn thanh niên ở các huyện miền xuôi như: Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh

Lưu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Thanh Chương lên xây dựng nông trang,

nông trại, nhằm phát triển kinh tế trên vùng đất trù phú này. Nông trường 19/5,

nông trường 1/5, nông trường Cờ Đỏ, nông trường Đông Hiếu, nông trường Tây

Hiếu, nông trường sông Con, v.v… lần lượt được thành lập trong bối cảnh miền

Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương lớn cho chiến trường miền

Nam, tạo nên một nét mới trong bức tranh kinh tế - văn hóa xã hội ở vùng đất

Nghĩa Đàn - Tân Kỳ nói riêng và miền Tây Nghệ An nói chung.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Nghệ An về “cuộc vận động hợp tác hóa

nông nghiệp, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở các huyện miền núi Nghệ

An” từ tháng 11 năm 1959, tất cả các huyện miền núi Nghệ An tích cực vận động

đồng bào các dân tộc ít người, đồng bào Kinh cư trú trên địa bàn tham gia vào các

HTX và tiến hành cải cách dân chủ. Trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn phong trào

vận động nhân dân vào các HTX nông nghiệp đạt được nhiều kết quả. Song trong

quá trình xây dựng HTX ở các huyện miền núi Nghệ An nói chung và Nghĩa Đàn

nói riêng do chủ quan, nóng vội và chưa hiểu hết phong tục, tập quán của đồng

bào các dân tộc ít người nên không ít HTX họat động không hiệu quả, số đồng

bào lên nương, chặt cây, làm rẫy ngày càng tăng. Hiện tượng phổ biến là thu nhập

Page 86: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

ngày công của xã viên thấp không khuyến khích được xã viên gắn bó lâu dài với

các HTX.

Song song với việc xây dựng phát triển kinh tế, thực hiện chủ trương của

tỉnh, từ năm 1955 đến năm 1960, phong trào xóa mù chữ, xây dựng phát triển nền

giáo dục mới trên địa bàn Tân Kỳ - Nghĩa Đàn đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Ngoài lực lượng giáo viên tại chỗ, trong những năm 1956 - 1960, có nhiều giáo

viên từ các huyện miền xuôi đã xung phong tình nguyện đưa ánh sáng văn hóa của

Đảng lên với đồng bào vùng cao. Vùng đất Tân Xuân, Giai Xuân, Liên Hoàn,

Nghĩa Đồng, Nghĩa Bình, Phú Sơn, Tiên Kỳ,… ngày càng có nhiều giáo viên từ

miền xuôi lên công tác. Cùng với nỗ lực của các cấp chính quyền và các tổ chức

đoàn thể quần chúng địa phương, đến năm 1958 - 1960, hầu hết các xã trên địa bàn

huyện Tân Kỳ đã có các lớp vỡ lòng, trường cấp 1 và 2 - 3 xã có một trường cấp

hai. Đây thực sự là một thành tựu to lớn trên bước đường phát triển của giáo dục ở

huyện miền núi Nghĩa Đàn.

Công tác vệ sinh y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng đạt được một

số kết quả đáng khích lệ. Ngày càng có nhiều người đào giếng lấy nước, xây nhà

vệ sinh, làm chuồng cho trâu bò, lợn gà ở xa nhà ở. Cuộc vận động nhân dân ăn

chín uống sôi nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Các trạm hộ sinh, y

tế và bệnh viện huyện lần lượt được xây dựng, lực lượng thầy thuốc ngày càng

được bổ sung và tăng cường góp phần to lớn trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe

cho nhân dân.

Giữa lúc quân dân miền Bắc đang gặt hái được nhiều thành công trong công

cuộc khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành vượt mức kế hoạch 3

năm xây dựng, phát triển kinh tế (1958 - 1960) mà Đảng đề ra, thì nhân dân miền

Nam đã vùng dậy “Đồng khởi”(1959 - 1960), phá thế kìm kẹp của địch, đưa cách

mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công chiến lược. Nghị quyết

15 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam

Page 87: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

(12/1959) đã mở đường cho quân dân hai miền Nam - Bắc đưa sự nghiệp kháng

chiến chống Mỹ bước sang một giai đoạn mới.

Trước yêu cầu cấp thiết chi viện sức người sức của cho chiến trường miền

Nam, từ cuối năm 1959 đầu năm 1960 những chuyến tàu đầu tiên chở vũ khí, đạn

dược, quân trang, quân dụng, thuốc men, từ miền Bắc bí mật đưa hàng hóa vào tận

các tỉnh Nam Trung bộ và Nam bộ đã cập bến an toàn. Con đường huyền thoại trên

biển và những đoàn tàu không số trở thành tuyến đường chi viện từ hậu phương

miền Bắc với chiến trường miền Nam.

Song song với việc xây dựng tuyến đường vận chuyển trên biển, thực hiện

chủ trương của Bộ tổng tham mưu và Quân ủy Trung ương, từ tháng 5 năm 1959,

một số cán bộ, chiến sĩ bí mật tiến hành khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ,…để hình

thành một tuyến đường vận tải men theo chân dãy Trường Sơn vào tận miền Nam.

Thị trấn Lạt được chọn làm mốc khởi đầu cho tuyến đường huyền thoại này. Từ

Km số 0 ở Lạt, một con đường chạy theo hướng Bắc - Nam qua địa phận huyện

Tân Kỳ, huyện Thanh Chương (Nghệ An) vào huyện Hương Sơn, Hương Khê (Hà

Tĩnh), sau đó, đi qua tỉnh Quảng Bình - Quảng Trị,… dần dần được hình thành.

Ngoài trục đường chính gọi là đường Trường Sơn (nay gọi là đường Hồ Chí

Minh), từ cột mốc số 0, một tuyến đường nối Thị trấn Tân Kỳ ngày nay qua

Truông Dong, đi tới thị trấn Đô Lương, sau đó đi qua Nam Đàn, qua huyện Đức

Thọ của tỉnh Hà Tĩnh, tiếp tục chạy dài vào miền Nam cũng được hình thành.

Vùng đất Tân Kỳ trở thành đầu mối giao thông của con đường huyền thoại nối liền

hậu phương miền Bắc với cách mạng miền Nam. Công cuộc xây dựng tuyến

đường chính men theo chân dãy Trường Sơn và các nhánh đường phụ, đường

tránh, đường vòng, các bến phà, các điểm tập kết hàng hóa,v.v… được tiến hành

gấp rút với sự tham gia của nhân dân địa phương có đường đi qua, bộ đội, thanh

niên. Ngay từ những ngày đầu mở đường Trường Sơn, nhân dân sống trên vùng đất

Page 88: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Tân Kỳ ngày nay tự hào vì chính họ là những người đầu tiên được trực tiếp tham

gia vào công cuộc mở con đường huyền thoại đó.

Trước những thay đổi mau lẹ của tình hình cách mạng hai miền Nam - Bắc

và tình hình cách mạng thế giới, nhằm giải quyết những đòi hỏi cấp thiết mà thực

tiễn cách mạng đang đặt ra, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ

chức trọng thể tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 9 năm 1960 với sự

tham dự của 523 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn nửa

triệu đảng viên trong cả nước. Hồ Chủ Tịch khẳng định: “Đại hội đại biểu Đảng

toàn quốc lần thứ III là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh

thống nhất nước nhà ở miền Nam”28.

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân miền

Bắc, phấn khởi, tin tưởng bắt tay thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -

1965), nhằm tạo bước chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế vật chất và tinh

thần cho nhân dân miền Bắc, xây dựng miền Bắc thực sự vững mạnh về kinh tế, có

tiềm lực quốc phòng to lớn đủ khả năng chi viện kịp thời cả sức người, sức của cho

chiến trường miền Nam. Trong bối cảnh khẩn trương của công cuộc xây dựng hậu

phương lớn miền Bắc ấy, ngày 19 tháng 4 năm 1963, huyện Tân Kỳ và một số

huyện miền núi Nghệ An được thành lập.

Rõ ràng, trong dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các thế

hệ nhân dân sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay đã hun đúc cho mình tinh thần

đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái, lao động cần cù, sáng tạo để khai sơn phá

thạch, xây dựng phát triển quê hương. Trong dòng máu của họ tinh thần yêu nước

và chủ nghĩa anh hùng cách mạng sớm được hình thành và được các thế hệ tiếp nối

kế thừa phát huy và chính đó là nguồn lực sức mạnh tinh thần vô song để không

biết bao thế hệ người dân trên mảnh đất này sẵn sàng đứng dậy cầm vũ khí, cùng

28 Tham khảo: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (1954 -1975) tập 2,Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 132

Page 89: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

cả dân tộc chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược bảo vệ từng tấc đất của cha

ông. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng ấy được phát huy cao

độ dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, để các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân

sống trên vùng đất Tân Kỳ ngày nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh

giải phóng dân tộc (1930 -1945), trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 -

1954) và trong những năm tháng đầu tiên xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, chi

viện cho chiến trường miền Nam. Truyền thống ấy chính là chỗ dựa vững chắc để

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tân Kỳ từ khi thành lập huyện đến nay vượt

qua muôn vàn khó khăn thử thách tô đậm thêm trang sử hào hùng của cha anh.

IV. HUYỆN TÂN KỲ CHÍNH THỨC THÀNH LẬP 1. Hoàn cảnh lịch sử

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng phát triển hậu phương lớn miền Bắc mà Đại hội

đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ Ba (9/1960) đề ra, toàn Đảng toàn quân, toàn dân,

toàn quân trên miền Bắc dấy lên phong trào thi đua sôi nổi. Trong nông nghiệp có

phong trào xây dựng HTX bậc cao trên cơ sở các HTX bậc thấp đã được xây dựng

từ những năm 1959 -1960. Hơn 90% nông dân phấn khởi gia nhập các HTX nông

nghiệp. Phong trào thi đua, đạt và vượt 5 tấn thóc/ha gieo trồng không chỉ dừng lại

ở đồng bằng Bắc bộ mà còn phát triển cả ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Hệ

thống các HTX tiểu thủ công nghiệp, cửa hàng mậu dịch quốc doanh, cửa hàng

mua bán,… cũng lần lượt được thành lập đảm bảo cho nhu cầu lưu thông hàng hóa

và cung cấp kịp thời các nhu yếu phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân. Trong

quân đội có phong trào thi đua sôi nổi “Ba nhất”, trong giáo dục có phong trào thi

đua dạy tốt học tốt, v.v… Chưa bao giờ tinh thần lao động sáng tạo, tinh thần tập

thể và cao hơn là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam lại

được phát huy cao độ như trong giai đoạn này.

Ở miền Nam, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra

đời (20 -12 -1960) , lực lượng vũ trang được thành lập. Quân dân hai miền Nam -

Page 90: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Bắc dốc toàn bộ tinh thần và lực lượng để đập tan chiến lược: “Chiến tranh đặc

biệt”, làm thất bại âm mưu dồn dân lập ấp, biến miền Nam thành trại tập trung

khổng lồ của Mỹ - Ngụy, đồng thời làm phá sản kế hoạch Xta lay - Tay lo và kế

hoạch Giôn sơn - Mác na ma ra, đưa cách mạng miền Nam đi dần đến thắng lợi.

Nghệ An bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với 2 niềm vui

lớn: Tại Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Nghệ An lần thứ 10 (vòng 2), tổ chức từ

ngày 20/3/1961 đến 30/3/1961, tại Thị xã Vinh, có đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ

nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về dự và chỉ đạo đại

hội. Đại hội này đã xác định những nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,

củng cố quốc phòng, an ninh,v.v… đồng thời khẳng định nghĩa vụ cao cả là huy

động đến mức cao nhất nguồn lực vật chất và tinh thần, chi viện sức người, sức của

cho chiến trường miền Nam đối với cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân

dân trên địa bàn tỉnh.

Từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12 năm 1961, Đảng bộ nhân dân và lực lượng

vũ trang Nghệ An vui mừng đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm quê hương lần thứ

hai. Bác mong muốn: “Đồng bào và cán bộ cần phải quyết tâm phấn đấu xây dựng

tỉnh ta thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc. Làm được như thế là tỉnh

ta góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;

làm cơ sở vững mạnh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”29.

Tại thị xã Vinh, tháng 1 năm 1962, Tỉnh ủy Nghệ An tổ chức Đại hội những

người xuất sắc trong phong trào tình nguyện hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà

nước năm năm lần thứ nhất. Toàn tỉnh có 1.520 đoàn viên thanh niên được công

nhận danh hiệu kiện tướng về làm thủy lợi, làm phân bón, phát triển chăn nuôi và

nâng cao năng suất lao động; 392 đoàn viên thanh niên được công nhận danh hiệu:

“Trai, gái Đại Phong”; 1054 đoàn viên xuất sắc được kết nạp vào Đảng.2

29.2. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 2, Nhà xuất

bản Nghệ An, trang 82 - 88

Page 91: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Ngày 24 tháng 2 năm 1962, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ra Nghị quyết

về tăng cường công tác Đảng ở nông thôn, đẩy mạnh tiến công xây dựng phát triển

HTX, đưa nông dân vào làm ăn tập thể. Tiếp đó, từ ngày 4 đến ngày 7/5/1962, Ban

Bí thư Trung ương Đảng làm việc với tỉnh ủy Nghệ An với nội dung chính là xây

dựng và phát triển nông nghiệp của tỉnh. Tỉnh ủy Nghệ An phát động phong trào:

“Đuổi kịp và vượt Đại Phong”.

Phong trào thi đua do tỉnh Nghệ An phát động diễn ra đồng thời với phong

trào thi đua sôi nổi mà Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam phát

động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trên toàn miền Bắc lúc bấy giờ là: Sóng

Duyên Hải, Cờ Ba nhất, Hai tốt,v.v… Miền Bắc nói chung, Nghệ An nói riêng

hăng hái thi đua lập công xuất sắc trên tất cả các phương diện kinh tế, văn hóa,

giáo dục, y tế, thể thao, quốc phòng an ninh. Riêng ở Nghệ An, công cuộc xây

dựng tái thiết thị xã Vinh - Thành phố Vinh diễn ra với nhịp điệu khẩn trương hơn

bao giờ hết. Nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng quốc doanh, mậu dịch quốc doanh, bệnh

viện, trường học, đường giao thông,v.v… mọc lên nhanh chóng làm thay đổi hoàn

toàn bức tranh đô thị Vinh. Trong khi đó, ở các huyện đồng bằng, trung du, miền

núi trên địa bàn tỉnh, phong trào xây dựng HTX nông nghiệp bậc cao, HTX mua

bán, cửa hàng cung tiêu, bệnh viện, nhà hộ sinh, trường học, phong trào áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để đạt và vượt năng suất 5

tấn/ha gieo trồng,… thực sự thu hút trở thành phong trào thi đua sôi nổi của toàn

Đảng, toàn dân và lực lượng vũ trang.

Tuy đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng,

phát triển hậu phương, củng cố quốc phòng an ninh, song tốc độ tăng trưởng kinh

tế ở các huyện miền núi Nghệ An nói chung và Nghĩa Đàn nói riêng vẫn chậm so

với các huyện đồng bằng. Hạ tầng cơ sở thiếu thốn, năng lực quản lý điều hành của

cán bộ huyện và xã nhất là các xã vùng sâu, vùng xa ở các huyện miền núi còn

nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi đó, địa bàn các huyện lại quá rộng, dân cư ở

Page 92: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

phân tán,v.v… Hệ thống trường học, bệnh viện, bệnh xá,… chưa đáp ứng được yêu

cầu của đông đảo nhân dân. Cần phải đưa miền núi tiến kịp các huyện đồng bằng,

từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là đồng bào

các dân tộc ít người sống trên địa bàn tỉnh. Đây là một trong những yêu cầu cấp

thiết đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân Nghệ An.

Một nguyên nhân quan trọng khác là sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu

nước của đồng bào miền Nam đang bước vào thời kỳ hết sức gay go quyết liệt.

Yêu cầu chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam đang đặt ra nhiều

vấn đề cần phải giải quyết. Nghệ An là tỉnh lớn, nhân dân giàu truyền thống yêu

nước và cách mạng, trong đó phải kể đến những đóng góp to lớn của đòng bào các

dân tộc ít người ở các huyện miền núi.

Đồng thời, đầu những năm 1960 của thế kỷ XX, tình hình cách mạng nước

ta có những diễn biến mới, cần thay đổi chiến lược. Đảng ta đã thấy rõ âm mưu của

đế quốc Mỹ sẽ hất Diệm, Nhu để thay đổi con bài mới của Mỹ, để Mỹ đưa quân

vào miền Nam nước ta thực hiện ý đồ xâm lược lâu dài.

Nhận định của Đảng ta rất đúng, vì cuộc đảo chính tại miền Nam năm 1963

là cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm do

các tướng lĩnh Việt Nam cộng hòa thực hiện, dưới sự chỉ đạo của Mỹ vào ngày

01/11/1963 và kết cục là anh em Ngô Đình Diệm bị sát hại vào ngày 02/11/1963,

chấm dứt nền Đệ nhất cộng hòa trong lịch sử Việt Nam, báo hiệu sự xâm lược của

Đế quốc Mỹ vào nước ta. Vì vậy, đơn vị hành chính cấp huyện lúc này được xác

định là “pháo đài” để thực hiện chiến lược của Đảng đề ra. Đây là một trong

những lý do của việc chia tách 3 huyện miền núi, trung du ở Nghệ An.

Bên cạnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (5-10/9/1960)

diễn ra trong bối cảnh miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, trong điều kiện nền

kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp và tiểu công nghiệp nghèo nàn, nhỏ bé,

lại bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Đất nước tạm thời bị chia cắt hai miền, mỗi

Page 93: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

miền có một chế độ chính trị riêng, đế quốc Mỹ đã lộ rõ ý đồ biến miền Nam nước

ta thành căn cứ quân sự, thuộc địa kiểu mới để phá hoại công cuộc xây dựng

CNXH ở miền Bắc. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) đã vạch rõ

hai nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới đó là: “Tiến

hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của

đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền

Nam”.

Đáng chú ý nhất là: Đại hội lần thứ III của Đảng là đại hội đầu tiên đề ra kế

hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước

đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, thực hiện một bước công nghiệp hóa

XHCN và hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN với 5 nhiệm vụ là:

+ Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu

tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời tạo ra sức phát triển nông nghiệp một

cách toàn diện…

+ Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp TBCN tư doanh, tăng cường

mối quan hệ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất XHCN

trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân

+ Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và

bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực

quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động…

+ Cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân một bước…

+ Đi đôi với kết hợp việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng,

tăng cường trật tự an ninh bảo vệ sự nghiệp CNXH ở miền Bắc.

Năm nhiệm vụ trên liên hệ chặt chẽ với nhau và đều nhằm tăng cường lực

lượng mọi mặt của miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững

Page 94: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

chắc của nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh thực hiện hoàn thành thống

nhất nước nhà.

Để thực hiện những nhiệm vụ đó, cấp huyện được xác định là “pháo đài”

và lúc này Nghệ An thực sự là một địa bàn chiến lược của cả nước, cần phải xây

dựng nhiều pháo đài vững về kinh tế, ổn định về chính trị xã hội, mạnh về quốc

phòng. Nhận thức rõ yêu cầu cấp thiết đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An thông

qua đề án chia tách một số đơn vị hành chính ở vùng miền núi và trung du của tỉnh.

Đề án chia tách một số đơn vị hành chính của Ban thường vụ tỉnh Nghệ An được

hội đồng chính phủ phê duyệt. Ngày 19 tháng 4 năm 1963, Thủ tướng chính phủ

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký quyết định số 52- CP chia 3 huyện Anh Sơn,

Nghĩa Đàn, Quỳ Châu thành 7 huyện; gồm: Huyện Anh Sơn có 19 xã; huyện Đô

Lương có một thị trấn và 32 xã; huyện Nghĩa Đàn có một thị trấn là Thái Hòa và

22 xã; huyện Tân Kỳ có 13 xã; huyện Quế Phong có 6 xã; huyện Quỳ Châu có 11

xã và huyện Quỳ Hợp có 13 xã. Sau đây là toàn văn Quyết định 52 - CP của Hội

đồng chính phủ ngày 19 - 4 - 1963:

Quyết định số 52 - CP phê chuẩn việc chia ba huyện Anh Sơn, Nghĩa Đàn và

Quỳ Châu thuộc tỉnh Nghệ An thành bảy huyện.

Ngoài ra, huyện Tân Kỳ được thành lập có một ý nghĩa và tầm quan trọng nữa là:

Vùng đất Quỳ Châu, Nghĩa Đàn, Anh Sơn có tiềm năng đất đai màu mỡ, rộng lớn

chưa được “đánh thức” và dân cư thưa thớt, cần phải được quy hoạch lại, xây

dựng thành các “pháo đài”, xây dựng các hậu cứ mới, vừa phát triển kinh tế kết

hợp di dân và sơ tán dân vùng trọng điểm, nếu chiến tranh lan ra miền Bắc,... Với

tầm nhìn chiến lược đó nên sau ngày thành lập huyện và nhất là khi Mỹ leo thang

đánh phá ra miền Bắc năm 1964 đã có 2,2 vạn nhân dân huyện Diễn Châu, Nam

Đàn, Hưng Nguyên, Yên Thành, Đô Lương… lên lập các nông trang.

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ điều 74 của Hiến pháp quy định quyền hạn của Hội đồng Chính phủ;

Page 95: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và của Ủy ban hành chính tỉnh

Nghệ An;

Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ ngày 10 tháng 4 năm 1963.

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1: - Nay phê chuẩn việc chia ba huyện Anh Sơn, Nghĩa Đàn và Quỳ Châu

thuộc tỉnh Nghệ An thành bảy huyện như sau:

1. Huyện Anh Sơn gồm có 19 xã là:

Xã Tam Sơn Xã Thọ Sơn Xã Vĩnh Sơn

Xã Định Sơn Xã Tường Sơn Xã Long Sơn

Xã Cẩm Sơn Xã Hùng Sơn Xã Khai Sơn

Xã Bình Sơn Xã Đức Sơn Xã Phúc Sơn

Xã Thành Sơn Xã Hội Sơn Xã Thạch Sơn

Xã Cao Sơn Xã Tào Sơn Xã Lĩnh Sơn

Xã Lãng Sơn

2. Huyện Đô Lương gồm có Thị trấn Đô Lương và 32 xã là:

Xã Nam Sơn Xã Ngọc Sơn Xã Giang Sơn

Xã Bắc Sơn Xã Lam Sơn Xã Hồng Sơn

Xã Đặng Sơn Xã Bồi Sơn Xã Lưu Sơn

Xã Đông Sơn Xã Lạc Sơn Xã Hiến Sơn

Xã Tràng Sơn Xã Đà Sơn Xã Nhân Sơn

Xã Hòa Sơn Xã Trung Sơn Xã Mỹ Sơn

Xã Thịnh Sơn Xã Thuận Sơn Xã Trù Sơn

Xã Xuân Sơn Xã Thượng Sơn Xã Đại Sơn

Xã Liên Sơn Xã Yên Sơn Xã Văn Sơn

Xã Thái Sơn Xã Tân Sơn Xã Minh Sơn

Xã Quang Sơn Xã Bài Sơn

3. Huyện Nghĩa Đàn gồm có Thị trấn Thái Hòa và 22 xã là:

Page 96: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Xã Nghĩa Mai Xã Nghĩa Thọ Xã Nghĩa Long

Xã Nghĩa Yên Xã Nghĩa Hội Xã Nghĩa Hòa

Xã Nghĩa Minh Xã Nghĩa Trung Xã Nghĩa Quang

Xã Nghĩa Lâm Xã Nghĩa Mỹ Xã Nghĩa Thắng

Xã Nghĩa Lạc Xã Nghĩa Thuận Xã Nghĩa Thịnh

Xã Nghĩa Lộc Xã Nghĩa Lợi Xã Nghĩa Tiến

Xã Nghĩa Liên Xã Nghĩa Đức Xã Nghĩa An

Xã Nghĩa Khánh

4. Huyện Tân Kỳ gồm có 13 xã là:

Xã Nghĩa Bình Xã Nghĩa Thái Xã Nghĩa Phúc

Xã Nghĩa Đồng Xã Nghĩa Hoàn Xã Tam Hợp

Xã Nghĩa Hợp Xã Giai Xuân Xã Tiên Đồng

Xã Nghĩa Dũng Xã Hương Sơn Xã Phú Sơn

Xã Kỳ Sơn

5. Huyện Quế Phong gồm có 6 xã là:

Xã Châu Hùng Xã Châu Hoàn Xã Cắm Muộn

Xã Châu Long Xã Châu Kim Xã Thông Thụ

6. Huyện Quỳ Châu gồm có 11 xã là:

Xã Châu Hạnh Xã Châu Tiến Xã Châu Bính

Xã Châu Thuận Xã Châu Nga Xã Châu Hoàn

Xã Châu Hội Xã Châu Phong Xã Châu Bình

Xã Châu Phương Xã Châu Thắng

7. Huyện Quỳ Hợp gồm có 17 xã là:

Xã Châu Yên Xã Châu Lý Xã Châu Thành

Xã Châu Sơn Xã Châu Hồng Xã Châu Quang

Xã Châu Lộc Xã Châu Định Xã Nghĩa Xuân

Xã Châu Thái Xã Châu Cường Xã Nghĩa Sơn

Page 97: Chương I: Huyện Tân Kỳ thành lập

Xã Tam Hợp

Điều 2: Ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Uỷ ban hành chính tỉnh Nghệ An chịu trách

nhiệm thi hành quyết định này.

Hà nội, ngày 19 tháng 4 năm 1963

T.M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Phạm Văn Đồng

Từ đây, huyện Tân Kỳ chính thức trở thành một đơn vị hành chính độc lập

trên bản đồ Việt Nam. Đồng bào Thổ, Thái, Kinh sống trên địa bàn 13 xã trong

huyện tiếp tục kế thừa truyền thống lao động cần cù sáng tạo, truyền thống đoàn

kết, truyền thống yêu nước và cách mạng của cha anh để chung tay góp sức xây

dựng, phát triển quê hương từng bước đưa Tân Kỳ vượt qua khó khăn thử thách,

trở thành một huyện giàu về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội, không ngừng

nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân và góp phần xứng đáng vào sự

nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.