CHƯƠNG 5_HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Transcript of CHƯƠNG 5_HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
CHƯƠNG V
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ(8 tiết)
I- SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN
1. Công thức chung của tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định, nhưng bản thân
tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện nhất định: đó là nó
khi nó được dùng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền với tư cách là tiền và tiền với tư cách là tư bản khác nhau trước hết ở hình thái lưu
thông của nó. Để thấy được sự khác nhau đó, ta so sánh hai công thức: công thức lưu thông
hàng hóa giản đơn ( H-T-H) và công thức lưu thông của tư bản (T-H-T)
* Giống nhau:
- Cả hai công thức đều do hai giai đoạn đối lập nhau là “mua” và “bán” hợp thành.
- Trong mỗi giai đoạn đều có 2 nhân tố vật chất đối diện nhau là “hàng” và “tiền”,
- Trong mỗi giai đoạn đều có 2 người đối diện nhau là “người mua” và “người bán”.
Nhưng đó chỉ là sự giống nhau về hình thức.
* Khác nhau:
+ Trình tự thực hiện hành vi khác nhau:
Công thức H-T-H: bắt đầu bằng hành vi bán (H-T); kết thúc bằng hành vi mua (T- H)
Công thức T-H-T: bắt đầu bằng hành vi mua (T - H); kết thúc bằng hành vi bán (H - T)
+ Điểm xuất phát và điểm kết thúc:
Ở công thức H-T-H: Điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là H, T chỉ đóng vai trò
trung gian.
Ở công thức T-H-T: Điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là T, H chỉ đóng vai trò trung
gian
+ Mục đích của quá trình trao đổi:
Ở công thức H-T-H, mục đích của trao đổi là H – là giá trị sử dụng cho nên công thức
này bây giờ phải viết là H – T – H’ mới đúng.
Ở Công thức T-H-T, mục đích của trao đổi là T- là giá trị và hơn, thế phải là giá trị lớn
hơn, tức là T’ (trong đó T’=T + ∆t) có như vậy sự vận động này mới có ý nghĩa. Vì vậy công
thức này bây giờ phải viết là T-H-T’ mới đúng.
1
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
+ Giới hạn của sự vận động:
Sự vận động của công thức H-T-H’ có giới hạn: vì do mục đích của sự vận động là giá
trị sử dụng nên khi đã đạt được giá trị sử dụng thì sự vận động kết thúc
Sự vận động của công thức T-H-T’không có giới hạn: do mục đích của sự vận động là
giá trị lớn hơn.
Từ sự phân tích trên, Mác gọi:
. Công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, bởi vì mọi tư bản đều vận động theo
công thức này.
. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra (∆t) được gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m.
. Số tiền ứng ra ban đầu được gọi là tư bản. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Giá trị thặng dư (m) được sinh ra từ đâu?
Thoạt nhìn công thức T-H-T’, hình như m do lưu thông (qua quá trình mua – bán) sinh
ra.
Điều này mâu thuẫn với lý luận giá trị của Mác bởi vì theo lý luận giá trị: giá trị hàng hoá
do lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa tạo ra, như vậy là giá trị hàng hóa được tạo ra
trong sản xuất.
Vậy thực sự lưu thông có tạo ra giá trị, giá trị thặng dư hay không?
* Để trả lời câu hỏi này, ta xét các trường hợp trong lưu thông sau:
- Nếu mua bán ngang giá: thì không làm tăng thêm m vì giá trị chỉ thay đổi hình thái từ
tiền sang hàng hoá và ngược lại, còn tổng giá trị trong tay mỗi người tham gia trước và sau trao
đổi không thay đổi.
- Nếu mua - bán không ngang giá (hàng hoá có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị).
+ Trường hợp bán với giá cả cao hơn giá trị: người bán được lợi, người mua bị thiệt.
+ Trường hợp bán với giá cả thấp hơn giá trị: người bán bị thiệt, người mua được lợi.
Tuy nhiên trong sản xuất hàng hoá, mỗi người sản xuất vừa là người mua, vừa là người
bán. Do đó, cái lợi mà họ có được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại.
+ Giả định có những kẻ bịp bợm, luôn mua được rẻ, bán được đắt, thực tế số tiền mà
hắn thu được là số tiền mà người khác đã bị mất đi. Xét trên phạm vi toàn bộ xã hội tổng số giá
trị không thay đổi, không thể có giá trị thặng dư.
2
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không tạo ra giá trị, giá trị thặng
dư.
Nếu lưu thông không tạo ra giá trị, giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá trị thặng dư được
sinh ra ngoài lưu thông?
* Xét ngoài lưu thông:
Ở ngoài lưu thông, nếu để tiền và hàng đứng yên, không tiếp xúc với lưu thông thì giá trị
của tiền và hàng không thể tăng lên được, tức là không thể có giá trị thặng dư (m)
Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy: “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu
thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và
đồng thời không phải trong lưu thông”.
Đó chính là “Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản”
3. Hàng hoá sức lao động.
Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó, vì trong
việc mua – bán, tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá trị hàng hóa nên trước sau
giá trị của nó vẫn không thay đổi.
Như vậy, sự chuyển hóa đó phải xảy ra ở hàng hóa trong quá trình vận động của tư bản.
Do đó, hàng hóa đó phải là một thứ hàng hóa hóa đặc biệt, giá trị sử dụng của nó có đặc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn thế nữa là sinh ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Thứ hàng
hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
a/ Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
- Khái niệm sức lao động:
“Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân
cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản
xuất ra của cải vật chất”
- Điều kiện để cho sức lao động trở thành hàng hoá
Sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do thân thể tức là họ phải làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền đem bán sức lao động của mình như một hàng hóa trên thị
trường.
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức
sản xuất nên họ buộc phải bán sức lao động của mình cho người khác sử dụng để kiếm sống.
3
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Sức lao động trở thành hàng hoá đánh dấu bước ngoặt cách mạng trong phương thức kết
hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong
kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động với người sở hữu tư bản đã
che đậy bản chất của CNTB - chế độ được xây dựng dựa trên sự đối kháng về lợi ích kinh tế
giữa tư bản và lao động làm thuê.
b/ Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
Cũng như các hàng hóa khác, hàng hóa – sức lao động cũng có hai thuộc tính là Giá trị
và Giá trị sử dụng.
* Giá trị của hàng hoá sức lao động : do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra hàng hoá sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động là năng lực tồn tại
trong con người sống, trong thân thể công nhân. Muốn sản xuất ra được năng lực đó, công
nhân phải tiêu dùng một số tư liệu sinh hoạt nhất định như thức ăn, quần áo, nhà ở, phương tiện
đi lại…Nói cách khác, sản xuất và tái sản xuất sức lao động được thực hiện thông qua tiêu
dùng cá nhân. Do đó, thời gian lao động xã hội cần thiết cho việc sản xuất và tái sản xuất ra
hàng hoá sức lao động bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho công nhân và gia đình anh ta. Vì vậy giá trị hàng hoá sức lao động được
tính bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống của công nhân làm thuê
và gia đình họ.
Lượng giá trị hàng hóa sức lao động bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, giá trị những tư liệu sinh hoạt (vật chất và tinh thần) để tái sản xuất sức lao
động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Thứ hai, Những phí tổn đào tạo người công nhân.
Thứ ba, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người
công nhân.
Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc
vào hoàn cảnh của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được…
* Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: được thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử
dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hoá hay một dịch vụ nào
đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động chính là giá trị thặng dư.
Đây chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc
điểm này chính là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN
4
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá
trị thặng dư.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn
nữa là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất ra giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản
xuất ra giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi và gía trị thặng dư.
Vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp của nhà tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua nên có hai đặc điểm:
Một là, công nhân làm việc chịu sự kiểm soát của tư bản.
Hai là, Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Ví dụ: nghiên cứu quá trình sản xuất sợi của 1 nhà tư bản
- Để sản xuất 1kg sợi nhà tư bản cần chi phí sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu gồm 1kg bông, = 20.000$
+ Hao mòn máy móc để sản xuất 1kg sợi = 3.000$
+ Mua sức lao động của công nhân 1 ngày (10 giờ) = 5.000$
Tổng cộng = 28.000 $
Giả định:
- Trong quá trình lao động, mỗi giờ lao động trừu tượng của công nhân tạo ra lượng giá trị
mới kết tinh vào sản phẩm là 1000 đơn vị tiền tệ.
Trong quá trình lao động, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy móc để chuyển
bông thành sợi, theo đó giá trị của bông và máy móc cũng được chuyển vào sản phẩm.
Giả định, chỉ trong 5 giờ công nhân đã kéo xong 1 kg bông thành 1 kg sợi. Giá trị của 1kg
sợi sẽ bao gồm:
- Giá trị của 1kg bông chuyển vaò = 20.000 $
- Giá trị máy móc chuyển vào = 3.000$
- Giá trị mới do công nhân tạo ra trong 5 giờ LĐ = 5.000$
Tổng cộng = 28.000$
Nếu quá trình sản xuất dừng lại ở đây thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư và
công nhân cũng không bị bóc lột.
5
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Nhưng nhà tư bản mua SLĐ của công nhân để sử dụng trong 1 ngày là 10 giờ nên, nhà
tư bản bắt công nhân phải lao động thêm 5 giờ nữa.
Trong 5 giờ tiếp theo, nhà tư bản chi thêm để
+ Mua 1kg bông = 20.000$
+ hao mòn máy móc để sản xuất 1kg sợi = 3.000 $
Tổng cộng = 23.000$
Kết quả, sau 5 giờ lao động này, công nhân cũng tạo 1kg sợi và cân sợi có giá trị là
28.000đ, gồm:
- Giá trị của 1kg bông chuyển vaò = 20.000 $
- Giá trị máy móc chuyển vào = 3.000$
- Giá trị mới do công nhân tạo ra trong 5 giờ LĐ = 5.000$
Tổng cộng = 28.000$
Vậy, sau 10 giờ lao động, công nhân sản xuất được 2 kg sợi.
Tổng số tiền nhà tư bản chi phí để sản xuất 2kg sợi là 51.000$
Tổng giá trị 2kg sợi là 56.000$.
Vậy lượng giá trị thặng dư thu được là 56.000$-51.000$ = 5.000$.
* Từ ví dụ trên rút ra kết luận:
Một là, Trong giá trị của sản phẩm sản xuất ra gồm có 2 phần: Giá trị cũ - Giá trị
những tư liệu sản xuất đã hao phí như nguyên nhiên vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị (trong
ví dụ là 46.000$ ) và bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân sáng tạo ra (trong ví dụ là
10.000$). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng
với giá trị thặng dư.
Vậy, Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ
là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả
được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
Hai là, Ngày lao động của công nhân chia thành hai phần: thời gian lao động tất yếu ( là
thời gian tạo ra giá trị ngang với giá trị sức lao động; lao động trong khoảng thời gian ấy gọi là
lao động tất yếu) và thời gian lao động thặng dư (là thời gian tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư
bản; lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư)
6
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Ba là, việc nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư giúp ta giải thích rõ hơn mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản. Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu
thông, đồng thời không diễn ra trong lưu thông, đó là:
- Chỉ có trong lưu thông (mua-bán) nhà tư bản mới mua được hàng hóa sức lao động.
- Nhà tư bản đã sử dụng hàng hóa đó trong quá trình sản xuất (ngoài lưu thông) để tạo
ra giá trị thặng dư. Từ đó, tiền của nhà tư bản đã chuyển thành tư bản.
Sơ đồ biểu hiện ngày lao động của công nhân
Thời gian lao động tất yếu Thời gian lao động thặng dư
tạo ra giá trị mới ngang bằng GT SLĐ tạo ra m
2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến
a) Bản chất của tư bản.
- Khái niệm tư bản:
Ở phần trên, khi nghiên cứu công thức chung của tư bản, ta đã rút ra một định nghĩa về
tư bản “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư”. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu quá trình sản
xuất giá trị thặng dư, ta có thể đưa ra định nghĩa đầy đủ hơn về tư bản “Tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê”
- Bản chất của tư bản:
Tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa nhà tư bản và
công nhân làm thuê. Trong mối quan hệ đó, giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai
cấp công nhân tạo ra.
b) Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất. Các bộ phận
khác nhau đó của tư bản có vai trò như thế nào trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư ?
- Trước hết xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất . Trong quá
trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển
7
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
vào sản phẩm mới và lượng gía trị của chúng không đổi so với trước khi đưa vào sản xuất. Bộ
phận tư bản này được gọi là tư bản bất biến (ký hiệu là c)
Vậy, Tư bản bất biến là bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất mà giá trị của nó
được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó. (ký hiệu
là c)
- Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:
Một mặt, giá trị của nó biến thành tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mất đi
trong tiêu dùng của công nhân.
Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Như
vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản
xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là Tư bản khả biến (ký hiệu là v)
Vậy, Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động, không tái hiện ra,
nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên. (ký hiệu là v.)
- Căn cứ phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Căn cứ vào vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất gía trị
thặng dư: Trong quá trình đó, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất
giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó. Sự phân chia tư
bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, vạch rõ
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho
nhà tư bản .
Vậy: giá trị của hàng hoá = c + v + m
3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư.
a. Tỷ suất giá trị thặng dư (ký hiệu là m’)
- Khái niệm: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa số lượng giá trị
thặng dư với tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
- Công thức tính:
Trong đó: m là giá trị thặng dư; v là tư bản khả biến,
Hoặc có thể tính theo công thức:
Trong đó:
8
mm’ = X 100% v
t’ m’ = ------ X 100% t
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
t: thời gian lao động tất yếu
t’ là thời gian lao động thặng dư.
- Ý nghĩa: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
b. Khối lượng giá trị thặng dư (ký hiệu M)
- Khái niệm: là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử
dụng.
- Công thức:
Trong đó: V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng đại biểu cho tổng số công nhân làm
thuê.
- Ý nghĩa: M phản ánh qui mô bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch.
a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
* Khái niệm: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian
lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
* Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư, mỗi giờ người công nhân tạo ra lượng giá trị mới là 10 đơn vị, thì
giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là 100%
4
m’ = ---- x 100% = 100%
4
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên là 60 và tỷ suất giá trị thặng dư là 150%
6
m’ = ---- x100% = 150%
4
* Hạn chế của phương pháp này: Việc kéo dài ngày lao động có những giới hạn nhất
định. Giới hạn đó của ngày lao động là do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định
vì họ còn phải có thời gian để bù đắp lại SLĐ đã hao phí, ngoài ra, việc kéo dài ngày lao động
còn gặp phải sự phản kháng gay gắt của công nhân.
9
M = m’ x V
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
* Ngoài ra, nhà tư bản còn sử dụng biện pháp tăng cường độ lao động của công nhân để
thoả mãn khát vọng tăng giá trị thặng dư của nhà tư bản trong điều kiện ngày lao động không
thể kéo dài thêm, Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao
động.
b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
* Khái niệm: giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên
ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
* Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ và thời gian lao động
thăng dư là 4 giờ, m’ = 100%. Khi tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu
sinh hoạt lên 2 lần thì giá cả của những hàng hoá này sẽ rẻ hơn trước 2 lần nên giá trị của hàng
hoá sức lao động giảm xuống 2 lần và thời gian lao động tất yếu chỉ còn 2 giờ. Trong điều kiện
ngày lao động không đổi thì thời gian lao động thặng dư là 6 giờ và m’ tăng từ 100% lên
300%.
Biện pháp: Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động.
Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu
dùng của công nhân. Điều này chỉ có thể làm được bằng cách tăng năng suất lao động trong
các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư
liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của CNTB, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp
chủ yếu thì đến giai đoạn sau, khi kỹ thuật đã phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối lại
là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của CNTB qua ba giai đoạn cũng là quá trình nâng
cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch:
* Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá
trị xã hội (giá trị thị trường) của nó.
* Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tồn tại tạm thời;
nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Giá trị thặng dư siêu
ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao
động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên.
10
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối vì cả
m tương đối và m siêu ngạch đều dựa trên cơ sở tăng NSLĐ. Tuy nhiên, m tương đối và m
siêu ngạch có sự khác nhau:
+ m tương đối dựa vào việc tăng NSLĐXH, còn m siêu ngạch dựa vào việc tăng NSLĐ
cá biệt.
+ m tương đối do toàn bộ giai cấp tư sản thu được, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn
bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân.
+ m siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản thu được. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa tư bản và lao dộng làm thuê mà còn biểu hiện quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản với
nhau.
5. Sản xuất ra giá trị thặng dư – qui luật kinh tế tuyệt đối của CNTB.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối – quy luật phản ánh mối quan
hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó .
Theo Mác, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Bởi vì, quy luật này phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đó là quan hệ tư bản bóc lột công nhân làm thuê để thu
được giá trị thặng dư. Không có giá trị thặng dư thì không có CNTB.
Nội dung của quy luật: Quy luật này nêu rõ mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là
sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đồng thời, quy luật này
cũng chỉ rõ phương tiện để đạt được mục đích: đó là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê
bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng NSLĐ...
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên
thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động, phát triển; đồng thời nó làm cho mọi mâu
thuẫn của CNTB ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng 1 xã hội cao hơn.
Một trong những đặc điểm nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay là sự phát triển như vũ
bão của cách mạng khoa học công nghệ, điều này làm cho việc sản xuất giá trị thặng dư hiện
nay có đặc điểm mới:
Một là, kỹ thuật công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi, làm cho NSLĐ tăng lên, vì
vậy, m thu được chủ yếu nhờ tăng NSLĐ, nhờ đó chi phí lao động sống trong một đơn vị sản
phẩm giảm nhanh, vì máy móc mới thay thế được nhiều lao động sống hơn.
Hai là, cơ cấu lao động ở các nước tư bản có sự thay đổi: lao động phức tạp, lao động trí
tuệ tăng lên thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp; lao động trí tuệ, có trình độ cao ngày
càng có vai trò quyết định trong quá trình sản xuất m.
11
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Ba là, Sự bóc lột của các nước tư bản trên phạm vi quốc tế được mở rộng dưới nhiều hình
thức: xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu tư bản, trao đổi không ngang gía … làm cho lợi nhuận
siêu ngạch các nước tư bản thu được tăng nhanh. Khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa
các nước ngày càng tăng…
III. TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN.
1. Bản chất kinh tế của tiền công
Sau một thời gian lao động cho nhà tư bản, công nhân sản xuất ra một số hàng hóa, hay
làm được một số công việc nào đó thì được lĩnh một số tiền nhất định gọi là tiền công. Căn cứ
vào hiện tượng bên ngoài ấy, các học giả tư sản giải thích tiền công là giá cả của lao động.
Song thực chất, tiền công không phải và không thể là giá cả của lao động. Lao động
không phải là hàng hóa, không phải là đối tượng mua bán vì:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa, thì lao động phải được vật hoá trong một hình thức
tồn tại cụ thể nào đó. Tiền đề để lao động có thể vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất.
Nhưng nếu người lao động đã có tư liệu sản xuất thì anh ta sẽ là người sản xuất nhỏ, anh ta sẽ
tự mình sử dụng TLSX để sản xuất ra sản phẩm và bán sản phẩm do mình sản xuất ra chứ
không bán lao động.
Thứ hai, Việc thừa nhận lao động là hàng hóa sẽ dẫn đến một trong hai trường hợp bế tắc
về lý luận sau:
- Nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản sẽ không thu
được giá trị thặng dư. Điều này sẽ phủ nhận quy luật giá trị thặng dư và phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa cũng không có cơ sở tồn tại.
- Nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi không ngang gía để nhà tư bản có thể thu
được giá trị thặng dư thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị.
Thứ ba, Nếu lao động là hàng hóa thì hàng hóa lao động phải có giá trị. Nhưng thước đo
giá trị lại là lao động. Như vậy là giá trị của lao động sẽ được đo lường bằng lao động. Điều
này là vô lý, luẩn quẩn. Vì thế, lao động không thể là hàng hóa. Cái mà người công nhân bán
cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân chính
là giá cả của sức lao động.
Vậy, bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra
bên ngoài thành giá cả của lao động.
. Hình thức biểu hiện đó gây ra sự nhầm lẫn cho cả người bán và người mua sức lao
động. Sở dĩ có sự nhẫm lẫn đó là do:
12
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- Hàng hoá sức lao động có đặc điểm là không bao giờ tách khỏi người bán. Nó chỉ
nhận được giá cả sau khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà
tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.
- Đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh
sống, do đó bản thân công nhân cũng lầm tưởng rằng cái mà mình bán chính là lao động, còn
nhà tư bản cĩng tưởng rằng mình bỏ tiền ra để mua lao động.
- Lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản
xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động.
. Hình thức bên ngoài của tiền công đã che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Nó biểu hiện quan hệ bóc lột thành quan hệ “bình đẳng”, “thuận mua vừa bán” giữa công nhân
và nhà tư bản. Nó xoá mờ mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao
động tất yếu và thời gian lao động thặng dư; thành lao động được trả công và lao động không
được trả công.
Ý nghĩa quan trọng của lý luận tiền lương của Mác chính là ở chỗ nó phân biệt được
hiện tượng với bản chất của mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
2. Hai hình thức cơ bản của tiền công trong CNTB.
Tiền công có hai hình thức cơ bản: Tiền công tính theo thời gian và Tiền công tính theo
sản phẩm
- Tiền công tính theo thời gian: là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều
tuỳ theo thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày, tuần, tháng).
- Tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào
số lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành.
Mỗi sản phẩm được trả công theo 1 đơn giá nhất định gọi là đơn giá tiền công.
Thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết để sản xuất ra một sản
phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hóa của tiền công tính theo thời
gian.
13
tiền công trung bình của 1 ngày của 1 công nhânĐ.giá tiền công = ------------------------------------------------------------------------------- s.lượng sản phẩm trung bình mà 1 công nhân sản xuất ra trong ngày
Tiền công = Số sản phẩm X đơn giá tiền công
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý,
giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân lao động
tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm hơn.
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
- Tiền công danh nghĩa: là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, do đó nó phải
chuyển hóa thành tiền công thực tế.
Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hoá SLĐ, nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ
thuộc vào quan hệ cung – cầu về hàng hoá SLĐ trên thị trường.
- Tiền công thực tế: là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và
dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Trong điều kiện tiền công danh nghĩa không đổi thì tiền công thực tế tăng hay giảm phụ
thuộc vào giá cả của tư liệu tiêu dùng và dịch vụ.
*Xu hướng vận động của tiền lương thực tế.
Tiền công là giá cả của sức lao động nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi
của giá trị sức lao động. Lượng giá trị của hàng hóa sức lao động lại chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố có tác động ngược chiều nhau.
- Các nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động:
+ sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động,
+ sự tăng cường độ lao động,
+ sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội…
- Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động: Sự tăng năng suất lao động làm cho
giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi.
Sự tác động qua lại của các nhân tố này dẫn đến sự biến đổi của giá trị sức lao động và
dẫn đến sự biến đổi của tiền lương thực tế.
Mác chỉ ra rằng, trong CNTB, tiền công thực tế có xu hướng giảm xuống do các
nguyên nhân: đó là, mặc dù tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng, nhưng mức tăng của nó
nhiều khi không tăng kịp mức tăng của giá cả hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời
thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên khiến cho cung về lao động vượt quá cầu về lao động,
điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó.
Nhưng sự giảm xuống của tiền công thực tế chỉ là xu hướng vì có những nhân tố chống lại sự
hạ thấp của tiền công: đó là cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương; trong điều kiện cách
14
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
mạng KH-KT, nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng do đó giá trị sức lao
động cũng tăng lên.
IV. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN - TÍCH LUỸ
TƯ BẢN.
1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại thường xuyên và phục hồi không
ngừng. Căn cứ vào quy mô sản xuất, tái sản xuất được chia thành tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, muốn tái sản xuất mở rộng, phải biến một bộ phận
giá trị thặng sư thành tư bản phụ thêm.Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển
hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
+ Thực chất của tích luỹ tư bản: là tư bản hoá giá trị thặng dư. Như vậy tích luỹ tư bản
gắn liền với tái sản xuất mở rộng. Nguồn gốc của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư.
+ Ý nghĩa của việc nghiên cứu tích luỹ tư bản và tái sản xuất mở rộng TBCN:
Việc nghiên cứu cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.
Thứ hai, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến
thành quyền chiếm đoạt TBCN. Động cơ thúc đẩy quá trình tích luỹ tư bản và tái sản xuất mở
rộng chính là quy luật giá trị thặng dư.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ:
Một là, với khối lượng giá trị thặng dư không đổi, quy mô tích luỹ phụ thuộc vào tỷ lệ
phân chia giá trị thặng dư thành hai quỹ: quỹ tích luỹ (m1) và quỹ tiêu dùng (m2) của nhà tư
bản.
Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối
lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào:
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư m’: nếu m’ càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư
càng nhiều.
15
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- NSLĐ. Năng suất lao động càng cao thì khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy
mô tích luỹ tăng
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ qui mô hiện vật
của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm
theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao.
Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần
giá trị như vậy nhưng trong suốt quá trình hoạt động máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ
giá trị. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của LLSX. Kỹ thuật càng hiện đại, sự chênh
lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn thì sự phục vụ không công càng lớn.
- Qui mô đại lượng tư bản ứng trước: Trong công thức M= m’ x V, nếu m’ không đổi thì
khối lượng giá trị thặng dư chỉ có thể tăng khi tổng tư bản khả biến tăng, tất nhiên khi đó tư bản
bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định. Do đó, nếu qui mô tư bản ứng trước
càng lớn, quy mô sản xuất càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư thu được càng nhiều.
2. Tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư bản riêng
rẽ. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật;
mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư
bản chủ nghĩa lại tạo khả năng cho tích tụ tư bản.
Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn hơn.
Đây là sự tích tụ những tư bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tính độc lập riêng biệt của chúng.
Cạnh tranh và tín dụng là hai đòn bẩy quan trong của tập trung tư bản.
Sự giống nhau và khác nhau giữa tích tự tư bản và tập trung tư bản:
- Giống nhau: Tích tụ tư bản và tập trung tư bản đều làm cho qui mô tư bản cá biệt tăng
lên.
- Khác nhau:
+ Nguồn gốc của tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, còn nguồn gốc của tập trung tư bản là
tư bản có sẵn trong xã hội.
+ Tích tụ tư bản làm quy mô tư bản xã hội tăng, còn tập trung tư bản không làm cho quy
mô tư bản xã hội tăng;
16
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
+ Tích tự tư bản phản ánh trực tiếp quan hệ giữa tư bản và lao động; còn tập trung tư
bản phản ánh trực tiếp quan hệ giữa các nhà tư bản.
Mối quan hệ giữa tích tụ tư bản và tập trung tư bản: tích tụ tư bản và tập trung tư
bản có quan hệ mật thiết với nhau:
+ Tích tụ tư bản làm tăng quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ
gay gắt hơn, điều này thúc đẩy quá trình tập trung tư bản.
+ Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng
dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản.
Vai trò của tập trung tư bản: Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển
của sản xuất tư bản chủ nghĩa:
+ Nhờ tập trung tư bản mà có thể tổ chức rộng lớn lao động hợp tác, biến quá trình sản
xuất rời rạc thành quá trình sản xuất phối hợp, quy mô lớn, xây dựng được những công trình
công nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại.
+ Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng mà còn dẫn đến sự thay
đổi về chất của tư bản, nó làm cho cấu tạo hữu cơ cuả tư bản tăng, năng suất lao động tăng.
Chính vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích luỹ tư bản.
3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản
Tư bản tồn tại dưới dạng vật chất và giá trị. Cấu tạo của tư bản gồm có cấu tạo kỹ thuật
và cấu tạo giá trị.
+ Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất với số lượng
lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội.
+ Cấu tạo giá trị của tư bản: là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tư bản bất biến (hay giá
trị của TLSX) và tư bản khả biến (hay giá trị của SLĐ) cần thiết để tiến hành sản xuất.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau: Cấu tạo kỹ thuật thay
đổi sẽ làm cho cấu tạo giá trị thay đổi. C.Mác đã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để
chỉ mối quan hệ đó. Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu là c/v): là cấu tạo giá trị của tư bản,
do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư
bản.
Do tiến bộ khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất, cấu tạo hữu cơ của tư bản thường
xuyên biến động theo chiều hướng ngày càng tăng. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản
biểu hiện ở chỗ: tư bản bất biến tăng nhanh hơn tư bản khả biến, tư bản bất biến tăng cả số
17
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
tuyệt đối lẫn tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt đối nhưng lại giảm xuống tương
đối.
Tác động của việc cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng: Khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng,
tư bản khả biến giảm tương đối sẽ làm cho cầu về sức lao động sẽ giảm xuống một cách tương
đối, điều này sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp của công nhân.
V. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá
trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà tư
bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản cá biệt - xét về mặt chất.
Chu chuyển của tư bản là sự vận động của tư bản cá biệt - xét về mặt lượng.
a./ Tuần hoàn của tư bản.
Tư bản vận động theo công thức T – H – T’, trong quá trình vận động đều trải qua ba
giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thái, thực hiện ba chức năng.
Giai đoạn thứ nhất: T – H (giai đoạn lưu thông – giai đoạn mua)
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua các yếu tố cần thiết cho
quá trình sản xuất là tư liệu sản xuất và sức lao động.
Chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố của quá trình sản xuất.
Kết thúc giai đoạn này thì tư bản tiền tệ chuyển hóa thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn hai: Giai đoạn sản xuất.
Nhà tư bản đem tiêu dùng các hàng hóa đã mua ở giai đoạn một, nhưng đây là tiêu dùng
cho sản xuất, tức là đưa các yếu tố sản xuất đã mua được ở giai đoạn 1 vào quá trình sản xuất
để tạo ra sản phẩm. Giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất.
18
SLĐ
T – H TLSX`TB tiền tệ Tư bản sản xuất chuyển thành
SLĐ H … SX… H’ TLSX TB sản xuất TB hàng hóa Chuyển thành
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Chức năng của giai đoạn hai là sản xuất ra hàng hóa (H’) mà trong giá trị của nó có giá
trị thặng dư.
Kết thúc giai đoạn hai, tư bản sản xuất chuyển thành tư bản hàng hóa (H’)
Giai đoạn ba: H’-T’ (giai đoạn lưu thông-giai đoạn bán)
Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng để bán H’ và thu T’. Giai
đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa
Chức năng của giai đoạn này là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.
Kết thúc giai đoạn ba tư bản hàng hoá chuyển hoá thành tư bản tiền tệ. Mục đích của
nhà tư bản đã đạt được, tư bản quay trở lại hình thức ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Số tiền bán hàng hoá (T’) nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức
lao động cần thiết để tiếp tục một quá trình sản xuất mới và toàn bộ quá trình trên lại được lặp
lại.
Tổng hợp toàn bộ quá trình vận động của tư bản:
Vậy:
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn (giai đoạn mua,
giai đoạn sản xuất, giai đoạn bán); lần lượt mang ba hình thái (tư bản tiền tệ - tư bản sản xuất
– tư bản hàng hóa), thực hiện ba chức năng (chức năng mua các yếu tố sản xuất, chức năng
sản xuất ra giá trị và giá trị thặng dư, chức năng thực hiện giá trị và gía trị thặng dư) rồi trở về
hình thái ban đầu với giá trị lớn hơn.
Lưu ý:
- Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau
đây được thoả mãn: một là, các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; hai là, các hình thái tư bản
19
H – T’
TB hàng hóa TB tiền tệ chuyển thành
SLĐ T – H … SX ... H’ – T’ TLSX
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều đặn (tức là tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn
tuần hoàn trong một thời gian nhất định). Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận
động liên tục không ngừng, đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng. Phù hợp với ba
giai đoạn tuần hoàn của tư bản là ba hình thái của tư bản công nghiệp (TB tiền tệ; tư bản sản
xuất, tư bản hàng hóa)
- Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường, tư bản xã hội (cũng như tư bản cá biệt)
phải đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái của tư bản công nghiệp. Song cũng trong
quá trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản. Từ đó làm xuất
hiện tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai cấp tư sản
như chủ ngân hàng, chủ công nghiệp…chia nhau giá trị thặng dư.
b/ Chu chuyển của tư bản.
* Khái niệm chu chuyển của tư bản
Sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi lặp lại thì
gọi là sự chu chuyển của tư bản.
Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản cá biệt.
* Thời gian chu chuyển của tư bản:
Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần
hoàn. Thời gian chu chuyển của tư bản gồm: thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
+ Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất.
Thời gian sản xuất bao gồm:
. thời gian lao động,
. thời gian gián đoạn lao động,
. thời gian dự trữ sản xuất.
Nhân tố ảnh hưởng tới thời gian sản xuất: tính chất của ngành sản xuất; quy mô hoặc
chất lượng sản phẩm; thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay
ngắn; năng suất lao động cao hay thấp, dự trữ sản xuất đủ hay thiếu…
+ Thời gian lưu thông: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Thời gian lưu thông gồm có:
. thời gian mua,
. thời gian bán hàng hóa
20
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Nhân tố ảnh hưởng tới thời gian lưu thông: năng lực cạnh tranh của sản phẩm, thị
trường xa hay gần, tình hình thị trường tốt hay xấu, trình độ phát triển của ngành giao thông
vận tải…
Ý nghĩa của việc nghiên cứu thời gian chu chuyển của tư bản: thời gian chu chuyển
của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư
bản càng lớn nhanh hơn.
* Tốc độ chu chuyển của tư bản.
* Khái niệm: Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần (số vòng) chu chuyển của tư bản
trong một năm. (ký hiệu là n)
Trong đó:
n: số lần chu chuyển của tư bản trong một năm
TGn: Thời gian trong năm
TGa: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định.
Biện pháp tăng tốc độ chu chuyển của tư bản: Tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ
nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. vì vậy, muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
phải làm giảm thời gian chu chuyển của tư bản, cụ thể:
- Giảm thời gian sản xuất.
- Giảm thời gian lưu thông.
c/ Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Căn cứ vào tính chất chu chuyển khác nhau của các bộ phận tư bản, tư bản sản xuất
được chia thành hai bộ phận là tư bản cố định và tư bản lưu động.
* Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất, đồng thời là bộ phận chủ yếu
của tư bản bất biến (máy móc thiết bị, nhà xưởng,…) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất,
nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo
mức độ hao mòn của nó trong quá trình sản xuất.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn dần
trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là Hao mòn hữu hình và Hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình: là hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng. Nguyên nhân của hao
mòn hữu hình là do quá trình sử dụng và do tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư
bản cố định bị hao mòn đi tới chỗ hỏng, phải thay thế.
21
TGn n = TGa
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- Hao mòn vô hình: là hao mòn thuần tuý về giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả
khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì sự xuất hiện máy móc mới rẻ hơn, hiện đại hơn, hoặc
có giá trị tương đương nhưng công suất cao hơn. Nguyên nhân của hao mòn vô hình là do sự
phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách
kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động…nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng
ngắn càng tốt.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định có ý nghĩa quan trọng: tiết kiệm chị phí bảo
quản, sửa chữa, giảm hao mòn cả hữu hình và vô hình; tăng quĩ khấu hao tài sản cố định, làm
cho lượng tư bản sử dụng tăng lên, nhờ đó nhanh chóng đổi mới thiết bị.
*Tư bản lưu động là một bộ phận của tư bản sản xuất (gồm nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu phụ,sức lao động) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của
nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định.Tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động có ý nghĩa quan trọng:
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được
sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước khi quy mô như cũ hoặc mở rộng
quy mô sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến sẽ làm tăng tỷ suất giá trị
thặng dư hàng năm.
* Căn cứ phân chia tư bản ứng trước thành tư bản cố định và tư bản lưu động là dựa vào
phương thức chuyển dịch giá trị của chúng (hay tính chất chu chuyển của tư bản) vào sản
phẩm trong quá trình sản xuất sản phẩm
* Ý nghĩa nghiên cứu: Phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động nhằm
mục đích để quản lý và sử dụng vốn hiệu quả.
Phân chia tư bản theo tính chất chu chuyển.
c1 : Giá trị nhà xưởng, máy móc, thiết bị.
c1
Máy
()
c2 v
Tư bản cố định: c1 Tư bản lưu động c2+v
Tư bản khả biến:vTư bản bất biến c=c1+c2
22
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
c2: Giá trị nguyên, nhiên vật liệu,
v: Giá trị sức lao động.
2. Tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội.
a) Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội.
- Tổng sản phẩm xã hội: Tổng SPXH là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra
trong một thời kỳ nhất định, thường được tính là một năm.
Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về mặt hiện vật và mặt giá trị:
Về hiện vật: Tổng SPXH = toàn bộ TLSX + toàn bộ TLTD
Về giá trị: Tổng SPXH = C + V + M
(V+ M : giá trị sản phẩm mới)
Trong đó: C: giá trị TLSX bị tiêu dùng trong sản xuất.
V: giá trị của toàn bộ SLĐ xã hội (= tổng tiền công trả cho người lao động
sản xuất trực tiếp)
M: giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra.
- Hai khu vực của nền SX xã hội. Để xem xét sự vận động của tư bản xã hội, nền
sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực:
+ Khu vực I là khu vực sản xuất ra tư liệu sản xuất (TLSX)
+ Khu vực II là khu vực sản xuất ra tư liệu tiêu dùng (TLTD)
Trong tái sản xuất tư bản xã hội, khu vực I và II phải có quan hệ trao đổi sản phẩm
với nhau.
- Tư bản xã hội: là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan xen, liên hệ và
phụ thuộc lẫn nhau.
Như vậy các tư bản cá biệt vận động trong sự liên kết chặt chẽ và thống nhất với nhau
tạo thành tư bản xã hội. Sự vận động của tư bản xã hội được thực hiện trong cả lĩnh vực sản
xuất cũng như lĩnh vực lưu thông.
- Những giả định của Mác khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội:
+ Trong xã hội tư bản chỉ có thuần tuý hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản.
+ Giá cả hàng hoá được mua, bán đúng giá trị.
+ Tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản không thay đổi.
+ Tư bản cố định chu chuyển hết giá trị trong một năm. 23
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
+ Không xét đến ngoại thương.
b) Điều kiện thực hiện sản phẩm trong tái sản xuất tư bản xã hội.
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn.
Trong tái sản xuất giản đơn thì toàn bộ giá trị thặng dư được sử dụng hết cho tiêu dùng
cá nhân.
Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000 (tồn tại dưới hình thức TLSX)
Khu vực II: 2000c + 500v + 500m = 3000 (tồn tại dưới hình thức TLTD)
Giá trị tổng sản phẩm xã hội là 9000
Để cho quá trình sản xuất của năm sau có thể tiến hành lặp lại với qui mô như cũ thì
toàn bộ sản phẩm của 2 khu vực phải được thực hiện như sau:
- Trong khu vực I:
+ Bộ phận 4000c dùng để bù đắp lại giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí. Về mặt hiện vật,
nó tồn tại dưới hình thái TLSX nên được trao đổi hay thực hiện trong nội bộ khu vực I giữa
các xí nghiệp sản xuất ra TLSX.
+ Bộ phận (1000v + 1000m) là tiền lương của công nhân và phần giá trị của sản phẩm
thặng dư mà người sở hữu TLSX dùng để mua tư liệu tiêu dùng. Về mặt hiện vật, 2 bộ
phận này tồn tại dưới hình thái TLSX nên không thể trực tiếp tiêu dùng cho cá nhân, do đó
nó phải được đem trao đổi với khu vực II để lấy TLTD.
- Trong khu vực II:
+ Bộ phận (500v + 500m) là tiền lương của công nhân và giá trị của sản phẩm thặng dư
của người sở hữu TLSX dùng để mua tư liệu tiêu dùng. Về mặt hiện vật, nó tồn tại dưới
hình thái TLTD nên nó được trao đổi hay thực hiện ngay trong nội bộ khu vực II giữa các
xí nghiệp sản xuất ra TLTD.
+ Bộ phận 2000c dùng để bù đắp giá trị TLSX đã hao phí. Về mặt hiện vật, nó tồn tại
dưới hình thái TLTD nên phải đem trao đổi với khu vực I để lấy TLSX.
Ta có sơ đồ biểu diễn mối quan hệ trao đổi giữa 2 khu vực như sau:
Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000
Khu vực II: + 500v + 500m = 30002000c
24
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Từ sự phân tích trên C.Mác đã chỉ ra các điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội trong
tái sản xuất giản đơn như sau:
Điều kiện thứ nhất: toàn bộ giá trị mới do lao động sáng tạo trong khu vực I phải bằng
giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí ở khu vực II.
I (v+m) = IIc
Điều kiện thứ hai: Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải bằng giá trị tư liệu sản
xuất đã hao phí của cả hai khu vực.
I (c+v+m) = Ic + IIc
Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực I trong TSX giản đơn.
Điều kiện thứ ba: Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực II phải bằng giá trị mới do lao
động sáng tạo ra ở cả hai khu vực.
II (c+v+m) = I (v+m) + II (v+m)
Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực II trong TSX giản đơn.
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng
Muốn có tái sản xuất mở rộng thì giá trị thặng dư không được đem tiêu dùng hết cho cá
nhân, phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm (c) và tư bản khả biến
phụ thêm (v). Có thể khái quát điều kiện cơ bản có liên quan đến khả năng mở rộng sản xuất
như sau:
I (v+m) > IIc
I (c+v+m) > Ic + IIc
I (v+m) + II (v+m) >II (c+v+m)
Quá trình tái sản xuất mở rộng được thể hiện qua sơ đồ sau đây:
Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000
Khu vực II:1500c + 750v + 750m = 3000
Tổng sản phẩm xã hội = 9000
Sơ đồ trên gắn với giả định: tỷ lệ phân chia m cho tích luỹ và cho tiêu dùng ở khu vực I
là 50% ( Theo đó ta có 500m1dùng để tích luỹ và 500m2 dùng để tiêu dùng cá nhân); c:v ở khu
vực I là 4:1; c:v ở khu vực II là 2:1;
Việc thực hiện tổng sản phẩm xã hội giữa 2 khu vực trong sơ đồ diễn biến như sau:
Với 500m1 dùng để mở rộng sản xuất, c:v = 4:1 thì sẽ có 400 đơn vị chuyển thành tư
bản bất biến phụ thêm (400c1) và 100 đơn vị chuyển thành tư bản khả biến phụ thêm (100v1).
25
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Như vậy, trong khu vực I phải dùng 4000c để bù đắp giá trị TLSX đã tiêu dùng và 400c1 để
mở rộng sản xuất. Bộ phận này được trao đổi trong nội bộ khu vực I. Số còn lại là 1000v +
100v1 + 500m2 = 1600 tồn tại dưới hình thức TLSX nên phải trao đổi với khu vực II lấy TLTD
để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của công nhân cũ, công nhân mới tuyển dụng thêm và nhu
cầu tiêu dùng của những người chủ sở hữu.
Cơ cấu mới của khu vực I là: 4000c + 400c1 + 1000v + 100v1 + 500m2 = 6000
Theo cơ cấu trên thì khu vực I chỉ có thể cung cấp TLSX cho khu vực II là 1600 đơn vị,
vượt quá qui mô sản xuất của khu vực II là 100 đơn vị. Đó là giá trị TLSX phụ thêm cho khu
vực II để mở rộng sản xuất. Với c:v = 2:1 thì thích ứng với 100c phụ thêm (100c1), khu vực II
cần phải tích luỹ 50 v phụ thêm (50v1). Như vậy với 750 m, khu vực II chỉ được phép tích luỹ
mở rộng sản xuất 150 đơn vị (gồm 100m1 và 50v1) và tiêu dùng 600 đơn vị.
Cơ cấu mới của khu vực II là: 1500c + 100c1 + 750v + 50v1 + 600m2 = 3000
Như vậy, sự trao đổi giữa 2 khu vực được thực hiện bằng sơ đồ sau:
Sau năm thứ nhất, nhờ giá trị thặng dư mà mở rộng được qui mô sản xuất trong cả 2
khu vực và ở đầu năm thứ 2 tư bản xã hội là: Khu vực I: 4400c + 1100v
Khu vực II: 1600c + 800v
Với m’ = 100%, đến cuối năm thứ 2 toàn bộ sản phẩm xã hội tăng từ 9000 lên tới 9800
đơn vị.
Khu vực I: 4400c + 1100v + 1100m = 6600
Khu vực II: 1600c + 800v + 800m = 3200
Qua phân tích trên, C.Mác đã chỉ ra các điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội trong tái
sản xuất mở rộng như sau:
Thứ nhất: tư bản khả biến (v), tư bản khả biến phụ thêm (v1) và phần giá trị thặng dư để
tiêu dùng (m2) của nhà tư bản của khu vực I phải bằng giá trị tư bản bất biến (c) và tư bản bất
biến phụ thêm (c1) của khu vực II.
I (v+v1+m2) = II (c+c1)
Điều kiện này nói lên mối quan hệ giữa 2 khu vực trong tái sản xuất mở rộng.
Khu vực I: 4000c + 400c1 +
1000v + 100v1 + 500m2 = 6000
Khu vực II: + 750v + 50v1 + 600 m2 = 30001500c + 100c1
26
= 9800
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Thứ hai: toàn bộ giá trị sản phẩm (c + v + m) của khu vực I phải đủ trang bị cho tư bản
bất biến (c) và tư bản bất biến phụ thêm (c1) ở cả hai khu vực.
I (c+v+m) = I (c+c1) + II (c+c1)
Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực I trong tái sản xuất mở rộng.
Thứ ba: toàn bộ giá trị mới (v+m) của hai khu vực phải bằng giá trị sản phẩm (c+v+m)
của khu vực II và tư bản bất biến phụ thêm (c1) của hai khu vực.
( I+II)(v+m) = II (c+v+m) + (I+II)c1.
Điều kiện này nói lên vai trò của giá trị mới trong tái sản xuất mở rộng.
Để tái sản xuất mở rộng diễn ra bình thường thì các quan hệ trao đổi trên cần được tôn
trọng. Trong chủ nghĩa tư bản những quan hệ trao đổi đó được hình thành tự phát và thường
xuyên bị phá vỡ. Nếu sự mất cân đối này thường xuyên xảy ra tất yếu dẫn đến khủng hoảng
kinh tế.
c) Sự phát triển của Lênin đối với lý luận tái sản xuất tư bản xã hội của Mác.
3. Khủng hoảng kinh tế.
a) Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong CNTB.
- Khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Sản xuất
“thừa” ở đây chỉ có nghĩa tương đối, nghĩa là “thừa” so với khả năng thanh toán của xã hội chứ
không phải thừa so với nhu cầu thực tế của xã hội.
- Biểu hiện của khủng hoảng kinh tế: hàng hoá bị ứ đọng, sản xuất bị thu hẹp, xí nghiệp
thậm chí phải đóng cửa, nạn thất nghiệp tăng lên, thị trường rối loạn…
- Nguyên nhân của khủng hoảng:
Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của
chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành
các mâu thuẫn sau:
+ Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp với tình trạng sản
xuất vô chính phủ trong toàn xã hội.
+ Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn của CNTB với sức mua có hạn
của quần chúng lao động.
+ Mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động.
b) Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
27
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Chu kỳ khủng hoảng kinh tế của CNTB: thường được biểu hiện lặp đi, lặp lại của nền
sản xuất từ một cuộc khủng hoảng kinh tế này đến cuộc khủng hoảng kinh tế khác. Một chu kỳ
bao gồm các giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, phồn vinh.
Trong giai đoạn hiện nay của CNTB, do có sự can thiệp của nhà nước tư sản, mặc dù
không xoá bỏ được khủng hoảng kinh tế nhưng đã làm cho nó có đặc điểm mới như:
- Mức độ suy sụp của sản xuất và tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế, thời
gian tồn tại và độ dài của thời kỳ suy sụp bị rút ngắn.
- Xuất hiện những hình thức khủng hoảng mới như khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng
tài chính, tiền tệ, khủng hoảng môi trường…
VI. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ.
1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
a) Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k)
* Đối với xã hội, để sản xuất ra hàng hoá có giá trị là W = c + v + m, xã hội phải chi phí
lao động thực tế.
Chi phí lao động thực tế = Chi phí lao động quá khứ (chi phí lao động vật hóa) + chí phí
lao động hiện tại (chi phí lao động sống)
* Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hóa, nhà tư bản chỉ cần chi phí một lượng
tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chí phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa (ký hiệu là k)
k = c + v.
Khái niệm: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư
liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
Nếu dùng k để chỉ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức W = c + v + m sẽ
chuyển hóa thành W = k + m.
* So sánh giá trị hàng hoá (W) và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k): Giữa W và k có
sự khác nhau cả về chất và về lượng.
- Về chất, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản; còn giá trị hàng hoá là chi
phí thực tế của xã hội để sản xuất hàng hóa, đó là chi phí lao động xã hội cần thiết (gồm chi phí
về lao động sống và lao động quá khứ).
- Về lượng, chí phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn chi phí thực tế của xã hội để sản
xuất hàng hóa.
28
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
* Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn thực tế của “lỗ”, “lãi”
kinh doanh.
b) Lợi nhuận (ký hiệu là p)
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa (W) và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k),
nên sau khi bán hàng hóa ( giả định giá cả = giá trị), nhà tư bản không chỉ bù lại được số tiền đã
ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền lời này được gọi là lợi nhuận
((ký hiệu là p)
Bản chất của lợi nhuận: Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ
của toàn bộ tư bản ứng trước.
Công thức W = k + m chuyển hoá thành W = k + p
Công thức tính lợi nhuận: p = W – k
So sánh m và p:
- Giống nhau: m và p cùng có chung nguồn gốc, đều do lao động không công của công
nhân làm thuê tạo ra, p chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.
- Khác nhau:
+ Khi dùng khái niệm giá trị thặng dư (m) là hàm ý so sánh với (v), m phản ánh mối quan
hệ giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê. Khi dùng khái niệm (p) là hàm ý so sánh với k.
+ Về mặt lượng m và p thường không bằng nhau.
p = m khi giá cả = giá trị
p > m khi giá cả > giá trị
p < m khi giá cả < giá trị
Điều này phụ thuộc vào giá bán hàng hóa trên thị trường do quan hệ cung cầu quy định.
Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vì:
Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) đã xóa nhòa sự khác nhau
giữa c và v, nên người ta thấy rằng hình như p là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước (c+v).
Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) luôn nhỏ hơn chi phí thực tế của xã hội
để sản xuất hàng hóa, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa với giá cả lớn hơn chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận; hơn nữa, do quan
hệ cung cầu ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa trên thị trường nên giữa p và m có sự không nhất
trí về lượng cho nên dẫn đến lầm tưởng rằng, p là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài
kinh doanh của nhà tư bản mà có.
29
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
c) Tỷ suất lợi nhuận (p’)
* Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn
bộ tư bản ứng trước, ký hiệu là p’
* So sánh giữa p’ và m’:
- Về lượng: Tỷ suất lợi nhuận bao giờ cũng nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư. (p’ < m’)
- Về chất: + m’ biểu hiện mức độ (trình độ) bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê.
+ p’ cho biết mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản. Do đó tỷ suất lợi nhuận là
mục tiêu cạnh tranh, là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.
d) Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận:
- Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn
và ngược lại.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Nếu tỷ suất giá trị thặng dư không đổi thì cấu tạo hữu cơ
của tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
- Tốc độ chu chuyển của tư bản. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, khối lượng
giá trị thặng dư được sản xuất càng nhiều, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng tăng.
- Tiết kiệm tư bản bất biến. Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến
không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
a) Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
* Khái niệm: Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm mục đích giành ưu thế trong sản xuất
và trong tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
* Biện pháp thực hiện: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng hàng hóa, cải tiến mẫu mã... làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá do xí nghiệp sản xuất ra
thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
30
m p’= ------ x 100% c+v p p’ hàng năm = ------ x100% k
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
*Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá trị xã hội (giá trị
thị trường) của hàng hoá; làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi, giá trị
xã hội của hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa
phong phú.
b) Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân
* Khái niệm: Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh
doanh những ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
* Biện pháp: Di chuyển tư bản từ ngành có p’ thấp sang ngành có p’ cao. Sự di chuyển
tư bản này chỉ dừng lại khi p’ của các ngành ngang nhau.
* Kết quả cạnh tranh giữa các ngành là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân (Ký
hiệu: p’ bình quân) và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất cả các lợi nhuận
khác nhau hay tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng
dư và tổng tư bản xã hội.
Công thức tính tỷ suất lợi nhuận bình quân:
p’1 +p’2+…+p’n
p’ = ----------------------
n
Trong đó n là số ngành trong xã hội.
Hay:
Tổng M
p’ = ----------------------------- x 100%
Tổng tư bản xã hội
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì lượng lợi nhuận nhà tư bản thu được theo
tỷ suất lợi nhuận bình quân gọi là lợi nhuận bình quân
p = k x p’
Khái niệm: Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư
vào các ngành sản xuất khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ
vào tổng tư bản đầu tư nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu thành hữu cơ của
nó như thế nào.
31
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
* Sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, sự hình thành lợi nhuận bình quân làm
cho quy luật giá trị thặng dư chuyển hoá thành qui luật lợi nhuận bình quân.
* Sự hình thành p’ bình quân và p bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của
chủ nghĩa tư bản.
3. Sự chuyển hoá của giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân hình thành, thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả
sản xuất .
* Khái niệm: Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình
quân.
Giá cả sản xuất = k + p
* Sự biểu hiện của quy luật giá trị trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, khi giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản
xuất thì qui luật giá trị chuyển hoá thành qui luật giá cả sản xuất.
4. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản.
a/ Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
* Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản:
- Nguồn gốc của tư bản thương nghiệp
Nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp:
ta thấy thường xuyên có một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa (H’) chờ
được chuyển hóa thành tư bản tiền tệ (T’). Do sự phát triển của phân công lao động xã hội đến
một trình độ nhất định, giai đoạn này được tách riêng ra trở thành một chức năng riêng của một
loại hình tư bản kinh doanh riêng biệt, đó chính là tư bản thương nghiệp.
Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá.
- Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T – H – T’.
32
SLĐ T – H … SX ... H’ – T’ TLSX
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Từ công thức này, ta thấy tư bản được chuyển chỗ hai lần: 1/ từ tay nhà tư bản công
nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp ; 2/ từ tay nhà tư bản thương nghiệp đến tay người
tiêu dùng. Điều này cho thấy tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông.
- Đặc điểm: Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính
độc lập tương đối.
Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách rời ra.
Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ: chức năng chuyển hóa cuối cùng của hàng
hóa thành tiền (H-T) trở thành chức năng riêng biệt tách khỏi tư bản công nghiệp, nằm
trong tay người khác.
- Vai trò của tư bản thương nghiệp:
+ Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hoá nên lượng tư bản ứng
vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhận
chức năng này.
+ Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hoá nên người sản xuất có thể
tập trung chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị
thặng dư.
+ Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hoá nên thời gian lưu thông
sẽ giảm xuống, tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng lên, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá
trị thặng dư hàng năm.
* Lợi nhuận thương nghiệp
Tư bản thương nghiệp nếu chỉ giới hạn trong việc mua – bán hàng hóa thì không tạo ra giá
trị thặng dư. Nhưng là tư bản nên nó cũng hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận.
- Khái niệm: Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong
quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp “nhường” cho tư bản thương nghiệp để tư bản
thương nghiệp bán hàng hóa cho mình.
Tư bản công nghiệp “nhường” một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp bằng
cách bán hàng hoá với giá cả thấp hơn giá thị thực tế của nó và tư bản thương nghiệp bán hàng
hoá đúng giá trị để thu về lợi nhuận thương nghiệp.
Ví dụ:
Tư bản công nghiệp ứng ra 900$ để sản xuất hàng hóa với c/v = 4/1; m’ = 100%; tư bản
cố định hao mòn hết trong một chu kỳ sản xuất.
33
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
Giá trị hàng hóa (W) = 720c + 180v + 180m = 1080
180
p’ = --------- x 100% = 20%
900
Để lưu thông được số hàng hóa trên, giả định nhà tư bản công nghiệp phải ứng thêm 100$
nữa, tỷ suất lợi nhuận chỉ còn là: 180
p’ = -----------x 100% = 18%
1000
Nếu việc ứng thêm 100$ tư bản này không phải do tư bản công nghiệp mà do tư bản
thương nghiệp ứng ra, thì tư bản thương nghiệp phải được hưởng lợi nhuận tương ứng với
100$ tư bản là 18$.
Vậy tư bản công nghiệp phải bán hàng hóa cho tư bản thương với giá thấp hơn giá trị là:
720c + 180c + (180m – 18m) = 1062
Tư bản thương nghiệp bán hàng hoá đúng giá trị là 1080 và thu được p thương nghiệp
là 18$
Việc phân phối giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và nhà tư bản thương nghiệp
diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh và thông qua chênh lệch
giữa giá cả sản xuất cuối cùng (giá bán lẻ thương nghiệp) và giá cả sản xuất công nghiệp ( giá
bán buôn công nghiệp)
b/ Tư bản cho vay và lợi tức cho vay
* Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản.
- Khái niệm: Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà người chủ của nó
cho người khác sử dụng trong thời gian nhất định để nhận được số tiền lời nào đó (gọi là
lợi tức).
- Công thức vận động: T – T’
- Sự hình thành tư bản cho vay là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ
đến một trình độ nhất định làm xuất hiện quan hệ cung - cầu tiền tệ.
Cung về tiền chính là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế: như tiền
trong quỹ khấu hao chưa đến thời kỳ đổi mới hoặc sửa chữa tư bản cố định;tiền lương chưa
đến kỳ trả; tiền mua nguyên vật liệu nhưng chưa mua...
Cầu về tiền là nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế như nhu cầu mở rộng sản xuất,
càn tiền đầu tư...nhưng lại không có tiền..
34
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- Đặc điểm của tư bản cho vay:
- Quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản.
- Tư bản cho vay là hàng hoá đặc biệt vì:
+ Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ mua quyền sử dụng trong một
thời gian nhất định.
+ Khi sử dụng, giá trị của nó không những không mất đi mà còn tăng lên.
+ Giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng của tư bản cho vay, do khả năng
tạo ra lợi tức của nó quyết định. Lợi tức chính là giá cả của hàng hóa tư bản cho vay.
- Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất. Công thức vận động của nó là T-T’, nên
nó gây ấn tượng “tiền sinh ra tiền”.
- Vai trò của tư bản cho vay: Góp phần vào việc tích tụ và tập trung tư bản, mở rộng
sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản, góp phần tăng tổng giá trị
thặng dư trong xã hội.
* Lợi tức và tỷ suất lợi tức
. Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả cho tư bản cho vay về
quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định (ký hiệu: z)
. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong
một thời gian nhất định ( ký hiệu là z’)
z
z’ = -------------- x 100%
k cho vay
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhụân bình quân và quan hệ cung - cầu về tư bản
cho vay.
Giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức là 0 < z’ < p’
c/ Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán
* Công ty cổ phần
- Một số khái niệm
- Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà vốn của nó hình thành từ việc liên kết nhiều tư
bản cá biệt và các nguồn tiết kiệm của cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.
35
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở hữu nó được quyền nhận
một phần thu nhập của công ty dưới hình thức lợi tức cổ phiếu (hay cổ tức). Cổ tức không cố
định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty cổ phần.
- Mệnh giá cổ phiếu là số tiền ghi trên cổ phiếu.
- Cổ phiếu được mua bán trên thị trường theo giá cả thị trường gọi là thị giá cổ phiếu. Thị
giá cổ phiếu phụ thuộc vào lợi tức cổ phiếu và tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng.
- Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Cổ đông được tham gia đại hội cổ đông.
- Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông bầu ra Ban quản trị và quyết định phương
hướng kinh doanh của công ty.
- Ngoài việc phát hành cổ phiếu, khi cần vốn cho hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần
còn phát hành trái phiếu.
+ Khác với cổ phiếu, trái phiếu mang lại cho người sở hữu nó một khoản lợi tức cố định
và đựơc hoàn trả lại vốn sau thời hạn ghi trên trái phiếu.
+ Người mua trái phiếu không được tham gia đại hội cổ đông.
- Vai trò của công ty cổ phần
+ Tư bản được tập trung nhanh chóng, làm xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ.
+ Tạo điều kiện cho sự di chuyển tư bản đầu tư.
+ Tăng tính linh hoạt và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
* Tư bản giả
- Khái niệm tư bản giả: là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng khoán có giá, nó mang lại
thu nhập cho người sở hữu chứng khoán.
Tư bản giả có hai loại chủ yếu là cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu do
công ty, ngân hàng hay nhà nước phát hành.
- Đặc điểm của tư bản giả:
+ Mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.
+ Có thể mua bán được.
+ Bản thân tư bản giả không có giá trị, sự vận động của nó hoàn toàn tách rời với sự vận
động của tư bản thật.
* Thị trường chứng khoán
- Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, tín
phiếu, văn tự cầm cố, các loại chứng chỉ quỹ đầu tư.
36
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
- Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán các loại chứng khoán có giá…thường
được thực hiện tại các sở giao dịch chứng khoán và một phần ở ngân hàng lớn.
Thị trường chứng khoán là thị trường rất nhạy cảm với các biến động về kinh tế, chính trị,
quân sự, xã hội…,là “phong vũ biểu” của nền kinh tế.
d/ Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa.
* Tư bản kinh doanh nông nghiệp
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp được hình thành qua hai con
đường:
Một là, thông qua cải cách chuyển dần kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo
phương thức tư bản chủ nghĩa.
Hai là, thông qua cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ kinh tế địa chủ phong kiến, phát triển
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là chế độ độc
quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Cả hai loại độc quyền này đã
ngăn cản tự do cạnh tranh trong nông nghiệp.
Về quan hệ xã hội đối với ruộng đất trong chủ nghĩa tư bản bao gồm ba giai cấp: địa chủ
(độc quyền sở hữu ruộng đất); tư bản kinh doanh nông nghiệp ( độc quyền kinh doanh ruộng
đất) và giai cấp công nhân nông nghiệp.
* Bản chất của địa tô TBCN.
Tư bản muốn kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và thuê công nhân
nông nghiệp để tiến hành sản xuất. Do đó, nhà tư bản phải trích một phần giá trị thặng dư do
công nhân tạo ra để trả cho chủ đất dưới hình thức địa tô.
* Địa tô TBCN là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản
đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà tư bản kinh doanh nông nghiệp
phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
* Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
- Địa tô chênh lệch
trong kinh doanh nông nghiệp có đặc điểm là ruộng đất có giới hạn, người ta phải gieo
trồng trên cả ruộng đất xấu nhất vì vậy giá cả sản xuất chung của hàng hoá nông sản được tính
dựa vào giá cả sản xuất của những hàng hóa nông sản được canh tác trên ruộng đất xấu nhất.
Do đó khi canh tác trên ruộng đất trung bình và tốt sẽ có khoản chênh lệch so với ruộng đất
xấu. Khoản này gọi là địa tô chênh lệch.
37
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
+ Khái niệm: Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân thu được trên những ruộng đấi có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch
giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và
giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. (Ký hiệu Rcl)
+ Có hai loại địa tô chênh lệch:
Địa tô chênh lệch I: là loại địa tô thu được trên ruộng đất có những điều kiện tự nhiên
thuận lợi, như độ màu mỡ của tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi…
Ví dụ:
Loại
ruộng
Tư bản
đầu tư
p’ Sản
lượng
(tạ)
Giá cả SX cá biệt Giá cả SX chung Địa tô
chênh
lệchcủa 1
tạ
của
tổng
SP
của 1
tạ
của
tổng
SP
Tốt 100 20 6 20 120 30 180 60
Trung
bình
100 20 5 24 120 30 150 30
Xấu 100 20 4 30 120 30 120 0
Địa tô chênh lệch II: là loại địa tô thu được gắn với thâm canh tăng năng suất, là kết quả
của sự đầu tư thêm tư bản trên cùng một đơn vị diện tích.
- Địa tô tuyệt đối: là loại địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tuyệt đối
phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất đó tốt hay xấu, ở xa hay gần.
. Khái niệm: Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình
quân, hình thành nên bởi chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất chung của nông
phẩm.
. Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp
. Nguyên nhân tồn tại địa tô tuyệt địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền sở hữu ruộng
đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hình thành lợi nhuận
bình quân.
- Địa tô độc quyền: là hình thức đặc biệt của địa tô tư bản chủ nghĩa, là lợi nhuận siêu
ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được ở vùng đất có tính chất đặc biệt cho phép
38
Bài giảng môn Nguyên lý cơ bản của CNMLN 2009
trồng cây đặc sản, khu đất thành phố, khu vực có mỏ quý…, mà nhà tư bản phải trả cho địa
chủ.
* Giá cả ruộng đất
Ruộng đất trong xã hội tư bản không chỉ cho thuê mà còn được mua bán.
Giá cả ruộng đất chính là hình thức địa tô tư bản hoá.
Giá cả ruộng đất không dựa trên cơ sở giá trị mà dựa trên cơ sở của địa tô./.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản? Vì sao nói: Hàng hóa
sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?
2. Phân tích căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và
tư bản khả biến; tư bản cố định và tư bản lưu động?
3. Vì sao nói quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất giữa hai
phương thức bóc lột giá trị thặng dư?
4. Vì sao nói: phạm trù lợi nhuận, lợi nhuận bình quân che dấu quan hệ bóc lột
tư bản chủ nghĩa.
5. Biểu hiện của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh?
39