Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

79
Mai Xuân Hoàn 2011 Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tƣ bản sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới. Trong bối cảnh quốc tế nhƣ vậy, quan hệ quốc tế dƣờng nhƣ đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hƣớng đa dạng hoá, đa phƣơng hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế, đƣợc ƣu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng và ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tƣơng đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nƣớc bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu đƣợc nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đƣờng lối đổi mới của Đảng, đƣờng lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lƣợc "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đƣa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. Những biến đổi to lớn trong nƣớc và thế giới trong những năm (1980 - 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam phải đƣa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đƣờng lối đổi

Transcript of Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Page 1: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào

khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ

phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc

cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các

quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tƣ bản sử dụng những thành

tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển.

Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để

phù hợp với tình hình mới.

Trong bối cảnh quốc tế nhƣ vậy, quan hệ quốc tế dƣờng nhƣ đã chuyển từ

đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hƣớng đa

dạng hoá, đa phƣơng hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc

lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế,

đƣợc ƣu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.

Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng và ASEAN là khu vực

phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tƣơng đối ổn định, đang trở

thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nƣớc bắt đầu từ năm

1986, Việt Nam đã thu đƣợc nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đƣờng

lối đổi mới của Đảng, đƣờng lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và

Nhà nƣớc Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lƣợc "diễn biến hoà

bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam

bảo vệ vững chắc tổ quốc và đƣa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.

Những biến đổi to lớn trong nƣớc và thế giới trong những năm (1980 -

1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc Việt

Nam phải đƣa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự

nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đƣờng lối đổi

Page 2: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

2

mới đất nƣớc và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn

đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính

sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp

dẫn đã tranh thủ đƣợc các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt

Nam.

Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế

giới mới đầy biến động đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu xây dựng và phát triển

đất nƣớc. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời

đại. Nên đã thu đƣợc những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp

phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế,

đƣa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh

đạo của Đảng, khẳng định tƣ duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm

trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xƣớng và lãnh đạo công cuộc đổi mới

từ năm 1986 đến nay, đổi mới tƣ duy đối ngoại, đƣờng lối đối ngoại đổi mới

đƣợc công bố tại diễn đàn Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX đã khẳng định

sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định và thực hiện đƣờng lối

đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986 - 2004 thể

hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và đƣợc nâng lên

tầm cao mới vì vậy tôi chọn đề tài "Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2004)" nhằm làm rõ những quyết sách

đúng đắn sáng tạo của Đảng sau gần 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn cập nhật những vấn đề lý luận đặt ra hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu

Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2004) trở

thành chủ đề hấp dẫn nhiều giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên cho

đến nay những công trình chuyên khảo, luận văn về vấn đề này hầu nhƣ chƣa

có.

Page 3: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

3

Hiện tại có một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà

nƣớc, Bộ ngoại giao, Cục đối ngoại, Bộ quốc phòng, Viện quan hệ quốc tế đề

cập đến vấn đề này gồm những bài sau đây:

“Nền ngoại giao đổi mới” của Thủ tƣớng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn

báo quan hệ quốc tế đầu xuân 1994.

"Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nƣớc Cộng hoà Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam" và "Việt Nam trên đƣờng triển khai chính sách đối

ngoại theo định hƣớng mới" của Nguyễn Mạnh Cầm Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ

trƣởng Bộ ngoại giao, trƣởng ban chỉ đạo Nhà nƣớc về biển Đông và các Hải

đảo.

"Tiến tới xây dựng lý luận ngoại giao Việt Nam" của Đinh Nho Liêm

nhân kỷ niệm 48 năm ngày thành lập nƣớc Việt Nam.

"Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VIII" của Vũ Khoan thứ trƣởng Bộ

ngoại giao đăng trong tạp chí quốc tế.

“Cục diện thế giới, vận nƣớc” của thứ trƣởng Bộ ngoại giao Trần Quang

Cơ, đăng trong tạp chí quan hệ quốc tế 1 - 1992 và "Thế giới sau chiến tranh

lạnh", "quan hệ Việt Nam và các nƣớc Châu Á - Thái Bình Dƣơng" tham luận

tại Hội nghị về những thách thức đối với công cuộc tái thiết của Việt Nam và

các vấn đề trong nƣớc và quốc tế do trung tâm Đông - Tây tổ chức tại Mỹ từ

ngày 21 - 22/1992.

"Hãy nhìn quan hệ Việt Mỹ" của thứ trƣởng ngoại giao Lê Mai phát biểu

trƣớc hội đồng đối ngoại Mỹ tại NewYord 7/9/1990.

"Dân tộc, thời đại, thời cơ và thách thức" của Trần Quang Cơ trả lời Tạp

chí thông tin lý luận 1/1991.

Những bài trong hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam 8/1925

nhƣ "kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong thời kỳ đổi mới"

của Vũ Xuân Vinh cục trƣởng cục đối ngoại Bộ Quốc phòng.

Page 4: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

4

"suy nghĩ về chính sách của ta với các nƣớc ASEAN và đối với Mỹ " của

Trịnh Xuân Lãng đại sự vụ trƣởng - Trƣởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp

Quốc.

"Sáng tạo ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh" của Nguyễn Song

Tùng phó ban đối ngoại Trung ƣơng.

"Ngoại giao nhân dân trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ

và hiện nay" của Nguyễn Quang Tạo, chủ tịch liên hiệp các Hội hữu nghị Việt

Nam với các nƣớc

Nhìn chung các bài nói, các bài viết nêu lên trên đã trình bày những nét cơ

bản, đặc trƣng sự biến động trong nƣớc và quốc tế. Những trở ngại trong quan

hệ quốc tế hiện tại, quan hệ Việt Nam với một số nƣớc trong cộng đồng thế giới,

đặc biệt là chính sách đối ngoại của Việt Nam đã có tác dụng trong tiến trình

thúc đẩy ổn định hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển với cộng đồng

quốc tế và trình bày rõ vấn đề đối ngoại, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam với

các nƣớc trên thế giới.

Ngoài những bài viết của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà

nƣớc là bài viết của các nhà nghiên cứu trên một số tạp chí và một số đề tài khoa

học có sự nghiên cứu phối hợp của các cơ quan nhƣ:

"Chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay" của Viện Quan hệ Quốc tế và Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin

và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh 1995 - 1996.

"Chiến lƣợc của Mỹ đối với Việt Nam và quan hệ Việt Mỹ" từ 1975 đến

nay của Hồ Xuân Đệ Bộ Ngoại giao nói tại Viện Lịch sử Đảng Học viện Chính

trị Quốc Gia Hồ Chí Minh 1/1997.

"Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của

Viện Quốc tế và Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

6/1993.

"Tình hình Campuchia và triển vọng cả Đông Nam Á" của Thu Nga đăng

trong Tạp chí Cộng sản 11/1999.

Page 5: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

5

"Lịch sử thế giới và việc chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nƣớc" của

Nguyễn Quốc Hùng nghiên cứu lịch sử Đảng 5/1991.

"Chính sách đa dạng hóa" của Nguyễn Ngọc Trƣờng đăng trong tuần báo

quốc tế 19/5/1994.

"Thử nhìn lại chặng đƣờng ngoại giao Việt Nam từ 1975" của Thu Nga

5/1994 v.v…

Nhìn chung các tác giả, các tổng quan của đề tài đã từ nhiều cách tiếp cận

khác, đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới. Chính sách đối ngoại

của các quốc gia trƣớc những biến động có tính bƣớc ngoặt lịch sử, đồng thời

chỉ rõ những đặc trƣng tính chất toàn cầu đã và đang tác động đến tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc Việt Nam.

Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi

mới (1986 - 2004), một cách có hệ thống cả về đƣờng lối và kết quả thực hiện

một cách toàn diện thì chƣa có công trình nào đề cập trực tiếp đến thời điểm

này.

3. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu

Nguồn tƣ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tác

giả dựa trên các nguồn tƣ liệu chính sau đây:

- Một số sách kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin và Tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh và một số sách lý luận của các nhà lãnh đạo Đảng - Nhà nƣớc Việt Nam.

- Văn kiện, Nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc

biệt chú trọng khai thác các văn kiện nghị quyết của Trung Ƣơng và Bộ Chính

trị giữa 4 nhiệm kỳ Đại hội VI - VII - VIII - IX (nhất là Nghị quyết lần thứ 8

Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI 27/3/1990, Tổng

Bí thƣ Nguyễn Văn Linh đã ký) với một số sách, bài nói, bài viết phối hợp

nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

- Một số văn bản pháp luật nhƣ: Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam

1987; Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nƣớc ngoài tại Việt Nam 1988; Hiến

pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

Page 6: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

6

- Kế thừa những tƣ liệu đƣợc công bố qua các công trình của một số tác

giả đã công bố. Ngoài ra chú ý khai thác từ nguồn tƣ liệu của thông tấn xã Việt

Nam … Viết về ngoại giao Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội một số

nƣớc Đông Nam Á, các nƣớc láng giềng, âm mƣu của Mỹ đối với Đông Dƣơng

quan hệ Việt - Mỹ đặc biệt là tình hình các nƣớc xã hội chủ nghĩa từ sau khi sự

kiện Liên Xô sụp đổ.

* Phương pháp nghiên cứu

Theo phƣơng pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phƣơng pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và kết

hợp chặt chẽ các phƣơng pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật

những thắng lợi trong đƣờng lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm qua.

4. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận

- Khoá luận có mục đích:

Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đƣờng lối đổi mới

toàn diện đất nƣớc của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính

trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách

đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập với cộng

đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.

- Từ mục đích đó khoá luận có nhiệm vụ:

+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo

đƣờng lối đổi mới

+ Trình bày các giai đoạn phát triển của đƣờng lối đối ngoại đổi mới, cái

mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.

+ Thông qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ

trƣơng "độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phƣơng hoá" quan hệ quốc tế là quyết

sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bƣớc đầu nêu lên những kinh nghiệm

thực hiện chính sách đối ngoại từ năm 1986 - 2004.

5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài

Page 7: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

7

Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới

những vấn đề sau.

- Thời gian và không gian khoá luận đề cập là từ năm (1986 - 2004) ở

Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm

đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nƣớc và đáp ứng xu thế thời đại.

- Nội dung: Thông qua những phân tích biến chuyển của tình hình trong

nƣớc, thế giới, khái quát có hệ thống sự chuyển biến, sự phát triển chính sách

đối ngoại của Đảng - Nhà nƣớc tiến hành xây dựng kết hợp bảo vệ chủ quyền

quốc gia và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong thời kỳ mới.

6. Đóng góp của khoá luận

- Trình bày hệ thống cơ sở hình thành và nội dung đƣờng lối chính sách

đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới.

- Khẳng định vai trò, tác dụng của chính sách đối ngoại với công cuộc đổi

mới trên toàn diện đời sống, kinh tế chính trị, văn hoá xã hội và quan hệ đa dạng

hoá, đa phƣơng hoá của nƣớc ta với các nƣớc trong khu vực và thế giới.

- Một số bài học kinh nghiệm chung nhất hoạch định đƣờng lối chính sách

đối ngoại của Đảng, góp thêm tiếng nói với việc nghiên cứu điều chỉnh trong

hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng.

7. Kết cấu của khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận

gồm ba chƣơng:

Chương I: Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế là đòi hỏi khách quan của đất nước và xu thế chung của thế giới

Chương II: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mở rộng các

quan hệ đối ngoại

Chương III: Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế trong thời gian tới

Page 8: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

8

CHƢƠNG I

MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ

XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI

I. NỀN TẢNG CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ

CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUÔC TẾ

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của

chính sách đối ngoại

Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính

sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đƣờng lối chính trị và chính sách của

mọi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu của học thuyết là “Vô sản toàn thế giới và các

dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải

phóng con ngƣời. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế. Giai

cấp công nhân sẽ không tự giải phóng mình nếu không giải phóng toàn xã hội.

Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị Lênin dạy

rằng đƣờng lối đối ngoại của các nƣớc xã hội chủ nghĩa phải nhằm "thiết lập

những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ đƣợc các đế

quốc chủ nghĩa"(1)

và tập hợp đƣợc những điều kiện thuận lợi nhất cho "việc

phát triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa"(2)

.

Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc

thì tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh

thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nƣớc nhằm xây dựng thực

lực của đất nƣớc, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những

vấn đề quốc tế chung.

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, về

chiến lƣợc, sách lƣợc của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ

thống quan điểm đó đƣợc thể hiện ở những nội dung. Mục tiêu đối ngoại, tập

(1) V.I.Lênin. Toà n tập.NXB ST, Hà Nội 1969, Tập 3 trang 589

(2) V.I.Lênin Toà n tập, NBX Sự thật, Hà Nội 1963, tập 11 trang 507

Page 9: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

9

hợp và mở rộng lực lƣợng, các phƣơng châm đối ngoại, phƣơng pháp và nghệ

thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân

tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản nhƣ: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc

gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nƣớc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đièu

đó đƣợc khẳng định trong tuyên ngôn độc lập của Nhà nƣớc Việt Nam mới:

"Nƣớc Việt Nam có quyền đƣợc hƣởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam

quyết đem tất cả tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền

tự do và độc lập ấy"(1)

. Thông qua Tuyên ngôn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan

hệ chính trị quốc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyền

quyết định đƣờng lối đối ngoại của dân tộc mình.

Đấu tranh cho hoà bình và cùng tồn tại cho hoà bình là một nội dung quan

trọng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Ngƣời nhấn mạnh nguyện vọng

của dân tộc Việt Nam là mong muốn một nền hoà bình công lý.

Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình, trong đó phải là hoà bình

thực sự, trong độc lập tự do, chứ không phải là thứ hoà bình giả hiệu.

Trong khi ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu đối ngoại của dân tộc, Hồ

Chí Minh rất tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia dân tộc khác. Phát

biểu nhân dịp Quốc khánh lần thứ 10 của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà,

ngày 2/9/1955 Hồ Chí Minh tuyên bố rõ ràng: "Trong quan hệ đối với các nƣớc

khác, chính sách của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà là rõ ràng và trong sáng

đó là một chính sách hoà bình và quan hệ tốt… tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và

chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào công việc nội bộ,

bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hoà bình" (2)

Giữ vững mục tiêu và nguyên tắc, đồng thời sẵn sàng thực hiện chính

sách đối ngoại mở rộng là nét độc đáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Ngay từ

(1) Hồ Chí Minh toà n tập NBX CTQG Hà Nội, 1995, tập 9, trang 9

(2) Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập 8, trang 58

Page 10: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

10

năm 1946, trong lời kêu gọi Liên Hợp Quốc, Ngƣời đã nêu rõ chính sách đối

ngoại của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà: Đối với các nƣớc dân chủ, Việt

Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, dành sự

tiếp nhận thuận lợi, cho đầu tƣ của các nhà tƣ bản, nhà kỹ thuật nƣớc ngoài

trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình, sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và

đƣờng xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế, chấp nhận tham gia

mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dƣới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc, sẵn

sàng ký kết với các lực lƣợng hải quan, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp

quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ƣớc liên quan.

Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lƣợng. Xác định đối ngoại là một mặt

trận, Hồ Chí Minh chủ trƣơng mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc, tranh thủ

mọi lực lƣợng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.

Ngƣời cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối

đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất

nƣớc. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trƣơng mở rộng các lực lƣợng theo

phƣơng châm "thêm bầu bạn, bớt kẻ thù", tránh đối đầu "không gây thù oán" với

bất cứ nƣớc nào; khai thác những điểm tƣơng đồng và mọi khả năng có thể nhắp

tập hợp lực lƣợng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng

rãi và sâu sắc nhất.

Hồ Chí Minh là ngƣời Việt Nam đầu tiên nhận thức đƣợc tầm quan trọng

và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế

giới. Trong tác phẩm Đƣờng cách mệnh (năm 1927), chủ tịc Hồ Chí Minh (khi

đó với tên gọi Nguyễn Ái Quốc) đã xác định: "Cách mệnh An Nam, cũng là một

bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng

chí của dân An Nam" (1)

. Đây chính là cơ sở để xác lập tình hữu nghị, đoàn kết,

hợp tác với nhân dân các nƣớc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

tạo nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

(1) Hồ Chí Minh, Toà n tập, NXB CTQG Hà Nội 1995, tập 2, trang 301

Page 11: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

11

Để thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, tập hợp các lực

lƣợng đoàn kết với Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân

dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân

ta, muốn tăng cƣờng đoàn kết phải thông qua đấu tranh, vì đoàn kết mà phải đấu

tranh.

Thứ ba, về phƣơng châm đối ngoại và phƣơng pháp đấu tranh ngoại giao.

Nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cƣờng, Ngƣời nói: "Độc lập

nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc cảu chúng tôi, không có sự can

thiệp ở ngoài vào" (1)

. Điều đó có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch

ra đƣờng lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và

phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế của thời đại. Tuy nhiên,

Ngƣời cũng nhấn mạnh rằng không thể hạn chế những hoạt động đó trong

khuôn khổ dân tộc thuần tuý, bởi những hoạt động đó "có muôn ngàn sợi dây

liên hệ" với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.

Trong chỉ đạo, thực tiễn, Hồ Chí Minh thƣờng xuyên căn dặn cán bộ phải

giữ vững lập trƣờng, vững vàng, khôn khéo, chủ động, tích cực, tự lực cánh

sinh; trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh coi yếu tố quốc tế có ý

nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng nhƣng yếu tố độc lập, tự chủ, tự

lực, tự cƣờng luôn giữ vai trò quyết định mọi thắng lợi.

Ngƣời viết: "sự giúp đỡ của các nƣớc bạn là quan trọng, nhƣng không

đƣợc ỷ lại… Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác

giúp đỡ thì không xứng đáng đƣợc độc lập(2)

Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ ngoại giao phải nắm vững phƣơng châm

kiên trì về nguyên tắc, giữ vững chiến lƣợc, nhƣng mềm dẻo, linh hoạt về sách

lƣợc. Ngƣời nói: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất,

(1) Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội 1995, tập 5, trang 552 (2)Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập 7, trang 319

Page 12: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

12

độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhƣng sách lƣợc của ta

thì linh hoạt" (3)

Đối ngoại là một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lƣợc. Trong hoạt

động đối ngoại phải luôn thể hiện chiến đấu cao và tinh thần "kiên quyết không

ngừng thế tiến công", nhƣng phải biết chọn thời cơ để giành thắng lợi từng

bƣớc, giành thắng lợi từng bộ phận. Để tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp của đất

nƣớc, hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao

chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá…

Là một nhà ngoại giao lỗi lạc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau

những bài học vô cùng quý giá về phong cách của một ngƣời làm công tác đối

ngoại. Những tƣ tƣởng này là kim chỉ nam dẫn đƣờng cho việc hoạch định và

thực thi chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc chính sách đối ngoại mới của

Việt Nam sẽ không thể thành công nếu không biết kế tục và phát huy những giá

trị vƣợt thời gian của những quan điểm này.

2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc

Ngoại giao truyền thống Việt Nam là nền ngoại giao truyền thống có bản

sắc. Đó là những đặc trƣng ổn định và bền vững, có nguồn gốc xuất sứ từ bản

sắc dân tộc và văn hoá dân tộc Việt Nam, đồng thời là kết quả của hoạt động

giao lƣu quốc tế của Đại Việt với các nƣớc láng giềng, của quá trình đấu tranh

bảo vệ chủ quyền dân tộc và phục vụ công cuộc xây dựng đất nƣớc, phát triển

quốc gia - dân tộc.

Đặc trƣng ngoại giao truyền thống Việt Nam có thể gói gọn: hoà hiếu,

nhu viễn, “trong đế ngoài vƣơng”.

Trƣớc tiên, nhân dân Việt Nam luôn có ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền,

toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nền ngoại giao nhu viễn xem trọng việc giữ ging

hoà khí, khiêm nhƣờng với các nƣớc lớn, hữu nghị với các nƣớc lân bang, phấn

đấu cho sự thái hoà.

(3)Hồ Chí Minh, toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập, trang 319

Page 13: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

13

Yêu chuộng hoà bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi

kiên trì lập trƣờng nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ

quốc gia, chống lại ngoại giao xâm lƣợc của đối phƣơng, Đại Việt kiên trì

đƣờng lối hoà bình trong quan hệ ngoại giao với các nƣớc láng giềng.

Khi quân Tống tiến công Đại Việt bị chặn đánh quyết liệt trên phòng

tuyến sông Cầu, quân lƣơng khó khăn, binh sĩ không chịu đƣợc lạm chƣớng…

Biết quân địch ở thế tiến thoái lƣỡng nan, Lý Thƣờng Kiệt dùng “ biện sĩ bàn

hoà”, nêu ra những đề nghị hoà bình hấp dẫn đối với tƣờng giặc Quách Quỳ, tạo

điều kiện cho quân Tống rút về nƣớc. Liền đó, Vua Lý cử sứ thần sang triều

cống và mở giao hiếu giữa hai nƣớc.

Thời nhà Trần, sau khi đánh bại cuộc xâm lƣợc lần thứ nhất của Nguyên

Mông năm 1258, vua Trần cử sứ thần sang hoà giải với Nguyên Mông, chịu

xƣng thần, hai năm cống một lần. Cuộc đấu tranh ngoại giao diễn ra quyết liệt,

khi nhu khi cƣơng, mặt khác biết vận dụng đối trọng trong quan hệ giữa Mông

Cổ và Nam Tống, đã kéo dài thời gian hoà hoã đƣợc 27 năm.

Vua Nguyên sau thất bại của cuộc xâm lƣợc Đại Việt lần thứ ba năm 1288

vẫn có ý phục thù. Trong 30 năm sau chiến tranh, hầu nhƣ hai năm một lần, Đại

Việt cử sứ thần sang Yên Kinh thăm viếng, triều cống, xây dựng quan hệ bang

giao thân thiện. Tƣ tƣởng hoà bình đƣợc thể hiện rõ nét trong bài thơ “Đi sứ

phƣơng Bắc, ngủ đêm ở trạm Khâu Ôn” của Nguyễn Trung Ngạn làm khi đi sứ

sang Nguyên Mông:

“Kéo hết sông Thiên Hà xuống rửa sạch giáp binh

Triều đình không có ý đeo đuổi việc chinh chiến ở miền Tây”

Hoà hiếu là tƣ tƣởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt. Nhà sử học Phan

Huy Chú đúc kết lịch sử bang giao của đất nƣớc đã nhấn mạnh: “Trong việc trị

nƣớc, hoà hiếu với láng giềng là việc lớn”. Tinh thần ấy đã đƣợc Nguyễn Trãi

nêu bật trong “Phú núi Chí Linh”, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

quân Minh:

“Nghĩ đến kế lâu dài của đất nước

Page 14: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

14

Thả cho về mười vạn tù binh

Nối hai nước tình hoà hiếu

Tắt muôn đời lửa chiến tranh;

Đất nước vạn toàn là thượng sách

Cốt sao cho dân được an ninh”

Làm thơ khi đi sứ hoặc tiếp sứ là một nét đẹp của ngoại giao Đại Việt.

Nhiều bài thơ mà các sứ thần làm trong hành trình đƣờng xa vạn dặm lên phía

Bắc thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hoá, tình hữu nghị và thiện cảm

đối với đất nƣớc và nhân dân Trung Hoa.

Cùng với các thắng lợi trên mặt trận quân sự, việc thực hiện nhất quán tƣ

tƣởng hoà hiếu với các nƣớc láng giềng đã góp phần quan trọng vào việc làm

cho Việt Nam vƣợt qua đƣợc các cuộc xâm lăng thƣờng xuyên từ phía Bắc và từ

phía Nam, bảo tồn và phát triển cƣơng vực, lãnh thổ quốc gia.

Ngoại giao Việt Nam thấm nhuần tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân

văn. Tuy là nạn nhân của các cuộc chiến tranh xâm lƣợc tàn khốc, ngƣời Việt

Nam vẫn giàu lòng nhân ái, khoan dung đối với những kẻ địch đã bị đánh bại.

Điều đó có cội nguồn từ lý tƣởng nhân nghĩa của dân tộc, biết đứng trên nghĩa

lớn khi buộc phải đƣơng đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo.

Đồng thời, nó cũng xuất phát với tầm nhìn sâu xa trong quan hệ bang giao

với các nƣớc láng giềng có chung biên giới, xem trọng sự hoà mục, đƣợc Trần

Hƣng Đạo nêu trong lời Di Chúc: “Hoà mục có công hiệu lớn cho cuộc trị an.

Hoà ở trong nƣớc thì ít dụng binh; hoà ở ngoài biên thì không sợ có báo động”;

“Hoà mục là một đạo rất hay cho việc trị nƣớc, hành binh, không bao giờ đổi

đƣợc”. Trong “Binh thƣ yếu lƣợc”, Hƣng Đạo Vƣơng tuy nói về việc dùng binh

mà còn hàm ý về thái hoà: Bặc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không có thành,

công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng nhƣ mƣa rơi ở

trên không, dựng nên cuộc đời vô sự.

Phan Huy Chú nhận xét trong “Lịch triều hiến chƣơng loại trí ”: Nƣớc

Việt ta có cả cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nuôi dân dựng

Page 15: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

15

nƣớc có quy mô riêng, nhƣng ở trong thì xƣng đế ở ngoài thì xƣng vƣơng.

“Trong đế ngoài vƣơng” là một đặc trƣng nổi bật của ngoại giao truyền thống

Việt Nam. đó là sự nhún nhƣờng để giữ độc lập. Khi bị xâm lƣợc thì kiên quyết

kháng chiến với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, nhƣng hết sức chú ý vấn đề

thể diện nƣớc lớn và giữ gìn hoà hiếu.

Ngoại giao Đại Việt cũng luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Phẩm

chất tiêu biểu của sứ thần là trí dũng song toàn, giữ gìn quốc thể. Ngƣời đi sứ

luôn thấu triệt phƣơng châm “đi sƣ bốn phƣơng, không làm nhục mệnh vua”.

Mạc Đĩnh Chi thời trần đi sứ sang nhà Nguyên. Khi sứ thần nƣớc Nam vào yết

kiến, vua Nguyên ra vế đối: “Nhật hoả, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ”

(nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng). Ra vế đối

này, vua Nguyên tự xem mình là mặt trời, coi nƣớc Nam nhƣ mặt trăng. Ý nói

nƣớc Nam sẽ bị nhà Nguyên thôn tính. Mạc Đĩnh Chi đối lại: “Nguyệt cung,

tinh đạn, hoang hôn xa mặc kim ô” (nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối

bắn rơi mặt trời ). Nhƣ vậy, mặt trăng có thể thắng mặt trời.

Đỗ Khắc Trung vào trại giặc thực hiện kế hoà hoãn giữa lúc thế giặc

đang hăng vẫn không bị uy lực áp chế, sắc mặt tự nhiên, ứng đối bình tĩnh.

Nguyễn Trãi năm lần vào thành Đông Quan, giữa đại quân của địch thực hiện

ngoại giao tâm công, tìm kiếm giải pháp hoà bình cho cả đôi bên, làm cho

“thành giặc các nơi, không đổ máu mà mở cửa dâng hoài” (Phú núi Chí Linh).

Nguyễn Biểu đi sứ, chủ soái giặc bày cỗ đầu ngƣời để uy hiếp, vẫn ứng phó tự

tin, bị giặc tìm cách giết hại vẫn giữ tròn khí tiết…

II. ĐÒI HỎI BỨC THIẾT CỦA TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ XU THẾ

CỦA THẾ GIỚI

1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước

Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nƣớc đã giành đƣợc thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn. Đất

nƣớc ta hoàn toàn độc lập thống nhất và bƣớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên

độc lập tự do và định hƣớng đi lên xã hội chủ nghĩa.

Page 16: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

16

Trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi là: có

Đảng lãnh đạo, một Đảng đƣợc tôi luyện, thử thách trƣởng thành trong quá trình

đấu tranh cách mạng; có Nhà nƣớc của nhân dân và khối liên minh công nông.

Sau ngày thống nhất đất nƣớc, uy tín của Việt Nam đƣợc nâng cao trên trƣờng

quốc tế. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để giao lƣu hợp tác quốc tế, thuận lợi

cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhân dân Việt Nam có truyền thống đoàn

kết trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, cũng nhƣ trong lao động sản xuất. Đồng thời

Việt Nam có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, cũng nhƣ

trong lao động sản xuất. Đồng thời Việt Nam còn có kinh nghiệm từ quá trình

xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn 20 năm ở miền Bắc.

Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam còn vô vàn khó khăn, chiến tranh đã

tàn phá hầu hết các công trình thủy lợi, trƣờng học, bệnh viện, cơ sở hạ tầng.

Hòa bình chƣa đƣợc bao lâu, đất nƣớc phải đối phó với cuộc chiến tranh biên

giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc, trong khi đó các thế lực thù địch tiến hành

cuộc chiến phá hoại nhiều mặt; đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh hoạt động bao vây

cấm vận ngăn cản sự phát triển hòng làm giảm uy tín Việt Nam.

Về xây dựng đất nƣớc: mô hình kinh tế đƣợc xây dựng trong thời chiến

không còn phù hợp với tình hình mới, nay bộc lộ những yếu kém. Nền kinh tế

tăng trƣởng thấp đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn; trật tự, kỷ cƣơng phép

nƣớc lỏng lẻo, tệ nạn quan liêu, tiêu cực xã hội và tham nhũng ngày một tăng.

Sản xuất bị đình đốn, lƣu thông phân phối rối ren, những sai lầm trong việc giải

quyết giá lƣơng tiền đã dẫn đến lạm phát phi mã ở mức 774,72% năm 1986.

Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội. Niềm tin của quần chúng nhân

dân vào Đảng, Nhà nƣớc và chế độ bị giảm sút, uy tín Việt Nam trên trƣờng

quốc tế bị giảm nhiều.

Trƣớc bối cảnh thế giới và trong nƣớc nhƣ vậy Việt Nam phải tìm ra giải

pháp phù hợp để thoát ra cuộc khủng khoảng. Để tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ

chiến lƣợc là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ tổ quốc. Đại hội đại

Page 17: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

17

biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 của Đảng đã họp nghiêm khắc kiểm

điểm về những sai lầm khuyết điểm và tìm nguyên nhân, biện pháp khắc phục.

Với tƣ duy nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nghiêm khắc trƣớc

những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của mình; Trong Văn kiện

Đại hội ghi rõ: “những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội,

bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tƣ tƣởng, tổ chức và công tác

cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân"(1)

Trên cơ sở tƣ duy đổi mới Đảng ta lựa chọn con đƣờng đổi mới sâu sắc,

toàn diện, triệt để và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.

Trƣớc hết về kinh tế Đảng chủ trƣơng nhằm xây dựng một nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc.

Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc, chính sách đối ngoại của Việt

Nam cũng phải có những điều chỉnh trong chiến lƣợc và sách lƣợc.

Một chính sách đúng đắn là sự khởi nguồn tốt đẹp cho sự phát triển đất

nƣớc. Vì vậy để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan khoa học, sáng tạo cao nhất

trong việc hoạch định các chính sách. Đặc biệt là chính sách đối ngoại phải dựa

trên quan điểm lịch sử cụ thể, vừa kế thừa truyền thống ngoại giao cha ông, vừa

kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời đại mới. Kết hợp

nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả của

giai cấp công nhân, để phục vụ hữu hiệu nhất sự phát triển nƣớc mình, tức là

công tác đối ngoại phải phục vụ chính sách đối nội.

2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực diễn

biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, có những đột biến lớn làm thay đổi cục diện

kinh tế, chính trị thế giới, đặt ra cho các nƣớc, các dân tộc nhiều vấn đề mới bao

gồm những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách

thức không nhỏ.

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trang 27.

Page 18: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

18

Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát

triển mạnh mẽ, tác động toàn diện đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới.

Tình hình chính trị thế giới có những biến động to lớn. Kể từ đầu thập kỷ

90, thế giới bƣớc vào thời kỳ quá độ, từ trật tự thế giới cũ sang hình thành một

trật tự thế giới mới. Sự sụp đổ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và

Liên Xô (1991), sự tan ra của Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho cục diện thế

giới có sự thay đổi căn bản. Trật tự thế giới hai cực tồn tại trong suốt nửa thế kỷ

từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 chấm dứt. Lực lƣợng trên thế giới thay đổi

từ chỗ tƣơng đối cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội chuyển sang

hƣớng có lợi cho Mỹ và các nƣớc tƣ bản phát triển, bất lợ cho phong trào cách

mạng tiến bộ trên thế giới.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng tác động không nhỏ đến cán cân so sánh

lực lƣợng của thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh, trở thành một thách thức mới

đối với Mỹ là một nƣớc lớn với số dân trên 1 tỷ ngƣời. Trung Quốc đã đạt

những thành tựu to lớn trong kinh tế bằng cải cách kinh tế và chính sách mở

cửa. Trung Quốc nuôi hy vọng sẽ vƣợt Mỹ, Nhật Bản về quy mô kinh tế, trở

thành "anh cả" trong nền kinh tế thế giới và thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Trung

Quốc.

Tình hình kinh tế quốc tế diễn ra những biến động lớn với những xu

hƣớng cơ bản sau.

Ƣu tiên phát triển kinh tế trở thành một trong những xu hƣớng chung của

mọi quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, các nƣớc trên thế giới

chịu sự chi phối của cuộc đối đầu Đông-Tây với cuộc chạy đua vũ trang quyết

liệt giữa 2 siêu cƣờng Liên Xô và Mỹ. Tuy không phủ nhận vai trò của kinh tế,

song về cơ bản, sức mạnh chính trị và quân sự trong thời kỳ này trở thành nhân

tố chủ yếu đảm bảo vị trí siêu cƣờng của một quốc gia. Chiến tranh lạnh kết thúc

xu thế hoà hoãn trong quan hệ quốc tế trở thành xu thế chủ đạo, cuộc chạy đua

về kinh tế giữa các nƣớc trên thế giới đang thay thế cho cuộc chạy đua vũ trang.

Tất cả các nƣớc trên thế giới đều điều chỉnh đƣờng lối, tập trung sức phát triển

Page 19: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

19

kinh tế - xã hội, cố gắng ổn định chính trị, củng cố sức mạnh quốc gia, đồng thời

mở rộng đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ, tăng cƣờng hợp tác quốc tế nhằm

phục vụ sự phát triển đất nƣớc.

Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi

quốc gia, đảm bảo vai trò, vị trí của quốc gia đó trong đời sống quốc tế nƣớc Mỹ

- cƣờng quốc kinh tế số một thế giới nhƣng năm sau chiến tranh lạnh cũng buộc

phải giảm bớt những cam kết với bên ngoài để tập trung sức mạnh thực hiện

mục tiêu chấn hƣng kinh tế ở trong nƣớc.

Xu hƣớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra

mạnh mẽ và trở thành phổ biến. Điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới những

năm gần đây là xu hƣớng liên kết kinh tế khu vực. Xu hƣớng này nảy sinh từ

cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế gay gắt mang tính toàn cầu cũng nhƣ từ sự

tập hợp lực lƣợng trong quá trình hình thành trật tự thế giới thời kỳ sau chiến

tranh lạnh. Các nƣớc láng giềng đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực, nhất là

trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học -công nghệ

đang diễn ra mạnh mẽ và cùng với nó là xu hƣớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế

giới mà lợi thế thuộc về các nƣớc công nghiệp phát triển, các trung tâm kinh tế

tƣ bản chủ nghĩa. Các nƣớc vừa và nhỏ có nhu cầu hợp lực với nhau để đối phó

có hiệu quả trƣớc các chính sách bảo vệ mậu dịch, chính sách can thiệp hoặc gây

sức ép về kinh tế các trung tâm kinh tế thế giới. Đây chính là động lực quan

trọng thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết, nhất thể hoá nền kinh tế khu vực.

Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế do sự sụp đổ của các nƣớc xã

hội chủ nghĩa ở Đông Âu nhất là ở Liên Xô, bị khủng hoảng sâu sắc về lý luận,

đƣờng lối, tổ chức và phƣơng thức hoạt động, ở khu vực tƣ bản chủ nghĩa, các

Đảng cộng sản và công nhân đang phải đấu tranh trong những hoàn cảnh hết sức

khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tƣ sản ra sức tấn công vào Đảng, nhất

là trên lĩnh vực tƣ tƣởng. Một số Đảng khủng hoảng về tƣ tƣởng, đƣờng lối tan

rã về tổ chức dần dần mất chính quyền.

Page 20: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

20

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, đặc biệt là Đông Nam Á, từ cuối

thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 là một khu vực phát triển năng động, nơi tập trung các

nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Các nƣớc công nghiệp mới (NIC) và

ASEAN đã luôn giữ đƣợc tỷ lệ tăng trƣởng 6 - 8%. Đặc biệt nền kinh tế Trung

Quốc phát triển nhanh nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trƣởng lên tới 9,5% trong suốt

thời kỳ từ 1978 đến 1996. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trƣởng cao

hàng đầu trên thế giới; một số quốc gia và vùng lãnh thổ vƣơn lên trở thành

những "con rồng", "con hổ mới" về kinh tế . Đa số các nƣớc trong khu vực đều

có nguyện vọng cùng tồn tài hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đều đặt ƣu

tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và thực hiện chính sách kinh tế và đối ngoại

nhằm phục vụ mục tiêu bao trùm này.

Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ các nƣớc trong khu vực đối với công

nghiệp hóa và hiện đại hóa, chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác khu vực là

nét nổi bật của các nền kinh tế ở khu vực, từ những nền kinh tế phát triển đến

những nƣớc ASEAN trong đó có Việt Nam. Những cơ chế hợp tác khu vực

trong lĩnh vực kinh tế, tài chính còn khiêm tốn, nhƣng ngày càng có vai trò tích

cực thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nƣớc và góp phần cho sự phát triển kinh tế

năng động trong khu vực. Sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của các chƣơng

trình hợp tác nhƣ tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC),

khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á

(SAARC), Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ La Tinh (FELAC).

Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều muốn mở rộng thị trƣờng, phối

hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và nguồn tài nguyên sẵn có để

hợp tác cùng phát triển.

Tuy vậy, vào cuối năm 90 của thế kỷ XX, các nƣớc Đông Á lâm vào

khủng hoàng tài chính tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm

trọng, gây nhiều bất lợi cho các nƣớc trong khu vực. Môi trƣờng hòa bình, ổn

định, phát triển của khu vực chƣa thật vững chắc, vẫn còn tiềm ẩn một số nhân

tố có thể gây mất ổn định. Nội bộ một số nƣớc và giữa các nƣớc với nhau, còn

Page 21: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

21

tồn tại mâu thuẫn, xung đột về chính trị, sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, xã hội, biên

giới trên đất liền, hải đảo và trên biển.

Đặc biệt là cuộc tranh chấp liên quan đến nhiều nƣớc ở biển Đông..

Những diễn biến quan hệ giữa các nƣớc lớn có liên quan đến khu vực và sự dính

líu, can thiệp dƣới những hình thức mà có thể gây nên không ít phức tạp cho các

quốc gia và quan hệ giữa các nƣớc trong khu vực với nhau.

Nhìn chung bối cảnh thế giới sau chiến tranh lạnh là các quốc gia trên thế

giới bên cạnh việc tập trung ƣu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở trong

nƣớc, đang đẩy mạnh đấu tranh để phát triển. Do đó, xu thế hòa bình ổn định

hợp tác để cùng phát triển, giải quyết mọi tranh chấp bất đồng thông qua đàm

phán, thƣơng lƣợng chính trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời sống quan hệ

quốc tế đƣơng đại.

Xu thế bình thƣờng hóa, đa dạng hóa và đa phƣơng hóa quan hệ đối ngoại

trở thành một đòi hỏi khách quan, bức bách của tất cả các nƣớc do tính tùy thuộc

lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất đƣợc quốc tế hóa và sự mất đi của

trật tự thế giới cũ.

Tóm lại, Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi

hỏi khách quan của tình hình thế giới và trong nƣớc. Đây không chỉ là truyền

thống của dân tộc, đòi hỏi Đảng phải phát huy tinh thần mới.

CHƢƠNG II

QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG

CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI

Page 22: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

22

I. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC THỜI KỲ

(1986 - 1995)

1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới

Nƣớc ta ở chặng đƣờng trƣớc mắt trong chặng đƣờng đầu tiên của thời kỳ

quá độ mà nội dung cơ bản là: coi nông nghiệp là là mặt trận hàng đầu, đƣa

nông nghiệp từng bƣớc lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển hàng

tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng.

Trên cơ sở đó xuất phát từ tình hình quốc tế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu

của chính sách đối ngoại là: "Trong thời gian tới công tác đối ngoại phải ra sức

tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn

và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc góp phần bảo đảm

thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra"(1)

.

Nổi bật trong quan hệ đối ngoại trong giai đoạn này là quan hệ Việt Nam

-Trung Quốc đang chịu ảnh hƣởng của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc

(17/2/1979). Quan hệ Việt Nam - Liên Xô đƣợc coi hòn đá tảng trong chính

sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã coi việc: "Đoàn kết và hợp tác toàn

diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và

Nhà nƣớc ta"(2)

Quan hệ Việt Nam- Lào - Campuchia đƣợc đánh giá cao, đƣợc coi là:

"Một quy luật phát triển giữa ba nƣớc, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận

mệnh của ba dân tộc"(3)

Đối với các nƣớc khác trong cộng đồng XHCN đƣợc coi trọng hợp tác và

phát triển, nhất là các nƣớc trong Hội đồng tƣơng trợ kinh tế. Chúng ta ủng hộ

cuộc đấu tranh của nhân dân các nƣớc Á, Phi, Mỹ La Tinh, hợp tác với các nƣớc

thành viên trong phong trào các nƣớc không liên kết, quan tâm tới phong trào

các nƣớc không liên kết, quan tâm tới phong trào đấu tranh của nhân dân các

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu trên toà n quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự Thật, Hà

Nội, 1982, trang 143 (2 ) Sđđ, trang 114 (3) Sđđ, trang 146

Page 23: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

23

nƣớc tƣ bản chủ nghĩa với các nƣớc trong ASEAN: "Nhân dân Việt Nam chủ

trƣơng thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nƣớc ASEAN, luôn luôn

sẵn sàng phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa

bình và ổn định"(1)

. Nhƣng quan hệ đó đang bị Mỹ và Trung Quốc ngáng trở.

Tựu trung lại lúc này Việt Nam muốn: "Thiết lập và mở rộng quan hệ bình

thƣờng về một nhà nƣớc, về kinh tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tất cả các

nƣớc không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ

quyền, bình đẳng và cùng có lợi"(2)

.

Thời kỳ từ khi thống nhất đất nƣớc đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam

khởi xƣớng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đƣợc coi là một trong những thời kỳ

khó khăn nhất trong lịch sử hơn 50 năm qua.

Trƣớc hết là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, khó khăn.

Hậu quả hơn 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề, 3 năm bị thiên tai bão lụt

nghiêm trọng (từ 1976 đến 1978) do Mỹ tăng cƣờng xiết chặt cấm vận, do

những sai lầm nghiêm trọng kéo dài trên 10 năm về lãnh đạo kinh tế của Đảng

và Nhà nƣớc (chủ quan, nóng vội duy ý chí, giản đơn, cơ chế tập trung quan liêu

bao cấp), do cuộc chiến tranh biên giới phía Nam của Pônpốt và chiến tranh biên

giới phía Bắc của Trung Quốc chống Việt Nam và do Việt Nam sử dụng quyền

tự vệ đánh trả Pônpốt, đóng quân ở campuchia trong 10 năm.

Trên thế giới xu thế đối đầu chuyển dần sang xu thế đối thoại với việc

Liên Xô và Mỹ chuyển từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế. Các nƣớc

Đông Nam Á từng bƣớc đi vào xu hƣớng hòa bình, độc lập và trung lập. Các

nƣớc trên thế giới ra sức cải tổ nền kinh tế để đƣa cuộc cách mạng công nghiệp

mới làm động lực cho việc phát triển kinh tế. Châu Á -Thái Bình Dƣơng đang

trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới.

Ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từng phần (1979 -

1986) đã đạt đƣợc một số thành tựu sau:

(1) ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ V. Nxb Sự thật Hà Nội, 1982, trang 153. (2) Sđđ, trang 154 - 155

Page 24: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

24

Đã tiếp tục kế thừa bài học truyền thống của ngoại giao Đại Việt nhƣ kiên

quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; giữ

vững nguyên tắc nhƣng có sách lƣợc thích hợp; kết hợp quân sự với ngoại

giao… đƣợc nâng lên tầm cao mới phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Là một

bộ phận quan trọng trong trƣờng phái ngoại giao Việt Nam hiện đại, ngoại giao

Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện giữ vững độc lập chủ quyền trong mọi tình

huống thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ; gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để có thể lấy

yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn phát huy truyền thống hòa

hiếu của dân tộc, luôn nắm vững và giƣơng cao ngọn cờ hòa bình, thực hiện

chính sách đối ngoại, hòa bình, hữu nghị, quan hệ tốt đẹp với các nƣớc trong

cộng đồng quốc tế "không thù oán với ai" đặt Việt Nam trong toàn cục thế giới".

"Biết mình biết ngƣời", kiên trì nguyên tắc chiến lƣợc với vận dụng linh hoạt

sách lƣợc "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ngoại giao Việt Nam đã góp phần bảo vệ

đƣợc thành quả cách mạng vừa giành đƣợc sau 30 năm kháng chiến gian khổ,

giữ vững an ninh và ổn định chính trị.

Tuy nhiên, ngoại giao còn có hạn chế là chƣa gắn chặt chẽ ngoại giao về

chính trị với ngoại giao về kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại. Việt Nam lúc

này chƣa thay đổi tƣ duy, chƣa nắm bắt đƣợc kịp thời các biến động trong cục

diện quốc tế, thiếu sót trong việc nghiên cứu và dự báo chiến lƣợc.

Tƣ duy chiến tranh lạnh vẫn bao trùm trong chính sách đối ngoại nên ta

đã để mất thời cơ, từ thuận lợi chuyển sang khó khăn, bị bao vây, cô lập về

chính trị, cấm vận về kinh tế chúng ta còn ít bạn bè. Một số nƣớc xa lánh ta. Đây

là thời kỳ mà ngoại giao phải lo chống đỡ, góp phần phá thế cô lập và bao vây.

Mặt khác, việc xử lý quan hệ với các nƣớc lớn lúc này vẫn theo quan

niệm cũ. Quan hệ "nhất biên đảo" ngả hẳn về Liên Xô, căng thẳng với Trung

Quốc. “Đầu năm 1979 bọn phản động Trung Quốc đã ngang nhiên phát động

chiến tranh quy mô lớn, đƣa 60.000 quân tiến công toàn tuyến biên giới phía

Bắc nƣớc ta. Tiến hành cuộc chiến tranh tội ác này, tập đoàn phản động trong

Page 25: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

25

giới cầm quyền Trung Quốc đã tự vạch mặt là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của

nhân dân ta, đồng thời là thế lực, phản động quốc tế rất hung ác đang uy hiếp

độc lập dân tộc, hòa bình và ổn định ở Đông Dƣơng và Đông Nam Á”(1)

Trƣớc tình hình nhƣ vậy, chính sách đối ngoại với Trung Quốc đƣợc

khẳng định: "Đặc biệt công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động,

tích cực trong cuộc đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của bọn bành trƣớng

và bá quyền nƣớc lớn Trung Quốc câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mƣu toan

làm suy yếu và thôn tính nƣớc ta"(2)

Những thành tựu đạt đƣợc trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc,

sự tăng cƣờng quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào,

Campuchia với các nƣớc anh em khác trong cộng đồng các nƣớc xã hội chủ

nghĩa, việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc độc lập dân tộc,

các lực lƣợng tiến bộ và hoà bình đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nƣớc ta

những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.

Đó là những thành tựu và hạn chế về đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta

trƣớc khi bƣớc vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nƣớc từ Đại hội đại biểu toàn

quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (15-12-1986) với sự chuyển đổi chính

sách đối ngoại theo đƣờng lối đổi mới.

2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)

Cách mạng Việt Nam luôn phát triển trong sự gắn bó với bối cảnh chung

của cách mạng thế giới và khu vực. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam không

tách rời sự giúp đỡ to lớn của cách mạng thế giới đồng thời nó cũng đóng vai trò

quan trọng trong cục diện cách mạng khu vực và thế giới.

Xuất phát từ nhận thức trên. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ ra

"nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng, nhà nƣớc là ra sức kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông

Dƣơng, Đông Nam Á và thế giới, tăng cƣờng hợp tác toàn diện với Liên Xô và

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ V, tập I, Nxb Sự thật Hà Nội 1982 trang 27. (2) Sđđ trang 143

Page 26: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

26

các nƣớc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi

xây dựng, bảo vệ tổ quốc, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân

dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"(1)

Việc xác định nhiệm vụ đối ngoại là "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại trong điều kiện mới" là việc quyết định rất đúng đắn, là nhận thức

mới của Đại hội VI là quyết định đúng đắn của Đảng, Nhà nƣớc đã quán triệt

sâu sắc các bài học rút ra từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc đặc biệt từ

1975 trở lại đây.

Trong chính sách đối ngoại, Đảng chủ trƣơng "kiên trì thực hiện chính

sách đối ngoại hòa bình… ủng hộ chính sách cùng tồn tại… giữa các nƣớc có

chế độ chính trị xã hội khác nhau"(2)

. Đây là quan điểm học thuyết Mác -Lênin

về vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, nó thể hiện ý chí cách

mạng không ngừng phấn đấu cho mục tiêu mới của chủ nghĩa xã hội đồng thời

nó phù hợp với lịch sử của các dân tộc, các quốc gia và nguyện vọng bức thiết

của nhân dân thế giới ngày nay. Chỉ có cùng tồn tại hòa bình, chung sống thực

sự mới tạo ra bầu không khí ổn định hữu nghị và hợp tác, là điều kiện tiên quyết

bảo đảm sự phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại.

Hòa bình ở khu vực và hòa bình thế giới có quan hệ gắn kết với nhau. thế

giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngƣợc lại. Do vậy giữ vững

hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới luôn là phƣơng châm trong chiến lƣợc,

đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc.

Nhiệm vụ phƣơng châm chính sách đối ngoại của Đảng là tranh thủ tối đa

những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện các mục tiêu tổng quát của cách

mạng nƣớc ta. Trƣớc hết là giải quyết những vấn đề cấp bách: ổn định tình hình

kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết cho những chặng đƣờng tiếp

theo, đồng thời Đảng chỉ rõ phƣơng hƣớng, giải pháp đối với từng đối tác cụ thể

cho phù hợp với sự thay đổi của nó trong xu thế phát triển chung của thế giới.

(1) Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 99. (2) Đảng Cộng sản Việt Na;: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 105.

Page 27: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

27

* Đối với các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô:

Việt Nam "tiếp tục tăng cƣờng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc

thành viên, hội đồng tƣơng trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các nƣớc xã hội

chủ nghĩa khác".(1)

Việt Nam và các nƣớc xã hội chủ nghĩa hợp tác từ hình thức

là viện trợ kinh tế kỹ thuật tiến tới hợp tác toàn diện, trên mọi lĩnh vực kinh tế -

xã hội an ninh quốc phòng. Việt Nam đã tham gia các nƣớc ký nhiều hiệp định

song phƣơng, đa phƣơng. Việt Nam tiếp tục mở rộng hoạt động đối ngoại là

không ngoài mục đíc làm cho Việt Nam đứng vững trên đối chân của mình mà

tiến lên.

Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nhiều nƣớc xã hội chủ nghĩa tiến hành

cải tổ, cải cách đổi mới. Mở đầu là Trung Quốc 12/1978, Liên xô 4/1986.

Hunggari và Tiệp Khắc 1987…Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, cùng với cƣơng lĩnh

hòa bình, quan hệ Mỹ - Xô - Trung hợp tác làm cho xu thế thế giới chuyển từ

đối đầu sang đối thoại. Tình hình ấy đã tác động lớn tới các chính sách quan hệ

của Việt Nam.

Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Liên Xô là đối tác quan trọng

nhất, điều đó có ý nghĩa là quan hệ của Việt Nam đối với Liên Xô thủy chung.

Quan điểm đó luôn nhất quán trong chính sách đối ngoại của Đảng Nhà nƣớc

trong suốt hơn 50 năm qua. Liên Xô luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống

xã hội chủ nghĩa và trong cục diện thế giới, ảnh hƣởng của Liên Xô trên trƣờng

quốc tế là một nhân tố có ý nghĩa quyết định sâu sắc.

Sự giúp đỡ của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam rất

lớn lao. Chỉ tính đến năm 1986 “(sau hơn 30 năm Liên - Việt ký các hiệp định

kinh tế, thƣơng mại) trao đổi hàng hoá giữa hai nƣớc tăng lên 100 lần, hơn 200

dự án trong các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam đƣợc Liên Xô giúp.

Liên Xô đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ lớn (130.000 ngƣời trong

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 101.

Page 28: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

28

đó có khoảng 20.000 chuyên gia có trình độ đại học, 2000 có trình độ phó tiến

sĩ, 70 có trình độ tiến sĩ) gồm nhiều lĩnh vực khoa học, ngành nghề khác

nhau”(2)

.

* Đối với phong trào giải phóng dân tộc:

Thái độ nhất quán của Đảng, Nhà nƣớc là luôn ủng hộ phong trào giải

phóng dân tộc. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, sau ngày giải phóng miền Nam

đã đi thăm và cảm ơn các dân tộc đã giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Nhiều hiệp định, thông cáo chung đƣợc Việt Nam và

các nƣớc ký kết. Điều đó chứng tỏ rằng quan hệ của Việt Nam đối với phong

trào giải phóng dân tộc luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm, là một trong chính

sách đối ngoại của Việt Nam nhằm xoá bỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nêu cao

tinh thần quốc tế vô sản.

Việt Nam tham gia trong các tổ chức quốc tế có tác động tích cực làm biến

chuyển các quan hệ quốc tế là mục đích hoà hợp các dân tộc vì một nền hoà

bình, ổn định, hợp tác, phát triển thịnh vƣợng.

* Đối với Liên Hiệp Quốc:

Tổ chức này đóng vai trò quan trọng về hoà giải các vấn đề chính trị xã

hội, trên thế giới theo phƣơng hƣớng hợp tác và đối thoại giải quyết bằng con

đƣờng thƣơng lƣợng hoà bình đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới ủng hộ trong đó có

Việt Nam, Liên Hợp Quốc sẽ trở thành diễn đàn chính trị cho tất cả các nƣớc

trong cộng đồng quốc tế.

* Đối với phong trào không liên kết:

Sức sống mạnh mẽ của nó có từ lịch sử ra đời và phát triển là bắt nguồn từ

mục tiêu của thời đại, xu thế phát triển của nhân loại vì hoà bình độc lập dân tộc,

bình đẳng và phát triển. Những đóng góp của phong trào, nó khẳng định ý thức

của các dân tộc tự vƣơn lên làm chủ vận mệnh của mình, bình đẳng trong đời

sống quốc tế.

(2) Hợp tác Liên Xô - Việt Nam năm 2000. Tạp Chí Giáo dục lý luận 7/1986

Page 29: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

29

Đảng xác định phong trào không liên kết "có vai trò không thể thiếu đƣợc

trên thế giới…" Việt Nam "không ngừng đóng góp vào việc tăng cƣờng đoàn

kết phong trào theo phƣơng châm thống nhất trong đa dạng tích cực phấn đấu

thực hiện các mục tiêu của phong trào… vì lợi ích chính đáng của mỗi thành

viên và của phong trào"(1)

.

Đảng và Nhà nƣớc ta đã không ngừng trình bày các quan điểm chính trị của

Việt Nam trong các khoá họp thƣờng kỳ, đồng thời tích cực đấu tranh cho

những xu hƣớng tiến bộ, đƣa ra những giải pháp cải thiện lành mạnh quan hệ

giữa Việt Nam với phong trào và tổ chức quốc tế khác vì lợi ích của các thành

viên trong phong trào.

* Đối với các nước Tư bản chủ nghĩa (Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Nhật,

Ôxtraylia) và các nƣớc phƣơng Tây khác, Đảng, nhà nƣớc ta chủ trƣơng mở

rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.

Chính sách đối ngoại do đại hội VI đề ra là phù hợp với xu thế chuyển biến

của tình hình trong nƣớc và thế giới. Chính sách đó thể hiện "tính mềm dẻo"

trong sách lƣợc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Chính sách đó đƣợc

hình thành từ trong đƣờng lối độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng. Nó có tác dụng

mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nƣớc khác trên thế giới. Nó tạo

điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi mới trên việc lựa cho đối tác kinh tế cho

phù hợp với thực tại trong nƣớc và xu thế phát triển kinh tế - xã hội thế giới đặc

biệt là góp phần quan trọng giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

* Đối với Trung Quốc:

Đảng, Nhà nƣớc ta xác định "Sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ

lúc nào, cấp nào, nơi nào… nhằm bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc, vì lợi

ích của nhân dân hai nƣớc, vì hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" (1)

Đảng ta chủ trƣơng chấm dứt tuyên truyền chống Trung Quốc, sửa lại lời

nói đầu Hiến Pháp và Điều lệ Đảng, không coi Trung Quốc là kẻ thù.

(1) Trần Quang Cơ: “Vai trò không thể thiếu được trên thế giới ngà y nay”. Bà i phát biểu của thứ trưởng tại

Hội nghị ngoại trưởng các nước không liên kết. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 107

Page 30: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

30

Quan hệ Việt - Trung đã đƣợc đại hội VI xác định rõ hơn hai kỳ đại hội

trƣớc. Sự thay đổi đó là phù hợp không chỉ đối với nguyện vọng chung của khu

vực, thế giới mà của cả nhân dân Việt - Trung. Nó góp phần nâng cao truyền

thống giúp đỡ nhau giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc.

* Đối với Mỹ: Đảng, Nhà nƣớc ta chủ trƣơng "bàn với Mỹ giải quyết các

vấn đề do chiến tranh để lại luôn sẵn sàng quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn

định ở Đông Nam Á "(2)

. Thực tế cùng với lệnh cấm vận của Mỹ, Mỹ liên kết

với các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong, ngoài khu vực ngăn cản sự hoà

hợp của Việt - Lào - Campuchia với các nƣớc trong khu vực, tạo cho Việt Nam,

nhiều khó khăn trong khu vực và thế giới.

Chính sách đó thể hiện thiện chí của Việt Nam trong quan hệ Mỹ - Việt và

quan hệ Việt Nam với các nƣớc trong khu vực vì lợi ích hoà bình ổn định phát

triển chung của nhân loại.

* Đối với các nước ASEAN:

Đảng chủ trƣơng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc Đông

Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nƣớc trong khu vực thƣơng lƣợng

để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, Thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà

bình, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác

* Đối với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau: Đảng duy trì

chính sách quan hệ "cùng tồn tại hoà bình" thiết lập hệ thống an ninh toàn diện

(cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự) kiên quyết loại trừ xâm lƣợc, khủng bố

Nhà nƣớc, và khí hạt nhân… bất cứ hình thức nào.

Việt Nam ủng hộ tuyên bố Vlađivôstốc của Nga 28/8/1986 và những giải

pháp quan hệ Trung - Xô hợp tác. Nhƣng vấn đề đó có lợi cho Việt Nam giải

quyết các vấn đề đối với Đông Dƣơng, Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình

Dƣơng, đặc biệt là quan hệ biên giới giữa các nƣớc trong khu vực;

Dƣới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VI tình hình kinh tế, xã hội có

chuyển biến quan trọng. Có đƣợc thành quả đó là do Đảng, nhà nƣớc đã kết hợp

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 108

Page 31: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

31

chặt chẽ chính sách đối nội với chính sách đối ngoại. Điều đó nó phản ánh sự

cần thiết phải đổi mới của Việt Nam. Việt Nam muốn sánh vai với các cƣờng

quốc thì không thể tách rời xu thế chung của thời đại.

Việt Nam thời hậu chiến tranh vừa có hoà bình, vừa có thể xảy ra chiến

tranh, bị bao vậy, cấm vận, làm nhiệm vụ quốc tế trong điều kiện khắc phục hậu

quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lƣợc các nƣớc xã hội chủ nghĩa tiếp tục

khủng hoảng toàn diện chủ nghĩa tƣ bản và các nƣớc đế quốc hợp tác an ninh

kinh tế tiến công chủ nghĩa xã hội trên mọi phƣơng diện…

Để đƣa Việt Nam thoát ra tình trạng đó, Đảng Nhà nƣớc đã chủ động mở

rộng quan hệ hợp tác đối ngoại với các nƣớc trên thế giới. Chỉ trong (1987-

1988) Đảng, nhà nƣớc ta công bố thực hiện hai văn bản luật quan trọng là "Luật

Đầu tƣ nƣớc ngoại tại Việt Nam" và "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nƣớc

ngoài tại Việt Nam". Hai văn bản này đã làm cho nhiều nhà thƣơng mại quan

tâm hợp tác với Việt Nam.

Luật Đầu tƣ nêu rõ: "Việt Nam hoan nghênh khuyến khích các tổ chức, cá

nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam "chỉ cần" cùng tôn trọng độc lập chủ

quyền bình đẳng, tuân thủ pháp luật Việt Nam và các bên cùng có lợi. Nhà nƣớc

Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đầu tƣ và các quyền lợi khác của cá nhân hoặc

tổ chức nƣớc ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và các thủ tục dễ dàng cho các tổ

chức cá nhân đầu tƣ vào Việt Nam" (1)

Với điều 41 điều khoản quy định những hình thức đầu tƣ, biện pháp quyền

lợi của những đối tác đầu tƣ (luật đầu tƣ) và những quy chế pháp lệnh đầu tƣ

thực sự là một bƣớc tiến cả về nhận thức và biện pháp hữu hiệu của Đảng, Nhà

nƣớc trong việc đổi mới chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng.

Từ sau khi công bố hai văn bản này "Việt Nam đón tiếp hơn 2500 đoàn

khách quốc tế vào Việt Nam và đến 10/1989 đã có 96 dự án có tính khả thi đƣợc

(1) Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoà i tại Việt Nam.Nxb Pháp lý, Hà Nội 1989, trang 3-4

Page 32: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

32

chính phủ Việt Nam cấp giấy phép với tổng số vốn lên tới 755.272 triệu USD"

(2)

Đất nƣớc trong thế bị bao vây cấm vận, thiếu vốn đầu tƣ, kỹ thuật .. thì đây

là một thành tựu không nhỏ. Song cái đƣợc lớn nhất trong lịch sự phát triển kinh

tế đất nƣớc là mở cửa nền kinh tế, đổi mới giao lƣu kinh tế với nƣớc ngoài. Chỉ

có nhƣ vậy chúng ta mới học đƣợc những phƣơng cách làm kinh tế, sớm đƣa đất

nƣớc vƣợt ra khỏi khủng hoảng suy thoái kinh tế và hội nhập nền kinh tế thế

giới.

Cùng với luật đầu tƣ, pháp lệnh đầu tƣ, Đảng Nhà nƣớc tìm ra giải pháp

chính trị hiệu quả đối với vấn đề Campuchia. Suốt 3 năm 1987-1990 việc kiếm

tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia đã lôi cuốn các nƣớc ASEAN,

Đông Dƣơng, 5 nƣớc thƣờng trực Hội đồng bảo an liên hiệp quốc (Nhật, Ấn Độ,

Ôxtraylia, các Châu và Bắc Mỹ)

Những thành tựu trên chính là sự kết hợp chặt chẽ trong đổi mới chính sách

đối nội, đối ngoại. Nét nổi bật của thời kỳ 1986-1990 phải là vai trò lớn lao của

Đại hội VI, Đảng đã đặt nền cơ sở cho sự đổi mới chính sách đối ngoại của

Đảng, Nhà nƣớc trƣớc những biến chuyển của tình hình thế giới và yêu cầu bức

thiết xây dựng bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự đổi mới chính sách đối

ngoại đã tạo ra biến chuyển căn bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ

quốc tế của Việt Nam.

Nhìn tổng quát 1986 - 1990 với những quyết sách kịp thời chính xác trong

đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thực sự tạo ra bƣớc ngoặt cho sự phát triển của

cách mạng Việt Nam. Những thành tựu từ sự kết hợp đổi mới chính sách đối nội

- đối ngoại đã tạo ra những tiền đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn giúp cho

Đảng, Nhà nƣớc có thêm cơ sở nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam ngày càng đƣợc xác định rõ hơn. "Chính sách đối ngoại đổi mới đã

tạo ra môi trƣờng quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới xây dựng, bảo vệ

(2) Viện khoa học xã hội Việt Nam và Viện Sử học Việt Nam, Việt Nam 1975 - 1995 thà nh tựu và kinh

nghiệm, trang 171

Page 33: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

33

Tổ quốc đẩy lùi một bƣớc âm mƣu bao vây cô lập Việt Nam. Tăng thêm bạn,

nâng cao uy tín Việt Nam trên trƣờng quốc tế"(1)

Tạo nên hình ảnh Việt Nam

mới của Châu Á - Thái Bình Dƣơng và thế giới. Tuy nhiên, công tác đối ngoại

còn có khuyết điểm và những yếu kém: khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế

thay đổi, có việc chƣa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ chƣơng sát đúng;

chƣa tạo ra đƣợc sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa một số

ngành trong một số trƣờng hợp

3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ (1991-1995)

Tình hình quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nƣớc ta:

Sự sụp đổ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh

hƣởng không tốt về chính trị, tƣ tƣởng.Tác động sâu sắc đối với phong trào cách

mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Ở nƣớc ta một số cán bộ, đảng viên và

ngƣời dân hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội, làm giảm lòng tin đối với Đảng và

nhà nƣớc. Một số cán bộ đảng viên tiếp nhận những tƣ tƣởng sai lầm về cải tổ,

cải cách của nƣớc ngoài một cách máy móc, giáo điều; những phần tử cơ hội,

bất mãn đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên

chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn, gây mất ổn định tình hình, cản

trở công cuộc đổi mới. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lƣợng phản động quốc tế

lợi dụng tình hình để chia rẽ ba nƣớc Đông Dƣơng, gây sức ép hơn nữa đối với

nƣớc ta và các nƣớc Đông Dƣơng, hòng giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho

chúng. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng tình hình trên, ráo riết thực hiện âm

mƣu “diễn biễn hoà bình” bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tƣ tƣởng, văn

hoá và quân sự rất thâm độc. Chính quyền Mỹ vẫn thi hành chính sách bao vây,

cấm vận, ngăn cản các nƣớc, các tổ chức kinh tế quan quan hệ kinh tế với Việt

Nam.

(1) Đảng Cộng Sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà

Nội 1991, trang 40-41

Page 34: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

34

Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 17 - 22/6/1991) trên cơ sở

đánh giá những nguyên nhân tạo nên những thành tựu - hạn chế của việc thực

hiện nghị quyết Trung ƣơng (6, 7, 8) Đại hội VII chỉ những vấn đề mới nảy sinh.

Đại hội thông qua cƣơng lĩnh phƣơng hƣớng cơ bản về thời kỳ qúa độ đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam và chiến lƣợc ổn định phát triển kinh tế - xã hội (đến

năm 2000) của Việt Nam.

Căn cứ vào mục tiêu chặng đƣờng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

là "vƣợt qua khó khăn thử thách ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tăng

cƣờng ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực - bất công xã hội đƣa nƣớc ta cơ bản ra

khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay" (1)

Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là: "giữ vững hoà bình, mở

rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào

cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ

và tiến bộ xã hội "(2)

Nhƣ vậy, chính sách đối ngoại của Đảng đã phản ánh tính thống nhất giữa

nhiệm vụ đối nội và nhiệm vụ đối ngoại. Đồng thời phản ánh những bài học

kinh nghiệm của quá trình thực hiện đổi mới theo tinh thần đại hội VI của Đảng

là kiên định, quyết tâm đƣa sự nghiệp đổi mới tới thành công.

Đại hội còn nhấn mạnh yêu cầu nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là "cần

nhạy bén nhận thức và dự báo đƣợc những diễn biến phức tạp thay đổi sâu sắc

trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh của lực lƣợng sản xuất và xu thế quốc

tế hóa của nền kinh tế thế giới để có chủ trƣơng đối ngoại phù hợp"(1)

. So với

Đại hội VI đây là bƣớc phát triển mới của Đảng, về nhận thức chính sách đối

ngoại trƣớc những biến chuyển của tình hình thế giới. Đặc biệt trong xác định

nhiệm vụ chính sách đối ngoại là:"Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà

Nội 1991, trang 60 (2) Sđd, trang 88 (1) Sách đã dẫn trang 88

Page 35: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

35

trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" mà Đại

hội VII đã đề ra. Để thích ứng với sự chuyển biến các quan hệ quốc tế đáp ứng

những yêu cầu của chính sách đối nội Đầu 1991 Đảng xác định: “… Hợp tác

bình đẳng và cũng có lợi với tất cả các nƣớc không phân biệt chế độ chính trị xã

hội khác nhau với nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình"(2)

.

Thực chất đây là chiến lƣợc chính sách đối ngoại của Đảng, một dấu ấn

quan trọng khẳng định chấm dứt khủng hoảng đƣờng lối phát triển của Việt

Nam.

Trên cơ sở hợp tác bình đẳng cùng có lợi và không phân biệt chế độ chính

trị xã hội, cùng tồn tại hòa bình Đảng, Nhà nƣớc tích cực mở rộng quan hệ hợp

tác với tất cả các nƣớc trên thế giới.

Đối với Liên Xô, Đảng khẳng định "tăng cƣờng đoàn kết và hợp tác toàn

diện", "đổi mới phƣơng thức hợp tác" và "nâng cao hiệu quả" của nó để "đáp

ứng lợi ích mỗi nƣớc"(3)

. Chính sách này của Đảng, Nhà nƣớc là hợp lý khi tình

hình Liên Xô, thế giới có sự thay đổi. Đồng thời nó vẫn bảo đảm: tính nhất quán

truyền thống thủy chung quan hệ Việt - Xô. Vai trò của Việt - Xô trong quan hệ

và có tác dụng phân hóa các thế lực cản trở công cuộc đổi mới thêm bạn - bớt

thù.. Điều này đƣợc kiểm chứng ngay sau khi Liên Xô tan rã. Vai trò nƣớc Nga

(mới) vẫn có vị trí ảnh hƣởng trong khu vực và trên trƣờng quốc tế.

Đối với Lào - Campuchia Đảng nhấn mạnh: "Đổi mới phƣơng thức hợp tác,

chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và

lợi ích chính của nhau"(1)

.

Đây không chỉ là bƣớc phát triển mới của quan hệ Việt - Lào, Campuchia

mà nó còn phù hợp với các nguyên tắc quốc tế trong đấu tranh nhằm phát triển

các quan hệ quốc tế, đồng thời nó thúc đẩy tiến trình thỏa thuận giải quyết các

vấn đề về Campuchia phù hợp với lợi ích của nhân dân Campuchia (10/1991

(2) Sđd, trang 88 (3) Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, trang 89 (1) Đảng Cộng sản Việt Nam- BCHTW: Văn kiện Đại hội, đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991, trang 89

Page 36: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

36

Hiệp định chính thức về Campuchia đƣợc công nhận) và các bên có liên quan

trong khu vực Đông Nam Á - Châu Á Thái Bình Dƣơng.

Đối với ASEAN: nhằm tạo môi trƣờng thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia

của Việt Nam vào quá trình hợp tác khu vực, nhất là vào ASEAN, tháng 2-1993,

Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp và trong

chuyến tham chính thức Inđônêxia, Chủ tịch Lê Đức Anh tuyên bố: “Việt Nam

đang xúc tiến những công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên

đầy đủ của ASEAN”.

Xu thế quốc tế hóa trong các khu vực diễn ra nhanh theo xu hƣớng tự

cƣờng quốc gia - khu vực tạo ra những tiền đề mới để chúng ta mở rộng quan hệ

với các nƣớc trƣớc đây chƣa có điều kiện vƣơn tới. Để giữ vững độc lập dân tộc

và kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của dân tộc ta với các dân tộc quốc gia khác trên

thế giới. Đảng, Nhà nƣớc đã không ngừng mở rộng tăng cƣờng quan hệ hợp tác

với các nƣớc trên thế giới để thực sự hội nhập với xu thế thế giới đa dạng, đa

phƣơng trong quan hệ hợp tác. Việt Nam phấn đấu trở thành bạn với tất cả các

nƣớc trong cộng đồng thế giới vì hòa bình, độc lập và phát triển.

Đây là bƣớc phát triển quan trọng của chính sách đối ngoại của Đảng, nó

đã thu hút sự chú ý quan tâm và hợp tác của các nhà đầutƣ đối với chính sách

đổi mới ở nƣớc ta, tạo ra bƣớc phát triển mới của chính sách đối ngoại trong

những năm tiếp theo.

Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc tƣởng nhƣ không phát triển "bởi

sự đảo lộn đột ngột về thị trƣờng xuất nhập khẩu, về việc thực hiện các chƣơng

trình hợp tác kinh tế và hợp đồng lao động, nguồn vay bị giảm mạnh, ƣu đãi về

giá bị chấm dứt nợ nƣớc ngoài phải trả hàng năm tăng .. Các thế lực thù địch

bao vây kinh tế, thực hiện "diễn biến hòa bình, kích động đa nguyên chính trị, đa

đảng đối lập, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng…”(1)

. Nhƣng trên thực tế lại là thời

(1) Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật Hà

Nội, 1991, trang 89.

Page 37: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

37

kỳ phát triển, xác lập và hoàn chỉnh đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ và đầy

sáng tạo của Đảng và Nhà nƣớc.

Sự phát triển, hoàn chỉnh đƣờng lối đối ngoại đƣợc thể hiện trên luật pháp

của Nhà nƣớc. Tháng 4/1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới của Việt

Nam. Sự ra đời của Hiến pháp mới khẳng định Đảng - Nhà nƣớc ta nhận thức rõ

vị trí, tầm quan trọng của chính sách đối ngoại.

Điều 14 Hiến pháp khẳng định: “Việt Nam thực hiện hòa bình, hữu nghị

hợp tác với tất cả các nƣớc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội

khác nhau… tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ của nhau, không

can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi”.

Chủ trƣơng này đã làm cho chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nƣớc phát

triển cả về nội dung - phƣơng hƣớng chỉ đạo hoạt động đối ngoại, có tính chất

quyết định trong công cuộc đổi mới đất nƣớc; sự phát triển này làm cho "Việt

Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng thế giới" từ một định

hƣớng chiến lƣợc trở thành hiện thực trong chính sách đối ngoại của Đảng - Nhà

nƣớc.

Đa dạng hóa quan hệ đối ngoại tạo cho Việt Nam quan hệ với các nƣớc trên

thế giới không bị ràng buộc về quan niệm chính trị - xã hội. Đa phƣơng hóa là

cơ sở để phát triển quan hệ trong quốc gia và giữa các quốc gia với nhau và với

những tổ chức cá nhân khác mà chúng ta chƣa có điều kiện thiết lập quan hệ.

Đây cũng là cơ sở để nảy sinh phát triển quan hệ đối ngoại nhân dân mà trƣớc

đây ta chƣa có điều kiện mở rộng và phát triển đi sâu vào các lĩnh vực đời sống

xã hội để tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau - tôn trọng nhau- hợp tác và phát triển vì

lợi ích mỗi quốc gia - khu vực.

Chính từ sự kết hợp giữa hoạt động đối ngoại chính thức của Đảng - Nhà

nƣớc và hoạt động đối ngoại nhân dân là một bƣớc phát triển mới về chất của

nền ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới “ làm cho Việt Nam có thể làm

bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng quốc tế… Đoàn kết và quan hệ hợp tác

với các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng … vì hòa bình độc lập dân

Page 38: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

38

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1)

. Hiến pháp là luật định quan trọng nhất của

quốc gia, việc Đảng - Nhà nƣớc đƣa chính sách đối ngoại thành điều luật của

Hiến pháp thực chất là nâng cao hiệu quả chính sách đối ngoại.

Để đẩy mạnh hơn việc cụ thể hóa các định hƣớng lớn của Đại hội VII đồng

thời tận dụng những cơ hội mới do tình hình quốc tế đƣa lại, nâng cao hơn nữa

những thành tựu đạt đƣợc trong đổi mới. Tháng 6/1992 Hội nghị Ban chấp hành

Trung ƣơng lần thứ 3(khoá VII) xác định: “ mục tiêu, tƣ tƣởng chỉ đạo trong

chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là giữ vững nguyên tắc vì độc

lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh

hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc ta, cũng nhƣ diễn biến

tình hình thế giới và khu vực”.Trên cơ sở đánh giá "công tác đối ngoại có vị trí

ngày càng quan trọng, góp phần quyết định kết hợp sức mạnh dân tộc, với sức

mạnh thời đại, yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố

hiện đại đƣa đất nƣớc tiến lên"(2)

.

Hội nghị đã chủ trƣơng "Đa phƣơng hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại

cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật, cả về Đảng - Nhà nƣớc

và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ"(3)

Hội nghị đề ra bốn phƣơng châm xử lý các mối quan hệ đối ngoại trên các

lĩnh vực và đối với các đối tƣợng là:

Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ

nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cƣờng, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa

phƣơng hoá các quan hệ đối ngoại.

Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.

Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các

nƣớc.

(1) Hiến pháp Việt Nam những năm 1946 - 1959, 1980 - 1992, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, trang 11 (2) Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ III, BCHTW khóa VII, Nxb CTQG Hà Nội 1994, trang 4 (3) Sđd, trang 6.

Page 39: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

39

Nổi bật trong quan hệ quốc tế là tồn đọng quan hệ Việt - Mỹ và Việt -

Trung. Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nƣớc đã kết hợp chặt chẽ giữa chính sách đối

ngoại chính thức của Đảng - Nhà nƣớc với chính sách đối ngoại nhân dân cộng

với Hiến pháp và luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, với phƣơng châm kiên

trì, vừa hợp tác vừa đấu tranh đã lôi cuốn nhân dân tiến bộ Mỹ - các thƣơng

nhân kinh doanh Mỹ - các nƣớc ASEAN… gây áp lực buộc Mỹ huỷ bỏ cấm vận

kinh tế với Việt Nam (3/2/1994) và bình thƣờng hóa quan hệ Việt - Mỹ

(11/7/1995) song Mỹ không bao giờ từ bỏ âm mƣu đẩy mạnh "diễn biến hòa

bình" ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa và thế giới nhằm thiết lập trật tự thế giới do

Mỹ chỉ huy do đó bình thƣờng hóa quan hệ Việt - Mỹ là một thời cơ lớn để ta

đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, khắc phục nguy cơ tụt

hậu, đồng thời ta đứng trƣớc thách thức "Diễn biến hòa bình", nên chúng ta phải

thƣờng xuyên - tích cực thực hiện chống "diễn biến hòa bình". Đi đôi hợp tác

với Mỹ trên các lĩnh vực vì lợi ích chính đáng của nhân dân hai nƣớc, quan hệ

Việt - Mỹ phát triển tốt sẽ tạo điều kiện cho ta mở rộng quan hệ với các nƣớc

khác và các tổ chức quốc tế lớn khác.

Đối với Trung Quốc phƣơng châm, chính sách đối ngoại của Việt Nam là

vừa đoàn kết hữu nghị vừa đấu tranh… nhƣng đúng mức phấn đấu tạo dựng cục

diện cùng tồn tại hòa bình lâu dài.

Để có môi trƣờng quốc tế thuận lợi cho đất nƣớc ta tiến nhanh "mở rộng

các hình thức giao lƣu hợp tác: kinh tế - chính trị - văn hóa - khoa học kỹ thuật -

du lịch giữa hai nƣớc, nhƣng phải làm rõ cho tất cả cán bộ nhân dân ta thấy rõ

bản chất - tham vọng của Trung Quốc. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với

những hành động sai trái của Trung Quốc vi phạm chủ quyền lợi ích quốc gia

Việt Nam.

Trƣớc những biến động của tình hình thế giới, khu vực, xu thế hoà bình, ổn

định, hợp tác quốc tế, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại là một tất

yếu khách quan. Nhận rõ điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện chính

sách đối ngoại đƣa đất nƣớc thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập. Từ quan hệ chủ

Page 40: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

40

yếu về chính trị với các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em và một số nƣớc độc lập

dân tộc trƣớc đây, nƣớc ta đã bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, gia

nhập ASEAN. Mở rộng và phát triển quan hệ với các nƣớc lớn, với nhiều tổ

chức khu vực và quốc tế, các trung tâm kinh tế- chính trị thế giới… Đảng Cộng

sản Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng

sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến

bộ trên thế giới. Thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền ở một số nƣớc, mở

rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội… Đến cuối

năm 1995 nƣớc ta đã có quan hệ ngoại giao với 160 nƣớc, có quan hệ buôn bán

với trên 100 nƣớc. Những thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan

trọng góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên thế giới, tạo môi

trƣờng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.

II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC THỜI KỲ

(1996 - 2004)

1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996 - 2001)

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi cũng nhƣ khó khăn thách thức mới do

bối cảnh quốc tế, khu vực và thực tế đất nƣớc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 28/06/1996 đến ngày

01/07/1996 đã khẳng định nhiệm vụ đối ngoại "củng cố môi trƣờng hòa bình,

tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội,

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì

hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Bên cạnh đó, chúng ta vẫn

tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, độc lập tự chủ, đa phƣơng hóa,

đa dạng hóa

Trên cơ sở kế thừa những điểm còn phù hợp của các kỳ Đại hội VI, VII, bổ

sung phát triển những luận điểm thích ứng với tình hình mới của đất nƣớc và thế

giới. Đảng đã chủ trƣơng mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt song

phƣơng và đa phƣơng với các quốc gia, tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên

Page 41: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

41

tắc chỉ đạo là tôn trọng độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,

không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, giải

quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hòa bình.

Cụ thể, Đảng chủ trƣơng duy trì và phát triển các chính sách đối ngoại

trong quan hệ các nƣớc láng giềng các nƣớc trong khu vực, các nƣớc bạn bè

truyền thống, phát triển quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, các lực

lƣợng cách mạng, mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các đảng khác.

Đồng thời, tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nƣớc đang phát

triển ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh với phong trào không liên kết. Bên cạnh

đó, Đảng cũng rất coi trọng tới các nƣớc phát triển và các trung tâm kinh tế

chính trị của thế giới, cụ thể là Mỹ, EU, Nhật Bản nhằm mở rộng hợp tác và

tranh thủ những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Đây là một bƣớc chuyển mới trong tƣ duy và nhận thức của Đảng ta là cơ

sở để đa phƣơng hóa các mối quan hệ đối ngoại đƣa quan hệ đối ngoại lên một

tầm cao mới, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập.

Nếu nhƣ Đại hội VI, Đảng chủ trƣơng "cùng tồn tại hòa bình giữa các nƣớc

có chế độ chính trị khác nhau", Đại hội VII Đảng mong muốn "Hợp tác bình

đẳng và cùng có lợi với tất cả các nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị - xã

hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Thì ở đại hội VIII chủ

trƣơng của Đảng trong vấn đề quan hệ quốc tế đã đi vào chiều sâu bằng lời

tuyên bố "Việt Nam coi trọng quan hệ với các nƣớc phát triển và các trung tâm

kinh tế - chính trị thế giới" trên cơ sở giữ vững các mối quan hệ truyền thống,

láng giềng và khu vực. Nhƣ vậy, Đại hội VIII đã cụ thể hóa đối tƣợng quan hệ

quốc tế, mở rộng quan hệ của ta với các nƣớc lớn, bảo đảm cho sự hợp tác song

phƣơng.

Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các nƣớc lớn và các trung tâm quyền lực

kinh tế - chính trị trên thế giới ngày càng có ảnh hƣởng tới các quốc gia, khu

vực. Việc coi trọng quan hệ với các nƣớc và các tổ chức này thực sự là một nhu

Page 42: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

42

cầu cần thiết và cấp bách, nó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc xây

dựng và phát triển đất nƣớc.

Đại hội VIII cũng đã đề ra nhiệm vụ mới cho công tác đối ngoại đó là "tăng

cƣờng hoạt động ở liên hiệp quốc, tổ chức các nƣớc nói tiếng Pháp, các tổ chức

tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức thƣơng mại quốc tế và các tổ chức quốc tế khác

tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các

vấn đề toàn cầu". Nhƣ vậy chính sách đối ngoại tại Đại hội VIII đã khẳng định

hƣớng đi đúng đắn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế bằng cách bổ sung và

phát triển luận điểm của đại hội VII đề ra. Đồng thời mở thêm chƣơng trình mới

trong chính sách đối ngoại Việt Nam, xác định quyền và nghĩa vụ của Việt Nam

đối với các vấn đề toàn cầu, từng bƣớc làm tăng vai trò, vị thế Việt Nam trên

diễn đàn quốc tế.

Hoạt động đối ngoại do Đại hội VIII đề ra có những định hƣớng chiến lƣợc

trong công tác chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong thời gian tiếp đó. Định hƣớng

này một lần nữa khẳng định và bổ sung tại Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 4 của

Đảng (khóa VIII) ( tháng 12/1997). Tại Hội nghị này Đảng đã nêu quan điểm về

chính sách đối ngoại, mà cụ thể là công tác hội nhập quốc tế. Một mặt tiến hành

khẩn trƣơng, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ, gia

nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể, chủ động thực hiện các cam kết trong

khuôn khổ AFTA. Mặt khác, mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ vốn, công

nghệ và gia nhập thị trƣờng quốc tế nhƣng phải trên cơ sở độc lập tự chủ. Đồng

thời độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa

đoàn kết quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo

vệ vững chắc Tổ quốc.

Đại hội IX đánh giá: “quan hệ đối ngoại không ngừng đƣợc mở rộng, hội

nhập kinh tế quốc tế đƣợc tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt”. Nƣớc ta

đã tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nƣớc xã hội chủ

nghĩa, các nƣớc láng giềng, các nƣớc bạn bè truyền thống. Việt Nam đã tham

gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong hiệp hội các

Page 43: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

43

nƣớc ASEAN và diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Tăng

cƣờng quan hệ với các nƣớc phát triển và nhiều nƣớc, nhiều tổ chức khu vực và

quốc tế khác. Lúc này Việt Nam có quan hệ thƣơng mại với hơn 140 nƣớc, quan

hệ đầu tƣ với gần 70 nƣớc và vùng lãnh thổ, thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn đầu

tƣ từ nƣớc ngoài. Chúng ta đã triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại của

Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị -xã hội…,đem

lại nhiều thắng lợi trên mặt trận đối ngoại. Thành tựu về đối ngoại đạt đƣợc

trong những năm qua đã tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt

của đất nƣớc và cuộc sống của nhân dân, củng cố vẵng chắc độc lập dân tộc và

chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế, uy tín của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế.

Chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn (1996 - 2001) đã đứng vững trên

hai chân đối nội và đối ngoại đồng thời nó cũng khẳng định: Chính sách "đa

phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại" của Đảng, Nhà nƣớc phù hợp với

mục tiêu Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, nó

đánh dấu sự hoàn tất của việc đặt nền móng cho mối quan hệ giữa Việt Nam và

các nƣớc trong khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng và trên thế giới; trong bất cứ

hoàn cảnh nào Việt Nam luôn gắn lợi ích của quốc gia với lợi ích của khu vực

và lợi ích của nhân dân lao động trên thế giới phấn đấu vì một nền hòa bình, độc

lập dân tộc và phát triển.

2/ Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2001 - 2004)

Ngày 19/04/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn

ra tại Hà Nội. Đảng đã đề ra chính sách đối ngoại trong thời gian tới trên cơ sở

tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII. Đó là: "thực hiện nhất

quán đƣờng lối đối ngoại tự chủ, mở rộng đa phƣơng hóa, đa dạng hóa các quan

hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng

đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Đại hội IX nêu lên nguyên tắc, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể của

công tác đối ngoại:

* Về nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại:

Page 44: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

44

Chính sách đối ngoại gắn liền với chính sách đối nội, nhiệm vụ dân tộc và

nhiệm vụ quốc tế. Mục tiêu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm

thực hiện mục tiêu chung là xây dựng Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh xã hội

công bằng, dân chủ văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

đề ra nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại của Đảng Đảng và Nhà nƣớc ta là:

- Tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào

công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.

Đây là nguyên tắc cơ bản, là quan điểm nhất quán trong quan hệ đối ngoại

của Đảng và Nhà nƣớc ta và phù hợp với quy luật của luật pháp quốc tế. Việt

Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền lựa chọn chế độ

chính trị của các nƣớc trên thế giới không can thiệp, không dùng vũ lực và đe

doạ dùng vũ lực trong quan hệ với các nƣớc khác, kiên quyết chống lại sự can

thiệp, áp đặt, xâm phạm đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất

nƣớc ta.

Chúng ta phản đối mọi âm mƣu và hành động can thiệp của các lực lƣợng

thù địch vào công việc nội bộ của các nƣớc Cu Ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân

Triều Tiên. Thực hiện nguyên tắc này chúng ta phải phát huy cao độ tinh thần

độc lập tự chủ, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh và làm thất bại mọi âm

mƣu và hành động can thiệp bằng "diễn biến hoà bình" của các lực lƣợng thù

địch.

- Bình đẳng và cùng có lợi.

Quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dù lớn hay nhỏ đã đƣợc khẳng định

trong Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc thực hiện quyền bình đẳng chính là đảm

quyền sống, quyền tự do, mƣu cầu hạnh phúc và phát triển của mỗi dân tộc,

khẳng định tôn trọng quyền bình đẳng thể hiện tƣ thế và vị trí của Việt Nam

trong quan hệ quốc tế.

Cùng có lợi là nguyên tắc khách quan, có ý nghĩa toàn diện và lâu dài. Nó

yêu cầu tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thúc đẩy hợp tác mỗi bên với

Page 45: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

45

nƣớc khác theo tinh thần là đối tác tin cậy, lâu dài của nhau, thực hiện đầy đủ

các cam kết, thoả thuận, chống áp đặt, cƣờng quyền.

- Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình.

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự bất đồng và tranh

chấp giữa các nƣớc, các khu vực về kinh tế, chính trị, dân tộc, tôn giáo, biên

giới… là khó tránh khỏi. Với tinh thần đổi mới, phƣơng châm xử lý quan hệ quốc

tế của chúng ta là hoà bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nƣớc, phát huy

những điểm tƣơng đồng, hạn chế những điểm bất đồng, kiên quyết phản đối dùng

vũ lƣc, giải quyết các tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình.

- Làm thất bại mọi âm mƣu và hành động gây sức ép, áp đặt và cƣờng

quyền.

Đây là nguyện vọng chung, là yêu cầu bức xúc của nhiều nƣớc trên thế

giới và là một nguyên tắc chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc ta.

Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với các nguyên tắc nêu trên chúng ta

tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nƣớc, bảo vệ các nƣớc nghèo, nhỏ yếu,

chống chủ nghĩa nƣớc lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Kiên quyết làm thất bại

âm mƣu và hành động gây sức ép hoặc áp đặt, đe doạ đến lợi ích của dân tộc.

* Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại

Hiến pháp nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định

nhiệm vụ đối ngoại là: "Thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị mở rộng giao

lƣu và hợp tác với tất cả các nƣớc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị

và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cƣờng tình đoàn kết hữu

nghị và quan hệ hợp tác với các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng,

tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì

hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội"(1)

.

Thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa

phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối

(1) Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam, trang 17 -18

Page 46: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

46

tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập

và phát triển. Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại hiện nay là:

"Tiếp tục giữ vững môi trƣờng hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế

thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc,

xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đảm bảo độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời góp

phần tích cực vào cuộc đấu tránh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc

lập dân tộc dân củ và tiến bộ xã hội”. (2)

- Tiếp tục giữ vững môi trƣờng hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế

thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc,

xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc

của các quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,

dân sinh và công bằng xã hội hiện nay có những bƣớc tiến mới. Hợp tác ngày

càng tăng nhƣng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Mặc dù còn mâu thuẫn nhƣng các

nƣớc lớn vẫn phụ thuộc lẫn nhau, kiềm chế nhau, hạn chế đối đầu. Trong vài

thập kỷ tới, ý có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, nhƣng chiến tranh cục bộ

và xung đột, hoạt động can thiệp, khủng bố vẫn xảy ra phức tạp. Nhiệm vụ tiếp

tục giữ gìn môi trƣờng hoà bình, ổn định để phát triển đất nƣớc đổi mới chúng ta

là vô cùng cấp thiết.

Trải qua nhiều năm chiến tranh gian khó, nhân dân ta hiểu rất sâu sắc

chân lý: "không có gì quý hơn độc lập do" của chủ tịch Hồ Chí Minh và giá trị

của hoà bình. Đất nƣớc ổn định, phát triển mấy chục năm qua đã làm cho Việt

Nam giữ vững đƣợc môi trƣờng hoà bình, có điều kiện quốc tế thuận lợi để phát

triển đất nƣớc.

- Đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia.

Trong quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia đƣợc đảm bảo bằng luật pháp

quốc tế. Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là những giá trị cơ bản và thiêng

liêng mà nhân dân ta đã đấu tranh lâu dài mới giành đƣợc. Những thắng lợi vĩ

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội 2001, trang 119-120

Page 47: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

47

đại trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thành tựu của sự nghiệp đổi mới

20 năm qua đã tạo ra thế và lực mới của đất nƣớc, cơ bên trong lẫn bên ngoài,

nâng cao uy tín và vị thế của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế. Đây là thuận lợi rất cơ

bản của ta trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia hiện nay.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền

quốc gia của chúng ta diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Trƣớc hết là bảo vệ sự

thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ độc lập tự chủ về đƣờng lối và chính

sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ

độc lập tự củ về kinh tế, bản sắc văn boá dân tộc, quyền lợi quốc gia trong quan

hệ quốc tế.

- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì

hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội là nguyện vọng, là

mục tiêu đấu tranh chung của nhân dân thế giới.

Trung thành với nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế, của giai cấp công nhân,

chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và phát triển mối

quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

Với thắng lợi của công cuộc đổi mới, với uy tín, vị thế và kinh nghiệm,

Việt Nam đã và đang góp phần quan trọng và cuộc đấu tranh chung của nhân

dân thế giới, đồng thời cũng có điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát

triển đất nƣớc. Đây vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ quốc tế của chúng ta.

Để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc với thời đại, trong nƣớc và

quốc tế trong điều kiện mới Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức nhƣ ASEAN,

khối các nƣớc sử dụng tiếng Pháp, Diễn đan an ninh khu vực (ARF), Hội nghị

cấp cao Á - Âu (ASEM) chuẩn bị gia nhập WTO.. tích cực hoạt động trên nhiều

lĩnh vực góp phần ủng hộ cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới đòi giải

trừ quân bị và vũ khí hạt nhân, chống chạy đua vũ trang, lên án các cuộc xâm

lƣợc, các hoạt động khủng bố… tham gia tích cực vào việc bảo vệ môi trƣờng

chống tội phạm quốc tế.

Page 48: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

48

- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực Hội nhập kinh tế và khu

vực là một yêu cầu khách quan hiện nay. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng đã

tác động mạnh mẽ trên cả mặt tích cực và tiêu cực tới tất cả các nƣớc.

Muốn hội nhập quốc tế, tiếp thu đƣợc những kinh nghiệm quý, vốn, khoa

học và công nghệ mới.. phải có tinh thần chủ động và có thực lực kinh tế đủ

mạnh để có ƣu thế và lợi thế so sánh. Để tăng cƣờng thực lực kinh tế, khả năng

cạnh tranh, tạo ra thế và lực cao hơn cần phát huy nội lực. Phát huy tối đa nội

lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là điều kiện để chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế.

Hiệu quả hợp tác quốc tế cần đạt đƣợc xem xét toàn diện trên các mặt

chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đề phòng và khắc phục

chỉ theo lợi ích kinh tế đơn thuần, đảm bảo độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội

chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá

dân tộc, bảo vệ môi trƣờng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển bền vững là yêu

cầu và mục tiêu cho sự phát triển bền vững là yêu cầu và mục tiêu chung, xuyên

suốt khi hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia hội nhập kinh tế là chấp nhận sự

cạnh tranh ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu và chấp nhận những quy

định chung trong quan hệ quốc tế. Hiện nay sức cạnh tranh của nền kinh tế

chúng ta còn thấp, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chủ động và vƣơn lên mạnh mẽ

khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới.

Chính phủ, các bộ, ngành và các doanh nghiệp cần xây dựng và thực hiện

kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình hợp lý và chƣơng trình hành động

cụ thể. Phát huy tính chủ động và tiềm năng của mọi cấp, mọi ngành đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn thiện

hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền

kinh tế là yêu cầu chung phát triển nền kinh tế nƣớc ta trong hợp tác kinh tế

quốc tế.

Thực hiện tốt nhiệm vụ chung, chủ yếu của công tác đối ngoại trên nhất

định chúng ta sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, góp phần tạo ra thế và lực mới, cả

Page 49: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

49

bên trong lẫn bên ngoài, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện

đại hóa đất nƣớc.

* Nhiệm vụ cụ thể của chính sách đối ngoại:

+ Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc xã hội

chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng.

Các nƣớc xã hội chủ nghĩa có cùng mục tiêu, lý tƣởng, dựa trên nền tảng

tƣ tƣởng chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và trƣớc

đây đã có quá trình hợp tác, giúp đỡ nƣớc ta. Coi trọng và phát triển quan hệ với

các nƣớc đã thực hiện chủ nghĩa quốc tế trong sáng, sự kiên định lập trƣờng vô

sản và tỉnh cảm thuỷ chung của nhân dân ta, góp phần củng cố chủ nghĩa xã hội

trên thế giới và phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, coi trọng độc lập, tự chủ

của mỗi Đảng, mỗi nƣớc.

Các nƣớc láng giềng có vai trò rất quan trọng. Coi trọng và phát triển

quan hệ, với các nƣớc láng giềng có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự ổn định và

phát triển của đất nƣớc. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là luôn coi trọng

và tăng cƣờng phát triển quan hệ với Trung Quốc, Lào và Campuchia - điều có ý

nghĩa quan trọng để duy trì và phát triển môi trƣờng hoà bình, ổn định lâu dài

của nƣớc ta và khu vực.

Các nƣớc Đông Nam Á có vai trò quan trọng. Đây là khu vực phát triển

kinh tế năng động có vị trí quan trọng vì quốc phòng, an ninh, chủ trƣơng của

chúng ta là phát huy vai trò chủ động và đóng góp tích cực vào hoạt động chung

của các nƣớc ASEAN theo hƣớng nâng cao hiệu quả và chất lƣợng hợp tác. Thu

hẹp khoảng cách kinh tế, giữa các nƣớc phấn đầu xây dựng Đông Nam Á, thành

một khu vực hoà bình, ổn định, không có vũ khí hạt nhân và hợp tác cùng phát

triển.

+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với với các nƣớc bạn bè truyền thống, các

nƣớc độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển.

Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là tiếp tục mở rộng quan hệ với các

nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trƣớc đây và một số nƣớc khác

Page 50: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

50

với có quá trình lịch sử hợp tác nƣớc ta. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nƣớc

độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi., Trung Đông và

Mỹ La Tinh, các nƣớc trong phong trào không liên kết.

Quan hệ của Việt Nam với những nƣớc này đã đƣợc thử thách, có quá

trình hiểu biết lẫn nhau, vì vậy, kế thừa và phát triển truyền thống quan hệ tốt

đẹp trƣớc đây lên một bƣớc mới là quan trọng và rất cần thiết. Chúng ta tôn

trọng những nguyên tắc, luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm ủng hộ, giúp đỡ lẫn

nhau cùng phát triển và phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau.

+ Thúc đẩy quan hệ đa dạng hóa với các nƣớc phát triển và các tổ chức

quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phƣơng.

Các nƣớc phát triển tiếp tục có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế,

nhất là trong lĩnh vực kinh tế nhƣ nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, khoa học và

công nghệ , thị trƣờng… Các nƣớc này có vai trò lớn và đang chi phối quá trình

toàn cầu hóa. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu mở rộng hợp tác, tìm kiếm thị

trƣờng. Việt Nam phát triển quan hệ với các nƣớc này, thúc đẩy quan hệ đa

dạng, gồm cả quan hệ chính phủ với các nƣớc và các tổ chức quốc tế là rất cần

thiết để tranh thủ các thế mạnh của họ cho sự phát triển đất nƣớc, tạo môi trƣờng

hòa bình, ổn định lâu dài.

Các diễn đàn và các tổ chức quốc tế có vai trò và tác động rất lớn đối với

nền kinh tế và đời sống chính trị của thế giới và Việt Nam.

Hoạt động trên các diễn đàn và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế

có ý nghĩa thúc đẩy sự hiểu biết và mở rộng sự hợp tác giữa nƣớc ta với các

nƣớc trên thế giới. Chủ trƣơng của ta là đẩy mạnh hoạt động trên các tổ chức và

diễn đàn quốc tế để đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế

giới, nâng cao uy tín và vị trí quốc tế của nƣớc ta, tranh thủ sự đồng tình và dƣ

luận tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

+ Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thế giới hiện nay

đang đứng trƣớc những vấn đề tòan cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có

thể tự giải quyết đƣợc nhƣ chiến tranh và hòa bình, bảo vệ môi trƣờng, hạn chế

Page 51: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

51

bùng nổ dân số, phòng chống ma túy và tội phạm quốc tế, đẩy lùi những bệnh

hiểm nghèo… Nhận thức đúng và tham gia tích cực giải quyết các vấn đề độc

lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia của nƣớc ta.

Chúng ta chủ trƣơng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới bảo vệ

hòa bình, loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và các phƣơng tiện

chiến tranh giết ngƣời hàng loạt, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ

trang, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Quyền tự chọn con đƣờng phát triển của mỗi dân tộc. Việc tích cực tham

gia giải quyết những vấn đề toàn cầu thể hiện trách nhiệm của chúng ta trƣớc

nhân loại và tạo điều kiện để nhân dân ta có hành động thiết thực vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

+ Củng cố và tăng cƣờng quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng

sản và công nhân, với các Đảng Cộng sản và công nhân với các đảng cánh tả và

các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và

tiến bộ trên thế giới.

Hiện nay, Đảng ta có quan hệ với gần 200 Đảng cộng sản và công nhân,

Đảng cánh tả và phong trào giải phóng dân tộc và độc lập. Đây là lực lƣợng cách

mạng và tiến bộ, đứng trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế

quốc và các thế lực phản động, hiếu chiến. Họ đều có quan hệ tốt và cổ vũ

thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nƣớc ta, bày tỏ tình đoàn kết, sự ủng hộ Việt

Nam trên nhiều vấn đề quốc tế. Chủ trƣơng của ta là luôn ủng hộ, doàn kết hợp

tác, tôn trọng độc lập tự chủ, đƣờng lối vào công việc nội bộ của nhau và không

để ảnh hƣởng đến quan hệ giữa nƣớc ta với quốc gia và chính phủ hiện đnag là

lực lƣợng đối lập của họ.

+ Tiếp tục rở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền các Đảng cầm quyền

hiện nay đều có tiếng nói và có thể mạnh nhất định về chính trị, kinh tế và kinh

nghiệm quản lý đất nƣớc. Việc thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền và thể

hiện chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta. Điều đó thúc đẩy thêm quan hệ

mới với các chính phủ nƣớc đó, tạo điều kiện để Đảng và Nhà nƣớc ta trao đổi

Page 52: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

52

kinh nghiệm cầm quyền, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ; chủ

trƣơng của ta là tôn trọng độc lập và tự chủ, đƣờng lối và quan điểm của đảng

đó, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau tìm ra tiếng nói chung và có

giải pháp hiệu quả trong việc mở rộng quan hệ hợp tác.

+ Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân.

Ngoại giao nhân dân có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực,

trí tuệ khoa học, vốn đầu tƣ xây dựng đất nƣớc, thúc đẩy giao lƣu, hiểu biết lẫn

nhau giữa Việt Nam và các nƣớc. Thông qua đó nhân dân thế giới hiểu biết ta

hơn và tác động tích cực đến chính phủ ủng hộ, hợp tác với Việt Nam; chúng ta

có thêm mặt trận đấu tranh chống thế thực phản động và thù địch, thúc đẩy hòa

bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Những năm qua ngoại giao nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi chính

phủ ngày càng phát triển và đã góp phần quan trọng và thắng lợi chung của công

cuộc đổi mới. Hiện nay, có gần 3 triệu ngƣời Việt Nam định cƣ ở 80 nƣớc và

lãnh thổ trên thế giới. Việc triển khai thực hiện nghị quyết 36 của Bộ chính trị

khóa IX về công tác đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài đã làm cho các hoạt

động ngoại giao nhân dân càng đẩy mạnh hơn. Chủ trƣơng của ta là mở rộng và

nâng cao hiệu quả hợp tác - hoạt động này nhƣng luôn cảnh giác, ngăn ngừa

những ý đồ lợi dụng các cứu trợ, viện trợ nhân đạo.. Vì mục đích chính trị, làm

ảnh hƣởng đến ổn định và phát triển của đất nƣớc.

Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc, củng cố và tăng

cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, các nƣớc láng

giềng, tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc theo phƣơng châm

"láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hƣớng tới tƣơng lai".

Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào.

Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Campuchia. Đoàn kết, gắn bó với các

nƣớc ASEAN, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở

Đông Nam Á. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cu Ba, cộng hoà dân chủ nhân dân

Triều Tiên. Tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị với các nƣớc bạn bè truyền

Page 53: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

53

thống: thúc đẩy, quan hệ hợp tác tác chiến lƣợc với Nga, hợp tác với các nƣớc

trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và các nƣớc Đông Âu, mở rộng

quan hệ với các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ Mỹ, Nhật Bản và Khối EU.

Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nƣớc và vùng lãnh thổ, giữ

vững và tăng cƣờng quan hệ hữu nghị truyền thống với các Đảng cộng sản và

công nhân quốc tế, với quan hệ thƣơng mại trên 140 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với

hơn 70 nƣớc. Đến tháng 7/2004 Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.873 dự án đầu

tƣ nƣớc ngoài. Đóng góp của khu vực đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào kinh tế

Việt Nam ngày càng cao.

Trên cơ sở kiên định đƣờng lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng

mở, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại, Nghị quyết Trung ƣơng

chín (khoá IX) đã đánh giá ƣu điểm và hạn chế của 3 năm thực hiện Nghị quyết

Đại hội IX.

* Về ưu điểm:

- Đã củng cố và tăng cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác và hữu nghị với các

nƣớc xã hội chủ nghĩa, các nƣớc láng giềng có chung biên giới; góp phần tích

cực củng cố sự gắn kết, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc

đẩy hợp tác nội khối và bên ngoài.

Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc theo

phƣơng châm 16 chữ, tăng cƣờng tin cậy lẫn nhau, tiến hành phân giới, cắm

mốc trên đất liền, thúc đẩy đàm phán nghị định thƣ về nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và

hợp tác toàn diện với Lào, đẩy mạnh quan hệ hợp tác, phối hợp và giúp đỡ lẫn

nhau giữa các ngành, các cấp các địa phƣơng của hai nƣớc. Tăng cƣờng quan hệ

hữu nghị, láng giềng thân thiện với Campuchia, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tăng

cƣờng giao lƣu giữa các địa phƣơng giáp biên giới của hai bên, thúc đẩy đàm

phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Thúc đẩy hợp tác trong tam giác

phát triển giữa ba nƣớc Việt Nam- Lào- Campuchia và các chƣơng trình hợp tác

“ tiểu vùng sông Mê Công”. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cuba trong sự nghiệp xây

Page 54: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

54

dựng chủ nghĩa xã hội đấu tranh chống bao vây, cấm vận. Duy trì quan hệ hữu

nghị, hợp tác với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên.

Tăng cƣờng quan hệ song phƣơng với các nƣớc thành viên và tổ chức

ASEAN, góp phần tích cực vào việc phục hồi kinh tế, củng cố và tăng cƣờng

liên kết nội bộ và giữ vững nguyên tắc cơ bản của ASEAN; mở rộng quan hệ

với các đối tác khác, nhất là với các nƣớc lớn; đóng góp tích cực vào việc xây

dựng cộng đồng ASEAN theo tầm nhìn 2020; thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định,

hợp tác cùng phát triển ở Đông Nam Á.

- Tiếp tục mở rộng và tăng cƣờng quan hệ hợp tác phát triển ổn định, lâu

dài với nhiều nƣớc khác trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các nƣớc bạn bè

truyền thống: thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lƣợc với Nga, sự hợp tác chiến lƣợc

với các nƣớc SNG và Đông Âu; mở rộng thêm một bƣớc quan hệ hợp tác với

các nƣớc độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Trung

Đông và Mỹ La Tinh; tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, ổn định lâu

dài với các nƣớc lớn khác: Mỹ, EU, Nhật Bản. Tăng cƣờng quan hệ với các tổ

chức quốc tế.

- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu nhƣ xoá đói, giảm

nghèo, phòng chống các bệnh dịch hiểm nghèo (HIV/AIDS, SARD), chống

khủng bố, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trƣờng; ủng hộ và tích cực tham

gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh, chay đua vũ

trang, áp đặt và can thiệp, bảo vệ hoà bình, độc lập, chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ

của các nƣớc.

- Quan hệ đối ngoại của Đảng đƣợc mở rộng, hoạt động đối ngoại nhân dân

sống động hơn. Tiếp tục củng cố và tăng cƣờng quan hề đoàn kết và hợp tác với

các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền, các chính đảng, các

phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng và tiến bộ

trên thế giới; duy trì và mở rông quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số

nƣớc. Hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục phát triển, tranh thủ đƣợc sự đồng

tình, ủng hộ của các tổ chức nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi

Page 55: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

55

chính phủ quốc gia và quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc của ta.

- Xử lý kịp thời và có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ

với các nƣớc, đấu tranh kiên quyết và khôn khéo với những âm mƣu và hành

động của các thế lực bên ngoài xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh của

đất nƣớc.

* Một số hạn chế, yếu kém:

- Công tác nghiên cứu chiến lƣợc, dự báo tình hình còn yếu; chƣa tạo đƣợc

sự thống nhất cao trong nhận thức, nhất là chủ trƣơng trong quan hệ với một số

nƣớc lớn; trong một số trƣờng hợp còn bị động đối phó với tình hình; sự phối

hợp giữa hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chƣa thật nhuần nhuyễn; việc xử lý

mối quan hệ giữa yêu cầu giữ vững ổn định trong nƣớc và mở rộng quan hệ đối

ngoại còn có lúc lúng túng.

- Quan hệ hợp tác vối các nƣớc chƣa sâu và chƣa vững chắc, quan hệ kinh

tế và chính trị nhiều khi chƣa gắn kết với nhau; trong một số trƣờng hợp cụ thể

còn có sơ hở. Việc xây dựng cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại

còn chậm.

Chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc ta, là nhân tố quan

trọng góp phần giữ gìn hoà bình, cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên

thế giới, tạo môi trƣờng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.

Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự nghiệp chung của nhân

dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Page 56: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

56

Page 57: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

57

CHƢƠNG III

MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ

QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

I. CHỦ TRƢƠNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI TRONG

THỜI GIAN TỚI

Nghị quyết Trung ƣơng 9 (khoá IX) nhấn mạnh chính sách đối ngoại của

Việt Nam trong thời gian tới đứng trƣớc những thời cơ và thách thức mới. Do

vậy, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những chủ trƣơng và nhiệm vụ của

công tác đối ngoại.

* Về chủ trương công tác đối ngoại:

Tiếp tục củng cố và tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam

và các nƣớc láng giềng có chung biên giới, các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các

nƣớc trong khu vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ

bản của ASEAN, tăng cƣờng gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế tác động phân hoá

từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế.

Tiếp tục thúc đẩy quan hệ với các nƣớc lớn trên nguyên tắc bình đẳng,

cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, xử lý khôn khéo

trong quan hệ, hết sức tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.

Thúc đẩy quan hệ với các nƣớc đang phát triển, nâng cao vị thế của nƣớc

ta trong phong trào Không liên kết, nhóm 77, tích cực triển khai kết quả Hội

thảo về Châu Phi để mở rộng quan hệ với Châu Phi. Tích cực tham gia các hoạt

động ngoại giao đa phƣơng; tổ chức tốt Hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ

5(ASEM 5), cấp cao APEC. Nâng cao vị thế nƣớc ta trong các tổ chức quốc tế.

Tăng cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, công nhân,

duy trì quan hệ với các đảng cầm quyền, các chính đảng khác, các phong trào

cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tăng cƣờng công tác đối ngoại nhân dân.

Page 58: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

58

* Về Nhiệm vụ của công tác đối ngoại:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin nghiên cứu, dự báo tình hình khu

vực và thế giới, tăng cƣờng hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối

ngoại.

Hiện nay, khoa học và công nghệ thông tin phát triển bùng nổ nhƣ vũ bão,

tình hình quốc tế diễn biến mau lẹ, quan hệ quốc tế diễn biến rất phức tạp. Bởi

vậy công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực và trên thế

giới có ý nghĩa rất quan trọng. Đẩy mạnh công tác này để khắc phục sự yếu

kém, bị động và phân tán của thông tin đối ngoại của ta hiện nay và nắm bắt

chính xác, chủ động có những chủ trƣơng đối ngoại thích hợp, tránh bị động, bất

ngờ. Qua đó thúc đẩy sự hiểu biết giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới, đấu

tranh trƣớc dƣ luận quốc tế.

Tăng cƣờng văn hóa đối ngoại để thúc đẩy giao lƣu văn hóa Việt Nam và

văn hóa thế giới, củng cố sự hiểu biết, phát triển quan hệ hữu nghị giữa nƣớc ta

với các nƣớc. Qua đó giới thiệu đƣợc giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam với

thế giới và tinh hoa văn hóa thế giới với nhân dân ta.

Tăng cƣờng văn hoá đối ngoại, quan tâm giáo dục lòng tự hào, ý thức giữ

gìn bẳn sắc văn hoá Việt Nam đi đôi chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm hiện

đại, lai căng, mất gốc truyền thống dân tộc.

Thứ hai, bồi dƣỡng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, phẩm chất đạo

đức của đội ngũ làm công tác đối ngoại.

Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhất là kinh tế đối ngoại là những

ngƣời thay mặt cho đất nƣớc trong hoạt động đối ngoại. Họ là ngƣời đại diện

cho văn hoá, trí tuệ, bản lĩnh và tính cách của nhân dân Việt Nam với nhân dân

thế giới, góp phần nâng cao uy tín, vị thế và bảo đảm lợi ích của Việt Nam trong

quan hệ quốc tế nên cần đƣợc đào tạo toàn diện, rèn luyện về chính trị năng lực,

đạo đức, phẩm chất… Cần quan tâm bồi dƣỡng cho đội ngũ này vì đƣờng lối,

chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nƣớc, giáo dục ý thức tự hào dân tộc, lòng

trung thành với lợi ích quốc gia, với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bồi dƣỡng

Page 59: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

59

năng lực phân tích thực tiễn ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn, ngoại giao, khả

năng tiếp thu kinh nghiệm của nƣớc ngoài vận dụng tốt vào công việc của mình

phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nƣớc.

Thứ ba, phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại của

Đảng và đối ngoại nhân dân. Phối hợp chặt chẽ các hoạt động đối ngoại trên,

phát huy tối đa sức mạnh nội lực, tạo ra sự phong phú đa dạng và sức mạnh tổng

hợp của nhiều tổ chức trong công tác đối ngoại. Thực hiện chính sách đối ngoại

rộng mở, quan hệ ngoại giao của các cấp bộ Đảng, chính quyền và đoàn thể

nhân dân trong thời kỳ qua ngày càng mở rộng hơn và phát triển hết sức sôi

động. Các hoạt động giao lƣu, hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,

chính trị, văn hoá… khoa học… đƣợc đẩy mạnh, chủ trƣơng của ta là gắn kết và

phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả các lực lƣợng tham gia hoạt động đối ngoại để

cùng phục vụ đắc lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc.

Thứ tư, hoàn thiện ƣu thế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Các

hoạt động đối ngoại rất phong phú, đa dạng, nhiều quy mô và lực lƣợng tham

gia. Để thực hiện đúng nguyên tắc, nhiệm vụ đối ngoại và đảm bảo sự lãnh đạo

của đảng cần hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất, các cấp, các ngành và mọi

lực lƣợng đối ngoại cần phát huy dân chủ, tính chủ động, tích cực, sáng tạo. Cần

khắc phục những cản trở hoặc chồng chéo giữa các cấp, các ngành, giữa trung

ƣơng và địa phƣơng, các tổ chức kinh tế, xã hội trong mọi hoạt động đối ngoại.

II. CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

Dƣới tác động của toàn cầu hoá, sự phát triển kinh tế tri thức và đòi hỏi của

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, hội nhập kinh tế quốc tế và

khu vực là một yêu cầu khách quan. Đây cũng là một nội dung trong đƣờng lối

kinh tế và đƣờng lối đối ngoại của Đảng, kết hợp nội lực với ngoại lực, bên

trong và bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức manh thời đại để tạo ra sức mạnh

tổng hợp của đất nƣớc, tạo ra thực lực đủ mạnh. Từ đó đặt ra các yêu cầu sau

đây:

Page 60: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

60

- Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo về độc lập

tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,

giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trƣờng.

Quan điểm mới của chúng ta là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu

vực để không bị bất cứ tác động nào lôi cuốn làm ảnh hƣởng đến các nguyên tắc

đối ngoại. Có phát huy nội lực mới tăng cƣờng thực lực kinh tế, khả năng cạnh

tranh, tạo ra thế và lực cao hơn, nâng cao hiệu quả và đảm bảo lợi ích trong quan

hệ hợp tác quốc tế. Hiệu quả hợp tác quốc tế cần đƣợc xem xét theo quan điểm

toàn diện. Hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an

ninh, quốc phòng. Phát huy tối đa nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế

là điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

Bảo đảm độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân

tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi

trƣờng sinh thái là bảo đảm sự phát triển bền vững, là yêu cầu, là mục tiêu

chung, xuyên suốt của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập, luôn

luôn khắc phục những tƣ tƣởng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần.

- Khẩn trƣơng xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với

lộ trình hợp lý và chƣơng trình hành động cụ thể, phát huy tính chu động của các

cấp, các ngành và các doanh nghiệp.

Hội nhập kinh tế là để tranh thủ những ƣu thế và lợi ích kinh tế, vốn, kỹ

thuật, công nghệ mới nhƣng phải chấp nhận sự canh tranh đang diễn ra ngày

càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu, đồng thời phải chấp nhận những luật lệ, quy

định chung về quan hệ quốc tế đang đƣợc áp dụng. Nền kinh tế của chúng ta

hiện nay sức cạnh tranh còn thấp, kém hiệu quả, bao cấp và bảo hộ còn nặng.

Nếu không vƣơn lên mạnh mẽ thì tham gia các tổ chức kinh tế và khu vực chúng

ta sẽ bị thiệt hại ngay cả ở thị trƣờng trong nƣớc.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhằm đáp ứng yêu cầu chung phát

triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần và phát huy lợi thế sản xuất

của nền kinh tế nƣớc ta trong hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả và năng

Page 61: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

61

lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đổi mới cơ chế

quản lý kinh tế hội, hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm phát huy tiềm năng của

mỗi đơn vị kinh tế khi tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nghị

quyết Trung ƣơng chín(khoá IX) nhấn mạnh việc: chủ động và khẩn trƣơng hơn

trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nƣớc để thực

hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phƣơng và song phƣơng, nƣớc ta đã ký và

sớm ra nhập tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO), tăng tính cạnh tranh của môi

trƣờng đầu tƣ so với khu vực và thu hút mạnh đầu tƣ nƣớc ngoài.

III. MỘT SỐ BÀI HỌC BƢỚC ĐẦU VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Xuất phát từ các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe

doạ dùng vũ lực trong quan hệ với nhau, bình đẳng và cùng có lợi bảo đảm góp

phần phát triển quan hệ kinh tế nƣớc ta, bảo vệ sản xuất, tài nguyên, môi trƣờng

và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của văn

hóa dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã giành đƣợc nhiều thành tựu trong thời kỳ

đổi mới và cũng để lại nhiều bài học quý giá. Những bài học đó không chỉ mang

lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới của đất nƣớc trong thời

gian qua mà còn chi phối toàn bộ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc

Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu đề cập tới nhiều bài học khác nhau nhƣng ở đây chúng

ta chỉ có thể đề cập đến những bài học chung nhất có ý nghĩa chỉ đạo quá trình

hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam.

+ Thứ nhất là: nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cƣờng, đẩy mạnh

đa dạng hóa, đa phƣơng hóa quan hệ quốc tế là nguyên tắc cơ bản của quá trình

xác định và thực hiện chính sách đối ngoại.

Ở mỗi thời đại có một chính sách đối ngoại riêng phù hợp với chế độ

đƣơng thời nhƣng đều phụ thuộc vào yếu tố có tính nguyên tắc là lợi ích dân tộc

gắn liền với độc lập dân tộc. Thực chất của vấn đề này là giải quyết quan hệ giữ

lợi ích dân tộc với đoàn kết quốc tế, nói tới vấn đề này chúng ta không thể

Page 62: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

62

không nói đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Những hoạt động ngoại giao của ngƣời

phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống ngoại giao dân tộc và tinh hoa

kim cổ, Đông tây của nhân loại. Với học thuyết Mác - Lênin ngƣời đã định

hƣớng cho đƣờng lối ngoài của Đảng ngay từ khi khai sinh ra Nhà nƣớc Việt

Nam dân chủ cộng hòa và đƣa nền ngoại giao Việt Nam lên những đỉnh cao

mới. Hồ Chí Minh là một ngƣời có định hƣớng chính trị sáng suốt, có tầm nhìn

thời đại. Ngƣời sớm nắm bắt đƣợc mối liên hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc

với độc lập tự chủ ngay khi ngƣời nghiên cứu "bản luận cƣơng của Lênin về vấn

đề dân tộc và thuộc địa".

Hồ Chí Minh là ngƣời đầu tiên tổ chức xây dựng mối quan hệ kiểu mới

giữa cách mạng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, giữa cách

mạng giải phóng dân tộc với lực lƣợng xã hội chủ nghĩa trên thế giới.

Trong sách lƣợc vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Tuyên truyền

Việt Nam độc lập phải đồng thời thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và giai

cấp vô sản thế giới, nhất là với giai cấp vô sản Pháp. Ngoài chủ trƣơng không

thành lập, Đông Dƣơng độc lập đồng minh hội. Vì cả ba dân tộc giúp đỡ nhau

chống đế quốc, tôn trọng độc lập tự chủ của mỗi nƣớc này với nƣớc khác theo

Ngƣời chỉ có độc lập dân tộc mới có lợi ích dân tộc, lợi ích dân tộc là động lực

để phấn đấu giành và giữ cho đƣợc độc lập dân tộc. Trong tuyên ngôn thành lập

nƣúơc (2/9/1945) Ngƣời tuyên bố: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả

tinh thần và lực lƣợng, tính mệnh… của mình để giữ vững tự do - độc lập". Độc

lập tự do, an ninh của Tổ quốc để phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc là

nguyên tắc cơ bản của hoạt động ngoại giao.

Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc trong

công tác ngoại giao, lợi ích dân tộc trên hết đặc biệt là những lúc tình thế đất

nƣớc hiểm nghèo.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam càng nêu cao lợi ích dân tộc, giai đoạn

(1945 - 1996) vận mệnh đất nƣớc "ngàn cân treo sợi tóc", giặc ngoài thù trong

đều mạnh. Vì lợi ích tối cao của dân tộc nhiệm vụ hàng đầu của chính sách đối

Page 63: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

63

ngoại là "phải cứu vãn hòa bình, tranh thủ thời gian củng cố chính quyền, gạt

bớt kẻ thù, chuẩn bị đối phó với kẻ thù chính. Hồ Chí Minh đƣa ra sách lƣợc

ngoại giao thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ lợi ích dân tộc và cũng rất độc lập

tự chủ - tiếp sau hiệp định sơ bộ ký với Pháp 6/3/1946 Đảng chủ trƣơng và thực

hiện đàm phán với Pháp ngay trên đất Pháp… do đó đã giải tỏa đƣợc sự bao vây

và xuyên tạc của kẻ thù về Việt Nam, đồng thời làm cho nhân dân Pháp chú ý và

hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Mỹ ta đã tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của Trung -

Xô để đánh thắng Mỹ ngay cả khia hai nƣớc có những mâu thuẫn sâu sắc

(những năm 1968 - 1970) ta làm đƣợc nhƣ vậy là do ta giữ vững độc lập tự chủ

và biết đặt lợi ích cao nhất của dân tộc (đánh thắng Mỹ) lên trên hết, biết cân

bằng lợi ích giữa các quốc gia cùng chia sẻ đánh Mỹ.

Khi cả nƣớc bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-1986) do vấn đề

Campuchia gây ra, nghị quyết (13 Bộ chính trị ngày 20/5/1988). Đại hội VI đề

ra đƣờng lối đổi mới mẫu mực về việc nắm vững nguyên tắc giữ vững độc lập tự

chủ và nguyên tắc giữ vững lợi ích dân tộc. Đó là cái mốc chuyển hƣớng về đối

ngoại; giải quyết vấn đề Campuchia, bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc,

cải thiện quan hệ với các nƣớc ASEAN, mở rộng quan hệ với các nƣớc khác.

Nhiệm vụ ƣu tiên là kinh tế đối ngoại, đồng thời giữ vững an ninh chính trị.

Những thắng lợi ngoại giao trong những năm gần đây đều bắt nguồn từ

nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ chính trị 20/5/1988. Nguyên tắc

giữ vững lợi ích dân tộc - giữ vững độc lập tự chủ đòi hỏi chúng ta phải nắm

chắc vận dụng những quan điểm sau:

Lợi ích của dân tộc là cái vĩnh viễn. Nó là cái mà chúng ta phải "đem tất cả

tinh thần, lực lƣợng, tính mệnh… để giữ vững "chúng ta không có kẻ thù vĩnh

viễn - không có đồng minh vĩnh viễn. Đối ngoại phải đƣợc xác định là một mặt

trận góp sức giữ vững hòa bình, sống hòa hữu là bạn với các nƣớc, không gây

thù gieo oán với ai, đó là bảo đảm cho lợi ích dân tộc lâu dài.

Page 64: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

64

Trong từng bối cảnh lịch sử mà vận dụng nguyên tắc cho thích hợp. Thời

kỳ dựng nƣớc lợi ích dân tộc là cứu vãn hòa bình. Thời kỳ kháng chiến là tranh

thủ sự ủng hộ quốc tế bảo đảm đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc. Thời kỳ xây dựng

và bảo vệ tổ quốc lợi ích hàng đầu của dân tộc là củng cố hòa bình mở rộng

quan hệ hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát triển lợi ích dân tộc.

Có độc lập tự chủ mới gạt đƣợc tác động sức ép của bên ngoài và không bị lợi

dụng trở thành "quân bài chiến lƣợc trong tay ngƣời khác". Độc lập tự chủ

đƣơng nhiên không dung chứa tƣ tƣởng dân tộc hẹp hòi mà phải biết tôn trọng

nhau - bình đẳng cùng nhau tham gia hợp tác chia sẻ trách nhiệm tìm lợi ích

chung.

Ngày nay trƣớc cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập

dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội - sự phát triển nhƣ vũ bão của cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế, thì

nguyên tắc lợi ích dân tộc, độc lập tự chủ có ý nghĩa giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt

động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc không chỉ trong hiện tại mà trong

tƣơng lai phát triển đất nƣớc.

+ Thứ hai là: quan hệ với các nƣớc láng giềng và khu vực phải là mối quan

hệ hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc.

Châm ngôn Việt Nam có câu: "Bán anh em xa mua láng giềng gần", các

nƣớc láng giếng gần nhau thƣờng có nhiều vấn đề do lịch sử để lại nhƣ tồn tại về

biên giới - lãnh thổ và những vấn đề liên quan đến lợi ích chung nhƣ nguồn

nƣớc, môi trƣờng sinh thái, tôn giáo, sắc tộc… hay những vấn đề liên quan đến

tâm lý hòa hiếu, hay căng thẳng do lịch sử lâu dài để lại và do tác động ảnh

hƣởng của quan hệ giữa các nƣớc. Song suy tới cùng quan hệ láng giềng căng

thẳng hay hòa bình ổn định là do chính sách đối ngoại của quốc gia có xác định

lợi ích dân tộc.

Việt Nam qua các thời kỳ dựng nƣớc, giữ nƣớc, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, vấn đề nổi bật nhất trong đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách đối ngoại nhất

quán là quan hệ hữu nghị với các nƣớc láng giềng Trung - Lào - Campuchia và

Page 65: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

65

các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Nhờ đó hai cuộc chiến tranh chống Pháp

- Mỹ ta đã nhận đƣợc sự ủng hộ tinh thần - vật chất có hiệu quả nhất của Trung

Quốc và các nƣớc đó.

Việt Nam kiên trì chính sách đoàn kết có nguyên tắc đã hình thành thế trận

liên hoàn ở Đông Dƣơng chống xâm lƣợc Mỹ và gần nhƣ đồng thời cả ba dân

tộc Việt Nam - Lào - Campuchia giành đƣợc độc lập dân tộc. Rất đáng tiếc quan

hệ nhƣ máu thịt của ba nƣớc đã bị chính sách gây chiến của tập đoàn Pônpốt có

sự chi viện của phái dân tộc hợp hòa trong và ngoài khu vực, khiến Việt Nam

phải đƣa lực lƣợng vào Campuchia dẫn tới vấn đề Campuchua kéo dài suốt một

thập kỷ. Khu vực không ổn định Việt Nam trở thành nƣớc đối đầu với khu vực

Đông Nam Á một thời gian.

Từ những quan hệ láng giềng tốt đẹp và trục trặc trên ta rút ra một số vấn

đề sau: quan hệ láng giềng kể cả quan hệ khu vực phải đƣợc xác định là nhiệm

vụ chiến lƣợc, là mối quan tâm hàng đầu về đối ngoại của toàn Đảng, toàn quân,

toàn dân ta. Trên cơ sở cùng tồn tại, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn,

nhất thiết không can thiệp và công việc nội bộ của nhau. Những vấn đề do vị trí

địa - lịch sử, địa - chính trị, tâm lý dân tộc có tính lịch sử luôn tồn tại rất dễ nhạy

cảm với những kích động xấu ta cần phải bình tĩnh, tế nhị trong xử lý không để

làm trở ngại quan hệ hiện tại, không gợi lại những vấn đề lịch sử nặng nề bất lợi

cho quan hệ hòa hiếu, xây dựng những trang sử mới cao đẹp hơn trong quan hệ

với các nƣớc láng giềng.

Do đó muốn quan hệ - láng giếng bền vững tốt đẹp lâu dài không thể chỉ là

quan hệ chính trị hữu nghị mà cần phải phát triển quan hệ nhiều mặt, xong đó

hợp tác kinh tế - thƣơng mại, du lịch… Tạo điều kiện quan hệ láng giềng, khu

vực hòa nhập với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa hiện nay.

+ Thứ ba là: xử lý quan hệ với nƣớc lớn, luôn giữ vững nguyên tắc trong

chiến lƣợc mềm dẻo trong sách lƣợc, bằng nhiều biện pháp, hình thức linh hoạt

sáng tạo.

Page 66: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

66

Xuất phát từ Việt Nam có vị trí, lịch sử - chính trị hẫp dẫn đối với những

quốc gia có tƣ tƣởng thực hiện chính sách đối ngoại phát triển lợi ích dân tộc

phi Mác Xít, xuyên suốt lịch sử phát triển của dân tộc ta do ảnh hƣởng của tƣ

tƣởng đó mà Việt Nam luôn phải xử lý quan hệ với một nƣớc lớn và nhiều nƣớc

khác trong cùng một thời gian.

Năm 1945 Việt Nam đã bị các nƣớc lớn áp đặt chia cắt, đầu 1946 Pháp -

tƣởng lại mƣu trạm áp đặt sự thống trị mới. Khi đó ở Việt Nam hiện diện bốn

nƣớc lớn. Trong đó có ba nƣớc có lực lƣợng quân sự rất hùng mạnh Hồ Chí

Minh và Đảng đã nhanh chóng xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với các nƣớc

lớn có quân đội trên đất nƣớc ta.

Từ năm 1950 thế giới bƣớc vào hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối

lập nhau, Việt Nam phá đƣợc thế bao vây cô lập quan hệ với các nƣớc xã hội

chủ nghĩa (Trung - Xô) thì hai nƣớc lớn (Mỹ - Pháp vốn là đồng minh trong

chiến tranh thế giới hai) trở thành thù địch.

Đến hội nghị Giơnevơ các nƣớc lớn cũng bộc lộ rõ ý định áp đặt giải pháp

bất trị cho các nƣớc Đông Dƣơng. Trong đó Việt Nam là trọng điểm hàng đầu.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc (thực dân Pháp, Đế quốc

Mỹ) ta giữ vững độc lập tự chủ kiên trì đoàn kết với Liên Xô - Trung Quốc và

nhân dân tiến bộ Mỹ, Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn Trung Quốc và Liên Xô có yêu

cầu hòa hoãn với Mỹ. Từ đó Việt Nam chịu tác động mạnh của các mối quan hệ

(Mỹ - Xô + Trung - Mỹ + Trung - Xô) giữa các nƣớc lớn.

Trong suốt thập kỷ 80 ta phải xử lý quan hệ với tất cả các nƣớc lớn về giải

pháp cho vấn đề Campuchia. Trƣớc hết trong đó về cơ bản cũng là quan hệ với

tất các nƣớc lớn giải pháp đó do các nƣớc lớn dàn xếp. Ở đây ta xử lý quan hệ

với các nƣớc lớn là phải tính đến yêu cầu lợi ích của các nƣớc lớn và các bên

khác. Đặt cơ sở cho việc bình thƣờng hóa quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, khôi

phục quan hệ với các bƣớc lớn khác và các nƣớc trong khu vực, so sánh xử lý

quan hệ với các nƣớc lớn trong các thời kỳ lịch sử, Việt Nam có vị trí đặc biệt

quan trọng trong chiến lƣợc của các nƣớc lớn, chịu sức ép của các nƣớc lớn.

Page 67: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

67

Sự tác động của mối quan hệ căng thẳng hay hòa hoãn giữa các nƣớc lớn,

nhất là các siêu cƣờng thƣờng có tác dụng nhất định đến hòa bình, an ninh

chung và tiến trình phát triển các quan hệ quốc tế mà Việt Nam không là ngoại

lệ. Xử lý quan hệ với Mỹ sau chiến tranh và vấn đề Campuchia có phần chậm,

nên dẫn tới sự đối đầu giữa Việt Nam với các nƣớc lớn và khu vực một thời gian

dài. Đƣơng nhiên đây không phải là lúc quy lỗi cho ai nhƣng chắc chắn việc rút

ra bài học chung là thật cấp thiết cho việc xử lý quan hệ của nƣớc ta với các

nƣớc lớn và phải đặt nó trong hàng đầu chiến lƣợc đối ngoại của Đảng, Nhà

nƣớc.

Ngày nay quan hệ giữa các nƣớc lớn luôn có hợp tác, tranh chấp Việt Nam

cần thi hành chính sách cân bằng lợi ích giữa các nƣớc lớn gắn liền với lợi ích

của ta với các nƣớc, xây dựng quan hệ hòa hiếu hợp tác có nguyên tắc, cần chủ

động trong quan hệ hợp tác cân bằng thực hiện nhiệm vụ xaya dựng và bảo vệ

Tổ quốc chống nguy cơ tụt hậu.

Trên đây là một số bài học chung nhất về họat động đối ngoại, nó góp phần

quyết định không nhỏ mang lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới

trong thời gian qua và chi phối toàn bộ họat động đối ngoại của Đảng, Nhà

nƣớc.

+ Thứ tư là: Đảng phải nắm vững ngọn cờ cách mạng. Đây là bài học cơ

bản, xuyên suốt của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Nhƣng vẫn giữ

nguyên đƣợc giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.

Thực tiến công cuộc đổi mới thành công cho thấy trƣớc hết phải giữ vững

sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và cả xã hội. Không có sự lãnh

đạo của Đảng thì không thể giữ đƣợc độc lập dân tộc vững chắc, Nhà

nƣớckhông còn là Nhà nƣớc thực sự của nhân dân, do dân, vì dân, không đảm

bảo sự phát triển của xã hội theo đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và càng

không có chủ nghĩa xã hội đích thực, thậm chí các thành quả cách mạng phải đối

bằng bao xƣơng máu mới giành đƣợc cũng bị thủ tiêu (nhƣ Liên Xô và các nƣớc

Đông Âu).

Page 68: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

68

Vai trò lãnh đạo của Đảng cũng trở nên đặc biệt quan trọng nhất là cách

mạng chuyển giai đoạn. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi

mới của Đảng và nhân dân ta đã phối hợp với một số phần tử bất mãn trong

nƣớc tấn công toàn diện Việt Nam.

Mục tiêu tấn công quan trọng nhất của chúng là (năm 1997) xóa bỏ Đảng

Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Đảng đã kiên quyết bác bỏ những

luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa bộ máy Nhà nƣớc và quân

đội, xuyên tạc lịch sử phủ nhận thành quả cách mạng và sự hy sinh lớn lao của

những ngƣời cộng sản, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng.

Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lƣợng chính trị duy

nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng chịu tất cả trách nhiệm trên mọi lĩnh

vực của đất nƣớc, về họat động của cả hệ thống chính trị, cả về những thất bại,

tổn thất của cách mạng, vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là bảo vệ giữ vững

ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn cả là phải tiếp tục nâng cao chất

lƣợng đổi mới, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đổi mới lý luận chiến lƣợc, sách

lƣợc đối với tổ chức xây dựng Đảng và họat động thƣờng nhật của Đảng, Đảng

phải thực sự dùng con mắt khoa học vận động và phát triển sáng tạo lý luận cách

mạng lên ngang tầm những chuyển biến to lớn, nhanh chóng của thế giới hiện

đại. Đảng phải cƣơng quyết xem xét, giải quyết những sai lầm, yếu kém của

mình thƣờng xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng trong điều kiện mở rộng hợp tác, hội nhập với thế giới.

Page 69: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

69

KẾT LUẬN

Chính sách đối ngoại trong suốt 60 năm đã qua luôn là một bộ phận của

đƣờng lối chính trị của Đảng và góp phần quyết định thắng lợi sự nghiệp đấu

tranh giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tuy chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta trong thời kỳ đấu

tranh giải phóng dân tộc và trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa có sự khác

nhau về đối tƣợng phƣơng thức hoạt động và môi trƣờng quốc tế, song nó đều

nhằm vào mục tiêu xây dựng đất nƣớc phải đi đôi với bảo vệ đất nƣớc. Sợi chỉ

đỏ xuyên suốt chính sách đối ngoại của đảng và nhà nƣớc ta là: độc lập, tự chủ,

đoàn kết và hợp tác quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nƣớc nồng

nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp dân tộc và thời đại.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ (1986-2004) là sự kế

thừa từ truyền thống ngoại giao cha ông: "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí

nhân để thay cƣờng bạo" (Nguyễn Trãi). Đó là sự tiếp tục của phƣơng châm"thái

bình nên gắng sức, non nƣớc ấy nghìn thu"(Trần Quang Khải).Truyền thống

ngoại giao đó đã đƣợc chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà ngoại giao kiệt xuất đúc kết

thành chân lý"không có gì quý hơn độc lập tự do" Những tƣ tƣởng lớn trên đây

đã trở thành những nguyên tắc và phƣơng châm ứng xử của chính sách ngoại

giao.

Đổi mới ở nƣớc ta thời kỳ (1986-2004) chính sách đối ngoại đó có những

thay đổi to lớn của tình hình trong nƣớc và thế giới nhƣng vẫn là sự kết hợp giữa

bản sắc dân tộc với đặc điểm của thời đại sinh ra nó, phản ánh đúng đắn lợi ích

dân tộc và hợp với xu thế của quan hệ quốc tế.

Nhằm mục tiêu sớm khắc phục khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục đƣa

sự nghiệp cách mạng nƣớc ta đi lên, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã

quyêt định tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống đất nƣớc. Công cuộc đổi mới của

Page 70: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

70

nƣớc ta đang đƣợc tiến hành thì Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu

lâm vào thời kỳ tiền khủng hoảng và bắt đầu đi vào thực hiện cải tổ, cải cách.

Đồng thời, lúc này cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đi liền

với quá trình quốc té hoá đời sống, kinh tế thế giới diễn ra rất mạnh mẽ. Cùng

với việc xác định hai nhiệm vụ chiến lƣợc là bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

Đại hội VI đề ra chính sách đối ngoại rộng mở, xác định nhiệm vụ hàng

đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội và bảo vệ tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung

của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Đảng ta chủ trƣơng thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị, ủng hộ

chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nƣớc có chế độ chính trị xã hội khác

nhau, loại trừ chiến tranh xâm lƣợc và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.

Đại hội nhấn mạnh phƣơng châm "thêm bạn bớt thù" ra sức phấn đấu tạo dựng

môi trƣờng quốc tế hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để đôit mới đất

nƣớc. Nghị quyết 13 của bộ chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách đối

ngoại trong tình hình mới đã xác định quan điểm trong quan hệ quốc tế của đảng

là ra sức tranh thủ các nƣớc anh em bầu bạn và dƣ luận rộng rãi trên thế giới,

làm thất bại âm mƣu bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị, chủ động chuyển

các cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại

hoà bình.

Trên tinh thần của Nghị quyết đại hội VI và nghị quyết 13 của bộ chính

trị, Đảng ta đã đề ra các biện pháp nhằm phá thế bao vây, cô lập, tạo môi trƣờng

quốc tế thuận lợi cho việc tiến hành đổi mới ở trong nƣớc dƣới sự lãnh đạo của

Đảng.Chúng ta đã rút quân từng phần, rồi rút quân hết khỏi Campuchia thực

hiện đổi mới quan hệ, nâng cao chát lƣợng và hiệu quả hợp tác với Lào và

Campuchia, ra sức phấn đấu cho một giải pháp chính trị về Campuchia kiên trì

và bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bƣớcc cải thiện quan hệ với

Page 71: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

71

các nƣớc Đông Nam á và với các nƣớc phƣơng Tây. Việc chúng ta rút hết quân

tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.

Kiên trì và bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc từng bƣớc cải thiện

quan hệ với các nƣớc Đông Nam Á và với các nƣớc phƣơng Tây. Việc chúng ta

rút hết quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia và những hoạt động tích

cực trên lĩnh vực đối ngoại đã góp phần mở ra hàng loạt diễn đàn với các đối

tƣợng khác, đồng thời thúc đẩy việc bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc,

tạo điều kiện để sau này mở rộng quan hệ đối ngoại phá thế bị bao vây, cô lập.

Đảng chủ trƣơng tiếp tục thƣơng lƣợng với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo

do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn

định ở Đông Nam Á. Quan hệ của nƣớc ta với một số nƣớc Tây Âu, một số

nƣớc Đông Nam Á cũng từng bƣớc đƣợc bình thƣờng hoá.

Đồng thời, ở trong nƣớc, chúng ta đã giành đƣợc những thắng lợi quan

trọng mang tính đột phá trong sự nghiệp đổi mới, nhất là về sản xuất nông

nghiệp, chống lạm phát, về tài chính tiền tệ, cơ chế quản lý…Đại hội lần thứ VII

của Đảng (6/1991) phát triển hơn nữa nghị quyết Đại hội VI, từ chủ chƣơng

"thêm bạn, bớt thù" thành phƣơng châm "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các

nƣớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".

Nghị quyết Đại hội VII và Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội đề ra chính sách đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ đối

ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nƣớc không phân biệt chế

độ chính trị- xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.

Sau khi Liên Xô tan rã (12/1991), xuất phát từ tình hình mới, hội nghị lần

thứ III ban chấp hành Trung ƣơng khoá VII (6/1992) đã cụ thể hoá nhiệm vụ đối

ngoại của Đại hội VII, xác định mục tiêu tƣ tƣởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại

của Đảng và nhà nƣớc Việt Nam là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất

và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với

vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc ta.

Page 72: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

72

Hiệp định Pari (23/10/1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề

Camphuchia đƣợc ký kết tạo ra một tiền đề quan trọng để thúc đẩy quan hệ của

nƣớc ta với các nƣớc. Đảng lãnh đạo tiến hành nhiều hoạt động để thúc đẩy việc

bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc. Tháng 11/1991, Việt Nam- Trung

Quốc chính thức bình thƣờng hoá quan hệ. Đối với Mỹ chúng ta bày tỏ thiện chí

trong việc hợp tác giải quyết vấn đề ngƣời Mỹ mất tích, coi đây là vấn đề nhân

đạo. Việc tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, cùng với thái độ thiện chí, hợp

tác xây dựng của Việt Nam buộc Mỹ phải từng bƣớc nới lỏng tiến tới bỏ cấm

vận đi vào bình thƣờng hoá quan hệ với Việt Nam.

Theo tinh thần nghị quyết Đại hội VII và nghị quyết hội nghị Trung ƣơng

3 (khoá VII), nƣớc ta đặt mục tiêu hàng đầu, là cải thiện và củng cố quan hệ với

các nƣớc láng giềng, các nƣớc ở khu vực, coi trọng quan hệ với các nƣớc lớn,

đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc ở châu lục, chủ động duy trì, phát

triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc bạn bè truyền thống. Mặt khác

nƣớc ta thúc đẩy bình thƣờng hoá và tăng cƣờng quan hệ với tổ chức quốc tế,

trƣớc hết là các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trƣớc hết là các tổ chức hợp tác

khu vực và thế giới, trở thành thành viên chính thức của ASEAN (7/1995).

Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại trong những năm(1991-1996) là một

nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận,

cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên thế giới, tạo môi trƣờng quốc tế

thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.

Trong những năm (1996-2004), những nhân tố mới xuất hiện. Xu thế hoà

binh, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi của các dân

tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nƣớc giành ƣu tiên cho phát triển kinh tế,

coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cƣờng sức mạnh

tổng hợp của mỗi quốc gia… Hợp tác ngày càng tăng, những cạnh tranh cũng

hết sức gay gắt.

Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định chủ chƣơng mở rộng quan hệ

đối ngoại, tiếp tục thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa

Page 73: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

73

phƣơng hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Nhiệm vụ đối ngoại là củng

cố môi trƣờng và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn để đẩy mạnh phát triển

kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Đại hội IX của Đảng

(4/2001) chủ trƣơng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội

nhập khu vực và thế giới, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế

độc lập, tự chủ, làm tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu

quả kinh tế đối ngoại. Đại hội IX phát triển phƣơng châm của Đại hội VIII thành

"Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc

tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".

Thực hiện phƣơng châm đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã lãnh đạo điều chỉnh

luật pháp, cải cách các thủ tục hành chính, đào tạo cán bộ, phát huy sức mạnh

nội lực… để tạo môi trƣờng thuận lợi thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.

Nhờ có đƣờng lối đúng chính sách cử chỉ hợp lý cùng với lộ trình hội

nhập phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nƣớc nên về cơ bản ta đã thực hiện

đƣợc chủ trƣơng đa dạng hoá thị trƣờng và đa phƣơng hoá quan hệ kinh tế đối

ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, củng cố đƣợc các thị

trƣờng truyền thống, đồng thời tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị

trƣờng mới nên đã đẩy mạnh đƣợc xuất khẩu, tạo đầu ra cho sản xuất, có quan

hệ thƣơng mại với hơn 140 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với gần 70 nƣớc và vùng lãnh

thổ, thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Đảng ta tiếp tục củng cố

tình đoàn kết hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc

lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới, thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở

một số nƣớc, mở rộng quan hệ với các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị-

xã hội, uỷ ban hoà bình và các hội hữu nghị…

Những thành tựu về kinh tế, chính trị và đối ngoại của Việt Nam trong

những năm đổi mới đã khẳng định vị thế của nƣớc ta đối với khu vực và thế

giới. Chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của đƣờng lối đổi mới nói chung và

đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Page 74: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

74

khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo và tƣ duy chính trị nhạy cảm, sâu sắc

bản lĩnh lãnh đạo vững vàng của Đảng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- V.I Lênin, toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật Hà Nội 1969.

Page 75: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

75

2- V.I Lênin, toàn tập, tập 11, Nxb Sự Thật Hà Nội 1963

3- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2,4,5,6,7,8, Nxb CTQG Hà Nội 1995.

4- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật 1982

5- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật 1987

6- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật 1991

7- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG Hà Nội

1996

8- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội

2001

9- Văn Kiện Hội nghị lần thứ IX, BCHTW (khoáIX) Nxb CTQG Hà Nội

2004

10- Văn Kiện Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VII) Nxb CTQG Hà

Nội 1994

11- Nghị quyết 13 về đối ngoại(1988) của Bộ chính trị, tƣ liệu lƣu trữ

Ban đối ngoại Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam

12- Hiến Pháp năm 1992 của nƣớc CHXHCN Việt Nam

13- Hiến Pháp Việt Nam những năm 1946-1959, 1980-1992, Nxb

CTQG Hà Nội 1995

14- Dự thảo Nghị quyết trình Đại hội IX, Nxb CTQG Hà Nội

15- Nguyễn Lƣơng Bích, Lịch sử ngoại giao Việt Nam,Nxb Quân đội

nhân dân 1996.

16- Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, Nxb Pháp Lý 1989

17- Lƣu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội 1998.

18- Lƣu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội 2004.

19- Nguyễn Phúc Luân: Chủ Tịch Hồ Chí Minh- trí tệu lớn của nền

ngoại giao Việt Nam hiện đại. Nxb CTQG Hà Nội 1995

Page 76: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

76

20- Nguyễn Dy Niên: Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nxb CTQG

Hà Nội 2002.

21- Học Viện Quan Hệ Quốc Tế - Bộ Ngoại Giao, Hỏi đáp về tình hình

thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, Nxb CTQG

Hà Nội 1997.

22- Học Viện Quan Hệ Quốc Tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự

nghiệp đổi mới(1975-2002), lƣu hành nội bộ.

23- Phan Doãn Nam, Thế giới 1991, Tạp chí Cộng sản 1/1991.

24- Trần Quang Cơ: Vai trò không thể thiếu đƣợc trên thế giới ngày

nay, bài phát biểu của thứ trƣởng tại Hội nghị ngoại trƣởng các nƣớc

không liên kết, 9/1991

25- Vũ Khoan: Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nƣớc, Tạp

chí Cộng sản, 4/1995.

26- Đinh Xuân lý: Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong

thời kỳ đổi mới, Tạp chí Cộng sản tháng 6/2004

27- Đinh Xuân Lý: Kinh nghiệm hội nhập quốc tế cảu Việt Nam thời

kỳ đổi mới, Tạp chí lý luận chính trị số 9 năm 2004

28- Vũ Quang Vinh: Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng

tƣ tƣởng đó trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng số 11 năm

2001.

Page 77: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

77

Page 78: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

78

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Chương I: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI

NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU

THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI

I. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối

ngoại

2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc

II. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nƣớc và xu thế của thế giới

1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nƣớc

2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới

Chương II: QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO

MỞ RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI

I. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ(1986 - 1995)

1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc trƣớc đổi mới

2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)

3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc từ (1991-1995)

II. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ(1996 - 2004)

1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc từ (1996-2001)

2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc từ (2001 - 2004)

Chương III: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

I. Chủ trƣơng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới

II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

III. Một số bài học bƣớc đầu về chính sách đối ngoại

Page 79: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Mai Xuân Hoàn 2011

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

79

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO