Các Bệnh Thường Gặp Ở Trẻ Em Cách Phòng Và Điều Trị...
Transcript of Các Bệnh Thường Gặp Ở Trẻ Em Cách Phòng Và Điều Trị...
CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EM CÁCH PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊCÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EM
CÁCH PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ
Bác sĩ NGUYỄN VĂN BA
Phần 1. CHĂM SÓC KHI BÉ BỆNHBÉ BỊ BỆNH - BẠN CẦN PHẢI LÀM GÌ?
Việc đầu tiên là quan sát bé kỹ để nói cho bác sĩ biết những triệu chứng
của bệnh. Vì ở bên con, nên các bà mẹ dễ nhận được ngay sự thay đổi bất
thường qua nét mặt, tính tình, sự hoạt động của con. Thí dụ: bạn nhận thấy da
của bé bị mẩn đỏ chiều qua. Cần phải nói để bác sĩ biết, vì khi bác sĩ có mặt thì
những biểu hiện bệnh trên cơ thể của bé có thể lại bình thường rồi.
Sau khi bác sĩ về, bạn cần phải tiếp tục theo dõi sự chuyển biến của bệnh
và thực hiện những lời chỉ dẫn của bác sĩ để chữa bệnh cho bé.
Sự có mặt của người mẹ bên con góp phần không nhỏ vào việc trị bệnh
cho bé. Vì ngoài phần cho con uống thuốc theo đơn của bác sĩ, còn có tiếng nói,
nụ cười và bàn tay của người mẹ làm cho bé cảm thấy yên tâm.
NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỨC KHỎE
Khi bé khỏe mạnh
- Trọng lượng cân của bé bình thường.
- Nét mặt tươi tỉnh, mắt sáng. Khi bế bé, bạn cảm thấy má bé căng, mát.
- Bé tỏ ra vui vẻ, ham chơi chú ý tối mọi ngươi và mọi vật chung quanh.
- Bé ăn có vẻ ngon miệng, ngủ yên giấc, phân bình thường.
Khi bé bệnh
- Bé sút cân.
- Nét mặt tái, mắt quầng, ánh mắt không tinh anh.
- Bé ngậm ngón tay khi ngủ, bé không ngủ, giấc ngủ không lâu.
- Bé lơ đãng không chú ý gì tới chung quanh.
- Bé luôn cựa quậy, giật mình, dễ quấy khóc.
- Bé không chịu ăn hoặc ăn ít. Không chịu uống nước hoặc đòi uống bất
thường (vì cơn sốt làm cơ thể mất nước).
KHI NÀO CẦN ĐƯA TRẺ TỚI BÁC SĨ?
Nhiều bà mẹ ngại đưa con tới bác sĩ, mà chỉ tới gặp bác sĩ để kể bệnh của
con thôi. Vì những triệu chứng bệnh của trẻ có thể thay đổi từng giờ, nên việc kể
bệnh như vậy chưa đủ. Từ ho tới sưng phổi, từ đi tướt tới tình trạng cơ thể bị
thiếu nước nhiều khi chỉ có một bước.
Trẻ càng nhỏ, càng cần phải đưa ngay tới bác sĩ mỗi khi cháu sốt, ho, nôn
ói, đi phân lỏng nhiều lần hay nhiều ngày. Kể cả những triệu chứng như bỗng
nhiên quấy khóc mà không rõ nguyên nhân, hay không chịu uống nước.
Đối vối các cháu đã lớn thì có thể nhìn vào tình trạng tổng quát của sức
khỏe, xem có điều gì đặc biệt không. Sốt cao chưa chắc đã là dấu hiệu trầm
trọng. Trái lại, hiện tượng đau từng cơn ở vùng bụng lại là điều cần phải chú ý,
mà chỉ có bác sĩ mới tìm được nguyên nhân và hướng dẫn chữa trị.
Khi đưa cháu bé đến bác sĩ, hãy chuẩn bị trước để trả lời một số câu hỏi
có liên quan tới cháu về thân nhiệt, trạng thái phân và các nhận xét khác của
bạn về cháu bé. Cũng nên nói với bác sĩ rằng cháu có tiếp xúc với ai cũng có
những triệu chứng như cháu không để bác sĩ suy nghĩ về một số bệnh lây lan.
Trong lúc chờ đợi, chưa có bác sĩ, hãy để cháu nghỉ ngơi, bình tĩnh, tránh những
nơi ồn ào, nhiều tiếng động. Không nên cho cháu dùng bất kỳ một thứ thuốc gì
nếu không được bác sĩ hướng dẫn từ trước. Nếu cháu sốt, hãy cho cháu uống
nước.
NHỮNG CÂU HỎI VỀ VIỆC CHĂM SÓC KHI BÉ BỊ BỆNH
- Bé đang sốt có nên đưa cháu đi khám bác sĩ không?
Khi cháu bé sốt cao, nên đưa bé đến bác sĩ ngay. Chỉ ở phòng khám
bệnh, bác sĩ mới có những phương tiện để khám bệnh cho cháu.
- Có cần choàng chăn cho cháu không?
Nếu cháu đang sốt, không nên đắp thêm chăn vì như thế sẽ làm thân nhiệt
tăng thêm. Giữ nhiệt độ phòng từ 20° - 22°c tránh để gió lùa. Ở điều kiện nhiệt
độ 20° - 22°C bé chỉ cần mặc một bộ quần áo ngủ, rộng, thoáng là đủ.
- Cần chăm sóc như thế nào cho cháu dễ chịu?
Căn phòng cần thoáng và đủ ấm. Nếu lâu không mở cửa sổ, hãy chuyển
cháu bé sang phòng khác một lát trong khi làm vệ sinh: quét nhà, thay vải trải
giường... Sau đó, đóng cửa lại nếu cần, để tránh gió, rồi lại chuyển cháu về.
Hàng ngày, cần lau mặt, cổ, rửa tay, chân cho cháu như bình thường. Bạn
có thể tắm cho cháu nhưng chú ý pha nước ở nhiệt độ 37°C và phòng tắm phải
kín, không có gió.
Trong suốt thời gian bị ốm, cháu bé nào cũng cần có bố, mẹ hoặc ông,
bà... ở bên cạnh. Việc này làm cho bé thấy yên tâm và an ủi bé rất nhiều mỗi khi
bé bị khó chịu. Nếu người lớn không có điều kiện ở gần bé, có thể cho bé đồ
chơi, sách có hình vẽ màu để bé giải trí.
Không nên để bé nhận thấy nét mặt lo lắng, u sầu của người lớn về bệnh
tình của cháu.
- Cần làm gì khi bé ra nhiều mồ hôi?
Nếu bé sốt và ngưòi đổ mồ hôi, thế là tốt. Vì đó là phản ứng của cơ thể để
làm thân nhiệt hạ xuống. Nên lau khô mồ hôi và thay quần áo cho bé.
- Có cần bắt cháu nằm tại gường không?
Nếu bé thấy người mệt, bé sẽ tự động nằm nghỉ.
Nhưng nếu bé không muốn nằm thì không nên bắt buộc. Cứ để bé ngồi
dậy hoặc đi lại trong phòng, nên đi tất (vớ) cho cháu.
Đối với các cháu bị bệnh cần phải chữa trị lâu hoặc đang trong thời gian
phục hồi sức khỏe, cứ để cháu chơi bình thường. Chỉ nên tránh những trò chơi
làm cháu bị kích động và không cho chơi với trẻ khác để tránh sự lây nhiễm.
- Chế độ ăn của trẻ bị bệnh như thế nào?
Với trẻ sơ sinh, nếu cháu không bị đi tướt có thể cho ăn như bình thường,
không nên ép cháu ăn và chú ý cho cháu uống thêm nước.
- Nếu bé bị đi tướt, thì ngưng cho bú sữa và cho ăn theo chế độ riêng (coi
phần các bệnh trẻ em).
- Với trẻ đã lớn, có thể cho ăn súp, nước rau, chuối nghiền, bánh bít cốt
(bánh mì nướng 2 lần), bánh bích quy.
Nếu cháu có dấu hiệu khỏi bệnh, dần dần trở lại chế độ ăn bình thường.
Chú ý: Không nên ép buộc các cháu ăn.
- Nếu bé bị sốt, hãy cho cháu uống nhiều nước vào ban ngày cũng như
ban đêm, vì sốt làm cơ thể các cháu thiếu nước. Để cháu dễ uống, ngoài nước
trắng có thể cho bé uống nước cam, nước chanh, nước súp, nước rau, nước
đường v.v...
Thường các cháu thích uống nước mát hơn là nước nóng, hãy cho các
cháu uống nước mát - nhất là các cháu hay bị nôn ói. Nếu các cháu không chịu
ăn thì các loại nước đường, súp, mật ong, nước cơm... cũng có thể cung cấp
cho các cháu một ít calo.
Giờ chăm sóc như thế nào?
Nên tự quy định giờ giấc. Thí dụ: vào buổi sáng và 5 giờ chiều bạn đo
nhiệt độ cho cháu, lau rửa mặt, ngoáy lỗ mủi, cho uống thuốc hay bôi thuốc. Việc
săn sóc có giờ giấc như vậy đỡ làm bé bị mệt hơn là phải điều trị lan man cả
ngày.
Sau khi chăm sóc bé, bạn nên ghi thân nhiệt đo được lúc sáng, lúc chiều
vào giấy cùng với các hiện tượng (nếu có) như: nôn ói, đi tướt, ho... để chuẩn bị
nói lại cho bác sĩ biết, khi bác sĩ tới thăm, hoặc nói qua điện thoại.
Nếu bác sĩ cho biết bệnh của bé thuộc loại lây lan, cần phải cách ly bé với
các trẻ khác, kể cả với người lớn đang mang thai.
Chú ý: Không được để thuốc trong tầm tay của trẻ em.
Nhiều người để thuốc điều trị bệnh cho các cháu ở gần chỗ các cháu nằm,
để tiện sử dụng. Như vậy rất nguy hiểm, nhất là đối với các cháu đang trong tuổi
thấy cái gì lạ cũng cho vào miệng. Các cháu nhỏ thường dễ bị màu sắc viên
thuốc, hoặc vị ngọt của thuốc hấp dẫn.
Thuốc điều trị cũng phải uống đúng liều lượng và đúng lúc.
CHO TRẺ ĂN DẦU HAY MỠ
Hỏi: Khi nấu bột cho bé tôi thường cho thêm mỡ động vật cho ngậy.
Nhưng tôi nghe nói mỡ có nhiều Cholesterol nên không tốt, cần cho trẻ ăn dầu
thực vật. Thông tin này có đúng không?
Trả lời: Chất béo bao gồm dầu, mỡ thuộc nhóm chất dinh dưỡng chính và
có vai trò cần thiết với cơ thể, là nguồn sinh năng lượng quan trọng. Đặc biệt
chất béo giúp cho sự phát triển sớm về trí tuệ và thể lực của trẻ. Cơ thể muốn
hấp thu và sử dụng tốt các Vitamin A, D, E, K, cần có dầu mỡ.
Nói chung, trong dầu thực vật có nhiều axit béo chưa no cần thiết cho cơ
thể nhưng lại rất ít hoặc không có axit Arachidonic - một axit béo chưa no cần
thiết có 3 liên kết kép trong thành phần và có nhiều vai trò quan trọng trong cơ
thể. Mỡ động vật, đặc biệt mỡ gan cá và một số mỡ động vật sống ở biển có
nhiều vitamin A, D và axit Arachidonic cần thiết cho cơ thể. Mỡ động vật có
nhiều Cholesterol một chất cũng cần thiết với trẻ em.
Trong những năm đầu đời, trẻ phát triển và tăng trưởng nhanh cả về thể
chất và tinh thần. Các thiếu hụt về chất béo trong khẩu phần ăn hàng ngày ảnh
hưởng đến chức phận nhiều cơ quan, đặc biệt là cơ quan thần kinh. Do vậy, với
trẻ em, khẩu phần ăn cần đảm bảo đủ chất béo.
Cụ thể, với trẻ dưới 1 tuổi, năng lượng do chất béo cung cấp phải trên
40%; trẻ 1-2 tuổi năng lượng do chất béo cung cấp phải từ 30-35% tổng năng
lượng khẩu phần. Vì bữa ăn của trẻ thường có thịt, trứng, sữa là đã có một
lượng nhất định chất béo động vật nếu muốn bổ sung thêm chất béo, nên nấu
một bữa dầu, một bữa mỡ.
CHĂM SÓC TRẺ NGAY SAU KHI SINH
Tỷ lệ bệnh tật và tử vong của trẻ phụ thuộc phần lớn vào cách được chăm
sóc và nuôi dưỡng trong 30 phút đầu tiên. Dưới đây là một số thao tác quan
trọng ngay khi trẻ chào đời.
Không để trẻ bị lạnh. Khi còn trong bụng mẹ, trẻ được bao bọc trong môi
trường nước ối có nhiệt độ 37°C. Khi ra ngoài, thân trẻ dính nước ối cộng với tác
động của nhiệt độ không khí thấp hơn, dễ dẫn đến tình trạng hạ thân nhiệt. Vì
thế, cần lau khô ngay cho bé bằng vải khô sạch từ đầu đến chân và chú ý giữ
ấm.
Làm sạch đường hô hấp. Nếu trẻ được đẻ thường sẽ không phải hút sâu
do nước ối trong. Chỉ cần đặt trẻ nằm nghiêng, đầu thấp là dịch bẩn từ miệng sẽ
tự chảy ra. Lúc này, nên dùng miếng gạc vô trùng lau sạch miệng và mũi cho trẻ.
Các thao tác lau khô và làm sạch đường hô hấp phải rất nhanh, bất luận trẻ
được sinh trong bệnh viện, nhà hộ sinh, trạm y tế hay gia đình.
Đánh giá tình trạng của trẻ. Ngay sau khi sinh, trẻ cần được xác định giới
tính và phát hiện những bất thường bên ngoài. Đặc biệt là xem trẻ có hậu môn,
phản xạ và trương lực có tốt không... Dùng các chỉ số Apgar hoặc Sigtuna để
đánh giá vào các thời điểm 1; 5; 10 phút sau sinh.
Đây là phương pháp kiểm tra sức khỏe của trẻ mới sinh mang tên giáo sư
bác sĩ người Mỹ Virginia Apgar. Nội dung kiểm tra gồm 5 việc: kiểm tra nhịp tim,
nhịp thở, màu da, phản ứng với sự kích thích bên ngoài, tiếng khóc. Mỗi loại
kiểm tra cho điểm từ 1 tới 2 điểm. Bé nào đạt từ 8-10 điểm là có sức khỏe tốt khi
mới chào đời.
Thời điểm cặp rốn cho trẻ thích hợp nhất là 1 phút sau đẻ. Nếu cặp rốn
quá muộn, trẻ sẽ phải nhận thừa một lượng hồng cầu, máu dễ quánh và dẫn đến
tình trạng khó thở, tăng thể tích của tim (chứng tim to). Còn nếu cặp rốn quá
sớm, trẻ dễ bị thiếu hồng cầu và sau vài tháng có thể xuất hiện chứng thiếu máu.
Nên dùng chỉ không đàn hồi đã khử trùng để buộc rốn. Dụng cụ cắt rốn phải
được hấp tiệt trùng hoặc luộc sôi tối thiểu 20 phút. Đoạn rốn còn lại cần để dài
khoảng 1-1,5 cm, được sát trùng cẩn thận bằng cồn iốt, rồi dùng gạc vô khuẩn
bọc lại, cuối cùng dùng băng vô khuẩn băng quanh vòng bụng.
Cân, đo và cho trẻ uống Vitamin K. Do đặc điểm sinh lý nên trẻ mới đẻ,
nhất là trẻ sinh non có nhiều nguy cơ chảy máu ở ruột, dạ dày, phổi, não... Vì
thế, cần cho tất cả trẻ mới sinh uống 2 mg Vitamin K hoặc tiêm bắp 1mg để
phòng chảy máu.
Nhỏ mắt phòng bệnh lậu. Mắt trẻ dễ tiếp xúc với chất bẩn khi đi qua sinh
đạo, nhất là khi người mẹ bị viêm âm đạo. Nên dùng miếng gạc sạch thấm nước
muối sinh lý để rửa mắt cho bé. Rửa mỗi mắt 1 miếng gạc riêng, sau đó nhỏ mỗi
mắt 1 giọt Argyrol 1% để phòng lậu mắt.
Đặt trẻ lên bụng mẹ. Trẻ sớm được tiếp xúc và bú mẹ sẽ giúp mẹ co hồi tử
cung tốt, tránh chảy máu sau sổ rau. Trẻ bú sớm sẽ nhận được sữa non quý giá,
đồng thời kích thích cơ thể mẹ xuống sữa nhanh hơn.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tốt nhất người mẹ nên cho con bú trong vòng
30 phút đến 1 giờ sau sinh.
MỘT VÀI VẤN ĐỀ CHUYÊN MÔNĐo thân nhiệt ở hậu môn như thế nào?
Lấy ống đo nhiệt độ đã lau rửa sạch, vẩy ống để mức thủy ngân xuống
dưới 36°C rồi bôi một ít Vadơlin vào đầu ống.
Đối với bé sơ sinh, đặt bé nằm ngửa, một tay nắm lấy 2 chân bé giơ lên,
còn tay kia đút từ từ phần đầu, có đựng thủy ngân bên trong và đã được bôi
Vadơlin vào hậu môn của bé, tới gần hết phần này. Làm xong động tác này, tiếp
tục giữ phần còn lại của ống đo trong tay.
Đối với trẻ lớn hơn, để trẻ nằm sấp rồi đút ống đo nhiệt độ từ từ vào hậu
môn. Trong thời gian để ống đo trong hậu môn, nhớ đắp mền cho cháu khỏi
lạnh. Cần để ống đo trong hậu môn, ít nhất là 2 phút.
Nếu các cháu vừa chơi đùa xong, hãy để cháu nghỉ ngơi ít nhất 1 tiếng, rồi
mới tiến hành lấy nhiệt độ. Cần chú ý bôi Vadơlin vào đầu ống đo và đút từ từ
vào hậu môn cháu bé. Động tác này, nếu làm mạnh hoặc vội vàng có thể làm
xây sát bên trong hậu môn và chảy máu. Đã có nhiều trường hợp như vậy.
Tại nhiều nước, người ta lấy thân nhiệt bằng cách cho ngậm nhiệt kế ở
miệng, hoặc kẹp vào nách. Nhưng các cách đó không chính xác bằng cách đo ở
hậu môn.
Bắt mạch cổ tay như thế nào?
Đặt ngón trỏ hoặc ngón trỏ và ngón giữa lên cổ tay của bé, ở phần gốc
ngón tay cái, khi bé để ngửa bàn tay, bạn sẽ thấy nhịp đập của mạch máu cổ
tay. Trẻ càng nhỏ, nhịp đập càng mau. Ở trẻ sơ sinh, số nhịp đập bình thường
trong 1 phút từ 120 - 140 đập. Trẻ 2 tuổi: 110 đập/phút. Trẻ 6 tuổi: 60 - 80
đập/phút. Số nhịp đập này sẽ cao hơn bình thường khi trẻ khóc, hay hoạt động
mạnh.
Khi bé ốm, số nhịp đập sẽ không giống bình thường vì mạch đập sẽ yếu
hơn.
Khám họng như thế nào?
Đối với trẻ nhỏ, cần phải có một người thứ 2 giúp sức thì bạn mới khám
họng cho bé được. Ngươi này bế cháu bé trên lòng, cho mặt cháu hướng về
phía ánh sáng, giữ tay chân cháu, để cháu tựa người vào mình rồi dùng 1 tay ấn
nhẹ vào trán cháu để đầu cháu ngả về phía sau.
Người khám ngồi phía trước cháu bé, một tay làm bé mở miệng ra, còn
tay kia dùng cuống 1 chiếc thìa (muỗng) ấn lưỡi cháu bé xuống và bảo cháu kêu:
“a... a...”. Như vậy, bạn sẽ nhìn rõ Amyđan ở họng bé.
NÔN TRỚ Ở TRẺ SƠ SINH
Không ít bà mẹ, nhất là những người lần đầu nuôi con, đã bỏ qua hiện
tượng nôn trớ của trẻ. Thực chất đây là một bệnh lý, nếu không xem xét kỹ thì
có thể sẽ gây nguy hiểm cho bé.
Nôn là hiện tượng đẩy ngược các chất trong dạ dày qua miệng do các
động tác gắng sức của cơ thể. Trớ xảy ra mỗi khi trẻ ăn no, sau mỗi lần rướn
người hoặc thay đổi tư thế đột ngột. Hiện tượng nôn trớ là một biểu hiện bất
thường ở trẻ khi bú, hậu quả là thức ăn trào ngược từ dạ dày qua miệng.
Khi bú, sữa xuống dạ dày qua tâm vị (còn gọi là van tâm vị một chiều).
Trong dạ dày, sữa được hấp thu một phần, phần còn lại xuống ruột qua môn vị
(còn gọi là van môn vị một chiều). Bình thường vài giờ sau sinh, trẻ bú có thể
nôn trớ chất nhầy đơn thuần hay lẫn chút máu, bởi niêm mạc dạ dày bị kích
thích do nuốt phải một số chất như nước ối, dịch âm đạo... Khi thai sổ, trẻ sơ
sinh đều trớ ít nhiều. Trẻ mập trớ nhiều hơn do hệ giao cảm hưng phấn, trương
lực dạ dày cao hơn và ăn nhiều hơn.
Nôn trớ sinh lý còn gọi là trào ngược dạ dày - thực quản. Sức khỏe của trẻ
trong thời gian này vẫn bình thường, ăn ngủ và vui chơi tốt. Sau 7-8 tháng tuổi,
trớ sinh lý không còn nữa. Ở trẻ sơ sinh, các cơ van tâm vị còn yếu và xốp. Nếu
tư thế trẻ bú không đúng sẽ làm cho không khí trong dạ dày dâng lên cùng với
một ít sữa, qua tâm vị trào ngược lên thực quản và ra ngoài. Nôn trớ có thể do
thay đổi thức ăn đột ngột (chuyển sang bột đặc mà bỏ qua giai đoạn loãng), ăn
toàn bột từ sữa bò trong khi cơ thể bé không chịu được loại thực phẩm này.
Để hạn chế nôn trớ sinh lý ở trẻ, cần phối hợp các biện pháp sau:
Chế độ ăn: Bú làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần bú không no quá, chuyển
chế độ ăn từ từ...
Tư thế lúc bú: Bú bên vú trái trước, sau đó là vú phải. Không để trẻ khóc
khi bú để tránh nuốt hơi gây căng dạ dày.
Nếu bú bình, để đầu núm vú bình sữa luôn đầy sữa, không để bình sữa
nằm nghiêng. Khi bú xong, bế trẻ cao đầu trong 15-20 phút, vỗ lưng cho bé ợ
hơi, sau đó đặt nằm nghiêng bên trái và kê gối hơi cao. Không để trẻ bú nằm dễ
bị sặc, trớ sữa và không tâng bé lên xuống sau khi bú.
Dùng thuốc: Biện pháp này chỉ sử dụng khi việc điều chỉnh chế độ ăn và
tư thế bú không có kết quả. Các thuốc tăng cường co thắt phần cuối thực quản,
chống trào ngược và mở rộng cơ môn vị để thức ăn tống khỏi dạ dày như
Cisapride (propulsid), Primpépan, Bethanecol...
Qua thời kỳ nôn trớ mà trẻ vẫn không hết thì cần lưu ý một số bệnh sau:
- Nếu nôn trớ cấp tính kèm theo sốt thì cẩn thận với các bệnh đường tiêu
hóa như nhiễm trùng dạ dày, ruột; ngộ độc thức ăn, viêm mũi, tai, viêm màng
não, viêm ruột thừa, nhiễm vi khuẩn, vi rút...
- Nôn trớ không kèm theo sốt có thể do chế độ ăn sai lầm, hẹp môn vị,
lồng ruột, thoát vị nghẹt, không dung nạp một số chất, rối loạn vận động dạ dày,
thực quản... Trong trường hợp này, một số bác sĩ còn xếp nôn trớ bệnh lý theo
các nguyên nhân như dị tật đường tiêu hóa, bệnh đường hô hấp trên, não và
màng não hoặc ăn thức ăn nhiễm khuẩn.
LÀM GÌ KHI BÉ SỐT?
Không đắp hoặc cho trẻ mặc thêm quần áo
Chỉ mặc một bộ quần áo ngủ cho thoáng. Không đắp chăn dạ hoặc len.
Nếu cần, chỉ đắp chăn đơn (như khăn trải giường). Nhiệt độ trong phòng khoảng
20°C là vừa.
Thuốc thường dùng
Hai thứ thuốc thường dùng để trị sốt và hạ nhiệt là thuốc Aspirine (Acide
Acétylsalicylique) và thuốc Paracetamol, cần để bác sĩ chỉ định liều lượng,
nhưng cách dùng chung như sau:
- Lượng thuốc tính bằng số viên thuốc dùng trong 14 giờ phụ thuộc theo
số cân nặng hoặc số tuổi của trẻ. Bạn cần nhớ lượng thuốc tối đa được dùng.
Không được cho bé uống quá lượng tối đa đó.
- Lượng thuốc này được chia thành nhiều phần để thành nhiều đợt trong
ngày. Thí dụ: Mỗi ngày uống 2 viên chia làm 4 lần, mỗi lần nửa viên.
Một số người lớn phạm sai lầm là cho trẻ uống hết cả liều 1 lần. Khi thuốc
hết tác dụng, thân nhiệt của trẻ tăng cao đột ngột gây ra chứng co giật rất đáng
ngại ở trẻ.
- Mỗi thứ thuốc có thể được trình bày dưới các dạng khác nhau như viên,
đóng gói, sirô, viên đặt ở hậu môn. Khi dùng, cần biết rõ mỗi viên, mỗi gói, mỗi
thìa... tương ứng với lượng thuốc là bao nhiêu? Nhiều thuốc mang tên khác
nhau nhưng trong thành phần cũng có Aspirine hay Paracetamol. Bởi vậy, cần
đọc công thức của thuốc để khỏi cho uống nhiều thuốc cùng tác dụng, và phải
được bác sĩ chỉ định.
- ASPIRINE - có trong các loại thuốc mang tên khác nhau như Catalgine,
Juvepirine, Aspégic v.v... Liều lượng thường dùng là 0,05g/ngày cho 1 kg cân
nặng, không bao giờ được vượt quá 0,1g/ngày cho 1 kg cân nặng. Thí dụ: một
đứa trẻ nặng 12 kg, có thể uống trong ngày (24 giờ) một lượng Aspirine bằng
0,05 g X 12 = 0,6 g. Lượng thuốc trên được chia thành 6 lần uống. Mỗi lần uống
0,1 g cách lần sau 4 giờ, nghĩa là cứ 4 giờ uống 0,1g Aspirine.
- PARACETAMOL - có trong các thuốc mang tên Efferalgan, Dolipran.
Liều lượng thường là 0,02 - 0,03g (20 - 30 mg) cho mỗi kilôgam cân nặng, trong
24 giờ. Lượng thuốc này cũng được chia làm 6 lần uống, mỗi lần cách nhau 4
giờ.
Hiện nay, các bác sĩ có xu hưóng cho dùng Paracetamol nhiều hơn là
Aspirine vì Paracetamol dễ được bộ máy tiêu hóa hấp thu.
- Có thể dùng xen kẽ hai thứ Aspirine và Paracetamol, 1 lần Aspirine, 1 lần
Paracetamol. Như vậy, sẽ giảm được lượng thuốc của mỗi thứ.
Phương pháp hạ nhiệt từ bên ngoài
- Ngâm nước: Nếu dùng thuốc rồi mà thân nhiệt vẫn chưa hạ xuống, có
thể tắm cho cháu bé bằng nước có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt của bé từ 1-2°c,
trong thời gian 10 phút. Có thể cho cháu ngâm nước 2 - 3 lần trong ngày.
Nhưng, nếu thấy mặt bé tái hoặc người run phải bế cháu ra khỏi nước;
choàng khăn và lau khô ngay cho cháu.
- Nhỏ mũi: Nếu bác sĩ đã chỉ định dùng thuốc nhỏ mũi có kháng sinh, hãy
dùng dụng cụ bóp - hút bằng cao su, rửa lỗ mũi cho bé bằng dung dịch Sérum
sinh học. Sau đó, dùng ống nhỏ giọt nhỏ thuốc vào lỗ mũi của cháu.
Sau khi dùng, phải rửa ống nhỏ giọt bằng cồn 90°.
Trước khi dùng thuốc nhỏ mũi, để thuốc vào một chén nước ấm để hâm
cho thuốc ấm lên.
- Xông: Đổ nước nóng vào bồn tắm hay một chậu lớn rồi pha một thìa súp
dầu khuynh diệp hoặc Benjoin vào. Phòng tắm đóng kín để hơi bốc lên không bị
thoát ra ngoài. Bế cháu bé trên tay hoặc để cháu chơi ở dưới sàn có trải khăn.
Khoác một khăn tắm quanh người bé, không cần mặc quần áo. Mồ hôi bé sẽ ra
nhiều. Hơi nước nóng có dầu sẽ thấm qua da được bé thở hít vào phổi.
Sau khi bé ra mồ hôi, quấn khăn quanh ngươi rồi bế ra khỏi phòng tắm,
lau khô người cho bé. Chú ý không để bé bị lạnh khi ra khỏi phòng. Phương
pháp này rất tốt cho trẻ em bị sốt vì đau họng.
- Thụt: Lấy nước đun sôi, để nguội, nhưng còn ấm, cho thuốc đã được bác
sĩ chỉ định vào nước. Nếu chỉ muốn cho bé ị được, cho 1/2 muỗng cà-phê thuốc
Bicarbonate de soude hoặc một muỗng cà-phê dầu ô-liu hay Parafine nguyên
chất vào nước, khuấy nước cho thuốc tan.
Dùng ống bóp hút nước lên bôi trơn đầu ống, bằng Vadơlin, đưa đầu ống
từ từ vào hậu môn rồi bóp nhẹ ống cho nước từ từ vào ruột. Khi nước đã vào
hết, rút ống ra và bóp 2 bên mông bé cho khít lại để giữ nước trong 2 - 3 phút,
rồi cho bé ngồi bô để bé “đi” ra.
CÁCH XỬ TRÍ KHI THÂN NHIỆT TRẺ SƠ SINH THAY ĐỔIKhi trẻ hạ nhiệt, cần lau khô và quấn tã ngay cho trẻ, tránh để mất nhiệt
lượng do bay hơi. Khi thân nhiệt tăng trên 38°C, việc đầu tiên là phải cởi bớt
quần áo cho trẻ và cho bú mẹ ngay.
Hiện tượng hạ thân nhiệt
Thai nhi khi nằm trong tử cung thường có thân nhiệt cao hơn thân nhiệt
người mẹ từ 0,5 đến 1°C, nên ngay khi ra đời, trẻ có nguy cơ bị giảm nhiệt rất
nhanh, thường vào những đêm giá lạnh hay thậm chí cả ban ngày nóng nực. Hạ
thân nhiệt làm tăng 50% nguy cơ tử vong của trẻ.
Hạ thân nhiệt do các nguyên nhân sau:
- Sơ sinh non tháng, thấp cân và thiếu lớp mỡ dưới da khiến nhiệt độ
ngoài da tăng, gây mức chênh nhiệt cao và càng làm tăng sự mất nhiệt.
- Diện tích da so với cân nặng của trẻ sơ sinh rất lớn (gấp 2-3 lần so với
người lớn) nên cũng làm tăng nguy cơ mất nhiệt.
- Trong những ngày đầu sau sinh, khả năng đáp ứng chuyển hóa của trẻ
đối với hiện tượng nhiễm lạnh rất hạn chế, càng dễ bị hạ thân nhiệt và kéo theo
mất năng lượng, sút cân.
- Nếu trẻ bị thiếu dưỡng khí như khi bị viêm phổi, cộng với khả năng đáp
ứng chuyển hóa với lạnh không có, gây ra một vòng xoắn bệnh lý, càng làm trẻ
thiếu dưỡng khí và hạ thân nhiệt.
- Nếu trẻ không được bú sữa mẹ, khả năng chuyển hóa trong cơ thể
không tăng sẽ giảm trương lực cơ, gây thiếu dinh dưỡng, thiếu năng lượng và lại
càng khiến cơ thể hạ nhiệt trầm trọng và dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và suy
dinh dưỡng.
Cách phòng ngừa
- Không bao giờ để trẻ ướt, luôn lau khô và quấn tã lót cho trẻ, nếu không
nhiệt lượng mất đi do bay hơi sẽ cao gấp 10 lần nhiệt lượng được sản sinh.
- Mặc quần áo, quấn tã, chăn đệm đúng cách cho trẻ. Nếu nhiệt độ trong
phòng bình thường và dễ chịu đối với người lớn thì coi như là lạnh và tương
đương với nhiệt độ mùa đông đối với trẻ sơ sinh. Nhiệt độ trong phòng bé nằm
tối thiểu là 30-32°C trong tuần đầu và 28-29°C trong những tuần tiếp theo.
- Cho trẻ nằm chung với mẹ sau đẻ càng sớm càng tốt, nhiệt độ ngoài da
của mẹ cao hơn sẽ truyền hơi ấm cho con.
- Mọi việc chăm sóc như thay tã, tắm, cân... phải được thực hiện nhanh
chóng.
- Sử dụng các phương tiện ủ ấm như lồng ấp, túi chườm ấm... hoặc ủ vào
lồng ngực mẹ theo phương pháp chuột túi trong trường hợp cần di chuyển bé.
- Dinh dưỡng đầy đủ, đặc biệt là việc cho bú mẹ sớm sẽ giúp trẻ đáp ứng
chuyển hóa, sản sinh năng lượng ổn định hơn về thân nhiệt và tránh sút cân.
Hiện tượng tăng thân nhiệt ở sơ sinh
Nguyên nhân là do trung tâm điều hòa nhiệt của trẻ sơ sinh chưa hoàn
thiện nên trẻ rất dễ bị tăng thân nhiệt. Khi thân nhiệt trẻ trên 38°C, da sẽ nóng và
rất đỏ, gây vã mồ hôi, tăng nhịp tim, nhịp thở, gây suy hô hấp và mất nước.
Khi đó, cần khẩn trương tìm nguyên nhân gây sốt ở trẻ như nhiễm khuẩn,
mất nước hoặc do ủ ấm và nhiệt độ trong phòng của trẻ quá cao. Trẻ sơ sinh có
thể bị tăng thân nhiệt trong những ngày sút cân sinh lý. Việc đầu tiên là cần hạ
bớt nhiệt độ trong phòng và cởi bớt quần áo, tránh gió lùa và cho trẻ bú mẹ
ngay.
SỐT - CÁCH HẠ SỐT
Chúng ta xác định là cháu bé bị sốt khi nhiệt độ lấy ở hậu môn của cháu
cao hơn 37,5°C. Thân nhiệt bình thường của mọi người buổi sáng là 36,5°C và
buổi chiều là 37,5°C. Tuy vậy, nếu ta lấy thân nhiệt của một cháu bé đang hoạt
động, chạy nhảy, chơi đùa mà không để cho cháu có thời gian nghỉ ngơi thì thân
nhiệt của cháu có thể là 38°C.
Sốt là gì?
Sốt là dấu hiệu của cơ thể đang chống lại một cuộc xâm nhập nào đó từ
bên ngoài vào của vi trùng hay vi rút. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Ở các
cháu sơ sinh có thể bị sốt vì ăn sữa đặc quá, vì sưởi nóng quá, vì cơ thể bị mất
nước mà không được uống đủ để bù lại, vì phòng ngủ hay thời tiết khô v.v...
Nên lấy nhiệt độ cho các cháu vào lúc nào?
Sốt là dấu hiệu đầu tiên của bệnh. Khi thấy một đứa trẻ không chịu ăn,
bàn tay nóng thì việc đầu tiên cần làm là lấy thân nhiệt, (cặp sốt) cho các cháu.
Nói chung, khi các cháu có dấu hiệu gì không bình thường, nên cặp sốt để biết
thân nhiệt của cháu, nhưng cũng không nên lúc nào cũng cặp sốt và đâm ra lo
lắng không đâu vì việc này.
Khi nào đưa cháu đến bác sĩ?
1. Nếu cháu sốt trên 37,5°C, và mới dưới 6 tháng tuổi.
2. Khi thân nhiệt của cháu từ 39°C trở lên (đối với các cháu lớn).
3. Nếu nhiệt độ của cháu 37°C lúc sáng, 38°C lúc chiều nhưng cứ sốt nhẹ
như thế liền 4,5 ngày.
4. Trong thời gian cháu đang bị bệnh, bỗng thân nhiệt tăng lên. Như vậy là
có thể có biến chứng.
5. Bác sĩ đã tới thăm và cho uống thuốc. Nhưng 2, 3 ngày qua rồi mà bệnh
vẫn không thuyên giảm.
Tuy vậy, người lớn nên giữ bình tĩnh. Việc chữa trị cần có thời gian.
Cần chú ý tới các biểu hiện gì, trước khi đưa cháu đến bác sĩ?
Người săn sóc cháu bé nên chú ý quan sát các biểu hiện bệnh của cháu,
để trả lời bác sĩ về những câu hỏi sau:
- Cháu có nôn không? Có ho không?
- Người cháu có nổi lên vết gì không?
- Họng cháu thế nào?
- Lưỡi cháu thế nào?
- Phân cháu có gì khác thường không?
- Cháu có chịu ăn không?
Có gì lạ nếu thân nhiệt cháu tăng nhanh?
Thân nhiệt của trẻ em dễ tăng nhanh hơn và cao hơn so với người lớn.
Bởi vậy không nên vội lo lắng.
Một cháu bé sốt 38°C liền mấy hôm rồi đáng lo hơn là một cháu khác 40°C
vì họng đỏ. Có một số cháu dễ có nhiệt độ cao hơn những cháu khác khi bị sốt
Có cần làm cho thân nhiệt bé hạ xuống hay không?
Nhiều bà mẹ thấy thân nhiệt của con cao, muốn làm sao cho thân nhiệt
của cháu hạ xuống ngay vì nghĩ rằng thân nhiệt cao là bệnh, làm cho thân nhiệt
xuống là giảm bệnh hay hết bệnh. Thật là một nhận thức sai lầm, nguy hiểm.
Quả thật, sốt gây mệt. Các cháu bé dưới 2 tuổi, sốt cao có thể gây co giật.
Tuy vậy, thân nhiệt là cái thước đo tình hình bệnh để báo cho bác sĩ biết. Người
ta có thể dùng thuốc để làm hạ nhiệt độ xuống, nhưng bệnh vẫn chưa khỏi.
Bởi vậy, trong thời gian điều trị bệnh cho một cháu bé, dù thân nhiệt của
cháu đã xuống, cháu đỡ sốt hay không sốt nữa, ta vẫn phải tiếp tục chú ý theo
dõi cẩn thận vì cháu có thể vẫn chưa khỏi bệnh. Nên nhớ: Khỏi sốt chưa phải là
khỏi bệnh.
Làm thế nào để hạ nhiệt độ?
Người ta thường dùng thuốc hạ nhiệt như Aspirin và Paracetamol và các
phương pháp khác như tắm, chườm lạnh bằng túi nước đá.
Sau khi ra khỏi viện rồi, không cần phải đo nhiệt độ nữa.
Khi bác sĩ đã nói: “Cháu bé đã khỏi, có thể ra viện rồi!” Các bà mẹ không
cần phải tiếp tục đo nhiệt độ cho cháu nữa. Nếu cháu có nhiệt độ 37,2°C buổi
sáng thì cũng không có gì đáng lo ngại vì điều cốt yếu là: cháu có chịu chơi và
chịu ăn không?
Thân nhiệt thấp quá
Sau khi khỏi bệnh, có khi thân nhiệt của cháu bé ở 36°C trong 3-4 ngày
liền thì cũng không có gì đáng lo ngại trừ trường hợp với các trẻ sơ sinh.
Thân nhiệt đảo ngược bất thường
Một số trẻ sơ sinh có 37,7°C buổi sáng và 37°C buổi chiều có thể là do
nguyên nhân về tai - mũi - họng, cần phải chú ý sau này.
CHỨNG CO GIẬT KHI SỐTTrẻ em ở độ tuổi từ 6 tháng tới 2 năm, hay bị sốt và co giật vì sốt cao, khi
các cháu bị viêm họng, viêm tai, viêm phổi, những chứng bệnh các cháu thường
mắc phải.
Hiện tượng co giật thường xảy ra ở độ tuổi này vì hệ thần kinh của các
cháu còn non yếu. Trong thời gian bị sốt, cứ mỗi lần thân nhiệt lên cao đột ngột
là các cháu lại bị co giật.
Triệu chứng của co giật
- Trước khi có hiện tượng co giật mặt cháu bé tái đi, mê man, cứng ngươi
lại mắt trợn ngược. Mấy giây sau, hiện tượng co giật xuất hiện ở mặt, ở chân,
tay trong một vài phút rồi thôi. Cháu bé thở mạnh, người lả đi. Từ trạng thái mê
man, không tỉnh cháu đi vào một giấc ngủ mê mệt.
Trong các trường hợp nhẹ, người ta khó nhận thấy các cơn co giật vì cháu
bé chỉ cứng người hoặc giật chân tay, mặt tái trong một thời gian ngắn. Thay vào
hiện tượng mê man, có lúc cháu bé như không nghe, không nhìn, không cảm
thấy mọi vật chung quanh. Chỉ có đôi mắt bị trợn ngược là triệu chứng rõ nhất.
Trong lúc bác sĩ chưa có mặt, cần phải làm những việc sau để nhiệt độ
của cháu bé hạ xuống:
- Cởi khuy áo hoặc bỏ bớt quần áo;
- Tắm cho cháu bằng nước có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt của cháu 2°C
trong 10 phút; có thể tắm nhiều lần như vậy;
- Có thể dùng các loại thuốc hạ nhiệt như Aspirin, Paracetamol.
Bác sĩ sẽ tiếp tục điều trị bằng các loại thuốc khác để chấm dứt các cơn
co giật và ngăn ngừa không xảy ra nữa.
Sau cơn co giật
- Bác sĩ thường yêu cầu bố mẹ các cháu đưa cháu đi bệnh viện để làm
một số xét nghiệm, sau khi cháu đã qua cơn. Vì, hiện tượng co giật rất có thể
liên quan tới tổn thương ở màng óc.
Hơn nữa, cần phải có phương pháp để phòng tránh cho cháu bị lại. Nếu
cháu bé lại sốt ngoài các biện pháp áp dụng ở phần trên, bác sĩ có thể cho cháu
uống thuốc chống co giật Valium. Thuốc giọt uống làm nhiều đợt.
Vì hiện tượng sốt cao kèm co giật ở nhiều trẻ thường xảy ra bất chợt,
nhiều lần lặp đi lặp lại nên có trường hợp, bác sĩ yêu cầu cho trẻ uống thuốc đề
phòng liên tục cho tới khi cháu 4 - 5 tuổi. Nhất là đối với các cháu hay có các
cơn kéo dài hoặc bác sĩ đã phát hiện thấy trong gia đình bé có người mắc chứng
động kinh.
Cảnh cháu bé bị sốt co giật thường gây ấn tượng mạnh cho những người
thân săn sóc cháu. Tuy vậy, khi cơn đã qua đi thì cháu lại trở lại trạng thái bình
thường.
CO GIẬT MÀ KHÔNG SỐT
Nếu cháu bé không sốt cao mà cũng bị co giật thì có thể là do có các hiện
tượng sinh học bất thường trong cơ thể như: Lượng đường hoặc lượng Canxi
trong ngưòi bị sụt một cách bất thường, hoặc cháu bị tổn thương trong não. Nếu
không vì có các nguyên nhân trên thì phải nghĩ đến chứng động kinh.
CHỨNG CO GIẬT Ở TRẺ SƠ SINH
Các trẻ sơ sinh bị những cơn co giật hoặc tay chân co cứng lại là do cơ
thể bị thiếu chất Canxi. Cơ thể các cháu nhỏ cần có các tia nắng hoặc ánh sáng
mặt trời để hấp thu chất Canxi.
Chứng bệnh này thường kèm theo bệnh còi xương. Để chữa trị, bác sĩ
thường cho các cháu uống các thuốc trong thành phần có Vitamin D và Canxi.
CƠN CO GIẬT
Chứng này có đặc điểm là tiếp theo một cơn co giật là hiện tượng chân,
tay, đầu cháu bé gập và co rúm lại về phía trước hoặc duỗi ra và ưỡn ngửa về
phía sau. Nguyên nhân của chứng này hiện vẫn chưa được biết rõ, trừ một vài
trường hợp do dị tật bẩm sinh của hệ thần kinh.
Chứng này thường kèm theo hiện tượng ngưng phát triển tâm lý và vận
động. Khi cháu bé lên cơn, cần phải nhờ tới sự giúp đỡ của bác sĩ ngay.
MỘT SỐ THAO TÁC CHUYÊN MÔN
Đắp gạc ẩm - Theo sự chỉ định của bác sĩ, nếu bạn cần đắp gạc lên một
vết thương hoặc cái nhọt, lấy một miếng gạc ngâm vào nước ấm có pha cồn 90°
(pha 1 thìa súp cồn vào 1 bát nước). Đặt gạc lên nhọt và cứ 10 - 15 phút, lại làm
lại.
Đứt tay hoặc vết thương - Việc đầu tiên là rửa vết thương. Rửa kỹ bằng xà
phòng, không để đất, cát hoặc gai ở lại trong thịt. Sau đó bôi thuốc sát trùng
trước khi băng lại.
Dùng băng dính - Các loại băng dính có sẵn gạc và thuốc sát trùng đều có
bán sẵn ở hiệu thuốc. Dùng loại băng này cũng phải thay hàng ngày. Nếu trong
ngày, băng bị bẩn, phải thay cái khác.
Buộc băng - Nếu vết thương chảy máu, cần rửa sạch, bôi thuốc sát trùng,
đắp một miếng gạc lên rồi lấy cuốn băng buộc lại. Không được buộc chặt để
máu vẫn lưu thông được, phải làm sao để chỗ có vêt thương không vì buộc
băng mà phồng lên, tím lại và sờ thấy lạnh.
Nếu buộc băng ở đầu, để khi ngủ băng không bị tuột ra thì nên đội cho trẻ
một cái mũ lưới hay mũ ngủ.
Những điều nên tránh - Khi chườm nóng cho các cháu bằng các dụng cụ
bằng cao su, túi chườm v.v... phải xem cẩn thận nút của túi có kín không. Bọc
một khăn ngoài túi chườm trước khi chườm cho trẻ. Có rất nhiều trẻ bị bỏng vì
chườm. Đối với những cháu nhỏ, không được dùng cồn, rượu long não hay
rượu bạc hà để xoa vùng ngực nếu không có ý kiến và sự chỉ định của bác sĩ.
Tiêm cho trẻ - Đối với trẻ sơ sinh, tránh không tiêm mông mà chỉ tiêm vào
bắp đùi. Công việc này nên để bác sĩ, hoặc y tá làm, bố mẹ chỉ nên đứng bên
cạnh để dỗ dành và an ủi cháu chứ không nên làm người phụ tá cho người làm
đau cháu.
DÙNG THUỐC CHO TRẺHỏi:
Bé bị sốt và bạn cho rằng cháu bị viêm họng. Lần trước anh bé cũng bị
như vậy và bác sĩ đã cho uống thuốc. Loại thuốc này còn thừa, vẫn để trong tủ
thuốc. Vậy, có nên cho bé uống thuốc?
Không nên!
Vì có nhiều thứ bệnh khác nhau cũng bắt đầu làm cho họng viêm đỏ. Nếu
bạn cho cháu uống thuốc như vậy, khi cần khám bệnh để điều trị cho cháu, bác
sĩ sẽ gặp nhiều khó khăn, vì những triệu chứng ban đầu của bệnh chính đã
được chữa khỏi.
Trong khi chưa có bác sĩ, bạn có thể trị bệnh cho trẻ như thế nào?
Nếu trẻ:
Bị sổ mũi:
- Nhỏ thuốc nhỏ mũi (Sérum sinh học), dùng viên thuốc đặt ở hậu môn có
thành phần dầu thông, dầu khuynh diệp.
Bị tiêu chảy nhẹ:
- Trẻ trên 6 tháng: Ngưng cho uống sữa, thay vào đó cho uống các dung
dịch chống hiện tượng cơ thể mất nước (có bán sẵn ở các hiệu thuốc), nước cà
rốt, khoai tây nghiền, chuối nghiền.
Bị táo bón:
- Dùng viên thuốc đặt ở ở hậu môn hay dầu Parafine.
Bị ho:
- Dùng sirô ho có thành phần thuốc thực vật và không có Codeine.
Bị giật mình, khó ngủ:
- Dùng nước hoa quả, nước cam loãng.
Bị đau bụng:
- Uống ít nước pha mật ong.
Ngoài những loại thuốc và biện pháp vô hại trên, không được cho trẻ dùng
bất cứ thuốc gì nhất là các loại thuốc kháng sinh và Sulfamide, kể cả thuốc bôi
ngoài da, cần tránh cả các loại thuốc nhỏ mũi làm co tế bào màng mũi như
Privine, Tizine, Naphtasoline...
Kể cả thuốc sốt Aspirine cũng không được dùng tùy tiện, nếu không có sự
chỉ định của bác sĩ.
Liều lượng khác nhau, tác dụng khác nhau
Cần cho trẻ dùng thuốc đúng liều lượng, đúng cách dùng đã được bác sĩ
chỉ dẫn.
Nếu trẻ không chịu uống thuốc hoặc uống không đủ liều lượng do bác sĩ
chỉ định, cần phải báo cho bác sĩ để tìm cách điều trị khác. Vì uống không đủ liều
bệnh sẽ không khỏi.
Cần chú ý tuân theo đúng cách dùng thuốc: uống làm mấy lần trong ngày?
Mỗi lần cách nhau bao lâu?
Không được tự ý tăng liều lượng thuốc.
Vì thuốc uống quá liều sẽ gây ngộ độc, tạo ra những phản ứng cơ thể như
mẫn đỏ, phát ban, chướng bụng...
Thái độ của người lớn khi cho trẻ uống thuốc
Không những cần làm cho trẻ hiểu rằng phải uống thuốc để khỏi bệnh, mà
người lớn cũng phải tin như thế để có thái độ cương quyết với trẻ. Khi đứa trẻ
phải uống thuốc sẽ nhìn vào thái độ cương quyết hay lưỡng lự của người lớn để
tùy cơ ứng xử.
Tuy vậy, nên giải thích cho trẻ hơn là dùng biện pháp mạnh. Không bắt
buộc nhưng cũng không năn nỉ, nên nói dịu dàng để trẻ hiểu: việc uống thuốc là
điều không thể khác được! Tránh không ép trẻ uống thuốc bằng sức mạnh, vì
thuốc dù lỏng hay rắn, có thể xuống theo đường hô hấp vào phổi gây hậu quả
rất nguy hiểm.
Các biện pháp cho trẻ uống thuốc
Nếu thuốc viên, tán ra thành bột rồi trộn với nước đường. Nếu thuốc có vị
đắng, rất đắng, nên pha với mứt quả có vị chua hoặc mật, Sôcôla, chuối nghiền.
Nếu trẻ nhè ra, cần coi xem cháu đã uống được bao nhiêu để cho cháu uống
thêm mà không quá liều lượng.
Tránh không trộn thuốc với các thức ăn thường ngày của trẻ như sữa, súp
v.v..., vì như vậy, sau này trẻ nhìn thấy sữa sẽ sợ, không chịu bú nữa.
- Thuốc để trong viên bao không nên lấy ra vì có thể loại thuốc này cần
phải được lọt xuống dạ dày rồi mới để cho tan.
- Sirô: Những thuốc loại Sirô thường dễ uống. Trước khi uống, nên lắc đều
chai đựng thuốc.
- Viên đặt ở hậu môn - cần làm viên thuốc ướt hoặc ngâm vào Vadơlin
trước khi nhét thuốc vào hậu môn trẻ. Sau đó, giữ mông trẻ khít lại vài phút để
thuốc không bị rơi ra.
Thời gian chữa trị
Hỏi: Bé sốt 40°C, bác sĩ cho uống thuốc kháng sinh. Hôm nay, thân nhiệt
của bé đã xuống tới 36°C. Vậy, có cần phải uống thuốc nữa hay không?
Trả lời: vẫn cần phải uống thuốc cho đủ liều lượng. Để trị khỏi bệnh bằng
thuốc kháng sinh, phải tiếp tục dùng thuốc thêm một vài ngày, dù các triệu
chứng bệnh đã mất. Thí dụ: triệu chứng của bệnh viêm họng, hoặc ho là sốt, khi
hết sốt không có nghĩa là đã hết bệnh. Muốn khỏi dứt bệnh, phải dùng thuốc từ 8
- 10 ngày. Nếu không dùng thuốc đủ liều lượng, có thể bị bệnh trở lại.
TỦ THUỐC GIA ĐÌNH
Đặt tủ thuốc ở đâu?
Tủ thuốc cần đặt ở vị trí cao để trẻ không với tới được và phải có khóa.
Trẻ nào cũng thích mở tủ. Khi thấy các hộp thuốc lọ thuốc nhỏ xinh, trẻ nào cũng
muốn mở ra và nếm thử.
Những ống thuốc Aspirine và các chai thuốc an thần mà nhiều người lớn
vẫn coi thường, lại thường là những thủ phạm gây ra nhiều vụ ngộ độc nhất cho
trẻ em.
Không nên để tủ thuốc ở những nơi ẩm hoặc nóng.
Trong tủ thuốc nên có:
- Bông, gạc
- Băng buộc, băng dính (keo)
- Kéo
- Kẹp
- Ống thụt
- 1 lọ Sérum sinh học
- 1 bình thuốc sát trùng
- 1 ống cặp sốt
- 1 lọ xà phòng nước
- 1 hộp viên nhuận tràng loại đặt hậu môn
- 1 ống Vadơlin
- 1 ống Aspirine hay Paracetamol dạng viên, gói, hoặc loại đặt ở hậu môn
như: Efferalgan, Dolipral...
Ngoài ra, có thể có một hộp băng cầm máu loại “Stop Hémo”: băng + gạc
có thấm chất cầm máu.
Giữ thuốc thế nào?
Thỉnh thoảng, chúng ta nên coi lại các thứ thuốc ở trong tủ thuốc để xem
loại nào còn dùng được, loại nào nên vứt đi, thứ nào đã dùng hết để mua bổ
sung.
- Những Ống thuốc tiêm (chích): Nếu còn hộp thì hạn ngày còn dùng được
có ghi ở vỏ hộp.
- Loại thuốc kháng sinh và Sulfamide: Thuốc dùng thừa nên vứt đi vì
những thuốc này khi dùng phải do bác sĩ chỉ định.
- Thuốc viên, viên con nhộng, gói: Phải để ở nơi khô ráo.
- Thuốc nhỏ mắt: Một khi đã mở rồi, chỉ dùng trong vòng 15 ngày.
- Thuốc mỡ: Nếu bóp ống thuốc mỡ thấy có nước mà phần còn lại bị
cứng: vứt cả ông đi. Những thuốc mỡ có chứa chất kháng sinh hoặc Sulfamide
chỉ dùng được trong vòng vài tuần.
- Chất bột: Phải để ở nơi khô ráo.
- Dung dịch Sérum sinh học: cần thay luôn.
- Sirô: Khi đã mở, chỉ dùng được trong thời gian vài tuần lễ
- Viên đặt ở hậu môn: Để nơi khô ráo.
Bác sĩ chuyên khoa nhi
Có nhiều người tích rất nhiều loại thuốc trong tủ thuốc gia đình, nghĩ rằng
như vậy sẽ ứng phó được với tình hình sức khỏe của con cái và cả mọi người
trong gia đình.
Trẻ sốt? Cho uống thuốc kháng sinh! Da bị mẩn đỏ? Bôi thuốc mỡ! Mệt?
Cho uống thuốc bổ! Khó ngủ? Cho uống thuốc an thần!
Hành động như vậy chưa đủ và đôi khi còn không có lợi vì đấy là sự cố
gắng xóa dấu vết các triệu chứng một căn bệnh nào đó chưa được biết.
Các bác sĩ chuyên môn, cần nhìn vào các triệu chứng đó để xác định
được bệnh và quyết định cho trẻ dùng thuốc gì để điều trị bệnh.
Trong mấy năm đầu, người bác sĩ rất cần cho trẻ, kể cả các cháu khỏe
mạnh. Vì ngoài việc chữa bệnh, bác sĩ còn có nhiệm vụ quan trọng nữa là phòng
bệnh cho tới 6 tuổi, các cháu cần phải được bác sĩ theo dõi sức khỏe, kiểm tra
sự phát triển về mọi mặt, tiêm chích phòng bệnh và chữa bệnh.
Ở mọi thành phố và tỉnh đều có các bác sĩ chuyên trị các bệnh trẻ em và
các bệnh viện có khoa Nhi riêng biệt, bạn nên tìm biết các địa chỉ đó để đưa các
cháu tới khám sức khỏe định kỳ và khám bệnh khi cần thiết.
CUỐN SỔ SỨC KHỎE CỦA BÉMỗi trẻ em cần được bố mẹ lập cho một cuốn sổ sức khỏe. Sổ này có bán
sẵn ở các trung tâm y tế tại khoa Nhi hoặc có thể phải làm lấy. Bố hoặc mẹ các
cháu sẽ ghi lại tất cả các điều có liên quan tới bé từ ngày mẹ bé mang thai, ngày
sinh, số cân nặng, chiều cao ở các độ tuổi của bé, ngày mọc răng nào, ngày bắt
đầu chập chững biết đi, ngày phải uống thuốc trị bệnh gì, các bệnh đã mắc phải
do bác sĩ chẩn đoán, các lần phải vào bệnh viện hoặc phải chữa trị đặc biệt...
Tất cả những điều được ghi trên, như một thứ lý lịch về sức khỏe của
cháu bé, sẽ giúp cho bác sĩ tìm được cách phòng bệnh, trị bệnh và chăm sóc
sức khỏe cho cháu bé một cách đắc lực.
KHI BÉ NẰM VIỆN
Ngày nay, việc một trẻ em phải nằm lại bệnh viện không còn là một điều
đáng lo lắng lắm. Bé nằm lại bệnh viện vì bị ốm, nhưng chưa chắc vì căn bệnh
trầm trọng, sở dĩ bác sĩ muốn giữ bé nằm viện là để dễ theo dõi và có điều kiện
làm một số xét nghiệm mà thôi.
Khác với thời trước, khi vào viện bé phải tách rời với gia đình, ngày nay,
các bác sĩ và nhân viên bệnh viện lại mong bệnh nhân có bố, mẹ hay người nhà
ở lại để sóc. Như vậy trẻ em vừa được ăn uống đầy đủ, vừa được yên tâm về
mặt tinh thần. Sự cộng tác giữa những người có chuyên môn về khoa chữa trị
với gia đình bệnh nhân, có tác dụng rất tốt đối với người bệnh.
Cùng ở lại với con trong bệnh viện, các bà mẹ có thể hỏi y tá hoặc nhân
viên phục vụ cháu, về:
- Nhiệt độ của cháu, dạng phân, tình hình sức khỏe nói chung... như thế
nào là tốt để dự đoán về tình hình sức khỏe của cháu.
Có thể hỏi trực tiếp bác sĩ điều trị về:
- Căn bệnh của cháu bé.
- Sự diễn biến của bệnh sẽ như thế nào để biết trước.
- Sự điều trị sẽ lâu hay chóng?
- Chế độ ăn uống của cháu cần như thế nào để tiện cho việc chăm sóc.
ĐỂ TRẺ SƠ SINH KHÔNG BỊ LÂY VIÊM GAN SIÊU VI B TỪ MẸ
Theo ước tính của các nhà chuyên môn, có đến 10- 13% thai phụ Việt
Nam nhiễm viêm gan siêu vi B. Điều này có nghĩa một số trẻ sơ sinh bị truyền vi
rút này từ mẹ. Sự lây truyền này xảy ra hay không phụ thuộc vào thời điểm
nhiễm bệnh và kết quả phản ứng huyết thanh của thai phụ.
Thời điểm nhiễm bệnh của mẹ
Mẹ bị bệnh ở quý I thai kỳ thì tỷ lệ truyền bệnh là 1%.
Mẹ bị bệnh ở quý II thai kỳ thì tỷ lệ truyền bệnh là 10%.
Mẹ bị bệnh ở quý III thai kỳ thì tỷ lệ truyền bệnh là 60-70%.
Kết quả xét nghiệm huyết thanh:
Mẹ có HBsAg (+) và HBeAg (+), tỷ lệ truyền bệnh 90-100%.
Mẹ có HBsAg (+) và HBeAg (-), tỷ lệ truyền bệnh 20%.
(Lưu ý: HBeAg (+) là biểu hiện siêu vi B đang sinh sản theo phương cách
tách đôi và là dấu hiệu cho thấy siêu vi đang tăng mạnh).
Đặc biệt, nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi có thể lên tới 90% nếu bà mẹ
không có biện pháp bảo vệ ngay sau khi sinh, 50% số trẻ này sẽ bị viêm gan
mạn tính và có nguy cơ bị xơ gan lúc trưởng thành.
Tỷ lệ trẻ bị viêm gan B cấp ngay sau khi sinh là 5- 7% và không có biểu
hiện triệu chứng. Cơ chế lây bệnh lúc sinh và sau sinh chưa rõ ràng (có thể qua
nhau thai khi chuyển dạ?) vì thế can thiệp bằng phẫu thuật cũng không ngăn
chặn được sự lây lan bệnh.
Sự truyền bệnh trong tử cung (từ mẹ sang con) là một trường hợp ngoại
lệ.
Thai phụ có thể nhiễm viêm gan siêu vi B trước khi có thai hoặc đang
mang thai (trường hợp này ít gặp). Việc có thai không phải là yếu tố làm cho
bệnh viêm gan siêu vi B ở mẹ nặng lên mà ngược lại, siêu vi B không gây ảnh
hưởng xấu cho tiến trình mang thai cũng như cho bào thai. Việc mang thai tiến
triển bình thường, thai nhi phát triển tốt và không có nguy cơ bị dị dạng. Chỉ khi
mẹ bị viêm gan siêu vi B nặng ở quý III của thai kỳ thì mới có nguy cơ sinh non.
Phòng tránh
Về phía người mẹ: Xét nghiệm kiểm tra HBsAg trong huyết thanh vào
tháng thứ 6 của thai kỳ. Nếu HBsAg (+) dương tính, để đánh giá mức độ truyền
bệnh có thể tiến hành xét nghiệm bổ sung HBeAg hoặc ADN và Anti-HBe. Còn
nếu HBsAg (-) âm tính thì nên tiêm phòng cho mẹ vì Vaccine này không chống
chỉ định với phụ nữ có thai và cho con bú.
Về phía trẻ: Nếu mẹ bị viêm gan siêu vi B thì trẻ sơ sinh được tiêm huyết
thanh đặc hiệu chống siêu vi B (Ig anti-HB) ngay trong phòng sinh 100 đơn vị
quốc tế. Tiếp sau đó, tiêm Vaccine viêm gan B ở một vị trí khác trên cơ thể trẻ
sơ sinh theo công thức 3 mũi (mũi 1 sau khi sinh, mũi 2 khi trẻ 1 tháng tuổi, mũi
3 khi trẻ được 6-12 tháng). Sau 15 năm tiêm nhắc lại.
Nếu trẻ đã được bảo vệ bằng huyết thanh và Vaccine thì vẫn cho trẻ bú
mẹ vì sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất, có nhiều kháng thể giúp trẻ chống
được bệnh tật. Hai hội nghị chuyên gia Âu Mỹ gần đây không coi là chống chỉ
định việc các bà mẹ nhiễm siêu vi B cho con bú vì chưa chứng minh được sự lây
nhiễm qua đường sữa.
Siêu vi B tổn tại bao lâu trong môi trường tự nhiên?
Do mẹ còn tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ trong những tháng tiếp
theo nên họ cũng cần biết, siêu vi B không tồn tại lâu khi ra ngoài cơ thể, nhưng
dụng cụ và đồ đạc bị vấy máu bệnh nhân dù đã khô vẫn có thể truyền bệnh trong
một thời gian ngắn. Vì vậy các dụng cụ này cần được lau rửa bằng thuốc sát
trùng như Javel 10%.
Chú ý: Éther và cồn 90° không diệt được siêu vi B. Dùng nước Javel phải
ngâm trong 2 giờ, tiệt trùng bằng nhiệt độ khô 170°C phải trong 1 giờ và tiệt
trùng trong tủ hấp 121°C trong 15 phút.
LỊCH TIÊM CHỦNG CHO TRẺ
Tiêm chủng là điều cần thiết với bất kỳ trẻ em nào. Ngay từ lúc bà mẹ
đang mang thai được 6 tháng, có thể tiêm chủng uốn ván để bảo vệ trẻ. Càng
tiêm chủng sớm, phản ứng thuốc (nếu có) càng nhẹ.
Một đứa trẻ tiêm chủng rồi vẫn có thể mắc bệnh nhưng rất hiếm. Quan
trọng là phải tiêm chủng đúng thời hạn và không quên chủng nhắc lại theo lịch.
LỊCH TIÊM CHỦNG
Tháng tuổi Vacxin cần tiêm Mũi tiêm
Sơ sinh
(càng sớm
càng tốt)
BCG (phòng lao) Viêm gan
B
1 mũi
Vacxin viêm gan B mũi 1
* Tốt nhất là 24 giờ đầu sau khi
sinh
2 tháng tuổi Bại liệt
Bạch hầu, ho gà, uốn ván
Viêm gan B
Bại liệt lần 1
Bạch hầu, ho gà, uốn ván mũi 1
Vaxin viêm gan B mũi 2
3 tháng tuổi Bại liệt
Bạch hầu, ho gà, uốn ván
Bại liệt lần 2
Bạch hầu, ho gà, uốn ván mũi 2
4 tháng tuổi Bại liệt Bại liệt lần 3
Bạch hầu, ho gà, uốn ván
Viêm gan B
Bạch hầu, ho gà, uốn ván mũi 3
Vaxin viêm gan B mũi 3
9 tháng tuổi Vaxin sỏi - Mũi 1 khi trẻ đủ 9 tháng tuổi
- Và đưa trẻ đi tiêm trong chiến
dịch tiêm nhắc vaxin sởi
Từ 1-5 tuổi Viêm não nhật bản* Vacxin viêm não mũi 1
Vacxin viêm não mũi 2
(hai tuần sau mũi 1)
Vacxin viêm não mũi 3
(một năm sau mũi 2)
Từ 2-5 tuổi Vaxin tả* 2 lần uống
(lần 2 sau lần 1 hai tuần)
Từ 3-5 tuổi Vaxin thương hàn* Tiêm một mũi duy nhất
Ghi chú: * Chỉ tiêm chủng ở các vùng có nguy cơ bệnh.
Tất cả vacxin dùng trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng đều miễn phí.
- Ngoài ra ngừa ban đỏ: Chích một lần duy nhất vào lúc trẻ được 9 tháng
tuổi. Phản ứng thuốc sẽ gây ra một thứ ban đỏ nhẹ.
- Ngừa D.T.C (bạch hầu, uôn ván, ho gà) thường được pha chung trong
một mũi chích duy nhất. Phải chích ba lần mới có hiệu nghiệm, mỗi lần cách
nhau từ 3-6 tuần, tốt nhất là 1 tháng. Thường gây phản ứng sốt, nóng khó chịu
vài giờ sau khi chích, chỗ chích ửng đỏ, sưng đau. Phải chích sớm ngay khi trẻ
được ngoài tháng vì càng chích trễ, phản ứng càng nhiều. Trường hợp trẻ bị
nhiễm lao, viêm thận, suyễn, lác hoặc có tiền căn kinh phong trong gia đình, phải
cho bác sĩ biết để tùy trường hợp quyết định có nên chích D.T.C không.
- Ngừa viêm gan siêu vi B: Đối với trẻ có mẹ mang mầm bệnh, thì sau khi
sinh 12 giờ cần chủng ngừa viêm gan siêu vi B và tiêm chích HBi G 0,5 ml. Còn
trẻ bình thường, chích 3 mũi vào lúc: xuất viện về nhà, lúc 1-2 tháng tuổi và 6-18
tháng tuổi. Hiện có nhiều loại văc-xin ngừa viêm gan siêu vi với liều lượng dùng
khác nhau, phải do cơ sở y tế hướng dẫn cụ thể.
Chú ý: Việc tiêm phòng chỉ có hiệu quả nếu chích đủ liều lượng và đúng
kỳ hạn. Bởi vậy, khi đưa cháu đi tiêm phòng, bạn hãy nhớ hỏi ngày tiêm phòng
lần sau và ghi ngày đó vào cuốn sổ sức khỏe của cháu để khỏi quên. Nếu tới kỳ
hạn lần sau mà bạn không đưa cháu tới hoặc tới chậm quá, không đúng ngày thì
có thể phải tiêm lại từ đầu.
Phần 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TỪNG PHẦN CƠ THỂ TRẺ
I. ĐẦUTHÓP
Thóp là vùng mềm giữa các xương sọ bên trên trán của trẻ sơ sinh sẽ
cứng lại ở khoảng từ 8 tới 18 tháng tuổi: Các xương sọ lúc đó sẽ liền lại. Nếu
cháu bé đã ngoài 2 tuổi mà thóp vẫn còn mềm, bà mẹ cần nói cho bác sĩ biết.
Ngược lại nếu mới trong 1, 2 tháng đầu mà cháu bé đã không còn thóp nữa, thì
đấy cũng là điều bất thường, có ảnh hưởng không hay tới sự phát triển của đứa
bé.
Các bà mẹ thường thấy thóp căng ra khi cháu bé khóc: Đó là bình thường,
cả hiện tượng nhìn thấy và sờ thấy thóp phập phồng cũng vậy.
Thóp lúc nào cũng phải dẹt và đàn hồi. Nếu thóp bị phồng căng lên thì là
hiện tượng bất thường: Bé có thể bị bệnh ở màng óc. Nếu thóp hõm xuống là
biểu hiện cơ thể bé thiếu nước.
Nếu vì một tai nạn nào đó mà thóp bị va mạnh hoặc tổn thương, phải đưa
bé vào bệnh viện ngay.
CÁC CHỨNG ĐAU ĐẦU THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EM
Đau đầu là bệnh ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là ở trẻ vị thành
niên, với nhiều loại và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước tuổi dậy thì,
bệnh thường gặp ở nam nhiều hơn nữ, nhưng sau khi khởi phát thì lại gặp ở nữ
nhiều hơn nam.
Một số kiểu đau đầu thường gặp ở trẻ em như sau:
Đau đầu cấp (cơn đau đầu đơn thuần, kèm có hay không có tiền sử trước
đó): Nguyên nhân thường là do: Viêm hô hấp trên (có sốt hoặc không sốt), viêm
xoang, viêm họng, viêm màng não (do vi rút hay vi khuẩn), Migraine, cao huyết
áp, lạm dụng chất gây nghiện (Cocain), thuốc (Methylphenidate, Steroids...), độc
chất (chì...), u não, não úng thủy, xuất huyết nội sọ...
Trong những nghiên cứu tại phòng cấp cứu về bệnh đau đầu của trẻ em,
khi trẻ đau đầu có kèm theo một hay nhiều dấu hiệu như: Thay đổi tri giác, cổ
cứng, cử động mắt bất thường, liệt nửa người... Và những triệu chứng này đều
có bệnh nền nghiêm trọng như xuất huyết nội, u não, viêm màng não.
Khi xuất hiện những cơn đau đầu cấp ở trẻ em, động tác can thiệp tức thì
là nên đặt trẻ nằm ở nơi yên tĩnh, phòng tối, đắp khăn ẩm lạnh trên trán, giấc
ngủ thường là phương pháp trị liệu hiệu quả nhất.
Đau đầu cấp - tái phát (kiểu đau đầu xen kẽ với những khoảng thời gian
không triệu chứng): Đau đầu Migraine (có hoặc không có tiến triển) là dạng đau
đầu cấp - tái phát phổ biến nhất ở trẻ em. Trẻ đau đầu Migraine có biểu hiện đau
đầu từ năm cơn trở lên, kéo dài 1- 48 giờ, đau cả hai bên hoặc chỉ một bên trán,
thái dương; cường độ đau từ trung bình tới nặng, tăng lên khi thực hiện các hoạt
động thường qui, đi kèm với ít nhất một trong các yếu tố như buồn nôn hoặc
nôn, sợ ánh sáng hoặc sợ âm thanh.
Điều trị Migraine ở trẻ em được chia thành hai giai đoạn: các biện pháp
chung và dùng thuốc. Biện pháp chung đầu tiên là phải khẳng định chắc chắn
đối với bệnh nhân và người chăm sóc về nguyên nhân của đau đầu.
Những biện pháp trị liệu tổng quát khác bao gồm xác định và loại trừ các
yếu tố khởi phát cơn đau đầu, điều hòa phong cách sống. Những yếu tố khởi
phát đau đầu Migraine phổ biến ở trẻ em là gián đoạn giấc ngủ, lỡ bữa ăn, lạm
dụng thuốc giảm đau và Stress.
Cũng nên lưu ý tình trạng nghiện hay cai nghiện Caffeine có thể gây ra
cơn đau đầu ở trẻ vị thành niên (có một số trẻ vị thành niên dùng nhiều loại nước
ngọt có caffeine hay uống vài ly cà phê mỗi ngày). Đa số trẻ bị Migraine không
cần dùng thuốc. Việc dùng thuốc điều trị hay không do bác sĩ quyết định.
Ngoài ra còn có các hội chứng đau đầu cấp - tái phát khác ở trẻ em và trẻ
vị thành niên như: Đau đầu kiểu căng thẳng (xảy ra ở trẻ em nhưng chưa có
nghiên cứu nghiêm túc), đau đầu do rối loạn khớp thái dương hàm (ít gặp), đau
nửa đầu kịch phát (đặc trưng bởi những cơn đau nhiều quanh hốc mắt kéo dài
5-30 phút và xảy ra nhiều lần trong ngày), đau đầu vùng chẩm (đặc trưng bởi
những cơn đau như dao đâm ở vùng cổ trên hay vùng chẩm và thường xảy ra
khi gập cổ hay xoay đầu)...
Đau đầu mạn - tiến triển (tăng từ từ về tần suất đau và độ nặng): Nguyên
nhân là do trẻ bị u não, não úng thủy (tắc nghẽn hay thông thương), não giả u,
áp xe não, bướu máu, túi phình mạch máu và các bất thường mạch máu, thuốc,
độc chất... Đau đầu mạn - tiến triển có tiên lượng xấu nhất trong các kiểu đau
đầu, liên quan đến việc gia tăng dần về tần suất và độ nặng của cơn đau theo
thời gian.
Khi đau đầu có kèm theo thay đổi tình trạng tâm thần, bất thường của cử
động mắt, méo đĩa thị, bất đối xứng về vận động hay cảm giác... phải nghi ngờ
có bệnh lý nội sọ. Với những bệnh nhân đau đầu mạn - tiến triển phải được chẩn
đoán hình ảnh để kịp thời có biện pháp điều trị can thiệp.
Đau đầu mạn - không tiến triển (mạn tính - hằng ngày, đau đầu thường
xuyên): Còn gọi là đau đầu mạn hằng ngày. Tỷ lệ bệnh ở trẻ vị thành niên là 0,2
- 0,9%. Nhiều trẻ vị thành niên bị đau đầu liên tục không dứt. Có khi đau đầu kéo
dài hơn hoặc tới bốn giờ đồng hồ và xảy ra trên 15 lần trong một tháng.
Với kiểu đau đầu này phải chú ý xác định các yếu tố làm khởi phát hay làm
nặng thêm những cơn đau đầu ở góc độ nguyên nhân tâm lý và giáo dục. Từ đó
có kế hoạch điều trị toàn diện (phân tích các thói quen ngủ, tập thể dục, chế độ
ăn uống, học tập...) như tham vấn, xử trí Stress, liệu pháp hành vi... Chú ý không
nên dùng thuốc ngủ cho những bệnh nhân đau đầu mạn tính hằng ngày.
Đau đầu phối hợp (đau đầu cấp - tái phát chồng lên kiểu đau nền mạn tính
- hằng ngày): Đau đầu kiểu phối hợp là đau đầu Migraine chồng lên nền kiểu đau
đầu mạn tính hằng ngày. Điều trị tương tự như đau đầu mạn tính hằng ngày, kết
hợp với tâm lý và hành vi liệu pháp, sử dụng thuốc giảm đau và các thuốc dự
phòng.
CẨN THẬN KHI TRẺ BỊ NHỨC ĐẦU
Do không có khả năng diễn tả những triệu chứng một cách rõ ràng cho
người lớn, trẻ thường chỉ kêu khóc khi bị nhức đầu. Và ngay cả khi phát hiện ra
chứng bệnh này của trẻ, ít bậc cha mẹ cảm thấy lo lắng như khi các cháu sốt, đi
ngoài... Trong khi đây là biểu hiện sớm của nhiều bệnh nhiễm trùng thường gặp
ở trẻ.
Nhức đầu là một triệu chứng thông thường, có thể xảy ra bất kỳ ở đâu, lúc
nào trong cuộc sống. Có khi nhức đầu chỉ ở mức độ nhẹ, chóng khỏi với thuốc
giảm đau thông thường. Đôi khi cảm giác nhức đầu tái đi tái lại mặc dù có uống
thuốc trị nhức đầu. Có thể đây cũng là biểu hiện của căn bệnh nào đó đang tiếp
diễn.
Khi nào lưu ý chứng nhức đầu ở trẻ?
Cần hỏi kỹ thời gian và các tình huống gây nhức đầu. Phần lớn các bậc
cha mẹ có thể nhận biết nguyên nhân làm trẻ nhức đầu như thức khuya, chơi lâu
ngoài trời nắng, bị va chạm ở đầu... Nếu không tìm được mối liên hệ và tình
trạng nhức đầu luôn tái diễn, cần đưa trẻ đến bác sĩ.
Cũng cần chú ý những triệu chứng đi kèm với nhức đầu như lừ đừ, sốt
cao, giảm thị lực, nôn ói hoặc co giật, yếu liệt tay chân...
Nguyên nhân nhức đầu
Trẻ nhỏ có thể bị nhức đầu vì sâu răng, viêm tai, viêm mũi xoang, mọc
răng, nóng sốt... Ở trẻ lớn hơn, có thể do bệnh đau nửa đầu, cảm sốt, viêm mũi
xoang, viêm đường hô hấp... Ngoài ra, khi nhức đầu có kèm theo sốt cao kéo
dài, mệt mỏi, bầm chảy máu dưới da, nổi hạch... thì phải nghĩ đến bệnh bạch
cầu cấp. Nhức đầu kèm theo triệu chứng nôn ói tăng dần, tái diễn vào buổi sáng
sớm có thể là biểu hiện bướu não ở trẻ em.
Nhức đầu thông thường có thể điều trị ở nhà bằng cách lau mát cho trẻ,
cho uống thuốc giảm đau, cho nghỉ ngơi. Nếu nhức đầu tái diễn với những biểu
hiện sốt cao, nôn ói, mệt mỏi, mờ thị lực hay co giật, yếu liệt tay chân... cần đưa
trẻ đến khám bệnh ở các cơ sở y tế. Các bác sĩ sẽ hỏi kỹ bệnh sử, thăm khám
và thực hiện các xét nghiệm cần thiết để định bệnh và điều trị thích hợp.
Cha mẹ cần tìm hiểu, theo dõi kỹ chứng nhức đầu ở trẻ em để can thiệp
xử trí kịp thời, không lơ là, mất cảnh giác với chứng nhức đầu ở trẻ em.
XỬ LÝ CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO Ở TRẺ EM
Chấn thương này hay xảy ra ở trẻ dưới năm tuổi do ngã hoặc va đụng
trong nhà. Trẻ càng nhỏ càng dễ bị chấn thương sọ não do phần đầu còn to và
nặng, thường rơi xuống trước; các cháu lại chưa có khả năng điều chỉnh tư thế
cân bằng khi ngã.
Nếu trẻ vẫn tỉnh táo sau khi ngã, thăm khám thấy bình thường, có thể
chăm sóc ở nhà nhưng phải theo dõi chặt chẽ 3 giờ một lần trong suốt 24 giờ
(nếu trẻ ngủ cũng phải đánh thức dậy). Hãy đưa trẻ đi khám cấp cứu ngay tại
một cơ sở điều trị gần nhất nếu thấy xuất hiện một trong những triệu chứng sau:
- Rối loạn ý thức hoặc tâm thần.
- Đồng tử không đều hai bên.
- Co giật.
- Nôn dễ dàng nhiều lần.
- Mất tư thế thăng bằng.
- Rối loạn vận động một chi hoặc một phần của chi.
Nếu sau khi ngã, trẻ bị bất tỉnh thì phải đưa đi cấp cứu ngay (tai biến loại
này chiếm 4% các ca chấn thương sọ não, thường xảy ra với trẻ nhỏ). Tại bệnh
viện, phương pháp duy nhất có giá trị để chẩn đoán tổn thương là chụp cắt lớp
hộp sọ.
Chấn thương sọ não có thể gây những biến chứng nguy hiểm như dập
não, chảy máu não, tụ máu hoặc chảy máu nội sọ, tụ máu ngoài hoặc dưới
màng cứng, ở trẻ nhỏ, biến chứng tụ máu ngoài màng cứng có thể xảy ra mà
không kèm theo biểu hiện mất ý thức ban đầu.
Để phòng tránh chấn thương sọ não và những hậu quả nghiêm trọng do
nó gây ra, những người có con nhỏ cần lưu ý:
- Trông nom cẩn thận khi trẻ mới biết bò, biết đi.
- Giường nằm của trẻ cần có tấm chắn, dưới chân giường trải đệm để nếu
ngã, trẻ đỡ bị chấn động.
- Không để trẻ tự ý leo lên gác cao, cửa sổ đang mở hoặc lần bước xuống
thang gác.
- Giải thích dần cho trẻ hiểu những điều nguy hiểm có thể xảy ra khi mò
mẫm đi lại.
- Khi xảy ra chấn thương ở đầu, cần cho trẻ đi khám ngay. Nếu bác sĩ cho
về nhà, trẻ vẫn phải được theo dõi sát theo hướng dẫn.
CHỨNG ĐỘNG KINH
Động kinh là một chứng bệnh gây co giật cơ thể, không phải vì sốt cao,
cũng không phải vì cơ thể mất thăng bằng về mặt sinh học như thiếu Glucô hay
Canxi trong máu.
Người ta thường dùng bộ quét (Scanner) để dò tìm xem có phải do tổn
thương ở não không. Nếu cũng không tìm thấy nguyên nhân thì chỉ còn lại một lý
do: bệnh di truyền.
Ở trẻ em, hiện tượng bị động kinh có nhiều mức: Có cháu bỗng nhiên ngã
vật xuống, cong người lên rồi co giật tay chân và các cơ mặt. Đôi mắt vô hồn đờ
đẫn, trợn ngược, mặt nhăn nhúm, thở khó khăn. Lát sau, cháu thở bình thường
trở lại, các cơ bắp toàn thân đều thư giãn tới mức, có cháu tè dầm. Sau đó, cháu
có thể thiếp đi trong giấc ngủ. Khi tỉnh dậy, cháu không hề biết gì về những sự
việc vừa xảy ra với bản thân mình.
Có trường hợp các hiện tượng xảy ra không đầy đủ như trên, chỉ có hiện
tượng cong cứng người hoặc ngược lại, người mềm rũ, cộng với vài sự co giật
ở thân thể, mắt lờ đờ.
Hoặc bé vẫn tỉnh táo, nhưng không nói được, cơ thể bị co giật ở một vài
nơi khi bé vừa thức dậy, hoặc đang trong giấc ngủ.
Có các cháu nhỏ 5 - 6 tháng tuổi đã có các biểu hiện co giật như thế. Lại
có các cháu từ 3 tuổi trở lên, có những lúc như bị hôn mê, không biết gì trong
một vài giây.
Động kinh là một chứng bệnh cần phải chữa trị lâu, mất nhiều công sức,
nhưng ngày nay, không còn là một bệnh không thể chữa khỏi, hoặc phải chữa
suốt đời. Người ta đã coi một số trường hợp như một loại bệnh nhẹ, tuy rằng,
bệnh này vẫn cần tới sự săn sóc của các bác sĩ chuyên ngành.
Khi còn trong thời gian chữa trị, các cháu cần được theo dõi từng ngày.
Nhưng nếu trong 3 năm liền mà cháu không lên cơn hoặc có một triệu chứng gì
nữa thì có thể ngưng việc thuốc thang, điều trị. Chỉ cần chú ý tổ chức sinh hoạt
cho có nề nếp, bảo đảm cho các cháu không bị mất ngủ. Các nhà tâm lý học cho
rằng nên để các cháu tới trường như các đứa trẻ bình thường khác. Không nên
lúc nào cũng quá chú ý tới các cháu vì chính làm như vậy sẽ làm cho tinh thần
các cháu bị căng thẳng hơn.
Các cháu bị chứng động kinh vẫn có thể tham gia các hoạt động thể dục
thể thao, kể cả bơi lội, nhưng phải có người canh chừng.
Điều cốt yếu trong việc chăm sóc các cháu bị chứng bệnh này là giúp đỡ
các cháu phát triển bình thường về mặt tinh thần cũng như về thể chất.
LÀM GÌ KHI TRẺ LÊN CƠN ĐỘNG KINH?
Hỏi:
Con trai tôi 14 tuổi, thường lên cơn động kinh. Khi cháu bị co giật, vợ
chồng tôi rất sợ, thường phải ghì cháu cho đỡ giật và ngáng đũa hoặc đưa khăn
vào miệng cháu để khỏi cắn vào lưỡi. Cơn giật có thể dẫn tới những biến chứng
gì và chúng tôi cần chăm sóc cháu như thế nào khi cơn đang diễn ra?
Trả lời:
Những biến chứng và tai nạn có thể gặp ở động kinh là:
- Cắn phải lưỡi và hư hại răng.
- Viêm phổi do hít phải dớt dãi.
- Gãy xương, thường gặp ở xương cổ.
- Tổn thương não do cơn co giật kéo dài làm não thiếu ôxy.
- Ngừng thở do tắc nghẽn đường thở.
- Chấn thương cơ thể do va đập.
Khi bệnh nhân lên cơn co giật, người nhà cần xử lý theo các hướng dẫn
sau:
- Bình tĩnh đặt bệnh nhân ở tư thế nằm, tránh để va đập vào các vật dụng
đồ đạc xung quanh, gây thương tích.
- Đặt đầu bệnh nhân lên gối hoặc cuộn quần áo mềm để tránh gây thương
tích cho hộp sọ trong cơn co giật mạnh.
- Nới lỏng quần áo, đặc biệt là ở vùng cổ và ngực để giúp bệnh nhân dễ
thở. Đầu ở tư thế hơi ngả ra sau.
- Đặt bệnh nhân nằm nghiêng để dớt dãi không lọt vào đường thở. Tuyệt
đối không đưa bất cứ thứ gì vào miệng bệnh nhân, vừa nguy hiểm cho người
nhà và cho cả bệnh nhân nếu tiếp diễn một cơn co giật mới. Trước đây, với mục
đích ngăn người bệnh cắn phải lưỡi khi lên cơn, mọi người có thói quen ngáng
đũa ngang miệng. Đây là một việc làm vô ích vì nếu bệnh nhân cắn vào lưỡi thì
hiện tượng đó xảy ra ngay từ lúc khởi phát cơn, người nhà không kịp can thiệp.
- Không được ôm ghì hoặc dằn bệnh nhân xuống giường, nền nhà. Điều
đó không làm dịu cơn co giật mà cản trở sự hô hấp của bệnh nhân và có khả
năng kích thích thêm cơn giật.
Trong cơn giật của bệnh nhân, cần có người túc trực bên cạnh để theo dõi
và xử lý các tình huống kịp thời. Khi cơn co giật chấm dứt, cần tìm cách động
viên, ổn định tinh thần người bệnh.
Đa số các trường hợp động kinh tự dứt mà không cần dùng thuốc, sau
cơn không nhất thiết phải chuyển đi cấp cứu nếu bệnh đã xác định rõ ràng. Tuy
nhiên, các cơn co giật dạng động kinh có thể là dấu hiệu của một bệnh quan
trọng như biến chứng của bệnh tiểu đường, rối loạn thăng bằng điện giải, chấn
thương sọ não, u não hoặc các hiện tượng nhiễm trùng não và màng não... Vì
vậy, bệnh nhân cần phải được kiểm tra thăm khám khi ở một trong các tình
huống sau:
- Cơn co giật kéo dài quá 5 phút.
- Bệnh nhân lên cơn lần đầu, trong tiền sử không hề có biểu hiện của
động kinh.
- Cơn tái phát sau khi đã dứt cơn.
- Có triệu chứng khó thở hoặc chấn thương sau cơn.
- Bệnh nhân đang mang thai hoặc có bệnh tiểu đường.
BỆNH VIÊM MÀNG NÃO
Ngày nay, bệnh viêm màng não là một bệnh đáng ngại, tuy rằng việc chẩn
đoán và phát hiện bệnh có nhiều điều kiện để thực hiện được nhanh hơn trước.
Một triệu chứng rõ nhất ở trẻ sơ sinh là khi các cháu bị bệnh viêm màng
não thì thóp bị căng và phồng lên: cần phải đưa cháu đi bệnh viện hoặc tới bác
sĩ ngay.
Những triệu chứng ở các cháu lớn là nôn ói nhiều, phọt ra thành tia, sốt,
đau đầu và đặc biệt là hiện tượng bị cứng gáy không thể gập cổ lại để cằm đụng
được ngực như ngày thường, người ta thường phải lấy nước tủy để xét nghiệm
xem cháu bị bệnh do vi trùng hay vi rút.
Bệnh viêm màng não do vi trùng:
- Làm cho nước tủy của cháu bé bị bệnh có mủ. Cháu bé càng nhỏ thì
bệnh càng nguy hiểm. Một số vi trùng có thể là nguyên nhân của bệnh này như
vi trùng bệnh phổi (phế cầu trùng), liên cầu trùng, hoặc Hémophilus (xem mục
Hémophilus là gì?). Bệnh này có thể xuất hiện thành dịch. Trong thời gian có
dịch, người ta có thể lấy chất mẫu ở họng những trẻ nghi bị bệnh để xét nghiệm
và phát hiện những trẻ có mang vi trùng. Đối với những người có tiếp xúc với
người bệnh và các trẻ bị bệnh, bác sĩ thường cho uống thuốc kháng sinh hoặc
thuốc Sulfamide trong 5 ngày liền để trị hoặc phòng bệnh.
Hiện nay, đã có thuốc tiêm phòng vi trùng Hémophilus, nhưng chưa có
thuốc phòng bệnh hữu hiệu đối với màng não cầu.
Bệnh viêm màng não do vi rút:
- Chất lỏng lấy ra từ cột sống các cháu bị bệnh này do vi rút thường trong
vắt, không có mủ và vi trùng. Những triệu chứng của bệnh cũng giống như trên,
nhưng nhẹ hơn, không cần thuốc kháng sinh bệnh cũng tự khỏi trong vài ngày.
Người ta phát hiện bệnh bằng cách xét nghiệm kháng thể trong máu. Bệnh có
thể do trẻ bị quai bị hay nhiễm một số vi rút khác.
Bệnh viêm màng não do lao:
- Hiện nay hiếm thấy vì các cháu đã được tiêm BCG phòng lao từ nhỏ.
VẨY TRÊN ĐẦU
Nếu đầu cháu có những vẩy nhỏ, phải bôi Vadơlin lên mỗi chiều rồi hôm
sau gội đầu cho cháu bằng loại xà bông nhẹ (shampoing). Nếu không khỏi, cần
hỏi các bác sĩ da liễu.
BÉ RỤNG TÓC HOẶC KHÔNG CÓ TÓC
Nhiều bà mẹ lo ngại con mình bị hói vì quãng đầu bé đè lên gối khi nằm,
không có tóc. Thật ra, hiện tượng này là bình thường, chỉ do ma sát mà thôi. Lẽ
dĩ nhiên, có nhiều đứa trẻ khác cũng nằm như thế mà vẫn có tóc. Nhưng, tóc bé
có thể mảnh mai hơn, dễ rụng hơn và cháu hay nằm lâu ở một tư thế hơn là các
bé khác, đặc biệt là nằm ngửa.
Nếu cháu đã lớn nhưng vẫn rụng tóc thì rõ ràng là vấn đề cần chú ý. Có
thể cháu bé có thói quen giật tóc hoặc soắn tóc mình. Ngoài ra, sau khi khỏi
bệnh sốt thương hàn cũng bị rụng tóc. Một số dược phẩm, thuốc uống cũng có
tác dụng như vậy.
Một số ít các cháu có những mảng da trống không có tóc trên đầu do bị
nấm tóc, cần phải chữa trị ngay vì bệnh này có thể kéo dài và lây.
Một số trẻ từ 2 tuổi trở lên bị rụng tóc từng mảng lại do những nguyên
nhân tâm lý.
Nói chung, khi xác định một đứa trẻ có chứng rụng tóc, cần phải đưa cháu
tới bác sĩ để tìm nguyên nhân và chữa trị.
CHẤY
Một cháu bé sạch sẽ vẫn có thể lây chấy của các cháu khác. Các cháu có
chấy hay gãi đầu vì bị ngứa, nhìn kỹ vào tóc của các cháu, bạn sẽ thấy các trứng
chấy nhỏ, tròn, màu xám bám vào tóc.
Hãy gội đầu hàng ngày cho cháu bằng các chất thuốc chống chấy bán ở
hiệu thuốc trong năm ngày liền. Hãy dùng xà phòng gội kỹ lại, chải tóc bằng lược
bí (có răng lược khít).
Nhúng lược vào giấm nóng để chải rồi lấy khăn sạch trùm lên tóc các cháu
một hồi lâu.
Thay và giặt áo gối, khăn trải giường và quần áo mỗi ngày cho các cháu.
MẮT
Những vấn đề về mắt đã được đề cập trong những mục: Đau mắt đỏ,
chắp, lác v.v...
Nếu đau mắt vì bị chấn thương cần phải tới ngay bác sĩ chuyên khoa mắt
để khám mắt. Tất cả các hiện tượng bất thường ở mắt nói chung, ở giác mạc,
thủy tinh thể, con ngươi nói riêng, đều ảnh hưởng tới thị giác và có thể làm khả
năng nhìn của cháu bé kém đi.
Phát hiện mắt kém
- Cũng như việc nghe kém, việc nhìn kém của các cháu cần phải phát hiện
và tìm nguyên nhân từ sớm. Thí dụ: Hiện tượng lác mắt cần phải luyện tập cho
các cháu cách nhìn theo một phương pháp riêng để chữa trị và luyện tập càng
sớm càng tốt.
Có nhiều phương pháp thử nghiệm để phát hiện xem các cháu có bị kém
về thị giác hay không. Có cháu mới được vài tháng cũng cần phải đeo kính.
Giảm thị lực
Trẻ mới được mấy tháng tuổi có thể mắc chứng giảm thị lực nhìn không
tinh ở một bên hay cả hai bên mắt. Có thể thử đơn giản bằng cách rọi tia sáng
vào mắt cháu rồi theo dõi phản ứng. Nếu có nghi ngờ gì phải đưa cháu đến bác
sĩ chuyên khoa mắt.
Chắp (lẹo) mắt
Chắp mắt là loại mụn nhỏ mọc ở bờ mi mắt, dưới chân một lông mi. Chắp
chóng khỏi nhưng dễ bị lại. Muốn trị chắp, chỉ cần bôi lên chắp loại Pommát
kháng sinh.
Nguyên nhân chắp là do một loại tuyến nhỏ ở bờ mi bị nhiễm trùng.
Chứng lác mắt
Trong mấy tháng đầu sau sinh, có lúc mắt trẻ có vẻ như hơi lác. Hiện
tượng này về sau tự nhiên sẽ hết, vì trong những ngày đầu của cuộc sống, hai
mắt các cháu chưa phối hợp khớp với nhau mà thôi.
Nhưng, nếu hiện tượng này kéo dài và thường xuyên thì bà mẹ phải đưa
cháu tới bác sĩ chuyên khoa mắt ngay, càng sớm càng tốt.
Lác thường là khuyết tật của một bên mắt, cần phải tập luyện cho bên mắt
bị tật. Bác sĩ sẽ băng kín bên mắt không bị tật lại để luyện tập cho mắt kia hoặc
cho cháu đeo kính có mắt kính đặc biệt để điều chỉnh hướng nhìn cho mắt cháu.
Khi mắt cháu đã nhìn được bình thường rồi bác sĩ có thể thực hiện thêm một
cuộc phẫu thuật thẩm mỹ nhỏ nữa.
Đau mắt đỏ
Nhiều khi các cháu nhỏ vừa bị ho, vừa đau mắt đỏ. Lòng trắng mắt ngứa,
hơi sưng và màu đỏ. Khi cháu hết ho, thì mắt cũng khỏi.
Nếu cháu chỉ bị đau mắt thôi, lòng trắng mắt màu đỏ, luôn chảy nước mắt,
buổi sáng mí mắt dính vào nhau và dỉ màu vàng đến nỗi cháu không mở mắt
được, thì phải đưa cháu tới bác sĩ khám mắt. Trong khi chưa có bác sĩ, bạn có
thể rửa nhẹ nhàng mắt cháu bằng nước ấm.
Nếu cháu mới được mấy tuần tuổi mà đã bị đau mắt như vậy thì chúng ta
phải tìm xem có phải cháu bị tắc Ống lệ đạo hay không. Lệ đạo là đường dẫn
nước mắt.
Chứng đau mắt của trẻ sơ sinh:
- Cháu bé khi mới sinh ra dễ bị lây nhiễm chất bẩn hay vi trùng vào mắt.
Bởi vậy, khi mới lọt lòng, cháu thường được các bà đỡ tra thuốc phòng bệnh vào
mắt như dung dịch Nitrat bạc.
Vì Nitrat bạc cũng không trừ diệt được một số vi trùng như trùng bệnh
Chlamydia, ngày nay người ta thường nhỏ thêm thuốc kháng sinh như Cycline.
Khi một trẻ nhỏ vừa sốt, ho và mắt rất đỏ, cũng nên nghĩ đến một số bệnh
do vi rút gây ra, chẳng hạn như bệnh sởi.
VIÊM KẾT MẠC Ở TRẺ SƠ SINH
Viêm kết mạc là bệnh nhiễm trùng tại chỗ, thường kèm theo nhiễm trùng
huyết. Nguyên nhân gây bệnh có thể do hóa chất hoặc nhiễm trùng qua ngả âm
đạo lúc sinh.
Viêm kết mạc do hóa chất: Thường xảy ra sau khi nhỏ nitrat bạc - thuốc
giúp ngừa nhiễm trùng mắt do lậu cầu. Bệnh sẽ thuyên giảm 1-2 ngày sau khi
ngưng nhỏ Nitrat bạc.
- Viêm kết mạc do nhiễm trùng: Tác nhân gây viêm gồm Gonococci,
Staphylococci, Streptococci, Pneumococci, Pseudomonas, Chlamydia
trachomatis. Trẻ bị nhiễm qua ngả âm đạo lúc sinh. Thời gian viêm thường từ 2-
5 ngày, riêng viêm kết mạc do Chlamydia là từ 5-10 ngày.
- Viêm kết mạc do lậu: Trước đây, viêm kết mạc do lậu là nguyên nhân
gây mù ở trẻ em. Song hiện nay bệnh ít gặp hơn do việc nhỏ phòng ngừa dung
dịch Nitrat bạc 1% hoặc dung dịch kháng sinh (Erythromycin 0,5%, Tetracycline
1%) thường quy vào mắt ngay sau sinh. Viêm kết mạc do lậu là bệnh nguy hiểm,
với các triệu chứng là sưng mi mắt, đỏ mắt, chảy mủ mắt lượng nhiều và tái lập
nhanh, nguy cơ loét giác mạc cao, để lại sẹo, có thể dẫn đến mù nếu không điều
trị. Trẻ viêm kết mạc lậu cần được chẩn đoán bằng nhuộm Gram, cấy mủ mắt,
cấy máu, cấy dịch não tủy.
Bệnh có thể điều trị tại chỗ bằng rửa kết mạc thường xuyên với dung dịch
Penicilline 10.000 đơn vị/ml, nửa giờ một lần. Mủ mắt trong viêm kết mạc lậu rất
dễ lây, vì vậy ngưòi chăm sóc cho bệnh nhi cũng cần mang găng và rửa tay cẩn
thận. Điều trị toàn thân với kháng sinh dạng tiêm Ceftriaxone 50- 100
mg/kg/ngày, chia 2 lần trong 7 ngày. Trẻ có mẹ nhiễm bệnh cần được ngừa một
liều Ceftriaxone 50 mg/kg tiêm bắp. Ngoài ra, khoảng 50% trẻ viêm kết mạc lậu
có nhiễm trùng mắt c. trachomatis kèm theo, cần điều trị thêm Erythromycin.
- Viêm kết mạc do vi trùng khác: Các triệu chứng sưng, đỏ, mủ mắt do vi
trùng khác lậu cầu gây ra (ví dụ staphylococci) nói chung là nhẹ và ít gây biến
chứng hơn. Cần nhuộm Gram, cấy mủ mắt để tìm ra vi trùng. Điều trị tại chỗ
bằng kháng sinh nhỏ mắt như dung dịch Bacitracin, Neomycin 4-6 giờ một lần.
Chọn lựa kháng sinh toàn thân phụ thuộc vào loại vi trùng viêm kết mạc kèm
viêm quanh hốc mắt. Bệnh diễn tiến nhanh gây viêm mô tế bào hốc mắt, biểu
hiện nhiễm trùng nặng, cần điều trị kháng sinh toàn thân. Các tác nhân thường
gặp là S. areus, Streptococcus nhóm A, Pneumococci, H. influenzae.
- Viêm kết mạc do C. trachomatis: Trẻ mắc bệnh do nhiễm trùng ở âm đạo
của mẹ bị bệnh. Truyền qua tiếp xúc trực tiếp có thể xảy ra ở 2-24% bà mẹ
mang thai cấy niêm dịch ở cổ tử cung có C. trachomatis. Khoảng 30-50% trẻ có
mẹ bị nhiễm sẽ bị viêm kết mạc, 10-20% có nhiễm trùng mũi họng và 3-18% bị
viêm phổi do C. trachomatis.
Khám mắt thấy có mủ mắt, diễn tiến mạn tính nhiều tuần hoặc nhiều
tháng, cần chẩn đoán nhờ nhuộm Giemsa toàn thể vào trong tế bào. Chẩn đoán
xác định bằng phân lập C. trachomatis trong cấy mô.
Điều trị tại chỗ với thuốc mỡ tra mắt Tetracycline 1%. Viêm kết mạc C.
trachomatis có biến chứng viêm phổi, nên cần điều trị với Erythromycin trong 14
ngày.
Dùng thuốc nhỏ mắt như thế nào?
- Rửa tay.
- Làm sạch mắt: Dùng gạc tẩm nước muối đẳng trương vô trùng, lau từ
khóe trong ra khóe ngoài mắt. Lưu ý không lau theo chiều ngược lại để tránh
nhiễm sang tuyến lệ và nhiễm sang mắt còn lại.
- Bộc lộ mi mắt dưới: Dùng ngón của bàn tay không thuận đặt lên vùng má
ngay dưới mắt, nhẹ nhàng kéo da dưới mi mắt xuống.
- Nếu dùng thuốc nước: Giữ lọ thuốc cách mắt từ 1- 2cm. Nhỏ một giọt
thuốc vào 1/3 ngoài mi mắt dưới, ấn lên tuyến lệ ít nhất 30 giây để ngăn thuốc
chảy xuống tuyến lệ.
- Nếu dùng thuốc mỡ: Giữ ống thuốc ở trên mi mắt dưới, nặn 3 cm thuốc
mỡ, tra vào mí mắt từ trong ra ngoài. Lau sạch phần thuốc thừa từ trong ra ngoài
mi mắt bằng gạc vô trùng.
XỎ LỖ TAI
Một số bà mẹ muốn xuyên vành tai dưới cho con gái để đeo đồ trang sức.
Việc làm này không có gì nguy hiểm với điều kiện các dụng cụ dùng để xuyên lỗ
tai cho trẻ phải được rửa sạch và tiệt trùng cẩn thận, nhất là hiện nay, khi đang
có những bệnh lây truyền như AIDS và các bệnh truyền nhiễm khác.
VIÊM XƯƠNG CHŨM Ở TAI
Sau vành tai mỗi người chúng ta đều có một gò xương vồng lên với đặc
điểm là có những điểm nhỏ hõm xuống, vì thế được gọi là xương chũm. Trong
số các hõm này, quan trọng nhất là hõm thông với tai trong. Khi tai giữa bị viêm,
hõm này dễ bị nhiễm trùng và mưng mủ.
Ngày nay, chứng viêm xương chũm không còn phổ biến như trước kia.
Nhưng việc phát hiện các cháu nhỏ, nhất là các cháu sơ sinh mắc chứng này ở
giai đoạn đầu rất khó, vì các cháu chỉ biết khóc mà không nói được là đau ở đâu.
Bởi vậy, các bà mẹ cần chú ý, khi thấy tai của cháu bé chảy nước hay
chảy mủ nhiều, màng nhĩ có sắc thái khác thường, cháu bị sốt và người gầy rộc
đi. Cần đưa cháu tới bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng để khám. Nếu việc
uống thuốc kháng sinh đã kéo dài mấy tuần mà cháu vẫn không khỏi thì phải
phẫu thuật để chữa trị.
VIÊM TAI TRONG
Phần trong tai, sau màng nhĩ khi bị viêm thường kèm theo viêm họng. Các
cháu bé sơ sinh hay bị chứng viêm này vì trong tư thế nằm, con đường thông
nhau giữa tai và sau mũi trở nên rộng thoáng khiến vi trùng và vi rút lây lan ở cả
hai nơi.
Những biểu hiện ở cháu bé:
- Những cháu bé chưa nói được khiến người lớn không biết cháu đau ở
trong tai. Cháu có thể khóc, cọ tai xuống gối, nhưng cũng không đủ để mọi
người hiểu. Tuy vậy, có một số triệu chứng sau làm chúng ta có thể nghĩ tới
chứng viêm tai trong: Cháu bị rối loạn tiêu hóa, đi tướt (ỉa lỏng), nôn ói, ho, cựa
quậy luôn và khó ngủ. Việc đầu tiên của bác sĩ là khám tai và coi nhĩ tai cho
cháu.
Với các cháu lớn thì việc xác định bệnh dễ dàng hơn vì các cháu nói được
là thấy đau trong tai.
Phương pháp chữa trị:
- Thoạt đầu, khi tai bé bắt đầu bị sưng, đau, bác sĩ thường cho thuốc nhỏ
vào tai để giảm đau. Sau này khi chỗ viêm đã có mủ, nhiều khi bác sĩ tai - mũi -
họng phải tìm cách chọc một lỗ thủng ở nhĩ làm lối thoát cho mủ chảy ra và lấy
mủ xét nghiệm xem chỗ viêm bị loại vi trùng hay vi rút nào gây bệnh.
Hiện tượng tai chảy mủ:
- Nhĩ có thể tự thủng để mủ chảy ra ngoài. Trường hợp này vẫn cần phải
đi khám bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng, vì như vậy chưa phải là bệnh sẽ
hết. Ngay việc cho các cháu uống thuốc kháng sinh, bác sĩ cũng phải cân nhắc
và theo dõi. Nhiều khi nhìn bề ngoài nhĩ, tưởng như đã khỏi vì thuốc có tác dụng
nhanh nhưng thật ra không phải như vậy. Bệnh vẫn âm ỉ, chưa khỏi hẳn và có
những biến chứng vào xương chũm khiến đứa trẻ sút cân, gầy yếu, và tới một
lúc nào đó, bệnh lại trở lại.
Sau nhiều lần uống thuốc kháng sinh, tai không có mủ nữa nhưng lại có
một chất nước sền sệt. Hiện tượng này kéo dài khiến nhi bị tổn thương nặng làm
bé bị giảm thính lực.
Trong thời gian chữa trị, bé phải gài trong tai một ống thông, có khi trong
nhiều tháng.
Nếu bé bị đau tai nhiều lần, bị đi bị lại, các bác sĩ sẽ nạo V.A cho cháu.
VÀNH TAI DỊ DẠNG
Nếu vành tai cháu bé xa da đầu quá, chớ nên dính vành tai vào da đầu
bằng băng keo hoặc bắt cháu đội mũ xụp xuống cả ngày để hòng sửa đổi được
cái dáng của đôi tai.
Bạn hãy kiên trì đợi tới khi cháu lên 8 hoặc 9 tuổi, vì tới lúc đó mới sửa
được cho cháu bằng phương pháp phẫu thuật rất đơn giản.
VẬT LẠ TRONG TAI
Nếu bạn không thể lấy ngay vật mà bé đã nhét vào tai cháu thì đừng cố.
Vì nếu không, bạn có thể làm tổn thương ống tai của bé. Hãy đưa bé đến bác sĩ
tai - mũi - họng, ở đó, bác sĩ có các dụng cụ chuyên môn để lấy vật ra.
ĐIẾC
Điếc là chứng bệnh không phải hiếm thấy ở trẻ em. Các cháu có thể bị
nghễnh ngãng hoặc điếc hoàn toàn. Hậu quả của tật điếc làm các cháu chậm
biết nói. Nhiều bà mẹ không biết con mình bị tật này vì thấy con vẫn bình
thường, nghĩ rằng cháu bé chỉ phát triển chậm đôi chút về trí tuệ. Một cháu bé
hát sai có thể vì nghe không tốt: cần phải kiểm tra khả năng thính giác của các
cháu.
Phát hiện tật điếc của các cháu càng nhỏ, càng khó. Bố mẹ các cháu nhỏ
nên để ý theo dõi phản ứng của các cháu với các tiếng động hàng ngày như:
tiếng nói nhỏ, tiếng rađiô, tiếng tích tắc đồng hồ, tiếng kẹt cửa v.v... Nếu có điều
gì nghi ngại, nên đưa ngay cháu tới bác sĩ chuyên khoa tai để thử.
Việc kiểm tra định kỳ về thính giác cho các cháu thường được tiến hành
khi các cháu được 9 tháng tuổi và 24 tháng tuổi. Hiện nay, ở các bệnh viện sản
hoặc nhà hộ sinh, người ta đã áp dụng các phương pháp kiểm tra thính giác cho
các cháu bé mới sinh được vài ngày hay vài tuần.
Nguyên nhân của tật điếc:
- Cháu bé có thể bị điếc bẩm sinh do di truyền hoặc bị nhiễm bệnh ngay từ
khi còn trong bụng mẹ, như bệnh thủy đậu chẳng hạn.
- Cháu bị điếc nhẹ sau khi mắc một số bệnh; hoặc bị viêm tai mà chữa trị
nửa chừng; hoặc do uống một số thuốc kháng sinh (như Gentamicine) và bị ảnh
hưởng của thuốc.
Bệnh điếc ở trẻ nhỏ có thể là bẩm sinh (do bệnh di truyền, bệnh trong thời
kỳ bào thai, do đẻ non, đẻ khó, bị ngạt...) hoặc xuất hiện ở tuổi chưa phát triển
đầy đủ ngôn ngữ (trước 5 tuổi) do viêm tai, viêm não - màng não. Các bệnh
nhiễm vi rút (như sởi, quai bị) hay nhiễm độc (đặc biệt là nhiễm độc thuốc) đều
có thể gây điếc.
Những dấu hiệu của bệnh điếc ở trẻ rất khác nhau, tùy theo lứa tuổi.
Ở lứa tuổi vườn trẻ và mẫu giáo, đó là:
- Thiếu phản ứng đối với các âm thanh. Trẻ dường như không chú ý,
không vâng lời do không hiểu hoặc hiểu không rõ những gì người khác nói.
- Phát triển mạnh thứ ngôn ngữ bằng nét mặt và điệu bộ (nếu như trẻ hiếu
động, thông minh và có nhu cầu giao tiếp).
- Một số trẻ trở nên hung dữ, hay cáu gắt hoặc tính khí khác thường do trẻ
thấy cô độc, thấy khó khăn trong việc hiểu người khác và làm cho người xung
quanh hiểu mình.
Ở tuổi đi học, các dấu hiệu đáng lo ngại là:
- Trẻ chậm nói, ít nói, diễn đạt khó khăn, phát âm sai...
- Học kém, học chậm, thiếu vâng lời... do chỉ tiếp nhận một phần nhỏ lời
giảng của giáo viên.
- Một số trẻ có sự rối loạn về tính tình do bị quở trách, trêu chọc.
Ngoài ra, cha mẹ cần lưu ý khi trẻ có dị hình vành tai hay ống tai ngoài,
viêm mũi - họng, đau hoặc viêm tai...
Theo các nhà nghiên cứu, để tiên lượng khả năng và kết quả phục hồi
chức năng, có thể phân loại trẻ điếc trên một số góc độ chính:
1. Tuổi xuất hiện điếc
- Trẻ bị điếc trước khi biết nói (trước 2 tuổi) thường được gọi là điếc bẩm
sinh. Ở những trẻ này, trở ngại do điếc gây ra đối với sự phát triển toàn diện là
tối đa.
- Ở trẻ bị điếc khi đang tập nói (2-5 tuổi), mức độ điếc càng nặng, hậu quả
càng xấu.
- Nếu trẻ điếc sau tuổi biết nói (sau 6 tuổi) thì hậu quả ít nặng nề hơn.
2. Mức độ điếc
- Điếc dưới mức 40 dB: Ngôn ngữ của trẻ bình thường nhưng một số
trường hợp phát âm bị ngọng.
- Từ 40 đến 60 dB: Ngôn ngữ bị giới hạn, âm sắc của giọng nói bị rối loạn.
- Từ 60 đến 80 dB: Phân biệt rất khó các phụ âm. Đây là những trẻ điếc
nặng, có thể trở thành điếc - câm.
- Trên 80 dB: Không thể đạt tới một ngôn ngữ nào nếu không được giúp
đỡ bằng những phương pháp đặc biệt. Đây là những trẻ điếc đặc.
Có thể luyện nghe cho trẻ điếc bằng cách tận dụng và luyện các phần
thính giác còn sót lại ở trẻ.
Từ thế kỷ 17, các chuyên gia về thính học đã luyện nghe cho người điếc
bằng cách đưa họ đến những thung lũng, nơi tiếng nói to có độ vang vọng lớn;
hay đặt người điếc trong những thùng lớn để họ luyện nghe bằng chính tiếng nói
của họ được cộng hưởng vang to trong thùng.
Quá trình luyện nghe chia làm 4 giai đoạn: Tập nghe, tập phân biệt các âm
thanh đã nghe, tập nghe tiếng nói một cách tổng thể, phân tích và hiểu được lời
nói. Ngày nay, máy trợ thính đã trở thành một công cụ hiệu quả để nâng sức
nghe cho người điếc và một phương tiện phổ biến để luyện nghe.
VẬT LẠ TRONG MŨI
Nếu bé tống một vật nhỏ và làm kẹt vật đó trong mũi, thì bạn cần lấy ngay
ra cho bé. Nhưng phải cẩn thận, nếu không, bạn có thể làm cho vật tụt sâu thêm
và làm thương tổn tới phần niêm mạc bên trong. Nếu khó lấy vật ra, không nên
cố mà nên đưa bé tới bác sĩ chuyên khoa về tai - mũi - họng vì ở đó có nhiều
dụng cụ chuyên môn để thực hiện việc đó có kết quả.
Sổ mũi, viêm mũi, viêm mũi - họng
Sổ mũi là một triệu chứng nhẹ ở trẻ em: thân nhiệt hơi cao hơn bình
thường, mũi chảy nước (một chất nhầy lỏng, không màu). Với các cháu lớn, chỉ
vài hôm là khỏi. Các cháu bé sơ sinh thì kèm theo một vài hiện tượng như khó
ngủ, khó thở làm cho các cháu bú khó (vì khi bú không thở được).
Các bà mẹ có thể dùng các dụng cụ hút nước mũi cho các cháu, thường
bán ở các hiệu thuốc; nhỏ mũi cho các cháu bằng các loại thuốc dành riêng cho
trẻ em. Tránh dùng các thuốc có dầu và các loại thuốc làm co mạch máu.
Viêm mũi - họng là chứng bệnh về mũi nhưng lan từ phần sau của hốc
mũi cho tới họng và có các triệu chứng như: chảy nước mũi, có thể sốt cao, thân
nhiệt tăng đột ngột nên có thể gây co giật ở các cháu nhỏ, ho, không chịu ăn,
tiêu chảy.
Để chữa trị cần: nhỏ thuốc mũi cho cháu, cho uống thuốc hạ sốt. Bệnh sẽ
khỏi sau vài ngày.
Tuy vậy, bệnh có thể biến chứng như: viêm tai, viêm thanh quản, viêm phế
quản và phổi.
Để chữa những biến chứng này, phải cho cháu uống thuốc kháng sinh
theo liều lượng đã được bác sĩ chỉ định.
Viêm mũi - họng tái phát: Mùa đông, các cháu bé thường bị đi bị lại bệnh
viêm mũi - họng, dẫn tới viêm tai khiến các cháu thường xuyên bị ho, sổ mũi,
xuống sức và chậm lớn.
Nguyên nhân có thể do: dị ứng, khả năng miễn nhiễm của cơ thể yếu,
thiếu chất sắt, thiếu Vitamin D. Nhưng cũng có thể do các điều kiện về khí hậu
và nơi ở như: không khí khô tự nhiên hoặc vì sưởi nóng, bụi phấn hoa, sự lây
nhiễm giữa các trẻ trong tập thể, khói thuốc lá do người lớn hút trong nhà đóng
kín cửa v.v...
Cũng nên chú ý rằng cơ thể trẻ nhỏ sau thời gian tránh được một số bệnh
vì thừa hưởng khả năng miễn nhiễm của mẹ và do bú sữa mẹ, nay phải đi vào
một thời kỳ tập tự chống chọi với các vi trùng và vi rút. Do đó, có thể coi mỗi lần
cháu bé bệnh là một lần cơ thể của cháu có dịp luyện tập để chống cuộc xâm
nhập của các vi khuẩn có hại tấn công từ bên ngoài, để tạo cho mình khả năng
chống nhiễm. Giai đoạn miễn nhiễm của trẻ hết khi cháu 6 - 7 tuổi.
Bởi vậy, việc dùng thuốc kháng sinh để chữa trị cho trẻ phải theo sự chỉ
định có cân nhắc của bác sĩ. Chỉ dùng thuốc để trị bệnh chưa hẳn đã là tốt. Phải
dành phần tiêu diệt vi trùng và vi rút cho chính cơ thể của cháu bé, sao cho cơ
thể có khả năng tự miễn nhiễm. Tăng cường sức khỏe cho cháu bé như chú ý
tắm nắng hợp lý, thay đổi không khí chỗ ở (đi nghỉ ở biển, ở núi...), dùng thuốc
để có thêm chất gamma- globuline trong máu, tổ chức các cuộc đi tắm nước
khoáng v.v...
Nếu cháu luôn bị đau tai cũng nên nghĩ tới vấn đề nạo V.A ở trong họng
cho cháu. Việc nạo V.A cũng có tác dụng làm cho cháu thở dễ khi ngủ, tránh
được tật ngáy.
TẬT SỨT MÔI
Có cháu bé mới sinh đã bị tật sứt môi: một đường nứt từ dưới mũi chạy
xuống, chẻ đôi môi trên.
Chữa tật này phải phẫu thuật làm 2 giai đoạn: khâu dính liền chỗ đứt của
môi và xử trí để nổi phần hàm bên trong vết nứt ở vòm họng.
Trong thòi gian chữa, các cháu bé phải bú bằng những núm vú giả đặc
biệt vì nuốt khó.
Sau giải phẫu, các cháu còn cần được theo dõi về các mặt răng, lợi, tai -
mũi - họng và học phát âm cho chính xác. Tốt nhất là đưa các cháu tới những
kíp chuyên gia điều trị tật này.
RĂNG
Rối loạn mọc răng, có thể khiến đứa trẻ rên rỉ vì đau, không ăn được và
mất ngủ. Lợi cháu bị sưng làm má cũng tấy đỏ, chảy nước dãi cả ngày. Cháu
quấy.
Bạn có thể làm cho cháu giảm đau hay quên đau bằng cách:
- Cho cháu một miếng bánh mềm, một cái bánh bích quy.
- Tẩm vào khăn tay một ít sirô hoặc nước thơm rồi xoa nhẹ vào lợi, chỗ
răng đang nhú lên. Có thể thay bằng một cục nước đá nhỏ quấn trong khăn.
- Cho cháu uống Aspirine.
Đôi khi cháu còn bị sốt và đi tướt (tiêu lỏng). Nếu sốt cao cũng tác dụng
xấu bởi các cháu sẵn có chứng co giật. Do đó, khó xác định được là cháu bị sốt
do răng đau hay vì một bệnh nào khác.
Trong trường hợp cháu bị sốt nhiều, nên để bác sĩ chẩn đoán nguyên
nhân:
Lung lay răng vì tai nạn:
- Nếu cháu bé bị ngã mà gãy hoặc lung lay răng, nên đưa cháu tới nha sĩ
ngay để xem còn có thể giữ được răng không. Muốn răng khỏi rơi ra trong khi đi
bạn có thể bọc quanh răng một đoạn kẹo cao su và bảo cháu cắn răng lại.
Muốn các cháu có bộ răng tốt, cần phải làm gì?
Phải chú ý cung cấp cho các cháu đủ chất Canxi và Phốtpho trong thức
ăn. Những nguyên tố này có trong sữa và các sản phẩm của sữa, trứng và rau.
- Dạy các cháu biết cách đánh răng từ nhỏ.
- Tránh các nguyên nhân gây sâu răng như ăn kẹo buổi tối.
- Dùng thêm chất Fluor hàng ngày, theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.
SÂU RĂNG
Trẻ em có những cái “răng sữa” cho tới 6 tuổi. Tuy những răng này rồi dần
dần sẽ rụng hết, nhưng các bậc cha mẹ không nên coi thường hiện tượng răng
sâu của các cháu. Trái lại, răng nào sâu cần phải chữa hoặc nhổ đi để không
ảnh hưởng tới răng khác bên cạnh sắp mọc hoặc đang mọc. Nhất là các răng
đang mọc lại là những răng vĩnh viễn.
Trẻ em có răng sâu nhai thức ăn không kỹ. Do đó, việc tiêu hóa không
được tốt. Chỉ cần có một cái răng sâu cũng đủ làm cho việc nhai, nghiền thức ăn
của cả hàm răng bị kém hiệu quả. Mỗi cái răng sâu lại là một ổ vi trùng có thể
gây ra nhiều loại bệnh do bị viêm nhiễm. Các cháu có bệnh tim hoặc bệnh thấp
khớp cấp càng phải đặc biệt giữ gìn bộ răng cho khỏi sâu.
Việc cần thiết nhất là: dạy cho trẻ cách đánh răng từ nhỏ, cho trẻ đi khám
răng thường kỳ, cho ăn ít đồ ngọt, không ăn vào buổi tối, dùng kem đánh răng có
chất Fluor. Dù cái răng chỉ có một chấm đen, cũng cần tới bác sĩ chữa răng
ngay: càng chữa sớm, càng chóng khỏi và đỡ tốn tiền.
Những thức ăn ngọt ăn trong bữa ăn sẽ bị nước bọt tiết ra nhiều làm trung
hòa tính chất axít của đường.
Nhưng nếu các cháu ăn kẹo nhất là các kẹo dễ dính vào răng - vào buổi
tối rồi đi ngủ, trong miệng không đủ nước bọt làm tan kẹo và trung hòa chất axít
do đường biến chất đọng lại ở các kẽ răng, chất axít này sẽ làm hỏng men răng
và phá hoại các chân răng.
Kinh nghiệm cho thấy chất Fluor có tác dụng chống sâu răng. Bởi vậy, ở
một số nước, người ta pha Fluor vào nước uống, vào sữa hoặc trộn vào muối
ăn. Một số rau, cá có chứa Fluor. Trong thành phần nhiều loại thuốc đánh răng
ngày nay cũng có Fluor. Các bác sĩ còn hướng dẫn cho các bà mẹ cho các cháu
bé mới sinh uống một lượng nhỏ Fluor mỗi ngày ngay trong những tháng đầu.
LÀM GÌ NẾU CON BẠN BỊ ĐAU RĂNG
Nửa đêm, con bạn tỉnh dậy vì đau răng. Bạn có thể làm gì để giúp cháu?
Theo Bệnh viện Nhi đồng ở Richmond (bang Virginia, Mỹ), việc đầu tiên cần
thực hiện là nhẹ nhàng làm sạch vùng quanh răng bằng bàn chải, rồi dùng chỉ
nha khoa lấy hết thức ăn bị mắc lại ở kẽ răng.
Sau đây là một số điều cần lưu ý khác:
- Không đặt thuốc Aspirin lên răng hoặc lợi.
- Nếu mặt của trẻ bị sưng to, hãy chườm lạnh lên vùng bị sưng.
- Cho trẻ dùng thuốc giảm đau thông thưòng.
- Đi khám bác sĩ càng sớm càng tốt.
CHĂM SÓC RĂNG SỮA CHO BÉ
Chiếc răng đầu tiên của bé là răng cửa giữa hàm dưới, mọc khi 6-8 tháng
tuổi. Bé có đủ 20 răng sữa (10 cái hàm trên và 10 cái hàm dưới) khi được 24-30
tháng. Mỗi hàm sẽ gồm 2 răng cửa giữa, 2 răng cửa bên, 2 răng nanh, 2 răng
hàm nhỏ và 2 răng hàm lớn.
Các răng sữa của bé mọc theo thứ tự sau:
Răng Hàm trên Hàm dưới
Răng cửa giữa
Răng cửa bên
Răng hàm nhỏ
Răng nanh
Răng hàm lớn
9-10 tháng
9-11 tháng
16 tháng
18-20 tháng
22-24 tháng
6-8 tháng
9-11 tháng
16 tháng
18-20 tháng
22-24 tháng
Công thức chung để tính số răng cần có của bé là lấy số tháng trừ đi 4.
Chẳng hạn: bé 12 tháng tuổi thường có khoảng 8 cái răng. Việc mọc răng nhanh
hay chậm vài tháng là điều bình thường. Nguyên nhân chậm mọc răng có thể do
trẻ sinh non, yếu, do chế độ ăn của bé chưa hợp lý hoặc mẹ kiêng khem quá
nhiều.
Răng sửa có các công dụng như:
- Giúp tiêu hóa thức ăn: Sau 6 tháng, trẻ sẽ bắt đầu ăn bổ sung với những
thức ăn cứng và khó tiêu hơn.
- Giúp răng vĩnh viễn mọc đều hơn, không chen chúc: Thông thường, một
răng sữa mọc lên và đứng trên cung hàm, sau vài năm, chân răng bắt đầu tiêu
dần, chuẩn bị nhường chỗ cho một mầm răng vĩnh viễn sẽ trồi lên ngay đúng vị
trí đó. Nếu răng sữa bị hỏng và phải nhổ sớm, mầm răng vĩnh viễn bên dưới
chưa lớn kịp nên không mọc ngay được, lỗ nhổ răng đó bị bít lại và cứng chắc
nên mầm răng vĩnh viễn mọc lên sẽ gặp khó khăn, mọc chậm và đôi khi mọc
lệch.
- Giúp xương hàm phát triển: Nhờ có răng, bé có thể nhai, cắn thức ăn.
Các động tác này giúp cho hàm phát triển bình thường.
- Giúp trẻ phát âm: Nếu răng sữa bị hỏng sớm, phải nhổ khiến trẻ có thể
nói ngọng.
Với những tác dụng vừa kể, răng sữa của bé cần được chăm sóc thật cẩn
thận theo cách sau:
- Nếu bé chưa có hoặc mới mọc răng, chưa biết cách súc miệng và nhổ
ra, bố mẹ có thể cho bé uống nước để súc miệng sau khi ăn. Ít nhất 1 lần/ngày
dùng gạc quấn quanh ngón tay nhúng vào nước sạch để chùi răng, lợi cho bé.
Chú ý chùi cả bên trong lẫn bên ngoài.
- Khi bé đã biết nhổ ra, không nuốt kem đánh răng nữa (thường là lúc 3
tuổi), bắt đầu tập cho bé đánh răng. Chọn loại bàn chải có lông mềm, cấu trúc và
kích cỡ phù hợp với lứa tuổi của bé. Thuốc đánh răng phải không cay, hơi ngọt
và có mùi thơm, có thể thêm chất phòng ngừa bệnh răng miệng và chất tẩy làm
răng trắng; chỉ bôi một lượng nhỏ bằng hạt đậu đen.
Cách đánh răng đúng:
Với mặt ngoài răng, nghiêng bàn chải để lông bàn chải ép nhẹ lên lợi và
răng, rung nhẹ để lông chui vào kẽ răng và di chuyển hết mặt ngoài theo chiều
lên và xuống. Với mặt trong răng, làm giống như mặt ngoài nhưng chú ý để bàn
chải thẳng đứng và cũng di chuyển lên xuống. Với mặt nhai, để lông bàn chải
thẳng đứng, chải ngang từng đoạn ngắn.
- Sau khi răng đã hình thành, trẻ rất cần Fluor để làm men răng cứng
chắc, chống đỡ vi khuẩn gây sâu răng. Vì vậy, cha mẹ cần chú ý cho con ăn
những thức ăn giàu Fluor như cá (đặc biệt là cá biển), trứng, sữa tươi, gan...
- Nhớ giữ vệ sinh ngay cả khi cho bé ăn đêm bằng sữa nhân tạo. Phải súc
miệng bằng nước lọc; nếu không, bé sẽ bị sâu răng toàn bộ vì qua một đêm,
lượng bột đường trong miệng sẽ lên men và làm hỏng men răng.
- Không nên cho bé mút tay và ngậm vú giả vì lúc này các xương hàm có
thể chưa ráp nối xong, còn hở đường giữa. Thói quen kể trên sẽ đẩy các xương
hàm chưa liền ra phía trước, gây vẩu.
LỊCH MỌC RĂNG SỮA CỦA BÉ
Khi mọc răng sữa, trẻ nhỏ thường trở nên cáu kỉnh thái quá. Bạn phải chờ
đón sự bất thường này vào lứa tuổi nào? Có tất cả 20 chiếc răng sữa, 10 ở hàm
trên và 10 ở hàm dưới. Chúng sẽ xuất hiện ở những thời điểm rất khác nhau ở
các trẻ khác nhau.
Sau đây là kiểu mọc răng sữa thường gặp nhất do Bệnh viện Nhi đồng St.
Louis (Mỹ) đề xuất:
- 4 răng cửa giữa (1) của hàm trên và hàm dưới: 5- 8 tháng.
- 4 răng cửa bên (2): 7-10 tháng.
- 4 răng hàm đầu tiên (4): 12-16 tháng.
- 4 răng nanh (3): 14-20 tháng.
- 4 răng hàm thứ 2 (5): 20-32 tháng.
Muốn răng tốt, phải chăm sóc từ khi mọc răng
Khi con hỏi: “Tại sao bị sâu răng?” Các ông bố bà mẹ thường kể về một
con sâu chui vào miệng bẩn để đục răng. Sự giải thích muộn màng này không
giúp được gì cho trẻ, bởi ngay từ khi mọc những chiếc răng đầu tiên các cháu đã
cần được giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh răng miệng đúng cách.
Một trong những bệnh hay gặp ở trẻ là bệnh sâu răng. Bệnh ảnh hưởng
nhiều đến sức nhai, gây ra những nhiễm khuẩn nguy hiểm ảnh hưởng tới các bộ
phận khác của cơ thể. Sâu răng ở răng sữa có thể ảnh hưởng tới mầm răng
vĩnh viễn. Ngoài ra bệnh còn khiến trẻ đau đớn gây trở ngại trong việc học tập.
Trẻ dễ mắc bệnh về răng thường là những trẻ có thói quen ăn vặt, có cung
răng không đều (răng khấp khểnh), gầy yếu suy dinh dưỡng, trẻ có rãnh mặt
nhai sâu, trẻ có thói quen nhai không kỹ, mắc các bệnh viêm nhiễm mạn tính
vùng hầu họng. Những trẻ có chế độ ăn uống kém dinh dưỡng còn thường hay
mắc các chứng bệnh về lợi như chảy máu chân răng, chảy mủ chân răng do
viêm lợi, bệnh loét hay nứt góc miệng. Trẻ dùng quá nhiều kháng sinh cũng có
thể nhiễm nấm trong miệng, gây sâu răng.
Phòng ngừa
- Tránh cho trẻ ăn nhiều chất ngọt như (mía, kẹo, bánh, chè, nước ngọt...)
vì các chất này sẽ làm cho răng chóng hỏng.
- Tập thói quen đánh răng kỹ hàng ngày cho trẻ. Đánh răng sau bữa ăn,
sau khi ăn đồ ngọt ít nhất 2 lần/ngày với bàn chải đúng quy chuẩn và thuốc đánh
răng có hàm lượng Fluor thích hợp là phương cách hiệu quả giúp trẻ tránh bệnh
sâu răng. Ngươi Việt Xam thường có thói quen đánh răng trước khi đi ngủ và khi
ngủ dậy, cần giáo dục rộng rãi nhằm thay đổi thói quen này. Nên đánh răng cho
trẻ ngay từ khi chúng bắt đầu mọc răng. Sau này cần dạy trẻ cách đánh răng và
chú ý xem trẻ đánh răng có đúng cách hay không.
Đánh răng đúng cách: Đánh răng từ trên xuống dưới theo chiều dọc thân
răng, không đánh răng theo kiểu ngang từ bên này sang bên kia. Xoay tròn bàn
chải và đánh kỹ tất cả các mặt răng, cả trong lẫn ngoài, cả trên lẫn dưới.
Với trẻ lớn, ngoài đánh răng có thể hướng dẫn thêm cách sử dụng chỉ nha
khoa. Đây là cách bảo vệ nướu răng tốt nhất và giúp làm vệ sinh kỹ ở mặt gần
và mặt xa của từng răng.
- Nắm chắc tuổi thay răng sữa của trẻ để nhổ răng sữa đúng tuổi, tránh
mọc lệch lạc răng vĩnh viễn. Mỗi răng sữa có tuổi thay răng khác nhau (ví dụ 6-7
tuổi thay 2 răng cửa giữa dưới và 2 răng cửa giữa trên). Răng sắp thay có dấu
hiệu lung lay, lợi xung quanh không sưng nề. Cần chú ý chăm sóc 2 răng số 6
hàm dưới là răng vĩnh viễn đầu tiên của trẻ.
- Nếu trong giai đoạn thay răng, trẻ bị răng khấp khểnh không nên nắn
răng khi không có chỉ định của các nha sĩ chuyên khoa sâu ở các cơ sở y tế có
uy tín.
- Với những răng vĩnh viễn có rãnh mặt nhai sâu ở trẻ hay có thói quen ăn
vặt, vệ sinh răng miệng kém, nên đưa trẻ đến nha sĩ để phủ một lớp xi măng lên
rãnh nhai dự phòng sâu răng.
- Định kỳ đưa trẻ đến khám răng miệng tại những cơ sở y tế tin cậy 6
tháng/lần để các nha sĩ phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh lý về răng miệng.
- Các bà mẹ có thể tự khám răng cho con mình khi nhìn thấy trên bề mặt
răng của trẻ có các dấu hiệu sau: Có lỗ, vết đen, dùng que sắc nhọn cạo vào vết
đen không thấy hết; ăn lạnh, ngọt thấy ê buốt thoáng qua. Đây là những dấu
hiệu ở giai đoạn sớm nên đưa trẻ đến ngay nha sĩ để điều trị kịp thời.
Điều quan trọng nữa là có chế độ nuôi dưỡng dinh dưỡng hợp lý giúp trẻ
có thể lực tốt, điều trị kịp thời các viêm nhiễm mạn tính tại vùng hầu họng cũng
góp phần dự phòng các bệnh về răng miệng cho trẻ.
BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA SÂU RĂNG DO BÚ SỮA BÌNH
Không ít trẻ mới được 1-3 tuổi đã bị sâu răng, có khi mất gần toàn bộ hàm
trước. Phần nhiều thấy ở những trẻ bú sữa bình. Do cách cho bú và sự chăm
sóc răng không đúng đã khiến răng bị phá hủy nhanh chóng hoặc xuất hiện các
lỗ sâu lớn màu đen.
Sâu răng do bú bình thường xảy ra với những răng phía trước của cả hàm
trên và hàm dưới. Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 3 tuổi có thói quen ngậm lâu các chất
lỏng có chứa nhiều đường như nước trái cây, sữa trong khi ngủ. Vi trùng gây
sâu răng sẽ sử dụng các chất đường làm thức ăn, sau đó lên men axit và phá
hủy răng. Mỗi lần axit tấn công khoảng 20 phút hay lâu hơn, sau nhiều lần sẽ
gây sâu răng.
Tầm quan trọng của răng sữa
Răng sữa của trẻ cũng quan trọng như răng vĩnh viễn, giúp trẻ nói chuyện,
ăn nhai, dinh dưỡng tốt hơn. Dưới mỗi răng sữa đều có một mầm răng vĩnh viễn
chuẩn bị mọc và phía sau răng cối sữa là răng cối vĩnh viễn. Ngoài ra, răng sữa
còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xương hàm. Nếu răng sữa
chậm rụng hay mất quá sớm thì sẽ làm răng vĩnh viễn mọc chen chúc nhau, dẫn
đến sự xáo trộn khớp cắn.
Cách phòng ngừa sâu răng do bú bình
- Đừng để trẻ đi ngủ mà vẫn ngậm bình sữa hoặc nước trái cây. Nếu bé
cần bú bình mới ngủ được thì chỉ cho ngậm bình nước lọc và lấy bình ra ngay
khi bé đã ngủ. Cần bảo đảm núm vú sạch sẽ và không còn dính chất đường.
- Tập cho trẻ uống sữa bằng ly càng sớm càng tốt, làm chất đường khó
đọng lại trên răng.
- Chỉ cho bé bú bình vào những bữa ăn chính, không nên tập cho bé thói
quen ngậm bình sữa khi chơi hoặc ngủ.
- Luôn giữ miệng bé sạch sẽ. Sau mỗi lần ăn hay bú sữa, cần vệ sinh răng
miệng ngay bằng bông gòn hay gạc. Cần tập cho bé thói quen chải răng ngay
sau khi mọc răng sữa. Hướng dẫn bé cách sử dụng chỉ tơ nha khoa đúng cách
để làm sạch kẽ răng khi bé được 2-2,5 tuổi, lúc tất cả các răng sữa đã mọc đủ.
- Nếu nguồn nước sử dụng không được Fluor hóa để phòng ngừa sâu
răng, hãy đến bác sĩ chuyên khoa xin tư vấn cách bổ sung Fluor cho trẻ.
- Nên khám răng định kỳ cho trẻ khi được 6 tháng tuổi đến 1 tuổi để phát
hiện răng sâu, đặc biệt những đốm sẫm màu trên răng.
HẠT CƠM TRONG MIỆNG
Bên trong miệng ở phần trong má và môi của bé, có thể có những hạt nhỏ
màu trắng xám mọc lên rải rác, đôi khi có nhiều làm bé bị vướng và đau khi ăn,
uống. Do đó, bé không chịu ăn.
Có thể lấy bông quấn vào đầu tăm, tẩm thuốc sát trùng và chấm khẽ vào
các hạt trên.
Cho bé ăn loãng, mát (sữa để hơi lạnh).
CHỨNG TƯA MIỆNG DO VI RÚT
Chứng bệnh này do vi rút gây ra làm cho bên trong miệng của cháu bé
(má, lưỡi, lợi) có nhiều vết loét nhỏ, nằm dưới một lớp màng trắng. Khi màng
trắng này bong ra, những vết loét càng đau rát làm cho cháu bé không ăn được,
vì việc tiếp xúc với thức ăn, dù là thức ăn lỏng, cũng làm các cháu đau. Hiện
tượng này kéo dài trong 4, 5 ngày. Trong thời gian mang bệnh, cháu bé chảy
nhiều nước dãi, miệng hôi và có thể sốt tới 40°C.
Bác sĩ thường cho các cháu thuốc bôi miệng. Các bà mẹ nên kiên nhẫn
cho các cháu ăn ít một các món súp, nước quả, nước đường ướp lạnh... Trong
khi cháu bé mang bệnh, tránh để cháu tiếp xúc với các cháu khác.
BỆNH TƯA DO NẤM
Bệnh tưa là loại bệnh nấm biểu hiện dưới dạng những đốm trắng như cặn
sữa trong mồm. Toàn bộ chỗ mọc nấm màu đỏ, đụng vào đau khiến các cháu bé
bỏ ăn. Hiện tượng này có thể xảy ra cả trong bộ máy tiêu hóa từ miệng tới hậu
môn. Tuy vậy, bệnh dễ khỏi nếu cho cháu uống thuốc đúng theo sự chỉ định của
bác sĩ.
VIÊM XOANG HÀM
Bệnh viêm xoang thường hiếm gặp ở trẻ em nhỏ hơn 4 tuổi. Các cháu nhỏ
thường bị bệnh xoang do dị ứng. Nếu cháu bị viêm xoang mạn tính, các bác sĩ
thường chẩn đoán bằng cách chụp X-quang, các xoang ở mặt. Một cháu bé bị
viêm mũi, phế quản tái đi tái lại và ho dai dẳng cũng thường phải làm xét nghiệm
này.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CỔTẬT VẸO CỔ BẨM SINH
Cháu bé có thể bị tật vẹo cổ ngay trong những tuần lễ đầu tiên: Đầu cháu
bé nghiêng xuống một bên vai trong khi cằm lại quay về hướng khác.
Nguyên nhân gây ra chứng này do các bắp thịt cổ ức đòn chũm có tật nên
kéo cổ và đầu về một phía. Đôi khi người ta có thể nắn thấy một cục cứng ở chỗ
bắp thịt có tật đó.
Người ta có thể chữa chứng này bằng phương pháp vận động trị liệu,
hoặc tiến hành một cuộc phẫu thuật ở dây chằng của bắp thịt. Chứng này cũng
có thể là do có tật ở xương sống cổ. Tuy nhiên trường hợp này hiếm thấy hơn.
TẬT VẸO CỔ Ở TRẺ EM
Ở trẻ em đã lớn hơn một chút, tật vẹo cổ có nhiều nguyên nhân khác
nhau: Nhiều khi do một chấn thương nào đó mà người lớn không biết, hoặc do
ảnh hưởng tư thế nằm của các cháu khi ngủ. Mắt lác cũng có thể làm các cháu
vẹo cổ đi để nhìn cho rõ; hoặc bệnh viêm họng làm nổi hạch ở cổ, việc dùng
thuốc như thuốc Primpéran chống nôn - làm co các cơ bắp ở cổ cũng có thể là
nguyên nhân.
Nếu cháu bé vẹo cổ vì những nguyên nhân trên thì không cần phải chữa
trị, tật vẹo cổ của cháu cũng sẽ hết sau một vài ngày.
Nếu tật này kéo dài, cần tới bác sĩ để xét nghiệm tìm những nguyên nhân
có liên quan tới hệ thần kinh hoặc bệnh thấp khớp.
TUYẾN GIÁP
Tuyến giáp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển toàn bộ cơ thể
của trẻ em. Nếu thiếu tuyến này hoặc tuyến giáp phát triển không bình thường,
lượng hoóc-môn giáp tiết ra không đủ cung cấp cho cơ thể sẽ dẫn tới các chứng:
Chậm phát triển về chiều cao và về trí khôn. Bởi vậy, cần phải chú ý phát hiện
bệnh càng sớm càng tốt vì việc chữa trị bằng hoóc-môn giáp tiến hành càng
sớm chừng nào càng tốt chừng ấy cho sự phát triển của cơ thể và trí tuệ.
Những triệu chứng của căn bệnh về tuyến giáp có thể thấy ngay trong
những tuần lễ đầu tiên của cháu bé: Cháu không hoạt động, không kêu, không
khóc, không đòi ăn, ngủ nhiều và ít cựa quậy. Lưỡi bé lớn khác thường khiến
cháu khó ngậm vú hoặc tu bình sữa, cháu đi táo, da tái và lạnh.
Nếu chụp X-quang, bác sĩ sẽ thấy những dấu hiệu bộ xương bị dị dạng
hoặc chậm phát triển. Nhưng muốn xác định bệnh một cách chắc chắn để tiến
hành chữa trị, cần phải xác định lượng hoóc-môn giáp trong cơ thể. Việc sử
dụng các chất sát trùng có iốt cho sản phụ và cho các cháu bé mới sinh có thể
ảnh hưởng tới việc thử nghiệm dẫn tới những kết quả dương tính sai. Bởi vậy,
ngưòi ta không dùng cồn iốt hoặc Bétadine trong lúc đỡ đẻ nữa.
Ngược lại với việc thiếu hoóc-môn giáp, lại có các cháu bé có dư hoóc-
môn này, thường là bị di truyền từ mẹ. Những triệu chứng của bệnh dư hoóc-
môn giáp là: Mắt lồi, bướu cổ, tiêu chảy và mạch nhanh.
AMIĐAN
Amiđan là một cục thịt nhỏ nhìn thấy dễ dàng ở cuối vòm họng, từ trên rũ
xuống, rất hay bị viêm. Người ta chưa xác định được rõ ràng vai trò của cục thịt
này nhưng hình như vị trí của nó là để ngăn cản vi trùng và vi rút thâm nhập vào
trong cơ thể qua đường miệng.
Viêm Amiđan - Viêm họng
Thông thường, trẻ sơ sinh ít khi bị viêm Amiđan. Các cháu ở độ tuổi từ 2 -
3 tuổi hay bị nhiều hơn. Nếu bị viêm, cục Amiđan sưng lên, tây đỏ hoặc có
những chấm trắng, cháu bé sốt cao, nuốt khó và có hạch ở cổ, sờ vào cháu sẽ
khóc vì đau.
Viêm Amiđan là do liên cầu khuẩn hoặc vi trùng, phổ biến là loại liên cầu
khuẩn (Streptocoque). Trong trường hợp này, hiện tượng đau rát loang rộng cả
vùng họng, cần chú ý chữa trị vì có thể biến chứng thành viêm khớp hoặc viêm
thận.
Nhiều chứng bệnh của trẻ em bắt đầu từ viêm họng do loại liên cầu khuẩn
sinh ra độc tố. Viêm họng dạng bạch hầu càng ngày càng hiếm thấy vì các trẻ
em đã được chủng ngừa. Bị bệnh này, trẻ không sốt cao nhưng mất sức nhanh,
trong họng thấy có những màng trắng, dầy, dính vào các Amiđan.
Để chữa trị chứng viêm họng, bác sĩ thường lấy một ít màng nhầy ở họng
cùng một mẫu máu để xét nghiệm. Đồng thời cho các cháu uống ngay thuốc
kháng sinh để ngăn chặn các biến chứng do trùng liên cầu khuẩn gây ra.
Viêm họng là một chứng bệnh nhẹ, thường sẽ khỏi trong vài ba ngày.
Nhưng, điều đáng chú ý là hay bị đi bị lại nhiều lần.
Phẫu thuật cắt Amiđan
Cắt Amiđan là một tiểu phẫu thuật không có điều gì đáng lo ngại nếu sau
khi cắt các cháu được săn sóc và theo dõi cẩn thận. Chỉ cắt Amiđan cho các
cháu từ 4 - 5 tuổi trở lên.
Trước kia, bác sĩ hay khuyên cắt Amiđan. Bây giờ, việc cắt Amiđan chỉ
thực hiện trong những trường hợp cần thiết như đứa trẻ bị viêm họng nhiều lần
trong một năm, cục Amiđan phát triển to tốc độ làm cho cháu bé khó thở, bị đau
khớp nặng, bị viêm thận hoặc để đề phòng các biến chứng có thể xảy ra tiếp.
Nên chú ý rằng những trường hợp Amiđan lớn không có nghĩa là bị viêm
nặng.
Trước kia, ngươi ta thường tránh cắt Amiđan cho các cháu hay bị dị ứng.
Ngày nay người ta không chú ý nhiều tới điều này nữa.
Biến chứng của viêm Amiđan mạn tính ở trẻ
Viêm Amiđan là tình trạng viêm xơ teo hay quá phát của Amiđan khẩu cái,
sau nhiều đợt viêm cấp tính. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, trẻ có thể
gặp các biến chứng nguy hiểm như thấp tim, viêm cầu thận mạn tính.
Do trên bề mặt có nhiều khe, rãnh nên vùng họng và Amiđan là nơi tích tụ
mủ bã đậu và vi khuẩn sau nhiều lần viêm. Viêm Amiđan có thể do Rhino vi rút,
Corona vi rút, virút cúm, á cúm... hoặc vi khuẩn như liên cầu, tụ cầu, phê cầu gây
nên. Nguy hiểm nhất là loại liên cầu khuẩn Bêta tan huyết nhóm A, gây biến
chứng ở thận, tim hoặc khớp. Nhiều nghiên cứu cho rằng, vỏ của loại vi khuẩn
này có cấu tạo tương tự như tim, thận và khớp nên khi cơ thể sản xuất ra kháng
thể chống lại khuẩn liên cầu, thì đồng thời tấn công cả tim, thận và khớp. Vì thế,
viêm khớp, thận và viêm cơ tim thường theo sát các đợt viêm họng.
Để phòng ngừa biến chứng, sau khi điều trị dự phòng bằng kháng sinh
chống liên cầu khuẩn khoảng 2 tuần, cần cho trẻ đi khám tim, thận, khớp ngay
để tìm loại kháng thể của vi khuẩn trong máu. Đồng thời quệt họng nuôi cấy và
đánh giá sự có mặt của vi khuẩn ở vùng họng, Amiđan. Nếu kết quả dương tính,
cần chủ động cắt Amiđan cho trẻ.
BỆNH TINH HỒNG NHIỆT
Hỏi:
Sau một đợt viêm họng, cháu tôi bị nổi ban đỏ khắp người. Đi khám, bác
sĩ chẩn đoán cháu bị bệnh tinh hồng nhiệt. Xin giải thích rõ hơn về bệnh này,
bệnh có để lại di chứng gì không?
Trả lời:
Bệnh tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của Amiđan hay
nhiễm trùng da, thường gặp ở trẻ em, do liên cầu tan huyết nhóm A (đôi khi do
tụ cầu vàng) gây ra.
Thường sau 2-3 ngày bị bệnh nhiễm trùng ở họng hay ở trên da thì bệnh
nhân có biểu hiện phát ban. Các ban đỏ nhạt hoặc đỏ tươi xuất hiện ở phía trên
thân thể trước, sau đó lan ra tay, chân. Ban đỏ có ở cả trên mặt, nhưng xung
quanh miệng thì có quầng trắng.
Lúc đầu các ban nhỏ lấm tấm trên một số mảng lớn, một số trường hợp
lan khắp toàn thân. Bệnh nhân thường bị ngứa. Các ban nhạt dần sau 4-5 ngày
và có thể bong vảy nhỏ như bụi phấn, bụi cám ở thân mình, bong vảy lớn thành
lá ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Một số bệnh nhân có tổn thương nhẹ, thoáng
qua, nên thường không để ý, chỉ khi có biểu hiện bong vảy thì mới lưu tâm đi
khám.
Tổn thương còn có ở cả niêm mạc, thanh quản đỏ. Lưỡi lúc đầu trắng với
các gai lưỡi sưng phù và đỏ, sau đó lưỡi cũng bị đỏ. Ngày thứ 4-5 thì lưỡi có thể
xuất hiện các mảng dày sừng và đỏ. Vòm miệng có thể có ban đỏ và các chấm
xuất huyết. Khám thì có biểu hiện của viêm Amiđan cấp. Hạch trước cổ có thể
sưng to.
Thực chất của bệnh là do nhiễm trùng họng ở đa số các trường hợp và vi
khuẩn tiết ra ngoại độc tố gây đỏ da. Nếu ngoại độc tố được tiết ra nhiều mà
không điều trị kịp thời thì có thể gây viêm khớp cấp, viêm cầu thận cấp...
Về điều trị, bệnh nhân nên được nghỉ ngơi, dùng một đợt kháng sinh đủ
liều, đủ thời gian thì kết quả sẽ rất tốt. Bệnh khỏi ở hầu hết các trưòng hợp và
không để lại biến chứng
V.A
Ngoài những Amiđan nhìn thấy rõ ở họng trẻ em (Amygdale) còn một cục
thịt nữa ở cuối lỗ mũi, sau vòm miệng có tác dụng bảo vệ đường hô hấp chống
lại sự xâm nhập của vi trùng và vi rút.
Nếu cục thịt này bị nhiễm, bản thân nó lại là nơi tập trung các vi trùng và vi
rút ở ngay ngã ba tai - mũi - họng và trở thành nguyên nhân của các chứng bệnh
về tai - mũi - họng và đường hô hấp.
Kết quả là mũi có thể thường xuyên bị nghẹt làm cháu bé phải thở bằng
miệng, ngáy, nói giọng mũi, ho lâu khỏi, sốt 37 - 38°C, buổi sáng có thể đã sốt
38°C, bị hạch, chậm lớn, không chịu ăn, hay quấy.
Trường hợp này, bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng hay đề nghị tiến
hành một phẫu thuật hoặc thủ thuật chuyên môn nhỏ. Cháu không cần phải nằm
viện.
Tuy thủ thuật này thực hiện nhanh, nhưng không làm được cho các cháu
dưới một tuổi.
VIÊM VÒM HỌNG
Sau mũi, có một điểm gặp chung của các đường tới từ miệng, mũi và tai.
Nếu điểm này bị nấm, hoặc viêm, trẻ sẽ bị ho.
VIÊM THANH QUẢN
Chúng ta thường nhận định chung rằng một cháu bé bị viêm thanh quản
khi cháu ho ra tiếng khô như chó sủa, từng tiếng một và bị khó thở. Tuy vậy, nên
phân biệt hai loại viêm thanh quản theo các triệu chứng sau:
- Cháu bé đột nhiên bị ho và thở rất khó vào ban đêm vì thanh quản của
cháu bị co thắt lại. Sự co thắt này có thể sẽ hết sau vài giờ nhưng rồi sẽ tái lại.
- Loại viêm thanh quản thứ 2 gây ra bởi một loại vi rút. Bệnh khi bắt đầu
không đột ngột nhưng tiến triển ngày càng nặng thêm. Trường hợp này, phải
đưa cháu bé vào bệnh viện ngay, vì nghiêm trọng hơn trường hợp trên nhiều.
Trong khi bác sĩ chưa tới hoặc chưa cho cháu đi bệnh viện nếu có điều
kiện nên làm tăng độ ẩm của không khí sẽ có lợi cho cháu bé.
CÁCH TRỊ NẤC
Nấc là hiện tượng co thắt cơ hoành làm co đột ngột bụng và ngực. Bệnh
có thể được chữa bằng nước gừng, cháo hạt tía tô, cháo nho... hoặc đơn giản
bằng cách uống từng ngụm nước nhỏ hoặc nuốt nước bọt liên tục.
Nguyên nhân gây nấc tạm thời là do rối loạn trong hoạt động của cơ
hoành. Còn nguyên nhân gây nấc kéo dài thường do các bệnh như thoát vị cơ
hoành, viêm miệng nối thực quản, áp xe dưới hoành, hoặc các bệnh phổi, bệnh
tim, thiếu máu cục bộ, tăng ure huyết... Theo Đông y, nấc là do khí uất gây bất
hòa trong nội tạng, làm ảnh hưởng tới cơ chế khí, sự điều hòa tân dịch không
thuận, không đủ dinh dưỡng, phát sinh đờm đục, can khí lấn át vị khí.
Một số bệnh lý như táo bón lâu ngày, tiểu tiện không thông, cơ thể hư
nhược... cũng gây nấc. Nấc còn xuất hiện khi ăn uống không điều độ, đồ ăn
nóng lạnh lẫn lộn, thường xuyên uống nước lạnh, hoặc để dạ dày gặp lạnh, mất
khả năng điều tiết, khiến khí đi ngược lên cơ hoành.
Người ta chia nấc làm 3 loại:
- Nấc do nhiễm lạnh: Thường xuất hiện vào buổi sáng, tiếng nấc nhẹ. Buổi
tối, tiếng nấc nặng hơn và liên tục, thời gian nghỉ giữa 2 tiếng nấc ngắn, chân tay
lạnh.
- Nấc do nhiệt thịnh: Tiếng nấc to, mạnh, thời gian giữa 2 tiếng không cố
định, lúc ngắn lúc dài, miệng lưỡi khô, đi ngoài khó...
- Nấc do cơ thể suy hư, ốm yếu: Tiếng nấc yếu nhẹ, không liên tục, thời
gian nghỉ giữa 2 tiếng dài, người mệt mỏi, chán ăn, ngủ kém...
Một số món ăn bài – thuốc trị nấc:
1. Nước gừng: Gừng tươi 2 lát mỏng, giã nhỏ, đun với 200ml nước nhỏ
lửa, để nguội, lọc nước bỏ bã. Đường trắng 1 thìa cà phê cho vào quấy đều.
Bệnh nhân vừa uống vừa đếm đến 9, dùng 1-2 lần/ngày.
2. Nước vải: Vải chín 10 quả, bóc cùi, cho vào cốc với 1 thìa cà phê mật
ong, hấp cách thủy. Khi cùi vải chín thì ép lấy nước. Bệnh nhân ăn cùi vải trước
sau đó uống nước 2 lần/ngày.
3. Nước quất hồng bì: Quất hồng bì chín 20 quả, rửa sạch, bỏ hạt cho vào
cốc dầm nát, thêm 1 thìa canh đường, trộn đều, hấp cách thủy. Khi quất hồng bì
chín, ép lấy nước uống.
4. Cháo hạt tía tô: Hạt tía tô 20g, xay thành bột mịn, thêm hạt tiêu 4 hạt,
đun với 250 ml nước, chắt nước bỏ bã. Bột gạo 100g cho vào nước hạt tía tô,
đun nhỏ lửa. Khi cháo chín cho 20g đường phèn, quấy tan. Bệnh nhân ăn một
lần lúc đói, trong 2-3 ngày.
5. Cháo nho: Nho chín 100g, gạo 100g, sữa bò tươi 50 ml, mật ong 1 thìa.
Gạo xay thành bột, nho quả rửa sạch, giã dập đun với 200 ml nước, chắt nước
bỏ bã. Cho bột gạo, sữa bò tươi, mật ong vào nước nho, quấy đều, đun nhỏ lửa
cho đến khi cháo chín. Bệnh nhân ăn một lần/ngày lúc đói, dùng trong 2 ngày.
Cách trị nấc không dùng thuốc:
- Khi nấc, uống liên tục từng ngụm nước nhỏ, nước có ga, hoặc nuốt nước
bọt liên tục...
- Dùng ngón trỏ và ngón cái bóp kín 2 cánh mũi, đồng thời khép kín miệng
môi, phồng má rồi dồn khí lên hai tai, mỗi lần làm như vậy trong 2-3 giây, rồi nghỉ
2-3 giây và lặp lại khoảng 15 -20 lần.
- Bệnh nhân nhắm hờ mắt, dùng hai ngón tay trỏ ấn nhẹ và sâu vào hai
nhãn cầu trong 1-2 giây, rồi nhấc hờ hai ngón tay trỏ, làm liên tục trong 15-20
lần.
BỆNH BẠCH HẦU
Bạch hầu là một bệnh rất nguy hiểm, ngày nay đã bị loại trừ một phần lớn
do phương pháp tiêm phòng bệnh. Những trẻ em không tiêm phòng bệnh, khi
mắc bệnh, cổ họng bị đau, có một lớp màng trắng, dầy, dính, ngày càng phát
triển làm cho trẻ thở khó. Đồng thời, cháu bé bị mệt, người nhợt nhạt, mạch
nhanh dù thân nhiệt không tăng nhiều.
Khi trẻ không tiêm phòng bệnh hoặc tiêm không đủ liều lượng mà có các
hiện tượng trên, cần phải đưa tới bệnh viện ngay. Bác sĩ sẽ lấy một ít mẫu ở
họng để xét nghiệm xem có vi trùng bạch hầu không.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NGỰC CÁC LOẠI HO
Ho có nhiều nguyên nhân. Khi khám một trẻ bị ho, bác sĩ phải hỏi đặc tính
của cơn ho, nếu được nghe trẻ ho càng tốt. Nhìn cách thở của trẻ cũng giúp bác
sĩ chẩn đoán được trẻ ho vì bệnh gì.
Có nhiều loại ho: Do cảm cúm, do dị ứng, do viêm phổi, viêm cuống phổi,
do mủ ở màng phổi, ho gà, ho lao...
Khi nào trẻ ho mà có nóng hoặc ho dai dẳng thì phải đưa đến bác sĩ khám
ngay. Tuy nhiên, không phải cứ nghe bé ho là xin chụp hình phổi.
Cần “tôn trọng” cơn ho của trẻ. Đừng tìm cách dập tắt cơn ho tức khắc mà
không biết nguyên nhân cụ thể. Trong trường hợp là ho “gió”, ho “cảm” chút đỉnh
thì cần để cho trẻ ho. Ngay cả trường hợp bị viêm phổi hay viêm cuống phổi, vẫn
để bé ho tự nhiên để tống đàm nhớt ra ngoài cho dễ thở và bớt nhiễm độc. Ho vì
viêm phổi mà chỉ uống thuốc ho thì bệnh càng nặng thêm. Bác sĩ chỉ cho uống
thuốc ho khi thấy cơn ho làm bé mệt nhiều và mất ngủ khiến bé suy nhược.
Điều trị
Ho không phải là bệnh, mà chỉ là một triệu chứng của nhiều căn bệnh
khác. Do đó phải cần chữa đúng bệnh trước tiên, sau đó mới chữa ho.
Trong trường hợp trẻ bị ho tím tái ở môi, ở đầu ngón tay, ngón chân và
khó thở (thở nhanh, dồn dập trên 60 lần/phút), có tiếng khò khè và co kéo cơ hô
hấp ở cổ xuống sườn là những trường hợp nặng, phải đưa vào bệnh viện cấp
cứu ngay.
Khó thở luôn là dấu hiệu báo động, cần phải đưa bé đến ngay các cơ sở y
tế gần nhất. Nên khám bệnh ngay khi trẻ có các triệu chứng nóng, ho kèm khó
thở. Phải chữa tới nơi tới chốn, đừng để bệnh kéo dài, tái đi tái lại làm trẻ mất
sức.
Khi điều trị săn sóc tại nhà, phải:
- Cho uống thuốc theo toa bác sĩ. Giữ vệ sinh tổng quát. Hút đờm nhớt
cho trẻ. Nếu không, đàm nhớt sẽ làm trẻ nghẹt thở. Chỉ nên cho trẻ ăn ít, nhưng
nhiều lần trong ngày. Nên cho ăn thức ăn đặc. Nếu bị ói thì ngay sau khi trẻ ói
xong, nên cho ăn lại liền, trẻ sẽ không bị ói nữa.
- Dùng một cuộn băng, băng chặt bụng cũng giúp trẻ giảm cơn ho.
- Nên giữ ấm cho trẻ. Đề phòng những cơn lạnh đột ngột.
- Không nên cho trẻ uống thuốc ho của người lớn vì thuốc ho của người
lớn thường có chất á phiện, trẻ có thể bị chết vì trúng độc.
NGHẸT THỞ DO CÓ VẬT LẠ TRONG ĐƯỜNG HÔ HẤP
Có nhiều trường hợp bé bị ngạt thở:
Bị ngạt vì nằm ngủ dưới lớp chăn nên bị thiếu không khí hoặc bé bị nghẹt
thở vì nuốt một vật và vật đó nằm ngáng trên con đường hô hấp. Thí dụ: bé nuốt
một củ lạc hoặc một mẩu đồ chơi, kết quả là bé bị tắc thở ngay hoặc bị tắc thở
dần dần vì vật nuốt mỗi lúc lại bịt kín hơn con đường hô hấp.
Trong trường hợp sau, cháu bắt đầu ho, rồi thở khó nhọc, mỗi lần thở lại
có tiếng rên hoặc rít. Mặt bé sạm dần lại rồi bé ngưng, không thở nữa.
Phải làm gì khi cháu bé bị ngạt trên giường? Nếu thấy da bé tím hay xám,
người không cử động hoặc bị co giật, hãy để đầu bé ngửa ra phía sau để bé thở
dễ hơn.
Nếu thấy không có kết quả gì hãy làm hô hấp nhân tạo cho bé, nhờ người
đi báo bác sĩ hoặc đưa bé tới trạm cấp cứu ngay.
Nếu bé ngạt vì nuốt phải một vật vào họng:
- Nếu bạn nhìn thấy vật đó, hãy thử cố lấy vật đó ra bằng ngón tay của
mình và chú ý không làm cho vật tụt sâu thêm vào họng bé.
Nếu không lấy ra được, hãy làm theo phương pháp Heimlich như sau:
Phương pháp Heimlich:
- Nội dung chính của phương pháp này là bất chợt ấn mạnh vào vùng dạ
dày theo hướng từ dưới lên. Giữ cháu bé ở tư thế đứng hay ngồi. Người chữa
cho cháu đứng ở đằng sau, nắm bàn tay trái lại đặt lên bụng cháu ở trên rốn - vị
trí của dạ dày - Bàn tay phải nắm lấy nắm tay trái và bất chợt ép mạnh vào bụng
cháu theo chiều từ dưới lên trên để cho lượng không khí bị dồn từ phổi ra phía
cổ họng sẽ làm bắn vật lạ ra. Có thể làm nhiều lần, lần sau cách quãng với lần
trước.
Đối với các trẻ sơ sinh, phải ép bằng các ngón tay và chú ý nương nhẹ vì
xương của các cháu còn rất yếu.
Nếu không đạt được kết quả, phải đưa ngay cháu tới bệnh viện. Trên
đường đi, không ngừng làm hô hấp nhân tạo.
Ngạt vì khóc:
- Có trường hợp các cháu nhỏ từ 6 tháng tuổi tới 2 tuổi có thể bị ngạt vì
khóc. Tiếng khóc của cháu từng đợt bị ngắt quãng vì tiếng nấc. Cháu vội thở
nhưng cơn nấc lại đến làm cháu không kịp thở. Cuối cùng cháu ngất đi, mặt tím
lại vì thiếu không khí. Cảnh tượng này dễ làm người lớn lo lắng vì xúc động
nhưng không có gì nguy hiểm. Người lớn cần giữ bình tĩnh. Cháu bé sẽ chóng
hồi tỉnh và tiếng khóc lại tiếp tục ré lên.
Cần chú ý săn sóc cháu bé hơn nhưng nên tránh để cháu cảm thấy rằng:
Muốn đòi gì cứ khóc là được!
THỞ DỐC
Chứng thở dốc, thở từng cơn hối hả khiến các cháu bé không chạy nhảy,
chơi đùa bình thường được như những đứa trẻ khác là một chứng bệnh rất
đáng quan tâm. Vì nguyên nhân chứng bệnh này có thể do sự mất sức của toàn
cơ thể hoặc bị thiếu máu. Nhưng cũng có thể do có trục trặc về tim hoặc bộ máy
hô hấp, cần phải qua xét nghiệm để theo dõi.
BÉ THỞ CÓ TIẾNG RÍT
Trừ trường hợp trẻ em ngáy khi ngủ, còn nếu cháu thở mà có tiếng lào
xào hay tiếng rít thì phải báo ngay cho bác sĩ biết, nhất là nếu cháu lại bị sốt. Có
thể đó là triệu chứng của một bệnh viêm ở mũi họng hay viêm phế quản bình
thường, nhưng cũng có thể là những bệnh khác quan trọng hơn như: Hen, vật lạ
mắc trong cổ, viêm thanh quản v.v...
Có nhiều cháu bé sơ sinh khi thở đã nghe như tiếng gà kêu do thanh quản
có cấu tạo hơi khác thường lúc mới sinh. Sau một vài tháng, thanh quản các
cháu phát triển và dần dần trở thành bình thường, tiếng kêu kia cũng sẽ mất.
NGỪNG THỞ CÁCH QUÃNG
Trong những ngày đầu mới sinh ra, bé thường thở không đều. Đôi khi có
những đợt ngưng thở chừng vài giây hoặc lâu hơn 10 giây đối với các bé sinh
thiếu tháng. Hiện tượng này có thể kèm theo sự giảm nhịp đập của tim, có
những biến cố xấu. Do đó, các bé sinh thiếu tháng cần phải được theo dõi cẩn
thận và được nuôi trong các thiết bị khí có máy theo dõi nhịp tim, nhịp thở.
Những cơn ngừng thở trong giấc ngủ của trẻ sơ sinh hiện nay được coi như
những nguyên nhân phổ biến nhất gây chết đột ngột cho các cháu.
NGẠT DO GAZ
Những hơi làm ngạt có thể có trong gia đình là:
- Gaz dùng để đun nấu, thoát ra ngoài vì đường Ống có chỗ rò rỉ;
- Khí ôxít cacbon (CO), là một khí không màu, sinh ra từ máy sưởi ấm hay
đun nước không hoạt động tốt.
Khi có hiện tượng một người trong nhà - lớn hay bé - bị ngạt do gaz,
không được dùng bất cứ một dụng cụ điện nào vì chỉ cần có một tia lửa điện nhỏ
sẽ gây ra nguy hiểm khó lường trước được.
Phải:
- Khóa ngay bình gaz lại, mở rộng các cửa, hoặc đưa nạn nhân ra ngoài
trời.
- Làm ngay hô hấp nhân tạo cho nạn nhân, nếu nạn nhân không còn thở
nữa.
- Nhờ người hàng xóm gọi điện tới cơ quan cứu thương.
Nếu nạn nhân ngất, nhưng vẫn thở:
Không được cho nạn nhân uống bất cứ thứ gì. Việc làm này không làm
cho nạn nhân tỉnh lại mà có nguy cơ làm nước vào trong phổi, rất nguy hiểm.
Để nạn nhân nằm im, đầu hơi thấp hơn chân, quay đầu sang một bên để
tránh không cho lưỡi tụt vào cổ họng và nếu nạn nhân nôn ói, thì không bị nước
tràn xuống phổi.
HO
Bình thường, những đường hô hấp luôn luôn được giữ gìn sạch sẽ do có
những lớp lông nhỏ phủ trên lòng ống không ngừng chuyển động để đẩy các
chất bẩn ra ngoài. Ho là một phản ứng của cơ thể, dùng hơi phổi tống các chất
lạ hoặc chất nhầy do chính ông dẫn khí đã tiết ra nhiều quá, ra khỏi các ông dẫn
khí. Bởi vậy ho là một phản ứng bảo vệ cần thiết của cơ thể, cho nên nhiều khi,
không nên tìm cách ngăn cản việc ho.
Để chữa trị bệnh ho, bác sĩ thường đặt nhiêu câu hỏi để tìm nguyên nhân
như: ho từ bao giờ, hay ho vào lúc nào? Tiếng ho vang cao hay khàn khàn?
Kèm với việc ho cháu bé có sốt không, có chảy nước mũi không, có khó thở
không, có chất nhầy ở phân hay khi bị nôn ói không?... Bác sĩ còn chú ý xem có
phải là cháu bị lây ho gà hay bệnh sỏi không?
Chúng ta nên phân biệt nhiều thứ ho khác nhau như sau:
Ho cấp tính thương kèm theo sốt ở các trẻ em bị viêm đường hô hấp trên.
Ho mạn tính do viêm lâu ngày các đường hô hấp trên, như bị viêm xoang
chẳng hạn.
Ho không kèm theo sốt có thể do dị ứng như hen; thường các cháu ho
khan và ho từng cơn.
- Ho đêm ở các cháu sơ sinh do các chất nhầy tích tụ làm tắc các đường
dẫn khí. Để các cháu bé khỏi ho, chỉ cần nhấc cháu bé dậy và bế theo chiều
đứng để các chất nhầy tích tụ trong các đường dẫn khí chảy thoát đi; ho đêm
cũng có thể là triệu chứng của sự lưu thông ngược chiều của các chất ở đoạn từ
miệng tới dạ dày.
- Ho tiếng khàn khàn từng tiếng một có thể do viêm họng.
- Ho từng cơn dài có thể là ho gà.
Nếu bất chợt cháu bé ho sặc sụa, không bị sốt nhưng thở khó khăn làm
mặt tái đi thì có thể do cháu bé đã nuốt hoặc tống một vật gì vào họng.
Cách chữa trị:
- Như trên đã nói, nhiều khi không nên ngăn cản bé ho. Các loại thuốc an
thần, giảm ho có khi lại có hại làm cho cháu bé khó thở. Bởi vậy, các bác sĩ
thường tìm loại thuốc có tác dụng làm loãng các chất nhầy ra để dễ tống chúng
ra khỏi các đường ống dẫn khí.
Chỉ khi nào cháu bé ho khan nhiều quá, bị mất sức vì ho ban đêm thì bác
sĩ mới cho cháu uống thuốc an thần để làm dịu cơn ho như trong trường hợp
cháu bị ho gà.
Đối với các cháu bị ho kinh niên, người ta thường áp dụng phương pháp
vận động hô hấp hỗ trợ việc thở nhân tạo.
HO GÀ
Ngày nay, nhờ phương pháp tiêm phòng bệnh, nên ít trẻ em bị bệnh ho
gà. Với các cháu nhỏ không được người lớn cho đi tiêm chủng đủ liều thì ho gà
là một bệnh dai dẳng và đáng sợ.
Từ 8 tới 10 ngày sau khi tiếp xúc với một trẻ khác mang bệnh, cháu bé bắt
đầu có các triệu chứng bị lây như: Sốt nhẹ, bắt đầu ho và càng lúc càng ho
nhiều hơn.
Từ ngày thứ 15 trở đi, cháu ho từng cơn. Mỗi cơn ho làm người cháu co
dúm lại, mắt đỏ ràn rụa nước mắt. Sau cơn ho, cháu vội hít thở từng hơi dài
nghe có những tiếng rít đặc biệt. Đôi khi miệng cháu có những chất dãi dính
không nhổ ra được khiến cháu bị nôn ói.
Mỗi ngày cháu nhỏ có thể bị tới mấy chục cơn ho, số cơn càng nhiều
chứng tỏ bệnh cháu càng nặng. Hiện tượng này kéo dài từ 2 tới 3 tuần hay hơn
nữa, rồi mới thuyên giảm.
Nếu cháu vừa ho vừa sốt thì cháu có thể bị thêm chứng viêm đương hô
hấp.
Thuốc kháng sinh ít tác dụng tới bệnh ho gà nên khi trị bệnh, các bác sĩ
chủ yếu dùng thuốc an thần làm cho các cháu đỡ ho và ngủ được.
Vì những cơn ho tới bất thường nên phải thay đổi cách ăn của các cháu.
Lúc nào cháu ngớt cơn thì tranh thủ cho ăn ngay, không kể giờ giấc.
Đối với các cháu từ 12 - 18 tháng tuổi, ho gà rất nguy hiểm vì có thể làm
cho các cháu chết do không thở được. Bởi vậy, phải cho cháu nằm bệnh viện để
được săn sóc kỹ càng trong một thời gian cần thiết.
Việc tiêm chủng phòng bệnh ho gà thường được phối hợp với việc phòng
các bệnh uốn ván, bạch hầu, bại liệt bắt đầu từ 3 tuổi. Sau khi đã bị lây bệnh,
việc tiêm chích thuốc Gamma Globuline trước khi cháu bé bị lên cơn, cũng có
tác dụng làm giảm cơn hoặc ngăn kháng cho các cơn ho xảy tới.
Theo nguyên tắc, một trẻ em đã đi nhà trẻ hay tới trường, cần phải để nghỉ
ở nhà 1 tháng, kể từ khi bé bị cơn ho đầu tiên. Việc cách ly cháu bé bị bệnh với
các anh, chị em trong nhà cũng cần phải như vậy.
HEN
Hen là một bệnh có liên quan tới phế quản và thể hiện từng cơn do các
đường dẫn khí của phổi bị co thắt lại, làm cho bệnh nhân không thở ra được
Nguyên nhân của hen có thể giống nguyên nhân của các bệnh dị ứng: Cơ
thể và nhất là các ống phế quản của phổi phản ứng với các bụi phấn hoa, lông
súc vật, bụi, một số vi sinh vật. Xét nghiệm máu hoặc thử nghiệm bằng phương
pháp cấy dưới da có thể xác định được chất gây phản ứng hen.
Bệnh hen là một bệnh gia truyền: Ông, bà, cha, mẹ, họ hàng có người hen
thì các con cháu sau cũng dễ mắc bệnh.
Cơn hen nặng hay nhẹ tùy ở mỗi người, mỗi lúc. Một đứa trẻ lên cơn hen
ngồi trên giường, mặt tím tái, đẫm mồ hôi, cố gắng hít thở khó khăn với những
tiếng rít đặc trưng của bệnh, cần an ủi cháu khi bác sĩ chưa tới và không được
dùng thuốc gì nếu không được bác sĩ chỉ định từ trước.
Các thuốc chữa hen có tác dụng chủ yếu làm giãn phế quản để cho cơn
hen dịu đi. Nếu cơn hen vẫn tiếp diễn, thì cần phải cho cháu vào bệnh viện.
Bệnh hen là một bệnh phải chữa trị lâu dài. Các cơn hen không giống
nhau có thể một năm xảy ra đôi lần, nhưng cũng có thể xảy ra nhiều lần trong
một tháng, ảnh hưởng tới việc học hành và cuộc sống lâu dài của trẻ. Bởi vậy
phải chữa trị tới cùng.
Tâm lý bi quan của trẻ bị bệnh cũng như sự lo âu của người thân có ảnh
hưởng xấu tới tinh thần và làm bệnh thêm trầm trọng. Bởi vậy, việc động viên,
khuyến khích an ủi người bệnh là những việc làm có tính chất tâm lý, nhưng lại
rất cần thiết.
VIÊM PHỔI
Ngày nay, các bác sĩ hay nói một cách chung chung: Viêm vùng phổi.
Cháu bé bị viêm vùng phổi thường có các triệu chứng như: Đột nhiên sốt cao,
má đỏ, thở gấp (đôi khi cánh mũi phập phồng vì khó thở), ho cần phải đưa gấp
trẻ tới bác sĩ. Việc chiếu X-quang sẽ cho biết cháu bị viêm phổi có rộng hay
không?
Được chữa trị ngay, bằng thuốc kháng sinh, trẻ sẽ khỏi nhanh trong vài
ngày.
DẤU HIỆU VIÊM PHỔI Ở TRẺ
Hỏi:
“Trẻ bị viêm phổi có những dấu hiệu nổi bật gì?”.
Trả lời:
Có 2 dấu hiệu dễ nhận thấy:
1. Thở nhanh: Đây là dấu hiệu sớm nhất cho biết trẻ đã bị viêm phổi. Trẻ
được coi là thở nhanh khi có số nhịp thở trong một phút là:
- Trẻ 1-5 tuổi: 40 lần trở lên.
- Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 1 tuổi: 50 lần trở lên.
- Trẻ dưới 2 tháng tuổi: 60 lần trở lên.
Nếu không đếm được nhịp thở của trẻ hoặc không phân biệt được trẻ có
thở nhanh hơn thường ngày hay không, bà mẹ có thể vén áo trẻ lên và quan sát
lồng ngực. Nếu thấy trẻ thở khác thường hoặc tiếng thở của trẻ phát ra bất
thường thì có thể nghi trẻ bị viêm phổi.
2. Co rút lồng ngực: Đặt trẻ nằm ngang trên giường hay trên lòng mẹ, vén
áo trẻ lên và nhìn vào phần ranh giới giữa ngực và bụng. Nếu thấy bị lõm khi trẻ
hít vào (lặp lại thường xuyên ở bất kỳ nhịp thở nào khi trẻ nằm yên tĩnh hoặc
ngủ) là trẻ đã bị viêm phổi nặng, cần phải được điều trị ngay.
Viêm phổi là bệnh rất hay gặp ở trẻ nhỏ, bệnh diễn biến nặng lên rất
nhanh và dễ gây tử vong. Nhưng nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và
đúng cách thì có thể chữa khỏi hoàn toàn.
VIÊM PHẾ QUẢN
Một cháu bé bị cúm hoặc có thể kèm theo ho. Viêm phế quản nếu được
chữa trị ngay khi cháu chỉ bị sốt nhẹ, cháu sẽ khỏi ngay bằng một liều thuốc
kháng sinh. Thường thì chứng ho khỏi trong vòng 5 - 6 ngày nhưng cũng có khi
kéo dài tới 1, 2 tuần, nhất là với các cháu chưa biết cách khạc đờm ra.
Nếu cháu đã khỏi, rồi lại bị lại, không nên cho cháu uống lại thứ thuốc vừa
dùng hãy còn lại. Nên cho cháu đi khám bác sĩ vì chứng ho của cháu rất có thể
liên quan tới một chứng viêm mạn tính vùng mũi họng. Ngoài ra còn một số bệnh
khác mà bác sĩ cần phải nghe và thử nghiệm mới biết được như bị dị ứng,
chẳng hạn.
VIÊM PHẾ QUẢN DẠNG HEN
Một số trẻ em bị ho khi thay đổi thời tiết, kiểu ho theo mùa. Chứng này gây
bởi vi rút làm các cháu khó thở và khi thở có tiếng rít giống như hiện tượng hen.
Cháu ho, sốt, bị rối loạn tiêu hóa kéo dài nhiều ngày, bị đi bị lại nhiều đợt,
mùa hè rồi lại mùa đông.
Một số cháu có thể chuyển thành hen thực thụ.
Để chữa trị, cần đưa cháu tới các bác sĩ chuyên khoa để hướng dẫn cho
cháu về phương pháp thở. Biết cách thở sẽ giảm được cơn bệnh rất nhiều.
BỆNH LAO (THỬ PHẢN ỨNG B.C.G)
Hiện nay, bệnh lao không còn hoành hành như thời gian cách đây 30 năm
nữa, vì đã có nhiều loại thuốc phòng và chữa trị hiệu nghiệm. Tuy vậy, bệnh vẫn
còn tồn tại, nhất là trong số những người cơ nhỡ.
Bệnh lao gây nên bởi vi trùng Koch (B.K), do sự lây nhiễm trực tiếp. Trẻ
em - nhất là các cháu sơ sinh - dễ bị lây bệnh, nên cần phải tiêm phòng cho các
cháu bằng vắc-xin B.C.G (vi khuẩn mang tên người tìm ra chúng là Calmette và
Guérin). Các cháu có thể bị lây từ một người không biết mình có bệnh hoặc một
người có bệnh nhưng lại tưởng là mình đã khỏi rồi.
Giai đoạn bị lây bệnh đầu tiên của một cháu bé chưa tiêm phòng B.K gọi
là sơ nhiễm có thể không có triệu chứng gì nổi bật, phải thử nghiệm mới biết
được (căn cứ vào kết quả thử nghiệm âm tính hay dương tính). Tuy vậy, cũng
có những trẻ có những biểu hiện như: Sốt, tình trạng sức khỏe toàn thân bị suy
sụp, xuống cân, gầy ốm. Kết quả chiếu X-quang cho thấy có những điểm bất
thường ở phổi như sự xuất hiện các hạch ở quanh khí quản và ở phổi. Đối với
các cháu mới sinh, bệnh lao màng não là một bệnh cực kỳ nguy hiểm.
Khi thấy một đứa trẻ bị sơ nhiễm lao, người ta thường để ý tìm xem người
nào đã lây bệnh sang cháu và thường phát hiện ra ngay trong gia đình hoặc
người thường tiếp xúc với cháu.
Việc chữa trị cho một cháu bé bị sơ nhiễm lao rất đơn giản: Cho cháu
uống thuốc kháng sinh loại chống lao trong thời gian từ 6 đến 9 tháng.
Những phản ứng với thuốc thử lao: Những phản ứng của cơ thể cháu bé
đối với thuốc thử lao cho thấy: Cơ thể cháu đã tiếp xúc với vi trùng B.K hoặc
cháu đã được tiêm thuốc B.C.G phòng lao rồi. Người ta tiêm vào dưới da của
các cháu một lượng nhỏ các vi trùng lao (B.K) đã bị chết, rồi quan sát trạng thái
da ở chỗ tiêm.
1) Nếu cơ thể không bị nhiễm B.K và cháu chưa tiêm phòng B.C.G thì
không có phản ứng gì ở da: Kết quả âm tính.
Nếu cơ thể đã tiếp xúc với B.K hoặc đã chích B.C.G thì da có phản ứng:
kết quả dương tính.
Có nhiều cách thử nghiệm: Làm trầy một diện tích rất nhỏ da của cháu bé
rồi nhỏ một giọt thuốc thử lao lên vết trầy; đắp một lớp pom-mát (thuốc mỡ) thử
lao lên da; rồi tiêm vào dưới da một lượng nhỏ thuốc thử.
Việc nhận định kết quả của thử nghiệm không phải ai cũng làm được, vì
phải có chuyên môn và kinh nghiệm. Bởi vậy các bà mẹ cần đưa trẻ tới bác sĩ
hoặc nơi chuyên môn để có được kết quả chính xác. Cần phải đưa cháu tới
đúng hẹn, thường là 2 tới 4 ngày sau khi thử. Kết quả dương tính thường có các
dấu hiệu như: chỗ tiêm thử có một vùng đỏ bao quanh, dưới da có một cục sờ
thấy cứng hoặc quanh chỗ tiêm có nhiều điểm nhỏ hơi phồng, màu đỏ.
Có thể có nhiều dấu hiệu tương tự làm người ta lầm là kết quả dương
tính. Bởi vậy, muốn chắc chắn, người ta thường tiến hành nhiều cách thử
nghiệm, từng đợt cách nhau một khoảng thời gian.
Kết quả dương tính cho biết đứa trẻ đã tiếp xúc với B.K (nếu trước đó,
cháu không được tiêm phòng B.C.G).
2) Nếu kết quả dương tính rất rõ rệt thì cháu vừa bị nhiễm B.K trong thời
gian gần đây. Nếu kết quả dương tính không rõ rệt thì khó xác định được thời
gian nhiễm bệnh. Bởi vậy, người ta thường thử ít nhất mỗi năm một lần cho các
cháu, để dự đoán sự tiến triển của bệnh bằng cách so sánh các kết quả của mỗi
lần thử với nhau.
Nội dung của việc dùng B.C.G:
- Khi dùng B.C.G để ngừa bệnh lao người ta tiêm vào cơ thể các cháu bé
những vi khuẩn lao của bò, đã được làm yếu đi tới mức không gây được bệnh
nữa nhưng vẫn kích thích được hệ miễn nhiễm của cơ thể cháu bé sản sinh ra
các kháng thể chống lại được vi trùng lao, kể cả các vi trùng lao hoạt động ở
người.
Cách thực hành:
- Sau khi đã biết rõ cháu bé đã thử lao kết quả âm tính, bác sĩ truyền ngay
B.C.G vào người cháu. Có thể truyền bằng phương pháp làm xước da; hoặc
tiêm thuốc vào dưới da; hoặc uống thuốc. Phương pháp tốt nhất là chích thuốc
vào dưới da.
3 tháng sau mới kiểm tra kết quả và cháu bé phải có kết quả dương tính.
Nếu kết quả âm tính thì việc tiêm phòng vừa rồi chưa đạt yêu cầu, phải tiêm
phòng lại.
Ở nước ta việc tiêm phòng cho các cháu bé đã được thực hiện từ lâu.
Việc tiêm phòng lao B.C.G cần thực hiện càng sớm càng tốt. Vì vậy, người ta
thường tiêm phòng cho các cháu ngay khi mới sinh.
Tất cả mọi trẻ em đều có thể tiêm phòng bệnh lao bằng thuốc B.C.G, trừ
trường hợp cháu đang bị bệnh nào đó hoặc vừa tiêm ngừa một bệnh khác thì
phải tạm hoãn lại một thời gian.
Việc tiêm B.C.G không làm cho cháu bé bị sốt hoặc có phản ứng gì khác
ngoại trừ hiện tượng sau vài tuần, chỗ chích có một cái vẩy nhỏ, ở dưới vẩy có
một cục cứng, chung quanh vẩy có một vùng đỏ. Nếu chích dưới da ở cánh tay,
có thể nổi hạch ở nách. Có trường hợp hạch sưng to, có mủ nhưng thường sẽ
khỏi nhanh.
Việc tiêm B.C.G phòng lao đã tỏ ra rất hữu hiệu, kể cả đối với các dạng
lao nguy hiểm như lao màng não. Tuy vậy, việc tiêm phòng phải thực hiện cẩn
thận và có quá trình theo dõi về sau.
Đúng là sau khi đã tiêm phòng, nếu kết quả dương tính không rõ rệt
chứng tỏ khả năng miễn nhiễm yếu, cần phải chích lại. Thật ra, khả năng miễn
nhiễm này cũng yếu đi theo thời gian. Bởi vậy, thường các cháu phải thử lao mỗi
năm một lần để thấy nếu cần thì tiêm phòng lại.
Thời gian và những nhận xét, theo dõi của mỗi lần tiêm phòng cần phải
được ghi đầy đủ vào sổ y bạ của các cháu.
BỆNH TIM BẨM SINH
Bệnh tim bẩm sinh gồm các chứng tim do sự phát triển bất thường ngay
từ khi trong bào thai. Có nhiều nguyên nhân tới nay vẫn chưa được biết.
Có nhiều bệnh tim bẩm sinh khác nhau do có sự cấu tạo không bình
thường của tim:
- Ở các vách tim hay các van tim.
- Ở các động mạch lớn xuất phát từ tim. Các động mạch này có thể bị hẹp
bất thường, bị thay đổi vị trí, bị thông nhau.
Một số trường hợp được phát hiện ngay khi bé vừa mới ra đời, do thấy bé
bị tím tái, bị suy tim nguy hiểm tới tính mạng.
Một số trường hợp khác diễn ra ngấm ngầm, bé chịu đựng được nên mãi
sau này khi nghe tim bác sĩ mới phát hiện ra. Trong 20 năm nay, nền y học đã có
nhiều tiến bộ về các mặt chẩn đoán và điều trị bằng phẫu thuật các bệnh tim
bẩm sinh. Có thể chẩn đoán cho cả bào thai trong bụng mẹ bằng phương pháp
siêu âm.
CÁCH NHẬN BIẾT TRẺ BỊ TẬT TIM BẨM SINH
Trẻ có tật tim bẩm sinh thường ho, vã mồ hôi, nhanh bị mệt, lồng ngực bị
rút lõm khi hít vào. Một số em da xanh xao, môi và đầu ngón tay, ngón chân tím
ngắt khi khóc hoặc từ khi mới sinh.
Những em có tật tim bẩm sinh thường bú hoặc ăn kém, khi bú dễ bị mệt,
có khi phải ngưng lại để thở rồi mới bú tiếp. Do đó, trẻ chậm lên cân, thậm chí
sụt cân, chậm mọc răng, chậm biết lật, bò, đứng và đi hơn so với trẻ bình
thường. Trong một số trường hợp, trẻ mang tật tim bẩm sinh nhưng không có
biểu hiện gì, chỉ tình cờ được phát hiện khi khám sức khỏe. Một số bệnh khác
cũng đi kèm với tật tim bẩm sinh như hội chứng Down, sứt môi - chẻ vòm, thiếu
hoặc thừa ngón tay, ngón chân, tật đầu to, đầu nhỏ...
Nguyên nhân dị tật tim bẩm sinh ở trẻ
Dị tật tim bẩm sinh là hiện tượng có bất thường trong cấu trúc của buồng
tim, các vách ngăn, van tim và những mạch máu lớn xuất phát từ tim. Một số
nguyên nhân của tật tim bẩm sinh là:
- Do bất thường của các nhiễm sắc thể số 13, 18, 21 (gây hội chứng
Down), số 22, hoặc các nhiễm sắc thể giới tính như XO (gây hội chứng Turner),
XXY (hội chứng Klinefelter). Những bất thường này không di truyền mà xảy ra ở
một thế hệ.
- Do di truyền trong gia đình khiến tật tim bẩm sinh xảy ra trong nhiều thế
hệ của gia tộc. Nguyên nhân này chiếm khoảng 3% các trường hợp mắc bệnh.
- Do môi trường sống tác động lên cơ thể của bà mẹ lúc mang thai như tia
phóng xạ, tia quang tuyến X, hóa chất, rượu, thuốc, đặc biệt là các thuốc an
thần, thuốc nội tiết tố, hoặc mẹ mắc một số bệnh do siêu vi trùng trong 3 tháng
đầu của thai kỳ như quai bị, Rubéole, Herpès...
- Do mẹ mắc một số bệnh như tiểu đường, Lupus đỏ...
Làm thế nào để tránh cho trẻ bị tật tim bẩm sinh?
Tốt nhất là trước khi dự định mang thai, mẹ nên khám sức khỏe định kỳ,
chủng ngừa một số bệnh như sởi, quai bị, Rubéole, viêm gan siêu vi B và điều trị
các bệnh tiểu đường, Lupus đỏ... nếu có. Trong quá trình mang thai, bà mẹ phải
thường xuyên theo dõi thai kỳ tại cơ sở y tế. Tránh uống rượu, tiếp xúc với các
hóa chất, độc chất, không chụp hình bằng tia X. Khi dùng bất cứ thuốc gì đều
phải tham khảo ý kiến của bác sĩ.
Chẩn đoán và điều trị
Khi phát hiện trẻ có những triệu chứng bệnh, cần đưa trẻ đến khám tại các
cơ sở y tế có chuyên khoa tim mạch nhi để được chẩn đoán chính xác. Hiện nay
trên thế giới, phần lớn các trường hợp tật tim bẩm sinh được điều trị khỏi bằng
phẫu thuật, khắc phục những khuyết tật trong tim, hoặc các biện pháp điều trị
can thiệp khác mà không cần phẫu thuật. Ở TP HCM, Viện Tim đã tiến hành
phẫu thuật được một số tật tim bẩm sinh như thông liên thất, thông liên nhĩ. Ống
động mạch, tứ chứng Fallot, hẹp động mạch phổi, hẹp eo động mạch chủ...
Những trẻ có tật tim bẩm sinh không thể phẫu thuật được hoặc đang trong
thời gian chờ phẫu thuật cần được điều trị và theo dõi định kỳ tại các cơ sở y tế
có chuyên khoa tim mạch nhi để ngăn ngừa các biến chứng của bệnh như suy
tim, cơn khó thở tim hoặc nhiễm trùng nặng.
Đặc biệt, cha mẹ cần lưu ý đến vấn đề chăm sóc vệ sinh răng miệng của
trẻ có tật tim bẩm sinh. Nếu cần nhổ răng, cha mẹ phải thông báo cho nha sĩ biết
bệnh của trẻ để các em được uống kháng sinh dự phòng nhiễm trùng trước và
sau nhổ.
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN BỤNGBỤNG TO
Các cơ bắp của trẻ em dưới 4 - 5 tuổi thường còn mềm. Bắp thịt ít phát
triển nên toàn bộ vòm bụng yếu. Khi bé ở tư thế đứng, bụng bé phồng ra phía
trước, rốn lồi, lưng có thể hơi cong.
Bởi vậy, tùy theo số tháng và độ tuổi của các cháu mà ta lựa chiều bế
cháu. Các bà mẹ nên hỏi bác sĩ về việc cho các cháu tập thể dục để luyện tập
cơ bụng, ngay từ lúc nhỏ.
Bụng to cũng có thể là vì cho các cháu ăn nhiều chất bột quá và thiếu
Vitamin D.
Nếu cháu bé bụng to mà lại có các triệu chứng khác kèm theo như: Phân
không bình thường, không tăng trọng và ngưng phát triển cả về chiều cao, thì
cháu có thể đang mắc một số bệnh của bộ máy tiêu hóa, cần đưa đến bác sĩ
xem bệnh.
CUỐNG RỐN BỊ ĐỎ HAY CHẢY NƯỚC
Đối với các trẻ sơ sinh, cần phải đặc biệt chú ý tới rốn của các cháu trong
15 ngày đầu. Ngày nào cũng phải thay băng quấn rốn. Nếu thấy rốn ướt, đỏ, cần
báo ngay cho bác sĩ biết.
Các hiện tượng rốn chảy máu hay có mủ cũng vậy, kể cả trong ngày thứ 6
hay thứ 7, là ngày cuống rốn rụng. Nếu rốn có những vệt đỏ nhỏ, bác sĩ có thể
dùng Nitrát bạc chấm vào. Trong khi khóc, nếu rốn bé hơi lồi lên là chuyện bình
thường.
LỒI RỐN - THOÁT VỊ BẸN
Một số trẻ sơ sinh khi khóc, rốn lồi to lên. Hiện tượng này không có gì
đáng lo ngại. Tuy rốn như vậy, nhưng sẽ không bao giờ bị thắt, và sẽ tự hết khi
cháu lớn lên.
Nhiều bà mẹ chữa cho các cháu như sau: Bọc một đồng tiền vào trong
một lớp gạc rồi lấy băng, băng dính lên rốn cháu.
Tuy vậy, nếu trường hợp phần lồi lớn quá và mấy năm sau cũng không
giảm bớt thì cần phải qua một cuộc phẫu thuật nhỏ.
Thoát vị bẹn, bên trái hoặc bên phải bộ phận sinh dục.
Hiện tượng này thường xảy ra với cháu trai. Cháu bé gái cũng có thể bị,
nhưng ít hơn.
Với cháu trai, người ta thấy một cục cứng ở bẹn, nhiều khi ở ngay bìu.
Bác sĩ chữa trị bằng cách băng chặt điểm đó lại và cũng có thể sẽ phải phẫu
thuật tiếp theo.
Nếu là cháu gái thì đó là triệu chứng của sự thoát vị buồng trứng, cần phải
phẫu thuật ngay. Không được băng hoặc ép vì có thể làm vỡ buồng trứng.
Thoát vị bẹn nghẹn:
Nếu chỗ lồi cứng và đau ấn không lên nữa có thể bắt đầu chườm nóng
cho cháu và cho cháu uống thuốc an thần. Nếu không có hiệu quả, cần phẫu
thuật cấp cứu.
ĐAU BỤNG Ở TRẺ SƠ SINH
Trong mấy tháng đầu, bé hay khóc và có dấu hiệu như đau bụng. Có lúc
khóc thét, trong vài phút hoặc có thể vài giờ, mặt tái đi, khua tay khua chân biểu
hiện bé bị đau. Nhưng sau khi đi được một ít phân hoặc xì được hơi ra (đánh
rắm), cơn đau dịu đi và cháu bé đột nhiên thôi khóc.
Những cơn khóc của bé như thế thường xảy ra trong những tuần lễ đầu,
sau khi bú vào quãng chiều, không ảnh hưởng gì tới sức khỏe của bé. Bé vẫn
tiêp tục lớn đều.
Nguyên nhân của những cơn khóc này vẫn chưa rõ. Ngươi ta chỉ dự đoán
có thể là bé bị đầy hoặc rối loạn tiêu hóa; hoặc bé chợt thấy lạ với quang cảnh
xung quanh nên sợ hãi; hoặc vì lượng hơi do sự tiêu hóa sinh ra ở trong bụng bị
dồn nén chưa thoát ra được làm bé khó chịu.
Việc xác định bệnh cho bé bao giờ cũng là một việc khó khăn. Gặp những
trường hợp bé khóc làm bà mẹ lo âu, bác sĩ sẽ xét đoán, loại dần những nguyên
nhân để chọn lấy một nguyên nhân phù hợp với trạng thái của bé. Ngoài ra,
cũng có thể để ý xem cháu có bị viêm tai, viêm da, viêm màng não hoặc các bộ
phận vùng bụng, đặc biệt là xem có bị lồng ruột không.
ĐAU BỤNG VÀ VÙNG BỤNG
Đau bụng là hiện tượng thường gặp ở trẻ em mà cũng là chứng khó xác
định bệnh nhất, vì có rất nhiều nguyên nhân khiến các cháu bị đau bụng: Từ khả
năng các cơ quan nội tạng bị đau tới sự hoạt động của các cơ quan bị trục trặc;
có khi cần phải phẫu thuật ngay mà có khi lại chỉ vì một nguyên nhân tâm lý nào
đó.
Tuy vậy, người lớn nên biết, khi có hiện tượng gì thì cần phải mang bé đi
cấp cứu hoặc đi phẫu thuật ngay: Đó là các trường hợp bé đang khỏe mạnh
bỗng bị đau dữ dội; đau ở một điểm xác định; đau khiến bé phải nằm một chỗ;
đau kèm theo sốt và nôn. Những hiện tượng này có thể liên quan tới đau ruột
thừa, bị lồng ruột, bị tắc ruột, v.v...
Nếu sau vài giờ, bé vẫn chưa hết đau thì cần phải mời bác sĩ tới hoặc đưa
cháu đi bệnh viện. Nhiều khi, những triệu chứng tương tự giống như trên lại là
những chứng bệnh chẳng hề cần tới phẫu thuật. Thật vậy một số bệnh dịch theo
mùa như cảm cúm, viêm phổi hoặc viêm vùng phổi cũng có thể gây đau bụng.
Ngoài ra, các bệnh gan, ống tiểu, sốt xuất huyết kèm theo chứng táo bón nhất
thời hoặc lặp đi lặp lại đều có thể làm đau bụng. Các cháu còn có thể bị đau
bụng vì giun, sán....
Về hiện tượng đau vùng bụng, các bác sĩ thường nhận xét thấy: Trẻ thỉnh
thoảng lại kêu đau bụng, tuy kêu đau nhưng cháu chịu được và việc này đã xảy
ra trong một thời gian dài. Xem như vậy thì rất có thể đây chỉ là một vấn đề tâm
lý. Bởi vậy, chữa bằng thuốc thang không khỏi được. Hiện tượng này có những
đặc điểm:
- Trẻ thường kêu đau quặn vùng rốn vào buổi sáng, bữa cơm trưa rồi tới
chiều thì khỏi.
- Trẻ có thể thấy đau từng đợt nhiều ngày rồi lại khỏi.
- Tuy kêu đau, nhưng vẫn chơi.
- Khi đau, trẻ có thể kém ăn hoặc kém ngủ.
Trẻ đau như thế thường hay làm nũng, nhút nhát, muốn gần bố mẹ và
ngại đến trường v.v...
Muốn tìm nguyên nhân đau bụng của trẻ em, thường phải tiến hành một
cuộc khám sức khỏe toàn diện, làm một số xét nghiệm nước tiểu; xét nghiệm
phân để tìm trứng giun, X-quang ruột, siêu âm ổ bụng v.v...
Nếu tất cả các việc làm trên không có kết quả gì, nên đưa cháu bé tới một
chuyên gia tâm lý.
Riêng người lớn - thường cưng chiều và tỏ ra thương khi cháu kêu đau -
không nên tỏ thái độ lo lắng quá của mình. Nên cố làm ra vẻ như sự việc chẳng
có gì là quan trọng cả. Thái độ như thế, tuy có làm cho các cháu chán nản,
nhưng lại khiến cho các cháu chóng khỏi bệnh... tưởng.
ĐAU BỤNG Ở TRẺ
Đau bụng ở trẻ là biểu hiện của những bệnh gì?
Đau bụng có thể là triệu chứng của nhiều căn bệnh (ở trong, ngoài ổ bụng
hoặc toàn thân) từ nhẹ đến cực kỳ nguy hiểm như: Nhiễm ký sinh trùng, dị ứng
hoặc ngộ độc thức ăn, lồng ruột, vỡ nội tạng... Việc nhận biết các biểu hiện đặc
trưng của từng bệnh lý sẽ giúp cha mẹ có được cách xử trí thích hợp, đảm bảo
an toàn cho trẻ.
Đau bụng ở trẻ có thể là dấu hiệu của các bệnh sau:
- Lồng ruột: Thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi, nhất là những cháu bụ bẫm.
Trẻ đau bụng từng cơn, trong mỗi cơn đau đều khóc thét, uốn người, nôn, có khi
nôn hoặc đi ngoài ra máu. Cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế có chuyên môn sâu.
- Ngộ độc thức ăn: Nôn, tiêu chảy và đau bụng; có khi đi phân lẫn máu.
- Viêm ruột thừa: Đau bụng có kèm theo sốt và nôn (nôn ít).
- Thoát vị bẹn: Khi khối thoát vị bị nghẹt, trẻ đau bụng kèm theo sưng vùng
bẹn hoặc bìu.
- Giun chui ống mật: Đau bụng từng cơn, vật vã, ở tư thế trồng cây chuối
thì bớt đau hơn.
- Tắc ruột do giun: Đau bụng kèm theo nôn, bí đại tiện. Những trẻ này
thường có cơ thể gầy.
- Viêm dạ dày cấp hoặc loét dạ dày, tá tràng: Đau bụng sau khi ăn những
thực phẩm không thích hợp.
- Vỡ các nội tạng (gan, lách, thận...) do sang chấn: Đau bụng dữ dội kèm
theo mất máu.
- Viêm phổi: Thường sốt cao, đau bụng và khó thở.
- Viêm cơ thành bụng: Cơ bụng sưng đỏ, đau.
- Gãy xương sườn: Đau, khó thở.
- Viêm vùng ngoài tim: Đau, khó thở, sốt, mệt mỏi
- Động kinh thể bụng: Trẻ hay kêu đau bụng, nhiều khi đau dữ dội, không
theo chu kỳ (lúc đau, lúc không), có khi sốt. Chứng đau đôi khi liên quan đến
trạng thái thần kinh. Bệnh thường kéo dài, khó phát hiện. Muốn chẩn đoán chính
xác, phải làm một số xét nghiệm, đặc biệt là điện não đồ.
Cha mẹ cần theo dõi sát nếu trẻ đau bụng. Đưa trẻ đi cấp cứu ngay ở cơ
sở y tế có chuyên môn cao nếu chứng đau bụng kèm theo các biểu hiện sau:
- Sốt, mệt mỏi.
- Nôn, buồn nôn.
- Chướng bụng, co giảm nhu động ruột.
- Không đi ngoài được hoặc không trung tiện được.
- Nôn ra máu hoặc đi phân đen.
- Sưng vùng bìu, bẹn.
- Thiếu máu (da xanh, niêm mạc nhợt).
Cha mẹ không được tự ý cho trẻ dùng thuốc, nhất là thuốc giảm đau hoặc
kháng sinh vì những dược phẩm này sẽ làm lu mờ triệu chứng của bệnh, gây
khó khăn cho bác sĩ trong việc chẩn đoán. Đã có nhiều trẻ bị đau bụng do viêm
ruột thừa (nếu được mổ trong vòng 6 giờ sẽ khỏi và không có biến chứng) cha
mẹ đã cho uống kháng sinh và thuốc giảm đau, đến khi bệnh không khỏi mới đi
bệnh viện. Lúc này, ruột thừa đã vỡ, rất khó điều trị và dễ dẫn đến các biến
chứng viêm phúc mạc, viêm ruột, tắc ruột sau mổ, thậm chí tử vong.
ĐÁNH RẮM
Bé hay đánh rắm, nhưng tăng cân đều, như vậy là không có gì đáng lo
ngại cả. Chỉ cần bà mẹ chú ý giữ gìn chế độ ăn uống của bé sao cho không dư
quá nhiều chất bột, chất hạt, và chất đường. Những chất trên nếu dư thừa,
không tiêu hóa hết trong bộ máy tiêu hóa của bé sẽ bị lên men, gây đầy hơi và
đôi khi thành bệnh tiêu chảy.
Ngược lại, nếu bé bị táo bón cũng cần có biện pháp để bé đi tiêu được dễ
dàng hơn.
KHỐNG TIÊU - ĐẦY BỤNG
Đối với trẻ em, từ các cháu sơ sinh tới các trẻ lớn, việc xác định xem có
phải cháu bị đầy bụng không là rất khó. Vì những triệu chứng bệnh của các cháu
thường chung chung như: Nôn ói, đau bụng và sốt. Những triệu chứng này cũng
có thể đi từ việc ăn không tiêu đến bệnh viêm gan siêu vi trùng hoặc bệnh viêm
ruột thừa.
Bởi vậy, nếu trong vòng 24 giờ mà không thấy cháu đỡ thì phải đưa cháu
tới bác sĩ để được khám cẩn thận.
TÁO BÓN
Khi đứa trẻ đi tiêu khó, phân cứng, khô hoặc đi thành từng viên nhỏ, 2 hay
3 ngày mới đi một lần, thì cháu bị đi táo hay táo bón.
Cũng nên lưu ý rằng, phần cứng như vậy là táo bón rồi, nhưng một số
cháu 2 ngày mới đi tiêu được một lần là chuyện bình thường.
Đối với các cháu sơ sinh, táo bón thường là do chế độ ăn - nếu cháu bú
sữa mẹ dù đi 2 ngày một lần, phân cháu vẫn mềm. Nếu cháu không đi tiêu
được, có thể vì 2 nguyên nhân: Hoặc là cháu bú chưa đủ no hoặc là vì mẹ bị táo
bón và cháu cũng bị ảnh hưởng.
Trong trường hợp đầu, cháu bé chậm lớn, thường khóc sau khi bú xong:
Phải cho cháu bú bình thêm, theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Trường hợp thứ 2, bà mẹ phải cải tiến chế độ ăn uống của mình như thêm
rau và trái cây, nhưng tránh uống các loại thuốc tẩy hoặc nhuận tràng.
Đối với các cháu bé được nuôi bằng sữa hộp, việc bị táo bón là chuyện
khó tránh, dù các bà mẹ đã cất công chọn loại sữa có tiếng, có tín nhiệm, pha
đúng như chỉ dẫn, cho ăn đúng liều lượng v.v... Nếu cháu bị táo bón nhiều, bác
sĩ có thể chỉ dẫn cách pha chế sữa của cháu sao cho có chất axít nhiều hơn.
Nếu cháu nhỏ dưới 3 tháng tuổi, nên tăng lượng nước trái cây (cam) vào sữa.
Nếu bé lớn hơn, có thể cho ăn thêm nước súp rau, uống nước suối, nước
khoáng và một số thuốc nhuận tràng nhẹ.
- Có thể thay đường bằng mật ong hoặc kẹo mạ.
- Cho các cháu uống nhiều nước hơn. Cơ thể cháu có thể bị mất nhiều
nước vì trong nhà nóng quá.
Hiện tượng táo bón ở các cháu lớn cũng giống như ở người lớn. Để rõ
nguyên nhân, chúng ta hãy theo dõi quá trình di chuyển của thức ăn trong bộ
máy tiêu hóa:
Sau khi được nuốt vào bụng, thức ăn lưu lại ở dạ dày từ 2-4 giờ, rồi đi
xuống ruột. Quãng đường ở ruột gồm 6m ruột non và 1,5m ruột già ở người lớn.
Ở các cháu nhỏ, con đường này ngắn hơn nhưng tỷ lệ về chiều dài giữa ruột già
và ruột non vẫn thế. Thời gian thức ăn qua ruột từ 10 tới 20 giờ. Trong suốt thời
gian này, các thành ruột hấp thu hết các chất dinh dưỡng trong thức ăn để bồi
dưỡng cơ thể. Những gì còn lại được đưa xuống ruột già, tạo ra phân, gồm các
chất cặn bã phần lớn là các chất xơ có trong vỏ trái cây, trong rau bị dồn ép lại ở
phần cuối ruột. Tùy theo loại chất bã, khối lượng nhiều hay ít cùng với sự hoạt
động của cơ thể mà thức ăn và các chất bã di chuyển nhanh hay chậm trong bộ
máy tiêu hóa. Nếu cuộc hành trình này lâu quá, các chất tạo phân bị mất nước
làm phân sẽ bị khô.
Bởi vậy, để tránh táo bón, nên chọn các thức ăn nào có thể di chuyển
nhanh và tạo chất bã nhanh như: Sữa chua, trái cây, rau, chất hạt. Các loại sữa
bò, sữa cô đặc và các thực phẩm để lại ít chất bã như đường, sô-cô-la, thịt di
chuyển trong ruột chậm hơn.
Có một số hiện tượng kèm theo chứng táo bón của các cháu như: Sốt,
không chịu ăn, mệt. Thường các cháu bị táo bón lại không chịu đi ị vì đau, nên
phân đã cứng lại khô thêm.
Một số yếu tố tâm lý như lo lắng, sợ hãi cũng có thể gây ra sự táo bón. Bởi
vậy, khộng nên để các cháu nhỏ bị ảnh hưởng bởi những biến động căng thẳng
trong gia đình.
Đối với trẻ em bị táo bón, nên:
- Cho các cháu uống nhiều khi ăn cũng như ngoài bữa ăn.
- Cho trẻ ăn đủ số lượng hàng ngày.
- Thay bơ, mỡ bằng dầu thực vật để trộn salát.
- Bỏ Sô-cô-la và thay đường bằng mật ong.
- Cho trẻ ăn nhiều rau xanh và hoa quả, chọn các loại rau có tính chất
nhuận tràng như rau khoai lang, mồng tơi, rau giền, củ khoai lang. Khi nấu bột
và cháo, phải băm nhỏ cho trẻ ăn cả cái. Cho trẻ ăn các loại quả: chuối tiêu, đu
đủ, bưởi, cam, quýt, thanh long... Khi trẻ đã bị táo bón không nên ăn cà rốt, hồng
xiêm, táo...
- Có thể dùng nước cốt khoai lang sống: khoai lang gọt vỏ, rửa sạch, đem
giã nhỏ vắt lấy nước cho trẻ uống.
- Trẻ ăn sữa bò bị táo bón: Pha sữa loãng hơn bình thường một chút, có
thể pha thêm 1 thìa cà phê nước quả (cam, quýt) vào cốc sữa cho trẻ, hoặc
dùng nước cháo pha sữa cho trẻ từ 5 tháng trở lên.
- Mẹ bị táo bón cho con bú thì phải điều trị táo bón cho mẹ: Ăn nhiều rau
quả, uống đủ nước.
- Xoa bụng cho trẻ theo khung đại tràng từ phải sang trái ngày 3-4 lần vào
khoảng cách giữa 2 bữa để kích thích làm tăng nhu động ruột.
- Tập thói quen ăn nhiều rau trong bữa ăn: Thái nhỏ nấu canh, luộc rau
cho trẻ ăn trước. Trẻ lứa tuổi mẫu giáo cần 100-150g rau/ngày. Cho trẻ ăn cả
múi các loại quả: cam, quýt, bưởi, ăn đu đủ, chuối tiêu, thanh long...
- Tập cho trẻ đi đại tiện đúng giờ quy định, chọn thời gian lúc nào trẻ
không vội vã, nên chọn sau bữa ăn vì lúc này nhu động ruột hoạt động tăng, nên
tránh bắt trẻ ngồi bô hoặc ngồi hố xí quá lâu.
- Các trường hợp táo bón do nứt hậu môn: rửa sạch hậu môn, bôi dung
dịch bạc Nitơrat 2%.
- Điều trị các bệnh còi xương, suy dinh dưỡng, thiếu máu... nếu có.
- Khi đã dùng các biện pháp trên không có hiệu quả thì mới dùng thuốc và
thụt tháo.
- Cho trẻ uống dầu Parafin: 5-10ml (trẻ nhỏ), 10- 20ml (trẻ lớn) vào buổi
sáng. (Chú ý: Các loại thuốc nhuận tràng phải dùng theo sự chỉ dẫn của bác sĩ).
- Thụt tháo: là biện pháp cuối cùng. Đó là dùng nước ấm cho pha Glyxerin:
30-40ml đối với trẻ dưới 1 tuổi và 100-250ml đối với trẻ trên một tuổi.
Khi nào cần đưa trẻ táo bón đi bệnh viện?
- Táo bón kéo dài trên một tuần, thay đổi chế độ ăn không có tác dụng.
- Táo bón sau khi trẻ mới sinh, bụng chướng.
- Táo bón ảnh hưởng đến sức khỏe: kém ăn, gầy sút, suy dinh dưỡng,
kèm theo nôn.
TIÊU CHẢY CẤP TÍNH
Đi tướt hay tiêu lỏng, tiêu chảy ở trẻ em có nhiều mức: Phân mềm nhưng
vẫn có khuôn, phân nát, phân lỏng có lẫn thức ăn không tiêu hóa được, phân chỉ
là chất lỏng.
Cách chữa trị tùy vào trạng thái bệnh nặng hay nhẹ, đi nhiều hay ít, lứa
tuổi bao nhiêu trong quãng từ 18 tháng tuổi đến 3 năm tuổi.
Với bé sơ sinh bú mẹ:
- Nếu bé đi mỗi ngày 5 - 6 lần hay nhiều hơn nữa thì cũng là việc bình
thường. Phân của bé như thế nào là tùy ở chất sữa của mẹ. Nếu bé vẫn chịu bú
và tăng cân đều thì không có gì phải lo ngại. Mẹ của bé vẫn có thể yên tâm cho
con bú, nhưng chú ý không được uống thuốc tiêu chảy, thuốc nhuận.
Với bé bú bình:
- Nếu bé bú sữa ở bình mà bị tiêu chảy thì phải cẩn thận ngay từ đầu,
tránh để bé bị mất nước và các chất muối khoáng nhiều.
Nếu bé đi nhiều lần trong một giờ thì dù sắc thái bé không có gì đáng chú
ý, cũng phải đưa cháu tới bác sĩ. Những hiện tượng rất đáng chú ý và lo ngại là:
Phân xanh hoặc phân lỏng mà cháu đi ra từng tia.
Phải làm gì?
Trước tiên, phải ngưng không cho bé ăn sữa nữa trong vòng 1 - 2 ngày.
Cho bé uống làm nhiều đợt trong ngày: nước đường, nước nấu cà rốt, những
chất muối khoáng dành cho trẻ em trong những trường hợp này có bán sẵn ở
hiệu thuốc pha với một lượng nước nhất định đã được chỉ dẫn.
Ở độ tuổi từ 5 - 6 tháng trở đi, có thể cho bé ăn thêm thức ăn chống tiêu
chảy như khoai, chuối nghiền v.v... Lượng thức ăn lỏng cho các cháu ăn mỗi
ngày vào quãng 150 gram cho mỗi kg trọng lượng của các cháu, ăn làm nhiều
lần, mỗi lần độ 20 - 30g. Nếu các cháu bị nôn ói, nên cho ăn lạnh.
Chế độ ăn như trên có mục đích bù lại lượng nước bé bị mất do đi lỏng.
Nếu phương pháp trên có hiệu quả, bé sẽ đi phân trở lại bình thường.
Chế độ ăn kiêng như trên không nên kéo dài quá 2 ngày.
Khi ăn bình thường trở lại, nên tăng lượng sữa từ từ hoặc dùng các loại
sữa đặc biệt thích hợp với bệnh trạng của cháu.
Điều quan trọng:
- Nếu đã ăn kiêng mà bé vẫn không khỏi, bị sút cân và có triệu chứng cơ
thể thiếu nước, cần phải gặp bác sĩ để xem có cần cho bé nằm viện ngay không.
Cũng cần lưu ý rằng, khi trở lại chế độ ăn bình thường rất có thể bé lại bị
đi tướt lại. Nếu vậy, lại phải ăn kiêng sữa thêm 1 - 2 ngày hoặc yêu cầu bác sĩ
xem có cần đổi loại sữa khác không.
Những nguyên nhân của bệnh tiêu chảy thường liên quan tới vấn đề ăn
uống của bé như:
- Pha sữa đặc quá hoặc loãng quá.
- Cho bé ăn quá sớm những thức ăn khó tiêu như: thịt, rau, trứng, hoặc
cho ăn với liều lượng nhiều quá; ăn nhiều bột quá;
- Thực phẩm bị thiu, sống.
- Bệnh tiêu chảy còn do vi trùng hay vi rút gây ra. Chúng có thể từ những ổ
viêm nhiễm ở họng, ở tai xuống gây bệnh ở ruột. Bác sĩ khám họng, tai và làm
xét nghiệm phân có thể xác định được điều này.
Để đề phòng cho bé khỏi bị tiêu chảy, nên chú ý:
- Pha chế sữa đúng liều lượng và tránh những thiếu sót đã ghi ở phần
trên.
- Tránh không để cháu bé tiếp xúc với ngươi nào đang bị viêm nhiễm như
ho, có mụn nhọt v.v...
- Rửa sạch và làm tiệt trùng các bình sữa trước khi đựng sữa cho bé ăn;
- Khi bé mới bị tiêu chảy, ngưng cho ăn sữa ngay.
BỆNH TIÊU CHẢY MẠN TÍNH
Một số cháu bé không hợp với sữa bò, cứ ăn là bị tiêu chảy. Chữa khỏi,
tới khi ăn lại, lại bị lại. Có nhiều cháu, ngay từ lần bú sữa bò đầu tiên đã bị các
chứng như dị ứng, phát ban, tiêu chảy. Nguyên nhân do bộ máy tiêu hóa của
các cháu không thích hợp với các Prôtêin của sữa bò. Bởi vậy, nếu thay sữa bò
bằng một loại sữa đặc biệt khác, bệnh cháu có thể hết ngay.
Những nguyên nhân khác có thể do: Saccarô - một loại đường - các bà
mẹ vẫn thường cho thêm vào bình, vào nồi súp rau;
- Lactôdơ - một loại đường tự nhiên có ngay trong sữa mẹ hoặc sữa bò.
- Prôtêin có trong các chất bột ngũ cốc như Gluten.
Vì có nhiều nguyên nhân khác nhau, nên bác sĩ phải theo dõi chế độ ăn và
phản ứng tiêu hóa của bé mới xác định được nguyên nhân nào là chính, không
kể tới một số bệnh đưòng ruột nữa.
BỆNH ĐƯỜNG RUỘT
Gluten là một loại Prôtêin có trong bột một số hạt lương thực như lúa mì,
lúa mạch, yến mạch (không có trong gạo và đỗ tương). Cơ thể trẻ thường không
tiêu hóa được Gluten nên dễ bị tiêu chảy mạn tính, nhất là khi trẻ bắt đầu chuyển
sang chế độ ăn bổ sung (ăn dặm), vì vậy dễ dẫn tới hậu quả là ngưng lớn. Một
cuộc xét nghiệm đơn giản về ruột của bé trong thòi gian này sẽ cho thấy rõ hiện
tượng này, kể cả với các cháu mới vài tháng tuổi.
Để chữa trị, trước hết phải ngưng không cho các cháu ăn Gluten, dù với
lượng rất nhỏ. Đối với các cháu đã phản ứng với Gluten, cần phải kiêng nhiều
năm để cháu khỏi bị lại.
Hiện nay: Người ta đã chú ý chế biến các loại “bột không có Gluten” dành
riêng cho các cháu.
RỐI LOẠN TIÊU HÓA Ở TRẺ SƠ SINH
Một số rối loạn tiêu hóa thường gặp ở trẻ sơ sinh bao gồm trớ sữa, tiêu
chảy, bón, bú kém. Nguyên nhân của các vấn đề này có thể do phương pháp
cho bú không đúng hoặc do một số bệnh lý như nhiễm trùng, kém hấp thu, dị tật
bẩm sinh đường tiêu hóa.
1. Nôn ói
Đây là triệu chứng thường gặp nhất trong giai đoạn sơ sinh. Trẻ bình
thường cũng hay trớ một lượng nhỏ sữa trong hoặc ngay sau bú. Bú no quá, bú
các cữ gần nhau quá, đổi loại sữa, lỗ núm vú cao su to hoặc nhỏ quá, đặc biệt tư
thế bế trẻ không đúng là những nguyên nhân có thể làm trẻ trớ sữa.
Có thể làm giảm trớ bằng tư thế cho bú đúng.
Cách bế trẻ đúng:
- Đầu và thân trẻ ở trên cùng một đường thẳng.
- Mặt trẻ đối diện với vú, mũi trẻ đối diện với núm vú.
- Thân trẻ thật sát thân người mẹ.
- Mẹ đỡ toàn bộ thân trẻ, không chỉ đỡ ở cổ và vai.
Cách giúp trẻ ngậm bắt vú tốt bao gồm:
- Mẹ nên chạm vú vào môi trẻ.
- Chờ đến khi miệng trẻ mở rộng.
- Nhanh chóng đưa miệng trẻ vào vú, hướng cho môi dưới của trẻ ở dưới
núm vú và ngậm sâu vào quầng vú để trẻ mút mạnh.
Một số dị dạng đường tiêu hóa (như teo thực quản, teo tắc ruột, bệnh
phình đại tràng bẩm sinh...) là nguyên nhân của 1/3 số trường hợp trẻ sơ sinh bị
trớ sữa. Tỷ lệ tử vong có thể rất cao nếu điều trị chậm trễ.
Vì vậy đối với mọi trẻ sơ sinh bị trớ, đặc biệt cần lưu ý tìm những dấu hiệu
sau để giúp nhận biết trẻ có nguy cơ và cần phẫu thuật khẩn.
- Lúc mang thai bà mẹ đa ối (nước ối nhiều, trên 2 lít).
- Ngay sau sinh trẻ nhiều đàm (sùi bọt cua).
- Trớ dịch xanh rêu.
- Bụng chướng.
- Không đi tiêu phân su 48 giờ sau sinh.
2. Tiêu chảy
Trẻ sơ sinh bình thường, đặc biệt những trẻ bú mẹ, có thể đi tiêu 5-10 lần
trong một ngày, thường sau mỗi cữ bú, phân sệt, màu vàng sậm, trẻ tăng cân
tốt; trường hợp này không gọi là tiêu chảy.
Nếu trẻ bú không đủ, phân có màu xanh lẫn nước nhưng lượng ít.
Nếu trẻ bú nhiều quá, mẹ uống thuốc xổ hoặc ăn thức ăn nhuận trường thì
trẻ bú mẹ có thể bị tiêu chảy.
Một số nguyên nhân khác gây tiêu chảy ở trẻ sơ sinh bao gồm: nhiễm
trùng, dị ứng sữa, hội chứng kém hấp thu.
3. Táo bón
Ở một số trẻ sơ sinh có thể đi tiêu 1 lần trong ngày hoặc mỗi 36-48 giờ,
nhưng phân không khô và trẻ đi tiêu dễ, đây không gọi là bón.
Táo bón thường gặp ở trẻ bú sữa bột, do lượng sữa bú không đủ, do loại
sữa có nhiều Protein hoặc nhiều chất béo. Nếu pha sữa đặc quá (ví dụ hơn 1
muỗng sữa cho mỗi 30ml nước) trẻ cũng có thể bị táo bón, trong trường hợp này
cần pha đúng tỷ lệ (1 muỗng sữa gạt ngang cho mỗi 30ml nước) sẽ giúp trẻ đi
tiêu bình thường.
Táo bón có thể xảy ra ở trẻ sinh non, sinh ngạt, suy giáp, mẹ sản giật kèm
hạ Magnê/máu, trẻ bị nứt hậu môn. Bệnh phình đại tràng bẩm sinh làm trẻ không
đi tiêu phân su trong 48 giờ đầu sau sinh, sau đó trẻ táo bón kéo dài kèm
chướng bụng.
4. Bú kém
Bú kém là bú ít hơn một nửa thể tích sữa so với bình thường.
Bú kém do hậu quả của bú không đủ lượng kéo dài vì nôn ói, tiêu chảy, do
bệnh lý thần kinh trung ương, nhiễm trùng, suy giáp.
5. Đau bụng
Đau bụng từng cơn kèm khóc ngất. Cơn đau xuất hiện đột ngột, có thể
kéo dài nhiều giờ. Mặt trẻ đỏ hoặc có thể tái. Trong cơn đau, bụng chướng, chân
co lên bụng, bàn tay nắm chặt. Trẻ đi tiêu xong có thể hết đau.
Đau bụng ở trẻ sơ sinh có thể do đói, nuốt nhiều hơi khi bú, bú nhiều quá.
Một số bệnh lý gây đau bụng như lồng ruột, thoát vị bẹn.
6. Chậm tăng cân
Trẻ sơ sinh bình thường tăng cân khoảng 25g mỗi ngày kể từ tuần lễ thứ
hai sau sinh. Lúc đầy tháng trẻ lên cân được trung bình 700g.
Nguyên nhân chính của chậm tăng cân ở một nửa số trường hợp là bú
không đủ. Trẻ có thể khóc nhiều, tăng kích thích, táo bón, ngủ ít.
Trường hợp nặng, trẻ có dấu hiệu mất nước, da khô, thóp lõm, véo da vết
véo mất chậm.
Các bà mẹ cần điều chỉnh tư thế bế trẻ bú đúng, tăng lượng sữa bú cho
đủ và tìm bệnh lý đi kèm.
7. Béo phì
Thường gặp ở trẻ bú sữa bột.
Béo phì do bú nhiều, sữa pha đặc quá gây dư năng lượng, dư chất béo,
chất đường. Béo phì thường kéo dài tiếp tục qua giai đoạn sơ sinh đến giai đoạn
trẻ lớn.
GIUN SÁN
Trẻ em dễ bị chứng giun sán vì các cháu hay sờ mó vào mọi vật rồi lại
đưa tay vào miệng. Hơn nữa, các cháu thường sống tập trung với nhau trong
trường, lớp, mà chứng này lại rất dễ lây.
Làm sao biết được các cháu có giun, sán?
Nếu các cháu hay đau bụng, khi thì táo bón, lúc khác lại tiêu chảy, sức
khỏe suy giảm, kém ăn, kém ngủ, hay quấy: Xét nghiệm máu, thấy lượng bạch
cầu toàn tính (Eosinophile) tăng. Xét nghiệm phân, có thể thấy trứng giun, sán.
Giun kim:
- Các cháu nhỏ thường bị giun kim, dễ lây sang nhau hoặc tự làm cho
mình bị nhiễm lại trứng giun của chính mình. Các cháu có giun kim hay bị ngứa
ở hậu môn. Các bé gái thì bị ngứa cả ở âm hộ. Các con giun nhỏ, giống như
những sợi chỉ trắng, dài vài milimét thường ra theo phân. Có thể nhìn thấy chúng
cọ quậy trong phân. Muốn thu được trứng của chúng để xét nghiệm, người ta
dán một đoạn băng dính gắn vào hậu môn của cháu bé.
Giun đũa:
Trẻ em có giun đũa vì ăn các thức ăn không sạch. Trong cơ thể, giun đũa
di chuyển theo một đường đi phức tạp: Trứng giun nở ra ấu trùng ở dạ dày rồi
ấu trùng di chuyển lên ở gan, vào phổi, cuối cùng trở về ống tiêu hóa và lớn lên
ở ruột. Quá trình này diễn ra trong vòng 2 tháng gây ra những triệu chứng như
ngứa phát ban và rối loạn ở hệ hô hấp.
Ngưòi ta xét nghiệm phân để tìm trứng giun. Nhiều khi tự nhiên giun bị
tống ra ngoài qua đường hậu môn hoặc khi cháu bé nôn.
Sán:
Cháu bé có sán do ăn thịt bò chưa nấu chín. Các cháu có sán thường đi
ra những đoạn sán nhỏ màu trắng. Những đoạn này chứa rất nhiều trứng ở bên
trong. Ngươi lớn có thể thấy những khúc sán như thế ở quần, ở trên giường
cháu nằm. Ngoài ra, không có hiện tượng nào khác.
Cách chữa trị:
Hiện nay, có nhiều loại thuốc hiệu nghiệm để trị bệnh giun sán. Mỗi loại có
một thứ thuốc riêng. Để trị giun đũa hoặc sán chỉ cần uống thuốc một lần, đối với
giun kim cần phải uống 2 liều, cách nhau 3 tuần lễ và giữ vệ sinh quần áo, tay,
móng tay, giường... để khỏi phải bị lại. Tất cả mọi người trong gia đình, kể cả
người lớn đều phải chữa trị cùng một lúc với cháu bé thì mới trị hết được.
CHỨNG MẤT NƯỚC CẤP TÍNH
Nếu để cơ thể một trẻ sơ sinh bị thiếu nước, thì bé có thể chết. Nước
chiếm tới 80% trọng lượng của bé. Một đứa bé nặng 5kg thì trong cơ thể đã có
tới 4 lít nước. Nếu mỗi ngày, cháu bị mất 500g nước, số cân của cháu cũng bị
sụt xuống 1/10. Một người lớn nặng 70kg bị mất nước như bé, có nghĩa là sụt
7kg/ngày.
Nguyên nhân mất nước có thể do tiêu chảy, nôn ói, hoặc bị toát nhiều mồ
hôi mà sau đó lại không được người lớn cho uống nước để bù đắp lại lượng
nước đã bị mất.
Trẻ dưới 1 năm hay 6 tháng tuổi mà cơ thể bị thiếu nước thì rất nguy
hiểm.
Bé có biểu hiện gì khi bi thiếu nước? Khi cơ thể bị thiếu nước, bé không
hoạt động, người như buồn ngủ, rên khẽ, vẻ mặt buồn rầu, xanh tái, mắt thâm,
thóp trũng xuống.
Có một cách thử dễ dàng: Lấy ngón tay véo khẽ vào lớp da bụng của bé.
Nếu cơ thể bé thiếu nước, lớp da nhô lên và cứ giữ vết nhăn như thế, giống như
ta bấu vào một mảnh vải vậy. Điều này chứng tỏ cơ thể cháu bé đã mất từ 10%
nước trở lên. Nếu chỉ mất khoảng 5%, thì vết nhăn không lâu và da dễ bình
thường trở lại. Để xác định lượng nước cơ thể bé đã mất, tốt nhất là cân bé rồi
lấy số cân trước đây trừ đi số cân mới.
Trong thời gian này, cháu bé thường bị đi tướt, phân lỏng và xanh. Bé vẫn
chịu bú bình, nhưng hay nôn.
Để chữa trị, cần làm cho cháu khỏi chứng đi tướt: cho nhịn sữa và cho
uống nước đường pha ít muối, nước củ cà rốt. Tại các hiệu thuốc, có bán sẵn
những gói để pha thành dung dịch đường - muối theo tỷ lệ vừa đủ. Nên cho các
cháu uống ít một, làm nhiều lần. Mỗi ngày, cháu bé phải uống từ 150g tới 200g
cho mỗi kg cân nặng của cháu. Thí dụ: Cháu nặng 5 kg thì uống: 200g x5 =
1.000g nước /ngày. Như vậy một cháu bé căn nặng 5 kg phải uống khoảng 1 lít
nước trong 24 giờ.
Trường hợp bé vẫn bị đi tướt mà không chịu uống nước thì bác sĩ phải
truyền nước qua đường tĩnh mạch cho cháu. Việc này chỉ thực hiện được ở
bệnh viện.
Điều quan trọng khi săn sóc một đứa trẻ là phải nhận biết kịp thời tình
trạng cơ thể của cháu bị thiếu nước để có biện pháp ứng cứu gấp. Chỉ cần để
tình trạng này kéo dài một vài giờ là tính mạng của cháu bé trở nên nguy kịch
ngay.
Bởi vậy, chúng ta cần hết sức chú ý tới trạng thái cơ thể, sắc mặt, cử chỉ
của cháu bé khi cháu bị: Đi tướt, nôn ói hoặc toát mồ hôi.
CHỨNG KÍCH THÍCH RUỘT KẾT
Chứng kích thích ruột kết của trẻ sơ sinh là những phản ứng quá mức của
ruột già, có các biểu hiện như: Đi phân lỏng, nhiều hoặc phân nát có lẫn thức ăn
chưa tiêu hóa hết như: Nước cam vắt, rau xanh v.v... Người ta cho rằng đây là
hiện tượng của ruột già phản ứng quá mức với việc tiêu hóa chưa tốt.
Tuy vậy, hiện tượng này không ảnh hưởng tới sự tăng trọng của bé. Bé
vẫn chịu ăn. Từ 3 - 4 tuổi trở đi, phân bé sẽ tốt hơn và bé sẽ thôi đi lỏng.
Các trẻ lớn hơn, nhiều khi lại bị đi táo hoặc xen kẽ khi đi lỏng, khi đi táo
kèm theo hiện tượng đau bụng.
BỆNH SALMONELLA Ở RUỘT
Salmonella là loại vi trùng thuộc nhóm vi khuẩn thương hàn. Ở trẻ nhỏ,
các vi trùng này có thể gây bệnh tiêu chảy cấp tính và thành dịch ở nơi gửi trẻ
hoặc trong gia đình. Khi bệnh nặng, các cháu có thể đi tiêu ra máu, đi nhiều nên
mất nước, bị sốt cao... Bác sĩ thường cho xét nghiệm phân để xác định bệnh.
Hiện nay, người ta có xu hướng không chỉ chữa trị bằng thuốc kháng sinh
- trừ trường hợp bệnh nặng mà chú ý chủ yếu tới chế độ ăn kiêng để khỏi bị đi
tiêu ra máu và đi nhiều lần, và tìm cách bù đắp nước cho cơ thể.
SỰ LƯU THÔNG NGƯỢC CHIỀU DẠ DÀY-THỰC QUẢN
Do sự hoạt động không tốt của đoạn nối giữa dạ dày và thực quản mà các
chất lỏng trong bộ máy tiêu hóa thường vẫn di chuyển theo chiều miệng - thực
quản - dạ dày - ruột, nay lại di chuyển theo chiều ngược lại ở đoạn dạ dày - thực
quản. Hiện tượng bất thường này có thể gây ra những kết quả tai hại như sau:
Nôn ói, chảy máu thực quản, ho sặc vì thức ăn đi nhầm cả vào những ống dẫn
khí ở phổi gây chết đột ngột ở các trẻ sơ sinh. Các cuộc xét nghiệm bằng X-
quang và các phương tiện khác để đo độ axít của thực quản sẽ cho bác sĩ biết
các cháu đang bị mắc chứng này nặng hay nhẹ. Để tránh hiện tượng nôn ói do
thức ăn đi ngược chiều trở lại thực quản, các bà mẹ nên cho các cháu hay bị
chứng này ăn các thức ăn đặc hơn và bế các cháu ở tư thế đứng, nhất là sau
khi ăn.
VIÊM RUỘT THỪA
Khám bệnh viêm ruột thừa cho trẻ em rất khó vì các cháu ít hoặc không có
khả năng xác định điểm đau. Bởi vậy, khi các cháu “bị đau ở vùng bụng” hoặc
đau bụng, nên cho cháu tới bác sĩ. Vì đau bụng có nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Đau ruột thừa cấp tính phải phẫu thuật gấp. Nhưng nếu chỉ đau vừa thì có
thể là “mạn tính”, việc phẫu thuật có thể chậm lại đợi tới khi nào chỗ viêm đã ổn
định.
Các trẻ nhỏ ít khi viêm ruột thừa cấp tính, nhưng nếu bị thường sẽ có các
triệu chứng sau:
- Đau bụng đột ngột, không phải vì muốn đi cầu (do hôm trước đã không đi
được).
Mặt tái, mắt quầng, nôn ói, sốt khoảng 38°-38,5°C nhưng mạch đập
nhanh. Thử máu thấy bạch cầu tăng cao hơn bình thường.
Cần phải đưa cháu tới bác sĩ ngay để khám và xác định chỗ đau của ruột
thừa, ở phía bụng dưới bên phải.
Trong khi chờ khám không được cho cháu ăn hoặc uống bất cứ thứ gì, và
nhất là không cho uống thuốc.
Không chườm nước đá hoặc nước nóng vì làm như vậy cơn đau dịu đi,
che mất các dấu hiệu khiến bác sĩ khó xác định bệnh. Sau khi bác sĩ đã xác định
bệnh, hoặc có nghi ngờ phải chuyển ngay cháu qua bác sĩ chuyên về phẫu thuật
để phẫu thuật gấp vì nếu chậm, khúc ruột thừa có thể bị vỡ làm viêm nhiễm cả
màng bụng khiến việc chữa trị trở nên phức tạp hơn.
Các cháu qua phẫu thuật ruột thừa thường chỉ nằm viện độ 1 tuần lễ. Sau
2 - 3 tuần lễ, các cháu lại chơi và sinh hoạt bình thường.
Đôi khi bác sĩ gọi là bị viêm ruột thừa mạn tính ở các cháu hay bị đau
bụng nhưng không đau dữ dội, không kèm theo hiện tượng sốt và nôn ói. Khi
nắn bụng các cháu kêu đau ở điểm đau ruột thừa, nhưng rất có thể là do tưởng
tượng mà thôi.
CHỨNG LỒNG RUỘT CẤP TÍNH
Lồng ruột là tai biến thường xảy ra ở trẻ còn bú mẹ, đặc biệt ở những em
khỏe mạnh, bú tham có nhu động ruột mạnh. Khi bị lồng ruột, các mạch máu
nuôi ruột bị tắc nghẹt, không nuôi được đoạn ruột lồng dẫn đến hoại tử.
Trong quá trình phát triển của bào thai, đoạn đầu của ruột già bao gồm
manh tràng và đại tràng được cố định vào thành bụng, còn ruột non thì không,
nên ruột non không thể chui vào ruột già. Tuy nhiên, nêu manh tràng và đại tràng
không được cố định, cộng với sự nhu động quá mạnh của ruột, ruột non chui
vào lòng ruột già gây ra lồng ruột.
Cách nhận biết trẻ bị lồng ruột:
- Độ tuổi dễ bị là khoảng 4-9 tháng tuổi, nhiều nhất là ở 5-6 tháng tuổi.
- Trẻ đang ăn uống bình thường bỗng khóc thét, bỏ bú, da tím tái, báo
hiệu khúc ruột bắt đầu lồng vào nhau. Sau đó trẻ tạm thời yên, thậm chí bú lại.
Nhưng khi cơn đau tái phát, trẻ khóc từng cơn, ưỡn người, không bú được, nôn.
Vài giờ sau, trẻ mệt lả, da xanh nhợt.
- Khoảng 6-12 tiếng sau, trẻ đi ngoài ra máu tươi có lẫn chút nhầy. Nhìn
trẻ giảm sút rõ rệt: Da tái, môi khô, mạch nhanh, người lạnh, mắt trũng. Nếu cứ
trong tình trạng đó 24 giờ không xử trí gì trẻ sẽ bị nôn liên tục, bụng trướng dần
lên, da toàn thân lạnh, nhợt nhạt, mạch nhanh, nhỏ, thở gấp nông, dấu hiệu ruột
bắt đầu hoại tử.
Cách xử trí:
- Khi trẻ khóc thét, bỏ bú và nôn, cần đưa ngay trẻ tới một cơ sở cấp cứu
ngoại khoa.
- Sau khi xác định đúng bệnh của trẻ, cần tháo khối ruột lồng bằng cách
bơm hơi qua hậu môn hoặc thụt thuốc cản quang dưới hướng dẫn của máy
chiếu X-quang. Dưới áp lực của hơi hoặc thuốc, khối ruột lồng sẽ được tháo
dần.
- Nếu trẻ được đưa đến muộn quá 6 tiếng, cần phẫu thuật ngay mới tháo
được khối ruột lồng.
- Trường hợp sau 24 tiếng, ruột đã có dấu hiệu hoại tử, phải cắt đoạn ruột
đó. Tuy nhiên, việc chăm sóc và hồi sức sau mổ rất khó khăn và phức tạp. Trẻ
dễ tử vong do suy kiệt và viêm phổi nặng.
BỆNH PHÌNH ĐẠI TRÀNG BẨM SINH
Có cháu bé chậm lớn, táo bón dai dẳng, từ khi mới sinh ra bụng đã phình
to, khác thường. Bằng phương pháp soi X - quang ruột, bác sĩ sẽ phát hiện thấy
có một đoạn ruột già của cháu bị giãn ra tiếp nối với một đoạn khác gần hậu môn
bị co lại khiến cho các chất thải không lưu thông được ở đoạn ruột này.
Nếu việc xét nghiệm ruột bằng sinh thiết sau đó cũng xác định hiện tượng
này thì cần phải qua một cuộc phẫu thuật.
TẮC RUỘT
Nếu một cháu bé bị tắc ruột, cháu sẽ không đi tiêu và cũng không đánh
rắm được. Ở trẻ sơ sinh, thường là do lồng ruột hoặc chứng thoát vị bẹn bị
nghẹt mà ra.
Trong những ngày đầu sau khi sinh ra, đường ống tiêu hóa của bé có thể
có một vài dị tật, do không phát triển đầy đủ nên có chỗ bị xoắn. Triệu chứng đầu
tiên của cháu bé thường là nôn ói, ói ra nước mật, chứng tỏ chỗ bị tắc ở nơi các
đường dẫn mật vào ruột.
Tất cả các trường hợp bị tắc ruột đều phải đưa đi cấp cứu ở khoa ngoại.
LÒI DOM
Một số cháu bé bị lòi dom do đi táo hoặc tiêu chảy lâu. Khi các cháu rặn,
phần cuối ruột gắn với hậu môn (trực tràng) bị lòi ra ngoài, nhìn như một vòng
tròn màu đỏ. Các cháu ho hay khóc nhiều cũng có thể bị như vậy. Đoạn ruột này
sau đó sẽ tự động co vào hoặc dùng tay khẽ ấn vào cho cháu cũng được.
Nguyên nhân chính của chứng này là do đi táo lâu ngày, nhưng đôi khi
cũng do hiện tượng cháu bé bị chứng không đẩy được “cứt su” - lượng phân
đầu tiên - ra ngoài.
Chứng lòi dom thường trị bằng thuốc, rất ít khi phải phẫu thuật.
HẸP MÔN VỊ
Một số cháu bé mới sinh được khoảng 15 ngày đã bị chứng nôn ói và đi
táo. Các bé trai hay bị chứng này nhiều hơn các bé gái. Nếu bệnh có chiều
hướng ngày càng nặng, làm các cháu mệt vì đói mà không ăn được, thì các bác
sĩ thường nghĩ tới chứng hẹp môn vị.
Môn vị là một cơ vòng nối liền dạ dày với đoạn đầu của ruột non. Nếu cơ
vòng này bị dày lên sẽ ngăn cản sự di chuyển các chất trong bộ máy tiêu hóa từ
dạ dày xuống ruột. Sữa hoặc các thực phẩm khác bị ứ tắc ở đây sẽ dội lại phía
thực quản và gây ra nôn ói.
Các bác sĩ phát hiện bệnh này bằng phương pháp X-quang hoặc siêu âm.
Một phẫu thuật đơn giản sẽ chữa khỏi hẳn chứng bệnh này.
VIÊM GAN DO VI RÚT, DO SIÊU VI B
Trẻ em dễ bị bệnh viêm gan do vi rút. Bệnh tiến triển nhanh và khó thấy.
Mới đầu, cháu bị đau bụng, nôn, không chịu ăn, mệt, đôi khi người mẩn đỏ. Ở
giai đoạn này, việc xét nghiệm máu sẽ cho biết cháu có mắc bệnh không.
Mấy ngày sau, cháu có hiện tượng vàng da, đi tiểu ít, nước tiểu màu sẫm,
phân màu nhạt. Việc xét nghiệm sẽ cho biết loại vi rút nào đã gây bệnh cho
cháu.
Nếu cháu bé bị bệnh viêm gan siêu vi A là loại phổ biến nhất, thì sự phát
triển bệnh rất đơn giản: Thời gian bị bệnh từ vài ngày tới 2 - 3 tuần. Việc chữa trị
chủ yếu là cho cháu nghỉ tại nhà, không cần phải nằm cả ngày trên giường.
Giảm lượng mỡ trong chế độ ăn của cháu.
Bệnh này truyền nhiễm bởi phân và lây qua đường tiêu hóa. Bởi vậy,
muốn phòng bệnh phải giữ vệ sinh sạch sẽ 2 bàn tay, các đồ dùng trong phòng
vệ sinh, phòng tắm.
Một cháu bé vô tình tiếp xúc với một người bệnh, có thể tiêm Gamma
Globulines để phòng bệnh, ngay trong tuần lễ đã tiếp xúc
Bệnh viêm gan siêu vi B:
- Ít gặp hơn và diễn tiến của bệnh lâu hơn. Bệnh này lây qua đường máu.
Hiện nay đã có vắc xin phòng bệnh này.
Trường hợp đặc biệt của trẻ sơ sinh:
- Nếu bà mẹ bị nhiễm bệnh viêm gan siêu vi B nhất là trong 3 tháng cuối
của thời gian sinh nở, bệnh sẽ truyền thẳng tới cháu bé lúc sinh ra và sẽ phát
bệnh sau khi cháu sinh được 2 - 3 tháng.
Cháu bé lại là nguồn lây bệnh cho các bé khác, nên nếu biết bà mẹ đã
mang bệnh trước khi sinh cháu, thì cháu bé cần được chích Gamma Globulines
ngay từ khi mới sinh.
Ở các bệnh viện sản, người ta thường có hệ thống phát hiện bệnh gan
siêu vi B trước khi sinh.
BỆNH XƠ NANG TỤY
Bệnh có tính chất di truyền. Bé bị bệnh này có những triệu chứng như ho
dai dẳng kèm theo đi tiêu chảy và chậm lớn. Ở các trẻ sơ sinh, bệnh làm cho các
bé không thải được lượng phân đầu tiên ra ngoài - gây ra hiện tượng bí đường
tiêu hóa.
Các bác sĩ thường phát hiện bệnh bằng cách phân tích mồ hôi hoặc thử
nghiệm máu của bé. Bệnh trở thành nặng khi đã ảnh hưởng tới sự hô hấp và
phải chữa trị bởi tập thể các bác sĩ chuyên khoa.
BỆNH VIÊM THẬN
Bệnh viêm thận ở trẻ em do loại liên cầu trùng tán huyết Streptocoque gây
ra. Thoạt đầu, cháu bé bị đau họng. 10 tới 15 ngày sau, cháu đi tiểu ít, nước tiểu
màu đỏ. Mặt cháu phù lên, đôi khi cháu bị đau bụng hoặc đau đầu kèm theo hiện
tượng nôn ói.
Xét nghiệm nước tiểu của cháu sẽ thấy chất Albumin và máu, nhưng
không có vi trùng.
Để chữa trị, cháu cần phải nằm nghỉ tại giường và theo chế độ không ăn
muối.
Nếu nước tiểu của cháu có lượng Albumin cao, thân thể phù nặng thì đó
là bệnh hư thận mỡ (Néphrose lipoidique).
Bệnh này có thể chóng khỏi, nhưng khi bị lại thưòng hay trầm trọng cần
chữa trị lâu bằng các loại thuốc có Cortisone.
UNG THƯ THẬN Ở TRẺ EM
Đây là loại ung thư nguyên phát, chiếm 5% các trường hợp ung thư ở trẻ
em (các bé trai mắc nhiều hơn các bé gái), u phát triển rất nhanh, di căn nhiều
và rất dễ tái phát sau mổ. Nếu được phát hiện sớm, việc điều trị kết hợp phẫu
thuật với dùng thuốc và tia X sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong.
Bệnh ung thư thận ở trẻ có các đặc điểm sau:
- Gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 3-4. Khoảng 1-2% trường hợp có tính chất gia
đình (ở thể di truyền, bệnh xuất hiện sớm hơn).
- Thường kết hợp với nhiều dị tật bẩm sinh như: Dị tật tiết niệu (4,5%), tật
không mông mắt (2%), phì đại nửa người (3%). Do đó, những trẻ có các dị tật
trên cần được theo dõi cho tới 6 tuổi mới có thể yên tâm về nguy cơ ung thư
thận.
- U có thể phát triển từ trung tâm hoặc từ một cực thận, lớn rất nhanh,
nhiều trường hợp chiếm phần lớn ổ bụng, có vỏ bọc rắn chắc.
Nên nghĩ đến ung thư thận nếu thấy trẻ có những dấu hiệu sau:
- Có khối u ở bụng kèm theo rối loạn tiêu hóa, toàn thân suy sụp nhanh,
đôi khi kèm theo sốt.
- U bụng to nhưng có dấu hiệu chạm thận (đặt bàn tay vào hố thắt lưng thì
có cảm giác như cả một khối to đè nặng lên bàn tay) và bập bềnh thận (đẩy bàn
tay từ dưới lên thì khối u sẽ đụng vào bàn tay đặt phía trước bụng). Dùng cả 2
bàn tay thăm khám phía trước, phía sau khối u thì thấy u tròn, chắc, bò đều.
- Đái ra toàn máu, viêm đưòng tiết niệu, giãn tĩnh mạch thừng tinh, tăng
huyết áp.
Để xác định bệnh chính xác, trẻ cần được làm các xét nghiệm như chụp
thận không chuẩn bị, chụp thận thuốc (UIV), siêu âm, chụp cắt lớp, sinh thiết.
Chẩn đoán ung thư thận ở trẻ thường không khó, nhưng phải phân biệt với các
bệnh: u nguyên bào thần kinh xuất phát từ tủy thượng thận hoặc các hạch bên
cột sống (bệnh cảnh giống ung thư thận nhưng kết quả chụp thận thuốc bình
thường), thận ứ nước.
Phần lớn các trường hợp ung thư thận một bên có kết quả điều trị khả
quan nếu được chẩn đoán sớm. Phương pháp chữa bệnh được lựa chọn tùy
thuộc vào độ tuổi bệnh nhân. Với trẻ trên 1 tuổi, bác sĩ sẽ cho điều trị bằng hóa
chất hoặc tia X trong 4 tuần rồi mới mổ. Sau mổ, cần tiếp tục thực hiện hóa trị
trong 1 năm. Trẻ dưới 1 tuổi sẽ được điều trị bằng hóa chất kết hợp phẫu thuật.
ĐIỀU TRỊ SUY THẬN TRẺ EM BẰNG THẨM PHÂN PHÚC MẠC
Bệnh viện Nhi Trung ương áp dụng phương pháp thẩm phân phúc mạc
bằng máy để điều trị bệnh suy thận mạn tính ở trẻ em. Theo tiến sĩ Nguyễn
Thanh Liêm, giám đốc bệnh viện, đây là biện pháp an toàn và hiệu quả, áp dụng
trong điều trị bệnh thận ở trẻ tại Việt Nam.
Ở bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối, thận không còn đảm nhiệm được
chức năng lọc chất thải và nước ra khỏi máu. Do đó, người ta phải tiến hành
thẩm phân máu (lọc máu nhân tạo). Ở phương pháp này, máu được chạy qua
máy thẩm phân có màng lọc nhân tạo, loại bỏ nước và chất thải, chỉ giữ lại
Protein và tế bào huyết cầu.
Thẩm phân phúc mạc cũng là biện pháp lọc máu, nhưng sử dụng chính
phúc mạc (một lớp màng trong khoang bụng) làm màng lọc tự nhiên. Các bác sĩ
đặt một ống thông vào khoang bụng dẫn lưu chất thải và nước ra ngoài. Phương
pháp này đơn giản tới mức, người bệnh có thể tự thực hiện sau khi được chỉ
dẫn, tuy nhiên phải vệ sinh cẩn thận để tránh nguy cơ nhiễm trùng.
Theo tiến sĩ Liêm, thẩm phân phúc mạc rất an toàn, đồng thời có chi phí
thấp hơn nhiều so với thẩm phân máu. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp tạm thời,
trước khi bệnh nhân có điều kiện phẫu thuật ghép thận.
Suy thận là một trong số 10 bệnh thường gặp ở trẻ em, và đứng hàng thứ
4 trong các nguyên nhân dẫn đến tử vong. Việt Nam hiện mới có cơ sở chuyên
khoa thận dành riêng cho trẻ em ở Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Nhi
Đồng 1, còn lại đều là các cơ sở điều trị chung cho tất cả các bệnh nhân thận.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TAY CHÂN VÀ XƯƠNGGẶM MÓNG TAY
Thói quen cắn móng tay thường thấy ở lứa tuổi trẻ em đã tới trường.
Không phải chỉ có các cháu có tính nhút nhát, suy tư mới hay cắn móng tay, cả
các em khỏe mạnh, tính nết vui vẻ cởi mở cũng có thói quen như vậy.
Không nên la mắng các cháu và nên tìm cách xóa bỏ hiện tượng này bằng
phương pháp tâm lý như chú ý xem cháu hay cắn móng tay lúc nào? Trước khi
đi ngủ, khi chơi một mình ở nhà, hay ở trường? Hãy hỏi các cháu xem các cháu
có khó ngủ không? Cháu có điều gì không được vừa ý ở trường không? Cháu
sợ hay yêu mến các bạn, cô giáo?
Nếu bạn không quan tâm nhiều về hiện tượng này thì một thời gian sau,
con bạn cũng sẽ tự động bỏ thói quen đó đi. Nhưng nếu bạn tìm được nguyên
nhân tạo ra thói quen này của cháu, bạn có thể giúp đỡ cháu sớm giải quyết
được một số vấn đề về tâm lý khiến tâm hồn cháu được thoải mái và vui vẻ hơn
trong cuộc sống với mọi người.
VẾT ĐÂM DO: KẸP, KIM, GAI HỒNG...
Rửa sạch bằng thuốc sát trùng. Nếu trong ngón tay có mắc lại gai hãy lấy
nhíp gắp ra hoặc lẩy ra bằng một cái kim khâu đã hơ qua lửa để sát trùng. Sau
đó, nặn cho máu chảy ra rồi rửa bằng nước sát trùng một lần nữa.
Theo dõi vết thương trong những ngày sau. Nếu bị sưng tấy đỏ và đau thì
cần khám bác sĩ.
BỊ KẸP NGÓN TAY
Xương ngón tay của bé còn rất yếu ớt, nên khi an ủi cháu bé bị kẹp ngón
tay phải chú ý thêm chỗ bị kẹp có gò lên một cách bất thường không? Thường
thì chỗ đó chỉ bị tím và sưng phồng.
Nếu bị gồ hay có đoạn ngón tay bị lệch, phải nghĩ tới các trường hợp giập
xương hoặc trật khớp ngón, cần phải đưa ngay tới bác sĩ.
ĐỨT TAY, CHÂN
Nếu vết đứt không sâu: Rửa vết thương bằng xà phòng và nước sạch.
Dùng gạc (tránh dùng bông) để rửa sạch đất, cát rồi bôi thuốc sát trùng và băng
lại.
Dù đã buộc băng kỹ, cũng không để cháu bé chơi dưới đất hay trên cát vì
đất cát có thể lọt qua băng vào vết thương.
Thay băng mỗi ngày. Một vết thương khi khỏi sẽ khô, sạch và không còn
đau nữa. Nếu vết thương đỏ, sưng tấy, có mủ cần đưa đi bác sĩ.
Đứt ngón tay:
- Khi buộc băng ở ngón tay, không được buộc chặt quá. Cần phải để máu
lưu thông trong ngón tay và có không khí trên vết thương..
Tránh những vết sẹo kém thẩm mỹ:
- Những vết thương sâu trên bàn tay, cánh tay, ở mặt, ở đùi sau khi khỏi
có thể để lại những vết sẹo không đẹp mắt. Bởi vậy, nên tới các bác sĩ đế khâu
vết thương ngay từ đầu. Không nên để vết thương tự khỏi.
GÃY XƯƠNG, BONG GÂN VÀ TRẬT KHỚP
Khi bị ngã, bị va chạm mạnh hoặc bị đánh, có thể xảy ra 3 trường hợp:
Xương bị gãy hoặc những sợi gân ở các khớp xương bị căng ra bất chợt và bị
tổn thương hoặc các khớp xương bị trật ra khỏi vị trí bình thường của chúng.
Dù cháu bị gãy xương, bong gân hay trật khớp thì cách săn sóc cháu cũng
có những điểm giống nhau như sau:
- Người săn sóc cháu phải bình tĩnh để khỏi làm cháu thêm lo sợ.
- Tránh không nên xê dịch cháu, trừ trường hợp bắt buộc như cháu bị ngã
ở giữa đường.
- Hỏi cháu xem cháu đau ở đâu? Chỉ quan sát thôi, không nên sờ vào chỗ
đau.
- Nếu có điều kiện, cố định chỗ đau và nhờ ngưòi báo cho bác sĩ hoặc cơ
quan y tế, cho cơ quan công an gần nhất.
Trường hợp gãy xương: ở đùi, mắt cá chân
Cháu bé bị ngã khi chạy hoặc bị xe đụng mạnh, cháu cảm thấy đau chân
và không đứng lên được. Quan sát chỗ bé kêu đau, dưới lớp quần áo chúng ta
cũng có thể thấy chỗ đó gồ lên. Để xác định rõ xem có phải bé bị gãy xương hay
không, chúng ta có thể tháo chỉ hoặc cắt quần áo của bé để coi cho rõ. Sở dĩ
chúng ta không cởi quần áo bé như lúc bình thường vì cần phải tránh: Không
được đụng chạm lên chỗ đau.
Nếu bé chịu nằm yên, có thể dùng gối, chăn để chèn hoặc độn dưới chỗ
đau cho cháu.
Nếu cháu không chịu nằm yên, hay cựa quậy hoặc cần phải di chuyển bé,
cần cố định chỗ đau vào 1 hoặc 2 cái nẹp (có thể dùng bất cứ một vật gì dài,
bằng gỗ hoặc chất liệu khác như cái cán chổi, một tấm ván nhỏ v.v...).
Gãy xương đòn gánh, vai, cánh tay, cẳng tay, bàn tay
Nếu khi ngã, cháu bé đỡ bằng tay, khuỷu tay hoặc trong khi chơi đùa,
cháu bị vặn chéo cánh tay, đều có thể đưa tới những trường hợp gãy xương ở
vùng vai, cánh tay hoặc bàn tay. Khi bị đau, cháu bé sẽ tự đỡ lấy cánh tay bị
thương ở một vị trí thích hợp nhất để đỡ đau. Chúng ta nên giúp cháu bằng cách
buộc một khăn đeo quanh cổ để đỡ lấy cánh tay trong trường hợp cháu bị
thương ở cánh tay, cổ tay, hay ngón tay.
Không được thử cho tay bé cử động hoặc nâng chỗ gãy lên.
Nếu phần xương gãy chọc thủng da, hãy cắt bỏ phần quần áo đụng tới
xương, đắp lên chỗ đó một miếng gạc mềm và dùng băng dính nhẹ nhàng dán
lại.
Trường hợp bị thương ở đầu, ở lưng
Khi cháu bị ngã từ trên ghế xuống đất hoặc ngồi ở ghế trước (dù ngồi trên
đùi người lớn) khi xe ô tô ngừng đột ngột hoặc bị tai nạn, nên bị văng đập vào
khung xe hoặc phần kính chắn phía trước. Ba trường hợp có thể xảy ra:
* Cháu bé vẫn tỉnh, có thể trả lời người hỏi chuyện: Không được xoay
người cháu, giữ cho đầu cháu bé thẳng với chiều của thân người không để đầu
cúi xuống hoặc quay sang một bên, cháu có thể bị chấn thương cột sống hoặc
sọ não.
* Cháu bé bị ngất, nhưng vẫn còn thở: Có thể đã bị vỡ sọ não (nhất là có
một ít máu chảy ra mũi hoặc lỗ tai). Đặt cháu nằm nghiêng trên gối đầu hơi thấp
hơn phía chân. Dùng nệm độn cho đầu không động đậy.
* Cháu bé bị ngất, không còn thở nữa: Phải làm hô hấp nhân tạo ngay và
đưa đi cấp cứu.
Nếu cần chuyển dịch cháu, một người giữ đầu cho thẳng, một người kéo
chân nhè nhẹ. Ngoài phần sọ, cháu còn có thể bị thương ở sườn, ở hàm v.v...
HÔNG DỄ TRẬT KHỚP
Ở một số gia đình, thường thấy có tình trạng trật khớp háng bẩm sinh,
nhất là ở các cháu gái. Nguyên nhân có thể là do khi đẻ, thai ra trong tư thế
ngược, mông ra trước.
Khi mới sinh, phần đầu xương đùi của các cháu chưa được hình thành
đầy đủ. Trong năm đầu tiên, phần xương này mới dần dần hoàn chỉnh và khớp
với xương chậu. Chỗ khớp này có thể phang quá hoặc nghiêng quá làm cho
xương đùi nhô ra ngoài tạo thành dáng dị dạng ở một bên hay cả hai bên hông.
Muốn tránh hiện tượng này, người ta phải chữa cho bé từ khi mới sinh
bằng cách độn một vật giữa 2 chân để cháu bé phải nằm dạng chân, hoặc mặc
cho cháu một loại quần đặc biệt gọi là “quần Pawlick”. Thời gian chữa như vậy
tùy thuộc vào cấu tạo đầu xương của từng cháu.
Tình trạng khớp xương hông của bé gái có thể bị dị dạng phải được phát
hiện sớm khi cháu bé chưa quá 4 tháng tuổi bằng phương pháp siêu âm.
Nếu không được chữa ngay từ đầu, trạng thái trật khớp xương hông sẽ
làm các cháu đi đứng khó khăn. Khi các khớp xương đã hoàn chỉnh, muốn chữa
sẽ mất nhiều thời gian và nhiều trường hợp phải phẫu thuật.
VIÊM KHỚP CẤP
Bệnh viêm khớp cấp có thể do vi trùng hoặc vi rút. Nhiều chứng bệnh kèm
theo hiện tượng đau khớp như bệnh cúm chẳng hạn.
Dạng viêm khớp nặng nhất do vi trùng gây ra, làm cho các chỗ khớp có
mủ, có khi tác dụng tới cả xương.
Viêm khớp nhẹ thường ở đầu gối, khuỷu tay. Các chỗ viêm bị tấy đỏ, sờ
vào thấy nóng và đau, mỗi khi cử động cũng thấy đau. Bởi vậy, các cháu bị
bệnh, thường cứng chân, cứng tay. Không phải là các cháu bị liệt mà chỉ vì các
cháu không muốn cử động. Trường hợp viêm sâu, như ở khớp háng chẳng hạn,
rất khó xác định bệnh, cần cho các cháu nằm viện để bác sĩ theo dõi và làm các
xét nghiệm: Soi X-quang, hút mủ ra để xét nghiệm và điều trị một thời gian dài
bằng thuốc kháng sinh.
ĐI KHẬP KHIỄNG
Sau khi bị ngã, hoặc va chạm mạnh cháu bé bị đi khập khiễng. Nếu sau 1
- 2 ngày cháu vẫn không khỏi thì cần đưa cháu đi khám bệnh vì có thể cháu đã
bị thương tổn phần xương hoặc khớp háng, đầu gối hay chân.
Để xác định đúng bệnh, bác sĩ phải chiếu X-quang để kiểm tra các xương
háng và xương chân.
CHÂN VÒNG KIỀNG
Nếu chân các cháu bé, trong vòng 6 tháng đầu, bị cong cũng không có gì
đáng lo ngại vì ở thế nằm trong tử cung, chân cháu phải như thế mới vừa hợp
với “khuôn”. Sau khi ra đời đôi chân cháu sẽ thẳng dần, nhất là trong thời gian
cháu tập đi.
Tuổi tập đi:
- Bệnh còi xương là một trong những nguyên nhân của hiện tượng chân
vòng kiềng. Tuy vậy, còn một số nguyên nhân khác như: Các cháu quá mập
mạp gây quá tải với đôi chân hoặc cho cháu tập đi sớm quá. Có thể phân biệt 2
trường hợp sau:
- Xương chân cong vì bệnh còi xương (thiếu Canxi và Vitamin D) thì điểm
cong nhất nằm ở dưới, về phía cẳng chân.
- Xương tạm cong lúc sơ sinh làm chân cong ở đoạn đầu gối.
Bởi vì xương chỉ “tạm cong” nên không cần cho các cháu đi giầy có đế đặc
biệt. Nên tránh, không để các cháu đi lâu.
Chỉ có trường hợp chân cong một cách bất thường mới cần tới bác sĩ
chuyên khoa chỉnh hình để chữa trị.
DỊ TẬT CHÂN BẨM SINH - CHÂN VẸO
Nếu được phát hiện sớm, trong những ngày đầu sau khi sinh, thì phần lớn
các trường hợp dị tật chân đều có thể chữa trị được.
Dị tật chân là do ảnh hưởng của thế nằm không đúng của thai nhi trong tử
cung mẹ, mà hiện nay người ta chưa biết vì lý do gì.
Dị tật hay thấy nhất là phần trên của bàn chân quặt vào trong. Những dị tật
khác như: Bàn chân vẹo vào trong, vẹo ra ngoài, vẹo gót cũng không đáng lo
lắm nếu các khớp vẫn mềm mại cử động được.
Chỉ khó chữa trị nếu những chỗ dị tật bị cứng, có hiện tượng co cơ hoặc
trật khớp.
Tuy vậy, với cách chữa trị hiện đại, người ta có thể chữa được đa số
trường hợp, chỉ phải mất công chữa trị và theo dõi hàng ngày, trong thời gian dài
có khi tới 1 - 2 năm liền.
Chân quặt vào trong, hay quẹo ra ngoài
Khi đứa bé mới bắt đầu tập đi, đôi bàn chân có xu hướng quay vào phía
trong. Như vậy là bình thường, ít cháu có bàn chân hướng ra phía ngoài ngay.
Người lớn chỉ cần chú ý nếu nguyên nhân của hiện tượng trên là do các
khớp ở đầu gối hay ở khớp xương hông gây nên. Nếu vậy, phải nói với bác sĩ.
Không bao giờ được vội vàng tự ý cho các cháu đi những đôi giầy đặc biệt
để điều chỉnh dáng đi hoặc chỉnh hình xương mà không có ý kiến của bác sĩ
chuyên khoa.
Bàn chân bẹt
Nhiều bố mẹ lo con mình có bàn chân bẹt: Khi các cháu đứng, nhất là các
cháu bụ bẫm, toàn bộ gan bàn chân đều tiếp xúc với đất không thấy phần hõm ở
giữa gan bàn chân, tuy rằng lúc nằm, vẫn nhìn thấy bàn chân của cháu có chỗ
hõm bình thường.
Thật ra, tới lúc các cháu hơi lớn, phần lõm này mới rõ. Bởi vậy không nên
lo quá sớm, và không được cho các cháu dùng những loại giầy gì đặc biệt, nếu
không có ý kiến của bác sĩ.
Hãy cho các cháu tập đi chân đất để các bắp thịt bàn chân được làm việc.
Đôi bàn chân sẽ quen với động tác bám vào đất và vào những địa hình mấp mô
khác nhau.
Hãy bày ra các trò chơi luyện tập như lấy một vật, chẳng hạn cái bút chì, ở
dưới đất bằng ngón chân cái và ngón thứ 2. Tập cho các cháu đi kiễng chân. Khi
các cháu đã lớn, tập cho các cháu nhảy dây, múa nhịp điệu. Đạp xe đạp 3 bánh
cũng là phương pháp tập luyện để các khớp xương chân và đoạn xương dài của
cẳng chân hoạt động.
Đầu gối đụng nhau
Khi đứng, nhìn thấy rõ chân cháu bé cong, hai đầu gối chạm vào nhau.
Hiện tượng này thường kèm theo đôi bàn chân bẹt, đều tại các cơ bắp và gân
chứ không phải tại xương. Bởi vậy đây không phải là một tật cho tới lớn, mà chỉ
từ 2 tới 5 tuổi, là cháu bé sẽ có đôi chân thẳng bình thường. Nếu sức khỏe cháu
bé tốt thì ngươi lớn không có gì đáng lo ngại: sở dĩ tạm thời cháu có đôi chân
như vậy là vì trọng lượng lúc này của phần thân cháu hơi nặng đối với đôi chân
mà thôi.
Người lớn chỉ cần chú ý không để cháu bé đi những quãng đường xa. Hãy
mua cho cháu một chiếc xe đạp 3 bánh, cho cháu tập đạp để đôi chân khỏe và
cứng cáp hơn, có thể mang được dễ dàng tấm thân của cháu.
Để theo dõi được sự chuyển biến của đôi chân theo thời gian, bạn hãy để
cháu đứng thẳng và đo khoảng cách giữa hai mắt cá chân, 3 tháng một lần. Bạn
sẽ thấy số đo càng ngày càng ngắn lại.
Tuy vậy, nếu khi 2 đầu gối đụng vào nhau mà khoảng cách giữa 2 chân từ
8 tới 10 cm thì cũng nên trao đổi ý kiến với bác sĩ chuyên về khoa chỉnh hình trẻ
em.
BỆNH CÒI XƯƠNG
Nguyên nhân của bệnh còi xương là do thiếu Vitamin D. Ánh sáng mặt trời
có vai trò quan trọng trong việc tạo ra Vitamin D cho cơ thể, loại Vitamin rất cần
thiết cho việc hấp thu chất Canxi. Trẻ thiếu Canxi là thiếu nguyên liệu chính cho
việc tạo ra các tế bào xương: ở Châu Âu vào mùa thu, các trẻ sơ sinh hay bị còi
xương vì 6 tháng đầu không có ánh nắng mặt trời. Chúng ta nên nhớ rằng, kính
ngăn cản không cho các tia cực tím của mặt trời đi qua. Bởi vậy, nếu cho trẻ
nằm sau cửa kính để tắm nắng thì cũng bằng không.
Trẻ em bị bệnh còi xương, tùy theo lứa tuổi mà có các triệu chứng như
sau: Xương sọ mềm, xương cổ tay, cổ chân to, bẹt; thóp lâu không kín; chậm
biết ngồi, biết đi; chậm mọc răng; hay bị chân vòng kiềng, vẹo cột sống, xương
lồng ngực và xương hông. Thành phần máu của cháu bé có lượng Canxi dưới
mức bình thường có thể dẫn tới chứng co giật.
Để đề phòng chứng còi xương, bác sĩ thường cho các cháu uống thuốc có
từ 100 -1500 đơn vị B Vitamin D mỗi ngày liền trong hai năm đầu. Các cháu bú
sữa mẹ cũng cần phải uống thêm Vitamin D.
Các cháu có màu da sẫm dễ bị còi xương hơn các cháu khác vì các chất
màu ở da có tác dụng cản các tia tử ngoại của mặt trời. Bởi vậy, các cháu này
càng cần phải được chú ý săn sóc nhiều hơn
VẸO XƯƠNG SỐNG
Xương sống có thể bị vẹo với những kiểu dáng khác nhau làm cho lưng
cong ở phần trên, ở phần dưới hoặc vẹo theo chiều ngang. Những dáng bất
thường như vậy có thể phối hợp với nhau như vừa bị cong vừa bị vẹo.
Với các trẻ em sơ sinh:
- Lưng trẻ sơ sinh, trong mấy tháng đầu, thường cong. Trẻ càng lớn, lưng
càng thẳng hơn cho tới khi đến tuổi biết ngồi.
Bởi vậy, ở thời gian xương sống còn yếu. Khi để bé ở tư thế ngồi phải có
gối hoặc vật gì dùng để tựa lưng vì ở độ tuổi này cột xương sống của bé rất dễ
bị xiêu vẹo.
Với các trẻ lớn hơn: Trẻ em từ độ tuổi biết đi cho tới năm lên 2, lên 3 hay
ưỡn cột sống lưng ra phía trước. Dáng đi này sẽ mất dần khi các cháu lớn lên.
Ở độ tuổi này, nếu thấy các cháu bị lệch vai: Khi đứng thẳng vai này thấp
hơn vai kia thì nguyên nhân là do xương cột sống không thẳng, cong về bên
phải hay bên trái hoặc có thể đã bị gù ở một bên nào đó.
Nếu khi cho các cháu hơi cúi người về đằng trước mà các khuyết tật trên
không còn nữa thì chứng vẹo xương trên chỉ là do phải bổ sung sự cao thấp
không bằng nhau tạm thời của hai chi dưới: Các trường hợp này phần lớn có thể
chữa trị bằng phương pháp tập các động tác thể dục chọn lọc, hoặc chơi thể
thao.
Nhiều chứng vẹo cột sống có nguyên nhân từ các bệnh của hệ thần kinh
hoặc của các cơ bắp. Nhưng nhiều khi cả những trẻ khỏe mạnh cũng bị - nhất là
các cháu bé gái - mà không tìm thấy nguyên nhân rõ rệt.
Nói chung, hiện tượng vẹo cột sống của các cháu, cần được chú ý theo
dõi cẩn thận để xem nó tiến triển ra sao. Chứng vẹo cột sống đã ở thế ổn định
hay có xu thế tiến triển nặng hơn. Bởi vậy, cần phải cho các cháu tới các bệnh
viện chuyên khoa xương mỗi năm 2 lần hay 1 lần, chụp X-quang xương, và so
sánh các hình chụp để nhận định xương các cháu phát triển thế nào.
Sự phát triển không bình thường của cột sống có mức độ nhẹ ở trẻ em, có
thể không nhận thấy trong những năm đầu. Hiện tượng này cần phải được đặc
biệt chú ý khi các cháu tới độ tuổi từ 11 tới 15, là giai đoạn dậy thì cơ thể phát
triển nhiều, nhất là đối với các cháu gái.
TẬT NỨT ĐỐT SỐNG
Tật nứt đốt sống là một dị tật bẩm sinh của đốt sống. Khi đứa trẻ đã tới
ngày ra đời mà đốt sống vẫn chưa hình thành được hoàn hảo, còn bị hở phía
sau khiến cho các cấu trúc thần kinh của tủy sống có thể lọt ra ngoài được. Hiện
tượng này thường xảy ra ở đoạn cuối sống lưng, vùng thắt lưng và xương cùng,
ít khi ở đoạn lưng trên hoặc vùng cổ.
Nếu chỉ có hiện tượng hở xương thôi thì có khi chẳng hệ trọng gì, có khi
chỉ có phần màng bọc tủy sống lọt được ra ngoài, làm thành một khối nằm dưới
da gọi là “thoát vị màng não”. Nhưng nghiêm trọng nhất là trường hợp cả tủy
sống và các rễ dây thần kinh cũng bị thoát vị ra ngoài rồi bị viêm, gây liệt chân,
không tự chủ được việc đi tiêu, tiểu, nhiều khi kèm thêm cả chứng tràn dịch não.
Đây là một dị tật rất nặng, có các hậu quả nghiêm trọng đến mức ngay
trong 24 giờ đầu tiên sau khi đứa trẻ ra đời, bác sĩ phải đặt vấn đề với bố mẹ
đứa trẻ và các chuyên gia nhi khoa và phẫu thuật thần kinh xem có nên điều trị
hay không nên điều trị gì cả.
Hiện nay, người ta chẩn đoán trước được dị tật này ở thai nhi bằng
phương pháp siêu âm, ngay từ tuần lễ thứ 16 tới 20 của thời gian sản phụ mang
thai.
VI. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN BỘ PHẬN SINH DỤC VÀ BÀI TIẾT
BỆNH LÍ Ở CƠ QUAN SINH DỤC TRẺ EM
Hỏi:
Trẻ em thường có những bệnh lí gì ở cơ quan sinh dục? Cần xử trí ra
sao?
Trả lời:
Trẻ em trai thường gặp những dấu hiệu bất thường sau:
- Thiếu một tinh hoàn: Thực ra tinh hoàn còn thiếu này vẫn nằm trong ống
bẹn hoặc ổ bụng, cần đưa trẻ đi khám để xác định vị trí của tinh hoàn ẩn và phẫu
thuật (hạ nó xuống hoặc cắt bỏ). Nếu không, trẻ sẽ có thể bị ung thư.
- Lỗ niệu đạo thấp: Lỗ đái không nằm ở đầu “chim” mà ở thân “chim”. Trẻ
cần được khám để bác sĩ quyết định có can thiệp hay không.
- Đã cắt bao quy đầu nhưng vẫn còn phần da lỏng lẻo bao quanh: cần
hướng dẫn trẻ biết giữ gìn vệ sinh luôn giữ cho phần dưới lớp da sạch sẽ, tránh
không để ứ đọng cặn bã, nước tiểu để tránh nhiễm khuẩn.
- Bao quy đầu không thể lộn được: cần can thiệp bằng cách nới rộng bao
quy đầu. Đây là một thủ thuệt đơn giản, có thể thực hiện khi trẻ được 9-10 tuổi
hoặc sớm hơn.
Dấu hiệu bệnh lý đường sinh dục thường gặp ở trẻ gái là ra máu hoặc có
chất xuất tiết hơi sệt ở âm đạo. Đó là triệu chứng nhiễm khuẩn âm đạo hoặc
bàng quang; cũng có thể là có khối u hay bị rách màng trinh (hiếm gặp). Trẻ cần
được khám để có hướng xử lý thích hợp.
Khi trẻ mới ra đời, cha mẹ cần quan sát xem trẻ có phân su không. Nếu
không thì cần kiểm tra xem trẻ có hậu môn hoặc lỗ hậu môn không. Có trường
hợp nhìn ngoài thì có hậu môn nhưng thật ra nó không thông với trực tràng. Hãy
báo với bác sĩ những điều nghi vấn để trẻ được khám và xử lý kịp thời.
VỆ SINH BỘ PHẬN SINH DỤC CHO TRẺ SƠ SINH
Cơ quan sinh dục của trẻ sơ sinh rất dễ bị viêm nhiễm vì sức đề kháng
của trẻ kém. Nhưng vệ sinh cơ quan sinh dục cho bé là một việc không mấy dễ
dàng vì nhiều bà mẹ trẻ sợ làm con đau hoặc không biết về sự cần thiết của việc
làm này.
Đối với bé trai:
Trong tuần đầu tiên, bé trai có thể bị phù bọng đái. Cơ quan sinh dục có
thể trông quá to và như bị sưng. Điều này liên quan đến việc có quá nhiều hoóc-
môn của ngưòi mẹ đi vào cơ thể của trẻ thông qua nhau thai hay sữa mẹ. Thông
thường hiện tượng phù sẽ hết sau vài ngày. Nhưng nếu như đến cuối tuần thứ 2
mà hiện tượng sưng vẫn còn thì cần cho con đi khám bác sĩ.
Việc chăm sóc cho cơ quan sinh dục bé trai phải thực hiện thường xuyên
trong mỗi lần thay tã lót bằng cách rửa nước ấm. Khi rửa phải kéo da quy đầu ra
để lộ dương vật. Ở đó có sự tích tụ chất giống như mỡ. Nếu thấy da quy đầu bị
đỏ thì mỗi ngày cần vài lần dùng bông thấm dung dịch thuốc tím loãng để lau.
Đôi khi bao da quy đầu rất hẹp nên không thể làm lộ hết đầu dương vật.
Trong trường hợp này cần đến bác sĩ thực hiện phẫu thuật nhỏ với vài vết cắt
nhỏ ở lớp da xếp, càng sớm càng tốt.
Nếu da đứa bé nhạy cảm thì đôi khi chỉ cần rửa “khô” với khăn giấy ẩm.
Chỉ nên rửa cơ quan sinh dục bằng xà phòng 4-5 ngày một lần. Trước kia người
ta khuyên nên dùng xà phòng trong mỗi lần rửa nhưng thực tế không nhất thiết
phải như vậy. Ngược lại, ngay cả xà phòng chuyên dùng cho trẻ em vẫn có thể
làm khô và gây kích thích vì da lúc này còn rất mỏng.
Đối với bé gái:
Đôi khi đến cuối tuần đầu tiên ở các bé gái có hiện tượng tiết ra chất nhầy
hoặc như có lẫn máu. Thông thường hiện tượng này sẽ hết sau 2-3 ngày,
nguyên nhân giống như ở bé trai. Trong thời gian này, bé gái cần được chăm
sóc cẩn thận hơn. Để đảm bảo vệ sinh tối đa, nếu có thể, nên sử dụng tã lót giấy
dùng một lần và mỗi lần thay cách nhau 1,5 - 2 giờ. Nếu hiện tượng trên vẫn tiếp
tục hơn 3 ngày, cần đi khám bác sĩ.
Cơ quan sinh dục của bé gái rất nhạy cảm và có sức đề kháng thấp trước
các bệnh viêm nhiễm. Căn bệnh “phụ nữ” phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh là viêm cơ
quan sinh dục ngoài. Do đó, cần thường xuyên giữ vệ sinh và giữ ấm.
Mỗi lần thay tã lót cho bé gái cần rửa cho bé bằng nước ấm. Việc rửa có
thể tiến hành dưới vòi nước hay dùng bông thấm nước. Động tác rửa của bạn
phải từ mu đến phía sau hậu môn để phân không rơi vào cơ quan sinh dục.
Cũng giống như đối với bé trai, chỉ nên dùng xà phòng loại nhẹ dành cho trẻ em
1 lần trong 4-5 ngày để không làm khô da.
Không nên lạm dụng mỹ phẩm chuyên dùng cho trẻ em, chỉ nên sử dụng
các loại kem, dầu gội đầu và phấn rôm khi cần thiết. Dùng thường xuyên những
chất này có thể làm hỏng lớp da bảo vệ tự nhiên ở trẻ sơ sinh.
Xuất huyết giảm tiểu cầu là bệnh lý thường gặp ở trẻ. Nó chiếm tỷ lệ từ
33% đến 39% các bệnh huyết học điều trị nội trú mỗi năm tại hai bệnh viện nhi ở
TP HCM. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng ở trẻ nhũ nhi thường gặp nhiều hơn
vào thời điểm giao mùa giữa mưa và khô và ở tháng 1-2.
Theo báo cáo của nhóm bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng 2 trong hội nghị khoa
học diễn ra tại TP HCM, tình trạng này có thể do thay đổi thời tiết nên trẻ dễ bị
nhiễm trùng hô hấp hơn các tháng còn lại.
Cũng theo nghiên cứu, bệnh đa số xảy ra ở trẻ từ 2 đến 10 tuổi. Gần đây,
thực tế lâm sàng cho thấy xuất huyết giảm tiểu cầu (tiểu cầu là yếu tố quan trọng
có vai trò làm đông máu) ở trẻ dưới một tuổi có chiều hướng gia tăng, với mức
độ xuất huyết thường nặng, khởi phát cấp tính rầm rộ.
Bệnh có liên quan đến vấn đề nhiễm trùng, chủng ngừa hoặc bệnh lý bào
thai. Trên 81% trẻ bị xuất huyết giảm tiểu cầu sau tiêm phòng hay nhiễm siêu vi.
Loại chủng ngừa ghi nhận nhiều nhất là viêm gan siêu vi B, kế đến là bại liệt,
bạch hầu... Thời gian từ lúc chủng ngừa đến khi phát bệnh khoảng 19 ngày.
Gần một nửa số trẻ nhũ nhi xuất huyết giảm tiểu cầu khởi phát sau khi
nhiễm siêu vi khoảng 6 ngày. Chiếm tỷ lệ cao trong nhóm này là do viêm hô hấp
trên.
BỘ PHẬN SINH DỤC BỊ SƯNG TẤY
Bạn có bao giờ thấy con mình hay đưa tay vào bộ phận sinh dục của nó
hay không? Nếu có, chắc là bé thấy khó chịu gì đó, chúng ta cần chú ý chữa trị
cho bé.
Ở bé trai, đầu dương vật của cháu đỏ, bị sưng và đôi khi có mủ. Những
cháu nào bị hẹp da quy đầu (PHIMOSIS) thường hay có các hiện tượng như
trên (xem phần Hẹp bao quy đầu (PHIMOSIS)).
Với các cháu gái, đôi khi các môi lớn bị ngứa và phồng rộp có thể có mủ
chảy ra (xem phần Viêm âm hộ, âm đạo (Vulvite)).
Cả 2 trường hợp của bé trai và bé gái đều cần giữ sao cho bộ phận sinh
dục không bị hấp hơi, ẩm ướt. Muốn vậy, không nên cho các cháu mặc quần áo
chật, hoặc các loại quần áo khó thấm bằng vải tổng hợp hay cao su.
Cũng cần lưu ý, sau các buổi tắm biển mùa hè, đừng để cát lọt vào bộ
phận sinh dục và lưu lại ở đó.
Tắm và rửa bộ phận sinh dục cho các cháu bằng loại xà phòng giàu tính
xút, nhiều khi cũng khỏi. Nếu không có kết quả, cần nói cho bác sĩ biết.
TẬT LỖ TIỂU THẤP
Khi bé trai có lỗ tiểu không ở giữa đầu dương vật mà lại ở phía dưới
dương vật thì cần phải phẫu thuật để tạo ra đường ống tiểu thẳng bình thường.
HẸP BAO QUY ĐẦU
Bình thường, lớp da bọc chung quanh quy đầu của con trai có thể kéo tuột
ra đằng sau, để lộ phần đầu dương vật ra ngoài. Sẽ không thực hiện được việc
làm này nếu phần da bọc bị dính vào quy đầu hoặc quá chật, chỗ bao quanh quy
đầu nhỏ hơn chỗ chu vi lớn nhất của quy đầu khiến lớp da không tuột ra sau
được.
Trước đây, người ta cho rằng những trường hợp như thế cần phải phẫu
thuật lớp da bao quy đầu, ngay khi cháu bé còn nhỏ tuổi, để đảm bảo vấn đề vệ
sinh, rửa sạch quy đầu.
Nhưng, hiện nay người ta thấy không cần thiết phải lo sớm như thế. Nhiều
cháu bé có da bọc chật như vậy là điều tự nhiên. Lớp da này sẽ rộng ra khi các
cháu lớn lên. Nếu cần, sẽ phẫu thuật cho các cháu ở độ 3 - 4 tuổi. Chỉ cần thực
hiện sớm hơn nếu, vì lớp da quá hẹp mà khi cháu bé đi tiểu, nước tiểu làm
phồng quy đầu, khiến nước tiểu khó thoát ra.
Phẫu thuật cắt mở rộng da quy đầu sớm quá có thể dẫn đến những sự
trục trặc về sau này như: Lớp da tụt xuống vĩnh viễn không trở lại được vị trí cũ
để bao bọc và bảo vệ quy đầu nữa. Nếu lớp da này tạo thành một cái vòng thít
chặt lấy đoạn gốc quy đầu cần thiết phải phẫu thuật cấp cứu để giải tỏa sự tuần
hoàn ở quy đầu.
Khi da bọc quy đầu bị sưng đỏ, tiểu thấy đau rát, có mủ, người ta thường
chữa trị bằng thuốc bôi sát trùng sau khi rửa sạch.
CẮT DA QUY ĐẦU
Tiểu phẫu thuật cắt da quy đầu của đứa trẻ mấy ngày sau khi sinh chỉ là
tục lệ của người Do Thái Israel, và một số dân tộc theo đạo Hồi, không phổ biến
ở các nước khác.
TINH HOÀN
Về đôi tinh hoàn, gọi nôm na là hòn dái, có thể có những trục trặc sau đây
ở bé trai:
Tinh hoàn không xuống (tinh hoàn lạc vị)
Đôi khi, trong túi đựng tinh hoàn (bìu) của cháu nhỏ, chỉ có 1 tinh hoàn.
Như vậy, không phải là cháu bị thiếu, mà vì một tinh hoàn còn nằm ở phần bụng,
chưa tụt xuống túi. Hãy đặt cháu nằm dài trên giường, hoặc trong bồn tắm nước
ấm rồi lấy tay ấn nhẹ vào phía trên bộ phận sinh dục, ngang tầm háng để làm
cho một tinh hoàn nằm trong đó, tụt xuống dưới. Trước khi đến tuổi dậy thì, có
thể cái “hột” này sẽ tụt xuống nằm đúng vị trí của nó ở trong túi.
Sau 6 tuổi, ít có khả năng tinh hoàn có thể tụt xuống được nữa, vì thế cần
phải tiến hành một cuộc phẫu thuật nhỏ.
Bìu to:
- Các cháu trai mới sinh ra có bìu dái to vì có chất lỏng bên trong cùng với
các tinh hoàn. Sau một vài tuần, chất lỏng này sẽ tiêu đi và bìu lại có kích thước
bình thường.
Xoắn tinh hoàn - ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có tinh hoàn bị xoắn sẽ làm cho
bìu sưng to lên, màu đỏ tía. Tuy không đau mấy và không sốt, nhưng vẫn cần
phải mổ gấp ngay, để cứu cho tinh hoàn khỏi bị hư hoại.
VIÊM ÂM HỘ, ÂM ĐẠO
Các cháu gái có thể bị viêm ở bộ phận sinh dục, có mủ từ âm đạo chảy ra.
Bác sĩ thường yêu cầu lấy một ít mủ để xét nghiệm và cho cháu uống thuốc
kháng sinh. Trong trường hợp bị nặng, cần xem cháu có bị vật gì lạ chọc vào âm
đạo hay không.
ÁI NAM, ÁI NỮ
Là trạng thái của đứa trẻ ngay từ khi mới ra đời đã có bộ phận sinh dục dị
dạng, không phân biệt được nam hay nữ. Sự dị dạng này bắt đầu từ khi bộ phận
sinh dục được hình thành trong tử cung.
Trường hợp thường gặp nhất là bộ phận sinh dục nữ bị nam hóa có âm
vật phát triển lồi ra ngoài như dương vật. Hai môi lớn chảy xệ xuống như cái bìu
nhưng bên trong không có tinh hoàn.
Người ta cho rằng nguyên nhân của hiện tượng này là do một chứng bệnh
của tuyến thượng thận đã sản xuất ra hoóc-môn nam một cách bất bình thường,
quá mức. Cũng có thể do người mẹ đã dùng thuốc chữa trị bằng hoóc-môn trong
giai đoạn đầu của thời gian mang thai.
Hiện tượng này thường gây khó khăn cho các bậc cha mẹ khi đi khai sinh
cho con, không biết khai là nam hay nữ. Tốt nhất là khai: Giống chưa xác định.
Người ta thường phải đợi tới khi cháu bé lớn lên, theo dõi xem sự phát
triển của cơ thể và bộ phận sinh dục của cháu thiên về phái nào nhiều hơn. Sau
đó, có thể can thiệp thêm bằng phương pháp phẫu thuật để xác định giới tính
cho cháu.
SỰ LƯU THÔNG NGƯỢC BÀNG QUANG - NIỆU ĐẠO
Sự lưu thông của nước tiểu từ bàng quang về thận cũng là một sự lưu
thông bất thường, ngược chiều tự nhiên. Hiện tượng này thận bị tổn thương.
Các cuộc xét nghiệm về X-quang có thể cho thấy bệnh nặng hay nhẹ.
Để chữa trị, bác sĩ thường cho uống những đợt thuốc kháng sinh trong
thời kỳ đầu, trong thời gian một vài tháng để chống viêm niệu đạo. Nếu không
khỏi, có thể cần phải phẫu thuật.
VIÊM ĐƯỜNG TIẾT NIỆU
Nhiều trẻ sơ sinh bị viêm đường tiểu tiện. Không thể đòi hỏi các cháu cho
biết những biểu hiện của bệnh như người lớn như đi tiểu tiện thấy rát và đi luôn
v.v... Bởi vậy, khi thấy cháu có những cơn sốt cao mà không phải do viêm họng
chẳng hạn, thì chú ý ngay. Nhiều khi bệnh của cháu chỉ biểu hiện bằng các dấu
hiệu như không chịu ăn, mặt tái nhợt, đau vùng bụng, không hoặc kém tăng cân.
Việc xét nghiệm nước tiểu sẽ cho bác sĩ biết cháu có bị bệnh hay không.
Nếu cháu bị viêm đường tiểu tiện thì phải dùng thuốc kháng sinh ngay. Bệnh này
phải chữa trị lâu, phải làm xét nghiệm nước tiểu nhiều lần để kiểm tra và là bệnh
khó chữa.
Đôi khi, nguyên nhân bệnh là do bộ máy tiểu tiện của cháu có dị tật bẩm
sinh. Bởi vậy, bác sĩ cần phải tiến hành dò bệnh bằng cách chụp X-quang hay
dùng phương pháp siêu âm nữa. Nếu quả thật có hiện tượng dị tật các ống dẫn
tiểu thì lại phải đưa cháu tới bác sĩ chuyên khoa về tiết niệu.
Hiện tượng đường tiểu không thông khiến có sự dồn tắc và nước tiểu
chảy ngược từ bàng quang lên thận có thể là nguyên nhân của các cơn đau đi
đau lại.
AXÊTÔN
Axêtôn là một chất được tạo thành ở gan từ chất mỡ. Khi cơ thể có một
lượng Axêtôn bất thường thì hơi thở sẽ phảng phất mùi rượu táo. Người ta có
thể phát hiện Axêtôn trong nước tiểu bằng giấy thử Labstix.
Hiện tượng dư Axêtôn còn kèm theo các triệu chứng như: ói mửa nhiều
lần, mệt, sốt, tái mặt.
Khi chúng ta nhịn đói, cơ thể sẽ tiêu thụ lượng mỡ dự trữ trong người
cũng làm lượng Axêtôn được sản sinh vượt mức bình thường. Đối với trẻ em,
chỉ cần nhịn đói qua một đêm là cơ thể cũng có hiện tượng này, nhất là ở các
cháu đang ốm, sốt, không chịu ăn và bị nôn ói.
Tuy vậy, cũng nên chú ý rằng hiện tượng nôn ói liên tiếp nhiều lần cũng có
thể do bị đau ruột thừa, đau màng óc, hoặc có bệnh tiểu đường (bệnh này dễ
được xác định bằng cách thử nước tiểu hoặc đo độ đường trong máu). Triệu
chứng nôn ói có liên quan tới Axêtôn, có thể tiến triển mạnh làm đứa trẻ có vẻ
hốt hoảng, ngất vì bị mất nước nhiều.
ALBUMIN
Khi phát hiện trong nước tiểu có chất Albumin thì đó là một dấu hiệu bất
thường có thể do một bệnh về thận gây ra.
Tuy vậy, nên chú ý rằng việc thử Albumin bằng giấy thử sau khi bị viêm
họng hoặc viêm phổi có thể có kết quả dương tính mặc dù lượng Albumin trong
nước tiểu chưa vượt mức bình thường. Để xác định rõ ràng, các bác sĩ phải tiến
hành đo lượng Albumin có trong nước tiểu trong vòng 24 giờ. Nếu lượng này
cao hơn 0,1g thì mới đáng chú ý và còn phải thử nghiệm thêm các chức năng
của bộ máy bài tiết nữa.
Kết quả thử Albumin dương tính có thể là dấu hiệu của các bệnh về thận
như viêm thận cấp tính hoặc mạn tính, hoặc rối loạn chức năng thận.
BỆNH TIỂU RA CHẤT PHENYLECTONE
Bệnh này hiếm xảy ra, nhưng là loại bệnh trạng dẫn tới sự chậm phát triển
về trí khôn. Nếu phát hiện được bệnh ngay từ những ngày đầu tiên của trẻ em
sau khi sinh thì có thể tránh bệnh được, nhưng cháu bé phải giữ một chế độ ăn
uống đặc biệt hàng nhiều năm tiếp theo. Bác sĩ xác định bệnh bằng những xét
nghiệm nước tiểu và máu, nhất là máu (xét nghiệm — Guthne). Ở Pháp, bệnh
viện sản nào cũng thực hiện những xét nghiệm này cho các cháu sơ sinh. Bởi
vậy các bà mẹ nên nhìn qua quyển sổ sức khỏe của bé, xem bé đã được xét
nghiệm chưa.
Nếu kết quả xét nghiệm dương tính, nên yêu cầu xét nghiệm lại lần nữa
cho chắc chắn, trước khi tiến hành chữa trị.
TIỂU DẦM
Trẻ em thường đái dầm vì chưa chủ động điều khiển được hoạt động của
bàng quang. Đa số các cháu cứ như thế cho tới lên 4, lên 5 tuổi. Một số không
kiểm soát được cả cơ bắp ở hậu môn nên còn tật ị đùn nữa.
Có các cháu đái dầm cả ban ngày lẫn ban đêm. Số đông, thường chỉ đái
dầm vào ban đêm.
Nghiên cứu về vấn đề này, các bác sĩ thường tìm xem cháu bé có bị tổn
thương gì ở bộ máy bài tiết hay không. Kết quả cho thấy phần lớn các cháu nhỏ
chưa hình thành thói quen điều khiển một cách chủ động sự bài tiết ra ngoài.
Có cháu bé đã thôi đái dầm một thời gian rồi lại bị lại, do những yếu tố tâm
lý. Thấy bạn hoặc em bị chế giễu, cháu bé lo sợ cho mình, luôn nghĩ tới vấn đề
đó và ban đêm lại đái dầm như để giải phóng khỏi sự ức chế ban ngày.
Trong khi săn sóc trẻ em, người lớn nên thông cảm với nỗi khổ tâm này
của các cháu, vì chúng không muốn như thế. Không nên mắng hoặc chế giễu
chúng mà chỉ nên an ủi, động viên để hỗ trợ cho chúng chóng có được một trạng
thái tâm lý và tinh thần mạnh khỏe và chủ động.
TIỂU ĐƯỜNG
Bệnh tiểu đường là bệnh của cơ thể không hấp thu được chất đường
Glucose từ thực phẩm. Nguyên nhân bệnh là do thiếu Insulin - một loại hoóc-
môn do tụy tạng sinh ra. Người bệnh có các triệu chứng: cảm thấy đói, khát liên
tục, người sút cân mau chóng, đi tiểu luôn và tiểu nhiều. Nếu không được chữa
trị, nước tiểu sẽ có chất Axêtôn và có thể bị hôn mê.
Bệnh tiểu đường dễ phát hiện bằng xét nghiệm để thấy: Nước tiểu có
Glucose và tỷ lệ Glucose trong máu cao.
Trẻ em bị bệnh tiểu đường cần phải chữa trị thật chu đáo: Tùy mức độ và
đặc điểm của bệnh, bác sĩ sẽ có hướng điều trị thích hợp. Vấn đề cần thiết là có
sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và bác sĩ để chữa trị cho các cháu. Tiểu
đường là một bệnh di truyền. Nếu gia đình, họ hàng có người bị bệnh, cần phải
đặc biệt chú ý và cho bác sĩ biết để xét nghiệm đề phòng.
VII. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN DACÁC BỆNH DA THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EM
Người ta phân biệt bệnh da bẩm sinh (phát hiện ngay sau khi trẻ sinh ra)
và bệnh da mắc phải (phát hiện vài tuần hoặc vài tháng sau khi sinh). Có bệnh
phải xử lý ngay nhưng cũng có bệnh không cần có biện pháp gì. Sau đây là một
số bệnh thường gặp nhất.
1. Bớt tím: Là những dát màu xanh tím, do sự ứ đọng nhiều tế bào
Melanocyte ở lớp bì của da gây nên. Bớt có kích thước thay đổi từ vài đến hàng
chục milimét. Vị trí hay gặp là vùng sau mông. Bớt tím thường gặp ở trẻ sơ sinh
người phương Đông. Khi trẻ lớn lên, những bớt này sẽ từ từ biến mất mà không
cần can thiệp gì.
2. Hạt kê: Là những hạt nhỏ màu trắng đục nhô trên da, thường gặp ở trẻ
mới sinh do sự ứ đọng của chất bã. Các hạt này sẽ tự biến mất sau vài tuần lễ.
Ở một số trẻ lớn, hạt kê có thể xuất hiện tại vùng tay, chân, mặt.
3. Rôm sảy: Là hiện tượng tuyến mồ hôi bị đè ép, bít kín lại làm mồ hôi
không tiết ra được. Biểu hiện bệnh là những hạt nhỏ màu hồng hơi cứng. Rôm
sảy thường gặp vào mùa nắng nóng ở những trẻ em hay bị ra mồ hôi nhiều. Vị
trí hay gặp là vùng sau lưng.
4. Chốc: Là bệnh nhiễm trùng da nguyên phát do liên cầu trùng hoặc tụ
cầu trùng gây ra. Tổn thương thường xuất hiện ở vùng đầu, mặt, cổ.
Bệnh khởi phát bằng một bóng nước trong có hình tròn dẹp, sau vài giờ
bóng nước đục dần, có mủ rồi vỡ, đóng mày vàng giống màu mật ong. Chốc có
thể lan sang vùng kế cận, gây viêm hạch bạch huyết ở gần đó. Sau khi tróc mày,
chốc thường để lại vết thâm lâu dài.
5. Nhọt: Là tình trạng viêm toàn bộ nang lông và tổ chức chung quanh,
chủ yếu do tụ cầu trùng gây nên. Nhọt thường trải qua các giai đoạn sưng-nóng-
đỏ-đau, dần dần mềm vỡ ra, chảy mủ và thành sẹo. Trẻ em sống trong môi
trường nóng nực, vệ sinh da kém, sử dụng nhiều chất ngọt dễ bị nổi nhọt.
6. Chàm sữa (lác sữa): Là bệnh chàm thể tạng, gặp ở trẻ em từ 3 tháng
tuổi. Các mụn nước nhỏ li ti sẽ xuất hiện ở hai bên má, rồi đến cằm và trán.
Chúng sẽ nhanh chóng vỡ ra, làm da trở nên đỏ và bị rớm dịch. Nếu có nhiễm
trùng đi kèm, da sẽ đỏ hơn, đóng mày màu vàng, khiến trẻ ngứa nhiều. Bệnh
thường tái đi tái lại nhiều lần, đến khoảng 2 tuổi có thể biến mất mà không để lại
dấu vết gì. Nguyên nhân gây bệnh chàm sữa ở trẻ em khá phức tạp, khó phát
hiện được, yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong bệnh này.
7. Ghẻ: Là bệnh lây truyền trong gia đình, tập thể. Nguyên nhân gây bệnh
là ký sinh trùng có tên Sarcopte Scabiei. Triệu chứng gồm: Nổi mụn nước ở các
kẽ tay, cổ tay, vùng bụng, bộ phận sinh dục; ngứa nhiều về ban đêm. Trong gia
đình người bệnh thường có vài người mang biểu hiện tương tự.
8. Nấm Candida albicans: Bệnh hay xuất hiện ở bộ phận sinh dục ngoài và
vùng bẹn của trẻ nhỏ, nhất là các bé gái. Môi trường ẩm ướt, mồ hôi ra nhiều,
nước tiểu hay bị ứ đọng là các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của nấm Candida
albicans. Bệnh nhân có biểu hiện như một vùng da rộng lớn bị đỏ bóng, có ít
bợn trắng, kèm theo ngứa.
9. Viêm da vùng tã lót: Là phản ứng viêm da cấp tính, với các biểu hiện:
da bị đỏ, nổi mụn nước và sẩn đỏ. Bệnh xuất hiện ở vùng hay mang tã lót. Các
yếu tố thúc đẩy sự phát triển của bệnh bao gồm: Da bị ẩm kéo dài, nước tiểu và
phân làm độ pH gia tăng. Để phòng bệnh, các bà mẹ cần thay tã lót thường
xuyên hoặc chuyển sang dùng tã vải cho trẻ.
VÀNG DA Ở TRẺ SƠ SINH
Sau khi sinh được mấy ngày, nhiều cháu bé có màu da mỗi ngày một
vàng thêm: Đó là chứng vàng da của trẻ sơ sinh, một sự cố không quan trọng
mà người ta biết rõ nguyên nhân.
Khi ra đời, đứa bé mang theo trong ngưòi một số hồng huyết cầu dự trữ.
Hồng huyết cầu là những phần tử trong máu có nhiệm vụ nhận ôxy từ phổi mang
tới mọi nơi trong cơ thể, và luôn luôn được thay thế bởi những lớp mới. Trong
cơ thể đa số trẻ em, việc loại bỏ các hồng huyết cầu già ở lá lách và ở gan được
tiến hành bình thường. Nhưng, một số ít các cháu có bộ gan còn non yếu chưa
làm được đầy đủ nhiệm vụ này khiến một số muối mật sinh ra trong quá trình
hủy diệt hồng huyết cầu bị tích tụ ở máu làm cho da các cháu có màu vàng.
Những hiện tượng trên có thể sẽ hết trong vòng mấy ngày sau, khi các cơ
quan trong cơ thể cháu bé quen dần với công việc.
Một số các cháu khác có thể bị dị tật bẩm sinh ở các đường ống dẫn mật
khiến những chất muối mật đã được gan biến đổi và thải ra không xuống được
ruột làm cho phân có màu nhợt hoặc màu trắng.
Phần lớn các bà mẹ có thói quen nằm trong phòng kín và tới sau sinh nên
khó phát hiện bệnh vàng da ở trẻ. Nếu không kịp thời điều trị, bệnh có thể để lại
nhiều di chứng như giảm thị lực, thính lực, đần độn.
Vàng da sơ sinh có hai loại:
- Vàng da sinh lý: xảy ra khi trẻ được 1-7 ngày tuổi. Tuy nhiên, trẻ vẫn ăn
ngủ bình thường và hiện tượng này sẽ tự hết, không cần điều trị và không nguy
hiểm.
- Vàng da bệnh lý hay vàng da nhân: Thường gặp ở trẻ sinh non. Các em
bị vàng da từ đầu đến chân ngay khi lọt lòng. Nếu không được điều trị đúng
mức, trẻ sẽ bị nhiễm độc thần kinh, co giật, hôn mê rồi tử vong.
Cách phát hiện trẻ bị vàng da:
- Sau khi sinh 1-2 ngày, quan sát màu da toàn thân của trẻ ở nơi có ánh
sáng.
- Dùng ngón tay ấn nhẹ vào trán, mũi và trên cơ thể trẻ. Nếu thấy da có
màu vàng đậm mà không trắng như những trẻ khác thì cần cảnh giác.
- Quan sát một số biểu hiện bất thường của trẻ như quấy khóc, bú yếu,
ngủ nhiều, nước tiểu ít và trong, không đi tiêu phân su.
Việc điều trị bệnh vàng da rất khó khăn, trẻ phải được rọi đèn nhằm loại
bỏ nhanh chất độc trong cơ thể, phải thay máu nếu bị nặng và làm xét nghiệm
để tìm độc chất Bilirubin. Ngoài ra, cần sử dụng thuốc điều trị bệnh vàng da đặc
hiệu theo chỉ dẫn của bác sĩ.
VẾT TRÊN DA TRẺ MỚI SINH
Khi mới ra đời, da trẻ thường có những vết có màu: Vết màu đỏ thẫm như
màu rượu vang, có nhiều chấm nhỏ hoặc từng mảng ở gáy, trán, da đầu... Do
các mạch máu nhỏ (mao mạch) dưới da bị giãn nở. Những vết này sẽ hết dần
dần. Có cháu tới 12 tháng tuổi mới hết. Đó là những vết bớt, vết ruồi hay vết
chàm. Nốt ruồi to hoặc nhỏ, có thể xuất hiện ở mọi nơi trên cơ thể. Cần hỏi bác
sĩ chuyên khoa da, vì việc chữa trị tùy trường hợp có nhiều hay ít, ở mỗi trẻ mỗi
khác. (Naevus).
Vết chàm hay thấy ở lưng dưới. Những vết chàm này cũng sẽ hết dần khi
các cháu lớn lên.
VẾT BỚT HAY CHÀM ĐỎ
Da các cháu mới sinh có thể có các chấm hoặc mảng màu đỏ sẫm: Đó là
các vết bớt còn gọi là chàm đỏ. Bớt do sự phì đại của các mạch máu nhỏ dưới
da có dạng phang như da, có dạng nổi trên da. Những vết chấm hay thấy ở trán,
cổ, gáy, chân tóc trẻ sơ sinh có thể tự mất đi sau vài tháng tuổi, có khi phải sau
một vài năm.
Tuy rằng một số vết bớt khó coi, làm giảm sự xinh xắn của các cháu,
nhưng bác sĩ nào cũng khuyên các bà mẹ phải kiên nhẫn, chờ đợi, tránh không
nên can thiệp tới bằng bất cứ biện pháp gì.
Nếu vết bớt ngày càng lan rộng và có hiện tượng chảy máu thì nên tới bác
sĩ chuyên khoa về da để hỏi cách chữa trị. Ngày nay, người ta có thể dùng tia
Laze để chữa trị hiện tượng này.
HIỆN TƯỢNG TÍM TÁI CỦA TRẺ SƠ SINH
Da của bé có thể có các vùng tím hay xanh, ít thì ở các đầu ngón tay hoặc
môi: Hiện tượng này chứng tỏ máu thiếu ôxy vì sự hô hấp hoặc sự tuần hoàn
(tim) của cháu chưa tốt. Nếu hiện tượng này chỉ có rất ít thì do lạnh, làm các
mạch máu bị co lại.
Nếu hiện tượng tím tái có từ khi cháu mới sinh và cứ duy trì mãi không
thấy đỡ, thì có thể phải tìm hiểu về các bệnh tim bẩm sinh.
Nếu hiện tượng trên xảy ra bất chợt và nghiêm trọng thì có thể do các
nguyên nhân: Ngạt thở vì vật lạ, đau họng, viêm đường hô hấp...
RÔM SẨY
Ở vùng cổ và lưng các cháu bé thường có những nốt mẩn đỏ, do mồ hôi
gây ra. Các nốt này sẽ chóng lặn hết nếu giữ gìn cho da các cháu sạch và khô.
DA NGỨA NGÁY, MẨN ĐỎ
Da trẻ em, nhất là cháu sơ sinh rất mỏng nên dễ bị tổn thương vì các
nguyên nhân gây ra từ phía ngoài cũng như từ bên trong cơ thể. Theo năm
tháng, lớp da sẽ đỡ mỏng manh hơn, nhưng vẫn là một lớp mô nhạy cảm dễ bị
phát ban, dị ứng hoặc là nơi biểu hiện triệu chứng của một số bệnh như sởi, lên
đậu... Một số bệnh khó xác định và khó chữa, nên các bà mẹ săn sóc cháu nên
nhận xét để mô tả được rõ ràng với bác sĩ.
Loại da đặc biệt nhạy cảm:
- Có nhiều bé có loại da đặc biệt nhạy cảm tới mức chỉ sờ lên da bé cũng
làm làn da ửng đỏ một lát. Do đó việc cọ sát da cháu bằng miếng vải, sức một ít
nước thơm hay dầu thơm, tắm cho cháu bằng xà phòng có hóa chất thơm, cháu
bị toát mồ hôi, nưóc tắm có pha ít nước hoa Cologne v.v... cũng làm da cháu bé
phản ứng.
Cổ, cổ tay, cổ chân, vòng bụng là nơi dễ bị kích thích nhất. Muốn làm cho
da bé dày dặn hơn, nên cho bé đi chơi ở ngoài trời luôn, cho bé tắm nắng nhưng
hãy coi chừng và có giới hạn để tránh bị cháy nắng hay say nắng.
- Mẩn đỏ vùng mông: Mông bé là điểm hay có mồ hôi, bị đẫm nước tiểu
khi cháu tè dầm không được thay tã lót ngay, nên hay bị mẩn đỏ: Da đỏ, đùi đỏ,
đỏ ở rãnh giữa 2 mông, ở những nếp nhăn. Những nốt đỏ hơi phồng lên và lõm
ở giữa, đôi khi cũng xuất hiện khi bé mọc răng, hoặc trên toàn bộ lớp da tiếp xúc
với ghế khi bé ngồi.
Để bé khỏi mẩn đỏ, nên: Thay tã lót luôn, lau ghế luôn, dùng pom-mát sát
trùng bôi lên chỗ mẩn đỏ. Khăn trải giường (nếu dùng cho bé) cũng nên thay
luôn, ghế bé ngồi thỉnh thoảng nên mang phơi nắng.
Sau khi tắm cho bé nên lau thật khô hay sấy cho bé bằng cái sấy tóc,
nhưng phải hết sức cẩn thận không làm bé bỏng.
Nếu chỗ mẩn đỏ cả tuần lễ chưa khỏi thì nên hỏi bác sĩ, không cần thay
đổi chế độ ăn của bé.
- Mẩn đỏ ở cổ, nách và sau tai: Những chỗ mẩn đỏ bóng và có nước. Bạn
hãy chú ý coi cổ áo của bé có chật quá không, không năng tắm rửa và mồ hôi là
nguyên nhân của những chỗ mẩn đỏ này.
Hãy thay quần áo tã lót cho cháu sau khi tắm kỹ bằng loại xà phòng có
nhiều tính chua (axít), rồi dùng dung dịch sát trùng loại Éosine 1% bôi cho cháu.
Chỉ nên mặc cho cháu những quần áo bằng vải, từ các chất liệu thiên
nhiên như bông, len chứ không nên dùng các chất liệu tổng hợp.
- Bé có những chấm đỏ và những mụn nhỏ, trắng chảy nước, ở gáy, lưng,
đôi khi ở vòng quanh bụng chỗ vẫn quấn khăn quanh rốn làm cháu luôn cựa
quậy, ngủ không yên giấc: Tránh đắp cho bé nhiều chăn quá hoặc đặt bé trong
phòng nóng quá. Tắm cho bé bằng xà phòng có tính axít hoặc nước pha chanh
(để có tính axít). Cho cháu tấm nắng vừa phải, mỗi ngày.
Nếu da cháu vẫn chảy nước, cần đi khám bác sĩ.
- Cần nói gì với bác sĩ? Nếu bạn liên lạc với bác sĩ qua điện thoại, nên nói
ngay cháu bé mấy tháng, mấy tuổi? Vì có một số bệnh chỉ xuất hiện ở một độ
tuổi nào đó. Hãy cho bác sĩ biết thêm: Cháu bé có sốt không? Chỗ da chảy nước
thế nào? Bé đã uống thuốc gì chưa?
- Sốt - Lấy nhiệt độ cho bé. Thường thì các bệnh ngoài da không làm trẻ
sốt. Nếu những nốt mẩn ngoài da lại kèm theo sốt thì bé đã mắc bệnh như: Sởi,
nhiễm khuẩn,... Biết thân nhiệt của bé khi sốt, bác sĩ sẽ dễ chẩn đoán bệnh.
Những nốt mẩn đỏ có thể mất đi sau vài giờ, như ở bệnh sởi. Bởi vậy,
trước khi nói chuyện với bác sĩ, bạn cần phải nhớ lại những điều sau
- Những nốt đỏ mọc ở đâu? Khắp người bé hay chỉ có ở mông? Ở những
vết nhăn trên đùi, tay? Ở cổ, trên mặt, ở lông mày, quanh miệng, sau tai? Những
nốt mẩn bắt đầu ở đâu trước tiên? Lan ra tới đâu? Ấn tay vào có hết đỏ không?
- Cỡ to nhỏ của nốt mẩn: Bằng đầu mũi kim hoặc lớn hơn?
- Màu: Đỏ, đỏ tím hay đỏ sẫm...?
- Những nốt đỏ rời nhau hay từng mảng?
- Nốt đỏ có phồng lên, có vảy không? Bé có gãi không?
- Sờ vào những nốt đó thấy nhẵn hay ráp? Có chỗ nào mềm hoặc cứng
không?
Bạn có thể nghĩ rằng những nhận xét trên không quan trọng, nhưng chính
chúng lại giúp cho bác sĩ xác định được bệnh vì mỗi bệnh có những điểm riêng
chỉ khác nhau một vài chi tiết nhỏ.
CHỨNG NỔI MẨN NGỨA
Cháu bé không ngủ được vì ngứa, gãi. Do vậy, đôi khi cháu không chịu
ăn, đi tướt hoặc ngược lại đi táo. Trên da cháu, xuất hiện những nốt phồng nhỏ
đường kính chừng 1mm, màu đỏ, mọc khắp người trừ phần da đầu: Đó là chứng
mụn ngứa. Khi phát triển, màu các nốt mụn ngứa thành đỏ thẫm, đôi khi có vẩy
vàng, cứng, sờ vào thấy nháp tay. Khoảng từ 8 tới 10 ngày sau mụn ngứa lặn để
lại những vết đỏ, rồi vết này cũng nhạt dần.
Các cháu nhỏ thường bị nổi mụn ngứa nhiều lần, cách quãng nhau vài
ngày hay hơn.
Chứng mụn ngứa có thể vì nguyên nhân tiêu hóa không tốt hoặc dị ứng do
bị côn trùng đốt.
Với các trẻ sơ sinh, không cần thay đổi chế độ ăn nếu không có ý kiến của
bác sĩ. Những chỗ ngứa nhiều, có thể bôi thuốc đỏ Mercurochrome hoặc cồn iốt
1%. Nếu chỗ ngứa bị nhiễm trùng hay sây sát nên dùng băng dính che lên trên.
Các bà mẹ nên kiên nhẫn và yên tâm; thế nào rồi các mụn ngứa cũng sẽ
lặn hết.
Trong trường hợp cháu bị nhiều quá, bác sĩ thường cho các cháu uống
thuốc cho đỡ ngứa và nếu cần, chuyển qua bác sĩ chuyên bệnh ngoài da và dị
ứng.
DỊ ỨNG
Dị ứng nói chung là phản ứng của cơ thể chống lại sự xâm nhập của các
“chất lạ” vào cơ thể, bằng cách sinh ra các kháng thể. Những chất lạ còn được
gọi là các kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể qua da, đường hô hấp (mũi, khí
quản, phổi) và đường tiêu hóa. Dị ứng da thể hiện ra ngoài theo các dạng
Eczema, mẩn đỏ, phù da, mụn loét.
Những chất lạ gây dị ứng da bao gồm các hóa chất như phấn, kem bôi da
để trang điểm, vải mặc tổng hợp, các thuốc pom-mát v.v..., các dược phẩm uống
hoặc tiêm chích. Một số thực phẩm không thích ứng với từng người như thịt bò,
tôm, cua, cá...
Những biểu hiện dị ứng của bộ máy hô hấp là: Ho, hen, viêm mũi, viêm
xoang, viêm phê quản.
Những chất lạ gây dị ứng đường hô hấp có thể là phấn hoa, lông gà vịt,
lông chó mèo, bụi trong nhà, ngoài đường, vi khuẩn, vi trùng, mốc.
Bộ máy tiêu hóa bị dị ứng có các biểu hiện: Tiêu chảy trong thời gian ngắn
hoặc tái đi tái lại, nôn ói, đau bụng kèm theo dị ứng da như mẩn ngứa. Dị ứng
thêm đường hô hấp ít khi xảy ra.
Những chất gây dị ứng thường là thực phẩm hoặc có trong thành phần
thực phẩm như chất Prôtêin trong sữa bò, lòng trắng trứng, cá, thịt, các đồ biển;
một số quả, lạc (đậu phộng), ngũ cốc các loại...
Muốn chữa trị dị ứng, bác sĩ phải hỏi bệnh nhân tỉ mỉ về nề nếp sinh hoạt,
để biết được thường bệnh nhân bị dị ứng trong các điều kiện nào, ở chỗ nào,
sau khi ăn gì. Từ đó truy tìm và xác định “chất lạ” là chất gì, ở đâu?
Ngoài ra, bác sĩ còn phải tìm “chất lạ” cả trong máu và tiến hành việc cấy
vào dưới da một số chất dễ gây dị ứng để thử nghiệm. Đối với trẻ em, việc cấy
thử như vậy rất khó thu được kết quả.
Chữa trị dị ứng là một việc làm đòi hỏi một thời gian lâu, phức tạp dù việc
làm có vẻ như đơn giản: Tìm ra “chất lạ”, nguyên nhân của dị ứng rồi tránh xa để
đề phòng. Người ta cũng dùng phương pháp tiêm chích các thuốc chống dị ứng
với liều lượng ngày một tăng.
Dị ứng cũng là một chứng bệnh di truyền nên có thể biết ngay từ lúc đứa
trẻ mới sinh bằng cách thử máụ. Sau đó, để tránh cho các cháu khỏi có các triệu
chứng của bệnh này, thì tốt nhất là cho các cháu bú sữa mẹ.
(Dị ứng được trình bày thêm trong các mục Hen, Eczema, và mẩn ngứa).
ECZEMA
Eczema có những triệu chứng khác nhau tùy theo độ tuổi của đứa trẻ - bé
mới vài tháng tuổi hay đã được hơn 2 năm tuổi.
- Đối với các cháu lớn từ 2 tuổi trở lên, eczema thường biểu hiện ở các
chỗ gấp chân, tay: Da đỏ, thoạt đầu ướt, chảy nước, sau đó, khô đi và ngứa làm
đứa trẻ khó chịu, không ngủ được.
Eczema tiến triển trong một thời gian dài, từng thời kỳ và một số trường
hợp, kèm theo bệnh hen.
Việc chữa trị đòi hỏi một thời gian lâu và thường bị đi bị lại.
Eczema ở các cháu sơ sinh:
- Từ tháng thứ 2 - 3 trở đi. Thường các cháu bị ở đầu, má, trán, cằm, có
thể phát triển tới vai, tay, lưng bàn tay, ngực... Nhưng phần lớn hay bị ở đầu.
Thoạt đầu da cháu bé đỏ lên rồi có những đốm nhỏ xuất hiện, bé cảm thấy
ngứa nên khóc, cựa quậy, sát má xuống giường. Những đốm nhỏ tiết ra một
chất lỏng, cứng lại thành vẩy làm chỗ da đỏ khô lại nhưng vẫn đỏ và dễ có
những vết nứt.
Một cháu bé có thể bị Eczema ngay từ năm đầu và bị đi bị lại từng đợt. Tới
tháng thứ 18, cháu bé khỏi nhưng lại có thể bị bệnh hen theo. Eczema làm cho
trẻ dễ bị mất nước và nhiễm trùng.
Việc chữa trị đòi hỏi sự kiên trì. Một số trường hợp cần bôi thuốc có
Cortisone.
Các cháu bé bị Eczema không cần kiêng sữa nhưng không nên ra nắng,
gió.
Trong thời gian bị Eczema, tránh tiêm chích các vắc xin trừ trường hợp
chích B.C.G phòng lao.
Không nên cho cháu bé lại gần, hoặc chơi cùng với các cháu mới tiêm
ngừa bệnh đậu mùa và hết sức đề phòng để cháu khỏi bị lây bệnh này.
MẨN ĐỎ
Da trẻ em có thể bị những nốt mẩn màu hồng, xung quanh viền trắng nhạt,
hơi phồng, to nhỏ tùy lúc, giống những nốt bọ ve cắn làm cho các cháu ngứa.
Hiện tượng này có thể xảy ra với cả các cháu sơ sinh và có nhiều nguyên nhân.
Có trường hợp vì thức ăn như trứng (nhất là lòng trắng trứng), cá, thịt ngựa, sô-
cô- la, nước cam, dâu; có khi vì các dược phẩm đủ loại như thuốc uống, thuốc
bôi, thuốc chích (Pénicilline là một thí dụ); có khi vì cháu bé tiếp xúc với những
hóa chất hoặc cây cỏ. Với sự cộng tác của bác sĩ, các bà mẹ hoặc người trông
nom cháu cần tìm ra nguyên nhân chính để cháu tránh khỏi bị mẩn đỏ sau này.
Việc phát hiện nguyên nhân, thường khi rất khó.
Để các cháu đỡ ngứa, có thể cho cháu uống một thìa cà phê sirô chống dị
ứng (Antihistaminique).
Bệnh giun sán (sán lải) cũng gây mẩn đỏ ngoài da. Hiện tượng mẩn đỏ có
thể có cả ở mặt, bộ phận sinh dục... Nếu bị ở họng, cháu bé sẽ khó thở cần phải
được chữa trị ngay.
BỆNH BAN ĐÀO
Bệnh ban đào do vi rút gây ra là bệnh hay lây, có thể thành những dịch
nhỏ về mùa thu và mùa đông. Bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 3 tuổi, bỗng nhiên
bị sốt cao trong nhiều ngày. Tới ngày thứ 4, thứ 5, bé có thể khỏi sốt, đồng thời
khắp người bé nổi ban đỏ trong vài giờ hoặc một, hai ngày.
Tuy những lúc sốt cao, cháu bé có thể bị co giật, nhưng bệnh này chỉ là
một bệnh nhẹ.
CHỨNG BAN XUẤT HUYẾT
Chứng ban xuất huyết có đặc điểm: Các vết đỏ đủ cỡ nổi cách nhau trên
da, đôi khi thành từng mảng rộng do máu thoát ra từ các mạch li ti (mao mạch)
dưới da tạo thành. Cháu bé bị ban xuất huyết đôi khi sốt, chảy máu cam, đau
người v.v...
Chứng ban xuất huyết có thể liên quan đến sự giảm số lượng những tiểu
cầu trong máu, làm rối loạn sự đông máu - hoặc do sự hư hại của chính những
mao mạch dưới da làm máu thoát ra được.
Nguyên nhân của chứng ban xuất huyết có thể do nhiễm trùng (vi trùng
màng não cầu), hoặc vi rút (bệnh sởi, bệnh tăng đơn bào...) hoặc do chất độc
trong thuốc mà cơ thế cháu phản ứng lại. Chứng này còn là biểu hiện của một
số bệnh nghiêm trọng về máu do tổn thương của tủy xương gây ra.
Ở trẻ sơ sinh
- Các cháu sơ sinh ra đời sau một cuộc đẻ khó của bà mẹ, có thể có các
nốt đỏ trên mặt: Đó là những mạch máu nhỏ bị vỡ. Hiện tượng này sẽ qua đi
không có gì đáng lo ngại. Kể cả hiện tượng xuất huyết nhỏ trong lòng trắng mắt
cũng vậy.
Nếu chứng này đi đôi với hiện tượng giảm đáng kể số lượng tiểu cầu trong
máu thì phải chú ý xem cháu có bị chứng nhiễm trùng sơ sinh không.
Phát ban vì bệnh đau màng óc:
- Nếu cùng với hiện tượng phát ban, cháu lại sốt thì phải nghĩ ngay tới một
tổn thương ở màng óc... và phải đưa cháu đến bác sĩ ngay.
Phát ban do dạng bệnh thấp:
- Thường thấy ở các chi dưới. Nếu phát ban kèm theo hiện tượng đau
vùng bụng thì phải nghĩ tới trẻ bị lồng ruột hoặc có liên quan tới thận, nhất là khi
nước tiểu có máu và Albumin. Cũng có những trường hợp phát ban có giảm số
lượng tiểu cầu mà chẳng có nguyên nhân gì cả.
Chứng phát ban nói chung thường khỏi sau vài tuần chữa trị. Nhưng cũng
có những trường hợp kéo dài tới 5-6 tháng: Đó là chứng phát ban mạn tính. Việc
chữa trị mất nhiều công sức hơn.
GHẺ
Chúng ta không nên coi đó là một việc đáng xấu hổ nếu bác sĩ cho biết:
Cháu bé bị ghẻ. Ghẻ rất dễ lây, ở bất cứ chỗ nào, bất cứ vật gì cháu bé đã tiếp
xúc: Quần áo, giường, ghế...
Bởi vậy cháu bé có thể đã bị lây ghẻ ngay trong nhà hoặc ở nhà trẻ, ở
trường.
Chỗ da bị lây nhiễm có các mụn ngứa thường ở cổ tay, ở những chỗ có
nếp nhăn ở khuỷu tay, ở sườn, nách, quanh vú, ở vai, rốn, bộ phận sinh dục,
mông, gót chân, gan bàn chân.
Những chỗ ký sinh trùng ghẻ đào rãnh để đẻ trứng, da bị phồng lên màu
trắng ngà, nhìn kỹ thấy có liên quan với một con đường nhỏ màu xám.
Để chữa trị phải năng tắm cho các cháu, sát xà phòng, chà da bằng bàn
chải rồi bôi thuốc sát trùng (loại thuốc ghẻ) trên toàn thân thể.
Phải giặt, đun các quần áo, khăn trải giường, găng tay qua nước sôi, khử
trùng giày, dép của cả nhà.
Tất cả mọi người trong gia đình cần được khám xem mình có bị ghẻ
không, vì chỉ chữa trị cho cháu bé thì không đủ
CHỐC LỞ
Chốc lở là bệnh ngoài da của trẻ em, do các tụ cầu trùng hoặc liên cầu
trùng gây ra. Ban đầu ở da mọc lên một nốt rộp nhỏ. Nốt rộp to lên trong một vài
giờ sau rồi võ thành một chấm đỏ, chảy nước, mùi tanh; bên trên dần dần đóng
lại thành một lớp vẩy màu vàng, dính như sáp ong, cuối cùng thành màu xám.
Các cháu hay bị lở ở mặt, quanh mũi, mồm hoặc ở trên da đầu (chốc) và
cả bên trong miệng nữa. Những cái vẩy đôi khi rất dày.
Chốc lở dễ lây lan. Chính bàn tay các cháu nhỏ sờ vào những vết lở của
mình ở chỗ này, rồi lại làm lây lan ra chỗ khác ngay trên cơ thể của cháu. Bởi
vậy, các cháu đang bị chốc lở nên tạm nghỉ ở nhà, không nên tới trường hoặc
nhà trẻ, để tránh lây sang các bạn.
Bác sĩ thường cho thuốc bôi lên vết lở sau khi đã cậy lớp vẩy đi. Người ta
thường đắp lên vảy một lớp gạc tẩm va-dơ-lin một thời gian để cho vẩy mềm,
trước khi làm tróc nó đi.
NHỌT
Một chỗ da phồng lên, đau nhức và đỏ. Sau vài ngày phần da ở giữa
mỏng đi, nhìn thấy ở dưới có mủ: Đó là nhọt. Khi nhọt vỡ, mủ trắng vàng chảy
ra.
Thoạt đầu ở một điểm trên da có thể mọc lên nhiều đầu nhọt rồi mới tụ lại
thành một cái duy nhất. Các cháu thường có nhọt ở đầu, trong tóc, ở lưng, mông
đùi, cánh tay. Nếu cháu bé mới mấy tháng đã có nhọt thì rất đáng ngại vì điều
này chứng tỏ cơ thể cháu đã bị loại tụ cầu trùng vàng xâm nhập. Vi trùng này sẽ
có thể còn phát triển ở tai, ruột, ống tiểu, xương hoặc ở bộ máy hô hấp của
cháu, gây ra những biến chứng quan trọng hơn nữa.
Trong khi chờ đợi bác sĩ điều trị, bạn hãy dùng gạc mềm phủ lên trên nhọt
để tránh quần áo cọ vào và lây lan ra những chỗ khác.
Dù chỉ có nhọt, nhưng cháu bé cũng cần được khám sức khỏe toàn bộ.
Người lớn có nhọt không nên lại gần các cháu sơ sinh, không được săn
sóc hoặc trực tiếp cho các cháu ăn, uống.
Nếu chính bà mẹ bị nhọt, phải chú ý rửa tay, đeo khẩu trang khi tiếp xúc
với bé. Nếu một bên ngực có nhọt thì chỉ cho bú bên vú không có nhọt.
ÁP XE
Áp xe là một bọc kín như một cái túi, có chứa mủ, do tế bào và các bạch
huyết cầu bị chết sau những trận chiến đấu với các vi trùng đột nhập vào cơ thể
tạo thành (thường là loại tụ cầu khuẩn Staphylocoque). Điểm cơ thể bị áp xe
thường cách với các cơ và mô lành khác bởi một vùng bị tấy đỏ.
Áp xe ở dưới da. Chúng ta có thể theo dõi dễ dàng sự tiến triển của nó.
Trong giai đoạn đầu, khi mủ đang hình thành và tụ dần vào một điểm, lớp da ở
đó bị tấy đỏ, nóng, sưng và đau nhức. Khi mủ đã tích tụ lại một nơi, vùng này trở
nên mềm hơn - nếu là cái nhọt, người ta thường nói nhọt đã “chín” - Lúc này,
cần phải lẩy hay chích để cho mủ thoát ra ngoài. Nếu ta không làm thế, áp xe
cũng có thể tự vỡ. Khi mủ đang tích tụ lại, người bệnh thấy đau, nhức và có thể
sốt.
Tóm lại, có thể nhớ 4 triệu chứng đặc trưng là: Sưng - nóng - đỏ - đau.
Trên đây là sự mô tả hiện tượng bị áp xe “nóng”. Có khi sự tiến triển của
áp xe rất chậm và lâu khiến người bệnh không chú ý: Đó là loại áp xe “nguội”.
Da của trẻ sơ sinh và của trẻ em rất mỏng manh, một vết xước nhỏ, một
mũi kim chích cũng có thể mở đưòng cho sự viêm, nhiễm. Do đó, để phòng bệnh
cho các cháu, cần phải giữ gìn cho da các cháu luôn sạch sẽ. Phải rửa sạch các
đồ chơi. Người lớn tiếp xúc với các cháu cũng phải chú ý có đôi bàn tay sạch.
Nếu thấy có chỗ nghi cháu bị viêm nhiễm, phải đưa cháu tới bác sĩ. Trong
khi chưa có bác sĩ, có thể lau hoặc đắp lên chỗ bị viêm bằng những miếng gạc
tẩm nước ấm có pha cồn để làm giảm đau và hạn chế khu vực bị viêm.
Áp xe là điểm bị viêm nhiễm, dù nhỏ cũng không nên coi thường, vì đó là
cửa vào của các vi trùng. Chúng có thể “định cư” ở đó hoặc phát triển tới mọi nơi
khác của cơ thể gây ra các bệnh khác như viêm xương, viêm phổi v.v...
Nếu con bạn bị viêm nhiễm luôn luôn, đó là vì sức đề kháng của cơ thể
cháu yếu.
Điều này có thể liên quan tới một căn bệnh nào đó như bệnh tiểu đường
hay suy giảm miễn nhiễm chẳng hạn. Các căn bệnh này có thể có tính chất ngắn
hạn hoặc dài lâu.
MỤN CƠM
Trẻ em thường có mụn cơm ở bàn tay và bàn chân, giống như những lớp
chai. Một số mụn nhỏ màu hơi vàng, bẹt có thể có ở bất cứ chỗ nào trên thân
thể.
Những mụn cơm này lây vì nguyên nhân có thể là do vi rút. Nước là môi
trường tốt cho hiện tượng lây lan. Bởi vậy, không nên tắm cùng một lúc cho 2 trẻ
em, nếu một cháu có hạt cơm.
Có thể làm cho những mụn hạt cơm biến đi bằng cách lấy bông thấm cồn
i-ốt hoặc mỡ Salicylic rồi đắp vào buổi sáng và buổi tối lên trên chỗ có mụn. Bác
sĩ còn có thể khử mụn bằng ni tơ lỏng, hoặc bằng phương pháp phẫu thuật.
Phần nhiều trường hợp, cứ để tự nhiên rồi chúng cũng lặn đi.
MỤN RỘP
Nhiều mụn màu đỏ, nổi lên thành cụm như những đầu đanh ghim, tròn,
bóng. Khi các mụn trở thành trong suốt, chỉ có phần chân mụn là đỏ, thì cả đám
khô nhanh, thành vảy màu xám và sẽ khỏi trong vòng 10 ngày.
Những mụn rộp như thế thường thấy ở miệng (chốc mép), ở mắt và cả ở
bộ phận sinh dục. Người lớn cũng hay mắc phải.
Bệnh dễ lây vì do một loại vi rút gây ra. Đối với các trẻ sơ sinh, bệnh mụn
rộp rất nguy hiểm vì vi rút có thể tấn công hệ thần kinh của các cháu bé. Bởi vậy,
nếu bà mẹ bị bệnh này khi có mang, khi sinh con, khi cho con bú đều phải có
biện pháp phòng bệnh cho con.
Các cháu bé bị mụn rộp ở miệng thường kèm theo sốt hoặc ho. Hiện nay,
ngành y đã có một loại thuốc có tác dụng mạnh tới vi rút của bệnh này là
Zovirax.
BỎNG DẠ
Bỏng dạ là một bệnh ngoài da thường gặp ở các cháu mới sinh hoặc trong
tuổi bế ẵm. Thoạt đầu, da có một chấm đỏ phát triển nhanh thành một bọng
nước bằng hạt lúa mì. Sau vài giờ bọng vỡ ra để lại một vết mẩn đỏ, ở giữa có
một vòng tròn nhỏ màu đỏ tía, chảy nước. Các nốt này có thể mọc lan khắp
người trừ gan bàn tay và bàn chân. Sau 8 tới 10 ngày, da sẽ trở lại bình thường.
Bỏng dạ là một bệnh rất dễ lây nên thường gặp ở nhiều cháu bé trong
cùng một thời gian tại những tập thể như nhà hộ sinh, nhà giữ trẻ v.v... Bé bị
bệnh có thể sốt tới 38°-39°C hay hơn nữa. Bé không chịu ăn và có thể bị rối loạn
tiêu hóa.
Bệnh này cũng do liên cầu trùng Streptocoque hay tụ cầu trùng
Staphylocoque gây ra, nên bác sĩ sẽ cho bé uống thuốc kháng sinh. Nếu không
chữa trị cẩn thận, bệnh cũng có thể có những biến chứng rắc rối hơn.
THUỶ ĐẬU - BỆNH TRUYỀN NHIỄM PHỔ BIẾN
Bệnh thủy đậu do siêu vi trùng Varicella - Zoster gây bệnh, là bệnh truyền
nhiễm phổ biến nhất. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường ở trẻ nhỏ hơn 10
tuổi. Bệnh có đặc trưng sốt, nổi phát ban bóng nước ở da và niêm mạc, bắt đầu
ở thân mình, mặt rồi lan ra tay chân. Khả năng lây lan rất cao, 90% người tiếp
xúc trực tiếp với người bệnh sẽ bị nhiễm bệnh, sự lây truyền chủ yếu qua những
giọt nước bắn ra từ người bệnh, thời gian gây bệnh bắt đầu 24 giờ trước khi có
phát ban và kéo dài cho đến khi những bóng nước đóng mày (khoảng 7-8 ngày).
Đa số trường hợp diễn biến lành tính, hồi phục sau một tuần, nhưng cũng có thể
gây tử vong do những biến chứng trầm trọng như viêm não, viêm phổi, viêm gan
hoặc thường gặp biến chứng nhiễm trùng da bội nhiễm, viêm mô tế bào, viêm
hạch... Vì vậy, để giảm nguy cơ nhiễm trùng da cần phải vệ sinh thân thể, chăm
sóc da bằng cách tắm bằng nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng tránh làm vỡ bóng
nước hay trầy xước da, thay quần áo sạch hàng ngày. Thoa Bleu de methylene
nơi tổn thương do bóng nước vỡ, cắt ngắn móng tay để giảm tổn thương da do
gãi ngứa, cho ăn uống đầy đủ dưỡng chất và nhu cầu, cho trẻ uống nhiều nước
(nước sôi để nguội, nước trái cây, nước canh, nước cháo...). Đối với trẻ lớn bị
bệnh, tạm thời cho nghỉ học và cách ly với người xung quanh, cho đến khi bóng
nước đóng mày. Theo dõi diễn biến các tổn thương da và tình trạng chung của
trẻ, những dấu hiệu cần đưa đến cơ sở y tế là nhức đầu, đau ngực, đau bụng,
đau lưng, sốt cao, thở mệt, bóng nước nhiều có chứa mủ, máu...
Do bệnh lây lan sớm, độ lây lan cao nên chủng ngừa bằng vắc-xin là biện
pháp hữu hiệu giúp ngăn ngừa bệnh và giảm độ nặng của bệnh, vắc-xin được
dùng tiêm ngừa cho người khỏe mạnh, chưa mắc bệnh thủy đậu, từ 12 tháng
tuổi trở đi, có tác dụng rất tốt. Liều tiêm phòng chia làm 2 nhóm tuổi: từ 12 tháng
tuổi đến 13 tuổi chích 1 liều duy nhất, đối với trẻ trên 13 tuổi chích 2 liều, khoảng
cách giữa 2 liều tiêm là 4 - 8 tuần. Thuốc tiêm phòng ít gây tác dụng phụ, lưu ý
sau chủng ngừa không uống Aspirin trong ít nhất 6 tuần. Đối với trẻ em nhỏ hơn
15 tuổi có thể chủng ngừa tại các bệnh viện nhi đồng, trẻ trên 15 tuổi và người
lớn nên chủng ngừa tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới hoặc Viện Pasteur. Lưu ý khi
trẻ bị thủy đậu nếu không kiêng cữ gió, ánh sáng sẽ làm da trẻ ẩm, dễ gây ngứa;
không chọc vỡ bóng nước, đắp lá cây gây nhiễm trùng da; không uống Aspirin,
thuốc Corticoid dạng uống hay bôi ngoài da vì có thể làm nặng thêm bệnh.
BỆNH DÔNA
Bệnh Dôna biểu hiện bởi các mụn nhỏ tập trung ở vùng ngực, vành tai, ở
trán hoặc ở lông mày. Những mụn rộp này sẽ tự khô nhanh tạo thành những cái
vẩy. Những vẩy này sẽ bong ra vào khoảng 10 ngày sau, không gây khó chịu
hay đau nhiều cho các cháu.
Chứng này do các vi rút gây ra có lẽ cùng loại với vi rút gây ra bệnh thủy
đậu. Rất có thể, có sự liên quan và lây lan giữa 2 chứng thủy đậu và Dôna.
HẠCH
Hạch là những điểm phồng chúng ta có thể sờ thấy dưới da ở cổ, dưới tai,
dưới hàm, dưới cánh tay, ở nách, ở bẹn. Đó cũng là những điểm sản xuất bạch
huyết cầu của máu có khả năng chống sự viêm nhiễm. Trẻ em khi bị ho, viêm
họng, viêm tai, sởi.... thường có những hạch nổi lên ở cổ.
Các cháu hay có hạch ở cổ, ở nách và ở háng. Hạch có thể bất chợt đỏ,
nóng và sau đó là viêm hạch do vi trùng gây ra thường gây sốt và phát triển như
một áp xe có khi cần phải chích ra.
Những hạch cứng, không đau, lâu không tan thuộc loại viêm hạch mạn
tính, cần phải cho bác sĩ biết.
Những trẻ em hay có hạch mỗi khi đau hoặc có bệnh gì thường là các
cháu yếu, vẻ mặt xanh xao, hay mỏi mệt, sức khỏe kém.
Những loại bệnh như sởi, bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng
bệnh Toxoplasmose... có thể gây phản ứng cho cơ thể, tạo ra nhiều hạch.
RÁT VÌ LÁ HAN
Nếu cháu bé nghịch phải những lá han - một loại lá có lông dễ cắm vào
tay chân người đụng chạm tới nó gây nhức rát - hãy đắp lên chỗ da bị rát một
khăn tẩm nước có pha giấm. Nếu cháu bị đau nhiều, cho uống Aspirin (nếu bác
sĩ chỉ định) hoặc một loại thuốc chống dị ứng (Antihistamine).
BỆNH VẨY LEINER-MOUSSOUS
Bệnh này còn gọi là bệnh “hai cực” vì các cháu bé thường bị ở phần thân
dưới như mông, đùi rồi lại tới phần trên như đầu, tóc, ngay khi cháu mới sinh
được vài tuần.
Đây là một bệnh ngoài da: Da nhẵn khác thường và đổ mồ hôi, ẩm và đỏ.
Mới đầu ở mông, bộ phận sinh dục, đùi trong, bụng. Sau tới đầu: phần da đầu,
lông mày có những vẩy nhờn, bóng màu vàng sẫm. Khi những vẩy này bong ra,
phần da ở chỗ đó đỏ ửng. Hiện tượng này có thể xảy ra ở mọi nơi có vết nhăn
như cổ, nách, sau tai hoặc toàn thân.
Cháu bé không sốt và vẫn có vẻ bình thường. Một số ít có thể đi nhiều
phân hơn mọi khi.
Để chữa trị, vẫn cho cháu ăn ở mức bình thường. Dùng dầu thảo mộc
(dầu ô-liu) lau những chỗ bị viêm rồi rửa sạch bằng loại xà phòng giàu tính axít.
Bác sĩ có thể cho cháu bé dùng các thuốc bôi nước có màu hoặc các pom-mát
có chất kháng sinh.
Để chóng khỏi, cần giữ cho da cháu thật khô. Muốn vậy, phải thay quần
áo cho cháu luôn. Ở bệnh viện, cháu thường không được mặc quần áo với nhiệt
độ trong phòng thích hợp.
Hết sức tránh làm cho cháu đổ mồ hôi như không mặc cho cháu những
quần áo bằng vải không thấm, vải tổng hợp, đồ len v.v...
Bệnh này thường sẽ khỏi trong vài tháng. Nguyên nhân bệnh chưa được
rõ nhưng đây là loại bệnh khác với Eczema.
VIÊM TẤY VÌ CHÍN MÉ
- Viêm tấy là một loại áp xe có thể lan rộng (xem thêm về nhọt).
- Chín mé - Thường thấy ở ngón tay, nhiều khi chỉ là một điểm nhỏ có mủ.
Tuy vậy, cũng không được coi thường và bỏ qua. Cần phải rửa sạch, giữ sạch
và đôi khi phải chích để cho mủ thoát ra.
VIII. NHỮNG HIỆN TƯỢNG LIÊN QUAN ĐẾN SỨC KHỎE CỦA TRẺNHỮNG CƠN KHÓ CHỊU CỦA TRẺ EM
Ngày nay, người ta hay gộp chung một cụm từ ít nhiều mơ hồ “những cơn
khó chịu của trẻ em”. Những hiện tượng rối loạn xảy ra đột ngột như: Tím tái đột
ngột ngừng thở, chân tay mềm nhũn, ngất đi hoặc lên cơn co giật.
Những hiện tượng trên xảy ra trong một thời gian ngắn - vài phút hay vài
giây - và sẽ qua đi khi cháu bé được săn sóc (lay người, vuốt ngực, tay, chân...)
nhưng rồi lại bị trở lại, và có thể để lại các di chứng.
Nguyên nhân thì nhiều như: Bị rối loạn tiêu hóa, tim mạch hô hấp hoặc bị
nghẹn thở.
Bác sĩ phải tìm được nguyên nhân mới đề ra được các phương pháp
chữa trị hữu hiệu, hoặc các phương pháp phòng bệnh.
TIẾNG KHÓC CỦA BÉ
Khi bé chưa biết nói thì tiếng khóc của bé là phương tiện thông tin với
người lớn về trạng thái của mình, đang khó chịu hay dễ chịu, đang cần gì, muốn
gì, đang đau hay sợ...
Do đó, người lớn cần hiểu tiếng khóc của bé muốn diễn đạt điều gì?
Bé đói: Khóc to, lâu.
Bé đau: Khóc ré lên, to nhỏ tùy theo bị đau ít hay nhiều.
Bé đau râm ran, khó chịu: Tiếng khóc đều đều, rặn ra, dai dẳng.
Bé quấy, làm nũng: Khóc nức nở.
Các bà mẹ là những người dễ thông hiểu tiếng khóc của con nhất và còn
chú ý cả tới những nét mặt, động tác tay chân, cách nằm, quẫy, nhịp thở v.v....
của bé nữa. Thí dụ: Bé khóc đúng giờ vào mỗi buổi chiều là cần đi ị. Bất chợt ré
lên hay rên khẽ: Bé bị đau tai hoặc đau bụng.
CƠN KHÓC
Trẻ em thường có những cơn gào, cơn khóc, đến nỗi mặt xanh đi vì phải
nhịn thở. Có cháu có thể ngất đi một lát. Tuy các hiện tượng này dễ gây xúc
động cho người lớn, nhưng không có gì nguy hiểm.
Các cháu có tính hay hờn, dỗi thường có những cơn như thế. Các bác sĩ
có thể khuyên bạn cách chữa là: Làm thế nào cho các cháu không tin vào kết
quả của việc lấy tiếng khóc làm vũ khí để yêu sách người lớn nữa.
MỆT
Mấy tuần nay, sắc mặt của con bạn có vẻ tái nhợt, mắt thâm quầng, nét
mệt mỏi. Cháu không chịu chơi, ngậm ngón tay và không chịu ăn. Cháu chỉ
muốn nằm dù thân nhiệt không cao, không sốt.
Sự mệt mỏi của cháu có thể là do sự phát triển của cơ thể hoặc vì bị mất
ngủ trong những ngày vừa qua do đi ngủ muộn, dậy sớm để tới trường, không
ngủ được vì tiếng ồn của ra-đi-ô, ti-vi... Nhưng cũng rất có thể, đó là dấu hiệu
của việc cháu “sắp bị bệnh”, cần cho cháu tới bác sĩ để khám bệnh.
MỎI NHỨC VÌ LỚN
Khi đứa trẻ bị đau lâu, đau đi đau lại thì cần phải đi khám bác sĩ. Vì ngoài
hiện tượng nhức mỏi vì tuổi lớn, có thể có những nguyên nhân khác như nhức vì
bị đau họng chẳng hạn. Khi bị đau vì một chứng bệnh nào đó, thường có các
hiện tượng kèm theo như: Thân nhiệt tăng, người mệt, sút cân, hay chảy máu
cam. Chỗ đau sờ thấy nóng và bị tấy đỏ.
NGỦ KHÔNG YÊN GIẤC
Hiện tượng trẻ em ngủ không đẫy giấc hoặc khó ngủ thường xảy ra trong
một thời gian ngắn và không nghiêm trọng. Tuy vậy, đôi khi cũng làm ảnh hưởng
tới sức khỏe của các cháu và làm cho gia đình lo lắng, có thể do nhiều nguyên
nhân gây ra như mọc răng, viêm tai, viêm họng, khó thở. Nhiều khi lại do trẻ
nóng quá, vì mặc quần áo bó sát mình, hoặc trẻ đái dầm hoặc phòng ngủ sáng
quá hay ồn quá.
Ngoài những nguyên nhân trên, số còn lại là những nguyên nhân tâm lý.
Sợ hãi làm mất ngủ:
- Từ 1 tuổi trở đi, trẻ em thường khó ngủ hơn vì sợ bóng tối, sợ ngủ một
mình. Trước khi ngủ, các cháu đòi có người lớn bên cạnh, được ngủ cùng một
đồ chơi quen thuộc hoặc được nựng yêu, vuốt ve. Tất cả những sự việc này
chứng tỏ cháu đã lớn hơn trước, vì cảm nhận được hiện trạng của mình đối với
môi trường chung quanh.
Nếu những đòi hỏi của các cháu xảy ra một cách đột ngột và kéo dài,
người lớn cần phải tìm hiểu nguyên nhân.
Có khi chỉ vì cháu không muốn phải nằm trong cái giường có chấn song
chung quanh nữa. Hoặc vì cháu hay nằm mơ thấy những cảnh sợ hãi, do cứ
đến tối là nghe thấy mẹ khóc sụt sùi vì chuyện bố cháu luôn phải vắng nhà. Một
cháu bé khác, mỗi lần đi ngủ là một lần người lớn phải khó nhọc dỗ dành, ép
buộc như đánh vật với cháu, nhưng không ai chú ý hiểu tâm lý của cháu, muốn
đợi mẹ đi làm về - mẹ cháu làm y tá thường về muộn - và chỉ ngủ yên giấc khi
thấy mẹ đã ở nhà. Biết được nhu cầu của các cháu, biết cách làm cho các cháu
yên tâm sẽ mang lại cho các cháu giấc ngủ ngon.
Xúc động và kích thích gây khó ngủ:
- Có nhiều nguyên nhân làm cho các cháu nhỏ khó ngủ buổi tối. Có cháu
khó ngủ vì ban ngày đã ngủ một giấc dài ở nhà trẻ. Có cháu có thói quen ngủ
sớm, nhưng cả ngày bố mẹ vắng nhà, tới buổi tối mới gặp con, nên vui đùa
nựng nịu cháu làm cháu quá giấc hoặc vì xúc động, vui mừng quá trước khi ngủ,
cũng làm cho cháu khó đi vào giấc ngủ.
Trước giờ ngủ, không nên làm các cháu bị kích thích như cho các cháu
tập đi, tập nói, hoặc đòi hỏi quá ở các cháu về những vấn đề sạch sẽ.
Các cháu nhỏ, chưa thích ứng với thời gian làm việc quá dài nếu các cháu
phải học quá mệt ở trường, đến tối cháu cũng bị khó ngủ.
Dậy sớm:
- Có nhiều cháu bé có thói quen dậy sớm. Để các cháu khỏi quấy trong
thời gian chờ bữa ăn sáng nên nghĩ ra việc gì để các cháu làm hoặc giải trí. Khi
cháu đi ngủ buổi tối, để một số đồ chơi ở bên cạnh các cháu. Khi thức dậy, cháu
sẽ chơi một mình ngay ở trong giường. Nếu cháu dậy sớm quá, nên cắt bớt các
giấc ngủ ban ngày hoặc cho các cháu đi ngủ chậm vào buổi tối.
Những cháu bắt buộc phải dậy sớm cùng bố mẹ - để bố mẹ đưa tới nhà
trẻ khi đi làm cần phải được cho ngủ sớm, để đảm bảo thời gian ngủ, nếu không
sẽ bị ảnh hưởng đến sức khỏe.
Những liều thuốc ngủ:
- Như đã nói ở phần trên, các cháu bé khó ngủ, khóc đêm làm người lớn
vừa lo lắng, vừa mất ngủ lây làm căng thẳng thần kinh của cả nhà. Nhưng nếu
biết lo cách đối phó trước, thì nhiều khi rất đơn giản: một bình sữa ấm sửa soạn
từ lúc tối, hoặc nhiều khi chỉ cần một ít nước ấm trong bình thôi cũng đủ làm các
cháu lại yên trí ngủ tiếp.
Tóm lại, để chữa bệnh khó ngủ cho các cháu, phần lớn trường hợp không
cần dùng thuốc, cần tìm hiểu nguyên nhân và đáp ứng các yêu cầu tâm lý của
các cháu là đủ. Bởi vậy, nhiều khi bố mẹ các cháu cần nhờ tới sự giúp đỡ của
các bác sĩ chuyên khoa tâm lý về vấn đề này.
RUN, GIẬT MÌNH
Các trẻ sơ sinh dễ bị giật mình: Co tay chân, run cằm, run người... vì
những lý do bình thường (tiếng động, ánh sáng). Trong khi tắm hoặc khi thay tã
lót cũng vậy. Hiện tượng này là bình thường vì hệ thần kinh của cháu còn non
nớt.
Các cháu lớn hơn, cũng hay giật mình hoặc run người mỗi khi có sự việc
gì làm các cháu cảm động.
MƠ HOẢNG BAN ĐÊM
Giữa đêm, đứa trẻ bỗng thức dậy, hốt hoảng. Cháu ngồi lên, sợ hãi nhìn
xung quanh và cũng không biết tại sao mình phát hoảng như thế, tuy chỉ nhớ lơ
mơ về những gì mình vừa thấy trong giấc mơ. Sau đó, cháu lại yên tâm nằm
xuống, ngủ tiếp.
Đôi khi cháu kêu lên, vẻ sợ hãi lúc thức dậy, bước xuống khỏi gường để
tới nép mình trốn ở góc nhà. Nếu ngươi lớn tới, cháu sẽ bám vào chân cho đỡ
sợ, tuy 2 mắt vẫn nhắm nghiền và không biết mình đang ôm chân ai. Cháu nói
lắp bắp chỉ vào bóng tối hay khoảng không, nơi có một hình ảnh nào đó cháu
vừa tưởng tượng mình đã nhìn thấy.
Trong trường hợp như vậy, người lớn nên giữ im lặng, không cần đánh
thức cháu dậy. Chỉ một lát sau, cháu sẽ bình tĩnh và đi ngủ trở lại. Buổi sáng khi
thức giấc, cháu đã quên hết tất cả mọi việc đã xảy ra đêm qua.
Người lớn nên làm gì?
Nếu cháu thức dậy, nên lại ngồi gần, cầm tay cháu và hỏi cháu bằng giọng
bình tĩnh. Nếu cháu muốn kể về nội dung giấc mơ, hãy để cho cháu kể hết. Nếu
cháu muốn bật đèn, nên hé cửa để đèn nơi khác chiếu vào phòng, hoặc bật
ngọn đèn đêm. Không cần ánh sáng chói.
Không nên
Không nên la mắng hoặc chế giễu, cho cháu là nhút nhát, làm cháu càng
sợ hơn.
Không nên vì thế mà đưa cháu sang ngủ chung với người lớn. Làm như
vậy, cháu bé sẽ quen và thấy ngại ngủ một mình.
Hãy tìm nguyên nhân những giấc mơ
Trẻ em từ 2 đến 5 tuổi thường có những giấc mơ ngắn. Những giấc mơ đó
có tác dụng làm thần kinh các cháu thư giãn, làm mờ đi trong trí não bao nhiêu
hình ảnh và hoạt động cháu đã nhìn thấy xung quanh trong cả một ngày. Nhưng
nếu cháu mê sảng luôn và có vẻ sợ buổi tối thì phải tìm nguyên nhân. Nhiều khi,
nguyên nhân rất bình thường như: Giường chật quá, bộ quần áo cháu mặc khi đi
ngủ bó sát vào người quá, hoặc cháu bị nóng, bị tức ngực vì đắp quá nhiều
chăn. Có khi lại là bữa cơm chiều ăn quá no hay vừa coi một bộ phim hình ảnh
đáng sợ trên tivi. Đôi khi, cháu phải mang theo một nỗi lo sợ vào giường ngủ vì
bố mẹ đã ra lệnh: “Cấm được đái dầm?”. Cháu sợ khi thức dậy, bị anh chị em
chế diễu v.v...
Nếu bạn đã chú ý tránh gây cho cháu mọi điều xúc động hoặc ảnh hưởng
như trên mà cháu vẫn tiếp tục mê hoảng và sợ buổi tối, thì nên nói với bác sĩ để
chữa trị cho cháu bằng phương pháp tâm lý.
Người lớn nên hiểu theo cách các trẻ nhỏ về buổi tối như sau: Buổi tối
phải xa cách mọi người - nếu cháu ngủ một mình - buổi tối đáng sợ hãi, mọi vật
sẽ biến đi vì không trông thấy, kể cả nét mặt thân yêu của bố mẹ sẵn sàng bảo
vệ cháu lúc ban ngày. Dùng thuốc không chữa trị được tận gốc hiện tượng mơ
hoảng của trẻ em. Cần có sự săn sóc và tình cảm của những người thân cùng
sự cộng tác của các chuyên gia tâm lý.
TOÁT MỒ HÔI
Toát mồ hôi là một biện pháp quan trọng của cơ thể để điều hòa lại nhiệt
độ.
Trước khi than thở: “Con tôi hay đổ mồ hôi nhiều quá!” Các bà mẹ nên tìm
nguyên nhân nào đã làm bé như vậy. Vì đã đắp nhiều chăn mền cho cháu quá:
việc làm này có hai điểm không có lợi.
Một là: Mồ hôi ra nhiều, cháu bé dễ bị cảm vì đi từ trạng thái bị nóng sang
bị lạnh.
Hai là: Đắp nhiều chăn, mặc nhiều áo làm cho cơ thể bé không quen
chống chọi với cái lạnh, sẽ trở nên yếu ớt hơn những đứa bé khác.
Cũng có những đứa trẻ hay toát mồ hôi nhiều hơn những trẻ khác. Đấy là
đặc điểm cơ địa của cháu mà thôi.
Nên làm gì khi bé sốt và toát mồ hôi
1. Đó là chuyện thường, không có gì đáng lo ngại.
2. Thay quần áo, tã lót và lau khô cho bé để bé khỏi bị lạnh.
3. Cho bé uống nước. Việc này rất quan trọng vì cơ thể bé bị thiếu nước.
Với bé sơ sinh cho bú bình nước. Nếu cháu lớn hơn, có thể cho uống nước trái
cây.
4. Xem có phải vì cháu mặc nhiều quần áo hay đắp nhiều mền quá
không?
5. Xem có phải vì phòng nóng quá không?
NGHIẾN RĂNG
Trong khi ngủ, một số trẻ em nghiến răng kèn kẹt. Hiện tượng này cũng
không có gì quan trọng, nhưng nếu xảy ra thường xuyên thì có thể do vì một số
nguyên nhân tâm lý mà người lớn cần phải tìm hiểu như: Bé có ghen tỵ với anh
chị em nào không? Có cảm thấy bị bỏ rơi không? Có bị căng thẳng, lo sợ vì một
sự việc gì không?
Nếu tìm thấy nguyên nhân và tăng cường thêm sự âu yếm đặc biệt đối với
bé, chứng nghiến răng sẽ không còn nữa.
BÉ ĂN NHIỀU
Nhiều bà mẹ chỉ mong mỏi sao cho con ăn ngon miệng, ăn được. Vấn đề
này rất rộng và nên chuyển thành vấn đề: “Nuôi sao cho con khỏe” thì hơn. Bởi
vì nhiều cháu có tính khó ăn, ăn ít nhưng sức khỏe vẫn tốt. Thế là được rồi. Vấn
đề bé không chịu ăn phần nhiều do nguyên nhân tâm lý.
Ở phần này, chúng ta chỉ chú ý tới: “Tại sao cháu ăn khỏe thế?”. Đối với
các cháu nhỏ, việc cháu ăn được nhiều không đáng mừng và cũng không đáng
lo. Vì nếu dòng dõi cháu có những người to béo thì cháu cũng có xu hướng ăn
nhiều để thành to béo và mai sau, có thể thành một ngươi bụng phệ! Điều này
cũng chẳng hay gì!
Nhưng nếu cháu ăn nhiều mà tạng người vẫn bình thường hay ốm yếu thì
nên nghĩ ngay tới việc chữa trị cho cháu bệnh giun hoặc sán và có thể cả bệnh
tiểu đường nữa.
BÉ KHÔNG CHỊU ĂN
Hiện tượng trẻ em không có bệnh tật gì mà biếng ăn, hay không chịu ăn
phần lớn do nguyên nhân tâm lý chứ không phải bé bị bệnh. Đối với các trẻ sơ
sinh cũng vậy. Vấn đề này có liên quan tới một sự rối loạn nào đó trong quan hệ
giữa mẹ và con.
Trước hết, chúng ta không nên xếp vội các cháu sau đây vào loại biếng
ăn:
- Các cháu có tính ăn thất thường, khi nhiều, khi ít một cách tự nhiên.
- Các cháu hay ăn vặt, lúc đến bữa, vẫn ăn nhưng ăn ít.
Trên thực tế, nếu cộng cả các lần ăn vặt vào bữa chính, thì các cháu ăn
thế là đủ rồi.
Các cháu đáng được để ý săn sóc, có các hiện tượng sau:
- Bỗng nhiên bỏ ăn hay biếng ăn, có vẻ mệt, sốt, đau bụng v.v...;
- Các cháu từ 6 - 18 tháng tuổi bị đau họng; sau khi tiêm chủng; sắp mọc
răng hay đang mọc răng;
- Các cháu vừa cai sữa mẹ.
Ngoài ra, các bà mẹ cũng nên để ý tới các nguyên nhân sau có ảnh
hưởng tới việc ăn của các cháu, như: Thay đổi loại sữa hoặc thức ăn mà các
cháu không ưa, dùng thìa, muỗng để cho bé ăn to quá, cho ăn kiểu nhồi nhét
làm bé sợ, đang ăn lại lau miệng, làm vệ sinh làm cháu mất hứng thú.
Với các cháu đã biết nhận xét, việc thay đổi người cho ăn, cách đối xử với
các cháu khi ăn như nựng nịu khuyến khích hay đe dọa, mắng cháu đều có ảnh
hưởng, hoặc làm cho cháu chịu ăn hay bỏ ăn.
Các bà mẹ cũng không nên quá máy móc về giờ giấc. Cháu bé đang ngủ
không nên đánh thức dậy để cho ăn hoặc buổi tối, nếu cháu khóc có thể cho
cháu bú thêm một ít ngoài bữa chính. Nói chung:
Không nên:
- Bắt buộc cháu ăn, hoặc phải ăn hết;
- Không cần quá chính xác về thời gian của bữa ăn;
- Để các cháu ăn tự nhiên, trong khi ăn không quấy rầy các cháu về những
săn sóc vệ sinh như lau miệng, lau mặt, lau tay.
Nên:
- Để cho các cháu ăn tự nhiên, vì ham thích;
- Cho ăn ít hơn khả năng ăn của bé một ít để nuôi dưỡng xu hướng thèm
ăn, rồi dần dần tăng lên trong các bữa sau;
- Nên cho ăn ở chỗ tĩnh mịch, không có tiếng động hay nhiều người qua
lại, làm các cháu không chăm chú tới việc ăn. Nếu các cháu vẫn lớn đều về
chiều cao thì việc các cháu phát triển hơi chậm về số cân nặng cũng là chuyện
bình thường.
Làm cho các cháu khỏi biếng ăn chủ yếu là vấn đề tâm lý, tìm cách
khuyến khích cho các cháu ăn là tốt nhất. Các bác sĩ nếu được yêu cầu khám
bệnh cho các cháu biếng ăn thường làm những công việc có tính cách “thủ tục”
như: Xét nghiệm máu để đo số hồng huyết cầu, thử phân để xem có bệnh
đường tiêu hóa hay không, thử các phản ứng về bệnh lao v.v...
KHÔNG PHÁT TRIỂN ĐỦ KHI MỚI SINH
Một số cháu bé sinh ra thiếu cân (dưới 2.500g), và không đủ chiều cao.
Sự kém phát triển này đã xảy ra khi đứa trẻ còn ở trong bụng mẹ. Khác với trẻ
đẻ non bị thiếu cân do sinh ra không đủ tháng, hiện tượng này có thể có nhiều
nguyên nhân: trong thời gian mang thai mẹ bị bệnh hoặc bị ngộ độc vì dùng
thuốc có nhiều độc tố, vì nghiện nặng thuốc lá v.v... Cũng có thể vì có sự bất
thường ở nhau thai.
BÉ NGÀY CÀNG GẦY
Gầy không phải là bệnh. Nếu cháu có tạng gầy thì không phải lo. Nhưng,
nếu cháu đang bình thường, bỗng bị gầy đi thì đó là một dấu hiệu cần chú ý.
Một số cháu bé không phát triển đầy đủ so với độ tuổi, đặc biệt là về trọng
lượng. Nếu không phải vì nguyên nhân thiếu ăn thì phần lớn là vì bé bị bệnh kéo
dài như: Viêm tai giữa, viêm đường tiết niệu, tim, thận có chỗ bị dị dạng bẩm
sinh, bị bệnh đường tiêu hóa như rối loạn tiêu hóa, rối loạn về khả năng hấp thu
của ruột đối với một số thực phẩm...
Nếu cháu bé gầy, không lớn hoặc lớn chậm thì bố mẹ cháu cần suy nghĩ
để trả lời 2 câu hỏi sau;
1. Thưở nhỏ (như bé, mình có gầy như thế không?)
2. Tuy gầy như vậy, nhưng cháu có ăn được, ngủ được, có vẫn nô đùa vui
vẻ như các trẻ khác không?
Nếu câu trả lời là:
- Có: Thì không có gì đáng lo ngại. Vì “tạng” người của cháu là như vậy,
giống như tạng của bố mẹ.
- Không: Thì có thể vì các nguyên nhân như: ăn chưa đủ chất, ăn không
đúng giờ giấc, chế độ ngủ không đẫy giấc, ăn, ngủ không đủ để bồi lại sức tiêu
hao lúc bé hoạt động.
Nếu bé bị gầy một cách bất thường quá thì cũng nên nghĩ tới một số bệnh
như bệnh tiểu đường chẳng hạn. Và nên đi bác sĩ để kiểm tra.
TÁI MẶT ĐỘT NGỘT
Đứa trẻ bỗng tái mặt đi rồi lại bình thường trở lại. Tại sao? Có điều gì làm
bé sợ hoặc bé bị lạnh chăng?
Nếu thế phải sưởi ấm cho bé ngay, sắc mặt bé sẽ hồng trở lại.
Có trường hợp bé ho, ngạt mũi và được nhỏ thuốc vào lỗ mũi để làm co
niêm mạc, cũng làm sắc mặt bé tái đi trong chốc lát.
Còn những trường hợp như sau, cần phải hỏi bác sĩ:
- Không rõ lý do gì, mặt bé bỗng tái đi và bị ngất:
- Phải gọi bác sĩ hoặc đưa bé tới bệnh viện ngay.
Vậy điều gì có thể đã xảy ra?
Bé có thể đã uống một thứ gì hoặc thuốc độc đối với bé, mà ta không biết
(coi thường ngộ độc). Chân tay bé đã có lúc co quắp lại mà người lớn cũng
không biết.
Nếu bé tỉnh nhưng có vẻ bị choáng, chân tay lạnh, vẻ mặt sợ hãi: Có thể
bé bị ngộ độc hoặc bị đau do một vết thương nào đó. Trong khi chưa có bác sĩ,
hãy đặt bé nằm thẳng trên giường, đầu hơi thấp hơn chân và sưởi ấm hoặc
chườm nóng cho cháu, mỗi bên người một chai nước nóng để ngoài chăn và
cẩn thận để không làm cháu bị bỏng.
Cũng có thể đây là dấu hiệu của sự xuất huyết nội: Hiện tượng này có thể
đã xảy ra trước đó hàng giờ hoặc trước nhiều ngày do một va chạm mạnh làm
tổn thương tới thận hoặc lá lách.
Bé thường bị tái mặt luôn như thế: Rõ ràng là hiện tượng này không phải
do bé bị xúc cảm mà do nguyên nhân phức tạp hơn. Cần phải cho bé tới bác sĩ.
CHẬM BIẾT ĐI
Biết đi là một giai đoạn quan trọng trong đời sống của một đứa trẻ, đánh
dấu một sự phát triển tốt về các mặt cơ thể, tâm lý và tình cảm.
Những điều kiện cần phải có để cháu bé biết đi bao gồm: Bộ xương đủ
cứng cáp, các cơ bắp, hệ thần kinh và nhất là bộ não đã phát triển được bình
thường tới mức nào đó do quá trình được nuôi dưỡng đầy đủ với thức ăn giàu
Prôtêin và Vitamin; sự săn sóc về mặt tâm lý và tình cảm cũng có vai trò quan
trọng kích thích đứa bé cố gắng trong việc tập đi.
Trẻ em thường bắt đầu tập đi ở độ tuổi từ 12 tới 14 tháng. Nhưng cũng tùy
vào thể trạng từng cháu, mà thời gian này có thể xê dịch từ tháng thứ 10 tối 18.
Nếu sau 20 tới 22 tháng tuổi mà cháu vẫn chưa biết đi, chúng ta mới nên lo rằng
cháu chậm biết đi.
Việc chậm biết đi của trẻ em có thể do các cháu đã trải qua một thời gian
bị ốm, dù chỉ là những căn bệnh ngắn ngày và không trầm trọng như viêm
xoang, họng, đau tai v.v... Ngươi cháu bé mập mạp quá cũng là một nguyên
nhân làm cháu bé biết đi chậm hơn các cháu khác một vài tuần hoặc một vài
tháng. Nhiều cháu ham thích bò hay lết nên cũng quên lãng việc tập đi.
Các cháu chưa biết đi sau tháng thứ 18 cần được chú ý: Cháu có bị tật ở
đoạn xương chân nào không, nhất là đoạn khớp với xương hông. Ngoài ra cũng
phải chú ý tới hệ cơ bắp có bị chứng teo cơ bắp chân hoặc một số các bệnh về
cơ bắp khác không. Ngoài ra, các bệnh về hệ thần kinh và cột sống mắc phải
sau khi sinh, hoặc do bẩm sinh đều có ảnh hưởng tới khả năng giữ người được
cân bằng hoặc làm chân bị liệt khiến đứa trẻ không đi được bình thường.
Nếu trí khôn cháu bé phát triển bình thường mà lại chậm biết đi thì cháu
có thể bị thương tổn ở não ảnh hưởng tới việc điều khiển vận động của cơ thể.
Nhiều phương pháp luyện tập đặc biệt có thể áp dụng trong những trường hợp
này để giúp các cháu vượt qua được những khó khăn khi tập đi.
Nếu những nguyên nhân trên đều không có mà cháu bé lại chậm biết đi thì
nhiều khả năng là do thiếu chất vitamin D trong các chất dinh dưỡng hoặc không
được người lớn săn sóc đầy đủ và chú ý khuyến khích cháu bé tập đi khi đã tới
độ tuổi.
CHẬM BIẾT NÓI
Sau 3 năm tuổi mà cháu bé chưa bập bẹ nói được 2 âm khác nhau, thì bố
mẹ phải chú ý.
Trước hết phải nhờ bác sĩ thử xem cháu bé có nghe được không. Rất có
thể, cháu bị điếc nhẹ, bị thương tổn một phần tai mà người lớn không biết.
Sau đó, phải kiểm tra xem cháu có bị tật gì không bằng cách quan sát các
cử chỉ, động tác, ứng xử của cháu bé khi cháu chơi đùa. Bác sĩ có thể có các
cách thử theo phương pháp chuyên môn để kiểm tra về trạng thái tinh thần của
cháu bé.
Hiện tượng bé chậm biết nói còn có thể là biểu hiện sự phát triển chậm về
nhận thức của bé hoặc ảnh hưởng không có lợi của môi trường chung quanh đối
vối cháu.
Nếu tất cả những nguyên nhân trên đều được loại bỏ thì chỉ còn lại các
vấn đề như: Cháu bé không được người lớn khuyến khích nói, sự chú ý săn sóc
cháu chưa được đầy đủ v.v... Cháu cũng sẽ biết nói, nhưng cần phải chú ý luyện
tập cho cháu để khỏi gặp khó khăn khi cháu đến tuổi tới trường.
MẤT TIẾNG NÓI
Hiện tượng mất tiếng nói khác hiện tượng chậm biết nói. Cháu bé vẫn
phát triển trí khôn bình thường, nhưng bỗng nhiên cháu không chịu nói nữa.
Hiện tượng này có khi chỉ là tâm lý xảy ra khi cháu bé ở ngoài gia đình, như ở
trường chẳng hạn. Cháu có đủ trí khôn, nhưng vì cảm động, nhút nhát nên
không thể hiện được những ý nghĩ của mình.
Khi cháu chế ngự được nhưng cảm xúc của mình thì cháu lại nói được:
Đó là hiện tượng “không nói được có điều kiện”.
Hiện tượng không chịu nói hoàn toàn xảy ra khi có một cú sốc tình cảm
đột ngột. Cháu có thể bỏ cả ăn và không kiềm chế được việc tiểu tiện ra quần.
Vài ngày hoặc vài tuần sau sự kiện làm cháu bé xúc động đột ngột, cháu
có thể lại nói được một cách chậm chạp.
Những yếu tố làm cháu bé không nói còn có thể do môi trường đã gây cho
cháu thái độ thờ ơ, không quan tâm tới cuộc sống và mọi người chung quanh.
NÓI LẮP
Tật nói lắp thường gặp ở bé trai từ 3 - 5 tuổi. Người ta cho rằng các cháu
này nghĩ nhanh hơn nói, trong lúc chưa đủ từ vựng để diễn đạt ý nghĩ của mình.
Hiện tượng các cháu vẫn duy trì tật nói lắp khi đã lớn, người ta chưa giải thích
được, có thể do tính nhút nhát, dễ cảm động có ảnh hưởng rất nhiều tới tật này.
Người ta phân biệt 2 loại nói lắp: Lắp đi lắp lại một trọng âm trong câu hay
lắp ngay ở âm đầu khi bắt đầu nói. Hoặc phối hợp cả 2 loại.
Một người nói lắp cũng biểu thị trạng thái tinh thần không bình thường, có
thể có quan hệ căng thẳng với gia đình và những người xung quanh. Một cháu
bé nói lắp thường có cử chỉ ngượng nghịu, lúng túng. Sợ bị trêu ghẹo, cũng là
một nguyên nhân góp phần tạo ra tật nói lắp.
Để chữa bệnh nói lắp cho các cháu, nên nhờ các nhà giáo chuyên dạy về
phát âm, đồng thời động viên các cháu về mặt tâm lý.
KHẢ NĂNG PHÁT ÂM HẠN CHẾ
Nhiều cháu bé phát âm không rõ hoặc không phát âm đúng một số âm
như: R, L, N... vì có tật ở lưỡi không ở đúng vị trí. Có người lại cho nguyên nhân
là tại răng.
Ngày nay, người ta cho rằng việc cháu bé chỉ có khả năng hạn chế về
phát âm như thế, xảy ra trước khi có những hiện tượng bất thường về răng, và
có thể tránh được hoặc chữa khỏi nếu cháu bé được luyện tập từ khi 4 - 5 tuổi
về động tác uốn lưỡi.
TRẺ THUẬN TAY TRÁI
Nhiều trẻ em có thói quen đặc biệt, sử dụng tay trái nhiều hơn tay phải
nên làm việc gì cũng thuận tay trái hơn, tuy rằng vẫn ngắm nhìn thuận mắt phải
(nhắm mắt trái lại), hoặc đá bóng chân phải mạnh hơn chân trái. Để khuyến
khích cháu bé sử dụng tay phải, người lớn nên để các đồ dùng hàng ngày bên
tay phải của cháu như thìa ăn, bút viết v.v... Nhưng nếu cháu vẫn sử dụng bằng
tay trái thì người lớn cần nhận xét xem cấu tạo cơ thể của cháu bé có điều gì thể
hiện là thiên về bên trái không, như mắt trái tốt hơn, tay chân trái khỏe hơn... và
bàn bạc với bác sĩ để cho cháu sử dụng bên tay trái là chính. Ngày nay, người ta
không khắt khe với những cháu thuận tay trái, vì xét cho cùng, thế giới này
không có định luật nào đặc biệt chỉ dành mọi thứ thuận lợi cho những người
thuận tay phải. Một người cầm bút viết bằng tay trái chưa chắc sẽ vì thế mà gặp
nhiều trắc trở trong cuộc sống.
Tuy vậy, nếu cháu bé đang sử dụng hai tay như nhau, thì các bà mẹ nên
hướng cho cháu sử dụng cho quen bàn tay phải như đa số chúng ta.
NHỮNG ĐỘNG TÁC BẤT THƯỜNG
Có những cháu bé hoàn toàn khỏe mạnh nhưng lại có những động tác bất
thường như lắc lư đầu từ trái qua phải, hoặc gật đầu như người chào hàng giờ
đồng hồ. Lại có những cháu có thói quen đập đầu xuống giường hoặc đưa tay
sờ bộ phận sinh dục của mình khi sắp ngủ.
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng để chữa những hiện tượng này ở các
cháu, người lớn nên chú ý tìm hiểu các cháu về mặt tâm lý như có phải cháu
cảm thấy mình không được săn sóc đầy đủ không, cháu có ghen tị với anh, chị,
em về việc gì không, cháu có phải ức chế trong người mình một tình cảm gì, một
nỗi buồn hoặc nỗi sợ gì mà cháu không nói được ra không? Trong những trường
hợp như vậy thì bố mẹ chỉ cần tăng cường an ủi, âu yếm cháu làm cháu yên tâm
là các hiện tượng trên sẽ giảm hoặc hết ngay.
Nhiều bậc cha mẹ đã nhờ các chuyên viên tâm lý tiếp xúc với các cháu bé
để tìm nguyên nhân và phương pháp chữa trị.
Nhưng phần lớn trường hợp không phải chữa trị gì, khi các cháu tới độ từ
2 tới 4 tuổi, các hiện tượng trên cũng sẽ hết.
Đôi khi, có thể cho cháu uống thuốc an thần theo đơn và sự chỉ định của
bác sĩ, cũng có nhiều hiệu quả.
CHỨNG CO GIẬT CƠ BẮP
Chứng co giật cơ bắp ít thấy ở trẻ em từ 3-4 tuổi trở xuống. Chứng này có
những biểu hiện co giật cơ bắp trong thời gian ngắn, xảy ra bất chợt, hay lặp đi
lặp lại nhiều khi không cố ý như: nháy mi mắt lia lịa, chép miệng, lắc đầu, lắc cổ,
lắc vai liên tục v.v...
Những biểu hiện này có thể do nguyên nhân thần kinh bị căng thẳng, vì lo
ngại một điều gì. Những cử chỉ chép miệng, lắc đầu, oằn người chỗ đông, nhiều
khi làm cho những người xung quanh thấy khó coi.
Không có thuốc chữa trị chứng này. Chủ yếu là người đang có những hiện
tượng co giật phải chủ động bình tâm và tự chủ. Các cơn co giật rồi sẽ qua đi.
Những trường hợp nặng cần phải có sự giúp đỡ của bác sĩ tâm lý về thần
kinh.
CHỨNG TỰ KỶ VÀ LOẠN TÂM THẦN
Tự kỷ là hình thức nghiêm trọng nhất của rối loạn tâm thần ở trẻ em, có
đặc điểm là đứa trẻ tự tách rời với thực tế và môi trường chung quanh. Đứa trẻ
mới sinh không thể hiện rõ bệnh, nhưng từ tháng thứ 18 trở đi, cha mẹ và những
người săn sóc cháu có thể thấy rõ các triệu chứng của bệnh.
Cháu bé lúc nào cũng có vẻ thờ ơ, không chú ý gì tới cuộc sống và các
hoạt động chung quanh, không đáp lại sự săn sóc của người lớn bằng nét mặt,
cách nhìn hay nụ cười.
Các hoạt động tay chân thường không liên quan gì với nhu cầu thực tế,
lặp đi lặp lại như máy, như các cử chỉ của những con rối, hai cánh tay đung đưa,
nhiều khi không ăn nhịp với thân thể. Cháu vẫn lớn nhưng trí khôn trì trệ, kém
phát triển, không nói được hoặc nói không ra câu, khó hòa nhập với xã hội.
Nguyên nhân của bệnh, cho tới nay vẫn chưa được xác định rõ ràng, ngành y
học vẫn dừng lại ở dự đoán: Rối loạn sinh hóa của cơ thể, dị dạng nhiễm sắc thể
và một số hội chứng cần phải nghiên cứu thêm. Đi tìm các phương pháp chữa
trị, người ta đặc biệt chú ý về mặt tâm lý của các cháu bị bệnh hoặc phải sống xa
cách với xã hội, hoặc cùng sống chung nhưng lại bị các bạn cùng lứa tuổi chế
giễu, trêu chọc.
MÚT TAY
Trẻ sơ sinh mút tay là việc bình thường. Người ta thấy nhiều cháu bé mới
sinh đã có ngón tay cái ửng đỏ vì các cháu mút tay từ trong bụng mẹ. Tuy vậy,
trẻ mút tay cũng là một tín hiệu để bà mẹ chú ý xem cháu đã được ăn đủ chưa.
Mỗi lần cháu bú tí mẹ phải lâu khoảng 15 phút thì cháu mới đủ no. Hoặc nếu
cháu bú bình, thì phải kiểm tra lại xem những cái lỗ ở núm vú cao su có lớn quá
hay nhỏ quá không? Vì lỗ lớn sẽ làm cháu sợ vì sữa ra nhiều làm cháu sặc, mà
nhỏ quá thì cháu phải ra sức mút mà sữa vẫn ra ít, làm cháu mệt. Sau này, khi
lớn lên thêm một chút nữa, các cháu cũng hay mút tay khi ngủ, dường như có
làm vậy mới yên tâm.
Từ cai sữa đến 6 tuổi:
Cứ 3 trẻ thì có 1 cháu mút ngón tay ở độ từ 1 cho đến 4 tuổi. Các cháu
hay mút ngón tay trước khi ngủ: Khi cháu không có gì để chơi, khi cháu thấy
người khó chịu hay đang mọc răng; khi mẹ lại sinh một em nữa làm cho cháu có
ý nghĩ mình bị bỏ rơi; khi các cháu được chiều chuộng quá hoặc ngược lại, khi
người lớn tỏ ra nghiêm khắc đối với cháu.
Người lớn phải làm gì? Nên bình tĩnh và yên tâm chờ đợi, khuyên bảo nhẹ
nhàng. Các cháu mút tay như thế có ảnh hưởng tới răng sau này không? Không.
Vì răng của các cháu ở tuổi này chỉ là răng sữa, sẽ rụng để đổi các răng vĩnh
viễn khác.
Sau 6 tuổi:
Cháu bé đã hơn 6 tuổi còn ngậm ngón tay có thể do thói quen trước khi
ngủ, hoặc cũng có thể là một vấn đề tâm lý. Cháu muốn trở lại thời kỳ mấy năm
về trước: Hồi đó cháu chưa phải tới trường, ngồi trong các lớp học có kỷ luật
nghiêm khắc và những bài tập viết khó khăn, mệt nhọc như hiện nay. Bạn hãy cố
tìm hiểu tâm tư cháu, an ủi, khuyến khích cháu. Nếu bạn làm cho cháu tự hào
với độ tuổi của cháu, cháu sẽ tự động bỏ mút tay ngay.
Ở tuổi này, các răng vĩnh viễn đã mọc. Bởi vậy, việc mút ngón tay có thể
ảnh hưỏng tới sự đều đặn và hình dáng của cả hàm răng. Nếu có hiện tượng đó
rồi, (thí dụ hàm răng trên hoặc dưới có vẻ nhô ra), nên đưa cháu tới bác sĩ khoa
răng hàm mặt để chỉnh hình cho cháu.
Nên làm gì để các cháu khỏi mút tay?
Nên động viên khuyến khích các cháu là chính. Không nên dùng các
phương pháp thô bạo như: Buộc tay, bắt đeo găng tay hoặc bôi các chất đắng
vào ngón tay.
NHAI LẠI
Một số trẻ, kể cả trẻ sơ sinh và trẻ đã lớn có thói quen ợ thức ăn lên miệng
rồi nhai, giống như loài nhai lại. Nguyên nhân có thể do các cháu bị rối loạn nhẹ
về các phản ứng tình cảm.
Nếu thấy cháu bị gầy đi, các bà mẹ nên cho bác sĩ biết vì tật nhai lại này.
Nhiều khi cần phải cho các cháu nằm bệnh viện hoặc chữa trị bằng phương
pháp giáo dục.
NÔN ÓI
Các cháu mới sinh thường hay ói. Có nhiều nguyên nhân. Người lớn coi
sóc các cháu nên chú ý xem cháu bị nôn ói trong trường hợp nào, có kèm theo
các triệu chứng gì không thì mới xác định được là hiện tượng này không quan
trọng hoặc đáng lo ngại. Hiện tượng nôn ói có thể như sau:
* Đang khỏe mạnh bỗng nôn ói kèm sốt, tiêu chảy: có thể do bị bệnh thuộc
loại tai - mũi - họng, hoặc vì các chất tiêu hóa di chuyển ngược chiều ở đoạn dạ
dày, ruột, bị đau màng óc; viêm niệu đạo v.v... Nôn ói sẽ dẫn tới hiện tượng cơ
thể thiếu nước.
* Bỗng nhiên bị nôn ói, không sốt nhưng không muốn uống, bị đau bụng
không đi tiêu được: Có thể bị rối loạn tiêu hóa hoặc lồng ruột, tắc ruột, cần tới
bác sĩ ngay.
* Bị nôn nhiều lần, bị đi bị lại, ngưng tăng cân: Viêm tai hay viêm niệu đạo.
* Mới sinh được vài tuần đã bị nôn ói: cần chiếu X-quang để xem môn vị
có bị hẹp không. Nếu cần phải phẫu thuật.
Phần lớn các cháu bé nôn ói vì thức ăn chuyển động ngược lại ở đoạn
thực quản - dạ dày.
Các cháu nhỏ thường nôn ói vì động cơ tâm lý, làm nũng mẹ.
Các cháu lớn hơn nếu bị nôn ói kèm theo đau bụng và sốt có thể do các
bệnh đau ruột thừa, đau màng não, viêm gan...
BÉO BỆU
Các cháu bé béo bệu (mập ú) là vì ăn nhiều quá. Cũng có các cháu là con
cháu những gia đình có nhiều người béo mập, nhưng nếu người lớn béo như
vậy thì cũng là do ăn nhiều quá mức mà thôi. Bởi vậy, để các cháu khỏi béo bệu,
nên có chế độ ăn vừa đủ theo sự hướng dẫn của bác sĩ.
Sự béo quá của các cháu, nhất là các cháu nhỏ, không có lợi cho sức
khỏe. Đối với các cháu lớn, chúng ta nên chú ý rằng lượng thức ăn cháu ăn
hàng ngày phải kể tới cả những lần cháu ăn quà vặt nữa, để rút bớt lượng thức
ăn trong các bữa chính đi.
Việc chữa béo cũng khó vì cần có sự quyết tâm và tự nguyện của người
béo, có đủ tinh thần chống cự cám dỗ của thức ăn cùng sự giúp đỡ và hỗ trợ
của các người thân chung quanh.
TẬT NGUYỀN
Một cháu bé không may có thể bị tật nguyền làm giảm trí thông minh, giảm
sức lực, giảm khả năng cảm giác của mắt, tai v.v...
Những dấu hiệu báo động: Để ngăn ngừa tật nguyền ở trẻ, các bác sĩ
thường yêu cầu các bậc cha mẹ phải chú ý phát hiện những triệu chứng lạ, đáng
báo động ở các cháu trong thời gian sớm nhất, ngay từ những tuần lễ đầu hay
tháng đầu sau khi sinh.
Những triệu chứng này có thể khi có, khi không trong 3 tháng đầu tiên nên
phải theo dõi liên tục. Thí dụ: Các hiện tượng cổ của bé quá yếu không giữ được
đầu thẳng, khó ngồi, khó đứng v.v...; các cử động tay chân, cử động quay người,
sự chú ý tới mọi hoạt động chung quanh, tới ánh sáng; màu sắc v.v.. có những
biểu hiện khác thường. Hiện nay, người ta có nhiều phương pháp phát hiện
được các cháu bé bị yếu về một mặt nào đó, như: Nhìn kém, nghe kém, không
chú ý được.v.v...
Nếu đứa con bị tật nguyền, cha mẹ nên có thái độ như thế nào? Khi có
đứa con bị tật nguyền, chính bố mẹ là người cần được an ủi để chấp nhận và
bình tĩnh tìm cách chữa trị, chăm sóc cho cháu bé sau này. Xã hội nào cũng có
các tổ chức dành riêng cho các cháu như vậy. Bố mẹ các cháu nên tìm hiểu về
các tổ chức này, để đưa các cháu tới sinh hoạt, không nên tách mình hoặc tách
các cháu ra khỏi các hoạt động của cộng đồng. Đó là cách xử sự của những
người bi quan, không có ích gì cho các cháu.
Trang sách này không thể nói hết mỗi trường hợp vì có nhiều loại tật bệnh.
Ở nước nào cũng có các địa chỉ các tổ chức như: Hội các phụ huynh có con bị
tật nguyền; Trung tâm các trẻ bị liệt; Hội cứu trợ các trẻ bị bệnh về cột sống, về
thần kinh v.v... rất có ích cho gia đình các trẻ bị tật.
Việc săn sóc và chữa trị cho các trẻ tật nguyền phải dựa vào nguồn tài
chính của bố mẹ là chính. Nếu bố mẹ không đủ khả năng, họ có thể nhờ sự giúp
đỡ của các hội từ thiện để được hỗ trợ. Thường người ta phân biệt các mức hỗ
trợ dựa vào tình hình của cháu bé:
- Cháu cần phải có người săn sóc hàng ngày nhưng không cần lúc nào
cũng phải ở liền bên cháu.
- Cháu bị tật nặng, cần phải được săn sóc bằng các phương tiện kỹ thuật
cao, thuốc thang đắt tiền;
- Tiền phí tổn bố mẹ các cháu có thể gánh được bao nhiêu? Cần được hỗ
trợ một phần hay tất cả?
- Bố mẹ các cháu có thể tham gia săn sóc các cháu không? Có thể nghỉ
việc để ở gần các cháu không?
DỊ ỨNG SỮA Ở TRẺ EM
Trẻ em thường dị ứng sữa do hệ miễn dịch phản ứng quyết liệt vối những
thành phần Protein trong sữa. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được
xác định, song người ta cho rằng có thể do các yếu tố di truyền kết hợp với việc
cho trẻ bú sữa bò hay sữa đậu nành quá sớm.
Triệu chứng của dị ứng sữa bò nói chung thường xuất hiện trong vòng 6
tháng tuổi và thuộc 1 trong 2 kiểu phản ứng: Nhanh hoặc chậm.
- Kiểu phản ứng dị ứng nhanh thường xảy ra đột ngột với các biểu hiện
như ói mửa, thở khò khè, nổi ban đỏ, mặt sưng phù. Nặng hơn là phản ứng
phản vệ toàn thân.
- Biểu hiện của phản ứng dị ứng chậm thường nhẹ hơn hoặc không rõ
ràng như trẻ bứt rứt khó chịu, quấy khóc thường xuyên, ói mửa, đau bụng, đi
cầu phân lỏng (có thể dính ít máu), chậm tăng cân và tăng trưởng không đạt
mức bình thường. Những triệu chứng này thường khó chẩn đoán vì rất giống với
biểu hiện của nhiều bệnh lý khác. Hầu hết trẻ ở thế này sẽ qua tình trạng bất
dung nạp sữa lúc 2 tuổi.
Cần phân biệt triệu chứng dị ứng sữa bò với sự bất dung nạp Lactose,
trong đó trẻ thướng bị chướng bụng, đầy hơi, đau bụng và tiêu chảy do không
tiêu hóa được đường Lactose trong sữa.
Để chẩn đoán bệnh chính xác cần:
- Xét nghiệm phân. Phân của trẻ bị dị ứng sữa bò thường có lẫn máu,
trong khi phân của trẻ bị bất dung nạp Lactose lại có tính axít và chứa thành
phần đường không tiêu hóa được.
- Xét nghiệm thử phản ứng dị ứng trên da. Nếu thấy nổi một đốm đỏ và
cứng ở chỗ tiêm thì có phản ứng. Tuy nhiên, test này chưa phải là đặc hiệu vì
nhiều trẻ nhỏ bị dị ứng với sữa bò vẫn cho kết quả âm tính, trong khi nhiều em
lớn hơn không bị dị ứng lại cho kết quả dương tính.
Nguyên tắc điều trị dị ứng sữa bò chủ yếu là:
1. Tránh tác nhân gây dị ứng và thay đổi lối sống: Nếu trẻ bị dị ứng thuộc
kiểu phản ứng nhanh, cần chuyển sang dùng sữa đậu nành. Nếu không có hiệu
quả thì tiếp tục chuyển sang những loại thực phẩm có thành phần Protein ít gây
phản ứng dị ứng như sữa gạo, sữa hạnh nhân và những sản phẩm ghi nhãn là
Non-dairy hay Pareve. Thời gian sử dụng các sản phẩm thay thế kéo dài từ 2
đến 12 tháng, sau đó cho trẻ dùng lại sữa bò để kiểm tra sự dung nạp. Nếu vẫn
còn dị ứng thì tiếp tục dùng lại sản phẩm thay thế và cứ 3-6 tháng lại kiểm tra
một lần.
Ngoài ra, có thể chuyển sang bú mẹ nếu trẻ còn nhỏ và mẹ còn sữa, tuy
nhiên chế độ ăn của mẹ cần loại bỏ những thực phẩm chứa sữa, do các Protein
trong sữa bò có thể đi qua sữa mẹ.
2. Dùng các thuốc như Cromolyn, Antihistamin, Ketotifen, Corticosteroid
và các thuốc ức chế tổng hợp Prostaglandin theo chỉ định của bác sĩ. Thuốc
Epinephrine được sử dụng trong trường hợp bị phản ứng phản vệ cấp tính.
Cách phòng ngừa:
- Luôn kiểm tra thành phần ghi trên nhãn sản phẩm trước khi sử dụng.
Ngay cả những sản phẩm dùng quen vẫn phải đọc lại vì nhà sản xuất có thể thay
đổi thành phần.
- Cần báo cho người chăm sóc trẻ như người trông trẻ, cô giáo, ông bà...
về tình trạng dị ứng của trẻ.
- Phải ghi rõ tiền sử dị ứng của trẻ trong hồ sơ liên quan.
- Chuẩn bị sẵn một số thuốc chống dị ứng tại nhà để dùng khi cần thiết.
- Nếu trẻ bị phản ứng phản vệ cấp, cần nhanh chóng đưa đi bệnh viện
ngay.
LÀM GÌ KHI TRẺ SẶC SỮA
Bé đang bú bỗng ho sặc sụa, tím tái và lịm đi. Đó là bé đã bị sặc sữa, một
tai biến thường gặp khi bú bình. Sữa tràn vào khí quản, thậm chí vào tận phế
nang làm tắc đường hô hấp hoặc cản trở quá trình trao đổi khí giữa phế nang và
mao mạch, khiến trẻ có thể chết vì thiếu ôxy.
Gặp trường hợp này cần cấp cứu ngay vì đưa đi bệnh viện lúc này thường
không cứu kịp. Người lớn phải khẩn trương làm cho sữa ra khỏi đường hô hấp,
nhanh nhất và đơn giản nhất là dùng mồm mình hút mạnh vào miệng và mũi bé.
Hút càng nhanh, càng mạnh càng tốt, nếu để chậm sữa sẽ vào sâu trong khí
quản khó rút ra, trẻ bị tắc thở lâu, khó cứu. Sau đó, hút kỹ những sữa còn đọng
ở họng và mũi, nhổ đi. Khi hút xong nên kích thích mạnh vào đầu trẻ, để cháu bé
khóc và thở được. Ngay sau đó mới khẩn trương đưa trẻ tới bệnh viện để tiếp
tục cứu chữa và giải quyết hậu quả.
Sặc sữa có thể do nhiều nguyên nhân:
- Do lỗ thông đục ở đầu vú cao su to quá, sữa chảy nhanh, mạnh làm trẻ
nuốt không kịp.
- Một số trẻ có thói quen vừa ăn vừa ngủ, miệng ngậm vú sữa vẫn chảy
nhưng không nuốt. Khi thở mạnh, trẻ có thể hít sữa đưa lên mũi vào khí quản,
phế quản gây ra sặc.
- Trẻ 3-4 tháng tuổi đã bắt đầu biết hóng chuyện. Nếu người vừa cho bú
vừa à ơi nói chuyện, trẻ mải hóng chuyện ngậm sữa trong miệng không chịu
nuốt. Lúc thích chí, trẻ toét miệng cười, sữa tràn vào khí quản gây sặc.
Để đề phòng sặc sữa, không nên cho trẻ vừa bú vừa ngủ, không đùa với
trẻ khi đang bú. Khi cho bú nên bế trẻ cao đầu, ở tư thế thoải mái, không nên để
gập cổ hoặc ngửa cổ quá (gập cổ sẽ gây khó nuốt, còn ngửa cổ thì dễ bị sặc
sữa lên mũi). Khi trẻ ho hoặc khóc thì phải ngừng cho bú ngay, không để sữa
tiếp tục chảy xuống miệng trẻ.
CHẢY MÁU CAM VÀ CÁCH XỬ LÝ
Hiện tượng này đứng hàng đầu về tần số xuất hiện trong các triệu chứng
chảy máu tự phát đường hô hấp trên. Theo y văn thế giới, khoảng 60% dân số
chảy máu cam ít nhất một lần trong đời; trong đó chỉ 6% cần được chăm sóc y
tế.
Niêm mạc mũi dễ chảy máu vì có nhiều mạch máu tập trung với mạng lưới
mao mạch rất dày. Chảy máu mũi hay gặp nhất ở người trên 40 tuổi (64%) do
thành mạch ở độ tuổi này có sức đàn hồi kém. Số bệnh nhân tăng đáng kể trong
giai đoạn chuyển mùa vì sự thay đổi thời tiết ảnh hưởng lớn đến một số bệnh
toàn thân (như tăng huyết áp, dị ứng...) hoặc gây rối loạn vận mạch, làm tổn
thương niêm mạc hốc mũi.
Ngoài các ca chảy máu mũi do tăng huyết áp, chấn thương, viêm nhiễm
tại chỗ, nhiễm trùng toàn thân (sốt do vi rút, viêm gan mạn tính, tiểu đường, suy
thận...), phần lớn trường hợp không xác định được nguyên nhân. Đây là loại
chảy máu mũi tự nhiên, lượng máu chảy ít, tự cầm, hay tái diễn, thường xảy ra
khi gắng sức hoặc đi ngoài trời nắng.
Khi bị chảy máu mũi, trước hết nên tìm cách cầm máu, khi ổn định mới
tiến hành tìm hiểu nguyên nhân. Tại nhà, nếu chảy máu nhẹ (máu chảy nhỏ giọt
ra phía trước của mũi, số lượng ít), nên để người bệnh ngồi cúi về phía trước,
dùng ngón cái và ngón trỏ bóp chặt hai cánh mũi trong 10 phút, máu có thể cầm.
Ở những nơi có sẵn lá nhọ nồi hay lá chuối non, nên giã nhỏ lá này rồi nhét vào
bên mũi chảy máu.
Nếu máu vẫn tiếp tục chảy nhiều ra trước mũi và xuống dưới miệng, phải
nhớ luôn luôn đùn máu ra phía ngoài miệng, tuyệt đối không được nuốt (để tránh
chướng bụng và những chất độc do máu phân hủy thành). Cho uống thuốc an
thần như Seduxen (nếu có). Nếu ở xa cơ sở y tế, có thể tìm đoạn vải dài, sạch
ấn sâu vào trong hốc mũi chảy máu; sau đó khẩn trương vận chuyển người
bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để cầm máu và tìm nguyên nhân sớm điều trị.
Chảy máu mũi rất hay tái phát. Do đó, để phòng tránh, bệnh nhân cần
thực hiện đúng hướng dẫn của thầy thuốc như: Tiếp tục điều trị những viêm
nhiễm tại mũi, khám và điều trị các nguyên nhân gây chảy máu mũi đã được xác
định.
BỆNH MẮT LÁC Ở TRẺ EM
Khi bị lác, trẻ thực sự chỉ nhìn bằng một mắt vì não chỉ nhận hình ảnh từ
mắt tốt (mắt nhìn đúng hướng). Sau một thời gian dài, do không được sử dụng,
mắt lác sẽ nhìn rất kém. Việc nhìn một mắt khiến trẻ khó nhận thức được chiều
sâu, hình nổi của đồ vật và gần như bị lòa một mắt.
Bình thường, các cơ của mắt hoạt động rất cân bằng dưới sự điều khiển
của các dây thần kinh để hai tròng mắt nhìn đúng hướng. Khi sự cân bằng này
mất đi, mắt không nhìn được đúng hướng và sinh ra lác. Nguyên nhân gây lác
có thể là viễn thị, cận thị, do dây thần kinh hoặc cơ mắt bị bệnh hay chấn
thương.
Lác ít thấy ở trẻ sơ sinh mà thường gặp ở tuổi bắt đầu đi học, khi thị giác
đang trong thời kỳ phát triển (trẻ bắt đầu biết sử dụng mắt và sự phối hợp hoạt
động của các cơ mắt chưa được cân bằng). Thường chỉ có một mắt bị lác. Khi
này, hai tròng mắt không thể cùng nhìn về một hướng, một mắt nhìn vào chỗ trẻ
muốn nhìn còn mắt kia sẽ nhìn vào một nơi khác. Người ta phân biệt:
- Lác trong: Mắt nhìn vào trong.
- Lác ngoài: Mắt nhìn ra ngoài.
- Lác dọc: Mắt nhìn lên trên hoặc xuống dưới.
- Lác luân phiên: Lúc mắt này lác, lúc mắt kia lác.
Quan niệm cho rằng trẻ bị lác khi lớn lên sẽ tự khỏi là không đúng. Mắt bị
lác nhìn kém, cho hình ảnh không rõ nên không chịu nhìn nữa (mắt “lười”) và sẽ
dần dần bị nhược thị. Vì vậy, việc điều trị phải được tiến hành. Chứng mắt lười
cần được điều trị trước 3 tuổi.
Nghiên cứu mới của Anh cho thấy, đối với những trẻ có một mắt không
nhìn rõ dù đã đeo kính (mắt lười), tỷ lệ khỏi bệnh sẽ cao hơn nhiều nếu việc điều
trị được bắt đầu trước 3 tuổi. Bác sĩ sẽ dán băng dính lên phía mắt lành để kích
thích các cơ của “mắt lười” phát triển.
Trong một nghiên cứu mới đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Bristol đã
chia 2.000 trẻ em thành hai nhóm:
- Nhóm 1 được kiểm tra mắt thường xuyên từ 8 tháng.
- Nhóm 2 chỉ được kiểm tra mắt khi đã lên 3 tuổi.
Tất cả những trẻ được phát hiện bị giảm thị lực đều được điều trị tại bệnh
viện. Kết quả là khi các cháu được 7 tuổi rưỡi, tỷ lệ khỏi bệnh ở nhóm 1 cao gấp
4 lần ở nhóm 2. Theo các tác giả, việc khám sàng lọc cho các cháu tuổi chưa đi
học để phát hiện bệnh kịp thời là rất cần thiết.
Mục đích điều trị là tái tạo thị giác 2 mắt. Có thể áp dụng các phương pháp
sau:
- Che mắt tốt lại trong một thời gian để bắt “mắt lười” hoạt động. Cách
chữa này chỉ hữu hiệu khi trẻ dưới 7 tuổi, sau tuổi này rất khó trị vì “mắt lười” đã
quen không chịu làm việc nữa.
- Cho trẻ bị cận thị hay viễn thị đeo kính. Kết quả điều trị sẽ rất tốt nếu
được chữa sớm (lý tưởng là dưới 5 tuổi). Mục đích là làm tăng thị lực cho mắt bị
lác và để trẻ phải sử dụng hai mắt cùng lúc.
Đa số trẻ khi được chữa phối hợp bịt mắt tốt và cho đeo kính có thể trị
khỏi lác trong vòng 6 tháng đến 2 năm.
- Phẫu thuật: Áp dụng khi các phương pháp nội khoa không hiệu quả hoặc
trẻ bị lác do bất thường của cơ, thần kinh.
Sau điều trị vẫn phải giúp trẻ thường xuyên luyện tập mắt để lập lại hoạt
động cân bằng của các cơ mắt.
BỆNH TIM BẨM SINH Ở TRẺ EM
Từ ngày thứ 25 sau khi thụ tinh, ở bào thai đã bắt đầu hình thành hệ tuần
hoàn. Đến tuần thứ 8, quả tim đã được tạo ra hoàn chỉnh. Vì vậy, các tác động
từ bên ngòài trong thời gian này đều có thể để lại những dị tật cho tim.
Theo thống kê tại Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TP HCM, bệnh tim bẩm sinh
chiếm tỷ lệ 0,8% trong các trường hợp mang thai đầu tiên và 2-6% các trường
hợp mang thai lần 2. Nếu trong gia đình đã có 2 người có dị tật tim bẩm sinh,
nguy cơ này ở đứa trẻ sẽ ra đời là 20-30%.
Có đến 50% trường hợp bệnh tim bẩm sinh không xác định được nguyên
nhân; số còn lại do 2 nguyên nhân sau:
- Di truyền: Do đột biến gien hay đột biến nhiễm sắc thể trong quá trình
mang thai, hoặc di truyền từ thế hệ trước.
- Tác động của môi trường: Do lúc mang thai, người mẹ mắc bệnh, bị
nhiễm trùng, nhiễm vi rút (đặc biệt là cúm và Rubeole), uống rượu quá nhiều,
ngộ độc hóa chất và các thuốc chữa bệnh hoặc bị ảnh hưởng của tia phóng xạ.
Trẻ mắc bệnh tim không nhất thiết phải tránh hoàn toàn các hoạt động thể
lực. Trái lại, việc tập luyện vừa sức sẽ làm tăng khả năng thích ứng của cơ thể.
Nên tiến hành tiêm chủng bình thường cho trẻ. Nếu trẻ mắc các bệnh nhiễm
khuẩn, cần điều trị cẩn thận để không làm cho các tổn thương và tình trạng suy
tim trầm trọng thêm.
Những bé gái bị bệnh tim bẩm sinh nếu được phẫu thuật vẫn có thể sinh
con bình thường. Khi chưa điều trị, người phụ nữ mắc bệnh này phải tìm cách
tránh thai vì việc mang thai sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng người mẹ.
Việc phẫu thuật để chữa các dị tật tim bẩm sinh khá đơn giản. Đối với các
lỗ thông tim, có thể bít lại bằng các kỹ thuật mới mà không cần mổ.
BỆNH VIÊM NÃO VÀ VIÊM MÀNG NÃO
Cách nhận biết những triệu chứng
Bệnh viêm màng não rất khó chẩn đoán ở trẻ ít tháng, do trẻ không có khả
năng biểu hiện trạng thái.
Khi thấy hiện tượng trẻ sốt cao, nôn mửa vọt như cầu vồng, biếng ăn, ngủ
lịm và thóp phình to, hãy nghĩ ngay tới viêm màng não.
Hãy luôn để ý xem trẻ có nhắm nghiền mắt khi ra ánh sáng chói không?
Phải cho trẻ tới bệnh viện ngay nếu thấy những hiện tượng này. Bác sĩ sẽ chọc
dò tủy sống lấy mẫu dịch não tủy của trẻ để thử nghiệm xem tình trạng bệnh.
Bệnh viêm màng não
Là tình trạng viêm thũng của các lớp màng bao bọc não và tủy sống, do
một quá trình nhiễm siêu vi hoặc vi khuẩn dẫn tới.
Khi thấy trẻ có các triệu chứng như: Sốt cao tới 39°C, cứng cổ, nhức đầu,
không chịu được ánh sáng chói, nôn mửa, ngủ lịm, lừ đừ và lú lẫn, nổi ban đỏ
thẫm toàn thân, thóp trên đầu phình ra nếu trẻ dưới 2 tuổi. Tức là trẻ có nhiều
khả năng bị viêm màng não. Đối với trẻ lớn từ 2 tuổi trở lên, khi thấy những hiện
tượng trên, hãy kiểm tra ngay bằng cách bảo trẻ cúi cổ xuống sao cho cằm
chạm ngực, nếu trẻ kêu đau và bị cứng cổ, hãy nghĩ ngay tới chứng viêm màng
não và lập tức đưa trẻ vào viện. Trong khi trẻ sốt cao, nôn mửa, biếng ăn... hãy
năng cho trẻ uống nước từ 10 đến 15 phút/lần từng lượng nhỏ khi chưa kịp đưa
trẻ tới bệnh viện để tránh tình trạng mất nước. Nên cho thêm vào ly nước lớn 1
thìa cà phê muối và 1/2 thìa đường Glucose. Cặp nhiệt độ thường xuyên để theo
dõi nhiệt độ của trẻ. Hạ nhiệt bằng mọi cách để tránh tình trạng co giật (lau
người trẻ bằng nước ấm, chườm cồn nếu trẻ sốt tới 40°C, uống Paracetamol
hoặc nhét viên đạn hạ sốt vào hậu môn trẻ, cho trẻ nằm nơi thoáng nhưng kín
gió, mặc quần áo mỏng...).
Bệnh viêm não
Là tình trạng sưng não.
Các nguyên nhân thông thường nhất ở trẻ em khi bị viêm não là nhiễm
siêu vi sau thủy đậu, quai bị hoặc sởi.
Triệu chứng:
Trẻ đau đầu dữ dội, đau khi cử động cổ, không chịu được ánh sáng chói,
bỏ ăn, nôn mửa, buồn ngủ, lừ đừ, lú lẫn, trong những giai đoạn sau co giật và
hôn mê, dễ dẫn đến tử vong.
Để tránh căn bệnh này, khi trẻ nhỏ, phải tuân thủ lịch tiêm chủng ngừa các
bệnh thủy đậu, quai bị, sởi và các bệnh khác, vì những bệnh này rất dễ biến
chứng thành viêm não.
BỆNH TIÊU CHẢY MÙA ĐÔNG Ở TRẺ
Bệnh do một loại siêu vi trùng có tên Adeno vi rút gây nên. Trẻ nhập viện
đều có triệu chứng nôn, sốt cao trên 38°C và mất nước trầm trọng. Bệnh nặng,
trẻ có thể tử vong.
Trẻ từ 6 tháng tuổi đến 2 tuổi dễ mắc bệnh này hơn cả. Theo bác sĩ
Nguyễn Văn Lộc, Viện phó Viện Nhi Trung ương: “Trẻ mắc bệnh thường bị tiêu
chảy và nôn khá bất ngờ, có khi kèm theo sốt. Trẻ đi ngoài nhiều lần, phân lỏng,
màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải.”
Do tiêu chảy và nôn liên tục nên cơ thể trẻ bị mất nước, hạn chế quá trình
điện giải của cơ thể khiến nhiều trẻ bị sốc và sốt cao đến 39-40°C.
Bệnh thường phát triển từ nhẹ đến nặng nếu không được điều trị kịp thời.
Nếu trẻ bị tiêu chảy từ 4 đến 9 lần/ngày, nôn, khát nước, các bà mẹ nên cho
uống dung dịch Oresol đến khi tiêu chảy ngừng hẳn, tiếp tục cho trẻ bú và ăn
bình thường.
Nếu trẻ đi ngoài hơn 10 lần/ngày, phân nhiều nước hoặc có khi toàn nước
(có thể lẫn máu và dịch nhầy), nôn nhiều, tiểu tiện ít, da khô, môi và niêm mạc
se, mắt trũng sâu, thóp lõm phải đưa ngay trẻ đến bệnh viện để được cứu chữa
kịp thời và truyền dịch để bù nước.
Bác sĩ Nguyễn Văn Lộc cho biết: “Khi trẻ có biểu hiện tiêu chảy, các bà mẹ
chỉ nên cho trẻ uống Oresol chứ không nên tùy tiện cho trẻ uống các loại thuốc
kháng sinh vì có thể gây nên tình trạng rối loạn khuẩn đường ruột, khiến bệnh
càng trầm trọng”.
Phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ trong mùa lạnh quan trọng nhất là đảm bảo
vệ sinh và dinh dưỡng trong khẩu phần ăn để trẻ đủ sức chống đỡ bệnh, cơ thể
chóng phục hồi, không bị suy sụp vì thiếu dinh dưỡng sau tiêu chảy. Với trẻ nhỏ
nên cho bú sữa mẹ.
Nên chú ý vệ sinh chân tay cho trẻ, tránh tiếp xúc chỗ đông người.
CHỨNG CO GIẬT DO NÓNG SỐT CAO Ở TRẺ
Đây là hiện tượng thường gặp ở trẻ từ 18 tháng tuổi cho đến 3 tuổi, ít gặp
ở trẻ trên tuổi.
Nguyên nhân
Do nhiễm trùng như viêm nhiễm đường hô hấp, nhiễm trùng tai mũi họng
hoặc cảm sốt thông thường. Khi trẻ bị co giật mà không kèm theo sốt cao, bị co
giật nhiều lần hoặc kéo dài thì có thể do nguyên nhân như chứng động kinh
(phong xù) hay các bệnh lý về thần kinh não bộ.
Triệu chứng
- Co giật do nóng sốt có thể xảy ra đột ngột ở một đứa bé không có dấu
hiệu của một bệnh gì nặng báo trước mà đôi khi chỉ có triệu chứng sổ mũi đi
kèm.
- Co giật do sốt thường chỉ kéo dài khoảng 2 phút. Tuy nhiên một khi đã co
giật, trẻ có thể bị tái phát, càng nhỏ tuổi càng có nguy cơ tái phát. Bé gái bị tái
phát nhiều hơn bé trai. Các trường hợp co giật kéo dài 10-30 phút, bị nhiều cơn
trong ngày hoặc hay tái phát mà không kèm theo sốt thường có nguyên nhân
quan trọng, cha mẹ phải đưa bé đi khám đến nơi đến chốn để tìm nguyên nhân
mà trị liệu.
Cách phòng ngừa và xử trí
- Lấy nhiệt độ cơ thể của bé: Thời gian cặp nhiệt phải đúng một phút, cặp
nhiệt ở hậu môn, ở miệng tốt nhất. Nếu cặp nhiệt ở nách nên cộng thêm một độ.
Với nhiệt kế điện tử thời gian cặp nhiệt sẽ ngắn hơn nhiều.
- Khi thấy bé sốt cao 38-39°C hãy làm giảm nhiệt cho bé bằng cách: Cho
bé uống ngay một gói hoặc nhét vào hậu môn ngay một viên tọa dược
Paracetamol liều 150mg để hạ sốt cấp thời trong lúc chờ đợi đưa bé đi khám
bệnh. Đồng thời lau mát bé bằng nước thường. Nhớ không được dùng nước đá,
nước trong tủ lạnh, vì nước quá lạnh có thể làm ngưng quá trình đang hạ nhiệt
của cơ thể.
- Khi cơn co giật xảy ra: Cha mẹ hãy bình tĩnh, và nên nhớ cơn co giật sẽ
sớm qua đi. Nếu can thiệp sai có thể làm cho bé tổn thương thêm. Không được
cạy răng bé để nhét vật cứng như cán muỗng... vào miệng bé với mục đích
phòng ngừa bé tự cắn lưỡi. Động tác này không những không giúp ích gì, đôi khi
còn có hại. Lý do là vì hai hàm răng của bé chỉ nghiến chặt khi co giật bắt đầu
xảy ra, cho nên nếu cơn đã xuất hiện rồi, răng bé sẽ không tự cắn lưỡi được
nữa.
- Giữ thông đường thở cho bé: Đặt bé nằm nghiêng. Nếu có đờm nhớt
hoặc máu trong miệng của bé, cha mẹ nên dùng miệng của mình để hút ra.
Động tác này có thể cứu bé qua cơn nguy nghẹt đường thở.
Sau cùng cần phải đưa bé đi khám bệnh để bé được chẩn đoán và điều trị
khỏi bệnh, và cha mẹ bé được hướng dẫn phòng ngừa các cơn co giật có thể có
trong tương lai.
CHỨNG ĐỒNG TỬ TRẮNG Ở TRẺ EM
Khi nhìn vào mắt trẻ, nếu thấy có một khối màu trắng hoặc sau đồng tử có
ánh màu trắng, chứng tỏ trẻ đã bị một bệnh nặng như đục thủy tinh thể, ung thư
võng mạc, nhiễm ký sinh trùng... Nếu không được điều trị sớm, trẻ có thể bị hỏng
mắt.
Hầu hết các bệnh gây đồng tử trắng đều không có triệu chứng rõ rệt
(không đau, không nhức, nhìn vào không thấy có gì đặc biệt...). Trẻ lại không
diễn đạt được tình trạng của mình nên bệnh chỉ được phát hiện một cách tình cờ
khi đi khám một bệnh khác. Vì vậy, cha mẹ cần chú ý theo dõi đôi mắt của con;
nếu thấy đồng tử có màu trắng, cần nghĩ ngay đến các bệnh sau và đưa trẻ đi
khám ngay.
- Đục thủy tinh thể: Thường do vi khuẩn Rubeola (do bà mẹ mắc phải khi
có thai 3 tháng) gây ra. Cách điều trị là phẫu thuật thay thủy tinh thể nhân tạo.
Sau này, trẻ có thể nhìn thấy bình thường.
- Ung thư võng mạc: Thường gặp nhất ở trẻ 1-3 tuổi, đa số trước 6 tuổi.
Ngoài chứng đồng tử trắng, trẻ mắc bệnh này còn có thể bị lé, mắt đau, đỏ, tăng
nhãn áp. Nếu thấy các dấu hiệu trên, cần cho trẻ đi khám ngay vì đây là bệnh rất
nguy hiểm, cần chẩn đoán sớm và điều trị tích cực. Bác sĩ sẽ cho trẻ siêu âm,
chụp CT hay MRI để xác định bệnh. Tùy theo giai đoạn bệnh và kích thước của
u, bác sĩ sẽ quyết định điều trị bằng tia, làm lạnh đông, hóa trị hay múc bỏ mắt.
- Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non: Thường gặp ở những trẻ có cân nặng khi
sinh dưới 1,5 kg và tuổi thai dưới 36 tuần. Bệnh ở thể nặng thường gặp ở trẻ có
trọng lượng dưới 1,2 kg và tuổi thai dưới 28 tuần. Cách điều trị: Phẫu thuật, lạnh
đông hay quang đông. Nếu bệnh nhẹ, tỷ lệ phẫu thuật thành công có thể lên đến
75%. Trong một số ít trường hợp nhẹ, bệnh sẽ tự lành.
- Giãn mạch võng mạc (bệnh Coat): Thường xảy ra ở trẻ nam, dưới 10
tuổi, bị ở một mắt. Ngoài chứng đồng tử trắng, trẻ còn có thể bị lé. Khi khám, bác
sĩ thấy ở võng mạc có mạch máu giãn nở, ngoằn ngoèo, thoát ra các chất mỡ
màu hơi trắng ở cực sau hay ngoại biên của mắt. Bệnh có thể tiến triển thành
bong võng mạc, đục thủy tinh thể hoặc viêm màng bồ đào. Việc điều trị (áp lạnh
đông hay dùng laser) không giúp cải thiện thị lực mà chỉ có thể không cho bệnh
tiến triển nặng thêm.
- Nhiễm ký sinh trùng của loài chó (Toxocara): Thường thấy ở trẻ lớn.
Ngoài chứng đồng tử trắng, trẻ còn có những u hạt ở phần sau mắt hoặc bị viêm
pha lê thể. Xác định bệnh bằng cách thử máu. Điều trị: Cho uống thuốc chống
sán và Cortisone.
PHÒNG NGỪA BỆNH VIÊM XOANG
Viêm xoang rất hiếm khi gặp ở trẻ dưới 12 tuổi, do xoang của các em
chưa phát triển đầy đủ. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Mỹ mới đây cho thấy,
các dấu hiệu như chảy nước mũi kéo dài, đau đầu, mệt mỏi có thể là tiền đề
bệnh viêm xoang mạn tính ở trẻ.
Giáo sư Jordan Josephson, chuyên gia giải phẫu tai - mũi - họng thuộc
Trung tâm Y tế, Đại học Georgetown (Mỹ) cho biết, trẻ bị viêm xoang tiềm ẩn
thường chảy nước mũi kèm dịch vàng, đau vùng gò má và hốc mắt, khó tập
trung và tỉnh táo khi ở trường. Cũng giống như người lớn, trẻ bị viêm xoang cũng
gặp các vấn đề về cảm xúc như dễ cáu giận và hay buồn bực. Những trẻ bị dị
ứng, hút thuốc thụ động, tiếp xúc với vi khuẩn hoặc sống trong điều kiện ô nhiễm
không khí có nguy cơ mắc bệnh cao nhất.
Viêm xoang làm sưng và hẹp đường lưu thông khí qua mũi, khiến dịch
nhầy khó thoát, gây bít đường thở. Việc chữa trị viêm xoang bằng phẫu thuật
không thể áp dụng với trẻ, nên phương pháp phổ biến hiện nay là dùng thuốc xịt
mũi hoặc kháng sinh trong 3-8 tuần nếu có nhiễm trùng. Nếu không điều trị đúng
mức, bệnh có thể trở thành mạn tính, một đợt viêm xoang có thể kéo dài nhiều
tuần, thậm chí cả năm. Bệnh còn kéo theo các biến chứng như hen suyễn hoặc
các vấn đề về cuống phổi.
CÁC BỆNH TRẺ HAY GẶP VÀO MÙA LẠNH
Viêm phế quản, cảm mạo, viêm Amiđan, sốt xuất huyết... là những bệnh
thường gặp ở trẻ khi thời tiết chuyển sang mùa mưa lạnh ẩm thấp, cần giữ ấm
và vệ sinh răng miệng cẩn thận cho các em để tránh nhiễm trùng.
Các bệnh thường gặp:
1. Cảm mạo: Thường biểu hiện dưới dạng dị ứng mũi. Người bệnh hắt xì
thành cơn dài liên tục, kèm theo chảy nhiều nước mũi trong và lỏng, không sốt.
Có thể dùng một số thuốc chống dị ứng thông thường như Phenergan,
Chlopheniramin, Theralen... trong vài ngày là hết.
2. Viêm mũi: Bệnh xuất hiện sau khi bị nhiễm lạnh, có triệu chứng ngứa lỗ
mũi (trẻ hay dụi tay lên mũi) và chảy nước mũi nhiều, có thể sốt hoặc không. Ở
trẻ còn bú, khi bị viêm mũi thường gây khó chịu, ngủ không yên giấc, nghẹt mũi
gây thở khò khè, thường phải thở bằng miệng và phải ngưng lại nhiều lần để thở
khi bú. Hiện tượng viêm mũi tái đi tái lại nhiều lần có thể là dấu hiệu của bệnh
V.A, Amiđan.
3. V.A - sùi vòm: Bệnh phổ biến ở trẻ em 3-7 tuổi. V.A là nơi sản sinh ra
kháng thể chống lại vi trùng xâm nhập vào cơ thể, đồng thời cũng là nơi tập
trung vi trùng nếu không còn khả năng tiêu diệt. Trẻ viêm V.A thường gầy yếu,
kém nhanh nhẹn, chảy nước mũi thường xuyên, ban đầu là nước mũi trong sau
đục mủ vàng hoặc xanh, bị nóng sốt vặt kèm ho nhiều, trong tai có thể chảy mủ,
ngáy to khi ngủ do mũi bị nghẹt và phải thở bằng miệng. Ngoài ra, viêm V.A
khiến trẻ dễ bị suy dinh dưỡng.
4. Viêm Amiđan: Amiđan cũng có công dụng như V.A. Trẻ bị viêm Amiđan
cấp sẽ sốt cao từ 39-40°C, đau họng, khó nuốt, chảy nước miếng nhiều, mệt
mỏi, biếng ăn, biếng chơi. Viêm Amiđan rất dễ gây biến chứng nếu không được
điều trị đúng.
5. Viêm họng cấp: Là bệnh thường xảy ra vào mùa đông, gặp cả ở người
lớn và trẻ em. Triệu chứng đầu tiên là đau họng khi nuốt, kèm theo sốt, khàn
tiếng. Nguyên nhân gây bệnh là loại vi khuẩn liên cầu tan máu Beta nhóm A.
Bệnh có thể gây đau khớp, biến chứng dẫn đến bệnh thấp tim ở trẻ em.
6. Viêm xoang: Thường xảy ra sau những bệnh về mũi như sổ mũi mùa,
nghẹt mũi, viêm mũi. Nhức đầu là biếu hiện nổi bật trong viêm xoang. Ngoài ra
người bệnh còn bị nghẹt mũi, nước mũi đặc, cần được chụp phim để xác định
tình trạng xoang bị viêm.
7. Viêm phế quản: Có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, thường sau khi
thay đổi thời tiết, hoặc bị viêm họng, viêm mũi... Nhiều trường hợp trẻ chỉ sổ mũi
trong, ho nhẹ vài cái, vẫn chơi, ăn uống bình thường. Nếu tình trạng này kéo dài,
không điều trị đúng, trẻ dễ dẫn đến biến chứng bội nhiễm vi trùng gây viêm phế
quản phổi rất nguy hiểm.
8. Bệnh suyển (hen phế quản): Thường gặp ở trẻ có cơ địa dị ứng như có
bệnh chàm, nổi mề đay, ngứa... Khó thở là biểu hiện điển hình, khó thở khi thở
kéo dài làm phập phồng cánh mũi, gây co kéo hõm ức, tiếng thở khò khè, môi
tím, vẻ mặt sợ hãi. Nhiều trường hợp khó thở cấp tính cần xử trí cấp cứu kịp
thời.
9. Sốt xuất huyết: Bệnh do muỗi truyền, có thể xuất hiện quanh năm,
nhưng phát triển mạnh vào mùa mưa, không khí ẩm thấp. Bệnh hay gặp ở trẻ
em, đặc biệt là dưới 10 tuổi. Biểu hiện của bệnh là sốt cao đột ngột và liên tục
(39-40°C) trong vòng 2-4 ngày, có thể xuất hiện dấu xuất huyết dưới da mọc
thành từng đám rải rác, có thể xuất huyết ở niêm mạc miệng, đi tiêu phân máu...
Chú ý:
- Trẻ đang sốt cao liên tục, đột nhiên nhiệt độ thân nhiệt hạ thấp, lờ đờ,
chân tay lạnh là biểu hiện của sốc cần được xử trí cấp cứu kịp thời.
- Nếu nghi ngờ trẻ bị sốt xuất huyết, tuyệt đối không cho trẻ dùng thuốc hạ
sốt loại Aspirin vì dễ làm tăng nguy cơ chảy máu, nên cho uống thuốc giảm sốt
loại Paracetamol.
Biện pháp phòng bệnh mùa đông:
- Cần chăm sóc trẻ chu đáo, tránh nhiễm lạnh do mưa, giữ ấm, tránh gió
lạnh về chiều. Không nên nằm ngủ trong phòng máy lạnh kéo dài hay để quạt
suốt đêm.
- Cần vệ sinh ăn uống, vệ sinh răng miệng thường xuyên cho trẻ để tránh
nhiễm trùng.
- Rửa tay sạch sẽ, không cho trẻ mút tay, ngoáy mũi.
- Bố trí phòng ở thoáng mát, sạch sẽ, diệt trừ muỗi, thông thoát nước tốt,
tránh để nước đọng vũng tạo môi trường ẩm thấp.
- Cần chủng ngừa cho trẻ đầy đủ theo chương trình quy định.
- Theo dõi và đi khám bệnh sớm, tránh để bệnh tiến triển gây biến chứng
nguy hiểm.
KINH NGHIỆM TẮM CHO TRẺ SƠ SINH
Các bà mẹ trẻ tắm lần đầu cho trẻ sơ sinh bao giờ cũng gặp lúng túng.
Hãy thư giãn bằng cách chuẩn bị đầy đủ cho sự kiện này.
- Chọn nơi tắm. Những chỗ thích hợp bao gồm bồn tắm, bồn rửa trong
bếp, hoặc bồn rửa trong buồng tắm.
- Nếu bạn sử dụng bồn tắm di động, đảm bảo rằng nó nằm trên một cái
bàn vững chắc, và không bao giờ bê chậu khi có bé nằm trong.
- Chuẩn bị sẵn mọi đồ dùng trước khi đổ nước vào bồn và cởi áo cho bé.
- Đổ nước vào bồn. Không cho xà phòng hoặc xà bông vào nước bởi nó
có thể làm khô da bé.
- Từ từ đặt con vào trong chậu, nói nhẹ nhàng để trấn an em bé. Dùng tay
đỡ lấy đầu con bạn.
- Dùng tay kia để rửa và lau nhẹ nhàng cho con.
MỘT SỐ BỆNH LÂY TRUYỀN TỪ MẸ SANG CON
Mụn rộp, nấm hay bệnh Chlamydia gây viêm mắt, phổi, ống tai... là những
bệnh dễ lây truyền từ mẹ sang con. Trẻ có thể mắc bệnh khi còn trong tử cung,
ngay lúc sinh hoặc sau khi chào đời.
Một số bệnh thường gặp:
Bệnh mụn rộp - Herpes: Nếu trẻ sơ sinh bị nhiễm vi rút Herpes ở thể nhẹ
thì chỉ bị tổn thương một phần cơ thể. Nếu nặng, bệnh sẽ biểu hiện toàn thân với
những nốt phỏng nhỏ. Vi rút có thể xâm nhập vào bên trong cơ thể, gây tổn
thương các bộ phận như mắt, gan, lách, thậm chí cả não bộ. Những triệu chứng
điển hình là trẻ ngủ lơ mơ suốt ngày, bú kém, hay quấy khóc, tiêu chảy, khó thở
và có thể lên cơn giật. Những em bị nhiễm vi rút toàn thân có thể tử vong hoặc
tàn phế vì di chứng não và mắt. Nếu qua khỏi, bệnh cũng có thể tái phát ở tuổi
thiếu niên, nhưng chỉ gây tổn thương khu trú nếu được điều trị.
Bệnh u sùi ở cơ quan sinh dục: Vì sự lây nhiễm vi rút gây u sùi có thể xảy
ra ngay khi trẻ còn trong tử cung, nên việc mổ lấy thai cũng khó tránh nhiễm
bệnh. Bệnh gặp nhiều nhất ở trẻ 2-5 tuổi, gây u sùi ở thanh quản, đôi khi ở khí
quản và phổi. Đa số trường hợp mắc u sùi đều tự khỏi, song đôi khi bệnh tái
phát, kể cả khi đã cắt bỏ phần cơ thể nhiễm bệnh. Có thể điều trị bệnh bằng tia
xạ nhưng nguy cơ phát triển thành ung thư rất cao.
Bệnh nấm ở cơ quan sinh dục: Trẻ có thể nhiễm nấm từ mẹ trong khi sinh.
Tuy bệnh không nghiêm trọng song làm cho trẻ khó chịu, quấy khóc. Nấm
thường phát triển ở lưỡi và mặt trong má, thành từng đám trắng. Phương pháp
điều trị hiện nay là dùng thuốc Nystatin hoặc bôi ngoài da thuốc kem chống nấm
theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa da liễu.
Bệnh do Chlamydia: Có thể gây viêm mắt trẻ sơ sinh (khoảng 2 tuần sau
đẻ), viêm phổi và viêm ống tai. Nếu không được điều trị, dứt khoát, bệnh có thể
trở thành mạn tính, dễ tái phát và để lại sẹo ở giác mạc. Chứng viêm phổi
thường bộc lộ ở tuần lễ thứ 6 sau sinh với triệu chứng ho, thở gấp, nhưng không
sốt. Nếu ho nhiều sẽ làm cho trẻ không bú được và không lên cân. Cần điều trị
bằng Erythromycine theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
Bệnh trùng roi - trichomonas: Trẻ bị xuất huyết ở âm đạo hoặc ngứa âm
hộ. Cần điều trị bằng Metronidazole theo chỉ định của thầy thuốc.
Một số điều nên tránh khi thay tã lót cho trẻ
Vải tã nhuộm sẫm màu có thể khiến trẻ bị dị ứng, vải quá mới có thể làm
sây sát làn da non nớt của trẻ... Việc thay tã lót tưởng như đơn giản, song nếu
không xử lý đúng cách thì có thể gây bệnh cho bé.
Không nên chần chừ thay tã khi trẻ đi tiểu, đi ngoài vì vi khuẩn trong phân
có thể làm cho Urea trong nước tiểu phân giải, sản sinh ra Ammonia làm kích
thích da trẻ, gây viêm. Không nên thắt thêm đai buộc ngoài tã lót vì như thế càng
tạo điều kiện cho vi khuẩn tác động vào da hơn.
Không nên lau chùi da trẻ qua loa khi thay tã. Chú ý lau xung quanh bộ
phận sinh dục ngoài trước, rồi lau quanh hậu môn. Đặc biệt ở bé gái, niệu đạo
và âm đạo về cơ bản không có vi khuẩn, song vi khuẩn ở cửa hậu môn có thể
lây sang, gây viêm nhiễm.
Không nên giặt tã lót qua loa. Sau khi giặt sạch xong, cần ngâm tã vào
nưóc sôi để sát trùng, sau đó giũ lại nhiều để tránh các chất kiềm còn đọng lại dễ
gây kích thích da. Sau khi phơi tã khô ngoài nắng phải để nguội mới dùng.
Không nên dùng vải mới và vải nhuộm màu sẫm làm tã lót. Vải thô mới dễ
làm sây sát da còn vải sẫm màu dễ gây viêm da. Tốt nhất là dùng vải sợi bông
cũ, màu trắng, dễ thấm nước làm tã.
Không nên đặt thêm đệm lót vải nilon trên tã lót. Không ít bà mẹ thêm đệm
nilon để phòng phân và nước tiểu của bé thấm vào chăn bông, quần áo. Thực
tế, việc này càng dễ sinh Ammonia, gây dị ứng đỏ mông của trẻ, làm da bẹn bị
ẩm ướt hơn, gây nhiễm khuẩn nấm.
XỬ TRÍ SỐT CAO TẠI NHÀ
Xử trí tại nhà sốt cao co giật cho trẻ còn bú
Sốt cao co giật là một hội chứng hay gặp ở trẻ còn bú mẹ (dưới 2 tuổi),
biểu hiện bằng những cơn co giật hoặc co cứng - co giật khi trẻ sốt cao. Đây là
một tình trạng bệnh lý đòi hỏi phải xử trí cấp cứu vì có thể đe dọa tính mạng
bệnh nhi trước mắt hoặc để lại những di chứng nặng nề về sau như động kinh,
chậm phát triển tâm trí, vận động.
Có rất nhiều nguyên nhân gây sốt cao co giật cho trẻ còn bú mẹ, nhưng
thường gặp nhất là sốt cao co giật do nhiễm khuẩn (đặc biệt là nhiễm vi rút
đường hô hấp trên) và yếu tố tiền sử gia đình về sốt cao co giật.
Về triệu chứng lâm sàng, có hai thể sốt cao co giật, là sốt cao co giật lành
tính và sốt cao co giật có biến chứng. Tuy nhiên để chẩn đoán một cách chính
xác phải khám bệnh cho trẻ thật kỹ, đặc biệt là khám thần kinh, nếu có điều kiện
thì làm điện não đồ ngay sau cơn co giật và một tuần sau giật để đánh giá.
Tuy vậy, trong khi chờ bác sĩ, cha mẹ trẻ nên chú ý những vấn đề sau:
- Bình tĩnh đặt trẻ vào nơi yên tĩnh, thoáng mát, rời xa các vật sắc nhọn,
đặt chăn hoặc gối mềm dưới đầu trẻ, để trẻ ở tư thế đầu nghiêng về một bên đề
phòng tắc đờm dãi. Nhớ kiểm tra xem trẻ còn thở không, da có tím không.
- Nới rộng quần áo, tã lót cho trẻ.
- Hạ sốt bằng cách lau nước ấm cho trẻ để làm giãn mạch ngoại vi; dùng
thuốc hạ sốt Paracetamol - loại viên đạn đặt hậu môn.
- Theo dõi nhiệt độ bằng cách cặp nhiệt độ ở nách hoặc ở hậu môn. Trẻ
sốt khi nhiệt độ nách trên 37 độ C, còn ở hậu môn là trên 37,8 độ C.
- Không giữ, bế chặt hoặc giới hạn cử động của trẻ. Không cho bất cứ thứ
gì vào miệng trẻ, kể cả thuốc hạ sốt Paracetamol (Efferalgan) trong khi trẻ còn
co giật hoặc chưa tỉnh hẳn.
- Gọi xe cấp cứu hoặc bác sĩ đến càng sớm càng tốt.
XI. TAI NẠN THƯỜNG GẶPTAI NẠN
Bạn có thể là người chứng kiến, hoặc chính bạn có một người thân là nạn
nhân của một tai nạn giao thông. Sau đây là những việc cần phải làm:
Đặt nạn nhân nằm ngửa, đầu nghiêng sang một bên (trường hợp bị nôn
mửa). Yêu cầu mọi người giãn ra, báo cho các cơ quan có chức năng như cảnh
sát, bác sĩ và cho họ biết rõ ràng nạn nhân bị thương như thế nào, nhẹ hay
nặng; nói rõ nơi xảy ra tai nạn (quận phường, số nhà v.v... để xe cấp cứu biết
đường tới cho nhanh). Nếu bạn muốn biết nạn nhân còn thở hay không, hãy để
một chiếc gương soi nhỏ ở trước miệng và mũi nạn nhân. Nếu nạn nhân còn
thở, mặt gương sẽ bị hơi nước làm mờ. Nếu nạn nhân không còn thở, phải thực
hiện ngay phương pháp cấp cứu thở nhân tạo (xem phần Cấp cứu thở nhân tạo
và phần Bị thương chảy máu). Phải cởi các khuy áo, quần, và nới lỏng thắt lưng.
Bản thân mình phải giữ hết sức bình tĩnh, nhất là nếu nạn nhân là một đứa
bé. Thái độ hoảng hốt, thiếu bình tĩnh của bạn có thể ảnh hưởng rất nhiều tới
tinh thần và trạng thái của cháu bé.
Điều không nên làm: Không nên di chuyển nạn nhân trừ trường hợp bắt
buộc. Việc gửi nạn nhân vào bất kỳ một cái xe nào dù xe chật, hẹp, buộc nạn
nhân phải ngồi, nằm ở tư thế không thích hợp, để đưa nhanh tới nơi cấp cứu có
thể là việc làm kém khôn ngoan nhất.
Nên đặt nạn nhân nằm dài bên lề đường để đợi xe cứu thương tới (nếu đã
liên lạc được).
Nếu bệnh nhân bị ngất, không được cho bệnh nhân uống bất kỳ loại nước
gì.
VA CHẠM, NGẤT, CÁC TRƯỜNG HỢP NGÃ
Nếu cháu ngã rồi bất tỉnh, nôn ói, có máu chảy ra ở miệng hoặc ở mũi, ở
tai, tay chân co giật khác thường phải đưa ngay tới phòng cấp cứu. Trong khi di
chuyển cháu, hoặc chờ đợi bác sĩ đến, nhớ:
- Tránh không di động cháu.
- Đặt nằm thẳng ngươi đầu hơi thấp hơn chân, nghiêng mặt về một bên để
nếu cháu nôn, ói hay bị chảy máu mũi, miệng - chất lỏng không vào được trong
họng để xuống phổi;
- Không được cho cháu uống hay ăn bất cứ thứ gì.
Gãy xương:
- Nếu đứa trẻ ngã thấy không điều khiển được những cử động tay, hoặc
chân nữa thì cháu có thể đã bị trẹo khớp hoặc gãy xương. Nắn nhẹ cánh tay,
khớp tay, khuỷu tay, đùi, chân, bác sĩ có thể xác định được chỗ gãy ở điểm cháu
kêu đau nhiều. Nhưng, muốn xác định rõ ràng, chính xác phải đưa cháu đi chụp
X- quang.
Hiện tượng gãy xương khi ngã nhẹ chứng tỏ xương cháu không chắc (có
thể vì cơ thể thiếu chất Canxi).
Ngã đập đầu xuống trước:
- Nếu sau khi ngã bị va mạnh vào đầu, cháu bị ngất dù trong thời gian
ngắn cũng phải đưa tới bệnh viện cấp cứu ngay. Dù nhìn bên ngoài, chỗ va
chạm không có dấu hiệu gì là vết thương nặng, nhưng bác sĩ vẫn có thể yêu cầu
phải đi chụp X-quang phần sọ não nếu thấy cần thiết.
Trong thời gian tiếp theo, người săn sóc các cháu phải chú ý theo dõi xem
có các hiện tượng như: Có nôn ói, sốt, co giật, sắc mặt tái dần, giấc ngủ không
yên hoặc ngủ mê mệt không?
Trong suốt 24 giờ của ngày đầu, cần phải theo dõi liên tục, thỉnh thoảng lại
gọi xem cháu có tỉnh lại không vì nếu có hiện tượng chảy máu trong não, cháu
có thể ngủ thiếp đi rồi chuyển qua trạng thái hôn mê mà người săn sóc không
hay biết.
Một số triệu chứng đáng lo ngại khác là:
- Sự thay đổi thái độ đột ngột: Hoặc cháu tự nhiên tỏ ra bàng quan với tất
cả chung quanh, hoặc trái lại, tự nhiên vật vã, kích động, mắt nhìn bỗng bị rối
loạn, có khi nhìn như người lác mắt.
Cần phải mời bác sĩ tới bên giường bệnh ngay để nhận định sát hơn nữa
tình trạng bệnh của cháu.
Cháu ngã vào vật nhọn
- Nếu vật nhọn đâm vào chân, tay thì chỉ là vết thương chảy máu cần phải
cầm máu và sát trùng vết thương.
- Nếu vật đâm vào đầu, bụng, lưng: cần phải có bác sĩ chuyên môn.
- Nếu vật đâm vào bụng, trong khi bác sĩ chưa đến, hãy cho cháu bé tiểu
tiện và nhận xét xem nước tiểu của cháu có đỏ không để báo cho bác sĩ biết.
Hiện tượng cháu không tiểu tiện được cũng cần phải nói rõ.
Vật nhọn có thể làm thương tổn thận, lá lách, ruột xuyên qua thành bụng.
Do đó, cần phải xác định các trường hợp trên bằng phương pháp siêu âm vùng
bụng.
Cháu bị ở cằm, ở mặt:
- Rửa vết thương bằng nước sạch để làm trôi các chất bẩn như đất, cát.
Sau đó, rửa bằng thuốc sát trùng.
Nếu vết thương lớn, vết sẹo hình thành sau này ở mặt cháu sẽ ảnh hưởng
đến thẩm mỹ của nét mặt. Bởi vậy, phải đưa cháu vào bệnh viện để khâu ghép
da, làm cho vết sẹo sau này đỡ xấu hơn.
Cháu bị thâm tím hoặc nổi u:
- Những vết tím và cục u sẽ tự khỏi sau vài ngày. Tuy vậy, có thể chườm
nước lạnh vào chỗ u để giảm đau và băng nhẹ chỗ da bị xước để tránh va chạm.
VẾT THƯƠNG
Từ tuổi biết đi trẻ em thường bị những vết thương sây sát do đụng chạm
mạnh và té ngã. Cần phải chú ý xem những vết thương đó to hay nhỏ, nông hay
sâu, chảy máu nhiều hay ít và ở chỗ nào, có dính đất cát hoặc vật gì trong vết
thương không? Không nên coi thường bất kỳ vết sây sát nào của trẻ em, dù là
một vết chích nhỏ. Vết thương cần được rửa sạch ngay bằng xà phòng rồi bôi
thuốc sát trùng như thuốc đỏ (Mercurochrome) chẳng hạn. Sau cùng, phải băng
lại. Vết thương nào cũng có thể dẫn tới bệnh uốn ván. Bởi vậy, cần cho các cháu
tiêm phòng bệnh uốn ván.
Vết thương sâu hoặc nông nhưng rộng (vài cm), cần phải đưa cháu tới
bác sĩ để rửa sát trùng và khâu lại nhất là những vết thương ở mặt, nếu không
khâu, khi liền tự nhiên sẽ để lại những vết sẹo kém thẩm mỹ sau này.
Nếu vết thương chảy máu, dù chảy máu hơi nhiều cũng chỉ nên ấn xuống
để cầm máu, rồi băng lại.
Ngày nay, người ta hết sức tránh việc làm ga rô (buộc chặt để cầm máu).
CHẢY MÁU VÌ VẾT THƯƠNG
Vết thương nhẹ:
- Cháu bé bị đứt tay, bị ngã sây sát, bị cào xước v.v... có vết thương chảy
máu. Bạn hãy rửa cho cháu bằng xà phòng, nếu có đất, cát dính vào vết thương.
Sau đó, bôi thuốc đỏ (Mercurochrome), rồi băng lại bằng loại băng dính có sẵn
cả gạc, có bán ở hiệu thuốc.
Phải băng nhẹ tay, hơi lỏng - không chặt quá - vì vết thương cần được
“thỏ” và máu dưới vết thương cần được lưu thông trong mạch.
Khi cháu nhỏ đứt tay chảy máu, bạn có thể bóp hay ấn lên vết thương một
lát, máu sẽ ngưng chảy rồi bôi thuốc đỏ và băng lại.
Vết thương nặng:
- Cháu bé bị thương sâu vì vết dao hay kính vỡ và bị chảy máu nhiều. Bạn
hãy làm cho vết thương lộ ra bằng cách cởi bỏ hoặc cắt chỗ quần áo đụng vào
vết thương. Nếu có những mảnh kim loại, mảnh kính, sỏi cát chung quanh vết
thương, hãy lau sạch hoặc gắp bỏ. Không cần đụng tới vết thương vội, cũng
chưa cần rửa vết thương.
Buộc vết thương lại bằng một lớp băng dày hoặc đặt lên vết thương một
cái khăn tay sạch rồi ấn tay lên vết thương trong vòng 5 phút. Lúc này, việc
trước tiên là ngăn sự chảy máu. Việc rửa sạch hoặc sát trùng vết thương sẽ lo
sau.
Xác định được một động mạch hay một tĩnh mạch bị đứt là việc khó. Tuy
vậy, cũng có thể nhận xét như sau:
Tĩnh mạch bị đứt: Máu chảy thành lớp, màu đỏ sẫm.
Động mạch bị đứt: Máu phụt ra từng đợt, màu đỏ tươi.
Nếu sau khi buộc vết thương, máu vẫn không ngừng chảy, bạn hãy tìm
đường động mạch của cháu bé và ấn mạnh ngón tay xuống một điểm của mạch
ở phía trên vết thương (giữa đường từ tim tới vết thương) trong khi đưa cháu tới
ngay nơi cấp cứu v.v..
Không nên buộc ga rô, nếu bạn chưa biết phương pháp.
Chảy máu mũi:
- Khi một cháu bé bị “chảy máu cam”, tức là chảy máu ở mũi ra, bạn hãy
cho một miếng gạc hoặc bông làm ngưng chảy máu (có bán ở hiệu thuốc) vào
bên lỗ mũi chảy máu, và lấy ngón tay đè cánh mũi bị chảy máu lại.
Nếu máu vẫn tiếp tục chảy, phải đưa tới bác sĩ.
Một đứa trẻ hay bị chảy máu mũi có thể vì các mạch máu ở màng mũi bị
giãn nở hoặc có rối loạn đông máu. Bởi vậy, cần cho bác sĩ biết.
NUỐT PHẢI VẬT LẠ
Do bản năng cần ăn, các trẻ em hay đưa vào miệng những vật các em có
thể lấy và cầm trong tay như một hòn bi, một đồng xu chẳng hạn. Những vật như
thế có thể làm tắc đường hô hấp và làm các cháu bị ngạt thở.
Nếu vật lọt được xuống dạ dày thì là một điều may mắn. Nó sẽ dần dần đi
theo đường tiêu hóa để cuối cùng được tống ra ngoài theo phân. Bác sĩ không
cần phải can thiệp bằng phẫu thuật mà chỉ cần theo dõi sự di chuyển của vật
trong người các cháu bằng phương pháp chụp X-quang.
Nếu vật vừa nhỏ, tròn, nhẵn, thì sẽ theo phân ra ngoài sau 1 - 2 ngày.
Có 2 trường hợp đặc biệt cần chú ý:
- Cháu nuốt vật nhọn như đinh, kẹp tóc, kẹp giấy v.v... Những đầu nhọn
đâm vào thành ruột nên không di chuyển được. Trường hợp này phải phẫu thuật
để lấy ra.
- Cháu nuốt hộp hay lọ nhỏ có chứa chất độc hay chất tẩy rửa có thể tác
hại tới bộ máy tiêu hóa, nhất là dạ dày, nên phải cấp tốc đưa cháu tới bệnh viện.
PHƯƠNG PHÁP SƠ CẤP CỨU TRẺ EM KHI BỊ NGẠT HOẶC NGƯNG THỞ
Bằng phương pháp làm cử động tay, chân, các khớp xương và cột sống,
người ta đã làm cho các bệnh ho tái phát, bệnh hen ở trẻ em, các bệnh hô hấp ở
trẻ sơ sinh đỡ hẳn.
Phương pháp hỗ trợ sự hô hấp này còn làm cho các ống dẫn khí được
thông, sạch. Ở bệnh viện, phương pháp này được dùng hàng ngày hoặc nhiều
lần trong ngày do các chuyên viên thực hiện cho các cháu rất nhỏ, tới các cháu
lớn. Các bậc cha mẹ cũng có thể học được kỹ thuật của phương pháp này để áp
dụng cho các cháu ở nhà.
Khi gặp các trường hợp trẻ em gặp tai nạn, bị ngạt hoặc ngưng thở, phải
nhờ người gọi ngay tới nơi cấp cứu. Trong khi chờ đợi, không được để phí thời
gian, mà chính bạn phải là người thực hành hô hấp nhân tạo cho các cháu ngay.
Phương pháp hữu hiệu nhất là miệng hút miệng còn gọi là “hà hơi thổi
ngạt”, áp dụng cho mọi trường hợp như ngã xuống nước, bị điện giật, bị ngạt hơi
ga hoặc mắc vật cứng ở cổ, xe đụng... Điều quan trọng nhất là phải làm ngay,
không được chậm trễ: mọi người chỉ cần bị ngưng thở vài phút cũng đủ gây ra
những tổn thương ở não không thể phục hồi được nữa.
Khi nạn nhân ở trạng thái sau đây, cần phải thực hiện hô hấp nhân tạo
ngay:
1. Mặt, môi xanh tím chứng tỏ cơ thể thiếu ôxy.
2. Ngất rất nhanh.
3. Ngưng hô hấp.
Việc bạn cần làm cho nạn nhân:
1. Mở khuy áo cổ và ngực của nạn nhân, không để cổ và ngực bị bó chặt.
2. Để ngửa đầu nạn nhân ra phía sau để đường hô hấp được mở rộng và
để lưỡi không bị tụt ra sau, chặn đường đi của không khí vào phổi.
3. Hít một hơi thật dài, rồi há miệng to đủ để ngậm được kín miệng nạn
nhân; nếu nạn nhân là một cháu bé mới sinh thì ngậm kín cả miệng và 2 lỗ mũi
của cháu.
Khi hà hơi vào cháu bé, cháu càng ít tuổi, càng phải hà từ từ. Với bé sơ
sinh, hà cả vào đường miệng và đường mũi.
4. Mỗi lần hà hơi xong, lại ngồi thẳng lên để hít thở cho được nhiều.
5. Hà hơi thổi ngạt như vậy cho tới khi nào thấy ngực cháu bé phập
phồng, chứng tỏ cháu đã tự thở được mới thôi.
6. Trong thời gian thực hiện thở nhân tạo giữ đầu nạn nhân ngả ra đằng
sau. Cố thực hiện nhịp thở từ 20 - 40 lần trên phút.
Khó khăn khi thực hiện thở nhân tạo:
- Việc thực hiện hô hấp nhân tạo sẽ gặp khó khăn khi đường dẫn khí qua
cổ nạn nhân bị vướng. Nếu vì lưỡi nạn nhân co vào, che cổ họng thì ngửa thêm
đầu nạn nhân ra phía sau.
Nếu có vật ngáng mắc trong cổ nạn nhân, phải cố lấy ra rồi nhanh chóng
“hà hơi thổi ngạt”.
Những dấu hiệu chứng tỏ cháu bé đã tự thở được:
1. Sắc mặt cháu hồng lên, không tái nữa.
2. Ngực phập phồng.
Xoa bóp tim:
Nếu cháu bé đã ngưng thở mấy phút thì tim cũng ngưng đập. Cần phải
thực hiện phương pháp xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Vì phương pháp này cũng
có tác hại cho nạn nhân, nên chỉ thực hành khi chắc chắn tim nạn nhân đã
ngưng đập.
Nếu không có người giúp đỡ, một người vẫn có thể vừa hà hơi cứu ngạt,
vừa xoa bóp tim, hà hơi, xoa bóp tim, rồi lại hà hơi cứ thay đổi tư thế.
Phương pháp xoa bóp tim:
Nạn nhân nằm ngửa. Người cứu nạn, dùng gan bàn tay ấn thẳng góc
mạnh lên ngực của nạn nhân, ở phần ba dưới cửa xương ức về phía trái. Mỗi
phút ấn 60 lần. Tránh không ấn quá về phía xương sườn của trẻ em vì xương
còn yếu, có thể bị gãy.
Phương pháp này cũng áp dụng cả với ngươi lớn nhưng phải hà hơi và ấn
tay mạnh hơn.
CÁCH XỬ TRÍ KHI BỊ BỎNG LỬA VÀ NƯỚC SÔI
Bỏng nước sôi và bỏng lửa là một tai họa thường gặp. Khi bị bỏng diện
rộng, nếu không được xử trí đúng thì nhiễm trùng vết bỏng sẽ là nguyên nhân
gây tử vong hàng đầu. Bỏng càng rộng và độ bỏng càng cao thì mức độ bệnh
càng nặng.
- Người bệnh cần ngay lập tức nhúng phần cơ thể bị bỏng (thậm chí cả
người) vào nước lạnh (chậu nước, bể nước sạch, vòi nước đang chảy...).
- Khẩn trương đưa đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí tiếp.
- Nếu là bỏng do nước sôi, không được cởi bỏ quần áo vì có thể dẫn tới
việc lột da vùng bị bỏng và làm mức độ bỏng nặng thêm do bị thấm nhiệt qua lớp
quần áo, tất... và dễ gây nhiễm trùng vết bỏng.
- Không bôi nước mắm, vôi, kem đánh răng... lên vết bỏng vì có thể làm
nhiễm trùng.
- Không tự lột bỏ da trên vùng bị bỏng do có thể gây nhiễm trùng tại chỗ
dẫn tới nhiễm trùng toàn thân.
VẾT BỎNG NHỎ, CHỚ COI THƯỜNG
Vừa ngồi xuống mâm cơm, bé N. T.K, 2 tuổi, quê cần Thơ, đột ngột nhúng
luôn hai bàn tay vào bát canh vừa đun sôi. Thấy vết bỏng nhỏ ở ngón tay, bố mẹ
bé cho rằng có thể tự điều trị vết thương cho K. tại nhà. Nhưng sau một thời
gian, ngón tay của K. cứ dần dần co rút lại và rồi hoàn toàn không cử động
được.
Theo bác sĩ Nguyễn Bảo Tường, Trưởng Khoa Bỏng, bệnh viện Nhi Đồng
1 TP HCM, trung bình mỗi năm bệnh viện nhận điều trị khoảng 300 trẻ bị bỏng ở
ngón tay, bàn tay. Nguyên nhân gây bỏng bàn tay, ngón tay ở trẻ thường do
người lớn vô ý để những món ăn hay nước vừa nấu sôi ngay cạnh trẻ và trẻ chỉ
việc... đưa tay vào.
Thấy diện tích bỏng ở tay trẻ không lớn, các bậc cha mẹ thường can thiệp
theo kiểu dân gian như bôi nước mắm, xoa các loại thuốc mỡ, kem đánh răng...
vào vết bỏng, hoặc đưa đến một cơ sở y tế gần nhà để băng bó. Thậm chí sau
đó thấy tay có những dấu hiệu bất thường như co rút, không cử động được...
nhưng do bận rộn hoặc đang khó khăn về kinh tế nên nhiều bậc cha mẹ sau
nhiều năm mới đưa trẻ đi điều trị.
Bác sĩ Tường nhấn mạnh, riêng ở trẻ em, quá trình phát triển thể chất
song song với quá trình lành sẹo, do vậy nếu không can thiệp sớm tay trẻ sẽ bị
biến dạng. Trẻ phải mang một bàn tay xấu xí, co quắp và không cử động được
suốt đời.
Sự lành sẹo phụ thuộc vào các nguyên bào sợi. Bình thường các nguyên
bào sợi sẽ kéo các vết thương nhỏ lại, mau lành. Nhưng trong trường hợp các
bào sợi phát triển quá mức do cách điều trị không đúng, vết thương bị nhiễm
trùng, trẻ bị suy dinh dưỡng, có cơ địa sẹo lồi thì sẽ làm sẹo co rút, các ngón tay
có thể bị dính lại với nhau, hoặc sẹo phát triển to (sẹo lồi) ảnh hưởng đến chức
năng vận động và mất thẩm mỹ. Thông thường thời gian ổn định sẹo là 6 đến 24
tháng.
Đối với sẹo bỏng, sau khi lành vết thương, phải tiếp tục theo dõi diễn tiến
lành sẹo để đề phòng sẹo có thể phát triển theo chiều hướng co rút. Quá trình
tập vật lý trị liệu sau khi lành sẹo rất quan trọng trong việc phục hồi chức năng
của các ngón tay, bàn tay của trẻ.
BỎNG
Để xác định bị bỏng nặng hay nhẹ, người ta dựa vào 2 điều: Vết bỏng
rộng hay hẹp? Nông hay sâu?
Sự nghiêm trọng tức khắc của vết bỏng là tùy ở diện tích bị bỏng, có thể
gây choáng và mất nước, ở một cháu bé, diện tích da các phần cơ thể như sau:
- Đầu: 18%
- Ngực: 18%
- Lưng: 18%
- Mỗi cánh tay: 9%
- Mỗi bên chân: 14%
Nếu diện tích bị bỏng của cháu bé trên 5%, cần phải đưa đi bệnh viện.
Bỏng trên bề mặt da được gọi là bỏng cấp 1, tuy đau nhưng dễ lành. Sau
hơn 10 ngày chỗ bỏng để lại những vết sẹo màu đỏ.
Những vết bỏng sâu (bỏng cấp 2), lâu lành hơn, từ 15-20 ngày. Những vết
bỏng này có liên quan tới da, thịt và có thể cả xương. Khi chữa trị, có khi phải
ghép các mô và công việc này cần thực hiện thành nhiều đợt.
Bỏng sâu là bỏng nặng, làm co da, thịt, sau khi khỏi ở một số nơi như:
Mặt, cổ, những chỗ có nếp gấp (nách, khuỷu) bàn tay, ngón tay, ngực. Tuy vậy,
bị bỏng cấp 1 nhưng trên diện tích lớn có khi nguy hiểm hơn bỏng cấp 2, mà
diện tích nhỏ.
Nguyên nhân bỏng đối với trẻ em thường là bị các đồ dùng nấu nước,
thức ăn lỏng sôi, dội lên người, sờ tay vào ấm nước sôi, bàn là (ủi) v.v...
Các trường hợp bỏng vì hóa chất (chất tẩy rửa, axít...), bỏng vì điện
thường bị ở ngón tay, ở miệng tuy diện tích nhỏ nhưng là những vết bỏng sâu.
Đề phòng bỏng cho các cháu là biện pháp tốt nhất.
Việc này chủ yếu là do sự chú ý cẩn thận của người lớn, việc tuyên truyền
nhắc nhở mọi người qua hệ thống thông tin (rađiô và tivi) về việc giữ gìn các
cháu nhỏ xa các chỗ đun nấu, các vòi nước nóng, các đồ điện, các hóa chất sử
dụng trong gia đình.
Làm gì khi cháu bé bị bỏng?
- Trường hợp bỏng trên da (cấp 1): Bọc cháu vào một tấm vải sạch để
chuyển cháu tới nơi cấp cứu. Không cố gắng cởi bỏ quần áo cháu ra.
Trường hợp vết bỏng nhỏ, không sâu, nhẹ: Rửa nhẹ bằng loại xà phòng
sát trùng rồi băng bằng loại băng mềm, xốp để có thể thay băng 2-3 ngày một
lần.
BÉ UỐNG NHẦM RƯỢU
Nếu trẻ em uống nhầm một lượng rượu dù là một, hai ly nhỏ, cũng cần
đưa tới bác sĩ hoặc tới bệnh viện ngay. Rượu có thể làm sụt lượng đường trong
máu và gây hôn mê. Tuổi của các cháu càng nhỏ, hậu quả càng nghiêm trọng.
Nếu bạn nhỏ mũi nhầm cho các cháu, đáng lẽ nhỏ thuốc nhỏ mũi lại hút
thuốc từ một lọ cồn, các cháu sẽ khóc ré lên ngay. Hãy giữ bình tĩnh và lấy nước
sạch nhỏ tiếp vào cho cháu để làm loãng và rửa niêm mạc mũi.
Không nên dùng rượu hay cồn để xoa bóp cho trẻ em vì lớp da mỏng của
các cháu rất dễ hấp thu rượu. Chúng ta cũng nên chú ý rằng có một số thuốc
đánh răng chứa một độ rượu không thích hợp với trẻ em, không nên dùng cho
các cháu.
NGỘ ĐỘC
Nếu cháu bé uống phải một chất độc gì (chất tẩy rửa, thuốc...) bạn phải
làm gì?
Gọi ngay điện thoại tới phòng cấp cứu hoặc đưa ngay cháu tới để các bác
sĩ rửa dạ dày, làm tỉnh lại... nếu cần, hoặc quyết định gửi cháu bé tới những
phòng chuyên môn.
Hãy chuẩn bị trả lời cho thật chính xác về các câu hỏi:
* Cháu bé đã uống hoặc ăn phải chất gì? Nhiều hay ít? Bao nhiêu?
* Lúc nào?
* Cháu đã có những triệu chứng gì của việc ngộ độc?
Muốn trả lời được các câu hỏi trên, bạn phải quan sát chỗ của cháu bé từ
trên giường tới dưới đất, các đồ vật xung quanh, cả trong túi áo, quần của cháu
nữa. Mang tất cả các vật gì bạn nghi ngờ tới bệnh viện để đưa cho bác sĩ.
Không nên cho cháu bé uống thêm thứ gì, kể cả sữa.
Không nên cố bắt cháu nôn ra, nếu cháu không làm được.
Nguyên nhân:
- Nguyên nhân sự ngộ độc của các cháu là do lỗi của người lớn thường để
cẩu thả các loại chất trong tầm tay của các cháu.
- Thuốc tẩy rửa.
- Dược phẩm.
- Các thứ hóa mỹ phẩm trang sức: Nước hoa, sáp môi v.v...
Tại sao cần đưa cháu bé đến bác sĩ, có người nói:
“Tôi không biết con tôi đã mở hộp thuốc Aspirin hay hộp thuốc ngủ, và đã
uống chưa. Có thể nó chỉ mút có một viên, nhưng cũng có thể là nhiều hơn. Vậy
tôi phải làm thế nào?”
Trả lời: Nếu cháu chỉ mút có một viên Aspirin thì bạn chỉ cần cho cháu
uống nhiều nước đường là đủ. Chắc chắn cháu không việc gì cả. Nhưng, nếu
không biết chắc chắn số lượng cháu đã uống phải thì cần đưa cháu tới bác sĩ
ngay.
CẢM NÓNG
Trẻ em, nhất là các cháu mới sinh, rất nhạy cảm với nhiệt. Ngồi trong
phòng nóng quá, cháu cũng bị cảm nóng, vì cơ thể bị bốc hơi nước quá mức.
Thoạt đầu cơ thể cháu toát mồ hôi để chống lại cái nóng. Nếu sau đó,
cháu không được uống nước để bù đắp lại lượng nước đã mất, cơ thể không
toát mồ hôi nữa và thân nhiệt bắt đầu tăng lên.
Hiện tượng cảm nóng như vậy là do ảnh hưởng của nơi ở, phòng ở nóng
hoặc kín quá như trường hợp cháu bé ngồi trong xe hơi đóng kín cửa ở ngoài
nắng chẳng hạn. Nhưng cũng có thể xảy ra trong mùa lạnh, khi cháu mặc nhiều
quần áo quá và căn phòng lại được sưởi quá ấm.
Trong mọi trường hợp, việc cho cháu uống nhiều nước là cần thiết.
Triệu chứng của chứng cảm nóng:
- Thoạt đầu cháu bé toát nhiều mồ hôi, vật vã, đòi uống vì khát. Sau đó
không toát mồ hôi nữa, thân nhiệt có thể lên trên 40°C.
Làm thế nào khi bé cảm nóng?
Làm cho bé mát, tắm nước có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt của bé từ 2-
3°C, hoặc để cháu nằm ở nơi thoáng mát (không có gió lùa), cởi bớt quần áo.
Cho uống thuốc chống sốt như Aspirin, Acetamol với nhiều nước mát.
Nếu thân nhiệt cháu vẫn không giảm, cần đưa ngay cháu đi cấp cứu, vì
chứng cảm nóng cũng rất nguy hiểm.
Để tránh hiện tượng cảm nóng, chủ yếu cần phải đề phòng, như: không
cho các cháu mặc nhiều quần áo quá, luôn chú ý cho các cháu uống đủ nước.
CẢM NẮNG
Cảm nắng có thể coi như hiện tượng bỏng cấp 1, cấp 2 với các triệu
chứng: Thân nhiệt tăng, mạch nhanh, da nóng và khô (sau đó vài giờ có thể đỏ
lên), không có mồ hôi, nôn ói và có thể ngất.
Diện tích cơ thể bị tác dụng bởi nắng càng rộng thì nguy cơ càng nặng.
Một cháu bé bị say nắng do ánh nắng chiếu vào mặt có thể bị nguy tới tính
mạng.
Nếu diện tích da bị tác dụng của nắng trên 5% thì bác sĩ phải đưa tới
phòng cấp cứu.
(Xem thêm về sự phân tỉ lệ diện tích da trên cơ thể, phần Bỏng - trang
251).
BỊ CÔN TRÙNG ĐỐT
Bị ong đốt:
- Nhiều bộ phận của cơ thể rất nhạy cảm với nọc của loài ong nên nếu bị
ong đốt sẽ rất nhức nhối.
Đốt người, bao giờ ong cũng để lại ngòi. Bởi vậy, phải tìm cách lấy cái
ngòi này ra, rồi rửa chỗ bị đốt bằng nước pha giấm, chườm nước đá. Nọc ong
có thể làm chỗ da bị đốt tấy đỏ, đau rát trong vài ngày.
Nếu bị ong đốt nhiều chỗ - nhất là ở cổ, ở miệng các cháu nhỏ có thể nôn
ói, nhịp tim tăng, khó thở, toàn thân bị phù nề, cổ họng bị phù, rối loạn tuần
hoàn, nhiều khi nguy hiểm tới tính mạng. Bởi vậy, khi thấy một cháu nhỏ bị ong
đốt ở vùng miệng và cổ, cần đưa cháu tới bệnh viện để đề phòng những biến
chứng có thể xảy ra.
Bị bọ cỏ đốt:
- Cuối mùa hè, thường có một số loài bọ ở cỏ. Các trẻ nhỏ chơi đùa trên
cỏ, dễ bị chúng đốt, làm da phồng đỏ, ngứa. Nên bôi lên da các cháu loại dung
dịch chống ngứa thường bán ở các hiệu thuốc. Cũng có cả những Pom-mát bôi
trước vào da để chống loài bọ cỏ.
Bị nhện đốt:
- Vết đốt của nhện thường làm da phồng lên, đỏ và nhức. Đôi khi gây
chóng mặt, sốt nhưng không nguy hiểm. Chỉ cần rửa sạch chỗ bị chích và
chườm nước đá. Nếu cần, uống Aspirin theo chỉ định của bác sĩ.
Bị muỗi đốt:
- Nếu bị nhiều muỗi đốt, các cháu nhỏ cựa quậy, gãi và có thể tự làm
nhiễm trùng da, gây sốt. Nên rửa những nốt muỗi đốt bằng xà phòng có tính axít
hay nước giấm loãng. Bôi cho các cháu các dung dịch chống ngứa bán ở hiệu
thuốc. Để chống muỗi đốt, có thể dùng các loại tinh dầu chanh hoặc cỏ roi ngựa,
bôi lên những chỗ da không có quần áo che.
Bị ruồi trâu đốt:
Có loại ruồi lớn, ruồi trâu cũng đốt và hút máu người. Vết đốt gây đau
nhức, cần được lau rửa bằng nước giấm. Nếu các cháu bé đau nhiều, cho cháu
uống Aspirin để giảm đau, theo chỉ định của bác sĩ.
Bị bọ ve đốt:
Những loại bọ, ve ở chó, ở trong cỏ, bụi rậm có thể gây cho người một số
bệnh, nhất là vào mùa hè chúng ta hay đi chân đất trên cỏ, vào các bụi cây. Có
nhiều bệnh sốt do loài bọ gây ra. Cơn sốt kéo dài kèm theo hiện tượng mẩn đỏ
khắp người. Đôi khi có cả những mảng da màu đen. Người ta thường dùng
thuốc kháng sinh để chữa trị.
Loài bọ, ve cũng có thể gây ra bệnh Lyme, một thứ bệnh có những biểu
hiện mẩn đỏ, liệt mặt và đau các khớp. Để chữa trị, cũng dùng thuốc kháng sinh.
BỊ SÚC VẬT CẮN
Vết cắn của chó, mèo:
- Cần phải rửa sạch vết cắn bằng thuốc sát trùng rồi cho cháu tới bác sĩ
để uống thuốc kháng sinh hoặc nếu cần, phải tiêm thuốc đề phòng bệnh dại.
Phải đưa con chó đã cắn người tới sở thú y để kiểm tra và theo dõi xem
có bị bệnh dại không?.
Vết rắn cắn:
- Chỉ có loài rắn độc mới nguy hiểm. Thường, rắn hay cắn vào tay, vào
chân người. Mới đầu, vết cắn không gây đau nhiều và dễ nhận thấy hai vết răng
cách nhau 6-8mm. Chung quanh vết cắn thường có một vùng tụ máu dưới da.
Màu của điểm này biến đổi dần từ đỏ sang tím xanh, vết cắn càng lúc càng đau,
tay hoặc chân bị phù to dần, trở thành trắng nhợt với nhiều điểm tụ máu.
Những phản ứng của cơ thể mỗi người, mỗi khác: Rối loạn tiêu hóa, đau
bụng, nôn ói, sốt hoặc lạnh toàn thân, nhịp tim tăng nhanh tới mức trầm trọng,
toàn người bị “sốc”.
Những việc trước đây người ta thường làm như chườm lạnh vào vết
thương, hút nọc độc ra, buộc ga rô thì ngày nay không còn được khuyến khích
nữa.
Việc tiêm thuốc chống nọc độc cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau vì
thường cơ thể cũng không chịu đựng được thuốc. Tốt nhất là làm các việc sau:
Rửa sạch vết thương và đưa gấp nạn nhân tới bệnh viện để tiêm thuốc chống
uốn ván.
Bác sĩ sẽ quyết định cần phải làm gì tiếp theo.
BỊ NGÃ XUỐNG NƯỚC
Khi vớt cháu bé bị ngã xuống nước lên, nếu cháu không còn thở thì chưa
nên cố gắng làm cho nước ra khỏi phổi mà phải làm ngay động tác cấp cứu hà
hơi thổi ngạt đã. Nếu kịp thời, cháu có thể thở lại bình thường, nên đưa ngay
cháu tới bệnh viện.
Nếu tim cháu ngừng đập, thì trong khi một người thực hiện hô hấp nhân
tạo, một người khác thực hiện cách xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Trong trường
hợp không có người phụ giúp, phải vừa làm hô hấp nhân tạo, vừa ấn tay theo
nhịp thở lên xương ức, mỗi khi ta hà hơi vào miệng cháu.
Trong thời gian đó, nhờ người đi báo bác sĩ, hoặc gọi tổ cấp cứu người
thường trực bên bãi biển vv..
Để các cháu sau này chóng biết bơi, nên cho các cháu bé làm quen với
nước từ nhỏ nhưng không được rời mắt khỏi bé, dù chỉ cho bé tắm trong chậu
tắm ở nhà.
Khi cho cháu bé vào nước, phải cho từ từ nhất là sau khi vừa cho cháu
phơi nắng.
CHỨNG NGẤT KHI XUỐNG NƯỚC
Có nhiều người - cả người lớn lẫn trẻ em vừa xuống nước hồ, ao, biển để
tắm, bỗng ngất xỉu và bị chìm hoặc nước cuốn đi luôn. Nếu không được vớt
ngay thì rất nguy tới tính mạng. Nguyên nhân của hiện tượng này chưa được
xác định nhưng người ta cho rằng đó là do cơ thể những người đó không chịu
được sự thay đổi nhiệt độ giữa không khí và nước.
Bởi vậy, chúng ta không nên tắm nắng lâu quá trước khi xuống nước. Và,
khi xuống nước, nên xuống từ từ để khỏi gây những cảm giác đột ngột về nhiệt
độ, nhất là đối với trẻ em.
BỊ ĐIỆN GIẬT
Nếu cháu bé cho tay vào chốt điện và không rút được tay ra, không được
kéo cháu ra mà phải đi ngắt cầu dao điện.
Nếu cháu đụng vào một dây điện, phải gạt dây ra bằng một cái gậy gỗ
hoặc một vật cách điện.
Nếu cháu bé không còn thở nữa, phải thực hiện ngay phương pháp hô
hấp nhân tạo và gọi cấp cứu.
VẾT CÀO
Nhiều cháu bé có những vết cào ở mặt do chính những bàn tay xinh xắn
của mình tạo nên. Đó là những động tác tự nhiên nhằm thăm thú và tìm hiểu
xem cơ thể của mình thế nào. Để tránh những vệt xước như vậy, bạn có thể cắt
móng tay cho bé (lúc bé ngủ dễ cắt hơn), vết xước do móng tay bé tạo ra là
những vết xước lành không có gì nguy hiểm, sẽ tự khỏi và mất dấu vết trong một
vài ngày.
VẾT MÈO CÀO
Những vết xước do mèo cào có thể thành bệnh do một loại vi trùng hoặc
vi rút gây ra. Thời gian nung bệnh từ 10 tới 30 ngày. Vùng bị cào sẽ nổi hạch, có
thể có mủ. Ví dụ: Nếu bé bị cào ở móng tay, hạch sẽ nổi lên ở nách. Hạch nổi
lâu từ một tới ba tháng. Nếu cho bé uống thuốc kháng sinh từ sớm, có thể ngăn
được trạng thái hạch có mủ. Bằng không, sẽ phải chích hạch cho bé.
X. CÁC BỆNH KHÁC Ở TRẺ EMCÚM, TRẠNG THÁI CÚM
Mỗi khi cháu bé mệt hoặc sốt, chúng ta không nên nghĩ ngay là cháu bị
cúm. Bệnh gì thì phải nhờ bác sĩ xác định vì có nhiều bệnh khác nhau cùng có
những triệu chứng ban đầu giống như cúm: ớn lạnh, run, thân nhiệt tăng, mặt
đỏ, họng khô, đau lưng và chân tay. Hiện tượng ho càng ngày càng nhiều không
phải là triệu chứng của cúm. Đa số trẻ em hễ bệnh là tiêu chảy và nôn, cứ 24 giờ
hay 48 giờ là lại sốt cao một lần.
Khi đã xác định là cháu bé bị cúm, bác sĩ sẽ yêu cầu phải để cháu nằm
nghỉ tại giường trong thời gian một vài ngày. Nên cho cháu uống nhiều nước trái
cây, nước chanh.
Trong thời gian có dịch bệnh, tránh để các cháu bị lạnh, mệt và tập trung
nơi đông người.
Nếu bà mẹ bị cúm, nên để người khác săn sóc con mình. Khi cần cho con
bú, nên đeo khẩu trang.
Đối với các trẻ bé, bệnh cúm có thể gây ra nhiều biến chứng từ viêm tai,
mũi, họng tới viêm phế quản, viêm phổi, ho, hen tới độ khó thở.
Việc tiêm chủng chống bệnh cúm cho các cháu hiện nay chưa thực hiện
được rộng khắp nhưng rất cần đối với các cháu có thể trạng yếu và hay có bệnh
tai - mũi - họng.
BỆNH BẠI LIỆT
Trước đây, bệnh bại liệt là một bệnh thật đáng sợ vì bệnh có thể gây biến
chứng tức thì làm cho trẻ không thở được, hoặc để lại di chứng teo cơ và bại
liệt. Ngày nay, bệnh bại liệt gần như không còn ở các nước mà trẻ em được
uống thuốc ngừa hay tiêm phòng bệnh này cùng với một số bệnh khác nữa.
Vậy, nên làm gì đối với các cháu nhỏ nơi còn dịch bệnh? Có nhiều trường
hợp:
- Trẻ em đã được tiêm phòng bệnh trong vòng 2-3 năm trở lại đây không
phải lo ngại gì.
- Trẻ em mới tiêm một lần cần tiêm ngay lần nữa hoặc uống thuốc cho đủ
liều.
- Trẻ em chưa tiêm hoặc uống thuốc phòng bệnh cần phải đi tiêm và uống
thuốc ngay.
Sau ngày tiêm hay uống thuốc 8 ngày, thuốc sẽ có tác dụng. Nhưng cần
phải tiêm hoặc uống thuốc tiếp, đúng kỳ hạn, đủ liều lượng.
Các cháu mắc bệnh sẽ có các triệu chứng: Nôn ói hoặc các biểu hiện khác
của sự rối loạn tiêu hóa, sốt, đau trong chân, trong tay, đau đầu, họng đỏ.
Hãy cho cháu nằm nghỉ và điện thoại ngay cho bác sĩ, hoặc đưa cháu vào
bệnh viện.
BỆNH THIẾU MÁU
Nếu bạn thấy mặt con mình bị tái nhợt, xin chớ vội kết luận cháu bị thiếu
máu. Bởi vì nhiều khi màu da tự nhiên của cháu là như vậy. Tốt nhất là cho cháu
tới một bác sĩ.
Màu da chỉ là một phần, cần phải nhìn màu của môi, lợi, lật mí mắt xem
bên trong mí: Nếu màu sắc các phần này nhợt nhạt thì chắc cháu bé bị thiếu
máu rồi. Chứng này còn kèm theo các triệu chứng: Mệt mỏi, người có vẻ lờ đờ,
uể oải, kém hoạt động, không chịu ăn.
Máu của các cháu kém đỏ hơn bình thường vì thiếu huyết sắc tố, một
thành phần quan trọng nhất của hồng cầu có chứa gần như toàn bộ chất sắt
trong cơ thể. Huyết sắc tố có nhiệm vụ mang ôxy từ phổi tới các tế bào của các
mô.
Các cháu bé từ 4 tháng tuổi trở đi dễ bị mắc bệnh này do việc nuôi dưỡng
không đủ chất sắt. Tại sao? Vì sữa không cung cấp đủ chất sắt cho các cháu.
Vậy tất cả các cháu bé chỉ nuôi bằng sữa đều bị chứng thiếu sắt chăng?
Không phải. Khi được sinh ra, các cháu đã mang sẵn trong người một lượng
chất sắt cần thiết của mẹ truyền cho rồi. Nhưng, có những trường hợp đặc biệt
như các cháu sinh đôi, sinh ba phải cùng chia nhau một lượng chất sắt của mẹ
chẳng hạn. Ngoài ra, khi các cháu bị ốm, bị tiêu chảy, bị bệnh thiếu huyết sắc tố
do di truyền hoặc uống thuốc làm tiêu trừ một số hồng huyết cầu, hoặc chán ăn
nên lượng sắt không cung cấp đủ cho cơ thể.
Đối với những cháu bé mới sinh, các bà mẹ nên chú ý tới màu phân của
bé. Nếu màu nhợt nhạt là có vấn đề!
CHỨNG CAO HUYẾT ÁP
Trẻ em kể cả các cháu sơ sinh cũng có thể bị chứng cao huyết áp, dù
trường hợp này hiếm. Nguyên nhân bệnh có thể do thận có vấn đề, hoặc không
xác định được.
Đo huyết áp cho các cháu bé rất khó vì các cháu hay cựa quậy. Tuy vậy,
càng ngày các bác sĩ càng chú ý tới việc này và thường phải lấy số đo của các
cháu ở trạng thái nghỉ ngơi, thoải mái, không sợ hãi, để so với các số đo mẫu
của từng lứa tuổi, chiều cao của bé trai hay bé gái.
BỆNH ƯA CHẢY MÁU
Nguyên nhân bệnh ưa chảy máu là do cơ thể thiếu một số yếu tố cần thiết
cho sự đông máu (có nhiều thể bệnh; trong số đó thể bệnh ưa chảy máu A là
thường thấy nhất). Chỉ có các bé trai bị bệnh này mặc dù bệnh được truyền cho
bé từ các bà mẹ không bị bệnh.
Những triệu chứng của bệnh bắt đầu từ độ tuổi cháu bé biết đi: Một vết
thương nhỏ như bị đứt tay cũng gây chảy máu mãi. Hiện tượng chảy máu còn
có thể xảy ra bên trong cơ thể, đặc biệt ở các khớp như đầu gối. Nếu không
được biết từ trước, những hiện tượng chảy máu ngoài và trong cơ thể có thể
dẫn tới những biến chứng nguy hiểm.
Để chữa trị bệnh, cần truyền nhiều lần cho bệnh nhân các loại máu tươi,
huyết tương hoặc máu có các yếu tố đông máu. Thường cần phải có các nhóm
bác sĩ chuyên ngành để theo dõi, chữa trị và đối phó với các biến chứng của
bệnh.
Cháu bé bị bệnh cần luôn luôn được bảo vệ và tuyệt đối không tiêm chích
bắp thịt.
BỆNH NHIỄM KÝ SINH TRÙNG TOXOPLASME
Bệnh này gây ra bởi một loại ký sinh ở thịt chưa chín. Trẻ em có thể bị
bệnh do ăn thịt chưa nấu kỹ hoặc do mẹ đã bị bệnh này khi mang thai rồi truyền
lại cho con. Bệnh có các triệu chứng như: Sốt, nổi hạch, mệt mỏi, đau bắp thịt,
đôi khi da bị mẩn đỏ. Trẻ em đã bị bệnh một lần thì sẽ được miễn nhiễm. Bởi
vậy, nếu các bé gái đã bị bệnh lúc nhỏ thì sau này, khi các cháu tới tuổi sinh nở,
cơ thể cháu đã được miễn nhiễm nên không lây sang con cái nữa.
Nhiều người mắc bệnh mà không biết, nên có tới 85% phụ nữ có máu
miễn nhiễm về bệnh này.
PHÂN KHÔNG BÌNH THƯỜNG
Hỏi:
Trừ những trường hợp cháu bé đi táo hoặc đi tướt, còn những trường hợp
khác, phân cháu như thế nào?
Trả lời:
Phân mềm, ít:
- Chứng tỏ sự tiêu hóa bình thường.
Phân có chất nhầy trắng hay xanh:
- Rối loạn tiêu hóa hoặc bé bị sổ mũi. Nếu sự hô hấp của cháu vẫn bình
thường mà lại đi phân nhầy thì cần phải nói cho bác sĩ biết vì cháu có thể bị rối
loạn ngay ở màng nhầy của ruột.
Phân có mủ:
- Nếu trong chất nhầy lẫn trong phân, có cả mủ thì cháu đã bị viêm ở một
bộ phận nào đó của cơ quan tiêu hóa. Mủ là các bạch huyết cầu, các vi trùng đã
chết lẫn với các mảnh niêm mạc bị bong ra.
Phân có máu:
- Nếu bạn thấy tã hay trong “bô” của cháu bé có máu, hoặc rõ hơn là có
máu chảy ở hậu môn của cháu bé, cần phải đưa cháu tới bác sĩ ngay. Nên giữ
tã lại và lấy một ít phân trong bô vào một lọ nhỏ đã rửa sạch, mang tới bệnh viện
để làm xét nghiệm.
Nếu cháu bé vẫn khỏe bình thường, không sốt thì trong đoạn trực tràng có
thể có một cục thịt thừa (pô líp). Bác sĩ sẽ giải quyết bằng một cuộc phẫu thuật
nhỏ.
Việc lấy nhiệt độ cho cháu bé bằng đường hậu môn cũng có khi làm trực
tràng bị thương nhẹ (dù nhiệt kế không bị vỡ), vết thương như vậy cũng mau
lành.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như: Cháu bé đi táo, đi tướt, làm
ruột bị tổn thương nhẹ. Trường hợp này, phải chữa bệnh táo hay đi tướt.
Một khả năng nữa cũng có thể xảy ra là cháu bị lồng ruột.
Phân xanh:
- Phân xanh không hẳn là điều đáng lo ngại vì chỉ thể hiện việc di chuyển
quá nhanh của chất thải qua ruột, làm cho phân không đủ thời gian có được màu
bình thường. Hơn nữa, nên chú ý rằng việc ôxy-hóa của phân trong không khí
ngoài trời, cũng có thể làm phân của cháu bé có màu xanh.
Phân xám:
- Cháu bé ăn sữa bò cô đặc có thể làm cho phân có màu xám.
Phân màu nhạt hoặc màu trắng:
- Phân màu trắng có thể là biểu hiện của gan hoạt động yếu, có bệnh gan
hoặc tắc ống mật ở các trẻ sơ sinh.
Phân có màu sắc:
- Rau, củ cải đường, cà rốt đều làm cho phân có màu sắc của chúng. Chất
sắt làm phân có màu đen.
Nếu bạn thấy phân của cháu bé khác thường, nên lấy mẫu, và mang tới
bác sĩ để nếu cần thì làm xét nghiệm.
NHIỄM ĐỘC CHÌ
Trong các phòng ở lâu không sang sửa, sơn bằng loại sơn có chất chì
trong thành phần, các cháu nhỏ có thể cho những mảnh sơn bị bong vào miệng
và bị nhiễm độc chì. Triệu chứng của hiện tượng nhiễm độc chì là: đau bụng, đi
táo hoặc đi tiêu chảy, rối loạn thần kinh, thấy người hốt hoảng, bị co giật, bị
thương tổn về thận và máu.
Việc chữa trị có mục đích loại chì ra khỏi cơ thể qua nước tiểu.
BỆNH SỐT NỔI HẠCH, HAY BỆNH TĂNG BẠCH CẦU ĐƠN NHÂN NHIỄM TRÙNG
Các trẻ sơ sinh ít khi mắc bệnh sốt nổi hạch, các cháu lớn hay mắc bệnh
này hơn.
Các cháu mắc bệnh bị sốt và nổi hạch ở cổ, ở nách, ở háng.
Muốn xác định đúng là cháu đã bị bệnh này, phải làm xét nghiệm ở phòng
thí nghiệm (thử nghiệm phản ứng Paul-bunel). Bệnh thuyên giảm mau nhưng
người bệnh còn thấy mệt mỏi trong nhiều tuần.
SỐT THƯƠNG HÀN
Nước uống, sữa, kem, nước đá, hải sản (cua, sò, ốc...) đều có thể là
nguyên nhân gây bệnh sốt thương hàn, nhất là về mùa hè.
Bệnh thương hàn có các triệu chứng như sau: Mới đầu sốt như nhiều
bệnh khác; rồi không muốn ăn, nôn, đau bụng, tiêu chảy (ở trẻ em, hiện tượng
tiêu chảy có thể không xảy ra). Thân nhiệt có thể lên cao tới 40°C và không
thuyên giảm mặc dù đã chữa trị như những lần sốt khác, đi phân lỏng, sức khỏe
suy sụp nhanh.
Khi thấy cháu bé sốt cao, phải mời bác sĩ tới ngay. Nếu nghi là sốt thương
hàn, bác sĩ sẽ yêu cầu cho cháu nằm bệnh viện. Hiện nay, đã có nhiều loại thuốc
kháng sinh rất hiệu nghiệm đối với bệnh thương hàn. Tuy vậy, sau khi khỏi bệnh,
thời gian phục hồi hoàn toàn sức khỏe là rất lâu. Bệnh thương hàn thường làm
cho người bệnh mất nhiều sức khỏe, khỏi rồi nhưng vẫn yếu và gầy.
Nếu bạn sợ cháu bé hoặc chính bạn có thể bị nhiễm bệnh, vì bạn sắp đi
du lịch tới một nơi mà điều kiện vệ sinh không được đảm bảo lắm, hãy tiêm cho
mình và cho cháu bé liều thuốc phòng bệnh thương hàn. Liều thuốc sẽ phải tiêm
làm 4 lần, mỗi lần cách nhau 15 ngày, lượng thuốc lần sau nhiều hơn lần trước.
Tiêm một lần rồi năm sau mới tiêm lại. Lần thứ 3 cách lần thứ hai 5 năm. Tiêm
thuốc sẽ đau và có thể bị sốt.
Hiện nay, việc tiêm thuốc ngừa bệnh thương hàn không được chú ý lắm,
nhưng các bác sĩ vẫn khuyên mọi người nên tiêm phòng mỗi khi có dịch bệnh
hoặc cần phải đi ra nước ngoài.
Trẻ em chỉ nên tiếp tục tới trường sau khi khỏi bệnh được 20 ngày trở đi.
Nếu muốn tới sớm hơn, cần có chung kết quả hết trùng bệnh ở phân, sau khi
thử phân 2 lần, mỗi lần cách nhau 8 ngày.
Các cháu chung sống trong cùng gia đình với cháu bị bệnh, không cần
thiết phải nghỉ học.
HỘI CHỨNG ĐAO
Hội chứng do hiện tượng dị dạng nhiễm sắc thể ở cặp nhiễm sắc thể 21,
đáng lẽ có 2 nhiễm sắc thể thôi thì lại có tới 3. Sự dị dạng này dẫn tới hậu quả
cháu bé bị chậm phát triển về trí khôn, có một số dị tật bẩm sinh nhất là ở tim, và
một vẻ mặt đặc biệt, hai lông mày xếch, ngớ ngẩn vì chậm hiểu.
Người bị hội chứng này cũng như người bị tật nguyền. Các bậc bố mẹ nên
liên lạc với những tổ chức nhân đạo, những trường, lớp dành riêng cho các cháu
để được săn sóc đặc bịệt.
Nguyên nhân hội chứng này chưa được rõ, nhưng hay thấy ở các trẻ em
sinh ra khi mẹ đã vượt quá tuổi 40.
BỆNH SỞI
Bệnh sởi do vi rút gây ra, thường gặp ở các cháu bé trên 1 tuổi, có thể có
dịch vào mùa xuân. Sau khi bị lây nhiễm từ 10 tới 15 ngày, các cháu bé có các
triệu chứng như: ho, sốt. Hiện tượng ho của bệnh sởi có đặc điểm làm giọng
cháu bé khàn khàn và giàn giụa nước mắt.
Sau mấy ngày bị sởi, tai, mặt, chân, tay và toàn thân cháu bé có những
nốt đỏ nổi lên, rồi lại mất đi khoảng 4, 5 ngày sau. Cháu bé khỏi bệnh nhanh.
Ngày nay, bệnh sởi ít khi có biến chứng. Tuy vậy, ở những cháu bé sức khỏe
kém và những bé da đen, bệnh sởi vẫn có thể gây ra viêm tai, viêm phế quản,
viêm phổi.
Cháu bé bị sởi có thể lây sang cháu khác ở thời kỳ trước khi nổi ban.
Ngưòi ta thường tiêm phòng cho các cháu từ trước 12 tháng tuổi, vì trước đó bé
còn giữ được các yếu tố miễn nhiễm trong người do mẹ truyền lại. Thuốc phòng
sởi thường pha thêm thuốc phòng bệnh quai bị, có thể làm cháu bé sốt nhẹ,
thuốc chặn được bệnh kể cả trường hợp cháu bé đã tiếp xúc với một cháu khác
bị bệnh, trong vòng 5 hôm vì thuốc tác dụng nhanh hơn vi rút. Các cháu bé dễ bị
bệnh phổi càng nên tiêm phòng bệnh sởi hoặc dùng chất gammaglobuline để
tăng cường tính miễn nhiễm của cơ thể.
AIDS
AIDS là một bệnh nguy hiểm, chưa có phương pháp chữa trị hiệu quả, do
vi rút HIV gây ra. Vi rút này tấn công vào hệ thống miễn nhiễm của cơ thể làm
cho khả năng tự bảo vệ của cơ thể bị suy yếu trầm trọng. Một người bị bệnh sẽ
mang trong máu những kháng thể đặc biệt nên khi xét nghiệm máu của người ấy
sẽ cho kết quả dương tính.
Một phụ nữ thử máu thấy dương tính có 20% khả năng truyền vi rút bệnh
cho con trong lúc còn mang thai hay khi sinh nở. Sữa mẹ có thể là nguồn lây
bệnh. Bởi vậy, các phụ nữ máu đã dương tính HIV không nên có mang và càng
không nên đẻ.
Trẻ nhỏ có bệnh thường thể hiện rõ từ tháng thứ 6: Sức khỏe suy giảm,
ngưng phát triển, bị đi bị lại các loại bệnh nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng hay vi
rút liên quan tới các bệnh đường hô hấp như ho; đường tiêu hóa như tiêu chảy;
hệ thần kinh như đau màng óc, bại liệt v.v... Bệnh thường tiến triển rất nhanh tới
mức trầm trọng.
Các cháu nhỏ còn có thể mắc bệnh này do việc truyền máu tươi hoặc các
chế phẩm của máu có nhiễm vi rút HIV.
Người phụ nữ mắc bệnh này, cần theo những lời khuyên sau đây, dù cho
lời khuyên có phần khắc nghiệt:
- Nếu là con gái, không nên lấy chồng.
- Nếu lấy chồng, không nên có mang.
- Nếu có mang, phải sớm cho ra thai.
- Nếu muốn giữ thai, không được cho con bú sữa mẹ.
Vì, nếu bị nhiễm bệnh, đứa trẻ chỉ sống được vài tháng, làm bố mẹ thêm
đau buồn. Nếu không lây bệnh, thì cháu cũng sẽ sớm bị mồ côi và trở thành một
gánh nặng cho xã hội.
QUAI BỊ
Thông thường, các trẻ em ngoài 1 tuổi mới bị bệnh quai bị, và hay bị vào
mùa đông hay mùa xuân. Nếu trước khi sinh cháu, bà mẹ đã từng bị bệnh này
thì các em chắc chắn được miễn nhiễm từ 6 tới 7 tháng đầu.
Bệnh quai bị là một bệnh lây. Thời gian nung bệnh từ khi mắc bệnh tới khi
có các triệu chứng vào khoảng 3 tuần, nhưng bệnh có thể lây sang cháu khác
trước khi có triệu chứng bệnh mấy ngày.
Triệu chứng chính của bệnh là sự phồng lên của tuyến nước bọt dưới tai,
một bên hoặc cả 2 bên. Cháu bé nuốt khó, đôi khi há miệng cũng khó. Tuyến
phồng lớn nhất trong vòng 3 ngày, sờ vào sẽ làm cháu đau. Tới ngày thứ 5, chỗ
phồng sẽ nhỏ dần và hết, nhưng thời gian cháu bé bị sốt có thể lâu hơn, từ 5 - 6
ngày kèm theo hiện tượng đau đầu, nôn ói và đau vùng bụng.
Bệnh có thể có các biến chứng nhẹ, đặc biệt có thể làm viêm các tinh
noãn cháu trai đã tới tuổi trưởng thành, gây đau đớn. Bởi vậy, cháu bé có bệnh
cần phải được cách ly cẩn thận với các anh trai và cả bố nữa. Hiện tượng viêm
tinh hoàn ít khi ảnh hưởng tới khả năng sinh sản, không như nhiều người vẫn
nghĩ trước đây.
Trong thời gian bệnh, khi còn sốt thì cháu bé còn cần phải nằm nghỉ tại
giường. Nhiều khi cháu hết đau ở một bên tai, cháu đã hết sốt, tưởng đã khỏi
nhưng bệnh lại bắt đầu nổi lên ở bên tai kia.
Săn sóc các cháu bị quai bị, nên cho ăn thức ăn lỏng, tránh phải nhai
nhiều. Để đỡ đau bác sĩ có thể cho các cháu dùng Aspirin theo hướng dẫn và
chườm khăn nóng lên trên chỗ phồng.
Các cháu có thể tiêm phòng bệnh quai bị kết hợp với việc phòng bệnh sởi
và đậu mùa. Các cháu khỏi bệnh chỉ nên trở lại trường khi đã hỏi ý kiến của bác
sĩ.
BỆNH THẤP
Nhiều người nghĩ rằng chỉ có người già mới bị bệnh thấp. Không đúng.
Trẻ em cũng bị bệnh này.
Thường thấy nhất là bệnh thấp khớp cấp, bệnh này thường ít gặp ở trẻ
em dưới 5 tuổi, ở các cháu có bệnh thấp, các khớp bị tấy đỏ, đau, sờ vào chỗ
đau thấy nóng. Mỗi lần bị bệnh, lâu vài ngày có biến chứng đáng ngại nhất là
biến chứng vào tim.
Bệnh này do vi trùng liên cầu trùng (Streptocoque) gây ra, có thể là sau
một lần viêm họng.
Thuốc kháng sinh Péniciline rất có tác dụng với bệnh này.
Bệnh thấp khớp mạn tính thường có các triệu chứng như: Sốt cao, có nốt
đỏ dưới da vì các mạch máu vỡ, có hiện tượng tràn dịch ở màng tim. Bác sĩ trị
bệnh này bằng thuốc có Cortisone.
Còn một dạng khác của bệnh thấp trẻ em gần giống với bệnh thấp khớp ở
người lớn: Các khớp bị tổn thương một cách dần dần và từng đợt một dẫn tới sự
cứng khớp và thành tật.
BỆNH UỐN VÁN
Chứng bệnh nguy hiểm này đã có thuốc phòng có hiệu quả 100%. Ở Việt
Nam 90% trẻ em đã được tiêm phòng bệnh uốn ván.
Những vi khuẩn gây bệnh uốn ván ở khắp mọi nơi: trong đất, bụi, phân
người và súc vật... Bởi vậy, khả năng nhiễm bệnh đối với mọi người đều rất lớn,
nhất là ở nông thôn, vết thương không cần sâu hay rộng, cũng vẫn có thể nhiễm
trùng uốn ván.
Phần lớn trường hợp chỉ vì giẫm phải một cái đinh gỉ, mắc chân vào một
sợi dây kẽm gai, bị một cái dằm đâm vào dưới móng tay, bị xước tay vì một đồ
chơi cũ đã mấy ngày không đụng đến...
Vết đốt của côn trùng, vết răng của chó, mèo, đều có thể là nơi xâm nhập
của loại vi khuẩn uốn ván.
Bởi vậy, mọi vết thương dù to hay nhỏ cũng cần phải rửa sạch và sát
trùng. Khi cháu nhỏ bị thương, bác sĩ sẽ quyết định có phải tiêm phòng thêm cho
cháu nữa không, dù cháu đã vừa qua một đợt tiêm phòng rồi. Đối với các cháu
chưa tiêm phòng, phải tiêm phòng và theo dõi. Nếu cần, phải tiêm cho đủ liều.
Triệu chứng bệnh uốn ván:
- Từ 5 tới 14 ngày sau khi bị nhiễm bệnh (sau khi giẫm phải đinh), đứa trẻ
bị cứng bắp thịt, đặc biệt là ở cổ và hàm. Nạn nhân toát mồ hôi, càng ngày càng
khó mở miệng, khó nuốt, đau đầu, đau chân tay, người run rẩy, hơi sốt vật vã rồi
bị co giật hoặc uốn cong người. Hiện tượng các bắp thịt bị co cứng lan ra toàn
thân, cần phải chuyển ngay cháu bé tới trung tâm cấp cứu chuẩn về uốn ván.
BỆNH CƠ
Bệnh cơ có tính di truyền thường hay gặp ở các cháu trai từ 4 đến 5 tuổi.
Dấu hiệu làm ta phải chú ý đến bệnh là: Khi cháu ngồi xổm thì rất khó đứng lên.
Nguyên nhân bệnh chưa được xác định. Hiện nay, người ta đã đề ra được
các phương pháp để ngăn bệnh tiên triển và biết trước căn bệnh của bé bằng
cách xét nghiệm mẫu máu từ lúc mới sinh.
CHỨNG ĐỘT TỬ HAY CÁI CHẾT BẤT NGỜ CHƯA GIẢI THÍCH ĐƯỢC CỦA TRẺ SƠ SINH
Những trường hợp trẻ em bị chết bất ngờ thường xảy ra trong thời gian
dưới một năm tuổi. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa xác định được rõ
ràng, nhưng hậu quả chắc chắn là một nỗi buồn vô hạn cho bố mẹ của bé và
cũng là niềm day dứt khôn nguôi cho nhiều thầy thuốc.
Chết bất ngờ được định nghĩa là cái chết tới với một cháu bé đang mạnh
khỏe, mà không tìm được nguyên nhân xác đáng. Nhiều bố mẹ bỗng thấy con
mình mất sắc, người mềm nhũn, đã tắt thở từ bao giờ không ai hay biết ngay
trong nôi của bé. Một số ít trường hợp, bé hồi tỉnh lại khi được cấp cứu bằng các
phương pháp phục hồi sự hoạt động của tim và sự hô hấp.
Hiện nay, ngành y học mới tạm dự đoán như sau: Khi ngủ, nhịp thở của
các cháu không đều, có những khoảng thời gian ngưng thở quá lâu giữa 2 lần
hít vào (lâu quá 20 giây) làm suy yếu cả hoạt động của tim. Hoặc trong bộ máy
tiêu hóa, có thể xảy ra sự lưu thông ngược chiều của các chất từ dạ dày về ống
thực quản, gây ra nghẹn thở.
Những dược phẩm có tính chất an thần, gây ngủ cũng có thể là nguyên
nhân, vì ảnh hưởng tới sự hô hấp.
Từ những dự đoán trên, người ta đã chế ra những máy canh chừng các
cháu bé khi ngủ. Máy được đặt tại giường của cháu bé; khi thấy thời gian ngưng
thở của cháu bé lúc ngủ lâu quá mức cho phép, máy tự động phát hiệu báo động
cho người lớn biết.
Hiện tượng chết đột ngột của các cháu bé hiện nay vẫn còn là một đề tài
để các bác sĩ tại nhiều nước quan tâm, nghiên cứu.
XI. LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁPNHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ TRẺ SƠ SINH
Chúng ta nên nhận định rằng, trẻ sơ sinh không phải chỉ là đứa con trai
hay con gái được thu nhỏ lại. Trẻ sơ sinh khác với chúng ta không chỉ ở cỡ
người mà khác vì các nội tạng, tỷ lệ của các bộ phận và cách phản ứng riêng đối
với thế giới xung quanh.
Đầu
Đầu của trẻ sơ sinh khác với người lớn ở phần tỷ lệ của đầu đối với cơ
thể. Nó to hơn gấp 2 lần so với tỷ lệ sau này. Vậy mà như thế là nó đã nhỏ đi
nhiều lắm rồi, vì khi được 2 tháng trong bụng mẹ, cái đầu và phần thân thể còn
lại bằng nhau. Khi mới sinh ra, phần cơ thể đã lớn hơn nhiều nhưng so sánh với
cấu tạo của một người lớn, thì tỷ lệ giữa đầu và người của bé vẫn gấp đôi tỷ lệ
này ở người lớn.
Ngoài ra còn phải kể tới phần da còn nhăn nheo, đỏ, bóng vì mỡ, xương
hàm dưới ngắn, cổ nhỏ yếu, vai hẹp, bụng phồng, chân tay ngắn, xương mềm
làm cho nó còn giống một cái bào thai hơn là một đứa trẻ.
Tóc
Một số trẻ sơ sinh ra đời với bộ tóc đen và dày, mọc từ khi còn nằm trong
bụng mẹ. Lớp tóc này sẽ rụng hết để thay thế bởi một lớp mới.
Da
- Da bé có nhiều nốt đỏ. Những nốt này sẽ mất màu khi ta chạm tới và sẽ
chết dần về sau này. Trên má và mũi bé có những điểm màu trắng. Những điểm
này cũng mất dần sau vài tuần tuổi.
Móng, tay, chân
Các móng tay, chân của bé đều dài. Chớ vội cắt móng cho bé vì bạn dễ
làm bật móng của bé khiến chỗ đó bị nhiễm trùng.
Ngực
Có điều lạ là hai vú của trẻ sơ sinh đều hơi phồng lên và có thể tiết ra vài
giọt sữa. Dù là bé trai hay bé gái. Người lớn nên nhớ, không được lấy tay ấn vú
bé cho sữa ra vì như vậy sẽ có hại cho các tuyến vú. Hiện tượng có sữa như
vậy do rối loạn hoóc-môn, sẽ tự hết trong một thời gian ngắn, không cần điều trị.
Trứng cá và chất lỏng ở bộ phận sinh dục
Ở bé trai, trên trán và 2 cánh mũi có thể có một vài đốm nhỏ màu vàng.
Đấy là những mụn trứng cá của tuổi sơ sinh. Bộ phận sinh dục ở bé gái có thể
có một ít chất nhầy chảy ra, có khi lẫn một ít máu. Hiện tượng này là bình
thường, cũng do hoóc-môn sinh ra không có gì đáng lo ngại.
Bìu
Khi mới sinh, cái túi da đựng đôi tinh hoàn của bé trai có chứa một lượng
dung dịch không liên quan gì tới các tinh trùng sau này, nhưng cũng làm cho cái
bìu ra vẻ căng, to thu hút sự chú ý. Lượng dung dịch này sẽ dần hết trong vòng
vài tuần.
Phân
Trước khi bé được bú bữa đầu tiên trong đời, bé đã đi ra phân rồi. Phân
này còn gọi là “cứt su”, vào khoảng từ 60 tới 200g, là lượng chất thải có trong
ruột bé từ khi bé còn nằm trong bụng mẹ. Phân là một chất nhầy, màu xám. Sau
3-4 ngày, “cứt su” sẽ được thay thế dần bằng phân do sự tiêu hóa sữa tạo ra.
Phân này màu vàng nhạt hoặc vàng thẫm.
Tính miễn nhiễm
Nếu khi mang thai bà mẹ đã được tiêm phòng các bệnh đậu mùa, bạch
hầu, bại liệt, uốn ván thì các cháu bé mới sinh cũng được miễn nhiễm các bệnh
đó. Ngoài ra các cháu còn miễn nhiễm tự nhiên với các bệnh sởi và quai bị nếu
mẹ cháu đã bị. Tuy vậy, tính miễn nhiễm này sẽ mất đi khi cháu bé được từ 13
đến 18 tháng tuổi.
Nhau
Trong vòng từ ngày thứ 6 tới ngày thứ 10, cuống nhau đính với rôn của bé
sẽ khô và rụng ra, đoạn tuyệt với vết tích cuối cùng của cuộc đời trong bụng mẹ.
Từ đó bé mỗi ngày một nở nang: lớp lông tơ phủ trên người bé rụng dần, những
chấm đỏ trên da cũng hết khiến toàn lớp da có cùng một màu, mịn màng và
sáng sủa. Để yên trí là sức khỏe của bé hoàn toàn tốt, bác sĩ có thể kiểm tra
toàn diện cho bé về nhịp tim, nhịp thở, màu da và những phản ứng về cảm giác.
Ngoài ra để biết bé sơ sinh có hoàn toàn bình thường không, người ta còn
thử một số phản ứng của bé như phản ứng Moro: Đặt bé nằm ngửa, dang tay
chân ra và để đầu hơi ngửa ra đằng sau, tự nhiên bé sẽ thu tay chân và người
lại như những động tác, khi ôm lấy mẹ. Khi sốc bé ở tư thế đứng, tự nhiên bé
hơi ngả người ra phía trước trong tư thế người đi, khi sờ vào môi bé, bé sẽ quay
đầu về phía bị đụng như để tìm bầu vú, khi sờ nhẹ vào lòng bàn tay hay bàn
chân, các ngón tay và ngón chân sẽ gập lại như muốn nắm vật.
Những phản ứng Moro sẽ biến đi sau 3 tháng, phản ứng co tay sau 6
tháng, phản ứng co chân sau 10 tháng, phản ứng bú mẹ sau 4 tháng.
TRẺ SINH THIẾU THÁNG
Trước kia ở một số nước, tất cả các cháu bé khi mới sinh ra cân nặng
dưới 2.500g đều bị coi là sinh thiếu tháng hay đẻ non. Đó là một sai lầm vì nhiều
cháu, tuy nặng dưới 2.500g, nhưng đã được hình thành đủ ngày, tháng trong
bụng mẹ. Trẻ sinh thiếu tháng là những đứa trẻ hình thành trong bụng mẹ không
tới 37 tuần kể từ ngày đầu của lần kinh nguyệt cuối cùng của bà mẹ. Các cháu
sinh thiếu tháng có các biểu hiện da nhăn, thấy rõ ở tai, vú, gan bàn chân.
Càng thiếu tháng, số cân càng nhỏ. Các hệ hô hấp, tiêu hóa, điều chỉnh
thân nhiệt... đều chưa hoạt động tốt. Do đó sinh mạng của cháu bé rất mong
manh. Hơn nữa, cơ thể của cháu rất dễ bị nhiễm khuẩn và nhiễm trùng. Cháu lại
không đủ sức để bú.
Về hình dáng, cháu bé sinh thiếu tháng có chiều dài dưới tiêu chuẩn, đầu
to không cân đối với thân, ngực nhỏ, bụng phình, da đỏ, mỏng, nhăn nheo, còn
phủ một lớp lông tơ. Tiếng khóc của bé yếu ớt và nhịp thở không đều.
Nếu sức khỏe của bé không đến nỗi nào, thì có thể nuôi bé với chế độ đặc
biệt, ở gần mẹ. Trong trường hợp bé yếu quá, cần phải nuôi dưỡng ở trung tâm
chuyên khoa về trẻ thiếu tháng.
Nếu bạn phải nuôi một cháu bé thiếu tháng tại nhà, cần phải theo đúng
những lời chỉ dẫn của cơ quan nuôi dưỡng trẻ. Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất đối
với bé. Nếu không có sữa mẹ, phải nuôi bé bằng sữa bột thì sữa này cũng phải
là sữa đặc biệt, có lượng chất dinh dưỡng cao.
Ngay từ những ngày đầu, phải chú ý sao cho bé được cung cấp đủ lượng
Vitamin A, C, D để tránh bị suy dinh dưỡng. Bé cũng cần được cung cấp thêm
chất sắt vào các bữa sữa: thoạt đầu 8 bữa mỗi ngày (quan sát xem bé bú đã đủ
chưa), rồi dần dần giảm xuống 7, 6 bữa/ngày.
Bé cần được các chuyên viên săn sóc, theo dõi liên tục trong những tuần
lễ đầu về số cân nặng, chiều dài, đo vòng sọ. Quan sát các động tác người, tay,
chân; khả năng hoặc phản ứng về các cảm giác nhìn, nghe... Nói chung, các
cảm giác về cơ thể và về tinh thần của bé đều cần được chú ý đặc bịệt.
Nếu được săn sóc đúng mức, một trẻ thiếu tháng có thể phát triển như
đứa trẻ bình thường sau 2, 3 năm.
TRẺ SINH ĐÔI
Các trẻ sinh đôi, sinh ra thường nhẹ hơn các trẻ sinh bình thường, hoặc
trong hai cháu thì có một cháu nhỏ hơn.
Việc săn sóc các cháu cũng cần thiết như đối với các cháu sinh thiếu
tháng vậy.
Có một điều chắc chắn là cơ thể các cháu bị thiếu chất sắt vì các cháu
phải chia nhau lượng hợp chất sắt lẽ ra chỉ để dành cho một người.
Bởi vậy, ngay từ những tuần lễ đầu tiên, phải chú ý cho thêm các thuốc bổ
có hợp chất sắt vào sữa để các cháu bú.
KHÁNG THỂ CỦA NGƯỜI
Gammaglobulines là những kháng thể có nguồn gốc từ cơ thể người, có
tác dụng chống được vi khuẩn và vi rút trong vòng vài tuần lễ, được dùng làm
thuốc tiêm vào bắp thịt để phòng hoặc làm giảm một số bệnh. Có những loại
Gammaglobuhnes chuyên dùng chống các bệnh như: sởi, gan, ho gà, uốn ván
vv... và một loại chung được dùng để tăng cường khả năng đề kháng của cơ thể.
Cũng có một loại Gammaglobuline được dùng làm thuốc chống dị ứng.
HEMOPHILUS LÀ GÌ?
Hemophilus influenzae là tên một loại vi trùng thường gây ra một số các
bệnh trẻ em như: bệnh viêm mũi - họng, viêm phổi, đau mắt, viêm tai giữa và
nhất là bệnh viêm màng não. Có nhiều chủng loại, nhưng loại Hemphilus B là
loại gây ra những bệnh nặng nhất.
Người ta đã điều chế được vắc xin chống Hemophilus và các bà mẹ nên
cho con tiêm loại vắc xin này để phòng bệnh, nhất là các cháu nhỏ đã vô tình
tiếp xúc với những người đang bị bệnh đau màng não.
PHỤC HỒI SỨC KHỎE SAU KHI KHỎI BỆNH
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của ngành y dược mà việc chữa khỏi bệnh phần
lớn không đòi hỏi những thời gian dài như ngày xưa nữa. Những chứng bệnh
thông thường khỏi trong vài ngày. Trẻ lại trở lại với các sinh hoạt bình thường,
lâu lắm là một tuần sau khi khỏi bệnh.
Nói chung, các cháu thường bị bệnh trong vòng 4-5 ngày. Trước đây, mỗi
lần bệnh thường là 2 tới 3 tuần lễ.
Do thời gian bệnh ngắn, nên việc săn sóc sau khi khỏi cũng nhẹ nhàng.
Tuy vậy, cũng nên chú ý tới sự thay đổi về tâm lý trong một số cháu như:
- Sau khi bệnh, lại mút tay và có xu hướng làm nũng, đòi hỏi được chiều
chuộng hơn.
- Đối với anh chị em, cảm thấy mình được bố mẹ chú ý săn sóc và chiều
hơn, nên dễ tạo ra sự ghen tị.
Nói chung, sau thời gian nằm viện, xa cách gia đình, xa cách với các sinh
hoạt bình thường, cháu nhỏ bây giờ cũng cần có một thời gian để thích ứng với
nhịp sống chung như trước.
Cũng có một nhận xét: Sau mỗi lần bệnh, các cháu lại lớn lên một chút.
THUỐC AN THẦN
Nói chung thì không nên dùng các loại thuốc an thần, thuốc gây ngủ, nhất
là cho các cháu bé. Thường các cháu bé không ngủ được là do các tiếng động
chung quanh hoặc vì nguyên nhân tâm lý khác mà người lớn phải tìm hiểu để
tạo điều kiện cho các cháu ngủ tốt.
Việc sử dụng các thứ thuốc này chỉ có tính chất tạm thời, thật cần thiết
trong một hoàn cảnh bắt buộc. Không được lạm dụng thuốc và sử dụng trong
thời gian dài.
Những loại thuốc an thần đều không lợi cho sự hô hấp, làm các động tác
cơ bắp khi thở ra hít vào bị yếu đi. Do đó, không được dùng cho các cháu mới
sinh được vài tuần, vì thời gian này nhịp thở của các cháu chưa được đều. Đối
với các cháu lớn bị bệnh đường hô hấp cũng vậy. Ngay cả thuốc làm dịu cơn ho
cũng phải dùng có chừng mực đúng theo sự chỉ định của bác sĩ.
LIỆU PHÁP VI LƯỢNG ĐỒNG CÂN
Phương pháp trị liệu này càng ngày càng được áp dụng nhiều cho các trẻ
em, dựa vào nhận xét: có những loại thuốc gây ra những triệu chứng bệnh lại
làm khỏi chính những triệu chứng đó ở một người bệnh. Người ta chưa giải
thích được cơ chế làm khỏi bệnh của các thuốc này, nhưng đã áp dụng có kết
quả trong việc chữa trị. Các chất này được dùng với liều lượng rất nhỏ, rất loãng
để khỏi độc, thường có nguồn gốc thảo mộc như acomt, belladone, arnica..., là
loại nguồn gốc động vật như apis, cantharis; hoặc là những hóa chất như bạc,
thủy ngân, ăngtimoan, phôtpho, đồng v.v... Thường người ta điều chế thành các
viên thuốc dễ tan trong miệng, để các cháu bé ngậm.
Phương pháp này thường áp dụng để chữa trị một số bệnh mà các loại
thuốc thông thường ít hoặc không có hiệu quả như bệnh xoang hay bệnh hen.
Các bác sĩ nhi khoa có kinh nghiệm có thể chỉ áp dụng các chất thuốc này
để chữa trị hoặc phối hợp với cả các thứ thuốc khác.
NƯỚC TIỂU
Các bà mẹ nên tới hỏi ý kiến bác sĩ nếu cháu bé có những biểu hiện sau:
- Bé đã hơn 3 tuổi mà vẫn hay đái dầm, kể cả ban ngày.
- Bé đi tiểu luôn luôn, đi tiểu thấy đau, nước tiểu đục hoặc màu đỏ.
Những hiện tượng đó có thể là triệu chứng của các bệnh về niệu đạo (ống
tiểu). Tuy vậy, chúng ta cũng nên nhớ rằng một số thực phẩm có tác dụng
nhuộm màu nước tiểu như củ cải đỏ, một số kẹo có phẩm màu, một số dược
phẩm như chất xanh-méthylène, quinine. Hiện tượng sốt cũng khiến cho nước
tiểu có màu sẫm hơn mọi ngày.
Lấy mẫu nước tiểu như thế nào?
1. Để tìm albumin trước khi tiêm vắc xin, mẫu nước tiểu không cần phải
thật tinh khiết, chỉ cần sạch (không lẫn phân). Với các cháu mới sinh, có thể
quấn băng thấm để cháu tiểu vào băng. Với các cháu lớn hơn, có thể lấy ở bô.
2. Nếu cần xét nghiệm tìm vi khuẩn như trường hợp muốn biết có phải là
viêm niệu đạo không, mẫu nước tiểu cần phải lấy thật cẩn thận. Trước tiên, phải
lau sạch bộ phận đi tiểu của cháu bé. Sau đó phải lấy mẫu nước tiểu khi cháu
đang tiểu. Đối với các cháu nhỏ, buộc vào bộ phận đi tiểu của cháu một bao
nylon sạch hoặc túi đặc bịệt có bán tại cửa hàng thuốc. Sau 1 giờ, nếu cháu bé
chưa tiểu, phải thay túi khác.
CẤY PHÂN - XÉT NGHIỆM PHÂN
Khi cháu bé bị đi tướt, bác sĩ có thể yêu cầu lấy mẫu phân của cháu mang
đi xét nghiệm để tìm ra vi trùng gây bệnh cùng loại thuốc thích hợp để diệt loại vi
trùng này.
Việc tìm vi rút trong phân là một việc làm khó và phải thực hiện trong vài
ngày.
PHẪU THUẬT CHO BÉ
Hỏi:
Nếu con bạn cần phải qua một cuộc phẫu thuật, bạn không nên hay nên
làm những điều gì?
Trả lời:
Không nên giấu cháu bé tới phút cuối mới cho cháu biết tối nay cháu
không ngủ ở nhà. Hoặc nói dối cháu rằng đưa cháu đi chơi, đi xem phim v.v...,
và mô tả bệnh viện như là một nơi giải trí mà cháu sẽ được hưởng nhiều điều
thật thú vị!
Ngược lại cũng không nên tỏ vẻ lo ngại về một tai nạn có thể xảy ra và để
cháu bị đưa tới bệnh viện một mình, không có bố mẹ đi kèm, rồi tin tưởng vào
những liều thuốc mê, thuốc giảm đau trong bệnh viện mà không tới thăm nom để
động viên, an ủi cháu kịp thời. Cũng không nên cho cháu biết trước lâu quá,
hàng mấy tuần trước ngày giải phẫu.
Bạn hãy giữ bình tĩnh, có thái độ bình thường cho tới trước ngày phẫu
thuật độ 2 ngày mới tìm cách nói cho cháu biết, cháu cần phải tới bệnh viện để
“khỏi đau bụng”, để trị cái cục nào đó thường làm cho cháu đau v.v... Cháu bé
càng nhỏ, thì càng báo chậm, nhưng nên nói tới việc này để cháu có thời gian
chuẩn bị sẵn sàng về tư tưởng.
Bạn có thể nói cho bé biết, trong một vài ngày bé ở bệnh viện, người ta sẽ
chăm sóc cháu tại giường như thế nào, giải thích cho bé tại sao các bác sĩ và y
tá lại mặc đồ trắng, che mũi, miệng, đeo găng tay. Hãy nói với bé về cái giường
đẩy, về tác dụng của thuốc mê và cho bé biết, khi bé tỉnh dậy sẽ thấy ngay bố
mẹ ở bên cạnh. Hãy kể cho cháu biết, trong số người thân trong gia đình: bác A,
chú B, cậu X, v.v... ngày xưa cũng phẫu thuật như cháu nên bây giờ rất khỏe
v.v...
Hãy mang tới bệnh viện cho cháu những đồ chơi quen thuộc của cháu:
con búp bê, ống nghe bệnh cho búp bê, bút vẽ v.v...
Trong những bệnh viện tư và một số bệnh viện đặc bịệt, người ta thường
cho phép người nhà ngủ với các cháu trong những đêm đầu tiên ở bệnh viện.
Hãy cố ở lại với các cháu càng nhiều càng tốt. Nếu các cháu khóc khi bạn về,
hãy hứa với các cháu bạn sẽ sớm trở lại và đưa cho cháu giữ chiếc khăn quàng
hoặc đôi găng tay của bạn để làm tin.
Khi cô y tá đến để đưa cháu vào trong phòng giải phẫu, nên giữ bình tĩnh,
động viên và an ủi cháu. Hãy để cháu giữ lại trong trí hình ảnh thân thương của
bạn trước khi đi và tin rằng, khi cháu trở lại sẽ gặp bạn trên giường.
Khi trở về nhà sau một thời gian ở bệnh viện, hãy gây lại tình cảm êm ấm,
yêu thương lẫn nhau giữa cháu và các anh chị em của cháu.
MỤC LỤC Phần 1. CHĂM SÓC KHI BÉ BỊ BỆNH
Bé bị bệnh - bạn cần phải làm gì?
Những dấu hiệu của sức khỏe
Khi nào cần đưa con tới bác sĩ
Những câu hỏi về việc chăm sóc khi bé bị bệnh
Cho trẻ ăn dầu hay mỡ
Chăm sóc trẻ ngay sau khi sinh
Một vài vấn đề chuyên môn
Nôn trớ ở trẻ sơ sinh
Làm gì khi bé sốt
Cách xử trí khi thân nhiệt trẻ sơ sinh thay đổi
Sốt - cách hạ sốt
Chứng co giật khi sốt
Co giật mà không sốt
Chứng co giật ở trẻ sơ sinh
Cơn co giật
Một số thao tác chuyên môn
Dùng thuốc cho trẻ
Tủ thuốc gia đình
Cuốn sổ sức khỏe của bé
Khi bé nằm viện
Để trẻ sơ sinh không bị lây viêm gan siêu vi B từ mẹ
Lịch tiêm chủng cho trẻ
Phần 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TỪNG PHẦN CƠ THỂ TRẺ
I. ĐẦU
Thóp
Các chứng đau đầu thường gặp ở trẻ
Cẩn thận khi trẻ bị nhức đầu
Xử lý chấn thương sọ não ở trẻ em
Chứng động kinh
Làm gì khi trẻ lên cơn động kinh?
Bệnh viêm màng não
Vẩy trên đầu
Bé rụng tóc hoặc không có tóc
Chấy
Mắt
Viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh
Xỏ lỗ tai
Viêm xương chũm ở tai
Viêm tai trong
Vành tai dị dạng
Vật lạ trong tai
Điếc
Vật lạ trong mũi
Tật sứt môi
Răng
Sâu răng
Làm gì nếu con bạn bị đau răng
Chăm sóc răng sữa cho bé
Lịch mọc răng sữa của bé
Biện pháp phòng ngừa sâu răng do bú sữa bình
Hạt cơm trong miệng
Chứng tưa miệng do vi rút
Bệnh tưa do nấm
Viêm xoang hàm
II. Những vấn đề liên quan đến cổ
Tật vẹo cổ bẩm sinh
Tật vẹo cổ ở trẻ em
Tuyến giáp Amiđan
Bệnh tinh hồng nhiệt
V.A
Viêm vòm họng
Viêm thanh quản
Cách trị nấc
Bệnh bạch hầu
III. Những vấn đề liên quan đến ngực
Các loại ho
Nghẹt thở do có vật lạ trong đường hô hấp
Thở dốc
Bé thở có tiếng rít
Ngưng thở cách quãng
Ngạt do gaz
Ho
Ho gà
Hen
Viêm phổi
Dấu hiệu viêm phổi ở trẻ
Viêm phế quản
Viêm phế quản dạng hen
Bệnh lao (Thử phản ứng B.C.G)
Bệnh tim bẩm sinh
Cách nhận biết trẻ bị tật tim bẩm sinh
IV. Những vấn đề liên quan đến bụng
Bụng to
Cuống rốn bị đỏ hay chảy nước
Lồi rốn - Thoát vị bẹn
Đau bụng ở trẻ sơ sinh
Đau bụng và đau vùng bụng
Đau bụng ở trẻ
Đánh rắm
Không tiêu - Đầy bụng
Táo bón
Tiêu chảy cấp tính
Bệnh tiêu chảy mạn tính
Bệnh đường ruột
Rối loạn tiêu hóa ở trẻ sơ sinh
Giun - sán
Chứng mất nước cấp tính
Chứng kích thích ruột kết
Bệnh Salmonella ở ruột
Sự lưu thông ngược chiều dạ dày - thực quản
Viêm ruột thừa
Chứng lồng ruột cấp tính
Bệnh phình đại tràng bẩm sinh
Tắc ruột
Lòi đom
Hẹp môn vị
Viêm gan do vi rút, do siêu vi B
Bệnh xơ nang tụy
Bệnh viêm thận
Ung thư thận ở trẻ em
Điều trị suy thận trẻ em bằng thẩm phân phúc mạc
V. Những vấn đề liên quan đến tay chân và xương
Gặm móng tay
Vết đâm do: kẹp, kim, gai hồng...
Bị kẹp ngón tay
Đứt tay, chân
Gãy xương, bong gân, và trật khớp
Hông dễ trật khớp
Viêm khớp cấp
Đi khập khiễng
Chân vòng kiềng
Dị tật chân bẩm sinh - chân vẹo
Bệnh còi xương
Vẹo xương sống
Tật nứt đốt sống
VI. Những vấn đề liên quan đến bộ phận sinh dục và bài tiết
Bệnh lý ở cơ quan sinh dục trẻ em
Vệ sinh bộ phận sinh dục cho trẻ sơ sinh
Bộ phận sinh dục bị sưng tấy
Tật lỗ tiểu thấp
Hẹp bao quy đầu
Cắt da quy đầu
Tinh hoàn
Viêm âm hộ, âm đạo
Ái nam, ái nữ
Sự lưu thông ngược chiều
Bàng quan - Niệu đạo
Viêm đường tiết niệu
Axêtôn
Albumin
Bệnh tiểu ra Phenylectone
Tiểu dầm
Tiểu đường
VII. Những vấn đề liên quan đến da
Các bệnh da thường gặp ở trẻ em
Vàng da ở trẻ sơ sinh
Vết trên da trẻ mới sinh
Vết bớt hay chàm đỏ
Hiện tượng tím tái của trẻ sơ sinh
Rôm sảy
Da ngứa ngáy, mẩn đỏ
Chứng nổi mẩn ngứa
Dị ứng
Eczema
Mẩn đỏ
Bệnh ban đào
Chứng ban xuất huyết
Ghẻ
Chốc lở
Nhọt
Ápxe
Mụn cơm
Mụn rộp
Bỏng dạ
Thủy đậu - bệnh truyền nhiễm phổ biến
Bệnh Dôna
Hạch
Rát vì lá han
Bệnh vẩy Leiner-moussous
Viêm tấy và chín mé
VIII. Những hiện tượng liên quan đến sức khỏe
Những cơn khó chịu của trẻ em
Tiếng khóc của bé
Cơn khóc
Mệt
Mỏi nhức vì lớn
Ngủ không yên giấc
Run, giật mình
Mơ hoảng ban đêm
Toát mồ hôi
Nghiến răng
Bé ăn nhiều
Bé không chịu ăn
Không phát triển đủ khi mới sinh
Bé gầy hoặc càng ngày càng gầy
Tái mặt đột ngột
Chậm biết đi
Chậm biết nói
Mất tiếng nói
Nói lắp
Khả năng phát âm hạn chế
Trẻ thuận tay trái
Những động tác bất thưởng
Chứng co giật cơ bắp
Chứng tự kỷ và loạn tâm thần
Mút tay
Nhai lại
Nôn ói
Béo bệu
Tật nguyền
Dị ứng sữa ở trẻ em
Làm gì khi trẻ sặc sữa
Chảy máu cam và cách xử lý
Bệnh mắt lác ở trẻ em
Bệnh tim bẩm sinh ở trẻ em
Bệnh viêm não và viêm màng não
Bệnh tiêu chảy mùa đông ở trẻ
Chứng co giật do nóng sốt cao ở trẻ
Chứng đồng tử trắng ở trẻ em
Phòng ngừa bệnh viêm xoang
Các bệnh trẻ hay gặp vào mùa lạnh
Kinh nghiệm tắm cho trẻ sơ sinh
Một số bệnh lây truyền từ mẹ sang con
Xử trí sốt cao tại nhà
IX. Tai nạn thường gặp
Tai nạn
Va chạm, ngã, các trường hợp ngã
Vết thương
Chảy máu vì vết thương
Nuốt phải vật lạ
Phương pháp sơ cấp cứu trẻ em khi bị ngạt hoặc ngừng thở
Cách xử lý khi bị bỏng lửa và bỏng nước sôi
Vết bỏng nhỏ, chớ coi thường
Bỏng
Bé uống nhầm rượu
Ngộ độc
Cảm nóng
Cảm nắng
Bị côn trùng đốt
Bị súc vật cắn
Bị ngã xuống nước
Chứng ngất khi xuống nước
Bị điện giật
Vết cào
Vết mèo cào
X. Các bệnh khác ở trẻ em
Cúm, trạng thái cúm
Bệnh bại liệt
Bệnh thiếu máu
Chứng cao huyết áp
Bệnh ưa chảy máu
Bệnh nhiễm ký sinh trùng Toxoplasme
Phân không bình thường
Nhiễm độc chì
Bệnh sốt nổi hạch, hay bệnh tăng bạch cầu đơn phân nhiễm trùng
Sốt thương hàn
Hội chứng đao
Bệnh sởi
AIDS
Quai bị
Bệnh thấp
Bệnh uốn ván
Bệnh cơ
Chứng đột tử hay cái chết bất ngờ chưa giải thích được của trẻ sơ sinh
XI. Lý thuyết và phương pháp
Những điều cần biết về trẻ sơ sinh
Trẻ em sinh thiếu tháng
Trẻ sinh đôi
Kháng thể của người
Hemophilus là gì?
Phục hồi sức khỏe sau khi khỏi bệnh
Thuốc an thần
Liệu pháp vi lượng đồng cân
Nước tiểu
Cấy phân - Xét nghiệm phân
Phẫu thuật cho bé
---//---
CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EMCÁCH PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ
Bác sĩ NGUYỄN VĂN BA
NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ
Số 39 Hàng Chuối - Hà Nội
ĐT: 04.971.0717 – 9717.979 - Fax: 04 9712830.
E-mail: [email protected]
CÔNG TY THƯƠNG MẠI & DỊCH VỤ VĂN HÓA ĐINH TỊ
ĐT: 04 2192869 - 093 689 6688 - Fax: 04 6752917.
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm xuất bản: MAI QUỲNH GIAO
Chịu trách nhiệm bản thảo: NGUYỄN THU HÀ
Biên tập: TẠ THỊ HOAN
Bìa: QUANG THỤY
Kỹ thuật vi tính: THANH HÀ
Sửa bản in: ĐẶNG THỊ HUẾ
In 1.000 bản - Khổ 13cm x 20,5cm - Tại Công ty CP in Sao Việt. Giấy chấp nhận
ĐKKHXB số: 334-2007/CXB/11-16/PN. CXB ký 9-5-2007. In xong và nộp lưu
chiểu Quý 3/2007.