Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả...

123
Trang 1 -Đôi nét về tác giả TRẦN KIÊM ĐOÀN: Tác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Việt Hán (Đại học Sư Phạm Huế, 1970) - Cử nhân Văn khoa (Đại học Văn Khoa Huế, 1971) - Cao học Xã hội (Master in Social Works. Đại học California State, Sacramento, 1988) - Tiến sĩ Tâm lý học (Doctor of Clinical Psychology. Đại học Southern California, 2001) - Từng dạy học tại các trường Nguyễn Hoàng, Hải Lăng, Khai Trí (Quảng Trị); Phan Sào Nam, Bán Công, Nguyễn Tri Phương, Đồng Khánh (Huế); Cosumnes River College, CSU, Lutheran Pacific University (Mỹ). Các tác phẩm đã viết: - Hương Từ Bi (Huế, 1966) - The Impact of Relocation on the Vietnamese Refugees in the United States (CSUS, 1988) - Chuyện Khảo Về Huế (Cali., 1997, In lần thứ ba 2003) - Con Yêu Bánh Nậm (Sacto., 2003) - Viết rải rác thơ, văn, bút ký, biên khảo, nhận định… trên các báo tiếng Việt và tiếng Anh trong và ngoài nước. - ... Chuyện 1) Bạn đọc ở Huế đã từng biết đến cuốn “Chuyện khảo về Huế” cách đây nhiều năm và đã có nhiều cảm nhận tốt đẹp về cuốn sách này. Dưới đây là một nhận định khá toàn diện về cuốn sách của chị Nguyễn Thị Yến gửi về NetCodo từ Mỹ... Mỗi năm một lần, cứ vào tiết sương giáng, tôi lại có dịp gần gủi những giòng văn, như một gặp gỡ ngẫu nhiên của thời gian khi tôi đang thong thả hưởng mấy tuần nghỉ đông và của không gian khi đất trời mỗi sáng mù sương, và mỗi chiều, dòng nhạc giáng sinh đâu đó khơi nguồn cảm xúc những hoài niệm về một quá khứ trong tôi ở quê nhà. Huế của tôi...

Transcript of Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả...

Page 1: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 1

-Đôi nét về tác giả TRẦN KIÊM ĐOÀN:

Tác giả Trần Kiêm Đoàn

    - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế.    - Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Việt Hán (Đại học Sư Phạm Huế, 1970)    - Cử nhân Văn khoa (Đại học Văn Khoa Huế, 1971)    - Cao học Xã hội (Master in Social Works. Đại học California State, Sacramento, 1988)    - Tiến sĩ Tâm lý học (Doctor of Clinical Psychology. Đại học Southern California, 2001)    - Từng dạy học tại các trường Nguyễn Hoàng, Hải Lăng, Khai Trí (Quảng Trị);  Phan Sào Nam, Bán Công, Nguyễn Tri Phương, Đồng Khánh (Huế); Cosumnes River College, CSU, Lutheran Pacific University (Mỹ).

Các tác phẩm đã viết:

- Hương Từ Bi (Huế, 1966)    - The Impact of Relocation on the Vietnamese Refugees in the United States

(CSUS, 1988)    - Chuyện Khảo Về Huế (Cali., 1997, In lần thứ ba 2003)

    - Con Yêu Bánh Nậm (Sacto., 2003)     - Viết rải rác thơ, văn, bút ký, biên khảo, nhận định… trên các báo tiếng Việt và

tiếng Anh trong và ngoài nước.    - ...

Chuyện 1) Bạn đọc ở Huế đã từng biết đến cuốn “Chuyện khảo về Huế” cách đây nhiều năm và đã có nhiều cảm nhận tốt đẹp về cuốn sách này. Dưới đây là một nhận định khá toàn diện về cuốn sách của chị Nguyễn Thị Yến gửi về NetCodo từ Mỹ...

Mỗi năm một lần, cứ vào tiết sương giáng, tôi lại có dịp gần gủi những giòng văn, như một gặp gỡ ngẫu nhiên của thời gian khi tôi đang thong thả hưởng mấy tuần nghỉ đông và của không gian khi đất trời mỗi sáng mù sương, và mỗi chiều, dòng nhạc giáng sinh đâu đó khơi nguồn cảm xúc những hoài niệm về một quá khứ trong tôi ở quê nhà. Huế của tôi...

Mỗi thành phố quê hương có những nét riêng biệt, để những người con khi ở, hoặc khi đã rời xa vần nhớ thương, lưu luyến. Riêng Huế, thành phố dịu dàng bên dòng sông xanh mướt, mà nhà thơ Thu Bồn một lần đến Huế đã cảm nghe:

Page 2: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 2

     “Con sông dùng dằng con sông không chảy

      Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.”

Tôi được sinh ra và lớn lên trên quê hương mong manh sương khói ấy, mà non nước Hương Bình qua bao năm tháng đã tưới mát tâm hồn, nuôi tôi khôn lớn. Để hôm nay, trong nỗi nhớ thương đòi đoạn, ký ức tôi cứ lập lòa giữa hiện tại và quá khứ...Đọc “Chuyện Khảo Về Huế” của anh Trần Kiêm Đoàn, tôi đã thưởng thức món ăn tinh thần ngon hơn cả Bún Bò mụ Rớt, hơn Cơm Hến Đò Cồn, và có lẽ không thua gì Chè Sen Hồ Tịnh, bọc nhãn lồng Thành Nội Huế.

Mấy năm gần đây, nhiều người cho rằng anh Trần Kiêm Đoàn là một cây bút nổi bật nhất tại Sacramento. Dưới một vài bút hiệu khác nhau như Trần Kiêm Đoàn, Trần Nguyên Thọ, hay Z.28, anh đã viết chuyện, viết góp ý xây dựng, viết chơi, viết chọc, và viết lời tựạ cho những tập thơ ...Anh đã thành công và đã chiếm đa số cảm tình của độc giả, qua cả hai thể loại văn xuôi, lẫn văn vần, đặc biệt là những bài viết về Huế.

“Chuyện Khảo Về Huế”bao gồm 9 chuyện kh?o được chọn lọc trong số những bài viết về Huế, hay liên quan đến Huế của anh. Đây là một tác phẩm có khá đủ tư chất Huế. Qua những bài khảo cứu công phu về món ăn Huế, tác giả đã nói đến cảnh Huế, người Huế, phong thổ Huế, lối sống Huế bằng một văn phong rất riêng biệt.  Nổi bật là tính mâu thuẩn “rất Huế” được nói đến trong từng chuyện khảo, như cái “có” vốn ẩn trong cái “không” dường như được lãng quên giữa cuộc đời quanh ta, mà lại sáng lên rất rõ nét và sâu đậm với Huế, đã được trình bày qua ngòi bút tài hoa của tác giả.

Nói chung, cùng với mâu thuẫn “rất Huế”, “Chuyện Khảo Về Huế” đã thu hút độc giả không những qua lối miêu tả rất gợi cảm về những món ăn đặc sản Huế, cách ăn của người Huế, hay qua những mẩu chuyện ngộ nghĩnh, vừa nên thơ, vừa cảm động được kể một cách dí dỏm và thật

truyền cảm; mà còn qua lối viết hào sảng, nghệ thuật trỉnh bày đa dạng, cách dùng từ phong phú với nhiều thuật ngữ Huế, và hình ảnh rất chọn lọc phát xuất từ sự rung cảm của tâm hồn với cuộc sống vây quanh, thoát ra thành lời văn trong sáng, không trau chuốt mà bình dị như bà mẹ quê, dễ thương như dòng sông cũ dịu dàng …chảy thành thơ xuôi qua ký ức của một tâm hồn nghệ sĩ .

Từ những trang đầu của quyển sách, tác giả đã giới thiệu một cách khái quát mà rất thơ, để xác định với người đọc về chuyện khảo hay chuyện khào rằng “Nỗi nhớ cũng như tình yêu, mới hôm qua mà đã nghìn năm trước, mới một chút mơ ước mà đã nghìn năm sau; như ‘hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình’; như ‘chuyện khảo là gốc là cành, mà chuyện khào là hoa là lá...vì vậy, dù mang tên nào đi nữa thì những trang sau đây cũng là mảnh lòng gởi Huế qua những chuyện khảo lẫn chuyện khào về Huế.” (Chuyện Khảo, tr. 24)  Và trong chuyến về Huế, thăm lại Quảng Trị, anh đã viết: “Cây rất xanh nhưng ước mơ của con người thì vàng vọt.  Gặp lại những khuôn mặt thân thương và quen biết hơn hai mươi năm trước tôi nghe như có tiếng thở dài với nhiều mái tóc bạc hơn, những gò má hóp hơn và lắm nụ cười u uất. Tình cảm Quảng Trị trong tôi và trong những người cũ gặp lại thì hình như mới chia tay đêm qua, vẫn ấm áp, chan chứa và thuần hậu cho dù hơn 20 năm chưa gặp lại.” (Tản Cư, tr. 234)

Gánh cơm hến từng là cảm hứng của Trần Kiêm Đoàn

Page 3: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 3

Chọn bài “Về Huế” để mở đầu tập sách, tác giả đã khéo léo vừa giới thiệu chủ đề của tác phẩm, vừa khơi nguồn cảm xúc của người đọc ngay những phút đầu. Về Huế hay về với mẹ, bước chân của đứa con xa xứ làm sao khỏi bồn chồn “Chiếc xe đi quá chậm. Chậm không phải vì tôi đã quen với tốc độ bạt gió ở Mỹ, nhưng chậm là vì tôi đang trên đường về với mẹ.  Lòng tôi thì đang di chuyển với tốc độ nôn nao và chớp mắt của tình thương, mà xe thì bò theo tốc độ của tay lái và dặm đường nên tốc độ vật lý chậm như con kiến bò so với tốc độ tâm lý lập loè như ánh chớp.” (Về Huế, tr. 36)

Như nhiều người, tôi cũng có một mẹ già đã để lại cùng với quê hương mà quay mặt ra đi, rồi qua những lá thư, giờ đây rõ ràng trong ký ức, mẹ già tôi cứ ngồi thơ thẩn trước hiên, mỗi sáng, mỗi chiều, tay buông lơi chiếc gậy mà mắt thì cứ đăm đăm hướng về hồ Tịnh, nơi đó có mái nhà vợ chồng đứa con gái, nay đã đổi chủ...Đọc “Về Huế”, tôi đã khóc những giọt nước mắt tủi thân và sung sướng theo bước chân đứa con trên đường làng về với mẹ, mà “nghe mưa lâm thâm chảy dầm trên má lẫn với giòng nước ấm làm mặn môi mình.”  Có thể nói, tác giả có khả năng rót cảm xúc vào lòng người đọc qua ngòi bút diễn đạt tài tình của mình. Câu văn có khi ngắn chỉ hai chữ, có khi dài, rất dài tùy thuộc vào cảm xúc trong lòng anh. “Đây rồi. Tôi lại về ngôi nhà cũ.  Bước vào ngõ có hai hàng gia tàu già bằng tuổi chiến tranh, hòa bình và chia cách của một đời góp lại.  Tôi cảm thấy một niềm hạnh phúc tràn trề khi biết mình còn mẹ để “nói rất khẽ con đã về với mẹ.” (Về Huế, tr. 39)

Miêu tả bằng lối kể chuyện, qua đôi mắt tâm hồn, và trái tim nồng ấm của đứa con xa hướng về quê mẹ như một nỗi đam mê, là đặc điểm riêng của lời văn trong tập “Chuyện Khảo Về Huế.” Tôi thích những đoạn kể chuyện xen vào hình ảnh rất gợi cảm, lời văn tự nhiên, trong sáng, chảy xuôi dòng như thơ mà thấm vào lòng người:   “Mẹ tôi vẫn ngồi đó, trên chiếc giường gỗ kiền kiền còn vết cháy xém trong vụ Tây đốt nhà cả làng hơn 40 năm về trước. Tôi nhảy chân sáo lên thềm nhà xi măng mát lạnh.  Người rất đông nhưng hình như tôi không thấy ai cả, chỉ thấy mẹ tôi ngồi lặng lẽ bên khung cửa sổ chếch ánh đèn dầu. Tôi nhào tới mẹ, nhưng bỗng chững lại như ngọn sóng trào tung vào núi đá...Mẹ tôi vẫn ngồi im lặng, đôi mắt mờ đục nhìn đâu rất xa và đậu trên khuôn mặt tôi, sáng lên rỡ ràng, câm nín.” Như bàn tay người nội trợ khéo biết nêm gia vị cho món ăn ngon hơn, với cái nhìn đời sắc bén, anh biết chọn những hình ảnh so sánh để tạo những bất ngờ lý thú cho người đọc:  “Làm thầy giáo tỉnh lẻ cũng như làm diễn viên của gánh hát bình dân lưu diễn cở các làng xã, cần giữ một khoảng cách và một thế giới nhỏ riêng tư. Càng để cho học trò hay khán giả biết quá rõ đời tư và khuôn mặt thật của hậu trường, càng làm cho bục giảng và sân khấu giảm đi tính chất uy nghiêm, huyền ảo và là điểm tựa thiêng liêng của ông thầy và nghệ sĩ.” (Hồi Cư, tr. 234)  Cũng có đoạn người đọc đã bất ngờ giật thót mình với một “kỷ niệm rát da” của tác giả.  Ngày đầu tiên, người “thầy giáo mới ra lò” đến nhận nhiệm sở: “Tôi cầm theo tập giáo trình quốc văn trên bàn tay có hai ngón giữa còn kẹp điếu thuốc Capstan lơ lửng khói bay và lững thững bước vào cổng trường Nguyễn Hoàng đầy tự tin. Bỗng...một ngọn roi nào đó vừa vụt ngang lưng cùng với một giọng nói ồ ề đanh đá và đầy dọa dẫm: - Đồ học trò vô phép vô tắc, cả gan vô cửa thầy cô, hỉ?”  (Tản Cư, tr. 220)

Mỗi người, mỗi sự vật trong cuộc sống quanh ta có thể sẽ rất quý giá nếu được ta cảm nhận giá trị quý giá ấy.  Và ngược lại, một tác phẩm nghệ thuật có thể không có giá trị với người không thưởng thức.  Nhà văn Lê văn Lân nói rằng, đọc văn của anh Trần Kiêm Đoàn, “nếu đọc qua loa để biết cốt truyện thì hỏng.” Tôi cũng nghĩ vậy.

Những cơn mưa thường có mặt trong văn Chuyện khảo về Huế

Page 4: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 4

Phải đọc thật kỹ mới thấy hết cái linh hoạt, khả năng diễn đạt rất đa dạng, và tâm hồn phong phú của anh.

Một trong những cái hay của “Chuyện Khảo Về Huế” còn là, nó khiến người đọc thèm ăn.  Người chưa ăn cơm hến thấy thèm một tô cơm hến với “mùi thơm ngây ngất của các loại rau, khế, chuối cây, chuối bắp hòa với vị ngọt mượt mà của nước hến, vị mặn nồng nồng của ruốc, vị béo ngầy ngậy của tóp mỡ, vị chua thanh thanh của khế, vị chát the the của chuối và nổi bật nhất vị cay quỷ khốc thần sầu của ớt tương.” (Cơm Hến, tr. 57)  Người đã ăn bún Huế thèm được ngồi trước một tô bún mụ Rớt để thưởng thức: “Tơ bún chỉ lớn bằng bàn tay búp măng xòe ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún

không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng thịt giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún.”  Chưa hết, khách ăn còn hỏi cho có “một dĩa hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mướt điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị...trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát...Cũng xin nhắc anh chị ngồi trước tô bún, thì nhớ rằng: “Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện được phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen...là những biểu hiện thường tình trước tô bún.” (Bún Bò, tr. 85-6) Đọc “Mắm Ruốc” lại thèm mắm ruốc. Tôi thèm được ăn lại một bữa cơm tuổi hồng ngày xưa có mẹ, có ba, có món thịt phay tôm chua và rau sống. Thật vậy: “Cái mùi mắm ruốc nồng nàn của mắm nêm không thể thiếu được trong những nồi canh mít tươi nấu lá lốt, canh môn, canh chột nưa truyền thống. Thịt bò tái, bò nhúng mà thiếu nước chấm mắm nêm cũng khó “đượm” như pha trà bằng nước nguội.” (Mắm Ruốc, tr.149)  Còn “Chè Huế”, tôi nghĩ rằng không những anh đã cho độc giả tài liệu về giá trị khoa học của sen, “Thương chồng nấu cháo le le.   Nấu canh bông bí, nấu chè hôt sen” (tr. 127) mà còn cho chúng ta cả hồn Huế, qua những ly chè Huế, “Những loại chè thường thấy nhất là chè đậu và chè hột: đậu đen, đậu ván, đậu trắng, đậu đỏ, đậu quyên, đậu ngự, chè kê, chè bắp, chè nếp, chè đậu phụng... chè đậu xanh đánh, chè đậu xanh hột, chè nếp, chè đậu xanh ‘lền’...chè bột lọc, chè khoai, chè môn, chè củ chuối, chè bột bình tinh, chè bột sắn cơm,...chè hột sen bọc nhãn, chè bột lọc bọc thịt quay...” (Chè Huế, tr. 105)

Trong các chuyện khảo, tác giả còn khảo cả truyện tình.  Đặc biệt là mối tình đầu: “Cái thửơ ban đầu cơm hến...nớ”, mở đầu từ khi “Có tiếng dạ vọng ra từ bên trong...và...thấy tôi, cô bé cất tiếng chào lí nhí, cái “lí nhí” chết người của những cô gái Huế” đã khiến tâm hồn anh rạo rực để cảm thấy “Cái ngõ có hai hàng gia tàu xanh bỗng sáng lên vì màu áo lụa hồng và mái tóc dài vờn bay miên man của cô bé tìm cơm hến. Tôi chưa ăn mà đã cảm nhận được răng mà cơm hến ngon dễ sợ.”   Anh có lối viết cường điệu rất Huế khi miêu tả: “Cô múc một chút nước từ trong tô và tự nhiên đưa lên miệng nếm “chíp” một cái ngon ơ. Tôi có thể nghe tiếng gió gào và nước cuốn chạy qua đôi môi chín mọng chúm lại tròn xoe của cô.” (Cơm Hến, tr. 57) Trong “Bún Bò”, tình yêu tuổi học trò nhẹ như tơ trời và đẹp như nắng mai: “Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe song song chung đường từ Thành nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học...”, để “một tí ớt màu” “vô duyên trên chiếc răng khểnh” cũng dệt thành kỷ niệm đáng yêu: “Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của tí ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần.  Tôi lên tiếng nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh.  Rồi cả

Món bún Huế.

Page 5: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 5

hai đứa đứng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chổ.  Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.  Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu vào đáy mắt: - Ngó dữ chưa tề, dị chết!  Tôi thanh minh như Vương Tử Trực: - Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!”  Và càng đáng yêu, khi hơn 30 năm sau, người xưa gặp lại người xưa, bên tô bún bò, lại nghe câu thơ tình thời cổ: “Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!”  (Bún Bò, tr. 96-7, 100)

 

Có thể nói Huế là mảnh đất “địa linh”, cảnh trí Huế đẹp và nên thơ, cốt cách đời sống Huế vốn tao nhã, người Huế vốn thanh, dịu dàng, đa cảm, và lãng mạn.  Nhưng, cùng với đau thương của đất nước, Huế là quê hương hứng chịu nhiều nhất không những các cơn bão lớn của lịch sử, mà cả những cơn bão lớn của đất trời.  Cho nên mâu thuẫn có sẵn ở mỗi người Huế, có ở khắp Huế trong từng ngõ ngách.  “Khi tôi cố quên Huế thì Huế lại hiển hiện trong tôi, dịu dàng như một bà mẹ hiền và bâng khuâng như người tình cũ cười ngậm ngùi vì chớt nhớ về dĩ vãng.  Khi tôi nhớ Huế thì Huế chỉ còn là một bóng dáng êm đềm mất hút rất xa xăm...” (Về Huế, tr. 26)...

“Chuyện Khảo Về Huế” còn rất nhiều nét dễ thương.  Dễ thương như buổi chiều trên sông: “Chiếc đò bềnh bồng nương gió chiều lướt êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều sang màu tím nhạt hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia sông...Giữa thanh vắng vô cùng...mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng... “ (Ngủ Đò, tr. 165)  Hay dễ thương mà thanh thoát như: “Lại vang vọng trong đêm thâu tiếng chuông Thiên Mụ.  Tiếng chuông như hữu hình mà vô ngã vì muôn năm vẫn thoát ra ngoài buồn vui của nhân thế.”  (Tâm Huế, tr. 204)

Đọc lại từ trang đầu đến trang cuối “Chuyện Khảo Về Huế,” tôi cảm thấy như mình vừa thưởng thức những bài ca rất Huế, mà trong đó lối hành văn, cách kể chuyện, kiểu dùng từ, mấy chỗ ngắt câu hay những hình ảnh sinh động của bài viết là những nốt nhạc được sáng tạo, sắp đặt theo cung bậc cảm xúc của tâm hồn người nhạc sĩ.  Xếp sách lại, trong tôi là dư âm miên man của một tâm hồn Huế, thiết tha muốn chia xẻ với cuộc đời, nhập thể với Huế qua những bước thăng trầm một đời người “thích lý tưởng và sôi nổi, muốn “làm được một một cái gì”, mà cho dù khi đã làm được một cái gì, vẫn cảm thấy “chẳng làm được việc gì ngoài việc loanh quanh, có khi quay quắt, từ giảng đường tới thư viện; từ làng lên Huế; từ những ước mơ xa lắc đến cái bóng mình hiện thực trơ vơ đổ dài trên đường Thành Nội lổn chổn ổ gà.”  (Chuyện khảo, tr. 21) 

Đó là anh Trần Kiêm Đoàn.  Một người đàn ông Huế biết mình là ai. 

Nguyễn thị Yến (Netcodo)

Chuyện 2:

SAU ĐỒI VỌNG CẢNH (1)

Làn sương huyền ảo trên sông Hương

Page 6: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 6

TS Trần Kiêm Đòan

E-Mail: [email protected]

5 tháng 5 năm 2005

 

   Thế giới càng phát triển, sự tiếp cận giữa các nền văn minh và văn hóa càng nhiều thì sự xâm thực và ô nhiễm văn hóa càng nghiêm trọng.

            Khi hai nền văn hóa khác nhau tiếp cận thì sự "xâm thực văn hoá" (Cross- cultural invasion) là một tiến trình tự nhiên và tất yếu, không thể nào tránh khỏi như khi hai con nước cao thấp giao lưu. Một nền văn hóa cao cấp và đa dạng hơn sẽ đóng vai trò xâm thực trong khi  một nền văn hóa khép kín và sơ khai hơn sẽ bị xâm thực. Sự xâm thực nầy thường diễn ra dưới ba mức độ: (1) Toàn phần, (2) từng mảng, (3) từng lĩnh vực và (4) từng chi tiết (2).

            Nếu sự xâm thực văn hóa diễn ra trên một mức độ cao cấp mang tính tích cực thì đấy sẽ là một sự khai sáng văn hóa (Cultural glorification); nếu ngược lại thì đấy là một sự ô nhiễm văn hóa (Cultural detestation) hay nói một cách gợi hình hơn là một sự "xả rác văn hóa".   Có khi sự xâm thực văn hóa lại mang một tác dụng nhị trùng là vừa khai sáng vừa ô nhiễm.  Cuộc đối đầu trong sự tiếp cận giữa hai nền văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông trong thế kỷ 19 và 20 là ví dụ đìển hình ngay trên đất nước Việt Nam.  Khi dòng văn hóa Pháp chảy vào dòng văn hóa Việt Nam thì ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm, mặc nhiên hay minh nhiên... sự xâm thực văn hóa bắt đầu xảy ra.

            Tác dụng "nhị trùng" trong cuộc đối đầu văn hóa nầy có thể nói là văn hoá Việt Nam vừa được khai sáng về mặt văn chương, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật; nhưng đồng thời, cũng bị ô nhiễm về mặt đạo lý và triết lý sống cổ truyền.  Trong cuộc đối đầu và tiếp cận văn hóa nầy sự giao lưu văn hóa diễn ra dưới nhiều hình trạng rất nhiêu khê, không đơn giản để có một sự phân tích, đánh giá chi li và dứt điểm.

            Sự xâm thực văn hóa mang hai yếu tính "mềm" và "cứng".  Mềm như nghệ thuật âm nhạc, văn học thi ca lãng mạn.  Cứng như súng đồng đại bác, những tư tưởng bạo loạn, những phong trào chống lại xã hội.

            Khái niệm mềm và cứng trong văn hóa không nhất thiết mang nặng tính vật thể và vật lý.

             Hiện tượng xâm thực văn hóa của ngành kinh doanh khách sạn-du lịch.

             Theo nhóm nghiên cứu văn hóa đa phương (multi-cultural research) của Doug Lancaster, Adam Lindsey, Robert Hughes (3)... (Đại học LPU, Oregon, 2003) thì một sự ô nhiễm văn hóa tồi tệ nhất nhưng thường được"mỵ trang" (velvet masking) dưới vẻ khai sáng văn hóa đã và đang diễn ra tại các nước nghèo Á Phi, các nước thứ ba kém phát triển là "Văn Hóa Ô Ten" hay là "văn hóa kỹ nghệ khách

Page 7: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 7

sạn" (The Culture of Hotel Industry).   Hay nói một cách nôm na theo ngôn ngữ đại chúng là sự xâm lăng của giới đầu tư khách sạn giàu có vào các xứ nghèo.  Đấy là một lối kinh doanh xông xáo mang bản chất thuộc địa và khai thác tài nguyên từ một quá khứ lịch sử chưa xa.  Nhưng tất cả đều được ngụy trang dưới dáng vẻ đẹp đẽ của kỹ nghệ du lịch, kỹ thuật kiến trúc và phát huy xây dựng qua hình thái thiết kế và bành trướng khách sạn.  Theo nhóm nghiên cứu vừa nêu dẫn thì những tập đoàn kinh doanh kỹ nghệ khách sạn "bạo" (aggressive) nhất trên thế giới đều phát xuất từ Âu châu và Mỹ châu như Hilton, Sheraton, Holiday Inn, Marriott, Red Lion... Hay những thế lực "trùm" nầy sẽ biến tướng thay tên khi đến một địa phương nào đó cho thích nghi nhưng cổ phần khai thác thì vẫn là một.

            Nói tóm lại, kỹ nghệ khai thác khách sạn trong thế kỷ 20 và đầu thế kỹ 21 cũng là một thế lực kinh tế viễn chinh mà những mục tiêu chinh phục đầu tiên là thị trường du lịch và nắm thế thượng phong khai thác cảnh quan của những xứ sở chưa phát triển.

            Về mặt kinh tế, kỹ nghệ khách sạn tạo ra một sự "phồn vinh giả tạo" tại một địa phương nào đó.  Sự phồn vinh nầy có khi là một sư mâu thuẫn đầy mĩa mai và cay đắng với đám dân nghèo bản địa.  Như ở xứ quần đảo Brahmas ngoài khơi Caribbean,  là nơi khách sạn có giá đắt nhất thế giới,  trong lúc dân Brahma phần đông còn làm nghề đan đát thủ công và chữa thuốc bằng lá cây.  Khó tưởng tượng nổi là giá một đêm tại  the Atlantis Bridge Suite của khách sạn Atlantis, Brahmas, là 25 nghìn đô la Mỹ (so với giá một đêm tại the Imperial Suite của khách sạn President Wilson Hotel ở Thụy Sĩ là 23 nghìn đô la.  Hilton Hotel ở HàNội là 109 đô la. New World Saigon là 92 đô la Mỹ trong cùng thời điểm quảng cáo trên Tourist Web-Site (4)   ).

            Cái gì đã làm cho khách sạn Atlantis ở Brahmas đắt đến như vậy? - Vị trí thiên nhiên!  Vẻ đẹp thiên nhiên mê hồn của biển trời, núi non, mây nước trên quần đảo Brahmas chỉ cách tiểu bang Florida của Mỹ 50 dặm là yếu tố quyết định.

            Các nhà kinh doanh khách sạn chỉ đặt sự hưởng thụ của khách lên hàng đầu, bất chấp văn hóa và con người bản địa.  Lợi nhuận là ưu tiên sinh tử và cũng là đối tượng cao nhất mà các nhà kinh doanh khai thác khách sạn hướng đến.

            Cũng theo nhóm nghiên cứu nêu trên thì cũng chính thế lực kỹ nghệ khách sạn nầy đã tạo ra những "mảnh vá đáng ghét" (outrageous patches) trên những chiếc áo thiên nhiên tuyệt tác khắp năm châu.  Họ không ngần ngại cày núi, lấp sông, phá thành, xé biển để chiếm lĩnh những vị trí tuyệt hảo nhất tại một nơi nào đó mà họ đặt chân đến.  Khẩu hiệu sinh tử của giới kinh doanh khách sạn là "Location! Loacation! Location!" (Location trong tiếng Anh có nghĩa là nơi chốn, vị trí, địa điểm.)  Bởi vậy những "chiến sĩ xung kích tiền phong" trong quá trình xây dựng  một đại khách sạn là đi tìm địa điểm. Ưu tiên cao nhất của họ là chiếm cho bằng được thế sông, thế núi, thế biển, thế thiên nhiên và văn hóa... bất chấp sự chiếm lĩnh ưu thế nầy có tác dụng như thế nào đối với toàn khung cảnh văn hoá và xã hội của địa phương mà họ đến đầu tư và khai thác.

            Âu châu là chiếc nôi văn hóa của phương Tây có mấy nghìn năm lịch sử.   Thế nhưng kỹ nghệ khách sạn với lịch sử chỉ có hơn 100 năm đã có một tác động vừa sâu, vừa rộng trên những kinh đô ánh sáng của Âu Châu.  Khi đến Rome, nơi có Michelangelo, thiên tài điêu khắc muôn thuở của nhân loại, du khách sẽ cảm thấy khó chịu như phải đọc một vần thơ lạc điệu sai vần khi đi ngang qua những con phố cổ đầy di tích lịch sử trộn lẫn với những công trình xây dựng khách sạn mới.   Những

Page 8: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 8

đường nét lạc lõng ngang phè của một số khách sạn đời mới, chiếm cứ những vị trí đáng lẽ phải dành cho những công trình văn hóa. Những người am hiểu lịch sử của những công trình mỹ thuật và điêu khắc tại địa phương đã kể lại những cuộc đối đầu giữa giới nghệ sĩ hậu duệ Michelangelo và giới kinh doanh có quyền thế trong thế kỷ 19, 20.  Nhưng giới kinh doanh thường mạnh hơn nên giới mỹ thuật chỉ còn biết ngậm ngùi chấp nhận.  Dẫu thế, nhưng Rome đã quá đẹp với muôn nghìn tượng đài có đường nét tuyệt tác dựng khắp nơi từ cả hàng thế kỷ trước.  Vậy mà đã có nhận xét: "Rome chắc sẽ đẹp hơn nhiều nếu có một sự phối hợp hài hoà giữa các công trình mỹ thuật truyền thống và xây dựng đời mới (5)."  Paris, London, San Francisco, Washington DC, New York...  cũng có dáng vẻ chật chội tương tự trong những khu phố cũ.  Nhưng so với một số những thành phố lớn nổi tiếng ở châu Âu, phần lớn thì kiến trúc ở Mỹ có vẻ trẻ trung và khoảng khoát hơn.  Ai  ở Mỹ cũng đều biết là mọi công trình xây dựng ở Mỹ từ đầu thế kỷ 20 về sau luôn luôn có một Họa đồ chủ đạo (Master Plan) được chỉ đạo và áp dụng chặt chẽ từ phía lãnh đạo và các thành viên triển khai, tức là các nhóm tư nhân hay nhà thầu xây dựng.  Khi một cơ sở công cộng  được dự trù xây cất, luôn luôn có sự  phối hợp ý kiến của 3 thành phần thông qua 3 lần hội nghi:

            - Thứ nhất: Cơ quan xây dựng của chính quyền ra trình bày dự án xây cất chi tiết trước hội nghị.

            -Thứ nhì: Công ty chịu trách nhiệm xây cất kết hợp với nhóm người chủ xướng và chủ trì xây cất có trách nhiệm  phải trình bày công khai và đại chúng đầy đủ các mặt lợi hại của cơ sở sắp được xây dựng và phương cách thực hiện cùng tiến trình thi công.

            -Thứ ba: Chất vấn, ý kiến phản bác hay ủng hộ của những người trong địa phương khu vực có cơ sở sắp được thực hiện.

            Công trình chỉ được thực hiện sau khi mọi ý kiến đã được tham khảo và thống nhất tán đồng thông qua hình thức biểu quyết công khai và dân chủ từ phía quần chúng tại nơi có công trình xây cất dựng lên.

            Ngay một cơ sở xây cất đang trên đà thi công, hay thậm chí đã hoàn thành nhưng tập thể quần chúng phát hiện ra rằng, cở sở vừa mọc lên  có phương hại cho môi trường sống và hạ thấp giá trị văn hóa, quần chúng sẽ kiện ra tòa án địa phương, tiểu bang, liên bang và có khi lên tới tối cao pháp viện.  Không ít công trình xây dựng đồ sộ ở Mỹ phải bị đình hoãn hay vô hiệu hóa vì quần chúng thắng kiện.

            Sự cân đối trong tổng thể của một bức tranh xây dựng đòi hỏi sự phong phú về tài nguyên và vật chất đã đành, nhưng trên tất cả vẫn là sự chỉ đạo đúng đắn của những người lãnh đạo vừa tôn trọng luật pháp và nguyên tắc, vừa có tầm nhìn xa thấy rộng và đặc biệt là cần có tâm hồn.  Một hậu duệ trường phái Michelangelo, Milo Delgo nói về quan điểm xây nhà, dựng tượng: "Kẻ có tâm hồn và tầm nghĩ đúng đắn trong xây dựng sẽ không nhầm lẫn giữa cánh hoa dại và viên kim cương; giữa giá trị vật chất tạm thời và gia tài văn hóa miên viễn để đặt đúng vào vị trí của mỗi thứ (6)."

 

            Trên đồi Vọng Cảnh

           

Page 9: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 9

            Cũng giống như các ngành du lịch tại những quốc gia có kỹ nghệ du lịch đang còn trẻ trung và đang trên đà phát triển, ngành du lịch của Huế đang có những nhu cầu và cần những cơ sở vật chất trước mắt.  Nhưng bên cạnh đó, cũng cần bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên trong dòng sinh mệnh tồn tục lâu dài thường được coi như là linh hồn của ngành du lịch. Tại những quốc gia có ngành du lịch phát triển rực rỡ nhất của thế giới như Ý, Pháp, Anh, Mỹ... người ta bảo vệ và làm thăng hoa những "điểm nóng" mang tính lịch sử và thiên tạo độc đáo của một thành phố, một địa phương cực kỳ nghiêm cẩn. Chẳng hạn như di tích cung điện và đấu trường La Mã ở Rome tuy chỉ còn là những phiến thành đổ vỡ hoang phế nhưng mỗi ngày có hàng hàng lớp lớp người từ khắp nơi trên thế giới lũ lượt đến viếng.  Cũng thế, ở nhiều nước khác, những điểm nóng du lịch thiên nhiên trở thành tài sản vô giá của quốc gia và gia tài văn hóa quý báu của nhân loại mà không một thế lực nào có quyền xâm phạm.

            Những khách sạn năm sao, bảy sao nơi nào cũng có.  Đấy chỉ là những phương tiện tạm thời làm chỗ nghỉ chân. Khách sạn, dù sang trọng đến đâu và giá mỗi đêm vài chục nghìn đô la như ở Brahmas hay vài ba chục đô la như những Motel Six dọc đường của Mỹ thì cũng chỉ là những phòng ngủ sang trọng hay tiện nghi bình dân qua đêm mà thôi.  Khách sạn là tiện nghi. Tự bản chất và thực tế khách sạn hiếm khi là một công trình văn hóa cho dẫu đó thực sư là những lọai khách sạn văn hóa (cultural hotels) kiến trúc theo những đường nét cung điện tuyệt vời như ở Trung quốc,  cheo leo và hoà điệu với thiên nhiên như ở Siri Lanka, hay với hình thức lâu đài cổ xưa như ở Pháp (Symboles de France - Chateaux).  Văn hóa khách sạn không thể nào thay thế cho văn hóa truyền thống của một quốc gia, một dân tộc, một địa phương.  Vua thiết kế khách sạn Mỹ Edward Flynn trước khi phủi tay gác kiếm về hưu đã nói một câu đầy luyến tiếc cho đời mình vì đã từng phá bỏ những tụ điểm văn hóa để biến thành những tiêu điểm kinh doanh khách sạn: "Di sản văn hóa thế giới bị ngành du lịch bành trướng đe dọa. Nhiều nơi, sự tham lam của kỹ nghệ khách sạn đã phá hủy những khung cảnh văn hóa không thua gì chiến tranh." (World's cultural heritage is threatened by mass tourism.  In several situations, greedy hotel industry destroyed cultural sites as wars (7)  .)

            Huế là một thành phố có thế mạnh về du lịch.  Nhưng cái gì là giá trị quý báu và đích thực giúp nâng chất lượng và giá trị du lịch của Huế lên tầm mức hôm nay?  Về điều nầy, không ai có thể chối bỏ được thực tại hiển nhiên rằng, chính khung cảnh thiên nhiên, môi trường địa lý, truyền thống văn hóa và di tích lịch sử đã chung phần vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về Huế.  Nhưng trong đó, yếu tố thiên nhiên đóng vai chủ đạo.  Chính đồi núi, sông ngòi, biển cả, cây cảnh của Huế đã định nghĩa cho bảng giá trị du lịch của Huế.

            Đầu năm 2005, có tin là công tu Du Lịch Huế, phối hợp với công ty Xây Dựng Khách Sạn Việt Nam có sự đầu tư của một công ty khách sạn lớn Hà Lan-Áo, Projekt BV, đã đi dến quyết định xây dựng một khách sạn cao tầng ngay trên đồi Vọng Cảnh.   Quyết định nầy đã bị sự chống đối mạnh mẽ từ nhiều phía:  Phía báo chí, phía đồng bào, nhân sĩ Huế trong và ngoài nước, phía các nhà văn hóa và nhân văn tích cực tại địa phương... Đã có sự khởi công và đình hoãn.  Nhưng vấn đề đã được hâm nóng trở lại khi các đại biểu Hội đồng Nhân dân Thừa Thiên  Huế đã bỏ phiếu "thuận" (48 thuận và 1 chống) trong ngày 6 tháng 4 năm 2005 vừa qua.  Nghĩa là Đồi Vọng Cảnh vẫn đang đứng trước nguy cơ sẽ bị phá bỏ để làm khách sạn8!

            Điều đáng ngạc nhiên ở đây là Huế vẫn còn nhiều địa điểm rất tốt để làm phòng ngủ, khách sạn để phục dụ ngành kinh doanh du lịch. Cớ sao lại phải chọn

Page 10: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 10

Đồi Vọng Cảnh là một danh địa được xem như là con mắt thiêng liêng, là một vị trí thiên nhiên truyền thống, một địa điểm lịch sử trong toàn cảnh sông núi Huế? 

            Nếu một khách sạn được xây cất trên Đồi Vọng Cảnh thì rõ ràng là chỉ có 01 điểm lợi nhỏ là giúp ngành du lịch và đầu tư khách sạn Huế chiếm ưu thế kinh doanh.  Trong lúc đó, tạo ra 03 điểm tai hại lớn: (1) Thất nhân tâm, (2) Phá hủy một địa điểm địa lý, lịch sử và văn hóa đã thành danh thắng, (3) Tạo một tiền lệ tiêu cực "bất chấp" của kỹ nghệ kinh doanh khách sạn vào các danh lam thắng cảnh Việt Nam.

            Gần như các thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng trên thế giới, thu hút nhiều du khách đều có "điểm ngắm" (scenic view/bellevue).  Một điểm ngắm lý tưởng là nơi có thể nhìn được toàn khung cảnh hữu tình của một thành phố hay toàn cảnh của vùng đất địa phương trãi rộng trong tầm mắt bên dưới.  Đồi Vọng Cảnh là một điểm ngắm địa đầu lý tưởng khung cảnh thiên nhiên của Huế.  Từ Đồi Vọng Cảnh, du khách có thể nhìn thấy dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co dưới chân các ngọn đồi tả hữu.  Đồi Vọng Cảnh được người xưa xem là con mắt thần, là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, là báu vật thiên nhiên ban tặng cho Huế, cần thiết phải giữ gìn và xây dựng.  Vọng Cảnh nằm bên dòng Hương thơ mộng, cảnh quan thiên nhiên đẹp nổi tiếng và là tiền án của quần thể lăng tẩm của các triều vua ở Huế (9).

            Khu vực đồi Vọng Cảnh là một điểm nằm trong không gian qui hoạch của một số di tích như: Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Điện Hòn Chén thuộc quần thể di tích Cố Đô Huế. Và cũng theo các nhà nghiên cứu và biên khảo về Huế thì người xưa còn tin rằng nơi đây có âm phần linh thiêng, không nên tác động thô bạo đến nó, bởi sẽ gây hậu quả khôn lường...

            Theo cụ Cao Đình Dương thì trước đây đã có đề nghị xây "Vọng Cảnh Lâu" cho cựu Hoàng Bảo đại trên Đồi Vọng Cảnh.  Nhưng khi các vị lão thần thừa lệnh đến thắp nhang khấn vái phát quang, đã chạm phải một phiến đá có ghi hàng chữ: "Vọng Cảnh vong thân.  Thất thần khiếm thị"  Câu nầy được giải thích theo hai cách: (1) Nếu Đồi Vọng Cảnh mất đi thì thần khí của vùng đất nầy không còn và tầm nhìn, tầm soi ngắm cảnh đẹp cũng mất theo; (2) Nếu ai phá hủy Đồi Vọng Cảnh thì sẽ bị liên lụy điên khùng (thất thần) và đui mù (khiếm thị).  Người đương thời có khuynh hướng giải thích theo ý thứ hai nên sợ hãi, xin bãi bỏ lệnh phát quang xây nhà mát từ đó. Tuy đây chỉ là chuyện tương truyền mang tính thần thoại,  nhưng về mặt tâm lý, câu chuyện cũng nói lên được nỗi lòng yêu mến, trân trọng và bảo vệ thiên nhiên của người dân khi Đồi Vọng Cảnh sắp biến thành nhà mát, dù là nhà mát cho vua, chứ không đến nỗi là... nhà ngủ cho bàng dân tứ xứ có tiền!

            Sự việc đem một khung cảnh văn hóa và lịch sử gắn liền với sinh mệnh của xứ Huế như Đồi Vọng Cảnh để làm sân bãi cho một khách sạn là một sự cố nhân văn không bình thường.  Sự cân nhắc cần được đặt trên tầm mức quốc gia và có khi là quốc tế chứ không chỉ là địa phương. Nếu việc xây khách sạn trên đồi Vọng Cảnh diễn ra thì  rõ ràng đây là sự phế bỏ một cảnh quang văn hóa vô tình như chiến tranh.  Những người Huế sống xa quê hương không tin đồi Vọng Cảnh sẽ bị kỹ nghệ khách sạn phá hủy dễ dàng như thế.  Càng có dịp tiếp cận với khung cảnh xã hội và kỹ nghệ du lịch thế giới, người Việt càng được thấy tinh thần bảo vệ thiên nhiên và di tích văn hóa của các nước tiên tiến chặt chẽ đến dường nào.  Ngành du lịch Huế càng phát triển trên một quy mô rộng lớn hơn, lẽ ra, càng có lợi cho Huế vì một cách vô hình chung, kỹ nghệ kinh doanh du lịch phải có trách nhiệm cao hơn trong việc bảo vệ các di tích và khung cảnh văn hóa Huế.  Du lịch là cuộc sống sinh động giao hòa giữa đôi mắt và thiên nhiên.  Du lịch không sống bằng bánh mì và phòng ngủ!

Page 11: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 11

            Kinh nghiệm ngành xây dựng kiến trúc Âu Châu và Mỹ Châu là những bài học đáng quý cho ngành du lịch thế giới.   Các nhà kiến trúc học Âu Châu đều lấy làm tiếc vì cuộc cách mạng kỹ nghệ của những thế kỷ trước đã đặt kỹ thuật xây dựng nhân tạo lên trên thiên nhiên.  Sự đô thị hóa vội vàng đã mang theo di lụy "bê tông hóa và cao ốc hóa" những trọng điểm thiên nhiên đáng lẽ phải được bảo tồn và tôn tạo.  Ngành xây dựng kiến trúc Mỹ Châu trẻ trung hơn nên đã học được bài học "vôi hóa" tiêu cực và đáng tiếc của Âu Châu.  Ngành kiến trúc cận đại và đương đại của Mỹ phát triển theo một tốc độ đáng chóng mặt.  Những cánh đồng mênh mông, những vùng núi đồi bạt ngàn được xây dựng trở thành khu dân cư và phố xá sầm uất chỉ trong vòng vài ba năm.  Nhưng điều đáng tham khảo và nghiên cứu trong lĩnh vực xây dựng trên xứ Mỹ nầy là tinh thần tôn trọng và quy chế nghiêm ngặt trong vấn đề bảo vệ những di tích, quang cảnh lịch sử và thiên nhiên.  Những con suối, dòng sông, núi đồi  tô điểm cho tổng thể thiên nhiên; những vùng hoang dã (wild life) và thậm chí những cây sồi (oaks) cổ thụ cũng được khéo léo bảo vệ trong những công trình thiết kế và xây dựng có quy mô dầu nhỏ hay lớn.  Nhờ vậy mà khi đi vào những thành phố mới của Mỹ Châu, du khách có cảm giác bình an, tươi mát, gần với thiên nhiên cây cỏ hơn là cảm giác nặng nề, nghẹt thở như khi đi giữa những thành phố "vôi hàu bê tông cao ốc"!

            Những người xa quê hương lâu ngày, có dịp du lịch nhiều nơi trên thế giới, khi trở về thăm lại quê hương Việt Nam thường có một cảm nhận chung là thiên nhiên Việt Nam mình đẹp quá. Những cánh đồng bằng xanh ngút mắt, những vùng cao nguyên đồi núi chập chùng, những thành phố ven biển mây nước mênh mông, những ốc đảo ẩn hiện ngoài khơi... đẹp đến lặng người. 

            Trong một bài viết trước đã được đăng tải và xuất bản, nhan đề : "Dòng Sông Biệt Xứ", người viết bài nầy đã có dịp mô tả và nhận định về "sự vôi hóa" của những dòng sông. Có những dòng sông đẹp như một ân sủng của thiên nhiên dành cho trái đất như sông Seine, sông Danube, sông Tiber, sông Thames... đã bị kỹ nghệ lâu đài biến thành những lạch nước chảy một cách tội tình giữa hai bờ bê-tông và nhà cửa, cao ốc san sát. Tham vọng của con người đã lấn chiếm thiên nhiên để phô trương vẻ giàu sang thô nhám trên vẻ đẹp mượt mà của tạo vật. Những núi biển, sông hồ, cảnh quang thiên nhiên nhiều nơi đã bị con người đày đi biệt xứ.  Nếu hiện tượng nầy đang xẩy ra trên quê hương Việt Nam thì quả thật là một điều đang quan ngại cần phải cân nhắc một cách cẩn trọng trên tầm mức quốc gia. 

            Nếu tự hào là một Cố Đô, một thành phố văn hóa thì khía cạnh văn hóa vật thể đang thiếu nghiêm trọng ở Huế là tượng đài chứ không phải là phòng ngủ và khách sạn.  Nếu cần có một công trình xây dựng để nâng cao ngành du lịch Huế thì với một diện tích khiêm tốn 70.000m2, Đồi Vọng Cảnh là nơi thích hợp để xây dựng tượng đài chứ không phải là khách sạn.  Nhiều thế hệ đi qua, đã có bao nhiêu người đặt vấn đề rằng, với 700 năm lịch sử Công Chúa Huyền Trân, tại sao Huế vẫn chưa có một tượng đài Huyền Trân Công Chúa.  Trên quy mô địa bàn thành phố Huế phát triển và mở rộng, Đồi Vọng Cảnh sẽ là nơi thích hợp nhất để dựng tượng đài Công Chúa Huyền Trân.

           

               Sau Đồi Vọng Cảnh

           

Page 12: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 12

            Với một tâm lý lành mạnh, ai mà chẳng muốn quê hương mình giàu đẹp.  Sự giàu đẹp của bất cứ một đất nước nào đang đang trên đà vươn lên và phát triển, nhìn trên khía cạnh nhân văn, thường diễn ra trong ba mô thức: Tha hóa, tục hóa và văn hóa.

            Mô thức phát triển tha hóa là bị trói buộc và hướng dẫn bởi động cơ lợi nhuận.  Đa phần nguồn vốn đầu tư từ các thế lực kinh doanh nước ngoài.  Những dự án đầu tư xây dựng nặng tính cá thể, bất chấp hình thái và phương tiện kinh doanh có phù hợp với quyền lợi và hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa xung quanh hay không.

            Mô thức phát triển tục hóa là sự diễn dịch sai lầm dấu hiệu văn minh tiên tiến.  Để rồi, nhắm mắt để bị cuốn theo sức hút mù mịt của một sự đổi mới vội vàng đầy vọng động.  Đổi mới thiếu hướng chủ đạo (master plan) là đổi bình mới, lấy rượu cũ.  Bề mặt "nổi" của mô thức phát triển tục hóa là sự chạy theo những phong trào thời thượng hình thức tại các thành phố đông người. Điển hình là sinh hoạt nặng dục tính, suy tôn vật chất.  Nếp sống tri thức bị giới hạn và tinh thần tù đọng. Khung cảnh văn hóa và xã hội nặng hình thức, nghèo nội dung.

            Mô thức phát triển văn hóa là có sự kết hợp hài hòa và phối hợp đồng bộ giữa hai lĩnh vực nhân văn và kinh tế.  Bên cạnh một đời sống xã hội mang tính văn hóa phù hợp với truyền thống và hướng đi lên của một đất nước, sự kiến thiết và xây dựng những cơ sở vật chất có sự quân bình giữa hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến -- mà bất cứ ở đâu hay thời nào cũng có.

            Nếu Đồi Vọng Cảnh mai kia biến thành Khách Sạn Vọng Cảnh, điều đáng quan ngại không phải là từ đó, con mắt Huế phải đeo kính cửa sổ phòng ngủ để nhìn về Huế. Vấn đề đáng quan tâm hàng đầu ở đây là sẽ có bao nhiêu danh lam thắng cảnh, bao nhiêu vị trí thiên nhiên của đất nước Việt Nam, xuyên suốt cả ba miền Bắc Trung Nam sẽ bị khiếm dụng (misuse) hay lạm dụng (abuse) vì sự bành trướng của kỹ nghệ du lịch và khách sạn phối hợp.

            Công ty kinh doanh khai thác khách sạn du lịch Hà Lan-Áo "Dutch-Austrian Life Resort" đang năng nổ bắt tay vào chương trình đầu tư một loạt khách sạn hạng B & C (trên dưới 100 phòng với giá thuê phòng dưới 100 đô la Mỹ mỗi đêm) tại Hội An, Qui Nhơn, vịnh Hạ Long, đảo Phú Quốc, Huế, Đà Lạt... Ông Louk Lennaerts, tổng giám đốc của công ty Dutch-Austrian Life Resort đã tỏ ra là nhân vật tiêu biểu cho giới doanh nhân phương Tây với tinh thần rất thực dụng và chủ quan khi ông tuyên bố rằng, dự án xây khách sạn trên Đồi Vọng Cảnh vẫn tiến hành nhưng có thay đổi chút ít về vị trí và quan tâm hơn về việc xử lý rác và chất thải.   Lennaerts cũng đã trả lời trong cuộc phỏng vấn của Trần Nguyên, báo Tuổi Trẻ On Line (lên mạng ngày 08-04-2005) rằng, ông không cho Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi thiêng vì chẳng có sự thờ cúng gì trên ngọn đồi nầy cả.  Nhưng Công Ty ông ta mong muốn xây cho  được khách sạn trên Đồi Vọng Cảnh vì vị trí nầy quá đẹp.

            Khi phát biểu như thế với phóng viên Trần Nguyên, không hiểu Lennaerts có liên tưởng đến một rừng tiếng kêu xác quyết hơn, tha thiết hơn, nặng tình nặng nghĩa hơn phát ra từ trái tim của những người Huế, những người yêu Huế và những người mong có ngày thăm lại Huế xưa.  Đấy là tiếng kêu văn hóa, ngược lại với tiếng kêu thương mãi, rằng: Vì vị trí Đồi Vọng Cảnh quá đẹp nên chúng tôi muốn giữ nó phong quang như giữ đôi mắt của mình.  Nhất định không muốn phá nó đi để biến thành một "hệ thống phòng ngủ cao cấp cho mướn" gọi là khách sạn!        

Page 13: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 13

            Mong rằng, Louk Lennaerts hãy tìm đọc lại những cuốn sách nổi tiếng như The Ugly American (Người Mỹ Xấu Xí) của William Lederer hay The Quiet American (Người Mỹ Trầm Lặng) của Graham Greene... để tránh một thái độ hời hợt và máy móc Âu Mỹ đáng tiếc khi đến làm ăn tại một đất nước Á Châu tuy chưa giàu, nhưng đã có lịch sử văn hiến mấy nghìn năm như Việt Nam.  Cái lô-gích thuần lý phương Tây của Lennaerts may lắm là chỉ mô tả được vẻ mặt và bộ áo bên ngoài, chứ làm sao đủ mẫn cảm để "thấy" được những đền thờ thầm lặng trong tâm hồn người Việt Nam đối với quê hương yêu dấu của họ.

            Hoàn cảnh phát triển ngành du lịch của các nước nhỏ vùng quần đảo Caribbean          và Thái Bình Dương rất giống Việt Nam.  Giới kinh doanh khách sạn du lịch quốc tế đã đến khai thác những bãi biển thiên nhiên đẹp nhất của các xứ chậm phát triển và thiếu nguồn vốn đầu tư nầy.  Sau hơn nửa thế kỷ bị bóc lột, đến thập niên sau cùng của thế kỷ 20, giới lãnh đạo của các nước Caribbean mới tĩnh ngộ để chủ động bắt tay nhau đứng lên thành lập Liên Minh Bảo Vệ Ngành Du Lịch Vùng Caribbean (The Caribbean Alliance For Sustainable Tourism).  Bất cứ công ty khai thác khách sạn du lịch nào muốn họat động ở vùng nầy, điều kiện tiên quyết phải là hội viên của tổ chức kinh doanh khách sạn trong vùng, được Liên Minh chấp nhận tư cách pháp lý và cấp giấy phép hành nghề.

            Trong Hội Nghị bảo vệ thiên nhiên và môi sinh "Green Tourism Conference" tổ chức tại Montego Bay ngày 23-7-2004, bà Berthia Parle, chủ tịch Liên Minh Bảo Vệ Ngành Du Lịch Caribbean đã mạnh mẽ yêu cầu Liên Minh tuyệt đối không nhượng bộ các nỗ lực mua bán, đổi chác những tụ điểm lịch sử hay thiên nhiên cho các tập đoàn kinh doanh khách sạn.  Họ thường xuyên dựa vào thế lực lãnh đạo địa phương và sức mạnh của nguồn vốn đầu tư hùng hậu để chiếm lĩnh cho bằng được những vị trí thiêng liêng và đẹp đẽ nhất để xây khách sạn bằng bất cứ giá nào.   Đơn giản bởi vì đấy là sự đầu tư "nhất bản vạn lợi" hàng đầu trong ngành kinh doanh khách sạn du lịch.   Bà Parle đã lập đi lập lại trong bài diễn văn được cử tọa tán thưởng nồng nhiệt rằng, những tụ điểm danh lam thắng cảnh là văn hóa, là gia sản tinh thần cũng như vật chất của của thế hệ đàn em.   Parle đã tha thiết kêu gọi: "Nền văn hóa của chúng ta và tương lai của thế hệ đàn em không thể nào đem bán được, nó là vô giá" (Our culture and the next generation's future cannot be sold, it's priceless (10) !)

            Chuyện du lịch xứ người là thế, còn chuyện xứ ta thì sao?  Số phận chung quyết của Đồi Vọng Cảnh ở Huế trong những ngày sắp tới sẽ là câu trả lời cụ thể và hùng hồn nhất cho thế hệ đàn anh hôm nay và đàn em mai sau.

                                                                                             

                                                                                              Trần Kiêm Đoàn

                                                                                    Sacramento, California 4-2005

(http://www.khoahoc.net/lienlac.htm)

Page 14: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 14

Chuyện 3:

ĐÒN BÁNH TÉT

TS Trần Kiêm Đòan

E-Mail:  [email protected]

09 tháng 2 năm 2005

 

      

- Chút Muồng Nam Moi! Cung Hỷ Pạt Chòi! (1)

            Sáng mồng một Tết, người hàng xóm Mỹ tốt bụng, thân thiện chào buổi sớm.  Bên cạnh lời chúc mừng năm mới thường lệ tiếng Mỹ, bà ta còn chêm một câu tiếng Việt „Chúc Mừng năm Mới“ phát âm theo giọng…  Tây Tạng và „Cung Hỷ Phát Tài“  bằng tiếng Tàu lơ lớ mà ngon ơ! Trong cả con đường và trong cả khu phố có nhiều giống dân tộc trên thế giới cư ngụ nầy, hình như chỉ có hai ông bà già, nguyên là cựu chiến binh Việt Nam, hưu trí biết hôm nay là ngày „New Year“ Á Đông mà phần lớn người Mỹ quen gọi là „Năm Mới Tàu“ (Chinese New Year).

            - Tết Ma Rốc người Mỹ mới biết Tết Việt Nam là gì!

            Đã biết điều đó trong suốt gần 25 năm sống trên đất Mỹ, vậy mà khi nghe lời bình luận như thế, tôi vẫn cảm thấy chưng hửng và chợt buồn. Xa quê hương nghìn dặm là xa luôn cái Tết thiêng liêng mà mình cứ ngỡ như gắn liền với khúc ruột.   Mồng một Tết năm nay, gặp ngày thứ Tư, ngày hội thiêng liêng nhất của toàn đất nước Việt Nam. Nhưng riêng đối với người Việt xa xứ Tết có chăng cũng chỉ là một chút lửa ấm nhóm lên trong lòng, chờn vờn và lay lắt rất riêng tư; trong khi đối với xã hội bên ngoài thì hôm nay cũng chỉ là một ngày thứ Tư làm việc như mọi ngày.

            Tôi xin nghỉ làm việc ngày mồng một Tết, cố nhen lên một chút hương trầm trên bàn thờ.  Khói hương phơ phất bay không đủ quyện cái không gian vắng lặng trong nhà. Các cháu vẫn đi làm, đi học bình thường.  Bà xã tôi có khách hẹn ở tiệm. Ngồi một mình uống hết mấy bình trà King Tea 913 và nhâm nhi dĩa mứt gừng mà vẫn chưa bắt gặp hương Xuân lạc loài hé cửa vào nhà.  Tôi hình dung những gì đang diễn ra giờ nầy ở Việt Nam, ở Huế, ở làng. Mê nhất là vẻ Xuân mới ở vùng quê. Những gót chân nứt nẻ đi trên những đôi guốc mộc mới sơn; chút xíu điểm trang trên những khuộn mặt rám nắng quen với mồ hôi và nắng gió ruộng đồng; một tí quần áo lượt là trên những cánh tay trần, những bắp chân quanh năm quần xăn quá gối của những mẹ quê, chị quê, em bé quê… sao mà đầy dáng vẻ hương hoa lễ hội đất trời đến thế!

Page 15: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 15

            Đối diện hoài với sự vắng vẻ làm tôi suýt quên cái „máy chống cô đơn“ của thời đại mới: Cái điện thọai!  Tôi gọi chúc Tết người thân và bạn bè.  Hầu hết đều đi làm.  Có một cụ già nói tiếng Huế vùng nông thôn bập bệu:

            - Chú ơi chú! Mùng một Tết mà tụi hắn đi mần hết, tui ở nhà một mình nghe điện thọai kêu sợ đứt hơi, lo Mỹ nói mình không biết tiếng.  Ở nhà với hai con chó và một con mèo thì tụi hắn cũng không biết tiếng như tui.  Tự nhiên tui đang mạnh khỏe ở ngoài làng thì tụi con đem vô đây.  Chừ thì tui thành què vì không biết lái xe, thành câm vì nói tiếng Mỹ không được, thành điếc vì Mỹ nói không nghe, thành đui vì coi chữ xí lô xí la không hiểu… Chú có cách chi giúp cho tui về lại với!

            Cái sớ táo quân phàn nàn về tình hình „Sốc văn hoá“ (2) của ông cụ còn dài lê thê, nhưng tôi phải tiếp tục cuộc hành trình chống cô đơn của mình trong ngày đầu năm mới.  Đợi đến hơi trưa trưa một chút, yên chí là đã có người xông đất phía „bên tê“, tôi gọi về Việt Nam thăm gia đình.  Không đợi tôi lên tiếng trước, tiếng càu nhàu phía đầu dây bên kia đã vang lên:

            - A lô! Ai đó? Đầu năm đầu tháng mà gọi chi giờ ni „hiểm“ … rứa hè! Mới ba giờ sáng chưa bét mắt đã mở miệng…

            Tôi chợt thót người và lẹ làng gác điện thoại không lên tiếng minh oan, không xưng danh báo hiệu.  Tôi quên đi mình ở phía bên nầy địa cầu.  Bên tê là 3 giờ sáng ngày mồng hai Tết. „Sorry“ hí, my dear, hỡi quê hương yêu dấu!

            Tết! Tôi xông đất mình tôi trong căn nhà thênh thang vắng lặng nầy.  Tôi có 10 năm sống ở làng, 24 năm sống ở Huế và 24 năm sống ở Mỹ. Mười năm đầu nhỏ dại không tính (Mười lăm trẻ năm mươi già không kể…(3) ). Hai mươi bốn năm tiếp để hình thành „bản sắc dân tộc“ và 24 năm vừa qua để so sánh, dùi mài và tìm lại bản sắc của chính mình.  Nơi xứ người, mà nhất là trong một xã hội đa chủng, đa văn hoá nhân văn như Mỹ, tôi mới có dịp hỏi lại mình: „Ta là ai?“  Nếu ngày xưa ở làng hay ở Huế mà tôi hỏi lẩn thẩn như thế, chắc sẽ bị coi như ông Mèo Què khùng khùng làm nghề đan nôi bội ở làng hay thằng Vui Điên chạy rông trên đường phố Huế.  Nhưng trên đất Mỹ nầy, chút tâm tình ngỡ như lẩn thẩn trên quê hương ngày đó, có khi làm mình xót xa ứa nước mắt.  Không lẽ phải định nghĩa „cái tôi đáng thương“ như lão tâm lý gia tiền bối Eric Erickson, rằng là, „Tôi là tổng thể của con chó có tâm tư, của cục đất có linh hồn và của cây sồi có cảm xúc“ ?!

            Nhìn lên bàn thờ, trong cái xa lạ của bình hoa đủ mầu sắc của cúc, của hồng, của dalia, camelia và tulip, mắt tôi đậu lại trên đòn bánh tét.  Tôi rón rén với tay lấy đòn bánh tét trên bàn thờ. Trong một thoáng mắt, tất cả vẻ xa lạ bỗng mờ nhạt đi sau cái phất tay của tấm màn ký ức. Màu bánh tét xanh xanh, mùi bánh tét thơm thơm. Cả những mùa Xuân xưa lại về!

            Ngày còn nhỏ, sớm mồ côi Cha, tôi cứ tưởng tượng Tết về mà không có Mẹ thì có ai trên đời nầy sẽ cho tôi „ăn Tết“.  Tết báo hiệu từ đầu tháng chạp sau mùa lụt bắt đầu từ tháng Bảy.  Nước bạc vùi dập đất phèn liên miên như „yêu cho roi cho vọt“ để bồi cho mấy lớp phù sa. Lớp phù sa chếch trước sân nhà tôi là giang sơn đất lành của những luống cải vàng đầu Xuân. Mùi hoa cải hăng hắc nhức mũi, nhưng mẹ tôi là bà tiên biến những luống cải vàng thành dưa, thành rau sống ăn với khuyếc tươi, thành cơm lành canh ngọt.

Page 16: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 16

            Trời mưa rây rây lạnh, luống cải vàng trước sân và bàn tay chăm chút của mẹ đã hơn 50 năm rồi mà vẫn cứ nẩy mầm bề sâu trong tôi.  Chỉ cần một chút gió hoài tưởng phơ phất hương hoa ngày cũ là quá khứ bừng trỗi dậy.

Đòn bánh tét là ngọn gió Xuân thổi lòng tôi về quá khứ…

 

Làng tôi chyên sống nghề làm ruộng. Nông dân thường trồng mười mẫu ruộng lúa mới có một mẫu ruộng nếp. Nếp có hai loại là nếp Sáp và nếp Đinh.  Nếp Đinh hương thơm và dẽo là chất liệu căn bản tuyệt với nhất để gói bánh tét.  Hàng năm, dù cảnh nhà thăng trầm đến mức nào thì mẹ tôi vẫn rán chừa hai vuông nếp cho ngày Tết.  Hai phần gói bánh và một phần nấu xôi.  Thuở nhỏ, khi bắt đầu biết giúp làm việc lặt vặt trong nhà, tôi ghét nhất là công việc giã gạo. Dù đã chọn cái chày vồ nhẹ nhất nhưng cứ cái nhịp điệu giáng lên, bổ xuống đều đều làm cho bắp thịt mõi nản thì ít mà tâm lý mỏi nãn thì nhiều.  Giã gạo tay đôi, tay ba đỡ buồn hơn nhưng lạiï dễ bị va chày vào nhau côm cốp, có khi cũng toé gạo, trặc tay.  Giã gạo với lớp tuổi nam nữ sồn sồn trong làng là „ngán“ nhất vì sự tinh nghịch một cách hồn nhiên không cần giữ gìn của họ.  Đã có lần tôi chứng kiến chú Đoài (nay đã mất) trong một lần giã gạo hò đã „mời“ người đẹp tham gia hò giã gạo bằng một câu hò như thế nầy:

Ai mà giã gạo không hò,

Bắt qua bên Huế ngủ đò ba năm (!!!)

Cho dẫu chỉ ngủ đò „chay“ để học hò mái nhì, mái đẩy thì vẫn… dễ sợ như thường, Huế ạ!  Có lẽ nhờ sợ bị bắt qua Huế ngủ đò như vậy mà ngày mới lớn, những đêm giã gạo dưới trăng trong làng Liễu Hạ của tôi bao giờ cũng đồng vọng những câu hò vay trả trữ tình.

Nét trào phúng và sự tinh nghịch mang tính thi ca, thanh cũng như thô, của nền văn hóa làng xã Việt Nam phải ghi thành những dòng bách khoa tâm bút.

Hàng năm, mẹ tôi chọn tối ba mươi Tết để gói bánh tét.  Khác với người trong làng thường gói bánh tét từ 25 tháng chạp. Bởi vậy, cả nhà tôi thường có cái thú quây quần thay nhau canh nồi bánh tét thức đợi Giao Thừa.

Thuở đó, chiến tranh vây bủa làng xóm Việt nam như trò chơi định mệnh. Mỗi đêm khuya nghe tiếng „cắc bụp“ một nơi nào đó trong xóm là cả làng, cả xóm lạnh người đợi sáng ra đi tìm xác người thân.  Cả làng tôi biến thành tro sau một buổi Tây đốt nhà vì bị bắn sẻ.  Những đòn bánh tét là tài sản quý báu duy nhất có thể mang theo được trong biết bao lần chạy loạn mùa Xuân.

Mẹ tôi thường gói bánh tét với dáng vẻ trì chí, đam mê và xông xáo của người thợ cả chí thú với công trình giữa buổi thi công.  Bao nhiêu lần gói bánh tét Tết đi qua mà tôi vẫn chưa được cất nhắc lên một chức vụ quan trọng hơn ngoài nhiệm vụ chùi phấn trên lá chuối.  Tôi say sưa và thán phục nhìn mẹ tôi trải lá, đổ nếp, đặt nhụy và gói bánh thoăn thoắt.  Đòn bánh tét mẹ tôi gói tròn trĩnh, đều đặn lớn bằng lon sữa bò Ông Thọ  và dài chừng hai gang tay, mười đòn như một.  Người góp phần tô điểm cho đòn bánh tét vẫn giữ được dáng tròn đều từ khi ra khỏi lò tay mẹ cho đến khi nấu chín vớt ra khỏi cái nồi bảy là anh Thiện.  Anh có tài chẻ lạt hóp (4) buộc bánh tuyệt vời.  Sợi lạt mỏng, dẻo, vừa tầm, buộc vòng đôi và nút đơn; cách nhau

Page 17: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 17

đều đặn chừng lóng tay.  Nghệ thuật cột lạt bánh tét quyết định cho vẻ đẹp tự nhiên của đòn bánh sau khi nấu chín.  Đòn bánh tét đạt tiêu chuẩn là chín mềm, không góc nào bị nhão nước và không bị tình trạng „ỏng bụng“ như cô gái „eo gà thành ra eo lợn“ vì áo may quá chặt.

Nhưng rồi chinh chiến vẫn triền miên.  Tiếng giã gạo hò vắng dần và những nam nữ thanh niên trong làng bao nhiêu người phiêu bạt. Anh Thiện đi lính.  Tôi phải thay chân anh chẻ lạt buộc bánh tét cho mẹ. Rồi những mùa Tết làng xưa, những đêm giao thừa gói bánh qua đi với cuộc sống vô thường. Mẹ tôi cũng tới lúc qua đò phù du đi mãi không về.  Tôi rời quê hương qua Mỹ. Những đòn bánh tét năm xưa vẫn là cột mốc tình cảm của người ở lại và kẻ ra đi. Cái bánh cổ truyền đã vượt lên quá tầm của một món ăn truyền thống để thành một biểu tượng của tâm hồn.

 

 

          Xa Việt Nam là xa luôn cái Tết. Cái Tết trên quê hương là ngày hội lớn của toàn dân tộc. Cái Tết cũng có thể về với người Việt trên quê người, nhưng đó chỉ là dấu hiệu tượng trưng trong gia đình hay lớn lắm cũng chỉ là sinh hoạt đón Xuân trong nội bộ cộng đồng người Việt. Xã hội xung quanh nơi xứ người chẳng ai để ý hay quan tâm đến ngày Tết.

Làm sao tôi quên được mùa Tết đầu tiên xa Việt Nam.  Dù ở trên đất Tàu nhưng vẫn vắng bóng mùa Xuân trong trại cấm Chi-Ma-Wan, Hồng Kông.  Hình ảnh đòn bánh tét đón Xuân ngỡ như sẽ vĩnh viễn không gặp lại trên những vùng đất mới từ ấy. Mùa Tết thứ hai sau đó thì lại chợt xa mà chợt gần bánh tét là lần đầu tôi định cư trên đất Mỹ ở thành phố Baton Rouge, tiểu bang Louisiana. Một buổi gần trưa đi trên đường phố Baton Rouge, người bạn kêu lên:

- Bên mình bây giờ là Giao thừa!

Giao thừa không chỉ là tên gọi của một giờ khắc từ năm cũ sang năm mới. Nó là cả một khung trời đầy thiêng liêng.  Phút đó, tôi nhắm mắt mường tượng trên bàn thờ sực nức hương trầm có bóng dáng tổ tiên về ngự; có tiếng pháo, tiếng chuông và tiếng lâm râm cầu nguyện.  Tất cả chỉ còn là một hoài niệm êm đềm khơi sâu thêm nỗi nhớ nhà quay quắt.

Tôi vội vàng ra chợ Việt Nam. Những đòn bánh tét cuối mùa chưa bán hết vẫn nằm ỉu xìu như những kẻ ngủ đường, ngủ chợ bị đánh thức giữa đêm.  Đòn bánh tét không có quá trình xôn xao gói, nấu cũng giống như tấm huy chương không có lịch sử và bộ quân phục không có chiến công.  Có khác nhau chăng là một bên nếp và lá; còn bên kia là sắt, là vải và sơn màu.  Tôi quay mặt chỗ khác để khỏi nhìn nhau là bánh tét giữa chiều 30 Tết Baton Rouge! Vắng mẹ, vắng quê hương hay vắng một cái gì hơn thế nữa.

Có lẽ ngày xưa mẹ tôi, dù là trong ước mơ hoang dại nhất, cũng không hề nghĩ rằng một ngày đẹp trời nào đó, thằng con trai út vụng về như tôi chỉ quen yên thân chùi lá chuối sẽ có ngày anh dũng vươn lên gói bánh tét! Thế mà tới năm thứ ba sống trên đất Mỹ tôi đã liều mình làm thật.

Page 18: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 18

Gần Tết, nhìn những đòn bánh chưng, bánh tét chợ của bạn bè biếu tặng nằm lạnh lẽo đợi đón Xuân trong tủ lạnh, tôi lại nhớ một nhận xét của ai đó, nói rằng, „chuẩn bị đón Tết vui hơn ăn Tết“ và „Tết có nằm khoèo Xuân cũng qua“.  Nghĩ vậy, tôi rón rén mở khóa mùa Xuân để tạo một không khí đón Tết trong gia đình trên quê người.  Tôi mua giấy màu làm câu đối, qua hàng xóm xin Đào Mai (Quince) (5) để chưng và hâm nóng linh hồn của việc tạo ra một không khí đón Xuân cho gia đình là nấu bánh tét. 

Tôi hồi tưởng lại và chuẩn bị vật liệu gói bánh tét giống như mẹ tôi ngày trước.   Nhưng có khác chăng  hôm nay là hình hài của đòn bánh tét không phải cô gái quê lớn lên trên cánh đồng làng mà tôi từng quen biết.  Tôi phải làm quen với một hình ảnh mới.  Dáng rất quen trong tâm ảnh mà rất lạ giữa cuộc đời thường: Nếp thơm Thái Lan, lá chuối Hạ Uy Di, đậu Đài Loan, thịt heo Mỹ, dây cột Mễ Tây Cơ.  Lần đầu gói được một đòn bánh tét tròn trĩnh, liền lặn không thương tích từ đầu tới chân, tôi thưởng thức „tài gói bánh có hoa tay“ - như lời „ma maison“ khen lấy khen để - thì ít mà nhớ mẹ thì nhiều.  Mỗi năm tới mùa Tết, những đòn bánh tét thời thơ ấu lại ngự về trong tôi. Tay cột những đòn bánh tét mà nước mắt cứ chực chờ chảy xuống.  Mẹ tôi vẫn là bà tiên không chịu buông cây gậy thần tình cảm. Cây gậy thần của bà tiên trong cổ tích đưa lên vẫy mưa, rãi nắng có mùa xưa và giới hạn.  Nhưng cây gậy tâm hồn của bà mẹ Việt Nam là nguồn suối yêu thương bốn mùa không có quá khứ vị lai.  Tình mẹ là một hiện sinh cứ sẵn sàng như hơi thở.  Đâu có cuộc đời là có mẹ. Dù mẹ không còn.

Nếu cuộc sống chỉ đơn thuần là vật chất thì người ta có thể an tâm hưởng một cái Tết hoàn toàn Việt Nam trên đất Mỹ.  Sau 30 năm xa xứ, những hạt giống quê hương mang theo đã nẩy mầm và lớn dậy.  Hầu như  tiệm thực phẩm Á Châu nào cũng bán đầy đủ các mặt hàng Tết Việt Nam cả ba miền Nam Trung Bắc.   Bánh chưng, bánh tét, bánh tổ; các thứ bánh truyền thống; nem, chả, tré, khô nai, khô bò, khô cá; mứt món đủ loại; kể luôn cả pháo đỏ, cau trầu, rượu trắng ba-xi-đế mới ra lò; bài tới, bài chòi, bài vụ tôm cua, tranh mộc bản gà lợn…  cũng đều có mặt.

Hai hình ảnh của bà tiên và bà mẹ đã nói lên cái có trong ta và cái có ngoài ta. Tết, Mẹ và Đòn Bánh Tét là cái có trong ta, trong mỗi tâm hồn Việt Nam.  Dù thực thể hay biểu tượng thì cũng đã nằm trong máu thịt từ khi mới ra đời, có thể hiện thế - thể hiện -  nhưng không thể thay thế.  Tết Việt Nam trên đất Mỹ là một sự hiện thế chứ không thể nào thay thế cho một cái Tết Việt Nam trên quê hương.

Dù có ngát hương trầm nơi xứ lạ

Cũng không thay mùi đất mặn quê nhà (6)

Người Mỹ có lễ Giáng Sinh, Năm Mới, lễ Tạ Ân (Thanksgiving), ngày Tình Yêu (Valentine) ngày của Cha, ngày của Mẹ, sinh nhật bản thân… lớn nhỏ có đến cả hàng chục ngày lễ hội hàng năm để gia đình quây quần đoàn tụ, vui chơi, trao tặng quà cáp và bày tỏ tình cảm.  Với người Việt thì tất cả những ngày đó dồn lại một ngày:  Đó là ngày Tết Nguyên Đán.

Và đòn bánh tét là „đòn gánh quan hà“ để gánh những tâm hồn phiêu bạt suốt năm dài xa xôi cách trở về lại với nhau trong ba ngày Tết. Từ phía bên nầy biển Đông của mình mà „biển Tây“ của Mỹ, những tàu bay siêu thanh của thời đại mới chỉ chở được con người và hành lý.  Nhưng đòn bánh tét mộc mạc gói trong nếp lá đơn sơ gánh được nỗi lòng của những đứa con xa xứ như tôi về với Mẹ, với Cha, với anh em bà con trên quê hương yêu thương; một thời mà mãi mãi.

Page 19: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 19

 

 Ý kiến, Phê bình xin gửi về: [email protected]

(http://www.khoahoc.net/baivo/luutru-2-2005.htm)

Page 20: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 20

Chuyện 4:

QUYẾT ĐẤU VỚI TÂM KHÔNG

TS Trần Kiêm Đòan

E-Mail: [email protected]

26 tháng 5 năm 2005

Từ sau Tết Nguyên Đán, có một người đàn ông Tàu nói rành tiếng Việt xuất hiện tại kinh thành Huế.  Người nầy tự xưng tên là Hàn Kỳ Vương, dòng dõi Hàn Tín.  Hàn tự xưng là một ông vua đánh cờ tướng đệ nhất kỳ vương trong thiên hạ.  Bất kỳ đi đâu hay cả đến lúc ăn lúc ngủ, ông ta đều mang bao gấm bên mình.  Trong đó đựng một bộ cờ tướng tối cổ, làm bằng "Tinh Huyết Thạch" là một lọai đá sống đời và phát triển như sinh vật.  Hàn Kỳ Vương tuyên bố rằng ông ta chỉ đánh cờ với ai có sự nghiệp. Nếu thắng thì Hàn Kỳ Vương chịu mất bộ cờ gia bảo, truyền đời.   Nếu thua thì phải giao trọn sự nghiệp cho Hàn Vương.  Những tin đồn "chính quy" và suy diễn, thêu dệt quanh bộ cờ, chủ nhân bộ cờ ngày một sôi nổi và lan xa đầy tính huyền thoại và thách đố, nhưng cũng có khả năng cuốn hút cảm tính của người nghe.  Tuy chưa ai tận mắt thấy được những quân cờ nằm im trong đãy gấm, nhưng người người kháo với nhau rằng, những quân cờ có khả năng tự di động và phát ra ánh sáng làm mờ mắt các kỳ thủ kém bản lĩnh.  Lại có tin đồn là những quân cờ phải được nuôi và tắm trong máu của "tam sinh" trâu, dê, lợn hàng tháng.

Hàn Kỳ Vương kể đi kể lại lịch sử và dòng dõi của mình rằng, tổ gốc của ông ta là Hàn Tín, danh tướng khai quốc công thần nhà Hán.  Năm 204 trước Tây lịch, giữa mùa đông lạnh giá bên bờ sông Hồng Câu đóng băng, quân Hán đóng quân đợi tiết xuân sang để tiến quân qua sông giao chiến với quân Sở.  Đối mặt với quân Hán, lập tuyến phòng ngự sau những dãy đồi tuyết phủ, quân Sở cũng đang án binh bất động chờ đợi và sẵn sàng nghênh chiến sau mùa lạnh.  Đại nguyên soái Hàn Tín mô phỏng theo môn chơi Thiên Biến Vạn Hóa (Chaturanga) từ Ấn Độ, truyền qua Ba Tư theo đường tơ lụa đến Trung Hoa từ thuở tinh mơ của lịch sử, để chế ra môn Tượng Kỳ là tiền thân của Cờ Tướng.  Suốt mùa Đông, quân sĩ nhà Hán chia phe chơi đấu cờ.  Bàn cờ cũng là chiến trường thu nhỏ.  Nhờ vậy mà quân của Hàn Tín tinh luyện đuợc nếp suy nghĩ và un đúc được khả năng chiến lược và chiến thuật mềm dẽo và tài tình khi lâm trận.  Khi mùa Xuân đến, quân sĩ của Hàn Tín đã tiến công và phá vỡ được trận tuyến của quân Sở, đem lại sự thắng trận vẻ vang cho quân Hán.

Thế nhưng mãi đến triều đại nhà Tống (960-1279), môn cờ tướng mới được canh tân và hoàn thiện, nhưng trên bàn cờ thì dòng sông giữa hai phe theo Tướng Điều hay Tướng Lát vẫn còn ghi dấu "Sở hà" và "Hán giới" của thuở sơ khai.

Một nhánh của dòng họ Hàn sản sinh những tay kỳ vương lẫy lừng trong thiên hạ và kế tục truyền từ đời nầy sang đời khác cho đến ngày nay.

Ngày ngày, Hàn Kỳ Vương cùng với các vệ sĩ và tay chân thân tín lũ lượt kéo đến khắp chốn trà đình tửu điếm trong kinh thành. Càng không có người đứng ra ứng đấu, thái độ thách thức đầy kiêu mạn của phe Kỳ Vương càng tăng lên.  Phe bình dân hay cờ, phe kẻ sĩ cao cờ, phe kỳ sĩ danh cờ, phe ẩn sĩ tuyệt cờ... khắp kinh thành đều rùng mình im lặng trước thực tế và huyền thọai lẫy lừng của bộ cờ "huyết

Page 21: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 21

thạch" có lịch sử bách chiến bách thắng cả ngàn năm từ Trung Quốc đem sang.   Bộ cờ cũng là món gia bảo của dòng họ Hàn vua cờ trong thiên hạ.

Trí Hải mơ hồ nghĩ đến mình, nghĩ đến những gì không phải là mình và nghĩ đến một cuộc cờ cuối cùng khó tránh khỏi. Dường như cũng đồng tâm trạng với những tay cao cờ khắp xứ, Trí Hải và Phạm Xảo đều cảm thấy như mình đang đối diện với một cuộc chiến vô hình đang diễn ra trước mắt.  Hàn Kỳ Vương đang xua đại quân đến giang sơn bờ cõi của mình để khiêu chiến.  Im lặng là mặc nhiên chấp nhận đầu hàng, thua cuộc.  Nhưng chiến đấu với một địch thủ có binh lực bách chiến bách thắng, đầy khí thế hiển hách vừa cả uy, lại vừa cả vũ như thế kia thì làm sao địch lại.  Bàn cờ là một chiến trường quy ước, binh tướng quân phân, ranh giới rạch ròi. Voi, ngựa, tướng, sĩ đều phải nhất nhất tuân theo những hành động tiến thủ đã thành nguyên tắc. Sức mạnh dồn tụ lại để tranh thắng nằm ở bản lĩnh điều binh khiển tướng của hai tay "phù thủy" được gọi là kỳ vương, kỳ thủ, kỳ sĩ…  ra sức khuynh loát làm chủ chiến trường.

            Bên cạnh bàn cờ những ngày sau đó, Phạm Xảo có lần hỏi Trí Hải:

            - So với Ấm Thuyên, hoàng hữu cao hay thấp?

            Trí Hải hồi tưởng và trả lời:

            - Ý huynh muốn nói cao thấp có nghĩa là ăn thua hay cao thấp về cái tâm, cái trí và cái đạo của người chơi cờ?

            - Nói chung ấy mà.

            - Cuộc cờ là cuộc sống, có muôn nghìn vẻ khác nhau.  Có đất tranh nhưng không có đất chung giữa những con người chấp ngã.  Người chơi cờ chỉ cốt sát phạt ăn thua nhau là Hầu Kỳ (hành trạng của loài khỉ, loài vượn ham ăn và bắt chước).  Chơi cờ như một cách thực hành điều binh khiển tướng là Tượng Kỳ.   Chơi cờ như một cách biểu thị cái ngã khoáng đạt, cái nhìn phiêu dật của mình là Tiên Kỳ và chơi cờ như một sự thể hiện cái tâm rỗng lặng, cái chí an nhiên của mình là Đạo Kỳ.

            Ông lão suy nghĩ một hồi về "cái đạo đánh cờ" và nói khó:

            - Đánh cờ như đánh giặc, thắng người hay bị người đánh thắng; sát người hay bị người sát, làm gì có quân tử và tiểu nhân trên bàn cờ khi hai bên đều thủ thắng.

Sau câu nói đó, không có tiếng trả lời. Phạm Xảo nhìn quanh và nhìn qua Trí Hải thì thấy ông ta đã ngủ, miệng lộ nét mĩm cười như đang nói: "Biết rồi! Xưa nay vẫn thế!"

 

oOo

 

            Sau tiếng leng keng của cái chuông gió ngoài cổng chính báo hiệu có khách đến, người hầu cận nữ vào trao cho Trí Hải tấm thiệp đỏ được trang trọng bọc bằng một lớp giấy hoa tiên nền vàng.  Thư pháp của người viết có vẻ như học đòi những nét đá, nét mác, nét nhấp nháy tài hoa và bay bướm của Vương Hy Chi.  Văn phong

Page 22: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 22

biểu lộ một tinh thần vừa trang nhã, vừa phóng khóang mà không kém phần lịch lãm một cách đầy quyết đoán. Cuối thư ký tên là Hàn Kỳ Vương.

            Trí Hải như đã mơ hồ thấy trước nên không có gì ngạc nhiên.  Với một nội dung rất ngắn trong thư, Hàn Kỳ Vương bày tỏ lòng hâm mộ khi được nghe danh Trí Hải là một danh sĩ và cũng là một kỳ sĩ của đất Thần Kinh, nên xin đến ra mắt thăm viếng nhân dịp Nam du.  Tấm thiệp nằm trên chiếc khay cẩn xà cừ như một tối hậu thư không riêng với Trí Hải mà chung cho cả hàng danh sĩ kinh đô đang im hơi lặng tiếng.    Trí Hải phúc đáp : "Thuận. Trân trọng kính mời."

            Khách đi rồi, Phạm Xảo đến gặp Trí Hải, bình luận đầy vẻ kích động:

            - Hàn Kỳ Vương thật là tự tin quá đáng. Hắn ta dám đến tận cả phủ đường nầy để khích thần, dụ tướng nữa sao!  Hoàng thân đã nhận lời chưa, chiến hay hàng?

            - Chỉ là một cuộc chơi hơn thua qua trò thủy chiến trong ly nước lạnh mà thôi.  Có  gì đáng để quan tâm chuyện chiến hay hàng!    

            - Hoàng hữu ơi, đấu trường tri thức cũng như chiến trường gươm giáo. Chốn gió tanh mưa máu đó, đâu phải là tình trường để nói việc ân tình, nhân nghĩa đã chứ.

            - Huynh từ giã chiến trường đã lâu mà cuộc giao tranh vẫn còn tiếp diễn trong lòng huynh dữ dội đến thế à? Không lẽ kiếp sống nầy chỉ là một chuỗi những cuộc chém  giết được biến tướng dưới muôn vàn hình thức và sẽ không bao giờ kết thúc sao huynh?

            - Có lẽ tôi đã quen với số phận một mất một còn ngoài chiến trận.  Thà chết vinh hơn ù té chạy thoát thân trong lúc nguy khốn để sống nhục là bản lĩnh đầu tiên của con nhà tướng.  Ta phải đánh bại tên kỳ ôn đó hay ta sẽ bị hắn đánh bại là điều làm tôi không ngủ được trong lúc nầy.  Hoàng thân có cao kiến gì không?

            - Không. Chẳng có gì quan trọng.

            - Vậy là chúng ta chấp nhận thua?

            - Có đánh thì có hơn thua.  Không đánh thì không hơn thua.

            - Như thế có nghĩa là Hoàng hữu không muốn nhúng tay vào để giải quyết cuộc cờ nầy?

            - Nếu chỉ để hơn thua thì không. Nhưng nếu để chấm dứt cuộc cờ thì có thể…

            - Ngày xưa tôi cũng thuộc loại  hay cờ,  nhưng có lẽ so với Hàn Kỳ Vương, tiếng tăm vang danh thiên hạ như thế thì tôi e mình không đủ sức. Giữa cuộc đời biết mình biết người đã khó, trên bàn cờ biết ta biết địch lại càng khó hơn.  Những kiện tướng cao cờ thì tay dịch một quân cờ nhưng trí đã nghĩ ra cả mươi đường công thủ. Tôi nghe từ thời ấm Thuyên chưa bị hành hình, Hoàng thân là đệ nhất kỳ thủ trong năm người đánh cờ hay nhất, gọi là "kỳ vương ngũ hiệp", của đất thần kinh phải không?

Page 23: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 23

            Trí Hải lắc đầu:

            - Ván cờ hay nhất là nửa ván cờ hòa.

            Phạm Xảo hiểu câu nói ấy theo ý mình và lẩm bẩm: "Lạ thật! Có trận quyết đấu nào mà chẳng có ai đau, có cuộc cờ nào mà không có người thua kẻ thắng.  Để ta nằm trong địch và địch nằm trong ta là một diệu pháp hay là một sự lạc lối vô hình khi biên giới giữa ta và người biến mất?"

 

oOo

 

            Đến ngày hẹn, Hàn Kỳ Vương cùng nàng hầu thiếp xinh đẹp và ba vệ sĩ đợi sẵn bên ngoài được mời vào Thái Ấp.

            Hàn Kỳ Vương vẫn đeo bên mình bộ cờ gia bảo đựng trong đãy gấm thêu thùa rực rỡ. Khác với nét thư pháp phóng khoáng và lối viết đầy uyển ngữ trong thiệp, Vương đời thường là một người hơi thô cứng, đầy quyết đoán và đôi khi tỏ vẻ kiêu kỳ trong lối giao tiếp.

            Quà ra mắt do người hầu thiếp trịnh trọng bưng trên hai tay là một đỉnh trà nhỏ nhắn, trong đựng một loại trà thơm mà Kỳ Vương gọi tên là Ô Long Kim Các.  Vương giải thích rằng, trà Ô Long là một sản phẩm địa phương của quê ông bên Tàu. Trà Ô Long có mùi thơm dịu và vị ngọt trên đầu lưỡi sau chừng nửa tuần trà khai vị.  Hương vị trà được xếp hạng từ thấp lên cao là Ô Long điền dã, Ô Long địa, Ô Long sơn, và Ô Long kim các.  Trà Ô Long kim các là tuyệt phẩm của Ô Long.  Nó mang tên như vậy vì mùa thu đông khi có tuyết, giống trà nầy được trồng trong những căn nhà lưới. Lá vàng mùa thu rụng xuống tấp thành lớp dày trên mái, có sắc vàng rực rỡ như những gác vàng của bậc đế vương.

            Bên những chén trà bốc khói, trong bầu không khí yên tĩnh của căn phòng khách bày biện đơn sơ nhưng trang nhã và ấm cúng, những câu chào mời và thăm hỏi xã giao dùng dằng nghi lễ hình thức rồi cũng qua đi. Hàn Kỳ Vương vào đề mục chính của cuộc viếng thăm:

            - Thưa Hoàng thân đại nhân, nhân dịp được viếng một nhân vật tiếng tăm như ngài, không dấu gì đại nhân, tôi có mang theo đây một bộ cờ tướng rất quý hiếm của dòng họ nhà Hàn chúng tôi.  Bộ cờ nầy có từ cả nghìn năm trước và đã lẫy lừng ngang dọc.  Bộ cờ được các danh sĩ kỳ vương tại Trung Hoa và quý quốc lân bang chiếu cố dùng đến trong những ván cờ tuyệt đấu.  Trong chuyến Nam du nầy, được đặt chân đến kinh đô của quý quốc, chúng tôi chỉ mong có dịp hầu cờ với các bậc chân nhân kỳ thủ.  Nhưng đến nay hầu như vắng bóng.  Hôm nay tôi mạo muội đặt chân đến quý tư dinh với lòng ước ao được hầu cờ với ngài đôi ba nước.  Nếu đại nhân có nhã hứng chơi cờ thì xin được cùng ngài khai cuộc.

            Trí Hải không quan tâm nhiều đến vẻ mặt hiêu hiêu, ra bộ nhún nhường nhưng đầy kiêu hãnh của Vương và những người xung quanh.  Không quanh co, Trí Hải nói thẳng:

Page 24: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 24

- Cám ơn Hàn gia đã quá bước đế thăm.  Nhưng sơ giao cũng là sơ ngộ.  Mới gặp nhau mà đã tính chuyện hơn thua thế nầy thì e rằng có vẻ hơi vội vàng và hiếu động. Tôi vốn quý lòng hiếu khách chứ không chuộng hiếu động nên xin quý khách miễn lễ tiếp cờ cho.

 

- Cầm kỳ thi tửu vốn là cái thú tiêu khiển thanh lịch của hàng tao nhân mặc khách xưa nay chứ có gì nghiêm trọng đâu mà đại nhân ngại như thế?

- Thế có nghĩa là tin đồn rằng, Hàn gia dùng môn đấu cờ như một đạo quân chinh phục chứ chẳng phải là một thú tiêu khiển thanh lịch là không đúng sao?

            Kỳ Vương chỉ nhắc lại một cách ngắn gọn rằng:

            - Đây chỉ là một truyền thống có từ lâu đời. Thắng thì làm chủ bộ cờ tinh huyết thạch.  Còn thua thì phải giao hết sự nghiệp về tay Hàn gia.

            - Cả nghìn năm đi qua nhưng bộ cờ vẫn còn đó. Như thế có nghĩa là từ xưa đến nay chưa hề có một đấu thủ nào thắng để lấy bộ cờ ra khỏi tay Hàn gia?

            - Thưa, đúng vậy. Chưa bao giờ có ai đáng bại Hàn gia cả!

            - Theo Hàn gia, thế nào là sự nghiệp?

            - Ai cũng hỏi câu nầy nhưng khái niệm sự nghiệp của chúng tôi có hơi khác. Thông thường người ta cho rằng sự nghiệp là những công việc to lớn, có ích lợi chung và lâu dài cho xã hội. Nhưng chúng tôi lại cho rằng sự nghiệp của một người là sự giàu có thật sự của người đó.

            - Phải là phú ông, triệu phú mới là người có sự nghiệp chăng?

            - Thưa không, triệu phú là người có nhiều tiền chứ không phải là kẻ giàu có.   Khổng Tử, Lão Tử… là những người có sự nghiệp lớn lao nhưng chẳng ai để ý là các ngài đó có đồng xu nào dính túi hay không.  Sự giàu có tính trên giá trị và phẩm chất thực sự của con người chứ không thể đo bằng tiền bạc.

            - …?!

            Như hiểu được câu hỏi vừa dấy lên trong lặng im, Hàn Kỳ Vương vội vã khoác tay:

            - Chỉ riêng với Hoàng thân thì chẳng có luật chơi hay quy ước nào cả.

            - Vì sao không?

            Hàn Kỳ Vương lim dim suy nghĩ một lát, ngó quanh những người xung quanh một lượt rồi trả lời, giọng có vẻ thành thật:

            - Nguyên bộ cờ gia bảo của Hàn gia chúng tôi được làm bằng tinh huyết thạch.  Đó là một loai đá sống đời.  Đá có sự ăn uống và phát triển như một loài sinh vật cao cấp.  Hàng năm đá phải được "ăn" một lần bằng cách ngâm vào huyết tươi ba ngày đêm. Thời xa xưa, đá được bón bằng huyết tươi của người trinh nữ.  Nhưng

Page 25: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 25

kể từ 10 đời Hàn tộc trở lại đây thì hàng năm các quân cờ chỉ được ngâm trong huyết tam sinh thay vì trinh nữ huyết.  Bên cạnh cái ăn, đá phải được "chơi".  Đá đã được đẽo thành quân cờ nên cứ đúng chu kỳ một năm, nếu chưa có trận đấu nào diễn ra, thì ít nhất là bộ cờ phải được bày ra một lần trước mắt một danh sĩ hay cờ tại nơi mà các quân cờ đang ngụ…

            Trí Hải mĩm cười:

            - Lúc này, tôi không còn quan tâm đến thú tao nhã đánh cờ mua vui, dù cho tôi hay cho Hàn gia cũng vậy.

            Vương còn đang lúng túng thì Trí Hải đã nói tiếp với giọng lịch thiệp nhưng đầy khẳng quyết:

- Mớ đá vô danh được đẽo gọt thành bộ cờ gia bảo của Hàn gia đã phung phí quá nhiều máu lệ của người đời.  Tôi chỉ có một ước mong công bằng là nếu thắng được mớ đá độc ác nầy, tôi sẽ ném nó về với nguồn cội sỏi đá vô tri của loài khoáng vật mà thôi.

Hàn Kỳ Vương giọng nửa như mời mọc, nửa như mĩa mai:

- Thật là đại hạnh cho Hàn gia chúng tôi được hoàng thân chiếu cố ra chiêu song đấu… 

            Một khoảng trống im lặng kéo dài sau lời Trí Hải.  Không rõ người nghe ngạc nhiên hay xúc động.

            Người phá sự im lặng đầu tiên là Phạm Xảo.  Từ phía trong đi ra, ông già cúi mình thi lễ và đến trước mặt Trí Hải, đặt cả hai tay lên ngực với một cử chỉ hàm ý tạ ân.  Dáng ông lão trịnh trọng theo kiểu cách của một đại thần lương đống trong triều đình dâng sớ chém nịnh thần và được nhà vua "chuẩn tấu!"

            Bỗng nhiên tiếng cười vang lên.  Tiếng cười bật ra từ phía Hàn Kỳ Vương, lan qua đám vệ sĩ và truyền dần đến người tì thiếp xinh đẹp của ông ta.   Tiếng cười như đánh động một nguồn cảm hứng dồn tụ lâu ngày, gặp phút hưng phấn đang bừng bừng trỗi dậy.  Tiếng cười vang, to, rũ rượi, nghiêng ngữa… của sự tức giận dấu dưới vẻ chan hoà hay nỗi đau đớn làm ra vẻ thống khoái thể hiện qua những nếp nhăn trên từng khuôn mặt khô khan và gắng gượng của người cười.  Gián tiếp như một sự thách đố, Hàn Kỳ Vương nói với Trí Hải:

            - Thưa hoàng thân, ngài quả là một danh sĩ có khí tiết hiếm hoi thời nay ở đất thần kinh văn vật nầy mới dùng đại ngôn với Hàn gia kỳ vương như thế.  Mong rằng lời nguyền khẩu khí của ngài sẽ không kết thúc bằng sự thất bại đau đớn mà tất cả những đối thủ của Hàn gia chúng tôi, không sót một người nào, đã lần lượt nếm trãi trong cả nghìn năm qua.  Một lời hứa của ngài phát ra là số phận đã đặt trên bàn cân:  Hoặc là bàn cờ tinh huyết thạch gia bảo của Hàn gia, hoặc Thái ấp của Hoàng thân sẽ bị biến mất khỏi cuộc đời này.

            Đối diện với phía Hàn Kỳ Vương đang khích động như vừa bắt trúng mối cá lớn, Trí Hải nhấp chén trà Ô Long vừa mới được pha lên. Mùi trà dẫn trí tưởng tượng của ông về một phương xa.  Sự an nhiên của Trí Hải càng thôi thúc tâm trạng nôn nóng đang cháy bỏng trong lòng Hàn Kỳ Vương về một cuộc cờ sắp đến.  Vương trịnh trọng lên tiếng:

Page 26: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 26

            - Chúng tôi từ phương xa lại, thủy thổ chưa quen, thời khí chẳng rõ.  Vậy dám mong Hoàng thân đại nhân cho biết tôn ý về ngày giờ và địa điểm của cuộc gặp gỡ sắp đến.

            Trí Hải xác định:

            - Tiết trùng cửu.  Đầu giờ Tuất.  Gióng đò trên sông Hương.

            Hàn Kỳ Vương bấm đốt tay, tính nhẩm, nhíu mày lên tiếng:

            - Ngày chín, tháng chín là ngày mưa lụt ít khi tránh khỏi hàng năm tại đất nầy, nên mới có câu: "Tới ngày trùng cửu không mưa.  Cha con làm ruộng bán cày bừa mà ăn." Lại thêm giờ Tuất thì trời đã tối mịt. Giong đò trên sông Hương chòng chành khó khăn ổn định, làm sao chúng ta tìm được không khí hoàn toàn yên tĩnh để khỏi bị chi phối vào cuộc cờ?

            Trí Hải trả lời thản nhiên:

            - Cùng thuyền cùng hội, khó dễ chẳng riêng ai.

            Vương như sợ bỏ lỡ cơ hội, lên tiếng:

            - Phía Hàn gia chúng tôi xin đồng thuận.  Vậy là còn đúng ba tháng nữa…

 

                                                                                oOo

 

            Tin Hoàng thân Trí Hải sắp đấu ván cờ gần như chung cuộc với Hàn Kỳ Vương là một đại biến cố đối với mọi người.  Giới hoàng thân quốc thích coi đây như là một sự thử thách đầy quyết liệt đối với danh dự và thế lực của hoàng gia.  Giới quan triều cảm thấy như đây là một cuộc chiến tranh đấu trí giữa hai nước.  Giới sĩ phu thở phào vì không khí im lặng nghẹt thở của sự thách thức tinh thần được giải tỏa.  Quần chúng thì nô nức đón mừng sự cố như một phản ứng giải phóng mặc cảm thế yếu của ta đối với Tàu. Ván cờ quyết định số phận một mất một còn của Thái Ấp và bộ cờ tinh huyết thạch của Hàn gia bên Tàu lan rộng từ trong triều cho đến ngoài nội rất nhanh.  Trong không khí thâm nghiêm của cung đình và nếp sinh họat phẳng lặng của một xã hội nông nghiệp, nguồn tin nầy bừng lên như một ngọn lửa rực rỡ làm lu mờ hết mọi thứ.  Không một ai nghi ngờ phẩm cách cẩn trọng và tài năng thông tuệ của Trí Hải.  Nhưng hầu như mọi người đều nơm nớp lo sợ trước sự ám ảnh của bộ cờ đầy huyền thọai và lịch sử đấu cờ siêu quần, vô địch của Hàn gia.

            Những danh sĩ cờ tướng thần kinh và giới hoàng gia, sĩ phu… từ khắp nơi kéo về chốn thần kinh, cố tìm đến dinh ông hoàng để hiến kế, hỗ trợ, chúc lành cho Trí Hải.  Lòng tự hào dân tộc ngủ sâu trong lòng nước bỗng vươn mình thức dậy.   Một ván cờ tàn mua vui chẳng ai chú ý; nhưng một ván cờ quyết đấu giữa hai danh sĩ của hai nước lại trở thành một biểu tượng mới vượt ra ngoài biên cương cảm tính nhất thời.  Những tấm lòng hào sảng mới đến sẵn sàng cho tất cả những gì mình có để chỉ mong được nhận một chút bóng dáng mình mơ. Nhưng tất cả đều thất vọng ra về khi cửa dinh vẫn đóng im lìm và người canh cổng cũng vắng bóng.  Lá rụng đầy sân.  Đèn nhà không thắp sáng.

Page 27: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 27

            Trong bóng tối và đèn chài soi cá hai bên bờ sông Hương, đêm đêm suốt cả mùa trăng, xuất hiện một chiếc đò lớn.  Chiếc đò che kín mui, buông chèo để mặc trôi lờ lững trên phía thượng nguồn sông Hương.  Từ trong đò có tiếng trao đổi khi nhanh, khi chậm, khi đuổi dồn, khi cách khoảng rất lâu và có lúc thì thầm, lúc bay bỗng đầy thống khoái của hai người đàn ông say sưa đánh những ván cờ mù.  Đó là Trí Hải và Phạm Xảo đang luyện cờ như luyện kiếm.  Bàn cờ và những thế cờ biến ảo của hai cao thủ nằm ở đâu đó vô hình nhưng hằn sâu trong trí nhớ.  Những ván cờ mù đã tiêp diễn giữa Trí Hải và Phạm Xảo gần hết cả mùa trăng.  Phạm Xảo trở nên sinh động, khi quyết liệt xông xáo như thời trai trẻ; khi trầm tư ẩn nhẫn như thuở hết thời.  Những nước cờ biến hiện khi tấn, khi thoái, khi thủ, khi công… mang nguồn sinh lực năng động của trí óc về với ông già.  Giữa mỗi cuộc cờ là một sự hiện hữu. Ông gìa quên đi  sự ám ảnh ngày ra đi vừa ẩn hiện trong góc tối trăm năm của đời mình.  Phạm Xảo càng linh hoạt trong những cuộc cờ tập trận thì Trí Hải càng thờ ơ trước những nước cờ thượng phong đầy ưu thế.  Phạm Xảo càng trầm trồ bái phục tài "đơn xa sát vạn, song mã công thành" của Trí Hải chừng nào, càng ngỡ ngàng thấy rõ tinh thần của vị hoàng thân đang lơ đãng gần như xuống dốc đến hồi thấp nhất.

            Trong tâm thức trầm lắng và sâu xa, Trí Hải suy niệm về vòng lẩn quẩn của những ván cờ biến hiện không ngừng.  Cũng vẫn những quân cờ tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã…  điều động bởi những đầu óc bừng bừng chất lửa, hai đấu thủ mang hai cái tôi to ngút trời quyết đấu.  Mỗi bên đều quay quắt trong biển lửa, cố thiêu sống nhau bằng những đòn cay độc nhất.  Bên cạnh tài ba cao thấp, vẫn thường xuyên đối mặt với sự thăng trầm phi lý của hoàn cảnh rủi may; của tài năng  được thời, thất thế.  Kẻ thắng, người thua quần thảo nhau không khoan nhượng.  Hết cuộc này, bày cuộc khác.  Tất cả trôi đi và trở lại với cùng khuôn mặt trơ lì ngày càng loanh quanh và mệt mỏi.  Hai tay cao cờ đệ nhất như Hàn Kỳ Vương và Trí Hải gặp nhau, tất nhiên rồi cuối cùng cũng có người thua kẻ thắng.  Bàn cờ không còn là nơi tiêu khiển nữa mà trở thành chiến địa chốn sống tình người.  Rồi đây, Trí Hải là bại tướng không đất dung thân hay Kỳ Vương là kẻ mang tội làm điếm nhục gia phong vì không bảo vệ nổi bàn cờ gia bảo.  Trí Hải như muốn ngộp thở khi nghĩ đến mạng lưới hệ lụy nhân sinh đang vây bủa lấy những con người.  Có chăng một khung trời tự do trong cái cũi sắt vô hình nhưng không có lỗ thưa cho tâm hồn chui lọt đó.

            Đến hết cuối mùa trăng tháng sáu thì Trí Hải không còn muốn nhắc đến những con cờ với Phạm Xảo hay với bất cứ ai.  Ông trầm tư nghĩ đến những ván cờ một mình.  Hết cờ rồi lại cờ.  Đầu óc Trí Hải dày đặc với những con cờ, những cuộc cờ, những kẻ chơi cờ. Tất cả chợt biến và chợt hiện bềnh bồng đâu đó.   Cờ reo trong gió, cờ đeo vào mây, cờ lung lay theo trái chín, cờ rụng xuống với những giọt nắng quái và lá vàng đầu thu.  Đêm mất ngủ vì cờ, ngày quằn quại vì cờ.  Những quân cờ quái ác vả vào mặt Trí Hải những đụng chạm mơ hồ nhưng rát mặt.  Những ván cờ độc chiêu hết đường công phá xoắn lấy cân não không chịu buông tha. 

            Đã qua nhiều đêm Trí Hải dồn hết khả năng tinh thần và trí óc như một thiền sư để quán niệm về… cờ. Một nước cờ biến ra thành 10 nước khác. Mười nước cờ khác lại biến ra thành một trăm, một nghìn, một vạn, một muôn, một triệu, một ức, một khối… và cứ thế Trí Hải suy niệm đến 100 lần, cứ mỗi lần sau nhân lên gấp 10 lần trước.  Nhưng phía đối thủ vô hình bên kia vẫn quyết liệt đón đầu phản công theo mỗi nước.  Hai bên vẫn giằng co nhau không phân thắng bại.  Trận quyết đấu âm thầm nhưng dậy sóng ba đào khủng khiếp trong lòng Trí Hải.

            Hết suy tư về chiến thuật, chiến lược, Trí Hải lại thả trôi nguồn suy tưởng của mình về triết lý đánh cờ.  Mỗi lần trôi dạt miên man như thế, Trí Hải lại nhớ về Paris,

Page 28: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 28

nhớ những ngày đánh cờ Tây với hoàng tử Cảnh, nhớ những ván cờ xóm đêm với giới thợ thuyền lao động quanh hè phố, mù trời khói thuốc Gaulois.  Có hẹn từ đầu non lịch sử hay không hẹn mà gặp.  Cả hai bộ cờ Tây và cờ Tàu đều có 16 quân cờ cho mỗi phe lâm trận.  Cờ Tây 8 lính, cờ Tàu 5 lính.  Ngự tại bản doanh thì cờ Tây có một vua và một tể tướng, cờ Tàu có một tướng và hai sĩ.   Cờ Tây và cờ Tàu đều có 3 cặp voi, ngựa, xe.  Cờ Tây không có súng mà cờ Tàu lại có súng.  Vua, tư lệnh chiến trường trong cờ Tây, rất năng động và xông pha tung hoành trên mặt trận, trong khi Tướng tư lệnh chiến trường trong cờ Tàu hầu như bị giới hạn ràng buộc tại bản doanh.  Lính trong cờ Tàu sang sông để mà hy sinh, bỏ mạng.  Lính trong cờ Tây có cơ hội được vinh thăng lên hàng tướng lãnh nếu chiếm lĩnh được những vị trí chiến lược sau cùng trên đất địch.

            Trí Hải nghĩ đến cái gốc của cờ tướng phát nguyên từ Ấn Độ, qua Trung Đông, đến châu Âu từ thời trung cổ. Đất Ấn là chiếc nôi của những nguồn lý thuyết siêu nhiên thần bí phương Đông và cổ Hy Lạp là chiếc nôi của lịch sử thần thọai phương Tây.  Cờ tướng là một trò chơi tinh thần và trí tuệ để kéo con người và thần linh trở về với thực tại của cuộc sống.  Đối mặt nhau trên bàn cờ là đối mặt với sự suy tư và sáng tạo.  Vì có suy tư và sáng tạo nên con người mới hiện hữu và kéo được thần thánh từ thiên giới trở về trần.  Trò chơi "Thiên  biến vạn hóa" nầy rất gần với quan niệm "ngã sở, ngã tính" trong nhiều môn phái triết học nguyên thủy của Ấn Độ từ thời xa xưa, trước cả khi Phật giáo ra đời.  Nó thay hình đổi dạng linh động theo hoàn cảnh mà không khư khư bám trụ vào cái "Ta - ngã sở" nguyên thủy của mình.  Trò chơi biến hoá như một loài bạch tuộc ma trơi, không có một định tính rõ ràng mà có thể thay hình đổi dạng biến hiện không ngừng.  Khi đến đấ Tàu, nó thành Tượng Kỳ, qua Nê Pan, Tây Tạng biến thành "Bụt Chỉ" (Buddhi Chal), vào Nhật thành Tướng Kỳ (Shogi), sang Thái thành Mã Khúc (Makruk), tới Đại Hàn thành Hàn Kỳ (Jianggi)… Trí Hải suy nghĩ về sức mạnh và tài năng của những tay cao cờ tuyệt luân, những kỳ vương Bắc đẩu.

            Những tay cờ dòng dõi Hàn gia tiếp nối nhau đánh bại thiên hạ từ đời nầy sang đời khác là do đâu?  Câu hỏi cứ lẩn quẩn như một ẩn số không có lời giải.  Xưa nay,  những nhân vật lẫy lừng trong thiên hạ ngoài tài năng kiệt xuất, còn phải có thủ thuật và bí mật chinh phục, thủ thắng khó so bì. Cờ tướng vừa là một cuộc đấu khả năng vận dụng cực kỳ lịnh hoạt và bén nhạy của trí; vừa là một cuộc thử thách quyết liệt sự kỳ diệu của tâm.  Tâm an tịnh thì trí siêu thoáng; tâm bấn lọan thì trí mê cuồng; tâm sâu hiểm thì trí tà độc.  Thế nhưng, những chiến thuật và chiến lược trong cờ tướng: Kế sâu, mưu hiểm, đòn ma, chước quỷ đều được tận dụng.  Quỷ kế của ma vương hay kỳ mưu của bậc thánh đều được khâm phục trong thuật chơi cờ tướng, miễn sao đạt chiến thắng sau cùng là thành công, là đánh bại được đối phương.  Người ta quan niệm dễ dãi như thế vì thù địch và xương máu trên bàn cờ chỉ là giả ảnh của cái đa mưu túc trí ở giữa cuộc cờ.  Cái chết sẽ sống lại và sự chiến bại có thể phục thù.  Nhưng trận cờ quyết đấu với Hàn gia là con đường mòn một chiều qua núi vì hai đối thủ trên bàn cờ sống thật và chết thật, dù sống chết dưới hình thức nào đi nữa thì một đi là mất lối quay về.  Chết rồi không sống lại và chiến bại không còn cơ hội phục thù.

            Những đêm sâu quán tưởng về cờ giúp Trí Hải mở dần những vòng trói buộc của những thế cờ trong trí tưởng.  Những thế cờ kim cổ ghi trong sử sách như  Kỳ Diệu Thư, Tượng Kỳ Bí Sử, Diên Tử An, Quất Trung Bí, Mai Hoa Phổ… là những thánh thư binh pháp của Trung Hoa trong cờ tướng.  Đó là những truông hiểm, ghềnh sâu, vực thẳm, huyệt địa, điểm xoáy của dòng sông trôi chảy.  Và đó cũng là những cẩm nang, bí kíp truyền đời để dụ địch thủ vào dòng xoáy mà nhận chìm thuyền vào tử địa của trận đồ đã được mai phục sẵn sàng, không lối thoát.  Vẻ bình

Page 29: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 29

lặng trên bàn cờ chỉ là ảnh ảo để che mắt một trường sóng gió khi ẩn khi hiện, khi thật khi hư mà những kỳ vương đã dạn dày "mặt phong trần nắng rám mày râu…" phải e dè và cẩn trọng.

            Một tháng đã đi qua, sự suy tưởng về cờ khi loé lên, khi chập chờn nhưng chưa một phút lụi tàn trong đầu làm Trí Hải liên tưởng đến 5 lối đánh cờ trong sách Kỳ Vương Lục của Vương Giản Chi đời Minh bên Tàu: Tiên kỳ, hội kỳ, phiếm kỳ, tượng kỳ và tuyệt kỳ.  Tiên kỳ là những cuộc cờ đầy huyền thọai của tiên ông. Như Hoàng Thạch, Xích Tùng chơi cờ cùng gió cùng mây.  Bàn cờ tiên đặt trên thạch bàn trong hang động.  Các tiên ông mỗi năm chỉ hội ngộ một lần vào đêm Trung Thu nhưng các thế cờ vẫn đi luân phiên không ngừng nghỉ.  Mỗi ông tiên có dịp dừng chân đi một nước trong cảnh núi thẳm mây bay "bạch vân thiên tải không du du" man mác một mình. Có khi hai nước cờ cách nhau cả mấy mùa trăng. Những ván cờ không phân biệt "ta" với "người" mà sự kết thúc mang lại niềm thống khoái thoát tục cho cả hai vị cờ tiên như giờ đắc đạo.  Tuyệt kỳ là những trận thư hùng của hai cao thủ với những nước cờ thiên biến vạn hóa.  Thế nhưng "… nước cờ nào cũng đòi hỏi sự bao bọc sít sao như vỏ lúa bao quanh hạt gạo.  Hở một ly là tạo ra một khoảng cách từ biển đến trời", như lời của Vương Giản Chi trong sách luận về nghệ thuật đánh cờ.

            Y niệm "thắng ván cờ như giờ đắc đạo" chiếm ngự hết ý nghĩ của Trí Hải.  Cái Đạo của phương Đông mới là cái gốc của cờ.  Đạo là sức mạnh uyên nguyên, là gốc của Dịch.  Dịch là tác nhân của Âm Dương để tạo ra tư tưởng, ý thức và hành động.  Hàn gia dùng bàn cờ để chiếm ngọn mà nhổ bật gốc nên đã tạo ra cái thế "loạn kỳ" trong thiên hạ. Nên những thế cờ của Hàn Kỳ Vương là những ngọn cuồng phong, là thế tiến công, là uy lực chinh phục.    

            Trong tâm y lý thường lấy khinh an để trị tác loạn.  Trong binh thư cũng có nói: "Biết dấy động đến chín tầng trời, cũng bằng biết dấu mình dưới chín lớp đất."   Ra quân với Hàn Kỳ Vương không phải chỉ đấu cờ đơn giản bằng cách di chuyển, tạo thế  những quân cờ sắp sẵn trên bàn cờ mà cần phải biết dùng "đạo kỳ" để đem cái tâm lặng lẽ mà dẹp cái gốc ồn ào dấy loạn.  Nhưng biết tìm cái tâm lặng lẽ ở đâu mà dựa; biết tìm cái trí an tịnh ở đâu mà làm vũ khí.  Trí Hải càng cố nhắm mắt trầm tư  thì những vọng tưởng lại hiện đến. Tạp ý khi phất phơ như gió nhẹ, khi khởi động như đám mây giông.  Chúng kéo đến ùn ùn làm cho trí óc xiêu đổ như muốn nổ tung thành sấm dậy.

            Trí Hải càng cố giữ tâm não trống không, những tạp ý càng khởi lên cố lấp đầy chỗ trống.  Trí Hải cố quay đi để tránh, những tạp ý cứ săn đuổi bén gót.   Người ta có thể dễ dàng xua đuổi một con voi nơi bìa rừng, nhưng lại khó khăn rủ bỏ bầy kiến trong ý niệm.  Chân cứ sãi dài bước đi thoăn thắt, nhưng đầu không biết đi về đâu.  Ra khỏi Thái ấp, qua khỏi mấy đồng lúa và theo lối mòn của vùng nương rẫy, Trí Hải men theo con đường đất đỏ, đá sỏi nhấp nhô.  Cuối dốc lên độn sim, độn móc là lối mòn dẫn tới chân núi Trường Sơn.  Mặt trời đang xuống dần bên phía Trường Sơn Tây nhắc nhở cỗ xe thời gian đang tụt dốc bên kia sườn đời của tuổi 50. Nắng xế chiều cắt ngang những ngọn cây cao, trả hai phần bóng mát lại cho phía đông Trường Sơn xanh mướt cây rừng trùng điệp.

Có nhà ai gần chân núi đang lên khói.  Len lõi qua hốc đá và cây rừng tìm lại gần, Trí Hải chỉ thấy một người đốt than đang bưng nước suối trong ống lồ ô để dập tắt hầm than cháy đỏ.  Cũng chẳng để ý có người đang lại gần, người đốt than có vẻ như đang chú mục để hết tâm ý vào công việc.  Trí Hải cũng không muốn khuấy động bầu không khí yên tĩnh chỉ có tiếng gió rừng chiều và tiếng xèo xèo của nước dập tắt

Page 30: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 30

lửa. Thế nhưng khuôn mặt tự tại và phẳng lặng, cũng như dáng vẻ tươi tắn, linh hoạt của người đốt than giữa một thời điểm về chiều đầy mệt mõi trong ngày có một sức thu hút vô hình níu chân Trí Hải lặng lẽ dừng lại. Thật khó mà đoán biết   được tuổi tác của người đàn ông đốt than.  Nét từng trãi của tuổi già hòa quyện với nét măng tơ của tuổi trẻ làm cho ông ta có một vẻ gì vừa đáng kính vừa đáng yêu. Tay chân ông ta làm việc thoăn thoắt.  Dáng khoan hòa và tươi cười rạng rỡ với chính mình và cảnh vật xung quanh.  Khi bếp than tắt lửa và những sợi khói mỏng cuối cùng kéo lên ngọn cây bay xa, người đốt than ung dung leo lên phiến đá phẳng ngồi xếp bàn và nhắm mắt.  Ngủ. Trí Hải không thể hình dung ra có người lại vô tư và đơn giản đến như thế. Trí Hải mệt mõi ngồi xuống cách một quảng không xa với người đốt than.  Dáng ngồi vững chãi và phong thái hoàn toàn tĩnh lặng của ông ta chinh phục cả sự xao động về chiều của rừng cây lá.  Trí Hải nhìn bức tượng người đốt than, nhìn quanh cây lá không màng đua chen danh lợi và nhìn lại mình.  Ông ngạc nhiên khi đọc được nỗi bất an đang vây bủa lấy mình.  Tại sao bao năm qua ông cố đi tìm một sự an trú tạm thời trong đời sống.  Lớp sóng cũ vẫn còn gợn lăn tăn, ông lại để cho những đợt sóng mới phủ lên mình những ngọn trào vật vã.  Vì vật cản trên đường đi cần phải dọn hay vì những thách đố phù du?

            Trí Hải cảm nhận như có những làn sóng vô hình từ phía người đốt than đang ngủ ngồi trên phiến đá tỏa ra.  Ông nhận ra sự yếu đuối của mình và cố co lại để che cho cái tự tính đầy quanh co và phản kháng đang bị chinh phục.  Khối lặng im của rừng núi mạnh hơn là tiếng lao xao của thế giới người nhỏ bé dưới kia. Trí Hải cảm thấy như mình nhỏ lại.  Chút kiêu hãnh nông nổi bọt bèo tan loãng. Ông líu ríu ngồi xuống để nép mình vào sự im lặng của núi rừng.  Đầu óc dày đặc những ý nghĩ về cờ, về tranh thắng, về thủ hòa mỏng dần ra.  Trí Hải có cảm tưởng như hơi lạnh của rừng chiều và cơn gió rừng thu ngát mùi tràm chổi đang thổi vào những khoang trống.  Đó là không gian nội tâm vừa mới được khai thông trong dòng suy nghĩ còn vướng mắc bao nhiêu chuyện hơn thua giữa cuộc đời nầy.

            Trên phiến đá, người đốt than vừa mở mắt đứng lên.  Anh ta tươi tĩnh và chẳng có vẻ gì là vừa ngủ dậy.  Anh rời chỗ ngồi, đến bới hầm than và chỉ nhặt một ít, rồi hốt bỏ vào cái bao đệm xách tay nhỏ. Anh ta nhìn trời, miệng hát nho nhỏ, không màng nhìn lại cái hầm than còn đầy do công khó anh ta làm ra, rồi xách bị than lửng thửng  đi về.  Bước ngang qua Trí Hải anh ta vẫn tươi cười, miệng hát nho nhỏ, thản nhiên như thể thêm sự hiện diện của một người nào đó trong khu núi rừng nầy cũng cũng chỉ  là thêm một cục đá trong vô số cục đá vô tri, hay là thêm một gốc cây trong muôn vạn gốc cây rừng sinh và diệt chằng chịt muôn năm chẳng có gì đáng để ý.

            Trí Hải lên tiếng trước:

            - Chào bác tiều.  Tình cờ đi ngang qua đây, tính ra mắt chào bác mà bác ngủ say quá nên tôi ngồi đây lâu rồi. Bác ngủ mà lại giống như ngồi thiền, hay thật!

Người đốt than dường như không nghe lời dạo đầu lịch sự của Trí Hải, hỏi lại:

            - Thiền là cái chi?

            Một câu hỏi gần như ngớ ngẩn phát ra từ một khuôn mặt có vẻ thông minh làm Trí Hải muốn bật cười, nên trả lời rằng:

            - Thiền là cái trí giữ nhà và cái tâm đi ngủ!

Page 31: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 31

Người đốt than gục gặc đầu:

            - Đứa thức, đứa ngủ thì đứa nào quét nhà?

            - Đứa thức không xả rác, đứa ngủ khỏi quét nhà.

            - Đứa nào mê đứa nào tỉnh?

            - Đứa nào làm tròn việc của đứa đó thì thức là thức, ngủ là ngủ, chẳng có mê hay tỉnh.

            Người đốt than lại hỏi:

            - Như kẻ đốt than nầy là mê hay tỉnh?

            - Vừa tỉnh vừa mê.

            - Sao kỳ vậy?

            Trí Hải cười:

            - Vì bác tiều đốt than theo kiểu nghịch đời.  Người ta đốt than là để hầm than và ủ kín cho than tắt chứ chẳng ai lại đem nước suối tưới cho than đang đượm vội tắt như bác cả.

            Người đốt than giơ hai tay lên trời cười thoải mái:

            - Cây trong rừng thì muôn hình muôn vẻ mà đốt than thì xưa nay chỉ có một cách đốt than hầm thôi à?  Người muốn than hầm, than chín; kẻ thích than tưới, than sống. Tìm một con đường riêng mà đi.  Quanh quẩn đường mòn về chỗ cũ. Ích gì!

            - Than là than mà củi là củi. Than sống mà củi chín ư? Lạ đời!

Sau câu trả lời của Trí Hải, người đốt than nói như nói một mình: "Cây cháy chưa hết ròn.  Than non." Anh ta lẳng lặng quảy bị than lên vai và bước đi, chẳng chào  ai một tiếng.

 

oOo

 

            Gần nửa đêm Trí Hải mới về tới nhà.   Niềm an lạc và hưng phấn đến tình cờ giữa buổi chiều ngồi lặng lẽ trong cảnh đốt than giữa rừng không về cùng.   Nỗi bồn chồn vẫn theo bén gót Trí Hải.  Hình ảnh người đốt than đã gây một ấn tượng mạnh.  Anh ta có vẻ như không có tuổi và không bị dính mắc vào hiện thực bon chen của đời sống xung quanh mình.  Đêm dài trăn trở không ngủ được, Trí Hải ôn lại cảm giác ban chiều.  Người đốt than đem cái tĩnh vào trong cái động; đem thái độ an nhiên tự tại vào trong công việc vất vả của nghề đốt than; đem lối suy nghĩ giản đơn và cụ thể vào trong nếp suy nghĩ rắc rối lẫn mơ hồ thường vây bủa và làm mệt mề đời sống tri thức.  Trí Hải cứ băn khoăn tự hỏi tại sao ngồi lặng nhìn gã đốt than mà trong lòng mình lại cảm thấy bình an đến thế. 

Page 32: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 32

            Hôm sau và hôm sau nữa, Trí Hải tìm đến chỗ bìa rừng cũ nhưng chỉ thấy bếp than lạnh lẽo nằm trơ vơ trong cảnh tịch liêu của khu rừng vào thu.

Rồi một buổi xế trưa khác, khi còn đi mon men dưới chân đồi,   lòng Trí Hải bỗng rộn lên niềm vui khi nhìn thấy làn khói đốt than quen thuộc bốc lên nơi khu rừng cũ.  Khi tới nơi, bếp than đã tàn và người đốt than đã ngồi ngủ yên trên phiến đá xanh.   Trí Hải đến gần và cũng như lần trước, ngồi xuống lặng yên sau tàn cây nhỏ đối diện với người đốt than.  Thật lạ lùng, cảm giác bình an lại đến.  Những xôn xao của nếp sống đầy hệ lụy dường như đã quyện vào mây trắng lưng chừng núi mà bay về một nơi an nghỉ nào đó mất hút cuối trời.  Khuôn mặt và dáng ngồi của người đốt than thanh thoát, an lạc và linh động như những đốm nắng lọc qua kẻ lá giữa rừng.  Khi Trí Hải đến đây một mình, khu rừng vắng bóng người cũng thật phong quang và hùng vĩ nhưng vẫn thiếu mất một chút hơi ấm tỏa chiết của linh hồn.  Con người là linh hồn của tạo vật.  Uy lực của vũ trụ không phải là sấm sét mà là ý thức khai phá và tình cảm yêu thương của loài người.  Ngồi lim dim suy nghĩ, Trí Hải cảm nhận sự im lặng của khu rừng và bóng người đốt than đơn sơ trước mặt đang trò chuyện với nhau bằng năng lực cảm thức mà ngôn ngữ là vô ngôn.  Một giây an lạc thật hạnh phúc và đáng sống hơn một đời hệ lụy.

            Người đốt than mở mắt với nụ cười thoáng rộng và vô tư khi nhìn thấy Trí Hải đã ngồi lặng lẽ ở đó từ bao giờ.  Trí Hải chào tươi tắn:

            - Chào bác tiều.  Hôm nay bác ngủ khỏe hơn hôm trước.

            Người đốt than vừa cúi bới hầm than, vừa giải thích:

            - Thì cũng cho chúng nó nghỉ ngơi đôi chút.

            Trí Hải ngạc nhiên hỏi lại:

            - Ngoài bác tiều ra tôi có thấy ai nữa đâu mà gọi là "chúng nó?"

            Người đốt than cười cười, vừa uốn éo cái đầu, vừa dang tay, dang chân ra diễn tả:

            - Thì cái thằng đầu nầy; thằng mắt, thằng tay, thằng chân nầy…

            Trí Hải tròn mắt ngạc nhiên:

            - Đầu, mình, tay, chân… là thân thể của bác chứ có phải của ai đem ghép vào đâu mà bác lại phân biệt lạ lùng vậy?

            Ra dáng suy nghĩ, người đốt than hỏi lại:

            - Tôi hả? Tôi là đứa nào vậy? Có ai cho ai kiếp sống tạm bợ này đâu?  Cha mẹ sinh ra một mảnh hình hài. Rồi người sinh con phải nuôi con.  Ông làm ruộng, bà bán hàng, chú thợ may… họp nhau thành nhóm, thành làng, thành xã hội góp tay nuôi cho khôn lớn.  Rồi cứ xoay vần, đến lượt cái hình hài khôn lớn nầy sinh con đẻ cái, lăn lưng ra làm trả lại theo cái vòng vay vay trả trả không ngừng. Trước khi sinh ra chẳng có hình hài nầy và sau khi chết cũng chẳng còn chi lưu lại. Nhìn trong khoảnh khắc nầy dường như có bác, có tôi.  Nhưng chỉ trong khoảnh khắc sau không ai chắc còn có tôi hay có bác. Hì… hì… chúng nó nghỉ rồi, bây giờ chúng nó phải làm để đổi lấy miếng ăn.

Page 33: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 33

            Người đốt than lại trở về với những động tác cũ.  Trí Hải hỏi với vẻ ái ngại:

            - Vì thấy bác làm nghề đốn củi, đốt than nên tôi mạo muội gọi là "bác Tiều".  Nay đã biết nhau, xin bác cho biết quý danh để xưng hô cho tiện.

            Ông tiều xua tay:

            - Ôi thôi! Bác để ý làm chi cái danh vị, hình tướng hảo cho thêm bận lòng.   Một người, hôm nay là kẻ đốt than, mai kia là gã làm thuê, mốt nọ là đứa chèo đò, kia nữa là cái xác chết trôi… nào ai biết.  Nhìn đây nầy.  Tổ nhện xây trên tổ chim, tổ chim xây trên cành cây khô, cành cây khô là một phần của thân gỗ mục, thân gỗ mục mọc cheo leo trên ghềnh đá, cái ghềnh đá khập khiểng nầy có thể rơi xuống hố bất cứ khi nào. Thế mà con nhện vẫn thong dong đón mồi, con chim vẫn ấp trứng, nhành khô vẫn đong đưa…

            Người đốt than nói chưa hết lời, có tiếng chân thú rẽ lá đuổi nhau, đàn nai chạy qua ghềnh đá. Thấy bóng người, đàn nai chuyển hướng.  Nhưng bỗng muộn rồi, phiến đá gập ghềnh mà ông tiều vừa mới nói đã bứt ra khỏi triền núi và rơi dài xuống hố, mang theo lưới nhện, tổ chim, cành khô, thân cây gỗ mục và những con nai đang bị vùi lấp dưới đám bụi mù.

            Bóng người đốt than đã đi xa khuất dưới chân đồi.  Trí Hải vẫn chưa rời chỗ cũ.  Một bụi cây hoang sơ lại là vùng an lạc. 

            Trí Hải ngồi sâu giữa bóng tối chạng vạng cho đến khi trăng lên.  Gã tiều phu và con trăng mùa thu lạnh mát trên kia có một cái gì thật giống nhau mà Trí Hải chưa thể định hình, gọi tên cho rõ mặt.  Dòng suy tư chờn vờn và lốm đốm chưa có một hình thù rõ nét như bóng trăng xuyên qua rừng cây.  Ánh trăng dát vàng trên lá, nhuộm bạc trên đất, nhưng chỉ một thoáng gió đi qua, lá không còn nguyên điểm cũ thì ánh trăng cũng không còn để lại một dấu vết gì trên lá, trên đất.   Cái gã đốn củi đốt than kia cũng thế. Gã không có một chút gì dính mắc dù chỉ là cái tên giả tạm. Gã không quan tâm tự nhận biết mình là ai. Cái đầu, cái tay, cái ý thức của chính gã đều được xem như là một tập hợp nối kết tình cờ và sẽ tan đi chẳng còn dấu vết.  Con trăng phủ nhận dấu vết của ánh trăng, cũng như gã tiều phu phủ nhận cái tôi mà ai cũng tự cho là trọng đại của mình.  Phải chăng vì thế, nên trăng mãi chiếu hoài muôn phương mà không hết sáng và gã tiều phu ngồi ngủ những giấc dài trong trong vắng lặng mà không bị thảng thốt giật mình bởi hoàn cảnh xung quanh níu kéo.

            Sự chiến thắng xưa nay là một cách nói khác của sự sống còn trên xác chết. Sự vinh quang náo nức của người chiến thắng là nỗi tủi nhục ê chề của người chiến bại.  Nụ cười của kẻ được là tiếng khóc của kẻ thua. Đôi mắt trong ngần không váng vất chút mê mờ tham vọng và nụ cười vô tư của người đốt than không ngừng hiện lên trong tấm gương soi mình tưởng tượng của Trí Hải. Trận cờ thư hùng sắp đến cứ sau mỗi đêm suy nghĩ lại nhạt dần ý nghĩa ban đầu của nó. Trận cờ như một thách đố phù du. Người thua sẽ bị chôn vùi tên tuổi và sự nghiệp. Người thắng cũng sẽ bị chôn vùi trong tham vọng và kiêu căng.  Càng gần đến ngày hẹn đấu, Trí Hải càng ít quan tâm hơn.  Không còn những buổi tập trận trên bàn cờ với Phạm Xảo và các danh thủ đất thần kinh.  Trong lúc Phạm Xảo và mọi người ở phía phe nầy hay phe kia đang bị thiêu đốt vì sự nôn nóng lẫn lo lắng đang cháy ngùn ngụt về số phận của trận cờ sắp đến thì Trí Hải càng kéo dài hơn những phút ngồi tĩnh tọa trong rừng vắng.  Tâm không dính mắc với cuộc cờ nên trí cũng chẳng tư lự với giới hạn hay thế cờ của phe địch phe ta.

Page 34: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 34

            Chiều hôm gần tối trước ngày hẹn của trận đấu Trí Hải vẫn còn trải lòng với cỏ cây trong rừng.  Khi quảy bao than lên vai, khác với những lần trước, người đốt than đi chậm lại như có ý chờ Trí Hải cùng về.  Trí Hải bước theo.  Trên con đường rừng gập ghềnh nhá nhem tối, chẳng ai nói với ai lời nào.  Chỉ có tiếng lạo xạo khô khan của bước chân trên đường sỏi đá là tâm đắc chuyện trò không ngớt.

            Ánh đèn xóm đêm đã thấy xa xa.  Người đốt than lên tiếng trước làm vỡ sự tĩnh mịch của buổi chiều trên đường vắng:

            - Lý do nào khiến quý hữu vào rừng?

            Trí Hải trả lời thành thật:

            - Tôi muốn được yên tĩnh.

            - Bị đời khuấy động lắm sao?

            - Không hẳn thế.  Nhưng có lẽ sự khuấy động dấy lên từ trong lòng mình.

            - Thất tình, thất bại, thất sủng?

            - Chẳng vướng "thất" nào cả.

            - Vào rừng được gì?

            - Được cái trống không.

            - Cho ai?

            - Cho một cuộc cờ sắp đến.

            - Hiểu rồi!

            Cuộc đối thoại thân tình nhưng nhấm nhẳn giữa hai người bỗng rơi vào lặng im.  Lời nói không luôn luôn là phương tiện tốt nhất để chuyên chở ý nghĩ làm cho người ta hiểu nhau rõ hơn.

            Qua bến đò khi sắp chia tay, người đốt than đột ngột hô lên:

- Pháo 2 bình 5! Đi… !

            Trí Hải phản ứng một cách ngỡ ngàng:

            - Bác tiều cũng biết đánh cờ mù à?

            - Đi!

            Sự thôi thúc như ra lệnh của người đốt than khiến Trí Hải phản ứng theo quán tính:

            - Mã 8 tiến 7.

            - Mã 2 tiến 3.

Page 35: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 35

            - Xe 9 bình 8.

            - Xe 1 bình 2.

            - Tốt 7 tiến 1.

            - Hỏng!

            - ?!

            - Bị dính chặt với những thế cờ đã cũ thì có khác gì mượn cánh vịt đồng mà đòi bay vào vùng trời Đâu Suất!

            Sau câu nói của người đốt than, hai người lại im lặng đi cho đến khi về đến khu đồng bằng dân cư. Trí Hải hỏi:

            - Làm sao để khỏi hỏng?

            - Tìm cái mới!

            - Cái mới từ đâu?

            - Từ trong cái cũ nhưng thoát ly cái cũ.

            - Bằng cách nào?

            - Đừng dính mắc!

            Hai người lặng lẽ chia tay không một lời chào từ biệt. Cái giao tình bên ngoài có vẻ nhạt thếch.  Quân tử chi giao đạm nhược thủy…

            Trí Hải về dinh ngủ một giấc say sưa cho đến khi có tiếng gà gáy sáng.   Lại tiếng gà tỉnh thức giữa dòng định mệnh trôi theo đường xuôi nẻo ngược.  Trí Hải lẩm bẩm trong đêm vắng một mình: "Đừng dính mắc!"  Ánh trăng chiếu muôn phương, tiếng gà vang xa khắp nẻo vì không bị vướng vào giới hạn giữa ta với người; không dính mắc vào những sản phẩm của tạo hóa bày ra đã cũ. Rồi trong dòng suy tưởng, cả 32 quân cờ xao xác tìm nhau. Không có bên này Sở hà, bên kia Hán giới. Không có bên nầy đương đầu pháo quá hà xe; bên kia bình phong mã, đấm tốt, bình pháo đổi xe.  Những thế cờ đối công phản kích dính chùm giữa cuộc binh đao không lối thoát phải được hóa giải để đi tìm một con đường mới. Những quân cờ phải ra trận, phải đấu nhau như bánh xe phải lăn trên đường cái là chuyện tất nhiên. Không ai sắm những quân cờ để làm hoa trang trí cả.  Nhưng quân cờ phải đi theo đường bay tâm trí của hai đối thủ quyết đấu sống chết đang ở giữa cuộc cờ.  Làm sao "đừng dính mắc" giữa hai gọng kềm đối kháng mới chính là xương sống của hồi chung cục mà Trí Hải đang miên man nghĩ đến.

            Trời chưa sáng hẳn, Phạm Xảo đã mang trà vào cho Trí Hải.  Thói quen pha trà buổi sáng vẫn không có gì thay đổi.  Chỉ khác một Phạm Xảo trong vai người lão bộc pha trà cho chủ thì giờ đây hai người đối ẩm.  Khác với mọi ngày, hôm nay Phạm Xảo mặc đồ chàm quần ngắn ống, áo ngắn tay của con nhà võ. Râu cạo nhẵn nhụi, tóc búi gọn được nhuộm màu tiêu muối nên trông trẻ trung và oai nghi như một vệ sĩ xế tuổi trung niên. Trí Hải nhìn Phạm Xảo, bình luận một cách thú vị:

Page 36: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 36

            - Trẻ trung và oai vệ thế này thì  e "huynh" sẽ biến thành "đệ" mất thôi!

            Phạm Xảo nói một cách nghiêm trọng:

            - Hàn Kỳ Vương đã biến ngày đấu cờ thành một ngày hội lớn. Giới phú thương người Hoa từ Bắc chí Nam đã chung góp tiền bạc để ủng hộ cho phe nhà của họ. Tất cả đều sẵn sàng để mở đại tiệc ăn mừng thắng trận không một mảy may nghi ngờ tại Thái ấp này.  Trong lúc phía bên kia dốc hết sức người, sức của lo cho trận đấu, thì bên ta chỉ có người nườm nượp đi xem. Tôi phải ở sát cạnh hoàng thân để bảo vệ.

Uống xong ba bốn tuần trà trong sự lặng im từ khi có mùi hoa ngọc lan tỏa hương mai. Nắng đã lên cao.  Mặt trời sẽ gác bên kia đầu núi và chiều về.  Giờ quyết đấu điểm.

Trí Hải ái ngại nhìn Phạm Xảo.  Sự đợi chờ căng thẳng làm cho những đường gân trên trán, trên mặt viên lão tướng muốn bứt ra thành suối, thành dòng, thành tiếng nói.  Phạm Xảo ngạc nhiên đến sững sờ nhìn Trí Hải vẫn với tập Đường Thi trên tay với dáng vẻ thản nhiên và tươi cười như đã quên trận thư hùng sống mái đang đợi.  Thơ phú ích gì cho buổi ấy.

            Hai bên bờ sông Hương người đi như hội.  Người ta cố lấn ra gần gần bờ, nơi có bốn chiếc đò đại bản kết thành bè trên sông. Ít người đi xem biết Trí Hải là ai, nhưng chỉ biết là "người đó phe ta" thôi thì cũng đủ cho lửa nhiệt tình bốc cháy.  Người ta la hét, xô đẩy nhau, chạy rần rần bao vây cả một vùng bến sông khi Trí Hải và Phạm Xảo xuống đò ngang để lên bè nổi neo giữa sông. Người cầm tay Trí Hải sau cùng trước khi đò rời bến là Lê Trung Ẩn, thủ lãnh sĩ phu Bắc Hà và cũng là đương kim thượng thư bộ Hình trong lục bộ của triều đình. Lê Trung Ẩn ngỏ lời, không ai rõ là hỏi hay dặn:

            - Có cần giăng lưới trên sông Hương không?

Trí Hải chỉ thoáng cười, nhìn rất sâu vào mắt người đối diện mà không nói gì.   Thuyền rời bến trong tiếng reo hò, cổ vũ của biển người đứng hai bên bờ.

Bốn chiếc thuyền lớn kết lại thành một hòn cù lao nhỏ và được neo cẩn thận trên sông.  Trời không mưa nhưng mây mù u ám và nước bạc trên sông cuồn cuộn chảy. Cả một vùng được trang hoàng rực rỡ.  Nền thuyền trải thảm Ba Tư với màu sắc được tuyển chọn khéo léo.  Khung thuyền treo đèn lồng mỹ thuật. Mui thuyền phủ gấm Thượng Hải ngũ sắc.  Ngay chính giữa, trên chiếc bàn gỗ mun đen tuyền bóng loáng, bàn cờ và quân cờ đã sắp sẵn nhưng tất cả đều được phủ kín dưới một lớp gấm đỏ thêu hoa văn màu hoàng kim lóng lánh.

            Trong trận "đại kỳ quyết đấu" nầy sẽ không theo mô thức đấu cờ thông thường là có tổng số ván cờ theo số chẵn như hai, bốn, sáu... mà toàn bộ cuộc đấu sẽ có 3 ván cờ.  Nếu cả 3 ván đều hòa thì trận đấu sẽ tiếp diễn cho đến khi có một bên thắng. Trận cờ sẽ được diễn ra theo một luật lệ khắt khe về nhiều mặt.

            Luật thời gian.

Một ngày và một đêm tính từ nửa đêm, giờ Tý đến buổi trưa giờ Ngọ ngày hôm sau.  Đêm có 5 canh, ngày có 6 khắc.  Mỗi khắc dài bằng một vạn tiểu khắc.  Tiếng

Page 37: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 37

chuông báo hiệu thời gian cho ván cờ và tiếng khánh báo hiệu thời gian cho nước  cờ.

Mỗi nước cờ không được kéo dài 100 tiểu khắc.  Mỗi khắc được đếm bằng một giọt nước đỏ từ một bình cao rơi xuống một bình thấp.  Người quản lý thời khắc phải đếm công khai. Sẽ có một tiếng khánh vàng đánh lên báo hiệu giữa giờ khi nước giọt đến khắc thứ 50, hai tiếng đánh lên đến khắc thứ 90 và ba tiếng báo hiệu hết giờ.  Người suy nghĩ quá giờ không được quyền đi tiếp và phải nhường cho phía đối thủ.

            Luật xử hòa.

Ván cờ sẽ đương nhiên coi như  được xử hòa trong ba trường hợp sau:

            - Luật về số nước đi: Khi tổng số nước đi của ván cờ là 200.

            - Luật về nước đi có tác dụng: Không kể những nước đuổi và chiếu cũng như những nước để đối phó với những nước đuổi và chiếu, tổng số nước đi là 100.

            - Luật về nước đi có tiến triển: Khi tổng số nước đi kể từ lần cuối cùng ván cờ có tiến triển là 20.  Điều kiện được coi là ván cờ có tiến triển khi hoặc là có quân bị bắt hay tốt đã sang sông tiến lên một bước.

            Luật công bình.

Chiếu dai và đuổi dai là vi lệ.  Phía vi lệ sẽ bị xử thua.   Nếu một bên vi lệ chiếu dai và bên kia vi lệ đuổi dai thì bên chiếu dai sẽ bị xử thua.   Khái niệm về "dai" được minh định là chiếu hoặc đuổi quá 5 nước liên tục với 1 quân cờ, 10 nước liên tục với 2 quân cờ và 15 nước liên tục với 3 quân cờ.

            - Chiếu liên tục đối phương bằng một hay nhiều quân cờ của mình là vi lệ.

Ban hành luật có 5 vị, người đứng đầu là chưởng kỳ.  Ban giám khảo có 5 vị, người đứng đầu là chủ khảo. Ngoài ra ban hộ kỳ cũng có 6 người. Hai người có nhiệm vụ ghi chép trên văn bản và 2 nữ, 2 nam có giọng tốt đại diện cho mỗi bên có nhiệm vụ hô to lên công khai ngay sau khi mỗi quân cờ được di chuyển để xác định dứt điểm một nước đi, đồng thời công bố cho kỳ chúng, là những người đang theo dõi trận đấu, biết được diễn tiến của trận cờ.   

            Hàn gia đã bày biện bao nhiêu hình thức biểu diễn và trang trí cho cuộc đấu cờ.  Đây không chỉ là cuộc đấu cờ tay đôi giữa Trí Hải và Hàn Kỳ Vương mà còn mang một ý nghĩa xa hơn là cuộc đấu trí giữa hai nước chư hầu và thống lĩnh.  Bộ cờ tinh huyết thạch của Hàn gia phải tồn tại và mục đích cuối cùng phải đạt được,  cho dù phải lòn trôn hay thí quân huyết chiến với địch thủ như thủy tổ Hàn Tín năm xưa.

 

oOo

 

            Trận cờ khai diễn với những thủ tục trình diễn rườm rà chưa từng thấy.  Nhưng rồi cuối cùng vị chưởng kỳ với khăn chít áo dài cũng tới hồi trang trọng hai

Page 38: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 38

tay nâng lớp gấm điều bọc bàn cờ gia bảo của Hàn gia.  Mọi người như cùng "ồ" lên một tiếng để tán dương vẻ đẹp rực rỡ của bàn cờ.  Mỗi quân cờ quả là một tác phẩm kỳ tú của thiên nhiên và con người.  Đá tinh huyết chỗ trong như pha lê, chỗ trắng ngần, chỗ đen thẳm, chỗ lóng lánh như trân châu mã nảo.  Nhưng tuyệt tác hơn tất cả là những đường gân đỏ thắm như máu đào chạy quanh.  Những đường gân đỏ linh động biến hiện lung linh như đang sống, đang trổ nhánh, nẩy mầm.  Vẻ đẹp mê hồn của loài đá tinh huyết làm cho lớp lớp đèn lồng ngũ sắc và màn trướng trang trí lộng lẫy mờ nhạt hẳn đi sau một màn sương cảm giác.

            Từ khi được trao bộ cờ gia bảo, Hàn Kỳ Vương có một niềm tin mạnh mẽ rằng, với một hình thức lễ nghi mở màn trận đấu đầy tính kỳ bí của tôn giáo và đặc biệt là vẻ thu hút mê hồn của bộ cờ, phía đấu thủ khách đã bị lung lạc tinh thần và bị chinh phục từ phút đầu tiên.

            Đối mặt với Trí Hải trên bàn cờ lần này, Hàn Kỳ Vương cảm thấy niềm tự tin từ bao lâu nay của mình bị dao động mạnh.  Vương quen chờ đợi một đối thủ xốc nổi, ồn ào hay thâm trầm, kín đáo;  có khi là một đối thủ mưu lược, nguy hiểm.  Nhưng chưa bao giờ Vương gặp một đối thủ thản nhiên gần như vô tâm trong giây phút mở đầu như thế. Vẻ mặt bình thản và phong thái trầm tĩnh của Trí Hải trong giây phút cực kỳ nghiêm trọng nầy khó ai lường được những gì đang chất chứa sau lớp chắn bên ngoài. Trí Hải ngồi nhìn bàn cờ với cái trí của một đấu thủ đã sẵn sàng nhưng với cái tâm của một gã lang thang bên cạnh người đốt than trong rừng.  "Đừng dính mắc!" lời nhắn vói sau cùng của gã tiều phu vẫn đang vang vọng trong tâm trí của Trí Hải. Không dính mắc với quá khứ, hiện tại và tương lai.  Không dính mắc giữa ta và người. Không dính mắc với thua và được.

            Khi người chưởng kỳ lên tiếng thông báo thủ tục bốc thăm tranh nước đi tiên.  Trí Hải ngỏ lời mời Hàn Kỳ Vương đi trước. Trong một ván cờ quyết đấu của các danh thủ xưa nay, người đi trước vừa có ưu thế khống chế cuộc cờ vì nhanh hơn một nước, vừa có cơ hội triển khai chiến thuật tấn công thần tốc ngay từ hồi khai cục. Bởi thế, quan điểm "tiên hạ thủ vi cường" thường được áp dụng triệt để trong cờ tướng để "tranh tiên".  Tranh tiên là giành trước một nước cờ.  Tranh tiên là chiến lược sinh tử của phép tiến công.  Nếu phải đi sau thì phải giành cho được "bình tiên", nghĩa là phải rán giữ cho được thế ngang ngửa, ngang nhau.  Các nhà chiến lược tranh cờ  gọi là "diệu thủ tranh tiên" vì tranh tiên có nhiều mưu kế, thủ đoạn:  Phối hợp để bắt quân địch. Thí quân để tranh cho được thế.  Có khi phải tàn sát quân phòng ngự để xâm nhập vào bản doanh bắt tướng chiến thuật và chiến� lược biến ảo khó lường với những chiêu thức tuyệt diệu.  Thế nhưng Trí Hải lại không một mảy may quan tâm đến thế tranh tiên.

            Ba hồi trống lệnh cáo với Trời; chín tiếng chiêng đồng tạ với đất.  Phường bát âm nổi lên trong giây lát rồi im bặt. Có tiếng hô của chưởng kỳ: "Xuất quân!"  Trận cờ bắt đầu. Hàn Kỳ Vương run run đặt tay lên quân cờ gia bảo mà suốt năm qua không tìm ra đối thủ để hành quân. Kỳ Vương nhìn trời lâm râm khấn vái, hít một hơi dài để thu hết tinh lực sông núi làm sức mạnh, nhíu mày chú mục, mím chặt môi đầy quyết đoán để đi quân cờ khai cục.  Có giọng nam của hai hộ kỳ phía Hàn Kỳ Vương hô lên đĩnh đạc:

            - Pháo 2 bình 5.

Một vài giây im lặng đợi chờ và giọng nữ hộ kỳ phía Trí Hải lại vang lên lảnh lót:

            - Mã 8 tấn 7.

Page 39: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 39

            Giọng nam lại vang lên hầu như tức khắc:

            - Mã 2 tấn 3.

            Nữ:

            - Xa 9 bình 8.

            Nam:

            - Xa 1 bình 2…

            Hàn Kỳ Vương thủ lợi việc đi trước, vận dụng khai cục loại hình tấn công gấp, tức là pháo đầu liên hoàn kẹp mã trực xa và hoành xa.

            Trí Hải đã nhìn thấy rõ chiến thuật tiến công của Kỳ Vương đến nước thứ 10 là phải dàn cho được kiểu trận Pháo đầu liên hoàn kẹp Mã. Hàn Kỳ Vương cố lèo lái cho toàn bộ cục diện đi vào bài bản của trận địa đã dàn ra như xông tốt đầu, tiến xe đè mã, nhảy mã đánh tượng, chuyển pháo thúc sát, phát huy cao độ uy lực hùng hậu của pháo đầu liên hoàn kẹp mã…

            "Hỏng!"

            Dư âm giọng nói đầy kiêu bạt của gã đốt than và cuộc đối thọai trong chiều chia tay lại vang lên: "Làm sao để khỏi hỏng? Tìm cái mới!  Cái mới từ đâu?  Từ trong cái cũ nhưng thoát ly cái cũ.  Bằng cách nào?  Đừng dính mắc!"

            "Đừng dính mắc!"  Kiếp người đã bị dính mắc và nhắm mắt từ trong bào thai cho đến khi nhắm mắt lần cuối cùng cũng vẫn còn bị dính mắc.  Tiếng nói xa xăm lại cuốn hút hồn Trí Hải.  Đến nước thứ năm, Trí Hải ngồi trơ như cái xác. Tiếng khánh báo hiệu giữa giờ, 50 khắc đã trôi qua, 50 giọt nước đỏ nhắc nhở Trí Hải phải tức khắc trở về với thực tại.  Một chút chao động trong lúc nầy cũng đủ làm lạnh cả linh hồn.  Hàn Kỳ Vương hơi băn khoăn nhìn Trí Hải thương hại.  Đã có bao nhiêu đấu thủ lạc hồn, bạt vía, hay ngất xỉu trước khi ván cờ kết thúc.  Lẽ nào một Trí Hải nổi danh của đất thần kinh lại yếu đuối đến thế sao?

            Hai tiếng khánh báo hiệu 90 khắc trôi qua.  Trí Hải bỗng sực tĩnh.  Chỉ còn mười giọt nữa.  Nhỏ xuống đi, ơi những giọt thời gian yêu dấu chết người!

Một giọt nữa. Giọt 91. Trí Hải cảm thấy cả tâm trí của mình đều bùng vỡ.  Một giọt nữa.  Giọt 92. Trí Hải thấy rõ cả khối suy tưởng của mình bứt hết biên cương và mở dài ra tới cõi mênh mông.  Một giọt nữa. Giọt 93.  Cả bàn cờ trước mắt hiện ra đầy sinh động như có cả vạn cuộc đời thu nhỏ lại giữa biển không gian và thời gian thành thau nước lạnh… Giọt 95 Trí Hải trở về ngay với thực tại và cấp tốc điều quân. Chỉ một đôi nước cờ biến ảo làm thay đổi thế cờ nhanh chóng.  Có những lúc Trí Hải mở lối cho những quân cờ tấn thối một cách đơn giản gần như bâng quơ.  Hàn Kỳ Vương kinh hoảng nhìn vào mắt Trí Hải nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì khác thường cả, nhưng tại sao lại đi một nước cờ rồi tiếp nối những nước cờ quá lạ lùng như thế.  Ngớ ngẩn thì không hẳn mà tuyệt chiêu lại càng vô lý.  Càng phản ứng, Hàn Kỳ Vương càng nao núng. Những tượng hùng, pháo tống, xe xuyên, mã tốc… đều như trốn biệt hay rình rập đâu đây để tung những đòn chí mạng. Trí Hải di chuyển những quân cờ theo một cách thế mà xưa nay trong các danh thư kỳ phổ chưa từng nghe nói đến.

Page 40: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 40

            Không bị giới hạn tầm mắt bởi biên giới của rào dậu bên nầy và hào lũy bên kia, cái nhìn của Trí Hải thoáng đạt và dàn trãi đến vô cùng. Khi tâm thức không còn bị đè nặng và buộc chặt vào những hệ lụy của bảng thang giá trị lẫn trong rêu mốc vì đã quá cũ càng, tầm nhìn sẽ bay cao ngoài bốn cõi.  Lúc đó sẽ như người đứng trên chóp núi Kim Phụng nhìn về đồng bằng kéo dài tận biển.  Những ao hồ, sông rạch, cây cối, nhà cửa , đền đài, lăng miếu… hiện ra rõ nét giống bức họa đồ thu gọn trong tầm mắt.  Có những quân cờ ở một vị thế vừa ẩn vừa hiện của một con hươu sao khôn ngoan nấp sau triền đá dốc.  Vị thế để tự vệ, sống còn và qui ẩn trong cuộc đời thường sẽ tương đương với những vị thế chiến lược trên bàn cờ.  Với cái tâm rỗng lặng và cái trí mênh mông, Trí Hải có được cái nhìn trí tuệ thiên thâu qua cuộc cờ đang diễn ra trước mắt.  Trí Hải như đang đồng cảm và giao hòa với những quân cờ "sống" của cả hai phía.

            Hàn Kỳ Vương quả thật là không hổ danh với vị trí "kỳ vương" mà người đời trao tặng.  Một nước đi có hơn mười "nước biến" theo sau.  Nhưng chiến lược tấn công thần tốc mang tính đối công quyết liệt của Hàn Kỳ Vương chưa vào đến trung cuộc đã từ từ chững lại.  Tài ba quán chúng đầy uy vũ của Kỳ Vương dựa vào một chuổi phản ứng có điều kiện.  Chiến thuật của Trí Hải là "vô môn quan", dựa vào tinh thần hóa giải để đỡ những đòn sấm sét làm cho đối phương như đánh vào khoảng không. Sức tấn công càng hung hãn, sự hụt hẫng càng quay cuồng chóng mặt.  Vẻ yên ắng trên bề mặt "tịnh nhi bất thối, động nhi bất tấn" tạo một phản ứng ngược cho những đòn vọng động. 

Hàn Kỳ Vương thuộc lòng châm ngôn của nghệ thuật đấu cờ là: Nhìn và đợi.   Nhìn diễn biến của trận thế và đợi sơ hở của đối phương để chớp thời cơ tiến công tranh thắng.  Địch lùi ta truy đuổi.  Thành trì phòng ngự chưa kín ta thúc quân vây hãm.  Địch bị vây bó tay ta tung hoành xung trận.  Trong binh thư của Tôn Tử có nhấn mạnh:  "Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng;  biết mình mà không biết người, một thắng một bại; không biết mình cũng chẳng biết người, trăm trận trăm bại."   Hàn Kỳ Vương bó tay không biết Trí Hải đang đi chiêu thức gì mà ông ta hoàn toàn không hiểu được.  Và sự hoang mang đột biến cũng làm cho Kỳ Vương không hiểu mình là ai và có được khả năng gì để ứng phó với một tình huống quá mới mẻ như vậy.

            Đi cờ mà bị động cũng như người xiếc đu dây:  Lắc lư, chao đảo, bất định.  Cả trăm lần thành công nhưng sự sẩy chân thất bại đột biến lại có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.  Đến nước thứ 32 của ván cờ đầu, Hàn Kỳ Vương ngồi yên bất động.  Một chiến trường vang rền xe ngựa biến đâu mất.  Cảnh tên bay đạn lạc chỉ còn gió lạnh trên sông.  Chốn gió tanh mưa máu lãng đãng mây mù.  Trí Hải đi thêm một nước nữa.  Hai đối thủ ngước lên nhìn nhau.  Hàn Kỳ Vương tròn mắt nhìn sửng Trí Hải.  Cờ hết nước. Một ván cờ hoà!

            Ván cờ thứ hai, Trí Hải đi tiên.  Hàn Kỳ Vương và mọi người nín thở chờ đợi.  Những danh thủ cờ tướng xưa nay vẫn dùng chiến thuật khai cục thuộc ba loại hình phổ biến nhất:  Loại hình tiến công, loại hình phòng thủ và loại hình đối công. Các kỳ thủ cao cấp vận dụng chiến thuật khai cục thường nắm vững yếu lĩnh và thông triệt tổng quan chiến lược của cả ván cờ.  Nước tiên giành được trong hồi khai cục sẽ được duy trì và phát huy đến trung cục, tàn cục và tiếp diễn cho đến thắng lợi sau cùng.

            Trí Hải xuất quân theo một thế trận hoàn toàn mới mẻ.  Ông mở rộng cửa thành nghênh đón quân của Hàn Kỳ Vương lẫm liệt tiến vào tấn công như vũ bão. Bằng những nước đi công, thủ tế nhị, tính toán kềm hãm và giữ chân để đưa quân

Page 41: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 41

của địch vào trùng vây mà không hung hãn tiêu diệt với sự khéo léo tuyệt diệu của thế bảo quân, trữ lực trong binh pháp "dẫn mà không phát, tích trữ sức lực để động mà không động".  Đến nước thứ 32.  Lại số 32!  Hàn Kỳ Vương chững lại.  Một tình huống chung cuộc hoàn toàn giống ván cờ thứ nhất lập lại:

            "Một chiến trường vang rền xe ngựa biến đâu mất.  Cảnh tên bay đạn lạc chỉ còn gió lạnh trên sông.  Chốn gió tanh mưa máu lãng đãng mây mù…" Hàn Kỳ Vương dốc toàn lực tiến công. Các chiến thuật nghi binh, chọc sườn, bọc hậu, xung kích trực diện… đều được tận dụng, nhưng thành quách và quân sĩ của Trí Hải vẫn an trú trong vị trí của mình, chỉ phản công khi tối cần thiết. Trung cuộc, sức tiến công của Hàn Kỳ Vương chững lại, rồi đứng yên.  Cờ không còn nước.  Lại thêm một ván cờ hoà!

            Tiếng reo hò cuồng nhiệt của phe Hoa kiều và phe người Việt chen chân bên bờ, trên bến, dưới thuyền từ từ im bặt với kết quả hai ván cờ hòa đã đi qua.

Khi ván cờ thứ ba và cũng là ván cờ quyết định sau cùng khai cuộc thì sự khích động của quần chúng lại cuồng lên.  Người ở xa, ao ước được nhìn tận mắt nét cảm xúc trên mỗi khuôn mặt của hai đại kiện tướng trong giây phút cập kỳ bên bờ vực.   Thế nhưng người ở gần lại thất vọng và lấy làm lạ khi nhìn Trí Hải với vẻ mặt thản nhiên và lặng lẽ chẳng khác gì ngày thường khi uống một ly trà buổi sáng.   Cuộc cờ trước mắt không đủ bề thế chinh phục để lay động người đàn ông nầy hay ông ta là hiện thân cho sự trơ vơ của một hòn đá núi vững chãi.  Mưa bão vô thường dập vùi trên đá đến và đi không lưu dấu vết.  Hàn Kỳ Vương cũng cố giữ bản lĩnh thao lược của mình với khuôn mặt nghiêm trọng, trầm tĩnh, nhưng những đường gân trên tay, trên mặt căng phồng; những đường nhăn trên trán loang loáng mồ hôi phản chiếu qua ánh đèn màu trong gió lạnh cuối mùa thu là tấm gương chiếu rọi cái tâm đang dấy động.  Hai ván cờ hòa với những thế cờ kỳ lạ đến độ nghịch lý của Trí Hải làm Kỳ Vương nao núng và bồn chồn khi ra quân khai cục cho ván cờ định mệnh cuối cùng nầy.  Hàn Kỳ Vương thừa tinh tế để nhận thấy Trí Hải đã làm chủ tình thế trong cả hai ván cờ hòa. Trí Hải như đã nắm hết nội tình và lộ trình chuyển quân của cả đôi bên, có thể triệt đường, chắn lối đối phương bất cứ khi nào muốn, nhưng vẫn đóng vai của kẻ đứng ngoài.

            Ván cờ chót không diễn ra quyết liệt và gay cấn như mọi người ước đoán.  Kỳ thủ mỗi bên đều lắng sâu vào vùng chiến lược của mình.  Đêm xuống chỉ còn ánh đèn ngũ sắc.  Những quân cờ càng rực lên ánh sáng chói lòa.  Mỗi mảnh sáng có một điệu múa lân tinh riêng làm cho người không quen chóng mặt.  Hàn Kỳ Vương vui sướng cảm tạ hồng ân của dòng dõi Hàn gia đã gìn giữ được bộ cờ gia bảo có một không hai trên trần gian nầy.  Trí Hải đăm đăm nhìn những quân cờ "lên nước". Những màu sắc huy hoàng dữ dội của đội "kỳ quân" chinh phục nầy nhắc Trí Hải nhớ đến những chuyến viếng thăm đấu trường La Mã ở nước Ý Đại Lợi trong những năm theo hoàng tử Cảnh ở Âu Châu.  Sự tàn bạo ẩn mặt dưới màu sắc và danh nghĩa từ Đông sang Tây đều độc ác như nhau.     Những lưỡi kiếm bọc trong bao ngà và những cuộc chém giết có nghi thức thường dùng xương máu và mạng sống của con người không quan trọng hơn những nhánh hoa trang trí.   Bộ cờ tinh huyết thạch của Hàn gia đã tạo ra biết bao nhiêu đau đớn, tủi nhục và oan khiên cho những kẻ chiến bại trong suốt cả chiều dài lịch sử chinh phục của nó.  Dù chỉ là một phương tiện, nhưng làm gì có phương tiện nhân ái để đạt đến một cứu cánh tiêu diệt địch thủ.  Có vó ngựa Mông Cổ nào mà không dày xéo lên thân phận của con người trên đường chinh phục. Trước mắt Trí Hải, những quân cờ bóng lộn là những con yêu tinh dùng bã phù hoa để hãm hại con người.  Làm chủ bộ cờ là làm chủ động yêu tinh.  Bộ cờ hiện ra như một sự thách đố của tội ác. Dù ai làm chủ đi nữa thì bản

Page 42: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 42

chất của tội ác cũng không thể cải hóa thành thánh thiện được. Với Trí Hải, thắng hay thua trong cuộc cờ nầy không còn là vấn đề then chốt, mà vấn đề then chốt là phải bẻ gãy phương tiện của tội ác trước đã.

            Hàn Kỳ Vương quan sát và thoáng ngạc nhiên khi nhìn thấy vẻ mặt khoan hòa của Trí Hải từ từ đanh lại.  Trí Hải mở miệng.  Mọi người ngạc nhiên chăm chú theo dõi vì người nầy chưa mở miệng trong gần suốt cả ba ván cờ:

            - Dù ta có chấp Hàn gia một ngựa thì chắc chắn chín nước nữa ta cũng sẽ thắng và đương nhiên làm chủ bộ cờ nầy!

            Giọng Trí Hải trầm xuống như nói một lời nguyện trên sông:

            - Đáng vứt đi, đồ vô dụng!

            Hàn Kỳ Vương hét lên thất thanh:

            - Đư…ừ…ng!

            Nhưng đã muộn. Trí Hải đã vung tay cầm quân mã ném tung ra ngoài dòng sông Hương với nước nguồn đầu mùa đục ngầu đang cuồn cuộn chảy.

Sự nhốn nháo lên tới cực điểm. Nhóm vệ sĩ của Hàn Kỳ Vương đứng vây quanh bàn cờ. Nhóm chưởng kỳ, hộ kỳ, giám kỳ rời chỗ. Nhưng bỗng đâu có tiết thét lanh lảnh vang lên làm mọi người chững lại.  Đó là tiếng Phạm Xảo:

            - Đứng yên!

            Tất cả vốn liếng hơi sức của một đời khổ luyện và làm tướng dồn tụ cả lại trong phút nầy. Ông lão cầm cây chèo bằng gỗ kiền kiền và bẻ gãy làm ba mảnh.   Ông cầm mảnh lưỡi chèo dài ngoẵng loáng nước như thủ đại đao trong tay. Dáng cao lớn, sức lực công phá ghê hồn và giọng nói đầy trấn áp làm mọi người bị chế ngự một cách tự nhiên.

Một phản ứng cấp thời bất ngờ đến từ Hàng Kỳ Vương.  Vương đứng dậy, râu tóc bạt gió như dựng ngược cả lên, tiếng la vang rền mà gần như nghẹn lại trong cổ họng:

            - Được!  Rồi đây nếu cần…!  Nếu cần phải tát cạn sông Hương, mò biển Nam Hải để tìm lại cho ra con cờ đã mất cũng phải làm. Ha! Ha…!  Bộ cờ tinh huyết thạch quý nhưng danh giá dòng họ nhà ta còn quý gấp vạn lần hơn thế!   Danh dự sẽ được xác định công minh ngay trên bàn cờ. Đánh!  Nào!  Đến phiên hoàng thân! Đi… đi tiếp!

Trí Hải đã đánh trúng "điểm tử" của Hàn Kỳ Vương.

            Thủ pháp ra quân trên bàn cờ là một sự phối hợp hài hòa giữa tâm và trí. Tâm loạn kéo theo trí đoản.  Những nước cờ lúc tấn kích điên cuồng, lúc sững sờ chới với, chứng tỏ Kỳ Vương đang sống qua những giây phút ngập ngụa giữa trăm ngàn thác loạn.

Đến nước thứ tám sau vụ "chấp xe", Trí Hải báo động bằng một giọng bình thản:

Page 43: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 43

            - Xin Hàn gia cẩn thận, chỉ còn một nước nữa thôi là ván cờ kết thúc.

Hàn Kỳ Vương quay quắt như ngồi trên lửa. Cờ đối phương dàn quân trùng trùng không có khe hở.  Tiếng khánh báo hiệu sắp hết giờ cuối nước về phía Hàn Kỳ Vương lại vang lên.  Cố vươn bàn tay run rẩy đi một nước cuối cùng trong tuyệt vọng, Hàn Kỳ Vương nói bàng hoàng như trong mơ:

- Ho…ò… a?!

Trí Hải lịch thiệp nhưng cương quyết và lạnh lùng:

            - Trước sau đều bị bao vây, bốn mặt đều đối đầu với địch, lấy gì để hòa?!

Hàn Kỳ Vương ngớ người nhìn sâu vào thế cờ của mình đang bị chiếu tướng với trùng vây khóa chặt. Một nước thoát cũng không còn, viện binh cắt đứt, quân của Trí Hải siết chặt  gọng kềm  công thành đả tướng. Hết! Hàn Kỳ Vương điên cuồng trong chiến bại, đấm tay vào ngực, gục đầu lên bàn cờ, rồi đội bàn cờ lên đầu, những quân cờ rơi lảnh cảnh.  Vương nói lầm bầm mà nghe như tiếng rên xiết: "Cúc cung muôn lạy Hàn gia tiên tổ xin rủ lòng nhân tha tội.  Kẻ hậu duệ nầy bất tài, bạc đức đã không giữ nổi bộ cờ gia bảo. Thật đáng tội chết…" Rồi một thoáng qua trong nháy mắt, Hàn Kỳ Vương ôm bàn cờ lao xuống sông.  Nước nguồn đêm tối đen ngòm, cuồn cuộn chảy xuôi về biển.  Có tiếng người phóng theo trước khi tiếng la hét thất thanh nổi lên. Riêng đám vệ sĩ của Kỳ Vương vẫn còn đủ mặt.  Cả dòng sông nước lũ ầm ầm thôi thúc, dòng chảy cuồng lãng vẫn ngậm miệng phăng phăng trôi đi trong đêm tối.

            Điểm lại, có hai người bị nước cuốn đi.  Một tự trầm mình và một bị mất tích lúc nào không ai hay, đó là Hàn Kỳ Vương và Phạm Xảo.

            Trên dòng sông Hương vắng lặng, người ta nhìn màu xanh của tiếng ngựa xe.  Âm thanh có một màu nhớ rất nguyên sơ, buồn và dịu dàng vọng âm từ quá khứ…

 

                                                                       Trần Kiêm Đoàn

                                                           (Trích Chương V của truyện dài TU BỤI)

Chuyện 5:

Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp

Em qua không kịp tội lắm anh ơi

 Thà rằng không biết thì thôi

 Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn 

(Hò ru em của Huế)

Ngày đó (Kỳ 1)14:27' 29/12/2004 (GMT+7)

Page 44: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 44

(NetCodo) "Lịch sử thế giới có nhiều ngọn lửa nhưng chỉ có hai ngọn lửa nghịch chiều nhau là lửa... bếp và lửa tình" - tác giả đã viết như vậy trong "Ngày đó". NetCodo lại đọc thấy trong từng câu chữ Trần Kiêm Đoàn một thứ lửa khác: lửa nhớ Huế ngày xưa...

(Viết cho một dòng sông nhớ nguồn và cho những cây thông ngày đó nay đã thành rừng kỷ niệm)

Khác với Vi Cố ngày xưa có ông Tơ hồng Nguyệt lão xe duyên với cô bé hàng xóm, ngày nay tôi được mấy gã Ngưu lang trên đồi thông Từ Hiếu “vô duyên” chiếu cố. Trong cuộc hẹn hò đầu tiên để mở trang tình sử với cô em Đông Ba, mấy chàng mục tử đã “ác nhơn” mở bánh xe trước, cùng mượn tạm cái đèn pha và cục “dynamo” từ chiếc xe đạp mà cô em vừa mới mượn của Ba.

Hình như Huế là nơi không có chuyện tình lãng mạn và sướt mướt kiểu Romeo và Juliette vì khi chàng Romeo chưa men theo được bờ tường, dù trong nhà Juliette chưa rõ thì ngoài ngõ cũng đã hay rồi. Bởi vậy, sau biến cố đồi Từ Hiếu thì chuyện tình Đông Ba đi qua một khúc ngoẹo khác. Cô em Đông Ba đã để lộ bí mật “có bồ”, nên lập tức bị phong tỏa. Các bà mẹ Huế ở gần Tử Cấm Thành nên cũng chịu hơi hưởng ít nhiều của nội phủ mà giữ con gái mình một cách cẩn mật như thái giám giữ cung phi!  Sáng em đi học có anh trai đi kèm, trưa về có ba hộ tống và cuối tuần thì ra chợ Đông Ba coi hàng giúp mạ. Có lẽ nhờ vậy mà các nàng con gái Huế tuy không học kinh Dịch nhưng rất thuộc lòng nguyên lý “cùng tắc biến, biến tắc thông...”.

Nhân vật làm phép biến hóa trong câu chuyện tình Đông Ba là o Thiệt giúp việc không biết lấy một chữ mô tê làm thuốc. O tình nguyện làm công việc chim xanh với tinh thần năng nỗ và đam mê như chính mình đang nhập cuộc. Cô em Đông Ba và tôi viết thư cho nhau “dày” đến mức o Thiệt phải lên tiếng, “Viết sưa sưa cho tui thở với!”. Sau gần một tháng, cuốn tập vở ca-rô 200 trang hiệu “Cyclo Máy” của tôi gần sạch láng. Để bù trừ cho sự xa mặt mà chẳng cách lòng, lời lẽ trong thư đủ mùi vị ngọt ngào pha chút chua chua, chát chát, công thêm phần… nhỏng nhẽo. Chạy chưa giáp vòng con đường tình sử, phía Đông Ba bỗng cảm thấy mình “hư”! Cô em viết: “Em hư quá, dạo nầy làm bài tập ở nhà cứ trật lên trật xuống hoài. Lòng dặn lòng là cứ 3 ngày mới viết thư một lần, chừ thành ra viết 3 lần một ngày...”. Tôi cũng chẳng hơn gì, nhưng phải ráng ra uy tập làm “cao thủ”, bèn khuyên: “Thì cứ để dành viết mỗi tuần một lần cũng được. Cũng hơi buồn đó nhưng ráng đi rồi sẽ quen. Học đi nhé. Ngoan!”. Ai dè gậy ông đập lưng ông. Em tức mình làm thiệt. Vắng thư đến ngày thứ ba, tôi bắt đầu lên cơn sốt, nhưng với tinh thần nam nhi đại trượng phu - đánh Tây bằng trái mù u - của Huế dễ mấy ai chịu vạch áo cho người xem lưng nên tôi viết “mánh” hỏi bâng quơ để mong được trả lời: “Nhà chú Út số mấy, quên rồi! Cần biết gấp để gửi thư. Giỏi, học đi!”. Chờ mõi mắt đến gần một ngày trời tôi mới được hồi âm. Lần nầy không phải là thư mà là “thơ”... tứ tuyệt song ngữ, rất chi là TTKH:

Người ấy thường hay bảo: “học bài”Học hoài, học hủy, học gần “die”Xi-nê, nhạc kịch không xem nữaThư từ, viết lách cũng gần “bye”

Nghe tối hậu “thơ” cũng gần “bye”, tôi hơi ớn lạnh, bèn cất giọng trần tình, viết lại:

Page 45: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 45

Người ta khuyên học có gì saiChỉ cần làm chủ được “your mind”

Học xong xem tiếp ai mà cấmThôi được, khi nào ưa cứ “write”

Một số nhà văn viết về Trần Kiêm Đoàn:

"Những trang viết của Trần Kiêm Đoàn có khi là tùy bút, hồi ức, có khi là biên khảo... không những lay động lòng người xa Huế mà cả người đọc ở quê nhà. Anh có những tùy bút thật tài hoa và nặng lòng với Huế như Màu Quan San, Mưa Huế, Sen Hồ Tịnh, Mưa Nắng Nam Ai, Cầu Trường Tiền Sáu Vài Mười Hai Nhịp..., những hồi ức thật có duyên như Ngày Đó, Con Yêu Bánh Nậm...".

TRẦN HỮU LỤC ( Nhớ Huế,Việt Nam)

"... Đây là nơi bộc lộ cái tài, đồng thời cũng là cái tâm, của tác giả. Trần Kiêm Đoàn kể chuyện tươi tắn, ý nhị lắm. Và rất Huế ở chỗ luôn luôn có ẩn một chút cười cợt làm cho câu chuyện mặn mòi như thức ăn có nêm mắm ruốc. Rất nhiều đoạn văn là những tùy bút tuyệt hay. Nhiều “chuyện khảo” có khuynh hướng biến thành truyện ngắn thâm trầm sâu sắc."

PHẠM XUÂN ĐÀI (Thế Kỷ 21, Mỹ)

Lịch sử thế giới có nhiều ngọn lửa nhưng chỉ có hai ngọn lửa nghịch chiều nhau là lửa... bếp và lửa tình: Lửa bếp thì dễ bốc cháy khi đói lòng nhưng cũng dễ lụi tàn khi nồi cơm đã chín. Nó bừng lên đều đặn mỗi ngày trong tiếng sôi song sanh theo những giờ nấu nướng qua mau rồi tắt ngấm khi xong việc. Nhưng lửa tình là lửa “tam muội”. Nó âm ỉ, vô hình, lung linh, sưởi ấm và luân lưu từ thuở hồng hoang cho đến ngày tận thế. Bởi vậy, tôi và cô em Đông Ba càng không gặp mặt. càng thấy rõ hơn ngọn lửa trong lòng mình. Có lần tôi tẩn mẩn làm... thơ: “Khi không gặp là khi nhìn rõ nhất. Chưa chấm hết dòng nỗi nhớ đã thành hai”. Cô em liền hiên ngang trở thành nhà phê bình văn học “trái ấu” liền. Rằng là: “Văn chi, thơ chi anh làm giờ cũng hay nhất thế giới cả, vì anh là trái ấu của em rồi!”. Không lẽ trong văn chương nghệ thuật mà cũng bị méo tròn theo cảm tính “Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo” đến thế sao?!

Dưới ánh sáng mặt trời chỉ có một điều bí mật là tại sao không có gì bí mật cả. O Thiệt là chim xanh đã ngã màu thành trắng thì cũng là chuyện đời thường, vì o cũng muốn nếm những trái cấm trong tay o nó đắng ngọt ra làm sao mà những kẻ đam mê cứ đuổi bắt hoài một cách tận tình không mõi mệt. Cô em và tôi đã khám phá ra trò “ăn vụng trái cấm” của o Thiệt vì những nét mực nhòe và dấu rách giành giựt trên mấy tờ thư về sau nầy. Những dòng thư vội vàng tưởng như chỉ có một thế giới riêng giữa hai đứa, không ngờ lại được o Thiệt và những người trẻ tuổi trong xóm chiếu cố nhiệt tình đến độ chuyền tay nhau để chép!

Chuyện tình Đông Ba lại chuyển qua một khúc ngoẹo thứ hai. Chưa phải là đoạn cuối cuộc tình của Hồ Dzếnh “Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”! Nhưng cung nhạc dạo dưới màn đang chuyển điệu dập dồn hay lơi lã những nốt cuối cùng để nhường sân khấu lại cho gã kéo màn, người nghệ sĩ, và ánh đèn màu.

(Còn nữa)

Trần Kiêm Đoàn

Page 46: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 46

Văn hoá những chiếc cầu

Có một khái niệm tưởng như gần gũi và đơn thuần nhưng lại rất xa vời và trừu tượng, đó là khái niệm về Văn Hóa.  Thời nhỏ, tôi thường nghe giới đàn anh hỏi thăm  „Trình độ văn hóa“ của một người bằng cách đem chữ nghĩa thánh hiền ra đo, như  „trình độ văn hóa:  Mù chữ, trung học, tiểu học, đại học...“.  Lớn lên, tôi mới khám phá ra điều thú vị rằng:  A thì ra!  Việt Nam ta là nơi duy nhất trong vũ trụ có „trình độ văn hóa mù chữ“! Thế mà mấy bác Tây học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh lại phán: „Văn: Là vẻ đẹp, vẻ sáng...“.  Mù chữ mà lại đòi đẹp và sáng thì cũng như đêm ba mươi tối hù, dẫu Văn có đi mòn trăm đôi guốc gỗ cũng khó lòng mà Hóa được thành… trăng. 

 Trong khái niệm Đông Phương, văn hóa tiềm ẩn một vẻ đẹp mơ hồ và một thiên năng cao cả, thì Tây Phương thực tế hơn, văn hóa là cách thể hiện kinh nghiệm sống.  Nhất là Mỹ, những nhà hoạt động văn hóa đã đập vỡ và vun quén lại khái niệm văn hoá cổ điển từ thời tiền Victoria để đưa văn hóa xuống đường.  Nhiều khái niệm văn hóa ra đời đến nỗi chẳng ai còn thấy „chướng“ trước những khái niệm „văn hóa bên lề“ (subculture) như văn hóa của giới đồng tính luyến ái, văn hoá những người sống vô gia cư, văn hóa giới nghệ sĩ, văn hóa giới quyền quý tiếng tăm, văn hóa vùng thường xuyên bị động đất, văn hóa khu cao ốc chọc trời...

Đi từ những bước nghênh ngang cao chênh vênh trong khái niệm „Văn Hóa Cao Sang“ (High Cuture) của Matthew Arnold (1869) đến dáng là đà trong mớ hành lý bụi đời „Văn Hoá Bình Dân“ (Ordinary Culture) của Raymond Williams (1958), tôi bỗng hứng chí nhớ về và dừng lại bên những chiếc cầu từ thuở cây đa bến cũ rồi tự hỏi: „Có chăng Văn Hóa Những Chiếc Cầu?“.   Rồi cũng hồn nhiên như anh Xã Xệ tin mặt trăng làng ta là sáng nhất, tôi trả lời rằng, „Có!“.   Tôi tin là mỗi chiếc cầu đều có một dòng đời, một lịch sử, một nếp sinh hoạt tương tự như một dáng vẻ, một kiểu cách văn hóa riêng.  Những chiếc cầu khỉ đã nằm vắt qua suốt chiều dài của lịch sử.  Rồi cầu tre (Anh thương em mấy nhịp cầu tre), cầu ván, cầu ao (Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi) .  Cho đến cầu phao, cầu nổi, cầu sắt, cầu đá, cầu xi-măng, cầu chuồi, cầu gác, cầu treo... đã ghi dấu bao nhiêu thế hệ lịch sử, văn hóa.

Thuở còn bé ở quê nhà, mỗi chiếc cầu từ đầu làng đến cuối xóm đều gợi cho tôi một thế giới riêng tư nho nhỏ.  Như Cầu Lừ, chiếc cầu khỉ èo ọp bằng tre đã chứng kiến bao nhiêu là tai biến của dân làng.  Cầu Vượn, cầu Banh một đời chở đầy những mùa trăng lúa mới.  Những chiếc cầu Việt Nam quản chi khó nhọc để quặn mình nối hai bờ anh em hay thù nghịch.  Có những chiếc cầu nằm xuôi mái lặng lẽ mà sao đứng nhìn, tôi lại có cảm giác như mỗi thanh sắt vô tri và chiếc bù loon đang run lên bần bật.  Đó là cảm giác thuở học trò được thầy giáo dắt ra thăm cầu Bến Hải nối liền - mà chia cắt - hai bờ sông Hiền Lương soi bóng hai màu cầu... lạnh lùng, rờn rợn.  Cầu không dắt ta đi mà cũng chẳng đưa ta về.  Có khi đi thì còn, mà về lại mất.  Mất khi trở về có nghĩa là đi không bao giờ trở lại.

Khái niệm văn hóa những chiếc cầu lớn hẳn trong lòng tôi như một niềm thâm tín khi mùa Hè năm 2000 tôi ngỡ ngàng qua nhánh Tiền Giang sông Cửu Long bằng chiếc cầu treo „Bắc“ Mỹ Thuận.  Có lẽ cả nước đều mang chút tâm trạng ngỡ ngàng như thế khi đối diện với chiếc cầu treo tân kỳ mở màn đi vào thế kỷ 21 với nỗi lòng Tú Xương:  „Đêm nghe tiếng ếch bên tai; giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!“ Nhìn từ xa, tôi bỗng thấy cây cầu giống như cây đàn 128 sợi dây, một cây đàn đầy biểu

Page 47: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 47

tượng cho ngón đàn tài tử của dân Nam bộ.  Đứng trên chiếc cầu lộng gió dài gần hai cây số với hai trụ tháp cao vút, khách vẫn còn mường tượng nghe tiếng máy phà mới hôm nào đây còn khò khè cuộn nước.  Mùi nắng gió và phù sa lồng lộng thổi qua cầu vẫn chưa làm ai quên được mùi chim mía nướng than, mùi những xách hàng rong đủ vị và và khối âm thanh không tên tuổi nhưng thật thân quen trên bến phà thuở nọ.  Chiếc cầu mới đang khởi sự một nguồn sống mới.  Tôi cảm nhận được rằng, dù con người có muốn hay không, cây cầu với ngôn ngữ văn hóa lặng thinh hay lao xao riêng một cõi, vẫn đang tự nó ghi những dòng đầu của cuốn sử đời mình... như chuyện chiếc cầu trên sông Drina, trường ca cầu sông Kwai đã trở thành bất tử.

 Tôi đã đi qua những chiếc cầu xa xứ với cái nhìn hiếu kỳ của người du khách và với một cảm giác thán phục bàn tay và khối óc tuyệt hảo của con người.  Nhưng giữa cầu và tôi vẫn là hai thế giới, đi về không một chút vấn vương.  Như hình ảnh nhà quý tộc cổ kính đi xe song mã, chiếc cầu treo của thế kỷ 20 là con đẻ của nền văn hóa cao ốc chọc trời.

  Những chiếc cầu vang bóng như Golden Gate Bridge, Bay Bridge, Brooklyn... của Mỹ đều vươn những vài cầu cao vút tới những vùng giàu sang như San Francisco, Manhattan.  Cầu Mirabeau của Pháp bắt qua dòng sông Seine soi bóng tháp Eiffel uy nghi mà kiêu sa giữa lòng kinh thành Ba Lê ánh sáng.  Cầu Mỹ Thuận - chiếc cầu treo trẻ nhất của thế kỷ nầy- đã được thai nghén và hình thành trong một bối cảnh văn hóa khác hẳn với những chiếc cầu kia.  Chiếc cầu đã vươn mình qua sông phù sa vạn lý như con rồng chín khúc uốn mình từ Tây Tạng về tới biển Đông.  Dòng sông vẫn còn nguyên nét sơ khai.  Tôi qua cầu với tâm trạng đi vào cửa ngõ ngày mai của đồng bằng sông Cửu Long đang còn ngủ say trong màu xanh phủ hết chân trời của ruộng lúa, bóng dừa, vườn cây, kinh rạch và điệu lý qua cầu.  Dáng nổi bật của cây cầu giữa một vùng mênh mông làm cho cây cầu chưa thuần với dòng sông mà gợi lên một cảm giác thách thức.  Đó là một cảm giác mạnh mà du khách thường nhắc tới khi đi qua cầu Akashi Kaikyo, chiếc cầu treo dài nhất thế giới - gấp ba lần cầu Mỹ Thuận - của Nhật bắc qua eo biển Akashi.  Nhưng sự thách thức của cầu Akashi là những luồng sóng dữ, là sự đối mặt với cái uy vũ tàn bạo của thiên nhiên.   Còn sự thách thức của cầu treo Mỹ Thuận là sức bật khai phá của con người tương lai trên lối vào thế kỷ.

Từ khi chưa có bóng người trên trái đất thì đã có hàng vạn dòng sông.  Và lịch sử con người lớn lên với những cây cầu cho bớt ngăn sông cách núi.  Nhưng có được bao nhiêu dòng sông thuộc về một vùng đất ở và có được bao nhiêu chiếc cầu thuộc về một dòng sông trôi.  Chiếc cầu chỉ thuộc về dòng sông khi nào cầu không chỉ là phương tiện để vượt qua sông mà cầu chở lòng người đến với dòng sông.  Hơn 2000 năm, cầu Luân Đôn trên sông Thames; 500 năm, cầu Mirabeau trên sông Seine; và 100 năm cầu Trường Tiền trên sông Hương không chỉ đưa chân người qua cầu mà còn đưa lòng người trôi chảy dưới dòng sông.  Nguyễn Du, trong mắt nhìn Đông Phương, thấy cây cầu như là điểm hẹn của thiên nhiên, „Dưới cầu nước chảy trong veo, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha“, mà Appolinaire, trong cảm nhận đầy đam mê với chút váng vất siêu thực Tây Phương thì thấy cây cầu trăm năm vẫn đứng đó nhưng bóng nó là khởi điểm của từ ly: „Dưới cầu Mirabeau, sông Seine thầm lặng chảy. Tình chúng ta đi mãi, vui với sầu theo nhau.“

Có đứng trên những chiếc cầu với lịch sử hàng trăm năm của thế giới, mới cảm nhận hết hình ảnh đan thanh, xa vắng „em qua không kịp tội lắm anh ơi…“ và khái niệm cầu soi bóng nước của Trường Tiền.  Hình ảnh một chiếc cầu phải ngắm từ nhiều góc độ và trong những thời điểm ngày đêm khác nhau để cho thiên nhiên góp

Page 48: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 48

phần sáng tạo nét đẹp của cây cầu.  Tôi đã qua lại cầu sông Thames ở Luân Đôn.  Chiếc cầu chạm trổ như một lâu đài La Mã đúng với cái tên Tower Bridge (Cầu Tháp). Nhưng khách trông cầu chỉ thấy được những đường nét vuơng giả, kiêu kỳ của chiếc cầu với giòng sông Thames  đục ngầu bên dưới.  Tôi không có một cảm xúc nào khi đứng trên chiếc cầu cứng đơ, chìm khuất trong khung cảnh của những lâu đài chạm trổ.  Tôi đã cố đến tìm chiếc cầu Mirabeau man mác trong thơ Appolinaire trên bờ sông Seine của Paris lúc về đêm, nhưng chỉ thấy một chiếc cầu vạm vỡ, lãng quên trong hằng trăm chiếc cầu trên sông Seine. Và trong ánh sáng ban ngày chiếc cầu lại trông càng trơ trụi với bức tượng mỹ nhân bên dưới ngước lên như một nỗi buồn vô vọng.  Tôi cố đừng suy nghĩ chủ quan hay mang một thiên kiến bảo thủ để so sánh, rồi tự phong cho cầu Trường Tiền là đẹp, là nên thơ.  Nhưng tôi không thể dừng lại được khi trong mắt nhìn và cảm xúc của tôi, cầu Trường Tiền thật sự có một linh hồn hòa điệu với giòng sông, thiên nhiên và con người đơn sơ qua về nơi khung cảnh ấy.

Tôi lớn lên ở Huế.

Rồi bỏ Huế mà đi.

Hành lý một đời để dành với Huế mà tôi mang theo cũng có thể là cả một gia tài mang đi không hết, mà cũng có thể chỉ là một búp sen đầu mùa mới nhú lên mà vì thương màu hồng ngây thơ quá, tôi không nở hái mang theo. Xa Huế, tôi đã mang màu tím trong không gian Huế buổi chiều, mang mùi trầm hương từ mấy trăm ngôi chùa cổ, mang tiếng chuông công phu trong đêm khuya, mang rong rêu của dòng sông có những bến đò áo trắng mà đi. Mớ hành lý đó cần một chiếc va-li không giới hạn để đựng.  Chiếc va-li không khóa, là trái tim vô ngã của Huế, là chiếc cầu Trường Tiền màu nhũ bạc trên dòng sông Hương.

 

Chiếc Cầu trong tâm ảnh

 

Châu Thuận Hóa là ốc đảo của thiên nhiên Việt Nam suốt cả một thời quá khứ. Huế cách trở trong lòng người xứ Bắc - Thương em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang - Và xa xôi lạ lùng quá đỗi với người phương Nam - Đi bộ thì khiếp Hải Vân, đi thủy thì khiếp sóng thần Hang Dơi. Thiên nhiên thuở nọ đã bắt Huế nằm im gối đầu Trường Sơn, co chân trên dãi đất hẹp giáp biển Đông như những dòng sông bị cản chiều dài, cách trở chiều rộng, nên phải chảy vào bề sâu mà về lại trong lòng.  Bởi vậy cái đẹp của Huế là cái đẹp mang vẻ trầm lặng và cô tịch.  Cái nên thơ của Huế là vẻ nên thơ trong mắt nai rừng lúc hoàng hôn:  Vời vợi, hồn nhiên nhưng cũng trang đài và huyền hoặc.  Dường như người Huế nhìn về quê người thì thấy thấp thoáng bóng tương lai, mà nhìn về quê mình thì chỉ thấy toàn quá khứ.   Phải chăng vì thế mà người Huế thành người tù chung thân của quá khứ, thành kẻ hành hương quanh miếu đền kỷ niệm, những kỷ niệm thuộc về một thời „mô tê“ lãng đãng như ca dao. 

            Huế có một dòng sông và một chiếc cầu như ảo ảnh, đó là dòng sông Hương đã trở thành dòng thời gian và chiếc cầu Trường Tiền là bến đò của dĩ vãng.   Dòng thời gian vẫn luân lưu trôi chảy nhưng không già.  Thời gian sẽ đẩy lùi quá khứ để mà quên và kéo dĩ vãng trở về để mà nhớ.  Mỗi năm, khi mùa Thu về, dòng sông ấy vẫn xanh; vẫn trôi chảy âm thầm dưới chiếc cầu cong sáu nhịp có nét e ấp tròn trăng

Page 49: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 49

đầy duyên dáng.  Dòng sông và chiếc cầu vẫn còn trẻ mãi mà những hàng cây hai bên đường lại ngã màu.  Thời gian cũng có nét buồn riêng của nó.  Với Huế, nét buồn của thời gian là vết chân chim trên khóe mắt cười đã hết long lanh của cô học trò Đồng Khánh một thời áo trắng.

                                                                   

oOo

 

            Một sớm mùa Hè năm 1954, sau khi rời bến xe Nguyễn Hoàng, tôi theo mẹ về chợ Đông Ba.  Một sớm mai trên hè phố Huế, được ngồi bệt trên chiếc mũ đệm bên gánh cháo lòng un khói và được ăn một tô cháo nóng hổi đã đời là cả một niềm hạnh phúc lớn lao mà rất ít đứa trẻ ở làng cùng lứa như tôi có được.   Mùa Hè, mới nắng mai đã gắt.  Vị cay và sức nóng bên trong của tô cháo lòng, bên ngoài của nắng làm tôi ngầy ngật như say.  Tôi chạy lúp xúp theo mẹ qua cầu mà chẳng thấy được gì vì mồ hôi đổ dầm như tắm.  Đến giữa cầu, cơn gió qua sông mát lạnh.  Tôi không cần đưa tay áo quệt mồ hôi mà mắt mũi, mặt mày vẫn ráo hoảnh.  Tôi ngước nhìn quanh.  Cao vút trên đầu tôi là đường cong trắng vàng rực rỡ như thềm núi Trường Sơn có cầu vồng ra ăn mưa.  Trước vẻ ngỡ ngàng của thằng con trai út chưa ra khỏi mấy lũy tre làng, mẹ tôi chợt nhớ ra và lên tiếng:

-  Cầu Trường Tiền!

Cả một cơn sóng ký ức dội về.  Tôi đã quen lắm từ bao nhiêu năm qua tiếng khóc trẻ thơ dịu dần trong tiếng hò ru em, vang lên ấm dịu, ngọt ngào từ xóm trên về xóm dưới.  Hình như tôi đã biết sâu lắm rồi mà vẫn hỏi.  Hỏi như để khẳng định một tình yêu đang có mặt, nhưng cũng rất xa xôi:

- Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp đây phải không mạ hè?

            Mẹ tôi thật vô tình.  Mẹ không chia sẻ luồng gió mới đang mở phăng cánh cửa lòng tôi, nên mẹ đã nói bằng ngôn ngữ thản nhiên, làm như tôi cũng đã có hơn nửa đời người quen thuộc với chiếc cầu nầy như mẹ.  Không, tôi có riêng đôi mắt bình minh của trẻ thơ để khám phá ra „cái ông cầu“ uy nghi vươn tay dài sáu khúc để nối liền bờ bên nớ bên ni.  Tôi như một người nghèo cháy túi vì không tìm ra được chút vốn liếng kinh nghiệm nào ở làng để so sánh với cả một thế giới lạ lùng, đồ sộ, xinh đẹp, cao sang, nhưng cũng mang vẻ ngự trị và bí ẩn chứa trong từng mảnh nhỏ của „ông“ cầu.  Tôi mơ hồ liên tưởng tới đường cong như cánh cung của cặp rồng uốn lượn trên nóc đình làng để ví với dáng cong cong thon thả của những vài cầu lên xuống.  Vài cầu đang ngự trên cao chót vót tận đọt tre lá ngà gần mây trắng, thấp dần xuống để soi mình trên sông và từ từ vút cong lên trở lại.  Tôi đếm thầm những cây quạt trắng khổng lồ mình đã đi qua:  Một, hai, ba, bốn, năm, sáu.  Rồi những tảng mây trôi trên xa cho cây cầu đổi sắc làm tôi nhớ những giọt sương mai trên lưới nhện hoang giăng trên bờ cỏ dại ở đầu làng.

            Có tiếng nổ rất xa, đâu từ phía núi.  Tôi nhớn nhác bấu chặt tay mẹ.  Mẹ tôi cười, nói một cách tự tin:

-  Sáng ni đình chiến rồi, sợ chi nữa!

Page 50: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 50

Tôi nghĩ bụng, „Đình chiến là cái ông nào mà to hơn gan cóc tía.  Súng đạn không sợ thì còn biết sợ ai!“.  Tôi hỏi về cái ông „đình chiến“.  Mẹ tôi cười tội nghiệp rồi giải thích theo lối thông tin „Làng trên xóm dưới“:

-  Thì đình chiến là họ ký hiệp định Giơ-Neo với nhau.  Việt Minh, Bảo Vệ như chú Dưa, chú Cà không bắn nhau nữa.  Mai mốt, mình lên nhà trên kê phản ngủ.  Rồi mạ tháo cái hầm làm chuồng heo, thả cặp heo tới tháng Chạp kỵ Ba, rồi ăn Tết.  Tôi nín thở tận hưởng nguồn hạnh phúc tưởng tượng là từ nay, đêm đêm mình sẽ thôi ngủ dưới hầm, khỏi ngửi mùi rễ tre lên mốc, khỏi nghe bầy mối nghiến tre trèo trẹo thâu đêm.

Nghe mẹ tôi vẽ bức tranh mơ ước, mấy người gánh gồng cùng chạy bộ qua cầu cũng hớn hở hỏi nhau:

- Nì, Thím nớ về mô?  Đình chiến rồi, hoà bình rồi, hết sợ súng đạn, ăn hột muối cũng sướng.  Chừ lo về lại dưới làng cuốc đất mần ăn.

Cây cầu quanh tôi trắng tuyền như ngọc bích.  Từ phút đó, cầu đã viết trong ký ức hoa niên của tôi những trang đầu tiên và kết tụ thành tâm ảnh:  Cầu Trường Tiền đó, chiếc cầu chở hoà bình về lại quê xưa.

Rồi đời cứ theo dòng.  Năm năm, mười năm, hai mươi năm... tôi đã đi về qua chiếc cầu đó; và hết một đời chiếc cầu đó sẽ soi bóng mãi trong lòng tôi.

Dòng sông Hương là mẹ nuôi, đã trở thành mẹ hiền và xứ Huế quê ngoại đã trở thành quê hương yêu dấu của cầu Trường Tiền.  Cầu chào đời ở tận bên Tây.  Năm 1899 hãng Eiffel mang về Huế đặt bên cạnh kho đúc tiền nên mang tên là cầu Trường Tiền.  Lên năm tuổi, mới học vở lòng đường đi còn lót ván, trận bão năm Thìn 1904 đã xô ngã bốn nhịp cầu.  Vè dân gian ghi lại rằng,  „Nửa đêm bão tới thình lình; cù lăn nổi dậy miếu đình nghinh ngang...“ và cù lăn đã „Xô cầu Trường Tiền ngã bốn, đốn cột cờ gãy ba!“

Trường Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế.  Tình yêu chưa bước song đôi qua cầu là tình yêu chưa „chín“.  Hận thù chưa giải được trên cầu thì thù hận chưa nguôi.  Uy vũ chưa tuyệt lộ trên cầu thì chưa phân thắng bại.  Đến Huế mà chưa đứng trên cầu là chưa vô tới Huế, chỉ mới „tạt“ qua Huế mà thôi.  Phải chăng vì thế mà từ ngày có mặt, tuy nằm yên một cõi, Trường Tiền đã mang những vết hằn lịch sử sâu nặng nhất của một xứ Huế thăng trầm theo thế sự.

Ngày mới lớn lên ở làng, tôi thường nghe thế hệ đàn anh kể chuyện „Chiến sĩ qua cầu“.  Câu chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng cái mốc „Thời Nhật đảo chánh“.   Ngày ấy, thực tế lẫn huyền thoại „chống thực dân Tây xâm lăng“ là một khúc anh hùng ca thôi thúc những tấm lòng yêu nước lên đường kháng chiến.  Mùa Đông năm 1946, những người trai quê và thôn nữ của làng tôi lũ lượt gánh ớt bột, mạt cưa, trấu, rơm rạ, và bùi nhùi để qua Huế đánh đồn Tây Tòa Khâm.  Nghe kể lại là khi xông ớt, trấu, rơm rạ, mấy ả đầm và Tây con ở trên lầu cay mắt quá, khóc bằng tiếng Pháp (!), nghe thảm thiết như „mèo kêu“ (?!).  Các chiến sĩ chân đất làng ta không biết vì động lòng trắc ẩn hay vì không chống nổi với súng đạn thiệt tình của quân Tây nên đã hè nhau chạy bộ qua cầu Truờng Tiền, băng qua đồng, trở về làng cũ hát tình ca Phạm Duy „Ngày nao ta phá tan đồn nó đi, sẽ thấy trên đường trở về, áo dài đùa trong nắng hè...“ Làng tôi có khoảng mười „Chiến Sĩ Qua Cầu“ và tất cả đều có một nỗi niềm chung là đầu hôm khi băng qua sông Hương, cầu Trường Tiền còn nguyên vẹn, nhưng khi trở lại sau nửa đêm gần sáng, cây cầu đã gãy đôi!  Những người trai

Page 51: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 51

quê và gái quê đêm đó đã khóc khi lội qua sông:  Khóc cho một cây cầu thân yêu đã gãy và buồn cho một dòng sông không ấp ủ nỗi một cây cầu.  Lịch sử sau nầy đã ghi lại rằng, nửa đêm 19  tháng 12  năm 1946, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân, ông Hà Văn Lâu, cầu Trường Tiền đã bị gài mìn đánh sập để cản bước tiến của quân Tây.  Ớt khô của lòng yêu nước làm sao thắng được thuốc súng của xâm lăng! Anh hùng ca không chỉ là chiến lợi phẩm thu được trên chiến trường.  Chiến sĩ làng tôi bỏ chạy, thế mà hào khí một thời vẫn còn cháy mãi trong lòng họ theo những câu chuyện kể không đầu không đuôi, nhưng bao giờ cũng cảm động khi đến đoạn một nhịp cầu Trường Tiền đã gãy lúc nửa đêm...

Tôi là học trò từ làng quê lên Huế học.  Thời tôi mới lớn, học trò nhà quê lên tỉnh học còn ít hơn là học trò các thành phố lớn được qua Tây, qua Mỹ du học. 

Tôi ở trọ trong Thành Nội, học trường Quốc Học.  Mỗi buổi sáng đi học, ra cửa Ngăn dọc theo bờ Bắc sông Hương, qua cầu Trường Tiền, đi ngược bờ Nam sông Hương.  Bãi học, về cầu Trường Tiền, vô cửa Thượng Tứ... Nhịp điệu đi về trên một chiếc cầu ngỡ như đơn điệu ngày lại ngày cả mười năm đó, thực ra, chẳng có bao giờ giống nhau như con nước bao năm qua trôi chảy mãi dưới chân cầu mà vẫn không có một lần lập lại.

„Mỗi sáng sớm đi học, qua cầu khi gió ban mai còn nhẹ nhàng, mơn man tà áo, vuốt ve mái tóc thề, dỗ dành từng bước đi của người qua cầu, ánh sáng lấp lánh trên mấy vài mấy nhịp uốn cong, tuổi học trò thấy cuộc đời như trang vở đầu tiên của ngày tựu trường, con tim hồi hộp vui mừng nơi từng nhịp đi...

Cái vòm trắng bạc có một chút kiêu sa phù phiếm.  Mỗi bận qua cầu tôi có cảm giác như đi qua một đám mây phù du, một đoạn đường sương phủ hay đi vào một mối tình đầu không dài lâu; hoặc bắt đầu một cuộc đời lãng tử cũng không biết chừng.

Bước đi trên cầu trong ngọn gió sông Hương buổi sáng, khi chiếc cầu còn ngái ngủ trong khói sóng và màn sương, nhìn về phía Vĩ Dạ, có sóng nước êm đềm xanh một màu lục thủy, những chùm tre lã ngọn nơi phía Cồn Hến ẩn hiện đằng sau như vừa mới gội nước hồ thủy để xanh một màu xanh êm ả có thể làm mướt lại những con mắt suốt đêm thức trắng để „gạo“ bài.  Đến giữa cầu, ấy là lúc không thể nào không ngoảnh mặt về phía rặng núi Kim Phụng nổi hẳn lên trong dãy Trường Sơn kéo dài về hướng Tây Nam.  Sông Hương mà không có dãy núi này đứng đợi như một tri âm vĩnh viễn thì e sẽ là con sông thảm thiết không biết trôi về phương mô.  Dãy núi ấy, xanh một màu xanh „xuân sơn“ thăm thẳm, vừa huyền bí, vừa đa tình.  Hình như nhờ bóng núi xa xăm kia mà sông Hương trở thành huyền ảo, như có như không trong một nỗi thầm lặng miên man của dòng nước chảy.“ (Thái Kim Lan)

Giờ đến trường và tan học, cả con đường, chiếc cầu và lòng sông soi bóng đều sáng lên theo dòng nón lá và áo trắng học trò.  Dòng suối trắng đó có lúc đầy giữa mùa Thu tựu trường, mùa Xuân nắng ấm; vơi dần giữa mùa thi sang Hè, và xám lại giữa mùa Đông co ro trong những chiếc áo mưa.  Thế nhưng cũng có khi dòng suối ấy khô quắt khô queo theo nhịp cầu gãy đổ.

Chiếc cầu sáu nhịp nối liền hai bờ sông bên phượng, bên me.  Huế cùng dòng sông bên dưới và dòng người bên trên thì trôi chảy mà chiếc cầu thì vẫn lặng im trong nắng trong mưa có vẻ như thường hằng, bất biến.  Huế đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc bể dâu, thế mà sự ngây thơ vẫn còn đeo đẳng.  Có những tâm hồn đã thành sắt đá vì chiến tranh; những cảm quan đã chai lì vì súng đạn; những ước mơ đã cùn nhụt vì thực tế chua cay... bỗng trở mình một cách nhẹ nhàng, rồi thức dậy

Page 52: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 52

nhìn dòng sông xanh bên dưới với đôi mắt trẻ thơ khi lững thững bước qua chiếc cầu màu nhũ bạc.  

 Phong cảnh trên cầu, ngày lụn tháng qua, đã trở thành Tâm Ảnh trong lòng người lớn lên hay già đi cùng với chiếc cầu. Khi một bóng dáng đã trở thành tâm ảnh thì sự hiện sinh của nó sẽ trở thành ảo ảnh.  Như bóng dáng Kim Trọng thuở ban đầu „Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa“ đã thành tâm ảnh trong một thế giới riêng của Thúy Kiều.  Bởi vậy, trong ngày Kim Kiều tái hợp, chàng Kim bằng xương bằng thịt chỉ là một hiện sinh xa lạ.  Nỗi đam mê cháy bỏng và sự khắc khoải đợi chờ „từ Lâm Truy em lạc tới Giang Hà“ của Thúy Kiều đã miên viễn hướng về tâm ảnh. Buổi đoàn viên sau mười lăm năm luân lạc mà „đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ“ là một phản ứng lạnh lẽo của tâm hồn.  Phải chăng đó là một cách lẩn trốn dưới cán dù đạo lý khi lửa tình đã nguội!  Cũng thế, những người xa Huế đã mang chiếc cầu trong tâm ảnh mà ra đi.  Vô số chiếc cầu Trường Tiền đã bắt qua dòng sông tưởng tượng trong tâm thức lãng mạn được thi vị hóa bằng chất men lưu đày nên càng xa Huế, chiếc cầu và dòng sông trong tâm ảnh lại hiện về càng rõ, bất chợt, không hẹn không hò.  Tôi đã về lại Huế, nhiều lần đi trên chiếc cầu xưa mà vẫn quay quắt đi tìm.  Tìm chi?  Tìm chiếc cầu trong tâm ảnh -  như ngày xưa vua Tự Đức đã có lần toan „Đập cổ kính tìm ra lấy bóng...“!

Cũng như tháp Eiffel ở Paris, Cầu Tháp ở London, cổ thành La Mã ở Ý, tượng Mãnh Sư ở Thụy Sĩ… cầu Trường Tiền là biểu tượng thể chất nhưng là một dấu ấn tâm hồn thấm đậm mầu son của Huế.  Chiếc cầu tự nó đã đẹp như một sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật hiện đại và nghệ thuật truyền thống mang dáng vẻ Đông Tây đã đành; nhưng phong cảnh thiên nhiên kỳ tú làm bối cảnh càng đẹp hơn.  Và hình ảnh áo trắng học trò - một thời và mãi mãi? -  ngày hai buổi qua cầu trong hình tượng vật lý và in bóng trên cầu trong hình tượng tâm lý đã biến chiếc cầu thành huyền thoại của những điều có thật.

Với dòng tiểu sử đời mình dài dằng dặc trong vinh quang hay cay đắng, một người đàn bà có thể sẽ đáng kính hơn, nhưng đồng thời cũng sẽ mất đi sức hút hồn nhiên và đam mê của tuổi xuân thì hơn.  Nhưng với một chiếc cầu thì chính dòng lịch sử đó mới là ngôn ngữ thầm lặng của hiện thể đang nói với nhân gian.  Chuyện chiếc cầu không dừng lại trên cầu mà chuyên chở vào tâm hồn cả bóng lẫn hình theo mỗi bước đi từ quá khứ đến tương lai.  Không gian và thời gian thường hằng thay đổi, nhưng Cầu Trường Tiền vẫn tâm sự triền miên với những người yêu Huế còn đứng lại bên cầu hay một đời xa xứ. 

Không một chút vô tình nhưng rồi tôi cũng cũng phải xa Huế, mang tâm ảnh cầu Trường Tiền mà đi.  Chiếc cầu trong tôi bỗng thành một sự hiện hữu vô hình. Những khi buồn và cô độc nhất ở quê người, tôi lại lục lọi ngăn kéo hoài niệm của những ngày vui bên cầu, cố lấy một tâm ảnh bình minh để tự  mình soi mình giữa hoàng hôn và bóng tối.  Có khi, cái cầu như một đạo sĩ thần thoại giúp mình hiểu mình; giúp cái ta hiểu cái tôi vì tự bản chất cái „ngã“ của chiếc cầu là vô ngã.   Chiếc cầu thân ái một cách dửng dưng; không xua đuổi cũng chẳng níu kéo những suối nguồn thổn thức.

Sống hơn 20 năm trên đất Mỹ, cái nhìn của tôi về chiếc cầu trên quê hương hay quê hương trên chiếc cầu vẫn chẳng có gì thay đổi.  Trong sự thăm thẳm tận cùng của lặng yên, chiếc cầu trong tôi hiện ra nửa như hư ảo mà nửa như rất thật; kết tụ những bến bờ xa lạ và quen thân thành một dãi Ngân hà.  Dòng sông trắng phau ấy không vắt ngang vũ trụ mà cũng chẳng ở dưới lòng đất.  Nó ở trong sâu thẳm của tâm hồn. Tôi chợt nhận ra dòng sông đó trong một chiều của „Ngày Mẹ Hiền“

Page 53: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 53

(Mother's Day) cuối mùa Xuân ở California.  Tôi có thật nhiều quà nhưng không còn Mẹ.

Mỗi lần nhớ Mẹ tôi lại nhớ chiếc cầu và nhớ ngọn gió Nồm lồng lộng nắng cuối Xuân quấn quýt bên Cầu.  Xa quê hương trên 20 năm, khi tôi thức bên ni thì chiếc cầu bên tê đang ngủ, nhưng lòng tôi vẫn gần với chiếc cầu trong gang tấc:  Tôi vẫn còn  Quê hương, còn hơi ấm nắng cuối Xuân và chiếc Cầu trong tâm ảnh.

                                                           Trần Kiêm Đoàn

CON Y ÊU BÁNH NẬM

Lần đầu tiên tôi gặp Con Yêu Bánh Nậm ấy bằng xương bằng thịt sờ sờ vào một sáng trời mưa lâm thâm trên bến đò Thừa Phủ.

Đò đầy, cô lái sắp đẩy ra khỏi bến thì có tiếng gọi từ phía lái:

- O ơi! Chờ chút!  Cho Con Yêu Bánh Nậm lên với cả hắn trễ tội!

Con Yêu Bánh Nậm lẫm lũi kẹp cặp sách trước ngực, chạy thục mạng xuống bến và nhảy lên đò.  Tôi còn đứng lớ ngớ chưa tìm ra chỗ ngồi, bị con Yêu đạp nguyên đôi guốc mộc lên bàn chân trần đau điếng. Tôi la lên nho nhỏ: "Ái, đau!" và cúi gập người ôm bàn chân tội nghiệp của mình vừa khi con Yêu nhận ra là đang làm đau đồng loại.  Con Yêu ngỡ ngàng ngó quanh trong lúc đò từ từ ra khỏi bến.  Tôi hơi ngờ ngợ vì dáng quen quen.  Sau lần áo mưa trong vắt, tôi có thể đọc được cả bảng tên thêu màu "xanh-lơ-ma-rin" nổi bật trên nền áo trắng:  H. T. Đông Ba, C2, trường Đồng Khánh.  Ngày đó, dân Quốc Học nhìn những cô em Đồng Khánh mang bảng tên màu xanh là ngây thơ, màu tím là đợi chờ, màu hồng là đã chín.  Học trò lớp đệ tam (lớp 10) mang màu xanh là đàn chim non mới bước vào ngưởng cửa trung học đệ nhị cấp, nhí nha nhí nhảnh, hầu hết còn "phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai..." Lên đệ nhị (lớp 11) mang màu tím là sắp sửa làm "bà tú", trong cặp sách thường có bụi "ô mai" vương vãi lên thư tình.  Và lên tới đệ nhất (lớp 12) mang màu hồng, suy tư và cuộc đời lốm đốm màu triết học, nên có nàng đã che nắng bằng sách Jean Paul Sartre, Albert Camus... thay cho chiếc nón bài thơ!  Còn con trai Quốc Học mà mang bảng tên "Ba sọc" như tôi là đã có quyền khỏi bận áo len giữa sương thu và gió lạnh, ưỡn ngực cho nhân gian thấy ta đây là học trò Đệ nhất.  Dù có lỡ sa cơ thi rớt tú tài toàn phần thì cũng còn đường rút vào quân trường Thủ Đức làm "quan một nhà binh", mai vàng le lói như thường.

Hình như mới bắt gặp những đôi mắt quen từ phía lái, con Yêu khoát tay, cười ấm áp với bạn.  Hàm răng trắng quá làm cho đôi môi không son phấn cũng hồng lên phơn phớt.  Khuôn mặt hình trái sầu đông, trắng mịn, lấm tấm nước mưa nằm ủ trong mái tóc đen mướt, dài kín bờ lưng, được gói sau lớp áo mưa gọn gàng như tạc bằng gỗ mun.  Con Yêu Bánh Nậm lừa khi không có ai thấy, bèn phóng cho tôi một cái nhìn ái ngại, môi chúm tròn xoe, nói bên tai vừa đủ cho tôi nghe:

Page 54: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 54

- Xin lỗi!

Tôi mím miệng, không trả lời nhưng trong bụng lại muốn nói:  "Con gái chi mà đanh đá.  Nói lời xin lỗi mà cái bộ lạnh lùng như bị người khác đưa chân cho mình đạp cũng không bằng!"

Thế nhưng khi quay về phía lũ bạn, Con Yêu lại cười nói tía lia.  Tôi giật mình khi nghe cô bé có bộ mặt hiền khô của con gái nhà lành nói với một cô bạn bằng một thứ ngôn ngữ có vẻ "chanh chua chuối chát", rằng:

 - Nì, Mi-nhon Thượng Tứ, chiều qua trốn giờ Quốc Văn đi "đào kép" với bồ tèo phải không?  Các thám tử của ta bắt gặp chàng và nàng đi xe đạp mùi mẫn về ngã Bao Vinh.  Khai mau!  Về dưới đó làm chi? Bộ muốn về "vật Sình" hả?  Thú thiệt đi, ta tha cho.  Còn chối bãi bãi như mấy mụ hàng cá cãi nhau ở chợ Đông Ba thì đừng trách ta là không có lòng... từ bi thấy chi nói nấy đó nghe!

Nàng có tên "Mi-nhon Thượng Tứ" dường như cũng bị nao núng, cố lấn tới sát bên cạnh Con Yêu Bánh Nậm để nói nho nhỏ như rót mật... gấu vào tai:

- Khỉ! Nói chi to rứa!  Anh nớ là sinh viên dạy kềm tau học chứ bộ...!

Con Yêu Bánh Nậm tung bùa bức hại sinh linh không thương tiếc:

- A, thì ra chàng "prề-xẹp-tơ" thấy lơ thì... chụp của mi đó hả?!  Chết rồi, con nhỏ Mi-nhon ơi!  Học trò Đồng Khánh xưa nay có ngạch đất yêu... quỷ tò te mấy cụ sanh viên dạy kèm và thực tập đó chơ chi nữa!

Nàng Mi-nhon bèn xuống giọng:

- Nì, Con Yêu Bánh Nậm, đồ tinh le!  Mi đừng ác cho tau nhờ cái "đức... Quốc xã" của mi với có được không.  Ba Mẹ tau mà nghe được thì tau chỉ có nước bỏ học ở nhà nấu ăn rửa chén!

Con gái Huế một mình là hoa hổ ngươi thẹn thùng, một cơn gió nhẹ trần gian thổi qua cũng vội vàng khép đôi cánh lá lại.  Nhưng có hai nường Huế họp lại là thành hoa bưởi hoa ngâu, e ấp liếc mắt một cách kín đáo như lời gọi thầm, đủ làm cho bao chàng choáng váng.  Khi tới ba "o" trở lên là thành hoa vông vang tinh nghịch, muốn đội nắng, trổ trời mà lên!

Dân nam nhi Quốc Học mà chỉ có vài mạng, "gươm lạc giữa rừng hoa" trên chuyến đò buổi sớm thì dù có thuộc loại nghịch lớp chọc thầy như tôi cũng phải biết điều mà ngồi im thin thít. 

Đò tới bờ.  Đường ai nấy đi... Thêm một ngày mới qua đi, tưởng chừng như không lưu lại một dấu tích gì.

Hôm sau, chiếc xe đạp sửa xong, nhưng hơi khác với mọi ngày vì tôi không còn thấy hăng hái đạp xe ra cửa Ngăn, qua cầu Trường Tiền, rẽ về Quốc Học nữa.  Cả đêm, dù cố quên đi chuyện trong ngày, thế mà vẫn cứ nhớ về Con Yêu Bánh Nậm.  Lòng dặn lòng phải ghét cho được vẻ lạnh lùng "làm điệu" của con Yêu, nhưng lại không quên được tiếng thì thầm "Xin lỗi" phát ra trừ cái miệng xinh xinh, đễ thương thì chưa đủ mà dễ ghét lại không đành.  Sáng ra, tôi trở chứng muốn cất xe đạp ở nhà, tiếp tục đi học qua đò Thừa Phủ.  Chân đã bước lên đò mà mắt tôi vẫn cứ nhìn

Page 55: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 55

quanh bóng dáng của con Yêu "ác nhơn" đó.  Tôi tĩnh hẳn khi có tiếng bình luận của đám nữ sinh áo trắng với nhau "Cái Con Yêu Bánh Nậm nớ lại trễ học nữa rồi!"; và "Cái con thiệt tình là Yêu Bánh Nậm.  Chuyện chi người của người ta hắn cũng biết... Hắn mô rồi?  Mà vắng hắn cũng buồn tụi bây hỉ!"

Nguồn gốc và lịch sử Con Yêu Bánh Nậm cũng xa xôi và mơ hồ như lịch sử một loài hoa dại.  Ngay cả những nhà "Huế học" tiếng tăm cũng lắc đầu quầy quậy khi bị hỏi về gốc gác của danh xưng nầy.  Những người Huế rặt, Huế chay như Bửu Ý, Bửu Tôn, Tôn Nữ Quế Hương, Tôn Nữ Hỷ Khương, Thái Kim Lan... khi nói về xuất xứ của Con Yêu Bánh Nậm cũng "lý giải" theo lối suy đoán rằng: Ngày xưa các ông Hoàng bà chúa trong cung Nguyễn vốn là những tay ăn sang và ăn hàng thượng hạng.  Các ông bà thường chờ gánh bánh nậm dài ruột như con chờ mẹ đi chợ về.   Khi các o bán bánh nậm gánh trễ hàng tới cửa thì bị mắng một cách vừa mang vẻ trách móc, vừa thân tình một cách rất Huế là : "Đồ con yêu nờ!"  Mấy cô hàng bán bánh nậm không muốn mất mối tốt nên cũng lanh miệng lanh mồm vừa đỡ đòn vừa tía lia kể chuyện dân tình ngoài nội phủ để làm vui lòng khách.  Con Yêu Bánh Nậm "rất có thể" ra đời từ đó, hay không biết tự bao giờ nhưng với Huế thì hình tượng Con Yêu Bánh Nậm vừa dễ thương, vừa dễ ghét...

Cũng có người dùng phép "hội ý" trong lục thư của Trung Hoa mà giải thích nguồn gốc của Con Yêu Bánh Nậm rằng là:  Bánh nậm Huế là một loại bánh lá mỏng dính.  Bản chất bánh nậm hiền, bình dân, dễ gần gũi, thơm ngon và hài hòa màu sắc với lá gói xanh, bột bánh trắng, nhụy tôm hồng.  Nhưng bánh nậm cũng rất mượt mà, trơn truột và dễ đong đưa như đôi môi mỏng, cái lưỡi lắt lay của những người con gái Huế "ruột để ngoài da".       

Những "Con Yêu Bánh Nậm" trong thế giới con gái Huế là những con vịt trời nở trứng và lớn lên trong đàn vịt đồng:  Vừa mang bản chất lém lỉnh, ranh mãnh, nghịch ngợm, rắn mắt của loài "yêu", nhưng cũng vừa e ấp, hiền từ, thuần hậu, và mặn mà nhưng rất đơn sơ của dòng "bánh nậm".  Bánh nậm Huế hiền đến mức thành món ăn "đằm bụng" cho em thơ và cho người già vừa khỏi bệnh và mỏng manh tới độ gió thổi  cũng bay!  Vì vậy, những chàng trai Huế từng bị nhiễm bùa yêu... bánh nậm đã ngoan ngoãn phán rằng, Con Yêu Bánh Nậm là "cục quậy" nhưng cũng vừa là "cục cưng" trong vòng bè bạn.  "Đồ con yêu Bánh Nậm!" là tiếng mắng yêu cho một sự thông minh đầy lém lĩnh và một sự lém lĩnh đầy thông minh của một cô gái Huế chưa đến nỗi... ế chồng.  Con Yêu Bánh Nậm giữa nếp sống Huế cũng như cái thiết bảng của Tôn Ngộ Không trên đường Tam Tạng về Tây Trúc thỉnh kinh:  Dữ dằn mà nhân nghĩa, xốc nổi mà yêu thương.  Cuộc đời có Con Yêu Bánh Nậm thì coi chừng chuyện "thâm cung bí sử" cũng có khi thành chuyện tiếu ngạo giang hồ nổ như bắp rang. Nhưng nếu vắng Con Yêu Bánh Nậm thì chuyện thâm cung bí sử đó rồi cũng chìm sâu vào chuyện đời thường.  Huế chắc sẽ khô khan và lặng lẽ hơn nếu những chuyện tình dễ thương, điểm màu lãng mạn "vang bóng một thời" không còn ai nhắc tới.  Những "cánh hạc bay lên vút tận trời" mà không có Con Yêu Bánh Nậm thì vẫn trầm trầm, lặng lẽ trong riêng tư và theo thời gian đi vào quên lãng.

(Còn tiếp) _ Phần Hai _ Yêu hớp hồn

Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh

Giang bắc, giang nam vô hạn tình…

 Nguyễn Du (1799)

Page 56: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 56

(Hương Cần dặm liễu xanh xanh

Bờ nam, bờ bắc để tình chứa chan…)

                       

Người Thầy học đầu tiên của tôi là một cô giáo: Mẹ tôi.  Bà mẹ quê quen với nắng gió ruộng đồng, quen với hàng trăm ngày nắng mưa, tốt xấu quanh năm nhưng vẫn không quen thuộc với vài chục chữ cái của vần mẫu tự La tinh “abc” mà người đời đã dùng để ghép thành thiên kinh vạn quyển.

“Cô giáo” của tôi thật khó tính nhưng cũng dễ dãi như những hàng tre có gai nhiều mà vẫn trĩu ngọn để rũ bóng cho những con đường.  Tre khó như hầm chông mà cũng dễ như những tấm phên che bầu bạn với bụi chuối sau hè.  Mỗi buổi sáng mẹ tôi dò bài. Mẹ cầm cuốn sách hay tập vở và bắt tôi đọc.  Tôi chỉ cần đọc cho trơn tru là được.  Cứ mỗi lần vấp là phải lãnh một cái phết nên thân vào đít. Rất nhiều lần tôi liếc mắt và bắt gặp mẹ tôi “dò bài ngược”, nghĩa là những cái mũ chữ “ô”, cái râu chữ “ơ” bị trồng cây chuối ngược chiều từ phía dưới mọc lên.  Tôi vẫn nghĩ là Mẹ có cách riêng của Mẹ. Thế nhưng tôi vẫn ngờ ngợ vì đôi khi bí quá tôi biến chữ đọc ẩu để khỏi bị vấp mà mẹ tôi vẫn hoan hỷ cho qua, miễn sao đọc cho trôi là được.  Hình như nhờ tinh thần “sáng tạo” đó mà sau này tôi bị nhiễm vào cái nghiệp ưa viết lách lai rai.

Cô giáo - mẹ tôi - vẫn bắt tôi trả bài đều đặn mỗi buổi sáng trước khi đi học. Cho đến một hôm, bác Đội Nghi, một kẻ sĩ ở làng, bất thần hỏi tôi:

- Nghe nói con học giỏi nhất trường. Rứa con tự học hay có ai bày vẽ ở nhà mà hay rứa tề?!

Tôi không hiểu hết bác Nghi có ý đặt câu hỏi cho tôi hay đó chỉ là lời bình luận khen tặng, nhưng đã vội láu táu nói ngay:

- Mạ con dạy con đó Bác ơi!

Bác Nghi phá lên cười làm tôi cụt hứng.  Bác vừa ho húng hắng, vừa cười khàn khàn, vừa ồ ề lên tiếng:

- Mạ con mù chữ mà dạy với dỗ chi đã chớ!

Ức quá, về nhà tôi hỏi mẹ.  Mẹ buồn buồn trả lời:

            - Thời của mạ ở làng không ai cho con gái đi học hết.  Mạ học bình dân học vụ được mấy chữ, chừ trả lại cho thầy hết rồi.  Con gắng học cho thông, mạ thương.

Dường như để bù lại, mẹ có cách ghi dấu những điều đáng nhớ theo lối truyền đời rất cổ sơ: Thuộc lòng và truyền miệng.  Người Thầy học đầu tiên đó đã chuẩn bị cho tôi vào đời với những bài học đầu truyền miệng.  Nuôi lớn tình cảm và thế giới tưởng tượng đầy hoa mộng trẻ thơ của tôi trong cảnh quê nghèo đồng chua nước mặn nhưng rợp bóng hò, vè, ca dao, tục ngữ, dân ca và chuyện kể.  Mãi cho đến khi đến trường tôi mới hiểu ra những câu hò mẹ tôi ru con ngủ, những chuyện thần tiên đẹp mơ hồ như áo Hằng Nga là hoa lá cành mọc lên từ mảnh đất hiền hòa của kho tàng văn chương truyền khẩu Việt Nam.

Page 57: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 57

            Tuổi thơ, tôi chỉ mơ một cuộc đời đơn sơ, nhân hậu, có bóng dáng thần tiên lẫn lộn với người phàm như trong thế giới của cô Tấm. Tài năng có siêu quần bạt tụy thì cũng như Thạch Sanh.  Tình cảm có diễm ảo, lai láng cho nhiều thì cũng chỉ tới “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm Xuân...”   Thế giới của ca dao và dân ca là một góc vườn của bà Tiên để mơ ước, chứ không phải là một xã hội hiện thực để ngày ngày làm bạn đi chơi.  Tuổi thơ của tôi đã bị chuyển hóa thường xuyên giữa hai thái cực:  Giữa thiên đường mật ngọt của ca dao và giữa địa ngục trần gian của cuộc chiến tranh Việt Nam đầy máu lệ.

            Hình như thế hệ tuổi thơ Việt Nam của tôi có nét hao hao giống nhau là thân phận những trẻ thơ mồ côi cha rất sớm, nhưng may mắn còn có Mẹ.  Những bà Mẹ hy sinh cả tuổi thanh xuân để lặn lội tảo tần, gieo neo nuôi con.  Những đứa con của Mẹ mãi mãi là chú gà con lông tơ vì nước mắt Mẹ bao giờ cũng chảy xuống. Những chú gà con đó dù có bạc đầu, dù có làm nên công hầu khanh tướng, dù ra đi ngái vời nơi đất khách thì vẫn là những đứa trẻ thơ còn ở trong vòng tay thương yêu trọn đời của Mẹ.

Sống hai mươi năm trên đất khách, được gần mẹ chưa tới mười ngày, nhưng tôi vẫn tin như tin vào một mặt trời không đổi hướng rằng, tất cả mọi suối nguồn tình cảm đều sẽ già đi và phai cũ với thời gian, duy chỉ có tình Mẹ là mỗi ngày một sâu, lòng mẹ càng un đúc qua thời gian càng chín mọng ngọt thơm mà không bao giờ rơi rụng.  Tình Mẹ xa mà gần như nắng ấm trên đầu và đất lành dưới chân.  Càng gần với tuổi già, càng cần hơi ấm nồng nàn của nắng quê mẹ và càng cảm thấy gần gũi với đất mẹ như một quê hương đích thực để quay về

Khi Mẹ mất rồi mới cảm nhận hết nỗi bơ vơ của những ngày không có mẹ.  Người ta có thể lớn khôn hay già đi qua từng chặng đời khi bỗng, khi trầm nhưng sẽ không bao giờ biết lớn khôn trong vòng tay thiên thần của mẹ.  Trong những tiếng kêu tha thiết - hạnh phúc cũng như trầm thống -  nhất của đời người, chỉ có một tiếng kêu không bao giờ phai cũ hay lạc điệu, lỗi thời, đó là tiếng con kêu mẹ: “Mẹ ơi!” 

Năm đó tôi bảy tuổi, sống hồn nhiên với mẹ sau lũy tre làng Liễu Hạ và chưa bao giờ được đi học.  Cũng có vài ba ngôi trường xã, trường làng mở ra được một thời gian ngắn rồi cũng phải đóng cửa vì bom ném lộn, đạn bắn lầm.   Có khi thầy bị chết hay bị bắt, trò bị thương, tản cư và bao nhiêu chuyện bất trắc không lường trước được.   Trẻ con trong làng ở vào lứa tuổi của tôi rất ít đứa nghĩ đến chuyện đi học.  Và chính tôi cũng không biết đi học để làm gì mà mẹ tôi cứ quay quắt đêm ngày xuôi ngược lo kiếm trường cho hai anh em tôi đi học.  Cho đến một lần tôi đau nặng, nóng sốt li bì tới mấy ngày.  Mẹ tôi lo đủ thứ.  Nào là rịt lá giáp cá giã nhuyển lên trán tôi, nào là giác bầu, chích lễ. Nào là mời thầy cúng chuyên trị tà ma, uống đủ thứ thuốc Bắc, tàn nhang, nước thải mà bệnh vẫn càng trầm trọng hơn.  Cuối cùng có ông y tá thuốc Tây tới thăm bệnh, phán rằng: “Thằng nhỏ bị thương hàn nhập lý.  Phải cõng hắn lên Dinh tìm đốùc-tờ Tây khám gấp, kẻo trễ thì vong mạng”.

Nghe hai tiếng “vong mạng” mẹ tôi sợ quá khóc bập bệu.  Mẹ nhất định cõng tôi lên Huế tìm đốc-tờ ngay trong đêm nhưng ai cũng can nên mẹ tôi đành ngồi đối bóng với cây đền dầu hỏa lù mù để canh giấc ngủ cho tôi và chờ sáng.  Gà vừa gáy lại, mẹ tôi và dì Quảng đã cõng tôi đi.  Làng tôi cách Huế 12 cây số nếu đi theo đường quan lộ.  Nhưng mẹ tôi đã cố đi tắt để thu ngắn thời gian. Tôi đeo sau lưng mẹ, nghe tiếng thở mệt nhoài của mẹ hòa với tiếng chân mẹ lội bì bõm qua những thửa ruộng làng còn chìm trong nước sau mùa lụt.  Mồ hôi lưng áo mẹ thấm ướt qua hai lần áo ấm phía trước mình tôi.  Đêm tối, bình minh, mặt trời mọc, nắng lên.  Mẹ và Dì Quảng vẫn thay nhau cõng tôi đi miệt mài không nghỉ.  Tới gần trưa mới tới chỗ đốc

Page 58: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 58

tờ.  Tôi cảm thấy đầu nhẹ nhõm và tĩnh táo hơn nhiều, có lẽ vì trên đường đi mồ hôi mẹ và mồ hôi của tôi cũng đổ theo đà lắc lư của mẹ nhiều quá.  Mẹ mang tôi đến một nơi gọi là “Ông Đốc Quyến”.  Nhiều người đang chờ sẵn ở đó.  Nổi bật là một người đàn ông có dáng mập mạp, ăn bận tươm tất, vẻ mặt nghiêm trang đi quanh phòng đợi hỏi hết người nầy qua người khác bằng cái giọng ra lệnh làm mọi người nể sợ ngồi im thin thít.  Chờ lâu quá không thấy ông ấy tạt qua, mẹ tôi mạnh dạn cõng tôi đến trước mặt ông ta, cunh kính thưa:

- Dạ bẩm quan đốc, con tui đau nặng sắp chết, xin quan trên làm ơn làm phúc chữa cho cháu trước.

Ông ta quắc mắt, nạt:

- Thời chừ không có cái tiếng “bẩm”, nghe chưa!  Cứ chờ đó tới phiên kêu.  Ai tới đây cũng toàn làm náo, kêu van đau nặng sắp chết cả.  Rút cuộc, ai cũng sống nhăn răng, chẳng có thằng Tây mô chết hết.

Mẹ tôi “Dạ, dạ” và kiên nhẫn đặt tôi nằm xuống nền nhà xi măng, đầu gối lên chân mẹ, chờ tới phiên.  Tôi không còn nhớ bao lâu nhưng hình như lâu lắm.  Mẹ con tôi được kêu vào phòng đốc tờ.  Ông đốc Quyến “thiệt” nầy có vẻ dễ chịu hơn ông đốc tờ “giả” ngoài kia.  Ông ta bắt tôi nằm, vén bụng vén lưng và đưa cái miếng tròn, trông giống cái giác sừng trâu của mấy bà chích lễ ở làng, nằm cuối cặp giây thun như cái ná bắn chim dài lòng thòng đeo trên cổ, rồi xỏ hai cái nút vào lỗ tai.   Ông cầm “

cái giác” chụp lia lịa lên bụng, lên ngực, lên lưng tôi chừng năm bảy miếng.  Ông ta tài thật.  Chỉ có thế mà ông biết hết, tươi cười nói với mẹ tôi:

-  Không can chi. Cháu bị cảm cúm và viêm phế quản, để bác sĩ cho toa mua thuốc uống vài ngày là lành.

Trong khi ông đốc tờ viết ngoằn ngoèo trên miếng giấy thì mẹ tôi đã chắp tay vái dài cảm tạ:

- Dạ, bẩm quan đốc, mạ con tui xin đội đội ơn quan!

Mơ màng nghe tiếng “bẩm quan” tôi hơi run vì sợ mẹ tôi bị nạt như hồi nãy, nhưng may quá, ông đốc Quyến nầy coi bộ tử tế hơn ông “đốc giả” ngoài phòng đợi, nên đã xua tay cười khanh khách:

- Ui chà! Quan quyền chi thím ơi.  Đừng kêu rứa tội chết!

Ra khỏi phòng khám, chưa uống thuốc mà tôi đã cảm thấy tĩnh như sáo và kêu đói bụng đòi ăn.  Mẹ tôi hớn hở nói với dì Quảng, người đang thay phiên mẹ cõng tôi trên lưng:

- Dì hí, hèn chi thiên hạ đồn ông đốc Quyến ni “thơm tay” là phải lắm.  Chưa chi ông mới rờ lên thằng nhỏ đã lành!

Mẹ cầm tay tôi, nói nựng như một lời mơ ước hoang đường:

- Mai sau, con gắng học lên làm ông đốc cho mạ nhờ con hỉ!

Page 59: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 59

Tôi hỏi giọng yếu ớt:

- Làm chi mới được thành ông đốc mạ hè?

Mẹ tôi dường như hứng chí:

- Học, mà phải học cho thiệt giỏi mới lên ông đốc con ơi!  Lớn lên con gắng làm ông đốc tờ nghe con!

Tôi “dạ” một cách mạnh dạn vừa khi mẹ tôi cõng đi ngang qua Phu Văn Lâu.  Hình như  lời hứa của tôi có cột cờ làm chứng.  Một đời sau này, những khi mỏi nãn với đèn sách, tôi thường nhớ lời hứa với mẹ có chứng cớ cột cờ mà lặng lẽ vươn lên.

             

Vỡ lòng

 

Trường "Đạo"!  Ngôi trường làng hiền hậu nấp dưới hàng mù u, bên cạnh giáo đường làng Dương Sơn, cách cái cầu Tứ Phương phân ranh giữa làng tôi và làng Cổ Lão đi bộ chỉ tàn vài điếu thuốc mà nghe xa xôi hơn cả Tử Cấm Thành.  Tin tôi đi học trường "Đạo" lan xa như tiếng tù và làm tỉnh ngủ bọn nhóc tì trong cả mấy xóm Kên, xóm Giữa, xóm Cụt, xóm Côi làng Liễu Hạ.  Làng Dương Sơn là làng thuần Thiên Chúa giáo với tháp chuông nhà thờ cao vút, có chiếc thánh giá nổi lên trên nền trời lộng gió giữa biển tre xanh và ruộng lúa mấp mô nhiều đợt của xã Hương Cần. 

            Cả một thời thơ ấu, tôi chỉ nghe gọi người làng Dương Sơn là "đạo" để phân biệt với người dân xung quanh là "ngoại" hay “lương”!.  Chiều chiều, nghe vọng âm của tiếng chuông nhà thờ đổ hồi khi thanh, khi lặng theo từng cơn gió nồm mùa hạ, hay gió bấc mùa đông làm cho trí tưởng tượng về một thế giới "đạo" huyền bí trong tôi bay bổng miên man.  Những ngày “Tây lùng” bất chợt, người dân vùng "ngoại" lũ lượt kéo nhau lên lánh nạn ở Dương Sơn.  Cũng lạ là Tây đến vùng ngoại thì đốt nhà, hành hạ không nương tay; nhưng cũng cùng đoàn Tây đó đến làng đạo thì lại thân mật với dân thường, cho quà và cười đùa với trẻ em đầy vẻ tình người.  Bởi vậy, ngôi trường tiểu học mang cái tên là lạ, “Phan Thiện”, trở thành nơi tốt nhất để cha mẹ trong vùng xin cho con đến học.  Học trò đến từ nhiều vùng khác nhau: từ Văn Xá, Hương Cần, đến Phước Yên, Liễu Hạ...

            Buổi học đầu tiên, mẹ tôi cười rạng rỡ, dắt hai anh em tôi đến ra mắt vị Cha xứ.  Vị linh mục có khuôn mặt thanh tú sau cặp kính cận gọng vàng, trong chiếc áo dòng đen viền cổ trắng dang tay đón lấy tôi bằng một cử chỉ nhân ái mà suốt tuổi thơ ở làng tôi chưa bao giờ có được.  Mẹ tôi giục:

            - Nói lạy cha đi con!

            Tôi mồ côi cha rất sớm, nên tiếng "cha" chưa quen gọi trên môi từ khi tôi biết nói.  Tôi ngượng nghịu khi phải gọi một người lạ bằng "cha", nhưng đôi mắt tỏa chiết ánh thân tình, mát dịu và tinh anh của người đối diện cho tôi chút can đảm nói lên:

            - Dạ... dạ, lạy cha!

Page 60: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 60

            Nhìn những bức tranh, bức tượng thánh đủ màu; nghe những tiếng xưng hô "em", "con" nơi đây, thay cho tiếng "tui" (tôi), tau, cộc lốc ở làng, tôi cảm thấy rõ ràng là mình đang lạc vào một thế giới khác.  Sau đó, tôi được đưa vào lớp chị Hường.  Chị đẹp như một thiên thần trong lớp mũ áo nhà tu trắng toát trinh tuyền.  So với mấy chị, mấy o, mấy thím làng tôi với tóc bối răng đen, quần xăn lên quá gối quanh năm thì chị Hường là hiện thân của những nàng tiên trong cổ tích.  Đến lúc chị Hường cười chúm chím, hỏi tôi mấy câu, giọng chị ngọt mềm như bánh sữa làm tôi cảm thấy tôn nghiêm và ớn lạnh với nỗi sợ đang lạc quá xa vào thế giới hoang đường.

            Hàng ngày, sau giờ ngủ trưa là lễ cầu nguyện.  Tôi vốn đã quen với hình ảnh của cây bồ đề có rễ phụ mọc từng chùm nhiều hơn lá và ngôi tượng Phật có tai dài ngang cằm của ngôi chùa cổ ở làng.  Tôi đã thuộc làu từng nhịp nhặt khoan của hồi chuông trống bát nhã, quen với lời mở đầu câu kinh “Đệ tử kính lạy, đức phật Thích Ca, phật A Di Đà”....  Nay được thấy tượng Chúa trên bệ cao nhìn xuống, có khuôn mặt “giống ông Tây mà hiền như ông Bụt ở chùa làng”, như thằng Quảng làng Phước Yên có lần nhận xét.  Tôi thì thích đôi tay của tượng chúa, đôi tay rộng mở, dang ra như muốn đón ngày trở về của những đứa con bụi đời, những kẻ vô tình quay lưng trở lại.

Học được mấy tháng thì chị Ngôn thay chị Hường.  Chị Ngôn lớn tuổi, cao và rất nghiêm.  Chị bắt đọc a,b,c... thành ra á, bơ, cơ... cho “khỏi giống Việt Minh”.    Mỗi thứ sáu chị Ngôn đều nhắc học trò của chị phải ăn “chay”.  Thời đó, lũ học trò vùng “ngoại” của chúng tôi hiểu ăn chay là ăn khoai sắn và trái cây, nên mỗi thứ Sáu, cả lớp lại có dịp cãi cọ ồn lên về cây trái thổ sản quanh vùng. 

Làm sao tôi quên được những cuộc “chiến đấu” anh dũng tung nước bọt của ba thằng nhỏ quê ở Hương Cần về đại sự: “quýt Hương Cần thứ thiệt!”.

Thằng Tin ở phe Kiền, thằng Vện phe Đông, thằng Hạ phe Chùa.  Cả ba phe đều thuộc về làng Hương Cần.  Như vậy là cả ba đứa đều là dân Hương Cần thứ thiệt, toàn ròn, thế mà thằng nào cũng chê quýt của hai thằng kia là quýt... giả.  Tôi cũng là con nhà vườn, lại là con đẻ của chiến tranh nên cũng khôn “nẻ vỏ”, chưa học hết lớp i-tờ đã biết chơi trò ngư ông thủ lợi.  Cả ba thằng nhóc Hương Cần liên tù tì bắt tôi nếm thử.  Mấy ngày đầu, tôi chẳng dại gì, mà thiệt tình cũng chẳng phân biệt được gì để phán là quýt của đứa nào là quýt Hương Cần chánh hiệu cả.  Qua mấy ngày sau, nếm quýt nhiều quá thành “lạnh bụng” phải ôm cái bụng đau lâm râm rời đấu trường hơi bất thường, tôi đâm ra dè dặt.  Đến các hiệp sau thì tôi ăn hết nổi quýt của hai gã phe Đông và phe Chùa, nhưng vẫn còn cảm thấy thinh thích quýt của thằng Tin phe Kiền vì mùi thơm và vị ngọt của nó.  Hai đấu thủ phe Chùa và phe Đông cảm nhận được mòi bất ổn của gã trọng tài gà mờ như tôi, nên đã lẳng lặng rời trận đấu trước hồi chung kết!

Lớp học i-tờ của tôi thường bị cắt ngang vì “Tây lùng”, dân các làng kế cận chạy giặc về ngồi la liệt quanh sân giáo đường.  Tuổi thơ của tôi cũng đầy tiếng chim ca và tiếng súng nổ; lúc thì tưởng yên ắng lãng quên như nước tù trong ao nhỏ, lúc lại cuồng lên nghiêng đổ như nước lụt đầu mùa.  

Rồi những buổi trưa giữa vòm giáo đường cao vút, tôi mê mãi đuổi mắt tìm bầy dơi lười biếng ngủ trưa, lên giọng đọc theo lời kinh mà tôi chỉ loáng thoáng hiểu là đang nói một lời vui mừng cao cả nào đó “Kính mừng Maria đầy ơn phước, đức chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phép lạ, hơn mọi người nữ...”

Page 61: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 61

            Ngày tháng học trường Đạo qua nhanh đầy tiếc nuối như tổ chim mơ ước của tuổi thơ một sớm đã chuyền cành.

            Giống thằng Cuội ôm bí mật trên cung trăng, tôi cũng có bí mật riêng mình để mà quên một thuở, mà nhớ một đời. Sau vụ tranh giải Quýt Hương Cần thì thằng Tin ở phe Kiền đã mặc nhiên giữ chức “Quýt Hương Cần chính hiệu nai vàng”.

Tôi nghiễm nhiên trở thành đồng minh của nó, vì tình hữu nghị thắm thiết của hai đứa thuộc loại “đồng bịnh tương lân”.  Tôi và nó đều thích ngẩn ngơ tổ chim sáo trên bụi tre lá ngà cao ngất đầu làng.

            Đã có những buổi trưa trốn ăn và những phút vội vàng sợ chiều tắt nắng nằm nín thở một mình trên đám cỏ khô, hồi hộp nhìn vói theo chim sáo mẹ xây tổ rồi tha mồi về tổ cho sáo con, cả hai đứa miên man sống trong mơ về một ngày hạnh phúc.  Cả hai đứa cùng mơ về một ngày ấy sẽ ôm con sáo nhỏ trên tay, cho nó uống nước đường đen của mẹ tôi dùng nấu chè, kho cá và tập cho nó nói “Chào khách” hay “Ai đó”.  Ước mơ là quyền tự do tuyệt đối của con người.  Nhưng rồi, ước mơ là sương tan giữa thực tế gay gắt của mặt trời.  Sau bao ngày bàn tính nhỏ to, hai đứa chúng tôi quyết ra tay hành động.

            Một buổi xế trưa, hai đứa trốn lễ nhà thờ để bắt tổ chim sáo.  Từ dưới đất nhìn xuyên qua thân tre với hàng hàng, lớp lớp chi chít cành lớn, cành nhỏ, gai dài nhọn hoắt tôi có thể nhìn thấy tổ chim sáo đong đưa theo từng cơn gió, có cả bầu trời xanh lồng lộng trên cao.  Tôi leo lên cây, còn thằng Tin đứng dưới ngó chừng.  Nó cũng là nòi nghĩa hiệp.  Trời khá lạnh mà nó nhất quyết cởi trần để khoác cho tôi thêm cái áo ngoài để “gai khỏi chích”.  Lâu như ngày mới lớn chờ đợi lá thư tình, cuối cùng tôi leo lên tới ngọn tre.  Trước khi rờ tới được tổ chim sáo thì than ôi, tiếng nói ngọt ngào của vị Cha Xứ từ dưới vọng lên:

“Con trèo xuống.  Đừng vội mà đâm phải gai...”.

Học trường đạo luật lệ nghiêm minh mà dám trốn học trèo cây bắt chim thì dù các ông thánh hiện hình cũng không xin học lại được.  

                                             

Khúc ngoặt của dòng sông.

 

Thời nhỏ tôi thường nghe mẹ hò “Ai đưa con sáo sang sông, để cho con sáo sổ lồng bay đi”.  Tôi mê chim sáo, nhưng con sáo không sang sông mà tôi phải sang sông để tiếp tục học lớp i-tờ sau gần một tháng bị đuổi học. Làng tôi là làng Liễu Cốc Hạ.   Nguồn gốc của tên làng là do ngày xưa khi chúa Nguyễn mới vào Nam thì nơi đây là một rừng dương liễu trùng điệp chạy dài từ núi ra biển.  Những vị khai canh đã từng bước phá rừng dương trồng ngũ cốc.  Phía gần đồi núi mang tên là Liễu Cốc Thượng và làng tôi thành Liễu Cốc Hạ vì nằm phía dưới, cạnh con sông Bồ phát xuất từ dãy Trường Sơn. Huế có ba con sông đẹp nhất, trong xanh đáy nước in trời, chạy song song từ Trường Sơn về Nam Hải như ba cô gái cùng mẹ khác cha.  Sông Hương là cô bé dòng dõi Hoàng tộc nên có dáng “ yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”;  sông Bồ là cô bé phù sa gánh nước sa bồi tưới cho những cánh đồng lúa gầy gò, lam lũ; và sông Truồi là cô bé chân quê chăm bón cho những vườn dâu, vườn chè hương đậm bốn mùa.

Page 62: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 62

Sông Bồ đang chảy ngon trớn xuôi dòng về Nam, bỗng khi đến cuối làng tôi lại quẹo chếch về hướng Đông Bắc.  Con sông lượn vòng uốn khúc ôm biền phe Kiền cong như eo trái bầu non mùa Xuân mới lớn. Chính nơi đây, sông Bồ bao bọc mảnh đất truyền đời của quýt Hương Cần.

Làng Hương Cần có 5 vùng thường được gọi là 5 giáp: Giáp Đông, giáp Tây (Phe Chùa), giáp Trung, giáp Kiền (Phe Kiền), gíap Thượng.  Thế nhưng chỉ có Phe Kiền mới chính là  nơi trồng được quýt - quýt Hương Cần - ngon nhất nước.  Đã bao nhiêu năm qua, có rất nhiều người ở các làng kế cận, bứng nguyên cả cây quýt Hương Cần đã già hay còn non về trồng ở vườn trong làng khác, có nơi chỉ cách Phe Kiền làng Hương Cần một cái ao nhỏ không đầy hai bước.  Thế nhưng khi quýt ra trái vẫn là quýt chua, chẳng bà con lân cận gì với hương vị độc đáo của quýt Hương Cần.

Khi không tôi lại lọt vào vùng “thánh địa” của quýt Hương Cần.

Lớp học mới của tôi mở đằng sau hậu liêu của một nhà thờ họ củ kỹ và thấp lè tè như một tòa miếu cổ.  Xung quanh là vườn quýt già trồng từ đời nào với ngọn cao quá tầm mái ngói và tàng lá xanh đậm, san sát, lọc ánh mặt trời vã sao trên đất.  Vì mẹ tôi phải chờ ngày tốt sau Tết để cho năm rộng tháng dài và “được mùa sinh” (mùa Xuân) mới đưa tôi vào trường mới.  Mùa Xuân quýt trổ bông nên buổi sớm và buổi chiều hoa quýt trắng phau tỏa mùi thơm lúc the the, lúc dìu dịu từ mé sông Bồ cho đến những bờ ao.

Học ở Phe Kiền chừng vài tháng thì con đường duy nhất đến trường gọi là đường Nhứt bị phong tỏa giữa hai lằn đạn, lính Bảo Vệ phía Tây Bắc và Việt Minh phía Đông Nam.  Đường đi không một bóng người, nhưng ai cũng gờm gờm với cảm giác ớn lạnh là hai họng súng từ hai phía đang chĩa về con đường Nhứt định mệnh ấy.  Tôi không dám đến trường đi qua trên con đường Nhứt ấy mà phải lội băng qua con sông Bồ chảy qua làng Liễu Hạ và Phe Kiền.  Mẹ tôi vẫn thường so sánh: “Có phước đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo”.  Khổ nỗi tôi thích và hình như cũng có hơi giỏi cả hai:  Bơi lội và leo trèo!  Tôi mang về cả “phước” lẫn “tội” cho mẹ giống như tất cả những đứa bé quê Việt Nam.

Hàng ngày, buổi sớm và buổi chiều đi học và bãi trường về nhà, tôi đứng tần ngần nhìn sông.  Cởi áo quần, tôi cuốn chung với sách vở và mo cơm bới bỏ vào trong chiếc nón lá đã được phết dầu rái dày cộm để dùng như chiếc phao nổi rồi cắp nón lội xuống bờ sông. Cứ một tay bơi, một tay vịn và đẩy nhẹ vào chiếc nón lá để lội qua sông Bồ với giòng nước khi lặng lờ, khi chảy xiết.  Đến bờ, tôi mặc áo quần vào lại, ôm sách vở đến trường học.  Dù cố bảo vệ như đồ gia bảo, cuốn sách vở lòng và tập vở vấy nước lâu ngày dày cộm và chữ nghĩa nhoẹt nhòe.  Những ngày trời lạnh cuối thu,  nhìn nước xanh và những mảng lá vàng quấn quít trên sông tôi ước chi mình là chiếc lá bay chếch qua sông mà không phải đầm mình trong giòng nước sớm chiều lạnh cóng.  Rồi những ngày mưa lũ và những tháng mùa Đông, không bơi qua sông được, mẹ tôi phải thuê chú Cưỡng đem ghe chở qua sông.

Trường tôi chỉ có hai lớp và một thầy giáo.  Một lớp abc và một lớp “Ê-cri-vê”.  Lớp abc thì lũ nhóc học trò chỉ việc hoác mồm ra đọc theo thầy.  Có đứa tung hết nội lực thâm hậu ra đọc đến nỗi làm thầy sợ, bắt đọc nhỏ lại cả “tàu bay thám thính nghe”!  Lớp Ê-cri-vê là lớp cao cấp hơn , quy tụ toàn những đứa thông thái cở như tôi,  ít ra cũng có trình độ học vài ba tháng trường Đạo, dù chỉ là học trò trốn lớp bắt chim bị đuổi học như tôi.  Cho đến bây giờ và ngày xưa đi học, tôi vẫn chưa hiểu và cũng chẳng bao giờ dám hỏi thầy vì sao lớp tôi lại có cái tên ngộ nghĩnh như vậy.  Tôi

Page 63: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 63

đoán có lẽ vì lớp tôi có tập viết. Tôi viết bằng lưỡi viết lá tre cột vào cái cán bút tự chế biến chấm vào bình mực tím.  Hết mực, vắt nước trái mồng tơi lem luốc cũng nguệch ngoạc được dăm ba chữ thánh hiền!

Trường làng tôi là cái chái bỏ hoang trong khu nhà thờ họ Nguyễn.  Bàn ghế cái bằng tre, cái bằng gỗ khập khà khập khiểng theo đà lắc lư của đám học trò thích chạy rông ngoài đồng hơn là bị nhốt trong lớp học.  Trừ thầy giáo Cống có đôi dép cao su “rọ heo”, còn tất cả học trò đều chân đất.  Có một lần thằng Quảng làng La Vân, được một đôi dép mới e dè mang đi học, bị chọc quá, mặt méo xẹo, phải vác đôi dép lên vai khi bãi học về nhà.  Sáng hôm sau, nó hiên ngang đi chân trần tới lớp, trở về nhập bọn sĩ tử chân trần xóm nghèo.

Thầy tôi dạy tùy hứng.  Nhớ con cháu Gaulois  thì thầy dạy năm ba câu tiếng Tây.  Chúng tôi cứ nhắm mắt đọc theo thầy.  Cứ mỗi lần thằng Cu Sài dân Xóm Cụt bị kêu lên đọc bài thì những đứa ngồi bàn đầu như tôi khó tránh  ăn vài cái thước khẻ nên thân của thầy vì cười rúc rích.  Mở đầu câu chào hỏi “Bonjour, je m'appelle Cu Sài”  thì nó đọc ngọng nghịu ra sao mà cứ bị mấy trò lớn tồng ngồng cuối lớp nhái lại thành “Bồng rùa, rờ mép bên cu dài!”  Chán Tây, thầy lại về nguồn nhớ tổ Hùng Vương để dạy đôi bài tiếng Việt “Dân ta nòi giống Lạc Hồng, sao cho xứng mặt con rồng cháu tiên...”.  Hoặc đôi khi thầy sai tôi đi thắp thuốc, khói thuốc khơi dòng cho hồn thơ lai láng thì thầy dạy “Thu ơi! Ai nhuôm lá Thu vàng!”  Phương pháp dạy của Thầy là đọc và “nhớ mặt chữ” chứ chẳng cần lôi thôi đánh đấm vần xuôi, vần ngược gì cho vất vả!   Không ngờ tôi cứ đọc ê a theo cách dạy của Thầy mà bỗng trở thành giỏi lúc nào không hay.  Tôi biết mình giỏi là ngày mẹ tôi đem cái ống tre đựng giấy tờ bị thấm nước lụt ra phơi.  Tôi chụp ngay mấy chữ quen mắt mà thầy đã dạy ra đọc.  Có mấy chữ Tây phụ đề đâu đó tôi cũng quờ quạng đọc toáng lên luôn.   O Quảng khen:

- Cái thằng giỏi thiệt! Không cần đánh vần chi cả mà đọc trơn lu!

Mẹ tôi cười sung sướng.  Anh nắng mai trong mắt mẹ làm cho những hàng chữ nhạt nhòa trên giấy xưa úa vàng cũng long lanh màu hy vọng.

Không lâu sau đó, Tây đi lùng qua vùng quê tôi, bị Việt Minh phục kích gây thương vong.  Tây quay lại đốt nhà trả đũa.  Cả một vùng quê ngập tràn trong lửa đỏ.  Nhà tôi là nhà rường kiền kiền lợp tranh mây nên cháy suốt một ngày một đêm mới chịu hoàn toàn gục xuống giữa tro than.  Không rõ trường tôi bên kia sông vẫn còn hay mất.  Nhưng từ dạo đó, tôi đã vĩnh viễn xa ngôi trường một thuở thơm lừng mùi hoa quýt.

Tôi cũng không còn nhớ mình đã học quanh, học quẩn qua nhiều trường làng bằng cách nào mà cũng leo lên tới lớp ba, rồi lớp nhì và lớp nhất.  Ngày thi tiểu học toàn quận Hương Trà thật là cả một đại biến cố của đời tôi.  Mẹ tôi suốt đêm không ngủ.  Cứ hết ra sân thắp hương khấn vái, rồi đến việc nấu xôi bới trong mo cau thành từng gói.  Vừa có tiếng gà gáy lại cất lên từ phía chuồng gà úp trên chuồng heo là mẹ tôi đã đánh thức tôi dậy để chuẩn bị lên đường đi thi.  Hai tiếng “đi thi” có mãnh lực gọi mời pha một chút linh thiêng đối với tôi như tiếng gọi của rừng thẳm và Lady Jane đối với Tarzan.  Đầu mùa Hạ, đường đất pha với sương đêm mát dịu.  Đôi dép mới đi chưa quen bó vào chân nhức buốt.  Tôi phải vác đôi dép lên vai và lọt tọt chạy theo Mẹ.  Đến con đường Bàu Đôn dẫn tới Bao Vinh đá dăm lởm chởm.  Chân cứng mà đá không chịu mềm nên tôi chạy vã mồ hôi mới níu được bàn tay xương mà dịu dàng của mẹ.  Mẹ truyền “bí kíp” cho tôi: “Đi nghiêng chân để tránh bớt đá!” Chân nghiêng đổ lách mình trên con đường đá thẳng nên tới chỗ trường thi Hương Trà đã

Page 64: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 64

mệt bơ phờ.  Thi hai ngày rưỡi, hai mẹ con ăn hết nhiều mo cơm bới.  Mẹ tôi đón ở cổng trường sau mỗi buổi thi với câu hỏi đầy lo lắng: “Làm bài có được không con?”

Ngày treo bảng, tôi đỗ thứ ba trong số hơn nghìn thí sinh dự thi và mấy trăm thí sinh trúng tuyển “Pri-me”. Mẹ tôi mừng làm mâm cơm “cáo yết gia tiên”.  Nước mắt mẹ chảy dài theo nhang khói.  Tôi thương vẻ mừng vui thầm lặng tỏa chiết một cách rỡ ràng trên khuôn mặt mẹ nhiều hơn là mừng cho mình. Từ đó, khi được thực tế cuộc sống nâng niu, tôi vẫn cảm thấy như có mẹ bên đời; hay dẫu bị bạc đãi đến cỡ nào, tôi vẫn vịn vào lòng thương mẹ mà đứng dậy.

“Thư viện” của tôi là mấy nhà thờ họ rêu phong, là đình làng vắng vẻ, là ngôi chùa cổ kính. Đó là những nơi học bài, làm bài “rất vô”, ít bị bạn bè đến rủ rê hay tiếng ồn quấy phá.  Tôi có những phương pháp “học vẹt” tuyệt vời.  Như môn quốc văn chẳng hạn, tôi học thuộc làu làu chừng chục bài nghị luận văn chương, năm bảy bài nghị luận luân lý, những đoạn văn tả cảnh, tả tình đầy gợi cảm, đại khái chung chung áp dụng cho cảnh sum vầy hạnh phúc cũng đúng mà cảnh phân ly, chia biệt cũng chẳng lạc đề; văn chương cũng phong phú mà nghị luận cũng hùng hồn. Với tình cảm Việt Nam mà cứ tha thiết nói giọng bùi ngùi, xúc động, nghẹn ngào, thổn thức, thương cảm, hoài vọng, ước mơ... thì chạy đi đâu mà sợ lạc.

Rồi đến kỳ thi “càng cua” (concours) vào đệ thất trường trung học Hàm Nghi.  Đây quả là kỳ thi của số phận.  Hỏng “càng cua” là mất cơ hội vào học trường công.  Học trò làng, cơm áo còn thiếu, có đâu mà trả tiền học trường tư.  Bởi vậy, ở quê tôi, hầu như tương lai học hành của bọn trẻ cũng chấm dứt luôn một lần với việc thi hỏng “càng cua”.

“Học tài thi phận!” nghe ớn lạnh như lời truyền vào cổng trường thi của sĩ tử ngày xưa: “Báo ân nhập, báo oán nhập, sĩ tử thứ thứ nhập!”  Nghĩa là các linh hồn trả ơn và báo oán vào trường thi trước, kế đó mới đến thí sinh vào trường thi.

Cái chùm dây thòng lọng “học tài thi phận” Việt Nam cứ treo lủng lẳng trên đường mòn đèn sách đã biến thế giới bút nghiên thành thao trường của số phận. Hết tiểu học, đến “càng cua”; lên trung học, đến tú tài bán phần, tú tài toàn phần, thi tuyển vào các ngành đại học...  Cổng trường thi là cái cổng nhà trời đầy quyền uy dẫn người qua đó về nẻo vinh quang hay cay đắng!  Nhưng dù gian nan đến mấy thì tôi cũng vẫn không quên lời hứa với mẹ đã có cột cờ làm chứng:  Lời hứa mai sau sẽ làm ông “đốc tờ” cho mẹ vui lòng.

Sau 12 năm học, từ tiểu học lên đến trung học, kéo dài trong cảnh bão tố chiến tranh của toàn đất nước và trong khung cảnh biến động thường xuyên của một xã hội trôi nổi trên cuồng lưu của tư tưởng, kinh tế và chính trị, tôi thành “cậu tú”.   Ngưỡng cửa đại học mở ra e dè như anh chàng hà tiện mở hầu bao đã khách.  Thước đo chất xám của thời đại là “Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, nông lâm bỏ ra, chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm.”  Học bài còn được gọi là “gạo bài, nuốt bài” hay “tụng bài” cho nhuyễn để sẵn sàng rút ruột nhả tơ cho các kỳ thi tuyển. Cái học từ chương thay áo mới, bút lông thay bằng bút sắt, nhưng chiếc chiếu hoa cạp điều vẫn còn trải thảm trên lối đi của tri thức như xưa!

Tôi thi vào trường Đại học Y khoa Huế.  Một nghìn tư thí sinh lấy chín chục, tôi đậu thứ 9.  Tin tôi thi đậu vào trường “bác sĩ” lan ra cả vùng quê vốn bao nhiêu năm qua, người bệnh muốn gặp ông “đốc tờ” phải bỏ vào võng khiêng đi mất nửa ngày mới tới.  Tội nghịệp mẹ tôi mừng khấp khởi.  Hạnh phúc của những bà mẹ Việt Nam

Page 65: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 65

không phải là sự hưởng thụ thỏa mãn mà là nỗi hy vọng tràn trề về một tương lai sáng sủa cho con cái.  Nên hạnh phúc cũng có nghĩa là hy sinh.

Mẹ tôi đã hy sinh cả một đời thanh xuân cho gia đình và con cái, nhưng khả năng chỉ đủ sinh hoạt cho một gia đình khiêm tốn sau lũy tre xanh.  Con đường dài dằng dặc sáu, bảy năm ở trường y khoa chỉ còn trông cậy vào nguồn hỗ trợ tài chánh chủ yếu từ người anh cả của tôi.  Anh tôi đang chỉ huy một đơn vị tác chiến tại Khe Sanh.

Những ngày đầu nhập môn của một sinh viên y khoa tuy mới lạ và bận rộn đối với tôi, nhưng đó là những ngày tháng thật êm đềm của cuộc đời đi học.   Một tương lai đã được định hướng cùng với một hiện tại đáng hãnh diện và đầy hy vọng làm phấn chấn tinh thần dọn đường cho tôi đi tới. Với sức học đang lên và nỗi say mê đèn sách đang ở vào thời kỳ đầy phong độ, tôi nhìn thẳng vào con đường y khoa sáu năm đang đến như một đại lộ phong quang, chẳng gợn lên một chút mây mù gai góc nào cả.  Giảng đường và sách vở tạo ra một ảo giác tháp ngà êm ả. Tôi không để tâm nhiều đến cuộc chiến đang vùi dập những mảnh đời bất hạnh ngoài kia.

Tôi ở trọ tại Vỹ Dạ. Một buổi xế trưa không hẹn, Tuấn, một người bạn học rất thân của tôi xuất hiện ngoài cửa ngõ.  Dưới tàng cây xanh lọc nắng Tuấn cúi đầu lững thững vào nhà.  Tôi bắt gặp một nét gì khác lạ nơi Tuấn hôm nay.  Tuấn không chìa tay ra bắt như thường lệ mà ôm lấy vai tôi, nhè nhẹ kéo ra ngoài sân. Tôi tò mò và im lặng quan sát cử chỉ hơi bất thường của Tuấn hơn là nói lên một điều gì.  Tay Tuấn tìm bàn tay tôi và lặng lẽ đặt vào đó một mảnh giấy xếp tư.  Tôi e dè mở ra.  Một cái điện tín do anh Thiện gởi.  Nội dung ngắn gọn nhưng vết chém của nó vào cuộc đời thật là chát chúa và tàn độc:  “Anh Nhàn tử trận rồi.  Xác sẽ đưa về Huế hôm nay.”  Tôi chằm chằm nhìn cái điện tín ráo hoảnh như nhìn vào bầu trời mùa hạ rỗng không.  Hình như  trong tận cùng vô thức, hàng ngày tôi vẫn chờ tin nầy từ lâu lắm.  Tôi vẫn đưa anh Nhàn ra sân bay trực thăng Ái Tử, Thành Nội, Đà Nẵng để lên Khâm Đức, Dục Đức, Khe Sanh.  Cứ mỗi lần nhìn cái dáng nhỏ nhắn, sạm nắng của anh trong trang bị tác chiến chạy lên tàu trong đám bụi mù của cánh quạt trực thăng sẵn sàng cất cánh, tôi vẫn mơ hồ thấy được số phận chênh vênh, bọt bèo, ngắn ngủi của người lính chiến trường.

Anh cả tôi từ giã chiến trường.  Tôi từ giã y khoa.

Anh từ giã chiến trường để về đất.  Tôi từ giã y khoa để trải qua những mảnh bằng gió bụi.

 

Những mảnh bằng gió bụi

 

Tuy không phải là “chuột chạy cùng sào” nhưng tôi cũng vào sư phạm. Tôi thi vào Đại Học Sư Phạm chỉ vì lý do đơn giản là giáo sinh sư phạm được cấp học bổng hàng tháng, ít ra thì cũng đủ sống rất đạm bạc cho đến khi ra trường.

Ngành “kỹ sư tâm hồn” cũng bình lặng trôi qua.  Sau tốt nghiệp là đến ngày tung cánh nhận nhiệm sở.  Nhu cầu thì quá nhiều mà lò thầy lại sản xuất quá ít nên chúng tôi theo thứ tự đậu ra trường cao thấp để chọn các trường trung học kéo dài tờ Quảng Trị đến Bình Thuận, Khánh Hoà.  Tôi đậu thừ nhì, tôi chọn ra dạy ở Quảng Trị cho gần Huế, cái xứ Huế hiền lành mà lại quái ác níu chân tôi lại khi có dịp tung bay.

Page 66: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 66

Mới ra lò sư phạm, bầu kinh luân chưa nguội thế mà chàng phụ tá giám học trường Nguyễn Hoàng đã làm tôi nổi nóng.  Tôi không được chia dạy các lớp thi tú tài kềm với các lớp đệ tam như các đồng nghiệp khác.  Khi nêu thắc mắc, người phụ tá giám học trả lời chống chế, rằng , bởi vì tôi tốt nghiệp đại học sư phạm mà không có văn bằng cử nhân nên không được phụ trách dạy các lớp thi.  Tuy không có quy ước nào như thế, nhưng câu trả lời “láu cá” của chàng nầy làm tôi có mặc cảm như mình còn thiếu nợ sách đèn.

Chẳng hiểu sao vì chút tự ái không đâu mà tôi lại lấy làm điều nuôi chí ta đây không chịu thua ai.  Thế là tôi lại ghi danh học lại, vừa học vừa làm nên thành “học nợ”.   Chỉ còn thiếu một chứng chỉ Ngữ Học để đủ 5 chứng chỉ cho văn bằng Cử nhân Văn khoa nên hè năm sau tôi đã hoàn thành đủ trọn bộ “Tây Du Ký” để có thể mang tới nói mát, nói mẻ với gã phụ tá giám học.  Lần này, anh chàng lại “láu cá” thêm một lần nữa.  Anh ta cười xởi lởi nói cứng như ông bố vợ của tôi:

- Thấy không, chọn tướng không bằng khích tướng, nhờ ta nói khích chú mầy mới có được cái “cử nhân toàn phần” đó nhé.  Chừ ta đãi chú mầy một chầu cà phê đường Trần Hưng Đạo, còn chú mầy phải khao ta một chầu nem lụi Sãi mới xứng công ta dám chơi trò “Lưu Bình Dương Lễ” thời nay!

 

oOo

  

Rồi bẵng đi mười lăm năm...sách vở chỉ còn là một phương tiện để dạy học khi lên lớp hay để đọc mua vui và lúc cần tham khảo.

            Tôi qua Mỹ, xây dựng cuộc đời mới với nghề làm cỏ.

Nếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận thu nhập hàng tháng thì nghề làm cỏ kiếm tiền có thể nhanh và nhiều hơn lương của một kỹ sư mới ra trường.  Nhưng tâm trạng của những người bỏ xứ ra đi không dừng lại ở chỗ cơm áo.  Ai cũng muốn chen chân vào xã hội mới với một thế đứng khá hơn là chỉ biết cày cục làm thuê, phụ mướn kiếm tiền.  Con đường tiến thân ít bị số phận may rủi chi phối nhất là đi học.  Trong khi cái xứ quái ác nầy còn mang thêm nhãn hiệu là “vùng đất của cơ hội”, một vùng đất có cơ hội bằng vàng cho những người đi học.  Nên hầu hết những người Việt vào độ tuổi trung niên có căn bản nghề nghiệp và học vấn ở Việt Nam đều phấn đấu trở lại trường toàn thời gian hoặc vừa học vừa làm.  Mỹ là một nước “trịch thượng” nhất trong vấn đề bằng cấp.  Bằng biếu của Mỹ thường được công nhận khắp nơi trên thế giới, nhưng Mỹ thì lại không công nhận bằng cấp từ các quốc gia khác.  Ôm bằng cấp nước ngoài vào Mỹ để du lịch, diễn thuyết, đọc thơ, trình diễn... cho vui thì “ô kê, chơi xong rồi về”, nhưng để hành nghề hay kiếm việc thì “xo ri, đừng đi cho mệt”!  Bởi vậy, không có trường hợp ngoại lệ mà tất cả các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư, giáo sư , chuyên viên... Việt Nam đến Mỹ muốn hành nghề trở lại đều phải đầu tư mồ hôi và nước mắt vào việc học trở lại.  Trên đường đi, rất nhiều “kẻ sĩ” bỏ cuộc, lồng bằng cấp cũ vào khung kính treo cho đỡ buồn, rồi ráng đi tìm một công việc khác có thể chẳng ăn nhập gì đến khả năng chuyên môn ngày xưa của mình.

Trong đám sĩ tử “nửa đời hương phấn” đó có tôi.

Page 67: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 67

Đang làm cỏ với thêm bốn người anh em giúp sức mà vẫn không kham hết nổi công việc.  Tôi đang ở giai đoạn cực thịnh của người Á Châu hành nghề làm cỏ tại Mỹ.  Có được phương tiện vững vàng và cơ hội thuận lợi trong tay, làm ra tiền không không phải là chuyện khó. Một buổi chiều, bà cụ Kim nơi tôi ở trọ chỉ cho tôi bài báo đăng tin tiến sĩ Nguyễn Trung Hiếu ở Chicago đang thực hiện một chương trình cao học dành cho những sinh viên Việt Nam đã có văn bằng cử nhân tại quê nhà.  Tiếng kèn thúc quân của sách vở lại giục giã tôi xếp cơ hội làm tiền theo việc bút nghiên.   Nhu cầu tiền bạc và khát vọng trau giồi kiến thức học vấn đều có sức mạnh réo gọi mãnh liệt như nhau.  Nhưng tôi chỉ có quyền chọn một trong hai.  Khi hai dĩa cân đang ở thế quân bình trong tôi thì bà xã tôi bỏ phiếu “đi học”.  Được lời như cởi tấm lòng,  tôi bỏ nghề làm cỏ đành đoạn như cô lái đò của Nguyễn Bính ngày xưa “Bỏ thuyền bỏ lái bỏ dòng sông.  Cô lái ngày xưa đi lấy... bằng” để đi học.  Nhưng thực tế thật cay chua chứ không xuôi giòng êm ả như mộng ước.  Muốn được nhận vào chương trình cao học (master - Việt Nam ngày nay dịch là thạc sĩ), sinh viên ngoại quốc như tôi phải có văn bằng cử nhân liên quan đến ngành học với đủ bằng chứng học trình được một cơ quan giáo dục độc lập đánh giá, thanh sát và đề nghị.  Và “ngao ngán” nhất cho tôi là phải đạt điểm 550/600 của kỳ thi TOEFL (Test of English as a Foreign Language) và phải thi đậu WPE (Writing Profiency Examination).  Liên tiếp trong 3 kỳ thi TOEFL, tôi chỉ đạt tới điểm 512, 530 và 532. Lần nào cũng bị rớt đài phần “nghe” (listening comprehension).  Tôi bỗng đâm nghi ngờ lỗ tai mình thành lỗ tai sim!  Lần chót, khi đã quá nản lòng và chuẩn bị buông tay thì may sao tôi “qua truông”.  Về món WPE thì tương đối đỡ gai góc hơn, tôi chỉ thi tới lần thứ hai là “vượt thác”.

Đã bao nhiêu lần đi dò la qua các trường đại học Mỹ, tôi mang tâm trạng của kẻ “ngoại đạo”, đứng xa mà nhìn môi trường đại học uy nghi và thâm nghiêm không mong gì với đến.  Đến khi được vào trường, đeo cùi sách trên lưng, tôi hoang mang không biết là mình sung sướng, cảm thấy trẻ lại để nhảy chân sáo trên những lối vào giảng đường và thư viện như một thời trẻ dại; hay phải méo mặt vì cục khổ cứ lè kè đeo đẳng mãi bên lưng!

  Dù chưa tới 40 tuổi nhưng tôi đã tự coi mình là “sinh viên râu”.  Không ngờ vào trường Sac-State, có biết bao nhiêu người râu dài hơn tôi gần cả thế hệ.  Tôi lại gặp được một người bạn học vong niên “sinh viên râu thiệt” là cụ Nguyễn Đức Hiếu, nguyên chánh sở học chánh Sài Gòn Gia Định ngày xưa, đã ngoài 65 tuổi râu tóc bạc phơ, cũng đeo túi sách đi học chương trình cao học như tôi.  Năm  năm vừa học vừa làm, có khi phải kê sách vở lên đùi, lên ghế xe để làm bài hay viết luận án tốt nghiệp, cuối cùng tôi cũng ra trường với cái tiểu luận án cao học  (master thesis) dày 272 trang, nhan đề “The Impact of Relocation on the Vietnamese Refugees in the United States”  (Tác động của sự di cư đối với người Việt Nam tỵ nạn ở Mỹ).  Tôi viết một mình trong khi các sinh viên Mỹ viết chung thành nhóm 2, 3 người cho một tiểu luận tốt nghiệp.  Dù trong hoàn cảnh còn bị khó khăn ít nhiều về ngôn ngữ cần hợp tác để được giúp đỡ, tôi vẫn cảm thấy chưa thoải mái với kiểu làm ăn hợp tác “team work” của ngườn bản xứ.  Phải chăng đây cũng là ảnh hưởng sâu đậm phong cách “con nhà miệt vườn”, thích riêng tư và ngại chia sẻ của Huế.

Năm 1988 ra trường, kiếm được một công việc làm tương đối hợp khả năng, tôi yên chí là đối với bản thân mình gió đã yên, sóng đã lặng, “gác mái ngư ông về viễn phố” để ngắm nhìn biển học mênh mông.  Không ngờ chưa tới mười năm sau, 1995, tôi lại bị “tiếng gọi sông hồ” của sách vở trở lại một cách tình cờ.  Con đường đại học kéo dài 30 năm chữ nghĩa muộn màng.

Page 68: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 68

Bé Quan Thư, cháu lớn của tôi, là một thành viên rất năng nỗ trong ban chấp hành Hội Sinh Viên Việt Nam tại trường đại học UC Davis.  Vốn liếng quý nhất của cháu còn lại sau những năm miệt mài ở nhà trường Mỹ là khả năng nói tiếng Việt lưu loát. Ngày cháu chuẩn bị vào trường Nha UCLA, hai bố con lại có dịp “luận bàn thế sự” một cách thoải mái khi nói về mối quan hệ “cổ truyền” giữa hai thế hệ Việt Nam già và trẻ.  Thư nêu nhận xét của bạn bè Việt Nam đồng trang lứa về việc vắng bóng một “Chiếc Cầu Thế Hệ” giữa hai thế hệ đàn anh và thế hệ đàn em Việt Nam trên đất Mỹ.             Thế hệ đàn anh đang nhìn về quá khứ với lòng tự hào và nỗi uất hận quyện lấy nhau.  Tuy thái độ và mức độ phản ứng khác nhau, nhưng phần đông lớp đàn anh lớn tuổi đã kinh qua lao tù cải tạo vẫn thường coi thân phận của mình trên đất Mỹ là thân phận lưu đày, tạm dung.  Anh em nhìn về quá khứ với nỗi u uất một “thời vang bóng”, đối diện với thực tại là kẻ mất chân đứng trong hệ thống xã hội Hoa Kỳ và nhìn về tương lai với một giấc mơ “quang phục quê hương” rỡ ràng như cổ tích. Trong khi đó, thế hệ đàn em đang hội nhập vào xã hội mới một cách tự nhiên và nhanh chóng.  Sự đối thoại giữa hai thế hệ dần dần trở thành xa cách trong lối suy tư và hướng nhìn về mai hậu.  Khi mối quan hệ chỉ còn là sự lễ độ vì truyền thống và sự vâng lời chỉ vì giềng mối của gia đình cũng có nghĩa là chỉ còn độc thoại.  Không có sự chia sẻ lý tưởng, không có cơ hội để cho hai viễn ảnh về tương lai của hai thế hệ gặp gỡ, va chạm, tác động qua lại với nhau trên cùng một mặt bằng xã hội thì hiện tượng “ly dị tri thức” sẽ xảy ra.  Tuy sự diễn tiến âm thầm và êm ái nhưng sẽ xuôi giòng biền biệt, khó quay lại đầu nguồn.

Tôi đồng ý phần lớn nhận xét của bé Thư và tuổi trẻ.  Nhưng vẫn còn thắc mắc:

- Như vậy theo con thì làm thế nào để thiết lập một sự tương giao giữa hai thế hệ?

Thư trả lời như đã suy nghĩ từ lâu lắm:

- Cần có một sự hiểu biết và thông cảm giữa hai thế hệ của Ba và con.

Tôi gợi ý:

- Con muốn nói đến một “nhịp cầu thế hệ”?

Bé thưa:

- Ba muốn gọi bằng danh từ nào cũng được, nhưng tụi con đang cần có một gạch nối để cho tụi con hiểu được thế giới của chú bác và ngược lại thì chú bác cũng cần hiểu tụi con đang nghĩ gì, muốn gì, làm gì mới có thể hướng dẫn cho tuổi trẻ được.

Tôi hỏi lại:

- Thôi, nói chuyện nhà mình đi cho dễ.  Theo con thì ba phải làm gì hiểu tụi con hơn?

Bé đề nghị:

            - Có rất nhiều cách, còn tùy từng người và tùy hoàn cảnh ba ơi!  Nhưng với ba thì con nghĩ là ba nên đi học nữa.

Tôi ngạc nhiên:

            - Nghĩa là con nghĩ ba phải có bằng cấp cho cao mới hiểu được tuổi trẻ các con hay sao?

Page 69: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 69

Bé giải thích:

- Dạ, ý con không phải vậy.  Theo con thì bằng cấp không phải là thước đo chính xác trình độ,  khả năng và sự khôn ngoan  của một người.  Con chỉ muốn nói kiến thức và bằng cấp không quan trọng bằng phương pháp để tìm hiểu.  Vạch một hướng đi mà cứ việc chỉ chỏ theo kinh nghiệm chủ quan và thói quen thì không rõ bằng có bản đồ trong tay.  Cho con cá không tích cực bằng cho cần câu.  Bởi vậy, sự tiến lên là sự học không ngừng...

- Ba chưa hiểu hết ý con muốn nói gì?

- Nghĩa là chúng con mong ước thế hệ của Ba đừng khư khư bảo thủ những gì đang có mà cần mở rộng cánh cửa tri thức để bảo tồn cái cũ thật sự có giá trị và đón nhận cái mới thật sự đang cần. Thời nay, muốn tránh được cái bệnh chủ quan và bảo thủ thì phải học thôi ba ơi!

Tôi thương con và hiểu tấm lòng của các cháu. Thời đại điện tử, kiến thức của nhân loại tăng gấp đôi trong mỗi mười năm.  Nhưng rất khác với người Âu Mỹ, phần đông phụ huynh Việt Nam lo làm việc quần quật và quan tâm nuôi con khôn lớn bằng cơm áo và vật chất.  Ít bậc phụ huynh dành nhiều thì giờ chăm lo con cái bằng cách gẫn gũi, chia sẻ và tâm sự với chúng.

Thư lại khẩn khoản đề nghị:

- Ba ơi! Sao ba không học tiếp chương trình Ph. D ba hè.  Tụi con học theo ngành của tụi con, ba học theo ngành của ba, rồi bốn năm nữa, cả 3 cha con ra trường một lần cho vui.

Nghe đến chuyện học hành, phụ huynh nào mà không hứng chí theo con.  Tôi hăng hái “ngoéo tay” con mà quên soi gương để nhìn tuổi già của mình đang đến:

- Ừ, học thì học.

Giải thưởng đầy hứa hẹn cho cuộc chạy đua “phụ tử” nầy là một chiếc xe mới, “pháp bất vị than”.  Điều kiện là ai xong văn bằng doctor trước thì người thua cuộc phải mua cho một chiếc xe mới.      

Thật khó lòng cho một người cha giơ tay đầu hàng con cái để nhận mình thua cuộc.  Ngày bé Thư ra trường nha và bé Trinh ra trường thuốc, cả hai đứa đều đã tỏ ra “hảo hớn đại chí hiếu”  là không bắt bí tôi phải thi hành đúng hiệp ước mua xe mà chỉ cho tôi một chiến thuật rút quân trong danh dự là:

- Ba ơ! Ba đừng lo.  Tụi con cho ba mắc nợ hai chiếc xe đó!

Tôi cười giả lả:

- Ừ, để mai mốt về làng, ba mua cho mỗi đứa một chiếc xe phở là xong nợ! (Xe đạp nước vào ruộng)

Tụi nhỏ thương bố già, nheo mắt cười; thông cảm.

Tôi đang ở nửa đường và cuộc thi kéo dài bốn, năm năm đã qua.  Tụi nhỏ đã bóp còi qua mặt.  Thuốc súng thời thượng xì hơi nên chiếc pháo bay chữ nghĩa sách đèn

Page 70: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 70

không còn gia tốc. Tôi mệt mỏi, mấy lần muốn bỏ học nhưng bà xã tôi đã “nhanh tay” trả tiền trước cho chương trình học quá nhiều.  Nếu tôi tự động rút lui, ngân khoản nộp rồi sẽ không được bồi hoàn trở lại.  Cho nên, động cơ còn lại làm cho tôi phải rán học, nếu nói ra thì hơi “ốt dột”, nhưng dấu kín lại sợ bạn hiền hiểu lầm một cách oan uổng là tôi ham học hơn ham chơi.  Đó là việc tôi phải anh dũng tiến lên trên con đường học vấn vì...  “tiếc tiền”!  Đã vậy thì vầy, nhưng có hơi khác Tú Xương ngày xưa: “Tấp tểnh người đi tớ cũng đi.  Cũng lều cũng chỏng cũng vô thi...” vì tôi không ở vùng trường thi Nam Định mà khổ nỗi là đang ở Mỹ. Và cái dở nhất của đất nước nầy là lối sống rất “hiện sinh”, rất “thiền” mà không thiền gì cả. Nghĩa là làm thì ra làm, chơi thì ra chơi, lơi khơi thì “homeless” (vô gia cư). Chữ nghĩa muộn màng, nhưng lại không thể “homeless” trong kiến thức và tư tưởng nên phải ra roi thúc ngựa tiếp tục lên đàng tầm sư học đạo...

Ai cũng biết rằng, “linh hồn” của mảnh bằng tiến sĩ nằm ở giá trị của luận án.   Cũng là nòi tập tểnh bước vào trường văn bút, bên cạnh sự thôi thúc cần phải học cho xong một chương trình đã kéo dài trên 5 năm, tôi còn ôm thêm hoài bão là phải viết một luận án “để đời” như bao nhiêu người trong cùng một hoàn cảnh như tôi.

Có một mùa Hè, tôi gác lại chuyến về thăm Việt Nam, dành thì giờ và chút đỉnh tiền bạc dự chi cho chuyến đi để đi tìm “luận án minh sư”.  Tôi tìm đọc và học hỏi cho được một số luận án tiến sĩ của giới đàn anh, đàn chị như của Nguyễn Văn Trung, Thích Minh Châu, Thái Kim Lan, Thái Văn Kiểm, Cao Huy Thuần, Nguyễn Trung Hiếu, Lê Thành Trung... Tôi cũng chịu khó đi vào thư viện của các trường đại học lớn quanh vùng tôi đang ở như UC Davis, Berkeley, Standford, UC San Francisco để truy tìm những luận án trong lãnh vực khoa học nhân văn mang họ Nguyễn, Trần, Phan, Lê... Việt Nam ta để tham khảo.  Nhìn chung, các luận án mà tôi tìm đến dài ngắn trung bình từ 200 đến 400 trang.  Ngoại trừ một số rất ít tác giả có sức bật đầy sáng tạo và tinh thần khai phá tìm cái mới, phần đông các luận án mang tinh thần “tập đại thành” nghĩa là chịu khó đào bới kho kiến thức đã có sẵn đây đó trong lĩnh vực chuyên biệt nào đó, rồi chắt lọc, phân tích  và hệ thống hóa làm cơ sở cho luận án chuyên đề của mình.  Mỗi người một vẻ, tuy không thất vọng, nhưng cũng chẳng “đã khát” như  mong ước, tôi trở về đối diện với “thằng tôi” của mình. 

Giáo sư bảo trợ luân án của tôi là Dr. Roy Sumpter.  Tôi bái sư nhập môn ra mắt thầy rất đúng bài bản của môn phái học sĩ.  Tôi chọn đề tài “The Impact of the Vietnam War and Its  Aftermath on the Vietnamese Refugees' Adjustment in the United States” (Tác Động của Chiến Tranh Việt Nam và Hệ Quả của Nó Đối Với Sự Hội Nhập của Người Việt tại Hoa Kỳ).  Tôi ra mắt chưởng môn Sumpter với một “Concept Paper” dài 37 trang.  Chưởng môn bèn huơ đại đao thị uy phán rằng: “Cái đề của tiểu sanh dài quá, rút lại còn 5, 7 chữ thôi và Concept Paper cũng dài lê thê, rút lại còn 3 trang!” Bầu kinh luân đang sôi bị nguội điện, tôi trở về đổi lại đề tài cho  luận án là “The Vietnam War and Its Psychological Aftermath” và dùng bảo kiếm cắt xén 37 trang kinh sử thành 3 trang.  Tới hiệp hai, chưởng môn lại  cho rằng cái đề có vẻ “trời biển” mênh mông quá cần thu hẹp lại cho cụ thể hơn và thầy phán “O.K” về phần Concept Paper nhưng cần phải khai triển ra thành 15 trang.

Rồi đến 2 chương 1 và 2 (Problem statement và Review Relevant Literature) sư phụ lại phê là có vẻ “văn chương ướt át” con nhà văn quá, cần phải viết lại cho nó đúng cái phong cách con nhà “nghiên cứu” một chút.  Qua nhiều giai đoạn bế môn luyện công, tham vọng viết một tác phẩm luận án để đời bị mài dũa các góc cạnh cho đến hồi nhẵn bóng.  Trong tôi chỉ còn lại một nhu cầu viết lách là làm sao viết cho đủ chữ không thừa không thiếu để khỏi bị cho luyện võ dài dài và được hội đồng thông qua mà ra trường cũng đã là quý hóa lắm rồi.  Bây giờ tôi mới hiểu lý do vì sao các người

Page 71: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 71

đàn anh, đàn chị của tôi đi trước, tài năng là thế mà phải tạm xếp cung thương, múa quyền “tập đại thành” để vừa đủ ra trường, khỏi kéo dài lê thê những tháng ngày miệt mài tham khảo.

  Ngày bảo vệ luận án trước Hội Đồng giám khảo đại học Southern California có các con bên cạnh, tôi cảm thấy lòng lâng lâng hạnh phúc.  Niềm hạnh phúc của con tàu về bến sau những chuyến hải hành bị dập vùi quá nhiều sóng gió nhưng vẫn kiên trì không đổi hướng. Tôi không được may mắn như thế hệ con cháu của mình hay như tầng lớp sinh viên du học đi thẳng trên đường học vấn, yên tâm trong vòng tay của gia đình và giữa cảnh thanh bình của xã hội và đất nước.  Mỗi mảnh bằng tôi đến và dừng lại cách nhau cả mươi, mười lăm năm.   Đó là những mảnh bằng đầy dấu ấn gió bụi từ đời sống, suy tư và lịch sử thăng trầm của đất nước mà tôi đã đi qua.

Dăm mảnh bằng gió bụi với chữ nghĩa tình cờ, sách vở muộn màng chẳng có gì đáng nói. Có chăng một chút âm hưởng thì đó là một điều tự tình nho nhỏ:  Ra đi có thể quá sớm hay muộn màng, nhưng sự tìm đến và vươn lên tìm một dáng vẻ đáng yêu cho tâm hồn và tri thức thường không bao giờ  quá muộn.

 

 

                                                           Trần Kiêm Đoàn

Đi Tây...

Có quay qua quay lại hoài thì cũng vẫn không thoát ra khỏi chiếc ghế đơn điệu đã bị gắn chặt trên sàn. Cả sáu phía, trên, dưới, trước, sau, phải, trái đều bị giới hạn. Tôi có cảm giác thiếu thỏai mái như khi bị ngứa sau lưng mà với tay không tới để gãi. Gần một ngày một đêm bó gối không biết làm gì, tôi bèn... suy tư về cái chủ đề liên quan đến thân thế của con người trên máy bay.  Từ đó tôi mới lơ mơ khám phá một nếp sống tương cận, đó là nếp sống ở đò. Tôi lớn lên ở đồng quê.  Tuổi hoa niên chạy nhảy theo những con đường làng, sông, hói, bờ ruộng.  Đôi khi ngồi trên bờ sông, cảm thấy ngứa ngáy chân tay khi ngoắc tay với sáp nhỏ cùng tuổi sống ở trên đò. Tôi lo giùm cho tụi nó.  Lo bị rớt xuống sông uống nước no quá! Chết. Lo ông già uống rượu say vác dao rượt bà già không có chỗ trốn. Nguy! Lo không biết tìm đâu ra tổ chim chiền chiện trên cây. Buồn! Lo chẳng biết có đứa nào đã từng biết đá banh, chơi ù mọi, cút tìm… như lũ trẻ chúng tôi trên đất liền thường có không. Nghĩ không ra một chân trời thỏai mái cho tụi nhỏ ở đò, tôi hỏi mẹ thì được mẹ tôi khuyên là “đừng có ở đó mà lo chuyện voi chết không hòm!”

            Bốn chục năm sau tôi lại ngồi trên chiếc “đò bay”.  Đò bay qua ngày, thâu đêm trên mây.  Mạng sống của hơn ba trăm người tùy thuộc vào hai ống phản lực chạy rì rầm trên chót vót đỉnh trời. Không biết từ dưới mặt địa cầu dưới kia, có đứa trẻ nào như tôi ngày xưa “lo voi chết không hòm” cho những người ngồi bó gối trên nầy?

            Suốt chuyến bay dài từ Manila đến San Francisco, tôi không tài nào chợp mắt được một phút.  Không hiểu ngày xưa thế hệ đàn anh khi “đi Tây” có mảnh suy nghĩ và cảm xúc nào giống như chúng tôi hôm nay không.  Tôi lẩn thẩn tự hỏi và tự trả lời trong lặng im.

Page 72: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 72

Rời Manila, sau 18 giờ bay, chiếc Boeing 747 của hảng Pan-Am vào vùng trời nước Mỹ trong cảnh rạng đông của phi trường San Francisco.  Bình minh đầu thu phơn phớt nhuộm hồng vùng vịnh San Francisco.  Trời, nước và ráng mây sớm mai chiếu ánh sáng long lanh màu tím nhạt.  Từ sau ô cửa máy bay nhìn xuống, cả biển nước óng ánh như những giải thiên hà trong đêm.  Vẻ bình yên và khoáng đạt của xứ sở nầy gây ấn tượng đầy xúc động và niềm hy vọng dạt dào trong tâm hồn người mới đến.

Khung cảnh rộn ràng đầy màu sắc của hành khách tứ xứ nơi phi trường cửa ngõ Thái Bình Dương đi vào đất Mỹ nầy làm choáng ngợp những người lần đầu đến đây từ nhiều vùng đất xa vời từ khắp nơi trên thế giới.

Ra khỏi phi trường, trời San Francisco vào cuồi mùa Thu lạnh cóng.  Mỗi người được phát một chiếc áo ấm để mặc, ngồi đợi chuyến bay kế tiếp.  Trên vùng đất mới, tôi chỉ biết được vỏn vẹn cái tên Dallas và Baton Rouge quá lạ lùng trong lịch trình chuyến bay với nỗi ngỡ ngàng và lo lắng chưa biết số phận sẽ đưa mình về đâu !

Máy bay đáp xuống phi trường Baton Rouge lúc 10 giờ đêm. Bên ngoài khung cửa sổ máy bay, bầu trời tối đen như mực.  Chỉ có những hàng đèn sáng lập lòe trên phi đạo định hướng cho bước lưu dân sắp tới.  Nhìn dáng rũ rượi vì mệt mõi của những người trong gia đình sau chuyến bay quá dài ngày tôi bỗng đâm lo.  Không biết khuya khoắt thế nầy có ai nhớ để ra sân bay đón mình không.   Và người cưu mang gia đình mình đêm nay sẽ là ai?  Ông Tây, bà đầm, Mỹ đen, Mỹ trắng, kẻ hảo tâm, nhà từ thiện… hay chẳng có ai. Tôi rời ghế, dắt díu gia đình đi theo đoàn hành khách trong nỗi hy vọng lẫn ưu tư về một cuộc đời mới đang chực chờ hiện hình trước mắt.

Vừa ra khỏi vòng thang máy bay, tôi ngẩn ngơ vì có nhiều người Việt Nam chưa quen biết đang tươi cười chờ sẵn để đón. Tôi bỡ ngỡ vì chưa biết tại sao mình lại có được hân hạnh nầy.  Một vị lớn tuổi cho biết là gia đình tôi được một nhóm người Việt đến trước bảo trợ và giúp đỡ như một công tác xã hội từ thiện.

Thành phố Baton Rouge là đất lành nhưng chim không đậu được vì tôi đến Mỹ vào thời điểm 1983, tỷ số thất nghiệp lên tới 8.5 nên rất khó tìm việc. Ngược với truyền thống Á Đông, người Mỹ phải “lạc nghiệp” trước đã rồi mới đến “an cư”.  Trên thành phố thủ phủ Baton Rouge của tiểu bang Louisiana, dù tôi đã an cư và sống chan hòa với tình người, tình bè bạn, nhưng vì không “lạc nghiệp” được nên cuối cùng, rồi cũng phải chia tay qua tiểu bang California tìm một hướng sống khác.

Mỹ là đất nước của một hợp chủng tứ xứ di dân từ khắp nơi trên thế giới.  Tất cả mọi người thuộc thế hệ di dân thứ nhất trên đất Mỹ đều có một điểm chung về bản sắc.   Đấy là bóng dáng của quê hương cội nguồn còn đậm nét trong tâm thức, bên cạnh một đất nước mới cần phải phấn đấu vươn lên để sống còn và lập nghiệp.  Có hàng mấy trăm nhóm chủng tộc của thế giới đang chung sống trên đất Mỹ, trong đó, Việt Nam là một trong 20 nhóm chủng tộc châu Á có truyền thống lịch sử, ngôn ngữ và văn hoá hoàn toàn khác nhau.  Bởi vậy, Mỹ còn được gọi là vùng đất của cơ hội (Land of opportunity), nhưng có biết nắm cơ hội đúng tầm, đúng lúc và đúng chỗ để tiến tới thành công hay không là còn tùy thuộc phần lớn vào bản lĩnh của cá nhân và ý chí kế thừa của từng nhóm dân tộc.  Sự nổi bật ngang tầm của người Nhật, người Tàu, người Việt, người Đại Hàn trong tập thể các sắc dân châu Á về mọi mặt trên đất Mỹ là niềm tự hào dân tộc mà khi còn ở quê nhà tôi chẳng buồn nghĩ tới.   Khái niệm mang nặng tính tiêu cực và mặc cảm tự ty như khái niệm  “nhược tiểu” trước các sắc dân khác không có lý do tồn tại đối với thế hệ trẻ Việt Nam ở nước ngoài.

Page 73: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 73

Thế hệ thứ nhất của người Việt định cư trên đất Mỹ đã tự xác định hướng vươn lên của con nhà nghèo.  Rất khác với lớp người di dân châu Á từ Trung Hoa, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Ấn Độ… là những người mang theo tài sản làm vốn kinh doanh từ bước đầu đến Mỹ, hầu hết người Việt Nam đến Mỹ với hai bàn tay trắng.  Tay trắng nhưng không chịu chấp nhận trắng tay trong công việc làm ăn sinh sống.  Người Việt đã không dừng lại trong công việc lao động giản đơn làm công ăn lương mà hầu như không sớm thì muộn, mỗi người đều tự phấn đấu hết mình để trở thành những người “chủ nhỏ”.  Hướng thuận lợi nhất để sớm trở thành những chủ nhỏ là đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề làm cỏ, làm móng tay, cắt tóc, phân phối báo hàng ngày.

Vấn đề còn lại đã làm cho nhiều người Việt Nam thao thức và trăn trở nhất là hai cái “có” gần trước mắt thường xuyên réo gọi và lọai trừ nhau không nhân nhượng: Có tiền hay có học.  Có của hay có danh.  Nên có tiền trước hay nên có kiến thức, bằng cấp trước?  Tùy sư lựa chon của mỗi người trong hoàn cảnh cụ thể của chính mình để tiến tới điều mong muốn.  Muốn có kiến thức thì vào trường hoặc là muốn có tiền thì kiếm đường làm ăn.  Riêng tôi thì “ dùng dằng nửa ở nửa về “, nghĩa là thích học nhưng không có gan làm hàn sĩ.  Gã tinh thần kéo vào trường; trong khi gã vật chất lôi ra ngoài bãi cỏ, nên tôi mới có cơ hội chạy bao sân.  Cái thú “chạy bao sân” trên xứ Mỹ đã mang đến những kinh nghiệm tuyệt vời.  Dưới ánh mặt trời, cắt một bãi cỏ xanh tươm tất trong khu vườn hay dạy một lớp đầy hứng thú trong giảng đường đại học đều mang cùng nghĩa sống như nhau. “Ra đi gặp vịt cũng lùa; gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu!”  Cái triết lý hành động của cụ Nguyễn Công Trứ nhà Việt Nam ta, cộng với tinh thần phá chấp thiền môn bỗng hứng chí gặp triết lý dấn thân của Hemingway nơi quê nhà chú Sam mà nẩy mầm, đâm rể.

Tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm tươi mới và nóng bỏng đầu tiên của chính mình trên đất Mỹ:  Nghề làm vườn hay nói gọn hơn là làm cỏ.

 

Làm cỏ

 

Nếu có ai hỏi tôi rằng, điều khó khăn nhất khi bước đầu đến Mỹ là gì, có lẽ tôi sẽ không ngần ngại để nói ngay rằng: “Đó là sự trở ngại về ngôn ngữ!”   Học toán, học nghề có thể lấy tháng, lấy năm để tính; nhưng học một ngôn ngữ mới, phải lấy cả một đời để đo cũng chưa đủ.  Tuy xuất thân cũng là thầy dạy tiếng Anh, tôi đã trang bị chút vốn liếng ngoại ngữ trước khi vào đất nước nầy, thế nhưng bước đầu đến Mỹ, đôi khi gặp Mỹ đen, Mỹ đỏ, Mỹ vàng nói âm lóng địa phương, tôi vẫn lâm vào cảnh “vịt nghe sấm” khi tiếp xúc với người bản xứ trong sự giao tiếp với đời sống thực tế.  Mỹ là nước hợp chủng nên người Mỹ “mở máy” ra là nói vi vu, không cần biết người đối diện qua Mỹ đã khổ sở tập uốn lưỡi mấy lần và đã ăn bao nhiêu bánh Hamburger để… luyện giọng, luyện tai nhưng vẫn mơ màng nghe gió thoảng bụi tre.  Hơn thế nữa, học ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là học tín hiệu mà còn là học về văn hóa, nên có lẽ dù cho suốt đời ở Mỹ, tôi vẫn không bao giờ có hy vọng có thể rong chơi với tiếng người một cách mượt mà và thoải mái, như đã hơn nửa đời tung tăng uốn lượn trong môi trường tiếng mẹ đẻ của mình.  Cùng với những người bạn thân thương đồng cảnh ngộ, chúng tôi tận dụng vốn liếng “survival English” (nói tiếng Anh để sống còn) của mình kéo nhau đi làm cỏ.

Page 74: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 74

Đối với xã hội Âu Mỹ, vấn đề nhu cầu cơm áo đã được giải quyết một cách êm thắm và nhẹ nhàng nhờ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với việc áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp từ đầu thế kỷ 20.  Xã hội chuyển hướng từ ăn no mặc ấm sang ăn ngon mặc đẹp.  Bởi vậy, ngành Kiến Thiết Hoa Viên (Horticulture) đã chiếm ưu thế so với ngành Nông Nghiệp (Agriculture) trong đời sống hàng ngày.

            Kỹ nghệ làm vườn đi từ thấp đến cao:

 - Làm Cỏ (Lawn Mowing):  Chỉ có việc cắt các bãi cỏ cho ngắn và nhổ cỏ dại trong các bồn hoa cây cảnh.

- Làm Vườn (Gardening) : Làm đẹp các bãi cỏ, trồng hoa, cắt, tỉa, xén cây và dọn dẹp sân bãi.

- Thiết Kế Hoa Viên (Landscaping):  Thiết kế, thực hiện và xây dựng cơ sở vật chất cho một khu vườn tương đối hoàn chỉnh.

Chỉ riêng thị trường bán vật liệu làm vườn và cây cảnh ở Mỹ thôi thì hàng năm cũng gần tới 50 tỉ đô-la (gần 2 lần tổng thu nhập của Việt Nam).  Các khuynh hướng và “trường phái” làm vườn ở Mỹ rất đa dạng nhưng vẫn gắn chặt với truyền thống thiên nhiên phương Tây.  Đó là ý niệm về con người làm chủ thiên nhiên, cây cảnh.  Trong lúc đó, quan niệm làm vườn phương Đông, xuất phát chủ yếu từ Trung Hoa và Nhật Bản, lại nhìn thiên nhiên, cây cảnh như người bạn, như môi trường hòa điệu thể chất lẫn tinh thần của con người.

            Quan niệm khác nên cách thức làm vườn cũng khác giữa Đông và Tây.  Công việc chăm sóc cây trong một khu vườn Mỹ chủ yếu là dời, chặt, cắt, xén; còn cây cảnh trong khu vườn phương Đông là ngắt, tỉa, tách, uốn, tạo hình.

Người Nhật và người Trung Hoa đã biến những khu vườn của mình thành một thế giới nhỏ, trong đó lý thuyết phong thủy, âm dương, ngũ hành được nâng thành một nghệ thuật rất cao.  Người Tây Phương cũng có một hệ thống lý thuyết làm vườn đặt căn bản trên sự phân bố màu sắc, giống cây và thế đất.  Dường như Đông và Tây đã gặp nhau trên vùng đất mới...!

Từ tấm giấy phép ít chục đô la làm cỏ nhỏ nhoi của thời “tiền sử làm vườn” của thời kỳ tôi bắt đầu tập tểnh Làm Cỏ trong những năm đầu thập niên 1980, một thập niên sau, những người Việt Nam đã tiến lên hàng Làm Vườn và Thiết Kế Hoa Viên với giấy phép cấp tiểu bang, có doanh thu không thua gì một cơ sở thương mãi hay một chuyên viên ưu tú, có tay nghề vững chãi.  Sức sống diệu kỳ của người Việt xa quê đã là những liều thuốc mạnh để chữa lành những vết tích do mặc cảm tự ty của tâm lý nghèo nàn và lạc hậu gây nên.  Chuyện Làm Cỏ gian nan trong cái thuở ban đầu “ít lưu luyến” ấy của tôi dần dần sẽ chỉ còn là chuyện kể của thế hệ thứ nhất, thế hệ người Việt tiên phong, với bàn tay cần cù và khối óc vươn lên, đã làm lại cuộc đời trên đất Mỹ nầy từ hai bàn tay trắng.  Tôi chỉ muốn kể chuyện Làm Cỏ của chính mình như gợi lại một vài kỷ niệm nhớ đời, vui buồn lẫn lộn.  Chuyện kể làm cỏ trong hoàn cảnh riêng mình của những năm đầu 1980, có thể làm cho những người anh em làm cỏ mới sau nầy, với vốn liếng ngôn ngữ phong phú và phương tiện hiện đại hơn không bắt gặp bóng dáng mình trong đó.  Cũng thế, người Mỹ trong những dịp lễ Tạ Ân - Thanksgiving - vẫn thích tẩn mẩn kể lại những câu chuyện vụng về, ngô nghê, gian khổ của lớp người tiền phong lập nghiệp nơi xứ nầy, từng được cứu đói bằng những miếng thịt gà Tây của người Da Đỏ cho không trong buổi đầu lập nghiệp.  Có ai nên khôn mà không chịu khốn đốn biết bao lần!

Page 75: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 75

 

oOo

 

Mới hết ngày thứ hai đi chơi, tối về đã có điện thọai của một người bạn trẻ gọi từ San Jose nhắn tin khẩn cấp.  Tôi lật đật gọi về Cali thì nghe tiếng Ban đầy phấn chấn trong điện thoại.  Chàng thanh niên ba mươi tuổi nầy báo tin mừng rằng:

“Mấy ông ở dưới miền Nam Cali như anh Trần Thái Bình, Đào Pháp” theo gương mấy huynh đệ chuyên ngành hoa viên người Nhật, mở dịch vụ làm vườn rất ăn khách và thành công.”  Ban đốc thúc tôi mau mau về Cali để mở “job” làm vườn.  Ban vẽ ra một bức tranh đầy hứa hẹn rằng, với khả năng tiếng Anh sẵn có, tôi sẽ đi tiếp xúc với các chủ nhà để định giá, nhận việc cho một nhóm anh em đang sẵn sàng bắt tay vào việc.  Sự thành công chỉ còn là vấn đề thời gian.  Vừa tò mò mà cũng vừa hy vọng, hôm sau tôi bay về California.

Theo hướng dẫn qua điện thọai, tôi về Milpitas để gặp Ban và đội làm cỏ gồm có 5 người.  Người già nhất 61 tuổi và trẻ nhất 22 tuổi.  Có người muốn tìm một vận hội mới nơi xứ người. Có người từng làm trong các hãng xưởng của Mỹ chán thế sự hay muốn tự do hơn nên đang ở trong giai đoạn làm... thinh!  Người nào cũng tỏ ra am hiểu chuyện làm vườn một cách quyết đoán theo kinh nghiệm riêng của mình, nên thường cãi nhau tận tình những điều mà thật sự họ chỉ biết mơ hồ hay chỉ mới có dịp nhìn ngắm, ước lượng, suy đoán mà chưa có cơ hội đi vào thực tế.

            Trước hết, Ban đưa cho tôi một tờ giấy quảng cáo mẫu với hàng chữ tiêu đề lớn chạy dài từ mé trái qua hết mé phải của tờ giấy, giới thiệu tên của dịch vụ: “Oriental Gardening Services” (Dịch Vụ Làm Vườn Đông Phương).  Sát hàng chữ lớn có hàng chữ nhỏ hơn một chút: “5 năm kinh nghiệm làm vườn tại Hollywood”!   Tôi tá hỏa khi nhìn vào phần liệt kê các dịch vụ.  Từ việc cắt cỏ, ủi đất, bắt hệ thống nước tưới đến việc cắt cây, tỉa cây, trồng cỏ, làm sân bãi, hào lũy bằng gỗ hay xi-măng, cho tới các đề án xây dựng vườn hay tái kiến thiết vườn.  Nói tóm lại thì đây là một đại dịch vụ làm vườn tổng quát, từ thượng vàng đến hạ cám đều có khả năng làm tất, chẳng quên một thứ nào cả! Tôi sẽ là người có nhiệm vụ đi “estimate”, nghĩa là phải “xuống đường bắt khách”, trực tiếp giao thiệp với khách hàng để ước tính, định giá và nhận việc. 

            Đọc qua hết các dịch vụ quảng cáo, tất cả đều hoàn toàn xa lạ đối với tôi.   Ngay cả những công việc tỉa cây căn bản nhất cho nghề làm vườn, tôi vẫn chưa hề có một khái niệm nào cả:  Đốn cây (removing), trồng cây (planting), đào gốc (stumping), tỉa nhánh (prunning), xén cây (trimming), bấm chồi (pinching), tỉa hình (shaping), phất ngọn (topping)... là những tên gọi cho những công việc chăm sóc cây cảnh mà tôi chưa từng nghe hay thấy.

            Bạn và anh em trong đội làm vườn cho biết là đã tung giấy quảng cáo ra thị trường từ hồi sáng sớm hôm nay rồi.  Nghe đâu cái điện thoại có hệ thống nhắn tin đã reo lên nhiều lần trong ngày, nhưng không ai dám bắt vì sợ “không rành tiếng”.   Tôi đến mở cuốn băng nhắn tin của máy điện thoại và tìm được 21 lời nhắn để lại trong máy:  Bốn lời nhắn về việc rãi giấy quảng cáo không đúng chỗ.  Hai lời nhắn chất vấn là chúng tôi có Giấy phép Tiểu bang Cali cấp chưa mà dám quảng cáo làm vườn toàn cả “Big jobs”.  Ba lời nhắn nói chuyện tào lao lạc đề.  Còn lại 12 lời nhắn là yêu cầu “giám đốc” Dịch Vụ Làm Vườn Phương Đông gọi lại càng sớm càng tốt. 

Page 76: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 76

Gọi quanh một vòng, tôi chỉ gặp được có hai “mối” nhưng cuối cùng chỉ có một mối là sẵn sàng chờ đến  “Estimate” ngay trong chiều hôm ấy.

            Lần đầu tiên trên đất Mỹ, tôi đóng vai một người chủ doanh thương, dù đó chỉ là dịch vụ làm vườn cắt cỏ. 

            Tất cả sáu người đều đòi đi theo “estimate” (lượng giá).  Tôi chưa biết phải làm gì cho đúng vị trí của mình.  Khách hẹn là một bà già, chủ một ngôi nhà vườn cũ. Bà cụ có vẻ hơi hoảng một chút qua lối mở cổng e dè khi nhìn thấy một toán đàn ông người Á châu tóc đen, nói tiếng gì không hiểu đang lố nhố tiến vào.   Tôi đi trước, khoát tay ra dấu cho anh em đợi và một mình đến gặp bà chủ nhà.  Hình như suốt mùa Đông bị cấm cửa trong nhà, không được tâm sự với ai, nay gặp được người đối diện, bà cụ nói bi bô cả chừng mươi phút một lèo không nghỉ.  Đại khái bà muốn vườn nhà bà được tổng dọn đẹp trong dịp đầu xuân.  Không cần nghe tôi thông báo chủ nhà muốn gì, nhóm anh em tỏa ra vườn trước, vườn sau, phát huy cao độ quyền tư do ngôn luận và bàn luận.  Bà cụ gìa thấy khí thế hăng say, cũng bước ra sân chỉ chỏ khắp vườn.  Anh em người thì chỉ bụi cây nầy vừa nói vừa ra dấu: “No good! Cut!... Không tốt! Cắt bỏ đi!”.  Người kia thì cố căng tai, nhíu mắt nghe bà già nói.  Anh ta gật đầu dễ dãi, miệng nói liên hồi nhưng bà nói bà nghe, anh nói anh nghe.  Vốn liếng học tiếng Anh của chúng tôi từ Việt Nam mang theo mới sử dụng được một phần ba vì chỉ nhận ra mặt chữ chứ phần phát âm và nghe vẫn còn lúng túng, lùng bùng trong buổi đầu “giao lưu văn hóa”.  Bà cụ lúc lắc đầu hỏi lại: “Nó nói tiếng Mỹ theo âm Tây phải không? Nghe nói người Việt Nam phần đông giỏi tiếng Pháp !”

            Đến phần lượng định và đưa giá thì anh em càng leo thang tham gia ý kiến hăng say như bàn việc nước.  Người niên trưởng, vốn giàu kinh nghiệm với thương trường “một chục mười hai” nên đã cố vấn rằng: “Cứ nói thách cho cao để chủ trả giá là vừa!”  Cuộc lượng định giá cả diễn ra rất hào hứng.   Người thì đòi đưa giá 500; người khác lên giá 700, rồi đến 900 nhưng chưa ai đề nghi cao hơn hay lên tới 1000 đồng.  Tôi hội ý riêng với Ban và định giá là 690 đồng. Chủ nhà nhận giấy “estimate” khen nhóm làm vườn của chúng tôi “xuất sắc” và ân cần hứa là sẽ gọi lại. Lúc đó, tất cả anh em đều hy vọng tràn trề, nhưng càng về sau, càng hiểu thêm tâm lý người Mỹ là họ rất thực tế.  Hiến giá cũng có nghĩa là đấu giá. Những công việc lao động thủ công tay chân, người Mỹ tuồng như “dại” hơn người Việt mình.  Nhưng công việc càng cao cấp thì có vẻ như ngược lại.

            Gần nửa đêm, bà già chủ vườn gọi lại.  Bà hỏi nếu bà đồng ý mướn thì bao lâu chúng tôi có thể bắt tay vào việc, tôi trả lời là “As soon as tomorrow morning...   Ngay sáng mai!”.   Bà cho biết chiều mai là lễ sinh nhật của bà nên mặc dầu chúng tôi “chem.” (overcharge) quá giá, bà vẫn không có sự lựa chọn nào hơn là phải mướn chúng tôi để kịp làm đẹp vườn trong ngày vui của bà.

Ngày xuất quân, bác Thành, niên trưởng của đội làm vườn, dậy uống nước trà từ lúc chưa sáng và sau đó lần lượt đánh thức cả bọn dậy.

            Chúng tôi bắt tay vào việc lúc cây cối đang còn ướt sương.  Thế tiến quân rất rộn ràng và đầy khí thế với hai xe mui trần Toyota Pickup đời “thập niên về trước” chở dụng cụ làm vườn còn mới toanh.  Sáu cái miệng Giao Chỉ mở hết tần số âm thanh cộng với tiếng máy xén, máy quất, máy cắt, máy thổi, máy tỉa chạy bằng xăng hai thì ré lên giữa bình minh cô tịch đã làm kinh động một xóm Mỹ.  Không biết tay Mỹ nào chưa thông văn hóa phương Đông đã nỡ đem lòng kỳ thị kêu “police”. Anh em đang tiến công nói cười thoải mái thì xe cảnh sát từ đâu đã trờ tới.  Tôi hơi chột

Page 77: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 77

dạ khi nghĩ đến “toàn bộ cơ sở pháp lý” của nhóm làm vườn chỉ có tấm giấy phép xin cắt cỏ mới mua ở City 35 đô-la còn nóng hổi. Với giấy phép nầy chúng tôi chỉ được phép cắt ngắn các bãi cỏ mà thôi, không được đụng đến những việc vườn tược nặng nề khác, trong khi tờ quảng cáo thì chạy bao sân đủ tất cả các loại dịch vụ làm vườn!  Nhưng rất may là cảnh sát chỉ đến yêu cầu chúng tôi đừng làm ồn để cho hàng xóm ngủ.  Cả sáu chàng tài tử làm vườn Đông Phương đều chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh để phát huy hết tài năng truyền thống: Cắt, xén, cào, xớt, hốt, ôm, xách, tưới, thổi... trời cho của mình.  Mặt trời mới lên quá hàng rào Orleander sân trước, cả khu vườn đã tươm tất sạch sẽ như sân đình làng trong dịp Tết.  Bà chủ nhà ra vườn dụi mắt nhìn quanh vườn mình với vẻ ngạc nhiên như nhìn lâu đài Aladin và tỏ vẻ hài lòng với khuôn mặt mày râu nhẵn nhụi của khu vườn.  Vài ba anh em còn lanh miệng lanh mồm “Happy Birthday - Chúc mừng sinh nhật” bà cụ già nên đã làm cho bà hứng chí ký tấm chi phiếu 750 đô-la.  Bà cụ già là hình ảnh điển hình của người Mỹ:  Chi li và hào phóng vừa tùy hứng, vừa tùy vào kết quả “được việc” của người làm.

            Trên đường về, nắng chưa đứng bóng, tính nhẩm cũng biết là mỗi người kiếm hơn trăm bạc trong mấy tiếng đồng hồ làm vườn.  Và cũng đừng quên thời đó giá xăng mỗi gallon (khoảng 4 lít) chỉ vào khoảng trên dưới  50 xu  so với 18 năm sau, lúc tôi đang viết những dòng nầy thì giá xăng đã tăng gấp bốn, năm lần.  Anh em hứng chí với tâm trạng “Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng...”              

            Anh em càng phấn chấn, có việc làm, tôi càng lo vì phải đi nhận việc và định giá một mình căn cứ vào sự đoán mò, không có một mảy may kinh nghiệm của mình.  Đã ở thế lên ngựa nên phải ra roi, tôi tìm mua các sách viết về công việc làm vườn và đọc ngày đọc đêm để trả bài cho khách.  Song song với lý thuyết sách vở tôi theo anh em tôi phải dò dẫm tìm tới các vườn ương cây (Nursery) và các hàng bán vật liệu làm vườn để biết giá cả mặt hàng mà lãnh việc. 

            Cái mã “Dịch vụ làm vườn Đông Phương” coi bộ khá hấp dẫn đối với người Mỹ. Thời gian tiếp theo, việc đến quá nhiều anh em làm không hết.

Công việc càng phát tài lộc, thì tình cảm anh em trong nhóm lại càng yếu đi.  Chỉ sau một tháng làm vườn, đã có người hoài nghi, buồn lòng về số tiền kiếm được không như ý muốn.  Và dường như ai cũng cảm thấy rằng, mình có đủ khả năng để tự đứng ra làm chủ dịch vụ làm vườn một mình.  Hiện tượng hai người cãi nhau hăng tiết vịt về một chuyện mà cả hai đều chẳng có kinh nghiệm hay kiến thức thực tế nào cả xảy ra mỗi ngày một thường xuyên hơn.  Đó là một trạng thái tâm lý xuất hiện khá thông thường trong tập thể người Việt vì mặc cảm tự ti xen lẫn với tự tôn!  Hiện tượng phân hóa nầy không phải chỉ xuất hiện đơn thuần trong lãnh vực làm vườn mà phổ biến như một căn bệnh trầm kha khắp các lĩnh vực trong cộng đồng người Việt.  Một vài anh em trong nhóm ra đi mở dịch vụ làm riêng.  Bác niên trưởng cười khà bình luận: “Thì đó là tại truyền thống Lạc Hồng chia con lên rừng xuống biển.  Hễ cứ tới số 100 là phải xẻ hai, huống chi bây giờ mình làm ra ngàn, ra vạn!”

           

Chuyện vui buồn đời làm cỏ

 

Page 78: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 78

Hai mươi năm trước, khi bắt đầu làm cỏ, tôi chưa hề gặp một đồng nghiệp người Việt nào lại phí thì giờ để đi học nghề làm cỏ cả vì vốn xuất thân từ miền đất nông nghiệp, chuyện chăm non cây cỏ đã là “nghề của chàng”.  Không ai phải dành ra năm này qua năm nọ để đi học ngành Horticulture chuyên dạy nghề làm vườn như người Mỹ cả. Người Việt có thiên khiếu làm cỏ cũng như con cá mới nở ra là đã biết bơi liền.  Tất cả dân làm cỏ thuở ban đầu đó đều là “vô sư tự ngộ”, nghĩa là không thầy tự mầy làm nên.  Thế mà không có việc gì phe ta lại chịu bó tay và thường làm đẹp hơn dân bản xứ thao lược trong nghề bao nhiêu năm mới hay chứ!

Về mặt lợi tức, thật ra thì nền kinh tế thị trường truyền thống của Hoa Kỳ đã có sự phân công tự nhiên trong đời sống kinh tế và xã hội.  Mỹ là nơi có rất nhiều triệu phú nhưng chỉ có nghệ thuật hay kỹ thuật làm giàu mà không có phép lạ làm giàu.  Cũng thế, nghề làm cỏ trên đất Mỹ cũng đổi sức lực và mồ hôi lấy tiền thù lao chứ không có “phép lạ” nào như  một số người thích chuyện giật gân thuộc về “phe nổ” thường đồn đãi.  Bên cạnh số anh em thật thà có gì nói nấy thì lại có hai phe đối nghịch nhau là “phe dấu” và “phe nổ”.   Phe dấu thì cứ đủng đỉnh ngậm miệng đếm hào. “Dzóp” chơi không ai biết mà “dzóp” thiệt chẳng ai hay, cứ ậm ừ cho qua chuyện để khỏi tiết lộ bí mật nghề nghiệp.  Ngược lại, “phe nổ” thì lúc nào cũng để tiền rơi lẻng kẻng như máy kéo ở Reno.  Những người dè dặt đã bình luận rằng, nghề nào cũng có một giới hạn lợi tức riêng của nó, nghề cắt cỏ chứ đâu phải là kỹ nghệ đấu thầu chế hỏa tiễn cho bộ quốc phòng Mỹ mà dễ kiếm tiền đến thế.  Sau nầy tôi mới khám phá ra rằng, “phe nổ” không đến nỗi hoàn toàn phóng đại khi hoạt động làm vườn đã tiến từ giai đoạn Làm Cỏ như tôi ngày đó lên hàng Làm Vườn và Thiết Kế Hoa Viên như ngày nay.

Lực lượng làm cỏ cũng chia làm bốn thành phần “kinh tế làm cỏ” là:   Gạo cội, gia gia, tà tà và tài tử.  Gạo Cội - là những người dốc toàn thời gian, công sức và sắm đủ các phương tiện máy móc, xe cộ hành nghề chuyên môn, quyết làm ăn “tới bến”, chạy bao sân hết mọi việc cắt cỏ làm vườn.  Gia Gia - là những người biến công việc làm cỏ thành một dịch vụ kinh doanh gia đình.  Khi có việc và nhất là dịp cuối tuần, cả vợ chồng, con cái vào vườn, ra sân cùng làm việc, hiếm khi thuê người ngoài.   Ngày thường, chồng làm một mình hay vợ lôi chồng đẩy (máy) nổ rình rang trong những khu vườn vắng vẻ.  Tà Tà - là những người đi làm vườn thuê, làm nhận tiền công vì không muốn hay không đủ sức tự mình đứng ra mở một “dzóp” làm vườn riêng.  Cứ việc làm hết ngày, lấy tiền công bỏ túi, chiều về nhậu lai rai vài chai không một chút ưu tư lời lỗ hay việc phải làm ngày mai.  Tài Tử - là những người làm cỏ theo kiểu “văn nghệ phụ diễn” tạm thời.  Có khi chỉ là công việc làm phụ thêm cuối tuần hay giờ rảnh.  Hoặc làm chút đỉnh “gọi là” trong lúc đang đi tìm việc hay bị nghỉ việc.  Giang sơn của một tay làm vườn tài tử thường “vô giá” vì anh ta có thể dùng một chiếc xe pick up loại kéo tàu đời mới giá 25 nghìn đô la vừa mới “down” mấy ngày trước khi bị “lây óp”; hay cũng có thể dùng tạm một chiếc xe thổ tả già nua 2 trăm rưỡi đô-la vì tiền thất nghiệp chưa xin được cũng không sao.  Đồ nghề cũng thế, chỉ cần một cái máy cắt cỏ, một máy quất, dăm ba cái kéo, cái cào cắt dọn cây lá mua từ Penny Savers là cũng đủ làm “ông chủ” rồi, nhưng càng về sau nầy, giới làm cỏ Việt Nam có người sắm luôn cả máy ủi đất, máy đào, máy trộn rôm rả như một xưởng nhỏ.  Tài tử, dù là tài tử làm cỏ, tài tử đa cùng, cũng rất gần với đời nghệ sĩ, những kẻ có gia tài là mặt trời treo đầu núi và vầng trăng bên cửa sổ, cần gì sang! 

Tôi đã trải qua đủ “kiểu” làm cỏ loanh quanh vừa kể.  Kinh nghiệm thực tế cho tôi thấy rằng, lối làm cỏ tài tử là “hiêu hiêu đạt đạo” nhất vì phẩm chất đời sống tự cổ chí kim đều đặt trên giá trị của chữ  “Nhàn”.

Page 79: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 79

Điều nầy đã cho tôi một lời giải thích là tại sao những người Á Châu khởi thủy nghề làm vườn đầu tiên tại Mỹ là những nhà tu Nhật Bản và Trung Hoa cũng như  những tu sĩ Phật giáo Việt Nam là những người “khai canh” nghề làm cỏ sớm nhất trong tập thể người Việt Nam di cư sau 1975.

Nghề làm cỏ ở những vùng nắng ấm như California, Texas và ngay cả xứ lạnh Washington, Massachusetts… là công việc khá phổ biến và lý tưởng của những người đàn ông Việt độ tuổi trung niên, không muốn bị ràng buộc bởi công việc, nhưng vẫn cố vươn lên bằng chính sức lực của mình trong một hoàn cảnh chen đua tranh sống nơi xứ người. 

Tuy đã xa nghề làm cỏ gần 20 năm, nhưng cứ mỗi lần nghe tiếng máy cỏ nổ dòn, sâu trong những khu vườn rợp bóng cỏ cây hay thoảng nghe mùi nhựa tươi nồng từ những bãi cỏ hay nhánh cây vừa mới cắt, tôi lại bị cuốn hút như tiếng gọi của tù và hay điệu khèn trong rừng thẳm.  Những ngày tháng làm cỏ tuy ngắn ngủi và vất vả nhưng quả thật đáng nhớ đời. 

Công việc làm cỏ hiện ra như một chiếc phao nhỏ giữa biển đời thay đổi.  Nhiều bạn bè và tôi đã nhanh tay bám vào chiếc phao ấy. Tôi đã rời chiếc phao rất sớm, nhưng phần đông anh em trong nghề làm cỏ vẫn còn ở lại.  Những người anh em đã bám vào chiếc phao trong buổi đầu khó khăn để khỏi chìm và vịn chiếc phao mà đứng dậy.  Sau 20 năm, những chiếc phao nhỏ mong manh ngày xưa giờ đã biến thành những chiếc thuyền vững vàng trên đất Mỹ.  Gần như một trong năm người đàn ông Việt độ tuổi quá trung niên, có gia đình và con cái đùm đề mà tôi được gặp, có một người đầu tư vào nghề làm vườn.

Tôi cám ơn nghề làm cỏ đã cho tôi khoảng thời gian được sống.  Đến Mỹ năm từ năm 1983, tôi đã làm đủ nghề:  Từ việc đánh cá vùng Biloxi ở Mississippi đến công việc giặt thảm sửa nhà ở Baton Rouge, Louisiana; làm vườn ở Milpitas, San Jose, Oakland ở California... cho đến việc dạy trường đại học và làm công chức.  Nhưng có thể nói rằng, thời gian làm cỏ là thời gian tôi học hỏi từ sự chiêm nghiệm của chính mình và từ sự im lặng của thiên nhiên cây cỏ được nhiều nhất.  Học về ý nghĩa của cái tĩnh trong cái động.  Học về nghệ thuật sống “nhu thắng cương” qua cái máy quất chạy bằng dây nylon yếu mềm mà mạnh hơn dĩa sắt. Học từ cái máy thổi phì phò mà rác mẹ rác con đều bị cuốn phăng đi không than thở.  Học từ cái ăn đạm bạc đến cái uống “chữa cháy” từ vòi tưới sau vườn. Xa hơn nữa, tôi cũng học được rằng, khi tâm giao động thì cắt cỏ cũng không yên.  Người ta có thể hình dung được sự an bình thanh thản hay vẻ bấn loạn tinh thần của người cắt cỏ qua những đường lằn song hành hay rối bời của máy cỏ để lại trên bãi cỏ vừa mới cắt.  Hình thù hàng cây mới tỉa, dáng vẻ bãi cỏ vừa mới cắt...  cũng nói lên được một phần cá tính và tâm hồn phong phú hay đơn giản của người thợ làm vườn.

 

Nghệ thuật sống còn 

 

Nếu những người qua Mỹ theo đợt di tản lần thứ nhất năm 1975 mang tâm trạng đi “làm rể” thì những người qua Mỹ 8 năm sau như tôi đã đến đây với tâm trạng kẻ “làm dâu” ngày xưa.  Người làm rể có sự chọn lựa chủ động lúc ra đi và lúc đến, nhưng kẻ làm dâu thì không.  Khi ra đi là chấp nhận “mười hai bến nước...”.  Bởi vậy, khi bước lên đất Mỹ là khi tâm trạng bời bời.  Ngoái nhìn về quê cũ, có bóng dáng

Page 80: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 80

những người thân đang đợi chờ, những món nợ ân tình cần trang trải.  Nhìn phía trước mắt là một tương lai đầy hứa hẹn, nhưng cũng đầy sự thách đố và đe dọa.   Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được một cách lương thiện để sống còn.

Nếu không có năm 1975 và những năm lao động cần cù trên đất Mỹ thì hình ảnh nước Mỹ sẽ xuất hiện dưới mắt người Việt Nam qua lăng kính của những người du học hay du khách.  Đối với người du học thì Hoa Kỳ là nơi có những học bổng hào phóng như Fulbright, Mansfield... và những trường đại học lẫy lừng như Havard, Yale hay Stanford... để giúp những sinh viên ưu tú kiếm mảnh bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ để mang về quê hương làm sĩ, làm sư, hay làm sếp.  Với du khách thì Mỹ là nơi có nhiều phong cảnh thiên nhiên và nhân tạo tuyệt vời. Cả hai, học vấn và thắng cảnh, đều không phải là những nét đặc thù của Mỹ vì ở đâu cũng có.   Riêng tôi, được “nhìn” và “thấy” Mỹ qua những công việc thực tế từ thượng vàng đến hạ cám.  Và trong một chừng mực nào đó của đời sống, Mỹ là một xã hội đầy nhân hậu và công bằng đối vơiù những người biết sống, biết vươn lên.

Trên chiếc thang đời không giới hạn một ai trên đất Mỹ “có sức chừng nào, leo cao chừng ấy”, mỗi người khởi hành tự do đi vào cuộc sống mới bằng bàn tay, khối óc và sức lực của chính mình.  Bước đầu lập thân và lập chí trên vùng đất mới, các chàng thích sương mà ngại nắng thì bỏ báo; các nàng tay ngọc thì làm neo, còn tôi và anh em bằng hữu “dám xông pha” mưa nắng dãi dầu hơn nên đã bước những bước đầu tiên vào cuộc đời mới của mình bằng nghề Làm Cỏ.

Cũng chính từ thực tế “xông pha” của người Việt trong hai nghề thông dụng nhất cho nam giới là làm cỏ và nữ giới là nghề làm móng tay ở Mỹ, tôi mới thấy được sức sống và “bí quyết” thành công của người Việt Nam là xông xáo, tính toán và chịu khó hết mình.  Có 5 dân tộc Đông Dương đồng cảnh ngộ, đang sinh sống tại Mỹ sau cuộc chiến Việt Nam 1975, đó là người Lào, người Cam-Bốt, người Mông (H'mong), người Miên (Mein).  Sau 30 năm người Việt Nam đã đi hài bảy dặm vượt quá xa cả bốn dân tộc láng giềng.  Với thế hệ thứ nhất (phụ huynh), có đến 85 phần trăm người Việt đã ổn định về đời sống kinh tế và tậu mãi được nhà cửa so với ít hơn 10 phần trăm sự thành công tương tự của bốn dân tộc vừa kể. Với thế hệ thứ hai (con em) thì giới trẻ Việt Nam đã vượt hẳn giới trẻ của cả bốn dân tộc Lào, Miên, Mông, Cam-Bốt về hàng chuyên viên, chuyên gia cao đẳng, đại học và hậu đại học.

Bởi vậy, trong một dịp tiếp xúc mạn đàm, một người Việt gốc Chàm, gốc ở Phan Rang qua Mỹ từ năm 1980 là ông Yang Sri, đã phát biểu: “Ba trăm năm trước, Mỹ thắng người Da Đỏ bản xứ, cũng như nguời Việt đã thắng người Chàm hơn 500 năm trước không phải chỉ vì ưu thế của lực mà quan trọng nhất là ưu thế của trí.”

Dù là trong hoàn cảnh đòi hỏi sức mạnh của thể lực, trí lực của người Việt cũng thật tuyệt vời trong cuộc tranh sống từ ba mươi năm qua trên những vùng đất mới.

 

                                                           Trần Kiêm Đoàn

Page 81: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 81

Cái ăn và văn hóaNgày tháng: Saturday 23 October @ 00:01:34

Đề tài [Gia vị]

Nghe tin tổng thống Mỹ, Bill Clinton, và gia đình sẽ ghé thăm Huế trong chuyến công du Việt Nam, một Huế kiều“ ở Mỹ nói đầy vẻ cảm khái:

- Mấy thuở mà rồng đến nhà tôm!

Lối nói thủ phận của con nhà nghèo Việt Nam dành cho những người khách „danh giá“ đã nghe quen tai từ nhỏ, không làm cho những người Huế xa quê cảm thấy vui hay buồn hơn trong lúc nầy. Nghĩ đến Huế, một xứ Huế nhỏ nhắn và nỉ non như tiếng hò „ru em cho thét cho muồi, để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu...“ người ta thường nghĩ ngay đến những gì không thể nào cân, đo, đong đếm, được như: Dòng sông xanh thầm lặng chảy; những rặng núi xa nhuộm tím dưới ráng chiều phía Tây tắt nắng; chiếc cầu có tuổi đời và tuổi ký ức trăm năm. Và, còn nữa, người Huế gốc cột cờ và khách yêu Huế sành ăn hơn sành uống sẽ nghĩ đến những món ăn „đơn-giản-một-cách-cầu-kỳ“ của Huế!

Mấy tháng trước ngày Clinton đến thăm Việt Nam, khoa nghiên cứu Á Châu (Asian Study) của Berkely có liên lạc thăm dò ý kiến của người đang viết mấy dòng nầy về Huế. Và họ đã được nghe một ý kiến thành thật về Huế rằng, Huế là nơi thăm viếng lý tưởng của giới nghệ sĩ và du khách lãng du, chứ không phải là nơi hẹn hò sáng giá của chính khách và doanh nhân. Tin phái đoàn Clinton giờ chót không ghé Huế, người hiểu Huế nghĩ thế mà hay! Huế hợp với một Bill thổi kèn Saxophone phương Tây mà không hợp với một Clinton làm tổng thống Mỹ. Văn hóa Huế là một nét văn hóa tiềm ẩn - với tính chất lịch sử, nhân sinh và thiên nhiên ẩn tàng trong mạch đất: Một chút văn minh huyền sử của Chiêm Thành, một chút khó nghèo của đồng chua nước mặn, một chút lãng tử của sông núi hữu tình mơ mộng, một chút dáng vẻ cung đình triều Nguyễn và một chút mưa nắng Nam ai.

Du khách nước ngoài, nhất là người Mỹ, có thói quen của „thời tiện lợi“ là ưa nhìn thế giới qua ống kính máy ảnh. Bởi vậy, người Mỹ thường có sự ngạc nhiên trẻ thơ của sự khám phá lần thứ hai, thứ ba một khung cảnh ngỡ như là quen thuộc. Khung cảnh Huế mà nhìn một cách đơn giản và hời hợt qua khung máy ảnh như thế thì cũng giống như xem hoa lụa, cũng có đủ hình hài màu sắc uyển chuyển nhưng không có hương thơm.

Mùa Hè năm ngoái, tôi có một người bạn mới. Anh ta là „Mỹ Chú Sam“ toàn ròn, tên Brad Williams. Brad là một cựu cố vấn quân sự cấp cao của MACV trong thời chiến tranh Việt Nam và đã từng ở Huế hai năm. Anh ta trở lại thăm Huế 30 năm sau. Về Việt Nam cùng chuyến, ngồi ăn bún bò Huế với tôi ở quán Thiên Đường - là tình quân hay tình địch của quá cơm Âm Phủ? - bên cạnh chân cầu Trường Tiền. Anh ta cảm động nói rằng nếu anh không trở lại Huế như một du khách thì anh sẽ không bao giờ biết Huế đẹp và „HuePork and Beef Noodle“ (Bún Bò Giò Heo Huế) lại ngon đến như thế! Lại một sự khám phá hương vị Huế trong tình cảm Huế chăng?! Sáng

Page 82: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 82

hôm sau, tôi lại trổ nghề gạ gẫm Brad ăn Cơm Hến. Nhưng đợt thám hiểm khẩu vị nầy không được thành công rực rỡ cho lắm vì chàng Mỹ nhẹ dạ nầy, sau một lèo theo gương Đại huynh cơm hến ăn nhẹ hai tô... chàng ta bèn vừa vuốt mặt cho bớt mồ hôi đổ hồi thánh thót từng dòng, vừa thì thào phát biểu là „Com Hen“ cay... muốn xì khói ra lỗ tai!

Nhiều người, mà kẻ viết bài này là một, vẫn suy nghĩ và bị thực tế thuyết phục rằng, nét nổi bật và „cơ động“ nhất trong nội dung văn hóa của một xứ sở, một dân tộc là „cái ăn“. Cái ăn bao gồm món ăn, cách ăn và kiểu ăn. Món ăn thì dễ phân biệt đã đành, nhưng cách ăn và kiểu ăn cũng thể hiện rõ nét đặc tính văn hóa. Cũng cùng là dân tộc láng giềng, nhưng kiểu ăn của người Phi, người Hmong, người Lào là ăn bốc bằng tay và cách ăn của họ là lặng lẽ, riêng tư; trong lúc người Việt mình lại muỗng đũa gõ lanh canh, soàm soạp tiếng chồng chan vợ húp. Lisa Whitman, nhà ẩm thực học nổi tiếng thường thuyết trình về các đề tài ăn uống trên chương trình „Foods for Life“ của đài truyền hình KOVR Mỹ đã tuyên bố một cách... dễ sợ rằng: „Các học giả nghiên cứu văn hóa nhân lọai xưa nay đều bị bệnh 'tịt mũi' vì toàn chỉ nói chuyện cao siêu chứ chưa có ai nghiên cứu thực tiễn về cái 'mùi văn hóa' cả. Mùi Văn Hóa tiêu biểu của một vùng hay một xứ sở chính là mùi món ăn hay mùi gia vị điển hình nhất của vùng đất và xứ sở đó...“ Nếu vậy thì „Mùi Văn Hóa“ Việt Nam ta là mùi Nước mắm, Nhật là Terayaki, Đại Hàn là Kim chi, Tàu là bánh bao - xì dầu - lạp xưởng, Ý là Pizza, Tây là bít tết, Mỹ là hot dog - hem bơ gơ... !

Đối với dân Việt trên đường Nam tiến hay Tây tiến thì từ buổi xa quê, văn hoá mang theo cũng là cái ăn. Có ai đem được hồ Gươm, sông Hương núi Ngự, chợ Bến Thành, dãi phù sa sông Tiền sông Hậu... trong mớ hành lý mang theo tới xứ người đâu. Cũng chính những hương vị thuần túy của quê hương lai láng trong phở Bắc, bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu miền Nam, chả giò chả lụa ba miền đã làm cho người Việt xác định một dáng vẻ riêng trước mắt láng giềng và cộng đồng thế giới.

Đi đâu loang quanh rồi cũng lại trở về với cái ăn của Huế. Dường như có một sự mâu thuẫn khi nói đến văn hóa Huế và món ăn Huế. Huế nghèo, đó là điều khẳng định. Thế nhưng món ăn Huế lại vô cùng „giàu có“. Chỉ sơ lược qua sự giới thiệu của chị Hoàng Thị Kim Cúc - một nhà ẩm thực học xứ Huế không thua gì Lisa Whitman - cũng đã quy tụ được 600 món ăn nấu theo lối Huế. Có người nhận định rằng, nguyên nhân bởi vì Huế là đế đô sau cùng của Việt Nam, nhà Nguyễn, nên đã quy tụ những tay nấu ăn cự phách nhất của cả nước. Thế nhưng, có những món ăn không sang trọng đế vương chút nào, nếu không nói đó là món ăn của người bình dân nghèo khổ như Mắm Muối, cũng lại rất phong phú trên xứ Huế. Tới Huế mà chưa thưởng thức đủ các vị „mắm muối“ thì vẫn chưa hưởng trọn sự khoái khẩu „mặn miệng“ của vùng đất lạ lùng này.

Một bữa „cơm muối“ của Huế, theo nghĩa bóng là một bữa cơm đạm bạc của nhà nghèo. Nhưng theo nghĩa đen lại có đến nhiều món... muối! „Muối mười món“ thông thường của Huế là: Muối sống, muối trắng, muối rang, muối hầm, muối tiêu, muối tiêu chanh, muối ớt, muối sả, muối ruốc, muối khuyếc, muối mè, muối đậu, muối dầu lai... Mỗi món muối là một công trình nho nhỏ nhưng phải lo sửa soạn, chăm chút tỉ mỉ và công phu trước khi đưa vào những chiếc dĩa nhỏ xinh xinh như cái lúm đồng tiền của nàng Bạch Tuyết.

Bạn đồng hành với muối là mắm. Huế có đủ các loại mắm bốn mùa. Mùa nào thức ấy. Cái quán nhỏ đầu làng ở Huế mà thiếu mắm là thiếu giấy thông hành đi vào lòng đại chúng. Tiên phong trong hàng mệnh phụ phu nhân quyền quý thời nhà Nguyễn cũng đã có người nâng cái ăn lên hàng nghệ thuật. Dân Huế và người yêu Huế chắc

Page 83: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 83

vẫn chưa có ai quên „Thực Phổ Bách Thiên“ của Hiệp tá Đại học sĩ Hồng Khẳng phu nhân, bà Trương Đăng Thị Bích, người đã soạn ra 102 bài dạy cách nấu ăn theo lối Huế. Bên cạnh những món ăn Huế quý hiếm, chỉ thấy trong các gia đình quý tộc quyền quý ngày xưa như:

- Bồ câu tìm yến sào- Nem công- Gân nai nấu nước gà hầm- Hải sâm nấu tôm hùm- Bào ngư hầm ngũ vị- Cửu khổng hầm- ...

thì cũng vẫn có kèm theo 12 bài nói về cách làm mắm: Mắm gạch cua, mắm tôm chua, mắm ngừ bột, mắm ngừ ruột, mắm ngừ, mắm nục thính, mắm đối, mắm dừa thính, mắm nêm cá cơm, mắm nêm cá nục, mắm nục bỏ ớt cà, mắm nêm canh, ruốc khuyếc, làm nước mắm. Công thức nấu mỗi món ăn là một bài thơ... tứ tuyệt! Thử thưởng thức một bài thơ dạy về cách làm mắm nêm cá nục:

Nục nhỏ làm nêm lắm kẻ ưaĐong ngang chục cá muối hai vừaGhè khô nhận chặt phơi mươi bữaGió bảy mùi thơm biết chín chưa

(Thực Phổ Bách Thiên. Tr. 47)

Với một quê hương mà mắm ruốc cũng thành thơ; và một đất nước có những món ăn mang đậm nét tinh hoa của mỗi miền sông núi như thế, không lẽ chỉ vì nghèo mà mất đi niềm tự hào là “văn hóa chi bang”?

Mùa Hạ năm 1996, tôi có dịp ghé thành phố “Tiểu Thạch” (Little Rock), tiểu bang Arkansas, quê nhà của tổng thống Clinton. Đang giữa mùa Hè, độ nóng và ẩm của thành phố nầy còn rít rát hơn xứ Huế. Buổi chiều ăn ở quán ăn Sơn Ca (Alouette's Restaurant) với đồ ăn kiểu Pháp. Hôm sau, tìm mãi vẫn không đào đâu ra được một món đồ ăn sản phẩm của xứ nầy, chúng tôi lại phải đi ăn Pizza nướng lò gạch theo kiểu Ý ở quán ăn Bruno' Little Italy. Điều mĩa mai một cách lý thú là sau đó không lâu, khi đứng giữa lòng quê hương sản sinh ra món ăn Pizza, đi từ Rome qua Venice, tôi lại chẳng tìm đâu ra món Pizza trên đất Ý nấu ngon hơn món Pizza trên đất Mỹ. Pizza nơi quê cha đất tổ của nó trông có vẻ ốm yếu và thô sơ hơn ở quê ngọai Huê Kỳ. Món Pizza ở Mỹ được chế biến theo kiểu con nhà giàu. Lớp bột vừa dẽo vừa thơm. Lớp nhân “topping” thực là phong phú. Tất cả cuốn vào nhau trong mâm bánh mới ra khỏi lò. Nhưng sự phong phú thái quá về cái ăn chưa đủ định hình cho cái đẹp. Thử đi trên các đường phố Âu Châu từ Roma, tạt qua Munich, ghé Paris, sang London... du khách sẽ bắt gặp những thân hình mảnh mai và thon thả ưa nhìn. Nhưng nếu đi trên đường phố New York, Washington, Los Angeles... sẽ bắt gặp nhan nhản những thân hình phì nộn khó coi. Cái ăn tạo ra một “phó sản phẩm” là sự phát triển thể xác của sinh vật ăn. Người ta thường đem ra một hình ảnh so sánh buồn cười nhưng có thật rằng, ở Mỹ cái gì cũng to con lớn xác, từ người đến trâu bò gà vịt, nhưng chỉ có hai loài sinh vật ốm o và nhỏ nhất thế giới, đó là người mẫu bằng nhựa bày trong các siêu thị và loài gián Mỹ. Lý do là vì thức ăn Mỹ hầu hết đông lạnh. Người mẫu không ăn và người Mỹ lại sợ gián như sợ rắn hổ mang nên gián thiếu ăn. Con người ăn để sống và tạo ra văn hóa, nên cái ăn và văn hóa như bóng với hình. Hình không có thì bóng cũng không.

Chính trị, kinh tế ví như con đường cái quan và đồng lúa; trong khi văn hóa là rừng cây lưu niên có tự thuở nào. Con đường sẽ được đắp bồi hay chuyển hướng; ruộng lúa có biến thành nương dâu hay không là chuyện nhất thời. Nhưng rừng cây lưu niên đã hiện diện, tiếp nối, và lưu tồn với con người qua thử thách khắc nghiệt của thời gian. Cái ăn là văn hóa, hay ít nhất là một phần thiết thân của văn hóa vì nó là mạch sống lưu truyền của một vùng, một nước, một dân tộc. Mỹ là một nước hợp

Page 84: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 84

chủng nên quy tụ vô cùng phong phú những món ăn của thế giới. Thế nhưng nếu khi đưa ra câu hỏi: “Món ăn nào là món ăn thuần túy của Mỹ”? Hamburger chăng? Không! Hot dog chăng? Có lẽ! Vì nguồn cội và bản chất cái ăn thuần túy của một dân tộc vẫn đang còn xác định một cách ngập ngừng như : “Có lẽ!”, nên dù là một quốc gia giàu có và hùng mạnh của thế giới thì nền văn hóa ba trăm năm của Mỹ vẫn còn trong giai đoạn định hình để rồi không biết bao nhiêu năm sau mới có những món ăn “thuần Mỹ” như phở Bắc, bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu Mỹ Tho...

Cái miệng là hoa của người và văn hoá là hoa của cái ăn. Cái ăn của người Việt thường đạm bạc và thô sơ. Vì thế, văn hóa Việt Nam là gia tài ....????

Trần Kiêm Đòan

Đề này đến từ Mui vihttp://www.muivi.com/

URL của đề này là:http://www.muivi.com/modules.php?op=modload&name=News&file=article&sid=2669

TRẦN KIÊM ĐOÀN

TIẾNG MẸ QUÊ NGƯỜI

LTS: Học giả Phạm Quỳnh có một nhận xét khá độc đáo về ngôn ngữ trong bối cảnh văn học và xã hội Việt Nam: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn”. Có thể nói

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm thi ca tiêu biểu cho vẻ đẹp của Tiếng Việt. Sự mỹ lệ của ngôn ngữ thi ca mang nét đẹp không tàn phai của ngôn ngữ và khơi động được sự thống khoái của người thưởng ngọan nghệ thuật. Cũng trong ý

đó, John Keats đã ghi thành một câu thơ bất hủ: “A thing of Beauty is a Joy Forever.” (Mỗi cái Đẹp là một Niềm Vui vĩnh cửu.) Yêu tiếng Việt, thử nhìn lại sự chuyển mình của tiếng Việt trong thế hệ Trẻ Việt Nam (Thế hệ thứ hai) tại nước

ngoài. Sự chuyển mình đang quy về hai hướng: Tiếng Việt sống còn bên cạnh tiếng Anh hay tiếng Việt sẽ bị tiếng Anh chôn vùi vĩnh viễn ở quê người.

Sau đây là một bài viết tham gia ý kiến về vấn đề Tiếng Việt ở Quê Người của Tiến Sĩ Trần Kiêm Đoàn. NGUỒN.

**

Quê Ta Tiếng Người (The Fatherland, The Foreign Tongue. N.Y. 1995). Đây là tác phẩm viết về tâm sự của một cô gái Mỹ gốc Nhật, Susan Kumagai, thuộc về thế hệ

thứ ba sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ. Cô gái Phù Tang đã thành tài và từng ấp ủ ước mơ về phục vụ quê hương. Tâm lý Á châu là một khuynh hướng tâm lý chuộng chính danh và định phận. Người nào tiếng ấy rạch ròi. Nhưng đến đâu trên quê cha đất tổ, cô ta cũng bị đồng bào cô nhạo báng, châm chọc và đối xử một cách đầy xa lạ chỉ vì cô không nói đuợc tiếng Nhật, mà chỉ nói được tiếng Mỹ. Ngay tại ngôi làng tổ tiên Hukaido xa xôi của cô, nguời dân Nhật bình thường vẫn kính trọng người Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng lại xa lánh và kỳ thị cô gái Nhật mà lại chỉ có nói tiếng Mỹ. Sau cùng cô gái phải nghẹn ngào, vội vàng từ giã quê cha với lời than thở: “Đâu phải lỗi

tại tôi!” (It's not my fault!”).

Page 85: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 85

Thế thì lỗi tại ai? Susan cũng như hầu hết các em bé Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ đang quên hẳn hay quên dần tiếng mẹ đẻ đâu phải tại lỗi các em. Các em đều lớn lên như một tờ giấy trắng mà những giòng chữ đầu tiên do cha mẹ và xã hội thay phiên nhau viết những giòng kế tiếp. Các em đã quên tiếng Việt rồi sao? Sao các

em lại không biết cất tiếng chào “Thưa Cô, thưa Bác, thưa Chị, thưa Anh?”. Sao các em không có được niềm vui ngày Tết và hình ảnh con trâu trên đồng lúa, con sông

xanh ở đầu làng, tiếng ru của mẹ... có gợi cho em thương nhớ gì không? Tất cả những gì đẹp và thiêng liêng trên quê hương giờ đã xa khuất bên kia trời trái đất. Suốt ngày ở trường, ba mẹ đi làm quần quật, có ai giúp cho em gợi nhớ gì đâu?

Lỗi tại ai?Thưa, tại tôi, tại chị, tại anh, tại chú, tại bác, tại tất cả chúng ta là những người phụ huynh có trách nhiệm đang quay cuồng vật lộn với cuộc sống hàng ngày noi quê

người với biết bao mặc cảm tự hào lẫn chua xót. Rất đông người Việt lớn rất nhanh với kiến thức, bằng cấp, thương mãi, nghề nghiệp, trương mục ở ngân hàng nhưng

rất ít ngưới “lớn” theo kịp với đà phát triển của con cháu chúng ta trong cái xã hội Hoa Kỳ phức tạp và đa dạng này.

Để góp một phần rất nhỏ trong việc trình bày, phân tích và nhận định về sự khó khăn của con em chúng ta trong việc duy trì và sử dụng tiếng mẹ đẻ, tôi chỉ xin phép bàn đến một vài khía cạnh rất nhỏ và tiêu biểu trong lãnh vực bao la của ngôn ngữ.

Mặc Cảm Về Ngôn NgữNếu đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn thì ngôn ngữ là cửa ngõ tư tưởng và tình cảm của mỗi con người. Qua tiếng nói, người ta có thể gây cảm tình, thuyết phục hay

chinh phục; hoặc biểu lộ trình độ hiểu biết và thân thế một cách dễ dàng. Xuất thân từ một đất nước chuộng chữ nghĩa và lời nói, người Việt Nam chúng ta thường

mang mặc cảm về ngôn ngữ nặng nề như một cái “khẩu nghiệp”. Tiếng mẹ đẻ bị phân vùng Trung, Nam, Bắc, cọng thêm mặc cảm nhà quê hay thành thị đến nỗi

“Chưởi cha không bằng pha tiếng”. Thêm vào đó, tác dụng của tiếng nói còn bị phụ thuộc nặng nề vào đẳng cấp xã hội như “Miệng nhà quan có gang có thép” và người

dân thường thì phải chịu “thấp cổ bé miệng”.Tự bản chất, tiếng nói là một phương tiện truyền thông như chiếc bè để qua sông.

Nhưng với mặc cảm khá nặng nề về ngôn ngữ, tiếng Việt thường xuyên bị thử thách trải qua hàng nghìn năm lịch sử, với bao nhiêu cuộc bể dâu của đất nước, hết bị Tàu đô hộ, đến Tây xâm lăng, chiến tranh trường kỳ bão liệt. Không ít người Việt đã vội vàng quay lưng với tiếng nói thân yêu của mình để vội vàng chạy theo những

ngôn ngữ mới chân ướt chân ráo tiếp thu được khi hoàn cảnh thay đổi. Thời cận đại, khi tiếp xúc với văn hóa Tây phương, tiếng Tây đã trở thành một thứ ngôn ngữ “cao quý” đến nỗi cứ hễ nói tiếng Việt mà chêm vào đuợc tiếng Tây, bất luận là loại tiếng Tây nào, kể cả tiếng Tây bồi bếp, bâng quơ... cũng được liệt vào

hạng “văn minh” và “thông thái”!Trong giai đoạn này, đã có rất nhiều người Việt Nam theo “Tây học” đã công khai

chối bỏ tiếng nói thân yêu của tổ quốc, để chế nhạo, khinh miệt và vùi dập ngôn ngữ Việt Nam như là một thứ tiếng thấp hèn, nghèo nàn, lạc hậu, vay mượn và thiếu sức

sống (!).Khi qua Mỹ, mặc cảm ngôn ngữ tuy không còn gay gắt trong một xã hội đa

chủng vì tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ tiêu chuẩn (official language), tiếng Việt chỉ còn là phương tiện riêng tư giữa người Việt với nhau. Thế nhưng cái mặc

cảm đó vẫn cứng đầu, ló mặt thường xuyên trong cuộc sống Việt-Mỹ hàng ngày. Tôi đã từng gặp trong lớp học, nơi hội hè ở nhiều nơi những tình huống buồn cười một cách xót xa khi một người Việt mới đến xứ nầy nhưng đã nói được tiếng Anh một cách lưu loát thì người ta cho đó như một điều đương nhiên chẳng ai để ý. Nhưng

ngược lại, một người Mỹ học tiếng Việt lâu ngày mà nói được một câu tiếng Việt trọ trẹ thì mọi người lấy làm cảm kích và vỗ tay bôm bốp. Tiếng Việt như một con bệnh

Page 86: Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp · Web viewTác giả Trần Kiêm Đoàn - Sinh ngày: 10-8-1946 tại Liễu Hạ, Hương Toàn, Huế. - Tốt nghiệp Đại

Trang 86

nằm liệt giường lâu ngày, nay có người tốt bụng vực dậy làm mọi người hồ hỡi.Thái độ tiêu cực vì mặc cảm tự ti về ngôn ngữ Việt Nam đã bị thực tế hùng hồn

đánh bạt. Với sức sống tự cường của hàng nghìn năm lịch sử, tiếng Việt Nam, qua những người con ưu tú, đã chững chạc vươn lên bằng một hình thức văn tự mới với những phong trào chữ Nôm và Quốc ngữ. Những công trình sáng tác và biên khảo bằng tiếng Việt thuần túy đã phôi thai, khôn lớn và trưởng thành theo sự lớn mạnh và trường tồn của lịch sử dân tộc. Nhìn về lịch sử và văn hóa dân tộc, so với tất cả các nước lân bang ở Á Châu, chúng ta có quyền tự hào về sự phong phú của

gia tài ngôn ngữ Việt Nam.Từ

TIN SÁCH MỚITượng đài sông Hương

19/07/2004 10:53:48 PM GMT +7

Tập bút ký Tượng đài sông Hương do NXB Trẻ và Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện đã ra mắt bạn đọc. Sách dày trên 370 trang của 22 tác giả nổi tiếng là các nhà văn, nhà báo, học giả, giáo sư, kiến trúc sư, bác sĩ, đạo diễn điện ảnh... đã phác họa chân dung của cố đô Huế dưới nhiều góc độ khác nhau.Những cảm nhận và phát hiện rất riêng về sông Hương của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, KTS Nguyễn Trọng Huấn, nhà báo Văn Cầm Hải, Nguyễn Văn Dũng; những nét chấm phá về con người và tính cách Huế thật tinh tế và sâu sắc của các nhà văn Phùng Quán, Trần Hữu Lục, Trần Thùy Mai, TS Trần Kiêm Đoàn, GS-TS Thái Kim Lan, đạo diễn - NSND Đặng Nhật Minh, nhà báo Đinh Phong...Thanh Hồ