CÂU TRẢ LỜI CUỘC THI BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
Click here to load reader
Transcript of CÂU TRẢ LỜI CUỘC THI BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
CÂU TRẢ LỜI CUỘC THI BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG
CÂU 1
1. Thời điểm đưa ra nhận định Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương.
2. Vị trí, vai trò của đại dương đối với sự phát triển xã hội loài người
về mọi phương diện.
+ Là nơi dự trữ nguyên nhiên liệu và lương thực, thực phẩm cho con
người; có tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên, tạo ra những lợi thế
phát triển cho các quốc gia ven biển, quốc đảo và là chỗ dựa sinh kế cho
cộng đồng ven biển và trên các đảo của đại dương…
+ Nhiều dạng tài nguyên của đại dương không tìm thấy trên đất liền,
có khả năng phát triển các dạng năng lượng sạch,…
+ Vai trò của đại dương trong cân bằng môi trường sinh thái trái đất.
+ Đại dương có vai trò rất lớn đối vợi sự phát triển kinh tế - xã hội thế
giới (ví dụ đóng góp vào tỷ trọng nền kinh tế thế giới đặc biệt là đối với
quốc gia có biển, văn minh loài người...).
+ Đại dương có vị trí quan trọng về địa chính trị, góp phần hình thành
trật tự thế giới mới...
3. Khẳng định được thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương và sự phát triển kinh
tế biển Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, đòi hỏi Việt
Nam phải có tầm nhìn chiến lược và nhận định cho đúng vấn đề biển trong
những thập kỷ tới. Diện tích biển của Việt Nam hiện đang lớn gấp ba lần
diện tích đất liền, đồng nghĩa với việc chúng ta đang có tới ba nước VN thu
nhỏ, chưa kể khả năng tiếp cận không gian đại dương là vô tận", TS. Trần
Đình Thiên nói. Theo ông, đây chính là thời điểm để xây dựng một chiến
lược về biển.
"Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương"
Cùng với việc mở ra không gian hội nhập quốc tế, thì Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 (khóa X, 2/2007) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020” cũng "mở" ra những không gian mới... Xưa nay, chúng ta vốn quen tư
duy kiểu đất liền thì nay, lần đầu tiên một tầm nhìn mới về biển được thể
hiện thành chiến lược phát triển. Hai yếu tố hội tụ trong cùng một thời điểm
chính là động lực cho phát triển.
Lịch sử cho thấy những quốc gia đột phá phát triển phần lớn đều sát
biển.
Cách đây hơn một thế kỷ, khi phân định các thời đại phát triển, Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ John Hay đã chọn biển chứ không phải lục địa
làm mốc tọa độ. Ông nói: “Địa Trung Hải là biển của quá khứ, Đại Tây
Dương là biển của hiện tại, Thái Bình Dương là biển của tương lai”. Có thể
thấy lời tiên đoán của John Hay đang được chứng nghiệm bởi thực tế hai bờ
Tây và Đông Thái Bình Dương hiện đang là hai vùng phát triển năng động
nhất thế giới.
Đo lường sự phát triển từ tọa độ biển chứ không từ lục địa, đó là tầm
nhìn mới. "Chiến lược biển" mà Đảng ta xác định cũng chính là điều được
thế giới công nhận, đó là, thế kỷ 21 là thế kỷ của đại dương.
"Thiếu khát vọng chinh phục biển"
VN sát biển, với diện tích bờ biển thuộc loại dài nhất thế giới, nhưng
chưa thể nói ta là một quốc gia biển (sống dựa nhiều vào biển và lấy biển
làm động lực phát triển quốc gia).
Thứ nhất, người Việt sinh tồn ở đồng bằng, chủ yếu dựa vào canh tác
nông nghiệp, giới hạn trong tự cấp tự túc. Biển do vậy mới chỉ khoanh vùng
trong phạm vi làng xã.
Hơn nữa, người dân còn thiếu tính mạo hiểm và "máu" chinh phục
nhằm chiếm lĩnh và vươn lên. Tiếp cận biển vì vậy bị hạn chế. Bởi hoạt
động trên biển để khai thác đòi hỏi tinh thần mạo hiểm, hơn thế, là mạo
hiểm kiểu biển cả. Tính bất định và độ rủi ro trên biển vì thế rất cao. Đây là
phẩm chất thường bị thiếu đối với những người quen hoạt động trên đất liền.
Thứ hai, đặt trong bối cảnh nền kinh tế còn nghèo thì không có cơ hội
để phát triển công nghệ cao ngoài việc dùng các dụng cụ thô sơ, thủ công.
Bởi lẽ, khai thác các nguồn lực biển đòi hỏi một trình độ công nghệ cao,
tiềm lực tài chính mạnh, với phương thức tổ chức hoạt động đặc thù. Không
thể khai thác biển với tư duy và phương thức khai thác đất liền.
Vì những lý do trên, nên, biển trước hết vẫn chỉ là đối tượng để sinh
tồn và khai thác thủ công. Ngoài ra, nó là khát vọng của thi ca, để so sánh,
an ủi, ví von... chứ chưa phải khát vọng của chinh phục.
"Khai thác lợi thế mặt tiền"
Xét trên quan điểm hiện đại, tầm nhìn về biển phải thay đổi hẳn...
Trước hết, cần đánh giá tổng thể và đầy đủ tiềm năng lợi ích của biển trong
khung cảnh động, gắn với thành tựu phát triển khoa học công nghệ. Tất cả
phải được đo lường lại bằng một tầm nhìn hiện đại toàn bộ các lợi thế về
nguồn lợi mặt biển, tài nguyên trong lòng biển, bờ biển, thậm chí cả không
gian bầu trời trên biển.
Việc khai thác biển, dù đối tượng là loại tài nguyên gì (kể cả việc
đánh bắt hải sản gần bờ), để bảo đảm tính bền vững, luôn đòi hỏi một trình
độ công nghệ cao, và thường là công nghệ khác với các loại công nghệ sử
dụng trên đất liền. Câu hỏi đặt ra là nguồn lực tài chính và công nghệ nào
bảo đảm cho chiến lược CNH, HĐH biển của Việt Nam là khả thi (theo lộ
trình)?
Và trên hết, cần phải nói tới một lợi thế trước tiên, lợi thế sẽ tạo điều
kiện cho các lợi thế khác, đó là Việt Nam đang có một vị trí địa chiến lược
quan trọng trong khu vực châu Á.
Nhìn sang Trung Quốc, phải thấy rằng toàn bộ vùng duyên hải của
Trung Quốc, từ đảo Hải Nam đến tận vùng Đông Bắc đã mọc lên chi chít
các trung tâm phát triển. Họ có một cơ chế tốt với chiến lược "khai thác mặt
tiền". VN cũng đang có lợi thế mặt tiền như vậy nhưng chưa khởi động để
xây dựng chiến lược. Trong khi đó, diện tích biển của Việt Nam hiện đang
lớn gấp ba lần diện tích đất liền, đồng nghĩa với việc chúng ta đang có tới ba
nước VN thu nhỏ, chưa kể khả năng tiếp cận không gian đại dương là vô tận.
CÂU 2:
Biển đảo Việt Nam-Sơ lược về luật biển quốc tế và công ước của Liên hiệp
quốc về Luật biển 1982
1. Khái niệm pháp luật quốc tế về biển
Không gian mà con người sinh sống trên trái đất chủ yếu gồm ba phần: đất,
biển, trời.
▪ Lãnh thổ quốc gia trên đất liền, bao gồm đất liền, đảo, sông, suối, hồ nội
địa, vùng trời phía trên và lòng đất bên dưới nằm trong phạm vi các đường
biên giới quốc gia xác định qua thực tế quản lý hay điều ước quốc tế. Đường
biên giới trên đất liền về cơ bản được coi là bền vững và bất khả xâm phạm
mặc dù trên thực tế vẫn đang luôn luôn diễn ra các loại tranh chấp và có sự
biến động đường biên giới giữa nhiều quốc gia.
▪ Giới hạn về độ cao của vùng trời thuộc lãnh thổ quốc gia cũng như độ sâu
của lòng đất bên dưới tuy không được xác định rõ rệt chính xác bao nhiêu
cây số nhưng với khả năng kỹ thuật của nhân loại hiện nay, mỗi quốc gia
hoàn toàn có thể thực hiện chủ quyền của mình trong những phạm vi nhất
định tới giới hạn tối đa là vành đai khí quyển nằm dưới quỹ đạo địa tĩnh và
tới độ sâu cho phép thuộc bề dày của vỏ trái đất ở bên dưới phần lãnh thổ
của mình.
▪ Riêng với vùng biển, trong thời gian gần đây có rất nhiều sự thay đổi về
chất đối với phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một nước
ven biển cũng như vùng biển thuộc về đại dương cũng như phần đáy và lòng
đất dưới đáy đại dương không thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên,
biển vẫn còn tồn tại một nguyên tắc cơ bản của Luật biển là có đất (bờ biển)
mới có biển. Có thể thấy các thay đổi và phát triển của Luật biển diễn ra theo
một tiến trình ba bước cơ bản sau:
+ Từ xa xưa cho đến tận giữa thế kỷ XX, các nước ven biển chỉ có vùng biển
hẹp (lãnh hải) thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (mỗi hải lý bằng l.852 m). Phía
ngoài ranh giới lãnh hải 3 hải lý đều là biển công, ở đó mọi cá nhân, tổ chức,
tàu thuyền của mỗi nước được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu như không ai
chia biển với ai cả, đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước
thường được hình thành và tôn trọng theo tập quán.
+ Từ năm 1958 đến năm 1994, các nước ven biển có lãnh hải và vùng tiếp
giáp lãnh hải rộng không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài dưới
biển ra không quá độ sâu 200 m nước (theo các công ước của Liên Hợp quốc
về Luật biển năm 1958). Các nước láng giềng, kế cận hay đối diện nhau, căn
cứ vào luật, tự mình quy định phạm vi hoặc ranh giới vùng biển quốc gia,
dẫn đến hậu quả có sự chồng lấn và tranh chấp về biển. Luật biển quốc tế lúc
đó quy định các nước có vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết vạch
đường biên giới biển (bao gồm biên giới biển trong lãnh hải, ranh giới biển
trong vùng tiếp giáp và thềm lục địa) trong vùng chồng lấn. Nguyên tắc
hoạch định biên giới biển lúc đó là qua thương lượng trên cơ sở pháp luật
quốc tế và thường áp dụng nguyên tắc đường trung tuyến.
+ Từ năm 1994 đến nay, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển mới
được các nước ký kết vào năm 1982 (Công ước 1982), phê chuẩn ngày
16/11/1994 và bắt đầu có hiệu lực pháp luật quốc tế. Nước ta phê chuấn
Công ước 1982 vào năm 1994. Theo Công ước này, một nước ven biển có
năm vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, vùng thềm lục địa. Với sự ra đời của Công ước 1982, trên thế giới
các nước sẽ phải cùng nhau vạch khoảng 412 đường ranh giới mới trên biển.
2. Vùng biển chủ quyền của Việt Nam
Như vậy, theo Công ước 1982, phạm vi vùng biển của nước ta được mở
rộng ra một cách đáng kể, từ vài chục nghìn km2 lên đến gần một triệu km2
với năm vùng biển có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam
không còn thuần tuý có hình dạng hình chữ ''S'' nữa mà mở rộng ra hướng
biển, không chỉ có biên giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả
với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á như Philíppin, Malaixia,
Inđônêxia, Thái Lan.
● Nội thủy: Là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải. Vùng nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên
đất liền.
● Lãnh hải: Là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có chế
độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là
biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia
khác được hưởng quyền qua lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân
luồng giao thông biển của nước ven biển.
● Vùng tiếp giáp: Là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ ranh giới
ngoài của lãnh hải. Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển có quyền quy định
biện pháp ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập
cư, thuế khóa, y tế xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
● Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở
(trừ lãnh hải thì chiều rộng là 188 hải lý). Trong vùng biển này, nước ven
biển có quyền chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt
động kinh tế nhằm khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có
quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi
trường biển, xây dựng và lắp đặt các công trình và thiết bị nhân tạo. Các
nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và đặt dây cáp và ống dẫn
ngầm.
● Thềm lục địa: Là vùng đáy và lòng đất đáy biển nằm bên ngoài lãnh hảỉ
của nước ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra đến bờ
ngoài của rìa lục địa, hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh
hải khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên, bề rộng
tối đa của thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa dù thế nào cũng
không được vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải, hoặc
không quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500 m. Đối với thềm lục
địa, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia tương tự
như trong vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, quyền chủ quyền của nước
ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào việc có
tuyên bố hay không.
Hai bản đồ quý khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng
Sa
Câu 3
Lao Động số 60 Ngày 19/03/2009 .
(LĐ) - Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền về biển Đông với Trung Quốc,
bên cạnh khía cạnh pháp lý và luật pháp quốc tế thì vấn đề chứng cứ lịch sử
là rất quan trọng.
Điều này lại càng trở nên cực kỳ quan trọng khi phải đối thoại với Trung
Quốc - là một nước có truyền thống lưu trữ và khảo cứu thư tịch cổ rất lâu
đời, với trình độ rất cao. Theo đó, việc tìm kiếm các tài liệu bằng chứng trên
thư tịch cổ trong các kho lưu trữ trong và ngoài nước không bao giờ đủ và
không bao giờ thừa.
Bên cạnh các tài liệu do người VN biên soạn (hiện đang lưu trữ trong và
ngoài nước) thì các tài liệu do người nước ngoài, đặc biệt là người Trung
Quốc biên soạn lại càng quan trọng, vì ở đó nó là bằng chứng hùng hồn nhất
trong vấn đề chủ quyền tại biển Đông. Một khi tìm được các bằng chứng từ
phía Trung Quốc, về việc họ không xác nhận chủ quyền tại biển Đông thì
việc xem xét vấn đề trên bình diện pháp lý trở nên thuận lợi.
Mới đây, từ các bức ảnh do PGS-TS Đinh Khắc Thuân cung cấp, PGS-TS
Ngô Đức Thọ phát hiện ra rằng, đây là bằng chứng chủ quyền của nước ta
đối với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.
Đó là cuốn An Nam đồ chí của soạn giả Đặng Chung. Cuốn sách này được
biên soạn "căn cứ theo bản sao ở Thuật Cổ Đường của họ Tiền". Thuật Cổ
Đường là tên thư viện của Tiền Đại Hân - nhà khảo chứng học nổi tiếng đời
Thanh. Họ tên soạn giả An Nam đồ chí được ghi cuối bài tựa: Phân thủ
Quảng Đông Quỳnh Nhai Phó Tổng binh Ôn Lăng Đặng Chung (Phó Tổng
binh trấn thủ châu Quỳnh Nhai, tỉnh Quảng Đông là Đặng Chung, người
huyện Ôn Lăng).
An Nam đồ chí là một tập sách bản đồ có các khảo chú về toàn quốc và các
địa phương của VN. Một nội dung như vậy là một tài liệu tham khảo sử địa
học quan trọng, mà giới nghiên cứu VN cả trong nước và quốc tế cho đến
nay chưa từng trích dẫn hoặc biết tới. Niên đại soạn sách ghi sau bài tựa
càng là một giá trị quý hiếm: Vạn Lịch Mậu Thân thanh minh nhật. Vạn
Lịch (1573-1620) là niên hiệu Vua Minh Thần Tông, năm Mậu Thân Vạn
Lịch là năm 1608, cách nay đúng 401 năm.
An Nam đồ chí là thư tịch bản đồ đầu tiên của Trung Quốc ghi tên cửa biển
Đại Trường Sa trong tờ bản đồ vẽ nước An Nam - tức VN.
PGS-TS Ngô Đức Thọ kết luận: "Bất cứ vì lý do gì, việc một viên quan binh
của nhà Minh giữ chức Phó Tổng binh châu Quỳnh Nhai (tức đảo Hải Nam)
ghi tên Cửa biển Đại Trường Sa của VN trên bản đồ An Nam, chứng tỏ
người Trung Hoa từ trước và từ triều Minh, triều Thanh đều thừa nhận hai
quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa là thuộc VN".
Về tài liệu nước ngoài, TS Nguyễn Nhã có một phát hiện đặc biệt quan
trọng, khi ông tiếp cận bản đồ An Nam đại quốc họa đồ -, do Giám mục
Taberd vẽ năm 1838. Tấm bản đồ nằm trong cuốn từ điển được in ấn, nên nó
không phải là độc bản mà mức độ phổ biến rộng rãi, đến được với nhiều
người - đặc biệt là giới học giả (đối tượng sử dụng chủ yếu của cuốn từ điển
này). Trên bản đồ, quần đảo Hoàng Sa được viết bằng chữ "Cát Vàng". Và
điều đặc biệt nhất là, bản đồ có ghi tọa độ và khi đối chiếu với số liệu hôm
nay thì hoàn toàn trùng khớp. Đây là bản đồ cổ duy nhất có ghi tọa độ và
cũng là bản đồ cổ duy nhất có xác định tọa độ của Hoàng Sa.
Ngoài ra, trên tập san The journal of the Asiatic society of Bengal, Vol VI
cũng đã đăng bài của giám mục Taberd, xác nhận Vua Gia Long đã thân
chinh vượt biển đến Hoàng Sa vào năm 1816 và long trọng treo cờ, chính
thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels (Hoàng Sa, Cát Vàng)...
Hai tấm bản đồ do những người nước ngoài vẽ thực sự là một minh chứng
hùng hồn về chủ quyền của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
GS-TS Nguyễn Quang Ngọc - Viện Việt Nam học và Khoa học
phát triển: Thư tịch và bản đồ cổ của Trung Quốc tính cho đến cuối thế kỷ
XIX và thậm chí cả những năm cuối thập kỷ đầu của thế kỷ XX, đều phản
ánh một thực tế hết sức hiển nhiên là vùng lãnh thổ, lãnh hải truyền thống
của Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá đảo Hải Nam.
Phải khẳng định một cách tuyệt đối rằng lịch sử thực thi chủ quyền
của VN ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách nhà nước, phát
triển liên tục, rõ ràng, muộn nhất là từ đầu thế kỷ XVII (dưới thời Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên) và qua các thế kỷ XVIII (dưới thời các chúa Nguyễn
tiếp theo và vương triều Tây Sơn), XIX (dưới thời các vương triều Nguyễn)
và cho mãi đến những năm đầu của thế kỷ XX vẫn chưa hề gặp phải sự phản
đối của bất cứ quốc gia nào
Câu 4: Lợi thế và tiềm năng của biển, đảo Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc? Những thuận lợi, khó khăn, thách
thức và giải pháp của Việt Nam trong việc làm chủ biển, đảo
1. Lợi thế và tiềm năng biển, đảo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc:
- Lợi thế: địa kinh tế, địa chính trị, quốc phòng, an ninh…
- Tiềm năng: tài nguyên khoáng sản biển, đại dương; nguồn lợi thủy,
hải sản; hệ sinh thái biển; cảng biển; mở rộng hợp tác quốc tế...
2. Những thuận lợi, khó khăn, thách thức và các giải pháp của Việt
Nam trong việc làm chủ biển, đảo.
- Thuận lợi: vị trí địa lý của quốc gia biển; hợp tác quốc tế về biển;
tiềm năng của biển Việt Nam;…
- Khó khăn, thách thức: trình độ khoa học kỹ thuật về biển còn lạc hậu
so với các quốc gia biển trên thế giới; nguồn lực lao động đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế biển còn hạn chế; thiên tai với cường độ lớn, khó lường,
ảnh hưởng đến đời sống; tranh chấp Biển Đông-Tài nguyên biển…
- Giải pháp: nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng mạnh để bảo vệ vững chắc
chủ quyền và an ninh trên biển; đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa
học-công nghệ biển; triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả công tác qui hoạch
tổng thể phát triển xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; quản lý nhà nước
có hiệu lực và hiệu quả đối với các vấn đề liên quan đến biển; xây dựng đầy
đủ, đồng bộ hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển; phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hội vùng, biển và ven biển; tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác
quốc tế về biển; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh… Nghị quyết 09 -
NQ/ TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã
nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”.
Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây
dựng chiến lược biển. Khu vực biển Đông, trong đó có vùng biển Việt
Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng…với nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai
trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước” .
Có thể khẳng định, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển của nước ta
có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Trước hết là
dầu khí với trữ lượng khoảng từ 3 đến 4 tỉ tấn dầu qui đổi, cùng các loại
khoáng sản có giá trị khác như than, sắt, ti tan, cát thuỷ tinh. Bên cạnh đó là
nguồn lợi hải sản với chủng loại rất phong phú, đa dạng, có tổng trữ lượng
khoảng từ 3 đến 4 triệu tấn. Dọc bờ biển có hơn 100 địa điểm có thể xây
dựng cảng, trong đó có nhiều nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc
tế; có nhiều đảo có tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp. Ngoài ra, biển
nước ta còn có 125 bãi biển lớn, nhỏ nông thoải, nước trong và sạch, nắng
ấm quanh năm, không khí trong lành với cảnh quan đẹp... là điều kiện lý
tưởng để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp.
Vấn đề đặt ra là làm sao để đánh thức tiềm năng to lớn đó của đất nước để
kinh tế biển thực sự đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn trong cơ cấu kinh tế đất nước.
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển
với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Tuy nhiên, trước một tiềm năng kinh tế lớn, bên cạnh những thuận lợi, thì
với một khoảng thời gian thực tế chưa dài nên chúng ta đang phải đối mặt
với những khó khăn thách thức là tất yếu.
Về khách quan, một số vùng biển nước ta thường xảy ra thiên tai với cường
độ lớn và tần suất cao làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân
vùng ven biển cũng như trong việc khai thác tiềm năng kinh tế biển.
Về chủ quan, việc nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành và nhân dân chưa đầy đủ.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược biển cùng những chương
trình phát triển cụ thể để phát huy toàn diện tiềm năng tài nguyên đó. Đó là
bên cạnh quy mô phát triển kinh tế biển còn nhỏ bé, manh mún, chưa tương
xứng với tiềm năng; thì cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới chỉ phát triển
trên một diện hẹp; chưa chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để đủ sức vươn
ra vùng biển quốc tế. Trong khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi kinh tế
biển vẫn đang chủ yếu là sản xuất nhỏ; với hệ thống hạ tầng còn thiếu thốn,
yếu kém, chưa đồng bộ; cùng với đang thiếu những cảng biển lớn với dịch
vụ hậu cần quy mô, hệ thống những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ
biển, các cơ sở dự báo thiên tai từ biển đang bộc lộ những yếu kém, bất cập
v.v…
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do công tác tuyên truyền, giáo
dục để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai
trò của biển chưa đầy đủ; các cơ quan quản lý nhà nước về biển chưa phát
huy tốt vai trò của mình, nhất là trong việc xây dựng chiến lược và hoạch
định chính sách; vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng biển và phát triển
ngành, nghề biển còn ít; công tác hợp tác quốc tế về biển còn nhiều hạn chế,
trong khi tranh chấp giữa các nước liên quan đến biển Đông còn diễn ra
phức tạp.
Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2025, thế giới sẽ mất đi 70 triệu
héc ta đất canh tác do bị ngập mặn hay bị chìm trong nước biển. Do đó,
những dự án chiến lược khai thác biển, biến biển cả thành nơi phát triển
nông nghiệp đang được các quốc gia và các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu, xây dựng.
Là một quốc gia có biển, đảo, Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ
này, nên cũng như đang hết sức quan tâm đến việc xây dựng chiến lược phát
triển biển.
Định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
+Về quan điểm chỉ đạo
Với những nhận định quan trọng trên, Hội nghị lần thứ tư ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá X) đã có quan điểm chỉ đạo về định hướng
chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, thể hiện rõ trên các luận điểm sau:
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các
ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc
phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp giữa phát
triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi
trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có
hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh
các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trên tinh thần đó, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu và định hướng chiến lược
phát triển kinh tế biển đến năm 2020 và tầm nhìn xa hơn.
Mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển
Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Phấn
đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53 – 55%
tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước
đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân
đầu người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Cùng
với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một
số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển;
xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực,
hiệu quả; mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
X) đã có những định hướng chiến lược sát đúng và cụ thể về phát triển kinh
tế biển đến năm 2020 trên một số lĩnh vực quan trọng dưới đây.
Về kinh tế - xã hội:
Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường
biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển
gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển,
trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển. Hình
thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế
để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đến năm 2020,
phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm: khai
thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát
triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công
nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị
ven biển. Trước mắt, sẽ tập trung đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng
cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển những ngành dịch vụ
mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các điều kiện cần
thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển,
đảo và ở những vùng thường bị thiên tai.
Về chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết
hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp
lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ
quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng
cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển
mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản
xuất và khai thác tài nguyên biển. Sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu
hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài
ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của
Tổ quốc.
Về phát triển khoa học - công nghệ biển
Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi
mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học -
công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài
nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho
nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn
phát triển mới của đất nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng biển
Phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một
số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước
sâu ở cả ba miền của đất nước, tạo những của mở lớn vươn ra biển thông
thương với thế giới. Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện
đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ
kỹ thuật - công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm
thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển,
xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc - Nam trên biển v.v…
Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước
trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vẫn chỉ là tiềm năng, nếu
thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ thể. Vì
vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
X) có thể nói là một công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững
chắc và hiệu quả tiềm năng đó.
Cùng với sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý
hiệu quả của nhà nước; cần có sự nỗ lực nhiều hơn nữa của các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương và toàn dân để có thể nhanh chóng
biến mục tiêu thành hiện thực. Với một chiến lược biển tổng thể, đúng đắn
và phù hợp, cùng với quyết tâm cao của các cấp, các ngành và toàn dân, nhất
định chúng ta sẽ khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đẹp, giàu
của đất nước, góp phần quan trọng và xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Câu 5: