Cai Th - michaelpdo.com | HOMEmichaelpdo.com/wp-content/uploads/2017/12/CMCN1B.pdf · một phóng...
Transcript of Cai Th - michaelpdo.com | HOMEmichaelpdo.com/wp-content/uploads/2017/12/CMCN1B.pdf · một phóng...
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 2
Mục lục
Cai Thầu Từ Thiện (1) 3
Cai Thầu Từ Thiện (2) 7
Khoảng Cách Giàu Nghèo tại Mỹ (1) 13
Khoảng Cách Giàu Nghèo tại Mỹ (1) 17
Hoa Kỳ Có Còn Là Miền Đất Của Cơ Hội Không? 21
Nước Mỹ Trên Đường “Tiến Lên” Xã Hội Chủ Nghĩa!!! 25
Viễn Ảnh Một Xã Hội Phúc Lợi Hoa Kỳ!!! 30
Thông Điệp Cuối Năm 36
Vấn Đề Di Dân Bất Hợp Pháp 44
Mối Đe Doạ Lớn Nhất của Nhân Loại là Khủng Bố ISLAM 53
Nạn Khủng Bố tại Hoa Kỳ 61
Nguy Cơ Hồi Giáo Hoá ở Âu Châu 71
Hội Nghị Thượng Ðỉnh Mỹ Hoa 80
The Peace Movements in South Vietnam in Mid-1960s 88
Các Phong Trào Hoà Bình tại Miền Nam Việt Nam 97
Khái niệm Hâm Nóng Địa Cầu 113
Đánh Giá Cộng Đồng Việt trong Xã Hội Mỹ 120
Một Người Cộng Sản “Cao Quý”!!! 126
Vietnam Is Facing the Clear and Imminent Threat of
Chinese Colonialism 175
Hai Khiá Cạnh của Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái 134
Tôi Muốn Sống 137
Từ Một Cái Chết 146
Giới Thiệu Rượu Vang California 152
Confucianism as an Ethical Philosophy 162
Book Review
The Necklace 168
To Build a Fire 171
An Occurrence at Owl Creek Bridge 173
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 3
Cai Thầu Từ Thiện (1)
Hàng triệu năm từ khi có mặt trên trái đất, con người đã phải đương đầu với quá nhiều tai
ương. Thiên tai do các biến động của thiên nhiên thì có sức mạnh vạn năng mà dù khoa học của con
người có tiến bộ đến đâu cũng chỉ có khả năng giảm thiểu sự thiệt hại chứ hoàn toàn không né tránh
được. Chúng ta chỉ có thể ngăn ngừa các nhân tai hoặc các thiên tai xảy ra do hậu quả những hành
động thiếu tính toán, bất cẩn của con người mà thôi.
Nhân tai nặng nề nhất mà nhân loại gánh chịu là các nền cai trị độc tài phát xuất từ sự điên
cuồng của các cá nhân, hay do tham vọng quyền lực, tiền tài …
Cũng như thiên tai, nhân tai tác động hầu như trên mọi lãnh vực của đời sống. Từ nạn diệt
chủng cho đến nạn suy đồi của nền văn hoá dẫn đến tiêu vong; cho đến dịch bệnh, tệ đoan, sự nghèo
đói, khốn khó, thất học, vân vân.
Thế kỷ 20 đã mục kích hai nhân tai khủng khiếp. Đó là chế độ Quốc Xã Đức và chế độ Cộng
Sản trên một phần ba nhân loại, và hiện còn tồn tại tại Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Trung Hoa.
Cái nhân tai Cộng sản ở Việt Nam đã tạo ra nạn diệt chủng với tính mạng hàng triệu người
trong và ngay sau chiến tranh. Nó đã và đang đẩy con người vào bần cùng, đói khổ, dịch bệnh, tạo
thêm cơ hội cho thiên tai hoành hành làm dân đã khổ càng khổ thêm, đã nghèo càng mạt thêm. Về
mặt chính trị quốc gia, thì rõ ràng Cộng Sản đang đưa tổ quốc đến bờ hủy diệt.
Đã là người thì dù không theo Chúa, theo Phật, ai cũng có ít nhất trong con tim mối đồng
cảm với kẻ khổ đau, tuyệt vọng. Điều mỉa mai nhất là chính ông tổ Cộng Sản Karl Marx đã nói rằng
chỉ có con vật mới quay lưng trước đau khổ của đồng loại. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng không
những quay lưng, mà những người Cộng Sản còn nhởn nhơ vui thú trước những đau khổ mà chính
chúng cố tình gây ra chong đồng bào, đồng loại.
Lòng nhân đạo là bản chất của con người, trừ phi bị giáo dục đầu độc trong một môi trường
bạc ác. Giúp đỡ, cứu trợ, an ủi là những việc phước thiện ít nhất mà con người có thể làm cho nhau.
Nhưng cho ai, làm sao để sự giúp đỡ của mình đến tay nạn nhân xa cách mình về địa lý; người ta
phải nghĩ đến việc hình thành các tổ chức thường trực hay cấp thời nhưng có quy củ, kết hợp và điều
động được nhân lực và khả năng, phương tiện.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 4
Những tổ chức
lớn mà người Việt biết
đến nhiều là Hội Hồng
Thập Tự, Caritas,
USCC, World
Vision… Ở Hoa Kỳ có
hàng ngàn hội từ thiện,
bao trùm nhiều lãnh
vực khác nhau. Dưới
đây là bản danh sách
10 tổ chức thu được
nhiều tiền nhất tại Mỹ
từ gần gần 1 tỷ đô la
(Volunteers of
America) lên đến 4 tỷ
(Hồng Thập Tự Hoa
Kỳ) mỗi năm. Đủ để
thấy sức đóng góp vô bờ của người Mỹ ra sao:
Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta thường nhận được rất nhiều thư của các hội (đa số là
của Mỹ) gửi đến xin tiền. Có ngày hai ba thư. Đa số là từ các hội cứu trợ cho thương, phế binh, cựu
chiến binh… Các hội này rất khéo. Họ thường kèm theo những lá thư của các vị có tiếng tăm, từng
giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội. Họ cũng in sẵn các tập label địa chỉ của chúng
ta hay các tấm thiệp chúc Tết, Noel cũng in sẵn tên và địa chỉ của chúng ta kèm theo trong thư. Thư
đầu, họ chỉ khiêm tốn xin những khoản tiền nhỏ từ 5 đến 10, 20 đồng. Sau khi đã nhận được sự ủng
hộ của chúng ta, họ sẽ gửi liên tục và nâng số tiền xin lên cao hơn.
Trên đài truyền hình, thì có các hội cứu trợ cho trẻ em, phụ nữ khốn khó ở các quốc gia
nghèo Phi châu, Á Châu, thậm chí cả các em thiếu ăn ở Hoa Kỳ. Các tổ chức thường đưa ra hình ảnh
dễ thương nhưng lem luốc của các em, được giới thiệu bởi các khuôn mặt của quý bà, quý ông rất
hiền từ, nhỏ nhẹ, kêu gọi sự thương cảm của khán giả.
Đối với đồng bào tị nạn Việt Nam, thì phong trào làm từ thiện cũng nở rộ từ những năm mới
đây. Nào là giúp đỡ thương phế binh VNCH, tương trợ đồng môn, cứu trợ nạn nhân bão lụt, cô nhi,
già yếu, nan y … Ngoài việc cứu trợ Thương binh và đồng đội VNCH là nhiệm vụ chúng ta vì Cộng
Sản vẫn xem họ là thù địch; còn những thành phần khác phải là đối tượng của các cơ quan xã hội
Việt Cộng. Cứu trợ xã hội trong nước là việc làm của nhà cầm quyền, không phải việc chúng ta. Từ
những tổ chức xuất phát từ Hoa Kỳ, ngày nay có hàng đoàn hàng lũ từ Việt Nam mà thường xuyên
và dập dìu nhất là dưới các màu áo nhà tu; Phật cũng như Thiên Chúa giáo. Trong lúc các vị chân tu
biết lo cho đạp pháp và biết ưu tư đến tiền đồ dân tộc thì đang bị kềm kẹp, tù đày. Việc bọn thầy tu
kéo nhau ra ngoại quốc xin tiền dễ dàng như thế phải làm cho chúng ta đánh dấu hỏi thật lớn.
Người viết đã có ít nhất hai lần đề cập và phân tích đến bản chất việc cứu trợ “từ thiện” ở
Việt Nam. Vì thế, sẽ không nói gì thêm; nhưng sẽ đưa ra vài kinh nghiệm để quý độc giả suy nghĩ và
có phản ứng thích đáng.
Chúng tôi luôn luôn ghi nhận thiện tâm thiện ý của quý vị bỏ công sức ra để làm từ thiện, xoa
dịu khổ đau của đồng bào, đồng loại. Họ là những người cao quý mà người viết không dám xúc
phạm đến.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 5
Nhưng bên cạnh số nhỏ người cao quý đó, không thiếu gì bọn bất lương đang xem việc từ
thiện là một nghề rất béo bở, dễ ăn, mà lại được ca ngợi. Bọn này đáng được gọi là “Cai Thầu Từ
Thiện”
Trong một phóng sự đặc biệt trên truyền hình Mỹ ABC giữa năm này (2009), các phóng viên
đã điều tra thật sâu, thật kỹ các tổ chức từ thiện cho Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ, và đi đến kết luận rằng
đa số tiền quyên góp từ các người hảo tâm thường đi vào túi các ông bà giám đốc, hoặc lương thiện
hơn, là vào các chi phí hành chánh. Số tiền đến tay người thụ hưởng rất thấp. Có vài tổ chức bất
lương mà phóng viên có nêu ra tên tổ chức, gần như 90% tiền quyên được là dành cho việc trả
lương, tiền thưởng cho các vị trong ban Giám đốc mà thường các chức vụ chóp bu là của vợ chồng,
con cái chia nhau nắm giữ. Họ có toàn quyền tự ấn định mức lương lên tới hàng triệu, hàng trăm
ngàn đô la. Họ dùng tiền quyên góp để trả tiền cho những khách sạn loại sang, những chuyến du
chơi ngụy trang dưới danh nghĩa công tác, những chiếc xe sang trọng cho ban Giám đốc, mua sắm
đồ dung trong nhà vân vân. Thậm chí, có vị giám đốc dùng tiền để bao cho các bồ nhí tại các thành
phố mà họ có đi qua công tác.
Mới nhất, lúc 6:30, ngày 22 tháng 2, 2012, đài truyền hình KLRU (Băng tần 18-2) đã phát đi
một phóng sự về việc tặng phẩm của người hảo tâm tặng cho dân nghèo qua bàn tay của Red Cross
(xảy ra ở Germany). Phóng viên đã điều tra ngay từ khâu nhận quà cứu trợ của Red Cross ở Đức cho
đến khi các món quà này được bày bán tại một khu chợ tồi tàn của xứ Tanzania (Phi Châu). Thì ra,
Red Cross đã cho vào từng thùng conex, bàn cân ký cho một nhà thấu để nhà thầu này lựa lại, giặt
tẩy và chở qua bán cho dân ngfhèo Tanzania (trung bình người dân Tanzania chỉ làm được 1 Euro
mỗi ngày).
Từ lâu, tôi vẫn rán tin tưởng ở các cơ quan thiện nguyện lớn như Red Cross, Good Will..., vì
họ cho biết chỉ chi cho hành chánh khoảng 5% hiện kim, hiện vật cứu trợ. và có đến 90% sẽ đến tay
người thụ hưởng.
Thử tưởng tượng, chỉ với vài chục xu Mỹ, có thể cho một em bé nghèo bên Việt Nam ăn
được một bữa "cao lương" mà em suốt đời không dám mơ đến. Nhưng người “Cai Thầu Từ Thiện”
đem tiền về Việt Nam thì ở trong khách sạn 5 sao, mỗi bữa nhậu tiêu tốn hàng trăm đô la lẽ ra dành
cho các em.
Sau đây là tên 10 tổ chức mà tiền chi phí hành chánh chiếm từ 49% đến 68%
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 6
Phụ bản dưới đây là mức lương giám đốc của 10 tổ chức được đánh giá là có khả năng quyên
góp “thấp”. Theo báo cáo, thì tại các tổ chức này, chỉ có tối đa 40% tiền quyên là đến tay người thụ
hưởng.
Các thống kê trên có tính tiêu biểu chung; chứ không đề cập đến những tổ chức đại bất lương
mà như đã nói, mà trên 90% tiền thu được chia cho nhau giữa các ông bà giám đốc dưới nhiều hình
thức. Sự kiện xấu xa này không chỉ xảy ra trong các cơ quan từ thiện, mà ngay cả các tổ chức tôn
giáo như chúng ta thỉnh thoảng vẫn nghe, đọc, hay xem trên các phương tiện truyền thông. Quý vị
muốn nghiên cứu thêm, có thể vào các trang web dưới tiêu đề Charity; ví dụ trang sau đây:
http://www.charitynavigator.org/
Riêng trường hợp Việt Nam, thì có quá nhiều bài báo đã chứng minh rằng tiền cứu trợ sau
khi vào túi bọn cai thầu, giúp bọn chúng những chuyến du lịch ăn chơi miễn phí; kế đến là vào túi
bọn cầm quyền Cộng Sản để chúng có tài sản hàng trăm ngàn, hàng triệu đô la; chỉ có trên dưới 5%
là đến tay nạn nhân, nhưng cũng chất vật lắm mới nhận được.
Như thế, rõ ràng, việc làm từ thiện vô hình chung đã trở nên một loại dịch vụ, kinh doanh
béo bở cho những kẻ bất lương. Nó làm xói mòn lòng tin của con người vào một công tác với bản
chất rất cao quý mà chỉ những người có lòng vị tha, từ tâm mới dám đứng ra đảm trách. Nó gây băng
hoại một nền đạo đức mà bao nhiêu giáo lý qua bao đời đã từng dày công gây dựng trong xã hội con
người.
Và tàn nhẫn nhất là nó làm cho những nạn nhân khốn khổ trở thành những người bị lợi dụng,
hình ảnh bị bêu ra hàng ngày trên màn ảnh, mà chẳng được thụ hưởng bao nhiêu đồng tiền đồng loại
của họ phải đổ mồ hôi làm ra, nhưng do từ tâm mà nhịn bớt ăn tiêu để chia xẻ cho họ.
Lòng nhân ái thì không có biên giới màu da, chủng tộc, tôn giáo. Nhưng chắc rằng con người
bình thường thì hành xử, chia sớt bắt đầu từ gần ra xa. Mong rằng người có từ tâm; sẽ không thể
thiếu trí phán đoán để từ tâm của mình đặt đúng chỗ và không bị lợi dụng của bọn “cai thầu từ thiện”
và bọn kên kên đang chực sẵn bên Việt Nam để chờ sà xuống ngấu nghiến bữa tiệc vô lương.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 7
Cai Thầu Từ Thiện (bài 2)
Khai Thác Người Khổ Nạn, Lạm Dụng Lòng Nhân Từ để Trục Lợi
Con người sinh ra, đại đa số có lòng nhân từ, biết xúc cảm
trước cảnh thương tâm của đồng bào, đồng loại. Đạo Phật dạy từ
bi, đạo Chúa dạy bác ái, đạo Khổng dạy nhân từ. Nói chung, tôn
giáo dạy con người biết yêu thương, chia sẻ đối với tha nhân. Dân
tộc Việt Nam thấm nhuần đạo lý này từ hàng ngàn năm, thể hiện
qua hàng chục câu ca dao, tục ngữ mà tiêu biểu là:
Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn
Nếu chúng ta may mắn được có cuộc sống bình thường, no đủ, tay chân lành lặn… chúng ta đã
quá hạnh phúc so với hàng chục, hàng trăm triệu người khác trên thế gian đang đói khổ, bệnh tật,
chịu tai trời ách nước, chiến tranh, dịch hoạ… đến tan tác gia đình, mất nhà mất cửa…
Ngay tại nước Mỹ chúng ta đang sống, có gần 47 triệu người tức 15% dân số được phân loại
nghèo, trong đó gần 21 triệu được xếp vào loại nghèo cùng cực, lợi tức của họ không bằng phân nửa
lợi tức ấn định cho giới nghèo khó. Có đến 50% số gia đình đang sống dựa trên tiền an sinh xã hội;
có 1 trong 6 người không có thực phẩm dọn lên bàn ăn của gia đình, gần 50 triệu người đang lãnh
trợ cấp thực phẩm (Foodstamps). Cũng có hàng triệu người không nhà, phải vất vưởng ngoài vỉa hè,
dưới gầm cầu; ngay cả trong mùa đông buốt giá. Con số cựu quân nhân thương tật, trẻ em bệnh hoạn
hiểm nghèo, người già cô đơn … cũng lên tới con số triệu.
Vì thế, nhịn đi một ít tiền tiêu xài hay bỏ ra chút công sức để đóng góp vào các công tác từ thiện
là việc cần phải làm. Một mặt chung tay xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của đồng loại, một phần là tạo
cái đức cho bản thân.
Chúng tôi vô cùng khâm phục và tán trợ những nhà từ thiện thực tâm đã thay chúng ta đứng ra
làm công việc cao quý này.
Nhưng chúng tôi cũng rất phẫn nộ đối với những kẻ đê tiện, đã khai thác sự đau thương của nạn
nhân và lợi dụng lòng thương người để trục lợi cho bản thân và gia đình. Họ không khác gì những
con kên kên chuyên rỉa rói trên xác chết.
1.- Hoạt động từ thiện tại Hoa Kỳ
Chúng tôi không có đủ điều kiện để tham khảo chi tiết về công việc từ thiện ở các quốc gia khác
ngoài Hoa Kỳ. Nhưng có thể nói không sai rằng dù đánh giá theo tiêu chuẩn nào, Hoa Kỳ cũng là
nước hào phóng nhất trên thế giới.
Theo đánh giá tổng quát, Hoa Kỳ đứng đầu, kế đó là Ireland, Australia, New Zealand, Anh, Hoà
Lan, Canada, Sri Lanca, Thailand, và xin đừng ngạc nhiên, nước đứng thứ 10 là Laos! Nguồn:
http://www.huffingtonpost.com/2011/12/19/world-giving-index-us-ran_n_1159562.html.
Một báo cáo dựa trên các yếu tố khác (tỷ lệ dân số đóng góp cho từ thiện, góp thì giờ tình
nguyện vào công tác, và sẵn lòng giúp đỡ người lạ) thì ghi nhận Myanma (tên cũ là Burma, Miến
Điện) cũng theo sát Hoa Kỳ trong danh sách các quốc gia giàu nhân ái (Có đến 91% người dân
Myanma tham gia từ thiện)
Nếu dựa trên tỷ lệ tiền cho từ thiện so với tổng sản lượng quốc gia (GDP), thì Hoa Kỳ cũng đứng
đầu (1.85%), theo đó là Israel (1.34%) và Canada (1.17%)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 8
Trong nước Mỹ, theo sự đánh giá dựa vào tỷ lệ tiền cho từ thiện trên lợi tức cá nhân thì 5 tiểu
bang giàu lòng nhân ái nhất tại Mỹ là Utah (10%), District of Columbia (7.7%), Mississippi (72.%),
Alabama (7.1%), và Tennessee (6.6%).
http://www.forbes.com/sites/williampbarrett/2015/12/09/the-largest-u-s-charities-for-2015/
http://abcnews.go.com/Business/generous-states-charities-lean-republican/story?id=17030246
Người Mỹ ngoài đóng góp tài chánh, đã tình nguyện tham gia vào các công tác từ thiện. Năm
2013, có 64.5 triệu người lớn góp 7.9 tỷ giờ lao động. Nếu tính trung bình mỗi giờ có giá trị 22.55
đô la, thì số tiền tương đương của lao động tình nguyện lên đến 175 tỷ đô la.
Công việc tình nguyện này trong các lãnh vực: tôn giáo (34.2%), giáo dục (26.5%), phúc lợi xã
hội (14.4%), y tế (8%).
Quý vị có nghĩ rằng người giàu nhiều lòng từ thiện không? Câu trả lời là KHÔNG.
Dĩ nhiên không kể đến vài vị tỷ phú đã hiến tặng phần lớn tài sản cho công tác từ thiện. Chúng ta
chỉ nói đến giới giàu có nói chung mà thôi.
Theo tài liệu của Sở Thuế Vụ (IRS), năm 2008, giới trung lưu nghèo có lợi tức khoảng 50 đến 75
ngàn đô la mỗi năm, đã cho từ thiện trung bình 7.6% lợi tức của họ. Họ đóng góp 135 tỷ đô la trên
tổng số 214 tỷ đô la, tức là gần 2/3 tiền đóng góp do cá nhân. Trong khi đó giới giàu có lợi tức trên
100 ngàn đô la chỉ cho đi khoảng 4.2% của lợi tức, những người có lợi tức trên 200 ngàn đô la còn
cho ít hơn; chỉ 2.8% tiền làm được trong năm của họ.
Trong phạm vi quốc tế, chính phủ Hoa Kỳ hàng năm viện trợ đến các nước khác một cách rộng
rải như viện trợ kinh tế (32 tỷ trong năm 2013), nhân đạo (30 tỷ vào năm 2013, dự trù chi 37.9 tỷ
trong năm 2016). Các nuớc thụ hưởng nhiều là Nam Á, Đông Phi, Tây Nam Mỹ. Kế đó là Trung
Cộng, Trung Á, Đông Âu, Tây Phi, Đông Nam Mỹ cũng có phần. Ngoài viện trợ hàng năm, Hoa Kỳ
còn giúp đỡ đặc biệt hậu hỉ sau các thiên tai lớn như sóng thần, động đất, cũng như nạn nhân chiến
tranh…
Trong nước, mỗi năm, dân Mỹ hiến tặng hàng trăm tỷ đô là cho các tổ chức từ thiện (để giúp
người trong nước và cả ngoài nước Mỹ). Năm 2014, số tiền lên tới 358.38 tỷ đô la. Trong đó, tiền
do cá nhân hiến tặng là 258.51 tỷ (72%), Kế đó là từ các tổ chức (53.97 tỷ, 15%)), tặng dữ từ các di
chúc (28.13 tỷ, 8%), và do các công ty tổ hợp (17.77 tỷ, 5%). Tính trung bình, mỗi gia đình người
Mỹ đóng góp $2874.00 cho các tổ chức từ thiện.
Số tiền được phân phối như sau: 32% dành cho các hoạt động tôn giáo, 15% dành cho giáo dục,
12% dành cho các dịch vụ nhân đạo, và 8% dành cho dịch vụ y tế.
Năm 2013, 100 tổ chức từ thiện lớn nhất đã báo cáo rằng số tiền tặng dữ qua online gia tăng 13%
so với năm trước.
Năm 2012, các tổ chức từ thiện công cộng báo cáo số lợi nhuận tổng cộng lên đến 1.65 ngàn tỷ
đô la, sau khi trả chi phí lên đến 1.57 ngàn tỷ. Tài sản của họ là trên 3 ngàn tỷ đô la.
Xin kể ra 5 cơ quan từ thiện lớn nhất ở Hoa Kỳ (không kể Red Cross là tổ chức quốc tế):
United Way thu được 3.87 tỷ đô la trong năm 2014, Salvation Army thu được 2.12 tỷ, Feeding
America, thu được 2.02 tỷ, Task Force for Global Health, thu được 1.61 tỷ trong năm 2015, và St.
Jude Children‟s Research Hospital thu được 1.08 tỷ.
Vì số tiền cho từ thiện lớn như thế, nên những kẻ hoạt đầu trục lợi đã nhìn thấy đây là một loại
hình dịch vụ kinh doanh nhẹ nhàng và béo bở nhất. Vào tháng 5, 2015, người ta tổng kết có đến
1,521,052 tổ chức từ thiện trên toàn nước Mỹ.
http://borgenproject.org/foreign-aid/
2.- Tiền quyên góp của các tổ chức từ thiện đi về đâu?:
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 9
Trước đây, các tổ chức từ thiện thường gửi thư đến tận nhà để xin tiền. Họ dùng những lá thư
của những nhân vật nổi tiếng như tài tử, ca sĩ, các chính khách... Trong thư luôn kèm một món quà
nhỏ là những tờ label in sẵn tên và địa chỉ của người nhận thư. Họ chỉ xin một cách khiêm tốn chừng
10, 20 đô la thôi.
Sau này, các tổ chức lớn quảng cáo thường kỳ trên các đài truyền hình với những hình ảnh sinh
động đánh mạnh vào từ tâm của người xem.
Hình ảnh những trẻ em có đôi mắt ngây thơ, nhưng ốm đói, rầu rỉ bên vách nhà rách nát. Những
em bé tật nguyền ngồi trên chiếc xe lăn hay mang tay chân giả. Những chiến binh tàn tật run rẩy, co
giật thân thể bên cạnh vợ và con thơ đang đứng nhìn với đôi mắt cảm thương nhưng bất lực. Tổ chức
ASPCA thì đưa lên màn ảnh hình ảnh những con chó, mèo bị rách da, thối thịt, mắt thẩn thờ đứng
trong cái chuồng rách rưới bẩn thỉu để xin tiền những người yêu thương súc vật mà ở Hoa Kỳ thì
không thiếu những người này.
Họ dùng hình ảnh những phụ nữ hiền hậu có giọng nói buồn cảm, tha thiết đệm bằng những nốt
nhạc buồn thê lương
Phân phối tiền quyên góp
Trong một phóng sự đặc biệt trên truyền hình Mỹ ABC giữa năm 2009, các phóng viên đã điều
tra thật sâu, thật kỹ các tổ chức từ thiện cho Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ, và đi đến kết luận rằng đa số
tiền quyên góp từ các người hảo tâm thường đi vào túi các ông bà giám đốc, hoặc lương thiện hơn, là
vào các chi phí hành chánh. Số tiền đến tay người thụ hưởng rất thấp. Có vài tổ chức bất lương mà
phóng viên có nêu ra tên tổ chức, gần như 90% tiền quyên được là dành cho chi phí hành chánh, chi
phí tổ chức trong đó việc trả lương, tiền thưởng cho các vị trong ban Giám đốc mà thường các chức
vụ chóp bu là của vợ chồng, con cái chia nhau nắm giữ. Họ có toàn quyền tự ấn định mức lương lên
tới hàng triệu, hàng trăm ngàn đô la. Họ dùng tiền quyên góp để trả tiền cho những khách sạn loại
sang, những chuyến du chơi ngụy trang dưới danh nghĩa công tác, những chiếc xe sang trọng cho
ban Giám đốc, mua sắm đồ dùng trong nhà vân vân. Thậm chí, có vị giám đốc dùng tiền để bao cho
các bồ nhí tại các thành phố mà họ có đi qua công tác.
- Chi phí quảng cáo, điều hành, thường chiếm từ 50% đến 68%. Là tiền dùng trả cho các đài
Truyền hình, truyền thanh. báo chí. Chi phí vận chuyển, khách sạn, ẩm thực của các nhân viên…
Những chương trình quyên góp từ thiện do người Việt tổ chức thường kết hợp với các buổi tiệc tùng,
văn nghệ, dạ vũ… mà chi phí cho nhà hàng, ca sĩ, trang trí… có khi chiếm đến 70 đến 90% số tiền
thu được.
- Trả lương nhân viên: Trong khi lương của một chuyên viên kỹ thuật cao cấp chỉ trên dưới một
hai trăm ngàn đô la mỗi năm, thì những tổ chức từ thiện trả cho giám đốc ba bốn trăm ngàn đô la
mỗi năm, chưa tính tiền bonus, tiền hưu, các benefits. Lương này ngang bằng lương giám đốc các
công ty lớn mà lợi nhuận là do sản xuất, đầu tư chứ không phải từ tiền túi của những nhà hảo tâm.
Có nhiều tổ chức mang tính chất gia đình, trong đó cha mẹ con cái chia nhau các chức vụ then chốt
và tự ấn định lương cho mình.
Có 8 tổ chức từ thiện ấn định lương cho giám đốc trên 1 triệu đô la mỗi năm. Cao nhất là ông
Craig B. Thompson, Giám đốc tổ chức Memorial Sloan Kettering Cancer Center ở New York, lãnh
lương $2,944,926. Kế đó là ông John H. Noseworthy Giám đốc Mayo Clinic ở Rochester, Minn.,
lãnh $1,900,297; và ông Edward J. Benz Jr., Dana-Farber Cancer Institute, $1,495,477. Các Giám
đốc những tổ chức có lương từ 400 đến 500 ngàn mỗi năm là: Wounded Warriors Project là 473,000,
Cranbrook Educational Community là $429,152/năm; Hoag Hospital Foundation là $395,719.
- Cách đây vài năm, trong một chương trình đặc biệt về các tổ chức từ thiện cho cựu quân nhân,
thương phế binh, phóng viên điều tra đã nêu lên con số tiền mà nhiều tổ chức dùng cho người thụ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 10
hưởng rất ít so với thu nhập. Có nơi chỉ dùng dưới 1%. Nhiều người đã tỏ ra e ngại rằng phóng viên
có lầm lẫn gì chăng. Vì đâu đến nỗi người ta tệ bạc đến thế. Nhưng trong đoạn dưới đây, quý vị sẽ
thấy tổ chức WWP chỉ dùng chưa tới 3 phần ngàn (Xin nhắc lại ba phần ngàn) dành cho thương phế
binh.
3.- Vài trường hợp điển hình
1.- Dùng tổ chức từ thiện để hỗ trợ cho khủng bố:
Tổ chức Pearl of Hope đã dùng hình ảnh các trẻ em bị thương tích để kêu gọi quyên góp giúp
cho các dịch vụ y tế, giáo dục nhắm vào trẻ em Syria và Palesting. Vào tháng 11 năm ngoái, tổ chức
này đã bị đóng cửa vì bị phát hiện là dùng tiền để tài trợ cho tổ chức khủng bố. Cơ quan an ninh
Pháp đã có bằng cớ tên cầm đầu tổ chức là Nabil Ouerfelli chiến đấu trong hàng ngũ Jihad ở Syria.
2.- Dùng từ thiện cho Thương Phế Binh như cơ sở kinh doanh lấy lời:
Tổ chức Wounded Warriors Project mà quý vị có thể thấy hàng ngày trên các đài truyền hình
Quốc Gia, kêu gọi đóng góp giúp đỡ cho các quân nhân bị tàn phế do chiến thương. Họ dùng hình
ảnh những người lính chiến đấu can trường trên các mặt trận phối hợp cùng hình ảnh sau khi bị trọng
thương, bị liệt, cụt tay chân… đang vất vả chiến đấu với thương tật trong cuộc sống hàng ngày.
Không ai nhìn những hình ảnh này mà không xúc động, nhất là những người yêu nước biết nghĩ tới
công ơn các chiến sĩ đã hy sinh thân thể cho đất nước. Họ chỉ xin có $19 mỗi tháng tức chỉ khoảng
63 xu mỗi ngày.
Vừa qua, những cựu chiến binh đã tỏ ra chấn động khi trang mạng thedailybeast.com phanh phui
những chi tiết về tài chánh của tổ chức này. Việc tìm kiếm các dữ liệu này không đến nỗi khó khăn,
nhưng rất mất thì giờ. Chúng ta có thể vào trang web của Cơ Quan Thuế Vụ tìm các mẫu khai thuế
990 (dành cho các tổ chức Bất Vụ Lợi)
Dưới đây là sơ kết tiền thu, chi của tổ chức này trong hai năm 2013 và 2014
Số tiền quyên góp trong hai năm qua là 576,749,057 đô la, sau khi trả chi phí hết 406,079,436 đô
la, thì lời được 170,669,675 đô la. Trả chi phí trong tổ chức hết 58,154,728 đô la, thì còn lại
112,514,947 đô la.
Mượn danh nghĩa thương binh để quyên góp, họ đã dành bao nhiêu tiền để giúp các thương binh
này?
Xin thưa chỉ có 1,657,758 đô la, tức chưa tới ba phần ngàn của số tiền họ quyên được.
Vậy dư số tổng cộng trong 2 năm là 110,857,189 đô la chạy về đâu?
Hỏi là trả lời!
Đó là chưa tính đến tiền trả lương cho ba vị Giám đốc đầu não (chưa tính bonus, hưu liễm, bảo
hiểm của họ). Số tiền này đã tính vào mục chi phí của tổ chức:
Steven Nardizzi, CEO: $375,000.00 (2013), $473,015.00 (2014)
Albion Giordano, Phó Giám Đốc: $337,500.00 (2013), $369,030.00 (2014)
Jeremy Chwat, Giám Đốc về Chương Trình (Chief Program Officer): $218,267.00 (2013),
$262,750.00 (2014)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 11
Nguồn: http://www.thedailybeast.com/articles/2015/05/04/wounded-
warrior-charity-unleashes-hell-on-other-veteran-groups.html
Cũng do cạnh tranh nhau, tổ chức Wounded Warrior Project (WWP) đã
từng đệ đơn kiện những tổ chức khác có cùng mục đích quyên góp cho
thương phế binh với những lý do nhỏ nhặt như tên gọi, hình ảnh cầu chứng
gần giống nhau . Điển hình là tổ chức Keystone Wounded Warriors (KWW)
có trụ sở tại Pennsylvania. Phía bị kiện đã phải chi trả hết $72,000 trong hai
năm để chống đỡ, trong khi lợi nhuận của tổ chức này chỉ khoảng hơn 200,000
trong năm 2013 (chỉ bằng nửa tiền lương ông Steven Nardizzi, giám đốc
WWP.)
Source: http://dailyheadlines.net/2015/11/wounded-warriors-execs-make-
out-like-bandits-actual-wounded-warriors-not-so-much/#
3.- Dùng từ thiện giúp trẻ em bị ung thư để làm giàu.
Tổ chức từ thiện giúp cho trẻ em bị ung thư máu, National Children‟s
Leukemia Foundation (NCLF), mà mục tiêu đề ra là “Make a Dream Come True” với chuơng trình
là thực hiện ước nguyện của các bệnh nhân ung thư nhỏ tuổi, thu xếp cho những cuộc du lịch gia
đình, giúp các em giao thệp với những tài danh và những yêu cầu khác. (the wishes of young cancer
patients, arranging family trips, tours, introductions to celebrities and other requests.)
Văn phòng Bộ Tư Pháp New York đã kiện tổ chức Từ Thiện này nhằm mục đích xoá bỏ nó và
thu hồi số tiền mà họ đã quyên góp qua những cách vận động man trá. Theo hồ sơ kiện, có đến 83%
của số tiền gần 10 triệu quyên được khai là chi trả cho những người fundraisers chuyên nghiệp, trong
khi chưa tới 1% (57,541 đô la) dùng để giúp đỡ bệnh nhân. Nguời sáng lập tổ chức là ông Zvi Shor
được trả khoản lương 600 ngàn mỗi năm, cộng với gần 613 ngàn tiền thưởng và hơn 100 ngàn tiền
cho quỹ hưu trí (tổng cộng hơn 1 triệu ba trăm ngàn mỗi năm). Hồ sơ cũng nêu ra việc tổ chức đã
chuyển số tiền 655 ngàn cho một tổ chức của người em gái ông Shor, được biện minh là tiền dùng để
nghiên cứu.
Bộ Trưởng Tư Pháp New York Eric Schneiderman đã kết luận rằng: “Không có gì xấu xa hơn
việc móc túi hàng triệu đô la từ những người có lòng thương đối với các trẻ em bị mắc chứng bệnh
chết người.”
Source: http://www.foxnews.com/health/2015/07/22/leukemia-charity-used-less-than-1-percent-
funds-for-patient-claims-suit/
4.- Vài ý kiến chọn lựa tổ chức đứng đắn, bảo đảm tiền của mình được tặng vào đúng chỗ.
Dứt khoát phải tham gia công tác từ thiện, coi đó là một nghĩa vụ đối với tha nhân. Chúng tôi
không ở vị thế có thể giới thiệu với quý vị những tổ chức nào đáng tin cậy nhưng xin gợi ý để quý vị
có thể tránh bị lợi dụng
1) Cẩn thận đối với những tổ chức có tên gọi na ná giống nhau. Việc lường gạt này cũng như
trong thương trường, có nhiều sản phẩm sử dụng tên những thương hiệu có tiếng, và chỉ thay đổi
một đôi chút để tránh bị kiện vì ăn cắp trade mark. Trước khi quyết định, hãy biết chắc mình nhận
đúng danh xưng của cơ quan từ thiện mà mình biết là đúng đắn. Ví dụ như ở trên, có rất nhiều tổ
chức cho cựu quân nhân cùng có tên Wounded Warriors; nhưng việc sử dụng tiền quyên góp thì
khác nhau một trời một vực.
2) Tránh cho tiền khi được xin tại chỗ (on-the-spot donation) do những tổ chức không nghe đến
tên. Việc quyên góp này xảy ra rầm rộ vào các dịp lễ lớn tại những nơi công cộng như siêu thị, khu
buôn bán… mà người bị chận lại để xin thường nể vì, khó lòng từ chối.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 12
Cũng tránh việc cho tiền những cơ quan dùng điện thoại hay gửi thư để xin xỏ.
3) Đừng để bị cảm xúc trước những lời van nài ngọt ngào, tha thiết. Những tổ chức đứng đắn
không cần xài đến những trò rẻ tiền này.
4) Lời khuyên tốt nhất là quý vị nên tự tìm hiểu những cơ quan thiện nguyện. Những tổ chức
đứng đắn luôn minh bạch trong tài chánh. Họ công khai tất cả các mục chi tiêu trong tờ khai thuế và
các văn bản gửi cho các cơ quan như Best Business Bureau (BBB), Charity Navigator, Guidestar
hoặc Charity Watch. Quý vị có thể biết rất rõ khi truy tìm qua các mẫu khai thuế của họ (Form-990)
trong trang của Sở Thuế Vụ. Điều cần tìm biết là xem cách sử dụng tiền quyên góp thế nào? Có bao
nhiêu phần trăm đi vào chi phí điều hành? Bao nhiêu phần trăm đến tay người thụ hưởng? Nên tránh
những tổ chức chi dùng quá lớn cho chi phí quyên góp (fundraising) và chi phí hành chánh
Hãy gắn bó với cơ quan mà mình đã tin tưởng và có giao thiệp trong nhiều năm.
5.- Từ Thiện trong Cộng Đồng Việt tị nạn
Mỗi khi mở các trang báo Việt Ngữ, hình như lúc nào cũng có vài ba trang quảng cáo các
chương trình ca nhạc, tiệc tùng, dạ vũ để quyên tiền nhằm giúp đỡ các loại nạn nhân bên quê nhà. Có
chương trình thì do một nhóm cá nhân đứng ra tổ chức, có chương trình thì do hội đoàn, và cũng có
những chương trình do tôn giáo, mà nhiều nhất là các chùa Phật Giáo (vừa quyên từ thiện, vừa
quyên cho Phật sự). Xét về khía cạnh kinh tế, thì những cuộc tổ chức như thế chẳng thu lợi bao
nhiêu vì chi phí ẩm thực, ca sĩ, dàn nhạc,trang trí chiếm gần hết tiền thu vào. Chẳng qua chỉ làm lấy
tiếng ngoài việc tổ chức ngay tại cơ sở (như chuà, nhà thờ…) ít phí tổn hay có ca sĩ hát ủng hộ.
Nhưng chắc cũng có những tổ chức thu lợi khá cao qua những hình thức khác. Sau đây là cách
nhìn của chúng tôi:
1.- Các chương trình gây quỹ cho Thương Phế Binh QLVNCH mà người thụ nhận là những
chiến hữu chúng ta đang bị cảnh khốn cùng, bạc đãi bên quê nhà là bổn phận không những của anh
em cựu quân nhân, mà còn của tất cả những ai từng được sống an ổn dưới chế độ VNCH do công lao
máu xương của những người lính. Điển hình là các tổ chức hàng năm do bà Trung Tá Nguyễn Thị
Hạnh Nhân, lúc nào cũng thành công và được ủng hộ triệt để. Tiền thu vào lên hàng triệu bạc, nhưng
không mảy may suy suyển. Rất đáng khen ngợi. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị VN cũng tổ chức
thường xuyên và cũng khá thành công.
2.- Ngoài ra, các công tác từ thiện khác giúp cho người già yếu, trẻ em mồ côi, khuyết tật, bệnh
nhân bất trị… cho đến nạn nhân thiên tai… cũng mọc lên nhiều. Loại này cần phải được soi rọi trong
hoàn cảnh đất nước. Chúng ta phải biết căn nguyên của những loại hình đau khổ này, và trách nhiệm
chính yếu là phải do chính nhà cầm quyền trong nước. Nếu nhà cầm quyền minh chính, làm đúng
chức năng là lo an sinh xã hội, thì việc chúng ta góp phần để giúp đỡ là việc nên làm. Nhưng nếu
nhà cầm quyền thi hành chính sách bạo ngược, đàn áp, vô trách nhiệm trước dân của họ, thì chúng ta
không thể đưa vai ra gánh vác cho họ. Những người cầm quyền các cấp tại VN có hàng tỷ, hàng
triệu đô la tài sản do bóc lột tham nhũng và họ đã lạm dụng vào sự đóng góp từ thiện của chúng ta để
tăng thêm sự giàu có bản thân.
Công tác từ thiện như thế không giải quyết được gì cả, nó như là xoa dầu vào cái nhọt độc thay
vì phải dùng trụ sinh thật mạnh để trị tận gốc, xóa tan cái ung nhọt đó. Đó là phải thực hiện gấp cuộc
cách mạng lật đổ chế độ bạo tàn của Cộng Sản Việt Nam.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 13
Khoảng Cách Giàu Nghèo tại Mỹ Ngày Càng Tăng (1)
Bất công trong việc phân phối tài sản xã hội.
Những người Việt Nam chúng ta di dân đến Mỹ dù trong hoàn cảnh nào, cũng đang sống
trong những thành thị lớn, có công ăn việc làm và đang hưởng mức sống của giới trung lưu. Vì thế,
sẽ là một chấn động bất ngờ nếu chúng ta khám phá ra rằng hiện có 1 trong 6 người dân Mỹ đang
đối diện với cái đói. Trong bài này, tác giả chỉ dám tổng hợp những tài liệu để trình bày hơn là đưa
ra nhận xét và tìm biện pháp.
Có lẽ ít người Việt theo dõi các đài truyền hình Mỹ, mà thỉnh thoảng trong phần quảng cáo,
có những lời kêu cứu “Feed the Children”, “Meals on Wheels”, “Save Children”… kèm với hình ảnh
nhưng đứa bé với đôi mắt u buồn thiểu nảo. Là những người dân mới ở Mỹ, với lợi tức hàng năm từ
hàng chục ngàn đến trăm ngàn đô la, hẳn chúng ta có bao giờ tưởng tượng được trong một nước giàu
mạnh nhất thế giới, mà có tới gần 18 triệu gia đình sống trong sự bất an về thực phẩm hàng ngày.
Trong một bài viết trước đây, chúng tôi đã đưa ra con số 47 triệu người (22.5 triệu gia đình) ở Mỹ
phải sắp hàng lãnh trợ cấp food stamps (thống kê tháng 6, 2012).
Nhìn vào mức GDP của Hoa Kỳ năm 2012 là 15,684.8 tỷ đô là, tính ra lợi tức trung bình đầu
người (GDP per Capita) là 45,336 đô la, (http://www.tradingeconomics.com/united-states/gdp-per-
capita). Mức GDP của Hoa Kỳ mà mỗi năm mỗi gia tăng khoảng trên dưới 3%, cao gấp 3.6 so với
mức trung bình toàn thế giới. Vậy sao có nhiều người đói đến thế?
Khái Niệm Bình Đẳng Xã Hội và Công Lý Xã Hội
Vấn đề nằm ở sự phân phối tài sản quốc gia (National Wealth Distribution) mà nạn bất công
từng là đề tài cho các nhà xã hội học và chính trị gia vật vả tìm phương thức để giải quyết; đó cũng
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 14
là nguyên nhân của những cuộc cách mạng đẫm máu từng diễn ra quyết liệt và chung cuộc, vẫn
không làm sao xoá được.
Bỏ qua các chế độ quân chủ phong kiến mà tài sản quốc gia nằm trong tay một vị hoàng đế,
quân vương; các chế độ dân chủ tự do đã xác định sự bình đẳng của con người để từ đó, tạo ra viễn
cảnh một xã hội công bình về mọi phương diện. Chế độ Cộng Sản từng lên án gắt gao giới cầm
quyền tư bản, quân chủ bóc lột người dân. Những người Cộng Sản đưa ra kêu gọi xóa bỏ giai cấp,
công bằng xã hội nhưng sau khi nắm quyền, họ lại là xây dựng nên một chế độ tập trung khắc nghiệt
nhất, mà toàn bộ tài sản quốc gia nằm trong tay một thiểu số của đảng viên lãnh đạo, trong khi vẫn
lừa gạt công dân bằng mỹ từ “nhân dân làm chủ”.
Trong các chế độ tư bản xuất phát từ các cuộc cách mạng dân chủ dân quyền ở thế kỷ 18,
tình hình khả quan hơn nhiều do khái niệm mọi người sinh ra tự do, bình đẳng về các dân quyền,
"Men are born and remain free and equal in rights…” (Declaration of the Rights of Man and of the
Citizen (1789))
Từ khái niệm Bình Đẳng Xã Hội này, các nước dân chủ đã giúp cho con người từ khi sinh ra,
có những cơ hội đồng đều để học hỏi, thăng tiến. Sau đó, sự bất bình đẳng sẽ diễn ra do nỗ lực, hoàn
cảnh, điều kiện riêng của từng cá nhân mà Công Lý Xã Hội không đủ hoàn thiện để giải quyết.
Trước khi bàn về việc bất công trong phân phối tài sản xã hội, chúng tôi xin dẫn chứng vài số
liệu để suy gẫm.
1.- Trong khi các giáo sư tại Đại Học lãnh trung bình từ 57,350 đến 104,260 đô la một năm,
thì ông bầu football của trường có thể lãnh đến hàng triệu đô la (Ông bầu Mack Brown của Đại Học
Texas lãnh 5.1 triệu trong năm 1010)
2.- Trong khi có ít nhất 250 ngàn sinh viên tốt nghiệp đại học đang phải chấp nhận các công
việc ở mức lương lao động tối thiểu (trên dưới 10 đôla/giờ), thì các cầu thủ football, baseball,
basketball ký các hợp đồng hàng chục triệu mỗi năm. Cầu thủ, nghệ sĩ Mỹ làm ra hàng chục triệu
mỗi năm trong khi Tổng Thống Hoa Kỳ, người lãnh đạo siêu cường bậc nhất chỉ lãnh 400 ngàn đô
la, thêm các phụ khoản chừng 150 ngàn nữa.
3.- Một thống kê kèm trong bài viết “Were the Good Old Days Really So Good? The Truth
About Inequality” của Jorge Mario Bergoglio đăng trên tạp chí Fortune số 5 bộ 169, ra ngày 7 tháng
4, 2014 đã cho thấy lợi nhuận sau khi trừ thuế của giới giàu chóp bu (2% dân số) từ năm 1980 đến
2011 đã tăng hơn gấp ba lần. Trong khi của giới trung lưu chỉ tăng 40%.
Chúng tôi không dùng sự cáo buộc theo Tư Bản Luận của Karl Marx cho rằng giới chủ tư
bản làm giàu do bóc lột nhân công. Sự phát triển khoa học kỹ thuật cho phép những nhà đầu tư nhiều
sáng kiến phát triển công nghiệp để tạo ra những lợi nhuận khổng lổ theo cấp số nhân. Hoa Kỳ đã
tạo ra các cơ hội cho nhiều người tài năng từ hai bàn tay trắng, mà chỉ trong một thế hệ, có thể dựng
nên một cơ nghiệp hàng triệu, hàng tỷ đô la. Mark Elliot Zuckerberg chủ nhân Facebook, năm nay
30 tuổi đã có một tài sản đến 25.3 tỷ đô la nhờ tài năng và sáng tạo. Đó là hợp lý, có thể chấp nhận
được. Sự cách biệt về lợi tức truy nguyên từ số lợi nhuận mà họ mang lại cho công ty (nếu là nhân
viên), nhà tổ chức (nếu là giới nghệ sĩ, cầu thủ…). Nguồn tiền là do người tiêu thụ, khán thính giả,
độc giả ái mộ chứ không hề do bóc lột.
Khoảng Cách Giàu Nghèo tại Mỹ
Nhưng đọc kỹ các tài liệu sau đây, chúng ta mới thấy mức báo động của bất công trong phân
phối tài sản ở Mỹ.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 15
Theo một nghiên cứu (Norton & Ariely, 2010), chính ngay người Mỹ, cũng không biết gì về
mức độ tập trung tài sản quốc gia trong tay một thiểu số rất nhỏ. Họ chi nghĩ rằng có 20% dân só
chiếm lĩnh 60% tài sản quốc gia, mà trong thực tế, con số là 89%.
Trong năm 2010, có 20% dân số được xem là giàu nhất chiếm hết 88.9% tài sản xã hội, trong
đó 1% là những tỷ phú chiếm hết 35.4%, chừa lại 11.1% tài sàn xã hội cho đến 80% dân số. Nói rõ
hơn, chỉ có 16 ngàn người giàu nhất nước Mỹ (tức 1 phần 10 ngàn dân) có tài sản trị giá 16 ức (16
ngàn tỷ đô la), trong khi có ¼ số gia đình không có tiền trong các trương mục ngân hàng. (An
Immodest Proposal by Peter Coy, đăng trong tập san Bloomberg Business Week, số ra tháng 4/2014)
Biểu đồ bên trái cho thấy đến
80% dân số chia nhau một khoảnh rất
nhỏ (11%) của tài sản quốc gia (Net
Worth), nhưng nếu tính trên tài sản
thực thì chỉ có 5% (biểu đồ bên phải).
Bản thống kê bên dưới cho
thấy có 40% dân số ở tầng thấp nhất
trong xã hội mà lợi tức đồng niên
trung bình 17,300 đô la chỉ có nợ nần
thay vì tài sản. Đại đa số người Việt
chúng ta may mắn ở khoảng giữa mà
lợi tức trung bình hàng năm từ 40 đến
70 ngàn đô la, và có chút tài sản để
phòng thân.
Table
1: Lợi tức, tài
sản của các
tầng lớp trong
xã hội Mỹ tính
theo trị giá
đồng đô la
năm 2010.
Tình Trạng Nghèo Đói và Sự Bất An về Thực Phẩm
• Theo thống kê chính thức của chính phủ, năm 2012, có 46.5 triệu người Mỹ ở trong tình
trạng nghèo khó (15% tổng dân số), tăng từ 37.3 triệu trong năm 2007. Trong đó có 26.5 triệu người
thuộc lứa tuổi từ 18 đến 64; 16 triệu người duới 18 tuổi, 3,9 triệu người trên 65 tuổi. Trong thực tế
do khảo sát của Supplemental Poverty Measure, có đến 49.7 triệu người nghèo khó.
Có đến 20.5 triệu người Mỹ sống trong tình trạng cực nghèo, mà lợi tức gia đình không đến
một nửa của lợi tức nghèo theo luật định (khoảng 10 ngàn đô la mỗi năm cho gia đình 4 người). Có
khoảng 49.9 triệu người không có khả năng mua bảo hiểm sức khoẻ.
Trong khi đó, cùng năm, có 1 trong 6 người Mỹ đối diện với cái đói. Có 49 triệu người (tức
24.6 triệu gia đình) trong tình trạng bất an về thực phẩm gồm 33.1 triệu người lớn và 15.9 triệu trẻ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 16
em. Tình trạng này có mức trầm trọng hơn trong các gia đình người Mỹ da đen và người Mỹ gốc
Latino. May mắn thay, không nghe đến người Mỹ gốc Á.
Về địa lý, thì nhẹ nhất là ở quận Slope, North Dakota, nặng nhất là quận Holmes,
Mississippi.
Căn Nguyên của Sự Nghèo Đói
Đói là do nghèo. Dĩ nhiên. Nhưng tại sao trong một quốc gia giàu mạnh như Hoa Kỳ mà lại
có nhiều người nghèo đến thế?
Trước hết là do hậu quả dây chuyền của nạn nghèo đói trên thế giới. Có khoảng 2 tỉ người
nghèo đói trên hành tinh chúng ta. Họ nghèo đói hơn người Mỹ nghèo rất nhiều. Họ phải vật lộn liên
tục để tránh sự nghèo đói, và hai cách tốt nhất trong thời đại này là giao thương (trade) và di dân
(immigration)
Hoa Kỳ rất dồi dào về nguồn vốn và phương tiện, trong khi các nước nghèo thì dồi dào về
nhân lực. Sự giao thương bắt nguồn từ lợi ích của hai bên. Do đó, việc các công ty Hoa Kỳ chuyển
cơ sở sản xuất qua các nước nghèo với lương công nhân rẻ mạt đã tạo công ăn việc làm cho người
nghèo bản xứ, nhưng đưa đến tình trạng thất nghiệp ngay tại Mỹ. Trong 30 năm qua, tình trạng này
đã gây cho giới nghèo tại Mỹ đi đến khốn quẩn.
Sự di dân là nguyên nhân thứ hai do việc người nghèo phải tìm những nơi khác mà có thể
kiếm công ăn việc làm hay có đồng lương cao hơn tại xứ họ. Do chính sách tương đối cởi mở của
Hoa Kỳ, cũng như việc bất lực trong kiểm soát những biên giới rất dài giữa Hoa Kỳ và Mexico,
Canada; những di dân hợp pháp hay bất hợp pháp này đã góp thêm con số không nhỏ vào đội quân
nghèo đói tại Mỹ.
Một nguyên nhân nội tại là sự vận hành của hệ thống kinh tế Hoa Kỳ đã gia tăng số người
nghèo đói. Trong hệ thống kinh tế tự do đầy thách đố, sự cạnh tranh về công việc rất gắt gao mà số
người không đủ tiêu chuẩn sẽ rất cao, vì các công ty không thể nào tạo ra nhiều công việc cho tất cả
mọi người. Và các giới lãnh đạo chóp bu trong các doanh nghiệp có toàn quyền trong phân phối lợi
nhuận, và dĩ nhiên họ đã dành cho họ phần đó. Trong những năm qua, chúng ta đã nghe thấy các
CEO‟s các đại công ty tử ấn định lương và bonus cho mình với khoản tiền khổng lồ dư trả lương cho
hàng chục ngàn công nhân.
Nhưng một lý do quan trọng không kém, là sự vận hành của hệ thống chính trị Hoa Kỳ thay
vì quan tâm đến các vấn đề của công dân, đặc biệt là giải quyết tận căn bản nạn nghèo khó, thì đã
chú tâm vào các lãnh vực khác
Ngân sách dành cho quốc phòng và an ninh khổng lồ so với ngân sách dành giải quyết dân
sinh. Có một mạng lưới chặt chẽ giữa tài chánh và chính trị gọi là “military-industrial complex”
đóng vai trò trong việc ấn định ngân sách quốc phòng và an ninh.
Giới doanh nghiệp và những người giàu có có khả năng bỏ ra núi tiền để vận động Lập Pháp
và Hành Pháp để dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho công ty của họ trong đó có việc nhẹ thuế và các
khoản yểm trợ (như việc Tổng Thống Obama khi mới lên cầm quyền, đã lấy hàng tỷ đô la từ ngân
khố quốc gia để trợ giúp cho các công ty trong tình trạng nguy ngập, nhưng nhiều công ty đã sử
dụng tiền đó cho việc riêng tư và tiếp tục khai phá sản để quỵt)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 17
Khoảng Cách Giàu Nghèo tại Mỹ Ngày Càng Tăng (2)
Liệu có bùng nổ Cách Mạng không?
Trong bài trước đây, chúng tôi đã nêu ra
những số liệu thống kê để chứng minh rằng trong
xã hội Mỹ, tuyệt đại đa số người dân càng ngày
càng nghèo thảm. Xin nhắc lại lần nữa.
Hoa Kỳ theo thống kê 2012 có 314 triệu
dân. Lứa tuổi lao động từ 18 đến 65 ước tính có
khoảng 194 triệu, trong đó 1/100 dân số là thành
phần giàu sụ nắm hết 35% tài sản quốc gia, trị giá
6 ngàn tỷ đô la. Số người này, cộng thêm 19% dân
giàu kế tiếp, chiếm hết gần 90% tài sản quốc gia.
Còn lại hơn 10% tài sản chia cho 80% dân số.
Tình trạng cách biệt giàu nghèo càng ngày
càng trầm trọng. Vì lợi tức người giàu tăng gấp hai gấp ba trong thời gian từ 1980 đến 2010. Và dĩ
nhiên, tài sản người nghèo sẽ teo lại. Hiện có khoảng 40% dân số đã không có tài sản, mà còn bị nợ
nần. Dù nhiều người có đồng lương thu nhập hàng tháng, nhưng nợ nhà, nợ xe và nợ thẻ tín dụng cứ
đeo đuổi cho đến không biết lúc nào.
Nếu tình trạng cách biệt này không được giải quyết, thì điều gì sẽ xảy ra trong tương lai?
1.- Giai cấp trung lưu sẽ biến mất.
Giai cấp trung lưu là thành phần quan trọng nhất trong bất cứ xã hội nào. Thuờng giới trung
lưu chiếm đa số và có những đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế, xã hội. Tuỳ theo cách
nhìn, mà người ta ghép những thành phần nào vào giới trung lưu. Tại Hoa Kỳ, trước đây, giai cấp
trung lưu thường chiếm từ 25% đến 66% số gia đình và lại được phân chia thành hai tầng lớp (sub
groups). Lớp trên (upper hay professional middle class) gồm từ 15% đến 20% số gia đình, là những
chuyên viên có trình độ học vấn cao, thuộc thành phần các chức nghiệp lãnh lương tháng, và các
quản lý (managers). Lớp thấp hơn (lower middle class) là các thành phần bán chuyên nghiệp, những
người thợ có tài năng, hay các người giữ chức vụ quản lý cấp nhỏ. Giai cấp trung lưu có mức sống
sung túc, thoải mái, kinh tế bảo đảm.
Nhưng trong những thập niên gần
dây, nhiều nhà xã hội học đã lên tiếng báo
động rằng giai cấp trung lưu tại Hoa Kỳ
đang biến dần, và có cơ bị tụt xuống hàng
vô sản. Quý vị có thể tham khảo các bài của
Tami Luhby hay Joel Kotkin trong các trang
web bên dưới đây:
http://economy.money.cnn.com/201
4/01/28/middle-class/
http://www.forbes.com/sites/joelkotk
in/2014/02/16/the-u-s-middle-class-is-
turning-proletarian
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 18
Trong ba thập niên từ 1980 đến 2009, thị trường công việc của giới trung lưu chỉ tăng 46%,
so với 110% gia tăng công ăn việc làm của giới lao động bình dân. Việc chuyển công việc ra các
nước nghèo trước đây chỉ nhắm vào những công việc lao động thường, nay đang có sự gia tăng đối
với những công việc cao cấp như dịch vụ, điện toán. Điều này làm cho giới trung lưu ở Mỹ hoặc mất
việc làm, hoặc phải làm việc vất vả hơn để giữ được chỗ đứng của mình. Có thể có một số nhỏ ngoi
lên giai cấp giàu sụ, nhưng đại đa số sẽ tụt xuống hàng vô sản.
Sơ đồ bên đây cho thấy sự gia tăng dân số
của giai cấp thấp (từ 25% tăng lên 40%), và sự suy
giảm của giai cấp trung lưu (từ 53% xuống 44%) và
thượng lưu (từ 21% xuống 15%). Đối với giới trẻ,
thì sự thay đổi này nghiêm trọng hơn trong đó,
những người thuộc giai cấp thấp gia tăng gần gấp
đôi (từ 25% lên 49%)
2.- Khi dân nghèo càng tăng, giai cấp
trung lưu suy giảm, thì nhà nước càng ngày càng
mạnh dễ đi đến độc tài, lạm quyền và đàn áp
nhân dân.
Khi một tỷ lệ 50% số gia đình tại Mỹ đang nhận trợ cấp lương thực, có phải đây là dấu hiệu
của một loại nhà nước Phúc Lợi mà dân chúng sẽ phải lệ thuộc vào chu cấp của nhà nước để sống
trong mức sống căn bản? Nhiều người Mỹ không nhìn rõ vấn đề này, hoặc cố tình không muốn biết.
Lối sống tiêu xài trên mức thu nhập đã là truyền thống. Trên đường lúc nào cũng nườm nượp những
chiếc xe hơi láng bóng, các nhà hàng lúc nào cũng đầy người chen chúc, chở đến phiên được sắp
chỗ, các trận đấu, buổi diễn mà vé lên đến hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn, lúc nào cũng chen
kín chỗ… Người Mỹ đi du lịch nhiều nhất khắp năm châu. Như thế có mâu thuẫn với những điều
chúng tôi đã báo động không?
Chúng tôi từng biết nhiều gia đình Mỹ không có đủ tiền trong trương mục ngân hàng để trả
một chi phiếu chỉ vài chục đô la. Nhưng họ vẫn xài, nhờ có các thẻ tín dụng. Họ sẵn sàng vay hàng
ngàn để đi du lịch. Từ năm 2007, đã có
hơn 10 triệu người Mỹ (khoảng 4 triệu gia
đình) bị nhà băng lấy lại nhà vì không có
tiền trả hàng tháng. Con số này tượng
đương dân số Tiểu Bang Michigan. Tổ
hợp Địa Ốc Merrill Lynch Mortgage
Investors Trust đã cho biết có đến 40% số
nhà bị lấy lại vì không có tiền trả hàng
tháng, 21% luôn luôn trễ trong việc trả nợ.
chỉ có chưa tới 40% là đã trả dứt nợ, hoặc
trả nợ đúng kỳ hạn. Xin lưu ý đến mức gia
tăng tính từ năm 2007 đến 2011, để thấy
trước năm 2007, gần hết dân Mỹ làm ra đủ
tiền để trả nợ nhà đúng kỳ hạn và không
có ai bị mất nhà.
3.- Trông chờ sự thay đổi
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 19
Thông thường, người ta nói “dân giàu, nước mạnh”. Nay dân nghèo, nước có mạnh không?
Vẫn còn mạnh đấy, nhưng cái mạnh tập trung vào giai cấp lãnh đạo. Họ là ai?
Trong chế độ tư bản, ai là người thưc sự nằm quyền lực?
Chúng ta cứ hàng 4 năm một lần, đi bầu các cơ quan lập pháp, hành pháp theo những phương
thức rất dân chủ tự do. Trong các chế độ độc tài, bầu cử giả hiệu vì chỉ có một đảng cầm quyền, vì số
ứng cử viên được chọn sẵn; người dân chỉ có “quyền” bỏ phiếu cho ứng viên do nhà nước chỉ định.
Tại Hoa Kỳ có hai đảng lớn cạnh tranh nhau, và một vài đảng nhỏ chưa đủ sức để thành công trong
việc tranh cử.
Nhưng những người ra tranh cử, họ sẽ đại diện cho quyền lợi của ai?
Nhìn vào ngân sách tranh cử với con số lên đến hàng trăm triệu, thì chúng ta biết quyền lực
nằm ở đâu.
Trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2012, ông Obama quyên được 1072.6 triệu đô la, trong
khi ông Romney quyên được xấp xỉ một tỷ đô la.
Những thường dân như chúng ta có đóng góp thì cũng chỉ vài chục vài trăm đô la cho ứng cử
viên mình ưa thích. Để có con số hàng trăm, hàng tỷ đô la, số tiền phải do từ những đại tổ hợp, đại
công ty như địa ốc, chứng khoán, bảo hiểm, dầu lửa, sản xuất vũ khí, xe hơi, các sòng bạc. Điển hình
là vợ chồng chủ Casino ở Las Vegas là Sheldon Adelson đã đóng 30 triệu cho Romney (mỗi lần 5
triệu) và sau đó, tuôn vào thêm hàng chục triệu ngụy trang dưới danh nghĩa các tổ chức khác.
Vậy khi ứng cử viên đắc cử, họ sẽ phục vụ quyền lợi cho ai? Hỏi tức là trả lời.
Thử nhớ lại cuộc chiến Việt Nam mà Mỹ can thiệp trực tiếp từ năm 1965 đến 1972. Chính
miệng ông McGeorge Bundy, Cố Vấn An Ninh cho hai đời Tổng Thống Kennedy và Johnson, đã
tuyên bố: “Đây là cuộc chiến tranh mà chúng ta không thể thắng và không muốn thắng…” dù rằng
ông ta ủng hộ cuộc leo thang chiến tranh ở Việt Nam.
Không thể thắng, không muốn thắng mà cứ tiến hành để làm chết hơn 57 ngàn thanh niên
Mỹ. Thế là thế nào?
Thì ra, chiến tranh Việt Nam núp dưới lá cờ bảo vệ phòng tuyến tự do ở miền Nam Việt
Nam, đơn thuần chỉ là một cuộc trắc nghiệm vũ khí, làm giàu cho giới tài phiệt sản xuất vũ khí ở Mỹ
là chính, và kéo theo, phục vụ quyền lợi cho nhiều tư bản tài phiệt khác. Hoa Kỳ dư khả năng để
thắng nhiều cuộc chiến để kết thúc nhanh, đỡ hao tốn nhân mạng. Nhưng các tài phiệt thường muốn
kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, trang bị và còn nhiều nguồn lợi khác.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã thấy chính phủ liên bang Hoa Kỳ càng nở ra to hơn,
nhiều quyền hơn, và đã thấy những sự lạm dụng quyền lực gây bất mãn trong dân chúng. Mới nhất
là vụ lạm quyền của Cơ Quan Thuế Vụ (IRS) đưa đến sự điều tra và chất vấn của Quốc Hội.
(www.discoverthenetworks.org/viewSubCategory.asp?id=1935)
Cũng như trong tháng 4, 2014 này, xảy ra vụ một nông trang ở Nevada đứng lên phản đối cơ
quan Liên Bang Quản Lý Đất Đai. Trước đây vài năm, cũng từng có một người Texas vì quá uất ức
đã đâm máy bay vào toà nhà IRS ở Austin. Các giới chức dân cử thì càng ngày càng suy thoái về
nhiều mặt, vi phạm nghiêm trọng những chuẩn mực đạo đức mà hệ thống luật pháp Hoa Kỳ đã để lộ
những lổ hổng để họ thoát khỏi sự trừng phạt xứng đáng. Chung cuộc, họ cũng chỉ lo vun xén cho
riêng mình và phục vụ giới tài phiệt là những người bỏ tiền ra làm nấc thang cho họ leo lên. Tiến Sĩ
Ben Carson, người được Tổng Thống George Bush tặng thưởng Huy Chương Tự Do đã nói: “Chúng
ta đang sống trong thời đại Gestapo, nhiều người đã không nhận thức điều này.” (We live in a
Gestapo age, people don‟t realize it). Phong trào Occupy lấy cảm hứng từ cuộc cách mạnh Mùa
Xuân Ả Rập, đã xuất hiện từ cuộc biểu tình phản kháng vào tháng 9 năm 2011 là một phong trào có
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 20
tầm vóc quốc tế, chống lại sự bất công tài sản và bất bình đẳng xã hội. Họ lên tiếng báo nguy về việc
các đại công ty và các tổ chức tài chánh toàn cầu đang gây nguy ngập cho nền dân chủ và tạo sự bất
ổn xã hội.
Phong trào Occupy được coi là một sự “Thức tỉnh Dân Chủ” (Democratic Awakening). Vào
tháng 10, 2012, một Phó Giám Đốc Ngân Hàng Anh Quốc đã thừa nhận phong trào Occupy đúng
khi phê bình và thuyết phục các vị chủ nhà băng, các chính trị gia nên hành xử có đạo lý hơn.
Lòng tham con người vô hạn. Những người giàu có bạc tỷ vẫn còn muốn giàu thêm. Và đám
dân nghèo sẽ càng ngày càng nghèo, cho đến khi phải chấp nhận ngửa tay ăn xin nếu không đủ ý
thức và sức mạnh để đảo ngược tình thế.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh khi xung đột giàu nghèo lên tột độ, cách mạng sẽ bùng nổ.
Chế độ tư bản mà khi phôi thai rất tàn nhẫn, đã nhờ sự ra đời các đối lực phe xã hội mà cải thiện để
phát triển tạo ra cuộc sống dễ chịu, sung mãn trong dân chúng. Nhưng lịch sử cũng lại tái diễn sự tập
trung tài sản và quyền bính để tái tạo những thể chế chuyên chính với các kiểu cách khác.
Chúng ta chờ đợi phong trào Occupy có phát triển mạnh them để thay đổi tình thế không.
April 25, 2014.
Một vài thuật ngữ Kinh Tế Xã Hội dùng trong bài. 1.- Bình Đẳng Xã Hội (Social Equality) là khái niệm cho rằng mọi người sinh ra có tự do và có cơ hội ngang bằng giống nhau trong cuộc sống. Khái niệm này nặng về tính chất xã hội hơn kinh tế. 2,- Công Lý Xã Hội: (Social Justice) là sự cơ chế hoá, văn kiện hoá để thúc đẩy công bằng xã hội. 3.- Tổng Sản Lượng (GDP, Gross Domestic Product) là trị giá thị trường của toàn thể sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia trong năm hay trong một thời gian nào đó. 4.- Lợi tức trung bình (GDP per capita) thường được coi là chỉ số về tiêu chẩn sống trong nước. Đó là con số Tổng Sản Lượng chia đều cho số dân đếm vào giữa năm. Vì thế, có thể xem là lợi tức trung bình mỗi đầu người. 5.- Tài Sản: (Wealth) nói chung là giá trị của tất cả những gì mà cá nhân hay gia đình sở hữu sau khi khấu trừ các món nợ. Tuy nhiên, trong mục tiêu nghiên cứu về kinh tế, Tài Sản được giới hạn trong những gì có giá trị thị trường (Marketable assets) như bất động sản, chứng khoán, cổ phiếu, mà không tính đến các thứ sử dụng như xe hơi, vật dụng trong nhà… Tài Sản Cá Nhân (Personal Net Worth) là những tài sản có giá trị thị trường đã khấu trừ những món nợ. Trong vài tài liệu, quý vị thấy có “Non-Home Wealth”, đó là tài sản không kể căn nhà và những gì thuộc dụng trong nhà, có người dùng chữ financial wealth. 6.- Lợi Tức: (Income) là những gì người ta nhận được từ sự làm việc, hoặc từ tiền lời các cổ phần, trái phiếu, tiền gửi ngân hàng. Điều này cho thấy những người giàu chưa hẳn là có lợi tức cao. Lợi tức của những người giàu không hẳn đến từ sự làm việc. Năm 2008, trong tổng số lợi tức khai với IRS, chỉ có 19% là từ 13,480 người có lương trên 10 triệu đô la 7.- Dân số, khi dùng trong bài, đó là số dân trưởng thành ở tuổi lao động, chứ không phải là toàn thể dân số theo kiểm kê. 8.- Bất an về thực phẩm (Food Insecurity) là tình trạng mà cá nhân và gia đình ưu tư không chắc lắm về khả năng kiếm đủ thức ăn cho ngày hôm nay hay ngài mai. Sự bất an này không phải chỉ do sự nghèo túng, mà còn do sự bất ổn trong việc làm, nạn thất nghiệp.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 21
Hoa Kỳ Có Còn Là Miền Đất Của Cơ Hội Không?
Lấy thời điểm con tàu Mayflower chở 102 người di dân tị nạn từ Anh bỏ neo ở cảng
Plymouth, Massachussetts, vào cuối năm 1620 làm mốc; thì gần 400 năm qua, Hoa Kỳ đã được
mệnh danh là xứ sở của cơ hội – Land of Opportunity- nơi mà bất cứ người nào trên thế giới cũng ao
ước đến được để thực hiện Giấc Mơ Hoa Kỳ - American Dream.
Giấc Mơ Hoa Kỳ, đó là cơ hội thăng tiến đồng đều để mỗi cá nhân, tùy theo khả năng, sẽ học
hành, làm việc, thành đạt để tạo cho mình cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ vật chất và hưởng thụ một
nền tự do dân chủ gần như toàn bích. Năm 1931, James Truslow Adam đã định nghĩa Giấc Mơ Hoa
Kỳ như là: “Một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung mãn hơn cho mọi người, với cơ hội của từng cá nhân
trong năng lực và sự thành tựu mà không phân biệt giai tầng xã hội cũng như xuất xứ.” "life should
be better and richer and fuller for everyone, with opportunity for each according to ability or
achievement" regardless of social class or circumstances of birth‖
Ý nghĩa của Giấc Mơ Hoa Kỳ này đã được xác định lại trong Tuyên Ngôn Độc Lập qua câu
mở đầu: “All men are created equal… ” - Mọi người sinh ra bình đẳng.
Qua nhiều thời điểm, Giấc Mơ Hoa Kỳ có thay đổi ý nghĩa và nội dung, nhưng tựu trung, nó
vẫn là cơ hội đồng đều cho các trẻ em được nuôi dưỡng, hưởng chế độ giáo dục tốt, và có việc làm
tương xứng mà không bị phân biệt bởi bất cứ giới hạn nào. Đó là cơ hội đồng đều cho bất cứ người
dân nào không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai tầng xã hội.
Giấc Mơ Hoa Kỳ từ đó đã quyến rũ hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới để tạo dựng
thành một Hợp Chủng Quốc, (trước đó được coi là một Melting Pot, nay là Diversity) phát triển và
giàu mạnh nhất trên thế giới. Trong khi hơn ba phần tư các nước trên thế giới đang vật lộn trong giai
đoạn chậm phát triển, hay ở thời kỳ cất cánh, thì Hoa Kỳ đã nhanh chóng tiến lên xã hội Tiệu Thụ
Đại Chúng và Sung Mãn (High Mass Consumpson) từ đầu thế kỷ 20. Văn minh, lối sống Hoa Kỳ trở
thành mẫu mực, niềm mơ ước của hàng tỷ người.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 22
Giấc Mơ Hoa Kỳ, thực hiện đến dâu, đạt hay không, cũng còn do các yếu tố chủ quan của
từng cá nhân. Những sắc dân cần cù, chịu học hỏi, biết cần kiệm… thì mau thành đạt. Còn những
sắc dân kém trí tuệ, ham ăn chơi hơn làm lụng, thì vẫn cứ lẹt đẹt trong cảnh nghèo. Ít ra, thì mỗi gia
đình đều có khả năng có một căn nhà đầy đủ tiện nghi, những chiếc xe hơi cho người trưởng thành
dù là nhà xe đồ sộ, đẹp, sang hay nhỏ bé, xập xệ. Cứ lấy người di dân Việt Nam làm mẫu, thì chúng
ta thấy sự thành đạt ở mức độ cao và nhanh.
Từ những người khi đến Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng, vốn liếng Anh Ngữ chỉ ở mức chào
hỏi ấm ớ; chỉ vài năm sau, hầu như người Việt nào cũng có công ăn việc làm ổn định, mua được
những căn nhà khang trang, tậu những chiếc xe đời mới bóng lộn. Người Mỹ gốc Việt nói riêng, và
gốc Á nói chung đã nhảy vào giai tầng trung lưu của xã hội Hoa Kỳ không mấy khó khăn gì.
Nhưng kể từ khi có chủ trương Toàn Cầu Hoá (Globalization) với những kế hoạch trao đổi
thương mại tự do, nhũng hiệp ước mậu dịch được ký kết dành đặc quyền về thuế quan cho những
nước tham gia; thì nến kinh tế Tư bản Hoa Kỳ chuyển qua một khúc quanh mới đầy thử thách bi
quan. Điển hình như North American Free Trade Agreement (NAFTA) và Central America Free
Trade Agreement
Những năm đầu thập niên 2000 đã mở đầu kế hoạch các đại công ty chuyển công việc đến
các cơ sở xây dựng tại những nước kém mở mang, nơi mà giá nhân công và nguyên liệu rẻ mạt. Kế
hoạch này gọi là “outsourcing”, đã đưa lại sự thất nghiệp cho hàng trăm ngàn đến hàng triệu những
nhân viên kỹ thuật từ hàng thợ cho đến cấp kỹ sư. Thậm chí các dịch vụ khách hàng (Customer
Services) cũng bị đưa ra ngoại quốc.
Mỗi năm, các trường Đại Học Hoa Kỳ đào tạo ra hàng trăm ngàn kỹ sư là vốn quý của sự
phát triển công nghiệp. Nay thì may ra có khoảng vài phần trăm có thể kiếm được việc làm tương
xứng. Chúng tôi đã thấy nhiều cậu Kỹ sư phải dấu bằng cấp để xin một công việc của người thợ mà
cũng không phải là việc ổn định, mà chỉ là tạm thời. Nhiều người tốt nghiệp đại học phải đi làm bồi
bàn ở các tiệm ăn, các cô cử nhân, kỹ sư đi làm thợ nail. Anh chị nào có khả năng kinh tế gia đình
thì trở lại Đại Học lấy các bằng cao hơn để chờ thời.
Xã hội Hoa Kỳ đang đi vào con đường phân hoá giai cấp Giàu và Nghèo. Giàu thì càng ngày
càng giàu sụ; nghèo thì càng ngày càng mạt thêm. Giai cấp trung lưu, vốn là căn bản của xã hội,
đang tan biến dần.
Một hiện tương mới đã nẩy sinh. Đó là sự bất bình đẳng lợi tức – Income Inequality – mà
Giáo Sư Đại Học Columbia, từng đoạt giải Nobel là Joseph Stiglitz đã đề cập đến trong cuốn sách
mới đây của ông : „The Price of Inequality: How Today‟s Divided Society Endangers Our Future”
Ông đã khẳng định rằng Hoa Kỳ không còn là mạnh đất của cơ hội nữa, và Giấc Mơ Hoa Kỳ
chỉ còn là một huyền thoại. [America is] "no longer the land of opportunity" [and] "the 'American
dream' is a myth."
Giáo sư Stiglitz đã dựa trên nhiều thống kê để cho rằng trong khoảng 30 năm qua, lợi tức của
1% của dân số Hoa Kỳ (tức khoảng ba triệu người giàu có) đã tăng gấp đôi; của một phần ngàn
(khoảng 300 ngàn người giàu nhất) thì tăng gấp ba. Trong khi lợi tức trung bình của quần chúng lao
động thì sa sút nghiêm trọng.
Ông cho rằng, so với các quốc gia tiền tiến, thì sự bình đẳng về cơ hội tại Hoa Kỳ đã kém xa.
Theo ông, nếu bạn sinh ra trong giới giàu – nghèo, thì khi trưởng thành, bạn cũng sẽ chẳng thay đổi
được tình trạng giàu/nghèo này.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 23
Một ví dụ điển hình mà Giáo sư Stigliz đưa ra, là trong 100 sinh viên của các trường Đại Học
danh tiếng, chỉ có 8 sinh viên là thuộc giai tầng nghèo, mà tỉ lệ chiếm đến 50% của dân số.
Không còn tình trạng biến chuyển xã hội (Social Mobility Circulation of Elites) mở đường
cho những người giỏi ở giai tầng thấp có cơ hội vươn lên giai tầng cao như các nhà Xã Hội Học của
thế kỷ trước từng tỏ ra lạc quan. Những thì dụ điển hình cho sự luân lưu xã hội là trường hợp ông
Pierre Bérégovoy - bắt đâu làm việc như một thợ tiện năm 16 tuổi – đã ngọi lên địa vị Thủ Tướng
Pháp (từ 2 April 1992 đến 29 March 1993); hay trường hợp ông Ramsay MacDonald – là một di dân
bất hợp pháp, con một nông dân và bà bồi phòng – mà đã trở thành Thủ Tướng nước Anh (từ 5 June
1929 đến 7 June 1935); hay trường hợp Sir Joseph Cook, - Một người Anh thất học, từng làm thợ
mỏ than vào năm 9 tuổi- mà đã trở thành Thủ Tướng Australia (từ 24 June 1913 đến 17 September
1914). Trong giai đoạn huy hoàng của Hoa Kỳ, chúng ta cũng từng nghe đến những di dân đến Mỹ
với vài xu trong túi, mà đã trở thành triệu phú, tỷ phú sau đó. Nhà tỷ phú Michael Dell là một sinh
viên Đại Học Texsa đã bỏ học dở dang , Mark Zuckerberg,- sáng lập Facebook- năm nay mới 28
tuổi mà đã có trong tay tài sản gần 15 tỷ đô la
Để trả lời câu hỏi: Liệu Các Em Bé Nghèo Khó có Trở Thành Những Người Lớn Nghèo Khó
Không?. một nhà nghiên cứu đã lấy mẫu từ 9 quốc gia phát triển và thấy rằng Hoa Kỳ và Anh Quốc
là kém nhất trong vấn đề luân chuyển xã hội. Đó là việc có khoảng 50% các trẻ em mà cha mẹ giàu
có thì sẽ thừa kế sự giàu có này. Trong khi ở các nước Denmark, Norway, Finland, và Canada thì
con số này ở mức dưới 20%.
Có ít nhất 5 nghiên cứu trong
những năm qua đã đi đến kết luận
rằng sự luân lưu xã hội ở Hoa Kỳ
hiện nay là ở mức thấp hơn so với
các nước phát triển khác, từ đó, câu
“Hoa Kỳ là đất của cơ hội” không
còn đứng vững nữa.
(Đồ biểu minh hoạ Corak,
Miles. 2006. “Do Poor Children
Become Poor Adults? Lessons from
a Cross Country Comparison of
Generational Earnings Mobility.”
Research on Economic Inequality,
13 no. 1: 143-188.)
Giáo sư Stigliz đã viết: “[Tại
Hoa Kỳ] không còn nhiều cơ hội cho sự luân lưu xã hội từ thấp lên cao. Những người có lợi tức cao
dù kém về học vấn vẫn có nhiều cơ hội hơn những người học giỏi nhưng ở tầng lớp lợi tức kém.”
(There's not much mobility up and down. The chances of someone from the top [income bracket]
who doesn't do very well in school are better than someone from the bottom who does well in
school.)
Hiện nay thì các trẻ em trong các gia đình giàu có vẫn có tương lai sáng sủa hơn các em gia
đình nghèo. Đó là nhờ vào sự thụ hưởng nền giáo dục tốt hơn, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi tốt
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 24
hơn. Sự bất công về lợi tức mà đã chớm thấy trong mấy thập niên vừa qua, sẽ càng rộng hơn trong
vòng 10, 20 năm tới.
Nếu không có biện pháp thích ứng để giải quyết tận gốc rễ, thì Hoa Kỳ sẽ trở thành một xã
hội chỉ có 2 giai cấp giàu nghèo cách biệt như tại các nước chậm tiến trên thế giới. Những người
giàu, càng thêm giàu sụ. Họ sẽ ở trong những khu dinh cơ bạc chục triệu, kín cổng cao tường, có
nhân viên an ninh trang bị vũ khí bảo vệ. Và ngược lại những người đang từ giai cấp trung lưu sẽ bị
hạ xuống giai cấp nghèo, chật vật lắm mới đủ chi trả tiền bills, Các cơ sở an sinh xã hội sẽ thấy
những hàng người dài bất tận đứng chờ lãnh trợ cấp. Càng ngày, chúng ta càng nghe tỷ lệ người
nghèo ở Mỹ tăng thêm, con số trẻ em đói cũng tăng thêm. Đó là nỗi buồn (hay nỗi nhục) của một
Hoa Kỳ Đại Cường Quốc!!!
Và việc gì sẽ xảy ra: bất ổn kinh tế, chính trị xã hội như từng xảy ra trong các thời Cách
Mạng Tư Sản Pháp, Anh.
Chắc quý độc giả cũng từng biết rằng các vị cầm đầu (CEO, CFO…) các đại công ty, ngoài
số lương năm hàng chục triệu đô la, còn nhận thêm khoản Bonus cũng tương đương, chưa kề phần
chia trong cổ phần; trong khi công ty của họ suy thoái, sa thải hàng ngàn nhân công. Họ lại trả phần
thuế theo tỉ lệ ít hơn những công nhân bình thường.
Trong năm đầu tiên của Tổng Thống Obama, ông ta đã bơm gần ba ngàn tỷ đô la để vực các
đại công ty khỏi lâm vào cảnh phá sản. Chỉ sau đó không lâu, chúng ta nghe thấy trên truyền hình
rằng các ông chủ nhân dùng một phần khoản tiền đó để tự chi trả bonus cho mình, hay tổ chức
những vui chơi ở thành phố cờ bạc Las Vegas mà phí tổn không dưới vài ba triệu đô la mỗi chuyến.
Tình hình tuy có viễn ảnh bi quan, nhưng không phải không có cơ may cứu vãn.
Biện pháp để ngăn chận bất công trong lợi tức – như theo kinh nghiệm của Brazil thập niên
1990 – là nâng cao phẩm chất của nền giáo dục và phúc lợi cho các giai cấp dưới thấp của xã hội;
hủy bỏ “phúc lợi các đại công ty” (Corporate Welfare), và chấm dứt các chính sách nhằm tạo ra sự
giàu có mà lại không phát triển kinh tế. (create wealth but not economic growth). Đây là việc các đại
công ty đưa việc qua các nước nghèo mà hậu quả là gia tăng hang tỉ đô la trong túi tiền của các ông
chủ; người tiêu dùng thì được mua giá rẻ; nhưng kinh tế sản xuất của Mỹ thì bị trì trệ, nạn thất
nghiệp gia tăng.
Một ví dụ bi quan mà giáo sư đưa ra là phần D trong Medicare mà theo dự thảo ngăn chận cơ
quan chính phủ thương lượng giá cả với các công ty dược phẩm. Việc này sẽ tạo ra lợi nhuận 500 tỉ
đô la cho các công ty dược trong vòng 10 năm, mà lại không đem lại phúc lợi nào cho người đóng
thuế và nền kinh tế quốc dân.
Một hậu quả quan trọng là tình trạng bất bình đẳng lợi tức và cơ hội sẽ phương hại đến kinh
tế quốc gia qua việc giới hạn sự cạnh tranh, tạo đặc quyền đặc lợi cho thiểu số nào đó, và ngăn cản
những người ở giai cấp thấp kém có thể vươn lên.
Chúng ta ao ước một nền kinh tế năng động hơn, và một xã hội công bằng hơn; vì chính sự
bất công lợi tức cũng không có lợi cho giai cấp giàu sụ trên chóp bu của xã hội. Vì từ hàng chục năm
qua, Hoa Kỳ đã tạo ra một nền kinh tế không mấy phù hợp với nguyên tắc thị trường tự do.
Mùa Fathers‟ Day 2012
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 25
Nước Mỹ Trên Đường “Tiến Lên” Xã Hội Chủ Nghĩa!!!
Trong Thế Chiến lần thứ 2, vì vừa trải qua một cơn suy thoái kinh tế nghiêm trọng (The
Great Depression 1929-1939), Hoa Kỳ đã quyết định chỉ viện trợ vũ khí, phương tiện cho các nước
đồng minh mà không trực tiếp tham chiến. Sau khi Nhật ném bom ở Pearl Harbor là căn cứ quân sự
lớn nhất của Mỹ ở Thái Bình Dương, dù còn nhiều khó khăn vật chất, kinh tếchưa kịp hồi phục,
nhưng Hoa Kỳ đã tham gia cật lực và nắm vai trò lãnh đạo trong cuộc Thế Chiến thứ Hai đưa đến
chiến thắng vinh quang. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt, cũng chính Hoa Kỳ đã hào phóng mở
hầu bao để viện trợ tái thiết các nước Âu Châu
(Marshall Plan) và ngay cả kẻ thù vừa bại trận là Nhật
và Đức để tạo một thế chiến lược vững chắc ngăn chặn
làn sóng Cộng Sản do Liên Xô khởi xướng.
Không ai có thể quên được hình ảnh đời sống
Mỹ từng là mơ ước của muôn triệu người trên hành
tinh trong hậu bán thế kỷ 20, đặc biệt là nền văn minh
cơ giới, phát triển nhờ vào sự ứng dụng chủ nghĩa tư
bản và chế độ chính trị dân chủ tự do gần như toàn hảo.
Qua hình ảnh trên sách báo và truyền thanh, truyền
hình, chúng ta thấy một xã hội Mỹ tiêu thụ đại chúng,
sung mãn; con người cư xử hiếu hoà, tương thân tương
ái.
Người Việt Nam mới tiếp xúc với người Mỹ
trong thời gian chiến tranh, trong dân gian đã có câu
thành ngữ: “Xài sang như Mỹ”. Các nước nhược tiểu nhìn vào Mỹ như người hùng với sức mạnh vô
song và túi tiền khổng lồ sẵn sàng viện trợ, can thiệp mọi nơi mọi lúc để xây dựng, phát triển và bảo
vệ hoà bình. Cả khối Liên Xô không cần nội loạn vẫn phải sụp đổ vì không chịu đựng nổi sự cạnh
tranh kinh tế và quân sự - đặc biệt trong lãnh vực không gian - với Hoa Kỳ.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 26
Ấy thế mà hôm nay, chúng ta sửng sốt nghe được rằng có 46 triệu người Mỹ phải sống nhờ
vào trợ cấp thực phẩm (Food Stamps) với số tiền khổng lồ do chính phủ chi ra trong năm 2011 là 78
tỷ đô la trong tổng số 668 tỷ đô la cho 126 chương trình Trợ cấp Xã hội (Welfare)! Như thế có nghĩa
trong 7 người dân Mỹ, có 1 người đang phải hàng tháng đến sắp hàng ở Sở An Sinh Xã Hội nhận
phiếu thực phẩm. Bốn mươi bảy triệu, bằng dân số hai tiểu bang Texas và New York gộp lại. 78 tỷ
đô la, tức là 2% của ngân sách quốc gia của năm 2011. Ghi chú: Chương trình An Sinh Xã Hội ra
đời năm 1935 trong giai đoạn suy thoái.
Source: http://www.huffingtonpost.com/2012/08/28/food-stamps-fact-of-the-
day_n_1836037.html
Con số thất nghiệp trong thời điểm tháng 9,
2012 dao động ở mức trên 8%.Con số người
dân sống dưới mức nghèo khó từ 12% năm
2004, nay tăng lên đến 15%.Trên truyền hình
hàng ngày đã thấy các hình ảnh trẻ em Mỹ
thiếu ăn.
Mới đây, trong một tiết lộ từ buổi họp
của ứng cử viên Mitt Romney (Cộng Hoà),
cho thấy chỉ có hơn một nửa dân Mỹ đóng
thuế để trang trải ngân sách, bao giàn cho
47% dân Mỹ không đóng thuế. Như thế, con
số 47% này, ngoài quý cao niên lãnh tiền
hưu, số còn lại có thể vừa là thành phần thất
nghiệp, cộng thêm một đại đa số có công ăn
việc làm, nhưng lợi tức quá thấp dưới mức
chịu thuế.
Với tổ chức công quyền càng ngày
càng phình ra như dưới trào Obama, cộng
thêm việc xuất cảng công ăn việc là sang các nước nghèo; thì nguy cơ tỷ số dân không đóng thuế -
nói thẳng ra là dân nghèo - sẽ càng ngày càng gia tăng. Và khi đó, Hoa Kỳ sẽ trở thành một nước
phúc lợi (welfare state) khi mà công dân phải trông chờ, lệ thuộc vào tiền trợ cấp của chính phủ.
Không là mô thức Chủ Nghĩa Xã Hội thì phải gọi là gì đây? Tạo sao người ta lo sợ CNXH đến thế?
Xin phép mở ngoặc nói sơ về CNXH
Chủ Nghĩa Xã Hội, phát sinh từ tư tưởng chính trị của Plato và Aristote; nhưng chỉ hình
thành rõ nét từ sau khi cuộc cách mạng kỹ nghệ dẫn đến tình trạng rất tồi tệ trong đời sống xã hội:
nghèo đói, bất công, nạn bóc lột trầm trọng. Các nhà tư tưởng như Robert Owen, Charles Fourier,
Pierre-Joseph Proudhon, Louis Blanc, Charles Hall và Saint-Simon, mở đường cho lý thuyết Chủ
Nghĩa Xã Hội tân tiến. Họ chủ trương cải cách, chuyển hoá hình thái xã hội qua thành những cộng
đồng nhỏ, và không chấp thuận quyền tư hữu. Sau đó, dựa trên những nguyên tắc của CNXH, Karl
Marx và Friedrich Engels khai sáng ra Chủ Nghĩa Cộng Sản; mở ra một trang dài kinh hoàng, đẫm
máu, ảm đạm nhất trong lịch sử nhân loại mà đến nay, tuy đã sụp đổ tan tành trên mảnh đất khai sinh
ra nó, vẫn còn rơi rụng tàn dư ở vài nơi mà dân trí còn quá thấp kém.
Những người theo Chủ Nghĩa Xã Hội Dân Chủ tân tiến là chủ trương cải cách xã hội hoá một
cách tiệm tiến trong một môi trường dân chủ; nhưng trong đó cũng có khuynh hướng muốn làm cách
mạng để xây dựng CNXH. Trong khi đó, những người phái Dân chủ Xã Hội thì ủng hộ chương trình
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 27
phúc lợi (welfare state) và bảo hiểm thất nghiệp như là phương tiện để làm cho chế độ tư bản trở nên
nhân đạo hơn.
Trong những thập niên về trước, vài quốc gia vùng Bắc Âu như Đan Mạch, Thụy Điển, Băng
Quốc, Na Uy, và Phần Lan cũng áp dụng thử khuôn mẫu xã hội và kinh tế pha trộn giữa kinh tế thị
trường và chế độ an sinh hào phóng. Khuôn mẫu này được gọi là Nordic Model, nhưng không thành
công vì tổn phí quá cao so với số thu và nhất là bị lạm dụng.
Một trong những lý do thất bại của Chủ Nghĩa Xã Hội là hoang tưởng cho rằng tất cả mọi
người toàn thiện, tự giác để có thể xây dựng nên một xã hội công bằng tuyệt đối kiểu làm theo năng
lực và hưởng theo nhu cầu..
Trong thực tế, lúc nào, nơi nào trong xã hội cũng luôn có một thiểu số là thành phần lười
biếng, bất lực mới phải ngửa tay nhận bố thì từ chính quyền. Khi Chủ Nghĩa Cộng Sản ra đời, chính
thành phần này đã dễ dàng xiêu lòng trước những lời kêu gọi lừa của bọn Cộng Sản để trở thành đội
quân xung kích làm nên thắng lợi cho cái gọi là Cách Mạng Vô Sản.
Mục tiêu của bất cứ chính quyền tốt đẹp nào cũng là phát triển kinh tế, tạo đủ công ăn việc
làm cho công dân để họ nhận phần lương tương xứng mà vẫn giữ gìn phẩm giá của mình chứ không
phải tạo hoàn cảnh để cho công dân mình phải lệ thuộc vào trợ cấp. Vì điều này sẽ đưa đến nô lệ
hoá, đốt cháy lòng tự trọng, hạ thấp giá trị con người vào hàng ăn bám. Ai cũng biết rằng lệ thuộc
kinh tế dẫn đến lệ thuộc chính trị. Từ đó, với phương tiện và đồng tiền trong tay, giới chính trị gia
cầm quyền, giới tài phiệt giàu có sẽ dễ dàng mua chuộc, sai khiến những người phải sống vào tiền
trợ cấp. Đó là mội trường thích ứng để xây dựng một chế độ độc tài toàn trị mà chắc những người
dân đã từng sống trong xã hội văn minh không thể chấp nhận được.
Đường lối kinh tế thiên tả của ông Obama trong gần 4 năm nhiệm kỳ đầu đã đưa đến những
hệ quả rất bi đát.Hoa Kỳ ngày nay mang một số nợ khổng lồ đến 15 ngàn tỷ đô la mà chủ nợ lớn vẫn
là Trung Cộng, một quốc gia luôn mang tâm lý thù địch đối với Hoa Kỳ. Vì để cho kinh tế Trung
Cộng vươn lên, ngày nay sự sản xuất của Mỹ đình đốn; thị trường tiêu dùng của Mỹ có 90% hàng
hoá hạ đẳng, kém phẩm chất, độc hại nhập cảng của Trung Cộng. Trong kỳ Thế vận London 2012,
niềm tự hào của người Mỹđã bị xúc phạm khi phái đoàn thể thao gia của mình không có đồng phục
“made in USA” mà lại mặc đồ “made in China”.
Bài này chỉ nhấn mạnh về mặt xã hội, nhưng tưởng cũng không thừa nếu bàn sơ về uy tín
chính trị ngoại giao xuống dốc của Hoa Kỳ trên trường quốc tế.Vị thế một siêu cường không có địch
thủ tương xứng sau sự sụp đổ của Liên Sô, ngày nay chỉ là một tiếng vang quá khứ. Trung Cộng lẫn
đám cuồng tín Hồi Giáo không ngừng ngạo mạn lên tiếng đe doạ Hoa Kỳ. Ngay cả những nước nhỏ
lạc hậu như Bắc Hàn, Iran cũng lên tiếng thách thức Hoa Kỳ.
Hiện nay, ngoài hai đảng lớn là Cộng Hoà và Dân Chủ luân phiên nhau nắm Hành Pháp và
Lập Pháp, còn có một số đảng nhỏ mà trong đó có rất nhiều đảng thuộc phe tả và cực tả như:
Libertarian Party, Communist Party of the USA, National Socialist Movement, Party for Socialism
and Liberation, Socialist Equality Party, Socialist Workers Party, Socialist Party USA, Working
Families Party…
Rõ ràng trong tình hình kinh tế suy thoái, xã hội như một người bệnh liệt giuờng, mất sức đề
kháng thì các loại vi trùng cực tả như CS và CNXH có cơ hội phát triển.
Với khẩu hiệu “Thay Đổi” (We Believe in Change) và tài ăn nói đầy sức thuyết phục, Obama
đã từ một người hoạt động cộng đồng (Community Organizer) vô danh, không kinh nghiệm chính
trường nhảy có hai bước để trở thành Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 28
Tuy Obama núp bóng trong đảng Dân Chủ, nhưng có rất nhiều websites đã tiết lộ rằng ông ta
chịu nhiều ảnh hưởng và có quan hệ với phe chủ nghĩa xã hội và Cộng sản (xem phần phụ lục).
Trong một đoạn video mới tung ra về một cuộc họp cách đây 14 năm, Obama đã tuyên bố chủ
trương tái phân phối tài sản (Redistribution of Wealth) là một trong những chủ trương chính của
Mác Xít vàphe Xã hội. Ông Obama cố lờ đi không trả lời các cáo buộc của nhiều người về quan
điểm chính trị, về Tân Đảng và mối quan hệ của ông với phái Xã Hội Chủ Nghĩa, và đảng viên Cộng
Sản.
Sau gần bốn năm, Obama
chẳng nêu ra được thành tựu nào
đáng kể khi ra tái tranh cử. Chỉ
nghe ông ta đổ lỗi cho thời gian
quá ngắn để có thể xoay chuyển
tình hình và lại hứa hẹn “Tiến tới”
(Forward). Ba việc đáng kể là (1)
kích thích kinh tế dưới hình thức
Đạo Luật Phục Hồi và Tái Đầu Tư
(American Recovery and
Reinvestment Act) vào tháng
2/2009, (2) Bảo Hiểm Thất Nghiệp
và Giảm Thuế (Tax Relief,
Unemployment Insurance
Reauthorization), và (3) Đạo Luật
Tạo Thêm Việc Làm (Job Creation
Act) vào tháng 12, năm 2010. Nhưng chẳng đem lại kết quả gì mà chỉ thấy chiều hướng đi xuống.
Chương trình Bảo hiểm Y Tế mà người ta gọi là Obamacare, nếu áp dụng sẽ ép buộc mọi
người phải mua bảo hiểm. Chính phủ lại phải bỏ một số tiền khổng lồ ra trả cho những công dân lợi
tức thấp, ngân sách quốc gia lại thâm thủng thêm. Các công ty phải mua bảo hiểm cho nhân viên, và
dĩ nhiên chi phí này sẽ được tính vào chi phí sản xuất để bắt người tiêu dùng - vốn đã cạn túi – gánh
chịu. Giới nghèo sẽ nghèo thêm, giới trung lưu sẽ teo lại; chỉ còn giới giàu càng thêm giàu sụ và
chắc chắn sẽ hoàn toàn định đoạt số phận của công dân.. E rằng ông Obama đang dẫn dắt nước Mỹ
Forward đến Chủ Nghĩa Xã Hội mất.
Trong một thống kê của báo chí, người ta biết rằng số người bỏ phiếu cho Obama đa số là
thành phần thụ hưởng An sinh Xã hội, dân đồng tính, dân nghèo sống trong các khu bất an ninh, dân
Latino có liên quan đến hàng triệu người nhập cư bất hợp pháp. Cũng giống như khi đảng CS kêu
gọi, thì thành phần này là tiên phong đi theo ngọn cờ “cách mạng” vậy. Nhưng dường như đã có sự
lay chuyển tyrong sự lựa chọn của các thành phần này.
Chỉ còn gần hai tháng nữa đến ngày bầu cử. Đối thủ của Obama là Mitt Romney bộc lộ vài
sơ hở có thể mất sự ủng hộ của một số lớn những người trong 47% dân không đóng thuế. Nhưng hy
vọng ám ảnh Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ giúp cho người dân biết lựa chọn đúng đắn con đường mà Hoa
Kỳ sẽ theo trong những năm tới.
Phụ lục:
A.- Barack Obama và Tân Đảng.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 29
Tân Đảng (New Party) vững mạnh trong nửa cuối thập niên 1990, là một lien minh nhằm đưa
người tả khuynh vào cơ quan công quyền qua danh nghĩa đảng Dân Chủ.
Hai tổ chức nòng cốt của Tân Đảng là the Democratic Socialists of America và Association of
Community Organizations for Reform Now (ACORN)- một tổ chức radical lớn nhất ở Mỹ. Ngoài ra
còn Công Đoàn SEIU, và nhóm Committees of Corespondence ly khai từ Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ.
Một tổ chức cực tả khác có ảnh hưởng rấ mạnh đến New Party là "think tank" Institute for
Policy Studies bản doanh tại Washington DC. Ở Chicago, Tân ảng cũng thành lập tổ chức huynh đệ
Progressive Chicago.
Có đủ bằng chứng rằng Barack Obama là thành viên của Tân Đảng.
Source http://keywiki.org/index.php/Barack_Obama_and_the_New_Party/Progressive_Chicago
B.- Sau đây là một số các cáo buộc về mối liên hệ của Barack Hussein Obama với CNXH và
Cộng Sản:
1.- Thân phụ của ông Obama từng viết bài “Các Vấn Đề về CNXH” trong đó ông ta ủng hộ việc
đánh thuế 100% và người giàu có; ủng hộ quyền công hữu đất đai và cưỡng đoạt đất tư.
2.- Mẹ của Obama, Stanley Ann Dunham, là cảm tình viên của Cộng Sản. Source: March 27,
2007, Chicago Tribune report.
3.- Cha mẹ của Obama gặp nhau trong một lớp tiếng Nga. Source: Sharon Cohen, St Louis
Times
4.- Khi còn tuổi teen, Obama được dạy kèm bởi Frank Marshall Davis mà người ta tin rằng là
một đảng viên Cộng Sản Mỹ. Qua ông Davis này, Obama được quen biết nhiều đảng viên CS khác.
Source: Jim Corsi, WorldNetDaily based on Communism in Hawaii and the Obama Connection
(Cliff Kincaid and Herbert Romerstein)
5.- Anh ruột của Obama là Abongo Roy Obama và anh bà con là Odinga là thành viên theo chủ
nghĩa Mác Xít.
6.- Obama từng tham dự Hội Nghị các nhà Xã Hội CN ở Cooper Union.
7.- Người tiền nhiệm và là nâng dỡ cho Obama để vào Thượng Viện Illinois là Nghị Sĩ Alice
Palmer, là người từng đi Liên Sô tham dựĐại Hội lần thứ 27 của Đảng CS Liên Sô. Source: Jim
Corsi, WorldNetDaily based on Communism in Chicago and the Obama Connection (Cliff Kincaid
and Herbert Romerstein)
8.- Việc yểm trợ cho Obama tranh cử Thượng Viện Illinois (1955) do bà Alice Palmer phát khởi
từ nhà hai ông Bill Ayers và Bernadine Dorhn, là thành viên củ tổ chức khủng bố Weather
Underground được tài trợ bởi Đảng CS Hoa Kỳ.
9.- Obama co liên hệ mật thiết với nhóm ACORN (Association of Community Organizations for
Reform Now) chống Chủ Nghĩa Tư Bản
10.- Obama từng tham dự các cuộc họp với các thành viên XHCN ở Chicago và từng yểm trợ
những người này.
11.- Obama ủng hộ Thượng Nghị Sĩ Bernie Sanders, là thành viên đảng Xã Hội Chủ Nghĩa.
12.- Rất nhiều người ủng hộ Obama tôn sung tên Cộng Sản Cuba Che Guevara (bạn chiến đấu
của Fidel Castro)
13.- Obama được các thành viên Mác Xít, XHCH và Cộng Sản ủng hộ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 30
Viễn Ảnh Một Xã Hội Phúc Lợi Hoa Kỳ!!! Có phải đây là bước đầu của sự suy thoái văn minh Hoa Kỳ mà Detroit là khởi điểm.
Hai trăm năm trước đây, nhà xã hội học Pháp Henri de Saint-Simon (17 October 1760 – 19
May 1825) khởi xướng lý thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa, gây hứng khởi cho nhiều triết gia ở thế kỷ 19
trong đó có Karl Marx, cha đẻ ra Chủ Nghĩa Cộng Sản mà đã gây ra mối tai ương triền miên cho
nhân loại trong gần một thế kỷ qua – và vẫn còn rơi rớt trên vài nước hiện nay.
Chủ nghĩa xã hội do Saint-Simon đề xướng là để chống lại chế độ phong kiến, quân phiệt
nhằm tạo ra một nhà nước xã hội cộng đồng dựa trên sự hợp tác và tiến bộ về công nghiệp, kỹ thuật
để xoá bỏ sự nghèo khó của các giai cấp thấp kém. Ông chủ trương thay thế thần quyền của Giáo
Hội bằng những nhà khoa học biết tổ chức một xã hội dựa trên lao động sản xuất. Karl Marx đi xa
hơn, đã vẽ ra viễn cảnh thiên đường của một xã hội mà mọi người làm việc theo sức của mình, và
hưởng thụ theo nhu cầu của họ. Vì tính chất không tưởng của nó, Chủ Nghĩa Xã Hội đã không
những thất bại, mà còn dẫn đến sự đày đoạ, thảm sát của hàng tỷ người trên hàng chục nước từng áp
dụng chế độ Cộng Sản từ Âu sang Á, Phi, Mỹ Latin. Thật ra, do bản tính con người không toàn
thiện, Chủ Nghĩa Xã Hội chỉ là giấc mơ mà không bao giờ trở nên hiện thực.
Chế độ tư bản - dẫn đầu là Hoa Kỳ - là đối thủ mà chủ nghĩa Cộng Sản coi là kẻ thù cần tiêu
diệt và thay thế. Ở giai đoạn cao điểm của cuộc chiến tranh lạnh giữa Khối Cộng Sản và Khối Tư
Bản, Hoa Kỳ đang ở mức tột cùng của sự phát triển một xã hội sung mãn, tiêu thụ đại chúng. Nhưng
ngày nay tại Mỹ đã cho thấy một chiều hướng kiểu kinh tế tư bản và xã hội phúc lợi không do ý chí,
nhưng do sự lựa chọn sai lầm của quần chúng khi bầu cử lãnh đạo thiên tả và bất tài đã đưa Hoa Kỳ
vào con đuờng sai!.
1.- Nạn Thất Nghiệp:
Theo thống kê chính phủ, mức thất nghiệp đang từ 5% vào đầu năm 2008, từ từ tăng lên
6.5% vào tháng 10, và nhảy vọt lên 7.3% vào giai đoạn tranh cử Tổng thống. Người dân Mỹ đã dồn
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 31
phiếu cho ứng cử viên Obama là một người trẻ mà kinh nghiệm chính trường chỉ là con số không to
tướng, nhưng lại có cái miệng trét đầy mật ngọt để hứa hẹn những điều mà chính ông ta sẽ không
biết xoay trở ra sao để thực hiện. Ông ta vẽ ra nhiều mục tiêu mị dân, mà không đưa ra được kế sách
nào để đạ được các mục tiêu đó trong những năm cầm quyền. Do đó, trong nhiệm kỳ đầu tiên của
ông, tỷ lệ thất nghiệp đã leo thang đến gần 10% trong ba năm và chỉ nhỉnh xuống trên 8% trong năm
2012. Khi ra tranh cử nhiệm kỳ hai, sợ rằng tỳ lệ thất nghiệp cao sẽ gây bất lợi cho Obama, Cơ Quan
Thống Kê Lao Động đã ma nớp tạo ra sự giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn trên 7% trong 4 tháng
cuối năm 2012. Sở dĩ chúng tôi nói là ma nớp, vì họ dựa trên tiêu chuẩn U-3, chỉ tính con số người
thất nghiệp đang lãnh trợ cấp mà không tính đến số người đã hết hạn lãnh tiền cũng như cả những
người đã không còn kiên nhẫn đến các sở Lao Động để khai nữa. Tỷ lệ thực sự này lên đến 14.4%
theo tiêu chuẩn U-6 của Văn Phòng Thống Kê Lao Động của chính phủ, và 23% theo điều mà ông
John William gọi là Shadow Statistics. Cho đến hôm nay, tỷ lệ thất nghiệp này vẫn không thay
đổi.
Cho dù những người ủng hộ Obama có muốn chứng minh rằng tình hình kinh tế đang có mòi
cải thiện qua sự giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 7.8% (12/2013) xuống 7.4% (tháng 7/2013), cho dù ông
Obama có hớn hở khoe rằng đã tạo ra mỗi tháng hơn trăm ngàn công việc trong năm qua, thì những
con số này không phản ảnh được
thực trạng kinh tế bi quan của Mỹ
hiện nay.
Trong ba thập niên cuối thế
kỷ 20 (1970-2000), có từ 18 đến 21
triệu công ăn việc làm đươc tạo ra
mỗi thập niên, tức khoảng hơn 165
ngàn mỗi tháng; trong khi mức gia
tăng trong thời gian từ 2000-2008
(trước thời kỳ suy thoái) là 77 ngàn
mỗi tháng. Vào giai đoạn bắt đầu
đại suy thoái (Great Rescession)
cho đến nay (tháng 11/ 2007 đến
tháng 5/2013), nước Mỹ mất 5.6
triệu việc toàn thời gian, và chỉ tạo
ra thêm 2.9 triệu việc làm bán thời
gian; coi như mất 2,696,000 công
ăn việc làm.
Source: http://en.wikipedia.org/wiki/Unemployment_in_the_United_States
Trong những công ăn việc làm mà hành pháp Obama khoe đã tạo ra, thì đại đa số là việc bán
thời gian, tạm thời hoặc việc lao động đơn giản với mức lương thấp nhất. Còn những công việc
lương cao như công nhân các hãng sản xuất, thì không mấy phát triển.Theo Paul Wiseman của hãng
Thông Tấn AP, trong tổng số công việc tạo ra năm nay có đến 67% là công việc lương thấp; và cũng
trong tổng số đó, có đến 77% là việc bán thời gian làm tối đa 35 giờ mỗi tuần. (So far this year, low-
paying industries have provided 61 percent of the nation's job growthPart-time work has made up
77 percent of the job growth so far this year. The government defines part-time work as being less
than 35 hours a week.)
Image 1: Biểu đồ về mức tăng/giảm công ăn việc làm (màu xanh)
và tỷ lệ thất nghiệp (màu đỏ) từ 1/2009 đến 5/2013) theo Văn
Phòng Thống Kê Lao Động.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 32
Những thăm dò gần đây về viễn cảnh tối tăm của nạn thất nghiệp là để phản bác những lời
tuyên bố sáo rỗng của Obama rằng ưu tiên hàng đầu của ông là tái tạo những nấc thang cơ hội
(rebuild ladders of opportunity) và đảo ngược nạn bất công về lợi tức (reverse income inequality).
Người viết bài này chợt nhớ đến những năm 90s, những người Việt tị nạn từ một nước chậm
tiến lạc hậu về kỹ thuật, không có kiến thức và kinh nghiệm gì, lại bị trở ngại bởi hàng rào ngôn ngữ;
nhưng đã được những công ty lớn dễ dàng nhận vào làm những công việc mang tính chất tân tiến về
kỹ thuật. Nhờ có công việc ổn định, đồng lương khá, với những phúc lợi dồi dào của hãng, chúng ta
đã tạo những cơ ngơi nhanh chóng, thực hiện giấc mơ Hoa Kỳ (American Dream). Nhưng đến thập
niên đầu của thế kỷ 21, thì rất nhiểu thanh niên mới ra trường đã không thể tìm được việc làm tương
xứng. Có những cậu kỹ sư phải chịu
nhận công việc của người thợ, mà lại
là công việc tạm thời, hoặc bán thời
gian. Có những cô kỹ sư đành chấp
nhận làm nghề Nails, thậm chí làm
bồi bàn ở nhà hàng ăn.
2.- Bất Công Trong Phân
Phối Lợi Tức
Sự bất công về lợi tức ở Hoa
Kỳ trước đây không quá lớn. Dĩ
nhiên có một thiểu số giàu sụ mà tài
sản hàng tỷ, chục tỷ đô la. Xã hội tư
bản công nghiệp đã tạo ra một giai
cấp trung lưu tuy không giàu, nhưng
có lợi tức khá cao, để có thể hưởng
được một đời sống tiện nghi rất cao,
mà không hề lo lắng gì cho tương lai.
Nhưng từ thập niên 1980s, những người giàu có ở Mỹ đã thu nhập càng ngày càng nhiều
phần (share) trong lợi tức tổng thể của xã hội. Ví dụ năm 2010, những người giàu nhất chiếm 1%
dân số, nhưng đã hưởng 1/6 lợi tức chung, số giàu ít hơn (khoảng 10% dân số) thì chiếm một nữa
tổng lợi tức. Chúng ta có thể làm con tính đơn giản để thấy rằng cái bánh lợi tức chia ra 6 phần, thì
mất hết 4 phần cho 11% những người giàu, còn lại hai phần chia cho 89% dân số.
Một điều phi lý nhất là giới hoạt động thể thao, nghệ sĩ làm ra hàng trăm triệu mỗi năm,
trong khi những chuyên gia, trí thức đóng góp vào phát triển đất nước thì mức lương rất khiêm tốn.
Lương một giáo sư tại Đại Học đào tạo nhân tài cho xã hội, không bằng 1/10 lương của ông bầu
football đội banh của trường!!! Những cầu thủ bóng bầu dục, bóng rỗ, bóng chuyền ký những hợp
đồng hàng trăm triệu đô la, trong khi một bác sĩ, kỹ sư có kinh nghiệm chỉ nhỉnh trên dưới 100 ngàn
một năm!!!
3.- Nạn Nghèo Đói
Trong mùa tranh cử 2012, ứng cử viên Mitt Romney (Cộng Hoà), cho thấy chỉ có hơn một
nửa dân Mỹ đóng thuế để trang trải ngân sách, bao giàn cho 47% dân Mỹ không đóng thuế. Như thế,
con số 47% này có thể vừa là thành phần thất nghiệp, cộng thêm một đại đa số có công ăn việc làm,
Image 2: Biểu đồ về Tình trạng bất công về lợi tức và tài
sản tại Hoa Kỳ (nguồn đã dẫn bên trên)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 33
nhưng lợi tức quá thấp dưới mức chịu thuế. Theo một thống kê, có 46 triệu người Mỹ phải sống nhờ
vào trợ cấp thực phẩm (Food Stamps) với số tiền khổng lồ do chính phủ chi ra trong năm 2011 là 78
tỷ đô la trong tổng số 668 tỷ đô la cho 126 chương trình Trợ cấp Xã hội (Welfare)! Như thế có nghĩa
trong 7 người dân Mỹ, có 1 người đang phải
hàng tháng đến sắp hàng ở Sở An Sinh Xã Hội
nhận phiếu thực phẩm. Bốn mươi bảy triệu,
bằng dân số hai tiểu bang Texas và New York
gộp lại. 78 tỷ đô la, tức là 2% của ngân sách
quốc gia của năm 2011. (Biểu đồ bên đây cho
thấy sự nhảy vọt của số gia đình lãnh trợ cấp
thực phẩm trong chưa đầy ba năm; từ 17 triệu
gia đình vào tháng 10/2009, lên gần
22,500,000 gia đình trong tháng 6/2012).
Source:
http://www.huffingtonpost.com/2012/08/28/foo
d-stamps-fact-of-the-day_n_1836037.html
Đọc đến đây chắc quý vị không còn
ngạc nhiên khi nghe rằng, có 80% người
trưởng thành ở Mỹ đối diện với mức cận
nghèo. (80 Percent of U.S. Adults Face Near-Poverty, Unemployment: Survey). Câu này trích từ
một bài viết đã mở đầu rằng cứ trong 5 người lớn ở Mỹ, thì đã có 4 người đang cật lực đương đầu
với nạn thất nhiệp, cận sự nghèo túng hoặc phải lệ thuộc vào tiền trợ cấp an sinh ít nhất một phần
trong đời họ.
Source: http://www.huffingtonpost.com/2013/07/28/poverty-unemployment-rates_n_3666594.html
Việc chuyển công việc sang các nước nghèo để trả giá nhân công rẻ mạt cũng là nguyên nhân
của nạn thất nghiệp và nghèo đói ở Hoa Kỳ. Nó như một cái vòng luẩn quẩn. Dân nghèo thì phải
chọn mua hàng hoá rẻ tiền. Các hãng xưởng lại tiếp tục đem sản xuất ra ngoài để có hàng rẻ; lại xô
đẩy thêm người dân vào vòng thất nghiệp… Chưa bao giờ người dân Mỹ, vốn từng được tiếng “xài
sang như Mỹ”, nay phải chịu đi mua những thứ hàng hoá tồi, kém phẩm chất, độc hại từ Trung
Cộng..
Mỗi ngày, nếu chịu khó theo dõi các chương trình truyền hình, chúng ta sẽ thấy nhan nhản
những hội từ thiện kêu gọi quyên góp thực phẩm cho hàng trăm ngàn trẻ em nghèo đói, áo ấm vào
mùa đông, sách vở học cụ vào mùa tựu trường.
4.- Có Phải Detroit Là Khởi Điểm của Một Hoa Kỳ Tương Lai?
Chúng tôi xin gửi đến quý vị vài tấm ảnh một phần thành phố Detroit (Michigan) ngày nay
để thấy từ một thành phố công nghiệp xe hơi giàu có, từng tượng trưng cho sự giàu có của Mỹ, nay
đã lụi tàn để trở thành một thành phố chết với những con đuờng ngập rác, nhầy nhụa, những cửa
hàng bỏ trống bị cướp giựt và viết vẽ bậy lên tường; những hí viện hoa lệ ngày nào nay tan tành, bụi
rêu phủ đầy.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 34
Nhà báo Frosty Wooldridge
trong bài “Is This the character of
America in the 21st century” đã
cho hay tại Detroit, có hàng trăm
ngàn người đang sống trên phúc lợi
xã hội gồm phiếu lương thực, tiền trợ
cấp và nhà miễn phí. Lạm dụng
chương trình Trợ Cấp cho Trẻ Em (Aid
to Dependent Children), các phụ nữ
thành phần thiểu số (ý muốn nói dân da
đen, Latino…) đẻ cả chục đứa trẻ -
thậm chí có trường hợp đẻ 24 con (theo
the Detroit Free Press) - để cấu vào
tiền những người Mỹ đóng thuế. Ông
than thở: “Nếu bạn xùy tiền ra cho
không, bạn sẽ thấy có thêm nhiều bàn
tay chìa ra để lấy tiền để khỏi làm gì
cả,” (If you give money for doing nothing, you will get more hands out taking money for doing
nothing.)
5.- Tệ Nạn Di Dân Bất Hợp Pháp Cùng Những Hệ Lụy
Năm 2009, nạn thất nghiệp tại Detroit lên đến 28.9% khi công nghiệp xe hơi chuyển đi nới
khác. Từ dân số 1.8 triệu, ngày nay chỉ còn 912 ngàn.Từ đó, Detroit trở thành một thành phố với đa
số là dân da đen (67%). (Detroit became a majority black city with 67 percent African-Americans).
Cùng lúc, đám dân tị nạn (hợp pháp lẫn bất hợp pháp) tràn vào để hưởng trợ cấp. Trong số
này có 300 ngàn dân Muslim và cả trăm ngàn dân Mễ. Tội phạm gia tăng làm cho dân da trắng phải
gấp rút bỏ chạy. Thế là dân Mễ lậu tràn vào. Ký giả Wooldridge cho hay hiện nay, nạn thất học lên
đến 50% dân số và đang gia tăng.
Có phải đây là bước đầu của sự suy thoái văn minh Hoa Kỳ mà Detroit là khởi điểm? (The
ultimate fate of Detroit will reveal much about the character of America in the 21st century.)
Tại sao có tình trạng này?
Một trong những nguyên nhân đưa đến tệ trạng này là vấn đề những di dân bất hợp pháp,
nhiều nhất là từ Mexico và các nuớc Mỹ Latin. Các chính khách Mỹ, nhất là những dân cử các cấp,
đều ngại đề cập đến vì sợ bị gán cho rằng “kỳ thị” và cũng vì sợ mất phiếu của cử tri gốc Latino.
Trong tổng số 314 triệu dân Mỹ, có đến hơn 12 triệu là di dân bất hợp pháp, mà 56% đến từ nước
Mexico, 22% đến từ khu vực Mỹ Latin, 13% từ Á Châu (theo tài liệu của Center for Immigration
Studies) . Đại đa số cư dân bất hợp pháp ít học nên khi đến Mỹ chỉ làm các nghề tay chân và lãnh
tiền mặt. Do đó, nhiều người né tránh việc đóng thuế lợi tức, nhưng lại được hưởng sự chăm sóc sức
khoẻ khi khẩn cấp và con cái họ hưởng giáo dục hoàn toàn miễn phí. Nhưng cũng có rất nhiều di dân
bất hợp pháp được mướn vào các công ty xây dựng (19%), sản xuất (15%) và bán hàng (12%) theo
USA Today. Ngay cả những đại công ty cũng mướn những di dân bất hợp pháp để trả công giá rẻ
như Wal Mart (có thể đến hàng ngàn người), Swift & Co. (1300 người), Tyson Food. Người ta cho
rằng chính việc mướn nhân công rẻ mạt này mà người dân Mỹ mất việc làm. Giáo sư Stephen J.
Image 4: Detroit ngày nay, cảnh này có khác chi ở các nước
Thế Giới Thứ Ba?
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 35
Unger của Trường Đại Học Columbia nhận định: “illegal immigrants may displace work
opportunities that would otherwise be available to citizens, thereby inducing native-born citizens to
commit crimes”.
Vấn đề tội phạm của nhóm dân bất hợp pháp này rất cao, làm cho xã hội Mỹ vốn từng an
bình, nay trở nên bất ổn. Năm 2010, Cơ Quan Quan Thuế và Di Dân và Bộ Nội An Hoa Kỳ đã công
bố con số tội phạm được nhận diện trong đám di dân bất hợp pháp là 240,000 người, trong đó có
30,000 đã bị trục xuất.. Source:
http://en.wikipedia.org/wiki/Illegal_immigration_to_the_United_States
Khi nghiên cứu về hai cuộc bầu cử Tổng thống năm 2008 và 2012, các nhà xã hội học, báo
chí đã ghi nhận có 95% người da đen; 67% Mỹ gốc Mexican, Latino, 62% dân gốc Á đã bỏ phiếu
cho Obama.
Source: https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_presidential_election,_2008
Đa số những người đó là những người nghèo đang hưởng phúc lợi xã hội một cách thoải mái
mà không phải làm gì cả, hay nếu có làm chút đỉnh thì số tiền đóng góp vào thuế lợi tức chẳng có
bao nhiêu.
Có thể sẽ phải tốn nhiều công hơn để viết một luận án về vấn đề này. Nhưng tựu trung, thì
phải nhìn nhận rằng bộ mặt của Hoa Kỳ tuy bên ngoài vẫn còn thấy sự sung mãn, nhưng những con
số vừa nêu trên cũng đủ cho thấy cái xã hội “phúc lợi” mà Obama đang muốn xây dựng trên đất Mỹ
thi giới giàu sụ chẳng mất mát bao nhiêu so với tài sản kếch sù của họ, và được hưởng lợi nhiều nhất
là một đa số dân thất học, lười biếng lại thích ở nhà lãnh tiền ăn xin hơn là chịu đi làm hoặc tranh
đấu cho sự cải thiện xã hội. Giai cấp trung lưu vốn là nền tảng của xã hội, thì đang biến dần khỏi
cuộc chơi.
Obama, vì từng bị ảnh hưởng bởi các nhân vật thiên tả, Cộng Sản, hoặc vì thiếu hẳn kinh
nghiệm của một chính trị gia để điều hành quốc gia, đã đưa Hoa Kỳ vào con đuờng lụn bại.
Người Mỹ đã từ từ thức tỉnh.
Những thăm dò hiện nay cho thấy có đến 65% dân Mỹ cho rằng nước Mỹ đang đi sai đường
trong khi chỉ có 27% cho rằng đúng.
http://www.rasmussenreports.com/public_content/politics/mood_of_america/right_direction_or_wro
ng_track
Quý vị muốn tham khảo thêm về các thăm dò này, xin vào trang
http://elections.huffingtonpost.com/pollster/us-right-direction-wrong-track
Nước Mỹ đang đi sai đường. Không thể chối cãi được điều này. Còn cứu vãn được không?
Nếu tính thêm những vấn nạn xã hội khác như: đồng tính luyến ái, phá thai, bắn súng ở
trường học, giết người hàng loạt do ảnh hưởng của phim ảnh bạo lực, thì người bình tâm nhất cũng
phải nhìn nhận mức báo động. Hay phải theo quy luật chung: một nền văn minh khi lên đến cực
điểm, sẽ phải bắt đầu đi đến lụi tàn. Văn Minh Hy Lạp, La Mã, Trung Hoa, Ấn Độ không phải là
những minh chứng đó sao?
Texas, Hè 2013.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 36
NHẬN ĐỊNH VỀ BẢN THÔNG ĐIỆP VỀ HIỆN TÌNH LIÊN BANG
CỦA TỔNG THỐNG OBAMA
Theo điều 2, chương 3 trong Hiến Pháp Hoa
Kỳ, yêu cầu Tổng thống phải trình bày định kỳ về
“Tình trạng Liên Bang” mà từ trước được gọi là
"the President's Annual Message to Congress"
Thông Điệp Hàng Năm của Tổng Thống đến Quốc
Hội. Tổng Thống George Washington đã đọc
Thông Điệp đầu tiên tại phiên họp Quốc Hội Hoa
Kỳ ngày 8 tháng 1, 1790 ở New York, lúc đó là
Thủ Đô lâm thời của Mỹ.
Đến năm 1934, Tổng Thống Franklin Rosevelt
sử dụng chữ “State of the Union” (SOTU), được
dịch là ”Hiện Tình Liên Bang”. Và đến 1947, thì
nhóm chữ này được chính thức thừa nhận từ đó. Trước đây, Tổng Thống chỉ gửi văn bản đến Quốc
Hội. Nhưng khi các phương tiện truyền thông (Radio, TV) phát triển, thì Thông điệp phải được phát
đi trực tiếp không những trong toàn quốc mà trên toàn thế giới.
Thông điệp hàng năm của Tổng Thống Hoa Kỳ, đọc trước Quốc Hội lưỡng viện nhằm trình bày
hiện trạng của quốc gia, và vạch ra những chương trình mà Tổng thống cần có sự hợp tác của Quốc
Hội, cũng như nêu lên ưu tiên hàng đầu của nước Mỹ. Qua Thông điệp, Tổng thống sẽ đề nghị
những biện pháp cần thiết và thích ứng.
Tối 12 tháng 1 vừa qua, TT Obama đã đọc bản Thông điệp lần thứ 6 và cũng là lần cuối cùng
trong 2 nhiệm kỳ TT của ông. Ngồi trên hai ghế cao nhất sau lưng Tổng Thống là Phó TT Joe Biden
và Chủ Tịch Hạ Viện Paul Ryan. Hai vị này theo hiến pháp sẽ là người kế nhiệm theo thứ tự trong
trường hợp TT qua đời hay bị tai nạn, bệnh trầm trọng mà không đảm trách được vai trò của mình.
Bản thông điệp đọc trong gần một giờ. Muốn tóm lược và bình luận, phải có một thời lượng
nhiều hơn. Nhưng trong phạm vị thì giờ eo hẹp của chương trình, tôi xin ghi nhận những điểm quan
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, và đối ngoại. Vì ông Obama không phân chia bài nói của ông theo
từng vấn đề, mà nói trộn lẫn đề tài này xen với đề tài kia, nên tôi sẽ xin phép soạn theo bố cục của
mình để thính giả dễ theo dõi.
Trước hết, tôi xin nói qua về vấn đề xã hội và giáo dục.
Mở đầu, ông Obama nói rằng có lẽ dân chúng quan tâm về bầu cử hơn là theo dõi bản Thông
điệp. Sau đó, ông cám ơn Chủ Tịch Hạ Viện và các vị trong Quốc Hội đã thông qua Ngân sách và
cắt giảm thuế cho những gia đình lao động, và mong ước sẽ có được sự hợp tác hai đảng trong vấn
đề như cải cách Tư pháp Hình sự, giúp đỡ những người đang bị nghiện các loại thuốc.
Theo thông lệ, ông Obama đưa ra những dự định cho năm tới như giúp học sinh học viết thảo
chương điện toán trong việc điều trị bệnh nhân, sửa đổi luật di trú, bảo vệ trẻ em khỏi tai nạn súng
ống, công bình trong tiền lương, lương khi nghỉ phép, mức lương tối thiểu…
Về giáo dục, ông cho là có nhiều tiến bộ. Đó là gia tăng sự giáo dục cho trẻ em ở lứa tuổi sớm
hơn, mức tốt nghiệp trung học cao hơn, các môn học ngành kỹ sư cũng tăng lên. Trong tương lai,
phải tạo cho học sinh khả năng toán học và điện toán để họ sẵn sàng cho công việc ngay ngày đầu
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 37
tiên. Tuyển mộ thêm thầy giáo và ưu đãi giới dạy học. Ông đề nghị về đại học, phải giúp cho mọi
người để có đủ điều kiện khả năng tài chánh để theo học. Giảm mức hoàn trả tiền vay đi học
(Student loan) bằng 10% số lương sau khi ra trường. Cắt giảm học phí đại học, miễn phí cấp đại học
cộng đồng 2 năm.
Ông khoe rằng đã gia tăng chế độ an sinh xã hội, bảo hiểm sức khỏe. Đó là thành quả của
Affordable Care Act (tức Obamacare). Tính đến nay, có gần 18 triệu người được Obamacare. Tuy
nhiên ông ta cũng ghi nhận rằng nhiều người bất đồng về Obamacare.
Ông kêu gọi cùng làm việc để giải quyết vấn đề bảo hiểm y tế, an sinh xã hội, giải quyết nạn
nghèo khó.
Ông quan niệm rằng lãnh vực tư nhân là huyết mạch của kinh tế quốc gia và chủ trương phải can
thiệp thay đổi luật lệ điều hành (regulations) vì nó đã lỗi thời.
Nghiên cứu về y khoa cũng không kém quan trọng so với phát triển năng lượng sạch. Ông khoe
Hoa Kỳ đã tiến xa trong năng lượng sạch như các quạt gió, năng lượng mặt trời… để dần thay thế
những nguồn năng lượng gây ô nhiễm môi sinh và tăng độ nóng của điạ cầu. Nên nhớ rằng hành
pháp của ông coi sự thay đổi thời tiết là mối hiểm nguy hàng đầu hiện nay của Hoa Kỳ) được 200
nước trên thế giới quan tâm trong khi nhiều người Mỹ còn tranh cãi. Ông cho rằng “thay đổi khí
hậu” có ảnh hưởng đến nền an ninh của thế giới! Vì thế, vấn đề quan trọng thứ ba là làm sao cho
nước Mỹ an toàn và hùng mạnh mà không cần tự cô lập và không cố gắng can thiệp vào nội tình
những nước đang có vấn đề. Nói thế, chúng ta có thể hiểu rằng Obama chủ trương Mỹ để mặc cho
các nước với chế độ của họ mà không nên can thiệp để thay đổi.
Trong một đoạn về tình trạng thay đổi của quốc gia, ông phê bình những người chỉ lo sợ cho
tương lai mà muốn vãn hồi vinh quang trong quá khứ. Ông chê những người chỉ thấy hiểm nghèo mà
không thấy cơ hội. Ông nói rất mạnh miệng: “chúng ta đã nổi bật lên mạnh hơn và tốt hơn quá khứ”
(we emerged stronger and better than before.)
Ông khoe rằng qua 7 năm đã tạo nhiều tiến bộ như phục hồi nền kinh tế, cải thiện hệ thống bảo
hiểm y tế, tái tạo ngành năng lượng, chăm sóc đến các binh sĩ và cựu chiến binh, và bảo đảm tự do
hôn nhân (ý nói hôn nhân đồng tính)
Obama khi nói đến tương lai, đã đề ra 4 vấn đề lớn:
1.- Cơ hội bình đẳng và an toàn cho mọi người trong một nền kinh tế mới. (give everyone a fair
shot at opportunity and security in this new economy)
2.- Làm cho Kỹ thuật phục vụ mình chứ không làm hại mình. Ông muốn nhấn mạnh đến sự thay
đổi thời tiết. (make technology work for us, and not against us)
3.- Giữ cho Hoa Kỳ được an ninh, lãnh đạo thế giới, nhưng không làm vai trò cảnh sát. (keep
America safe and lead the world without becoming its policeman)
4.- Chính sách phải phản ánh những gì tốt đẹp của chúng ta (make our politics reflect what's best
in us)
Ông Obama ca ngợi sức mạnh hợp nhất của nước Mỹ - sự lạc quan, phong cách làm việc, tinh
thần khai phá, sáng tạo, sự đa dạng, và tôn trọng luật pháp – là những điều bảo đảm cho thịnh
vượng, an toàn cho nhiều thế hệ mai sau.
Khi nói về kinh tế, Obama khoe rằng Hiện nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh nhất, có nền kinh tế
bền vững nhất trên thế giới. Ông cũng khoe rằng các lãnh vực tư nhân đã tạo ra nhiều công ăn việc
làm. Đã có thêm 14 triệu công việc mới, cắt giảm mức thất nghiệp còn một nửa. Cắt giảm mức thâm
thủng ngân sách gần 3 phần tư. Nhưng rồi ông ta cũng thừa nhận các thay đổi về kinh tế đã làm cho
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 38
những gia đình lao động khó thoát ra khỏi cảnh nghèo khó; giới trẻ khó tìm việc và giới già lo âu khi
về hưu!
Tuy rằng qua 7 năm, kinh tế gia tăng đã tốt đẹp cho mọi người, nhưng cần tích cực hơn nữa.
Ông cho rằng trong dư luận coi kinh tế của các nước kẻ thù mạnh hơn lên trong khi kinh tế Mỹ
đang đi xuống. Theo ông, Hoa Kỳ là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Hoa Kỳ có ngân sách quốc
phòng nhiều hơn ngân sách của 8 nước kế đó cộng lại. Quân đội Mỹ là quân đội thiện chiến nhất
trong lịch sử nhân loại. Không nước nào dám tấn công chúng ta hay các đồng minh của chúng ta vì
nếu làm thế, họ biết rằng chỉ mang lại thảm bại. Ông tự mãn rằng vị trí của Hoa Kỳ trên thế giới hiện
nay cao hơn so với lúc ông mới nhậm chức. Và khi có các vấn đề nào đó, thì dân chúng trên thế giới
kêu gọi Hoa Kỳ lãnh đạo thay vì trông cậy vào Bắc Kinh hay Moscow. - (Chỗ này, chỉ lác đác vài
tiếng vỗ tay, trong khi sáu vị tướng cao cấp nhất ngồi im lặng, tỏ sự bất mãn).
“The United States of America is the most powerful nation on Earth. Period. It's not even close.
We spend more on our military than the next eight nations combined. Our troops are the finest
fighting force in the history of the world. No nation dares to attack us or our allies because they
know that's the path to ruin. Surveys show our standing around the world is higher than when I was
elected to this office, and when it comes to every important international issue, people of the world
do not look to Beijing or Moscow to lead — they call us.”
Tiếp đó, Obama nêu ra các ưu tiên sau đây:
1.- Ưu tiên số một là bảo vệ dân Mỹ, chống lại hệ thống khủng bố. Ông coi al-Qaeda và ISIS là
mối nguy trực tiếp. Nhưng ông cho rằng bọn này không đe doạ tiêu diệt nước Mỹ. Đó chỉ là luận
điệu bọn ISIS tuyên truyền để tuyển mộ thành viên mà thôi. (But they do not threaten our national
existence. That's the story ISIL wants to tell; that's the kind of propaganda they use to recruit. ) Vì
thế, chúng ta không cần phải coi quá trọng và cũng không đẩy ra các đồng minh thiết yếu khi lập lại
lời thất thiệt rằng ISIL là đại diện của một trong các tôn giáo lớn nhất hoàn cầu. Câu này có ý lên án
những ai dùng chữ đạo Islam khi nói đến bọn ISIL.
Ông khoe các chiến thắng của liên quân 60 nước do Mỹ cầm đầu tại Iraq và Syria với 10000
cuộc không tập đã loại khỏi vòng chiến bọn cầm đầu ISIS, phá hủy kho dầu, trại huấn luyện, và vũ
khí của chúng. Theo ông, liên quân đang lấy lại các vùng đất do ISIS chiếm đóng.
Dùng cái chết của Osama bin Laden và các lãnh tụ cao cấp khủng bổ bị ám sát, hay bọn khủng
bố Benghazi đang bị cầm tù, ông khoe công lao và thách thức Quốc Hội dù có hành động hay không,
thì ông cũng từng cho bọn khủng bố bài học xứng đáng. (But the American people should know that
with or without Congressional action, ISIL will learn the same lessons as terrorists before them)
Ông cho rằng không nên tham gia vào nội tình các nước đang khủng hoảng (take over and
rebuild every country that falls into crisis) vì nó sẽ dẫn đến sa lầy và hao tốn máu xương người Mỹ
như từng xảy ra tại Việt Nam và Iraq.
Ông coi cách giải quyết tại Syria là đúng đắn, khi vận động sự tham gia tích cực của các đồng
minh và lực lượng địa phương để giúp quốc gia bị tan tác này vãn hồi hoà bình lâu dài.
Vấn đề Iran, Obama cho rằng nhờ chính sách vận động ngoại giao của ông mà đã ngăn chặn Iran
trong việc thực hiện vũ khí hạt nhân, tránh cho nhân loại một cuộc chiến khác.
Obama cũng yêu cầu phê chuẩn cho Hiệp Ước Đối Tác Thái Bình Dương (TPP) mà theo ông là
đã dành tay trên của Trung Cộng. Ông cho rằng Hiệp Ước này bảo vệ nhân công lao động và môi
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 39
sinh và vai trò chủ đạo của Mỹ. Nó cắt 18000 thuế (?) trên sản phẩm làm tại Hoa Kỳ và gia tăng
nhiều công ăn việc làm.
Ông bào chữa việc bang giao với Cuba rằng Chiến tranh Lạnh đã qua đi rồi, cô lập Cuba không
giúp cho nước này dân chủ hoá.
Obama lên lớp rằng vai trò lãnh đạo của Mỹ trong thế kỷ 21 là sự sử dụng một cách thông minh
lực lượng quân sự, vận dụng các quốc gia khác trong những việc làm đúng. Coi việc viện trợ là một
phần bảo vệ an ninh quốc gia chứ không phải vì nhân đạo (It means seeing our foreign assistance as
part of our national security, not charity)
Obama lại khoe việc giúp đỡ Ukraine bảo vệ chế độ dân chủ, và giúp Colombia chấm dứt cuộc
nội chiến kéo dài hàng chục năm, giúp các nước Phi Châu giải quyết nạn đói và bệnh tật… thì đó
những việc làm để tránh những tệ nạn trên tràn vào Hoa Kỳ.
Ông lý giải việc đóng cửa trại giam khủng bố ở Guantanamo Bay là vì việc giam giữ này tốn
kém và không cần thiết mà chỉ làm cho bọn khủng bố có cơ hội tuyển mộ thêm người (it's expensive,
it's unnecessary, and it only serves as a recruitment brochure for our enemies). Câu giải thích thật
khó hiểu?
Trái với thường lệ, lần này bản Thông Điệp của Obama được in và phân phát ra
trước khi ông đến Quốc Hội trình bày. Vì thế, phản ứng cũng rất nhanh từ mọi giới,
nhất là các vị trong đảng Cộng Hoà. Bà Nikki Haley, Thống Đốc Tiểu Bang South
Caroline được coi là ngôi sao đang lên trong đảng Cộng Hoà đã có những lời bình
luận mà rất nhiều người đã khen là đánh một cú Slam dunk thành công (tức là đánh
thẳng, mạnh trực tiếp vào mục tiêu). Ký giả Frank Luntz cho rằng bài phản biện
của bà Haley hay hơn nhiều so với bài diễn văn của Obama.‟
Bà không phủ nhận tài hùng biện của Obama, nhưng cho rằng ông ta chỉ nói
hay mà thực tế, thành tích chẳng có bao nhiêu: "… tonight President Obama spoke
eloquently about grand things. He is at his best when he does that… Unfortunately, the president's
record has often fallen far short of his soaring words."
Trước hết, bà chê Obama thất bại trong vấn đề kinh tế, không
làm tăng được mức lợi tức, chương trình Obamacare làm cho người
ta không chịu đựng nổi sở phí và khó tìm bác sĩ chấp nhận loại bảo
hiểm y tế này. Bà cho rằng Obama tỏ ra thiếu khả năng hoặc không
có ý chí đương đầu với nạn khủng bố (this president appears either
unwilling or unable to deal with)
Theo bà, Tổng Thống Obama đã gây chia rẽ trong nước Mỹ là
điều chưa hề xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ do sự sai lầm trong các
vấn đề kinh tế, giáo dục và quốc phòng. Nhưng bà cũng rất thẳng
thắn thừa nhận rằng không chỉ Obama và đảng Dân Chủ, mà một phần lỗi cũng từ đảng Cộng Hoà
đã làm mất lòng tin ở quần chúng Hoa Kỳ và dẫn đến tình hình tan vỡ của chính phủ. Có đến 75% số
phiếu trong giới Cộng Hoà đã ủng hộ lời phát biểu của bà Haley. Và ngay cả phía Dân Chủ cũng có
đến 71% khen ngợi bà. Điều đó cho thấy bà đã nói lên những điểm chính xác.
http://talkingpointsmemo.com/livewire/nikki-haley-full-text-gop-sotu-response
Ông Mike Huckabee, Ứng cử viên Tổng Thống thuộc đảng CH cũng lên tiếng tố cáo Obama đã
tấn công vào người Công Giáo trong khi cúi đầu xin lỗi bọn Islam cực đoan. Ông Trump thì chê bản
Thông Điệp là nhàm chán. Ông Christie và vài ứng cử viên Cộng Hoà thì coi bản Thông Điệp chỉ
chứa những chuyện hoang đường.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 40
Vài nhận định riêng
1.- Điều nhận xét sơ về phong cách, thì Obama tỏ ra không mấy thoải mái và tự tin. Ông dùng
nhiều lần những chữ thông tục như các chữ: Hey, C‟mon, guys, mà các chính khách không bao giờ
dùng trong các bài diễn văn hay trò chuyện chính thức, nói chi đến một Tổng Thống (có lẽ chỉ thấy
Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng dùng chữ “ê” khi đập vào tay Thủ Tướng Pháp Jean-Marc
Ayrault để phàn nàn ánh nắng chiếu qua cửa, trong lần họp tại Paris mấy năm trước đây và đã được
truyền hình Pháp đưa ra diễu cợt). Ông Obama đã lặp đi lặp lại ít ra cũng vài ba lần các chữ trên .
Còn về thành tích, thì số việc làm được còn nhỏ so so với điều bất lợi thì quá lớn.
Dĩ nhiên, ông Obama cũng hoàn thành được nhiều việc trong 7 năm qua. Ông đã nêu ra một cách
tự hào, nhưng ông lại quên không đưa ra những bất lợi và nghịch lý. Điều này cũng dễ hiểu vì có ai
lại nói về thất bại bao giờ, nhất là ông Obama mà dư luận cho rằng không bao giờ nhận mình sai, và
cũng không nghe theo ý kiến của những chuyên viên cố vấn thân cận.
Vấn đề Crimea, Ukraine là những bước lùi làm cho uy tín và lời hứa cuả Mỹ bị coi thường.
Vấn đề không dám phản ứng mạnh như đã răn đe khi Syrian dùng vũ khí hoá học, cũng làm cho
kẻ địch coi thường và lấn tới
Việc rút quân tại Iraq khi nội tình nước này còn nhiều rối rắm, quân đội Iraq còn quá yếu kém và
chia rẽ cũng là một sai lầm nghiêm trọng đã đưa đến sự ra đời và phát triển của ISIS
Việc bỏ ra 500 triệu để chỉ huấn luyện được vài lính
Kháng chiến Syria là một sự phí phạm, tham nhũng đáng lên
án.
Ngay trước khi Obama đọc bản Thông điệp, đã xảy ra biến
cố Iran bắt giữ 2 tàu và 10 người lính Hải Quân Mỹ vì xâm
nhập vùng biển Iran. Họ đã đưa ra như công cụ tuyên truyền
hình ảnh những binh sĩ Hoa Kỳ bị lột áo, quỳ trên sàn tàu, hay
tay giơ cao; trong khi binh lính Iran thì lục lọi tịch thu vũ khí.
Hình ảnh này được coi là sự nhục nhã đối với một cường quốc
mà Obama khoe rằng hùng mạnh nhất về binh bị. Nếu xảy ra
vào thời các Tổng thống khác, chắc chắn không xảy ra sự kiện
nhục nhã này. Nhưng Obama đã không nói một tiếng trong thời điểm đó mà vài ngày sau thì lại
khoe là nhờ vào tình hình tốt sau khi thoả thuận bản thoả ước với Iran nên Iran đã thả các quân nhân
Mỹ. Thực ra Hoa Kỳ đã phải trao đổi 14 người Iran do Mỹ giam giữ vì vi phạm lệnh cấm vận trước
đó.
2.- Ông Obama tự mâu thuẫn với chính mình: Trong bài diễn văn, ông nhiều lần kêu gọi sự hợp
tác của Quốc Hội trong các lãnh vực. Sự thắng lợi của Đảng Cộng Hoà mùa thu năm ngoái đã cho
Hành pháp thấy rằng những nghị trình của Obama đã không được ủng hộ của Quốc Hội. Và để đối
phó, Obama đã sử dụng mạnh quyền ban hành quyết định hành chánh để thực thi cho được điều ông
ta đã đề ra dù có bị phản đối bởi dư luận.
Thật ra qua suốt 7 năm cầm quyền, ông đã đơn phương ban hành nhiều quyết định hành chánh
đối với những vấn đề trọng yếu này khi Quốc Hội không đồng ý. Điển hình là luật Obamacare thông
qua sát sao khi Quốc Hội do Dân Chủ chiếm đa số, Obama đã không đếm xỉa đến việc 60% người
dân không đồng ý và ông cũng rất nhiều lần đe dọa sẽ Veto nếu Quốc Hội hiện nay thông qua việc
hủy bỏ đạo luật này, cũng như sẽ veto những luật lệ khác như di dân, điều hành thị trường chứng
khoán mà ông không đồng ý với Quốc Hội.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 41
Ông cũng thề sẽ đẩy mạnh những chính sách mà đảng Cộng Hoà phản đối, ông kêu gọi những
biện pháp mạnh để chống lại “sự thay đổi thời tiết” và nói rằng sẽ không chịu lùi bước trong vấn đề
di dân. Nhiều người đã cho rằng Obama hành xử như một vị vua thời quân chủ chuyên chế.
Nhiều nhà bình luận đã cho rằng ông Obama tối hôm đó đã là hiện thân của hai người khác nhau:
Một tỏ ra lạc quan, nhưng một Obama khác lại phát lên những lo lắng bi quan mâu thuẫn.
Khi thì tỏ ra thắng lợi, nhưng cũng khi thì bị ngập chìm vùng vẫy trong cuộc chiến đấu. Khi thì
khoe kinh tế vãn hồi, nhưng có lúc lại nói đến khó khăn mà giới lao động Mỹ đang chịu đựng. Khi
thì hứa hẹn chấm dứt tình trạng politics và phân hoá hai đảng; nhưng lúc thì dọn đường tấn công
những thành viên đảng Cộng Hoà đối lập. Một mặt, Obama kêu gọi cùng nắm tay, mặt khác thì ông
bảo cử tri hãy chọn một bên để đứng về phía đó.
Ông kêu gọi bỏ qua bên sự phân hoá “I still believe that we are one people.” Nhưng cùng lúc,
ông không chối rằng chính ông là người không tôn trọng sự đối lập khi những quyết định hành
chánh của ông ta đã vượt ra khỏi phạm vi Quốc Hội. Có nghĩa Obama đứng trên những ý kiến đối
lập, tự quyền tự quyết trong rất nhiều vấn đề mà đã đưa Quốc Hội đến sự phân hoá nghiêm trọng.
Như việc tăng quá cao mức thuế đánh vào người giàu có; tạo ra những điều lệ (regulations) và nới
rộng quyền lợi người nghèo mà đảng Cộng Hoà đã ngăn chặn.
Ông ta như tự đề cao những thắng lợi của mình. Vừa tự khen thành công “Một năm xuyên phá về
kinh tế” (a breakthrough year for the economy), thì vài giây sau đưa ra hình ảnh một đôi vợ chồng
không có khả năng thực hiện chuyến du lịch và nợ tiền học còn chồng chất, vì tiền gửi con cái (child
care) còn tốn kém hơn nợ nhà (mortgage). Về an ninh, ông nói: “Bóng đêm khủng hoảng đã đi qua”
(The shadow of crisis has passed), nhưng liền đó “cần phải có thời gian để đánh bại ISIS ở Syria và
tìm cách ngăn chận bọn hacker Bắc Hàn.
Trong bảy năm qua, ông luôn tự cho mình là đúng mà không nghe những lời cố vấn của những
người xung quanh, hoặc những bình phẩm trên các truyền thông. .
Qua bản Thông Điệp ông tỏ ra có tham vọng không chỉ cho năm 2016, mà cả 2018, 2020 và cả
những cuộc bầu cử tương lai xa hơn. “It’s now up to us to choose who we want to be over the next 15
years, and for decades to come,” Trong chính trị, chữ Choose có nghĩa là Vote.
Có thể nói Obama đã cố tình quên những số liệu kinh tế mà ai cũng có thể tìm ra.
Cho dù có biện minh thế nào, thì bản thông điệp của Obama vừa qua ít nói đến những đề nghị
tương lai mà lại đưa ra nhiều vấn đề có thể đưa đến tranh cãi. Gần như trong tất cả các bản Thông
điệp hàng năm, Obama chỉ có một cái nền: đó là sự vùng vẫy của giới trung lưu mà ông có thể giải
quyết nếu không bị đối thủ ngăn cản.
Bài diễn văn nghe qua cũng rất hay. Lạ gì khi ông Community Organizer mười năm trước đây,
đã nhờ tài đọc diễn văn tại Đại Hội Đảng Dân Chủ mà sáng giá để nhảy vọt vào Toà Bạch Cung dù
chưa hề có chút kinh nghiệm hành chánh và chính trị nào. Ông đã làm bộ quên những sự thật phủ
phàng khi ca ngợi thành quả kinh tế tăng trưởng, giải quyết nạn thất nghiệp, giảm thâm thủng ngân
sách. Thực tế, kinh tế Mỹ ngày nay ra sao?
Nếu chịu khó vào trang web http://www.usdebtclock.org/, quý vị sẽ đọc đầy đủ các số liệu về
kinh tế Hoa Kỳ, nó thay đổi từng khoảnh khắc của 1 giây, vì nó được nối liền với Trung Tâm Thống
Kê chính thức của chính phủ. Chúng tôi xin đưa ra các con số ghi nhận ba ngày trước đây:
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 42
1.- Nợ Quốc Gia, khi ông Bush bàn giao, số nợ này
là 7800 tỷ đô la. đến 17/1/2016, sau 7 năm cầm quyền
của Obama, nó lên tới $18 ngàn 900 tỷ, cao hơn lợi tức
Quốc Gia GDP ($18 ngàn 201 tỷ). Nếu chia đều, mỗi trẻ
em sinh ra hôm nay phải gánh chịu 39 ngàn 500 đô la.
(so với thời ông Bush là 19 ngàn 900). Trong hình đính
kèm bên đây, chỉ tính đến 2013. Chúng tôi thêm một
phần bên phải để phản ảnh mức nợ vào đầu năm 2016.
2.- Mức thâm thủng là $444 tỷ 417, coi như ngang
bằng hồi 2008. Theo tôi đây là một phần do sự cắt giảm
ngân sách Quốc Phòng là điều không thể làm khi tình
hình an ninh thế giới có nhiều đe doạ. Trong khi hai đối thủ lớn là Nga và Trung Cộng gia tăng vượt
mức quốc phòng.
3.- Tình hình nợ nần của công dân Mỹ ra sao? Nợ cá nhân $17383 tỷ, nợ nhà: $12458 tỷ, nợ tiền
học: $1328 tỷ, nợ thẻ tín dụng: $938 tỷ. Tính đổ đồng, mỗi công dân mang nợ $53842 đô la.
4.- Dân số Hoa Kỳ hiện nay là 322,853,497 người; Số người lao động là: 150.049,977. Trong đó,
122,729,518 có việc làm thường xuyên và 27,354,996 người làm bán thời gian.
Trong khi mức thất nghiệp theo chính phủ: 7,865,128 người; trong thực tế con số lên đến:
15,534,969 người. Tại sao có sự sai biệt này? Đó là do rất nhiều người sau khi hết hạn khai xin trợ
cấp đã bỏ cuộc, và Bộ Lao Động chỉ tính số người có đơn xin trợ cấp hiện tại mà thôi. Chưa nói đến
các vận dụng tính toán (manipulate) sao cho lạc quan của cơ quan nhà nước.
5.- Lợi tức trung bình của dân Mỹ coi như không tăng so với mười lăm năm trước (2000:
$28,144; bây giờ: $29,109.) Trong khi rất bi quan về số lượng người nhận Benefits: 160,909,394. Số
người nhận Medicare 56,672,665; Medicaid: 72,515,455; Sống ở mức nghèo khó: 46,234,973; Nhận
phiếu lương thực: 45,124,117, Không có bảo hiểm y yế: 41,075,467.
Như vậy, đây là bức tranh không mấy trong sáng như lời ông Obama khoe thành tích 7 năm..
http://www.usgovernmentspending.com/federal_deficit_chart.html
Và cũng xin nêu ra một sự kiện để suy ngẩm: Theo nghiên cứu mới nhất về mức giàu có (tủ lệ
GDP quốc gia so với GDP toàn thế giới), Hoa Kỳ đã tụt từ 31% xuống còn 22% trong 10 năm qua;
trong khi Trung Cộng tăng từ 4% lên 13%).
Ông Obama rằng Mỹ không nên can dự vào nội tình các nước khác
Đây là những nhận thức sai lầm về tình hình thế giới của Obama:
Obama đã thiếu sự phân tích kỹ lưỡng khi cho rằng không nên tham gia vào nội tình các nước
đang khủng hoảng (take over and rebuild every country that falls into crisis) vì nó sẽ dẫn đến sa lầy
và hao tốn máu xương người Mỹ như từng xảy ra tại Việt Nam và Iraq. Thật ra sự sa lầy là do sự can
thiệp quá sâu của Mỹ mà không quan tâm đến tình hình chính trị, bản sắc văn hoá của các nước đó.
Cộng thêm sự bất nhất trong chính sách của Mỹ do sự thay đổi hành pháp và lập pháp 4 năm một
lần, cũng như do nhu cầu tranh cử giữa hai đảng Cộng Hoà và DânChủ. Tại Việt Nam, người Mỹ khi
đến VN, nước ta đang chuyển hoá từ chế độ quân chủ lạc hậu, thù trong địch ngoài. Hoa Kỳ nôn
nóng muốn phải áp dụng nền dân chủ kiểu Mỹ mà không cho đủ thời gian để nâng cao dân trí, và
không lý đến sự lạm dụng, phá hoại của VC trong chiến tranh nhân dân. Mỗi lần một Tổng thống
mới lên thay, thì chính sách lại thay đổi trong khi Bắc Việt chỉ có 1 chính quyền Cộng Sản, kiên trì
hàng chục năm. Cũng như tại Iraq. Sau khi hạ bệ Saddam Hssein, đã giải tán đảng Baath, dựng lên
chính phủ Malaki của nhóm Shia, đàn áp nhóm đa số Sunni, và đã đưa đến sự thành lập al Qaeda.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 43
Về vấn đề Syria mà ông cho rằng đã hành xử đúng khi vận động sự tham gia tích cực của các
đồng minh và lực lượng địa phương để giúp quốc gia bị tan tác này vãn hồi hoà bình lâu dài. Sự thật,
Syria đang là một sự bát nháo, các phe phái đánh nhau đẫm máu mà Hoa Kỳ đã chỉ ủng hộ một
nhóm kháng chiến nhỏ, mất 500 triệu chỉ huấn luyện được vài ba chiến binh. Nga đã thấy sự suy yếu
đó mà nhảy vào ủng hộ Tổng Thống Assad (mà Mỹ muốn loại bỏ, nhưng không dám làm) và đánh
cả vào đám kháng chiến do Mỹ ủng hộ. Chính sự can thiệp của Nga, chứ không phải Mỹ, làm thay
đổi phần nào cán cân lực lượng tại Syria.
Qua vấn đề Iran, Obama cho rằng nhờ chính sách vận động ngoại giao của ông mà đã ngăn chặn
Iran trong việc thực hiện vũ khí hạt nhân, tránh cho nhân loại một cuộc chiến khác. Sự thật, Thoả
ước giữa Mỹ và Iran là một bước lùi rất nghiêm trọng. Chính Obama cũng nói rằng ông bất cần ý
kiến của Quốc Hội trong đó có các thành viên Dân Chủ cũng phản đối lại ông ta về việc ký thoả ước
với Iran. Rõ ràng Hoa Kỳ đã phải nhượng bộ bằng cách bỏ cấm vận, viện trợ hàng tỷ cho Iran, trong
khi Iran chỉ tỏ ra bên ngoài sự ngưng thí nghiệm, ngưng xây dựng vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn còn
khẩu hiệu “Death to America” vang lên hàng ngày tại thủ đô Teheran. Và cũng như nhiều lần trước,
họ che đậy các hoạt động về hạt nhân mà các đoàn thanh tra quốc tế khó đến được để xem xét.
Obama cũng không giải thích thế nào khi nói rằng Hiệp Ước Đối Tác Thái Bình Dương giúp
tăng gia công ăn việc làm ở Mỹ. Và cũng không thể giải thích tại sao việc duy trì nhà tù Guantanamo
lại là giúp cho bọn ISIS tuyển mộ thêm thành viên. Trong khi thực tế, hầu hết các tên tù thả ra đều
trở lại hàng ngũ khủng bố. Đó là chưa kể việc trao đổi tù nhân giữa Mỹ và khủng bố al Qaeda,
Taliban và Iran thường là thất lợi và lép vế về phía Mỹ.
Trong phần kết luận, Obama cũng thú nhận một trong những sự tiếc nuối của ông là sự nghi kỵ
và phân hoá giữa hai đảng đã trầm trọng mà theo ông hoạ may có các vị Tổng Thống giỏi như
Lincoln hay Roosevelt mới có khả năng hàn gắn.
Nếu ai còn nhớ, thì sự phân hoá này trầm trọng thêm lên và coi như vô phương cứu chữa trong
thời kỳ của Obama, vì do sự bướng bỉnh và biết đâu, mục tiêu thầm kín nào đó của Obama không đi
chung với mục tiêu của đất nước Hoa Kỳ. Cũng nên nhớ rằng chưa có thời Tổng Thống nào mà
nhiều Bộ Trưởng, Tư Lệnh quân đội từ chức hay bị bãi chức nhiều như thời kỳ 7 năm qua.
Cũng phải nói đến tình hình phân chia chủng tộc giữa đen trắng đang ở thời kỳ nghiêm trọng.
Obama thay vì hàn gắn, đã tỏ ra thiên vị làm cho ngành Cảnh sát bất lực.
Theo một bản thăm dò của Rasmussen vào đầu tháng 1-2016 thì chỉ có 28% cử tri nghĩ rằng
nước Mỹ đã đi đúng đường so với 67% nói ngược lại; và chỉ có 22% thừa nhận đã tốt hơn về tài
chính so với 36% thấy tệ hơn, và hầu hết lo sẽ tệ hơn trong thời gian tới. Có đến 70% người dân Mỹ
không đồng ý với những lạc quan ông Obama nêu ra trong bản Thông điệp.
Xin dùng câu nói của Dân biểu Cathy McMorris Rodgers (Wash.) để kết luận cho phần trình bày
hôm nay: “Có quá nhiều người dân bị bỏ lại càng ngày càng xa ở đàng sau bởi vì, hiện nay, các
chính sách của Tổng Thống [Obama] đã làm cho người ta sống khó khăn hơn” (Too many people
are falling further and further behind because, right now, the president‟s policies are making
people‟s lives harder)
https://www.washingtonpost.com/politics/mcmorris-rodgers-comes-through-for-gop-in-response-to-
state-of-the-union/2014/01/29/3e8f3dd0-88b1-11e3-833c-
33098f9e5267_story.htmlhttps://www.washingtonpost.com/politics/mcmorris-rodgers-comes-
through-for-gop-in-response-to-state-of-the-union/2014/01/29/3e8f3dd0-88b1-11e3-833c-
33098f9e5267_story.html
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 44
Vấn Đề Di Dân Bất Hợp Pháp: An Toàn Xã Hội và An Ninh Quốc Gia
A. Dẫn Nhập:
Di dân là vấn đề xưa như trái đất. Lịch sử nhân loại là lịch sử những cuộc di dân. Các quốc gia
đa số hình thành do chiếm đất và di dân. Hàng vạn năm trước, người Mông Cổ đã vượt eo biển
Bearing, qua Alaska tràn vào Bắc Mỹ để sinh sống. Hậu duệ của họ là người da đỏ hiện nay. Nước
Việt Nam chúng ta cũng hình thành từ di dân. Sau khi trăm bộ lạc Việt mà thủ lãnh là Xuy Vưu bị
Hoàng Đế và bộ lạc từ miền Tây sông Dương Tử đánh bại, hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt ở miền
Hoa Nam toả xuống đồng bằng sông Hồng lập ra nước Âu Lạc mà ngày nay là nước Việt Nam
chúng ta.
Di dân có thể do kinh tế, đi tìm nơi khí hậu ôn hoà, đất đai trù phú để sinh sống. Di dân có thể vì
tránh sự ngược đãi về chính trị, tôn giáo. Gần 300 năm trước đây, người Tây Ban Nha đã đi tìm
vàng, tìm tài nguyên mà khám phá ra châu Mỹ. Người Anh, Tô Cách Lan, Đức… bị kỳ thị tôn giáo
mà di cư lập nghiệp ở nước Mỹ hiện nay, sau đó kéo theo những người Âu châu khác và cả Á Châu
(người Tàu là một sắc dân Á châu đến Mỹ trước tiên, vào thời Tây tiến). Di dân cũng do tị nạn
chính trị, mà điển hình nhất là dân Đông Dương sau khi Cộng Sản chiếm hết 3 nước Việt, Miên và
Lào. Hiện nay, hàng triệu người Syria đang chạy trốn chiến tranh và khủng bố ISIS. Họ tràn ngập
vào các nước Âu Châu gây nên sự xáo trộn và đe dọa an ninh tại khu vực này. Thủ Tướng Đức trước
đây mạnh miệng tuyên bố sẽ nhận vào Đức 800 ngàn tị nạn Syria, nay đã chùn tay vì số dân này khó
hoà đồng vào văn hoá Âu Châu, và nhất là bọn khủng bố trà trộn vào đó tạo nên mối đe dọa thường
trực, mà cuộc tấn công tại Paris mới đây là một dấu hiệu.
B. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ:
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 45
Nhiều quốc gia đã được tạo thành bởi nhiều sắc tộc khác nhau sống trên một địa bàn lãnh thổ.
Các sắc tộc này không quá cách xa về văn hoá. Họ dung hợp, đồng hoá với nhau để tạo một dân tộc
mới. Hiện tượng này gọi là Melting Pot. Dân Mỹ đặc biệt hơn, được tạo thành bởi hàng trăm sắc dân
khác nhau từ Âu, sang Phi, sang Á và thổ dân da đỏ. Từ những chủng tộc, màu da và nền văn hoá
hoàn toàn khác xa nhau, họ đã trộn chung lại, hoà nhập (assimilation) để thành một dân tộc Hoa Kỳ
(Americanization) với những nét đặc trưng. Người Mỹ đã dùng hai chữ Melting Pot vào khoảng năm
1908 cho hiện tượng này. The melting pot is a metaphor for a heterogeneous society becoming more
homogeneous, the different elements "melting together" into a harmonious whole with a common
culture. It is particularly used to describe the assimilation of immigrants to the United States
Nhưng từ thập niên 1910‟s, người ta cổ vũ cho từ ngữ Đa Văn Hoá (multiculturalism) và hiện
nay, thì thay thế bằng chữ Đa Dạng (Diversity) vì chủ trương tôn trọng và bảo tồn các nền văn hoá
khác nhau của các sắc dân.
1. Di Dân Hợp Pháp ở Mỹ:
Nước Mỹ đất rộng, nhiều tài nguyên. Dân Mỹ rộng rải, độ lượng. Nước Mỹ muốn thu nhận nhân
tài của nhân loại, và tăng cường sức lao động để khai thác tài nguyên. Do đó, việc di dân từ các nước
đến Mỹ luôn được cổ vũ. Hàng năm, chính phủ Hoa Kỳ đều ấn định một số lượng di dân đến Mỹ và
thêm vào những thành phần khác như tị nạn, đoàn tụ, làm việc… Nhưng di dân phải đến Hoa Kỳ
theo một tiến trình hợp pháp, tuân thủ các thủ tục hành chánh và được chính phủ cho phép chứ
không phải vượt qua biên giới trái phép như các dân Trung và Nam Mỹ, mà đại đa số là từ Mexico.
2. Di Dân Bất Hợp Pháp:
Hàng năm, có cả triệu người từ nhiều quốc gia di dân bất hợp pháp vào Hoa Kỳ; nhưng đông
nhất là dân Mexico.
Từ sau thập niên 1980‟s, số dân vượt biên lậu vào Mỹ từ Mexico qua biên giới phía Nam đã trở
thành một vấn nạn trầm trọng. Theo tài liệu của chính phủ Mexico, thì trong 2 năm 2004, 2005, có
hơn 200 ngàn người Mễ vượt biên lậu vào đất Mỹ (con số này có thể rất thấp so với thực tế ước
chừng lên tới hàng triệu người.)
Tuy nằm sát Hoa Kỳ, Mexico là một nước nghèo và bất ổn. Có hơn 40% dân sống trong hoàn
cảnh đói nghèo. Tuy mức thất nghiệp chỉ ở 4%, một phần tư số người có việc cũng không làm đủ
thời gian cần thiết (underemployed) và mức lương thấp nên không đủ sống. Thêm vào, bọn trùm ma
túy hoạt động tranh giành nhau gây nên những cuộc thảm sát xảy ra như cơm bữa. Ký giả, cảnh sát
cũng không thoát khỏi danh sách thủ tiêu của bọn trùm này. Vì thế, dân Mexico phải trốn qua nước
láng giềng giàu có là Mỹ để mong tìm công ăn việc làm, thực hiện giấc mơ Hoa Kỳ (American
Dream) Trước năm 2007, Cảnh Sát Biên Phòng Mỹ bắt giữ khoảng 1 triệu người vượt biên mỗi năm.
Sau đó thì có giảm đi (xuống còn vài ba trăm ngàn) do việc xây bức tường biên giới và gia tăng canh
gác với những phương tiện điện tử tối tân. Nhưng nên nhớ đây là con số bị phát hiện và bắt giữ, còn
con số thoát được vào nội địa Mỹ chúng ta chưa biết được là bao nhiêu. Gần đây, lại thêm trò đưa trẻ
em qua biên giới mà không có phụ huynh đi kèm. Mục đích là tạo một nhịp cầu để sau này, bọn trẻ
này sẽ bảo lãnh cha mẹ qua Mỹ. Hoa Kỳ vì nhân đạo, buộc phải cưu mang cho số trẻ em này.
3. Số Liệu: Sau đây là vài con số về di dân ở Mỹ:
Di dân hợp pháp mỗi năm từ hàng chục ngàn đến hơn 1 triệu.
Từ năm 1989 và những năm tiếp đó cũng xấp xỉ trên dưới 1 triệu.
Cao nhất là năm 1991 có 1,826,595 người nhập cư.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 46
Trong 10 năm từ 1990 đến 1999 có tổng cộng 9,775,398 người nhập cư, cao nhất là từ các nước
Châu Mỹ Latin (5,137,142), kế đó là Á Châu (2,859,899), Âu Châu (1,349,219), , Phi Châu
(346,410), Châu Đại Dương và Úc (56,800).
Từ năm 2000 đến 2013 có 990,553 người.
Năm 2013 có: Châu Mỹ Latin (399,380), Châu Á (389,301), Châu Phi (94,589), Châu Âu (91,095),
và Châu Úc (6,061).
Số liệu di dân bất hợp pháp:
Con số bị bắt nhập cư trái phép: từ 1971 đến 2013, trên 600,000 đến gần 2 triệu mỗi năm (cao nhất
1,814,729 năm 2000).
Năm 2013, cơ quan công lực Mỹ bắt giữ 662,483 người bất hợp pháp, cao nhất là từ các nước Trung
và Nam Mỹ (642,345) trong đó Mexico có 424,978 người, kế đó là từ Châu Á (10,771) Châu Âu
(4447) Châu Phi (3772).
Năm 2013, con số bị trả về hay tống xuất là 616,792 người, trong đó vì phạm pháp là 438,421 (gồm
Criminal hay non-criminal), cao nhất là dân Mỹ Latin 432,045 (có 314,904 là dân Mexico).
Con số di dân bất hợp pháp tính vào năm 2014 là 11,300,000 người (có 5,100,000 người Mexico).
Số dân này chiếm 5.1% lao động ở Mỹ; 6.5% học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 có phụ huynh là di
dân BHP. Di dân BHP sanh ra 295,000 trẻ em.
Cũng năm 2014 , Hoa Kỳ trục xuất 315,943 người với các lý do phạm tội hình sự (225,390), bị truy
nã (10423), tái nhập cư BHP (86405), đuổi khi bị bắt tại biên giới (69975) các trường hợp khác
(17674).
4. Phản Ứng của Người Mỹ về Di Dân Bất Hợp Pháp:
Hiện nay có 90% cử tri coi vấn đề di
dân BHP hiện nay là một trong những đề
tài chính quan trọng nhất được đề cập
trong các cuộc tranh luận bầu cử.
http://www.alipac.us/illegal-
immigration-facts-statistics/
Có hơn một nửa ủng hộ việc lập
đường dây điện thoại để báo các các hoạt
động nhập cư BHP cho chính quyền, và
truy tầm những người BHP (dù không
phạm pháp) để trục xuất ra khỏi nước.
Ngay cả trong đám dân gốc Hispanic,
cũng có 2/3 số người chống lại các chiến
dịch nhằm gia tăng lượng dân nhập cư
vào Hoa Kỳ.
Có 83% người Mỹ tin rằng những người nhập cư phải chứng minh sự hợp pháp của họ trước khi
được hưởng các phúc lợi (giáo dục, y tế, xã hội…) 62% cho rằng Hoa Kỳ chưa làm đủ mạnh tay
trong việc tống xuất di dân BHP, và 54% muốn rằng các trẻ em do dân BHP sinh ra không được
hưởng quyền đương nhiên trở thành công dân HK (birthright citizenship)
5. Tại Sao Không Chấp Nhận Di Dân Bất Hợp Pháp.
Hai lý do chính mà chúng ta sẽ đề cập đến: An Toàn Xã Hội và An Ninh Quốc Gia
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 47
"The simple truth is that we've lost control of our own borders, and no nation can do that and
survive."
– Ronald Reagan
1.- An Toàn Xã Hội:
Nước Mỹ là một quốc gia tôn trọng pháp luật. Vì đã có chính sách di dân rộng mở, người Mỹ
muốn rằng di dân phải đi qua các thủ tục căn bản để được thừa nhận. Những người di dân BHP trước
tiên đã biểu thị sự bất tuân luật pháp Hoa Kỳ, thì làm sao mong họ sẽ sống và làm việc theo pháp
luật sau này.
Những di dân hợp pháp, đặc biệt như người Việt Nam ồ ạt nhập cư Mỹ sau 1975 đã chứng minh
tinh thần cầu tiến, thượng tôn pháp luật. Tuy hoàn toàn xa lạ với văn hoá Tây phương, văn minh Âu
Mỹ và trở ngại lớn về hàng rào ngôn ngữ, người Việt chúng ta đã thích ứng nhanh chóng vào xã hội
Mỹ. Đại đa số người Việt chỉ nhận trợ cấp xã hội một thời gian ngắn rồi ổn định công ăn việc làm,
mua nhà cửa và đóng thuế cũng như thi hành các nghĩa vụ khác như bất cứ công dân Mỹ nào khác.
Trong khi đó, thì đa số dân nhập cư từ Mỹ Latin, do sự pha giống bởi người Tây Ban Nha với
thổ dân và nô lệ da đen (vì ngày xưa, các tay phiêu lưu Tây Ban Nha đến Mỹ Châu mà không mang
theo phụ nữ), có quan điểm, cách sống và cư xử khác với người gốc Âu Châu. Họ có sức khoẻ dẻo
dai và chấp nhận các công việc tay chân nặng nhọc ngoài trời mà người dân khác không muốn làm
(đây cũng là lý do mà Hoa Kỳ rất cần người Mexico để trám vào các loại công việc này)
Nhưng đáng quan tâm nhất là ngoài số dân Mexico hiền lành, lại nhiều người thuộc các băng
đảng, buôn lậu ma túy, giết người. Bên kia biên giới Mỹ Mễ, mỗi ngày các băng đảng trùm ma túy
giết nhau như ngoé trong khi cảnh sát Mễ thì hoặc bất lực, hoặc thông đồng để kiếm tiền. Hoa Kỳ
giàu có, lại phóng khoáng về đời sống, đã là một thị trường béo bở cho kinh doanh ma túy. Có hàng
trăm tấn ma tuý đủ loại từ Mexico đưa qua Mỹ bằng đủ mọi cách: dấu trong bộ phận xe, bằng tàu
ngầm tự chế, bằng ghe thuyền, chuyển bằng các đường hầm dài nhiều dặm đào thông qua biên giới
hay qua những kẻ vượt biên.
Vì thế, trong hàng trăm ngàn người vượt biên, làm sao chúng ta phân biệt được ai là ngưiờ lương
thiện, ai là những tên buôn lậu ma túy, tên tội phạm hung ác…
2.- An Ninh Quốc Gia.
Hoa Kỳ đang đương đầu với khủng bố Hội Giáo Cực Đoan. (TT Obama và Hillary Clinton nhất
định không dùng chữ Hồi Giáo Cực Đoan). Từ sau khi đánh dẹp bọn Taliban, tái lập nhà nước
Afghanistan, rổi lật đổ Saddam Hussein, lập chế độ mới tại Iraq, tưởng có thể tạm ổn. Nhưng ngay
trong nội bộ người đạo Hồi lại chia rẽ, quay ra đánh nhau. Nhóm Shite đánh với Sunni. Syria có
nhiều phe phái đánh lẫn nhau và chống lại chính phủ. Rồi Cách Mạng Mùa Xuân Ả Rập lật đổ độc
tài ở Tunisia, Lybya, Egypt… Khi TT Obama rút quân ở Iraq, cho rằng tình hình đã ổn định; thì
không ngờ chỉ một thời gian rất ngắn, đã dấy lên nhiều nhóm khủng bố mới, mà mạnh nhất và hung
ác nhất là nhóm tự nhận là “Nhà Nước Islam ở Syria và Iraq” viết tắt là ISIS. Bọn này thù ghét Tây
Phương và Thiên Chúa Giáo vô cùng. Chúng lại phát triển rất nhanh, hiện đã chiếm nhiều vùng đất
của Syria và Iraq. Bàn tay chúng vươn ra thêm nhiều tổ chức khủng bố khắp các nước Ả Rập, Bắc
Phi. Chúng cũng có cơ sở tại Âu và Mỹ Châu để tuyển mộ và tung ra chiến dịch khủng bố. Đã có
nhiều thanh niên nam nữ từ Âu Mỹ tìm đến Syrie để gia nhập ISIS. Đa số là dân gốc Phi Châu Hồi
Giáo. Mới nhất là vụ đánh bom và bắn vào dân Pháp tại 6 địa điểm trong một buổi tối ngày 13/11
vùa qua, làm cho 129 người chết và hàng trăm người bị thương. Đây là vụ nghiêm trọng thứ hai tại
Pháp sau khi bọn khủng bố tấn công hai nợi ở Paris năm ngoái, giết chết cả hơn chục người. Tại Úc,
Đan Mạch, Anh, Đức… đã xảy ra những vụ khủng bố do bọn cực đoan này.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 48
Tại Hoa Kỳ, khủng bố Hồi giáo xem như bát đầu bằng vụ Ramzi Yousef dùng xe bom đánh vào
Trung Tâm Thương Mại Thế Giới WTC (World Trade Center) giết chết 6 người và làm bị thương
hơn 1000 người khác.
Cũng tại WTC, ngày 11 tháng 9, 2001, bọn khủng bố Hồi đã highjack 2 phi cơ chở khách để đâm
vào đánh sập toà tháp đôi, cùng lúc với một phi cơ khác đâm vào Ngũ Giác Đài và một chiếc rơi
trên một khu đất trống ở Pennsylvania. Vụ này giết chết xấp xỉ 3000 người. Đó là thời của nhóm Al
Qaeda.
Từ hai chục năm qua, rải rác năm nào cũng có những vụ khủng bố lớn nhỏ do bọn Hồi cực đoan
gây ra trên đất Mỹ, nếu chỉ liệt kê ra đây, cũng mất vài trang giấy.
Đáng kể là vụ Thiếu Tá Nidal Hasan xả súng bắn vào quân nhân ở Fort Hood, Texas, vào tháng
11, 2009, gây tử vong cho 13, làm bị thương 29 người. Rồi qua vụ 2 thanh niên di dân Nga gốc
Chechen đặt bom tại mức đến của cuộc đi bộ Marathon ở Boston, Massachussetts, làm chết 3, bị
thương 180 người khác. Và rùng rợn nhất là vụ tên Alton Nolan chặt đầu một nữ nhân viên đồng
nghiệp tại một cơ sở phân phối thực phẩm ở thành phố Moore, Oklahoma.
Ngày nay bọn ISIS cũng đã xâm nhập vào Hoa Kỳ qua nhiều ngõ ngách như di dân hợp pháp và
bất hợp pháp.
Trở lại vấn đề di dân từ Mexico
Biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico dài đến 1954 dặm, qua nhiều vùng đồi núi lởm chởm, sa mạc
hoang vắng. Việc phòng thủ dựa vào các đoạn có xây tường cao, các thiết bị điện tử và cơ quan
Cảnh Sát Biên Giới (Border Patrol) gồm hơn 20 ngàn nhân viên. Tổng cộng có 45 trạm kiểm soát
hỗn hợp (Crossing) Mỹ Mễ và 330 cửa khẩu (Entry ports). Đây là biên giới có mức độ người qua lại
cao nhất thế giới. Hàng năm có trung bình 5 triệu xe cộ, và cả chục triệu người qua lại. Nhưng cơ
quan an ninh thú nhận chỉ có khả năng kiểm soát hữu hiệu khoảng 700 dặm mà thôi. Tháng 1 năm
2013, Sở Lượng định của chính phủ đưa ra một báo cáo xác nhận rằng trong năm 2011, cơ quan
Cảnh Sát Biên Giới chỉ phát hiện khoảng 61% số người vượt biên bất hợp pháp. Như vậy con số di
dân lậu không bị phát hiện là gần 209 ngàn người; trong số này có 85,827 người thoát được vào Mỹ,
và số còn lại thì chạy ngược về Mexico.
Do việc kiểm soát biên giới khó lòng chặt chẽ, bọn Hồi Giáo cực đoan chắc chắn không bỏ qua
cơ hội mướn bọn coyotes Mễ (people smuggling) để đưa tìm cách đưa người theo đường di dân lậu.
Đó là chưa kể việc chuyển người và vũ khí bằng đường biển, qua các hải cảng mà khối lượng luân
lưu là hàng vạn thùng containers mỗi ngày. Quý vị thử nghĩ có phương kế gì để kiểm soát thật kỹ
cho hết số thùng này?
Ngoài ra, chúng ta cũng biết nhiều tin về việc kiểm soát lỏng lẻo của cơ quan An Ninh Giao
Thông TSA tại các phi trường. Đã có nhiều vũ khí, kể cả súng tiểu liên đi lọt qua khu khám xét để
đưa lên phi cơ (vụ ở phi trường Pennsylvania trên chuyến bay đi New York). Nhân viên các hãng
máy bay, các hãng thầu khi vào phi trường thường không bị khám xét kỹ, cũng là một sơ hở nghiêm
trọng. Hiện nay tại Âu Châu, số lượng tị nạn từ các nước Trung Đông vào Âu Châu lên đến hàng
trăm ngàn. Rất khó lòng kiểm soát biết ai là nạn nhân đáng giúp đỡ, ai là bọn khủng bố cải trang cần
loại trừ.
Theo tin mới nhất, vài tên khủng bố trong vụ Paris đến Pháp theo đám dân tị nạn Syria. Chính
sách di dân quá cởi mở đôi lúc cũng nguy hại. Tại Mỹ, dù sau vụ Paris, Obama vẫn tuyên bố cho
mười ngàn di dân tị nạn Syria vào Mỹ năm 2016, trong khi Hillary muốn 65 ngàn!
Cộng Hoà thì dứt khoát không chấp nhận di dân Syria.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 49
Chúng ta cũng đừng cứ nghĩ rằng chỉ có dân Ả Rập da nâu, râu rậm mới là Hồi Giáo. Các nước
Bắc và Trung Phi cũng như Nam Á (Pakistan, Indonesia, Malaysia…) cũng nhiều dân theo Hồi Giáo
và dĩ nhiên vi trùng cực đoan khủng bố cũng sinh sôi nẩy nở tại các nước đó.
C. Khu An Toàn (Santuary) cho dân Bất Hợp Pháp!
Từ năm 1979, tại Los Angeles đã bắt đầu trở thành thành phố an toàn cho di dân BHP
(Santuary). Có 31 thành phố của 28 tiểu bang (và có một số tiểu bang) không cho phép sử dụng
ngân sách hay nhân vật lực của thành phố hay tiểu bang mình để cưỡng chế luật di dân của Liên
Bang. "Officers shall not initiate police action with the objective of discovering the alien status of a
person. Officers shall not arrest nor book persons for violation of title 8, section 1325 of the United
States Immigration code (Illegal Entry)." Vì thế, tại các thành phố hay tiểu bang này, những người bị
bắt giữ không bị cảnh sát hạch hỏi về tình trạng cư trú hợp pháp hay không, và thành phố đó cũng
không truy tố những di dân bất hợp pháp. Việc này có thể là luật định (de jure) hay do thực tế (de
facto). Hiện nay dân chúng tại các thành phố loại này đã lên tiếng đòi hủy bỏ tình trạng sanctuary
cho di dân BHP.
Năm 1996, Quốc Hội thông qua một đạo luật Liên Bang gọi là Đạo Luật Cải Tổ và Quy Định
Trách Nhiệm về Vấn Đề Di Dân BHP (the Illegal Immigration Reform and Immigrant
Responsibility Act (IIRIR)) trong đó yêu cầu chính quyền địa phương hợp tác với cơ quan Cưỡng
Chế Quan Thuế và Di Trú ICE (Immigration and Customs Enforcement) thuộc Bộ Nội An. Nhưng lạ
thay, nhiều chính quyền địa phương đã chính thức hoặc không chính thức tuyên bố không thi hành
luật này. Họ cũng ban hành những luật lệ địa phương để coi ngơ Đạo luật Liên Bang. Thay vì dùng
danh từ Di dân bất hợp pháp, họ lại gọi những người này là dân lao động không có giấy tờ
(undocumented labors) và giúp bảo vệ bọn này khỏi bị trục xuất!
http://www.sanctuarycities.info/
Giải thích: Có nhiều cấp trong tổ chức cơ quan cưỡng chế pháp luật. Hoa Kỳ là một nước theo
hình thức Liên Bang, trong đó có 50 Tiểu Bang cũng có đủ các cơ cấu chính quyền: Lập Pháp, Hành
Pháp, Tư Pháp như Liên Bang. Tiểu Bang cũng có quyền ban hành luật trong TB mình, dù có khi
khác với luật Liên Bang. Cơ quan cưỡng chế pháp luật liên bang là FBI, US Marshall, INS, ICE…
Trong khi cơ quan cưỡng chế Tiểu Bang là State Trooper, Bureau of Investigation của Tiểu Bang,
Rangers…, cơ quan cấp Quận là Constable, cấp thành phố là City Police…
Trong vòng 21 tháng vừa qua, theo cơ quan Immigration and Customs Enforcement (ICE) thuộc
Bộ Nội An, các cơ quan di trú đã phát ra hơn 230 ngàn lệnh bắt giữ, nhưng cơ quan cưỡng chế đã
không thi hành 17 ngàn lệnh mà 61% của số này là ở Tiểu Bang California. Vì vậy, không có gì lạ
khi tội phạm ở California gây ra do bọn trú nhân BHP xảy ra nhiều hơn các nơi khác.
Xin đơn cử vài vụ điển hình đã gây phẫn uất trong dân chúng, mà các đài truyền hình đã loan tin
trong một thời gian khá dài:
Tại Abuquerque (New Mexico), một cô gái đã bị giết bởi một bọn 3 tên di dân BHP từng có lệnh
trục xuất do phạm luật nhưng cơ quan cảnh sát không thi hành.
Tại San Francisco, cô Kathryn Stenle đang đi dạo chơi ở bờ kè sát biển, đã bị giết bởi một tên tội
phạm là di dân BHP từng nhận lệnh trục xuất nhiều lần.
Đây là hậu quả việc cơ quan công lực địa phương đã không thi hành lệnh trục xuất do cơ quan
cưỡng chế ICE để cho bọn tội phạm nhởn nhơ đi ngoài đường phố.
Điều này đã bị cất vấn phải chăng là do sự bất lực hay vô tâm của chính quyền Liên Bang?
Đặc biệt sau vụ cô Katy Stenle này, ngày 8 tháng 7, 2015, bà Hillary Clinton đã tuyên bố với
phóng viên đài CNN rằng: “Tôi tuyệt đối không ủng hộ thành phố mà đã làm lơ trước cái bằng
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 50
chứng rõ ràng mà đáng ra họ phải có hành động can thiệp.” (I have absolutely no support for a city
that ignores the strong evidence that should be acted on.) Nhưng một ngày sau đó, từ ban vận động
tranh cử của bà ta lại có lời tuyên bố trái ngược như sau: “Bà Hillary Clinton tin rằng các thành phố
sanctuary có thể góp phần nhiều hơn vào việc bảo vệ an ninh công cộng, và bà bảo vệ các chính sách
đó đã có từ trước đây.” (Hillary Clinton believes that sanctuary cities can help further public safety,
and she has defended those policies going back years.)
D. Di Dân BHP và Bầu Cử
Người dân Mỹ cũng than phiền rất nhiều về việc các di dân BHP này đã được hưởng nhiều phúc
lợi xã hội lấy từ tiền đóng thuế của người dân Mỹ; mà những người Mỹ này cũng không hưởng được
như đám di dân BHP. Thí dụ: Di dân BHP đi làm lãnh tiền mặt và không đóng thuế cho chính phủ.
Dân Mỹ phải mua bảo hiểm y tế, phải trả tiền copay khi đi bác sĩ hay dịch vụ cấp cứu; nhưng những
di dân BHP lại được hưởng các dịch vụ này mà không tốn đồng xu nào. Con cái người Mỹ đi học
phải đóng tiền ăn trưa, trong khi con cái di dân BHP lại được miễn phí.
Lạm dụng hệ thống an sinh xã hội, tiền đóng thuế của dân. Giáo dục miễn phí cho con cái di dân
BHP (Special Education), Cấp cứu miễn phí (Emergency),
Ngay đa số người Mỹ gốc Hispanic
cũng muốn có luật lệ gắt gao hơn chống
việc các hãng thuê mướn dân bất hợp
pháp. Sau đây là kết quả thăm dó tỷ lệ
những người muốn có luật gắt gao về
việc thuê mướn dân BHP: Đảng Dân
Chủ (58%), Những người từng bỏ phiếu
cho Obama (58%), Đảng Cộng Hoà
(90%), Những người ủng hộ ông
Romney (90%), Mỹ gốc Hispanics
(56%), Mỹ da đen (55%), Đạo Tin Lành
(78%), Đạo Thiên Chúa (75%),
Evangelicals (76%), Những người
không theo Công Giáo (63%), cư dân đô
thị (66%), cư dân ngoại ô (72%), dân ở
vùng nông trang (73%)
Khi được hỏi ý kiến về kế hoạch của Tổng Thống Obama cho dân BHP được trở thành hợp pháp
thông qua thủ tục hành chánh, có 62% dân Mỹ chống lại. Chỉ có 24% thì cho rằng Obama có quyền
thay đổi chính sách di dân mà không cần sự ưng thuận của Quốc Hội. (Rasmussen Polling,
November 25, 2014)
Nghị định hành chánh của Obama nhằm tha thứ cho di dân BHP đã bị 75% dân chúng phản đối.
Và có đến 80% số dân không muốn công ăn việc làm của Mỹ rơi vào tay ngoại nhân. 74% thì muốn
Obama phải bản thảo với Quốc Hội chứ không được tự ý ban hành các lệnh hành chánh. Có 90%
dân Mỹ coi vấn đề di dân BHP là nghiêm trọng và muốn thi hành gấp các lệnh trục xuất.
Họ cho rằng sự việc đã đi ra ngoài vòng kiểm soát và rất đáng báo động khi đề cập đến sự khủng
bố, các bệnh truyền nhiểm chết người như Ebola. Họ cũng lên tiếng yêu cầu phải chặt chẽ hơn trong
việc tuần hành ở biên giới, đòi chấm dứt các loại trợ cấp của chính phủ cho di dân BHP, đòi chính
phủ phải bảo vệ công ăn việc làm cho công dân Mỹ. Họ cho rằng tình trạng di dân BHP đe doạ tập
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 51
quán và đức tin truyền thồng của Mỹ, cũng như coi đó là gánh nặng cho nền kinh tế vốn chưa phục
hồi
Tại vài tiểu bang như California, đã cấp bằng lái xe cho di dân BHP. Cũng có các tiểu bang khi
bàn cãi vấn đề phải xuất trình căn cước hay bằng lái xe khi đi bầu phiếu, cũng có những kẻ phản đối
cho rằng điều này là kỳ thị người nghèo!
Vấn đề Quyền Công Dân đương nhiên cho trẻ em sinh tại Hoa Kỳ
Luật pháp Hoa Kỳ qui định rằng: những trẻ sinh ra trên đất Mỹ, trong không phận, hải phận Mỹ
(bao gồm cả Puerto Rico, quần đảo Marianas, Virgin Islands) hay sinh ra bởi công dân Hoa Kỳ bất
cứ nơi đâu (có vài ngoại lệ) đều được đương nhiên là công dân Mỹ . Luật này xuất phát từ Tu chính
án số 14 ghi rằng: “All persons born or naturalized in the United States, and subject to the
jurisdiction thereof, are citizens of the United States and of the State wherein they reside."
Trung tâm The Pew Hispanic Center ước tính có 7.5% trẻ sinh ra ở Hoa Kỳ (tổng số 300,000/
năm) là do những người cư trú bất hợp pháp. Có khoảng 4.5 triệu trẻ em trong trường hợp này đã
được công nhận là công dân Mỹ. Ước tính này không kể đến những người từ tuổi 18 trở lên.
Theo ước tính của Trung Tâm Nghiên Cứu về Di Dân (Center for Immigration Studies), mỗi
năm có khoảng 40000 trẻ sinh ra do các phụ nữ đến Hoa Kỳ bằng thông hành du lịch.
Tuy nhiên, con số này có thể lên đến 200000 cho các trường hợp visas di trú tạm thời như du
lịch, du học sinh, và làm việc tại Hoa Kỳ.
Năm vừa qua, các cơ quan cảnh sát đã bố ráp nhiều apartments và cơ sở dịch vụ Tàu tại
California, nơi chứa chấp và cung cấp các dịch vụ, giấy tờ cho hàng chục ngàn phụ nữ mang thai từ
Trung Cộng lấy cớ du lịch đến Mỹ để sinh con nhằm cho con được hưởng quốc tịch và các quyền lợi
của công dân Hoa Kỳ. Bọn dịch vụ này làm ra hàng chục triệu mỗi năm một cách phi pháp.
Đây là một sự gian lận, che dấu cái bụng bầu để qua mặt viên chức Mỹ. Họ đã lạm dụng thái quá
tính chất độ lượng của luật pháp Hoa Kỳ để trục lợi. Hiện nay nhiều người yêu cầu xét lại Tu Chính
Án 14 để tránh bị lạm dụng.
Chúng ta nên ủng hộ hay không số di dân Syria?
1.- Hoa Kỳ đưọc hình thành là do di dân. Đó là giá trị đạo lý. Tuy nhiên qua thăm dò, người Mỹ
đã có cái nhìn như sau:
- Văn hoá Hồi và văn hoá Tây phương khó sống chung hoà bình. Cứ đọc kinh Coran và luật
Sharia thì biết rằng Hồi giáo coi những ai không theo Hồi Giáo là Phản đạo (infidels), Giáo chủ
Mohamet kêu gọi giết bọn infidels. Ông ta từng đem quân đánh giết người không phải Hồi giáo, và
hứa hẹn ai giết được infidel thì sẽ lên thiên đường và được thưởng 20 cô trinh nữ. Trong các nhà thờ
Hồi giáo, các imams tuyên truyền chống Tây Phương, khi cảnh sát đặt cameras theo dõi thì họ kiện
là vi phạm chuyện riêng tư và tự do ngôn luận.
- Chúng ta đang có chiến tranh với ISIS. Hồi cực đoan. Trong 2500 người Syria được cho vào
Mỹ trước đây, chỉ có 53 người Thiên Chúa Giáo, vài trăm người Hồi Shiite, và hơn 2000 Hồi Sunni.
Tổ chức khủng bố ISIS là của Sunni, chúng giết người Shiite rất tàn nhẫn. Chúng tuyên bố coi Mỹ là
kẻ thù số 1.
- Bọn ISIS cài người qua di dân tị nạn, điển hình ở Bỉ, Pháp. Vừa rồi Hondura bắt được 5 người
Syrian dùng Thông Hành giả để tính xâm nhập vào Hoa Kỳ. Thông hành giả dễ mua, chỉ cần $2000.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 52
Nhiều tên mang danh tị nạn từ Somalia đã từ Mỹ về Syria để chiến đấu trong hàng ngũ ISIS. Số còn
ở lại thì tuyển mộ, tuyên truyền.
- Làm sao phân biệt được ai là tị nạn, ai là khủng bố? Các viên chức cao cấp về an ninh (FBI,
CIA, NSA, TSA…) đều thưa nhận không đủ nhân lực và phương tiện để thanh lọc.
- Người Hồi không hoà nhập mà còn đòi thay đổi văn hoá người khác: Tại vài trường học, họ
yêu cầu không dọn thịt heo cho học sinh vì trái đạo lý của họ. Có nơi phụ nữ đòi mang trùm mặt khi
chụp hình căn cước, có nơi phụ nữ mặc nguyên áo trùm nhảy xuống hồ bơi. Đi làm thì đòi phải cho
nghỉ mỗi ngày vài lần để cầu nguyện theo tục lệ Hồi Giáo…
Kết luận:
Đã đến lúc người Mỹ phải la lên: Thôi, đã quá đủ rồi.
Phía Đảng Dân Chủ qua các tuyên bố mới đây của hai ứng cử viên gạo cội Clinton và Sander đã
cho thấy họ vẫn chủ trương sẽ hợp pháp hoá đám di dân lậu. Làm như thế cũng có thể nêu lý do
nhân đạo. Nhưng như thế cũng là khuyến khích sự phạm pháp và rồi việc nhập cư lậu lại tái diễn (vì
không lo bị trừng phạt, bị trục xuất, mà sẽ có cơ hội ở lại làm công dân Mỹ).
Phiá Cộng Hoà thì cứng rắn như Trump, đòi trục xuất hết 11 triệu người. Kể ra cũng khó thực
hiện và chắc sẽ đưa đến những hoàn cảnh éo le, chia rẽ gia đình nhưng người đã ở lâu hay có con cái
đã là công dân Mỹ.
Một khảo hướng trung dung có lẽ là chọn lọc những người mà có khả năng sự đóng góp cho xã
hội Mỹ, những người mưu cầu sự thăng tiến và có những điều kiện buộc họ phải theo trước khi được
cấp quyền cư trú hợp pháp.
Còn những kẻ từng phạm tội, dứt khoát phải trục xuất, càng sớm càng tốt. Những kẻ khác nếu cứ
lạm dụng hệ thống an sinh xã hội cũng phải trả về nguyên quán luôn.
Nhưng việc tăng cường các biện pháp phòng vệ tại biên giới, phi cảng, hải cảng phải được đặt
lên tầm quan trọng nhất. Có an ninh mới phát triển và sinh tồn.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 53
Mối Đe Doạ Lớn Nhất của Nhân Loại là Khủng Bố ISLAM
Phân biệt Islam và Muslim
Islam là một tôn giáo mà chúng ta thường gọi là Hồi Giáo. Đạo Islam dựa trên những lời dạy của
tiên tri Muhammad được viết trong cuốn kinh Qur‟an. Muslim là những người theo Hồi Giáo. Vì vậy
Muslim và Islam cũng như là một mà thôi.
Đạo Islam xuất phát từ bán đảo Ả Rập, là một trong ba tôn giáo đơn thần lớn nhất thế giới. Hiện
có khoảng 1 phần tư dân số thế giới, tức hơn một tỷ tín đồ trên khắp các đại lục. Đa số tập trung ở
vùng Trung Á, Nam Á và Bắc Phi. Tại Đông Nam Á Châu có hai nước Hồi giáo là Indonesia và
Malaysia.
Đạo Islam phát triển rất nhanh. Số tín đồ tăng gấp 8 lần trong hơn 1 thế kỷ, trong khi tín đồ
Thiên Chúa Giáo thì có dấu hiệu giảm sút. Từ 1900, số tín đồ Islam trên thế giới là 200 triệu, đến
1970 tăng lên 551 triệu và hiện nay
là 1.57 tỷ. Trong số đó có từ 75%
đến 90% thuộc phái Sunni, và từ 10
đến 20% thuộc phái Shia. Có từ
khoảng 3 đến 7 triệu người Islams tại
Hoa Kỳ.
Hồi Giáo cũng tin vào Cựu Ước
như Thiên Chúa Giáo và Do Thái
Giáo, họ gọi Thương Đế là Allah,
cũng tin vào đời sau và sự cứu
chuộc. Điều khác biệt là họ không
tin có 3 ngôi Chúa Trời. Theo truyền
thuyết, từ thế kỷ thứ 7, ông
Muhammad được thiên sứ Gabriel
truyền cho những thông điệp của
Thượng Đế để ông trở thành môt nhà tiên tri như các tiên tri đã có trước như Moses và Jesus. Đạo
Islam thừa nhận các tiên tri Moses và Jesus, nhưng coi Muhammad là nhà tiên tri cuối cùng. Năm
630, Muhammad rời thành phố Medina, nơi ông ta lẫn trốn sự ngược đãi, để đem một đạo quân
mạnh chiếm Mecca làm thủ phủ của Hồi Giáo. Từ đó là cả một quảng đời chinh chiến đẫm máu để
phát triển đạo Islam.
Islam có phải là Tôn giáo Ôn Hoà, Độ Lượng không?
Bà Hillary Clinton có ít nhất hai lần tuyên bố rằng “Chúng ta cần biết rõ rằng Đạo Islam không
phải là đối thủ của chúng ta. Người Muslim hiếu hoà và độ lượng và trong bất cứ hoàn cảnh nào,
không dính dấp gì đến khủng bố” (Let’s be clear, though. Islam is not our adversary. Muslims are
peaceful and tolerant people and have nothing whatsoever to do with terrorism). Một lần tại Hội
Đồng Bang Giao Đối Ngoại, lần khác tại cuộc tranh luận thứ 2 giữa các ứng cử viên Dân Chủ, bà ta
đã lập lại câu trên để né tránh câu hỏi của một điều hợp viên tại sao bà không dùng chữ Radical
Islamic. Cái khôn vặt của bà ta là không lập lại chữ Islamic, mà nói trại ra chữ Muslim để dễ được
chấp nhận. Không ai nói tất cả người Muslim là hung ác, là kẻ thù của Tây Phương. Và khi dùng chữ
Radical Islamic, là đã có sự phân biệt giữa cực đoan với ôn hoà (Moderate Islamic), chứ có đánh
đồng họ với toàn thể Muslim đâu.
Các Quốc gia Hồi Giáo trên thế giới. Vùng màu xanh là Sunni, màu vàng-
đỏ là Shia. Ngoài ra, tại các nước khác đều có tín đồ Islam
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 54
Thật ra, người Ả Rập ngày xưa là một sắc dân du mục hiền hoà, hiếu khách. Từ thế kỷ thứ 5
trước Tây lịch, nhiều bộ lạc định cư ở Mecca, gần bờ biển Tây Saudi Arabia. Họ theo đa thần giáo
cho đến khi có Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo, rồi đến đạo Islam.
Theo nhiều chương trong kinh Qur‟an, Islam không chủ trương cưỡng ép tôn giáo, tuy nhiên họ
coi chỉ có tôn giáo của mình là đúng thôi. Họ gọi những người ngoại giáo là “kafir” (cũng như Thiên
Chúa giáo gọi người Hồi là Infidel Saracens). Ngay cả trong cùng đạo Islam, giáo phái này gọi giáo
phái khác là infidel. (ví dụ phái đa số Sunni coi giáo phái khác như Shia là infidels); và trong cùng
một giáo phái lại chia nhiều nhánh và coi nhau là infidels! Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Hồi Giáo
chủ trương sống tách biệt, không chung đụng với người ngoại đạo. Vì vậy, khi đọc trong truyện
Ngàn Lẻ Một Đêm, chúng ta thấy việc người Hồi Giáo từng sống hoà hoãn với dân Thiên Chúa
Giáo, Do Thái Giáo, nhưng tránh việc va chạm vào những người này vì họ coi là ô uế. Allah cho
phép họ chỉ đánh đuổi hay giết bọn ngoại giáo khi bị tấn công, Muhmmad không cho giết trẻ em,
không cho băm chặt người đã chết và không lạm dụng chiến lợi phẩm. [Quran 2:191]
Nhưng cuối cùng, cũng tìm ra nhiều kinh sách Islam
chủ trương giết người ngoại đạo. Sách Sahih Muslim,
đoạn 19:4294 có nêu ra cách cư xử với kẻ ngoại đạo, đa
thần như sau: “Hãy cho họ chọn một trong ba điều, và
hãy chấp nhận sự lựa chọn đó mà không làm hại cho họ.
(1) Mời họ theo đạo Islam, và mời họ di dân vào vùng
Muslim, cho họ mọi ưu quyền và nghĩa vụ của các di
dân Muslim (Muhairs) (2) Nếu họ theo đạo mà không di
dân, hãy cho họ quyền lợi của người Muslim du mục
(Bedouin Muslim). Họ phải đặt dưới quyền điều động
của Allah, nhưng không được chia phần chiến lợi phẩm
trừ phi họ thực sự chiến đấu chống bọn ngoại đạo. (3)
Nếu họ không chịu cải đạo, bắt họ phải đóng thuế và
đừng đụng chạm đến họ. Nhưng nếu họ từ chối, thì hãy
thỉnh ý kiến Allah và đánh chết hay bắt làm nô lệ‖. (For renegades, Islamic law prescribes death,
with the opportunity first of obeying the demand to return to Islam. The other group, the so-called
kafirun asliyun, or unbelievers proper, have only to expect death or slavery.)
Sharia Law:
Hiện nay, có cả tá quốc gia Hồi Giáo sử dụng luật Sharia trong khi vài nước Hồi Giáo khác thì
dùng luật thế tục và chỉ áp dụng luật Sharia hạn chế trong các vụ dân sự như ly dị, thừa kế... Các
cộng đồng Muslim sống trong các nước Tây Phương cũng dùng luật Sharia trong phạm vi kín đáo
của họ. Tại Anh Quốc, người Muslim dùng Luật Gia Đình của Sharia Law để dàn xếp với nhau mà
không thông qua Dân Luật của Anh.
Hiện nay, nhiều lãnh tụ Hồi Giáo đang muốn vãn hồi lại chế độ thần quyền Hồi Giáo (Caliphate)
bằng phương tiện ôn hoà hay bạo động. Họ còn muốn đem luật Sharia vào cả các nước Tây Phương
hay xa hơn, còn muốn đưa cả thế giới thành một Caliphate mà trong đó, vị Caliph vừa là thủ lĩnh
chính trị, vừa là giáo chủ Islam.
Bọn khủng bố Islam cắt đầu người Thiên
Chúa Giáo Bắc Phi ngay bờ biển Địa Trung
Hải. Bên kia biển là Italia.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 55
Luật Shria dựa vào các điều trong kinh Qur‟an
và sách Hadith, là các tuyển tập ghi lại giáo huấn
của Muhammad. Các giáo phái Sunni, Shia, Ibadi,
Admadiyya có cách giải thích và thi hành khác
nhau vì dựa trên các phiên bản khác nhau của
Hadith.
Luật Sharia được coi là luật của Thượng Đế
(Allah), nó liên quan đến các lãnh vực đời sống
như chính trị, pháp luật, kinh tế cũng như các lãnh
vực đời sống cá nhân như vệ sinh, giao hợp, ăn
chay, kiêng khem, cầu nguyện…
Toàn bộ hay đa phần luật Sharia được áp dụng
tại các nước Saudi Arabia, Sudan, Iran, Iraq,
Afghanistan, Pakistan, Brunei, United Arab
Emirates, Qatar, Yemen và Mauritania. Chúng ta
từng nghe đến các hình phạt chặt đầu, đánh bằng
roi, hay ném đá đến chết ở các nước này. ISIS
thành lập đội Cảnh Sát Tôn Giáo (al-Hisba) nhằm:
“Đề cao đạo lý, phẩm cách, triệt hạ tội lỗi, ngăn
chặn sự bất phục tòng và thúc đẩy người Hồi Giáo
trở thành con người tốt.”
Các khái niệm về tội phạm, tố tụng, hình phạt của luật Sharia rất khắt khe, khác xa với các luật lệ
thế tục. Lại càng trái ngược nhau về cơ cấu chính phủ, về nhân quyền, Quyền tự do ngôn luận, quyền
phụ nữ…
Xin đơn cử vài thí dụ:
- Trong khi các nước văn minh tiến dần đến xóa bỏ án tử hình, hay áp dụng hình phạt nào cho tử tội khỏi đau đớn, thì các nước Hồi dùng cực hình như chém đầu, ném đá, hay
đánh bằng roi giữa nơi công cộng.
- Trong khi các nước dân chủ coi trong quyền bình đẳng của phụ nữ, thì người Islam coi phụ nữ là vật sở hữu của nam giới. Ra đường phải trùm kín mặt mày và thân thể, không
được làm việc, lái xe, có nơi không cho đi học.
- Luật Sharia coi việc uống bia rượu, hút thuốc lá, trang điểm, khiêu vũ, xem phim ảnh hay ăn mặc kiểu Tây Phương là tội phạm. Tuy tội nhẹ, nhưng nếu tái phạm có thể bị tử hình.
Tội trộm cắp bị chặt tay, đàn bà ngoại tình bị ném đá đến chết nơi công cộng. Chú ý, mức
đánh giá và ấn định hình phạt tùy theo quốc gia, tùy các giải thích luật của nhà cầm quyền sở
tại.
- Điều đáng nói là luật Sharia rất khắt khe với các tội về đạo đức như trộm cắp, lăng nhăng tình ái.
- Luật pháp Tây phương theo diễn trình công bằng cho bị can, trong khi luật Sharia xử nhanh, gọn và bị can không có quyền bào chữa.
- Tháng 10, 2014, ISIS ấn hành tài liệu cho phép lạm dụng phụ nữ ngoại đạo, nhất là phụ nữ bị quân Hồi bắt khi chiếm đóng, coi họ là nô lệ và kẻ chiến thắng có toàn quyền hành
lạc, đem bán cho người khác. Kinh Qur‟an chấp thuận cho người Muslim có quyền hành lạc
với các phụ nữ bị bắt hoặc nô lệ mà không bị coi là ô uế. “Successful are the believers who
guard their chastity, except from their wives or the captives and slaves that their right hands
possess, for then they are free from blame” (Qur‟an 23:5-6)
Một thiếu nữ Syria Thiên Chúa Giáo bị bọn ISIS hiếp
và giết chết bằng cách đóng cây Thập Tự giá vào
miệng.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 56
-
Lịch sử tranh chấp giữa Islam và Tây Phương Thiên Chúa Giáo
Thời trung cổ xa xưa ấy, ngay cả Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã cũng độc tài và hiếu chiến.
Thời đó, các Giáo Hoàng thường nắm cả giáo quyền lẫn thế quyền, có uy quyền trên các vua chúa ở
Âu Châu. Năm 1095, khi Hoàng Đế Alexios của Byzantine bị nước Turkey Hồi Giáo đe doạ, Giáo
Hoàng Urban Đệ Nhị đã huy động quân đội từ các nước Thiên Chúa Giáo Âu Châu khởi phát cuộc
Thập tự chinh lần thứ nhất dưới danh nghĩa bảo vệ cho người Công Giáo hành hương về miền đất
thánh Jerusalem. Jerusalem là đất thánh, nơi khai sinh ra cả ba tôn giáo lớn: Do Thái, Thiên Chúa và
Islam, vì thế, đạo nào cũng muốn chiếm cứ làm riêng cho mình. Thế là bắt đầu cuộc chiến kéo dài
hàng trăm năm với những trận đánh ác liệt mà bên thắng thường là tiêu diệt hết quân lính và thường
dân của đối phương. Quân đội Thâp Tự không những giết người Hồi Giáo mà còn cả người Do Thái
Giáo. Có từ 1 đến 3 triệu người chết trong các cuộc Thập Tự Chinh. Các vua chúa Âu Châu đã
không giữ lời hứa trao trả đất cho Byzantine, mà chiếm cứ làm lãnh địa của họ. Do đó, càng gây
thêm chia rẽ, oán thù, nhất là sau khi Đế Quốc Byzantine bị Đế Quốc Ottoman của vua Hồi
Suleiman chiếm đoạt. Ottoman là đế quốc trường tồn lâu nhất trong lịch sử nhân loại. Nó kéo dài từ
năm 1299 đến 1922 (sau Thế Chiến thứ Nhất)
Qua đến thế kỷ 14, 15, vẫn còn những cuộc Thập Tự Chinh chống lại Đế Quốc Ottoman.
Một chuyện đáng kể. Trận đánh cuối cùng của cuộc cuộc Thập Tự Chinh lần thứ Hai năm 1122 -
1124 là trận Hattin. Đại quân Hồi Giáo của Hoàng đế Saladin vây khổn liên quân Âu Châu tại thành
Hattin. Ngay từ lúc đầu, Saladin đã muốn tránh đổ máu, nên cho nhiều điều kiện rộng lượng để quân
Thập Tự rời thành, trở về cố quốc. Nhưng quân thủ thành không chịu, và đòi tàn sát hết 5000 người
Muslims, cũng như hủy hoại các Đền Thánh của Hồi Giáo trong thành. Saladin đã chấp thuận cho
phép Thập Tự Quân và gia đình một hạn kỳ 40 ngày để đóng tiền chuộc mạng. Sau khi chiếm thành,
Saladin đã tha tiền chuộc cho những gia đình không có khả năng tài chánh. Saladin cũng cho phép
những người Do Thái tiếp tục ở lại. Có lẽ đó là sự độ lượng hiếm hoi của các Hoàng Đế Hồi, so với
những lần tàn sát hết tất cả sinh linh trong thành khi họ chiếm được. Ngày nay, chúng ta cũng nghe
đến các cuộc tàn sát dã man hàng loạt dân vô tội ở Serbia, Iraq, Syria gây nên bởi các lực lượng Hồi
Giáo.
Cuộc chiến giữa giáo phái Sunni, Shia và Thiên Chúa Giáo tại Lebanon từ 1975 đến 1990 làm
chết hơn 250 ngàn người. Kế đó là tại Sudan, giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo năm 1983 đến
2005 làm chết hai triệu người. Hiện nay, tại nhiều nước Phi Châu (Nigeria, Kenya, Tunisia,
Somalia…) cũng có chiến tranh giữa Hồi và Thiên Chúa Giáo với các vụ tấn công, bắt cóc, bom tự
sát, bom xe…
Người Islam cũng như người Cộng Sản, coi những ai khác lý tưởng là kẻ thù, là ô uế, là phản
động phải bị tiêu diệt. Cũng như Cộng Sản chủ trương thế giới đại đồng, người Islam chủ trương
thiết lập một trật tự mới là Caliphate trên toàn cầu, xoá bỏ văn minh Thiên Chúa Giáo và Tây
Phương mà họ coi là vô đạo đức, trái ngược những giáo huấn trong kinh Qur‟an. Vì thế, cả Cộng
Sản lẫn Islam đều rất hung bạo và khát máu. Chúng giết người tàn nhẫn, không chừa phụ nữ và trẻ
sơ sinh.
Trong cuốn truyện Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Drina, tác giả Ivo Andric đã có nhiều đoạn miêu
tả cảnh quân Hồi giết người Thiên Chúa dã man như đóng cọc dài từ hậu môn xuyên qua ruột, lên
tới miệng rồi dựng đứng cọc để cho nạn nhân phải chịu một cái chết từ từ trong đau đớn cùng cực.
Ngày nay, chúng ta cũng nghe nhiều đến các vụ quân ISIS thảm sát hàng trăm tù binh, dân thường
khác đạo. Chúng cắt cổ, đóng đinh trên thập giá, hiếp các thiếu nữ xong thì mổ bụng, cắt đầu hay
đóng cọc vào miệng. Khi bắt được phi công Jordan, chúng nhốt vào cũi sắt và đốt sống anh ta.
Chúng tung các đoạn video lên Youtube để gây kinh hoàng cho mọi người.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 57
Tranh chấp trong nội bộ Islam, Sunni vs Shia, Tranh Chấp giữa các nước Ả Rập
Muốn hiểu thấu đáo tình hình phức tạp giữa các nước Hồi Giáo, và giữa các phe phái trong đạo
Islam, quý vị phải có một bản đồ lớn của vùng Trung Đông, dùng bút màu để nối kết những mối
tương quan và dữ kiện, theo trình tự thời gian như thứ bản đồ trong các phòng hành quân. Nếu
không có bản đồ mà chỉ nghe nói thì rối rắm vô cùng.
Trước hết là xung đột giữa các môn phái và tranh dành ảnh hưởng giữa các nước Ả Rập.
Khi Muhammad chết, những môn đồ xung đột nhau chia làm 2 phái vì sự lựa chọn người kế vị
(gọi là Kalifa, Caliph) để làm Giáo Chủ Islam. Phái Sunni cho rằng Allah không chỉ định ai thay thế,
mà họ bầu chọn từ những môn đồ công chính. Trong khi đó, giáo phái Shia tin rằng Muhammad đã
chọn con rể Ali ibn Abi Talib làm Imam đầu tiên, và chỉ có con cháu của Ali mới được nối nghiệp
ông ta. Từ đó, nẩy sinh ra hai giáo phái chính đối nghịch nhau, và sau đó, lại chia nhánh và thêm
nhiều phái nhỏ khác mà tín đồ không đáng kể. Người Islam hai phái này đánh giết nhau tàn bạo
không kém so với khi họ đối xử với người ngoại đạo.
Hai nước Saudi Arabia và Iran là hai cường quốc, giàu có về dầu mỏ. Nước nào cũng muốn nắm
vai trò lãnh đạo khối Hồi Giáo. Cả hai đều có đại đa số dân Hồi thuộc phái Shia nên bị ISIS (Sunni)
coi là kẻ thù. Trong khi Saudi thì đồng minh với Mỹ, còn Iran thì thù địch với Mỹ kể từ khi Ruhollah
Khomeni đảo chánh vua Pahlavi để lập nên nước Cộng Hoà Islam Iran năm 1979. Với quốc hiệu
này, Iran đã tự xác định là một nhà nước Islam với Ali Khamenei hiện nay là giáo chủ tối cao vừa là
lãnh tụ tối cao.
Trong khi đó thì có 93% dân Islam ở Jordan là Sunni, 74% ở Syria cũng là Sunni. Nhưng Jordan
lại tham chiến trong Liên Minh với Hoa Kỳ để đánh ISIS, và đã tỏ ra rất tích cực, trong khi Syria thì
vừa bị tấn công bởi các phe kháng chiến (cũng Sunni) sau Cách Mạng Mùa Xuân Ả Rập 2011, và
khủng bố ISIS (cũng Sunni). Mỹ thì chủ trương triệt hạ Tổng Thống Syria là Bashar al-Assad vì ông
này dùng vũ khí hoá học để giết dân lành Syria, vi phạm các công ước Quốc Tế. Kể từ khi Tổng
Thống Obama rút hết quân đội ra khỏi Iraq, quân ISIS đánh như chẻ tre, quân Iraq chạy tháo thân,
bỏ lại toàn bộ vũ khí tối tân do Mỹ trang bị. Lợi dụng tình thế, Iran đưa quân giúp đánh ISIS, kéo cả
Nga nhảy vào ăn có ở Syria mà mục đích là yểm trợ cho Tổng Thống Assad. Turkey, tuy là thành
viên khối NATO, là một nước Hồi Giáo không Ả Rập, sát cạnh nước Syria, thì tuy ngoài mặt chống
ISIS, nhưng không chịu làm gì khi quân ISIS tấn công sát biên giới Syria-Turkey. Nga tuy đưa quân
đội và lập các căn cứ Không Quân ở Syria, nói là giúp đánh ISIS, nhưng trong giai đoạn đầu đã
nhắm vào kháng chiến quân do Hoa Kỳ yểm trợ thay vì đánh ISIS. Chỉ sau khi bọn khủng bố gài
bom làm rơi phi cơ chở khách của Nga tại bán đảo Sinai, Nga mới lồng lộn lên và dội bom các cơ sở
ISIS.
Ai Cập (90% là Sunni) và Libya (đa số là Sunni) thì sau khi Mubarak và Qaddafi bị lât đổ, để lại
khoảng trống chính trị, các nhóm Hồi Giáo cực đoan cũng nổi lên. Các nhóm khủng bố ở Libya quy
thuận ISIS và chiếm cứ một vùng ở Derna và Sirte. Khi loạn quân Houthi thuộc phái Shia được Iran
hỗ trợ, đánh chiếm thủ đô Sana của Yemen (65% Sunni, 35% Shia), Ai Cập và các nước Hồi Giáo
khác như United Arab Emirate, Kuwait, Qatar, Bahrain, Jordan, Morocco, Sudan và Pakistan cùng
liên minh với Saudi Arabia để đánh loạn quân Houthi.
Sunni, Shia… đánh nhau loạn xạ.Vì là cuộc chiến giữa các phe phái, các nước Turkey, Saudi
Arabia cũng tài trợ cho các nhóm khủng bố của phe mình. Quý vị đọc đến đây đã thấy nhức đầu
chưa?
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 58
Sự Phát Triển của ISIS. (Islamic State of Iraq and the Levant, Islamic State of Iraq and al-
Sham)
Hoa Kỳ từng giúp phiến quân Hồi Giáo của Afghanistan để đánh quân chiếm đóng Liên Sô
1.- Tháng 4, 1978 Đảng Dân Chủ Nhân Dân Afghanistan (Cộng Sản) cướp chính quyền. Nhóm
chống Cộng Mujahideen nổi lên với sự giúp đỡ của Pakistan. Nội bộ đảng DCND cũng chia phe
phái. Nội chiến bùng nổ. Liên Sô đem quân vào giúp Afghanistan. Hoa Kỳ và Saudi Arabia cũng
gửi vũ khí giúp Mujahideen và nhóm chiến binh Afghan Arab. Năm 1989, Liên Sô rút quân.
Najibulla từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản và tuyên bố thành lập Islamic State of Afghanistan. Chiến tranh
giữa các phe phái lại tiếp diễn. Năm 1994, tổ chức cực đoan Taliban ra đời chiếm đóng phần phía
Nam của Afghanistan. Từ 1996 Osama Bin Laden lập Al Qaeda chủ mưu trong biến cố 9 tháng 11,
2001 tại World Trade Center, New York. Quân đội Mỹ mở chiến dịch Enduring Freedom lật đổ bọn
Taliban và truy nã Bin Laden. Tháng 5, 2011, Bin Laden bị toán Biệt Hải Seal Team 6 giết tại
Pakistan.
2.- Tháng 8, 1990, Iraq xâm lăng Kuwait và sáp nhận nước này vào Iraq. Hoa Kỳ can thiệp.
Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Tháng 3, 2003, Hoa Kỳ đại tấn công Iraq, lật đổ Saddam
Hussein, giải thể đảng Baath và quân đội Iraq gồm người đạo Hồi Sunni. Chính phủ mới do đa số
người giáo phái Shia đã không có những nỗ lực đoàn kết, đưa đẩy những người lính và cảnh sát
Sunni thành lập nhóm Jihadist. Năm 2004, Abu Musab al-Zarqawi lập ra nhóm al Qaeda nhắm
khủng bố dân Shia bằng bom tự sát, xe bom… Trong năm 2004, có 26496 vụ tấn công khủng bố.
Năm 2005, quân Mỹ bắt được một thành viên al-Qaeda là Abu Bakl Baghadi giam giữ tại trại tù
Bucca. Trại tù lớn này luôn có khoảng 25 ngàn tù đủ loại từ hình sự cho đến thành viên các tổ chức
khủng bố, trong đó có 9 thành viên cao cấp al-Qaeda. Người ta coi nhà tù Bucca như là nơi lý tưởng
để tuyển mộ, huấn luyện cho khủng bố. Uy tín của Baghadi lớn dần trong trại tù. Qua năm 2010,
Iraq thả Baghadi, tên này trở thành thủ lãnh của al-Qaeda ở Iraq và cầm đầu Islamic State of Iraq
(ISI) khi Abu Ayyub al-Marsi bị liên quân Mỹ-Iraq giết chết vào ngày 18-4-2010.
Cấp trên của Baghadi là của al-Zawahiri (al-Qaeda, kế nghiệp Bin Laden). Năm 2011, Hoa Kỳ
rút quân giao trọng trách chiến đấu cho quân đội Iraq. 3.- Tháng 2, 2011, Cách Mạng Mùa Xuân
bùng nổ tại Tunisia, Egypt, Libya, nhưng bị chặn
đứng tại Syria, do Tổng Thống Assad áp dụng
nhiều biện pháp thô bạo, trong đó có việc dùng vũ
khí hoá học. Có nhiều nhóm kháng chiến Syria
trong đó có nhóm được Hoa Kỳ hỗ trợ, các nhóm
khác theo al-Qaeda.
4.- Vào tháng 4, 2013, al-Baghadi tuyên bố
thành lập Islamic State of Iraq ang Levant (ISIL
hay ISIS). Al-Baghdadi tuyên bố rằng các nhóm
Jihadists ở Syria cũng thuộc vào ISIL, nhưng thủ
lãnh nhóm al-Nusra là Abu Mohammad al-Julani
không đồng ý, và khiếu nại lên Ayman al-Zawahiri.
Al-Zawahiri muốn ISIS giải tán, và Baghadi chỉ
nên hoạt động trong lãnh thổ Iraq thôi. Baghadi bất
tuân lệnh, và thu nạp đến 80% thành viên của nhóm
Nusra vào ISIL. Sau đó, đã đánh bật nhóm Nusra
khỏi thành phố Ar-Raqqah của Syria. Từ đó, hai nhóm Nusra và ISIS trở thành đối địch. Qua tháng
2, 2014, al-Qaeda cũng chấm dứt hợp tác với ISIS.
Vùng chiếm đóng của ISIS (màu đậm) trên lãnh
thổ Syria và Iraq (màu nhạt)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 59
5.- Qua năm 2014, các nhóm khủng bố khác ở Iraq cũng gia nhập vào ISIL. Từ đó, những vụ diệt
chủng làm chết hàng vạn người, xô đẩy hàng trăm ngàn người khác phải bỏ nhà cửa lánh nạn. Bọn
Boko Haram ở Nigeria cũng gia nhập ISIS.
6.- Ngoài ISIS đang bành trướng, nhóm al-Qaeda cũng chưa chịu lép vế. Sau vụ tấn công tờ báo
trào phúng Charlie Abdo ở Paris, mới đây, bọn khủng bố al-Qaeda lại tấn công vào một khách sạn
sang trọng ở thủ đô nước Mali, giết 22 du khách Tây Phương. Al-Qaeda có ảnh hưởng ở vùng Trung
Á, Iraq, Pakistan, Syria, Somalia, Yemen và có khoảng 10 tổ chức khủng bố là đồng minh.
Chữ Levant hay Syria trong tên ISIL hay ISIS là lãnh thổ kéo dài từ Turkey qua Syria cho đến
Egypt. Nó bao trùm luôn cả lãnh thổ Palestin, Jordan và Lebanon. Từ đó, chúng ta thấy tham vọng
của bọn ISIS là muốn hình thành một nhà nước Islam theo chế độ Caliphate trên một vùng rộng lnớ
bao trùm nhiều quốc gia Hồi Giáo hiện nay.
Nhận diện đúng kẻ thù
John Kerry đã tuyên bố vào tháng giêng 2014, và còn lập lại lần nữa tại Diễn Đàn Phát Triển
Toàn Cầu (Global Development Forum) vào tháng 9 cùng năm: “‟Nguyên nhân của khủng bố là do
sự nghèo khó. Để cho giới trẻ không theo ISIS, chúng ta cần giúp đỡ cho họ các cơ hội kinh tế”.
“Jihadists không có kế hoạch tạo công ăn việc làm hay tạo các cơ hội … mà người ta muốn
có…Nhưng chúng nhắm vào những người bị dằn vặt tự cho mình bị bỏ rơi.”
Thực tế: Thủ lĩnh của al-Qaeda là Osama Bin Laden từng là tỷ phú ở Saudi. Có rất nhiều tài năng
từ giai cấp trung lưu (đa số gốc Arab, Islam) từ các quốc gia Tây Phương đã từ bỏ cuộc sống sung
túc để theo ISIS. Ví dụ: Ahmad Abousamra, dân Mỹ gốc Syria, gia đình giàu có cư ngụ trong khu
vực trưởng giả ở Stoughton, Massachussetts. Là con một Bác Sĩ, học giỏi được nhiều khen thuởng, y
có thừa cơ hội thăng tiến trong xã hội Mỹ. Ahmad đã rời Mỹ để đến Syria gia nhập khnủg bố năm
2006, y cùng Tarek Mhanna, một dược sĩ ở Boston, phụ trách truyền thông cho al Qaeda. Samir
Khan, công dân Mỹ gốc Pakistan ở Charlotte, North Carolina, một trí thức trung lưu trẻ, đã theo al
Qaeda năm 2009 và đảm nhiệm vai trò chủ biên tạp chí Inspire của bọn khủng bố…
Binh thư Tôn Tử có câu: Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng. Nếu không nhận rõ kẻ thù là ai,
nền tảng của họ là gì? Họ suy nghĩ và hành động ra sao… thì có đánh cả chục năm cũng không thắng
được.
Trong chiến dịch tranh cử năm 2012, ngay sau khi ISIS chiếm được thành phố Falluja của Iraq,
Obama khi trả lời một phóng viên về bọn khủng bố đã tuyên bố ví bọn ISIS như là một đội banh
hạng nhì mà dù có trang bị tối tân, cũng không làm cho chúng trở mạnh hơn. (Yes, but, David, I
think the analogy we use around here sometimes, and I think is accurate, is if a JV team puts on
Lakers uniforms, that doesn’t make them Kobe Bryant. )
Từ những năm nay, bọn ISIS từ con số không đã trở nên một thế lực khủng khiếp với vài chục
ngàn chiến binh trong đó có nhiều người từ các nước Tây Phương tham gia. Chúng đánh chiếm hết
nhiều thành phố của Iraq và Syria, bao trùm cả một vùng rộng lớn gần bằng một nửa lãnh thổ
Iraq với khoảng 10 triệu dân, có hoạt động quân sự bao trùm trên nhiều nước Trung Đông và
Phi Châu cũng như khủng bố trên toàn cầu. Thế mà Tổng Thống Obama vẫn cứ tuyên bố rằng
ISIS đã bị ngăn chặn (contained) và coi nhẹ so với nạn “hâm nóng Địa Cầu” (Global
Warming). Ông ta không hề có một chiến lược quân sự để đối đầu, mà chỉ chắp vá bằng những biện
pháp cấp thời và chẳng đi đến đâu. Và sau cùng, để cho Nga và Iran nắm lấy vai trò chủ chốt trong
cuộc chiến chống ISIS. Các nước NATO đã từ lâu bất mãn và mất lòng tin vào Hoa Kỳ. Ngay sau
khi khủng bố tấn công vào toà soạn báo Charlie Hebdo ở Paris giết hết 20 người, rúng động thế giới,
các nguyên thủ các nước đều đến Paris để tham dự tuần hành, chia sẻ nỗi đau của dân Pháp, thì trong
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 60
đoàn lãnh tụ đó, thiếu vắng khuôn mặt của Obama. Đến gần đây, cuộc tấn công vào rạp hát và vài
nơi khác ở Paris, gây tử vong cho 130 nạn nhân, Tổng Thống Hollande của Pháp bay đến Mỹ để cầu
cứu, Obama chỉ có những lời tuyên bố suông mà không thấy đưa ra biện pháp cụ thể nào.
Mới đây, ứng cử viên Dân Chủ là Bernie Sander cho rằng mối nguy hiểm nhất mà nước Mỹ
đang đối phó là nạn Global Warming (địa cầu đang nóng dần). Điều này cũng trùng hợp với luận
cứ của cựu phó Tổng Thống Al Gore và TT Obama hiện nay. Như thế, theo họ, giải quyết nạn địa
cầu bị nóng lên, thì sẽ giải quyết được khủng bố Islam?
Cũng vì sự thiếu kiên quyết, đánh giá sai về khủng bố của Tổng Thống Obama, đã có 3 vị Bộ
trưởng Quốc Phòng (Robert Gates, Leon Panetta, Chuck Hagel) và nhiều vị Tướng ở Tham Mưu
Liên Quân từ chức vì thấy Obama bướng bỉnh, không nghe theo các cố vấn.
Kết Luận
Khủng bố Islam (ba tổ chức lớn nhất ISIS, al-Qaeda, Taliban…) không chỉ nguy hiểm và đáng
sợ vì những hành vi dã man ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Chúng phát triển là nhờ một ý thức
hệ, niềm tin mù quáng về một tôn giáo mang đầy tính bạo động. Bọn thủ lĩnh luôn cấy lòng căm thù
đối với ngoại đạo mà chúng cho rằng đang muốn hủy diệt Islam. Những tên jihadists mơ ước được
tử vì đạo và sẵn sàng mang bom vào người để chết. Chúng huấn luyện và sử dụng cả bọn trẻ em
nhiều khi mới 4, 5 tuổi để trở thành những con thú hung hãn, gan dạ, và liều lĩnh. Về điểm này Islam
nguy hiểm hơn Cộng Sản vì Cộng Sản không mang tính cách tôn giáo nên mức ócuồng tín của người
theo CS cũng còn giới hạn. Ngày nay, bọn khủng bố có những chuyên viên đến từ các nước Tây
Phương, sử dụng tất cả những phương tiện tân tiến nhất để tuyên truyền và tuyển mộ cũng như qua
mặt các nước trong việc xâm nhập người và vũ khí. Mối nguy nằm ngay cả trong lòng xã hội Âu Mỹ
với số lượng người Islam di dân ngày càng tăng, và bọn Imams luôn khích động trong các nhà thờ
Hồi Giáo.
Nói theo cách nói của người Mỹ, ISIS và các
nhóm khủng bố Islam là mối nguy rõ ràng trong hiện
tại, Clear and Present Danger. Nhưng qua các phần
phân tích về lịch sử tranh chấp văn hoá Hồi và văn
minh Tây Phương, cũng như tranh chấp ảnh hưởng
của các cường quốc và ngay trong lòng các quốc gia
Hồi Giáo, chúng ta thấy mối nguy này còn lâu dài vì
người Islam hôm nay tuy đứng về phe chống ISIS
như Iran, vẫn coi Hoa Kỳ và Tây Phương là thù;
người Islam ngày nay là ôn hoà, ngày mai có thể trở
thành cực đoan vì ngay trong nội bộ của họ, phe Sunni vẫn là đa số, và luật Sharia, kinh Qur‟an vẫn
là kim chỉ nam. Họ không hiếu hoà và độ lượng như bà Clinton đánh giá đâu. Khi vượt biển Địa
Trung Hải để tị nạn ở Italia, bọn Ả Rập Hồi đã giết chết những người Ả Rập Thiên Chúa Giáo quăng
xuống biển. Ở Đức, khi các nhóm Hồi tị nạn đánh nhau tranh giành đồ cứu trợ, những nhân viên Đức
đã phải thốt lên: “Đến bọn người cùng giống mà cũng không hoà hợp được với nhau, thì làm sao họ
hoà hợp được với dân Đức mà nền văn hoá khác biệt rất xa?‖
Do đó, Tây Phương phải vừa có chính sách khôn khéo để giữ cân bằng quyền lực trong đối
ngoại, vừa phải có biện pháp trong đối nội để ngăn ngừa sự phát triển khủng bố ngay trong lòng đất
nước mình. Tôi xin hẹn kỳ sau sẽ nói về vấn đề Khủng Bố Trong Nước (Domestic Terrorism vs.
Home Grown Terrorism).
Trẻ con vài
ba tuổi đã
được dạy
giết người
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 61
Nạn Khủng Bố tại Hoa Kỳ
Khủng bố là loại hoạt động dùng bạo lực nhắm vào
đối phương, không chỉ quân đội và nhà cầm quyền mà
còn nhắm vào dân chúng, không chừa một ai, già trẻ,
lớn bé, thôn quê hay thành thị. Mục đích là gây sự sợ
hãi, làm tê liệt sinh hoạt xã hội, triệt hạ uy tín nhà cầm
quyền. Thời chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản đã áp
dụng khủng bố liên tục 21 năm dài: Các hình thức
thường dùng là (1) ám sát cán bộ, quân nhân, giáo
chức, nhân viên bệnh xá bằng cách dã man như chặt
đầu, bỏ bị thả trôi sông, mổ bụng vân vân (2) đặt mìn
trên đường lộ để làm nổ tung những chuyến xe hàng
giết hành khách (3) đốt phá trọn làng, thôn, (4) pháo
kích vào khu dân cư, trường học, bênh viện, (5) đặt mìn, ném lựu đạn vào nơi dân chúng tụ họp
đông,… Theo thống kê, trong 21 năm chiến tranh, có khoảng 40 ngàn dân miền Nam đã bị khủng bố
VC giết chết, trong đó, đáng kể là vụ giết chết hơn 6000 người tại Huế trong trận tấn công Tết Mậu
Thân.
Ngày nay, Mỹ và các nước Âu Châu đang phải đương đầu với nạn khủng bố của các tổ chức Hồi
Giáo cực đoan. Bọn này về mức độ dã man có lẽ còn hơn nhiều so với Cộng Sản. Cộng Sản tuy giết
người nhưng biết sợ công luận. Chúng tìm mọi cách che dấu, chối tội trước dư luận quốc tế. Còn bọn
Hồi khoe khoang chuyện giết người như là chiến công. Chúng làm phim chiếu lên các phương tiện
truyền thông để gây sốc cho nhân loại. Khủng bố có hiệu lực hơn chiến trận. Quân đội có thể suy
đoán địch sẽ điều binh lúc nào, thế nào, mức độ nào, còn khủng bố thì nó xảy ra bất cứ đâu. Cơ quan
an ninh phải vất vả theo dõi và chắc không thể nào nắm hết tình hình được trong một nước dù lớn
hay nhỏ. Ngoài ra còn những Hiến Pháp, luật lệ và công luận, nhiều khi trói tay các cơ quan an ninh
vì sợ bị tội vi phạm quyền tự do, sự kỳ thị, sự riêng tư của công dân…
A.- Phân Biệt các loại Khủng Bố, Bạo Hành:
1.- Bạo Hành trong Gia Đình (Domestic Violence) , tức là những tranh chấp, cãi vã, xô xát xảy
ra giữa các thành viên trong gia đình mà có thể đưa đến án mạng, thương tích.
2.- Bạo Hành nơi Làm Việc (Workplace Incident), trong trường hợp xô xát xảy ra tại nợi làm
việc giữa các đồng sự với nhau. Có khi do người ngoài gây ra, nhưng vì lý do thù oán cá nhân hay
bất mãn.
3.- Khủng Bố Nội Địa (Domestic Terrorism):
Còn gọi là Homegrown Terrorism. Theo tài liệu của
cơ quan FBI, điều 18 USC-2331, chương 113B phân
loại và định nghĩa “Khủng Bố Nội Địa” như sau:
- Các hành vi vi phạm luật pháp Liên bang hay
Tiểu Bang xảy ra trong lãnh thổ Hoa Kỳ gây nguy
hiểm đến nhân mạng nhắm vào (1) cưỡng ép, đe doạ
dân chúng, (2) gây ảnh hưởng đến chính sách của
chính phủ bằng đe doạ, cưỡng bức, hay (3) tác động
đến công việc của chính phủ bằng sự phá hoại, ám
Chúng chỉ muốn bành trướng đạo Islam thôi
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 62
sát, bắt cóc…
- Điều 18 U.S.C. § 2332b ấn định tội phạm cấp liên bang liên quan đến khủng bố như sau:
Hành vi có tính toán để gây ảnh hưởng đến chính quyền bằng sự cưỡng bức hay đe doạ, hay trả
thù nhắm vào chính phủ trong đó có việc tấn công vào các cơ quan hay giết nhân viên chính phủ.
Khủng bố Nội điạ do chính công dân Hoa Kỳ hay người nước ngoài nhập cư gây ra ngay trong
nước Mỹ. Có nhiều nguyên nhân khác nhau: có thể do một vài người gây ra vì kỳ thị đối với nhóm
dân nào đó, tôn giáo nào đó, hay bất mãn với chính quyền, hay có khi chỉ vì trí óc bất thường chỉ
thích gây khủng bố để thoả mãn cá tính.
Ngay cả khủng bố Hồi Giáo cũng có thể do một vài người (công dân Mỹ hay không) được gọi là
Lone Wolf; hoặc do sự chỉ huy của tổ chức khủng bố từ bên ngoài nước.
Loại khủng bố giết người hàng loạt không nước nào không có.
Có thể nói việc bạo hành bằng súng đạn gần như xảy ra hàng ngày trên đất Mỹ và cũng không
thiếu tại các nước khác. Tổng Thống Obama đã tỏ ra thiển cận khi cho rằng nó chỉ xảy ra ở Mỹ mà
thôi. “I mean, I say this every time we go one of these mass shootings, this just doesn’t happen in
other countries”. Câu nói này có mục đích chính trị khi đảng Dân Chủ đang chủ trương giới hạn gắt
gao việc sở hữu súng đạn, mà Tu Chính Án số 2 của Hiến Pháp Hoa Kỳ đã cho phép người công dân
được quyền mang súng “A well regulated militia being necessary to the security of a free state, the
right of the people to keep and bear arms shall not be infringed”
Vài ngày sau khi Obama tuyên bố bọn ISIS đã bị ngăn chặn, thì xảy ra nạn thảm sát 130 người ở
Paris. Để trả lời cho câu nói của Obama : “ISIS không là mối nguy hiện nay cho nước Mỹ” (ISIS
doesn’t pose existential threat to US), thì lập tức xảy ra vụ 2 vợ chồng Hồi Giáo nổ súng bắn chết 14
người ở San Bernardino.
Dân chúng Mỹ thắc mắc tại sao Tổng Thống Obama và Bộ Trưởng Tư Pháp Loretta Lynch cứ né
tránh chỉ ra đích danh Khủng Bố Hồi Giáo, Hồi Giáo Cực Đoan (vụ Hassan ở Fort Hood, vụ
Chattanooga, vụ San Bernardino…)
Tại sao Obama nhanh nhẩu lên tiếng, bay đi thăm nơi xảy ra các vụ giết người do người Mỹ da
trắng (Oregon, Colorado Springs, Charleston…), nhưng im lặng trước các vụ Islam bắn người Mỹ?
B.- Khủng Bố trên đất Mỹ:
Mỗi năm, có hàng chục vụ khủng bố các loại xảy ra tại Hoa Kỳ do cá nhân hay các tổ chức.
Chúng ta có thể kể đến các tổ chức và cá nhân nổi bật như sau:
- Ku Klux Klan (KKK). Hoạt động từ năm 1865, là tổ chức cực đoan của người da trắng chống
di dân và người da đen. Thời Chiến Tranh Lạnh, họ chống cả Cộng Sản. Thành viên có khi lên tới 6
triệu (1924). Đến thập niên 1970 thì tàn lụi dần. Nay tuy đã không thấy công khai nhưng chưa hẳn
chấm dứt.
- Tả Phái – Leftism. Coi như bắt đầu khi một tên gốc Nga Leon Czolgosz ở New York ám sát
TT William McKinley ngày 6 tháng 9, 1901. Sau đó là hàng loạt các vụ đánh bom vào toà soạn báo
Los Angeles Times, Sở Cảnh sát, phố Wall Street, và các cơ quan chính phủ, quốc hội … kéo dài
cho đến vụ tấn công vào Trụ sở Thượng Viện Mỹ ngày 67 tháng 11, năm 1983 để phản đối Hoa Kỳ
tấn công Grenada.
- Tổ Chức coi người Da Trắng là Tối Thượng -White supremacy
Quy tụ những người da trắng tư cho chủng tộc mình là đứng trên tất cả các sắc dân khác. Năm
1951 có hàng loạt vụ đánh đập đến chết, nổ bom tại Florida chống lại người Do Thái và da màu.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 63
Mới nhất là vụ tên thanh niên Dylan Roof, 21 tuổi bắn chết 9 người da đen đang cầu nguyện trong
nhà thờ ở Charleston, South Carolina ngày 17 tháng 6, 2015.
- Bài Do Thái - Antisemitism
Ngày 12 tháng 10-1958: Đánh bom vào một buổi lễ lớn của tín đồ Do Thái ở Atlanta, Georgia.
Gần nhất là vụ xâm nhập bắn chết 3 người Do Thái tại Trung Tâm sinh hoạt Cộng Đồng Jewish
Kansas City và Village Shalom ở Overland Park,
Kansas.
- Nhóm Quốc Gia Puerto Rican Nationalism
Hoạt động từ năm 1954 nhắm vào chính quyền
và các khu buôn bán ở Mỹ.
Ngày 3/8/1977 đánh bóm vào nơi cư ngụ của nhân
viên Bộ Quốc Phòng. Ngày 15/3/1980 tấn công vào
trung tâm vận động tranh cử của TT Jimmy Carter ở
Chicago, và của TT George H.W. Bush ở New
York City. Ngày 31/12/1982 đánh bom vào trụ sở
FBI và Toà Án ở Brooklyn, NY.
- Chiến Binh Palestinian [Black September]
Coi như bắt đầu bằng vụ đánh bom (nhưng thất bại) ở New York khi Thủ Tướng Do Thái đến
thăm thành phố này. Sau đó là hàng loạt vụ ám sát, đánh bom nhằm vào người Do Thái, nhưng có
khi giết luôn nhân viên công lực Mỹ.
Vụ cuối cùng ghi nhận là thảm sát trên chuyến xe lửa ở Long Island nhắm vào hành khách da
trắng tháng 12, 1993 và vụ âm mưu phá toà nhà của công ty Sears năm 2006.
- Cực Đoan Do Thái (Jewish extremism)
- Các Khủng Bố Chống Chính Quyền và Chống Khuynh Hướng Liberal (Anti-government,
and anti-liberal)
Các vụ điển hình là vụ Timothy McVeigh và Terry Nichols đánh bom Cơ Quan Liên Bang tại
Oklahoma City vào ngày 19 tháng 4, 1995 làm chết 168 người. Vụ Eric Robert Rudolph đánh bom
vào Vận động trường Atlanta trong kỳ Thế Vận Hội 1996. Jim David Adkisson xả súng bắn vào nhà
thờ Unitarian Universalist Church ở Knoxville, Tennessee.
Và hàng chục vụ khác có gây tử vong.
- Công Giáo Cực Đoan - Christian extremism
Thường là chống lại sự Phá Thai, hiện tượng Đồng Tính. 1993: Michael F. Griffin giết David
Gunn. Reverend Paul Jennings Hill giết John Britton và James Barrett. Eric Rudolph đặt bom vào
nhiều nới tập trung dân đồng tính như ở Atlanta's Olympic Centennial Park và các bệnh viện phá
thai. 1998: James Kopp bắn giết người nhiều bệnh viện phá thai ở Mỹ và Canada.
Scott Roeder giết George Tiller in Kansas.
- Mặt Trận Thống Nhất Hoàng Cơ Minh. Tuy chỉ là tép riu so với các nhóm khủng bố khác,
nhưng cũng được các nhà báo Mỹ Front Line theo dõi, và mới đây được quay thành phim Terror in
Little Saigon do đài PBS vừa trình chiếu. Cuốn phim gây xôn xao trong cộng đồng Việt Tị nạn Cộng
Sản.
- Hồi Giáo Cực Đoan - Islamic Terrorism. Khủng bố Hồi Giáo là những hành vi khủng bố do
những người, hay nhóm người Hồi Giáo vì các động lực và mục tiêu của đạo Islam được diễn dịch
từ kinh Qur‟an và Hadith, dùng lời dạy trong kinh sách này để biện minh cho sự sử dụng bạo lực
như tàn sát tập thể, diệt chủng, lạm dụng trẻ em, thực thi nô lệ. Từ hàng chục năm nay, khủng bố Hồi
Giáo xảy ra trên toàn cầu nhắm vào những người thuộc tôn giáo khác, và ngay cả người Hồi Giáo
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 64
không cùng môn phái với họ. Họ gây chiến tranh trong nội bộ Hồi Giáo như đang diễn ra ở Trung
Đông.
Qua lần trước, chúng tôi đã trình bày sơ qua về các tổ chức khủng bố Hồi Giáo cực đoan. Mạnh
nhất hiện nay là ISIS, kế đó là al-Qaeda. Taliban chỉ hoạt động trong
nội địa Afghanistan. Ngoài ra còn hàng chục tổ chức khác như al-Nusra
ở Syria, Muslim Brotherhood ở Egypt, Boko Haram ở Nigeria, Hamas
ở Palestine…
C.- Khủng Bố Hồi Giáo: Mối Đe Dọa Thường Trực.
Bây giờ chúng ta đi vào chủ đề chính là các hoạt động khủng bố
Hồi Giáo trên đất Mỹ mà đã xảy ra cũng từ rất lâu, nhưng bùng nổ
mạnh kể từ sau vụ đặt bom ở World Trade Center, New York năm
1993, rồi đến năm 2001, 19 tên không tặc al-Qaeda đã cướp các phi cơ
hành khách của Mỹ đâm thẳng vào 3 nơi, trong đó có toà tháp đôi ở World Trade Center này, làm
chết 2977 thường dân vô tội.
1.- Dân Muslim trên đất Mỹ
Con số dân Hồi Giáo tại Mỹ gồm dân
Mỹ cải đạo, di dân từ các nước Hồi Giáo.
Con số này dao động từ 5 đến 8 triệu, tùy
theo các thống kê khác nhau.
Di dân vào Mỹ mỗi năm. Từ 2000 đến
2010, có 14 triệu di dân hợp pháp vào Hoa
Kỳ. Từ 2010 đến nay, trung bình mỗi năm
có 1,031,712 người.
Con số di dân từ các nước Hồi Giáo
hay có dân Hồi giáo từ 1986 đến 2012 là
2,655,281 chia ra như sau:
Từ các nước Trung Đông và Pakistan,
Bangladesh, Indonesia: 1,568,031; Từ các
nước Đông Âu: 333,967; và các nuớc Bắc
Phi: 753,283. Nâng số dân các nước Hồi
Giáo sinh sống trên đất Mỹ năm 2013 là
2,844,318 ngưòi. Xin nhớ rằng những
người từ Đông Âu và vài nuớc Hồi Giáo
có thể có nhiều người Thiên Chúa Giáo.
Với các số liệu trên, chúng ta có thể
biết rằng trước năm 1986, tổng số dân các
nước Hồi Giáo ở Mỹ rất ít, chỉ có dưới 200
ngàn mà thôi.
Một thống kê trên
http://www.muslimpopulation.com/Ameri
ca/ cho biết dân Muslim tại Mỹ năm 2014
là 6.67 triệu, chiếm 2.11% tổng dân số và
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 65
trên đà gia tăng mạnh.
Trong cuốn sách nhan đề ISIS Exposed, tác giả Erck Stakelbeck đã gọi khu dân tị nạn Hồi Giáo
Somalia ở Twin Cities là The Islamic State of Minnesota. Đây là khu định cư của hơn 100 ngàn dân
tị nạn từ Somalia, là căn cứ yểm trợ cho nhóm Khủng Bố Hezbollah. Từ năm 2007, đã có hàng chục
thanh niên nam nữ Somalia từ Twin Cities dùng thông hành Mỹ để đến các vùng kiểm soát bởi
khủng bố và gia nhập al-Qaeda, al-Shabaab. Sau năm 2012, thì chúng gia nhập ISIS.
2.- Nguyên Nhân Tham Gia Khủng Bố:
- Một trong những nguyên nhân chung của bạo lực và khủng bố là nền văn hoá bạo lực. Nước
Mỹ chuộng văn hoá bạo lực, nó làm cho con người trở nên hung bạo. Đa số phim ảnh miêu tả cảnh
đánh đấm giết nhau đủ kiểu, và thường quay với xảo thuật để thấy như thật. Các trò chơi cho trẻ em
cũng nhắm vào cảnh giết chóc, truy đuổi với những nhân vật rất hung tợn. Ngày trước, thiếu niên
dùng thì giờ đọc sách để mở mang kiến thức. Hiện nay từ khi mở mắt cho đến quá giờ đi ngủ, các
em say mê với những trò chơi trên laptop, ipad; chơi ham đến quên ăn quên ngủ, mà các bậc cha mẹ
thì bận công ăn việc làm ít khi để mắt đến con cái. Các em lớn lên cá tính thế
nào, sẽ trở nên loại người nào, chắc ai cũng biết trước.
- Sự trầm cảm, bị cô lập, bức hiếp. Ở Colorado, có một thiếu nữ Mỹ trắng
19 tuổi là Shannon Conley đã bị bắt tại phi trường Denver khi sắp lên máy
bay đi Syria để gia nhập ISIS. Cô này được miêu tả là cô gái cô đơn, có nhiều
rối loạn trong đời sống. Cô thú nhận là đã yêu một tên khủng bố jihadist qua
facebook.
- Mất Phương Hướng cuộc đời, Đi Tìm Căn Cước. Các người Mỹ theo
khủng bố Islam thường là người Mỹ gốc Bắc Phi, Mỹ gốc các nước Hồi Giáo.
Do văn hoá quá cách biệt, những thanh niên Hồi ở các quốc gia dân chủ thưòng có mặc cảm bị kỳ
thị, bị cô lập. Do đó, dễ bị các tổ chức khủng bố khai thác để tuyển mộ thành viên. Lợi dụng tình
cảnh xâu xé ở Trung Đông, bọn Hồi cực đoan sẽ thuyết phục rằng: “Những người anh em Hồi Giáo
đang bị đàn áp. Chỉ có chúng tôi là sẽ sẵn sàng giúp các bạn. Tại sao không gia nhập cuộc chiến?”
Theo nhà nghiên cứu Richard Barrett của nhóm The Soufan Group thì nhiều thiếu niên bị lạc
lỏng, vong thân, không tìm được vị trí của mình trong đời sống xã hội, và họ tin rằng ISIS có câu trả
lời cho họ mà thôi. (many of the teens lack a sense of belonging where they live, and they believe
ISIS can give it to them)
Con số chiến binh ngoại quốc (từ các nước ngoải khu vực Trung Đông) chiến đấu trong hàng
ngũ ISIS là khoảng 7000 người. Từ 2011, có từ 100 đến 200 người Mỹ đi Syria với nhiều lý do. Cơ
quan an ninh đang lo ngại không rõ trong số này có bao nhiêu người sẽ gia nhập hoạt động cho
khủng bố. Do thiếu tin tức nên khó biết con số chính xác, nhưng người ta ước chừng vài chục người
nếu kể những người tham gia trong hai tổ chức ISIS hoặc al-Qaeda.
Có ít nhất 2 công dân Mỹ trong phe ISIS đã bị giết trong khi chiến đấu. Một da đen tên là
Douglas McAuthur McCain; tên thứ hai là Abdirahmaan Muhumed, dân Mỹ gốc Somalia.
Vào tháng 5-2015, tên đánh bom tự sát tại Syria là một thanh niên quốc tịch Mỹ 22 tuổi từ
Florida. Tháng 11 vừa qua, cơ quan an ninh tại Germany đã bắt giữ ba cô gái Mỹ gốc Sudan ở
Colorado khi chúng sửa soạn lên máy bay đi Syria gia nhập ISIS. Tại thành phố Minneapolis-St.
Paul, vào tháng 8 vừa qua, cũng có 4 cô gái gốc Somalia trốn gia đình đi Syria tham gia ISIS.
- Tuyên truyền tinh xảo của ISIS: ISIS từ lâu đã tuyển mộ được nhiều chuyên viên về truyền
thông trên mạng để xây dựng một mạng lưới tuyên truyền rất tinh xảo. Chúng dùng kỹ thuật lắp
ghép, tạo hình để tung ra những Video không thua gì phim ảnh Hollywood để phô trương sức mạnh,
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 66
những chiến thắng dồn dập, những hình ảnh bạo lực của kẻ mạnh, và những hứa hẹn về cuộc sống
mới trong vùng chúng kiểm soát. Đối với những thanh niên, chúng hứa hẹn vinh quang, cuộc chiến
anh dũng, sống trong tình chiến hữu, được thưởng cho những người vợ và cung cấp nơi ăn chốn ở.
3.- Cá Nhân (lonewolf) và Tổ Chức Khủng Bố Hình Thành Như Thế Nào?
3.1.- Nằm Vùng (Sleeping Cells), Xâm Nhập (Infiltration): nói đến những người được tổ chức
khủng bố gài vào trong nước Mỹ để chờ dịp được lệnh hoạt động. Theo cách nói của chúng ta, đó là
bọn nằm vùng như cán binh VC sau Hiệp Định Geneve không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam trà
trộn trong dân để chờ cơ hội. Bọn này có thể là những người Mỹ Hồi Giáo cực doan (radical) hay
bọn Hồi đến Mỹ qua các thành phần du lịch, du học rồi trốn ở lại hoặc các vị hôn thê, vị hôn phu
được bảo lãnh. Cơ quan an ninh Mỹ thú nhận không thể theo dõi kiểm soát hết được thành phần này
một khi họ đã vào đất Mỹ.
Cựu Giám Đốc CIA Michael Hayden coi nạn khủng bố nội địa là mối nguy lớn nhất hiện nay đối
với nhân dân Mỹ. Từ năm 1993 đến 2001, bọn khủng bố Islam gia tăng cường độ tấn công trên đất
Mỹ. Hầu hết các cuộc khủng bố là do bọn Islam, ngoại trừ vụ đánh bom vào cơ quan Liên Bang tại
Oklahoma City năm 1995.
Ngày 11 tháng 9, 2001, 2977 thường dân, nhân viên cấp cứu, lính cứu hoả, cảnh sát, và quân đội
đã bị chết do vụ đánh bom tự sát của 19 tên không tặc al-Qaeda gốc Saudi. Tính từ vụ 11/9/1001
đến tháng 7 năm 2011 có 52 vụ khủng bố trên lẽnh thổ Hoa Kỳ do bọn Jihadists thưc hiện hay dự
mưu..
Từ 2007, có trên 50 công dân và thường trú nhân Hoa Kỳ bị bắt giữ vì có ý đồ gia nhập bọn
khủng bố nước ngoài, trong đó có al-Qaeda và al-Shabaab. Chỉ trong năm 2013, có 9 người Mỹ tham
gia tổ chức khủng bố, giúp cho chúng hiểu biết tường tận về nội tình nước Mỹ.
Ngoài tên Anwar al-Awlaki có nhắc đến ở trên, một công dân Mỹ
khác là Adnan Shukrijumah được coi là thành viên người Mỹ cao cấp
nhất trong tổ chức al-Qaeda. Tên này sinh ra ở Saudi, lớn lên ở Trinidad,
và di dân đến Florida khi còn thiếu niên và rời Mỹ năm 2001. Tên này tổ
chức các vụ khủng bố nhắm vào Mỹ và Anh Quốc để rồi bị giết tại
Pakistan vào cuối năm 2014.
3.2.- Radicalization: Những công dân Mỹ Hồi Giáo bình thường
hoặc những người không Hồi Giáo khác bị hấp dẫn bời những tuyên
truyền trên mạng hay qua bạn bè Hồi Giáo, họ theo đạo Islam và bị kích
thích bởi những hứa hẹn của các tổ chức Hồi cực đoan để trở thành tên
khủng bố. Đây là trường hợp của Syed Farook (công dân Hoa Kỳ gốc Saudi), sinh đẻ lớn lên ở Mỹ,
làm công chức cho quận San Bernardino, nhưng đã đi Saudi Arabia để cưới Tashfeen Malik là
người Pakistan rồi bảo lãnh theo trường hợp vị hôn thê. Và kết quả là họ đã thực hiện vụ khủng bố
ngày 2 tháng 12 vừa qua tại San Bernardino. Qua điều tra, cho biết chính Syed đã bị nhiễm độc cực
đoan trước khi làm quen với Tashfeen. Và hai tên này đã dự trù sau vụ này sẽ nhắm vào các mục tiêu
lớn có thể làm chết hàng trăm người.
Tại Mỹ, có hàng ngàn nhà thờ Hồi Giáo (Mosques), trong đó không thiếu những nơi đã và đang
là cơ sở tuyên truyền tuyển mộ cho khủng bố. Khi các cơ quan an ninh gài cameras để theo dõi, họ
phản đối coi là vi phạm sự riêng tư. Cuối cùng phải tháo gỡ cameras để bọn imams tự tung tự tác
trong khuôn khổ nhà thờ của họ.
4.- Môi Trường để Khích Động, Tuyên Truyền tạo ra những người Hồi Giáo cực đoan
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 67
4.1 - Nhà Tù: Hoa Kỳ là nước có số lượng tù nhân cao nhất thế giới. Đây là môi trường thích
hợp để tuyên truyền, xúi dục bạo động, và dễ thuyết phục êm tai làm cho người tù trở thành cực
đoan. Đa số tù thiếu tin tức để tìm hiểu và phân biệt giữa khuynh hướng ôn hoà và cực đoan. Bọn
imams Hồi Giáo sẽ lợi dụng sự thiếu thốn về phương tiện và điều kiện thực hành tôn giáo trong nhà
tù để gieo rắc vào trong đầu những sự bất mãn, thù oán dẫn đến tư tưởng bạo động. Cũng do hệ
thống nhà tù không đủ nhân vật lực để ngăn ngừa sự phát tán những luồng tin và tuyên truyền cực
đoan. Tại nhà tù New Folsom, California, có nhóm tù nhân cực đoan Jami‟iy yat Ul-Isla Saheeh
(JIS) tuy ở trong tù, nhưng đã điều khiển tấn công hàng loạt vào chính quyền địa phương và các mục
tiêu Do Thái. Tháng 7, 2005, bọn này dính líu đến hàng tá những vụ cướp các trạm xăng ở Los
Angeles để kiếm tiền cho các hoạt động khủng bố. Nhưng chính phủ vì lý do nào đó, đã không xem
đây là mối nguy Hồi Giáo cực đoan đối với an ninh quốc gia
4.2 - Các Nhà Thờ Hồi Giáo (Mosques)
Nhiều nhà thờ Hồi Giáo là nơi vận động, tuyên truyền cho khuynh hướng cực đoan và bạo động.
Nhóm The North American Islamic Trust (NAIT), có quan hệ với tổ chức Muslim Brotherhood, làm
chủ 300 cơ sở gồm nhà thờ và trường học Hồi Giáo. Trên trang web của nhóm này có ghi mục tiêu:
“NAIT không quản lý hay can thiệp vào sinh hoạt hàng ngày của những cơ sở này, nhưng yểm trợ và
cố vấn cho họ về những hoạt động cho phù hợp với luật Sharia" (NAIT does not administer these
institutions or interfere in their daily management, but is available to support and advise them
regarding their operation in conformity with the Shari'ah.) Tổ chức này có ảnh hưởng lớn đến rất
nhiều cơ sở Hồi khác trên đất Mỹ
Vì tôn trọng tự do tín ngưỡng, chính phủ Mỹ không có chính sách gì về các nhà thờ Hồi Giáo và
cũng không có biện pháp để theo dõi các hoạt động của họ.
4.3 -Truyền thông Internet
Khác xa với bọn Taliban chỉ gồm những dân quê thất học Afghanistan, Tổ chức khủng bố ISIS
quy tụ được nhiều tài năng về tin học để sử dụng các phương tiện Social Media là vũ khí điều hợp,
tuyên truyền, tuyển mộ và huấn luyện. Al-Qaeda vùng bán đảo Arab (Al-Qaeda in the Arabian
Peninsula (AQAP) đã phát hành tạp chí bằng Anh Ngữ trên mạng có tên Inspire nhắm vào đối tượng
là các thanh niên Tây Phương. Trong tạp chí này còn dạy cách làm bom, cách di chuyển từ nước này
qua nước nọ mà không bị phát giác, cách ngụy hoá các thư từ, và đặc biệt, danh sách những người
cần phải ám sát. Tên Tổng Biên Tập là Samir Khan, một công dân Hoa Kỳ ở Yemen. Anwar al-
Awlaki một thành viên cao cấp của al-Qaeda, được ví như là một Bin Laden trên mạng, cũng là một
công dân Mỹ, sinh đẻ tại Tiểu Bang New Mexico. Tên này từng là imam ở một mosque ở Falls
Church, Virginia. Anwar al-Awlaki và Samir Khan đã bị giết bởi hoả tiễn tinh khôn từ một phi cơ
không người lái (drone) của Mỹ năm 2011 ở một vùng phía nam Yemen.
Một nhóm khác mệnh danh là Cách Mạng Muslim (Revolution Muslin) do hai tên Yousef al-
Khattab và Younes Abdullah Mohammed thành lập. Hai tên này mới cải đạo Islam. Mục đích của
nhóm là “thiết lập luật lệ Islam trên nước Mỹ, tiêu diệt nước Do Thái, và truyền đạt thông điệp của
al-Qaeda cho quần chúng.”
Các websites và Facebook để liên lạc giữa bọn khủng bố này đã bị cơ quan an ninh xoá bỏ sau
khi chúng kêu gọi giết chết những thành viên Quốc Hội Anh. Trang web revolutionmuslim.com nay
chuyển qua một trang khác mang tên Islam Policy điều hành bởi tên Younes Abdullah Mohammed.
Điều nguy hiểm của những truyền thông mạng là chúng tạo cơ hội cho những người trở thành cực
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 68
đoan tham gia sâu hơn vào các hành vi khủng bố, và kết hợp bọn này trong phạm vi Hoa Kỳ và thế
giới.
4.4.- Phản Ứng của Cộng Đồng Muslim tại Mỹ
Không phải ai Muslim đều ủng hộ bọn khủng bố. Đã có nhiều người Mỹ gốc Muslim lên tiếng
chống lại những hoạt động khủng bố. Tiến Sĩ Zuhdi Jasser, Chủ Tịch Nghị Hội Dân Chủ của Hồi
Giáo tại Hoa Kỳ đã nói trước cuộc điều trần tại Hạ Viện (2010) như sau:
“Đối với tôi, phải để cho trẻ em Mỹ gốc Muslim biết rằng tín ngưỡng là một quyền không tách
rời của công dân, và dạy cho chúng rằng các nguyên tắc đã dựng nên nước Mỹ không những không
mâu thuẫn với tín ngưỡng mà còn giúp củng cố nó. .. Vì những lý do đó, mục tiêu của chúng tôi là
cổ vũ cho những nguyên tắc của Hiến Pháp Hoa Kỳ, các quyền tự do và sự phân biệt giữa tôn giáo
và nhà nước.”
Shaykh Muhammad Hisham Kabbani, chủ tịch của Hội ồng Tối Cao Islam tại Mỹ (the Islamic
Supreme Council of America) cũng cảnh giác nạn khủng bố Hồi Giáo Cực Đoan ngay truớc biến cố
9/11.
Một trí thức Anh gốc Pakistan, Nữ Bác sĩ Quanta Ahmed, giảng dạy tại Đại Học State University
of New York, thì phàn nàn việc truyền thông và công chúng Mỹ thiếu sự nghiên cứu sâu rộng về
người Muslim mà chỉ thấy kỳ thị, nghi ngờ tất cả người Mỹ Hồi Giáo. Từ đó gây ra những mặc cảm
trong số dân Mỹ gốc Hồi Giáo.
Theo bà, người Muslim tại Mỹ rất đa dạng. Họ đến từ 68 quốc gia khác nhau và có đến hơn 70
giáo phái (sects), vì thế rất khó nhận dạng và từ đó, làm gia tăng nhu cầu điều tra, cảnh giác về họ.
Theo thăm dò của Pew năm 2011, mức độ mộ đạo của người Hồi Giáo ở Mỹ cũng khác nhau. Có
đến hơn một nữa số người Mỹ gốc Hồi Giáo không đi dự thánh lễ hàng tuần. Và họ đều xác nhận
rằng đời sống ở Hoa Kỳ tốt hơn tại các nước Hồi Giáo, xét về những quyền tự do của con người.
5.- Các Vấn Đề Khó Khăn
5.1.- Chưa được hành pháp coi là mối nguy trầm trọng. Khi được tham khảo, có gần 70% số người phê bình rằng Obama không có sách lược chống
khủng bố.
Xin nhắc lại, tổng thống Hoa Kỳ Obama và Bộ Trưởng Tư Pháp Loretta Lynch đã rất nhiều lần
không nhìn nhận những vụ khủng bố xảy ra trên đất Mỹ là Khủng Bố mà coi là sự lạm dụng vũ khí.
Họ lái sang vấn đề sử dụng vũ khí, hay cao lắm là bạo lực trong nước nhằm áp dụng sự cải cách
trong Tu Chính Án số 2. Ngay cả sau khi cơ quan FBI tìm ra bằng chúng cặp vợ chồng Syed Farook
và Tashfeen Malik tuyên thệ trung thành với tổ chức ISIS, cũng như tìm ra cả kho vũ khí, chất nổ
trong nhà hai tên này, Tổng Thống Obama vẫn bướng bỉnh cho rằng không có bằng chứng gì về liên
hệ của bọn này với tổ chức khủng bố
Islam! Có người giải thích rằng Obama
không muốn gây tình trạng kinh sợ trong
dân chúng để tiếp tục nhận dân tị nạn
Syria; nhưng nhiều nhà chính trị gia, bình
luận gia thì cho rằng tình hình đã nghiêm
trong, không thể né tránh. Nhất là hiện có
tin cho hay bọn ISIS tìm cách trà trộn vào
dòng người tị nạn cũng như thừa khả năng
làm ra các thông hành giả của Syria để
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 69
qua mặt các cơ quan an ninh biên giới.
Trong hoàn cảnh lo âu, cảnh giác về bọn khủng bố ISIS, TT Obama vẫn không chịu thừa nhận
khủng bố là mối nguy hàng đầu của thế giới nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, khi ông tuyên bố: “Mối
đe dọa lớn nhất trên thế giới hiện nay là sự thay đổi khí hậu” (Today, there is no grater threat to our
planet than Climate Change). Có ít nhất 23 lần, Obama đã quả quyết những câu tương tự. Phụ hoạ
với Obama, ứng cử viên Dân Chủ Bernie Sander và Ngoại trưởng John Kerry cho rằng có sự liên đới
giữa khí hậu thay đổi và hiện tượng khủng bố. http://www.breitbart.com/big-
government/2015/11/14/22-times-obama-admin-declared-climate-change-greater-threat-terrorism/
Hèn chi từ khi nhậm chức Tổng Thống, năm 2009, Obama đã ra lệnh giải tán trại giam Gitmo
(Guantanamo Bay Detention Camp), nơi giam giữ gần một ngàn tên khủng bố nguy hiểm nhất mà
quân đội đổ nhiều máu và công sức để bắt giữ từ các chiến trường Afghanistan, Iraq. Obama đã dùng
lệnh hành chánh ra lệnh thả bọn tù này mà không thông qua Quốc Hội. Hầu hết bọn tù thả ra đã quay
trở về tham gia hàng ngũ khủng bố ISIS, al-Qaeda. Việc Obama trao đổi 5 tên khủng bố cao cấp
Taliban vào tháng 5 năm 2014 để đổi lấy anh Trung sĩ đào ngũ Robert Bowdrie Bergdahl đã gây bất
bình cho dân chúng Hoa Kỳ.
5.2.- Tinh thần thượng tôn pháp luật.
Tinh thần thượng tôn pháp luật là một ưu điểm lớn nhất, nhưng từ đó cũng gây ra những trở ngại
một khi tình hình căng thẳng, cần có sự uyển chuyển. Xã hội Hoa Kỳ đôi khi cứng ngắt, quá nguyên
tắc trong thi hành luật pháp. Hiến Pháp, Luật Pháp được soạn ra trong một bối cảnh xã hội mà khi có
sự biến đổi hay nẩy sinh tình hình cấp bách, nó không kịp thay đổi để đối phó. Sau khi bị khủng bố
tấn công nặng nề vào New York, các biện pháp đã được đề ra, như đặt camera những nơi cần thiết
(góc đường, nhà thờ Hồi Giáo…), đặt máy theo dõi điện thoại những kẻ tình nghi, sưu tầm tin tức kẻ
tình nghi vân vân. Nhưng không thể thi hành chu đáo vì bị vài tổ chức (như American Civil Liberties
Union) phàn nàn, hay kiện lên Tối Cao Pháp Viện với lý do xâm phạm đời tư, quyền tự do ngôn
luận, tự do tôn giáo… Chờ cho được Quốc Hội trình lên, bàn cãi, thông qua dự luật mới hay tu
chính, thì đã muộn. Vả lại, hiện nay, sự phân chia giữa hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ, giữa hành
pháp và lập pháp là khá trầm trọng. Vì thế, khó đi đến một sự đồng ý trong các vấn đề nhạy bén.
5.3.- Cơ Quan An Ninh chưa có sự phối hợp đúng mức.
Ngoài Tổng Thống Hoa Kỳ, thì các cơ quan trách nhiệm quan trọng là Cơ Quan Điều Tra Liên
Bang (FBI Federal Bureau of Investigation), Bộ An Ninh Nội Địa (Department of Homeland
Security (DHS), Và Trung Tâm Chống Khủng Bố (National Counterterrorism Center, NCTC) cũng
đã lên tiếng nhưng có khá nhiều điểm bất đồng với Tổng Thống Obama. Quý vị còn nhớ, chỉ một vài
giờ sau biến cố San Bernardino, FBI tại địa phương đã tuyên bố trước báo chí rằng đây là một vụ
khủng bố, trong khi Obama lên truyền hình lại kêu gọi xét lại vấn đề Vũ Khí (Gun Control). Điều
này có nghĩa rằng Obama chỉ coi đây là một vụ Domestic Violence.
Từ sau vụ 9/11, các cơ quan an ninh chính phủ đã cùng làm việc để tăng cường việc chia sẻ tin
tức tình báo giữa trung ương với địa phương và ngay cả trong dân chúng. Họ mở ra chiến dịch “If
You See Something, Say Something" để nâng cao mức cảnh giác trong công chúng và hợp tác với
các sở Cảnh Sát cũng như Bộ Nội An. Chính văn phòng Tổng Thống cũng ra một sách lược chống
khủng bố gọi là Empowering Local Partners to Prevent Violent Extremism in the United States để
vận động sự tham gia của quần chúng.
Trong đó đề cập: “Chúng ta phải chủ động, tích cực chống lại các luồng tư tưởng cực đoan mà
bọn khủng bố sử dụng tuyên truyền và tuyển mộ thành viên bằng cách chúng ta thách đố chúng biện
minh cho những hành vi bạo động và bằng cách chúng ta phải đề cao một cách tích cực những viễn
ảnh đoàn kết trong lý tưởng của nước Mỹ.” (We must actively and aggressively counter the range of
ideologies violent extremists employ to radicalize and recruit individuals by challenging
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 70
justifications for violence and by actively promoting the unifying and inclusive visions of our
American ideals)" và cũng thách thức những sự tuyên truyền cực đoan qua hành động và lời nói để
ngăn chặn bọn cực đoan và bọn ủng hộ chúng không khích động, tài trợ và tuyển mộ các thành viên
hay lập ra tổ chức khủng bố để xâm hại nước Mỹ.
Việc này không dễ làm. Dân chúng thì ngại bị phê bình là kỳ thị và thành kiến (Profiling). Các
giới chức liên quan như an ninh cảnh sát thì e ngại bị buộc tội và ra toà (như vụ cậu bé gốc Phi Hồi
Giáo đem chiếc hộp mà cậu ta khai là đồng hồ tự chế đến trường học. Thầy giáo cùng cảnh sát của
trường đã bị khiển trách vì nghi ngờ và có phản ứng). Giới chức cao cấp thì sợ bị báo chí hay các tổ
chức bảo vệ nhân quyền buộc tội.
Điều may mắn nhất là hiện nay, gần như tất cả các vị cao cấp lãnh đạo về an ninh, tình báo đề lên
tiếng cảnh báo về Khủng bố Hồi Giáo, dù họ nói ngược lại điều tuyên bố của chief (TT Obama và
Top Cop Loretta Lynch)
Tuy nhiên, sự hợp tác giữa các cơ quan an ninh Liên bang, Tiểu bang và các thành phố chưa
được chặt chẽ. Bộ Nội An có chính sách ngăn cấm các nhân viên Sở Di Trú (INS) truy tìm tài liệu
trong các trang mạng xã hội (Social Media) về những ngoại quốc khi họ xin visa để vào Hoa Kỳ.
Ông John Cohen, cựu Phụ Tá Bộ Trưởng Bộ Nội An đã than phiền: “Các nhân viên di trú, an ninh,
cảnh sát ghi nhận tầm quan trọng phải xâm nhập vào các trang mạng để có thể phát giác ra bọn cực
đoan có dính líu đến tổ chức khủng bố hay ủng hộ các tổ chức đó.” (Immigration, security, law
enforcement officials recognized at the time that it was important to more extensively review public
social media postings because they offered potential insights into whether somebody was an
extremist or potentially connected to a terrorist organization or a supporter of the movement). Bằng
chứng là Tashfeen Malik đã từng bày tỏ, trao đổi với Syed Farook qua facebook về thánh chiến
Jihad, nhưng cơ quan an ninh đã không phát hiện được và họ đã cấp thông hành vị hôn phu cho vào
Mỹ tháng Năm, 2014. Nghị Sĩ Charles Schumer thuộc đảng Dân Chủ đã nói: “Nếu Sở Di Trú có thể
tìm kiếm trong mạng xã hội về Tashfeen Malik, những người vô tội ở San Bernardino đã không bị
chết oan uổng”. Trong năm 2014, chính phủ đã cấp Visa cho gần 10 triệu người ngoại quốc vào Mỹ.
Thật là một con số đáng ngại.
Mới đây, Thống Đốc Tiểu Bang và Sở Cảnh Sát New York đã kêu gọi các cơ quan an ninh liên
bang trao đổi tin tức về những kẻ tình nghi khủng bố để không bán nhầm sung cho bọn chúng.
5.4.- Thiếu phương tiện, nhân vật lực, thủ tục còn nhiều sơ hở. Chính các vị lãnh đạo giới an
ninh, tình báo cũng thú nhận rằng họ không đủ tài nguyên nhân vật lực để theo dõi, điều tra và tiến
hành đầy đủ các thủ tục nhằm ngăn ngừa khủng bố trà trộn trong những người di dân, tị nạn.
Tin mới nhất: Saudi Arabia đã lập liên minh gồm 34 nước Hồi Giáo chống Khủng Bố (Saudi
Arabia, Jordan, the United Arab Emirates, Pakistan, Bahrain, Bangladesh, Benin, Turkey, Chad,
Togo, Tunisia, Djibouti, Senegal, Sudan, Sierra Leone, Somalia, Gabon, Guinea, the Palestinians,
Comoros, Qatar, Cote d'Ivoire, Kuwait, Lebanon, Libya, Maldives, Mali, Malaysia, Egypt, Morocco,
Mauritania, Niger, Nigeria and Yemen.)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 71
Nguy Cơ Hồi Giáo Hoá ở Âu Châu
Điều tất yếu phải xảy ra trong một xã hội tả khuynh, phóng túng
Mới đây, tin tức cho hay Đảng Cộng Sản Mỹ lên tiếng ủng hộ bà Hillary Clinton. Có vị nói rằng
đó chỉ là sự ủng hộ của một phía, nó không chứng minh rằng bà Clinton thiên Cộng. Bà Clinton
không thể thiên Cộng. Đúng thế. Nhưng khuynh hướng phóng túng, cấp tiến như bà từng tự nhận
cộng với những tuyên bố mị dân thì không xa gì với khuynh hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và Cộng Sản
mấy. Tất nhiên là các khuynh hướng này có những điểm chung nên dễ tìm đến nhau như ngạn ngữ
có câu “Birds of feather, flock together.” Khuynh hướng Xã Hội tuy không được công khai minh
định qua giấy mực, nhưng qua 7 năm của Obama, thì rõ ràng nó đã được thực thi từ từ. Thời trẻ của
Obama từng bị nhiễm một phần ý thức Hồi Giáo qua cha ruột người Kenya và cha ghẻ người
Indonesia; ông cũng nhiễm độctư tưởng Cộng Sản và Xã Hội qua các bạn bè, thầy giáo khuynh tả.
Và bà Clinton thì từng cộng tác đắc lực trong hành pháp Obama và cũng từng nói rằng bà ngưỡng
mộ đường lối của ông này. Nên có nhiều xác suất, bà ta sẽ tiếp tục con đường thiên tả của Obama.
Từ mấy năm qua, chúng tôi đã nghiên cứu và viết nhiều bài cảnh báo về khuynh hướng muốn
đưa nước Mỹ thành một nhà nước Phúc Lợi Xã Hội, rất gần gủi với hình thức Chủ Nghĩa Xã Hội.
Chủ nghĩa Xã hội này đã được áp dụng tại nhiều nước Âu Châu và đã có vài thành công, nhưng
nhiều thất bại. Quý vị có thể tìm đọc loạt bài này trên trang nhà
www.michaelpdo.com/category/commentaries/
Chúng tôi cũng có nhiều bài viết, bài phát thanh, hội luận về tình hình khủng bố ISIS tại Syria và
khủng bố ngay tại Hoa Kỳ để báo động về một viễn ảnh không mấy tốt đẹp của nước Mỹ trước cơn
sóng ồ ạt của sự hung ác đang hoành hành tại Trung Đông và các nước Âu Châu.
Trước hết, báo động về nguy cơ Chủ Nghĩa Xã Hội:
So với các trào lưu tả phái, Chủ Nghĩa Xã Hội nhẹ nhàng hơn, nhân bản hơn nhưng cũng là anh
em của Chủ Nghĩa Cộng Sản hung tàn mà Liên Bang Sô Viết, các nước Đông Âu và Á Châu, Mỹ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 72
Latin đã từng thực hiện và thất bại hoàn toàn. Chủ nghĩa Cộng Sản này chính thức bị chôn vùi từ
thập niên 1990 tại ngay cái nôi của nó.
Chúng ta không thể phủ nhận vài thành công của chủ nghĩa xã hội Bắc Âu: người dân được
chính phủ lo lắng cho từ khi nằm trong bụng mẹ, cho đến ngày chui vào 6 tấm gỗ quan tài.
Nhưng từ hàng chục năm qua, Chủ Nghĩa Xã Hội đã được chứng minh là thất bại tại các nước
Bắc Âu vì thực tế nó tạo ra khuynh hướng ỷ lại, lười biếng, ăn bám và phó mặc mọi việc cho chính
quyền. Khuynh hướng vươn lên, thi đua
cạnh tranh hầu như mất hẳn.
So ra, mức sống của người dân Âu
Châu từ trước và hiện nay rất kém so với
người dân Hoa Kỳ về mọi mặt. Dù người
Mỹ phải cật lực làm việc, phải mua bảo
hiểm y tế, xét về an sinh xã hội không
bằng Âu Châu, nhưng đâu có gì phải lo
lắng thái quá. Ngược lại, tại Mỹ những
tiện nghi vật chất rất cao, hàng hoá lại rẻ
và dồi dào. Những người Việt từ Âu, Úc
đến Mỹ đều ca ngợi đây mới đúng là
thiên đường. Họ dành tiền mua sắm nhiều thứ mà bên Âu Châu không thể nào mua sắm nổi.
Nhưng thiên đường Hoa Kỳ này đang bị đe doạ bởi các chính sách mang tính chất Xã Hội Chủ
Nghĩa của Obama.
Con đường tiến lên XHCH mà Obama thực thi từng phần trong gần 2 nhiệm kỳ của ông ta, mà
Hillary Clinton hứa hẹn sẽ nối tiếp - và nếu Bernie Sander làm Tổng Thống thì còn nguy hại hơn vì
ông ta chắc chắn sẽ thực hiện toàn phần. Đầu tuần này, khi Obama đến Havana thăm hữu nghị nước
Cuba là nước Cộng Sản mà Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do đánh giá rất kém về các lãnh vực, nhất là
Nhân Quyền, đã coi thù nghịch từ hơn nửa thế kỷ; ông ta tuyên bố rằng Hoa Kỳ có thể học hỏi từ
Cuba về cải thiện nhân quyền. Ông nói: “‟Hopefully, We Can Learn From’ [Cuba About Improving
Human Rights In America]” http://dailycaller.com/2016/03/21/obama-hopefully-we-can-learn-from-
cuba-about-improving-human-rights-in-america-video/#ixzz43ddanuEL
Chúng tôi rất muốn theo cách cư xử của người Mỹ là dù không ưa cá nhân ông Tổng Thống,
nhưng vẫn tỏ sự kính trọng đến chức vụ Tổng Thống (Presidency). Vì thế, tuy bất đồng trong hầu hết
các chính sách của Obama, chúng tôi vẫn không viết những lời xúc phạm nặng nề về cá nhân ông ta.
Nhưng qua câu nói vừa rồi của Obama - nguyên thủ một quốc gia hàng đầu đi truyền bá về nhân
quyền và dân quyền, và từng tự hào hơn 200 năm về tự do dân chủ - đã tự hạ mình xin học hỏi cải
thiện nhân quyền từ một nước Cộng Sản. Thì buộc lòng, chúng tôi phải đánh giá rất thấp trình độ
nhận thức chính trị của một Tổng Thống đại cường.
Khủng Bố tại Liên Âu
Sáng thứ Ba 21/3, vừa thức dậy mở đài truyền hình thì nghe tin bọn khủng bố thuộc ISIS đánh
bom vào phi trường và trạm xe điện ngầm ở Bruxelle làm chết 31 người và gây thương tích cho hàng
trăm người khác. Tuy có bàng hoàng, nhưng chúng tôi không chút ngạc nhiên; vì đây chẳng qua là
hậu quả tất yếu của những điều kiện tồi tệ do chính sách di dân lỏng lẻo và nền chính trị tả khuynh
tại Âu Châu. Không trước thì sau, các cuộc khủng bố sẽ diễn ra tại nhiều nước vì bọn khủng bố đã
tràn ngập và thao túng dễ dàng từ mấy năm nay.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 73
Điểm sơ qua những hoạt động khủng bố Hồi Giáo tại Âu Châu trong mấy năm vừa qua:
Giấc mơ Hồi Giáo Hoá Âu Châu
Trong lịch sử, Âu Châu đã có vài thời kỳ bị Hồi Giáo xâm chiếm. Các đạo quân Hồi đã chiếm
đóng, cai trị Tây Ban Nha, đảo Sicily, vùng Balkan, Hy Lạp, Hungary và Bulgaria. Chúng từng tấn
công Roma, và tiến đến cửa ngõ Vienna của Áo. Nếu không có đạo quân Pháp tinh nhuệ của Charles
Martel đại thắng quân Hồi ở Tours vào năm 732, thì có lẽ Hồi Giáo đã cai trị Âu Châu. Con đường
chiến tranh của đạo quân Hồi đi qua, luôn để lại hàng ngàn chiếc đầu lâu vì chúng chủ trương giết
sạch, đốt sạch; và lại giết một cách dã man.
Ngày nay bọn Hồi cực đoan đòi lấy lại đất đai mà chúng từng chiếm đoạt, nhưng không cần phải
dùng đến vũ lực. Năm 1995, tại Ohio (ngay trên đất Mỹ), tên lãnh tụ tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo
toàn cầu là Yusuf al-Qaradawi – mà Mỹ đã cấm nhập cảnh vào nước Mỹ - lớn lối tuyên bố: “Chúng
ta sẽ chinh phục Âu Châu, chinh phục Mỹ Châu không cần đến lưỡi kiếm mà qua Da’wa” (tức là tiến
trình Hồi Giáo hoá, cải đạo)
Tiến trình này qua 7 giai đoạn:
1.- Cho dân Hồi di cư ồ ạt qua Âu
Châu. Hoa Kỳ.
2.- Sinh đẻ con cháu đầy đàn để
tiến đến chiếm đa số. Khuyến khích
dân địa phương cải đạo theo Hồi Giáo.
Mức sanh đẻ của dân Âu Mỹ là khoảng
1.5 con cho mỗi cặp; trong khi mức
sanh đẻ của bọn Hồi là 3, 4.
3.- Xây dựng nhiều thánh đường
Hồi Giáo với tiến độ nhanh.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 74
4.- Tạo thành những khu biệt lập Hồi Giáo, nơi chỉ áp dụng theo luật Hồi Sharia, và không để
cho chính quyền địa phương can thiệp vào. Khai thác và tận dụng các luồng tư tưởng và truyền
thông Liberal trong hệ thống chính trị sở tại để phát triển.
5.- Các đoàn thể áp lực Hồi Giáo tận dụng sơ hở của các chính sách tả khuynh, liberal để bịt
miệng những tổ chức đối kháng mà chúng sẽ gán cho là Fascists, Nazi, Hữu khuynh… (như đã thấy
xảy ra tại Hoa Kỳ qua bọn ACLU (American Civil Liberty Union), CAIR (Council on American-
Islamic Relations). Bọn này sẽ xuyên tạc để coi những hoạt động khủng bố của chúng là không có
dính dấp gì đến Hồi Giáo (như lời tuyên bố của Hillary Clinton “Islam là tôn giáo hiếu hoà, độ
lượng. Trong bất kỳ tình huống nào, Islam không có những hành vi khủng bố!”)
6.- Bọn Hồi Giáo chống người Do Thái sẽ công khai. Chúng sẽ tuyên truyền xuyên tạc để lên án
Do Thái mỗi khi Do Thái có hành vi quân sự phản ứng lại với Palestine.
7.- Cuối cùng, sự va chạm về văn hoá sẽ gia tăng. Cả cộng đồng sẽ thay đổi và người dân thường
sẽ bối rối, bất lực trước tiến trình Hồi hoá tại nước đó.
Âu Châu là Môi Trường Tốt cho Hồi Hoá (và cả Hoa Kỳ trong tương lai)!
Quý vị nghe có thấy lạ lùng không?
Phong trào thù nghịch đối với Israel
Chúng ta biết bọn Hamas, bọn Iran, ISIS
đã thề sẽ tiêu diệt dân Do Thái, xóa sạch nước
Israel trên bản đồ thế giới. Nhưng khi những
tranh chấp xảy ra giữa Israel và bọn Khủng bố
Hamas ở Palestine, các chính phủ Liên Âu có
khuynh hường chống lại Israel và bênh vực
bọn Hamas. Họ cho rằng Israel uy hiếp dân
Palestines là những người theo họ là hiếu hoà,
là nạn nhân yếu đuối. Từ đó, đã gây ngộ nhận
trong dân chúng về cuộc chiến để sống còn
của người Do Thái trước hàng trăm triệu dân
Hồi hung hãn bao quanh.
- Tại Anh, ngày 26 tháng 7, 2014, khoảng
45 ngàn dân London đã biểu tình trước Toà Đại Sứ Israel phản đối nước này ỷ mạnh, uy hiếp
Palestine. Họ còn hô Allahu Akbar như bọn khủng bố thường hô
- Tại Pháp, còn đi đến tình trạng người biểu tình hô các khẩu hiệu đòi “giết người Do Thái, cho
chúng vào lò hơi ngạt…” Họ đập phá cửa hiệu người Do Thái và ném bom xăng vào các đền thờ Do
Thái Giáo. Người Do Thái vô phương chống trả, và đã bắt đầu tìm cách thu dọn để trở về nước
mình.
- Tại Đức, sau cơn ác mộng Kristallnacht (là ngày 9 tháng 11, 1938 khi Đức Quốc Xã thi hành
một cuộc tấn công tổng hợp vào người Do Thái sinh sống trên đất Đức) và Holocaust (là cuộc diệt
chủng vĩ đại khi Đức đưa gần 6 triệu người Do Thái vào các lò hơi ngạt hay lò thiêu) 70 năm trước,
ngày nay lại vang lên những câu mạt sát, đe doạ: “Bọn heo Do Thái, giết cho đến đứa cuối cùng…”
- Tại Mỹ, tuy không có phong trào bài Do Thái rầm rộ, nhưng sự lãnh đạm và thiên vị của
Obama cũng chẳng khác gì bản án đối với Do Thái, dù Do Thái từ lâu đã là đồng minh thân thiết,
đáng tin nhất trong cuộc chiến chống Hồi khủng bố ở Trung Đông. Ngày 22 tháng 7, 2014, khi một
trái hoả tiễn của Hamas rơi cách phi trường Ben Gourion khoảng 1 dặm, cùng với các nước Liên Âu,
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 75
Obama đã chấp thuận đề nghị của Cơ Quan FAA hủy bỏ các chuyến bay đi và đến Tel Aviv. Trong
khi trước đó, họ không hề có phản ứng gì đối với các phi trường nơi khủng bố hoành hành như tại
Syria, Yemen, Pakistan, Iraq, Ukraine… Và cũng trong khi đó, Obama ban thưởng cho Palestine
một viện trợ trị giá 47 triệu đô la! Đối với Obama, bất cứ tình huống nào xấu xảy ra tại vùng Trung
Đông cũng là do lỗi của Israel mà ra. Trừng trị đồng minh và ban thưởng cho kẻ thù, là điều mà từ
trước đến nay chưa thấy xảy ra!
Ông Cliff May, Chủ Tịch Tổ Chức Bảo Vệ Dân Chủ tại Washington, DC, có nói:”Chúng ta
chẳng biết tương lại người Do Thái ở Âu Châu sẽ ra sao. Nhưng ngay cả tương lai của người Âu
trên đấy Âu cũng chưa biết sẽ đi về đâu!”
Nhưng rõ ràng tương lai của bọn ISIS và bọn cực đoan thì rất xán lạn, vì sức mạnh của chúng
đang được nhân lên hàng ngày tại đất Âu.
Các Yếu Tố đóng góp:
Sở dĩ như ở trên, chúng tôi coi khủng bố Hồi Giáo tại Âu Châu là chuyện phải xảy ra, vì các lý
do sau:
Chính sách thiên tả:
- Chế độ Phúc lợi Xã hội cho người dân từ khi sinh ra cho đến khi qua đời: Hậu quả, người dân
sinh ra lười biếng, không quan tâm đến đất nước, phó mặc cho chính phủ. Họ thờ ơ với những diễn
biến xảy ra xung quanh. Ông Soeren Kern, một nhà nghiên cứu lỗi lạc về Viễn Ảnh Hồi Giáo Hoá
Âu Châu, cho rằng chính chế độ phúc lợi xã hội Âu
Châu tạo ra tình trạng hiện nay. Theo ông:
“Europeans are provided for, from cradle to grave,
People would rather enjoy today than plan for
tomorrow. They don’t want to have children, and the
culture is very hedonistic… By rejecting the Judeo-
Christian worldview, Europeans have created a
huge spiritual vacuum – and Islam is filling it.”
Dịch: “Dân Âu Châu được cung cấp cho từ khi nằm
nôi cho đến khi lìa đời. Họ chỉ muốn hưởng thụ ngày
hôm nay mà không lo toan về ngày mai. Họ không
muốn sinh con, và nền văn hoá thiên về hưởng thụ cá nhân. Chính thái độ như thế đã là môi trường
cho sự phát triển Hồi giáo. Người Âu Châu từ chối đạo Chuá, tạo một khoảng trống rất lớn về tâm
linh. Do đó, Hồi Giáo mới có dịp lấp vào.”
- Chính sách di dân rộng rải:
Tại các nước Âu Châu, có hàng chục triệu di dân từ các nước Hồi Giáo. Điển hình là Anh Quốc.
Chúng tạo ra những No Go Zones. Ví dụ như ở Tower Hamlet ở London, chúng có một khu vực
rộng lớn như một thành phố nhỏ mà bọn Hồi hoàn toàn tự do với hàng ngàn tên Hồi gốc Pakistan,
Nam Á…. Cảnh Sát, dân Anh hoàn toàn không bén mãng.
Ngay tại Hoa Kỳ, hành pháp Obama đã tỏ ra ưu đãi đối với vấn đề di dân từ các nước Hồi Giáo!
Xin nhắc lại tại Twin Cities (Tiểu Bang Minnesota), có những cộng đồng dân Bắc Phi Hồi Giáo mới
được Obama cho di cư đến, có số dân hàng trăm ngàn, và là cái trung tâm an toàn để tuyển mộ, huấn
luyện, cung cấp chiến binh cho khủng bố. Xin đọc lại bài Khủng Bố Tại Hoa Kỳ
http://michaelpdo.com/2015/12/nan-khung-bo-tai-hoa-ky/
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 76
- Tại Pháp, theo một thăm dò, có đến 16% (tức 1 trong 6 người Pháp) ủng hộ ISIS! Tính về giới
trẻ từ 16 đến 28 tuổi, con số ủng hộ ISIS là 27%. Ước lượng có cả ngàn người quốc tịch Pháp tham
gia chiến đấu trong hàng ngũ ISIS.
- Đức Quốc: Bà Thủ Tướng Merkel đã cho phép 800 ngàn dân tị nạn Syria định cư trong năm
qua và hứa hẹn cho thêm cả triệu người nữa. Tại thành phố Wuppertal, bọn Hồi tổ chức các toán
tuần tiểu trên đường phố để thi hành luật Sharia đối với những người uống rượu và đánh bạc.
Trong khi bọn Hồi tổ chức biểu tình, giương cờ đen ISIS, hô to các khẩu hiệu Ả Rập, thì được
bảo vệ bởi cảnh sát; những người dân Đức (hay Âu Châu) biểu tình phản đối bọn Hồi thì bị giải tán,
bắt nhốt ở Sở Cảnh sát (một điều ngược đời). Bà Merkel lên án tổ chức Những Người Yêu Nước Âu
Châu Chống Lại Sự Hồi Giáo Hoá (Patriotic Europeans Against the Islamization of the West,
PEGIDA) là không có con tim, đầy định kiến và sự thù ghét (Obama cũng thế). Bọn Hồi còn đem cả
tranh chấp phe nhóm của chúng vào đất Âu Châu! Có hơn gần 1 ngàn người Đức tham gia ISIS.
- Tại Thụy Điển, nơi mà chúng ta hình dung ra các cô gái tóc vàng, mắt xanh trong các bộ đồ
tắm hai mảnh và những con tàu Vikings từng chinh phục vùng biển Âu Châu, thì nay, thay vì các tên
gọi truyền thống quen thuộc Olaf, Sven, người ta thích đặt tên cho con là Mohammed. Tại thành phố
Malmo, lớn thứ ba của Sweden, có đến 20% dân số là Muslim. Chúng tạo thành khu vực No-go
Zone nơi mà những phụ nữ không ăn mặc theo cách Hồi Giáo sẽ không được an toàn khi đến gần đó.
Cả Cảnh sát, Cứu Hoả, Nhân viên Y tế cấp cứu cũng không vào được.
- Tại Denmark, một nước nhỏ xíu, cũng bị tình trạng Hồi hoá này; khi tỷ lệ người bỏ nước tìm
đến Syria chiến đấu dưới cờ ISIS là cao nhất sau Belgium (so với dân số). Mà lại là bọn đang hưởng
phúc lợi xã hội từ tiền đóng góp của công dân.
- Tại Hoà Lan: Có hơn 400 ngàn di dân từ Morocco, là bọn thất học, không định hướng. Tình
trạng này được coi là bom nổ chậm. Hơn 200 người quốc tịch Hoà Lan tham gia ISIS. Tại hai thành
phố lớn nhất Amsterdam và Rotterdam số dân Hồi chiếm tới 25% dân thành phố. Các thành phố
khác cũng chiếm đến 13, 14%. Hoà Lan có chế độ chính trị xã hội tả khuynh phóng túng nhất. Tháng
7 năm 2017, bọn Hồi đã công khai tổ chức cuộc biểu tình ủng hộ ISIS ngay tại The Hague, thủ đô
hành chánh của Hoà Lan và được ông Thị Trưởng tả phái Jozias Van Aartsen làm ngơ.
- Tại Anh Quốc: Từ 2001 đến 2011, dân Hồi tại Anh tăng gấp đôi từ 1.5 lên 2.7 triệu (5% dân số
của Anh) Chưa kể đến bọn nhập cư lậu. Có hàng ngàn dân quốc tịch Anh đã rời Anh đến Syria tham
gia lực lượng ISIS.
Anjem Choudary (gốc Pakistan) coi như thủ lãnh nhóm Hồi cực đoan vẫn ung dung thảnh thơi
sống giữa thành phố London, đi lại tự do. Kêu gọi đồng bọn không đi làm mà ở nhà hưởng trợ
cấp.(Bỉ, Hoà Lan, Đan Mạch, Anh, Ý…) :”Cộng sản đã chết, Tư bản đang chết, Hồi giáo là tương
lai của nhân loại”
Tháng 8, 2014, chúng tổ chức biểu tình ngay giữa London, giương biểu ngữ :”Khalifah, bình
minh của thời đại mới” và rải truyền đơn tuyên bố sự tái lập Calipha, kêu gọi dân Hồi toàn thế giới
thực hiện 7 điều: (1) Trung thành với Caliph Abu Bakr al Badhdadi, (2) Tuân thủ luật Sharia, (3)
Yểm trợ cho Caliph, (4) Cầu nguyện, (5) Di cư đến các vùng Hồi Giáo (6) Giáo dục dân Hồi và
ngoại đạo về Calipha, và (7) Phản tuyên truyền đối với những gì chống Hội Giáo.
Bọn Hồi tại Âu tận dụng hệ thống phúc lợi, lãnh trợ cấp và tiền hành tuyên truyền, khủng bố phá
hoại xã hội. Chúng coi như đây là theo luật Sharia, những người ngoại giáo phải đóng thuế cho
người Hồi Giáo.
Âu Châu cung cấp chiến binh cho ISIS
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 77
Các nước sau đây đều có người tham gia ISIS: Áo (khoảng 300), Bỉ (300), Hoà Lan (200), Úc
(300), Denmark (hơn 100), Tây Ban Nha (gần 100), Italy (100), Na Uy (hơn 50), Phần Lan (hơn 30),
Canada (150), Sweden (50), Ireland ( 50), Bồ Đào Nha (20), Thụy Sĩ (15).
Luật của Liên Âu nghiêm cấm các nước thành viên dùng danh sách theo dõi khủng bố để sàng
lọc công dân mình khi những người này trở về trong vùng gọi là Schengen Area của 26 nước thành
viên. Schengen Area là vùng bao gồm lãnh thổ 26 nước Âu Châu mà không còn biên giới quốc gia.
Bốn trăm triệu công dân Liên Âu đi qua lại các nước trong vùng không cần thông hành, không bị
chặn hỏi. Sự dễ dãi này cũng áp dụng cho cả nhiều người không phải là công dân, như các nhà
doanh nghiệp, du khách, hay những người hiện diện hợp pháp trong lãnh thổ Liên Âu. Vì thế, bọn
khủng bố có quốc tịch các nước Liên Âu, hay từng cư trú tại đây có thể dễ dàng xâm nhập Hoa Kỳ
mà không gây sự chú ý nào.
Hiện đang có khuynh hướng trục xuất bớt di dân từ các nước Hồi, mà đầu tiên là bọn Pakistan.
Anh Quốc đã có quyết định trục xuất, và nước
này đã không đồng ý với Liên Âu trong vấn đề
di dân, vì thế, đã chần chừ trong những việc
thảo luận với Liên Âu về di dân. Quý vị có đặt
câu hỏi tại sao Đức nhận nhiều di dân Hồi
Giáo? Xin thưa vì Đức rất cần thêm dân số để
đáp ứng nhu cầu công nhân. Mức sanh đẻ tại
Đức quá thấp, chỉ có 8.2 lần sanh trong số 1000
dân. (theo the Kiel Institute for the World
Economy.)
Thái độ của Obama đối với vấn đề ISIS:
Trong gần 8 năm nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ, Obama đã có những việc rất đáng lên án vì
coi như đứng về phía Hồi Giáo hơn là quyền lợi của đất nước và công dân Hoa Kỳ.
1.- Ngay sau khi nhậm chức ông ta đã lên tiếng xin lỗi các nước Hồi Giáo.
2.- Rút quân ở Afghanistan và Iraq khi tình hình chưa yên ổn. Hậu quả là Taliban mạnh lên và
ISIS ra đời và bành trướng tại Syria và bắc Iraq. Có lúc tưởng nuốt trọn Iraq.
3.- Trong việc tranh chấp giữa Israel và Palestine, ông ta bênh vực Palestine và lơ là, lên án
Israel mỗi khi có xung đột ở Do Thái. Đổ lỗi cho Israel khi họ phản ứng lại với những mưa hoả tiễn
đánh vào khu dân cư, viện trợ cho Palestine. Từ chối tiếp kiến Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
Cũng như đàm phán với Iran, viện trợ 1.5 tỷ cho Iran mà không đổi lấy được một việc cụ thể nào.
Nên nhớ Iran là nước rất hung hăng, đòi tiêu diệt Hoa Kỳ và Isreal.
4.- Né tránh không chịu thừa nhận kẻ thù là Islamic Terrorism. Ngược lại, kết án những người
Mỹ là Islamphobia, kỳ thị Islam. Hillary Clinton còn cho Islam là tôn giáo hoà bình. Chính phủ
Obama cấm cản việc theo dõi hoạt động của bọn Imam trong các nhà thờ Hồi Giáo. Chiều theo đòi
hỏi của bọn Hồi triệt phá các biểu tượng dính líu đến Thiên Chúa Giáo tại công sở, trường học…
5.- Thả gần 1000 tù khủng bố Hồi Giáo bắt được tại Trung Đông và giam giữ tại trại
Guantanamo Bay. Bọn này sau khi thả ra, 60-70% đã trở lại hàng ngũ khủng bố.
6.- Viện dẫn Tu Chính Án số 1 khi bọn Hồi tuyên truyền cổ vũ cho khủng bố. Viện dẫn sự bảo
vệ riêng tư để ngăn việc theo dõi hoạt động của chúng trên các truyền thông xã hội.
7.- Hoàn toàn không có chính sách chiến lược để đánh ISIS. Kết quả để cho Nga phỏng tay trên.
8.- Sau vụ bọn Hồi khủng bố tại Paris tháng 1 năm 2015, có 40 nguyên thủ các quốc gia đến
Paris để tham dự cuộc tuần hành chia sẻ nỗi đau của dân Pháp và biểu lộ sự liên đới trong cuộc chiến
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 78
chống ISIS. Obama đã vắng mặt, cũng không có Phó Tổng Thống; và trong khi Bộ Trưởng Ngoại
Giao John Kerry đang tham dự một cuộc hội nghị ở Âu Châu cũng không thèm đến.
9.- Tìm sự cố vấn của hai tổ chức Hồi cực đoan là CAIR (Council on American-Islamic
Relations và ISNA (Islamic Society of North America. Cả hai tổ chức này đều dính líu đến tổ chức
Huynh Đệ Hồi Giáo Muslim Brotherhood.
10.- Obama đã ủng hộ cựu Tổng Thống Ai Cập Mohammed Morsi thuộc Huynh Đệ Hồi Giáo,
trong khi phủ nhận tân Tổng Thống Abdel Fattah-al-Sisi là người ôn hoà, chủ trương Cách mạng
trong Hồi Giáo để xoá bỏ tư tưởng cực đoan. Cần nói thêm về ông al-Sisi này. Ngày 1 tháng 1, 2015,
ông al-Sisi đã đọc một bài diễn văn rất giá trị trước hàng giáo phẩm cao cấp Hồi Giáo tại thủ đô
Cairo kêu gọi cuộc cách mạng sâu đậm trong thế giới Hồi Giáo để chung sống hoà bình với các tôn
giáo bạn. Ông lên án việc “1.6 tý người Muslim muốn giết sạch 7 tỷ cư dân thế giới khác đạo. Đó là
điều không thể tưởng tượng được.” Ông cũng nói rằng chính cái siêu cộng đồng Hồi Giáo (Umma)
đang bị tiêu diệt bởi chính bàn tay mình. (I say and repeat it again that we are in need of a religious
revolution. You, imams, are responsible before Allah. The entire world, I say it again, the entire
world is waiting for your next move… because this umma is being torn, it is being destroyed, it is
being lost – and it is being lost by our own hand.)
11.- Khi hai tên Hồi giáo Nidan Hassan xả súng bắn chết 13 quân nhân tại Fort Hood (Texas,
2009) và Alton Nolen cắt đầu 1 phụ nữ ở Oklahoma (2014), hành pháp Obama đã không coi là
khủng bố Hồi Giáo mà gọi là những tội về bạo lực nơi làm việc (Workplace violence). Thậm chí hơn
1 tuần sau, một viên chức chính phủ còn bay đến nhà thờ Hồi Giáo nơi tên Nolen này thường đến
hành lễ để đọc một lá thư cám ơn của Obama trong đó ca ngơi rằng nhà thờ này “đã có những phục
vụ đáng làm gương trong việc chia sẻ niềm tin Hồi Giáo…”
Trích: “Your service is a powerful example of the shared roots of the Abrahamic faiths and how
our community can come together in shared peace with dignity and a sense of justice‖ Và còn hơn
thế, Obama không hề có lời thăm hỏi đến gia đình nạn nhân là bà Colleen Hufford.
Nghe chuyện này, dù nhẫn nhịn đến đâu, chúng tôi cũng phải bật ra những lời rủa sả về một sự
hạ mình quá mức đến thế…
Chúng ta không lấy một việc riêng lẻ để đánh giá toàn bộ, mà kết hợp nhiều sự việc, qua thời
gian dài thì đánh giá mới xác đáng. Qua những thái độ, hành xử và lời tuyên bố của Obama trong
những vụ liên quan đến Hồi Giáo, chúng tôi không còn nghi ngờ gì về một khuynh hướng rất rõ ràng
của Obama là thần phục bọn Hồi cực đoan. Nhất là sau các biến cố ở Paris, Obama vẫn ngoan cố cho
phép nhập cư hàng chục ngàn dân tị nạn Syria mà theo FBI thì không thể sàng lọc được vì họ không
có bất cứ hồ sơ nào; và ISIS thì tuyên bố gài người trong đám dân tị nạn. Chỉ còn hơn nửa năm
Obama hết nhiệm kỳ, nếu chúng ta không cẩn trọng, mà bầu cho một người kế vị đường lối Obama
thì coi như việc Hồi hoá nước Mỹ sẽ là một tương lai không xa.
Nhiều người đặt câu hỏi: Chẳng lẽ Obama như thế mà bao nhiêu chính trị gia, trí thức đành chịu
thua? Vấn đề là ở sự phân hoá hai đảng quá trầm trọng. Bất cứ những gì của phe Dân Chủ, thì đám
Dân Chủ nhắm mắt hưởng ứng, tung hô trong khi đám Cộng Hoà quyết chống đến cùng và ngược
lại. Chúng ta còn nhớ Obama từng tuyên bố sẽ phủ quyết bất cứ đạo luật nào do Quốc Hội mà Cộng
Hoà đang là đa số đưa ra; và trái lại, Quốc Hội thì tuyên bố không bàn cãi những gì do Obama gửi
đến.
Chế độ Dân Chủ Tự Do của Mỹ đã để lộ hai khe hở mà bọn phá hoại sẽ luôn tìm cách khai thác:
- Quyền Tự Do Phát Biểu: Tại các Mosque Hồi giáo, bọn Imam tha hồ giảng dạy những lý thuyết
bất nhân trong kinh Coran, tuyên truyền kêu gọi Thánh Chiến. Ngay tại nhiều nơi công cộng đã có
bọn giương lá cờ ISIS, hô khẩu hiệu ủng hộ ISIS. Đã có chuyện bọn Hồi Giáo đòi hỏi những điều
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 79
phi lý… Và tất cả đã được những chính trị gia mị dân đem Tu Chính Án Số 1 ra để bảo vệ. Điều này
có khác chi ngày xưa, toà án VNCH đã phải thả bọn sinh viên đấu tranh dù biết chúng làm theo chỉ
thị bọn Cộng Sản năm vùng.
- Bảo vệ sự riêng tư (Privacy): đã ngăn cản các cơ quan công lực theo dõi, truy tìm trên các
phương tiện truyền thông, nghe lén điện thoại, thư từ của bọn khủng bố hay tình nghi khủng bố.
Lẽ ra, các điều khoản Hiến định, Luật định là phạm trù Dân Quyền chứ không phải Nhân Quyền,
là để bảo vệ quyền lợi công dân, không thể áp dụng cho người không là công dân, nhất là với bọn kẻ
thù. Vả lại, cứu cánh biện minh phương tiện. Trong hoàn cảnh chiến tranh, đối diện với kẻ thù, an
ninh quốc gia, an toàn của công dân phải được đặt lên hàng đầu. Chúng ta không thể bị ràng buộc
bởi những điều mà bọn khủng bố không xứng đáng được hưởng.
Không rõ sau các biến cố dồn dập ở Âu Châu, các chính khách tả khuynh Mỹ và những người
dân ít quan tâm đến chính trị có cảm nhận được nguy cơ Hồi cực đoan để cùng hữu phái tìm ra
những biện pháp tích cực nhằm ngăn chận nó. Vì nếu không thì việc gì đến sẽ đến.
Việc gì đến sẽ đến:
Cơn thịnh nộ bị đè nén, khi đến mức bộc phát, sẽ có hậu quả nguy hiểm vì nó sẽ đưa từ thái cực
này qua thái cực kia: từ cực tả qua cực hữu, mà Donald Trump là một thí dụ. Trong khi các ứng cử
viên Dân Chủ thì mị dân, chỉ nói những điều làm vừa lòng cử tri để kiếm phiếu, một phần ứng cử
viên Cộng Hoà còn dè dặt chưa dám nói mạnh miệng vì sợ bị lên án kỳ thị, thì Donald Trump đã nói
lên được tiếng nói của đại đa số dân chúng Mỹ nào có suy nghĩ đến vận mệnh tương lai.
Nếu bên Cộng Hoà, các ứng cử viên không sáng giá rút sớm, để còn 2 vị, thì có thể ông Cruz -
một người ôn hoà hơn ông Trump- cũng hy vọng đủ phiếu để được chọn. Dù chỉ đạt lèo tèo từ vài
cho đến 10% số phiếu, ông Kasich vẫn “kiên trì” bám cuộc, nên sắp tới sẽ còn nhiều khó khăn.
Chúng ta đang đứng trước một sự lựa chọn rất nguy hiểm. Tả khuynh khi đến cùng cực là chế độ
Cộng Sản; trong khi cùng cực của Hữu
khuynh là chế độ Phát xít. Cả hai đều tai hại,
nguy hiểm cho không những cho vận mệnh
Hoa Kỳ mà cả thế giới..
Nhưng nếu chỉ có một lựa chọn, thì tôi
chắc một điều là khó mà sống được dưới chế
độ Cộng Sản hay chế độ Hồi Giáo cực đoan.
Texas - March 23, 2016
Chặt đầu là cách giết người thông thường của bọn Hồi Giáo
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 80
Hội Nghị Thượng Ðỉnh Mỹ Hoa:
Nhân Chuyến Hoa Du của Tổng Thống Bill Clinton
Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton vừa thực hiện một chuyến công
du qua Trung Hoa kéo dài trong 10 ngày để tham dự một cuộc họp
thượng đỉnh giữa hai lãnh tụ hai nước lớn nhất trên thế giới. Ðây là vị
tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ đến công du Trung Hoa trong lịch sử. Vị
tổng thống thứ nhất là Richard Nixon, đến Trung Hoa năm 1972, khi cuộc
chiến ở Việt Nam đang trên đà khốc liệt, đã mở đầu cho giai đoạn Hoa Kỳ
bỏ rơi Việt Nam vào tay Cộng sản Bắc Việt năm 1975. Ngay cả phía
Cộng sản Bắc Việt cũng coi cuộc tiếp đón của Trung Cộng là sự phản bội
đối với tình đồng chí chiến đấu của hai đảng Cộng sản Việt- Hoa.
Trước khi đi sâu vào bình luận về chuyến Hoa du này của TT Clinton, tưởng cũng nên nhắc
sơ qua mối quan hệ ngoại giao của hai nước Mỹ Hoa kể từ khi đảng Cộng sản Trung Hoa do Mao
Trạch Ðông chiếm cứ Hoa Lục, thiết lập nhà nước vô sản chuyên chính kể từ năm 1949.
Bang Giao Hoa Mỹ 1949-1998, Hai Nước Cùng Vĩ Ðại
Về mặt lãnh thổ, Trung hoa là một trong những quốc gia rộng nhất thế giới (3.7 square
miles, hơi nhỏ hơn Canada, hơi rộng hơn Hoa Kỳ), biên giới tiếp giáp với cả hàng chục quốc gia từ
Á sang Âu. Về mặt dân số, Trung hoa đứng đầu thế giới với ước lượng 1.2 tỷ dân (theo thống kê
năm 1994), người ta dự đoán có lẽ đã lên tới 1.4 tỷ dân vào cuối thế kỷ 20 này. Trung Hoa cũng là
một cái nôi của nền văn minh cổ đại mà hiện nay vẫn còn thịnh vượng so với các nền văn minh khác
đã suy tàn khác như Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy La, Ấn Ðộ...
Nước Trung Hoa lập quốc từ 4, 5 thiên niên kỷ trước đây, khi một bộ lạc do Hoàng Ðế cầm
đầu từ phía Tây sông Dương Tử tràn về miền Hoa Nam diệt tan các bộ lạc Việt do Xuy Vưu lãnh
đạo. Hoàng Ðế được coi là vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sau này di lên địa bàn phương Bắc, kế tục
là ba vị Tam Hoàng và 5 vị Ngũ Ðế. Sau đó hàng ngàn năm tiếp với ba triều đại lớn: Hạ, Thương,
Chu. Ðời nhà Chu sau đó xẩy ra loạn lạc, hàng trăm nước lớn nhỏ tranh hùng (thời Xuân Thu và
Chiến Quốc); kết cục năm 221, Tần Thủy Hoàng thâu gồm lãnh thổ, thiết lập một hoàng triều vững
mạnh, mở đầu cho giai đoạn một nước Trung Hoa thống nhất, có định chế chính trị, kinh tế xã hội
tiên tiến. Từ đó, các triều đại lớn như Hán, Ðường, Tống, Nguyên, Minh đóng đô ở Bắc Kinh tiếp
tục phát triển chế độ quân chủ chuyên chế cho đến Cách mạng Tân Hợi 1911 do Tôn Dật Tiên khởi
xướng xây dựng chế độ Cộng Hoà (12-2-1912), và cuộc cách mạng vô sản do Mao Trạch Ðông lãnh
đạo, dựa vào cuộc chiến chống xâm lăng Nhật Bản, thiết lập nền độc tài vô sản kiểu Mác xít Lê nin
trên toàn lãnh thổ Hoa lục ngày 1-10-1949 cho đến nay.
Dân tộc Trung Hoa, tự cho mình thuộc Hán tộc, coi các dân tộc chung quanh là man di mọi
rợ. Họ tự cho mình quyền lãnh đạo các nuớc tôi bang như Triều Tiên, Việt Nam, Mông Cổ, Mãn
Châu, Tây Tạng.... Quốc hiệu Trung Hoa nói lên niềm tự cao và tham vọng của Hán tộc. Hàng ngàn
năm lịch sử Trung hoa là lịch sử xâm lược và đô hộ các nước tôi bang. Chính sách đô hộ của họ là
đồng hoá dân tộc bị trị, khai thác tận tình tài nguyên, nhân vật lực của các nước đó. Oái oăm thay,
chính Hán tộc cũng bị hai lần đô hộ do hai chủng tộc Mông Cổ (nhà Nguyên), và Mãn Châu (nhà
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 81
Thanh), hai lần đô hộ này kéo dài gần 700 năm; nhưng dân Hán quá mạnh, nên hai dân tộc trên
không đồng hoá, tiêu diệt nổi, mà ngược lại, còn bị Hán hoá.
Văn hoá Trung Hoa dựa trên nền tảng Nho Giáo mà Khổng Tử là người san định lại và được
coi là vị thầy muôn thửa “Vạn Thế Sư Biểu”. Nho giáo là một hệ thống triết học sâu sắc về mối quan
hệ giữa con người trong xã hội. Nho giáo vừa là một hệ thống giáo dục chính trị dạy nghệ thuật tề
gia trị quốc, bình thiên hạ. Lại vừa là một hệ lý dịch giải thích tương quan con người và thiên nhiên.
Chính Nho học thiết lập nên một giai cấp lãnh đạo ưu tú làm nền tảng cho chính trị xã hội Trung
Hoa hàng ngàn năm.
Sau cuộc cách mạng vô sản, Mao Trạch Ðông và đảng Cộng sản tìm mọi cách để triệt hạ các
giá trị cổ truyền trong đó mũi dùi chính là nhằm tiêu diệt ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống
nhân dân Trung Hoa. Ðại Cách Mạng văn hoá vô sản đưa đến cái chết của hàng triệu dân do bọn tiểu
quỷ Hồng Vệ Binh cuồng tín dưới bàn tay đẩm máu của Mao chỉ làm cho Nho giáo tạm lắng đi mà
không hề bị tiêu diệt.
Ðại đa số nhân dân Trung Hoa sống theo nghề nông. Ngoài các thành phố lớn đã công
nghiệp hoá như Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Hồng Kông... các vùng khác đều đang có mức
sống thấp kém, lạc hậu, chậm phát triển. Ðó là hậu quả tất yếu của một chế độ công hữu, bóp chẹt
mọi quyền tư hữu, sáng kiến cá nhân. Ðó cũng là hậu quả tất yếu của một chính sách chạy đua vũ
trang vơí tham vọng bành trướng cố hữu của Cộng sản và nhằm củng cố chính quyền độc tài Công
an trị.
Quân đội Trung hoa tuy đông nhất thế giới (2.8 triệu binh sĩ), nhiều trang bị, phi cơ (4000
chiến đấu cơ), tàu chiến (61 tàu ngầm, 54 chiến hạm lớn), chiến xa (8500 chiếc)... nhưng lại không
phải là quân đội mạnh. Quân đội đó có tính hiếu chiến, cuồng tín, nhưng lại không được huấn luyện
đúng mức theo trào lưu chiến tranh hiện đại, lại trang bị lỗi thời, đa số tàu chiến, phi cơ, xe tăng đều
quá cũ và lạc hậu. của thập niên 1970s. Tàu chiến thì không đủ khả năng tuần duyên. Các nhà nghiên
cứu quân sự thế giới mỉa mai rằng: “Ðó là một đội quân lớn, nhưng là đội quân cổ lổ xỉ. đúng ra là
một viện bảo tàng quân sự vĩ đại nhất thế giới.”
Về phía Hoa Kỳ, tưởng chúng tôi chẳng làm mất thì giờ của quý vị để nói nhiều trên trang
giấy này. Hoa kỳ, sau đệ nhất thế chiến đã trở thành cường quốc số một lãnh đạo phe Thế giới Tự
do. Chính Hoa Kỳ tự phong cho mình vai trò “Cảnh sát Quốc tế” trong việc duy trì sự ổn định các
vùng. Trước đây, Hoa Kỳ tạm bó mình trong phạm vi Mỹ Châu qua học thuyết “Châu Mỹ của Người
Mỹ” nhằm ngăn chặn sự xâm nhập ảnh hưởng của các cường quốc Âu châu vào Tây bán cầu. Sau
khi thắng lợi sau Thế chiến thứ Nhất và thứ Hai. Hoa Kỳ ý thức khả năng và vai trò của mình trong
cuộc chiến tranh đối đầu với khối Cộng sản Sô Viết. Hoa Kỳ đưa kế hoạch Marshall nhằm củng cố
khối Tây Âu, lập Liên Minh Phòng Thủ Bắc Ðại tây Dương (NATO) phong tỏa Liên bang Sô viết và
chư hầu Ðông Âu. Tại Á Châu, Hoa kỳ đưa ra kế hoạch Domino liên kết các nước từ Nhật Bản
xuống đến Ðông Nam Á, Nam á, gom luôn các nước New Zealand, Australia trong một thế liên hoàn
vòng đai nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản, mà thực lực là Trung Cộng).
Hoa Kỳ và Trung Hoa trở thành hai kẻ thù bất cộng đái thiên kể từ đó.
Ngay từ năm 1949, khi Mao Trạch Ðông chiếm cứ Hoa lục, Hoa kỳ đã coi Trung Cộng là
con quỷ đỏ, và ngược lại, Trung cộng gọi Hoa Kỳ là con cọp giấy, ngụ ý khinh khi. Tưỏng cũng nên
kể qua cuộc chiến Cao Ly năm 1953 khi Hoa Kỳ đổ đại quân vào bán đảo Triều Tiên, chiến đấu với
quân chí nguyện Trung Hoa nhằm cứu vãn nước Cộng Hoà Cao Ly đã là đầu mối cho niềm hận thù
sâu sắc kéo dài gần nửa thế kỷ qua. Chính Tổng thống Lyndon Johnson khi nêu ra chính nghĩa trong
cuộc chiến Việt Nam đã coi đây là hành vi nhằm ngăn chặn hiểm họa Trung Cộng xâm lăng Á châu.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 82
Bang giao Hoa Mỹ phải chờ đến khi chiến tranh Việt Nam kết thúc mới có cơ hội cải thiện.
Dù rằng năm 1972, Tổng thống Richard Nixon chính thức viếng thăm Hoa Lục tỏ dấu hiệu hoà hoản
rằng Hoa Kỳ và Trung Hoa vẫn có cơ hội cùng sống chung hoà bình. Ðứng trên Vạn Lý Trưòng
Thành, Nixon đã vuốt mặt Trung Cộng bằng câu khen rằng nước Trung Hoa, nhân dân Trung hoa
quả là vĩ đại.
Thế nhưng từ 1972, và sau này sau 1975, tình hình vẫn chẳng khá hơn tí nào. Năm 1984,
Tổng thống Ronald Reagan (một người chống cộng kịch liệt qua câu nói: “chế độ Cộng sản là một
trang buồn thảm và ký quái trong lịch sử nhân loại, cần phải bị tiêu diệt)” cũng đã muốn làm cho
mức căng thẳng được hoà dịu bằng cách nói rằng: “Tôi vẫn tin rằng sự hợp tác Hoa- Mỹ sẽ lớn mạnh
và được củng cố trong những năm tới đây.”
Thế nhưng, năm 1989, vụ Thiên An Môn đã nổ ra. Trung Cộng thẳng tay đàn áp dã man
phong trào đòi dân chủ của sinh viên Trung Hoa, thảm sát hàng trăm người, giam cầm hàng ngàn
người khác đã dấy lên làn sóng công phẫn trong công luận quốc tế và Hoa Kỳ. Bang giao Hoa Mỹ
lại bước vào một lối đường khập khểnh mới.
Yếu Tố Mới Trong Bang Giao Hoa-Mỹ
Sau khi Liên Bang Sô Viết và khối Ðông Âu sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành một siêu cường
không có đối thủ trênthế giới. Trung Cộng cũng bớt đi một đối thủ lợi hại trong cuộc chạy đua dành
quyền lãnh đạo khối Cộng sản. Tuy là hai nuớc đồng chí, Nga sô và Trung cộng cũng có mối bất hoà
triền miên có lúc căng thẳng đến độ hai bên dàn quân ra biên giới sẵn sàng tranh chiến. Trung Cộng
thì không thể là đối thủ của Hoa Kỳ. Nhưng với khối lượng một hơn một tỷ dân nghèo đói, hiếu
chiến sẵn sàng đem làn sóng người ra đối chọi, có lẽ bất cứ nước nào trên thế giới cũng phải gờm.
Cũng cái khối lượng người vĩ đại đó, dưới con mắt những nhà đầu tư tư bản, lại là một vấn
đề khác. Ðó là vấn đề thị trường và nhân công. Dân Hoa Kỳ là dân thực dụng. Họ nhìn mọi vấn đề
dưới những con số tính toán, lợi hại. Vì thế Hoa Kỳ tuy vẫn cổ vũ phong trào dân chủ tự do, lên án
các chế độ độc tài Cộng sản, nhưng Hoa Kỳ không dại gì để lọt thị trường béo bở vào các bàn tay
lông lá khác.
Ngày nay, Trung Hoa là một trong 5 nước bạn hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Hàng hoá xuất
cảng sang Trung Hoa tạo công ăn việc làm cho 170000 người tại Mỹ, nếu bang giao trở ngại làm cho
quan hệ mua bán bị ngưng trệ, thì người tiêu thụ tại Mỹ mỗi năm sẽ mất đi 500 triệu dollars do mua
những nguồn hàng tiêu thụ khác với giá cao hơn. Hiện nay, tại các tiệm bán hàng bách hoá, người ta
có thể thấy khoảng hơn 65% đồ chơi trẻ em, hàng gia dụng là do nhập cảng từ Trung Hoa.
Ngược lại, những máy móc lỗi thời tại Hoa Kỳ, nơi mà nền kỹ thuật đang tiến trên đôi hia
bảy dặm, đang cần nơi sử dụng với giá công nhân và nguyên liệu rẻ mạt, để sản xuất hàng cao cấp
tiêu thụ tại các nước khách hàng xa. Nơi đâu thuận lợi cho bằng Trung Hoa và những nước đang cần
phát triển kinh tế.
Tuy nhiên Hoa Kỳ luôn luôn đưa vấn đề nhân quyền lên trên hết trong các điều kiện để mặc
cả với Trung Hoa. Trong chừng mực nào đó, thì cũng đã có những hiệu quả đáng khích lệ. Năm vừa
qua, Trung Hoa đã phóng thích nhiều nhân vật lãnh đạo phong trào chống đối và cho phép qua Hoa
Kỳ chữa bệnh. Trung Hoa cũng đã dịu giọng hơn trong các vấn đề cải cách kinh tế và chính trị. Giữa
Trung Hoa và Hoa Kỳ còn nhiều ngăn trở trong ý thức hệ chính trị, hai quan điểm dân chủ đối lập,
được giải thích bằng hai ngôn ngữ bất đồng (một bên là ngôn ngữ của hơn 200 năm hành sử tự do,
dân chủ, một bên là ngôn ngữ cứng ngắt của mác xít). Khoảng cách này không thể mong đợi rút
ngắn trong một thế hệ được. Chúng ta nhớ lại lúc Tổng thống Kennedy công du Liên sô trở về, một
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 83
phóng viên đã hỏi là hai vị thủ lĩnh (Kennedy và Krutchew) đã bàn bạc kết quả ra sao? Kennedy trả
lời: “Bởi vì chúng tôi không nói cùng ngôn ngữ, nên chẳng đạt được kết quả gì hết.”
Trong Va Li Ngoại Giao của Bill Clinton Mang Theo Những Gì?
Kể từ khi được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ, Bill Clinton luôn mong muốn đưa Trung Hoa
vào cuộc đối thoại về những vấn đề nhân quyền, nguyên tử, hoà bình trên bán đảo Cao Ly, việc
Trung hoa tuồn hoả tiễn và vũ khí vào Trung Ðông, nơi có nguồn cung cấp dầu lửa cho thế giới. Ông
chọn sẽ làm việc với Trung Hoa một cách tích cực hơn là cố thủ vì những trở ngại trong quá khứ.
Trước một số dư luận Hoa Kỳ chống lại việc công du Hoa Lục, ông Clinton đã biện giải như
sau: “Việc tiếp tục một chính sách mang tính chất xây dựng với một quốc gia đông dân nhất thế giới
là một việc tốt nhất phục vụ cho quyền lợi và giá trị của chúng ta.”
Cá quan chức ngoại giao thì cố giới hạn những ước vọng thành đạt của mình trong cuộc họp
thương đỉnh, nhưng Bill Cliton thì lại muốn ôm đồm quá nhiều. Ông ta mang theo trong chuyến Hoa
du kỳ này những vấn đề bàn bạc sau, với hy vọng rằng vai trò của Trung Hoa trong đó sẽ xây dựng
vững chắc một thế kỷ mới:
1. Ðạt cho được một thoả hiệp thương mại cân bằng và cởi mở hơn.
2. Vụ thử bom nguyên tử tại Ấn Ðộ và Pakistan.
3. Hoà bình trên bán đảo Cao Ly
4. Chấm dứt việc Trung Hoa hướng các hoả tiển nguyên tử về phía Hoa Kỳ.
5. Giải quyết khủng hoảng tài chánh Á châu.
6. Trung Hoa không dùng võ lực vào vấn đề Ðài Loan
7. Vấn đề môi sinh ô nhiễm tại Trung Hoa
8. Phối hợp quốc tế chống khủng bố, tổ chức tội phạm, buôn lậu ma tuý.
9. Việc Trung Hoa ăn cắp tài sản trí tuệ Hoa Kỳ (Piracy of US intellectual property)
10. Yêu cầu Trung Hoa cải thiện các vấn đề nhân quyền, thả tù nhân chính trị, tự do tín
ngưỡng, nối lại đối thoại với Dalai Lama.
Chúng ta cũng biết còn một vấn đề tế nhị khác nữa mà trong thời gian vừa qua gây sóng gió
trong chính trường Hoa Kỳ, đó là việc Trung Hoa cung cấp tiền cho đảng Dân chủ trong các cuộc
tranh cử.
Việc thoả ước thương mại trước đây được coi là mấu chốt, thì nay, sau khi Pakistan và Ấn
Ðộ thử hàng loạt bom nguyên tử, cộng với việc khủng hoảng tài chánh vĩ đại tại Á Châu, người ta hy
vọng rằng cuộc họp xoay trọng tâm vào các vấn đề an ninh và ổn định tại địa phương.
Việc giải quyết các giàn hỏa tiễn nguyên tử của Trung Hoa nhắm vào lảnh thổ Hoa kỳ chỉ
mang tính chất tượng trưng. Vì khi cần thiết, Trung Hoa chẳng mất bao nhiêu thời giờ để lại xoay
nòng chúng vào đất Hoa Kỳ. Trung Hoa có 18 hoả tiễn tầm xa mang đầu đạn hạt nhân trong đó 13
nhắm vào các thành phố Hoa Kỳ. Trong lúc đó, Hoa Kỳ có 6000. Phía Hoa Kỳ không tiết lộ về phiá
mình có hướng các đầu đạn hạt nhân vào đất Trung Hoa không.
Vấn đề khủng hoảng tài chánh tại các nước Á Châu đang là mối quan tâm hàng đầu của Hoa
Kỳ. Trong thời gian qua, do khó khăn tiền tệ, các nước Á Châu không đủ mãi lực để mua hàng hoá
Hoa Kỳ. Nam Hàn trong một thời gian rất ngắn đã gần như đi đến phá sản; Indonesia dẫn đến tình
trạng rối loạn mà sinh viên đã xuống đường lật đổ tổng thống Suherto. Tại Mỹ, hậu quả là các đại
công ty kỹ nghệ tân tiến Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng vô cùng lớn lao mà biện pháp cấp thời là giảm số
lượng công nhân theo các nhà quản lý kinh tế không phải là phương thuốc đúng để trị bệnh này. Vì
thế Hoa Kỳ và các nước Tây phương phải tìm cách để tung thêm tiền từ quỹ Tiền tệ Quốc tế để cho
các nước Á Châu vay. Ðối với Trung Hoa, do nền kỹ nghệ kinh tế chưa ở vào trình độ các nước con
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 84
rồng Á Châu, nhưng một sự phá giá đồng bạc Trung Hoa cũng có phần ảnh hưởng làm tình trạng
kinh tế Á châu tồi tệ thêm lên. Khi đồng Yen của Nhật bị sụt giá đều đặn trong nhiều tuần, Trung
Hoa cũng bị áp lực phải tụt giá đồng Nhân dân tệ của họ.
Nhưng có lẽ nóng sốt nhất là việc tìm cho ra một sách lược nhằm ngăn chặn sự chạy đua vũ
khí hạt nhân tại vùng Á châu. Ðây không chỉ là vấn đề cục bộ của vùng Nam Á, mà nó sẽ lan ảnh
hưởng đến toàn thế giới, có nguy cơ đưa đến hiểm họa thế chiến thứ 3, sau đó thì các bạn cũng dễ
dàng đoán được tương lai nhân loại.
Tổng thống Bill Clinton đã lên tiếng ca ngợi Trung Hoa trong việc ký kết thoả ước hủy bỏ
việc thử nghiệm bom nguyên tử, và Trung Hoa cũng đã lên án cả hai quốc gia India và Pakistan,
đồng thời đã đứng ra tổ chức một Hội nghị Thương đỉnh về việc trên trong tháng qua.
Với vấn đề Cao Ly, Hoa Kỳ phải thừa nhận vai trò đáng kể của Trung Hoa trong việc duy trì
sự ổn định và nền hoà bình qua việc đứng ra triệu tập hiệp thương giữa hai nước Hàn quốc đồng thời
thuyết phục Bắc Hàn ngưng các chương trình thí nghiệm hạt nhân. Bắc Hàn ngày nay chỉ còn một
đồng minh và là chỗ tựa cuối cùng là Trung Cộng, lại trải qua nạn đói và suy sụp trầm trọng về nông
nghiệp, công nghiệp, lấy gì mà dám cãi lời đàn anh vĩ đại Trung Hoa.
Vấn đề thương mãi giữa hai nước Mỹ Hoa từ lâu cũng là vấn đề bất bình đẳng. Trong khi
Hoa Kỳ mở rộng cửa cho hàng hoá Trung hoa tràn ngập thị trường; thì ngược lại Trung Hoa vẫn
đóng cửa đối với nhiều mặt hàng Mỹ. Lần này Clinton phải ép Trung Hoa mở rộng thêm cành cửa
cho nhập cảng hàng hoá Hoa Kỳ. Người ta tiên đoán e cũng chẳng mấy lạc quan. Chính Clinton đã
khuyến nghị Quốc hội Hoa Kỳ tái xét gia hạn quy chế tối huệ quốc cho Trung Hoa để cuộc giao
thương giữa hai nướcđược bình thường trở lại. Theo ông thì chính nhờ vào giao thương sẽ làm thay
đổi bộ mặt Trung Hoa, giúp cho Trung Hoa sớm hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trung Hoa trong nhiều năm, cũng như tại các nước Cộng sản Việt Nam, coi việc ăn cắp tác
quyền là thông thường. Họ tha hồ in dịch sách báo, software, sang các băng CD, video cassette đem
ra bày bán một cách ngang nhiên, coi thường quyền tác giả của các sản phẩm trí tuệ. Hoa Kỳ đã từng
có biện pháp trừng phạt kinh tế Trung Hoa và lần này thì dứt khoát yêu cầu chính quyền Trung Hoa
phải trực tiếp đứng ra ngăn chận việc ăn cắp tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ theo thỏa ước đã ký vào
tháng 2, năm 1995.
Vấn đề môi sinh ô nhiễm là hậu quả đương nhiên của một nước đang ở mức phát triển công
nghiệp nhanh chóng như Trung Hoa. Theo các nhà nghiên cứu môi sinh, có đến 80% sông ngòi
Trung hoa bị ô nhiễm nặng, gây ra tình trạng cá chết nhiều, và nhất là đại đa số nhân dân Trung Hoa
đang sinh hoạt nhờ vào nguồn nước các giòng sông. Ô nhiễm không khí cũng rất nặng nề, tạo ra các
chứng bệnh về đường hô hấp chết người trong dân chúng Trung Hoa. Trung Hoa hiện có 5 thành
phố đứng vào hàng 10 thành phố ô nhiễm nhất trên toàn thế giới. Hoa Kỳ tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ
Trung Hoa phát triển một kế hoạch chống ô nhiễm để nâng cao chất lương không khí và giảm bớt
tình trạng phóng xạ trong bầu khí quyển.
Vấn đề Ðài Loan: Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua một nghị quyết thúc dục Clinton phải ép
buộc Trung Hoa không được dùng võ lực để giải quyết vấn đề Ðài Loan. Nghị quyết này khẳng định
rằng nếu Trung Hoa từ chối đề nghị, sẽ dẫn đến một mối đe doạ cho nền hoà bình và ổn định vùng Á
Châu. Hoa Kỳ, tuy từng là đồng minh của Trung Hoa Dân Quốc trong một thời gian dài, ngày nay đã
công nhận chỉ có một nước Trung Hoa do nhà cầm quyền Bắc Kinh đại diện. Hoa Kỳ cũng dần giảm
bớt việc bán vũ khí cho Ðài Loan. Theo Trung Hoa, Ðài loan là phần lãnh thổ Trung Hoa do Tưởng
Giới Thạch tạm chiếm sau khi bị họ đánh bại năm 1949 trên Hoa lục.
Vấn đề khủng bố và tội phạm quốc tế Tháng trước đây, sau khi Giang Trạch Dân, chủ tịch
nhà nước Trung Hoa đến Hoa Kỳ, một ủy ban liên lạc gồm các giới chức cảnh sát của hai nước đã
được thành lập. Hai nước sẽ hợp tác chặt chẻ để chống lại các tập đoàn buôn lậu ma túy, tội phạm,
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 85
làm bạc giả và buôn bán người xuất nhập cảnh. Trung Hoa sẽ cho phép mở văn phòng Cảnh sát
chống Ma túy của Hoa kỳ trên lãnh thổ Trung Hoa vào tháng tới.
Với lãnh vực tế nhị nhất là nhân quyền, Clinton dự trù sẽ nêu ra trong bài diễn văn tại đại
học đường Bắc Kinh. Những phụ tá của ông hẳn không thể nào
quên cung cách mà cựu tổng thống Ronald Reagan đã hành xử
khi đương đầu với lãnh tụ Liên sô Gorbachev năm xưa tại
Berlin. Reagan đã lên tiếng thách thức Gorbachev: “Thưa ông
Gorbachev, yêu cầu ông hảy triệt hạ bức tường Bá Linh này.”
Dĩ nhiên thì không ai dám tin Bill Clin có thể làm được
như thế; họ đoán ông Clinton sẽ rất thận trọng trong bài diễn văn
của mình. Chính ông ta xem như đã nhường một bước khi chấp
nhận cho cuộc tiếp đón chính thức diễn ra tại Thiên An Môn, nơi
đã xảy ra vụ thảm sát năm 1989. Bên sau cánh cửa, ông Clinton
sẽ lên tiếng yêu cầu Trung Hoa thả hàng ngàn tù chính trị, vãn
hồi cuộc đối thoại với đức Dalai Lama, và ban hành quyền tự do
tín ngưỡng.
Clinton đã từng nói với Giang Trạch Dân rằng: “với vần đề nhân quyền và tín ngưỡng,
Trung Hoa đang đi trên con đường trái của lịch sử.” Ông đã hứa sẽ tiếp xúc với các tầng lớp dân
Trung Hoa và sẽ tìm ra cách ứng phó cho vấn đề nhức nhối này. Hoa Kỳ thì e rằng việc tiếp xúc của
Clinton với các nhà hoạt động nhân quyền tại Trung Hoa sẽ mang lại tình trạng nguy hiểm cho họ
sau khi Clinton kết thúc chuyến công du trở về Hoa Kỳ.
Ðược biết có ít lắm là 230 ngàn người đang bị tập trung cải tạo trong các trại khổ sai mà
không thông qua một phán quyết của toà án nào. Ðây là số tù nhân lương tâm, là những người từng
tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền, chứ không phải là vi phạm các tội hình sự. Hiện nay, Trung Hoa
đã bãi bỏ tội danh “phản cách mạng” và thay thế bằng tội danh “nguy hại cho nền an ninh nhà
nước.” Họ nhất quyết duy trì sự ổn cố chính trị của nền độc tài vô sản bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra
người ta còn lên án nhà cầm quyền Bắc kinh đã dã man đem bán các phần thi thể của các tội nhân,
nhất là tử tội; một điều mà xã hội văn minh ghê tỡm đến cùng cực.
Ðiều Gì Làm Êm Tai Giang Trạch Dân?
Trong buổi tiếp xúc đầu tiên hôm thứ Bảy 27-6, hai lãnh tụ đã đồng ý sẽ không nhắm các
hoả tiễn vào nhau nữa. Giang nói: “Chúng ta không còn là đối thủ, mà là đồng sự” Clinton thêm vào:
“Tình hữu nghị hai nước có thể không bao giờ đi đến toàn hảo, nhưng hy vọng sẽ bền chặt.”Ợ Tại
sãnh đường Nhân dân, hai bên đã thảo luận các vấn đề nhức nhối nhất; đó là là vấn đề nhân quyền,
vụ Thiên An Môn, Tây Tạng. Gần cuối cuộc nói chuyện, Giang Trạch Dân lên tiếng đón nhận cuộc
nói chuyện “very friendly”, ông ta ngừng nói tiếng Trung hoa, phát ngôn bằng tiếng Anh rằng “this
is democracy.” Ngụ ý buổi nói chuyện là một biểu hiện của dân chủ. Ông ta biện minh rằng vấn đề
bắt giữ các nhà hoạt động dân chủ đúng vào thời điểm Clinton đến Trung Hoa là do nhà chức trách
địa phương tìm biện pháp để đề phòng rối loạn an ninh. Theo ông ta, Trung hoa có luật pháp riêng
của mình.
Với vấn đề Thiên An Môn, Clinton đã lên án việc đàn áp sinh viên bằng cách sử dụng võ
lực làm thiệt mạng hàng trăm người. Ông nhắc lại rằng trong tâm tư người Mỹ, hình ảnh Thiên An
Môn vĩ đại tượng trưng cho sự đàn áp phong trào dân chủ. Tuy nhiên ông vẫn nhấn mạnh rằng ông
ta đang tìm cách xiết chặt mối quan hệ với một chính quyền Cộng sản. Giang Trạch Dân thì vẫn luận
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 86
đệu cũ rích, cho rằng vụ Thiên An Môn là một vụ rối loạn chính trị, mà nếu nhà cầm quyền Trung
Hoa không đàn áp thì sẽ không có sự ổn định ngày nay!!!
Clinton cương quyết cho rằng, ổn định trong thế kỷ 21 là dựa trên mức độ cao của nền tự
do, bất cứ một hệ thống chính trị nào cũng bị lạm dụng, vì thế thật là lầm lẫn nếu hạn chế quyền tự
do của người dân quá mức.
Trung Hoa đã không đạt được yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ cho gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế
giới (World Trade Organization, WTO), nhưng họ sắp xếp một cuộc nói chuyện cấp nhỏ hơn ngày
20 tháng 7 sắp tới tại Geneva, Thụy Sĩ.
Hai bên đã thoả thuận giải toả sự nhắm hoả tiễn nguyên tử vào nhau khi Giang cho rằng từ
nay hai bên là bạn, không còn là thù địch. Theo Giang, dù hai bên có những dị biệt về hệ thống
chính trị xã hội, ý thức hệ, giá trị và văn hoá cổ truyền, có những cách nhìn đối lập về nhiều khía
cạnh; nhưng những khác biệt đó không thể là trở ngại cho sự phát triển quan hệ giữa hai nước.
Có lẽ trong các lời nói của Clinton, vấn đề Taiwan là lời thỏ thẻ êm tai nhất đối với Trung
Hoa. Clinton tái xác định việc coi nước Trung Hoa là một do chính quyền Bắc Kinh đại diện. Trung
hoa thì luôn cho rằng vấn đề Ðài Loan là nhạy cảm nhất và khuyên Hoa Kỳ nên giữ lập trường thưà
nhận nước Trung Hoa cộng sản, chống lại sự tuyên bố độc lập của Ðài Loan. Trung Hoa cũng đồng
ý việc góp sức duy trì an ninh trên bán đảo Cao Ly. Các vấn đề về môi sinh cũng được bàn cãi nhanh
chóng,vì theo Clinton: “một mước Trung Hoa ổn định, cởi mở, thịnh vương là một điều tốt cho Hoa
Kỳ.”
Chỉ có vấn đề Tây Tạng là còn bế tắc. Trung Hoa cố khư khư bám giữ lập trường của mình.
Giang cho hay chỉkhi nào Dalai Lama thừa nhận Tây Tõng và Ðài Loan là thuộc lãnh thổ Trung
Hoa, thì khi đó cửa sẽ mở cho cuộc đối thoại và thương nghị.
Ai Ðược, Ai Thua?
Nhìn phác qua trên mặt bàn cờ, thì rõ ràng Trung Hoa đang được nhiều. Về chính trị, trong
khi Giang Trạch Dân đang muốn thay đổi bộ mặt bang giao giữa hai nước mà theo ông ta từ trước
đến nay vẫn do Hoa Kỳ chủ dộng và nắm lấy vai trò thượng phong quyết định do hậu quả biến cố
Thiên An Môn.
Về phát triển, Hoa Kỳ đang tuồn các kỹ thuật tân tiến cho Trung Hoa mà không có gì bảo
đảm rằng Trung Hoa sẽ không sử dụng vào lãnh vực quốc phòng, nhập cảng hàng hoá Trung Hoa,
yểm trợ Trung hoa trong việc cải thiện môi sinh.
Việc các thỏa thuận về hoả tiển nguyên tử nhắm vào nhau, như đã nói trên, chỉ mang tính
ước lệ. Vì thật ra Hoa Kỳ hùng mạnh về lãnh vực này hơn nhiều. Với khả năng không gian và điện
toán tối ưu của mình, Hoa Kỳ dể dàng làm chủ trận địa trước một đối phuơng quá lạc hậu.
Ông Gary Bauer, Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Gia đình đã phàn nàn rằng chính sách của
Hoa kỳ được hoạch định do các đại doanh nghiệp chỉ mong tìm một thị trường lớn, mà các nhà chính
khách thì luôn bỏ quên quyền lợi về an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, và không đếm xỉa gì đến các giá
trị sâu sắc mà nhân dân Hoa Kỳ từng bảo lưu.
Ðó là sự phàn nàn nhắm vào khi tổng thống Bill Clinton không đạt được các thành quả trong
lãnh vực nhân quyền, ngăn chặn Trung Hoa đưa vũ khí vào Pakistan, thì thực tế chỉ là một sự cúi
đầu (Kowtow) hy sinh quyền lợi Hoa Kỳ.
Lãnh tụ đa số tại thương viện đã tiên đoán rằng Trung Hoa đang nắm vai thượng phong
trong việc tổ chức Thượng đỉnh, và e rằng Clinton sẽ bị lèo lái bởi các trò ma nớp của người Trung
Hoa.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 87
Vấn đề an ninh bán đảo Cao Ly chỉ là một việc thừa trong lúc này, khi Bắc hàn như một con
chó đói, dù có thể làm liều tấn công qua vĩ tuyến 38, thì chắc gì Trung Hoa chịu để yên cho. Dầu chi
Nam Hàn trong thời gian gần đây là một thân chủ béo bở của Trung Hoa. Ý thức hệ, tình đồng chí
giữa các nuớc vô sản anh em giờ đây không cân nổi với quyền lợi kinh tế.
Con bài Nhân quyền mà nhân dân Hoa Kỳ đã gửi gắm Bill Clinton khi ra đi, thì vẫn còn lơ
lững. Vụ Ðài Loan thì đã rõ ràng. Vụ tây Tạng thì Trung Hoa còn cứng ngắt.
Nếu Bill Clinton dùng chuyến đi để nhắm vào các vấn đề nhân quyền; như các giới chức đã
tuyên bố: “Mối bang giao giữa hai nước sẽ không đạt được mức tốt đẹp nếu chừng nào nhân dân
Trung Hoa còn bị từ chối các quyền con người căn bản.” Thì rõ ràng Clinton đang thua thêm một
điểm rất quan trọng.
Trong ngày 29 tháng 6, khi đến noí chuyện với sinh viên tại trường Ðại học Bắc Kinh,
Tổng thống Clinton đã đề cập đến vấn đề dân chủ. Ông kể lại lịch sử của trường như là để nhắc nhở
ảnh hưởng của người Mỹ vào việc đào tạo chuyên viên cao cấp cho xã hội Trung Hoa. Trường Ðại
Học Bắc Kinh do hội Truyền Giáo Hoa Kỳ thành lập 80 năm trước đây, khi đó lấy tên là trường Ðại
học Yên Shing. Cách đây đúng 79 năm, vào tháng 6 năm 1919, trường tổ chức lễ tốt nghiệp đầu tiên
dưới sự chủ tọa của ông Viện trưởng John Layton Stuart.
Tổng thống Clinton đã khéo léo hướng dẫn sinh viên Bắc Kinh vào các vấn đề dân chủ và
nhân quyền trong bài nói chuyện và khi trả lời các câu hỏi của cử toạ. Ông đề cập đến dân quyền và
nhân quyền ở Hoa Kỳ và cho rằng đó là quyền đương nhiên của co người dù ở bất cứ nơi đâu trên
thế giới. Ông nhấn mạnh rằng quyền tự do chân thực phải bao gồm nhiều lãnh vực, chứ không chỉ
giới hạn trong quyền tự do kinh tế mà thôi.
Ðó là một điểm son cho chuyến đi của Bill Clinton. Nhất là các buổi nói chuyện của ông đã
được trực tiếp truyền hình, truyền thanh trên các cơ sở thông tin của nhà nước Trung Hoa.
Có thể nào nhìn sự thay đổi dần dần tại Cuba sau chuyến viếng thăm của Giáo Hoàng John
Paul II mà phỏng đoán sự thay đổi tại trung Hoa không? Hai vị trí địa lý chính trị của hai nước Cuba
và Trung Hoa rõ ràng hoàn toàn khác biệt. Hai nền văn hoá, cung cách nghĩ và làm của hai dân tộc
cũng khác biệt. Người Trung Hoa vốn thâm trầm từ truyền thống, cân nhắc và tính toán không sơ
suất trong đối ngoại, cho nên khó lường được bất trắc. Tuy nhiên xu thế mới của nhân loại đã thay
đổi, con đường Cộng sản đã bị chứng minh là tồi tệ. Trung Hoa giờ này còn giữ con ngáo ộp Mac-xít
chẳng qua là còn để đe dọa bọn đàn em Việt Nam, Lào, Bắc Cao. Giới cầm quyền Trung Hoa đang ở
vào thế hệ thứ hai nên chiều hường bảo thủ vẫn còn mạnh lắm; tuy nhiên chiều hướng cấp tiến cũng
đang trên đà tiến lên, và ngọn sóng dân chủ Thiên an Môn chỉ mới tạm dừng chờ cơ hội nổi lên sóng
thần để xô ngã bạo quyền, lấy lại quyền tự do dân chủ.
Quan hệ Hoa Mỹ dù trong thể chế dân chủ mới cũng không thoát khỏi tiền đề quyền lợi của
hai nuớc trong vùng Á Châu, nơi mà Trung hoa với truyền thống coi như của riêng mình, sẽ không
tránh khỏi sóng gío cho dù có tuôn ra bao lời hoa mỹ chúc tụng nhau.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 88
The Peace Movements in South Vietnam in Mid-1960s
A. Introduction
Ladies and gentlemen,
Please, allow me a minute to introduce myself.
My name is Michael Do, former officer of the Republic of Vietnam Armed Forces. I graduated
from the Polwar College in 1969, served 3 years as company commander in the 5th
Infantry Division
and 3 years as Chief Political Education in the 2nd
Air Force Division.
I earned a Bachelor of Art in Political Science at Van Hanh University in Saigon; Bachelor of
Science in Electrical Engineering from the University of Texas at Austin; and a Master of Science in
Engineering Management from the National Technological University at Fort Collins, Colorado.
I have been a community activist since 1992, and am currently the President of the Vietnamese
American Community of the USA.
I was here three times in the past to present my papers at Conferences and Symposia hosted by
the Vietnam Center. Besides, I was interviewed and featured multiple times on American and
Vietnamese TV channels
In response to the call of papers by the Vietnam Center, I am very pleased to have this
opportunity to discuss the topic “Peace Movements in South Vietnam in mid-1960s.”
With a lot of misinformation and misunderstanding, the Vietnam War history has been falsely
written by our enemies (Vietnamese Communists) and has been taught the same way in US schools
for more than half century.
I think that history must be studied from different perspectives of all sides involved to be, at
least, close to the truth.
As a combat soldier and a political officer who fought 9 years in the war, I‟d like to shed a light
into the dark and chaotic period when the Communist propaganda reigned in the South Vietnamese
college campus and the Buddhist communities.
The failure of the Vietnam War can be accounted for by many factors. Of which, the anti-war
movements both in the US and in South Vietnam were the most important events that had enormous
influence on the US policy and the international perception.
This presentation is to look into the peace movements occurred in South Vietnam in mid-1960s:
Who they were? Where they came from? Who were behind the scene? And who would benefit from
the movements?
I prepared this presentation very carefully and used only the reliable sources. There are many
Vietnamese names and terms that can be very confusing to the audience. I apologize for that.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 89
B. The Peace Movements in South Vietnam
The war continued to escalate in South Vietnam as 1967 opened with peace movements in both
America and Vietnam demanding to end the war.
Ignoring the fact that South Vietnam was the victim of the North Communists' aggression, the
American anti-war movements called for the withdrawal of the US troops and to stop US support to
the Republic of Vietnam; meanwhile in South Vietnam, the Buddhist monks and students –
encouraged by Communists- organized big demonstrations against the government throughout the
country.
Ho Chi Minh and his Communist Party were happier than ever before. They thought that the
time was coming to unleash the last blow to achieve their goal “liberating” the South.
That was the justification of the Viet Cong‟s Tet Mau Than general uprising and offensive
resulting in the death of tens of thousands of North Vietnamese Army (NVA) soldiers and thousands
of innocent people in many regions in South Vietnam.
Before we dig into the main issue, I‟d like to go over a brief history of the Vietnam War from its
beginning.
1954 - 1960: In accordance with The Geneva Accord, the French troops left Vietnam, but tens of
thousands of Communist cadres stayed behind in South Vietnam, blended into the peasants in
countryside or infiltrated into the new government institutions. They conducted the guerrilla warfare
as the first phase of the people‟s war against the South Vietnam government.
1960 - 1968: In its 2nd
National Congress, the Worker‟s Party (Communist Party) created the
People‟s National Front for Liberation of South Vietnam (NLF). The war in South Vietnam
progressed to 2nd
phase which is the combination of guerrilla and semi-conventional wars.
The Communists conducted the war in three fronts: (1) Military operations, (2) Political
activities, and (3) Campaigns aiming at the enemy soldiers. These were considered three offensive
spearheads of the people‟s war.
The second of the above fronts consisted of all activities to win the heart and mind of the people,
including terror acts to keep people from siding with the government. This front also aimed at the
intellectuals, students, small merchants, and priests to form them into supporting political groups.
1968: The Communists thought the bad situation in the South came to its climax. They launched
the General Uprising and General Offensive in major cities throughout the country as the final phase
to achieve its goal liberating South Vietnam. It was a big mistake! The 1968‟s campaign turned out
to be a great failure. 80% of their forces were destroyed and the infrastructure was exposed.
Hanoi then flooded their regular army via Ho Chi Minh Trail into South Vietnam at the rate of
tens of thousands of troops per month. Meanwhile, they created numerous struggle movements in
Saigon and other big cities to cause more chaos, backing their stand at Paris Peace talk.
1. Political turmoil after the 1963 coup-d’état
Due to the turmoil caused by the anti-government and peace movements in Vietnam in early
1960s, leading to the failure in military operations, the US began to see President Diem an obstacle
to the democracy and a growing threat to the American interests. In Aug. 1963, President Kennedy
ordered Ambassador Henry Cabot Lodge to remove President Diem. That led to the murder of the
President by a gang of ambitious generals.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 90
After the death of President Diem on November 1, 1963, South Vietnam fell into a new fatal
crisis as the generals fought against each other. In only 3 years, there were 4 governments rose and
fell. The people lost trust in the government; the morality of the soldiers was at lowest level. While
the Buddhist monks and the student body, after their victory overthrowing the first Republic, became
the most powerful force. They continued on with the new slogan: Peace for Vietnam!
2. The surge in military activities: Increase of Vietcong activities - South Vietnam on the
brink of collapse - Increase of US combat troops.
The year 1963 marked a great turning point in Viet Cong‟s military activities. From the guerrilla
warfare, the Communists now shifted to semi-conventional tactics. They began to launch offensive
operations upon several military outposts as to estimate the capability of the ARVN. The battle at Ap
Bac, Dinh Tuong Province, in January 1963 was the first major battle that the NLF (National Front
for the Liberation of South Vietnam) used a sizable force to challenge the South Vietnamese Army.
The event at Ap Bac placed additional pressure on the SVN government and gave the US the reasons
to send combat troops. Taking advantage of the deteriorating situation after the coup, Viet Cong
increased their activities throughout South Vietnam territory. The surge in battle resulted in the
higher and higher casualties in South Vietnam Army. The Republic of Vietnam was on the brink of
collapse.
In February 1965, the first South Korean troops arrived in Vietnam. In response to the Gulf of
Tonkin incident in August 1964, on March 8, 1965, President Johnson sent US ground troops to
Vietnam. The first 3500 US Marines landed near Danang.
The South Vietnamese security forces, including regulars, part-time militia, irregular defense
groups, and National Police totaled 567,246 personnel. In 1963, there were 15,000 US military
advisors in Vietnam. This number of both advisors and combat troops was increased to 23,310 in
1964, and jumped to 200,000 and 400,000 in 1965 and 1966 respectively.
In early 1960s, the Viet Cong army had about 40,000 soldiers plus about 80,000 guerrillas. The
US Department of Defense's fact book estimated that the Viet Cong numbered less than 200,000
plus 39,175 political cadre. Of them, thousands of North Vietnamese regular fighters had infiltrated
during the previous years. The first North Vietnamese army units dispatched to South Vietnam,
consisting of three regiments (about 5,000 men), had arrived in South Vietnam in late 1964.
In 1964, there were 216 US and 7457 South Vietnam casualties. In 1965 it increased to 1928 and
11241 respectively. Then, the number jumped to 6143 (US) and 11.953 (ARVN) in 1966; doubled in
1967 with 11,513 US and more than 20 thousand ARVN. Despite the losses of North Vietnamese
troops and Viet Cong was about 10 times higher than those of US and South Vietnam armies, the
American people had no more patience and they considered the failure was at the side of US and
South Vietnam.
In such bad circumstance, the peace movements in the US and South Vietnam simultaneously
surfaced.
In this paper, we will discuss the peace movements in South Vietnam only.
3. The rise of peace movements in South Vietnam.
3.1. Buddhist movements.
Vietnamese Buddhism claims that 80% of Vietnamese are followers of the religion.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 91
It‟s not true. At any time, Buddhist followers only made up about 15-20% of the Vietnamese
population. Most Vietnamese worshipped their ancestors and went to the temple as a traditional
habit as they celebrated Christmas though they were not Christians.
The South Vietnam of the twentieth century has often, and mistakenly, been called a Buddhist
country. In a land with fifteen million people, there were between three and four million
Buddhists and of these only about one half practiced the religion. (Moyar, 752)
Buddhism in Vietnam was not well organized into a system like the Catholic Church. Up to
1960‟s, there were no official Buddhist hierarchy to lead the church. Each pagoda belonged to a
monk and had certain number of followers. It‟ so simple that anybody could enter the temple, shaved
his hair, put on the yellow robe and became a monk. That explains why the Communists could easily
infiltrate into the Buddhist rank to take the lead. The phenomenon is even true in Vietnam today.
Buddhism falsely accused President Diem administration of persecution and oppression. This
was totally a hoax. President Diem, although a devout Roman Catholic, did a lot of favors to the
Buddhism. The majority of members in his cabinet were Buddhists. During his presidency, tens of
thousands of Buddhist temples were built or renovated. President Diem even donated a big lot of
land to build the biggest temple that was named The Vietnamese National Temple (Việt Nam Quốc
Tự) and it later became the headquarter of the Unified Buddhist Church (Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất).
President Diem was a good man; he loved and dedicated his whole life for the interests of the
country and the welfare of the people. He lived a simple and humble life as described by Geoffrey
Shaw in his book The Lost Mandate of Heaven:
”The man was seeking political power not for his own aggrandizement but out of dedication
to God and his fellowmen, whom he wished to serve” (p.36). Shaw also confirmed “Diem
could never have attacked Buddhism as his critics have claimed; his Confucian ethic of
honoring his parents and ancestors would not have permitted him to dishonor the Buddhism
of his great-grandfather and other forebears” (p.39)
Two of the biggest Buddhist temples in South Vietnam were An Quang and Xa Loi; in Central
Vietnam were Tu Dam and Bao Quoc. The Buddhist An Quang was the aggressive faction that
provoked the people into anti-government movements. Ấn Quang temples became headquarters of
the militant monks such as Thich Tri Quang, Thich Tri Thu, and Thich Don Hau… . There, the
monks met with the leaders of rebel students to discuss and plan the resistance. Also, during that
time, they stocked the weapons and propaganda materials used in the riots.
The Vietnamese Communists must have inserted agents into Buddhist rank. Vietnamese police
reported a number of Buddhists when arrested, had no identity cards.
Thus, the Buddhist struggle was only the tip of an iceberg. What lied beneath was a huge pre-
mediated plan of the movement led by North Vietnamese Communists to overthrow the regime,
creating a chaotic situation and paving way to the military offensive to seize South Vietnam.
The Buddhist movement remained an active and powerful force in the years to come. Buddhist
protesters often took to the street with the altars to block the traffics. Especially in 1965, during the
rules of Generals Nguyen Khanh and Nguyen Van Thieu, Buddhism went too far from a religion to a
political pressure group.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 92
3.1.1 Thich Tri Quang, the Man of Action
In 1966, the most militant Thich Tri Quang, based in Hue City, the old capital of Vietnam, led a
persistent movement against the government. The Vietnamese intelligent agency and police had
some evidences that linked Tri Quang to the Communist cadres. They believed the Buddhist
movement was a part of the Communist fronts beside the student movement and military activities.
Tri Quang had served with the Vietnamese Communists during the 1st Indochina War. His
brother was an official in the North Vietnamese government. During the Buddhist movement, this
man championed the Communist covert action programs in South Vietnam.
In some provinces of Central Vietnam such as Da Nang, Hue, Quang Trị, Tri Quang formed the
Struggle Committee (Ủy Ban Đấu Tranh ) backed by Youth Commandos (Đoàn Thanh Niên Quyết
Tử). The later were armed with knives, sticks, and even with some rifles and grenades taken from
the People Self-Defense Group (Nhân Dân Tự Vệ). Those commandos were assigned duties as
spying, patrolling the neighborhoods, and guarding the altars they set on the streets. In fact, the
whole region of 3 Northern provinces was under strict control by Buddhist militants.
Some Buddhist protesters moved in military formations under the direction of whistles and
drums, and they established elaborate defenses against government forces. The Buddhists
clearly could not have developed such tactics on their own. (Moyar, p. 759)
One thing to notice, the majority of Buddhists did not agree with the movement. But Tri Quang‟s
followers became very fanatic. They would not hesitate to carry out terror acts as the Communists
had ever done to scare people. There were reportedly clashes between the Buddhist Commandos
with the Catholic youth (that claimed the lives of twelve people) and even with government forces.
In a large demonstration in late November 1964, the militant Buddhists became more violent. A mob
consisting of militant Buddhists hurled rocks at policemen and hit them with clubs.
The important members of Buddhist youth later, in Mau Than event, were also leading members
of the Youth and Student Force for the Liberation of Hue. According to the US Embassy experts,
the less senior Buddhist leaders, particularly those close to Tri Quang, were in league with the Viet
Cong. One of them was Thich Huyen Quang, the Secretary General of the Buddhist Church and a
close friend of Tri Quang as was his deputy Tran Dinh.
Many experts suspected Thich Tri Quang a double agent working for the CIA and the
Communists. By looking at his deed, we see its similarity to the Communist revolutionary tactics.
Mark Moyar, in his paper, wrote:
“…the militant Buddhists practiced a form of political activism that was inconsistent with
traditional Vietnamese Buddhism. The evidence also suggests that some of the militant
Buddhist leaders were agents of the Vietnamese Communists.‖(Moyar, 2004, p. 749)
and
“In June 1963, Tri Quang urged his fellow Buddhists to seek assistance from the Viet Cong
in opposing the Diem government. Tri Quang’s methods of political mobilization bore a
close resemblance to those practiced by the Communists, and they were far more advanced
than those of other Vietnamese Buddhists. When the Communists conquered South Vietnam
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 93
in 1975, they gave Tri Quang a job in Hue and he voiced no objections to their regime,
whereas they imprisoned many other monks who had a record of political activism” (Moyar,
2004, p. 756)
Thich Don Hau, another active militant, when the RVN Army retook the old capital, followed
the defeated North Vietnamese troops back to their secret base in Truong Son Mountain.
3.1.2. Thich Nhat Hanh and his Peace Appeal
Another prominent peace activist was Thich Nhat Hanh. In 1942, Thich Nhat Hanh entered the
monastery at Tu Hieu Pagoda, Hue, to become a Zen Master seven years later. In 1956, he was in
charge of “Vietnamese Buddhism”, an official periodical magazine of the Unified Vietnam Buddhist
Church (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất). He then founded the Van Hanh Buddhist
University in Saigon and School of Youth for Social Services (SYSS). This School of Youth later
was the main force of his peace movement that caused the headache to the government.
Right after the first US combat troops landed on Vietnam soil, at a meeting in April 1965, Vạn
Hanh Student Association issued the statement “Appeal for Peace” in which said: "It is time for
North and South Vietnam to find a way to stop the war and help all Vietnamese people live
peacefully and with mutual respect." Nhat Hanh‟s close assistant, the nun Thich Chân Không who
was in charge of the SYSS, was accused by the Chancellor of Van Hanh University a Communist
mole. From then on, the SYSS struggled to raise funds and faced attacks on its members.
During his visit in the US in 1966, Nhất Hạnh championed and presented the paper "The
Renaissance of Vietnamese Buddhism" at a symposium at Cornell University to promote his peace
movement. On June 1, 1966, Nhat Hanh issued a 5 point statement of the An Quang Buddhist
Church in which it demanded the US to (1) stop immediately all military operations and (2) to
withdraw its troops from Vietnam, (3) stop bombing North Vietnam, (4) help to establish a civilian
government as well as to (ã ) rebuild South Vietnam. This statement was merely an echo of the
NLF‟s (National Front for the Liberation of South Vietnam) agenda.
Nhat Hanh gained support of Dr. Martin Luther King who later publicly questioned the role of
the US in Vietnam. King also nominated him for the 1967 Nobel Prize but was rejected by the Nobel
Committee. On June 2, 1966, Nhat Hanh testified before the US Senate where he accused the US
and South Vietnamese as the cause of all miseries the Vietnamese people had endured.
In 1967, Nhat Hanh published “Viet Nam, Hoa Sen Trong Biển Lửa” (Vietnam, Lotus in a Sea
of Fire). In this book, he promoted the so-called Buddhism Engagement and blamed the US and
South Vietnam of making war against the will of Vietnamese people. In lines 20-22, page 52, he
praised Ho Chi Minh as a national hero.
From his perspective, the NLF was founded by the South Vietnamese to resist against the US
involvement; it had no relationship with the Communist North Vietnam. He stated that because of
the dictatorship under President Ngo Dinh Diem and PM Nguyen Cao Ky, the Vietnamese patriots
were forced to join the NLF.
When South Vietnam government closed the door for him to return, Nhat Hanh went to France
and took the leadership of the Vietnamese Buddhist Peace Delegation and stayed there until after the
war ended. Despite his contribution to the fall of South Vietnam, the Communist government denied
his request to return to Vietnam. Hanoi government even called him a tool of the Pentagon while in a
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 94
document from the Vietnam War; CIA called him "brain thruster" of Thich Tri Quang, the leader of
a dissident group.
We don‟t have any hard evidences of Nhat Hanh linking to the Communists. He and his
followers claimed themselves neutral. But we know he was blind to the real world and became
Communist sympathizer. In his speech “Embracing Anger” delivered on September 25, 2001 at the
Riverside Church in New York, when talking about the suffering in Vietnam, Nhat Hanh had no
single word to blame the Communist but put all the responsibility on the US and its allies.
―I was able to understand the nature of the suffering in Vietnam. I saw that not only
Vietnamese suffered, but Americans suffered as well during the war in Vietnam. The young
American man who was sent to Vietnam in order to kill and be killed underwent a lot of
suffering, and the suffering continues today. The family, the nation also suffers. I could see
that the cause of our suffering in Vietnam is not American soldiers. It is a kind of policy that
is not wise. It is a misunderstanding. It is fear that lies at the foundation of the policy .‖
(Thich Nhat Hanh, Internet)
In the same speech, he made up the story of Ben Tre massacre to lie to the American public:
“My Dear friends, I would like to tell you how I practice when I get angry. During the war in
Vietnam, there was a lot of injustice, and many thousands, including friends of mine, many
disciples of mine, were killed. I got very angry. One time I learned that the city of Ben Tre, a
city of three hundred thousand people, was bombarded by American aviation just because
some guerillas came to the city and tried to shoot down American aircrafts. The guerilla did
not succeed, and after that they went away. And the city was destroyed. And the military man
who was responsible for that declared later that he had to destroy the city of Ben Tre to save
it. I was very angry.” (Thich Nhat Hanh, Internet)
This statement was posted on a whole page on The New York Times along with his picture.
The truth is the BenTre incident didn‟t happen. The population of Ben Tre at that time was about
75 thousand people. The US and South Vietnamese Army never dropped a single bomb onto any
city except in Hue during the Mau Than battle.
3.2. The Youth and College Student Front
There were 2 types of organizations the Communists created to conduct affairs: one legal that
could appear in public; the other in the dark. Usually, the Communist sympathizers or sleeping
agents would run for leadership positions of the legal student organization. This legal organization
consisted of real students (registered). The moles would stay low to recruit more sympathizers.
Behind the scene, the Communist Youth League (the right hand and vanguard of the Communist
Party) took the lead. The Communist students took the leadership of the Joint Student Association of
Saigon in 4 consecutive terms from 1966 to 1970.
The student movements marched alongside the Buddhists in anti-government campaign prior
1963 and continued on to protest against any government that followed. During that time, the
Communist Youth League had already infiltrated but did not have enough cadres to completely
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 95
control the student community. In Hue, 1964, Thich Tri Quang founded the People‟s Council to
Save the Country (Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc) chaired by Dr. Le Khac Quyen. The Youth and
Student Forces to Save the Motherland (Lực Lượng Thanh Niên Học Sinh Sinh Viên Cứu Quốc) was
also founded to lead the young people in multiple terror acts in Hue and Danang. When the anti-
government in Central of Vietnam rose to its climax, it was later reformed and renamed The Youth
Commandos (Đoàn Thanh Niên Sinh Viên Quyết Tử); then, The Youth and Student Force for the
Liberation of Hue (Lực Lượng Học Sinh Sinh Viên Giải Phóng Huế). The leadership now in the
hand of the Communist cadres such as Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Hoàng Văn Giàu, Nguyen Thị Đoan Trinh… Those, during the Communist occupation
in Hue in Tet Mau Than 1968, acted as executioners whose hands soaked in blood of thousands of
Hue innocent people.
3.2.1. Chronicle of the Rise of Communist Student Movements
The Communists always take seriously the force of young people in their revolutionary process.
Young people are willing to sacrifice to a cause they deem to be right. They act according to their
emotion rather than reason. That‟s why; they are likely to be easily motivated.
1949: In Saigon, during the war against French occupation, the Communist Party founded the
Inner-City Student Association. The students helped to distribute leaflets and organize labor and
school strikes.
1950: Formation of the group of cadres in charge of Student affairs. The group offered training
classes in summer in outskirt villages of Saigon (Bến Được, Củ Chi, Bàu Trai, Đức Hoà, Long Tân,
Mộc Hoá…)
1961: The 2nd
National Congress of the Vietnamese Worker‟s Party (previous name of the
Communist Party) approved its three objectives. One of which was the liberation of South Vietnam.
The National Front for the Liberation of South Vietnam was then founded to start the war in South
Vietnam. A portion of the Worker‟s Party Central Committee was sent to Duong Minh Chau secret
zone to form the Central Office for South Vietnam (COSVN), the leading body of the resistance.
The Vietnamese Worker‟s Party also created the People‟s Revolutionary Party of South Vietnam to
hide its identity and to mislead the international community. Along with this party, there was The
People‟s Revolutionary Ho Chi Minh Communist Youth League (Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách
Mạng Hồ Chí Minh).
Both Youth Leagues were the right hand of the parties. They consisted of young people recruited
from the families of party members, peasants and selected from the student body. They are the
vanguard and the human resources for the future generation of the party.
The Central Office for South Vietnam (COSVN) – a detachment of Vietnamese Worker‟s Party
in South Vietnam - stated in its directive on January 27, 1961:
“[the creation of the People‟s Revolutionary Party of South Vietnam] is only the name
change. … It is indeed a part of the Vietnamese Worker’s Party. It is under the leadership of
the Central Executive Committee led by President Ho Chi Minh”
Beginning 1960, Võ Văn Kiệt (Vietnam PM 1988-1992) then Communist Party Commissar of
Saigon-Gia Dinh ordered to create the Committee for Students Motivation of Saigon – Gia Dinh
(Ban Vận Động Học Sinh Sinh Viên Sài Gòn – Gia Định). They recruited members from high school
and college students, sent them to camps in the jungle to get training in the principles of secret
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 96
services of revolution. In “Theo Nhịp Khúc Lên Đàng” published by Nhà Xuất Bản Trẻ: 2000, page
19, the Communist youth
―was still immature to launch its independent big campaign to struggle face-to-face with
Saigon government in 1963-1964 Buddhist movement. The Party Commissar ordered it to
blend into the Buddhist agitators”
September 1, 1961: Creation of The Union Association of Youth, High School and College
Students for the Liberation of Saigon – Gia Dinh (Hội Liên Hiệp Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh
Giải Phóng Saigon Gia Định).
1965-1967 marked the birth of a secret group: The People‟s Revolutionary Youth Group of
Saigon-Gia Dinh (Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Đặc Khu Sài Gòn Gia Định)
1967-1972: The Youth Communist League of Saigon Gia Dinh (Thành Đoàn Sài Gòn Gia Định)
was formed. This was the official youth group that affiliated to the People‟s Revolutionary Party of
South Vietnam. It is like the Ho Chi Minh Communist Youth League to the Communist Party.
During 1968 Communist General Uprising and General Offensive, the Communist youth was
involved into three activities: The armed force and commando, The armed political action force and
the openly struggle force. These folks mostly were the members of the Buddhist and student
movements.
3.2.2. The leading figures
The Viet Cong created an urban front in 1968 called the Alliance of National, Democratic, and
Peace Forces for Vietnam (Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam) . The
group's manifesto called for an independent, non-aligned South Vietnam. In June 1969, the alliance
merged with the NLF to form a "Provisional Revolutionary Government" (Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam). There are strong evidences of the interchange of
leadership between the students and the intellectuals in peace movement.
Nguyen Van Hiếu, Secretary General of the NLF once said in Peking on September 20, 1964:
“The fundamental strength of the South Vietnamese people lies in their politics and this is also the
fundamental weakness of the enemy…” (Nguyen, 1965, p. 12)
After 1968, we witnessed the booming of dozens of other organizations under the umbrella of the
NLF. Although they publicly stated different objectives, they only aimed at the US and the South
Vietnam government, calling them to stop the military activities. They never pointed the finger at the
NLF and North Vietnam Communists who were the prime suspects of war crimes.
It is like they wanted to tie the hands of one side and let the other side to win the battle.
The Mastermind of all Movements: Trần Bạch Đằng
The most dangerous man behind all the youth and student movements was Trần Bạch Đằng.
Đằng joined the resistance at the age of 17 and two year later became member of the Communist
Party (1943). He moved up to one of the top leading Communist political officers in Saigon and a
member of the Council of Chairpersons of the National Liberation Front.
His power and responsibility oversaw many fronts mobilizing the intellectuals, youth, students,
Chinese Vietnamese. He was also the chief of political indoctrination and the top leader of the
People‟s Revolutionary Youth League of Saigon-Gia Dinh.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 97
In Tet Mau Than 1968, while a standing officer of the Communist Party Committee of Saigon,
he drafted the offensive plan and was also the commander of the campaign in Saigon.
After Mau Than, he was promoted to Secretary of Communist Party of Saigon-Gia Dinh.
Tran Bach Dang was credited of recruiting, training, organizing Saigon students and intellectuals
into the youth movements and the Provisional Revolutionary Government of South Vietnam. He also
mobilized the south Vietnamese politicians and priests (of both Catholic and Buddhist) into
organizations to riot and destabilize the normal living in big cities, as well as to launch propaganda
to misinform the international communities. Always, Bach Dang disguised his objectives as to
restore peace to South Vietnam
The Saigon Joint Student Association and Huỳnh Tấn Mẫm
Mẫm was recruited by Nguyễn Văn Chí (aka Sáu Chí) to be member of a secret cell when he was
15, and two year later, in 1960, he joined the Union of Youth for the Liberation of Saigon-Gia Dinh.
In 1960, as the President of Student Joint Association of Saigon- Gia Dinh, Mam led the struggle
movement to protest against the government. In 1965, he became member of the People‟s
Revolutionary Youth League.
In 1971, he launched the riot to burn hundreds of US military vehicles in front of the news
reporters from all over the world. He was arrested 11 times. In 1973, he was released as the Paris
Peace Accord had been in effect. He continued to lead the student peace movement. The last time he
was released was on April 28, 1975 when General Duong Van Minh was about to surrender to the
Communist forces.
Huynh Tan Mam was one of the first Communist Youth cadres who had infiltrated into the
student organization.
In 1976, he was promoted to member of the Executive Committee of Saigon Communist Youth;
Vice Chair of Saigon Committee of the Fatherland Front and elected to the 6th National Congress.
Lê Hiếu Đằng, Another Active Member of the Student Movement.
Le Hieu Dang, a Communist Party member, held many positions in the party, party-affiliated
organization, and local shadow government such as: Deputy Secretary General of Central
Committee of the Alliance, Vice-Chairman of the Fatherland Front Committee of Saigon, and
Secretary General of the People‟s Revolutionary Committee of Saigon- Gia Dinh. During the student
peace movement, he was member of the Executive Committee of Saigon Student Association.
Before he passed away in 2014, he expressed his disappointment toward the Communist Party
and gave up his party membership.
3.3. Intellectuals
3.3.1. Mrs. Ngô Bá Thành and The Movement for Women Rights
Mrs. Ngô Bá Thành, maiden name Phạm Thị Thanh Vân, claimed herself a representative of the
third force. She founded the Movement for Women Rights (Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống) in
1970 and worked closely with other groups to support the peace movement. She was also member of
the Board of Chairpersons of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 98
3.3.2. Trinh Đình Thảo and The Alliance of National, Democratic, and Peace Forces for
Vietnam.
In 1955, Trinh Đình Thảo was the Honor Chairman of the Peace Movement in Saigon that
opposed the US intervention and Ngô Đình Diệm administration. He joined the NLF as soon as this
organization founded. In 1968, Trinh Dinh Thao went to secret zone to form the Alliance of
National, Democratic, and Peace Forces for Vietnam (Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và
Hòa bình Việt Nam) and became the first chairman of the Alliance.
On June 6, 1969, Thao became Vice-Chair of the Advisory Council of the newly founded “The
Provisional Revolutionary Government of South Vietnam”. In same year, he led a delegation of the
Alliance to visit North Vietnam and talked with Ho Chi Minh in Hanoi.
After 1975, he was member of Communist Vietnam National Congress, and member of the
Board of Chairpersons of the Central Committee of the Fatherland Front.
3.3.3. The Phenomenon of Trinh Công Sơn – Khánh Ly
In 1960s, Trịnh Công Sơn was a very popular song writer who became famous in decades. His
songs reflected the aspiration of Vietnamese for a long-lasting peace. The rhythm and lyric in his
songs suited the taste of middle class young people and students, even South Vietnamese soldiers.
No other singers but Khanh Ly could effectively pass the feeling of the songs to attract hundreds of
thousands of people.
Trinh Cong Son was smart enough to hide his identity as he did not point the finger at either side.
The South Vietnam government did not ban his songs; but the Communists used them as a
propaganda tool to support the peace movements.
After the war, Son stayed in Vietnam to serve the new regime. Khanh Ly fled the country and
had served the anti-Communist community until she recently came back to Vietnam to perform in a
failed event in Saigon.
3.4. Peace Efforts of the RVN Government
Have suffered the killing and destruction of war for so long, most of Vietnamese people wanted
peace at any price!
South Vietnam did not make war. The people as well as the government just needed peace and
stability to develop the country. We had no choice but to bear arms to defend our country.
Because of growing instability and Vietcong insurgency in rural areas, President Ngo Dinh Diem
launched the Agroville Program in 1959. Its main purpose was to protect Vietnamese peasants from
Vietcong terrorism by relocating them to secure areas controlled by the Armed Forces of the
Republic of Vietnam (ARVN). The government built several new communities as part of the
Agroville Program, completed with schools, medical clinics, and electricity.
On September 3, 1967, General Nguyen Van Thieu was elected President of the 2nd
Republic. He
declared his highest priorities in restoring peace, social reform and development of democracy.
Talking about peace, he vowed to “open wide the door of peace and leave it open” (Lamb, 2001,
Internet ).
In the eyes of the American liberal media, President Thieu was an obstacle to peace. The true
peace, to President Thieu, cannot be achieved when the Communist forces still existed in South
Vietnam threatening the national security. He explained to the American reporters:
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 99
“We resist against any peace which demands the(audible)of South Vietnam and gives SVN to
the Communists. .. When there is a just peace, a guaranteed peace, there is no one single
obstacle to peace.” https://youtu.be/tM643Wx6IyY (minute 1:08)
What he demanded at the Paris Peace talk was the completely withdrawal of Viet Cong and
North Vietnamese troops from the South as did the US troops. However, the Paris Accord was
signed despite the disagreement of the South Vietnam government.
4. The Force behind the Movements
As the war went on, we realized that the communists and their sympathizers‟ objective was not
peace, but the victory for Viet Cong and North Vietnam. The peace movements both in the US and
South Vietnam only wanted to stop the war from the US-South Vietnam side and strongly supported
the war efforts from Viet Cong and North Vietnam. The leaders of militant Buddhist movement were
working for the Communism.
From November 1963 to July 1965, the militant Buddhist movement was the primary cause
of political instability in South Vietnam. While the militant Buddhists maintained that they
represented the Buddhist masses and were fighting merely for religious freedom, they
actually constituted a small and unrepresentative minority that was attempting to gain
political dominance. Relying extensively on Byzantine intrigue and mob violence to
manipulate the government, the militant Buddhists practiced a form of political activism that
was inconsistent with traditional Vietnamese Buddhism. The evidence also suggests that
some of the militant Buddhist leaders were agents of the Vietnamese Communists. (Moyar,
2004, p. 749)
In the chapter “The Buddhist Crisis of 1963”, Geoffrey Shaw wrote:
“… it has been document in North Vietnam that he [Thich Tri Quang] worked alongside
Vietnamese Communists in their campaigns against Western colonialism”. (Shaw, 2015, p.
197)
In interviews with Communist authors Ho Son Dai and Tran Phan Chan, “William Colby,
Lindsay Nolting, and General Nguyen Khanh, all said that although they lacked proof they believed
that Thich Tri Quang was a Communist agent.” (Ho, 1994, p. 364)
One of Tri Quang‟s close assistant, Dr. Le Khac Quyen, was the chairman of the People‟s
Revolutionary Committee in Hue when the Communists occupied the city in 1968.
In her book “Our Vietnam Nightmare”, Marguerite Higgins quoted a statement of PM Trần Văn
Hương about Thich Tri Quang:
―He talks like a Communist. The things he does help the Communists. But you Americans
want absolute proof. And evidence is not the same as absolute proof. We can prove that
Thich Tri Quang held a secret meeting with Viet Cong leaders near Cap Saint Jacques. But
Thich Tri Quang is capable of saying that he was down there trying to convert the
Communists to Buddhism—and some people would believe him!‖ (p. 261)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 100
From 1963 to 1966, Tri Quang led the movement to repeatedly protest against any government
and caused enormous harm to the anti-communist efforts.
For the student movement, in previous section, we have mentioned its relationship with the
Communism. Most peace movement activists in South Vietnam are communist agents
Communists are the master in manipulation. They have experience to mobilize the people, put
them into proper groups that they could use as effective tool for their goals. The peace movement
was used to mislead the world. Soon after April 1975, the Vietnamese Communists stated that they
won the war not on the battlefield, but on the American soil. Exactly speaking, they won the
American public.
C. Conclusion
Pro-Communist or not, the peace movements in South Vietnam were orchestrated by North
Vietnam and were used as effective tool for the ultimate goal of the Communists.
Peace movement was one of North Vietnam strategic objectives to weaken South Vietnam and
make American public to withdraw their support of South Vietnam. They succeeded doing it!
Vietnamese people have paid a very high price for it. The end of war only meant the silence on
the battlefield, no sudden death by weapons of any types. But the whole country faced starvation,
more half the south Vietnam population experienced persecution , quarter of million people sent to
concentration camps for from 3 to 20 years. Freedom of speech, of religion ceased to exist.
Hundreds of thousands of people lost their home and land. Half million people vanished on the high
sea.
Forty two years after, Vietnam under Communism is still ranked in the 3rd
world countries with
GDP per capita $4000, about 1/10 of that of other Southeast Asian countries that have the similar
conditions for development (compare to South Korea $33,200).
And the most important thing, Vietnam now submitted to the giant China and may some day in
near future, become Chinese colony.
To conclude this paper, I‟d like to quote from a speech of the late President Ronald Reagan:
―Ending a conflict is not so simple, not just calling it off or coming home. Because the price of
that peace could be a thousand year of darkness for generation’s Vietnam borned‖
https://youtu.be/8_MbUxpNjyw
Các Phong Trào Hoà Bình tại Miền Nam Việt Nam
Vào giữa Thập Niên 1960
Trình bày tại Hội Thảo 2017 mang tên Năm 1967: Sự Tìm Kiếm Hoà Bình, Do Viện Nghiên Cứu về
Hoà Bình và Tranh Chấp thuộc Trung Tâm Việt Nam, Trường Đại Học Texas Tech tổ chức vào hai
ngày 28, 29 tháng 4, 2017
A.- Dẫn Nhập
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 101
Kính thưa quý vị,
Tôi xin phép vài phút để tự giới thiệu về mình.
Tôi là Đỗ Văn Phúc, cựu sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, xuất thân từ trường Đại
Học Chiến Tranh Chính Trị năm 1969, phục vụ ba năm chỉ huy cấp đại đội tác chiến tại Sư Đoàn 5
Bộ Binh, sau đó làm Trưởng Phòng Chính Huấn thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân.
Tôi tốt nghiệp Cử Nhân Chính Trị Học tại Đại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, Kỹ Sư Điện Tử tại
Đại Học Texas ở Austin và Cao Học Quản Trị Công Nghiệp tại Đại Học Kỹ Thuật Quốc Gia ở Fort
Collins, Colorado.
Tôi phục vụ trong sinh hoạt cộng đồng từ năm 1992 và hiện là Chủ Tịch Cộng Dồng Người Việt
Quốc Gia tại Hoa Kỳ.
Tại các Hội thảo và Hội luận do Trung Tâm Việt Nam tổ chức, tôi đã có 2 lần đọc tham luận và 1
lần là diễn giả chính. Ngoài ra, tôi đã nhiều lần được các đài truyền hình Hoa Kỳ và Việt Nam phỏng
vấn.
Đáp lời kêu gọi của Trung Tâm Việt Nam, lần này, tôi sẽ trình bày về đề tài “Các Phong trào
Hoà bình tại Miền Nam Việt Nam trong Thập niên 1960”
Do nhiều sự ngộ nhận và thông tin ngụy tạo, lịch sử Chiến Tranh Việt Nam đã bị viết lại một
cách sai lạc bởi nhà cầm quyền Cộng Sản tại Việt Nam và đã được dạy theo cách sai lạc đó trong
hơn nửa thế kỷ tại Việt Nam và ngay cả tại Hoa Kỳ.
Lịch sử, lẽ ra phải được nghiên cứu theo cách nhìn của nhiều phía đã tham gia cuộc chiến để ít
nhất, gần gủi hơn với sự thật.
Với kinh nghiệp phục vụ trong 9 năm từ tác chiến đến văn phòng, tôi mong muốn được soi rọi
vào thời kỳ hỗn loạn đen tối khi mà sự tuyên truyền của Cộng Sản ngự trị trong các khuôn viên đại
học và cả trong tập thể Phật Giáo Việt Nam.
Có nhiều yếu tố đóng góp vào sự thất bại trong chiến tranh Việt Nam, mà quan trọng nhất là
phong trào chống chiến tranh tại Mỹ và Nam Việt Nam. Nó đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách của
Hoa Kỳ và công luận quốc tế.
Bản tham luận này chỉ nhìn vào các phong trào hoà bình tại Nam Việt Nam vào những năm giữa
thập niên 1960. Họ là ai? từ đâu mà có? và những phong trào này làm lợi cho ai?
Để soạn bài tham luận này, tôi đã dựa trên những tài liệu có giá trị và khả tín. Tôi thành thật cáo
lỗi về nhiều danh xưng Việt ngữ trong bài có thể gây những khó khăn cho quý vị.
B.- Những Phong trào Hoà bình tại Nam Việt Nam
Năm 1967, khi chiến cuộc ở miền Nam leo thang, thì cũng là lúc mở màn các phong trào hoà
bình rầm rộ tại Mỹ và miền Nam Việt Nam đòi hỏi chấm dứt chiến tranh.
Các phong trào này làm ngơ trước sự kiện rằng chính miền Nam Việt Nam mới là nạn nhân của
cuộc xâm lăng của Cộng Sản từ miền Bắc. Tại Mỹ, họ đòi chính phủ Mỹ phải rút quân và ngưng sự
yểm trợ cho Việt Nam Cộng Hoà trong khi đó ở miền Nam Việt Nam, các sư sải và sinh viên với sự
thúc đẩy của các thành phần Cộng Sản, đã tổ chức những cuộc biểu tình chống chính phủ khắp nơi
trên toàn quốc.
Chưa bao giờ mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản thỏa mãn hơn lúc này. Họ tính rằng đã đến
thời cơ để mở ra cuộc tấn công cuối cùng nhằm thôn tính miền Nam.
Đó là lý do mà họ đã khai pháo cuộc Tổng Tiến Công - Tổng Nổi Dậy vào dịp Tết Mậu Thân mà
đã gánh thảm bại với hàng chục ngàn binh sĩ Việt Cộng bị tiêu diệt cùng lúc hàng ngàn thường dân
vô tội bị chết oan ức do sự dã man của họ.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 102
Trước khi đào sâu vào vấn đề, chúng thử điểm qua vài nét chính về lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Từ 1954 đến 1960: theo điều khoản của Hiệp Định Geneve, quân Pháp đã rút khỏi Việt Nam,
nhưng hàng chục ngàn cán bộ Cộng sản được để lại nằm vùng ở miền Nam. Họ trà trộn trong dân
chúng các vùng nông thôn hay xâm nhập vào guồng máy công quyền. Họ thực hiện cuộc chiến du
kích, là bước đầu trong cuộc chiến tranh nhân dân chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hoà.
Từ 1960 đến 1968: Đại Hội lần thứ 2 của Đảng Cộng Sản cuối năm 1960 ra lệnh thành lập Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Từ đây, họ tiến hành bước thứ hai của cuộc chiến tranh nhân
dân. Đó là sự phối hợp giữa cuộc chiến du kích và bán quy ước. Cộng Sản thúc đẩy chiến tranh trên
ba mặt trận: quân sự, chính trị và binh vận; mà họ gọi là ba mũi giáp công.
Các hoạt động chính trị (mũi thứ hai) nhắm vào việc tranh thủ nhân tâm trong đó có kèm các
biện pháp khủng bố để ngăn ngừa dân chúng hợp tác với chính quyền. Đối tượng của mặt trận này là
tập hợp các trí thức, sinh viên học sinh, tiểu thương, các tu sĩ vào những tổ chức chính trị.
Năm 1968: Cho rằng thời điểm đã đến, Cộng Sản mở cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân đánh
vào các đô thị khắp miền Nam như là bước cuối cùng để thắng lợi. Nhưng họ đã tính toán sai lầm và
gánh lấy thảm họa. 80% lực lượng của họ bị tiêu diệt, các hạ tầng cơ sở bị lộ diện.
Sau đó, Cộng sản Hà Nội chuyển quân chính quy ồ ạt qua đường mòn Hồ Chí Minh với số lượng
hàng chục ngàn binh sĩ mỗi tháng. Cùng lúc, họ thành lập các phong trào đấu tranh trong các thành
phố lớn để gây rối loạn, hỗ trợ cho cuộc đàm phán tại Paris.
1.- Tình hình chính trị rối loạn sau cuộc đảo chính 1963.
Đầu thập niên 1960, những rối loạn do phong trào chống đối chính quyền đã làm cho tiềm lực
quân sự sa sút. Hoa Kỳ bắt đầu xem Tổng Thống Ngô Đình Diệm như một trở lực của nền dân chủ,
và là mối đe doạ cho quyền lợi của người Mỹ. Vào tháng 8 năm 1963, Tổng Thống Kennerdy ra lệnh
cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge triệt hạ Tổng Thống Diệm đưa đến cuộc đảo chính do các tướng
lãnh cầm đầu, đã thảm sát vị nguyên thủ quốc gia.
Sau đảo chính, miền Nam Việt Nam rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng khi các tướng
lãnh tranh giành đấu đá nhau. Chỉ trong vòng 3 năm, đã có tới 4 nội các được dựng lên và hạ xuống.
Người dân mất hết niềm tin vào chính phủ trong khi ngoài mặt trận, tinh thần binh sĩ sa sút. Các tu sĩ
Phật Giáo và tập thể sinh viên, tự coi mình đã thành công trong việc lật đổ nền đệ nhất Cộng hoà, họ
trở thành một lực lượng chính trị rất hùng mạnh. Họ tiếp tục cuộc đấu tranh, nhưng lần này núp dưới
chiêu bài Hoà Bình cho Việt Nam.
2.- Cộng Sản tăng cường hoạt động quân sự - Miền Nam ở bên bờ sụp đổ - Hoa Kỳ gửi
quân tham chiến.
Năm 1963 đánh dấu một bước chuyển hướng trong hoạt động quân sự của Việt Cộng từ du kích,
chuyển qua bán qui ước. Họ tung ra các cuộc tấn công vào các tiền đồn của quân đội Việt Nam Cộng
Hoà để đánh giá khả năng của quân miền Nam. Trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Định Tường vào tháng giêng
1963 là trận mở màn quan trọng của Việt Cộng khi họ sử dụng một quân số lớn để thử thách quân
đội miền Nam. Hoa Kỳ lại có lý do để đưa quân bộ chiến vào miền Nam khi chính phủ Việt Nam
Cộng Hoà đã tỏ ra bối rối. Lợi dụng tình hình phức tạp sau cuộc đảo chính, Việt Cộng gia tăng đáng
kể các hoạt động quân sự khắp miền Nam tạo ra các tổn thất càng ngày càng tăng của quân Nam.
Miền Nam đứng trước bờ vực của sự suy sụp.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 103
Vào tháng 2 năm 1965, Việt Nam đón nhận những đơn vị tác chiến đầu tiên của Nam Hàn. Kế
đó, sau biến cố Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8, 1964; ngày 8 tháng 3, 1965, Tổng Thống Johnson gửi
3500 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Đà Nẵng.
Lúc đó tổng số quân của Việt Nam Cộng Hoà là 567,246 người bao gồm quân chính quy, quân
địa phương, Cảnh sát và các lực lượng bán vũ trang. Năm 1963, từ 15 ngàn cố vấn quân sự Mỹ, đã
tăng lên 23,310 năm 1964, rồi 200 ngàn năm 1965 và 400 ngàn năm 1966.
Quân địch (Việt Cộng) vào năm 1960 có khoảng 40 ngàn quân và 80 ngàn du kích. Theo ước
tính của Bộ Quốc Phòng Mỹ thì quân số Việt Cộng là 200 ngàn cộng với 39,175 cán bộ chính trị
trong đó có hàng ngàn quân chính quy từ Bắc đưa vào trong những năm trước đó. Đơn vị chính quy
Bắc Việt đầu tiên gồm 3 trung đoàn với khoảng 5000 lính đã xâm nhập miền Nam vào cuối năm
1964.
Về tổn thất nhân mạng, năm 1964 có 216 lính Mỹ và 7457 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà. Đến
năm 1965 tăng lên 1928 quân Mỹ và 11,241 lính Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1966, con số tăng lên
đến 6143 Mỹ và 11,953 Việt Nam Cộng Hoà và tăng gấp đôi vào năm 1967 với 11,513 lính Mỹ và
hơn 20 ngàn quân Việt Nam Cộng Hoà. Con số tổn thất nhân mạng của Việt Cộng thì nhiều gấp 10
lần số tổn thất của đồng minh. Tuy thế, công luận Mỹ choáng mắt trước sự tổn thất của quân đội Mỹ.
Họ mất kiên nhẫn và đánh giá rằng phía đồng minh đã thất bại.
Trong bối cảnh đó, các phong trào hoà bình tại Mỹ và Việt Nam phát triển mạnh.
Bài tham luận này chỉ đề cập đến các phong trào ở Nam Việt Nam mà thôi.
3. Sự hình thành của các phong trào hoà bình tại Nam Việt Nam
3.1. Các phong trào Phật Giáo
Người ta cho rằng có 80% dân số Việt Nam là tín đồ Phật Giáo. Sự thật không phải vậy. Tín đồ
Phật Giáo chỉ chiếm khoảng 15% đến 20% dân số. Đại đa số người Việt Nam thờ cúng ông bà. Họ
đến chùa như một thói quen cũng như vào lễ Chúa Giáng sinh, họ cũng tấp nập kéo nhau đến các
nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Mark Moyar đã nhận xét:
“Người ta lầm lẫn khi cho rằng miền Nam Việt Nam là một nước theo Phật Giáo. Với dân số
15 triệu, chỉ có chừng 3 đến 4 triệu là tín đồ Phật Giáo trong đó chỉ khoảng một nữa là tín
đồ chăm chỉ.” (trang 752)
Không như Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo Việt Nam không được tổ chức chặt chẻ. Mãi đến năm
1964 họ chưa có một hệ thống giáo phẩm để lãnh đạo. Mỗi ngôi chùa là một đơn vị, có một vị sư
cầm đầu với vài chục tín đồ. Việc tu hành cũng đơn giản, chỉ cần cạo đầu, khoác lên tấm áo nâu sồng
là đã trở thành một vị sư. Đó là lý do giải thích tại sao Việt Cộng dễ dàng xâm nhập vào hàng ngũ tu
sĩ để nắm lấy vai trò lãnh đạo.
Phật Giáo đã tố cáo chính phủ Ngô Đình Diệm ngược đãi và đàn áp họ. Đây là điều không đúng
sự thật. Tổng Thống Diệm, tuy là người Công Giáo thuần thành, đã giúp đỡ nhiều cho Phật Giáo. Đa
số thành viên chính phủ là Phật giáo đồ. Trong thời gian ông cầm quyền, có hàng chục ngàn ngôi
chùa được xây dựng hay được tu bổ. Tổng Thống Diệm đã hiến cho Phật Giáo miếng đất rộng, thuận
lợi để xây dựng Việt Nam Quốc Tự mà sau này trở thành trung tâm của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 104
Tổng Thống Diệm là một người đạo đức. Ông yêu nước thương dân và đã cống hiến cuộc đời
cho quyền lợi đất nước và an sinh của đồng bào. Ông sống một cuộc sống thanh bạch và giản dị như
tác giả Geoffrey Shaw miêu tả trong cuốn The Lost Mandate of Heaven:
―Một ngưòi đi tìm quyền lực không phải cho tham vọng cá nhân mình mà là để cống hiến cho
Thượng Đế và những đồng bào mà ông ao ước được phục vụ họ. (trang 36)… Tổng Thống Diệm
không bao giờ có thể tấn công Phật Giáo như người ta kết án ông. Căn bản đạo lý Khổng Mạnh nơi
ông là sự tôn vinh cha mẹ và tổ tiên không thể cho phép ông xúc phạm đến Phật Giáo, là tôn giáo
mà cha mẹ ông bà của ông tin theo.‖ (trang 39)
Phật Giáo Việt Nam ở miền Nam có hai chùa lớn là Ấn Quang và Xá Lợi, ở miền Trung có hai
chùa Từ Đàm và Bảo Quốc. Phái Phật Giáo Ấn Quang là thành phần hiếu chiến đã thúc đẩy các
phong trào chống đối chính phủ. Chùa Ấn Quang trở thành bản doanh của các nhà sư tranh đấu như
Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Đôn Hậu… Nơi đây, các sư gặp gỡ các lãnh tụ sinh viên
chống chính quyền để soạn thảo kế hoạch. Họ cũng cất giữ vũ khí và các tài liệu tuyên truyền dùng
trong các cuộc bạo động.
Cảnh sát Việt Nam Cộng Hoà từng bắt giữ nhiều Phật giáo đồ tại chùa không hề có giấy tờ căn
cước. Điều đó cho phép suy diễn rằng cán bộ Cộng Sản đã xâm nhập vào các chùa này.
Tuy vậy, phong trào đấu tranh của Phật Giáo chỉ là phần nổi của tảng băng sơn mà chìm bên
dưới là những mưu đồ lớn do Cộng Sản Bắc Việt chỉ huy nhằm lật đổ chính quyền. Đó là những kế
hoạch gây rối loạn, lót đường cho những chiến dịch tấn công quân sự để chiếm trọn miền Nam.
Phong trào Phật Giáo trở thành một lực lượng mạnh trong những năm sau đó. Họ xuống đường,
đem bàn thờ ngăn cản trên các đường phố. Đặc biệt vào năm 1965, Phật Giáo đã đi quá xa ra khỏi
phạm vi tôn giáo để trở thành một đoàn thể áp lực chính trị.
3.1.1. Con người hành động: Thích Trí Quang
Năm 1966, Thích Trí Quang đang ở cố đô Huế để dẫn đầu phong trào chống chính phủ. Cơ quan
Cảnh sát và tình báo Việt Nam Cộng Hoà có những tài liệu về mối liên hệ của ông ta với cán bộ
Cộng sản. Người ta tin rằng phong trào Phật Giáo là một thành phần trong các mặt trận của Cộng sản
bao gồm cả phong trào sinh viên và các hoạt động quân sự.
Vào thời chiến tranh kháng Pháp, Trí Quang hoạt động chung với Cộng Sản. Người anh của ông
ta là một viên chức trong chế độ Cộng sản tại miền Bắc. Trong thời gian có phong trào Phật Giáo,
người anh này chỉ huy các hoạt động điệp báo ở miền Nam.
Tại các thành phố miền Trung như Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị, Trí Quang cho thành lập Ủy ban
Đấu Tranh với sự hỗ trợ của Đoàn Thanh Niên Quyết Tử. Nhóm Thanh Niên Quyết Tử này được
tranh bị với dao găm, gậy gộc và cả súng trường tịch thu của Nhân Dân Tự Vệ. Họ được phân công
tuần tiểu các khu phố, do thám tin tức, bảo vệ các bàn thờ mà họ đã đem xuống lòng đường. Có thể
nói, ba tỉnh cực Bắc miền Nam đã nằm trong sự kiểm soát của nhóm Phật Giáo đấu tranh.
―Những người Phật Giáo tranh đấu di chuyển theo đội hình quân sự dưới sự điều khiển bằng
còi và trống. Họ thiết lập công sự phòng thủ để chống lại quân đội. Rõ ràng là những người
Phật Tử không thể tự mình phát triển các chiến thuật như thế!‖ (Moyar, trang 759)
Nhưng không phải các tín đồ Phật Giáo đều đồng ý với phong trào ngoại trừ những người theo
Trí Quang mà càng ngày càng tỏ ra cuồng tín. Họ không ngần ngại thi hành những sự khủng bố
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 105
nhằm gieo rắc sự sợ hãi như bọn Cộng sản thường làm. Đã có nhiều cuộc chạm trán giữa lực lượng
Quyết Tử Phật Giáo với thanh niên Công Giáo mà kết quả có hàng chục người chết. Họ còn đụng độ
cả với lực lượng Cảnh Sát. Trong một cuộc biểu tình vào cuối tháng 11 năm 1964, đám Phật Giáo
quá khích này càng trở nên hung hãn, bạo động. Họ dùng gạch đá, gậy gộc để đánh lại Cảnh Sat1.
Sau này, khi xảy ra vụ Tết Mậu Thân 1968, những thành viên quan trọng trong đám thanh niên
Phật Giáo lộ nguyên hình là những tên lãnh tụ trong Lực Lượng Thanh Niên Sinh Viên Giải Phóng
Huế. Theo tài liệu của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ, những lãnh tụ cao cấp của Phật Giáo thân cận với Trí
Quang đã hoạt động trong hàng ngũ Việt Cộng. Có thể kể ra Thích Huyền Quang, Tổng Thư Ký
Giáo Hội Phật Giáo cùng với người phụ ta là Trần Đinh. Nhiều nhà tình báo nghi ngờ rằng Trí
Quang là điệp viên nhị trùng vừa làm việc cho Việt Cộng vừa làm việc cho Cơ Quan Tình Báo
Trung Ương CIA.
―Những người Phật Giáo đấu tranh đã có những hoạt động chính trị không phù hợp với bản
chất truyền thống của Phật Giáo. Có nhiều bằng chứng để suy đoán rằng các lãnh tụ Phật
Giáo tranh đấu là cán bộ của Cộng Sản (Moyar, trang 749)
―Vào năm 1963, thúc dục các tín đồ Phật Giáo tìm sự hỗ trợ của Việt Cộng để chống lại
Tổng Thống Diệm. Các phương pháp vận động chính trị của Trí Quang rất giống với phương
pháp của Cộng Sản. Các phương pháp này đi quá xa so với những phương thức từng áp
dụng trong Phật Giáo. Sau khi Cộng sản chiếm được miền Nam năm 1975, họ đã đề nghị cho
Trí Quang một chức vụ tại Huế. Trí Quang không hề lên tiếng chống đối chế độ mới trong
khi những tu sĩ từng có thành tích hoạt động chính trị thì bị chế độ giam cầm.‖ (Moyar, trang
756)
Khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà tái chiếm cố đô Huế, Thích Đôn Hậu đã chạy theo đám tàn
quân Cộng Sản váo tận vùng núi rừng Trường Sơn để sau 1975, trở thành một Đại biểu Quốc Hội
của Cộng sản Việt Nam.
3.1.2. Thích Nhất Hạnh với chiêu bài Hoà bình
Năm 1942, Nhất Hạnh vào tu ở chùa Từ Hiếu (Huế). Bảy năm sau, ông trở thành thiền sư. Năm
1956, ông là chủ nhiệm tờ báo „Phật Giáo Việt Nam‟ là cơ quan ngôn luận định kỳ chính thức của
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ông thành lập trường Đại Học Vạn Hạnh và trường
Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội tại Sài Gòn. Hai trường này về sau trở thành lực lượng chính của
phong trào hoà bình đã gây nhức đầu cho chính phủ thời đó.
Vào tháng 4, 1965, sau khi quân đội Mỹ đổ bộ vào miền Nam, Hội Sinh Viên Vạn Hạnh đã ra
một bản kêu gọi hoà bình trong đó ghi: “Đã đến lúc hai miền Nam và Bắc Việt Nam cần tìm một
phương cách chấm dứt cuộc chiến để đem lại cuộc sống thanh bình cho dân chúng trong tình thần
tương trọng.” Sư nữ Thích Chân Không, người thân cận với Nhất Hạnh khi đó đang cầm đầu
Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, đã bị Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh tố giác là cán bộ Cộng
sản nằm vùng. Từ đó trở đi, các thành viên của trường luôn bị tấn công và trường Thanh Niên Phụng
Sự Xã Hội phải chật vật kiếm tài chánh riêng.
Năm 1966, trong chuyến đi Mỹ, Nhất Hạnh đã trình bày bài tham luận với nhan đề “Sự Tái Sinh
của Phật Giáo Việt Nam” trong một buổi hội luận tại Đại Học Cornell để cổ vũ cho phong trào hoà
bình. Ngày 1 tháng 6, 1966, ông đưa ra tuyên bố 5 điểm của nhóm Phật Giáo Ấn Quang trong đó yêu
cầu Hoa Kỳ (1) chấm dứt ngay tức khắc các hoạt động quân sự và (2) rút hết quân ra khỏi miền Nam
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 106
Việt Nam, (3) chấm dứt ném bom miền Bắc, (4) giúp thành lập một chính phủ dân sự và (5) tái thiết
miền Nam.
Tại Mỹ, Nhất Hạnh nhận được sự ủng hộ của Martin Luther King là người sau đó đã lên tiếng
công khai về vai trò của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. King cũng đề nghị cho Nhất Hạnh
được giải Nobel Hoà Bình, nhưng bị Ủy Ban chấm giải từ chối. Ngày 2 tháng 6, Nhất Hạnh ra điều
trần trước Thượng Viện Mỹ. Tại đây, ông lên án Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà là kẻ
gây ra những bất hạnh mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu.
Qua năm 1967, Nhất Hạnh xuất bản cuốn sách nhan đề „Hoa Sen trong Biển Lửa‟ để đề cao vai
trò đóng góp của Phật Giáo và kết án Việt Nam Cộng Hoà cùng Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chiến trái
nghịch với nguyện vọng của người daân Việt Nam. Trong trang 52, ở dòng 20 đến 22, Nhất Hạnh ca
tụng Hồ Chí Minh như một anh hùng dân tộc.
Nhất Hạnh cho rằng chính người dân miền Nam đã thành lập Mặt Trận Giải Phóng để chống lại
sự can thiệp của Mỹ. Theo ông, Mặt Trận Giải Phóng không có liên hệ gì với Cộng Sản Bắc Việt.
Ông đổ thừa cho chính sách độc tài của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ
đã thúc đẩy người dân miền Nam gia nhập vào Mặt Trận.
Khi chính phủ Việt Nam Cộng Hoà không chấp thuận cho ông về nước, Nhất Hạnh đã chạy qua
Pháp và nắm quyền lãnh đạo phái doàn Hoà Bình của Phật Giáo Việt Nam cho đến khi chiến tranh
kết thúc. Mặc dù những đóng góp của ông vào sự sụp đổ của miền nam, chính phủ Cộng sản cũng từ
chối không cho ông về nước vì họ cũng coi ông là công cụ của đế quốc Mỹ. Phía Mỹ, thì cơ quan
CIA đã gọi ông là một bộ óc của Thích Trí Quang.
Chúng tôi không có bằng chứng cụ thể nào để cáo buộc Nhất Hạnh là người của Cộng sản. Nhất
Hạnh và các đệ tử của ông tự nhận họ là những người trung lập. Nhưng chúng ta đều biết ông ta đã
mù quáng trước thực tế hiển nhiên mà trở thành những kẻ có cảm tình với Cộng sản. Trong bài nói
chuyện nhan đề “Chất chứa sự phẫn nộ” đọc tại nhà thờ Riverside ở New York này 25 tháng 9,
2001, Nhất Hạnh đã nói về sự đau khổ của người dân Việt Nam là trách nhiệm của Hoa Kỳ và Đồng
Minh, mà không hề có lời nào nói đến trách nhiệm của Cộng sản.
―Tôi có thể hiểu thấu đáo nỗi đau khổ của nhân dân Việt Nam. Mà không chỉ người Việt
Nam, mà cả người Mỹ nữa cũng cam chịu khổ đau do chiến tranh Việt Nam gây ra. Những
thanh niên Hoa Kỳ được đưa đến Việt Nam để giết chóc và bị giết cũng cam chịu nỗi đau mà
còn tiếp diễn cho đến hôm nay. Cả gia đình, cả đất nước cũng chịu khổ đau. Nguyên nhân
khổ đau của dân tộc Việt Nam không phải do những người lính Mỹ, mà do chính sách thiếu
khôn ngoan, những sự hiểu lầm. Đó là nỗi sợ hãi ngự trị ngay trong căn bản của chính sách‖
Cũng trong bài nói chuyện trên, Nhất Hạnh đã dựng đứng câu chuyện thảm sát tại Bến Tre để lừa
gạt dân chúng Hoa Kỳ như sau:
―Các bạn thân, … Trong thời gian chiến tranh Việt Nam đã có nhiều bất công mà hàng ngàn
người bị giết; trong đó có bạn bè của tôi, các đệ tử của tôi… Một lần, tôi nghe chuyện thành
phố Bến Tre, nơi có ba trăm ngàn dân cư, đã bị Không quân Mỹ đánh bom chỉ vì có vài du
kích Cộng sản trong thành phố đã bắn lên phi cơ. … thành phố bị tiêu hủy. Người phi công
đánh bom sau đó đã nói rằng họ phải hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu vãn tình hình. Tôi
rất giận về chuyện này‖
Bài này đã được tờ báo New York Times đăng nguyên 1 trang kèm hình ảnh của Nhất Hạnh.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 107
Sự thật là không hề có chuyện Bến Tre bị đánh bom, và dân số Bến Tre lúc đó chỉ khoảng 70
ngàn người. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, quân lực Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh chưa hề
thả một trái bom vào các thành phố, trừ trường hợp ở Huế trong trận đánh Tết Mậu Thân hoặc một
thành phố Quảng Trị đã hoang tàn và không còn dân cư.
3.2. Mặt trận sinh viên và thanh niên
Thông thường, Cộng sản thành lập hai loại hình tổ chức để tiến hành đấu tranh: một loại hợp
pháp để đấu tranh công khai, và loại kia thì tổ chức bí mật, nằm trong bóng tối. Các tổ chức hợp
pháp của sinh viên quy tụ những sinh viên thực thụ nhưng lại do những cảm tình viên Cộng sản hay
các tên nằm vùng nắm vai trò lãnh đạo. Bọn nằm vùng thì thường kín đáo để tuyên mộ cảm tình
viên. Phía sau hậu trường là Đoàn Thanh Niên Cộng sản (cánh tay mặt đắc lực của Đảng Cộng sản)
lèo lái tất cả. Những sinh viên Cộng sản đã giữ vai trò lãnh đạo Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn trong
liên tiếp 4 nhiệm kỳ từ 1966 đến 1970.
Trong thời gian 1963 và cả thời gian tiếp theo sau đó, phong trào sinh viên đã đi đôi với phong
trào Phật Giáo trong các cuộc đấu tranh chống chính quyền. Thời đó, dù đã thâm nhập vào Tổng Hội
Sinh viên, nhưng Đoàn Thanh Niên Cộng sản chưa đủ nhân lực để hoàn toàn nắm vai lãnh đạo. Tại
Huế năm 1964, Thích Trí Quang thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do Bác Sĩ Lê Khắc
Quyến làm Chủ tich. Sau đó, thành lập thêm Lực Lượng Thanh Niên Học Sinh Sinh Viên Cứu Quốc
để cầm đầu các thanh niên trong hàng loạt những hoạt động khủng bố tại Huế và Đà Nẵng. Lực
lượng này sau cải danh thành Đoàn Thanh Niên Sinh Viên Quyết Tử rồi sau cùng là Lực Lượng Học
Sinh Sinh Viên Giải Phóng Huế. Đến thời điểm này thì do chính các cán bộ Cộng sản nắm quyền.
Xin kể ra vài tên quen thuộc như: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Hoàng Văn Giàu, Nguyễn Thị Đoan Trinh… Đám Cộng sản này trong Tết Mậu Thân, đã là
những hung thần, đao phủ đã hành quyết không gớm tay hàng ngàn thường dân vô tội tại Huế.
3.2.1. Quá trình lớn mạnh của Phong trào Sinh Viên Cộng sản
Cộng sản luôn đặt nặng việc xây dựng các phong trào thanh niên trong diễn trình cách mạng của
họ vì giới thanh niên đầy nhiệt huyết, sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng mà họ coi là đúng. Thanh niên
dấn thân và hành động dựa trên cảm tính nhiều hơn lý trí. Vì thế, rất dễ khích động và lợi dụng họ.
Trong chiến tranh chống Pháp, năm 1949, Cộng sản thành lập tổ chức Sinh viên Nội Thành để
rải truyền đơn và tổ chức các cuộc đình công, bãi khoá. Đến năm 1950, thì thành lập nhóm cán bộ
đặc trách sinh viên vụ. Họ tập trung thanh niên sinh viên vào các làng mạc ngoại ô Sài Gòn để huấn
luyện.
Năm 1961, Đại Hội lần thứ 2 của Đảng Lao Động (tức Đảng Cộng sản) chấp thuận 3 mục tiêu
trong đó có mục tiêu giải phóng miền Nam. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành
lập để khởi phát cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam. Một bộ phận của Trung Ương Đảng Lao
Động Việt Nam được đưa vào chiến khu Dương Minh Châu để hình thành Trung Ương Cục Miền
Nam, là cơ quan đầu não chỉ huy cuộc chiến. Đảng Lao Động cũng cho thành lập đứa con là Đảng
Cách Mạng Nhân Dân Miền Nam để ngụy hoá vai trò của mình và lừa gạt nhân dân và quốc tế. Kế
đó là Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Hồ Chí Minh, một đứa con không khác gì Đoàn
Thanh Niện Cộng sản Hồ Chí Minh ở ngoài Bắc. Hai đoàn thanh niên này là cánh tay mặt của hai
đảng (Lao Động Việt Nam và Cách Mạng Nhân Dân Miền Nam) quy tụ những thanh niên từ con em
đảng viên, từ giai cấp nông dân, hoặc lựa chọn từ thành phần sinh viên. Họ là đội tiền phong và nhân
lực dự trữ tương lai của đảng.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 108
Trung Ương Cục Miền Nam được xem là phái viên của Bộ Chính Trị Trung Ướng Đảng Lao
Động Việt Nam đã xác nhận trong một văn thư đề ngày 27 tháng 1, 1961:
―[sự thành lập Đảng Cách Mạng Nhân Dân miền Nam] chỉ là một sự thay tên… Nó đúng ra
là một bộ phận của Đảng Lao Động Việt Nam. Nó được đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy Ban
Trung Ương Đảng do Chủ Tịch Hồ Chí Minh cầm đầu.‖
Từ năm 1960, Võ Văn Kiệt lúc đó Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, ra lệnh thành lập Ban Vận Động
Học Sinh Sinh Viên Sài Gòn – Gia Định quy tụ học sinh trung học và sinh viên đại học. Bọn này
được đưa đến các trại huấn luyện trong rừng sâu để được dạy về các nguyên tắc hoạt động bí mật
của cách mạng. Theo cuốn sách „Theo Nhịp Khúc Lên Đàng‟ do Nhà Xuất Bản Trẻ phát hành năm
2000, ở trang 19, viết:
―[Đoàn Thanh niên Cộng sản] còn ở tình trạng chưa đủ trưởng thành để tung ra các chiến
dịch độc lập dối mặt với ―ngụy quyền Sài Gòn‖ trong chiến dịch 1963 của Phật Giáo. [Vì
thế,] Đảng Ủy đã ra lệnh họ phải thâm nhập hoà mình vào trong nhóm gây rối của Phật
Giáo.‖
Ngày 1 tháng 9, 1961, Hội Liên Hiệp Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Giải Phóng Sài gòn Gia
Định được thành lập. Đến khoảng 1965 – 1967 có sự ra đời của Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách
Mạng Đặc Khu Sài Gòn Gia Định. Từ năm 1967 đến 1972, Thành Đoàn Sài Gòn Gia Định ra đời
làm nòng cốt cho Đảng Nhân Dân Cách Mạng. Trong chiến dịch Tết Mậu Thân, các tổ chức thanh
niên Cộng sản tham gia trực tiếp cả ba mặt trận: xung kích vũ trang, chính trị, tuyên truyền vũ trang
và hoạt động chống đối công khai. Họ là những thành viên nòng cốt trong các phong trào Phật Giáo
và sinh viên.
3.2.2 Các khuôn mặt nổi bật
Năm 1968, Việt Cộng thành lập một mặt trận trong thành phố mang tên Liên Minh các Lực
Lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam mà trong tuyên ngôn, họ kêu gọi thành lập một miền
Nam độc lập, không liên kết. Tháng 6, 1969, Liên Minh này sáp nhập vào Mặt Trận Giải Phóng để
hình thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Có nhiều bằng chứng
rõ rệt về sự trao đổi lãnh đạo giữa các nhóm sinh viên và nhóm trí thức trong phong trào hoà bình.
Tại Bắc Kinh ngày 20 tháng 9, 1964, Nguyễn Văn Hiếu, Tổng Thư Ký Mặt Trận Giải Phóng đã
nói rằng: “Vấn đề chính trị là sức mạnh căn bản của nhân dân miền Nam Việt Nam và cũng là
nhược điểm căn bản của kẻ thù (tức chính quyền Việt Nam Cộng Hoà)‖
Sau năm 1968, chúng ta nhìn thấy sự phát triển bùng nổ của hàng tá các tổ chức dưới bóng dù
của Mặt Trận Giải Phóng. Mặc dù mỗi tổ chức đưa ra các mục tiêu khác nhau, nhưng tất cả đếu
nhắm vào việc kêu gọi Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà chấm dứt các hoạt động quân sự mà không
bao giờ đả động đến bọn Việt Cộng Nam hay Bắc là những thủ phạm chính gây ra chiến tranh.
Điều này như là trói tay một phe (Việt Nam Cộng Hoà và Mỹ) trong khi để cho phe kia rảnh tay
hành động mà đánh gục đối phương.
Trần Bạch Đằng, người thủ lĩnh chóp bu của các phong trào sinh viên.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 109
Trần Bạch Đằng là một nhân vật thủ đoạn và nguy hiểm nhất đứng sau lưng các tổ chức thanh
niên và sinh viên. Năm 1941, khi mới 17 tuổi, Đằng đã tham gia kháng chiến để hai năm sau được
kết nạp vào đảng Cộng sản Việt Nam. Ông ta leo dần lên đến vai trò lãnh đạo cao nhất của đảng tại
sài Gòn và là thành viên trong Hội Đồng Chủ Tịch của Mặt Trận Giải Phóng.
Quyền hạn và trách nhiệm của ông ta bao trùm nhiều lãnh vực như vận động trí thức, thanh niên,
sinh viên, người gốc Hoa. Ông cũng là Trưởng ban Tuyên Huấn và là thủ lãnh của Đoàn Thanh Niên
Cách Mạng Nhân Dân Sài Gòn Gia Định.
Trong biến cố Mậu Thân 1968, khí đó là Thường Vụ Đảng Cộng sản tại Sài Gòn, Đằng là người
vẽ ra kế hoạch tấn công và là người chỉ huy chiến dịch ở vùng Sài Gòn. Sau Mậu Thân, Đằng được
thăng chức là Bí Thư Đảng Ủy Sài Gòn Gia Định.
Trần Bạch Đằng có công rất lớn trong việc tuyển mộ, huấn luyện, tổ chức thành phần sinh viên
và trí thức vào các phong trào thanh niên và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam
Việt Nam. Ông cũng có công trong việc vận động các chính trị gia và tu sĩ miền Nam vào các tổ
chức gây rối để phá hoại sự ổn định trong cuộc sống tại các thành phố lớn cũng như tung ra chiến
dịch tuyên truyền để lừa bịp, gây sự ngộ nhận trong cộng đồng thế giới. Trần Bạch Đằng rất giỏi khi
núp dưới chiêu bài vãn hồi hoà bình cho miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Tấn Mẫm và Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn
Mẫm được Nguyễn Văn Chí (bí danh Sáu Chí) tuyển mộ hoạt động bí mật lúc mới 15 tuổi. Hai
năm sau, anh ta gia nhập Hội Liên Hiệp Thanh Niên Giải Phóng Sài Gòn Gia Định.
Năm 1960, với tư cách Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, Mẫm lãnh đạo phong trào đấu
tranh chống chính phủ. Qua năm 1965, Mẫm được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cách Mạng.
Năm 1971, anh cầm đầu cuộc gây rối đốt phá hàng trăm chiếc xe quân sự của Mỹ ngay trước ống
kính của các phóng viên ngoại quốc. Anh từng bị chính phủ bắt giữ 11 lần và được thả ra năm 1973
khi Hiệp Định Paris được ký kết. Sau đó, anh ta lại tiếp tục cầm đầu các phong trào đấu tranh và lại
bị bắt cho đến ngày 29 tháng 4, 1975 mới được Dương Văn Minh thả ra sau khi ông tuyên bố đầu
hàng.
Huỳnh tấn Mẫm là một bằng cớ sinh động về việc xâm nhập của Cộng sản vào các phong trào
sinh viên.
Năm 1976, Mẫm được nhận là thành viên Ủy Ban Trung Ương Đoàn Thanh Niên tại Sài Gòn và
là Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố Sài Gòn. Anh được Việt Cộng chọn để bầu vào khoá
6 Quốc Hội bù nhìn.
Lê Hiếu Đằng, một nhân vật nổi của phong trào sinh viên
Đằng là một đảng viên Cộng sản từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong đảng hoặc các đoàn
thể ngoại vi của đảng, hoặc các chức vụ trong chính phủ trong bóng tối như: Phó Tổng Bí Thư Ủy
ban Trung Ương của Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Phó Chủ
Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố Sài Gòn, Tổng Bí Thư Hội Đồng Cách Mạng Nhân Dân Sài Gòn
Gia Định. Trong thời gian có phong trào hoà bình của sinh viên, Đằng là thành viên của Ủy Ban
Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn.
Trước khi qua đời vào năm 2014, Đằng bày tỏ sự bất mãn đối với Đảng Cộng sản và đã tuyên bố
từ bỏ đảng tịch.
3.3. Thành phần trí thức
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 110
3.3.1. Ngô Bá Thành và Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống
Bà Ngô Bá Thành, phương danh là Phạm Thị Thanh Vân, tự nhận mình là người đại diện cho lực
lượng thứ ba. Bà thành lập Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống vào năm 1970 và hợp tác chặt chẽ
với các tổ chức khác để yểm trợ phong trào hoà bình. Bà còn là thành viên của Chủ Tịch Đoàn của
Hội Đồng Trung Ương của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
3.3.2. Trịnh Đình Thảo và Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Hoà Bình cho Việt
Nam
Năm 1955, Trịnh Đình Thảo đã là Chủ Tịch Danh Dự của Phong Trào Hoà Bình tại Sài Gòn, là
một tổ chức chống đối sự có mặt của Hoa Kỳ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Ông tham gia Mặt
Trận Giải Phóng ngay khi mặt trận vừa được thành lập. Năm 1968, Thảo được gửi ra mật khu để
thành lập Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam mà ông là Chủ Tịch
đầu tiên.
Vào tháng 6, 1969, Thảo là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thới Miền Nam Việt Nam. Cũng trong năm này, ông dẫn đầu phái đoàn của Liên Minh thăm viếng
miền Bắc và được Hồ Chí Minh tiếp kiến tại Hà Nội.
Sau 1975, Ông là Đại Biểu Quốc Hội Việt NamCộng sản và là thành viên của Chủ Tịch Đoàn Ủy
Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc.
3.3.3. Hiện tượng Trịnh Công Sơn và Khánh Ly.
Trong thập niên 1960, Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ nổi tiếng. Nhạc của ông được ưa chuộng
cho đến nhiều thập niên về sau. Đó là những bản nhạc gợi đến ước vọng hoà bình của người dân
Việt Nam. Từ âm điệu cho đến lời ca dễ đi vào lòng các tầng lớp quần chúng, đặc biệt là giới sinh
viên, thanh niên thành thị, và ngay cả với những người lính chiến đấu. Nhạc Trịnh Cộng Sơn phải
được truyền đạt qua giọng ca đặc biệt của Khánh Ly.
Trịnh Công Sơn đủ thông minh để che dấu lập trường chính trị khi ông chẳng lên án phe nào
trong cuộc chiến. Ngay chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cũng không hề cấm hát nhạc của ông trong
khi phe Cộng sản thì tận dụng nhạc này để làm công cụ tuyên truyền cho phong trào phản chiến.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam và hợp tác với chế độ Cộng sản;
còn Khánh Ly thì vượt biển ra hải ngoại hát phục vụ cộng đồng tị nạn Cộng sản cho đến gần đây, bà
trở về Việt Nam với ảo tưởng tìm lại vinh quang đã mất. Nhưng chỉ gặp thất vọng não nề.
3.4. Các nỗ lực hoà bình của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà
Sau hàng năm dài chiến tranh tang tóc, người dân Việt Nam đều mong muốn có hoà bình dù với
bất cứ giá nào. Miền Nam đã không khởi động cuộc chiến. Người dân miền nam cũng như chính phủ
Việt Nam Cộng Hoà đều muốn có hoà bình ổn định để xây dựng đất nước. Nhưng người miền Nam
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc cầm súng để chống lại xâm lăng từ miền Bắc.
Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, chính phủ Ngô Đình Diệm đã có kế hoạch dinh điền, lập ra những khu
trù mật từ năm 1959 nhằm bảo vệ người dân vùng nông thôn tránh khỏi sự quấy nhiễu của du kích
Cộng sản. Nơi đây, họ được sự bảo vệ của quân đội để sinh hoạt và lao động bình thường trong
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 111
những điều kiện do chính phủ hỗ trợ như trường học, nhà thương, cung cấp nông cụ, hạt giống và
ngay cả nguồn điện.
Đến thời Đệ Nhị Cộng Hoà, khi ông Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống; ngày 3 tháng 9,
năm 1967, ông đã đề ra 3 mục tiêu chính: (1) Vãn hồi hoà bình, (2) xây dựng dân chủ và (3) cải tạo
xã hội. Khi nói về hoà bình Tổng Thống Thiệu đã nhấn mạnh rằng ông hứa sẽ “mở rộng cửa cho hoà
bình, và để ngõ nó.” (Lamb, 2001, Internet ).
Nhưng dưới mắt truyền thông tả khuynh Mỹ, Tổng Thống Thiệu cũng là một trở lực cho hoà
bình. Tổng Thống từng nói với báo chí rằng hoà bình thực sự không thể có khi mà quân đội Cộng
sản vẫn còn hiện diện trên đất miền Nam và hàng ngày đe doạ nền an ninh của miền Nam. Theo ông:
―Chúng tôi chống lại bất cứ thứ hoà bình nào mà đòi miền Nam phải khuất phục, giao miền
Nam cho Cộng sản… Một khi có được sự bảo đảm về một hoà bình công chính, thì sẽ chẳng
có trở ngại nào cả.‖ https://youtu.be/tM643Wx6IyY (minute 1:08)
Tại Hội Đàm Paris, phía Việt Nam Cộng Hoà chỉ đòi hỏi các lực lượng Việt Cộng và Bắc Việt
phải rút hết ra khỏi lãnh thổ miền Nam, như Hoa Kỳ cũng đã triệt thoái hết quân đội của họ. Tuy
nhiên, Hiệp Định Paris đã được ký kết trái với nguyện vọng của nhân dân miền Nam.
4. Lực lượng nào nấp sau phong trào hoà bình?
Chiến tranh tiếp diễn, chúng ta mới thấy mục tiêu của những người Cộng sản và thân cộng không
phải vì hoà bình mà là sự chiến thắng của Bắc Việt. Các phong trào hoà bình tại Mỹ cũng như tại
miền nam Việt Nam chỉ đòi hỏi Hoa Kỳ và đồng minh chấm dứt chiến đấu trong khi vẫn yểm trợ các
nỗ lực quân sự của Bắc Việt và Việt Cộng. Chính những lãnh tụ Phật Giáo đã làm lợi cho Cộng sản.
―Từ tháng 11 năm 1963 cho đến tháng 7 năm 1965, phong trào Phật Giáo quá khích là
nguyên nhân chính dẫn đến sự bất ổn chính trị tại miền Nam. Trong khi những lãnh tụ Phật
Giáo tự cho rằng họ đại diện cho quần chúng giáo đồ để tranh đấu cho tự do tôn giáo thì sự
thật, họ chỉ là một nhóm thiểu số nhỏ nhoi mà lại muốn dành quyền lực chính trị. Dựa vào
những thủ đoạn và bạo lực của đám đông để gây rối chính quyền, các tu sĩ Phật Giáo đã
thực hành những hình thái hoạt động chính trị ngược lại với truyền thống của Phật Giáo Việt
Nam. Có nhiều bằng chứng cho thấy vài vị lãnh đạo Phật Giáo là cán bộ Cộng Sản.‖
(Moyar, 2004, p. 749)
Chính Geoffrey Shaw cũng viết trong chương mang tựa đề “Cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo năm
1963”:
“… Có những tài liệu từ phía Bắc Việt cho hay rằng ông [Thich Tri Quang] đã làm việc
chung với cán bộ Cộng sản trong các chiến dịch chống lại Thực dân Tây Phương”. (Shaw,
2015, p. 197)
Hai tác giả phía Cộng sản là Ho Son Dai and Tran Phan Chan, trong một bài phỏng vấn cũng
phát biểu “Các ông William Colby, Lindsay Nolting, và Tướng Nguyễn Khánh, đều cho rằng dù
thiếu bằng chứng, họ vẫn tin rằng Thích Trí Quang là một cán bộ Cộng sản.” (Ho, 1994, p. 364)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 112
Một người thân tín nhất của Trí Quang là Bác Sĩ Lê Khắc Quyến trong thời gian Mậu Thân 1968
đã lộ diện khi ông là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng thành phố Huế trong thời điểm Cộng
quân chiếm đóng cố đô.
Trong cuốn sách “Ác Mộng Việt Nam” (Our Vietnam Nightmare), tác giả Marguerite Higgins đã
trích lời cố Tổng Thống Trần Văn Hương nói về Thích Trí Quang như sau:
“Ông ta nói năng như một người Cộng sản. Những điều ông ta làm đều có lợi cho Cộng sản.
Các bạn Mỹ muốn phải có bằng chứng tuyệt đối! Chúng tôi có bằng chứng việc Trí Quang đã
tiếp xúc với các lãnh tụ Cộng sản gần Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Nhưng Trí Quang giải
thích rằng ông ta đủ khả năng thuyết phục người Cộng sản trở thành tín đồ Phật Giáo. Ấy thế
mà cũng có người tin ông ta.”(p. 261)
Từ năm 1963 đến 1966, rõ ràng Thích Trí Quang đã lãnh đạo phong trào liên tiếp chống đối bất
cứ chính quyền nào tại miền nam và đã gây tổn hại cho công cuộc chiến đấu chống Cộng sản.
Còn về phong trào sinh viên, trong phần trước, chúng tôi đã nói đến mối quan hệ của họ với các
đảng viên Cộng sản như thế nào rồi. Có thể nói rằng hầu hết các nhân vật trong phong trào hoà bình
là các thành viên Cộng sản.
Họ rất giỏi trong các thủ đoạn. Họ có kinh nghiệm sách động quần chúng, tổ chức đoàn thể để sử
dụng đúng chỗ, đúng lúc trong việc đấu tranh. Phong trào hoà bình chỉ là phương tiện để đánh lừa
thế giới. Sau khi chiến thắng, chính những người Cộng sản tuyên bố rằng họ đã thắng không phải tại
các chiến trường, mà thắng ngay tại trên đất Mỹ.
Nói thẳng ra, họ đã chiến thắng đối với công luận Hoa Kỳ.
C. Kết luận
Các phong trào hoà bình, dù thân cộng hay không thì cũng do sự đạo diễn của Cộng sản để dùng
như công cụ đắc lực, hiệu quả cho mục tiêu chiếm đoạt miền Nam. Đó là những mục tiêu làm suy
yếu tiềm lực của quân dân miền nam và làm cho Hoa Kỳ rút lại sự yểm trợ cho chính phủ Việt Nam
Cộng Hoà. Họ đã thành công!
Người Việt Nam đã trả một giá quá đắt cho hoà bình đó. Sự chấm dứt chiến tranh quả có làm
ngưng tiếng súng, không còn những cái chết bất ngờ bởi các loại vũ khí. Nhưng cả nước sau đó lại
rơi vào tình trạng cực kỳ đen tối do đói khát, hơn một nửa dân số bị ngược đãi, một phần tư triệu
người bị lùa vào các trại tập trung, bị giam giữ tra tấn hàng chục năm. Các quyền tự do bị tước đoạt.
Hàng trăm ngàn người mất đất, mất nhà và nửa triệu người bị chôn vùi dưới đáy biển sâu khi trên
đường tìm tự do.
Hơn 40 năm sau chiến tranh, Việt Nam dưới chế độ Cộng sản vẫn còn bị liệt vào các nước nghèo
với lợi tức trung bình theo đầu người là 4000 đô la mỗi năm tức chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia có
cùng điều kiện phát triển trong vùng.
Và điều quan trọng nhất là đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay đã quy phục Trung Cộng. Một
ngày không xa, Việt Nam sẽ trở thành một phần lãnh thổ của Trung Hoa!
Để kết luận, tôi xin mượng câu nói của cố Tổng Thống Ronald Reagan:
―Chấm dứt một cuộc chiến không phải là điều đơn giản như ngưng lại sự chém giết và kéo nhau
ra về. Bởi vì cái giá hoà bình.sẽ là hàng ngàn năm tăm tối cho nhiều thế hệ người Việt về sau.‖
https://youtu.be/8_MbUxpNjyw
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 113
Bảo Vệ Môi Trường: Vấn Đề Hâm Nóng Địa Cầu và Thay Đổi Thời Tiết
Khái niệm Hâm Nóng Địa Cầu
Hâm nóng Địa cầu là chữ dùng để diễn đạt rằng
nhiệt độ bầu khí quyển và các đại dương của trái đất
đang từ từ tăng lên. Sự tăng nhiệt độ đó sẽ là vĩnh viễn
và đưa đến sự thay đổi thời tiết (Climate Change). Điều
này có thể nhận thấy từ 17 năm qua từ thống kê của các
nhà khí tượng, và trong thực tế ai cũng biết mỗi năm,
mỗi nóng hơn, số ngày nóng trong năm cũng nhiều
hơn.
Các nhà khoa học trên thế giới tuy có đồng ý trên căn bản về hiện tượng này, nhưng lại bất đồng
sâu sắc về nhiều yếu tố khác. Những khoa học gia bất đồng cho rằng những vị kia đã phóng đại, bịa
đặt thêm để hù dọa nhân loại. Thật ra, trước đây, những người khởi xướng đã sử dụng chữ Địa Cầu
Nóng Lên. Sau đó họ thay bằng chữ Thay Đổi Khí Hậu để dễ thuyết phục.
Trong khi các nước Âu Châu tỏ ra hốt hoảng về tình trạng này; cựu Tổng thống Obama đã khởi
xướng cùng Liên Âu họp nhau lập ra Thoả ước Paris. Thoả ước này đuợc hiệu lực ngày 12 tháng 12,
2015. Gần như tất cả các nước trên thế giới đều tham gia, ngoại trừ Syria và Nicaragua. Sự đóng góp
của các nước không bị ràng buộc, nên luôn luôn Hoa Kỳ là nước trút hầu bao nhiều nhất. Tổng thống
Trump đã biểu lộ sự bất đồng sâu sắc về các vấn đề Hâm nóng Địa cầu (Global Warming) và Thay
đổi Khí hậu (Climate Change). Vì thế, ông chủ trương rút tên Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp Ước về Khí Hậu
Paris. Hôm thứ Năm vừa qua, tại sân toà Bạch Cung, ông đã tuyên bố dứt khoát rút ra khỏi Thỏa
Ước Paris vì cho rằng Hoa Kỳ chỉ bị thiệt thòi mỗi năm hàng trăm tỷ đô la để cho không các nước
đang phát triển mà trái lại họ (ngay cả Trung Cộng là thành viên) sử dụng tiền vào việc khác thay vì
để giúp giải quyết nạn hâm nóng địa cầu. Ông bị nhóm đảng dân Chủ, nhóm tả khuynh, phóng túng
kết án rất nặng nề về việc từ chối tham gia Hiệp ước này. Ông Trump vẫn còn mở ra cánh cửa là hứa
sẽ tái thương lượng về Thoả Ước Paris, sao cho có bình đẳng hơn.
Cựu Phó Tổng thống Al Gore là người tích cực cổ động cho vấn đế Hâm nóng Địa cầu. Trong
cuốn sách nhan đề “Địa Cầu trong Thế Cân Bằng” (Earth in Balance) xuất bản năm 1993, ông đã
viết ra viễn ảnh đen tối của nhân loại khi đề cập đến những phát minh tiến bộ khoa học kỹ thuật đã
tác hại đến môi trường làm cho trái đất càng ngày càng cằn cỗi, thời tiết càng ngày càng tệ hại, mặt
đất càng ngày càng nóng lên. Phụ hoạ với ông là nhiều tác giả như bà Rachel Carson với cuốn Một
Muà Xuân Yên Ắng (Silent Spring) đổ thừa cho các loại thuốc dùng trong nông nghiệp sẽ giết chết
mầm sống có cây, muông thú và phát sinh ra carcinogen đưa đến mầm bệnh ung thư cho loài người.
Quý vị còn nhớ nhân loại đã khốn đốn vì bệnh sốt rét, làm chết hàng chục triệu người trên khắp
hành tinh. Người ta đã tìm ra thuốc DDT để diệt loài muỗi độc truyền nhiễm bệnh sốt rét. Nông dân
cũng nhờ phát minh ra các loại thuốc trừ sâu để bảo vệ mùa màng, nhờ phân bón để tăng gia sản
lượng… Nhưng thứ gì cũng có bề trái của nó. Uống Aspirin trị đau thì có thể gây biến chứng cho
bao tử! Thuốc trừ sâu, thuốc diệt muỗi thế nào mà không mang lại side effect cho người dùng nó.
Chúng ta khi đau bệnh phải dùng thuốc. Thuốc công hiệu để trừ bệnh này, thì cũng có thể gây nguy
hại đến bộ phận khác trong cơ thể.
Trong lãnh vực đời sống, các phát minh khoa học kỹ thuật giải phóng sức lao động con người.
Chiếc xe hơi, xe lửa nhanh và tiện hơn xe ngựa. Nhưng xe hơi, xe lửa, phi cơ… thì phải dùng đến
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 114
nguyên liệu là xăng hay dầu. Xăng dầu khi đốt cháy sẽ nhả ra làn khói độc Carbon Dioxide (CO-2).
Khói này nhiều sẽ bay lên tầng khí quyển làm hỏng tầng Ozone là tầng che chở cho chúng ta khỏi bị
các luồng phóng xạ từ tia cực tìm của mặt trời. Sinh vật trên trái đất ở các vùng khô sẽ bị tàn phá bởi
tia cực tím của mặt trời nếu nó không được lọc qua lớp khí quyển.
Vì những lý luận đó mà Al Gore lên án các phát minh khoa học, ông mơ trở lại thời trung cổ với
chiếc xe ngựa, với người dùng trâu bò để làm nông nghiệp. Nghĩa là một xã hội hoàn toàn không cơ
giới hoá, điện khí hoá.
Lý lẽ của những người chủ trương như Al Gore không có gì là sai cả. Nhưng điều ai cũng biết
rằng sống trên đời, phải chấp nhận sự bù trừ. Không có điều gì, vật gì hoàn hảo, hoàn toàn thuận lợi
cả. Sống là phải chấp nhận sự thách thức, hiểm nghèo (taking risk). Muốn có tiện nghi thì phải đổi
lại bằng sự bất tiện khác; muốn lành bệnh này thì phải chấp nhận sự có thể mang bệnh khác. Phải
cân nhắc để lựa chọn và tìm phương cách để giảm nguy hại. Nhân loại đã lựa chọn sự tiến bộ thay vì
cứ ù lì tại một điểm văn minh.
Người ta chê trách ông Gore là tự mâu thuẫn với chính ông. Vì trong khi ông chủ trương và mơ
ước cuộc sống không văn minh cơ khí, thì chính ông và gia đình lại đang thụ hưởng - phải nói là tận
hưởng - những thứ mà ông lên án, đòi phải xoá bỏ đi. Đâu có thấy ông sắm cỗ xe hai ngựa thay
những chiếc xe tân thời đắt tiền và chiếc phi cơ phản lực riêng?
Hiện tượng thay đổi khí hậu là có thật.
Thay đổi thời tiết là sự kiện thông thường của thiên nhiên. Hơn hai triệu năm trước, trái đất ở
thời kỳ băng hà. Khí hậu lạnh đến độ mặt trái đất ở hai cực phủ một lớp thảm băng dày. Khi đó làm
gì có loài người? Mà chỉ có các loại khổng long, khổng tượng.
Rồi hàng trăm ngàn, hay triệu năm sau, trái đất nóng dần lên, băng hà tan bớt. Các con thú khổng
lồ chết dần do không thích nghi với thời tiết mới. Từ đó, nhiều loại thảo mộc và động vật mới ra đời
trong đó có loài người. Luật thiên nhiên đòi hỏi các sinh vật phải tự thích ứng với điều kiện mới nếu
không muốn bị thoái hoá, diệt vong.
Trên căn bản thì lý luận về sự thay đổi khí hậu và trái đất nóng dần là đúng.
Khi tầng ozone trên bầu khí quyển bị mỏng đi, nó không còn đủ để cản bớt sức nóng mặt trời, thì
các lớp băng sơn ở hai cực địa cầu tan dần làm mực nước biển tăng lên. Mỗi năm, chúng ta thấy số
ngày nóng nhiều hơn lên.
Nhưng để giải quyết vấn nạn này không phải là trở lại quá khứ
mà vẫn tiến đến tương lai. Cũng không phải chỉ có Hoa Kỳ và các
nước tiên tiến Tây phương, mà là trách nhiệm toàn thế giới. Hoa
Kỳ và các nước phương tây vẫn nỗ lực để hạn chế sự ô nhiễm môi
sinh. Các hãng xe đã áp dụng kỹ thuật mới làm giảm sự tiêu thụ
nhiên liệu. Nhà máy điện nguyên tử hay dùng sức gió đang dần
thay thế nhà máy nhiệt điện. Các công ty sản xuất thực phẩm, chăn
nuôi, trồng trọt đã đưa ra sản phẩm organic để hạn chế các thứ phụ
gia hoá học…
Nếu so sánh con số nạn nhân những thứ bệnh truyền nhiễm ngày xưa với ngày nay, thì rõ ràng
hàng triệu con người đã được cứu sống nhờ tiến bộ y khoa. Nếu có phát sinh ra những loại bệnh mới
thì âu cũng là theo luật bù trừ thiên nhiên. Dù sao, thì nạn nhân của các bệnh mới này cũng ở trong
con số giới hạn và có thể giảm thiểu được.
Nhưng thử nhìn qua nước Trung Hoa lục địa?
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 115
Từ lâu, ai cũng biết Trung Hoa là quốc gia đông dân, có một sự phát triển rất nhanh trong những
thập niên vừa qua. Nhưng chính quyền Trung Hoa đã không hề có biện pháp nào để ngăn chặn sự ô
nhiễm môi sinh. Các nhà máy ở Hoa Lục nhả khói bừa bãi vào không gian, làm cho các thành thị
bên Tàu luôn bị một một lớp dày đặc khí thải giống như sương mù mỗi sáng mùa đông! Lớp khí độc
CO-2 của Trung Cộng thả vào không gian nhiều gấp bội so với tổng cộng khí độc các nước khác thải
ra. Nhưng chính quyền và dân chúng Trung Hoa không thấy trách nhiệm của mình đối với nhân loại.
Họ quen nếp sống bừa bãi từ cả ngàn năm nay rồi.
Ngoài vấn đề thuộc lãnh vực thuần túy khoa học, thì vấn đề Hâm Nóng Địa Cầu này còn liên
quan đến lãnh vực chính trị nữa. Một lần nào đó trong tương lai, chúng tôi sẽ có dịp trình bày đến
quý vị về những tham vọng của một số chính trị gia đang muốn bao trùm quyền lực của mình lên
toàn thế giới. Đó là khuynh hướng toàn cầu mà từ mấy thập niên qua đã hình thành dần dần qua
nhiều cơ cấu và định chế núp sau các mặt nạ kinh tế, tài chánh, nhân đạo…
Cách giải quyết bất công
Tuần trước, sau khi Tổng thống Trump tuyên bố rời khỏi Thoả
Ước Paris về Thay Đổi Khí Hậu, chúng tôi đã có dịp trình bày về
vấn đề này. Nhưng vì thời gian có hạn, nên chưa nói hết ý. Trong
một tuần qua, trên các diễn đàn đã có những cuộc tranh cãi khá sôi
nổi giữa nhóm ủng hộ và nhóm chống Trump. Lại có sự tham gia
của nhiều vị ở các nước ngoài như Canada, Âu Châu… Dĩ nhiên,
mỗi vị trình bày theo góc độ nhìn vào vấn đề của họ mà họ cho là
đúng.
Như đã thưa, chúng tôi không phủ nhận việc có sự thay đổi khí
hậu và hiện tượng trái đất nóng dần lên. Điều chúng tôi bất đồng là
nguyên nhân của các hiện tượng trên và sự giải quyết nhằm hạn
chế nó.
Như cô Mai Lý có góp ý thêm sau khi chấm
dứt chương trình Thời sự Hàng tuần, rằng hàng
triệu năm trước, chưa có loài người thì có ai đốt củi
để tạo ra thán khí CO-2 mà trái đất vẫn nóng lên.
Rồi khi có loài người, cả chục vạn năm sau mới
khám phá ra dầu mỏ, thì lượng khí CO-2 có bao
nhiêu mà làm nóng địa cầu? (mới đây khám phá ra
xương hoá thạch của loài Homo Sapien cách nay
300 ngàn năm. Còn trước đó chỉ có di tích từ 200
ngàn năm mà thôi)
Vâng, lý do địa cầu nóng lên là do nó quay quanh quỷ đao mặt trời, mỗi lúc mỗi gần mặt trời
thêm một chút. Rồi có những vụ nổ trên mặt trời đã phóng ra một nhiệt lượng rất lớn làm ảnh hưởng
đến hành tinh xung quanh, trong đó có trái đất thân yêu của chúng ta.
Với lý do này, thì nhân loại đành bất lực không có khả năng gì để làm thay đổi quỷ đạo.
Một trong những bất đồng với các vị chủ trương Thỏa hiệp Paris là phương cách giải quyết bất
công và phi lý. Gần 200 quốc gia hiện hữu trên trái đất phải chung sức bảo vệ ngôi nhà chung,
nhưng dường như đại đa số ỷ lại vào Hoa Kỳ là chính và vài nước Âu Châu.
Trung Hoa là nước thải ra nhiều khí CO-2 nhất (chiếm 30% tổng số khí độc của thế giới), thì tuy
kỹ nghệ phát triển đến cao độ, vẫn nhận mình là quốc gia đang phát triển nên không đóng góp một
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 116
xu. Ấn Độ nhả ra 7%, Nga nhả ra 5% thán khí cũng chẳng đóng một xu. Trong khi ba nước này có
dư tiền theo đuổi cuộc chạy đua nguyên tử và không gian. Đặc biệt Trung Hoa và Ấn Độ hoàn toàn
thả lỏng cho các nhà máy nhả khói vào không gian. Bầu trời, sông ngòi, ao hồ tại các nước này
nhiễm bẩn và nhiễm độc đến mức hết thuốc chữa. Theo Thoả Ước Paris, Trung Cộng còn được phép
dùng than đá và xả khói tự do thêm 13 năm nữa! Cứ tình trạng thế này thì 10 nước Hoa Kỳ bỏ tiền ra
cũng không cứu được.
Trong khi đó, Hoa Kỳ tuy là nước công nghiệp lớn nhất, chỉ nhả ra 19% khí độc, mà từ bao năm
nay, phải oằn lưng đóng góp bao thầu cho gần hết thế giới. Như thế có công bằng hay không?
Khi bàn đến vấn đề này, dú khách quan đến mấy, chúng ta cũng phải đứng về phía quan điểm và
quyền lợi của nước Mỹ, vì chúng ta là công dân Hoa Kỳ, mọi vấn đề chính trị, kinh tế thế giới đều
có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của chúng ta với tư cách công dân Mỹ.
Trong khi đa số các nước khác lơ là về môi sinh, ngoại trừ vài nước
Bắc Âu, Hoa Kỳ đã rất tích cực để giải quyết vấn nạn này ngay trong
nước:
1.- Các chương trình nghiên cứu đã đưa đến các phát minh để thay
thế năng lượng từ dầu mỏ bằng năng lượng sạch như thủy điện
(hydropower), phong điện (wind power), điện nguyên tử (nuclear power),
năng lượng mặt trời (solar power). Trong năm 2012, Hoa Kỳ đã sản xuất
được 141 ngàn tỷ watt, tức 26.4% tổng số phong điện toàn thế giới (534.3 ngàn tỷ Watts. Một vài
con số: Năm 2012, trên thế giới sản xuất 22.752 tỷ tỷ watts. Trong đó 40.2% chạy bằng than, 22.4%
bằng xăng dầu, 16,5% bằng thủy điện, 10.8% bằng năng lượng nguyên tử, 2.7% bằng sức gió và
năng lượng mặt trời, 7.4% bằng các thứ khác.
Tại nhiều thành phố, tiểu bang Hoa Kỳ, có những chương trình khuyến khích dùng năng lượng
mặt trời. Tại các vùng nông trang, chúng ta thấy hàng ngàn máy phát điện chạy bằng sức gió do các
cánh quạt khổng lồ quay và phát sinh ra điện lực. Hoa Kỳ cũng thúc đẩy các công ty xe hợi sản xuất
ra xe chạy bằng điện hay giảm mức tiêu thụ xăng trong số xe hiện nay.
2.- Hoa Kỳ kiểm soát rất chặt chẽ về việc nhả khí CO-2. Các công xưởng đều bị ràng buộc gắt
gao bời các quy định do Ủy Hội về Phẩm chất Môi sinh (Commission on Environment Quality). Xe
cộ hàng năm phải khám về luợng khí phun ra phải ở trong một mức tối đa ấn định trước khi được tái
đăng bạ và đóng thuế lưu hành hàng năm.
3.- Hoa Kỳ là nước có luật lệ đàng hoàng về việc bảo tồn cây xanh. Nhìn từ trên không, đất nước
Mỹ toàn một màu xanh. Việc chặt phá cây phải được phép. Trong khi đó, tại các nước nghèo, việc
khai thác cây cối bừa bãi, nạn phá rừng tràn lan do tham lợi và nạn tham nhũng. Hậu quả là gây lũ
lụt và góp thêm vào việc làm nóng mặt đất. Từ hàng triệu năm nay, vòm lá xanh là những ân nhân
của nhân loại ví nó hút các chất khí thải do loài người gây ra hàng ngày.
Tính cách chính trị trong vấn đề Climate Change
Vấn đề thay đổi thời tiết đã được nhắc đến trong hai tuần qua. Tuy nhiên trên các diễn đàn vẫn
chưa yên. Đã có những vị có trình độ về khoa học ứng dụng, khoa học tự nhiên lên tiếng; nhưng vẫn
còn vài vị cũng khoa bảng (nhưng thuộc lãnh vực khác như y khoa, khoa học nhân văn..) dựa trên
những phán xét của nhóm truyền thông liberal để chứng minh sự vô trách nhiệm của Tổng thống
Trump đối với mối an nguy của nhân loại.
Một trong những việc thiếu lương thiện mà chúng tôi đã chứng minh trên các diễn đàn, đó là một
biểu đồ do báo New York Times đưa ra về sự đóng góp tài chánh cho Quỹ Năng Lượng Xanh (tức
quỹ về Climate Change) trong đó tính trên đầu người thì Thụy Điển là nhiều nhất ($59.31/người), kế
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 117
đó là Luxemburg ($58.63), Norway ($50.20)… trong khi Hoa Kỳ chỉ có $9.41, đứng hạng thứ 11,
sau cả Nhật Bản.
Người xem biểu đồ một cách hấp tấp sẽ có nhận xét
ngay là Hoa Kỳ quá tệ, vô trách nhiệm…
Nhưng họ quên đọc một hàng chữ in nhỏ và rất mờ
nhạt rằng “nếu các quốc gia thi hành đầy đủ cam kết của
họ”. Có nghĩa đây chưa phải là sự đóng góp mà chỉ là sự
hứa hẹn.
Và điều thứ hai, là sự đóng góp này dựa tính theo đầu
người. Nếu chịu khó lấy máy tính ra làm các con tính dân
số nhân với tiền đóng góp mỗi người, chúng ta sẽ thấy
ngay Hoa Kỳ hứa đóng góp nhiều nhất, gần 2.6 tỷ đô la.
So lược như sau:
Mỹ sẽ đóng $9.41/người x 320 triệu dân = 2 tỷ 912
triệu đô la.
Thụy Điển $59.31/người x 8.87 triệu dân = 526 triệu.
Luxemburg: $58.63 x 583,642 dân = 34 triệu
Norway: $50.20 x 5.3 triệu dân = $266 triệu...
Còn gần 180 nước không đóng đồng nào? Trong đó có Tàu Cộng xã khí CO-2 nhiều nhất 30%,
Ấn, Nga xấp xỉ 10% mỗi nước. Các nước này rất giàu, họ dùng tiền chạy đua không gian, nguyên tử
để cạnh tranh với Hoa Kỳ.
Nói qua về lãnh vực khoa học thì trong các môn khoa học, vật lý địa cầu là môn khó nhất. Sinh
viên các ban Kỹ sư tại Đại học đều phải học qua một vài lớp về Modern Physics, Universal Physics.
Nhưng phải thú thật rất khó nuốt đối với các sinh viên ban Điện, Cơ Khí, Hóa Học, Hàng Không,
Công Chánh… Trừ các sinh viên thuần tuý về Vật Lý, còn chúng tôi thì nghe giảng cứ như nghe
chuyện trên trời rơi xuống (mà quả là chuyện ở cõi trên thật!). Ngay trong các nhà khoa học về môn
này vẫn còn chưa đồng thuận với nhau vì họ chỉ căn cứ vào thực nghiệm, vào thống kê, mà vũ trụ thì
bao la,bàn tay và khối óc con người chưa với tới được.
Và?
Vì phía sau hậu trường của vấn đề Thay đổi Khí Hậu, còn mang nặng tính chất chính trị mà
người viết đã từng được nghe bàn cãi và trong mấy tuần nay bỏ ra nhiều thì giờ để tìm hiểu. Tuy
nhiên, khó mà nói cho đủ trong một hai trang giấy về những thế lực đang muốn nắm vai trò lãnh đạo
toàn cầu qua khái niệm Global Governance.
Thế giới loài người luôn có hai khuynh hướng đối nghịch. Một khuynh hướng nhắm vào tự do cá
nhân, tự chủ. Họ hy sinh một phần cá nhân để chấp nhận một chính phủ hạn chế để cùng thu đạt và
chia sẻ quyền lợi. Đây là khuynh hướng của di dân từ các nước đến mảnh đất Bắc Mỹ và đã dựng lên
một nước Hoa Kỳ “land of the free and the home of the brave”. Từ hơn hai trăm năm nay, Hiến
pháp Hoa Kỳ tiêu biểu cho những nỗ lực tốt nhất để bảo vệ tự do cá nhân trong một chính phủ giới
hạn. Trong khi đó, khuynh hướng toàn cầu thì chủ trương phải có một chính phủ mạnh, đồ sộ để
phân phối đồng đều lợi tức và điều hành tất cả mọi hoạt động của con người nhằm bảo vệ họ không
bị chèn áp bởi người khác. Khái niệm này nghe gần gủi với chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của Cộng
Sản!
Trong bất cứ thời điểm nào cũng có những cá nhân, những nhóm người đeo đuổi tham vọng
thống trị thế giới. Từ Đại đế Alexandre, Đế quốc La Mã, Đế quốc Mông Cổ, đến Cộng Sản, Phát
Xít… Ngày xưa thì không cần chiêu bài gì, nhưng về sau, thì họ đề ra những học thuyết để quyến rũ
người theo và biện minh cho mục tiêu của họ: Khai hoá các dân tộc (Đế quốc Pháp, Anh, Tây Ban
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 118
Nha…), Thế giới Đại đồng (Marxism), thuyết chủng tộc ưu tú (Đức Quốc Xã), và hiện nay thì núp
dưới chiêu bài “Bảo Vệ Môi sinh” (Thay đổi khí hậu, Địa cầu nóng lên).
Thế kỷ 20 chứng kiến sự ra đời của Hội Quốc Liên – Liên Hiệp Quốc - Chiến Tranh Lạnh giữa
hai khối (1950-1970) – Phong trào Môi Sinh (1970 đến nay). Cuối thế kỷ 20, tham vọng thống trị
toàn cầu là từ những nhà kinh doanh, công nghiệp tỷ phú. Có thể bắt đầu từ tổ chức gọi là Hội Đồng
Bang Giao Quốc Tế (Council on Foreign Relations) được thành lập bởi những nhà trí thức thấy có
một nhu cầu về một chính phủ toàn thế giới mà họ cho rằng khi đó dân chúng Hoa Kỳ chưa sẵn sàng
cho việc này. Sau khi Thượng viện Hoa Kỳ không phê chuẩn gia nhập Hội Quốc Liên (League of
Nation), những người sáng lập CFR cho rằng đây là biện pháp tốt nhất để giải quyết những vấn đề
của thế giới. Những tên tuổi đầu tiên chúng ta có thể kể là Đại Tá Edward Mandell House, tác giả
cuốn Philip Dru, Administrator , Walter Lipmann, John Foster Dulles (Ngoại Trưởng thời Tổng
thống Eisenhower), Allen Dulles (Giám Đốc CIA); Christian Herter (sau nối chức Ngoại Trưởng của
Dulles). Tiền tài trợ cho tổ chức này đến từ đại ngân hàng J.P. Morgan, tỷ phú John Rockfeller,
Bernard Baruch, Paul Warburg, Otto Kahn, Jacob Schiff…
Đề Đốc Chester Ward, một thành viên của CFR sau này đã nói với dân chúng Hoa Kỳ rằng:
“Những nhóm người ưu tú này có chung một mục đích. Đó là xoá bỏ nền độc lập và quyền tự quyết
của Hoa Kỳ [cho một chính phủ thế giới]… Trước hết họ muốn có sự độc quyền về ngân hàng thế
giới để kiểm soát chính phủ toàn cầu…”
Cánh tay trợ thủ đắc lực của nhóm này là truyền thông tả khuynh. Họ gần như kiểm soát các đài
CBS, NBC, RCA, ABC, các hãng truyền thông Associated Press, United Press; các tờ báo New
York Times, Washington Post, Dow Jones & Co; Time, People, Sport Illustrated, Fortune, Life,
Money, News week, Reader‟s Digest, National Review….
Đa số các tổ chức
đó mang tính chất
của hội kín như Tam
Điểm (Freemasons),
Bilderberg Group,
The Illuminati, The
Knights of the
Golden Circle… Họ
có nhiều quyền lực
bao trùm các chính trị gia và có ảnh hưởng đến bầu cử hay vận mệng quốc gia.
David Rockfeller đứng đàng sau các khoa học gia, chi ra hàng tỷ đô la tài
trợ cho nhiều tổ chức quốc tế, gây ảnh hưởng trên chính sách của Hoa Kỳ và
Liên Hiệp Quốc. Lynn White, một lý thuyết gia của phong trào đã dẫn đầu cuộc
thập tự chinh chống lại thần quyền Thiên Chúa Giáo, truyền giảng lý thuyết
“Trật tự mới của Thế Giới” (New World Order). Bà ta muốn thay thế đức tin
Thiên Chúa bằng một thứ tôn giáo mới. Đó là niềm tin dựa trên Bio-Centrism.
Chúng ta ít nghe đến chữ Theosophy. Đó là một thứ triết học về thần bí mà
hiện nay quy tụ được 52 quốc gia lập ra tổ chức gọi là Theosophical Society.
Tổ chức này có khoảng 13 ngàn hội viên, trong đó có 8 ngàn tại Hoa Kỳ. Những nhân vật elite trong
phong trào “Global Warming” đã tận dụng và phối hợp chiêu bài “Môi Sinh” với lý thuyết thần bí
Theosophy để hù dọa nhân loại. Leonard Lewin trong tác phẩn Report from the Iron Mountain viết
rằng sự đe doạ về quân sự đang bị thay thế bởi nỗi đe dọa bởi Sinh Thái Ecology (eco threat) và con
Hội kín Free Mason
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 119
người chính là kẻ thù của chính mình. Maurice Strong, một người nắm nhiều vai trò quan trọng
trong các tổ chức phi chính phủ (NGO) thì kết án nền văn minh là kẻ thù của nhân loại, phụ họa với
Al Gore kêu gọi tiêu diệt nền văn minh cơ khí. Aurelio Peccei sáng lập ra Club of Rome, núp sau
lưng các khoa học gia Âu Châu, cổ vũ cho sự kiểm soát toàn cầu (global control) về lãnh vực tài
chánh… Còn nhiều nữa trong đó có Bill Clinton, Obama, Soros…
Đối với những nhân vật trên, “Power is not a means, it is an end” (George Orwell).Quyền lực
không phải là phương tiện, mà là mục đích. Họ lợi dụng nỗi sợ hãi của nhân loại đối với cái mà họ
gọi là “3 khủng hoảng toàn cầu” trong đó nạn trái đất nóng lên là chính, để thiết lập một trật tự mới
toàn cầu qua những hoạt động:
Từ Rio Declaration (Rio de Janeiro 1992) đến Hội nghị về Nhân Quyền (Vienna 1993), đến
WTO (Uruguay 1994) đến Social Development (Copenhagen 1995) đến Commission on Sustainable
Development (New York 1995), đến World Women Congress (Beijing 1995), State of World Forum
(San Francisco 1995), Habitat II (Istanbul 1996), Framework Convention on Climate Change
(Geneva 1996) đến Commission on Global Governance và World Conferenece 1998.
Những nhà doanh nghiệp tỷ phú mới là người nắm quyền lực chính sau hậu trường. Họ tận dụng
quyền lực và uy tín của các chính trị gia tầm cỡ để thực hiện mưu đồ.
Chia chác tài khoản
Ngoài ra, còn có những nhóm quyền lợi riêng đã và đang khai thác những món tiền béo bở từ
ngân sách dồi dào của chương trình Thay Đổi Thời Tiết. Những tổ chức này sẽ núp dước các danh
nghĩa nhân đạo giành giật những món tiền khổng lồ nói là để nghiên cứu hay thi hành như:
Công ty Telsa của Elon Musk đã nhận 4.9 tỷ để thực hiện các chương trình gọi là năng lượng
xanh) LA Times.
Công ty năng lượng mặt trời nhận 535 triệu từ chính quyền Obama
Các công ty quảng cáo, vận động xài hết 2.5 tỷ mỗi năm.
Các nhà khoa học nhận 11 tỷ mỗi năm để nghiên cứu!
Cựu Tổng thống Al Gore và đồng lõa – Từ ngày chủ xướng vấn đề Thay Đổi Khí Hậu, tài sản
của Al Gore đã đi từ số 0 lên hơn $200 triệu. Đa số tiền này đến từ các quỹ và thương vụ đầu tư vào
“năng lượng xanh” của ông. Ông ta vận động chính phủ, nhận tiền rồi làm giàu. Đó là cách nhóm
lợi ích kiếm tiền.
Chúng tôi chỉ xin kể sơ qua một vài con kên kên đã cấu vào số tiền mà những nước hào phóng
góp vào cho quỹ về môi sinh. Hiện tượng này không khác với hiện tượng “cai thầu từ thiện” mà biết
bao nhiêu tổ chức ra đời, lợi dụng lòng nhân từ của con người để kiếm ăn béo bở trên đau khổ của
đồng loại. Bọn này lập ra tổ chức, chia các chức vụ lãnh đạo cho người trong gia đình, dùng tiền
quyên đuợc hay tài trợ để trả những món lương khổng lồ, tận hưởng những tiện nghi xa hoa khi đi
làm công tác. Và số tiền thực sự chi dùng cho mục đích nêu ra có khi chỉ ở mức 5, 10% số tiền
quyên được. Tổ chức Clinton Foundation là một thí dụ mà chúng tôi đã có dịp trình bày cách đây
khoảng 5, 6 tháng.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 120
Đánh Giá Cộng Đồng Việt trong Xã Hội Mỹ
Là người Việt Nam, ai không thấy hãnh diện khi trong cộng đồng mình sản sinh ra những
nhân tài nổi tiếng, ai không thấy vui mừng khi sự thăng tiến của tập thể mình được ghi nhận và vinh
danh. Ngược lại, chúng ta cũng xấu hổ lây khi nghe đài truyền hình, báo chí phanh phui những việc
gian lận, buôn người, băng đảng, mà các can phạm mang những họ Trần, Lê, Nguyễn…
Vài năm trước đây, không rõ từ nguồn tin nào mà báo chí tiếng Việt đưa những tin rất “phấn
chấn” rằng tỷ lệ người Việt có bằng đại học cao đến 40%. Điều khó phủ nhận là con em của những
người tị nạn Việt Nam ngày nay đa số đã thành đạt. Các em học giỏi, đứng đầu lớp khi tốt nghiệp
trung học, nhận bằng tối ưu, danh dự khi tốt nghiệp đại học… Dường như gia đình nào cũng có con
em tốt nghiệp đại học. Nào kỹ sư, nào bác sĩ, dược sĩ, nào luật sư… Các trang báo đăng tin mừng,
chia vui đầy rẫy trong mùa tốt nghiệp. Các hội đoàn cũng nhân ngày họp mặt xướng danh và ban
phát giấy khen các tân khoa.
Nhưng thực tế, cái tỷ lệ tốt nghiệp đại học trong cộng đồng Việt không cao như thế, dù đang
có chiều hướng gia tăng. Có lẽ họ đã mượn nhầm con số tổng quát của tập thể Mỹ gốc Á (48%) mà
trong đó sắc dân Việt khiêm tốn đứng hàng thứ ba (19%) tính ngược từ dưới lên (chỉ cao hơn sắc
dân Cambodia, Lào và Hmong)
Người viết bài này đã tham khảo nhiều tài liệu của chính phủ cũng như của các cơ quan
nghiên cứu. Vì vấn đề thống kê dân số rất phức tạp, tốn kém, nên phải 10 năm, chính phủ mới có
một văn bản với đầy đủ các chi tiết. Tài liệu mới nhất mà tác giả tìm được cũng từ năm 2010. Đa số
là tài liệu năm 2000. Do đó bài này không thể phản ảnh đúng tình trạng hiện nay của đầu thập niên
2010, nhưng tác giả tin rằng sự sai biệt là không đáng kể.
1.- Sự hình thành cộng đồng người Mỹ gốc Việt
Dù mọi người đã biết rõ về sự hình thành cộng đồng người Mỹ gốc Việt, chúng tôi cũng xin
nhắc lại sơ qua với các tình tiết liên quan đến chủ đề của bài này.
Trước ngày miền Nam mất vào tay Cộng Sản, chỉ có 650 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ.
Họ là những sinh viên du học thời Việt Nam Cộng Hoà và không về nước trước biến cố 30/4/1975.
Ngay những ngày sôi động khi miền Nam thất thủ, hàng chục ngàn người mà đa số là thị dân, công
chức quân nhân cao cấp đã thoát kịp và được nhận vào Hoa Kỳ. Sau đó, nhờ vào Đạo Luật Giúp Đỡ
Di Dân Tị Nạn Đông Dương năm 1975 (Indochina Migration and Refugee Assistance Act) do cố
Tổng Thống Gerald Ford đề xướng và được Quốc Hội ban hành, cho đến 2002, có tổng cộng 1,146,
650 di dân đến từ ba nước Đông Dương, trong đó đông nhất là dân Việt Nam với 759, 482 người thứ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 121
đến là Lào (241,996) và Cambodian (145,172). Sau 2002, các chương trình đặc biệt như Định Cư
Cựu Tù Nhân Chính Trị và Con Lai đã chấm dứt, chỉ còn chương trình Đoàn Tụ Gia Đình, cho nên
lượng di dân của người Việt cũng không còn ồ ạt. Do đó sự gia tăng không đáng kể. Thống kê 2010
cho biết có 1,737,433 người Việt định cư tại Hoa Kỳ trong đó có 82% đã trở thành công dân Mỹ. Có
đến 581,946 người (38%) cư trú tại Tiểu Bang California, và 210,913 người (14%) tại Texas. Người
Mỹ gốc Việt đông hàng thứ tư trong tổng số dân Mỹ gốc Á Châu, tập trung tại các thành phố lớn
như San Jose, Houston, Seattle, Washington, D.C. (vùng Bắc Virginia), và Dallas-Fort Worth.
Có đến hơn một triệu người Việt trên 5 tuổi nói tiếng Việt trong gia đình, làm cho Việt Ngữ
đứng thứ bảy trong số những ngôn ngữ được dung nhiều nhất tại Hoa Kỳ.
2.- Thành phần xã hội:
Thành phần xã hội và mức lợi tức của người Mỹ gốc Việt rất đa dạng. Trong đợt đến Mỹ đầu
tiên, như đã nói ở trên, là những người dân trung lưu các thành thị lớn ở miền Nam mà đa số là công
chức, quân nhân cao cấp, hàng ngũ trí thức.
Trong đợt di dân thứ hai từ năm 1978 đến giữa 1980, ước tính có cả triệu người Việt đã trốn
tránh chế độ CS trên các con thuyền mỏng manh. Có phân nửa đã bị vùi thây trên biển cả, phân nửa
khác đến được các nước tự do, mà đa số là đến Hoa Kỳ. Thành phần di dân này đuợc gọi là Thuyền
Nhân đa số ở tầng lớp thấp của xã hội, học vấn từ trung bình đến thấp, không có tay nghề chuyên
môn. Sau khi Quốc Hội thông qua Đạo Luật Tị Nạn (Refugee Act, 1980), từ đầu thập niên 1990, các
cựu quân nhân công chức từng bị Cộng Sản giam cầm và gia đình (531,310 người) được Hoa Kỳ cho
nhập cư. Kế đó là đợt di dân của các con lai, mà cha họ là những người Mỹ từng làm việc hay chiến
đấu ở Việt Nam.
Dù thuộc thành phần trung lưu hay thấp kém, đa số người Việt đều bị trở ngại bởi hàng rào
ngôn ngữ. Chỉ có một số rất nhỏ học thêm ở đại học để có công việc tốt ở các hãng điện tử, văn
phòng, giáo dục…, đa số còn lại phải làm thợ trong các hãng xưởng, tiệm ăn, sửa chữa xe cộ, cắt cỏ
và hành nghề làm móng tay, cắt tóc. Sự cách biệt được thấy khá rõ ở San Jose khi so sánh những cư
dân Việt làm nghề lao động bình thường (blue collars) ở khu vực downtown San Jose với dân có
trình độ làm chuyên viên (professionals) ở khu Evergreen và Berryessa. Một điều lý thú là người
Việt thích chọn nghành Nails, có lẽ vì lý do dễ học, chỉ cần khéo tay mà lại không cần biết Anh ngữ.
Trong số những người làm neo toàn quốc, có 43% là người Việt. Tỷ lệ này lên đến 80% tại Tiểu
Bang California.
3.- Mức Độ Hội Nhập vào Xã Hội Mỹ
Theo một nghiên cứu của Học Viện Manhattan vào năm 2008, thì nhìn chung, người Việt
nhanh chóng hội nhập vào đời sống Mỹ (chỉ thua Canadian, Filippino, ngang hàng với Cuban,
Korean). Về phương diện đời sống (Civic) thì người Việt có mức hội nhập cao nhất, nhưng về mặt
văn hoá, thì thua kém các cộng đồng dân khác (chỉ hơn Trung Hoa và Ấn Độ). Xin lưu ý: Mức độ
hội nhập văn hoá không liên quan đến trình độ học vấn, người Việt có chỉ số thấp vì trở ngại ngôn
ngữ. Sự tham gia hoạt động chính trị cũng cao có lẽ vì họ là những người tị nạn chính trị, và đã chấp
nhận Hoa Kỳ là quê hương mới.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 122
Các so sánh này không đề cập đến dân Lào và Cambodian.
Source: http://www.manhattan-institute.org/html/cr_53.htm
So với những người Mỹ gốc Á khác, thì rõ ràng người Việt kém hẳn về sự thành đạt trong
học vấn và sự giàu có. Nhưng họ đang có chiều hướng vượt lên. Chỉ trong mười năm 1989 và 1999
tỷ lệ nghèo khó của cư dân Việt giảm từ 34% xuống còn 16%, so với 12% là tỷ lệ nghèo khó chung
của toàn dân Mỹ cũng trong năm 1999.
4.- Trình Độ Học Vấn:
Tại Việt Nam trước năm 1975, có khoảng 25% dân số có trình độ Trung Học. Bằng Tú Tài là
mức phổ cập của giới trung lưu. Nhưng tại Mỹ, thì bằng đó chỉ là mức phổ cập của đại chúng.
Thống kê Mỹ cho thấy có 61.9% trong tổng số cư dân Việt có bằng Trung Học hoặc cao hơn,
so với tỷ lệ chung toàn dân Mỹ là 80.4%. Người Việt chỉ khá hơn người Lào (50.5%) và Cambodian
(47.1%). Trong các sắc dân Mỹ gốc Á châu, người Nhật có tỷ lệ cao nhất (91.4%), kế đó là
Filippino (87.4%), Korean (86.4%), Ấn Độ (85.4%), và Trung Hoa (77.6%). Tỷ lệ dân có bằng Đại
học của Mỹ là 24.4%, trong khi các nước dân Mỹ gốc Á theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Ấn Độ
(60.9%), Trung Hoa (46.6%), Korean (43.1%), Filippino (41.7%), Nhật Bản (40.4%), Việt Nam
(19.5%), Cambodian (9.1%), Laotian (7.6%). Con số theo thống kê năm 2003 có khả quan hơn
(Xem đồ biểu). Source: U.S. Department of Commerce, Economics and Statistics Administration,
U.S. Census Bureau. 2000.
Biểu đồ 1: Mức độ Hội Nhập (Đồng Hoá)
tổng quát
Biểu đồ 2: Mức độ Hội Nhập (Đồng Hoá) về
Văn Hoá
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 123
Bước qua thế hệ thứ hai, người Mỹ gốc Việt
đã có sự tiến bộ đáng kể về phương diện học vấn.
Truyền thống gia đình của người Việt là khuyến
khích con cái học hành vì họ quan niệm sự giáo dục
là chìa khoá vạn năng, sẽ giúp mở tất cả các cánh
cửa vào đời, bảo đảm sự thành công về danh vọng
và tiền tài. Thanh niên Việt đặc biệt chú trọng vào
các nghành kỹ sư và y, nha, dược, mà ít theo đuổi
các ngành nhân văn, một phần có lẽ do trở ngại về
văn hoá và rất thực tế là các ngành này khó kiếm ra
nhiều tiền. Theo thống kê 2010, trong tổng số
những người Việt trên 25 tuối, có 29% chưa có
bằng Trung Học hoặc thấp hơn. Trong khi tỷ lệ này
là 38% cho người Hmong, 37% cho người
Cambodia, 33 cho người Lào so với Nhật chỉ có
5.4%, Indonesian 7%.
Những sự yếu kém về các mặt của người
Mỹ gốc Việt có thể đổ cho trở ngại ngôn ngữ.
người Việt có tỷ lệ cao nhất (45%) trong các sắc
dân gốc Á về điểu mà các nhà Xã Hội Học Mỹ gọi
là “Linguistically Isolated” (tạm dịch là bị cách biệt
vì ngôn ngữ bất đồng) tệ hơn cả dân Lào,
Hmong,Cambodia. Tỷ lệ chung cho các sắc dân Á
là khoảng 25%. Thống kê 2010 cũng cho biết có
đến 51% người Việt không nói sỏi tiếng Anh,
5.- Mức Giàu-Nghèo:
Cũng theo thống kê 2000, lợi tức trung bình
một gia đình Mỹ (tổng quát) là $60,609, bình quân
đầu người là $26,059; Mỹ gốc Á cao hơn: $75,964
(gia đình) và $27,284 (đầu người). Trong khi đó Mỹ gốc Việt là $56,958 (Gia đình) và $19,987 (đầu
Biểu đồ 3: Mức Độ Học Vấn của các Sắc
Dân (chỉ tính những người trên 25 tuổi)
Biểu Đồ 5: Lợi Tức Trung Bình và Tính Theo Đầu Người
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 124
người), chỉ khá hơn dân Lào và Cambodian. (Xem thống kê).
Theo thống kê Reeves Bennet 2004 và Teranishi 2010, nếu tính theo tỷ lệ số người trong sắc
dân mà sống dưới mức nghèo khó (theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ) thì Việt Nam có 16.6%, trong khi
toàn quốc là 15.3%, dân Mỹ gốc Á là 12.4%. Dân Mỹ gốc Việt lại cũng chỉ khá hơn dân Lào
(18.5%), Hmong 37.8%) và Cambodian (29.3%). Chỉ có người Ấn Độ, Filippino và Nhật là có tỷ lệ
thấp nhất. Dĩ nhiên, dân gốc Việt khá hơn nhiều so với các dân Mỹ da đỏ (25.7%), Mỹ da đen
(24.7%), Hispanic (22.6%). Biểu đồ bên dưới là của năm 1999.
Các nghiên cứu mới nhất cho biết hiện nay có đến gần phân nửa số dân Mỹ phải lãnh trợ cấp
welfare và Phiếu Thực Phẩm (Xin xem các bài của tác giả Đỗ Văn Phúc trong:
http://www.michaelpdo.com/USAWrongTrack.htm,
http://www.michaelpdo.com/USAWelfareState.htm
Trở lại thống kê năm 2000, trong tổng số 477 ngàn gia đình Mỹ gốc Việt, có 15.8% nhận Trợ
Cấp An Sinh Xã Hội, 9.3% nhận Trợ Cấp Gia Tăng (SSI), 11.9% nhận phiếu Thực Phẩm. So với
toàn thể dân Mỹ nói chung và các sắc dân Đông Dương nói riêng, thì sắc dân Việt có điểm khá, có
điểm yếu kém hơn. Xin xem biểu đồ 7 bên dưới với nhiều chi tiết hơn.
Biểu Đồ 7: Tỷ Lệ Các Gia Dình Nhận Các Loại Trợ Cấp Xã Hội
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 125
Tuy nhiên, các con số thống kê của Mỹ không hẳn đã phản ảnh chính xác sự thật. Là người
hoạt động cộng đồng trong hơn hai thập niên, tác giả biết nhiều về những hiện trạng kinh tế tài chánh
của các gia đình Việt Nam. Có rất nhiều người làm các nghề tự do, nhận tiền mặt mà không khai báo
hết khi khai thuế cuối năm. Nhiều người đi làm có lợi tức nhưng vẫn man khai nghèo khó để lãnh
tiền An Sinh Xã Hội và Phiếu Thực Phẩm. Chính tận mắt tác giả đã thấy một bà dùng Phiếu Thực
Phẩm (ở Texas, đó là thẻ Lone Star cấp cho gần 2 triệu dân Texas) để mua một xe (shopping cart)
đầy những trái sầu riêng. Có những người Việt “nghèo” ở trong những căn nhà trị giá nửa triệu, đi
trên những chiếc xe Lexus, BMW láng bóng. Mỗi năm, người Việt ở Mỹ gửi về cho gia đình bên
Việt Nam hàng tỷ đô la. Như thế, có quá mâu thuẫn khi nhìn vào mức nghèo khó của tập thể Mỹ gốc
Việt trên các thống kê của chính phủ? Những người lương thiện hẳn phải bứt rứt, cảm thấy xấu hổ
mỗi khi nghe đến các vụ gian lận bị phanh phui, và bị những người Mỹ bản xứ nhìn vào như những
người đến đất của họ để ăn bám, lạm dụng hệ thống An Sinh Xã Hội!
Sự trưởng thành của các người Việt thế hệ sau này chắc sẽ làm thay đổi nhiều tình trạng yếu
kém về tài chánh và trình độ mà đã đẩy người Mỹ gốc Việt xuống gần cuối thang của sự đánh giá
chung. Người Việt vốn thông minh, tháo vát, có óc cầu tiến chắc sẽ không thua kém các sắc dân Á
Châu khác. Một điều cần lưu ý là sự di dân của những sắc dân Á Châu khác hoàn toàn khác hẳn với
dân ba nước Đông Dương. Họ là những người trung lưu đến Mỹ du học hoặc lập nghiệp mà số vốn
tài chánh và tri thức mang theo cao hơn nhiều so với những người Việt Nam chúng ta. Do đó không
lạ, họ ở mức thang rất cao trong sự đánh giá. Có lãnh vực còn cao hơn cả dân Mỹ bản địa.
Cuối tháng 8/2013
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 126
Một Người Cộng Sản “Cao Quý”!!!
Và Những Người Không Cộng Sản Thấp Trí
Tuần qua, Đài Á Châu Tự Do (RFA) đã thực hiện một cuộc phỏng vấn nữ “Nghệ sĩ Ưu tú” của
CSVN Kim Chi, một người đã “viết thư gửi cho Hội Điện Ảnh Việt Nam từ chối không chấp nhận
một bằng khen có chữ ký của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và thẳng thắn viết rằng ―Tôi không
muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là
một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm”.
Một phụ nữ tuổi thất thập, sau bao nhiêu cống hiến cho chế độ mà nói lên câu này thì rất đáng
phục. Nó biểu thị tấm lòng cương trực, không ham danh lợi, và nhất là lòng yêu nước, yêu dân tha
thiết.
Bà Kim Chi là một nữ diễn viên từng tình nguyện lên đường vào Nam phục vụ các đoàn “Văn
công Giải phóng”. Chắc bà đã kinh qua những tháng năm với Đội Thiếu Niên Nhi Đồng Bác Hồ, rồi
đoàn Thanh Niên Cộng Sản HCM… Chắc bà chưa đủ trình độ và suy nghĩ để hiểu về chủ nghĩa
Cộng Sản, nhưng từng được nhồi sọ về “chính nghĩa” chống Mỹ cứu nước. Do đó, bà đã lên đường
dấn thân vào nơi hiểm nguy để “Chị ở sân khấu chiến trường 10 năm, phục vụ đồng bào và chiến sĩ,
đuổi giặc ngoại xâm dành lại đất nước.”
Khi Kim Chi từ chối nhận bằng khen có chữ ký của “kẻ đã làm nghèo đất nước, làm khổ nhân
dân”, Kim Chi đã quên rằng nước đã nghèo, dân đã khổ ngay từ khi Hồ Chí Minh làm cách mạng,
cướp chính quyền. Đã qua bao nhiêu đời Tổng Bí Thư, bao nhiêu đời Thủ Tướng, chứ không phải
chỉ có Nguyễn Tấn Dũng ngày nay? Và chính Kim Chi cũng đã góp phần vào việc làm nghèo đất
nước, làm khổ dân khi tham gia vào đảng CS.
Kim Chi đã khẳng định mình là người Cộng Sản chân chính khi nói rằng “Chị với tư cách của
một người cộng sản, mà một người cộng sản chân chính thì mong những đìều tốt đẹp cho dân tộc
mình, cho nhân dân mình. “
Chúng tôi thấy tội nghiệp cho bà, vì bà thả trí tưởng tượng của mình đi xa quá. Chắc với trình độ
còn thấp kém để hiểu biết thế nào là “thế giới đại đồng”, thế nào là “chuyên chính vô sản” là “đấu
tranh giai cấp”… Chắc vì bận bịu với nghề nghiệp và gia đình mà bà ít quan tâm theo dõi thời sự thế
giới để thấy cái thực tế tàn ác vô lương về những người, những đảng Cộng Sản cầm quyền từ Nga
sang Đông Âu, sang đến Trung Hoa, Bắc Hàn, và rõ hơn hết, ngay trên mảnh đất bà đang sinh sống.
Đảng Cộng Sản VN có hàng triệu người. Có bao nhiêu người “cộng sản chân chính thì mong
những đìều tốt đẹp cho dân tộc mình, cho nhân dân mình,“ hay chỉ là những kẻ cuồng tín, đểu cáng,
vô luân, vô tài, ham quyền, phản quốc… để đến nỗi ngày nay dân tộc nghèo đói, lạc hậu, và nhân
dân thì đang bị đàn áp, tước đoạt nhân quyền, và đất nước thì đang bị dâng lên cho quan thầy Trung
Cộng?
Bà Kim Chi có quyền hãnh diện là người Cộng Sản. Đó là quyền của bà, dù bà có ý thức đúng
hay không về chủ nghĩa CS. Bà tin rằng người CS chân chính là tốt! Cũng là quyền của bà. Chúng ta
không cần bàn thêm.
Nhưng khi những lời mang tính tuyên truyền xuyên tạc của bà Kim Chi về cuộc chiến tranh
“chống ngoại xâm, giành lại đất nước” và vu khống cho người lính VNCH “mổ vú, ăn thịt” các
đồng đội của bà được chểm chệ trong bài viết của một ký giả đài Á Châu Tự Do, phát đi cho hàng
triệu người đọc thì quả là khó hiểu. Điểm này có sự mâu thuẫn. Ký giả Mặc Lâm hỏi Kim Chi về ký
ức khi ở Trường Sơn, và trong câu trả lời :”Chị di chuyển với đồng đội thì đồng đội bị bắt, bị giết, bị mổ vú bị Tàu ăn thịt nhưng chị vẫn còn sống.” Tàu nào trên Trường Sơn. Chẳng lẽ Kim Chi nói đến bọn cố vấn Tàu?
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 127
Chiến tranh chấm dứt đã 37 năm. Bao nhiêu sử liệu đã được phổ biến để mọi người nhìn thấy
chân tướng về quân đội các phe tham chiến. Người lính Mỹ đã rửa được cho mình hai chữ “baby
killers” do bọn phản chiến vu khống hồi cuối thập niên 60‟s. Chỉ còn người lính VNCH vẫn cứ bị
những đầu óc bệnh hoạn hoang tưởng phía địch đổ vấy cho những chuyện họ không hề làm. Nếu có
chăng, đó là hành vi của bọn lính Cộng Sản vô thần, mà đã được chứng minh qua việc đập đầu côn
sống 7600 thường dân vô tội ở Huế hồi Mậu Thân, qua việc giết, đốt cháy hàng trăm người lớn, đàn
bà, em bé Thưọng ở Dak Son.
Hay sự vu khống về QLVNCH đó là tính chất “chân chính” trong người Cộng Sản Kim Chi?
Nếu như sau cuộc chiến, mà đảng CSVN xây dựng đất nước, đem lại ấm no hạnh phúc cho dân,
mà chỉ trong thời đại Nguyễn Tấn Dũng mới có những tệ nạn, thì những lời trên của bà Kim Chi thật
có ý nghĩa, rất đáng khâm phục.
Sau cùng,
Lại nói về những người Việt hải ngoại, tị nạn CS.
Chúng ta không còn nhớ rõ đã từ hồi nào mà một số người Quốc Gia hải ngoại cứ vồn vập ôm
chầm lấy những “người Cộng Sản phản tỉnh”, tâng bốc họ lên tận trời cao, tưởng như tìm thấy những
đồng chí đáng tin cậy; chỉ vì nghe được, đọc được một vài câu mà những người đó lên án chế độ
Cộng Sản đương thời.
Chúng ta cũng đã nghe chuyện vài vị tai to mặt lớn trong cộng đồng tị nạn xin đươc Bùi Tín tiếp
kiến khi anh Đại Tá cựu Phó Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân này đến Hoa Kỳ.
Chúng ta cũng đã nhìn thấy tấm hình vài cụ cao niên bên San Jose mặc áo thụng khăn đóng quỳ
lạy xì xụp anh Việt Cộng già Hoàng Minh Chính, cựu Viện trưởng Viện Mác-Lê Nin của đảng
CSVN.
Chỉ mới đây thôi, mực trên các trang giấy còn chưa khô về việc những nhà trí thức hải ngoại và
ngay cả những cựu này cựu nọ của VNCH lên tiếng khen và quảng cáo cho cuốn sách “Bên Thắng
Trận” của VC Huy Đức.
Những người như Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Huy Đức, Trần Độ… làm được điều gì để những
người chống Cộng tại hải ngoại khen ngợi, vinh danh?
Vì họ đã lên tiếng phản đối cái chính sách hiện hành của nhà cầm quyền CSVN?
Vì họ lên án những người đảng viên Cộng Sản là tha hoá, là tham nhũng, là tàn ác với dân?
Vì họ phần nào viết lịch sự về chính quyền VNCH, Quân Lực VNCH thay vì dùng chữ Ngụy
Quân, Ngụy Quyền như bọn VC đã dùng từ hơn nửa thế kỷ mà mới chỉ ngưng đi trong vòng 10 năm
nay?
Những mầm mống chống đối trong nội bộ đảng CS không phải mới nẩy sinh ra sau này. Nó đã
bộc lộ ngay khi đảng Cộng Sản Nga làm cách mạng lật đổ Nga Hoàng qua sự phân chia thành nhóm
Đệ Tam và Đệ Tứ. Tại miền Bắc, những sự thanh trừng cũng từng xảy ra nhưng ít ồn ào hơn. Chỉ
sau khi chiếm xong miền Nam trù phú, tài lộc và địa vị (để dẫn đến tài lộc) đã tạo ra những tranh
chấp, xung đột trong những phe nhóm. Từ đó, mầm mống chống đối nhau thể hiện rõ nét và bùng nổ
nên chúng ta mới nhìn được nghe được.
Những người Cộng Sản già tranh chấp với Cộng Sản trẻ đương lên. Những người CS miền Nam
tranh chấp với CS miền Bắc. Những người thân Nga tranh chấp với những kẻ thâan Tàu… Tất cả
chẳng qua vì quyền lợi bản than, phe nhóm chứ chưa phải là vì lý tưởng mục tiêu đấu tranh cho dân
cho nước.
Chúng ta không phủ nhận rằng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều thanh niên trí thức, ưu
tú của Tổ Quốc đã lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng diệt thù, giành độc lập cho đất nước. Chúng
ta cũng nhận rằng trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc, thanh niên miền Bắc cũng đã hăng say lên
đường vào Nam để “đánh Mỹ cứu nước” theo sự tuyên truyền của đảng CSVN. Họ đều là người yêu
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 128
nước, nhiệt tâm, nhiệt tình, không có gì đáng trách. Nhưng chế độ hà khắc của CS đã cho họ hai ngả
đường để sống: (1) huà theo bọn lãnh tụ, thi hành những chính sách gian ác hại dân hại nước để
kiếm miếng đỉnh chung, (2) hèn hạ cúi đầu im lặng để bảo vệ tính mạng và sống lây lất cho hết cuộc
đời “Cách Mạng”. Điều này đã được chứng minh qua tâm sự đau xót của “thằng hèn” Tô Hải, của
nhà văn nổi tiếng Nguyễn Tuân. Ngoài hai ngả đường này, còn con đường thứ ba dẫn đến các nhà tù
khổ sai hay ra nghĩa địa nếu có tư tưởng, hành vi phản kháng.
Nhờ sự phát triển các phương tiện truyền thông, nhờ tiếp xúc thường nhật với văn minh dân chủ,
và nhất là khi cái ác của chế độ CS đã lên đến cực độ vượt quá giới hạn của sự chịu đựng và kiên
nhẫn của người dân, thì các phong trào phản kháng đã dấy lên. Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành,
Nông Dân, công nhân, học sinh… và ngay cả trong hàng ngũ đảng viên mà chúng ta được nghe với
mỹ danh “phản tĩnh”
Sao họ nhậy thế! Chỉ mới đọc sơ một câu trên cùng của bài phỏng vấn “Nghệ Sĩ Ưu Tú” “Cộng
Sản Chân Chính” Kim Chi là họ đua nhau chuyền qua email, qua các diễn đàn khen lấy khen để
người nữ văn công Kim Chi là một “nhân cách cao quý!”
Đã cao quý thì không thể là người Cộng Sản, dù Cộng Sản chân chính hay Cộng Sản phản tỉnh.
Đó là chân lý. Xin ghi nhớ đừng quên!
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 129
Vietnam Is Facing the Clear and Imminent Threat of Chinese Colonialism
Bordering a hostile, ambitious neighbor, the trouble seems to be endless.
China is the world's most populous country, with a population of over 1.38 billion. It covers
approximately 9.6 million square kilometers (the world's second-largest country by land area).
Compare to China, Vietnam with population of 94.5 million and area 331,210 sq. km, is a tiny David
beside the giant Goliath 30 times larger in area and 15 times more populous.
At length of its 4000 years of history, Vietnamese have continuously struggled to survive the
harsh nature and Chinese aggression from the North as well.
Brief history of Vietnam and China Conflicts:
1.- Prehistory:
The Yellow River was the cradle of Chinese civilization, although cultures originated at various
regional centers along both the Yellow River and the Yangtze River valleys millennia ago.
In the early civilization, Southern region of China - consisting of today provinces of Guangdong
and Guangxi - was the cradle of 100 tribes that shared the same ethnic Viet (Bach Viet). In about 21st
century BC, Hoang Ti, the leader of a tribe from West of
Yangtze River invaded and defeated the Viets, beginning
the era of “Three Sovereigns and Five Emperors”. Chinese
early dynasties ruled the plain of the Yellow River and had
not expanded to the South region until the Han Dynasty
(206 BC to 220 AD)
Two of the surviving tribes, Au Viet and Lac Viet were
united by King Hung who became the founding father of
Vietnam. The Hung Dynasty reigned the kingdom “Au Lac”
from 2879 to 258 BC.
Vietnam, during Hung Dynasty, expanded to the South
(Tonkin Delta); the Viets then mixed with the aborigines who are believed to have migrated from the
islands of Indonesia.
2.- Total Chinese domination: nearly 1000 years.
The first failed attempt to conquer Vietnam was made by the Qin Dynasty (221-206 BC)
The first Chinese domination began in 111 BC and lasted 150 years consecutively by the
Chinese kingdoms Han, Eastern Wu and Liang
Later Han Dynasty occupied and dominated Vietnam (43-544 AD)
The 3rd
domination (602-938) during the Sui and Tang dynasties.
3.- China’s Invasions after Vietnam gained independence since 937.
In 937, King Ngo Quyen defeated Southern Han‟s fleet on Bach Dang River, declared the
independence of Vietnam that lasted until the French occupation in 1884.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 130
During this period of time, China continuously invaded Vietnam many times but defeated.
In 979, taking advantage of the weakness of Vietnamese child king Dinh Toan, Sung Dynasty
(China) sent troops to invade but was defeated by General Le Hoan who self-proclaimed Dai Hanh
Emperor.
Upon learning that China had plotted an invasion, General Ly Thuong Kiet attacked and
destroyed Chinese Sung military installations in three China south provinces. Later, he defeated the
Chinese incursion on Nhu Nguyet River (1076)
China attempted to invade Vietnam 3 times in 1258,
1285, and 1287 but defeated by the great General Tran
Hung Dao. The last battle was on Bach Dang River.
In 1407: Chinese Ming Dynasty occupied Vietnam
and was defeated 10 years later by King Le Loi.
In 1789: Emperor Quang Trung defeats the Chinese
army of 300,000 men at Dong Da. It was the last
encounter between China and Vietnam until 1974 when
Chinese and South Vietnamese Naval warships battled
over the Spratlys dispute.
4.- China’s Involvement in Vietnam Wars
During the first Indochina War (1946-1954) and the Vietnam War (1960-1975), the Vietnamese
Communist Party (VCP) relied heavily on supports from Communist China. Nguyen Ai Quoc aka
Ho Chi Minh himself was a soldier in Chinese People‟s Army. According to the information
circulated on the internet, some Taiwanese scholar disclosed that after the secret death of Nguyen Ai
Quoc, the Chinese substituted him with a Chinese man as imposter and renamed him Ho Chi Minh.
Ho founded the Vietnamese Communist Party in 1930 in Chinese Province of Guangdong. (Ho
Tuan Hung, HoChiMinh Sinh Binh Khao, nxb Bach Tuong Van Hoa, Taiwan 2008)
Ho‟s Army could not win the Dien Bien Phu battle without Chinese massive military assistance
and advices, even manpower. Later, China championed the Geneva Accord that divided Vietnam in
1954. A Chinese advisor ordered Ho Chi Minh every details how to execute important campaigns
such as the Land Reform that killed tens of thousands peasants in 1953-1956. Vietnam under
Communist rule became subordinate to China. In 1959, Ho Chi Minh and Pham Van Dong (then
Prime Minister) signed an official letter to recognize China's claims
on the Paracels and Spratlys as they were being supported by China.
In 1974, China sent its fleet to attack South Vietnamese Navy and
occupied most of the Paracel Islands.
5.- Bitter Comradeship
Being angry of the tendency of Vietnamese Communists leaning
toward the Soviet Union and the invasion in Kampuchea, China
attacked six Vietnamese border provinces in 1979 that cost tens of
thousands of lives of both sides. In 1988, Chinese Navy suddenly
attacked and occupied several islands of Spratlys. Receiving orders
not to fight back, the miserable Vietnamese coastguard ships and
seamen became easy targets of the Chinese gunmen.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 131
6.- The Beginning of a New Domination
In his 82 page Memoirs, Mr. Tran Quang Co, former Vietnamese Deputy Foreign Minister,
member of the Vietnamese Communist Central Committee, disclosed that the leaders of the
Vietnamese Communist Party (VCP) had been summoned to secretly meet with leaders of the
Chinese Communist Party (CCP) to discuss the normalization of Sino-Vietnam relationship. China
asked Vietnam to fire the Foreign Minister Nguyen Co Thach before the meeting occurred.
The conference took place in Chengdu (capital city of Sichuan, China) in September, 1990 with
attendees from Vietnam: Nguyen Van Linh (General Secretary of VCP from 1986-1991), Pham Van
Dong (Vietnam Prime Minister), Do Muoi (Member of VCP Polibureau, General Secretary of VCP
from 1991-1997), Hoang Bich Son (VCP Chair of Foreign Affairs), Dinh Nho Liem (Deputy
Foreign Minister), Hong Ha (VCP Central Committee). From China: Jiang Zemin (General
Secretary of CCP), Li Peng (Chinese Prime Minister). Although the Chinese leaders‟ intention was
to force Vietnam to agree with their solution to resolve the Kampuchea conflict, another target was
to tighten Vietnam into the grips of China in the wake of the fall of the Soviet Union and its Eastern
European allies. For the last 25 years, despite the request from many high ranking officials, the VCP
has not publicized the details of the Chengdu Conference. Rumor had it that Vietnam‟s sovereignty
was now submitted to China. The silence of the VCP leaders reinforced that rumor. A Political
Commentator Le P.T. wrote “I feel worried about the destiny of our country … as the VCP kept in
secret the outcomes of Chengdu Conference.”
From then on, Vietnam became more and more submissive to China.
In the following years after the Chengdu event, Vietnam ceded thousands of square kilometers of
land along the border to China.
Vietnamese authorities and mass media ceased to discuss about the 1979 Border War. The War Monuments and plaques that honored the war casualties were removed or
destroyed. Instead, monuments were erected to honor Chinese soldiers on the soil where
the battle occurred. Vietnam bans all activities to commemorate the war heroes.
Vietnam revised its 1980 Constitution and erased the first paragraph accusing “the Chauvinist Chinese Aggression”. In 1992 Constitution, there are no more anti-China
phrases.
Vietnam closed the eyes when China continuously built military bases on the disputed
islands; Chinese Navy patrols East Vietnam waters, sinking Vietnamese fishing boats and
killing fishermen while Vietnam did nothing to protect its citizens.
China moved the Hai Yang oil rig HD-981 in Vietnam waters close to the Paracel Islands. This raised a storm of protest in Vietnam, but the Vietnamese government kept
the mouth shut.
Vietnam leaves the border open to Chinese products and people to massively pour in.
Vietnam admitted tens of thousands of Chinese young folks to work in numerous Chinese
owned industries throughout Vietnam territory.
Vietnam allowed Chinese to build large China towns in big cities.
The most dangerous thing is letting China to mine bauxite ore in highland of Central of Vietnam where military experts considered the very crucial strategic region. It is like the
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 132
Trojan horse in the heart of Vietnam. The bauxite mine also causes a near future
destruction of environment that may seriously affect millions of people.
In recent years, the Vietnamese Education Department published textbooks for children featuring the images of Chinese life, landscapes, culture… Chinese language became
mandatory in certain levels. Billboards, slogans in Chinese characters can be seen almost
everywhere in Vietnam.
Vietnam harasses and imprisons activists who have protested against Chinese heavy
influence to all aspects of life in Vietnam and who have warned an imminent danger of
Chinese domination.
China has been Vietnam's largest trade partner. According to statistics from the Vietnam Customs, in 2013, total turnover reached $50.21 billion, up 22 percent year-on-year.
In 2013, Vietnam spent $36.95 billion for imports from China (28% of total import value), while it transported some $13.26 billion worth of goods to China (10% of total
export value).
Vietnam's trade deficit with China in 2013 was $23.7 billion (an increase of 44.5% compared to 2012). The trade is expected to reach $60 billion in 2015.
Business along the border has been flourishing. Officials in Lang Son Province say close
to $3 billion in agricultural and electronic goods are traded every year with China.
Chinese products are accounted for about 80% of goods in Vietnam markets. The great majority of them are of bad quality or counterfeit.
Food poisoning has become more and more widespread. Chinese made counterfeit of rice, noodle, seafood, and fruits or used chemical substances to make them look good to
cheat customers.
Three months before the term of Vietnam National Assembly ends, the VCP 12th
National Congress hastily appointed the top leaders of the nation whom positions –
according the Constitution - must be elected by the upcoming National Assemble. It‟s
obviously understood that General Secretary Nguyen Phu Trọng and his pro-China
entourage wanted to get rid of the pro-Western gang led by Prime Minister Nguyen Tan
Dung prior the visit of President Obama. By this malicious act, Trong would have free
hands to move forward into Chinese domination.
For the length of history, China has claimed the territories of Manchuria, Mongolia, Xinjiang,
Tibet, and Vietnam. On its national flag, the big 5-point star represents the Hans (the major ethnic in
China); the other smaller four represent Manchurians, Mongolians, Uighurs (Xinjiang), Tibetans.
The Hans always look down other ethnics as barbarous.
To them, those people must be dominated and civilized
by the Han culture.
From anthropology and ethnology approaches,
Vietnamese people are totally different to the Chinese.
Like many other countries, Vietnam is willing to adopt
the essential parts of other cultures to enrich its own -
Chinese culture is no exemption. Since Chinese
colonization of Vietnam lasted for 1000 years, it‟s
explicable that some aspects of Chinese culture have blended in Vietnamese life style.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 133
Despite the brutal policies in a thousand years of Chinese colonialism - which China tried very
hard to assimilate Vietnamese people into Chinese culture - Vietnam still maintains its distinct
culture and language. The differences can be easily seen in many aspects of life between
Vietnamese and Chinese societies.
Vietnam has multiple times won victories against the mighty Chinese army. Bordering a hostile,
ambitious, giant China, Vietnamese kings always realized the threat of extinction. For a millennium,
they learned how to exercise the soft and flexible foreign policies to survive.
Binding with China in the utopic Communism, the VCP leaders have given up the nation
sovereignty for their absolute power and high privileges. Vietnam needs radical changes of political
system to gain the support from the international community. The United States has extended the
hands but the Vietnamese Communists still hesitate fearing of their Chinese masters. They may also
fear for their future if a change occurs in real democratic approach.
We are very afraid that the threat of Chinese colonization is very clear and imminent.
If bad thing happens, the State of Vietnam will cease to exist, the Vietnamese people will be
exterminated, and the Chinese expansion will not stop until the whole South East Asia become
Chinese colony.
We have only one hope and believe in the steadfast will of ninety million people who inherited
the traditional patriotism from our forefathers.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 134
Đạo Ðức và Pháp Lý, HAI KHÍA CẠNH CỦA VẤN ÐỀ ÐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Trong một phán quyết của Toà án Tối cao
New Jersey mới đây, việc Hướng Ðạo Hoa Kỳ trục
xuất James Dale (một người bị bệnh đồng tính luyến
ái) ra khỏi phong trào là phân biệt đối xử
(discrimination) và vi phạm vào quyền tự do của anh
ta được bảo vệ bởi Tu chính án số 1.
James Dale là một phụ tá huynh trưởng
Hướng Ðạo thuộc đoàn 73 ở Matawan, hiện sinh
sống tại Manhattan. Anh là một người đóng góp tích
cực vào việc giúp đỡ hướng dẫn những người bị
bệnh AIDS. Việc anh bị trục xuất ra khỏi Hướng đạo
năm 1990 đã gây ra một sự tranh cãi xoay quanh quyền hạn và quy luật của phong trào Hướng Ðạo,
cũng như vị trí của Hướng đạo trong sinh hoạt xã hội.
VớI tất cả 7 phiếu thuận và không có phiếu chống, Tối cao Pháp Viện New Jersey đã coi việc
trục xuất Dale của Hướng đạo Hoa Kỳ là vi hiến. Các vị thẩm phán giải thích rằng Hướng đạo là một
đoàn thể mang tính công cộng, (ngang hàng với các tiệm ăn, thư viện, trường học, rạp hát...) Do đó
không được phân biệt đối xử với bất cứ thành phần nào trong xã hội. Toà án còn cho phủ nhận quan
điểm của Hướng đạo coi nạn Ðồng tính luyến ái là phi luân. Họ ví việc Hướng đạo phân biệt đối xử
đối với James Dale cũng như việc phân biệt chủng tộc, giới tính. Bà Thống đốc New Jersey cho rằng
giới tính của một người là chuyện riêng tư. Một khi anh ta có năng lực để trở thành một Hướng đạo
sinh tốt, thì không có điều gì đáng thắc mắc về giới tính của anh ta.
Trong khi đó, Tối cao Pháp viện California, trong một án lệ liên quan đến hai hướng đạo sinh
(Michael và William Randall) và một trưởng Hướng đạo Nam Cali bị trục xuất khỏi phong trào
Hướng đạo cũng vì bệnh đồng tính luyến ái, đã cho rằng Hướng đạo có toàn quyền vì Hướng đạo là
một tổ chức tư không bị ràng buộc bởi Dân luật California. Các thẩm phán cho rằng Hướng đạo
được Hiến pháp trao cho các quyền tự do của hiệp hội và có quyền trong sự tuyển lựa hội viên của
mình.
Sự việc 50 tiểu bang của Hoa Kỳ có những luật lệ khác nhau và cách giải thích luật khác
nhau tuỳ quan điểm của các thẩm phán vốn là một nhược điểm của nền tư pháp và công lý Hoa Kỳ.
Nhược điểm này đã tạo ra một lổ hở giúp cho các tội phạm né tránh các hình phạt nặng mà lẽ ra y
can phải chịu ở một tiểu bang khác. Một cường quốc thường tự hào có một Hiến pháp tiến bộ bậc
nhất trên thế giới, nhưng lại không có sự đồng nhất trong việc giải thích và thi hành Hiến pháp đó.
Việc coi Hướng đạo là một tổ chức công cộng có thể đúng, vì Hướng đạo là một sinh hoạt mở rộng
cho tất cả mọi giới. Nhưng ví Hướng đạo với các tiệm ăn, thư viện thì thật buồn cười. Tuy là phục
vụ lợi ích công cộng, nhưng tự bản chất, Hướng đạo là một tổ chức, một đoàn thể chặt chẽ, có quy
cũ, có phương hướng. Việc thu nạp đoàn viên là dựa trên các nội quy, tiêu chuẩn rõ rệt để đáp ứng
với phương thức giáo dục rèn luyện cho họ trở thành người hữu ích trong xã hội. Ai đồng ý thì tham
gia, ai không đồng ý thì đứng ngoài. Hướng đạo không phân biệt nam nữ, tôn giáo, chủng tộc; vì đó
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 135
là những điều tự nhiên của con người. Nhưng Hướng đạo cũng giới hạn lưá tuổi tham gia cho thích
hợp với các sinh hoạt của mình. Vì thế, khi thanh niên đã lên quá tuổi 25, nếu không làm trưởng
Hướng đạo, thì phải rời đoàn. Anh nào lớn tuổi còn lưu luyến với Hướng đạo thì thành lập các nhóm
trưởng niên để chia sẽ vui buồn cuộc đời Hướng đạo với nhau.
Hướng đạo quan niệm hữu thần, tôn trọng giá trị tâm linh. Một trong các lời hưá của Hướng
đạo sinh có khoản trung thành với tín ngưỡng của mình. Vì thế, bảy năm trước đây, Hướng dạo đã
không chấp nhận một cặp song sinh khi các em này từ chối tuyên thệ trung thành vớI tín ngưỡng.
Giả sử như tại một trường học, có em học sinh đi ngược lại nội quy của trường, liệu ban giám hiệu
có phải chấp nhận cho em đó tiếp tục học để khỏi bị lên án vi phạm quyền tự do của em đó không?
Giả sử trong quân đội, có anh lính chống lại lệnh cấp trên, liệu quân đội có lưu giữ anh ta khong?
Nói đến đây, thì chúng ta lại phải xét đến khía cạnh đạo đức, quy phạm của xã hội để xét xem điều
nào đúng, điều nào sai.
Không có nền đạo lý nào là tuyệt đối cả. Một việc trong xã hội này, người ta coi là hợp đạo
lý, thì tại một xã hội khác, đó là điều phi luân. Trong khi các dân tộc Âu Á coi việc ăn thịt người là
man dã, là tội ác; coi việc tổ chức tang lễ cho cha mẹ là tỏ lòng hiếu kính, thì tại nhiều bộ lạc Phi
Châu, họ đẩy cha mẹ già leo lên cây cao rồi rung cây cho rớt xuống chết; hoặc có nơi ăn thịt cha mẹ
khi cha mẹ chết. Họ coi đó là một hình thức biểu lộ tình thương, và lên án những dân tộc khác đem
chôn cha mẹ cho sâu bọ đục khoét!!!
Vậy ra đạo đức là những khuôn phép mà trong một không gian, một thời gian nào đó, đại đa
số thành viên của xã hội thừa nhận là mẫu mực để noi theo. Ðạo đức không được viết thành văn bản
có các điều, các chương rõ ràng như pháp luật, nhưng đạo đức được duy trì mọi nơi mọi lúc. Nó
bàng bạc trong thơ văn, chuyện trò sinh hoạt hàng ngày, trong giáo huấn gia đình và học đường, và
có khi còn mạnh hơn pháp luật. Từ khi con người sinh ra trên trái đất cho đến nay, luân lý đã thừa
nhận hai giới tính riêng biệt: Nam và Nữ. Ðó là căn bản của gia đình, xã hội. Việc người Nam và
người Nữ lấy nhau để sinh con cái phát triển nòi giống là đạo đức từ ngàn xưa và vẫn còn giá trị
mãnh liệt đối với những người hữu thần hay vô thần. Có những người không may mắn, sinh ra trong
tình trạng giới tính bất phân minh; tuy mang cơ thể của người nam, nhưng lại có một phần sắc tố của
người Nữ, hay ngược lại. Chúng ta coi đó là những kẻ bất thường, bệnh hoạn. Họ không có tội gì để
bị gạt ra bên ngoài xã hội. Và cũng không có lỗi gì để chúng ta khinh chê, ghét bỏ. Nhưng chắc chắn
họ sẽ phải chịu một vài giới hạn trong sinh hoạt xã hội. Khi quân đội tuyển mộ quân nhân, cần
những thanh niên mạnh khỏe để phục vụ, vì môi trường quân đội rất nghiệt ngã. Chắc chắn quân đội
phải loại những ứng viên khuyết tật, mà không thể bị coi là phân biệt đối xử. Quân đội Hoa Kỳ vẫn
cho những ngườI mang bịnh đồng tính luyến ái giải ngũ nếu họ bị phát giác. Nhiều người đã lên án
quân đội và đòi hỏi rằng những ngườI này cũng được quyền phục vụ tổ quốc như bất cứ thanh niên
nào khác. Họ quên rằng trong sinh hoạt của quân đội, cũng như trong sinh hoạt Hướng đạo, có
những điều tế nhị rất bất tiện cho một người nam không là nam, nữ không là nữ. Lấy một thí dụ nhỏ
thôi. Một người nam vào nhà vệ sinh nữ nhìn trộm bị coi là vi phạm, là sách nhiễu tình dục. Nhưng
nếu một người đàn ông đồng tính luyến ái (dĩ nhiên được vào nhà tắm nam, vì anh ta là đàn ông) thì
tránh sao khỏi anh ta quấy nhiễu tình dục vớI các người nam khác. Cho anh ta vào nhà tắm nữ
chăng? Xin nhờ bảy vị thẩm phán New Jersey và bà Thống đốc Whitman giải quyết giùm vậy.
Sống trong chế độ dân chủ tự do gần như tuyệt đối, người dân Hoa Kỳ dùng Tu chính án số
một để bảo vệ quyền của mình khỏi bị guồng máy nhà nước hà hiếp. Ðó là một điểm son mà biết bao
nhiêu dân tộc khác đã đổ ra xương máu hàng trăm ngàn đời nay chưa mang lại được. Tu chính án số
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 136
một bảo vệ tự do con người. Nhưng tự do có phải là làm tất cả bất cứ những điều gì không? Lá quốc
kỳ, biểu tượng thiêng liêng của quốc gia, phảng phất hương hồn chiến sĩ bao đời bị người ta đốt, xé;
thậm chí có chú thanh niên đem ra làm giẻ lau xe. Ấy thế mà vẫn có người lên tiếng bào chữa ủng hộ
quyền xúc phạm đó. Và lạ lùng thay, toà án Hoa Kỳ đã xử vô tội vì cho rằng đó là quyền biểu lộ tư
tưởng (một thứ tư tưởng khinh thị uy quyền quốc gia) được ghi trong Hiến pháp (sau nhiều bàn cãi,
các nhà lập pháp Hoa Kỳ nay đã đồng ý việc tôn trọng quốc kỳ là bổn phận của công dân và co đốt
xé quốc kỳ là có tội.). Ngày nay, nhiều nhóm tranh đấu Nhân quyền Hoa kỳ mọc lên như nấm và
cũng rất mạnh. Họ ủng hộ những điều rất khó chấp nhận, như việc tự do phá thai giết hại các hài nhi
vô tội; như việc tuyên truyền, cổ vũ cho chủ nghĩa Phát xít, Cộng sản, là hai thứ hiểm họa mà toàn
thế giới đã chịu đựng cay đắng bao năm, mà Hoa Kỳ đã phải đưa con em đổ máu để triệt hạ trong
hàng chục năm qua. Họ không hề nhận định một điều căn bản là tự do của người này phải bị ràng
buộc trong an sinh phúc lợi của người khác, nhất là của đại đa số trong xã hội. Chúng ta thấy nhan
nhãn những kẻ giết ngườii vì thú tính gần như bằng cớ rõ ràng, vẫn sống phây phây ngoài xã hội để
tiếp tục giết người. Chỉ vì một yếu tố nào đó mà luật sư đã dựa vào Tu chính án để che chở cho y.
Trở lại vấn đề đồng tính luyến ái và các đoàn thể, tổ chức. Nội quy Hướng đạo không dự trù
trường hợp khó xử này, nên đã không minh thị việc ngăn cấm người đồng tính luyến ái trong các
điều kiện gia nhập. Giáo hội La Mã và cácgiáo phái Tin Lành cũng không nêu ra, nhưng họ cũng đã
có biện pháp với các giáo sĩ hay tín đồ mang bệnh này. Nhưng rõ ràng đây là vấn đề đạo đức xã hội.
Tôn giáo có thể coi đó là tội lỗi, vì đó là tín điều của họ. Chúng ta không lên án, vì đó là một căn
bệnh tâm lý và sinh lý, Vã lại chúng ta có quyền gì mà lên án khi đồng tính luyến ái không phải là
một tội ác. Nhưng ngoài một số ít ngườI bệnh hoạn bẩm sinh, thì nhiều người khác vì ảnh hưởng văn
hoá suy đồi, vì ham thú vui nhục dục bất thường, hoặc vì cơn sốc tâm lý nào đó, đã nhiễm căn bệnh
đồng tính luyến ái. Xã hội, nếu không chữa trị cho những người đồng tính luyến ái trở về sinh hoạt
sinh lý bình thường, thì dĩ nhiên cũng không để nó phát triển ra ngoài lây lan đến những người bình
thường khác; cũng như chúng ta từng ngừa bệnh lao, bệnh sốt rét.
Trưởng Paul Stevenson, phát ngôn nhân Hướng đạo Hoa Kỳ đã cho hay sẽ kháng cáo lại án
lệnh của Tối cao Pháp Viện New Jersey. Trưởng có hay rằng: “ Hướng đạo Hoa Kỳ là một tổ chức
tư có quyền đặt ra cac điều khoản để kết nạp đoàn viên và các tiêu chuẩn cho các huynh trưởng.”
Trưởng cũng đưa ra Tu chính án số một để bảo vệ quyền tự do của hội đoàn mà sắc luật chống phân
biệt không thể ưu thắng được.
Giá trị đạo đức của xã hội Hoa kỳ đang bị thách đố nghiêm trọng. Quả thực nó đã bị giảm sút
nhiều trong các thập niên vừa qua khi bạo lực, vô luân trở thành các tiêu chuẩn sống được phổ biến
nhan nhãn trên các phương tiện truyền thông đại chúng và được sự tán trợ của những nhóm chủ
trương bảo vệ quyền tự do tuyệt đối. Không một xã hội nào, dù là văn minh cực điểm, có thể sống
còn một khi xã hội đó đi vào con đường suy thoái đạo đức. Ðế quốc La Mã, Hy Lạp từng hùng mạnh
bao nhiêu, cũng đã không tránh được quy luật. Người Mỹ đã bắt đầu thức tỉnh khi hàng loạt các
trường học gánh chịu các thảm họa cuả bạo lực; khi bom đạn đã giết hàng trăm học sinh và thường
dân vô tội tại những nơi mà lẽ ra an toàn nhất. Họ đã bắt đầu chấp nhận sự hy sinh một số thoải mái
cá nhân cho an sinh chung của xã hội. Trong chiều hướng đó, họ sẽ thấy cái giới hạn cần có để ngăn
ngừa những loại bệnh hoạn tâm sinh lý, để cho con người trở lại cuộc sống tự nhiên mà Thượng đế
khi sinh ra, đã tạo sự cân bằng cho mỗi chúng ta. Nếu không, rất gần đây thôi, Hoa Kỳ sẽ trở nên
một Sodome và sẽ chịu sự huỷ diệt như trận lửa lớn để xóa đi mầm mống tội lỗi.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 137
TÔI MUỐN SỐNG
Khoảng bốn mươi năm trước đây, cuốn phim đen trắng “Tôi Muốn Sống” vừa được đem
trình chiếu, đã gây ra một luồng cảm xúc mạnh mẻ trong quần chúng Hoa Kỳ. Từ đó đã dấy lên một
phong trào đòi xoá bỏ án tử hình. Phim diễn tả những ngày giờ cuối cùng của một nữ phạm nhân,
Barbara Graham, do nữ tài tử lừng danh Susan Hayward dóng, trước khi lên ghế điện. Cuốn phim
dành được 3 giải nhất trong 10 giải mà phim được đề nghị trong năm 1958. Có lẽ do đó mà án tử
hình đã được giảm năm 1965 và xoá bỏ từ năm 1968 để rồi lại được tái lập từ năm 1976. Tiếng gào
thét đau đớn bên trong bốn bức vách phòng giam đã gây xúc động thực sự, nhưng cũng không thuyết
phục được hệ thống pháp lý vốn vô cùng lạnh lùng và nghiêm minh về một viễn ảnh cải thiện tình
hình tội phạm của xã hội con người vốn vô cùng phức tạp.
Án tử hình đã có từ rất xa xưa khi con người mới biết quần tụ thành một tổ chức. Nó được
dùng để trừng trị những tội nặng, xét theo quan điểm chính trị và đạo đức mỗi thời. Nó không thể
thiếu được khi bản chất một số người vô cùng hung ác. Ngày xưa - tại nhiều quốc gia như Việt Nam
ta, thì không xưa lắm đâu -- án tử hình được thi hành một cách dã man. Chặt đầu là phổ biến nhất.
Có những tội nhân bị ném vào vạc dầu đang sôi; có những tội nhân đem ra pháp trường cho voi chà.
Rùng rợn nhất là hình phạt “tứ mã phanh thây” trong các chế độ phong kiến bên Trung Hoa. Chân
tay của tội nhân bị cột vào bốn con ngựa rồi quất roi cho ngựa đi về bốn hướng khác nhau. Thi thể
do đó bị xé ra làm nhiều mảnh. Có tội nhân bị lóc xẻo từng miếng thịt trên người cho đến khi chết.
Nhẹ nhất là hình phạt dành cho những tội nhân vốn được sũng ái chọn một trong ba hình thức: hoặc
thắt cổ, hoặc uống thuốc độc, hoặc dùng dao đâm vào tim. Các hoàng đế La Mã thường cho các công
thần của mình chết êm ái bằng cách ngâm mình vào bồn tắm rồi cắt các mạch máu ở cổ tay cho máu
chảy từ từ ra hoà vào trong nước cho đến khi chết. Ðối với tù binh hay tội phạm thường thì ném họ
vào đãu trường cho thú dữ cắn xé hay cho họ chém giết lẫn nhau để mua vui cho công chúng cho
đến khi không còn ai sống sót. Tại Romania vào thời bị đế quốc Hồi đô hộ, những người kháng
chiến Romania bị bắt nằm xuống đất; lính Hồi lấy một chiếc cọc gỗ vót nhọn đầu ấn vào hậu môn
rồi dùng búa đóng cho đến khi cọc theo đường bụng xuyên qua người lên tới cổ. Xong chúng đem
dựng đứng cọc lên phơi nắng để nạn nhân chết dần trong đau đớn cực kỳ. Trong chiến dịch cải cách
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 138
ruộng đất tại miền Bắc năm 1953, bọn cán bộ Cộng sản chôn sống nạn nhân là những người bị ghép
tội địa chủ, chỉ chừa đầu ló lên khỏi mặt đất rồi cho người hay trâu kéo lưỡi cày cắt đứt đầu. Chúng
còn có nhiều trò dã man khác đối với đối phương như bỏ vào bao bố thả xuống sông, lóc da đầu
cuốn ngược về sau gáy.
Nhân loại càng ngày càng văn minh thì án tử hình càng ngày càng bớt dã man. Ngày nay tại
nhiều nước đã hủy bỏ án tử hình. Các nước khác thì còn duy trì, nhưng phổ biến nhất là xử bắn. Tại
Hoa Kỳ có hai cách: chích độc dược hoặc dùng ghế điện. Nhiều nước thì xử tử công khai cho công
chúng xem, nhiều nước thì xử trong phòng kín, chỉ có sự hiện diện của nhà chức trách và thân nhân
tử tội. Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, còn cho thân nhân của phía nạn nhân đến chứng kiến.
Hàng trăm người bị án tử hình mỗi năm, nhưng ít ai quan tâm. Vụ xử tử Karla Turner cách
đây 5 năm đã là một biến cố lớn và sôi nổi. Công luận Hoa Kỳ chia làm hai phía chống và ủng hộ
cân phân làm cho các nhà thi hành luật cũng lâm vào tình trạng khó xử. Chính vì Karla là một phụ
nữ xinh đẹp, nên mối thiện cảm dành cho cô nhiều. Và cũng chính vì cô là một phụ nữ da trắng xinh
đẹp, nên những người có quyền trong vụ thi hành án phải tỏ ra cứng rắn để khỏi bị mang tiếng thiên
vị. Karla chết vì tội của cô đáng chết. Nhưng Karla đã kêu lên những tiếng đau thương cuối cùng mà
lương tâm con người sẽ còn phải ray rứt trong một thời gian dài về sau.
Phút Cuối Cuộc Ðời Người
Con thú biết trước cái chết đến với mình thường kêu lên những
tiếng bi ai thảm thiết. Con người thì có nhiều phản ứng khác nhau.
Hoặc dẫy dụa kêu gào để mong vớt vát lại phút giây quý báu của cuộc
đời mình, hoặc can đảm, thanh thản đón chờ nó như điều không tránh
được. Nhưng chắc chắn một điều là trong tận cùng tâm khảm, nỗi xót
xa đau đớn ray rứt khôn ngừng; vì trước giờ ra đi về bên kia thế giới
khác, còn biết bao điều luyến tiếc trong cuộc sống hôm nay. Nào sự
chia lìa vĩnh viễn đối với những người thân yêu, nào những ước mong
trong đời chưa toại nguyện.
Karla Faye Tucker đã bình thản vô cùng khi theo chân người
đao phủ bước vào phòng hành hình. Hy vọng cuối cùng nơi thống đốc
George Bush tiêu tan vào những giây phút chót trước giờ hành quyết. Cô đã nằm lên chiếc bàn, để
cho người quản tù xiết chặt ngang thân, hai cổ tay, hai cổ chân bằng sợi đai da. Cô đã quay qua phía
các thân nhân của nạn nhân để nói lên lời sám hối về hành vi man dã của mình 14 năm trước đây đã
giết chết hai mạng người. Cô cũng đã quay qua phía các thân nhân mình để thốt lên lời yêu thương
và từ biệt.
Vụ hành hình Karla Tucker đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ chưa từng có trong
lịch sử các vụ hành quyết phạm nhân từ trước tới nay.
Không phải vì cô là người đàn bà da trắng xinh đẹp lần đầu tiên bị xử tử sau khi án tử hình
được tái lập tại Texas. Tội ác của cô thì rõ ràng vượt qua sự bình thường của con người. Cô đã cắm
nhiều lần chiếc rìu (pickax) vào ngập trong thân thể của 2 nạn nhân, một đàn ông và một đàn bà. Dù
rằng người đàn bà đã quỳ xuống van xin tha mạng sống. Khi cảnh sát đến nơi, chiếc rìu còn nằm sâu
trong lồng ngực người phụ nữ xấu số. Texas đã không khoan dung đối với những tội giết người,
huống chi là giết một cách dã man.
Sự Cần Thiết của Án Tử Hình
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 139
Trên một quan điểm xã hội, thì án tử hình là cần thiết vô cùng. Nó không phải thể hiện
nguyên tắc mạng đổi mạng như nhiều người thường dẫn chứng câu nói trong Kinh Thánh “an eye for
an eye”. Án tử hình là để loại ra khỏi xã hội những phạm nhân cực kỳ nguy hiểm cho cộng đồng như
bọn giết người hàng loạt, bọn vừa hãm hiếp vừa giết các phụ nữ, em bé, bọn có máu lạnh, lấy sự giết
người làm vui. Giam giữ trong tù với án chung thân cũng là một cách cách ly những người nguy
hiểm. Nhưng vì mức tội phạm càng ngày càng gia tăng trầm trọng, án chung thân thì sẽ có ngày
được khoan hồng thả cho về sau chừng 10, 15 năm, rồi can phạm lại tái phạm. Cử tri nhiều tiểu bang
đã kêu gọi tái lập án tử hình, như một hình phạt để răn đe cho những kẻ nào đang manh nha sự chém
giết người vô tội.
Như thế, án tử hình vừa là để trừng trị, vừa để làm gương răn đe, vừa để loại ra khỏi cuộc
sống những người đã cướp mất cuộc sống kẻ khác không để cho bọn này có cơ may tái phạm.
Nhìn vào thống kê con số tù nhân hiện nay trên toàn nước Mỹ, thì sẽ thấy mức tội phạm đã
trầm trọng ra sao:
Theo Bộ Tư pháp, dân số tù nhân vào cuối năm 2001 là hơn một triệu bốn trăm ngàn; trong
đó 1,249,038 trong các nhà tù tiểu bang và 156,933 trong các nhà tù liên bang. Ngoài ra còn có
702,044 còn tạm giam chờ ra toà lãnh án. Nếu tính thêm cả những người đang ở tình trạng tạm tha
(parole) hay thử thách (probation), con số lên đến 6.6 triệu. Thống kê mới nhất (2002) cho hay có
163,500 tù thuộc các cơ sở liên bang. Như thế. tính trung bình cứ 32 người thành niên có một người
đang bị tù hay rắc rối với pháp luật. Số luợng tù gia tăng trung bình 3.6% mỗi năm. Nếu tính từ năm
1990 thì mức gia tăng gần 7% mỗi năm.
Tại sao tù bị giam đông thế? Theo lời Dave Young của cơ quan Pháp lý Washington thì:
“người dân muốn cảm thấy yên ổn trong nhà mình, ngoài đường phố hay trong khu vực, vì thế nếu
chúng tôi phải lùa phạm nhân vào tù cho xã hội được an toàn, thì chúng tôi phải thi hành vậy.”
Cũng theo Herb Hoelter thuộc Trung tâm Quốc gia về các trại tù thì trong số ba người tù
được tha có 2 người tái phạm và trở vào nhà giam lại.
Theo các nhà xã hội học, hiện nay, Hoa Kỳ là nước đứng hàng thứ hai, sau Nga về mức độ
giam giữ công dân của mình trong các nhà tù. Mực độ này cao gấp 5 đến 10 lần nếu so với các nước
công nghiệp khác. Người dân Hoa Kỳ phải đóng thuế đến 20 tỷ đô la mỗi năm để trang trải chi phí
cho các tù nhân.
Con số tù bị án tử hình hiện nay chờ bị hành quyết là 3593 người, (tăng 1.5% so với năm
1999), trong đó có 54 phụ nữ. Tất cả tử tội đều phạm tội giết người,. Kể từ 1976, sau khi án tử hình
được tái lập, cho đến cuối năm 2001, Hoa kỳ đã hành quyết 749 tù nhân, trong đó có 9 phụ nữ. Năm
2000, có 85 tội nhân bị hành quyết tại 38 tiểu bang và cấp liên bang; nhiều nhất là ở Texas, 40
người. Năm 2001, con số tử tội bị hành quyết giảm còn 66 người. Năm 1998, khám tử hình
California chưá nhiều tử tội nhất : 477 người, trong đó có 8 phụ nữ, kế đến là Texas 428, có 7 phụ
nữ (tính luôn Karla Tucker). Florida có 389 tử tội, trong đó 5 phụ nữ, Pensylvania có 213 (4 phụ
nữ), North Carolina 197 (5 phụ nữ) các bang Ohio, Illinois, Alabama, Arizona, Oklahoma, Georgia,
Tennessee đều có từ trên 100 đến 180 tử tội. Hai phần ba số tử tội từng có tiền án đại hình; 1 trong
12 người từng có tiền án giết người. Tuổi trung bình của họ là 28 tuổi; có 2 phần trăm tử tội dưới 17
tuổi.
Cử tri Hoa Kỳ chia làm hai phe rõ rệt. Một phe ủng hộ án tử hình vì những lý do như vừa nêu
trên. Tại Texas, con số người nhất quyết duy trì án tử hình vượt hẳn con số người phản đối. Vì thế
người ta thường nói rằng Texas không có lòng khoan thứ. Phe chống lại án tử hình thì nêu ra luận cứ
rằng con người không được thay quyền Thượng Ðế để áp đặt cái chết cho kẻ khác. Họ nêu lên những
vụ người bị án oan ức sau bao năm được giải oan qua những cuộc xét ngiệm, điều tra, hay chính đích
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 140
thân thủ phạm ra đầu thú. Thì đáng tiếc thay, người bị oan đã bị hành hình ra người thiên cổ. Ai là
người có thể trả lại mạng sống cho kẻ bị hàm oan?
Sau đây là con số tội nhân đã bị hành quyết từ năm 1930 cho đến cuối năm 2001
(Thống kê của Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, http://www.ojp.usdoj.gov).
Năm Xử tử Năm Xử tử Năm Xử tử Năm Xử tử
1930 155 1946 131 1962 47 1987 25
1931 153 1947 153 1963 21 1988 11
1932 140 1948 119 1964 15 1989 16
1933 160 1949 119 1965 7 1990 23
1934 168 1950 82 1966 1 1991 14
1935 199 1951 105 1967 2 1992 31
1936 195 1952 83 Bãi bỏ án tử hình 1993 38
1937 147 1953 62 Tái lập án tử hình 1994 31
1938 190 1954 81 1977 1 1995 56
1939 160 1955 76 1979 2 1996 45
1940 124 1956 65 1981 1 1997 74
1941 123 1957 65 1982 2 1998 68
1942 147 1958 49 1983 5 1999 98
1943 131 1959 49 1984 21 2000 85
1944 120 1960 56 1985 18 2001 66
1945 117 1961 42 1986 18 Total 4608
Ðiều này không phải ít xảy ra. Trong một xã hội còn mang nặng tính kỳ thị, luật pháp thì
phức tạp và tốn kém, người can nhân nghèo chỉ trông dựa vào luật sư do toà án chỉ định, thường là
kém tài và không mấy sốt sắng. Nhờ sự phát minh của DNA, đã có vài trường hợp mà tử tội được
minh oan và tha khỏi tù chỉ vài ngày trước khi bị hành quyết. Ngược lại có những trường hợp mà tội
phạm đã rành rành, nhưng do luật sư giỏi tìm được sơ hở của cơ quan thụ lý mà tội nhân được miễn
án. Tỷ như O.J. Simpson không phải là anh hùng bóng bầu dục, không là triệu phú, thì giờ này, ít ra
anh ta cũng đang ngồi âm thầm đếm lịch trong một khám tử hình nào đó, hoặc nhẹ lắm thì cũng án
chung thân, chứ đâu có được thơ thới ngày ngày đi chơi dã cầu vui vẻ như hiện nay.
Tội Ác: Bản Chất Con Người hay Tác Ðộng Xã Hội
Triết học Ðông phương, đặc biệt là Nho giáo coi con người sinh ra vốn bản chất tốt đẹp
“Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Sở dĩ trở nên xâu xa, hung ác là do hoàn cảnh sống, môi trường xã hội
tạo nên. Ðiều này có nhiều phần đúng. Lịch sử các nước đã chứng minh khi quốc gia thái bình, an
lạc, chế độ hành chánh dựa trên quan điển nhân trị, khoan thứ, biết lo cho phúc lợi người dân, thì
mức tội phạm giảm đi rất nhiều. Ở Trung Hoa, Việt Nam, người ta thường nói dưới các triều vua
kiểu Nghiêu Thuấn, nhân dân an bình, thịnh trị, nhà cửa thường để ngõ mà không lo trộm cắp, người
ta thương yêu, đùm bọc nhau không lo ai sát hại ai. Dưới các chế độ tàn độc, như Cộng sản hiện
nay, con người bị xô đẩy vào tận cùng của sự lầm than, nghèo đói, những người dân mà bản tính
chất phác hiền lành cũng trở nên bẩn tính. tranh giành, chà đạp lên nhau để dành sống. Từ đó tội ác gia tăng mà không có phương các cứu vãn trừ phi thay thế toàn bộ chế độ kinh tế chính trị cởi mở,
dân chủ hơn. Tuy nhiên, tại Trung Hoa cổ cũng có giới Pháp gia như Tuân Tử, thì cho rằng “nhân
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 141
chi sơ, tính bản ác”. Họ đưa ra những pháp luật cứng rắn và những hình phạt nặng nề để trừng trị và
răn đe tội phạm. Nhưng có lẽ tội phạm đã gia tăng vào những thời điểm mà chính tình bất ổn, nói
theo người xưa là “thượng bất chính, hạ tắc loạn.” Nó chung, xã hội Ðông phương vẫn coi trọng
nhân trị hơn pháp trị.
Nước Mỹ lập quốc hơn hai trăm năm qua. Những người di dân đầu tiên từ các nước Âu châu
trốn tránh nạn ngược đãi tôn giáo, chính trị đã mang theo hành trang khi vượt Ðại Tây Dương là
lòng yêu chuộng Tự Do, Công Lý, và Tín Ngưỡng Thiên Chúa. Họ mang theo cuốn Thánh Kinh, và
từ nhiều đời, sử dụng nó như một sách giáo khoa chính thức để giáo dục con cái. Có thể nói, Thánh
Kinh hình thành một khuôn mẫu văn hoá đạo đức mà đã tạo nên đặc trưng của người dân Mỹ trong
hơn hai trăm năm cho đến khi khuynh hướng tự do quá trớn bùng nổ. Con người muốn thoát ra khỏi
những ràng buộc cũ để tận hưởng những nhu cầu khoái lạc vật chất do cuộc sống quá sung mãn về
kinh tế đưa đến. Bạo lực, khoái lạc thể xác đuợc đề cao. Với Tu chính Án thứ 5 về quyền tự do phát
biểu tư tường, người ta dành quyền diễn đạt truớc công chúng, qua báo chí truyền thông bất cứ điều
gì, bất luận nó tác hại cho xã hội ra sao. Sự chạy đua theo lợi nhuận đã thúc đẩy các nhà sản xuất
phim ảnh, sách báo, trò chơi cổ vũ cho bạo lực và thú vui xác thịt. Giáo dục đạo đức tại các trường
học bị coi nhẹ, kỷ cương nhà trường bị lơi lỏng. Do đó thế hệ thanh niên lớn lên không có định
hướng sống nào khác việc coi trọng thành quả vật chất và sự hưởng thụ. Trẻ em phạm các tội đại
hình xẩy ra như cơm bữa. Nhiều em 7, 8 tuổi cũng bắt chuớc trong phim, thử giết người để xem cảm
giác ra sao.
Thế là sự gia tăng tội phạm phải chăng là trách nhiệm của xã hội, của nhà cầm quyền? Chừng
nào giải quyết được các phức tạp xã hội, hãy trách cứ con người. Kết án con người, cho vào nhà
giam thì quá đơn giản. Một hình thức phủi tay đối với các vấn nạn xã hội.
Ngược lại với triết học Ðông phương coi con người vốn bản thiện, Văn hoá Hy La đã cảnh
giác về con người “Homo Laupus Hominibus”. Con người tàn nhẫn với con người như những con
chó sói. Có lẽ người Âu châu thời đó man rợ, ít tình cảm nên con người chực chém giết, tàn hại
nhau. Cho đến khi Chúa Jesus ra đời dạy bài học bác ái và tha thứ. Ðọc kỹ Kinh Thánh Cựu Ước thì
thấy trong các hành vi của đức Chúa Trời có nhiều điều thể hiện sự trừng phạt cứng rắn. Như việc ra
lệnh giết hết con đầu lòng của dân Ai cập trong một đêm để trả thù cho dân Do thái. Hậu quả là làm
cho Pharaon mềm lòng để cho dân Do Thái được ra đi . Như việc tạo cơn Ðại Hồng Thủy để diệt hết
nhân loại; như việc hủy diệt nhiều thành phố: Tyre, Jerusalem, Sodom... Người Âu châu ngay thẳng,
trọng công bằng, nên cũng cứng rắn trong cư xử “mắt đền mắt, răng đền răng.” Do đó đã dẫn đến
các chính sách dựa trên Pháp trị hơn là Nhân trị.
Xét về phương diện Tâm sinh lý học, thì bản chất con người phức tạp hơn nhiều. Chẳng phải
tất cả con người sinh ra vốn thiện hay vốn ác. Có những người do tính di truyền sự ác hay thiện căn.
Họ lớn lên sẽ thay đổi tâm tính nhờ giáo dục học đường, xã hội hay môi trường sống. Có người ác
vẫn hoàn ác dù trong môi trường tốt đẹp, có người vẫn giữ điều thiện dù sống giữa bọn côn đồ hung
dữ. Ảnh hưởng của thể chất tác động nhiều đến tâm tính. Lịch sử chứng minh những người thua kém
về thể chất thường mang nhiều mặc cảm, và khi có điều kiện sẽ làm các điều động trời để hầu xoá bỏ
mặc cảm thua sút đó (như trường hợp Hitler). Có người mang một loại bệnh sadism, chỉ muốn nhìn
thấy cảnh hành hạ người khác làm thú vui, như Eichmann, Himler. Khi tôi còn ở trong trại tù cải tạo,
bị giam trong phòng tối, tôi từng chứng kiến cảnh tên công an Luật (trại Xuân Phước A20) tự tay
chia cơm cho tù nhân với vẻ mặt đầy khoái lạc khi hắn múc những thìa cơm đầy, nhưng chỉ cho vào
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 142
trong cái “chén” chừng một muỗng cơm, và chan đầy ngập chén bằng thứ nước muối mặn chát. Cái
cung cách của hắn chầm chậm, hân hoan, đôi mắt lộ vẻ thích thú một cách bệnh hoạn.
Chúng ta thường đọc báo thấy những tên giết người hàng loạt. Những tên bắt cóc các em trai
nhỏ tuổi đem về hành lạc rồi chặt đầu. xẻ thịt cho vào tù lạnh để ăn dần. Ðó là những tên mà mầm
mống bệnh hoạn về tâm trí đã vô phương cứu chữa. Vậy, án tử hình cho chúng là điều tất yếu. Người
dân đóng thuế không chấp nhận làm việc vất vã để nuôi báo cô loại người này. Cứ tính một người tù
trong nhà giam, mỗi năm chúng ta phải chi phí từ 3 đến hơn 4 chục ngàn đô la. Nếu chỉ tuyên án
chung thân hay tù có hạn, thì chúng sẽ có cơ may được ân xá về với xã hội, tạo mối nguy cơ, mất ăn
mất ngủ cho những người khác.
Khi Người Tội Nhân Sám Hối
Trường hợp Karla Tucker, khi cô dùng cây pickax để đâm vào thân thể Jerry Lynm Dean, cô
đã cảm giác kích ngất về khoái lạc như cô đã kể lại sau này cho một người bạn gái nghe. Vậy thì án
tử hình cho Karla là đúng quá đi thôi.
Nhưng nếu hành quyết cô 14 năm trước đây, ngay sau khi tuyên án, có lẽ sẽ không có vấn đề
gì cần tranh cãi. Vấn đề là đã để cho cô sống 14 năm. Và trong thời gian dài dằng dẵng đó, sống
trong cơn ác mộng của cái chết treo trên đầu, cô đã suy nghĩ, tìm về với đạo lý. Cô đã giác ngộ về
tôn giáo và biết ăn năn về hành vi của mình. Cô đã có những việc làm nhằm giúp đỡ cho người khác.
Cô viết trong thư gửi Thống đốc Bush: “Ðó là vào tháng 10, ba tháng sau khi tôi bị tù, một giáo sĩ đã
vào nhà giam và giảng đạo. Tôi đã đi nghe và đón nhận Chuá Jesus Christ vào trong tâm linh tôi.
Khi tôi giác ngộ điều này, tôi cảm thấy tất cả những tội ác của tôi đè nặng lên tim. Lần đầu tiên trong
đời, tôi nhận thức hành vi tội ác của mình trong đêm kinh khủng đó. Cũng lần đầu tiên trong nhiều
năm dài, tôi khóc. Và từ ngày đó, tôi không ngừng khóc.... Tôi cảm thấy nỗi đau đớn về tội ác, và cứ
day dứt hàng đêm những điều ác tôi đã làm. Tôi biết quỷ quái đã ám ảnh tôi, tôi biết điều tôi làm
trong đêm đó quá kinh khủng mà chỉ có ác quỷ mới thi hành thôi.... Tôi đã có dự tính làm điều tốt
lành trong 14 năm qua, không phải vì tôi bị giam cầm mong ân sũng, mà vì Chuá Trời đã muốn tôi
làm điều thiện. Tôi đã biết phân biệt điều thiện và điều ác, và quyết chỉ làm điều thiện... Tôi không
thể mang trả lại cuộc sống cho các nạn nhân của tôi, nhưng tơi có thể làm việc để giúp cho các cuộc
đời khác nếu tôi được sống...”
Karla sinh ra trong một gia đình thuộc loại tận cùng của xã hội. Cha mẹ cô không hề quan
tâm đến cô, hoặc nếu có thì chỉ nhằm bóc lột thể xác cô. Cô đã kể cho Larry King trong một cuộc
phỏng vấn trên đài CNN về tuổi thơ ấu đầy tủi nhục.
“Tôi đã có những vấn đề trong tuổi thiếu niên: ma tuý, sự giận dữ và mơ hồ trong cuộc sống,
không có ai dạy dỗ định hướng cho để đi vào con đường tốt. Mẹ tôi cũng nghiền ma tuý, bà sống
một cuộc sống man rợ, cha thì không đủ bản lãnh để kiểm soát. “
Mẹ cô lừa gạt cha cô và mang thai sinh ra cô. Năm cô 14 tuổi, mẹ cô đưa cô đến một club
đầy đàn ông và huấn luyện cho cô trở thành gái gọi (Call girl) Cô đã làm vừa lòng mẹ cho đến khi cô
thấy không muốn suốt đời làm gái điếm, cô đã nói cho mẹ hay. Bà ta giao cô cho bạn bè để “giáo
dục” cô trong kỹ nghệ tình dục, và cô đã phải chấp nhận nó như một phương cách sống. Ngụp lặn
trong vũng nhơ của ma tuý, điếm đàng, con người cô không thể không trở thành một loại ác quỹ.
Nhưng trong tận cùng tâm hồn cô, cũng có những mầm mống tốt đẹp. Người chồng đầu tiên
của cô, ở với cô được 6 năm đã cho hay cô là một người vợ tốt (dù trong lúc đó cô vẫn hành nghề gái
điếm và hút chích ma tuý).
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 143
Khi mới bị bắt ra toà, cô đã giữ một tác phong hoàn toàn buớng bỉnh và vô luân. Khuôn mặt
cô lạnh lùng khi nghe bản cáo trạng và lời tuyên án. Lúc sau đó, cô đổ lỗi cho mẹ, cho ma tuý cho
bạn bè xấu và người bạn trai cũng thuộc loại giang hồ.
Cho đến khi cô tìm về với tôn giáo, cô mới bắt đầu biết nhận trách nhiệm về việc mình làm.
Hãy nghe cô tâm sự:
“Tôi không còn đổ lỗi cho mẹ tôi, hay đổ lỗi cho xã hội đã không tìm cách giúp đỡ cứu vớt
tôi khỏi sa đọa. Tôi tin rằng chúng ta là những người anh em cần bảo bọc nhau, và khi chúng ta
thấy một ai sắp đi vào đường sai trái, chúng ta có bổn phận phải tìm đến và hướng dẫn cho anh ta
trở về đường ngay nẻo chính. Nhưng cá nhân tôi, tôi không trách cứ xã hội về việc chính tôi đã lựa
chọn sự sai trái... Tôi cũng không đổ lỗi cho ma tuý. Trong đêm tôi thảm sát hai sinh mạng, tôi đã ở
trong tình trạng say ma túy. Tôi hoàn toàn thưà nhận trách nhiệm của bản thân trong việc sử dụng
ma tuý. Nếu tôi không dùng ma tuý, chắc chắn hai mạng sống đã không bị cất đi.”
Karla Tucker: Nạn Nhân hay Là Tội Phạm
Trưòng hợp Karla không phải là hiếm trong xã hội. Ngưòi ta đã để cho ma túy tràn ngập mọi
nơi, người ta đã cổ vũ cho giải phóng tình dục và các phương thức làm tình từ giao cấu đồng tính,
giao cấu tập thể, giao cấu với súc vật... Một xã hội mà các quan chức lớn từ Tổng thống cho đến các
cấp quân nhân, viên chức thuờng bị tố cáo về sách nhiễu tình dục. Một xã hội mà 70% phim ảnh đề
cao các hành vi bạo lực dã man và các màn làm tình sống sượng. Thì làm sao ta có thể hoàn toàn đổ
lên đầu những can nhân 100% trách nhiệm về tội ác?
Karla, trong thư gửi Thống đốc Bush, đã kêu lên tiếng kêu đau thương của người tử tội, cầu
xin tha cho mạng sống mình. Cô viết:
“Xin đừng coi là tôi đang cố gắng bào chữa để làm nhẹ cái tôi ác cực kỳ man dã của tôi. Tôi
xin nhận hết trách nhiệm về hành vi của mình... Tôi biết công lý đang đòi mạng sống của tôi để đền
cho hai sinh mạng vô tôi mà tôi đã giết một cách tàn khốc trong đêm đó. Nếu sự hành quyết là điều
độc nhất, là hành vi cuối cùng để làm sáng tỏ công lý, thì tôi xin chấp nhận nó. ... Tôi xin trả cái giá
mà công lý đã đề ra. Nếu Ngài quyết định phải thi hành bản án, xin hãy coi đó như biện pháp để
trừng trị một tội ác nghiêm trọng. Nhưng xin đừng coi việc loại tôi khỏi xã hội như một phần tử
nguy hiểm trong tương lai. Tôi tin rằng tôi sẽ đóng góp tích cực cho xã hội và giúp đỡ những người
khác.” .
Ðọc hết lá thư dài gần chục trang của Tucker gửi George Bush, mớt thấy cô là một người
thông minh, và cũng thấy sự cải hối của cô xứng đáng cho cô được khoan thứ. Cô đã làm nhiều điều
cho đưá con mồ côi của bà Thornton, cô thuyết phục người em của bà Thorton rằng cô sẽ dành dụm
tiền làm ra trong trại tù để gửi cho chú bé mồ côi.
Cuối thư, cô đã trích dẫn một đoạn Nhã ca trong Cựu Ước, dùng lời của vua David để cầu
xin sự khoan hồng: “Xin hãy đoái thương cho tôi, vì lòng Ngài đầy tình yêu khoan thứ... Xin hãy
xoá sự vi phạm của tôi theo lòng từ bi vô biên của Ngài. Xin hãy rửa tôi sạch mọi điều ác, làm cho
tôi nhận được tội lỗi tôi. Vì tôi đã ý thức được tội ác mình làm...”
Cô đã xin: “ Hãy cho tôi một cơ hội. qua đó, tôi sẽ được giúp đỡ kẻ khác tìm con đường ngay
lành... Tôi sẽ không bao giờ làm hại cho một ai trong suốt cuộc đời còn lại của tôi, ngay dù là để tự
bảo vệ mình.”
Con thú trước khi chết kêu lên tiếng đau thương còn làm cho người thợ săn mũi lòng đùng
ngọn dao, huống chi một con người đã bày tỏ hết tâm can và lòng sám hối cầu xin tha mạng sống.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 144
Một Cái Chết Không Còn Cần Thiết
Thế nhưng “Texas has no mercy”, Hội đồng Ân xá Tiểu bang đã bác bỏ đơn xin ân xá với số
phiếu 16/16. Hội đồng này chưa hề tha án cho một ai trong số 37 tử tội trong tiểu bang đã đệ đơn xin
ân xá. Hội đồng cũng đề nghị Thống đốc Bush không gia hạn cho cô trong thời hạn 60 hay 90 ngày.
Do đó, Thống đốc Bush chỉ có một lựa chọn độc nhất là trì hoãn sự thi hành án trong 30 ngày, và
ông đã không làm điều này, viện lẽ rằng trường hợp của Tucker đã được các cấp toà án thẩm định rất
kỹ rồi.
Rất nhiều nhân vật lãnh đạo cao cấp chính quyền và giáo hội lên tiếng xin tha cho cô, trong
đó có Giáo hoàng John Paul II và vị Mục sư chủ toạ giáo phái Evangelist có 3 đến 4 triệu tín đồ ở
Mỹ. Hơn 80% cú điện thoại gọi đến cho ông Bush là để xin tha cho cô. Các phong trào đòi bỏ án tử
hình tổ chức mít tinh xin tha cho cô. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đều nên những ý kiến có lợi
cho cô. Chính quyền Texas đứng trước một sự khó xử vô cùng. Vì đây là một người đàn bà, lại da
trắng, lại xinh đẹp. Nếu tha cho cô thì hoá ra chính quyền bị ảnh hưởng của giáo hội; mà chủ trương
chính trị là phân biệt thế quyền và giáo quyền. Nếu tha cho cô, thì người ta sẽ cho rằng vì giới tính,
vì màu dà, vì nhan sắc... Nhiều người đặt ngược vấn đề rằng nếu cô là người da đen, nếu cô quy y
theo đạo Phật hay Hồi giáo..., liệu người ta có dấy lên phong trào tranh đấu cho cô hay không.
Nghĩa là những gì thuận lợi của cô cũng trở thành bất lợi trong vị thế chính trị.
Tuy nhiên xét trên quan điểm thi hành án tử hình để loại ra xã hội một thành viên nguy hiểm
thì việc hành quyết cô là không cần thiết, phí phạm một mạng sống con người. Nếu đem cô ra giết
14 năm trước có lẽ là nhân đạo hơn. Cô đã trả một phần món nợ trong 14 năm dài dằn vặt, sám hối,
và lo âu trong khám tử hình.
Một vấn đề pháp lý rất quan trọng nữa, là Texas không có án tù chung thân miễn khoan thứ
(Life sentence without parole). Vì thế, mỗi khi xử các tội nhân trọng tội, các quan toà, bồi thẩm đề
chọn án tử hình cho dễ, vì tuyên án chung thân thì tội nhân chỉ ở tù chừng 15, 20 năm là được tha.
Ðiều này có nghĩa là nếu cô được giảm từ án tử hình thành chung thân, cô sẽ được điều kiện tha vào
năm 2005. Trong lúc cô cầu xin chịu án chung thân suốt đời không tha khỏi tù. Những người chống
đối việc giảm án cho cô lý luận rằng nếu cô được tha năm 2005, thì hoá ra cô chịu hình phạt quá nhẹ.
Hiện nay các nhà làm luật tiểu bang đang tranh đấu để tạo thêm án tù chung thân không
khoan thứ, như thế tránh việc phải hành quyết những tội nhân khi xét thấy không cần thiết mà vẫn
cách ly họ khỏi đời sống xã hội vĩnh viễn.
Karla Tucker đã là nạn nhân của xã hội, Karla Tucker lại là nạn nhân của một hệ thống luật
pháp thiếu khoan dung.
Karla chết, làm cho pháp luật Hoa kỳ từ đây dễ dàng hơn trong việc xử tử các phụ nữ, dù
rằng các người từng biểu lộ sự ăn năn sám hối trong trại giam. Hiện nay có khoảng 50 phụ nữ đang
chờ ngày lên ghế điện, hay giuờng chích độc chất.
Giờ Phút Cuối Cùng của Tử Tội
Sau đây là ghi nhận của phóng viên Michael Graczik (Associate Press) về những giây phút
cuối cùng của Karla Tucker.
Karla Tucker với một thái độ bình tĩnh, cương quyết trong bộ đồng phục nhà tù màu trắng và
đôi giày thể thao cũng màu trắng. Người tử tù đã bày tỏ tình yêu thương đến với gia đình, lòng sám
hối đối với gia đình các nạn nhân.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 145
Ðó là lúc 6:30 ngày thứ Ba, 3 tháng 2 năm 1998 tại Huntville Unit thuộc Cơ quan Tư pháp
Tiểu bang nơi giam giữ và hành quyết các tội nhân tử hình. Năm nhân chứng do tử tội chọn lựa được
vào đứng trước cửa sổ có hai lớp kính nhìn vào phòng hành hình Michael là người phóng viên báo
chí độc nhất được chứng kiến buổi hành quyết.
Karla đã bị đặt trên giường, hai tay, hai chân và ngang mình bị cột chắt vào giường bằng
những đai da. Mái tóc cô xoả ra trên lớp drap trắng. Trên cánh tay cô, người ta đã cắm sẵn hai mũi
kim tiêm có dẫn chất dung dịch Saline. Vài người thân đang ra dấu cho cô. Ông giám thị Morris
Jones cúi xuống sát cô, hỏi nếu cô muốn nói đôi lời từ biệt. Vị tuyên úy trại giam, Jim Brazzil đứng
ngay dưới chân giường cô.
Karla quay mặt về phía cử sổ có các thân nhân hai nạn nhân của cô và nói: “Tôi muốn thưa
với quý vị, thân nhân Thornton và Jerry Dean, rằng tôi vô cùng hối hận. Tôi hy vọng Chuá sẽ đem
đến an bình cho quý vị qua cái chết của tôi.” Cô lại quay của sổ có các thân nhân của mình, nơi
chồng cô Dana Brown đứng sát nhất, và nói: “anh yêu, em yêu anh vô cùng” Rồi cô nói với Ron
Carson, người anh trai của bà Thorton: “Ron, xin hãy ôm hôn Peggy giùm tôi. Mọi người đều rất tốt
đối với tôi. Tôi yêu quý tất cả mọi người. Tôi sắp về với Chúa Jesus. Tôi sẽ gặp lại tất cả trên đó. Tôi
sẽ chờ quý vị.” Cô nhắm đôi mắt lại, liếm vành môi, rồi bắt đầu thầm lặng cầu nguyện. Ðôi môi cô
mấp máy. Vài chứng nhân bật lên khóc nức nỡ. Họ đứng sát, quàng tay vào lưng nhau. Khi chất độc
bắt đầu tác động, cô thở rướn lên hai lần, rồi thở hắt ra khoảng 5, 10 giây cho hơi thở ra hết khỏi
lồng ngực. Ðôi mắt cô mở trừng, đôi môi thì he hé.
Chị cô, Kari Weeks khóc oà lên: “Karla, chị yêu em.” Brown lập lại: “Cô ta cũng yêu chị
lắm.” Chỉ trong vòng 5 phút sau khi bắt đầu cuộc hành quyết, y sĩ trại giam, ông Daryl Wells, buớc
vào phòng, bắt mạch cô và nghe nhịp tim. Ông ngước nhìn đồng hồ và tuyên bố: “6 giờ 45 phút.”
Người giám thị lập lại giờ. Ðó là giờ chính thức Karla trút linh hồn.
Ðươc biết trong ngày thứ ba, cô đã được đưa từ trại giam Mountainville ở Gatesville về trại
Huntville. Trước giờ chết, Karla đã yêu cầu bữa ăn cuối cùng gồm một trái chuối, trái lê, và một dĩa
salad nuớc cam. Nhưng cô không ăn thứ gì. Ông Brown, chồng cô mua cho cô một gói chip từ máy
bán hàng trong nhà tù. Cô đã được gặp thân nhân lần chót, hai bên ngồi cách nhau một khung cửa có
kính dày, nói chuyện qua điện thoại. Cô đã cùng thân nhân cầu nguyện. Trong ngày, có một lần cô
đã bật khóc. Vào lúc 5:45, giám thị trại giam kiểm soát lại lần nữa các điện thoại từ văn phòng
Thống đốc xem có lệnh tha vào giờ chót không. Ðến 6:01, khi không nhận được cú điện thoại ân xá
nào, Tucker bị dẫn từ phòng giam đến phòng hành hình. Thi hài cô được đưa vào nhà xác Huntville
Funeral Home chờ thân nhân lãnh về chôn cất.
Bên ngoài nhà giam, còn gọi là The Walls, hàng ngàn người thuộc hai nhóm - Bênh vực và
Chống đối án tử hình- lập thành hai diễn đàn tranh luận nhau kịck liệt. Hàng trăm người đã lập
hương án, với hoa và hình ảnh của cô để bày tỏ sự thương tiếc sâu xa. Trong khi đó, những người
kia reo mùng khi nghe loan báo Karla đã trút linh hồn trên giường hành quyết.
Tiếc là bức thư của Karla gửi Thống đốc Bush (10 trang) và toàn bộ ghi băng phỏng vấn
Karla dành cho chuơng trình Larry King Live (hơn 20 trang in) quá dài, chúng tôi không thể dịch và
đăng hết trên trang báo để quý vị đọc thấy hết trường hợp thương tâm của cô.
Thứ tư này 9 tháng 10, 2002, tiểu bang Floria sẽ hành quyết nữ tội nhân Aileen Carol
Wuornos. Aileen là một gái diếm đã giết 7 khách tìm hoa trong ba năm 1979-1980 và tong là đề tài
cho nhiều phim ảnh và sách báo. Là nữ phạm nhân thứ 10 bị hành quyết kể từ sau khi Hoa Kỳ tái
lập án tử hình năm 1976, cái chết của cô ta không thấy gây nên tiếng vang nào đáng chú ý.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 146
Từ Một Cái Chết,
Cứu Ðược Nhiều Mạng Sống
và NẨY SINH MỘT MỐI TÌNH CẢM ÐỘNG
Trong một khoảng thời gian dài xem tin tức trên truyền hình hay nghe đọc trên báo chí toàn
những chuyện bạo lực, vô nhân: đặt bom nơi công cộng, giết người hàng loạt; rồi vô luân đến mức
cha, mẹ giết chết con cái bằng đủ mọi cách như vứt hài nhi vào thùng rác, khoá kín trong xe cho chết
chìm trong lòng sông, hồ, bóp mũi hàng loạt 5 đưá con chỉ vì không dỗ được con nín khóc... Ðủ thấy
nền tảng đạo đức xã hội đã sa sút đến đâu.
Nước Mỹ lập quốc trên nền tảng đạo đức Thiên Chuá. Những người di dân hàng trăm năm trước
đây rời Bắc Âu vì nạn đàn áp tôn giáo và bất công. Họ thực hiện những chuyến hải hành nguy hiẻm
băng qua Ðại Tây Dương với hàng trang vỏn vẹn một túi xách nhỏ, nhưng trong đó không thể thiếu
cuốn Kinh Thánh. Ngay sau khi đặt chân lên miền đất hứa này, họ đã thiết lập nên một trật tự xã hội
trên căn bản giáo dục của Thiên Chuá, lấy nhân ái, công bằng làm nền tảng trong quan hệ giữa con
người trong gia đình hay ra ngoài xã hội. Nhờ thế, Hoa Kỳ đã tiến rất nhanh trong định chế Tự Do
Dân Chủ, vượt xa các nước Anh, Pháp, nơi khởi phát các cuộc cách mạng dân quyền và nhân quyền.
Ngày nay, nhà trường hoàn toàn tách rời ảnh hưởng tôn giáo; chỉ dạy trẻ kiến thức để vào đời tìm
sống mà không dạy đạo lý để làm đẹp cuộc sống của mình và nhân quần. Ngoài xã hội, phim ảnh
sách báo chỉ đề cao bạo lực, còn đâu thời huy hoàng ngự trị những cuốn phim lãng mạn, đầy tình
cảm, nhân ái. Trong gia đình thì cha mẹ bận làm ăn, không còn dành thì giờ chăm sóc dạy dỗ con
cái. Do đó lòng thương cha mẹ và con cái càng ngày càng phai nhạt đi. Tỷ lệ thiếu niên bỏ nhà ra đi
càng lúc càng tăng. Tội phạm dưới nhiều hình thức xảy ra hàng ngày như cơm bữa. Bởi thế, thỉnh
thoảng khi tình cờ đọc được một mẫu tin về lòng hy sinh cao thượng, quên mình cứu người,(những
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 147
tấm gương này có lẽ rất nhiều, nhưng ít được báo chí khai thác) tôi thường ghi chép lại và tìm kiếm
thêm tài liệu để tin rằng, mầm yêu thương vốn quý của Thượng đế ban cho con người vẫn dạt dào
chờ lúc tái ngự trong đời sống xã hội như từng là kim chỉ nam trong những năm tháng chưa xa lắm
trước đây.
Ðây Là Câu Chuyện của Cô Meghan Hickerson.
Cô bé mới 14 tuổi khi câu chuyện thương tâm này xảy ra, và cũng là lúc cô từ giã cuộc đời thơ
mộng để đi vào thiên thu, hiến tặng sự sống cho 2 ngưòi khác hoàn toàn xa lạ.
Khoảng 360 dặm phiá hạ lưu dòng sông Mississippi êm đềm, nơi một thị trấn nhỏ Hartford ở
phiá Nam của tiểu bang Illinois, có một gia đình nhỏ vỏn vẹn có 3 người: vợ chồng Connie và Jim
Hickerson và cô con gái Meghan. Một gia đình đầm ấm, sống trong tình yêu thương đùm bọc trọn
vẹn. Meghan Marie chào đời lúc 8:59 sáng ngày 2 tháng 7 năm 1980, mang lại hạnh phúc tuyệt vời
cho đôi vợ chồng trẻ. Kể từ đó, em bé trở thành trung tâm của gia đình, nơi hai ông bà Hickerson gửi
gắm bao niềm yêu thương và hy vọng.
Năm đó, em Meghan 14 tuổi, là một cheerleader tại trường Trung học East Alton Wood River.
Em là một tay đàn có tiếng về Piano, vừa biết chơi Saxophone. Em lại là cầu thủ trong đội bóng đá
(soccer) và ném banh (softball) có hạng của trường. Em có đôi mắt to tròn, luôn mĩm cười với bạn
bè. Vì thế em được lòng tất cả mọi người, dù mới quen em lần đầu.
Tính em thẳng thắn. Em học giỏi và có tài diễn thuyết. Em đoạt nhiều phần thưởng về nhiếp ảnh,
khoa học, và văn học. “Cháu nó biết sắp xếp thời khóa biểu cho từng phút của một ngày,” cha em đã
hãnh diện nhắc về em, “Có thể nói cháu đã gói trọn trong 14 năm rưỡi đời cháu công việc của cả nửa
thế kỷ.” Em vui vẻ lạc quan với đời; khi nào cũng sẵn sàng ngân lên khúc hát trong nhạc khúc
Phantom of the Opera. Cha mẹ em khi nhắc lại về em, thường ngậm ngùi nói: “Ôi tiếng hát trong
trẻo đó, cho tôi nghe lại một lần rồi có chết cũng cam.”
Mẹ Ơi, Ôm Con Lần Nữa Ði
Bà Connie nhớ lại sáng ngày 14 tháng 1 năm 1995, khi bà lái xe đưa Meghan đến bãi đậu xe của
nhà thờ, nơi các bạn em đang chờ để cùng lên đường trong chuyến đi trượt tuyết núi Cascade ở tiểu
bang Wisconsin. Chuyến đi do nhà thờ tài trợ. Với nỗi lo lắng của một bà mẹ, Connie dặn em tránh
xa những gì phiền toái, rồi chào từ giã em bước về phía xe mình. Meghan la lớn lên, “Mẹ ơi, hãy ôm
hôn con thêm một lần nữa.” Em chạy băng qua bãi đậu, ôm chầm lấy mẹ và âu yếm nói: “Mẹ ơi, con
yêu mẹ vô cùng.”
Thế rồi...
Tin dữ đến từ nhà thờ trong đêm thứ Bảy. Mục sư báo tin em bị tai nạn nghiêm trọng.
Em đã bị nạn trong khi trượt tuyết. Em bị té và văng ra khỏi lối trượt, đập đầu vào ống nước
bằng kim loại dùng để phun tuyết. Trực thăng chở em đến bệnh viện ngay. Em được đưa vào phòng
cấp cứu trên tầng 4. Em mê man, bất tỉnh. Não bộ em đã không còn làm việc và theo bác sĩ thì không
có cơ vãn hồi, tuy rằng các cơ phận khác vẫn còn hoạt động bình thường.
Vợ chồng Jim Hickerson lật đật lái xe trong đêm đen lạnh buốt đến ngay bệnh viện ở Madison để
nghe tin như sét đánh ngang tai: đứa con gái bé bỏng xinh đẹp của mình sắp sửa lìa đời. Họ gục đầu
cầu nguyện, xin cho em được sống, vì tin rằng em có sức sống mãnh liệt, có thể vượt thắng được
lưỡi hái của tử thần. “Con có thể làm bất cứ chuyện gì trong đời con, dù khó khăn đến đâu cơ mà!”.
Nhưng rồi họ cũng phải linh cảm một sự thức không tránh được: Sẽ không có một phép lạ nào nữa.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 148
Em đang nằm trên giường cấp cứu kia, thân hình bất động hoàn toàn. Lồng ngực em còn phập
phồng là nhờ máy thở nhân tạo.
Khi bác sĩ loan tin tình trạng em quá trầm trọng, vô phương cứu chữa, mẹ em đã nức nở nói với
bác sĩ gần như ra lệnh: “Lời bác sĩ không thể chấp nhận được, ông hãy trở vào lại trong phòng, và
trở ra với một câu trả lời khác đi.”
Cùng Lúc Ðó.....
Ngay phiá dưới phòng Meghan một tầng lầu, có một bệnh nhân tên là Chris Nelson.
Cuộc sống của Chris như là một cái bình sắp trống rỗng. Thân thể anh ta vàng vọt đi, trí não đã
hoàn toàn mờ mịt như màn sương đêm, và các máy móc tân tiến không còn hiệu nghiệm trong việc
giúp anh ta duy trì sự sống. Mục sư đã đến trong những ngày trước đây và sắp xếp một cuộc cầu
kinh rửa tội cuối cùng.
Cũng ngay phía trên của em một tầng lầu là cô Kristin Gabrielson.
Khuôn mặt nàng đã tái nhợt, thân hình mỏng manh chỉ còn da bọc xương, cân nặng 95 cân. Hai
là phổi của nàng chai cứng như đá, đã không còn muốn làm việc nữa...
Trong cái đêm định mệnh giá buốt đó, Chỉ có cái chết của Meghan mới có thể mang lại hy vọng
cứu sống hai con người xa lạ đang tuyệt vọng kia.
Chỉ với lòng độ lượng của thân sinh em Meghan - đang tan nát cả cõi lòng -- gật đầu cho phép
bác sĩ chấm dứt cuộc sống của em và hiến tặng các phần thân thể của em cho hai bệnh nhân kia được
cứu.
Một Quyết Ðịnh Xé Lòng
Khi đã được bác sĩ tái xác nhận sự bất lực của tài năng và mọi phương tiện y khoa hiện có, đồng
thời đề nghị Jim và Connie hiến tặng các bộ phận thân thể em -- Meghan chỉ còn chờ chết-- Jim dìu
người vợ gần như sắp quỵ gục vào căn phòng bên để bàn tính. “Nếu chúng ta cứ ngồi đây chờ một
phép lạ để cứu mạng sống của con? Liệu có phép lạ không?”
Connie thổn thức: “Thôi, cứ làm theo điều gì phải làm.”
Connie trở lại giường bệnh, bên thi thể em còn chút hơi ấm của sự sống. Bà quỳ xuống bên
giường, ôm lấy cánh tay em mà vuốt ve. Lòng người mẹ tan nát. Bà khe khẻ hát những khúc hát mà
em ưa thích nhất lúc sinh thời: Swing Love, Sweet Chariot, và nhiều khúc hát khác mà bà còn nhớ
được, câu mất câu còn.
Thế là bác sĩ cho em ra đi, để tách những bộ phận còn sống trong thi thể em, ghép vào cho hai
mgười bệnh nhân kia.
Meghan Vẫn Sống trong Sự Chết
Hàng trăm người đã theo sau quan tài em, tiễn em ra nghĩa trang ở Rosewood Heights, bang
Illinois. Ðoàn người đưa đám tang kéo dài hàng trăm mét. Có từ 400 đến 500 lá thư và thiệp chia
buồn gửi đến gia đình em, trong đó nhiều người kể lại những kỷ niệm về em. Cô tài xế xe bus chở
học sinh đã kể lại về các lời trao đổi giữa Meghan và các bạn học sinh về chuyện hiến tặng thân thể
để cứu người: “Trong khi các em khác đều la lên 'chúng ta sẽ không làm điều đó', thì Meghan nói
'riêng tôi, tôi sẵn sàng hiến tặng nếu có ai đó cũng mong muốn một cuộc sống diệu kỳ như tôi đang
có.'“
Bất ngờ, có một lá thư đặc biệt đến vài tuần sau cái chết của em.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 149
Ðó là lá thư gửi từ Cơ quan Phân phối các phần thi thể hiến tặng thuộc trường Ðại học
Wisconsin về trường hợp 5 người được thừa hưởng phần thi thể của Meghan.
Trái tim của Meghan được tặng cho một người nông dân già 64 tuổi ở Wisconsin. Một trái thận
và túi mật của em được tặng cho một người đàn ông 41 tuổi cũng ở Wisconsin. Trái thận kia thì tặng
cho một người đàn bà 33 tuổi ở New Jersey. Hai bệnh nhân cùng nằm bệnh viện chung với em:
Kristin Gabrielson nhận hai lá phổi, và Chris Nelson nhận là gan. Cả hai người sau này đều 26 tuổi.
Năm người này đã sống lại nhờ các phần thi thể cuả Meghan.
Như thế có thể nói được là chính Meghan đã sống trong thân thể của 5 người này không?
Những Người Bạn Mới của Meghan.
Người mẹ giờ đây càng muốn 5 người xa lạ -- mà nay đang như rất thân thiết với bà vì họ đang
mang trong người các phần máu thịt con bà -- biết thêm về Meghan. Trong một lá thư dài 4 trang
rưỡi nhờ cơ quan trên chuyển đến cho 5 người, Connie đã miêu tả niềm hạnh phúc của bà khi con bà,
Meghan, còn sinh thời; cũng như nỗi đau đớn khi mất con. Bà kết thúc lá thư với câu: “Chúng tôi
mong biết thêm về sự bình phục của quý bạn, vì điều đó sẽ an ủi chúng tôi vô cùng.”
Chris đã xúc động thật sự khi đọc lá thư trên. “Mỗi lần đọc lại lá thư, tôi lại bật khóc nức nở.”
Chris đã gặp gỡ gia đình Hickerson, mặt đối mặt trong một chương trình được trực tiếp truyền hình
với nhà bình luận Phil Donahue.
Ở cách đó hàng trăm dặm, trong căn nhà nhỏ của mình ở tận Woodstock, Illinois, Kristin theo
dõi chương trình truyền hình và đã bật khóc khi nhìn thấy Connie, Jim và các tấm hình của cô bé
Meghan. Và khi nàng nhìn thấy hình ảnh của người đàn ông trẻ có bộ râu xồm đang thẹn thùng và
run run trả lời các câu hỏi của Phil Donahue, nàng đã chú ý ngay. Ðó là anh chàng Chris. Từ đó nàng
mới vỡ lẽ ra là cả hai người từng có cùng một số phận.
Năm 18 tuổi, trong khi đang theo học tại trường Ðại Học Chicago, Kristin phát hiện ra mình mắc
phải chứng bệnh Hodgkin. Sau khi điều trị bằng Chemography vô hiệu nghiệm, nàng trải qua 8 tuần
chịu sự đốt của phóng xạ trên hai lá phổi. Từ mùa xuân năm 1994, Kristin chỉ có thể sống được nhờ
các bình dưỡng khí. Nàng quá yếu đuối, bệnh hoạn để có thể tiếp tục việc học, có thể đi làm, thậm
chí nàng không còn có thể đứng vững trên đôi chân.
Trường hợp của Chris thì càng đáng buồn hơn. Từ lúc lên hai tuổi rưỡi, Chris đã vướng bệnh khi
uống nhầm một hoá chất độc hại. Lên 10, bác sĩ đã phải dùng ống dẫn để thay thế cho thực quản của
anh. Sau đó, trong lúc đi làm việc trong một cơ xưởng chế biến cao su, anh lại nhiễm thêm các bụi
hoá học khác. Anh bị bệnh Hepatitis C.
Các bác sĩ khám phá anh bị hoại gan trầm trọng. Da anh vàng vọt đi. Từ một cơ thể 155 cân, anh
mất đi 28 cân nhanh chóng. Anh đã nói với bác sĩ rằng nếu bệnh tình của anh là bất trị, xin cứ để cho
anh chết và đem phần còn tốt của thể xác anh tặng lại cho những ai cần đến. Anh lâm vào cảnh mê
man, và chỉ chờ tử thần đưa lưỡi hái xuống đưa anh về Thiên đàng.
Rồi như có sự sắp xếp của hoá công.
Chris nằm ở tầng 3 trong khi Kristin thì ở tầng 5, chờ chết.
Và trong cùng một phút nguy ngập đó, ngay tại tầng 4, em bé Meghan cũng đang chờ lưỡi hái
của tử thần.
Bạn Có Tin Chuyện Ông Tơ Bà Nguyệt Không?
Ông Tơ bà Nguyệt trong cổ tích Việt Nam là nhân vật trên trời có bổn phận dò xem trong sổ bộ
nhân gian để xem những người con gái, con trai nào xứng hợp; rồi dùng dây tơ hồng buộc họ với
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 150
nhau. Thế là dưới trần gian này, dù không biết nhau, muốn hay không muốn, cũng phải trở nên vợ
nên chồng ăn ở với nhau trọn đời trọn kiếp. Cổ tích Tây phương thì có thiên thần Cupid, anh chàng
nhỏ bé tinh nghịch này hể cứ đem mũi tên bắn vào cặp trai gái nào, là cứ y như rằng họ yêu nhau
đắm đuối.
Meghan dường như lúc sinh thời đã từng đóng vai trò của ông Tơ bà Nguyệt. Em đã giới thiệu
người chị họ cho mục sư nhà thờ nơi gia đình em thường đi lễ. Hai năm sau khi em chết, họ đã trở
thành vợ chồng.
Connie và Jim Hickerson thì chẳng phải là loại người sinh ra để làm ông Tơ. Nhưng khi họ nghe
rằng Kristin đã để mắt đến anh chàng Chris, hai người bèn đưa ra một đề nghị hay. Chris và Kristin
đã được gặp nhau sau đó trong những cuộc hội thảo về các vấn đề liên quan đến ghép nối các bộ
phận trong thân thể. Họ trở thành bạn thiết của gia đình Hickerson. Vào mùa xuân năm 1996, Kristin
quyết định gửi cho Chris một tấm thiệp chúc ngày lễ Phục Sinh. Nàng hỏi ý kiến gia đình Kickerson.
Jim đã nói rằng, nếu ông ta là Chris, ông sẵn lòng mong muốn biết thêm về cô gái xinh đẹp như
nàng.
Thế là nàng yên lòng gửi tấm thiệp và hồi hộp chờ hồi âm. Thêm một điều là cả hai đang chuẩn
bị tham dự một buổi quyên tiền giúp cho những vụ ghép nối cơ phận trong thân thể được bảo trợ bởi
người nông dân từng được ghép trái tim của Meghan.
Một đêm trước ngày tham dự, Chris gọi điện thoại cho Kristin. Họ đã trò chuyện tâm đắc trong
hơn 3 giờ đồng hồ. “Tôi không hề ngờ rằng đâu đó một mối tình đang nẩy nở.” Chris nói, “Nhưng
chắc chắn một điều là chúng tôi từng trải qua những cảm giác chung rất đặc biệt.”
Ðối với Kristin thì còn xa hơn. “Tôi đã yêu chàng ngay trong lần thấy Chris lần đầu tiên trên
chương trình truyền hình. Trông anh chàng thật ngộ nghĩnh đáng yêu.”
Thế rồi, trong lần gặp mặt tại buổi họp chung, họ đã như một cặp thiếu niên e thẹn, chú mục vào
nhau và chỉ đơn giản trò chuyện trong khi mọi người đang khiêu vũ. Khi Chris ra về, Kristin nức nở:
“Tại sao tôi lại để cho chàng ra về như thế nhỉ?” Connie buớc vào ngồi xuống bên Kristin, vổ về như
bà chị với em gái: “Cuối thế kỷ 20 rồi em ơi! nếu thấy thích anh ta thì gọi điện thoại, nói rằng em đã
qua một buổi tối vui vẻ bên anh ta.”
Kristin y lời, gọi ngay. Và câu chuyện kết thúc như sẵn có ông Tơ đã ràng dây chỉ hồng.
Cũng như những người được sống sót sau các tai biến, Kristin và Chris cùng mang nặng mối ám
ảnh. Họ luôn nhắc đến việc các thân thể có thể sẽ không chấp nhận các bộ phận mới ghép vào; họ lo
lắng cho tình trạng miễn nhiễm của mình và ngay cả những cơn ác mộng. Nàng thì chỉ mơ thấy
những giấc mơ hãi hùng, nào là những cành cây khô trụi lá và bầu trời đen ngòm bao quanh; chàng
thì mơ thấy bị săn đuổi trong những con đường hầm không lối thoát. Cả hai đều mang mặc cảm của
những người sống sót nhờ cái chết của một cô gái 14 tuổi còn thơ.
“Tôi cảm thấy cần phải làm một điều lớn lao có sức thay đổi cả thế giới để chứng minh rằng sự
sống của tôi có một giá trị nào đó, xứng đáng với sự hy sinh của người khác.” Kristin nói, “Khi có
ngưới nói rằng Chuá đã an bài mọi sự, thì tôi nghĩ rằng, phải vinh danh Chuá mà thôi.”
Nàng biết rằng Chris cùng chia sẻ ý tưởng của nàng. “Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có thể
tìm được một người đàn ông nào ngoài Chris có thể cảm thông hết nỗi đoạn trường tôi đã trải qua.
Những người khác thật khó lòng mà hiểu được.”
Meghan đã đưa họ lại với nhau. Nhưng chính họ càng tìm hiểu và thêm yêu nhau. Ðối với Chris,
Kristin không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh vô cùng. Nàng thì yêu chàng vì chàng biết cách làm
cho nàng phá lên cười vui vẻ. Họ coi nhau là tâm đầu ý hợp.
Jim Hickerson, nay đã 53 tuổi, tuyên bố rằng trong tấn thảm kịch đã mang lại những niềm vui
hạnh phúc. Ông nhớ lại lúc Kristin nhìn ông một cách lạ lùng khi ông nói với cô rằng một ngày nào
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 151
đó, sẽ có điều đáng quan tâm hơn sức khoẻ của cô. Sau khi cô nàng gặp gỡ Chris, cô mới nhận thức
ý nghĩa câu nói đó.
Connie, nay đã 40, tin rằng quả có số mệnh an bài.
Một Mối Quan Hệ MớI
Ngày 16 tháng giêng vừa qua, nhân kỷ niệm năm thứ ba sau ngày tái sinh, Chris tặng cho Kristin
chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương và ngọc saphire. Kristin nay là một thư ký bệnh viện; Chris thì
làm việc cho một nhà in. Họ đã bàn tính về hôn lễ sắp đến. Ông Dave Godfrey, người nông dân có
trái tim của Meghan đã nhận sẽ thay thế cha Kristin -- đã qua đời khi cô còn bé -- để khoác tay cô
vào giáo đường dể trao cho chú rễ theo tục lệ Tây phương. Ông đã gọi đôi bạn này đôi chim nhỏ
đáng yêu.
Gia đình Hickerson đã xây dựng một cuộc sống mới. Họ sẽ nhận một đứa bé gái Trung Hoa làm
con nuôi vào mùa hè này. Họ đặt tên cho bé là Lori Marie: tên lót Marie cũng là tên lót của Meghan,
tên gọi Lori là tên của cô y tá trong chuơng trình phân phối các cơ phận thân thể mà nay cũng đã là
bạn thân của gia đình.
Thế là trong lòng mọi người và ngay cả trong thân thể nhiều người, Meghan đã thực sự còn sống
mãi.
Kristin chưng bày tấm ảnh của Meghan trong album gia đình. “Nếu tôi nhìn hình ảnh một chú
nai tơ chạy qua trước mũi xe, hay quan sát những con chim nhỏ bay sà bên bờ sông tìm thức ăn, lòng
tôi lại chạnh nhớ tới Meghan. Tôi nghĩ rằng một phần của em trong thân thể tôi đang tạo cho tôi
những cảm giác yêu đời.”
Gia đình Hickerson thu thập những di cảo của Meghan để cất giữ như một cuốn phim lưu niệm.
Căn phòng của em vẫn còn nguyên với những con búp bê Raggedy Ann, những tấm màn cửa in hình
New Kids on the Block, và những chú chuột Mickey.
Nhưng thêm vào đó là cái nôi ở góc phòng dành cho đưá con nuôi mới xin. Quanh nôi là hình
ảnh của gia đình và những bài vở về các đề tài: “Làm sao nuôi nấng con cái trở thành những người
tốt”
Và dĩ nhiên một tấm ảnh Meghan đang tươi cười yêu đời.
Cái chết của Meghan có một ý nghĩa cao quý, Không, em không chết mà em vẫn còn sống, trái
tim em vẫn đập trong lồng ngực của ông già Godfrey cơ mà.
Tháng 7, 1998
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 152
Giới Thiệu Rượu Vang California và
Cơ Sở Làm Rượu Vang San Antonio
I.- Phần Dẫn Nhập: Rượu Vang California
Rượu Vang California
Rượu vang California là loại rượu vang làm tại tiểu bang California, Hoa Kỳ. Với diện tích
bằng ¾ diện tích nước Pháp, California sản xuất gần 90% sản lượng rượu vang tại Hoa Kỳ. Chỉ riêng
tại California, sản lượng rượu vang nhiều hơn sản lượng của Australia 33%. Nếu California được
xem là một quốc gia, thì mức sản xuất rượu vang của nó sẽ đứng hàng thứ 4 trên thế giới.
Lịch sử nghề làm rượu vang của California có từ thế kỷ 18 khi các nhà truyền giáo Tây Ban
Nha trồng những vườn nho đầu tiên tại đây để làm rượu cho các thánh lễ.
Tiếp theo sự phục hưng của nghề làm rượu vang vào giữa thế kỷ 20, rượu vang California đã
nổi tiếng thế giới tại cuộc thi năm 1976 tại Paris (Judgment of Paris Wine Competition) khi nó thắng
rượu vang Pháp về cả hai loại vang trắng và vang đỏ.
Cuộc thi mang tên Paris Wine Tasting of 1976 hay “The Judgment of Paris” được tổ chức
vào ngày 24 tháng 5, năm 1976 bởi ông Steven Spurrier, một nhà buôn rượu vang người Anh. Trong
cuộc thi, các giám khảo bịt mắt mà nếm các loại vang cao cấp Chardonnay và Carbernet Chauvignon
của Pháp và của California. Để bảo đảm sự phán đoán công minh, người nếm không thấy được nhãn
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 153
hiệu và hình thù chai rượu. Sự đánh giá của người nếm rượu có thể bị thiên vị nếu ông ta biết được
những chi tiết của rượu, ví dụ như nơi xuất phát, giá cả, tiếng tăm, màu rượu, hoặc các điều khác.
Vang California được đánh giá cao nhất về mỗi chủng loại. Điều này gây ngạc nhiên vì Pháp vốn
được xem là nơi sản xuất hàng đầu của các loại vang ngon nhất thế giới. Ông Spurrier chỉ bán vang
Pháp và tin rằng vang California chẳng thể nào qua mặt được.
Ngày nay, có hơn 1200 xưởng chế biến rượu vang tại California, từ các cơ sở nhỏ cho đến
các đại công ty như E&J Gallo Winery có mức phân phối toàn cầu.
Lịch sử Rượu Vang California
Sự thành lập Phái bộ Truyền giáo Tây Ban Nha St. Carlos tại Monterey
Rượu vang thông dụng (Vitis vinifera vines) được giới thiệu tại tiểu bang California vào thế
kỷ 18 do người Tây Ban Nha đã trồng những vườn nho mỗi lần họ đến thành lập nhà truyền giáo.
Rượu vang được dùng cho các cuộc thánh lễ cũng như trong các sinh hoạt thường ngày. Các cành
nho được mang từ Mexico có gốc gác từ loại nho đen thông dụng (Common black grape) do ông
Hernán Cortez mang đến Tân Thế Giới vào năm 1520. Vì có liên quan đến các phái bộ truyền giáo,
người ta gọi nó là “nho phái bộ”, tên này trở nên thông dụng cho các chủng loại nho tại California
cho đến thế kỷ 20.
Chiến dịch tìm vàng tại California (California Gold Rush, 1848-1855) vào giữa thế kỷ 19 đã
đưa nhiều làn sóng người đến đây, làm gia tăng dân số cũng như nhu cầu về rượu vang. Chiến dịch
này bắt đầu từ ngày 24 tháng giêng năm 1848 khi ông James W. Marshall tìm ra vàng tại mỏ vàng
Sutter ở Coloma, tiểu bang California. Các tin tức về sự khám phá này loan truyền nhanh chóng, kết
quả là có khoảng 300 ngàn người vừa đàn ông, đàn bà, vừa trẻ em đã đến California từ khắp các nơi
khác trên đất Mỹ cũng như từ nước ngoài.
Kỹ nghệ rượu vang bắt đầu phát triển tại các hạt Sonoma AVA và Napa thuộc miền bắc
California. Trong giai đoạn này, những xưởng làm rượu vang lâu đời nhất California đã được thành
hình như Buena Vista Winery, Charles Krug Winery, Inglenook Winery và Schramsberg Vineyard.
Các di dân Trung Hoa đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kỹ nghệ rượu vang của
California trong thời này. Họ xây dựng nhà máy rượu, trồng các vườn nho, đào hầm trữ rượu và thu
hái nho.
Rệp Nho và sự Cấm đoán
Cuối thế kỷ 19, các vườn nho
tại Pháp và Âu Châu đã bị thảm họa
do rệp nho gây ra. Các vườn nho bị
phá hủy và nhiều hãng làm rượu nhỏ
bị đóng cửa. May thay, do biết cách
gây giống có khả năng chống bệnh, kỹ
nghệ rượu vang tại California nhanh
chóng phục hồi và nhân đó, phát triển
thêm nhiều chủng loại nho mới. Bước
qua thế kỷ 20, trong tiểu bang đã
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 154
trồng được gần 300 loại nho, cung cấp cho khoảng 800 nhà máy rượu. Sự nổi danh trên thế giới sắp
cận kề thì vào ngày 16 tháng 1, năm 1919, Tu Chính Án 18 ban hành sự cấm đoán. Các vườn nho
được lệnh nhổ tận gốc, và các hầm rượu bị phá hủy. Vài vườn nho và xưởng chế rượu sống sót được
nhờ chuyển qua trồng nho để dùng tươi và chế biến thành nước nho. Có vài cơ sở thoát nạn nhờ làm
rượu vang phục vụ thánh lễ do luật ban hành những ngoại lệ. Còn lại, đa số thì bị đóng cửa. Cho đến
khi luật này bị thu hồi năm 1933, chỉ có 140 cơ sở làm rượu vang còn hoạt động.
Hãng rượu Robert Mondavi được xem như tiêu biểu cho lịch sử nghề rượu vang của các
phái bộ Tây Ban Nha. Phải mất một thời gian để kỹ nghệ này phục hồi. Cho đến thập niên 1960,
California chỉ được biết đến nhờ các loại vang ngọt làm từ nho Carignan và nho không hạt
Thompson. Tuy nhiên, một đợt nhà làm rượu mới xuất hiện đã giúp tạo ra giai đoạn phục hồi của
rượu vang California bằng cách tập trung vào các kỹ thuật làm rượu mới, chú trọng đến phẩm chất
rượu. Vài hãng mới thành lập trong giai đoạn này được nổi tiếng như Robert Mondavi, Heitz Wine
Cellars và David Bruce Winery. Một khi chất lượng được cải thiện, rượu vang California nhận được
sự chiếu cố của thế giới. Thời điểm đáng nhớ của kỹ nghệ rượu vang California xảy ra vào năm
1976, khi nhà buôn rượu nho người Anh, ông Steven Spurrier, mời các nhà sản xuất California tham
dự cuộc thi nếm rượu tại Paris. Mục đích là để so sánh các loại rượu vang ngon nhất của California
với vang Bordeaux và vang Burgundy. Trong cuộc thi mang tên ”The Judgement of Paris”, rượu
vang California đã gây ngạc nhiên cho thế giới khi thắng cuộc trong cả hai loại vang trắng và vang
đỏ. Xuyên qua thế giới của rượu vang, viễn ảnh về vang California bắt đầu thay đổi. Kỹ nghệ rượu
vang của California tiếp tục phát triển lớn mạnh, và trở thành một trong những khu vực hàng đầu của
thế giới.
Sơ Lược Địa lý của California
Dãi đất California và Cao độ.
California là vùng đất rất đa dạng về địa lý và có sự khác biệt đều đặn về khí hậu thích hợp
để trồng nho, trà, cà phê. Đa phần các khu làm rượu vang của California là ở khu giữa duyên hải
Thái Bình Dương và thung lũng miền trung. Thái Bình Dương và các vịnh lớn như San Francisco
điều hoà cho các khu trồng nho qua các ngọn gió lạnh, sương mù để cân bằng ánh nắng và độ nóng.
Nếu hạn hán là một tai họa cho việc trồng nho, thì các vùng đất California nhận đủ lương mưa với
mức hàng năm là từ 24 đến 45 inches tại San Francisco, và 13 đến 20 inches tại các vùng khác ở
Nam California. Mùa đông nhẹ nhàng ít mang sự đe doạ cho mất mùa vì sương mù, tuy nhiên muà
xuân thì cũng có ảnh hưởng đôi chút. Để chống lại sự đe doạ của sương mù, các chủ vườn nho
thường dùng các máy thổi, dàn tưới và các chậu mùn hỗn hợp để bảo vệ cây nho.
Trong khi khí hậu các vùng trồng nho California có thể ví với khí hậu vùng Địa Trung Hải,
thì cũng có những vùng mang tính chất khí hậu đại lục. Sự tương đồng với vùng Thái Bình Dương
hay vùng vịnh, cũng như sự tiếp xúc với các dòng nước lạnh đã giúp tạo hàn độ tại các khu trồng
nho. Các vùng bao quanh bởi núi non, như vài vùng ở hạt Sonoma và Napa sẽ ấm hơn vì không có
ảnh hưởng của các dòng lạnh này. Đất đai và cấu trúc của đất tại California có sự khác biệt lớn do
ảnh hưởng của địa chất vùng Bắc Mỹ và mảng nền của Thái Bình Dương. Tại nhiều vùng, thổ
nhưỡng khác nhau đến độ người ta có thể trồng một loại nho trên các loại đất khác nhau để nhận biết
các thành phần cấu hợp khác nhau trong trái nho. Đây là lý do mà California đã có nhiều vùng sản
xuất các loại nho khác nhau và có thể dễ dàng phân biệt.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 155
Các khu vực trồng nho tại California
Một cách tổng quát,
California có hơn 427 mẫu
(1730 km2) đất trồng nho,
trong đó đa số nằm trên
một dải đất kéo dài 700
dặm (1100 km) từ hạt
Mendocino cho đến vùng
mũi tây nam của hạt
Riverside. Có hơn 107
vùng trồng nho gọi là
American Viticultural
Areas (AVA), trong đó có
các vùng nổi tiếng như
Napa, Russian River
Valley, Rutherford và
Sonoma Valley AVA.
Thung lũng miền trung là
khu trồng nho lớn nhất của
California, trải dài từ thung
lũng Sacramento cho đến thung lũng San Joaquin. Vùng này sản xuất gần 75% sản lượng nho của
California và có các nhà sản xuất như Gallo, Franzia và Bronco.
Người ta thường chia ra 4 khu vực chính:
1. Duyên hải phía Bắc: Gồm các khu duyên hải Bắc, phiá bắc của vịnh San Francisco. Khu
Norh Coast AVA bao trùm hầu hết vùng này. Có các khu Thung lũng Napa và Sonoma và các khu
nhỏ khác trong đó. Khu Mendocino và khu hạt Lake cũng nằm trong khu vực này.
2. Duyên Hải Trung phần: Gồm các khu duyên hải miền trung California và khu nam và tây
vịnh San Francisco xuống tận hạt Santa Barbara. Central Coast AVA bao trùm khu vực này. Có các
khu như Santa Clara Valley AVA, Santa Cruz Mountains AVA, San Lucas AVA, Paso Robles
AVA, Santa Maria Valley AVA, Santa Ynez Valley và Livermore Valley AVA.
3. Duyên Hải Nam phần: Gồm một phần của Nam California, từ duyên hải nam Los
Angeles kéo dài đến biên giới với Mexico. Các AVA của vùng này là Temecula Valley AVA,
Antelope Valley/Leona Valley AVA, San Pasqual Valley AVA và Ramona Valley AVA.
4. Khu Thung Lũng Trung Phần (Central Valley) - Gồm California's Central Valley và
Sierra Foothills AVA và Lodi AVA.
Nho và Rượu Vang
Rượu vang xưa Cabernet từ nho Chateau Montelena ở thung lũng Napa.
Có hơn trăm loại nho khác nhau được trồng ở California, trong đó có nho Pháp, Ý, và Tây
Ban Nha. Cũng như loại nho pha giống và loại nho mới do Đại học California tạo ra. Có 7 loại nho
chính như sau:
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 156
Cabernet Sauvignon: Chữ Sauvignon có lẽ do từ chữ Pháp có nghĩa là hoang dại, để chỉ loại
nho dại phát xuất từ Pháp.
Chardonnay: Nho có vỏ màu xanh lá cây dùng làm vang trắng. Người ta cho rằng nó phát
xuất từ vùng Burgundy ở phiá Đông nuớc Pháp. Nho Chardonnay tự nó có tính trung hoà, với nhiều
hương vị có được do ảnh hưởng của thổ nhưỡng.
Merlot: Tên này bắt nguồn từ chữ Merlot của vùng Langue d‟oc (miền nam nước Pháp). Nó
có nghĩa là "con chim đen nhỏ”. Người ta dùng tên này có lẽ vì hình thù trái nho nhỏ nhắn có màu
đen hoặc là do con chim đen rất khoái trái nho này. Trái nho mềm mại mịn màng, cộng với sự chín
sớm làm cho Merlot trở thành loại nho thông dụng để hoà với loại nho Cabernet Sauvignon, là loại
chín trễ và có nhiều vị chát.
Pinot Noir: Tên loại nho này bắt nguồn từ hai chữ Pháp "pine" (cây thông) và “noir” (đen) là
loại nho chùm nhiều trái màu tím sẫm, có hình dạng trái thông. Nho này dùng chế biến loại vang
ngon nhất thế giới, nhưng rất khó trồng và chế biến.
Sauvignon Blanc: Cũng từ chữ Pháp “sauvage” (hoang dại) và blanc (trắng) do xuất xứ của
nó từ trái nho thổ sản miền Tây Nam nước Pháp. Rượu nho này được chế biến khi nho còn non, vì
có để cho nho chín thì cũng chẳng thay đổi gì hương vị.
Syrah: Syrah có vỏ màu sậm dùng chế rượu vang. Nho Syrah dùng chế nhiều loại vang hay
vang hỗn hợp. tuỳ theo phân lượng nhiều ít của nó trong rượu. Tên Syrah được dùng tại Pháp. quê
gốc của nó, cũng như các nước khác ở Âu Châu, Argentina, Chile, Uruguay, và Hoa Kỳ. Tên Shiraz
phổ thông hơn tại Australia, nơi nó được trồng và cho nhiều chủng loại trái màu đậm.
Zinfandel: Zinfandel là các chủng loại nho màu đỏ chiếm 10% số lượng nho trồng tại
California. Nó đưọc dùng để chế ra loại rượu vang đỏ rất mạnh.
Các loại nho làm rượu vang đỏ quan trọng khác phải kể đến Barbera, Cabernet franc,
Carignane, Grenache, Malbec, Mouvedre, Petite Sirah, Petit Verdot và Sangiovese. Nho làm vang
trắng thì có Chenin blanc, French Colombard, Gewürztraminer, Marsanne, Muscat Canelli, Pinot
blanc, Pinot gris, Riesling, Roussane, Sémillon, Trousseau gris, và Viognier.
Cho đến cuối thập niên 1980s, kỹ nghệ làm rượu vang tại Californian chủ yếu làm các loại
rượu Bordeaux và Chardonnay. Mãi lực giảm sút khi các khách hàng cảm thấy chán ngấy với các
loại rượu quen thuộc. Các nhà sản xuất như Rhône Rangers và một đợt mới các nhà sản xuất Ý hợp
tác lập ra "Cal-Ital" tái chiếm lĩnh kỹ nghệ làm rưọu vang với các sản phẩm mới như Syrah,
Viognier, Sangiovese và Pinot grigio. Hãng Bonny Doon Vineyard có cơ sở gốc ở Santa Cruz là
hãng đầu tiên giới thiệu ra thị trường các chủng loại rượu vang mới này. Người ta cũng phối giống
nhiều loại nho làm rượu vang mới. California sản xuất các loại vang nổi tiếng dùng trong các bữa
tiệc, làm các thức uống có pha rượu, rượu vang pha bọt khí.
New World wine styles
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 157
Rượu vang trắng và rượu vang đỏ
Trong khi các nhà làm rượu vang tại California không ngừng tạo ra các loại vang kiểu “Cựu
Thế Giới” hay loại vang Âu Châu, thì hầu hết rượu vang California (cùng với Úc, Tân Tây Lan, Chí
Lợi, và Á Căn Đình) lại thích mẫu rượu vang Tân Thế Giới hương vị đơn sơ, pha chế với cây trái thổ
sản. Do thời tiết ấm áp và ổn định, các nhà làm rượu vang đã dụng những thứ trái chín mà làm cho
thêm hương vị trái cây thay vì hương vị nguyên sơ của rượu vang cũ. Cũng là dịp để thêm nồng độ
rượu; có loại rượu vang có nồng độ đến 13.5%. Loại Chardonnay của California khác hẳn với những
loại rượu vang như khi so sánh Chablis với loại vang mà các nhà làm rượu California thường dùng
phương thức gọi là “malolactic fermentation” và “oak aging”. Rượu vang Sauvignon của California
khác với rượu vang từ Loire Valley hay New Zealand, tuy ít căn bản thảo mộc nhưng cũng có đủ dịu
ngọt. Vài loại rượu vang trắng Sauvignon được trữ trong thùng sồi lâu hơn cũng làm thay đổi nhiều
về chất lượng. Ông Robert Mondavi là người đã đi tiên phong trong loại vang này, tỉ như loại rượu
vang trắng Fume blanc mà các nhà làm rượu California đã thừa nhận. Tuy nhiên, không thể gọi loại
này là rượu vang sồi được.
Loại rượu vang Cabernet Sauvignon của California – mà nhờ nó, California đã được có mặt
trong cuộc thi “Judgment of Paris” – cho đến nay vẫn còn giữ thương hiệu. Các loại rượu vang được
nổi tiếng do sự phối hợp các loại trái mà đã sản xuất ra hương vị đậm đà và càng để lâu càng ngon.
Loại nho Merlot dược trồng rộng khắp từ thập niên 1990s do người ta ưa chuộng, và hiện vẫn là loại
rượu vang bán chạy nhất trong nước. Nhiều nơi không thích hợp để trồng nho thì đã bắt đầu sản xuất
các loại rượu vang nồng, thiếu đặc sắc kiểu Cabernet. Nho Merlot khi được trồng trên đất tốt sẽ cho
loại rượu cao cấp, vương giả. Loại rượu vang Pinot noir của California có hương vị trái cây hơn loại
rượu vang quý tộc Burgundy hay Oregon mà vì các vùng này quá ấm nên khó cung cấp nhiều loại
vang khác. Vang này thích hợp với các vùng mát lạnh với ảnh hưởng miền biển. Sau khi bị rượu
vang Cabernet qua mặt vào năm 1998, loại nho làm rượu vang đỏ Zinfandel lại được trồng rộng
khắp ở California. Một phần cũng là do sự nổi tiếng của loại rượu vang trắng Zinfandel. Tuy cùng
làm ra từ một loại nho, hai loại rượu vang trắng và đỏ này chỉ giống nhau ở tên gọi Zinfandel. Rượu
vang đỏ Zinfandel mạnh hơn, có nhiều hương vị trái hơn và nồng độ a-xít cao hơn trong khi rượu
vang trắng Zinfandel thì loảng hơn, hơi ngọt. Dù loại nho Zinfandel có gốc gác từ Âu châu, người ta
vẫn coi đó là đặc thù Mỹ.
Rượu vang Sparkling và rượu vang dùng cho dessert. (có lẽ là rượu khai vị, rất khó dịch,
cần phải giải thích: loại sparkling dùng phương pháp tiêm CO-2, cất theo lối tự nhiên; còn Dessert
wine là loại champagne uống khi ăn với bánh trái.)
Loại rượu vang Sparkling do ông Domaine Carneros sản xuất. Nó có gốc gác từ Sonoma vào
thập niên 1880s với sự ra đời của rượu champagne Korbel. Anh em nhà Korbel làm ra loại rượu
vang theo cách làm champagne (champenoise) từ các loại nho Riesling, Chasselas, Muscatel và
Traminer. Hiện nay, đa số rượu vang sparkling của California đều dùng loại nho làm champagne như
Chardonnay, Pinot đen và vài loại Pinot meunier. Cũng có nhà sản xuất rượu vang dùng nho Pinot
trắng, Chenin trắng và Colombard của Pháp. Những rượu vang cao cấp thì dùng phương pháp cổ
truyền champenoise, trong khi nhà sản xuất rượu vang rẻ tiền như Gallo's Andre hay Constellation
Brands' Cook's thì xử dụng phương pháp Charmat.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 158
Phẩm chất của loại rượu vang sparkling đã khiến cho các nhà làm Champagne mở ra các cơ
sở làm rượu tại California. Phải kể đến Moët và Chandon's Domaine Chandon, Taittinger's Domaine
Carneros và Louis Roederer's Roederer Estate. Dù cùng làm ra từ một loại nho, cùng một kỹ thuật
sản xuất, rượu vang sparkling của California không bị xem là bắt chước Champagne mà còn được
xem trội hơn. Trong khi phẩm chất các loại rượu Champagnes được phân biệt qua độ "biscuity"
(thơm ngon), “yeastly” (sự sủi tăm), thì rượu vang Sparkling của California tuy có vị trái nhưng lại
không quá nồng về ”fruity". Dư vị của nó dịu dàng và thơm ngon. Nhờ điều kiện khí hậu tốt, các nhà
làm rượu vang sparkling đã có thể sản xuất mọi năm trong khi Champagne thì chỉ có thể sản xuất
trong những năm nhất định nào đó thôi.
Sự Cấm đoán
Kỹ nghệ rượu vang California đã tạo được uy tín qua việc sản xuất các loại vang phẩm chất
thường. Kể từ khi kỹ nghệ này phục hưng vào thập niên 1960, phẩm chất rượu vang được cải thiện
nhiều. Ông Beringer là một trong những người đầu tiên chế ra rượu vang gọi là Botrytized (có vị
ngọt, do dùng loại nho đã bị nhiễm một loại vi khuẩn tên là botrytis cinerea) từ rượu vang trắng
Sauvignon và Sémillon. Tuy khác với Sauternes, rượu vang của Beringer làm từ nho thu hái thông
thường rồi cấy vi khuẩn Botrytis cinerea do các phòng thí nghiệm cung cấp. Từ đó, các nhà làm
rượu vang California như Anderson Valley AVA khám phá ra rằng quá trình này có thể xảy ra một
cách tự nhiên trên các trái nho. Cơ sở Anderson và Alexander Valley AVA đã tạo ra được uy tín nhờ
vào loại rượu vang Late Harvest làm từ nho Riesling. Các rượu vang loại Muskat của Pháp và Ý
cũng được sản xuất tại California và được tiếng là cân bằng về độ a xít và a-rôm. Loại rượu vang Bồ
Đào Nha (Port-style wines) ở California cũng làm từ nho có nguồn gốc Bồ Đào Nha như Touriga
Nacional, Tinta Cão và Tinta Roriz. Vài loại rượu vang ở Cali cũng làm từ nho Zinfandel và Petite
Sirah.
II. Cơ sở Rượu Vang San Antonio
Truyền thống rượu vang California khởi đầu từ các linh mục dòng Franciscan thời đầu cuộc
truyền giáo của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, người được xem là khởi đầu cho nghề làm rượu vang tại
California là một người Pháp tên là Jean-Louis Vignes. Năm 1833, ông ta từ Bordeaux đã mang vào
Los Angeles những chai rượu vang. Tại nơi mà ngày nay là phố chính của Los Angeles, ông đã trồng
nho và dựng lên cơ sở làm rượu vang. Cho đến đầu thế kỷ 20, Los Angeles đã được xem là cái nôi
của nghề trồng nho và làm rượu vang của California.
Năm 1917, Santo Cambianica rời quê nhà ở một tỉnh Lombardy, phiá bắc của Ý Đại Lợi đến
định cư tại LA trong một khu của cộng đồng Mỹ gốc Ý. Nơi đây, trên đường Lamar, ông dựng lên
cơ sở rượu vang San Antonio. Ông dâng hiến cơ sở lên thánh bổn mạng Saint Anthony, hy vọng sẽ
làm ăn phát đạt.
Năm 1920, luật cấm đoán làm đảo lộn kỹ nghệ rượu vang. Đa số các nhà làm rượu vang tại
Los Ageles đóng cửa vĩnh viễn, nhưng Santo xin được giấy phép từ giáo hội Thiên Chúa để làm
rượu vang cho các thánh lễ nên tồn tại được. Qua 65 năm sau luật cấm đoán này, rượu vang vẫn
được tiếp tục sản xuất để dâng lễ.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 159
Ngày nay, con sông LA đã được lót đường, và các vuờn nho đã bị thay thế bởi các công
xưởng. Nhưng cơ sở San Antonio Winery vẫn còn tồn tại trên đường Lamar Street như một cơ sở
độc nhất tại L.A.; giữ được truyền thống nghề làm rượu vang. Thành phố L.A. đã công nhận cơ sở
này như một di tích lịch sử, văn hoá của thành phố.
Kể từ ngày thành lập cho đến nay, đã qua 4 thế hệ tiếp nhau gìn giữ truyền thống nghề làm
rượu vang. Năm 1938, cháu của Santo là ông Stefano Riboli tái thiết và mở rộng công ty của chú
mình với tinh thần sáng tạo và đề cao phẩm chất mà đuợc xem là một bước tiến mới của doanh
nghiệp có tính gia đình nay. Ngày nay, sự cống hiến của gia đình Santo là bằng chứng về mọi mặt
của cơ sở San Antonio Winery. Stefano và các con trai Santo và Steven, con gái Catherine, và cháu
Anthony đã làm vinh dự cho gia đình qua việc được ân thưởng giải Riboli Family of Wines.
Trang trại của Riboli Family có 500 mẫu ở Monterey và 16 mẫu ở Rutherford, Napa Valley.
Chúng tôi hợp đồng dài hạn với các nhà trồng nho khác như Maddalena, Santa Maria Valley ở Santa
Barbara, Paso Robles ở San Luis Obispo, và Alexander Valley ở Sonoma.
Cơ sở San Antonio Winery sản xuất rượu vang tại các cơ sở ở Los Angeles và Paso Robles.
Cơ sở tại Los Angeles để làm men vang trắng trong các bồn chứa không gỉ và các thùng bằng gỗ sồi.
Vang đỏ làm tại cơ sở ở Paso Robles. Cơ xưởng vô chai và trung tâm phân phối nằm ở Los Angeles.
Tên gọi San Antonio là để vinh danh Thánh Anthony, vị thánh bổn mạng của thành phố
Santo Cambianica, quê hương của người sáng lập cơ sở. Tên gọi này cũng gợi lên mối quan hệ mật
thiết có tính cách tôn giáo của cộng đồng di dân Âu Châu tại LA trong những năm đầu thập niên
1990.
Hiện chúng tôi đang sản xuất nhiều thương hiệu rượu vang. Mỗi thương hiệu tiêu biểu cho
một loại rượu vang khác nhau. Ví dụ, thương hiệu San Antonio tiêu biểu cho loại vang cho bàn tiệc
và vang dessert. Thương hiệu Maddalena Vineyard tiêu biểu cho loại vang phẩm chất cao, và nhiều
loại vang từ miền duyên hải trung phần California. Như vang Monterey chẳng hạn. Thương hiệu
San Simeon đại diện cho các loại vang của Maddalena Vineyard.
Phần phỏng vấn – Steve Riboli
Lindsey: Hãy đến với tôi, chúng ta cùng khám phá lịch sử, sự thành công và nghệ thuật làm
rượu vang. Từ năm 1917, Cơ sở San Antonio Winery đã đưa thêm hương vị vào cho những buổi lễ
tiệc trong gia đình, bạn bè xuyên suốt tiểu bang California và cả miền tây Hoa Kỳ.
Ngày nay, cơ sở này là cơ sở còn lại của hàng trăm cơ sở từng được lập ra dọc theo bờ sông
Los Angeles. Đó hiện là một nhà hàng nổi tiếng và là nơi tổ chức những tiếp tân, phòng nếm rượu,
và một của hãng rượu vang quốc tế với hàng trăm nhãn hiệu vừa nội địa vưà nhập cảng. Cơ sở này
đúng là một trọng điểm tại trung tâm thành phố.
Giới thiệu - Steve
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 160
Steve: Chúng tôi sản xuất rượu vang từ những vườn nho sở hữu của chúng tôi. Chúng tôi sở
hữu các vườn nho và nho thu hoạch. Cho nên từ trái nho, đến thu hoạch cho đến khi vào chai, tất cả
đếu phối hợp nhịp nhàng cân đối.
Steve: Anh tôi, Santo, lo việc xuất cảng. Còn tôi thì lo việc mua bán trong nước. Tại
California và 15 tiểu bang khác. Chúng tôi cùng làm với nhau để điều hành cơ sở trung ương. Đây là
nơi du khác thích đến và cũng là điểm lịch sử của thành phố. Chúng tôi vẫn ở ngay tại nơi này hơn
90 năm; mà theo cách tính của thời gian Nam California, thì 90 năm là vĩnh viễn.
Steve: Kỹ nghệ rượu vang mang tính cạnh tranh cao, vì thế phải tạo ra rượu vang cao về
phẩm chất. Không phải cứ làm rượu vang uống được hay loại vang B +, mà phải làm rượu vang loại
A, mà muốn thế, phải kiểm soát kỹ các trái nho và khi thu hái.
Người Việt Nam thì chuộng rượu vang đỏ Carvinale – San Antonio. Chúng tôi bán nhiều các
loại này cho người di dân Việt. Chúng tôi cũng bán cho các cộng đồng dân Trung Mỹ, là những
người mới bắt đầu uống rượu vang. Thật là hữu ích khi biết ai là người bắt đầu mê uống rượu vang.
Họ bắt đầu bằng các rượu vang ngọt vừa, rồi đến các rượu vang sắc hơn. Họ biết uống vang nào khi
ăn món ăn nào.
Lindsey: Người ta tổ chức tiệc tùng trong các dịp đặc biệt tại các cơ sở làm rượu vang, giữa
các thùng rượu vang; coi như truyền thống của Los Angeles từ sau năm 1975.
Cội nguồn của truyền thống này là từ tính hiếu khách lâu đời của người Âu. Maddalena
Riboli trước hết muốn mang nét duyên dáng Âu châu trong các bữa ăn gia đình đến Los Angeles
trong khi bà thăm viếng vùng quê Ý Đại Lợi. Bà sinh trưởng tại tỉnh Asti ở Bắc Ý, nổi tiếng về cách
nấu ăn tuy đơn giản những đầy hương vị. Bà là nhân vật đầy sáng tạo trong hậu cảnh nhà hàng
Maddalena Restaurant.
Tại nhà hàng này, quý vị sẽ khám phá những tinh hoa của quê bà: món pasta vừa chín, các
món nướng lò khai vị, gà quay, xà lách, bánh mì sandwich và các món tráng miệng.
Steve: Có nhiều món ăn Việt Nam rất ngon. Nếu bạn đến với tôi và nói với tôi: Đây là các
món ăn, và đây là các món chưa nêm gia vị. Tôi có thể giới thiệu ngay với bạn ba hoặc bốn thứ và
thứ nào sẽ nêm nấu cho món gì.
Giới thiệu: Theo nguồn tin của Wine Institute ở San Francisco, mức xuất cảng rượu vang của
Mỹ mà 90% là từ California, đã vượt quá mốc một tỷ đô la lần đầu tiên với thương vụ là $1,008,259,
000 từ việc xuất cảng rượu vang năm 2008, tăng 6% so với năm trước. Số hàng chuyển vận năm
2008 là 130 triệu gallons hay 55 triệu thùng, tăng 8% so với năm trước. Gần một nửa số rượu vang
xuất cảng là đến các nước Liên Hiệp Âu Châu, kim ngạch đến 486 triệu dollars. Xét về khối lượng,
là tăng 9% so với năm 2007, xét về kim ngạch thì tăng 2% bởi vì các nhà sản xuất chuyển rượu trong
các thùng lớn đến Âu châu để vào chai cho đỡ chi phí. Rượu thành phẩm đã vô chai sẽ từ đó, được
gửi đến khách hàng các nước lân bang. Các khách hàng quan trọng khác là Canada, 260 triệu dollars;
Nhật bản, 61 triệu dollars; Hong Kong, 26 triệu; và Mexico, 23 triệu.
III. Ảnh hưởng đối với sức khoẻ
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 161
Mặc dù uống nhiều rượu có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, các nhà nghiên cứu đã thấy rằng
việc uống rượu một cách điều độ sẽ làm giảm nguy cơ tử vong vì các bệnh về tim mạch.
Tại Hoa Kỳ, việc tiêu thụ rượu vang phất lên vào đầu thập niên 1990 do sự khởi động của
chương trình “60 Minutes” trên truyền hình, cũng như các bản tin trên French Paradox. Nói đến
French Paradox là nói về mức sút giảm khả năng nhiễm các bệnh tim mạch cho dù có độ cao về chất
mỡ trong cách ăn uống của người Pháp. Đó là do người Pháp uống rượu vang. Nhưng các bằng
chứng về lý thuyết này vẫn còn giới hạn. Những người uống rượu vang trung bình thường năng tập
thể dục, quan tâm đến sức khoẻ của họ, có trình độ học vấn cao, ở vào giai tầng tương đối cao trong
xã hội. Vì thế, phải nói là có nhiều yếu tố liên quan với nhau.
Các nghiên cứu cho rằng việc uống có chừng mực các loại rượu khác có thể tốt cho tim
mạch, dù rằng các rượu này có độ mạnh cao hơn rượu vang. Có nghiên cứu thì cho rằng vang đỏ tốt
cho sức khoẻ hơn vang trắng. Cũng có nghiên cứu khác thì cho rằng chẳng có gì khác nhau. Vang
đỏ chứa nhiều chất polyphenols hơn vang trắng, mà chất này thì có tính chất bảo vệ tim mạch.
Người ta còn nghiên cứu các tác động của rượu vang trên não bộ. Trong một nghiên cứu đã
cho rằng việc uống rượu vang làm bằng nho Cabernet Sauvignon làm giảm nguy cơ mắc bệnh
Alzheimer. Một nghiên cứu khác cũng kết luận đối với những người uống rượu, thì rượu vang tác
hại đến vùng não hippocampus cao hơn so với các loại rượu khác.
Tham khảo từ bài “California Winery” cho Đài Truyền Hình Saigon TV – Viet Art Center
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 162
CONFUCIANISM AS AN ETHICAL PHILOSOPHY
(Khổng Giáo, Một Triết Lý về Cách Xử Thế)
Khổng giáo, một cái tên rất thông thường để gọi của Nho giáo, là một triết lý đã đóng vai trò
chỉ đạo trong đời sống chính trị xã hội của Trung Hoa trong hơn 25 thế kỷ qua. Nó đã chiếm một chỗ
đứng rất quan trnọg, và được xem như là một tọn giáo ở Trung Hoa cũng như tại nhiều nước Á Châu
khác. Nếu hỏi người dân Trung Hoa theo đạo gì, 80 phần trăm sẽ trả lời họ theo Không Giáo. Nhưng
thực ra, Khổng giáo là một hệ thống những giáo điều chính trị và xử thế, vì đối tượng của Khổng
giáo là “người” và mối quan hệ giữa những “người” trong xã hội. Lester Mondale, trong cuốn sách
“The Enduring Humanism of Confucianism,” đã viết: “Đối với Khổng Tử, trước hết là “nhân loại”,
và mối quan tâm đầu tiên của ông đối với nhân loại là cuộc sống.” (p. 34)
Triết lý Nho học xuất hiện tại Trung Hoa rất lâu trước thới đại của Không Tử. Nó đã kết tạo
nên một truyền thống văn hoá trong quá khứ, mà Khổng tử đã thú nhận rằng ông chỉ kể lại chứ
không sáng tác gì mới “Ngã thuật nhi bất tác”
Chữ “NHO”, trong hán tự là sự kết hợp của hai chữ „Nhân” và „Nhu‟ (người và sự cần thiết).
Nho có nghĩa là một người mà xã hội cần đến. Một nhà Nho trước hết là một người có trí, có đức độ,
và tài ba để nắm giữ vai trò then chốt trong việc cai trị đất nước và duy trì đạo đức cũng như trật tự
xã hội.
Khổng Tử, người được dân chúng Trung Hoa tôn vinh và gọi là “Vạn thế sư biểu” (bậc thầy
của muôn đời), là người đầu tiên đã hệ thống hoá những tư tưởng tản mạn của Nho học và thiết lập
nên một trường phái triết học tại Trung Hoa. Sự nghiệp của ông đặt trọng tâm vào việc ba phạm trù
chính: phục vụ trong chính quyền, giáo dục dân chúng, và truyền bá văn hoá cổ truyền cho hậu thế.
Ông có nhiều tham vọng chính trị nên đã đi chu du các nước để tìm một cơ hội áp dụng lý thuyết
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 163
chính trị của mình. Vào thời ông, nước Trung Hoa đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn nghiêm trọng:
Hoàng đế nhà Chu mất quyền kiểm sóat các chư hầu, các giá trị xã hội và trật tự bị đảo lộn, và chiến
tranh thì đang chờ lúc để bùng nổ. Không một vị vua chư hầu nào chịu áp dụng các cải cách xã hội
chính trị do ông chủ xướng.
Vô cùng thất vọng, Khổng Tử trở về quê nhà và hiến mình cho sự nghiệp giảng dạy và hiệu
đính lại các tài liệu xưa.
Triết lý Nho học được bao gồm trong bộ “Tứ Thư” và “Ngũ Kinh”.
Bộ Tứ thư gồm có: Luận Ngữ (Lun Yu), Đại Học (Ta Shueh), Trung Dung (Chung Yung), và
Mạnh Tử (Meng Tsu). Bộ Ngũ Kinh gồm có: Dịch Kinh (I Ching), Thư Kinh (Tzu Ching), Thi Kinh
(Shi Ching), Lễ Kinh (Li Ching), và Xuân Thu (Chun Ch‟iu).
Từ trong hai bộ sách trên, chúng ta sẽ tìm thấy những đề tài chính như sau: các nguyên tắc
đạo đức, các mối quan hệ xã hội, và nghệt thuật cai trị.
Khổng Tử ít nói về Thương Đế, thần linh và thế giới bên ngoài cuộc sống, vốn là mối ưu tư
quan trọng hàng đầu của các tôn giáo. Ông tij vào số mệnh. Theo ông “Thiên Mệnh” quyết định sự
thành bại của con người. Danh từ Thiên mệnh có thể được dịch là mệnh trời hay một là quyền lực
siêu nhiên điều khiển tất cả mọi sự luân chuyển của vũ trụ.
Trong tác phẩm “Confucianism”, hai ông Chiu Chai và Windberg Chai nhận định rằng: “Rõ
rang Khổng Tử quan tâm đến sự quan trọng vĩ đại của nhân loại, nhấn mạnh đến đời sống con người
trong thế gian chứ không phải về cuộc sống vĩnh hằng bên kia thế giới. Điều này giải thích tại sao
không hể coi Khổng Tử là một nhà tiên tri về tôn giáo, như nhiều người vẫn thường gọi; và tại sao
giáo điều của ông còn tồn tại đến ngày nay như một triết lý về xử thế, khác hnẳ với ác tôn giáo nhu
Phật giáo, Thiên Chuá giáo hay Hồi giáo.” (p. 33)
Giáo dục đạo đức là phần quan trọng nhất trong Khổng Giáo. Khổng tử chia nhân thế ra làm
ba hạng người: Thánh Nhân, Quân Tử và Tiểu Nhân. Thánh Nhân là những người vô cùng đạo hạnh
từ bẩm sinh, rất hiếm hoi trong nhân thế. Đại đa sốn là hạng tiểu nhân, nhưng trong đó có một phần
có thể trở thành Quân Tử nhờ sự học hành, cải thiện và tư chế bản thân.
Khổng Tử nói nhiều đến hạng Quân Tử hơn hai thành phần kia. Đâ chính là mẫu mực nhà
Nho như đã nió trong phần giới thiêu đầu bài. Theo ông, nhà Nho được ví như một cơn gió, mà quần
chúnh là những ngọn cỏ. Cỏ sẽ ngã theo chiều thổi của ngọn gió. Một nhà Nho phải có một ý chí
mãnh liệt để gieo mầm đạo lý trong thế gian. Muốn làm được thế, nhà Nho phải tuần tự thực hiện
các bước sau: Cách Vật, Trí Tri, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ. Trong diễn trình nêu
trên, Tu Thân là bước quan trọng nhất.
Một nhà Nho tu than bằng cách học hỏi và hoàn thiện 5 đạo hạnh:
Nhân (Jen). Nhà Nho phải độ lượng và thương người, thương yêu và tôn kính cha mẹ và các bậc trưởng thượng, yêu thương đồng bào. Đó là nền tảng của xã hội. Nhân là nguyên tắc cao
cả nhất trong các mối quan hệ giữa con người với nhau.
Nghĩa (Yi). Một nhà Nho phải là một người công chính. “Nếu Nhân là con tim, thì Nghĩa là cách sống.” (Mạnh Tử). Nghĩa là một điều kiện đạo đức tuyệt đối và không điều kiện. Nhà
Nho phải thực hành điều tốt đẹp cho mọi người mà không nghĩ đến tư lợi; nếu kông thì ông ta chỉ là
một người thấp kém vì hành vi của ông ta không còn là công chính nữa.
Lễ (Li). Là các lễ nghi mà nhà Nho phải tôn trọng. Khổng Tử coi Lễ nghi là phương
tiện để tạo dựng nên những phong cách và thái độ đối với người khác cũng như đối với những thần
linh. (Chai, 42)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 164
Trí (Chih). Theo Khổng Tử, nhà Nho là người khôn ngoan, hiểu biết điều đúng, điều sai. Đối với bản than phải biết nhận sai lầm, đối với tha nhân phải biết tôn trọng ý kiến khác biệt.
Nhà Nho phải cứng rắn nhưng không để tranh chấp xảy ra. Sẵn sang phục vụ nhưng không bị mua
chuộc; có cái nhìn rộng rãi với mọi việc mà không về huà vì phe nhóm.
Tín (Hsin). Nhà Nho phải thành tâm, làm cho mọi người tin mình qua ý nguyện chân
thành của mình. Tín được xem là mtộ vũ khí tâm lý để thu phục nhân tâm.
Ngoài ra, nhà Nho phải giữ “Tam Cương” là ba giềng mối để duy trì trật tự xã hội. Tam
Cương là làm vua phải cư xử cho ra vì vua, làm tôi phải cư xử theo cách bề tôi; làm cha, làm con,
chồng vợ, phải cư xử đúng vai vế của mình.” (Sách Luận Ngữ). Ba giềng mối này được gọi là thuyết
“Chính Danh” tức là xác định cho đúng danh xưng, địa vị của từng người trong xã hội. Ông ta sẽ có
những trách nhiệm và nhiệm vụ và cư xử cho thật xứng đáng. phải These Three Bonds are known as
the Doctrine of Cheng Ming. Cheng means rectification; Ming means name. Cheng Ming is
rectification of names. A person is given a title or a name according to his position in the society. He
has certain responsibilities and duties so he must behave properly in accordance with what the name
of his position implies.
Hai chữ Chính Trị trong hán tự có ý nghĩa rất khác với chữ chính trị của Tây Phương. Chính
trị theo nghĩa Đông phương là làm cho đúng, cho ngay thẳng. Một quân vương phải cai trị nhân dân
với long thương yêu và chân thành để tránh phải dung đến quyền lực bằng mọi giá. Vị vua phải biết
cách điều hành trị quốc làm sao cho kọi người vui hưởng nền công lý.
Theo Khổng Tử, các quan và dân chúng phải tuyệt đối trung thành với quân vương, bất kể đó
vị minh quân hay hôn quân., bởi vì quyền lực của vua là do mệnh trời ban cho. Mạnh Tử - một hiền
triết kế tục sự nghiệp của Khổng Tử trong sự nghiệp truyền bá Nho Học – đã không đồng quan điểm
trên. Mạnh Tử cổ vũ cho việc nổi loạn chính đáng để hạ bệ những hôn quân. Theo ông, khi môt triều
đại đi đến hồi suy yếu do hôn quân và bị lật đổ, thì coi như không còn giữ được mệnh trời nữa. Đây
là một quan điểm rất tiến bộ trong thời đại của Ông.
Nghệ thuật cai trị cũng được Khổng Tử viết trong các sách, mà không khác mấy với các giáo
điều và nguyên tắc về đạo đức vừa nói trên.
Kể từ khi nước Trung Hoa thống nhất và thiết lập nến quân chủ đầy uy quyền, Khổng giáo
trở thành một hệ thống triết lý chủ đạo và một vũ khí đầy hiệu năng để củng cố quân quyền cũng
như duy trì trật tự xã hội. Nó cũng từng trải qua những phát triển, chấn chỉnh, và được tái định trong
thế kỷ thứ 10. Từ đó, Khổng giáo được dạy chính thức trong các trường học toàn nước Trung Hoa.
Sauk hi Mao Trạch Đông cướp chính quyền năm 1949, đảng Cộng Sản Trung Hoa đã phát động
chiến dịch Đại Cách Mạng Văn Hoá để tiêu diệt Nho giáo và thay thế bằng lý thuyết Cộng Sản.
Nhưng trong hơn50 năm qua, đã chứng minh rằng chủ nghĩa Cộng sản không có khả năng thay thế
Nho giáo bởi Nho Giáo đã thấm nhuần vào trong mọi lãnh vực đời sống của người dân Trung Hoa.
Ngày nay, Khổng giáo trở nên quen thuộc với thế giới tây phương. Ngoại trừ những điều
được coi là có tính chất phong kiến và lỗi thời, triết lý Nho giáo – sau khi được nhuận chính do sự
thay đổi của hoàn cảnh – vẫn còn đáng trân trọng và bền vững. Khổng giáo vẫn cón là kim chỉ nam
cho những ai muốn đem tài sức mình phụng sự những mục tiêu cao quý cho xã hội, đem lại an bình
cho nhân loại, cổ vũ lòng trung tín giữa bạn bè, và tình cảm yêu thương trân trọng của những người
trẻ dành cho các bậc trưởng thượng.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 165
Confucianism
as an Ethical Philosophy
Confucianism is another common name of the Ju philosophy that has been dominant in
Chinese social and political life for more than 25 centuries. It has occupied an important place,
which is considerable to that of a religion in China as well as many other Asian countries. Eighty
percent of the Chinese people, therefore, say that their religion is Confucianism when asked.
Confucianism is indeed a system of ethical and political teachings, for its concerns are “man” and
the relationship between men in a society. Lester Mondale, in his book “The Enduring Humanism of
Confucianism,” says: “First for him [Confucius] was humankind, and first among his concerns for
humankind was this life.” (p. 34)
The Ju philosophy existed in China long before Confucius‟ time. It formed a cultural legacy
of the past; and Confucius was, as he himself said, “a transmitter, not a creator.”
The word Ju, in Chinese writing is composed of two characters: Man and Necessity. It means
a man who is necessary for a society. A Ju must be first a scholar, a virtuous and talented person
who holds the key role in the governing of a country and in the maintaining of the morals and order
of the society.
Confucius, whom the Chinese people glorified and named the Great Master of all generations,
was the first man to systematize all the scattered thoughts of the Ju and also the first man who
formed a school of philosophy in China. His career was centered on three major fields: to serve the
government, to teach people, and to transmit the ancient culture to posterity. He was so ambitious in
politics that he wandered from state to state to seek an opportunity to carry out his political ideals. At
that time, China was in great chaos: the Chu emperor lost control of his vassal states, all the social
values and order were broken down, and the war was about to break out. None of the vassal kings
adopted Confucius‟ political reform.
Being disappointed, Confucius went back to his native land and devoted himself to the
teaching of the youth and the editing of ancient documents.
The Ju philosophy was edited in the Four Book and the Five Classics
The Four Books are: Analects (Lun Yu), Great Learning (Ta Shueh), Doctrine of the Mean
(Chung Yung), and The Book of Mencius (Meng Tsu). The Five Classics are: Book of Change (I
Ching), Philosophers‟ writings (Tzu Ching), Poems (Shi Ching), Book of Ritual and Etiquette (Li
Ching), and The Spring and Autumn Annual (Chun Ch‟iu).
From these books, we can find out some major subjects: moral principles, social relations, and
the art of governing.
Confucius was rarely concerned about God, spirits and other world which are very important
concerns of all religions. He believed in Fate. To him, Fate determines whether a man‟s effort
successes or fails. The word Fate may be translated either as the Mandates of Heaven or as the
supernatural power that regulates all the movements of the universe.
In their book Confucianism, Chiu Chai and Windberg Chai stated: “It is clear that Confucius
attached the great importance to humanity, stressing man‟s life in the world, not his eternal life in the
other world. This explains why Confucius was not as sometimes supposed, a religious prophet; and
why his teachings, unlike Christianity, Buddhism, and Mohammedanism, remain to this day a
philosophy and a system of ethic.” (p. 33)
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 166
Moral education is the most important object of Confucianism. Confucius distinguished man
in three strata: sages and saints, virtuous and talented men, and common people. Sages and saints,
who extraordinary virtues are inborn, are rarely found among humankind. The great majority of
people are common people, of which a few people can become virtuous and talented men through
cultivating, perfecting, and controlling themselves.
Confucius was concerned about virtue and talented men more than other strata. The virtuous
man is really the Ju which is referred to in the introductory paragraph. To Confucius, a virtuous and
talented man is described as the wind; the common people as the grass; and the grass bends to the
direction of the wind. A Ju must have a strong will to manifest illustrious virtues throughout the
world. If he wishes to do so, he has to achieve one by one the following steps: investigating things,
extending his knowledge, cultivating his own personality, regulating well his family, and governing
his state. Of these steps, the third one is the most important.
A Ju cultivates himself by studying and improving five constant virtues:
Human heartedness (Jen). A Ju must be generous and benevolent. He loves and respects his parents and elders, loves all his fellow people. In particular, the filial piety and fraternal
love are the corner stone of the social structure. Human heartedness is supreme moral principle in
human relations.
Righteousness (Yi). A Ju must be righteous. “Jen represents the human heart; Yi
represents the human way.” (Mencius). Yi is a moral obligation which is unconditional and absolute. Ju must do good things for people without thinking of profits; otherwise he is only an inferior man
because his action is no longer righteous.
Propriety (Li). Ju must pay attention to ceremonies and rites decorum. Confucius
considered Li as the means of establishing and adorning the right kind of conduct and attitude
toward other men as well as toward spiritual beings.” (Chai, 42)
Wisdom (Chih). According to Confucius, a Ju must be wise and understand what is right, what is wrong. He loves his soul, always remembers how he was punished for his mistakes; be
liberal toward others‟ opinion without completely agreeing with them; be firm but not fight; blame
himself; be easy to serve but difficult to please; be broad-minded toward all and not a partisan.
Sincerity (Hsin). A Ju is faithful, makes his will sincere so that every body can trust him. Hsin is a psychological weapon to win the heart of the people.
Besides, the Ju must keep the Three Bonds which were considered the tools essential for
autocracy to maintain social order. “Let the ruler be ruler, and the minister minister; let the father be
father, and the son son; let the husband be husband, and the wife wife.” (Lun Yu) These Three
Bonds are known as the Doctrine of Cheng Ming. Cheng means rectification; Ming means name.
Cheng Ming is rectification of names. A person is given a title or a name according to his position in
the society. He has certain responsibilities and duties so he must behave properly in accordance with
what the name of his position implies.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 167
The word
“Politics” in China has
different meaning to
that in the Western
world. It means
governing through
rectification. The
monarch must rule with
benevolence and
sincerity to avoid the
use of force at all costs.
He should know how to
manage domestic
affairs so that everyone
can enjoy justice.
To Confucius,
the mandarins and the
people must be absolutely loyal to the king, no matter how good or bad he might be since the king‟s
power is given by the Mandate of Heaven. Mencius – a Confucius‟s successor who was the second
master of the Ju School – disagreed on this point. He strongly supported the theory of justified
rebellion against the wicked ruler. To him, the Mandate of Heaven was withdrawn from a corrupted
dynasty whenever a successful rebel arose. This was the most progressive viewpoint in those days.
The art of governing was written in the Nine Cardinal Directions which are not different to the
moral principles aforesaid.
Since China was unified and a powerful monarchy was constituted, Confucianism has become
the dominant philosophy and an effective tool to consolidate the monarchy as well as to maintain the
order of the society. It underwent several stages of intellectual development and was refined in the
tenth century AD. From then on, it has been the unique teaching in all national and private schools in
the whole country. After seizing power in 1949, Mao Tse Tung and the Communist Party initiated
the Great Cultural Revolution in order to destroy Confucianism and to replace it with Communist
ideals. But for the last 40 years, Communism has not been able to replace Confucianism because the
latter has permitted the Chinese people life in all aspects.
Today, Confucianism is somewhat well known to our Western world. Apart from some
elements that are considered feudal and outdated, the philosophy – modified and adapted to
changing circumstances – are still precious and indestructible. It will be very useful to those who
wish to devote themselves to a noble cause, those who have ambition that the old people should be
able to live in peace, all friends should be loyal, and all young the young people should love their
elders.
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 168
BOOK REVIEW
GUY DE MAUPASSANT’S
THE NECKLACE
Once there was a little girl whose name is Cinderella…
Millions of pretty girls all over the world have ever read passionately this fairy tale and must
have dreamed of having a fortune as that poor girl had in the story. The pursuit of happiness is quite
a righteous aspiration of any person, male or female. But on what criteria should happiness be
defined and how can one gain a really happy life? That‟s the question! Is vanity a true value of life
for which we may have to pay a high cost? It‟s the main idea that Guy de Maupassant wanted to
address in this short story, “The Necklace.”
It‟s also the dominant element on which the author created the main character, the conflict
and other relevant elements.
Mathilde Loisel is a beautiful woman who had “no mean of getting known, understood and
loved. She let herself be married off to a little clerk in the Ministry of Education.” She perceived her
beauty as well as her poverty. After a ball, she lost the necklace borrowed from a wealthy friend.
The poor couple, ignoring that the ornament is only a counterfeit one, had to loan money to buy a
duplicated expensive one to return to their friend. In the ten following years, they had to suffer an
extremely poverty and hard work to pay off the debt. Through the omniscient point of view, Guy de
Maupassant presented directly a dynamic character and revealed in full details the characteristics of
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 169
a pretty young lady who was always obsessed with the vanity cause. Not only Mathilde Loisel but
also almost every pretty woman has the same meditation, as they perceive their conditions. It‟s so
common and natural that women are likely to dream of a happy marriage and a luxury life as men
dream of pretty women and power.
Cinderella dropped a shoe on her way hurrying home, and then her dream came true. Poor
Mathilde dropped her necklace then she faced a ghastly life of abject poverty. From then on, she
changed, both physically and spiritually. “Her hair was badly done, her skirts were awry, her hands
were red. She spoke in a shrill voice.” She looked much older and of course less beautiful since she
became like other women of poor households. Thanked to her courage and virtue, she suffered the
harsh time with dignity. From the very first, she played her part heroically. She no longer dreamed of
anything else but work. “But sometime, she sat down by the window and though of that evening
long ago, of the ball at which she had been so beautiful and so much admired.” That is the time she
understood that the true value of life was not based on vanity but on the proper attitude toward the
limited conditions one had to live in. Happiness turns out to be the satisfaction with whatever we
gain by our efforts and ability. The price she had to pay for her dream was rather high, but we know
that many women in real world have to pay much higher. They may only find misfortune for the rest
of their lives. The contradiction of poverty and richness created the main conflict within Mathilde‟s
psychology. In the beginning of the story, “she suffered endlessly, feeling herself born for every
delicacy and luxury. She
suffered from poverty of her
house, from its mean walls,
worn chairs and ugly
curtain.” She was
consistently tormented and
insulted by material needs.
With this wrong way of
thinking, she would have
never felt happy even if she
got the things she wanted.
Mathilde is only a pitiful
woman who let herself be
excessively haunted by the
vanity cause. “She had no
clothes, no jewels, nothing.
And there were the only
things she loved, she felt that she was made for them.” Ah! Here we find her weak point to criticize.
She didn‟t discern the difference between the need for material things and the real value of life.
Ornaments can only make a woman more attractive, but her beauty and dignity themselves give her
true value. Although the conflict is also a significant element of the story, it doesn‟t come to a
climax but is gradually resolved. At the end of the story, she “smiled in proud and innocent
happiness.” Now she was proud of her true value, which she realized during a long time dealing with
misfortune. She finally overcame all difficulties and became more virtuous. She finally won over her
illusion of vanity. Now she was more content with her condition than ever before. The temptation of
material things and the desire to vanity are not rare in quotidian life. Therefore, the setting is not
necessary to contribute a specific meaning of the story. To Mathilde or to Mary, to Jane, or else
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 170
women, to a black or white, the story would be the same no matter when or where it may happen.
Only the resolutions vary in different ways depending on the circumstances and the moral
consciousness of the characters.
Maupassant in this story offered a humanitarian and moralistic resolution in order to protect
and glorify the woman‟s dignity. Most of Maupassant‟s short stories were written in a simple and
concise style. To describe Mathilde‟s characteristics, he was likely to use a frequent reference to her
feelings. “She suffered… she suffered… she imagined… she imagined… she imagined… she
loved… she loved… she felt…. She had longed. She would weep whole days with grief, regret,
despair, and misery.” The counterfeit necklace is considered a symbol of a false value that may
seriously influence any people. It also symbolizes the nature of the protagonist. That he reversed the
last sentences to reveal the false value of the necklace created a specific tone: “It was worth at the
very most five hundred francs!” This is truly an unexpected revelation to both the Loisels and the
readers; through which we feel sorry for Mathilde and also learn a valuable lesson about life and
illusion.
Click the link to read the story
http://www.nwcsd.k12.ny.us/cms/lib/NY19000569/Centricity/Domain/149/copy_of_the_necklace.p
df
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 171
Jack London’s
TO BUILD A FIRE
Each of Jack London‟s short stories is a
valuable lesson about life and natural laws. As said by
the French philosopher Jean Jacques Rousseau: “Man
is (physically as weak as) a reed, but he is a reed that
thinks.” (L’homme n’est qu’un Roseau, mais un Roseau
pensant.) The history of humankind is that of persistent
struggles for life. Facing the powerful and mysterious
nature, men are so tiny, weak and fragile. But thanks to
the strength of thoughts and will, men have subdued
and controlled nature to exploit its energies to serve the
needs that have been more increased. Thoughts help
men‟s ability to develop and strong will helps men‟s
strength multiply. Except for the universe of which the
mystery we have not discovered yet, anything on earth
must have its limit; so are men‟s strength and ability.
In his story “To Build a Fire”, Jack London
described the failure of a lonely traveler struggling
against the tremendous cold since he couldn‟t overpass
the law of limit.
…[T]o meditate upon his frailty as a creature of temperature, and upon man’s frailty in
general, able only to live within certain narrow limit of heat and cold; and from there on, it did
not lead him to the conjectural field of immorality and man’s place in the universe.‖
The rough character is a man who traveled through the kingdom of snow somewhere in the
North Pole. This was his first winter, and he had only a dog to be his companion. He was well
equipped with enough materials and a strong will save one thing: “The trouble with him was that he
was without imagination.” When the temperature dropped seventy degrees below zero, there was
nothing that could help him to survive except the fire. At times, he failed to build a fire because his
hands were almost frozen as they were exposed to the cold air. All his extraordinary efforts became
helpless. In such a harsh and dangerous situation, he realized that: “a man should travel with a
partner.” The second character, if an animal might be so-called, is a big native husky wolf dog. It
didn‟t have a sharp consciousness as did his master, but it had its brute instinct: “it experienced a
vague but menacing apprehension that subdued it…” The dog‟s presentiment was much better than
that of the man, but the dog must rely on him. “It‟s instinct told it a truer tale that was told to the
man by the man‟s judgment… and that made it question eagerly every unwonted movement of the
man as if expecting him to go into camp and to seek shelter somewhere and build a fire.”
As long as the man‟s struggle against nature was in process, an internal conflict happened
simultaneously within his thoughts. He was really a strong man – physically and spiritually – for he
didn‟t stop thinking and struggling until the last attempts failed. He surrendered only when he was
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 172
no longer able to control his arms and legs. The climax of his internal conflict is his level attitude
toward the death as he finally learned that he had been defeated: “It was like taking an anesthetic.
Freezing was not so bad as people though. There were lots worse ways to die.”
It is deficient if we do not point out another conflict between the man and his dog in which
the animal played a passive role. The man wanted to kill the dog to warm his hands; the dog sensed
the danger but it did not want to fight against its master. The only thing it could do was to run away
from the man.
In another story of his - “Love of Life,” concerning a similar case - London let his
protagonist survive after a persistent and desperate resistance. Perhaps in Love of Life, either the
condition was less harsh or the man will was much stronger than those in To Build a Fire. We learn
that the strong will usually go along with faith; exactly speaking, it is reinforced by faith. “If ye have
faith as a grain of mustard seed, ye shall say unto this mountain: remove hence to yonder place; and
it shall remove; and nothing shell be impossible unto you.” (Bible, Mathew 17:20)
By using both the omniscient and objective points of view, Jack London didn‟t simply tell us
the characters‟ actions, but also revealed what they though and felt. Thanks to London‟s experience
as a sailor, a miner, and a traveler, he had the competence to describe thoroughly and exactly step by
step the development of each character‟s emotions. This helps us to share the joy, the pain and the
difficulties the characters endured.
Click the link to read the story
http://www.jacklondons.net/buildafire.html
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 173
Ambrose Bierce’s
An Occurrence at Owl Creek Bridge
If there is any distance between life and death, then what may happen with a dying human‟s
thought in this very moment before he gives up the ghost?
In “An Occurrence at Owl Creek Bridge,” Ambrose Bierce told us the story of a wandering
soul of a man whose body was swinging like a pendulum beneath the timber of the Owl Creek
Bridge.
The article consists of three parts. In part one, the author described the overall spectacle of
the place where the execution was being prepared. The story happened at a certain time in the
American Civil War. The Federal army had occupied the Owl Creek Bridge where a civilian
southerner was about to be hanged by his enemies. Sounds of sharp percussion in the condensed
silence created an atmosphere of seriousness added by an indifferent manner of the execution team.
In the last few seconds of his life, the victim thought of escaping and going home where his loved
ones were waiting for his return.
Part two gives some information about the man. As a planter and slave holder, Peyton
Faquhar ardently devoted himself to the Southern cause to protect the rights of the states and the
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 174
conservation of slavery. Unfortunately, his plot inferring with the Owl Creek Bridge was unveiled by
a Federal scout, and he was sentenced to death.
The third part is the most important one that carries Bierce‟s central idea. He described
Peyton‟s last efforts to struggle for his life. Those efforts proceeded within the domain of sub
consciousness as the drive to survive flashed back in his brain. Peyton was not quite dead at once.
The death came gradually to each element of his body. No later he had been hanged, he lost his
consciousness; he could neither think nor do any thing. He only had power to feel, and feeling was
torment. Then the power of thought was restored. At this time, dream and reality mixed up and
proceeded disorderly in his subconsciousness. They reflected the struggle and desire, which Peyton
could not achieve in real life. He saw himself escaping from death with an extraordinary force and
was on his way going home. As he almost reached his goal and was about to clasp his wife, the last
cells of his brain perished. He was totally dead.
Ambrose Bierce might be very knowledgeable as a psychoanalyst since the concept of
consciousness and unconsciousness is extremely difficult to describe. Few people have ever
experienced the death and revival to tell us their feelings. Even is they could do so, it‟s to believe
that they are telling the truth.
Through the story, we learn to apprehend the deep feeling of sharing the suffering of our fellow
miserable man.
Click the link to read the story
http://fiction.eserver.org/short/occurrence_at_owl_creek.html
Chuyện Mình Chuyện Người - Tập 1 175
Chuyện Mình, Chuyện Người Bình Luận Đỗ Văn Phúc Tác gỉả giữ bản quyền Copyright@2016 Michael Do. All Rights Reserved Liên lạc tác giả Michael Do (512) 800-7227 Email: [email protected] Website: www.michaelpdo.com Chi phiếu xin gửi về Michael Do 16204 Viki Lynn Pl. Pflugerville, TX 78660