C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI...
Transcript of C VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THÁI...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THÁI DŨNG
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC
TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1954
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THÁI DŨNG
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC
TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1954
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Viết Thảo
2. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Vũ Thái Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 8
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án .......................................... 8
1.2. Những nội dung liên quan tới đề tài luận án mà các công trình đã đề cập
và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết .............................. 28
Chương 2: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC
TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952 .......................................... 30
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng ở Liên khu Việt
Bắc trong những năm đầu kháng chiến ........................................................... 30
2.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc được thành lập, lãnh đạo thực hiện công tác
dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1952 ................................................... 56
Chương 3: ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954 ........ 86
3.1. Những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận trước yêu
cầu mới của cuộc kháng chiến chống Pháp ..................................................... 86
3.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc lãnh đạo thực hiện công tác dân vận trong
giai đoạn mới (7-1952 - 7-1954) ...................................................................... 93
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ......................................... 122
4.1. Một số nhận xét ............................................................................................... 122
4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ........................................................................... 131
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 149
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có
ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Đường lối và quá trình tổ chức
chỉ đạo thực hiện công tác dân vận là một thành công quan trọng, quyết định sức
mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954). Để có được chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng
chiến chống Pháp của dân tộc, việc vận động quần chúng nhân dân cung cấp nhân
lực, vật lực ở hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên, quan trọng
quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh cách mạng.
Tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân là
quan điểm bao trùm trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để hình thành tư
tưởng về dân vận của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng có trách nhiệm
đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Ngay
trong cuốn Đường cách mệnh (1927) Người đã khẳng định: “Cách mệnh là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [173, tr. 262]. Đó là tư
tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản đảm bảo thành công của mọi cuộc
cách mạng là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp được đông đảo nhân dân
trong lực lượng của cách mạng. Muốn vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thực
hiện tốt công tác dân vận, Người nêu lên một luận đề như một chân lý: “Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [169].
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận định nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, nên
đã cử cán bộ ở lại tiếp tục củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Việt Bắc lại một lần nữa
vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn làm căn cứ địa, nơi
đứng chân của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10-1946, Trung
2
ương Đảng cử cán bộ lên Việt Bắc để xây dựng căn cứ địa kháng chiến, chọn Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang làm An toàn khu của Trung ương. Việt Bắc trở
thành vùng hậu phương - căn cứ địa đặc biệt quan trọng của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cách mạng đã do Việt
Bắc mà thành công thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi” [176, tr. 239].
Việc lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt,
đúng đắn và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, đồng thời
làm rõ hơn vai trò to lớn của Đảng bộ Liên Khu Việt Bắc trong việc vận động
đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu đóng góp sức người, sức của cho sự
nghiệp đấu tranh cách mạng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Việc vận động các tầng
lớp nhân dân các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân
trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược là thành công lớn của Trung ương
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng bộ Liên Khu Việt Bắc.
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, căn
cứ địa kháng chiến được xây dựng, củng cố về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến lâu dài của quân và dân Việt Nam. Tại Liên khu Việt Bắc, chính quyền nhân
dân các cấp được chăm lo củng cố và kiện toàn; khối đoàn kết toàn dân được tăng
cường; quần chúng nhân dân các dân tộc trên địa bàn Liên khu được quy tụ trong
Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt với các đoàn thể (nông hội, hội phụ nữ, hội
thanh niên…). Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc đã vận động
nhân dân các dân tộc trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức của cho kháng
chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho chiến trường. Nhờ chủ động trong công tác
chuẩn bị nên khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, việc di chuyển các cơ quan đầu
não lãnh đạo kháng chiến được thực hiện đúng kế hoạch. Việc chủ động trong công
tác xây dựng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, quân và dân Việt Nam đã đánh bại âm
mưu của thực dân Pháp trong việc đánh vào cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến;
làm thất bại hoàn toàn chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh của địch.
Nhìn lại những chủ trương, đường lối trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác dân vận của Đảng suốt những năm tháng đầy khó khăn, thử
thách với cách mạng Việt Nam là một việc làm rất cần thiết, nhất là sau khi vừa
3
giành được chính quyền cách mạng, cả dân tộc phải đương đầu với kẻ thù lớn
mạnh. Nghiên cứu nội dung này không chỉ khẳng định sự đúng đắn về đường lối
kháng chiến của Đảng, làm sáng tỏ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp mà toàn Đảng, toàn dân đã quyết tâm giành thắng lợi, đúc kết
những kinh nghiệm lịch sử có giá trị quan trọng cho công tác dân vận của Đảng
trước những vận hội và thách thức trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời góp phần tôn
vinh công lao đóng góp của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc
Việt Bắc luôn một lòng, một dạ đi theo Đảng làm nên sức mạnh tổng hợp toàn dân
tộc để có được thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Công tác dân vận của Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954”, làm đề tài Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo thực hiện công tác dân vận của Trung ương
Đảng và các Đảng bộ ở Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến; góp phần quan
trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Góp phần đúc rút những kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình hoạch định
chủ trương, chính sách dân vận của Trung ương Đảng trong thời kỳ mới, tạo sự đồng
thuận của mọi tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài:
Văn kiện của Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, các công
trình nghiên cứu liên quan đến công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp. Hệ thống hoá, khái quát hóa những tư liệu đó theo trình tự thời
gian gắn liền với quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Từ đó, làm rõ những chủ trương, biện pháp, những quyết sách về
công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954 của
cuộc kháng chiến chống Pháp.
4
- Phân tích làm rõ những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng ở
Liên khu Việt Bắc.
- Từ các văn kiện của các Liên Khu ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy (trong phạm vi
nghiên cứu của luận án), làm sáng tỏ chủ trương của các Đảng bộ trong quá trình cụ
thể hóa, tổ chức thực hiện công tác dân vận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực, đối
với các giai tầng ở Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Trên cơ sở phân tích những chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và
sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đối với công tác dân vận ở Việt Bắc (từ
tháng 10-1949 đến tháng 7-1954), nhận xét những thành công, ưu điểm, hạn chế trong
công tác dân vận của Đảng thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Từ những thành công, hạn chế và nguyên nhân, luận án đúc kết một số kinh
nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn góp phần bổ sung vào quá trình hoàn thiện chủ
trương, chính sách dân vận của Đảng trong thời kỳ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những quan điểm, chủ trương, chính sách và quá trình tổ
chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn từ tháng 10-1949
đến tháng 7-1954.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Luận án nghiên cứu trong phạm vi thời gian từ tháng 10-1949
(Liên khu Việt Bắc được thành lập) đến tháng 7-1954 (khi kết thúc cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược).
- Nội dung: Trên địa bàn Việt Bắc, công tác dân vận của Đảng có sự tham
gia của Trung ương Đảng, các cơ quan Trung ương Đảng đóng trên địa bàn, của các
cấp bộ Đảng từ Khu, Liên khu đến cơ sở, Đảng bộ các cơ quan, đơn vị đóng trên địa
bàn. Luận án tập trung nghiên cứu những chủ trương, chính sách về công tác dân
vận của Đảng và quá trình các Khu uỷ, Liên khu uỷ ở Việt Bắc tổ chức chỉ đạo thực
hiện công tác dân vận phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ
tháng 10-1949 đến tháng 7-1954).
5
- Không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu các khu, liên khu và các
tỉnh (gồm có 17 tỉnh, đặc khu và 01 huyện: các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải Ninh, đặc khu
Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình) trên địa bàn Việt Bắc.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Tác giả luận án vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng về công tác dân vận làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong đó, chủ yếu
là hai phương pháp lịch sử và lôgíc; ngoài ra, luận án cũng áp dụng phương pháp
phân tích, thống kê, so sánh tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm.
- Luận án sử dụng các phương pháp phê phán sử liệu và lấy các văn bản nghị
quyết, chỉ thị gốc của Đảng làm cơ sở đối chiếu với sự kiện, nhân vật lịch sử trong thực
tiễn để phân tích, đánh giá làm rõ quá trình Đảng bộ các Tỉnh uỷ, Khu uỷ, Liên khu uỷ
ở Việt Bắc chỉ đạo thực hiện công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Khảo sát thực tế tại một số di tích lịch sử cách mạng, bảo tàng các dân tộc
Việt Bắc, bảo tàng chiến tranh... thuộc địa bàn Liên khu Việt Bắc trước đây. Nghiên
cứu sinh trực tiếp đến một số tỉnh: tỉnh Cao Bằng, huyện Na Rì và huyện Chợ Đồn
(Bắc Kạn), huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), ATK Định Hoá và huyện Đại Từ (Thái
Nguyên), huyện Sơn Dương và huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang), tỉnh Lào Cai,
tỉnh Bắc Giang, huyện Từ Sơn (Bắc Ninh), huyện Đoan Hùng (Phú Thọ)...
- Phương pháp phỏng vấn nhân chứng, trong quá trình thực hiện luận án,
nghiên cứu sinh trực tiếp trao đổi và phỏng vấn một số nhân chứng là cựu chiến
binh thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (tại Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc
Ninh) và nhiều chuyên gia nghiên cứu về các lĩnh vực của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, về công tác dân vận (tại Ban Dân vận Trung ương, Viện Lịch Đảng,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam...).
6
4.3. Nguồn tài liệu
Luận án chủ yếu sử dụng những nguồn tư liệu được khai thác sau:
- Các văn kiện, các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Trung ương Đảng, của
các tác giả nước ngoài viết về chiến tranh Việt nam, về ý nghĩa của kháng chiến
chống Pháp với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới;
- Luận án khai thác trực tiếp các tài liệu gốc tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phòng Tư liệu Viện Lịch sử
Đảng, Thư viện quốc gia Việt Nam.
- Các tư liệu, tài liệu, sách đã xuất bản của các địa phương ở khu vực miền
núi phía Bắc, đặc biệt là Liên khu Việt Bắc, của một số nhân chứng lịch sử, một
số chuyên gia nghiên cứu về kháng chiến chống Pháp....
- Luận án cũng tham khảo những bài nghiên cứu, những hồi ký có liên quan
đến việc chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng đã được công bố trong các
cuốn sách, tạp chí chuyên ngành, các kỷ yếu hội thảo khoa học, hồi ký của các đồng
chí lão thành cách mạng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Tái hiện một cách có hệ thống, toàn diện về quá trình Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc lãnh đạo thực hiện công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Đánh giá khách quan, khoa học những ưu điểm, chỉ ra những hạn chế và
đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn đối với công tác dân vận
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm tư liệu cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua khảo sát thực tiễn
của các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là Liên khu Việt Bắc, đề xuất đối với Đảng và
Chính phủ về chăm lo, cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp
những luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
7
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở một mức
độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị thực tiễn đối với công tác
dân vận của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận án kết cấu gồm
4 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Liên quan đến đề tài của luận án đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
tới, có thể khái quát thành các nhóm công trình sau:
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng
Đề cập tới những vấn đề lý luận liên quan đến công tác dân vận nói chung
trong các thời kì lịch sử, tiêu biểu là các công trình:
Cuốn sách Về công tác quần chúng [166] của tác giả Nguyễn Văn Linh,
trong đó, tác giả chỉ rõ vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng trong
sự nghiệp cách mạng Việt Nam: “Công tác vận động quần chúng trong mỗi giai
đoạn cách mạng đều có ý nghĩa quyết định” [166, tr. 30]. Theo tác giả, việc vận
động, tuyên truyền và giáo dục quần chúng hiểu về vai trò làm chủ thực sự của
mình là vấn đề quan trọng của công tác dân vận trong cách mạng Việt Nam, xây
dựng và củng cố khối đại đoàn kết, nhằm đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù
địch chia rẽ Đảng và quần chúng. Nhiệm vụ của các cấp uỷ đảng trong công tác vận
động quần chúng phải xác định “lấy dân làm gốc”, phải trở thành nền nếp của xã
hội, tất cả phải do nhân dân, vì nhân dân mới có thể thực hiện thắng lợi được mọi
nhiệm vụ. Cán bộ các ngành, các cấp phải coi trọng công tác vận động quần chúng,
xem công tác này là yếu tố sống còn trong mọi hoạt động cách mạng. Chỉ có như
vậy mới góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng, gây dựng lòng tin cho quần
chúng nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân đến mọi thành công.
Bài viết Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
[183] của tác giả Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Nếu Đảng lãnh đạo tốt hơn, Nhà nước
quản lý tốt hơn, công tác vận động quần chúng của Mặt trận và các đoàn thể tốt hơn
thì những thành tựu cách mạng còn lớn hơn nữa. Đổi mới công tác quần chúng, phải
đổi mới công tác Mặt trận, công tác công đoàn, công tác thanh niên, công tác phụ nữ,
9
công tác đối với trí thức, với công thương, với cựu chiến binh, với các tôn giáo, các
dân tộc...
Trong công trình Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc
thống nhất [31] của Ban Dân vận Trung ương đã nhấn mạnh nội dung và quá trình
thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường
Mặt trận dân tộc thống nhất”; vấn đề đoàn kết dân tộc đặt ra trong tình hình,
nhiệm vụ mới; tầm cao và chiều sâu mới của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong
thời kỳ mới.
Cuốn Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [30] của Ban Dân vận
Trung ương đã nhấn mạnh tư tưởng về dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư
tưởng của Người thể hiện rất rõ trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày
15-10-1949:
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để
sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã
giao cho… Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công [176, tr. 698-700].
Trong cuốn sách Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh [194] của tác giả
Phùng Hữu Phú đã nhấn mạnh những cơ sở và quá trình hình thành chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong cách mạng
giải phóng dân tộc. Đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội. Những nội dung cơ bản của chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh. Kế thừa, phát triển chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong cuốn sách Đổi
mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới [61]
của Tổng Cục Chính trị nghiên cứu công tác dân vận dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng và vận động quần
chúng; cuốn sách cũng xác định rõ vị trí, vai trò và nội dung công tác dân vận, đặc
10
biệt là đối với Quân đội nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, giải
pháp tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng nói chung và của Quân đội Nhân
dân Việt Nam nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu
xây dựng quân đội trong giai đoạn mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [97] của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Nội dung cuốn sách gồm 3 phần với 10 chương, trình bày
một cách khoa học, toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng Việt Nam, làm rõ những đóng góp mới về quá
trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuốn sách, giới thiệu một
cách có hệ thống những luận điểm sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường
lối và phương pháp, về chiến lược và sách lược cách mạng, về tổ chức các lực
lượng cách mạng, về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân văn, đạo đức,
văn hóa Hồ Chí Minh, phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Tác giả Dương Xuân Ngọc có bài viết về Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo
tiến hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh [187]. Theo tác giả, công
tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cho tới thời kỳ
đổi mới, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Bài viết 75 năm công tác dân vận của Đảng [192], tác giả Tòng Thị Phóng chỉ
rõ quá trình từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đảng đã rút ra được những bài học lớn, trong đó có hai bài học
liên quan trực tiếp, gắn bó mật thiết với công tác dân vận của Đảng. Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân
dân. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài
học lớn của cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết.
11
Bài viết Đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng [167] của
đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh một số điểm: Các đoàn thể phải nhanh
chóng đổi mới phương thức hoạt động, giảm bớt những cuộc họp để ra nghị quyết,
chỉ thị, thông báo, hay để phổ biến nghị quyết của cấp trên; Trái lại, phải biết tổ
chức những cuộc họp để cùng nhau bàn bạc giải quyết những vấn đề bức bách do
đoàn viên, hội viên, quần chúng tại chỗ đặt ra. Cán bộ đoàn thể phải đi sâu vào
lĩnh vực kinh tế, phải có ít nhiều kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý công
nghiệp, nông nghiệp; phải hiểu chính sách, luật pháp để chính mình thực hiện và
tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, hội viên và quần chúng thực hiện.
Bài viết Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Nhân tố
quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam
[197] của đồng chí Trương Tấn Sang khẳng định: Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
trong suốt 80 năm qua, ở tất cả các giai đoạn cách mạng, Đảng đều gắn bó mật
thiết, máu thịt với nhân dân. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong
80 năm qua rất đa dạng, phong phú, thể hiện ở một số nội dung, phương thức sau
đây: Thứ nhất, mọi hoạt động của Đảng đều nhằm mục đích phục vụ Tổ quốc,
phụng sự nhân dân; Thứ hai, sau khi giành được chính quyền, Đảng chăm lo xây
dựng chính quyền thực sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; xây dựng
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân thông qua mối quan hệ giữa chính quyền với
nhân dân; Thứ ba, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở
mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; Thứ tư, mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở sự liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với
quần chúng nhân dân.
Trong bài viết Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của
Đảng sau 25 năm đổi mới [107], tác giả Hà Thị Khiết khẳng định: Những chủ
trương, chính sách về công tác dân vận, đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối liên
minh công - nông - trí thức - doanh nhân - thanh niên - phụ nữ… ngày càng hoàn
thiện. Phân tích những thành tựu và hạn chế trong công tác dân vận của Đảng sau
25 năm đổi mới, tác giả chỉ rõ: thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh khối
12
đại đoàn kết toàn dân tộc, để công tác dân vận ngày càng được triển khai sâu rộng
trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực và trong quần chúng nhân dân; đồng thời,
huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân thực hiện
thành công các nhiệm vụ chính trị, mục tiêu cách mạng của Đảng trong thời kỳ
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để tăng cường công tác lãnh đạo quần chúng của Đảng, đồng chí Đinh Thế
Huynh có bài viết Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác quần chúng - Thực tiễn
và một số kinh nghiệm [106]. Để lãnh đạo nhân dân đạt được mục tiêu đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam phải tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với công
tác quần chúng, giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Đảng cần tăng
cường đổi mới phương thức lãnh đạo và tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính
sách đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các giai tầng trong xã hội.
Nhằm Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần
chúng trong tình hình mới [108], tác giả Hà Thị Khiết nhấn mạnh: Công tác vận
động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên trong
mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn
chế của công tác dân vận, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động quần chúng, tác giả đưa ra những giải pháp có tính cấp thiết và phù hợp
với công tác dân vận trong tình hình đất nước có nhiều sự thay đổi ngày một cơ
bản và toàn diện.
Cuốn sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác dân vận [85] đã cung cấp thêm tư liệu về những vấn đề lý luận và kinh nghiệm
thực hiện công tác dân vận với hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, lãnh đạo bộ, ban, ngành, các nhà khoa học. Nội dung cuốn sách đã đưa
ra những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi bật cơ sở lý luận, thực tiễn và
những kinh nghiệm của công tác dân vận trong từng thời kỳ cách mạng. Từ đó,
phải nhận thức sâu sắc rằng: Dân vận là công việc rất quan trọng, phải làm thường
xuyên, làm hằng ngày, hằng giờ, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, không phô
trương hình thức, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công
13
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân vận được xác định là nhiệm vụ
chiến lược của Đảng, là một trong những công tác cơ bản, có tính chiến lược, gắn
liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những
truyền thống tốt đẹp và nguồn gốc sức mạnh của Đảng là mối quan hệ gắn bó máu
thịt giữa Đảng với nhân dân.
Các công trình nêu trên đã đề cập đến tầm quan trọng của công tác dân vận,
cơ sở lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng trong các thời kỳ lịch sử, đặc
biệt là đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc nói chung.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945-1954) và công tác dân vận trong thời kỳ này
Những công trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954):
Công trình của Ban Nghiên cứu Lịch sử quân sự - Tổng cục Chính trị - Bộ
Quốc phòng về Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1 [46] đã trình bày quá
trình hình thành và lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Bên cạnh việc nêu các quan
điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá trình thành lập các đơn vị vũ
trang, công trình còn đề cập đến các hoạt động đấu tranh vũ trang trong cuộc kháng
chiến chống Pháp tại nhiều địa phương trong cả nước, trong đó, Quân đội nhân dân
Việt Nam là lực lượng đóng vai trò quyết định.
Cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, (Sơ thảo), tập 1 [45] của Ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương đã trình bày quá trình truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).
Cao trào cách mạng năm 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh. Quá trình khôi phục và
phát triển phong trào cách mạng (1932-1935); Cuộc vận động dân chủ (1936-1939);
Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền (1939-1945); Đảng lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật quân sự là một yếu tố
quan trọng góp phần vào những thắng lợi của cách mạng, nhấn mạnh vấn đề này,
14
đồng chí Lê Trọng Tấn đã viết cuốn Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 - Một bước
phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam [199]. Công trình đã trình bày
diễn biến cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đặc biệt tác giả đã phân
tích, luận giải một số vấn đề về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, các
đặc điểm nổi bật trong quá trình chỉ đạo chiến lược và chiến dịch của Đảng thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử
Đảng đã biên soạn cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III: Đảng
lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc (1945-1954) [104]. Cuốn sách phản ánh thời
kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng từ tháng 9-1945, thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tháng 7-1954, ký Hiệp định Giơnevơ, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những sự kiện được
trình bày trong cuốn sách khắc họa lại những nội dung cơ bản của thời kỳ lịch sử
này. Đó là quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới dưới chính thể Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đấu tranh chống “thù trong, giặc ngoài”; quá trình
Đảng lãnh đạo công tác chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc và chủ động phát
động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
xâm lược và đó cũng là quá trình Đảng có sự lớn mạnh vượt bậc về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Trong bộ sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam phản ánh sâu sắc và toàn diện cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kết thúc thắng lợi bằng chiến
thắng Điện Biên Phủ. Thắng lợi đó là một trong những thành tựu lớn của Đảng,
nhân dân Việt Nam và là đề tài lịch sử thu hút sự quan tâm của nhiều chính trị gia,
nhà sử học và nhà quân sự trong và ngoài nước. Bộ sách gồm 7 tập (hiện nay đã
xuất bản 5 tập):
Tập I - Chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến [231]: trình bày các sự kiện lịch sử từ
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đến trước ngày Toàn quốc kháng chiến (19-
12-1946), gồm Chương I: Trước cuộc kháng chiến; Chương II: Kháng chiến ở miền
15
Nam, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến; Chương III: Thực hiện hòa hoãn,
chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh lan rộng.
Tập II - Toàn quốc kháng chiến [232]: viết về giai đoạn lịch sử từ ngày Toàn
quốc kháng chiến đến chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 kết thúc thắng lợi,
gồm Chương IV: Cuộc chiến đấu tại đô thị bắc vĩ tuyến 16 mở đầu Kháng chiến
toàn quốc; Chương V: Chuyển đất nước vào thời chiến; Chương VI: Tiếp tục triển
khai thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”; Chương
VII: Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947.
Tập III - Triển khai kháng chiến toàn diện [233]: trình bày giai đoạn lịch sử
từ đầu năm 1948 đến cuối năm 1949, gồm Chương VIII: Phát triển chiến tranh du
kích; Chương IX: Xây dựng, củng cố hậu phương kháng chiến; Chương X: Đoàn
kết chiến đấu với cách mạng Lào, Campuchia và Trung Quốc, tăng cường hoạt
động đối ngoại; Chương XI: Tiến lên vận động chiến.
Tập IV - Bước ngoặt của cuộc kháng chiến [234]: phản ánh cuộc kháng chiến
của dân tộc trong thời gian năm 1950, gồm Chương XII: Tăng cường hoạt động đối
ngoại, đoàn kết quốc tế, đấu tranh chính trị; Chương XIII: Xây dựng, phát triển lực
lượng kháng chiến; Chương XIV: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự, từng bước giành
thế chủ động chiến lược; Chương XV: Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 - bước
ngoặt của cuộc kháng chiến.
Tập V - Phát triển thế tiến công chiến lược [235]: phản ánh cuộc kháng chiến
của nhân dân từ sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 đến giữa năm 1953, gồm
Chương XVI: Khuếch trương chiến thắng Biên giới, tiến công địch ở Trung du,
đồng bằng Bắc bộ; Chương XVII: Xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương kháng
chiến; Chương XVIII: Đẩy mạnh đấu tranh ở vùng địch chiếm đóng, giữ thế chủ
động chiến lược trên chiến trường chính Bắc bộ; Chương XIX: Chủ động tiến công
lên Tây Bắc, sang Thượng Lào, tạo thế và lực mới.
Bộ sách Lịch sử Việt Nam do Viện Sử học biên soạn được kết cấu theo các
thời kỳ: Thời kỳ cổ - trung đại (từ thời tiền sử đến năm 1858, khi thực dân Pháp nổ
sung xâm lược Việt Nam); Thời kỳ cận đại (thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, biến
Việt Nam thành thuộc địa đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công) và
16
Thời kỳ hiện đại (từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay). Bộ
sách Lịch sử Việt Nam gồm 15 tập, trong đó tập 10 và tập 11 nghiên cứu toàn diện
và sâu sắc về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Nội dung cụ thể
như sau:
Tập 10 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1950 [236] do Nguyễn
Văn Nhật chủ biên. Tập sách được biên soạn thành 6 chương, trình bày một cách
tương đối toàn diện tiến trình lịch sử giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm
1950 với các nội dung: Việt Nam từ thành lập nền Dân chủ Cộng hòa đến ký
Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp (9-1945 - 3-1946); Kháng chiến Toàn quốc bùng nổ
(12-1946); đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh
sinh” của Đảng; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; xây dựng và củng cố hậu
phương, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta; đấy mạnh kháng
chiến (1948-1950).
Tập 11 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1951 đến 1954 [237] do Nguyễn Văn
Nhật chủ biên. Tập sách được biên soạn thành 6 chương, trình bày một cách tương
đối toàn diện tiến trình lịch sử giai đoạn từ đầu năm 1951 đến 7-1954 với các nội
dung: Chương 1 - Âm mưu mới của đế quốc Pháp, Mỹ trong cuộc chiến tranh
Đông Dương; Chương 2 - Tiếp tục xây dựng, phát triển hậu phương kháng chiến
(1951-1952); Chương 3 - Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh
đấu tranh quân sự, giữ vững thế chủ động tiến công địch trên chiến trường (1951-
1952); Chương 4 - Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện giảm tô,
giảm tức và cải cách ruộng đất (1953-1954); Chương 5 - Cuộc tiến công chiến
lược Đông - Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ; Chương 6 - Hội nghị
Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết
thúc thắng lợi.
Trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ [94] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
nói về quyết định lịch sử trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng bao giờ cũng
cho rằng, cơ sở hình thành của nó chính là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cùng với
sự chỉ đạo tài tình của Người với chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như với toàn bộ
tiến trình cuộc kháng chiến. Nhưng dù khiêm nhường thế nào đi chăng nữa, với vị
17
trí, vai trò và dấu ấn sâu đậm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện
Biên Phủ, Đại tướng đã quy tụ đầy đủ sáu điểm về phẩm chất và tư cách người làm
Tướng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Trí - Tín - Dũng - Nhân - Liêm - Trung.
Luận văn thạc sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Xuân về Đảng bộ Liên khu
IV lãnh đạo xây dựng kinh tế trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954) [240] tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định:
Xây dựng hậu phương đảm bảo nguồn lực về kinh tế có vai trò quyết định thắng
lợi trong chiến tranh cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
xuất phát từ mục đích của cuộc kháng chiến, từ đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, quán triệt sâu sắc tư tưởng của Lênin, từ
kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo xây dựng căn cứ địa thời kỳ đấu tranh giành
chính quyền, ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng đã chủ động xây dựng căn cứ
địa, hậu phương của kháng chiến, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng kinh tế
kháng chiến, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Để tổng kết thắng lợi và đúc kết những bài học kinh nghiệm của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc
Bộ Chính trị đã xuất bản công trình Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp - Thắng lợi và bài học [20]. Cuốn sách là công trình được nghiên cứu công
phu, có những bước phát triển mới theo tư duy chính trị - quân sự không ngừng
được hoàn thiện và đổi mới của Đảng. Công trình góp phần quan trọng vào việc
tổng kết 30 năm Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân; rút
ra bài học kinh nghiệm lớn - là những di sản quý báu mới của dân tộc Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Các công trình nghiên cứu trên đưa ra bức tranh tổng thể lịch sử cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, cung cấp cho luận án bối cảnh lịch sử và những vấn đề,
yêu cầu đặt ra đối với công tác dân vận trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng
thời, qua các công trình nghiên cứu này có thể thấy công tác dân vận là một nội
dung quan trọng của cuộc kháng chiến.
18
Đề cập sát hơn đến công tác dân vận trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
có thể kể đến các công trình cơ bản:
Cuốn Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
trong đó tái hiện lại những hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm
tháng của thời kì đầu mới giành được chính quyền, thời kỳ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kêu gọi, vận động đoàn kết toàn dân tộc khi vận mệnh của Tổ quốc như ngàn cân
treo sợi tóc. Cuốn sách là những tình cảm thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ đến
những công ơn to lớn của Người đối với dân tộc, đất nước Việt Nam.
Luận án tiến sĩ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây
dựng các vùng tự do lớn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-
1954) [69] của tác giả Đào Trọng Cảng tại Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định: Hậu phương là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng. Hậu phương là nơi xây
dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, là nơi
đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, là nơi cung cấp sức người,
sức của cho chiến tranh và cũng là nơi để rút lui củng cố lực lượng, tiếp tục những
cuộc chiến đấu mới về sau. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc đã chứng tỏ rằng vấn đề xây dựng hậu phương rất được coi trọng, là một trong
những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp cứu nước và giữ
nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác xây dựng hậu phương - nhân
tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng.
Trong cuốn Những chặng đường lịch sử [95] của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã nhấn mạnh hai thời kỳ đấu tranh cách mạng có quan hệ đến sự tồn vong của dân
tộc - chuẩn bị giành chính quyền và năm đầu tiên sau Cách mạng Thánh Tám 1945
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt
của Đảng ở thời điểm lịch sử trọng đại đầy khó khăn thử thách ấy, tác giả đã tái
hiện bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác vận động toàn dân
đoàn kết vượt qua những giai đoạn cách mạng "ngàn cân treo sợi tóc".
19
Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Quân sự của tác giả Nguyễn Mạnh Hà về
Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954 và
nguyên nhân thất bại của chúng [99] tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã trình
bày một cách có hệ thống những nội dung chủ yếu trong chính sách chính trị, quân
sự của Pháp, chỉ ra các căn nguyên thất bại của chúng và khẳng định tính nhất quán,
xuyên suốt trong chính sách xâm lược của Pháp là bằng mọi cách áp đặt trở lại và
duy trì sự thống trị thực dân, chứng minh nguyên nhân sâu xa và trực tiếp làm bùng
nổ cuộc chiến tranh là do chính sách thực dân xâm lược đã lỗi thời, phản động của
Pháp, đồng thời khẳng định nguyên nhân khiến chính sách chính trị, quân sự của
Pháp thất bại là do chiến tranh xâm lược phi nghĩa và một nguyên nhân quyết định
là gặp phải một đối thủ kiên cường là dân tộc Việt Nam quyết tâm hy sinh chiến
đấu vì độc lập, tự do.
Hậu phương trong chiến tranh nhân dân Việt Nam là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, nhận thức được
tầm quan trọng của hậu phương, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng
đã biên soạn và xuất bản cuốn Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-
1975) [64]. Công trình đã đánh giá về vai trò của căn cứ địa - hậu phương qua hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thông qua đó, công trình đã
góp phần cung cấp những luận giải quan trọng nhằm đánh giá đúng vai trò của các
căn cứ cách mạng trên địa bàn Liên khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược.
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đã biên soạn và
xuất bản cuốn sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài
học [19]. Đây là công trình tổng kết toàn diện sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến
tranh cách mạng, nội dung được trình bày khái quát những sự kiện và tiến trình lịch
sử, những nhận định, đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến tranh cách
mạng Việt Nam, đúc kết những bài học cơ bản trong sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đảng đã phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc,
xây dựng, củng cố, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân Việt Nam - những người
làm chủ đất nước, tạo nên sức mạnh, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các lực lượng
20
cách mạng và của cả loài người tiến bộ, phân hóa, cô lập triệt để kẻ thù, thực hiện
thắng lợi chiến lược "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công". Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh cách
đây 70 năm có ý nghĩa thực tiễn lớn lao và có giá trị lâu dài đối với sự nghiệp lãnh
đạo của Đảng và đối với kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Tiến hành chiến tranh và xây dựng hòa bình có quy luật
riêng, nhưng đều có quy luật chung của đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đều lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
Luận án tiến sĩ lịch sử Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) [102] của tác
giả Khuất Thị Hoa, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã nghiên
cứu một cách có hệ thống những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
chiến lược đại đoàn kết được thực hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Những hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong quá trình lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện chiến lược chiến lược
đại đoàn kết thời kỳ kháng chiến và việc hoạch định đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước trên cơ sở chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, từ đó đúc kết
những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong công cuộc đổi mới ngày nay.
Viện khoa học Xã hội Việt Nam đã xuất bản cuốn sách 60 năm toàn quốc
kháng chiến - Ký ức lịch sử và bài học kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc [229],
cuốn sách góp phần làm sáng tỏ thêm về sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng suốt của
Trung ương Ðảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nền hòa bình không còn
có thể cứu vãn, phải chủ động mở ra cuộc kháng chiến toàn quốc. Mặt khác, công
trình đã tái hiện bối cảnh lịch sử, nguyên nhân, diễn biến của quá trình toàn dân đứng
lên tham gia kháng chiến và rút ra một số kinh nghiệm lịch sử như: “vừa đánh, vừa
đàm, vừa huy động sức mạnh toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước”,...
Những công trình trên đề cập một cách toàn diện về cuộc kháng chiến chống
thực Pháp từ năm 1945 đến năm 1954, trong đó, khi phân tích về nguyên nhân
21
thắng lợi của cuộc kháng chiến cũng đã phác họa một số nét cơ bản liên quan đến
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ này. Các công trình cũng phản ánh sâu sắc,
cụ thể, toàn diện, công tác dân vận của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân Việt Nam.
Các công trình của tác giả nước ngoài với nhiều góc độ khác nhau, trên
những quan điểm khác nhau về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt
Nam như:
Tác phẩm Đông Dương hấp hối [184] của tướng Nava.H, đây là cuốn hồi ký
của vị Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương - Henri Navarre. Trở về Paris
sau khi thất trận ở Điện Biên Phủ, năm 1956, ông đã viết cuốn hồi ký này với mục
đích “đơn giản chỉ vì quan tâm đến sự thật”. Đây là hồi ký của một danh tướng bại
trận, được viết theo cách nhìn của cá nhân tác giả, chắc chắn sẽ mang tính chủ quan
và không tránh khỏi độ thiếu chính xác. Henri Navarre đã phải thừa nhận sự lãnh
đạo tài tình và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng sức mạnh ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Tác giả Pátti.L.A viết cuốn Tại sao Việt Nam? [190] (dày gần 1.000 trang).
Trong đó, tác giả Pátti.L.A - một sĩ quan tình báo Mỹ, người đã có mặt can dự vào
những biến động của lịch sử Việt Nam ở thời điểm bước ngoặt quyết định của Cách
mạng Việt Nam đã không đi thẳng vào những vấn đề còn đang nóng bỏng tính thời
sự của thập kỷ 70 để giải đáp câu hỏi "Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam?" mà lại đi
ngược thời gian lên thập kỷ 40 để giải đáp câu hỏi "Tại sao nước Mỹ đã từng sát
cánh với những người cách mạng, những người cộng sản Việt Nam trên một trận
tuyến chung chống chủ nghĩa phát xít?". Là một nhân chứng lịch sử, tác giả đã gợi
lại ký ức của một thời mà những người cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh - Người đã trân trọng đưa những tư tưởng của bản Tuyên ngôn Độc
lập của Georges Washington lên trang mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của dân
tộc Việt Nam. Câu trả lời cũng là cách vạch ra những sai lầm của giới cầm quyền
Mỹ sau cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ II đã đẩy nhân loại vào cuộc chiến tranh
lạnh, tự biến mình là sen đầm quốc tế, từ bỏ những giá trị tiến bộ của chính bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 để dấn thân vào sự thù địch với phong
22
trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, cũng là chuốc lấy
những thất bại cay đắng trên chiến trường Việt Nam.
Ngoài ra, còn nhiều tài liệu, bài viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam như: J. Laniel với tác phẩm Thảm họa Đông Dương từ Điện
Biên Phủ đến cuộc đánh đổ ở Giơ-ve-vơ [130]; Thư gửi các chiến binh ở Đông
Dương [186] của Nava.H; Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
[98] của Y.Gơ-ra; Thời điểm của những sự thật [185] của Nava.H; Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa [220] của Tsuboi.Y; Roy.J viết tác phẩm Trận
Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp [195]; Câu chuyện về một nền hòa bình
bị bỏ lỡ [196] của J.Sainteny…
Các công trình trên với nhãn quan chính trị hoặc là của các chính khách,
hoặc là của các nhà khoa học, hoặc là nhân chứng lịch sử về phía đối phương cũng
có đề cập gián tiếp về quá trình tập hợp, tổ chức vận động nhân dân trong cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện này.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến công tác dân vận ở Việt
Bắc trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
Công trình Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-
2010) [27] của Ban Dân vận Trung ương. Bằng lịch sử phong phú, sinh động của
công tác dân vận từ thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, bất hợp pháp đến lúc trở
thành Đảng cầm quyền, trong chiến tranh và trong hoà bình, từ cuộc vận động giải
phóng dân tộc cho đến hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ; công tác dân vận
của Đảng luôn bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị của đội ngũ cán
bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí
của công tác dân vận. Việc vận động đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc trong thời kỳ
chống Pháp được khắc hoạ đậm nét trong cuốn sách. Các tác giả nhấn mạnh việc
xây dựng hậu phương, căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm kháng chiến dựa trên
cơ sở sự đoàn kết, đồng lòng của các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc dưới sự chỉ đạo
của Khu uỷ Liên khu. Các tác giả cũng chỉ rõ: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng luôn xác định công tác dân vận là một bộ phận cấu thành
quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng; là nhiệm vụ chiến lược, phải
23
được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi
tầng lớp nhân dân. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hơn 80 năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua bao gian nan, thử thách,
tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công trong Cách mạng Tháng Tám 1945, tiếp đó là
đấu tranh bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, trường kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa
lịch sử, một lần nữa cho thấy sự phát triển và trưởng thành của Đảng ta. Những kết
quả ấy không chỉ làm cho toàn Đảng, toàn dân vững tin đi tiếp chặng đường đã lựa
chọn mà còn khẳng định sự phát triển mới của Đảng trong việc khơi dậy và phát
huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng trong thời kỳ mới. Đồng thời chứng minh hùng hồn sức mạnh của mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Dân, là sức mạnh trường tồn của sự nghiệp bảo
vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Bộ Tư lệnh Quân khu I đã biên soạn và xuất bản cuốn Tổng kết chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954) tập I [58]. Công trình đã tổng kết những đặc điểm của
chiến tranh cách mạng tại chiến trường Việt Bắc. Diễn biến lớn về chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ chiến lược qua các thời kỳ: xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị và tiến
hành kháng chiến cùng chủ lực của bộ đội, đánh bại cuộc tiến công của Pháp lên
Việt Bắc; Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang Việt Bắc, phát triển chiến tranh
du kích kết hợp với tác chiến tập trung,...
Bộ Tư lệnh Quân khu I đã biên soạn và xuất bản Tổng kết chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954) tập III [59]. Công trình nêu lên những đặc điểm liên quan tới
công tác hậu cần ở Việt Bắc; trình bày công tác tổ chức và bảo đảm hậu cần cho lực
lượng vũ trang Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp; rút ra những kinh
nghiệm chủ yếu của hậu cần Việt Bắc; giới thiệu biên niên những sự kiện hậu cần
Việt Bắc…
24
Tác giả Cao Xuân Lịch trong tác phẩm Một số trận đánh trên chiến trường
Việt Bắc (1945-1954) [132] đã nhấn mạnh tinh thần cách mạng tiến công, ý chí
khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm, mưu trí sáng tạo của lực lượng vũ trang
Việt Nam nói chung và quân dân Việt Bắc nói riêng qua các trận đánh: Bông Lau,
Lũng Phồn, Cẩm Lý, Bản Chại, chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, chiến dịch
biên giới 1950…
Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Nguyễn Xuân Minh về An toàn khu
(ATK) Trung ương ở Việt Bắc (trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954)
[182] tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong luận án, tác giả khẳng định: Cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược kéo dài 9 năm đã
giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954)
và việc ký Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình
ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
trong đó có bài học về xây dựng và bảo vệ An toàn khu (ATK) nơi cư trú và hoạt
động của các cơ quan đầu não kháng chiến. An toàn khu (gọi tắt là ATK) là một
vùng an toàn, nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc, chủ yếu thuộc địa phận Nam Chợ
Đồn (Bắc Cạn). Định Hoá, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn
Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Đó là nơi ở và làm việc của các cơ
quan Trung ương Đảng, Chính phủ, mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh - Tổng chỉ huy và Bộ
Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm 1947-1954. An
toàn khu Trung ương ở Việt Bắc có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp
kháng chiến của dân tộc. Nó là một trong những nhân tố có tính chất quyết định đối
với thắng lợi của kháng chiến. Việc nghiên cứu ATK Trung ương ở Việt Bắc, khôi
phục quá trình xây dựng, bảo vệ ATK trong kháng chiến chông thực dân Pháp, là
điều rất cần thiết. ATK không phải là một đơn vị hành chính, mà là một khu vực
lãnh thổ trong vùng Việt Bắc. Đó là nơi có đầy đủ các yếu tố thuận lợi về điều kiện
tự nhiên và xã hội, nhất là có cơ sở quần chúng vững chắc, đảm bảo an toàn cho sự
hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của kháng chiến. Nghiên cứu ATK
Trung ương, ngoài nội dung dựng lại quá trình xây dựng, bảo vệ lực lượng mọi mặt,
bảo vệ địa bàn và đất đứng chân, tác giả còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân
25
các dân tộc đối với cuộc kháng chiến nói chung và trong việc xây dựng, bảo vệ
ATK Trung ương nói riêng.
Cuốn sách Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) [1] của tác giả Vũ Văn Ba đã tái hiện lại quá trình hình thành, phát
triển chiến tranh du kích trên chiến trường Việt Bắc giai đoạn từ năm 1940 đến năm
1954, qua đó cuốn sách đã khái quát những đặc trưng của chiến tranh du kích trong
khởi nghĩa vũ trang, kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Việt Bắc, góp phần
to lớn trong chiến tranh cách mạng của Việt Nam.
Công trình Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930-1996) [28] của Ban Dân vận Trung ương đã nghiên cứu một cách toàn diện
và sâu sắc quá trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
các thời kỳ từ 1930-1996 và những bài học lịch sử về công tác dân vận của Trung
ương Đảng.
Luận văn thạc sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc về An toàn khu
Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc [188] thực hiện tại Đại học Sư
phạm Thái Nguyên. Trong luận văn, tác giả đã chỉ rõ: Căn cứ địa Việt Bắc là nơi
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh triển khai và xúc tiến mạnh mẽ quá
trình chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa, xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, lãnh
đạo và động viên nhân dân cả nước đứng lên giành chính quyền tháng 8-1945.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc được Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh quyết định xây dựng và củng cố làm chỗ đứng chân của các cơ
quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở
trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể
giữ”, có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của
các cơ quan đầu não kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân
các dân tộc huyện Định Hoá sớm nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình, đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh và những
thế mạnh của địa phương, làm tròn vai trò của một An toàn khu Trung ương trong
căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.
26
Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Phan Thị Thoa về Hoạt động tài chính ở
Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1945-1954)
[202] thực hiện tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án tìm hiểu về các hoạt động
tài chính ở Liên khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ
1946-1954. Vai trò lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, những đóng góp của quần
chúng nhân dân trên phương diện tài chính. Từ đó khẳng định những giá trị to lớn,
ý nghĩa sâu sắc của vấn đề đối với sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954).
Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Âu Thị Hồng Thắm về Tỉnh Bắc Kạn trong
Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942 đến năm 1954 [201] tại Học viện Khoa học xã
hội. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các cơ sở cách mạng
nói riêng, phong trào quần chúng nói chung ở Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ
năm 1942 đến năm 1945; Sự ra đời, phát triển của căn cứ kháng chiến và phong trào
đấu tranh ở Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1946 đến năm 1954 - Làm
rõ vị trí, vai trò và đóng góp của Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942
đến năm 1954.
Luận án tiến sĩ lịch sử về Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng (1949-1956) [129] của tác giả Nguyễn Thị Lan tại Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn. Luận án tập trung nghiên cứu và làm rõ quá trình Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc thành lập và thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ tháng 10-1949 đến
7-1952, thời kỳ thực hiện chỉnh đốn Đảng từ 7-1952 đến 7-1954, giai đoạn chỉnh
đốn Đảng gắn với giảm tô, cải cách ruộng đất từ tháng 7-1954 đến 8-1956.
Cuốn sách Việt Bắc chiến thắng [198] của Sở Thông tin Chiến khu IV đã ghi
lại những chiến công oanh liệt của quân và dân Việt Bắc trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp: trận ngã ba Đoan Hùng, trận đèo Bông Lau, trận Phủ Thông...
Phòng Tuyên truyền Liên khu Việt Bắc đã biên soạn và xuất bản cuốn sách
10 trận thắng lớn xuân hạ 1949 [193]. Cuốn sách giới thiệu 10 trận đánh lớn trên
mặt trận Việt Bắc để chuẩn bị tổng phản công: phục kích Điền Xá; tiêu diệt đồn và
phá cầu Bản Trại; tiêu diệt đồn Đèo Khách; kỳ tập Móng Cái; phục kích Châu Sơn;
phục kích Thất Khê - Lũng Phẩy...
27
Đề cập tới cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc có thể kể đến các
công trình sau:
Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam (2006), Lịch sử Chính phủ
Việt Nam - tập I (1945-1955) [17]; Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Quốc hội Việt Nam
(2000), Lịch sử Quốc hội Việt Nam - (1946-1960) [18]; Bộ Quốc phòng, Viện Lịch
sử Quân sự Việt Nam (1990), Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975)
[67]; Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK
Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1954) [52]; Đảng ủy - Ban Chỉ huy
Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn - Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945-1954) [87]; Đảng ủy - Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Lào Cai (2001), Lào
Cai - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) [88]…
Ngoài ra trong các công trình lịch sử Đảng bộ địa phương cũng đề cập tới
những nội dung công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
như: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang (1926-1975) [2]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn [3]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (2003), Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000) [4]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang
(2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang [5]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu
(1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập I (1945-1975) [6]; Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Lạng Sơn (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn [7]; Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Lào Cai (1993), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai [8]; Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ [9]; Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Sơn La (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La [10]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên [11]; Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975) [12];
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
[13]; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái
[14]… Những công trình trên đề cập đến lịch sử của Chính phủ, Quốc hội, các ban,
ngành và các địa phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên nhiều
phương diện khác nhau, trong đó, cũng đã đề cập đến công tác dân vận của Đảng
trên một vài khía cạnh, ở các địa phương, các ban ngành…
28
1.2. NHỮNG NỘI DUNG LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN MÀ CÁC
CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐỀ CẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG
NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT
1.2.1. Những nội dung liên quan tới luận án mà các công trình đã đề cập
Qua các công trình đã công bố có thể thấy đã có rất nhiều các công trình của các
học giả trong và ngoài nước viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của Đảng và nhân
dân. Trong các công trình đó nội dung về công tác dân vận của Đảng được đề cập, đã
được phản ánh ở những mức độ khác nhau:
- Một số công trình khoa học đã đề cập đến vấn đề lý luận chung về công tác
dân vận của Đảng trong các thời kỳ cách mạng nói chung cũng như trong kháng
chiến chống Pháp nói riêng.
- Làm rõ được chủ trương, quan điểm của Đảng nói chung về cuộc kháng
chiến chống Pháp, trong đó có liên quan tới chủ trương, quan điểm tập hợp lực lượng,
vận động, tổ chức quần chúng thực hiện đường lối kháng chiến.
- Phác họa được bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
của nhân dân Việt Nam đặc biệt là những khó khăn, thách thức mà nhân dân Việt
Nam phải đối mặt.
- Đánh giá thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong
đó đề cập tới thành công của Đảng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong kháng
chiến. Vì vậy, có liên quan tới công tác dân vận của Đảng qua các chặng đường
kháng chiến.
Nhìn chung, cho đến nay, các công trình đã nghiên cứu về chủ trương chính
sách của Đảng đối với công tác dân vận trong thời kỳ chống Pháp nhưng mới chỉ dừng
lại ở những nét khái quát, trên những lĩnh vực cụ thể hoặc ở một vài vùng hoặc địa
phương cụ thể. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
từ góc độ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Trong khuôn khổ đề tài luận án tiến sĩ, tôi tập trung nghiên cứu, giải quyết
những vấn đề sau:
29
- Tổng thuật phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án đã được
trình bày ở trên.
- Hệ thống hoá tư liệu, tập hợp tư liệu, tài liệu lịch sử về công tác dân vận của
Trung ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và Đảng bộ các tỉnh trên địa bàn Liên
khu Việt Bắc giai đoạn từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng trong
kháng chiến chống Pháp. Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng khi cả
nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống và toàn diện các chủ trương chính
sách của Trung ương Đảng, quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc về công tác dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Qua khảo sát thực địa một số di tích lịch sử cách mạng, bảo tàng quân khu,
bảo tàng các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là các tỉnh trước đây
thuộc Liên khu Việt Bắc; trao đổi, phỏng vấn một số nhân chứng lịch sử, các
chuyên gia về lĩnh vực kháng chiến chống thực dân Pháp và lĩnh vực dân vận, qua
đó tái hiện quá trình tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Trung
ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1954.
- Đánh giá khách quan những thành công, hạn chế và nguyên nhân của công
tác dân vận trên địa bàn Liên khu Việt Bắc của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc qua các dữ liệu lịch sử cụ thể. Từ đó, luận án đúc kết một số kinh
nghiệm chủ yếu góp phần tiếp tục hoàn thiện chủ trương chính sách của Đảng về
công tác dân vận trong tình hình hiện nay.
30
Chương 2
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC
TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG
Ở LIÊN KHU VIỆT BẮC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN
2.1.1. Khái quát chung về địa bàn Việt Bắc
Địa danh “Việt Bắc” được biết đầu tiên là một vùng lãnh thổ trong quá
trình vận động cuộc cách mạng tháng Tám. Theo tác phẩm “Kinh nghiệm Việt
Minh ở Việt Bắc”, do Mặt trận Việt Minh phát hành tại Việt Bắc tháng 2-1944,
“Việt Bắc là khái niệm được dùng để chỉ những tỉnh trung du và thượng du Bắc
Kỳ, địa thế hiểm trở, nhiều núi rừng, giao thông thiếu thốn, dân chúng phần đông
là dân tộc thiểu số” [79, tr. 486].
Địa hình Việt Bắc chia thành 2 vùng rõ rệt là vùng thượng du và vùng trung
du. Rừng núi chiếm 90% diện tích lãnh thổ với nhiều vùng núi đất, rừng già xen với
những vùng núi đá vôi cùng mật độ sông suối khá dày. Cả ba mặt: Bắc, Tây Nam và
Đông Nam của Liên khu là những dãy núi đá cao bao bọc, tạo thành một phòng
tuyến thiên nhiên hùng vĩ. Dãy Tam Đảo với đỉnh cao 1.591m là bình phong phía
Tây. Dãy Cứu Quốc chạy từ Cao Bằng tới Bắc Kạn che chắn phần Đông Bắc. Dãy
Bảo Đài có thung lũng Chi Lăng chạy theo đường số 1 và đường sắt phía nam. Dãy
Yên Tử nhìn xuống đường 18 và sông Bạch Đằng. Trên các dãy núi đá có nhiều
hang động, có thể sử dụng làm nơi ẩn nấp và cất giấu lương thực, thực phẩm an
toàn như: hang Pác Pó (Hà Quảng, Cao Bằng), hang Phượng Hoàng (Võ Nhai, Thái
Nguyên), hang Nà Pài (Chợ Đồn, Bắc Kạn)…
Việt Bắc có nhiều sông, suối như sông Lô, sông Thương, sông Gâm… Sông
Lô bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) xuyên dọc Hà Giang, chảy qua Tuyên
Quang, xuôi về Phú Thọ hợp với sông Hồng tại Việt Trì (Phú Thọ) - Đây là tuyến
đường thuỷ quan trọng nối liền nhiều tỉnh Việt Bắc với nhau, với thủ đô Hà Nội và
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Sông Gâm cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua
Cao Bằng, Hà Giang đổ vào Na Hang (Tuyên Quang). Hệ thống sông, suối dày đặc
31
ở khắp các tinh trên địa bàn Liên khu vừa là nguồn cung cấp nước, thuỷ sản phục vụ
đời sống và sản xuất của đồng bào Việt Bắc, vừa đóng vai trò quan trọng về mặt
giao thông. Tuy nhiên, do lòng hẹp với độ dốc khá lớn, hệ thống sông ngòi trên địa
bàn Việt Bắc thường gây nguy hiểm cho thuyền bè qua lại nhất là vào mùa mưa từ
tháng 3 đến tháng 8, nước lũ dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết; trong khi đó
vào mùa khô nước cạn nên thuyền bè đi lại cũng rất khó khăn.
Về mặt giao thông, từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau khi thiết lập chế độ
thuộc địa ở Việt Nam, thực dân Pháp đã mở một số con đường nối Việt Bắc với
miền xuôi như: đường thuộc địa số 4 chạy dọc biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng
qua Lạng Sơn đến Tiên Yên (Quảng Ninh) dài 300 km; đường thuộc địa số 3 từ
Cao Bằng xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên về Hà Nội với chiều dài 286 km; đường
thuộc địa số 1 chạy dọc đường sắt từ Hữu Nghị quan qua Lạng Sơn, Bắc Giang,
Bắc Ninh đến Hà Nội dài 170 km. Bên cạnh đó, Việt Bắc còn có các tuyến đường
liên tỉnh như đường 1b (Lạng Sơn - Thái Nguyên); đường 2b (Thái Nguyên -
Tuyên Quang); đường 3b (Bắc Kạn - Cao Bằng). Trên những con đường này, xe
cơ giới có thể qua lại nhưng gặp nhiều nguy hiểm vì mặt đường hẹp, hiểm trở,
nhiều đèo, dốc cao và dài như đèo Giàng, đèo Gió (đường số 3); đèo Bông Lau,
đèo Lũng Phầy (đường số 4).
Việt Bắc là địa bàn quan trọng về chiến lược, là “nơi dụng binh lợi hại”, “tiến
có thể đánh, lui có thể giữ”. Đặc biệt, từ Việt Bắc phong trào cách mạng Việt Nam dễ
dàng liên lạc với phong trào cách mạng thế giới, trước hết là với cách mạng Trung
Quốc ở phía Bắc, cách mạng Lào ở phía Tây Bắc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, tiến
hành liên minh chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Việt Bắc là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có và đa dạng. Với diện
tích rừng rậm rộng lớn, Việt Bắc có nhiều loại gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,
pơmu và bạt ngàn tre, nứa, song, mây; các loại dược liệu như sa nhân, thục sâm,
tam thất và các loại hạt có dầu như sở, trẩu, lai; các đặc sản như nấm hương, mộc
nhĩ, mật ong, cùng nhiều chủng loại động vật quý hiếm như hổ, báo, gấu, trăn, tắc
kè và đặt biệt là voọc mũi hếch… Việt Bắc có nhiều loại khoáng sản quý như sắt,
than, bô-xít, mangan, lưu huỳnh, vàng, bạc, các loại đá quý…
32
Việt Bắc còn có nguồn tài nguyên đất đai, gồm: Đất phù sa, được hình
thành do quá trình bồi đắp dọc các con sông, suối, được phân bố chủ yếu vùng
Quảng Ninh, Bắc Giang và Thái Nguyên; đất xám bạc màu, phân phố ở Bắc
Giang, Thái Nguyên, Quảng Yên; đất đỏ vàng (đất Feralit) phân bố chủ yếu ở
Quảng Yên, Hải Ninh, đất nâu đỏ trên đá magma bazơ và trung tính phân bố ở
Lạng Sơn, Thái Nguyên; đất đỏ nâu trên đá vôi, tập trung ở Cao Bằng, Lạng Sơn,
Bắc Kạn, có thể trồng cây lương thực, hoa màu và các cây công nghiệp. Việt Bắc
không chỉ có ruộng bậc thang đặc trưng của khu vực Tây Bắc, mà còn có những
cánh đồng lúa lớn trải dài: cánh đồng Mường Lò (Yên Bái), cánh đồng Mường
Tấc (Sơn La), cánh đồng Mường Than và Mường Thanh (Lai Châu), trong đó
cánh đồng Mường Thanh diện tích lên tới 140 km2.
Tuy có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng dưới sự thống trị của
thực dân Pháp, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc Việt Bắc không phát
triển, trình độ sản xuất lạc hậu, chủ yếu nặng về khai thác thủ công, trồng trọt và
chăn nuôi. Dù còn rất nhiều khó khăn, nhưng trong cuộc kháng chiến kiến quốc,
nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã từng bước khai thác, tận dụng nguồn tài nguyên
thiên giàu có, xây dựng nền kinh tế kháng chiến, phát huy tích cực nền kinh tế tự
cấp, tự túc, ra sức đóng góp sức người, sức của thực hiện nhiệm vụ kháng chiến.
Việt Bắc là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc, gồm: Kinh, Tày, Nùng, Thái,
Mường, H’mông, Dao, Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), Sán Dìu, Giáy, Khơ-mú,
Kháng, Xinh-mun, Hà Nhì, Lào, La Chí, La Ha, Phù Lá, La Hủ, Lự, Lô Lô, Mảng,
Pà Thẻn, Cơ Lao, Cống, Bố Y, Si La, Pu Péo. Ngoài ra, Việt Bắc còn có một bộ
phận nhân dân theo đạo Công giáo, sinh sống trên địa bàn các tỉnh: Bắc Ninh, Lạng
Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang và một bộ phận Hoa kiều sinh sống và định cư ở vùng
Quảng Ninh. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc nơi đây với
truyền thống yêu nước, lao động cần cù, đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn
nhau đã chung lưng đấu cật, xây dựng quê hương đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ vùng “phên dậu” trọng yếu của đất nước.
Khi thực dân Pháp xâm lược và thiết lập ách thống trị ở Việt Nam, nhân dân
các dân tộc Việt Bắc đã liên tiếp đứng lên chống xâm lược. Đặc biệt, từ khi Đảng
33
Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Việt Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đấu
tranh cách mạng, gây dựng và phát triển lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân năm 1945. Việt Bắc được Trung ương Đảng chọn làm
nơi đứng chân các cơ quan đầu não của cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, nơi gắn liền với những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, Việt Bắc một lần nữa được Trung
ương Đảng chọn làm căn cứ địa cách mạng.
Truyền thống yêu nước và cách mạng, tình đoàn kết yêu thương, tương trợ
lẫn nhau của đồng bào các dân tộc cùng địa thế hiểm trở của vùng căn cứ địa cách
mạng là điều kiện thuận lợi trong việc đảm bảo bí mật cho quá trình tiến hành công
cuộc kháng chiến, cũng như trong công tác dân vận của Đảng với đồng bào các dân
tộc trên địa bàn Việt Bắc.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, công tác dân vận của Đảng ở Việt Bắc
cũng gặp những khó khăn do phần lớn địa bàn Việt Bắc là khu vực miền núi, dân cư
thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn, sự khác biệt về phong tục, tập quán sinh hoạt,
ngôn ngữ, nhất là trình độ học vấn hạn chế của nhân dân các dân tộc Việt Bắc nên
công tác dân vận của Đảng gặp nhiều khó khăn cần khắc phục.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Việt Bắc chính thức có 3 khu
hành chính - quân sự gồm: Khu I (gồm 4 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Phúc Yên), Khu X (gồm 6 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên
Quang, Vĩnh Yên) và Khu XII (gồm 6 tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải
Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai). Tháng 7-1947, Khu XIV được thành lập, cũng nằm
trong địa bàn của Việt Bắc (gồm 2 tỉnh: Sơn La, Lai Châu và một phần tỉnh Phú
Thọ, châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình).
Để thống nhất việc chỉ huy và củng cố các cấp bộ Đảng, ngày 20-01-1948,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 120/SL về việc thống nhất Khu I và Khu
XII thành Liên khu I (gồm 10 tỉnh vùng Đông Bắc là: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc
Yên); Khu X và Khu XIV hợp nhất thành Liên khu X (gồm 8 tỉnh vùng Tây Bắc và
34
Trung du Bắc Bộ là: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh
Yên, Lai Châu, Sơn La và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình).
Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 29-9-
1949 Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 28 về việc thống nhất hai Liên khu I và X
thành Liên khu Việt Bắc. Nghị quyết Hội nghị thống nhất hai liên khu I và X đã
được Trung ương Đảng thông qua ngày 27, 28-10-1949, Liên khu Việt Bắc chính
thức được thành lập. Đến ngày 4-11-1949, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã ra Sắc lệnh số 127 về hợp nhất Uỷ ban kháng chiến của hai Liên khu I và X
thành Uỷ ban Hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc. Sự ra đời của Liên khu
Việt Bắc thể hiện một bước phát triển mới của cuộc kháng chiến trên địa bàn trung
du và vùng núi phía Bắc, đồng thời đặt ra những nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình thực hiện công tác dân vận của Đảng ở khu vực này.
Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động của Liên khu Việt Bắc trong 17 tỉnh, đến
năm 1950, tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành Vĩnh Phúc. Trước yêu cầu
mới của cuộc kháng chiến, ngày 27-7-1952, Trung ương Đảng ra Nghị quyết thành
lập khu Tây Bắc. Các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái của Liên khu Việt
Bắc cắt ra thành lập khu Tây Bắc. Theo Nghị quyết số 45 của Bộ Chính trị, ngày
28-8-1954, khu Tây Bắc cắt lại 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái về Liên khu Việt Bắc.
Ngày 17-2-1955, Trung ương quyết định thành lập Đặc khu Hồng Quảng gồm có
đặc khu Hồng Gai và tỉnh Quảng Yên trực thuộc Trung ương. Đến ngày 12-6-1956,
Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu tự trị Việt Bắc, ngày 19-8-1956, Khu tự trị
Việt Bắc chính thức hoạt động và Liên khu Việt Bắc ngừng hoạt động. Lãnh đạo
các mặt công tác trong Liên khu Việt Bắc có Liên khu uỷ Việt Bắc cũng được thành
lập từ các liên khu uỷ tiền thân, nó hoạt động trong khoảng thời gian từ tháng 12-
1949 đến tháng 11-1956.
2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận trong
những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,
mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do. Nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo
35
của Đảng, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được. Đảng ra hoạt động công
khai và lãnh đạo chính quyền. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể tổ chức chính trị
xã hội như: Hội Thanh niên, Hội Công thương... phát triển nhanh chóng.
Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam non trẻ phải đương đầu với
muôn vàn khó khăn, thách thức. Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Kinh tế
đình đốn, hầu hết các cơ sở sản xuất đều đóng cửa, hàng vạn công nhân không có
việc làm. Nạn đói từ cuối 1944 đến đầu năm 1945 làm chết gần 2 triệu đồng bào.
Hàng chục vạn hecta ruộng đồng bỏ hoang. Mùa mưa bão năm 1945, vỡ đê sông
Hồng làm ngập lụt 9 tỉnh Bắc Bộ, khiến cho đời sống nhân dân thêm khó khăn.
Ngân khố quốc gia chỉ còn 1.233.000 đồng, trong đó hơn một nửa là tiền rách. Việc
buôn bán, giao lưu trao đổi trong nước với nước ngoài bị đình trệ. Về tình hình xã
hội, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ, các tệ nạn, hủ tục lạc hậu của chế độ cũ
thực sự là gánh nặng cho chính quyền cách mạng non trẻ.
Thù trong, giặc ngoài cấu kết hòng tiêu diệt nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ
quốc lâm nguy!
Trước những khó khăn và thách thức của lịch sử, ngày 3-9-1945, trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ
cấp bách nhằm vận động nhân dân thực hiện ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để
chống đói; mở phong trào xóa nạn mù chữ; tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử theo chế
độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân; phát động
phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ
thực dân để lại; bỏ ba thứ thuế gồm thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút
thuốc phiện; tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người nêu ba
nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, giặc ngoại xâm.
Ngày 7-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà đã ký Sắc
lệnh số 11 về Bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác nhằm cải cách chế độ thuế
khoá, đỡ gánh nặng cho dân chúng, giảm thuế điền thổ 20% trong cả nước, chủ
36
trương giảm tô 25%, miễn thuế cho vùng lũ lụt, thành lập Ban khuyến nông với
nhiệm vụ giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về vốn, giống, nông cụ, sức kéo…
Từ ngày 10 đến ngày 11-9-1945, Hội nghị Cán bộ Bắc Kỳ của Đảng Cộng
sản Đông Dương được triệu tập, Trung ương Đảng mở cuộc vận động toàn dân,
nhất là đối với công nhân, thanh niên, phụ nữ nhằm kêu gọi xây dựng khối đoàn
kết các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Uỷ ban nhân dân các
cấp trong cả nước (tỉnh, kỳ, huyện và làng) về công tác vận động quần chúng nhân
dân. Người nhấn mạnh: “…việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có
hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu
ta, kính ta” [167, tr. 65].
Thực hiện nhiệm vụ cách mạng cấp bách đang đặt ra, Trung ương Đảng lãnh
đạo các đoàn thể vận động toàn dân tham gia thực hành tiết kiệm, tăng gia sản xuất,
cứu đói và xoá nạn mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Tăng gia sản xuất!
Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa… Đó là cách thiết thực để ta giữ
vững quyền tự do, độc lập” [175, tr. 115]. Trong bức thư gửi đồng bào cả nước ra
sức chống đói, Người viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ,
chúng ta không khỏi động lòng. Vậy, tôi đề nghị đồng bào cả nước và tôi xin thực
hành trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi
bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [175, tr. 33]. Mặt trận Việt Minh, Ban cứu tế xã hội
và các đoàn thể cứu quốc phát huy mọi khả năng, làm tốt công tác dân vận, tổ chức
những đoàn vận động cứu đói. Đảng và Chính phủ chỉ đạo phong trào, vận động
nhân dân tăng gia sản xuất. Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, “tấc đất
tấc vàng”, phong trào thi đua dấy lên ở khắp các địa phương trong cả nước.
Ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời công bố Sắc lệnh số 14 về Tổng tuyển
cử để bầu Quốc dân đại hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc bầu
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, soạn thảo Hiến pháp để
nhanh chóng khẳng định tính pháp lý của chính quyền nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định:
37
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng
tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ứng cử, hễ là
công dân thì đều có quyền đi bỏ phiếu, không chia gái, trai, giàu, nghèo,
tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều
có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng,
tức là dân chủ, đoàn kết [175, tr. 153].
Để thu hút tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng, Trung ương Đảng chủ
trương thành lập Ban Dân vận phụ trách các giới. Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập với mục đích: Đoàn kết
tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn
giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập thống nhất -
dân chủ - phú cường; Ngày 27-5-1946, Hội nghị Đại biểu Công nhân toàn quốc
quyết định thành lập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhằm đoàn kết và thống
nhất các tổ chức của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động công nghiệp, viên
chức nhà nước; Tháng 7-1946, Đảng đã vận động giới trí thức Việt Nam thành lập
Đảng Xã hội Việt Nam nhằm đoàn kết trí thức Việt Nam yêu nước; Ngày 20-10-
1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ra đời đã tập hợp rộng rãi phụ nữ yêu nước
trong các giai cấp, tầng lớp ở nông thôn và thành thị, thực hiện quyền lợi của chị
em phụ nữ và đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Để tăng cường công tác dân vận trước tình hình mới, Hội nghị cán bộ
Trung ương Đảng được tổ chức (từ ngày 31-7 đến ngày 1-8-1946). Trên cơ sở
đánh giá việc thống nhất các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, hội nghị đã chủ trương
củng cố và phát triển Hội Liên Việt ở Trung ương, các tỉnh thành… Về công tác
dân vận, hội nghị chủ trương thành lập Ban Công vận toàn quốc, xúc tiến việc xây
dựng công đoàn và các Liên đoàn lao động để tập hợp đông đảo công nhân và lao
động vào Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Về công tác vận động phụ nữ, Đảng
chủ trương chăm lo, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ ở các Xứ, chú ý đời sống cán bộ
nữ, xây dựng hình thức tổ chức thích hợp như hội “áo chiến sĩ”, “xã tế”, tái bản tờ
Tiếng gọi phụ nữ. Về công tác vận động thanh niên, Đảng yêu cầu Đoàn Thanh
38
niên cứu quốc cần quan hệ chặt chẽ với Nha Thanh niên, chú ý tổ chức học sinh,
sinh viên, tổ chức những nhóm thanh niên mác xít, chấn chỉnh Đoàn Thanh niên
Việt Nam để tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên.
Đảng đã phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở mang kiến thức
cho nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:
Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, mọi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những người chưa biết chữ…[175, tr. 40].
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật
đầu hàng, đã nổ súng đánh chiếm ở Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11-1946, quân
Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại Hà Nội,
quân đội thực dân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày
17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây
ra vụ thảm sát nhiều đồng bào ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở
cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946, Tướng Moóc-li-e gửi cho Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi
phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến
đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên
bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp
nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946 quân Pháp sẽ hành động.
Trong bối cảnh đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng
trong ngày 18 đến 19-12-1946 dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị
nhận định, thực dân Pháp đã cắt đứt mọi con đường đàm phán, cố tình gây ra cuộc
chiến tranh xâm lược, dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trên cơ sở đánh giá
tương quan so sánh lực lượng, Hội nghị khẳng định, cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam là cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy
khả năng hòa hoãn không còn. Địch đã công khai tuyên bố chúng sẽ hành động sáng
39
ngày 20-12 nếu Chính phủ Việt Nam khước từ những điểm nêu trong tối hậu thư của
chúng. Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát
động toàn dân kháng chiến và chủ động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi
thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội vào ngày 20-12-1946
như chúng đã nêu lên trong tối hậu thư gửi cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông),
Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết
định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Vào hồi 20 giờ ngày 19-12-1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu
cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngày 20-12-1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ,
Hà Đông), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Nhân dân cả nước đã đứng lên theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ...” [175, tr. 534].
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước,
là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh
hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; làm cho cả nước sục sôi đứng
lên chiến đấu với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", vì độc lập tự do thiêng
liêng của Tổ quốc.
Tháng 3-1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, đồng chí
Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật để
làm sáng tỏ thêm đường lối kháng chiến của Đảng. Những bài viết này được xuất
bản thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.
40
Trong đó, đồng chí Trường Chinh đã xác định mục tiêu của cuộc kháng chiến:
Dân tộc Việt Nam kháng chiến đánh bọn thực dân phản động Pháp xâm lược nhằm
giành độc lập và thống nhất; Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đồng
chí Trường Chinh chỉ rõ: Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng
đất nước, củng cố và mở rộng chế độ cộng hoà dân chủ. Cuộc kháng chiến của Việt
Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính. Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên nhân lực,
vật lực, tài lực của cả nước cho chiến đấu và để chiến thắng. Do tương quan lực
lượng giữa ta và địch chi phối, phương châm chiến lược là đánh lâu dài. Đó là một
quá trình vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng. Để đánh lâu dài, phải tự lực
cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do,
đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến đấu và chiến thắng kẻ
thù. Tác phẩm đã củng cố niềm tin, động lực và sức mạnh kháng chiến cho sự nghiệp
cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và sựa vào sức mình là
chính, Đảng tập trung công tác tuyên truyền, chăm lo bảo đảm đời sống nhân dân,
“dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu” [45, tr. 533]. Đồng thời,
ra sức phát huy vai trò của nhân dân vào củng cố Nhà nước và bộ máy kháng chiến.
Với nguồn lực hạn chế, phương châm chiến lược được xác định là đánh lâu dài, vừa
đánh vừa giữ gìn lực lượng. Do đó, các cấp tăng cường giác ngộ, tổ chức nhân dân,
động viên lực lượng toàn dân vào cuộc kháng chiến.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, công tác dân vận có nhiều thay
đổi cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”, kháng chiến toàn dân toàn diện được truyền tải, lan tỏa tới toàn thể dân
chúng, đông đảo các tầng lớp, các giới nhân dân đã nhất tề đứng dậy, anh dũng
chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Bước sang năm thứ 3 chống thực dân Pháp, giai đoạn đất nước khó khăn “vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc”. Nhằm động viên, phát huy tối đa sức người sức của cho
cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự
41
Thật, (120), ngày 15-10-1949 với bút danh X.Y.Z. Tác phẩm Dân vận hàm chứa
những quan điểm chủ trương lớn của Đảng trong công tác vận động quần chúng chỉ gói
gọn trong dung lượng gần 600 từ. Bài viết rất ngắn gọn nhưng đã đề cập, giải đáp
những vấn đề rất căn bản, cấp thiết của công tác vận động quần chúng nhân dân tham
gia các phong trào cách mạng. Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng, văn
phong xúc tích, mạch lạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo, bài báo đã đi vào
lòng người của bao thế hệ người Việt Nam.
Trong bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải 4 vấn đề cơ bản, quan trọng
và rất thiết thực trong công tác dân vận: Thứ nhất, tiền đề, cơ sở của công tác dân
vận. Thứ hai, dân vận là gì? Người đưa ra khái niệm: "Dân vận là vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".
Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân vào các phong trào
cách mạng. Thứ ba, “Ai phụ trách dân vận?”. Hồ Chí Minh chỉ rõ lực lượng làm
công tác dân vận là “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội
viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt Việt Minh, v.v...) đều phải phụ trách Dân
vận”. Thứ tư, “Dân vận phải thế nào?”. Đây chính là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt
ra về phương pháp dân vận với những yêu cầu rất cụ thể với cán cán bộ dân vận.
Người đúc kết, chỉ bằng 12 từ, những người làm công tác dân vận phải “óc nghĩ,
mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, chứ không phải chỉ nói xuông, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh. Cuối cùng, Người kết thúc bài báo bằng một câu mang tính
chân lý: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công” [169].
Nhận thấy âm mưu của thực dân Pháp sẽ quay trở lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng Trung ương Đảng lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa kháng chiến lâu dài đã thể
hiện rõ tầm nhìn lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn và khoa học. Do đã xác định được
căn cứ địa, các cấp đã khẩn trương di chuyển cơ quan, kho tàng, máy móc, nguyên
vật liệu và các vật dụng thiết yếu đến những nơi an toàn và lên chiến khu. Cuộc
tổng di chuyển diễn ra trong các tháng 10, 11 và 12-1946 với sự giúp đỡ của đông
42
đảo nhân dân các địa phương. Đến tháng 5-1947, cuộc tổng di chuyển hoàn thành,
đại bộ phận các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận
Việt Minh, quân đội đã ổn định tại thủ đô kháng chiến Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Bắc Kạn.
Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân, căn cứ địa kháng chiến
không ngừng được xây dựng, củng cố về mọi mặt, trụ vững trong cuộc kháng chiến
lâu dài của quân và dân Việt Nam. Việc vận động mọi tầng lớp nhân dân các dân
tộc trên địa bàn Việt Bắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là thành công lớn của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Trong những ngày đầu kháng chiến, khối đoàn kết toàn dân được tăng
cường, quần chúng nhân dân các dân tộc trên địa bàn Việt Bắc đa số đã được quy tụ
trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt với các đoàn thể Nông hội, Hội phụ nữ,
Hội thanh niên…. Các tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc
đã vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức của
xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.
Trong vùng địch tạm chiếm, công tác vận động các giới được tăng cường
bằng việc tổ chức công đoàn bí mật, phát huy vai trò của công đoàn trong việc tổ
chức sản xuất, chiến đấu, vận chuyển và đào tạo công nhân chuyên nghiệp.
Ở vùng tự do, các Đảng bộ ở Liên khu Việt Bắc chủ trương: động viên nông
dân hăng hái tham gia dân quân, xây dựng làng kháng chiến, phục vụ chiến đấu, sản
xuất; động viên giới trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, giáo dục tuyên
truyền kháng chiến; động viên thanh niên gia nhập quân đội, dân quân để chiến đấu
và phục vụ chiến đấu, tuyên truyền sản xuất, tham gia bình dân học vụ; động viên
phụ nữ tham gia cứu thương, tiếp tế, tăng gia sản xuất, giúp đỡ gia đình chiến sĩ.
Đối với đồng bào Công giáo, Trung ương Đảng đã chủ trương vận động giáo
dân tham gia kháng chiến, khắc phục những thành kiến, nhận thức lệch lạc với giáo
dân và giáo sĩ. Vạch trần những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của địch hòng chia rẽ
đồng bào với Chính phủ và Mặt trận Việt Minh.
43
Tổ chức Đảng, Mặt trận ở Liên khu Việt Bắc trực tiếp tham gia lãnh đạo
công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số chống lại âm mưu lập các vùng tự trị
của địch; chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào, tôn trọng phong tục
tập quán, thuyết phục và cảm hoá các Lang, Phìa, Thổ ty; lập uỷ ban dân tộc thiểu
số ở từng vùng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ dân vận.
Đối với Hoa kiều, Trung ương Đảng yêu cầu phải tôn trọng và bảo vệ tài sản,
giúp họ di cư, tản cư; phát huy vai trò của cán bộ người Hoa để vận động đồng bào
người Hoa, kịp thời chấn chỉnh lại Ủy ban Hoa vận.
Công tác địch vận được Đảng xác định không chỉ là công việc của bộ đội mà
là công việc quan trọng của Đảng, của các đoàn thể. Do vậy phải sử dụng nhiều
hình thức, tranh thủ mọi cơ hội để tuyên truyền, vận động làm tan rã tinh thần binh
lính địch. Cổ vũ lính Pháp phản chiến, đối xử nhân đạo với tù binh.
Để thực hiện các chủ trương của Trung ương, các tổ chức Đảng, chính quyền
địa phương đã đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Trên địa bàn Việt Bắc,
Khu X tiến hành tổ chức Hội Văn hóa kháng chiến tới cấp khu và có cán bộ phụ
trách riêng. Đối với tư sản, địa chủ đã đặt những hình thức tổ chức ở các địa
phương cho thích hợp; đối với đồng bào dân tộc thiểu số, Khu uỷ chỉ đạo tiến hành
đào tạo và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số; đối với đồng bào Công giáo chủ
trương gây một phong trào Công giáo chống thực dân Pháp, cử đồng bào Công giáo
tới chứng kiến những nơi bị giặc tàn phá. Thành lập các hội “bảo vệ tài sản và tính
mạng cho dân”; Ở Khu 12, việc đẩy mạnh công tác vận động đồng bào vùng địch
chiếm đóng, tiễu trừ thổ phỉ được Khu uỷ trực tiếp chỉ đạo thực hiện.
Ở các địa phương, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên
truyền “đoàn kết kháng chiến”, “mùa Đông kháng chiến” với nhiều hình thức như:
nói chuyện, bích báo, diễn thuyết… Đông đảo quần chúng đã tham gia ủng hộ bộ
đội, tiếp tế lương thực phục vụ kháng chiến.
Trên mặt trận đấu tranh quân sự, Trung ương Đảng chỉ đạo các địa phương
phải động viên đồng bào cả nước ra sức kháng chiến, lệnh cho toàn thể bộ đội, dân
quân tự vệ kiên quyết chiến đấu, xung phong tiêu diệt địch. Mỗi quốc dân phải là
một chiến sĩ, mỗi làng xóm phải là một chiến hào. Ở Việt Bắc, bộ đội vừa phân tán
44
làm công tác vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân kháng chiến, vừa rải lực
lượng thành phân đội ngăn chặn địch trên các tuyến đường vào căn cứ. Nhân dân ở
các địa phương Việt Bắc đã đóng góp sức người, sức của để xây dựng căn cứ địa,
nhiều gia đình đã nhường nhà để cán bộ ở, đóng cơ quan,… Hàng trăm đội du kích
thoát ly ra đời ngày đêm canh gác, bảo vệ căn cứ kháng chiến.
Như vậy, trong thời gian ngắn sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng đã định hình
ngày càng rõ những nội dung cơ bản, mục tiêu, đối tượng, phương pháp tiến hành
công tác dân vận trong bối cảnh mới - bối cảnh Đảng cầm quyền, thực hiện công tác
dân vận trong kháng chiến. Đây là cơ sở quan trọng để các Đảng bộ quán triệt và vận
dụng sáng tạo trong thực tế công tác dân vận.
Từ chủ trương trên, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã đạt thành công to lớn, góp phần quan trọng
vào thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến của Đảng. Nhân dân từ miền xuôi
đến miền ngược, từ đồng bằng đến miền núi, không phân biệt già trẻ, trai gái, thành
phần giai cấp, tôn giáo, dân tộc đã tích cực tham gia xây dựng chính quyền, tăng gia
sản xuất, cứu đói, xoá nạn mù chữ, chuẩn bị thực lực mọi mặt, chủ động sẵn sàng
bước vào cuộc chiến đấu đầy cam go, ác liệt để bảo vệ nền độc lập, tự do.
2.1.3. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ các Khu, Liên khu trên địa
bàn Việt Bắc từ tháng 12-1946 đến tháng 10-1949
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về xây dựng căn cứ địa kháng
chiến, Khu uỷ các Khu I, X, XII, XIV (từ ngày 20-1-1948, 4 khu được sáp nhập
thành 2 liên khu là Liên khu uỷ I và Liên khu uỷ X) và các Tỉnh uỷ trên địa bàn
Việt Bắc nhanh chóng triển khai tuyên truyền nội dung các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng để vận động quần chúng nhân dân đẩy mạnh công tác chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài của dân tộc.
2.1.3.1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ I
Khu I được thành lập tháng 11-1946, bao gồm 4 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Phúc Yên. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu uỷ I
tăng cường công tác vận động đồng bào các dân tộc, các giới, các tổ chức đoàn thể
quần chúng trên địa bàn Khu tham gia ủng hộ cách mạng và xây dựng căn cứ địa
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
45
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 15-10-1947 về chủ trương vận
động nhân dân phá cuộc tấn công mùa đông của thực dân Pháp, các cán bộ, các đồng
chí của Cứu quốc Hội Khu uỷ I đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
tham gia phá cuộc tấn công mùa đông của thực dân Pháp. Hướng dẫn cho quần chúng
làm vườn không nhà trống, tăng gia sản xuất, ủng hộ bộ đội. Tuyên truyền cho dân
không sợ và không khinh địch, hiểu âm mưu tấn công lên Việt Bắc của thực dân
Pháp, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Ngoài ra, công tác tuyên
truyền còn nhằm vào việc vạch rõ những hành động dã man, tàn bạo của giặc đối với
đồng bào, đối với tôn giáo ngay trên địa bàn Khu. Trong các cuộc kỷ niệm cách
mạng, Khu uỷ nêu cao vai trò lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc của Cứu quốc
Hội, tinh thần hy sinh chiến đấu của các chiến sĩ cộng sản.
Các hình thức vận động, tuyên truyền của Khu uỷ I rất đa dạng, dễ nghe, dễ
hiểu, bao gồm các hình thức cơ bản như:
Phát thanh tin tức kèm theo các khẩu hiệu hô hào, được quần chúng chú
ý nghe; triển lãm tranh ảnh lưu động đạt được nhiều kết quả; Sở Thông
tin Khu có Đoàn Ca kịch Việt Bắc với hình thức chèo, cải lương tượng
trưng các khẩu hiệu thành một màn kịch, đã thu được nhiều kết quả
trong hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn; tranh ảnh được vẽ và phát cho
các phòng để bày, Sở Thông tin Khu cũng phát hành được một số tranh
địch vận, kinh nghiệm Việt gian in màu; mít tinh - biểu tình là hình
thức tuyên truyền được các cơ quan thông tin dùng trong những dịp kỷ
niệm Tổng Khởi nghĩa, Quốc khánh… do các đoàn thể quần chúng
chúng hay các Uỷ ban Kháng chiến, Uỷ ban Hành chính địa phương
triệu tập [226, tr. 8].
Đến cuối năm 1947, toàn Khu I đã có 2 tờ báo lớn là Tờ Việt Bắc Quyết
chiến (tuần báo do Phòng Chính trị - Bộ Chỉ huy Vệ quốc Đoàn - Chiến khu I phụ
trách), tờ báo này chỉ phát hành trong quân đội và gửi các cơ quan nên dân chúng ít
được xem; Tờ Ánh sáng (tuần báo do Khu bộ Việt Minh Khu I phụ trách), báo này
có tính chất huấn luyện, số lượng báo in ra ít chỉ đủ chia đi các tỉnh bộ, huyện bộ,
các đoàn thể cứu quốc và các cơ quan.
46
Cứu quốc Hội ở các tỉnh trên địa bàn Khu I rất chú trọng công tác tuyên
truyền với nhiều hình thức và nội dung phong phú như:
Hội Văn hoá mác-xít ở tỉnh, ở các huyện có Uỷ ban Tuyên truyền công
khai sách mác-xít và báo Sự thật. Hình thức tuyên truyền cá nhân đa
dạng, gây thêm uy tín cho cách mạng, công tác cách mạng khoa học và
nhân dân hiểu chiến sỹ cách mạng đã dày công nghiên cứu, một số đông
trí thức trước kia xa lánh, thờ ơ với cách mạng, nay thì gần gũi và tham
gia cách mạng [217, tr. 2-3].
Công tác dân vận của Khu uỷ I trong thời kỳ này đã đạt được những thành
công trên nhiều mặt như: Chấn chỉnh công tác dân vận của các Tỉnh uỷ Cao Bằng,
Bắc Kạn, Thái Nguyên và Phúc Yên về việc vận động nhân dân tham gia phá tan
cuộc tiến công mùa đông của thực dân Pháp; Công tác chuẩn bị kháng chiến nói
chung và công việc dân quân, tuyên truyền đến nhân dân tiến bộ hơn trước; Xoá bỏ
tư tưởng địa phương hẹp hòi trong các cấp và gây dựng tinh thần đoàn kết giữa
quân đội, hành chính và mặt trận. Công tác vận động, lôi kéo thân hào, thân sĩ ở
Khu I đạt kết quả cao (đặc biệt là ở Phúc Yên) nhờ thực hiện đúng đắn chủ trương
của Đảng. Khu uỷ I đã mạnh dạn điều động những cán bộ dân vận có năng lực tham
gia công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ kháng chiến.
Bên cạnh những thành tựu nổi bật thì công tác dân vận của Khu uỷ I cũng tồn
tại một số hạn chế: Bộ máy làm công tác dân vận từ cấp Khu đến các cấp dưới chưa
có sự liên kết, Khu uỷ chưa đi sát phong trào và chỉ đạo chưa kịp thời cấp dưới. Công
tác dân vận Khu vẫn chưa rút được kinh nghiệm trong công tác vận động quốc dân
thiểu số và chưa có kế hoạch đặc biệt đối với phong trào quốc dân thiểu số. Công tác
tuyên truyền, xuất bản báo, sách đã có nhưng chưa thực hiện được công tác tuyên
truyền báo Cứu quốc, Sự thật tới được các tầng lớp nhân dân.
2.1.3.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ X
Sau khi được thành lập, Khu uỷ X gồm có 6 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên
Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Đây là địa bàn có nhiều đồng bào các dân
tộc thiểu số sinh sống, chính vì vậy, Khu uỷ X xác định, công tác dân vận của Khu
là vận động đồng bào các dân tộc ủng hộ và tham gia kháng chiến. Các tiểu ban
47
chuyên môn: công vận, thanh vận, phụ vận, công giáo vận, Hoa vận vẫn hoạt động
đều và phát triển mới phù hợp với tình hình kháng chiến của Khu.
Thực hiện chủ trương của Khu uỷ X về công tác dân vận, trong Nghị quyết
Hội nghị Khu uỷ X ngày 28-4-1947 về công tác Vùng dân tộc thiểu số đã chỉ rõ: Đối
với đồng bào dân tộc thiểu số cần phải đem lại quyền lợi thực tế cho họ (đặt phòng
phát thuốc, mở trường học, tiếp tế bán muối rẻ cho đồng bào); Đề nghị lên Chính phủ
xoá thuế ở những làng bị địch tàn phá nặng nề như ở Quang Huy, Thu Cúc…
Có hình thức khen thưởng cho những thủ lĩnh dân tộc thiểu số tốt. Với
đồng bào công giáo, phải tích cực hoạt động ở những nơi công giáo đông
đúc, phải đào tạo những cán bộ công giáo ngay ở các địa phương, làm tai
mắt cho cách mạng. Với bà con Hoa kiều cần đặc biệt chú ý đến công tác
Hoa vận miền biên giới Lào Cai nơi bà con Hoa kiểu tản cư và tập trung
rất đông, nên tiếp tế muối gạo cho họ được mua dễ dàng và có thể cho họ
được hưởng một phần nào về chế độ di cư, tản cư của Chính phủ, để tỏ
rõ Hoa - Việt thân thiện nhưng không quên đề phòng bọn gián điệp cho
Tưởng và cho Pháp [120, tr. 1].
Công tác vận động đồng bào thời gian này đã có những kết quả rõ rệt: Tinh
thần nhân dân lên khá cao và có ý thức hơn, nhất là sau trận thắng sông Lô. Đồng
bào đã biết cách thức làm vườn không nhà trống, sơ tán, báo động được thi hành
trong dân chúng. Đồng bào công giáo đa số tốt, nhiều nơi đồng bào căm phẫn vì
thực dân Pháp phá nhà thờ, đồng bào công giáo đấu tranh không tham gia Liên đoàn
Công giáo phản động.
Sau Hội nghị ngày 28-4-1947 về công tác Vùng dân tộc thiểu số, Khu uỷ X
tiếp tục tổ chức Hội nghị Cán bộ Cứu quốc Hội toàn khu từ ngày 19 đến ngày 22-9-
1947, Nghị quyết Hội nghị xác định: “Nhiệm vụ công tác dân vận của Khu uỷ thời
kỳ này trước hết là: Cải thiện đời sống sinh hoạt cho nhân dân, các cấp phải hết sức
chú trọng việc cải thiện sinh hoạt cho nhân dân và do đó làm cho nền kinh tế trong
Khu phát triển” [154, tr. 6];
Dùng các nhà tư sản trí thức tốt, có danh vọng, năng lực vào các cơ quan
chính quyền, các ngành văn hoá, chuyên môn; Vấn đề dân tộc thiểu số:
48
nghiên cứu cách thức giải quyết quyền lợi và giúp đỡ các đồng bào thiểu
số: Thổ, Dao, Mông… cho hợp lý. Chú ý giải thích cho các dân tộc thiểu
số tránh sự hiềm khích lẫn nhau để thực hiện chủ trương toàn dân đoàn
kết. Đề nghị lên Chính phủ cho thành lập Sở Dân tộc thiểu số ở Khu và
Ty Dân tộc thiểu số ở Tỉnh. Mời các Lãnh tụ Dân tộc thiểu số dự vào
việc thành lập Sở và Ty dân tộc thiểu số [119, tr. 6].
Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận trên địa bàn, Khu uỷ X tiếp tục tổ
chức Hội nghị ngày 11-11-1947, Nghị quyết Hội nghị xác định nhiệm vụ công tác
dân vận của Khu thời kỳ này là: Tổ chức Hội Văn hoá kháng chiến tới cấp Khu, cử
cán bộ phụ trách. Đối với tầng lớp tư sản, địa chủ đặt những hình thức tổ chức ở các
địa phương cho thích hợp. Đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số và dùng cán bộ dân tộc
thiểu số để hiểu và nắm bắt được nguyện vọng của đồng bào.
Ngày 28-12-1947, Ban Thường vụ Khu uỷ X ra Nghị quyết Số 486 về việc
Thành lập Ban Vận động Dân tộc miền núi, Ban có nhiệm vụ:
Đoàn kết tất cả đồng bào miền núi; Động viên đồng bào miền núi tham
gia kháng chiến chống thực dân Pháp; Bênh vực quyền lợi của đồng bào
miền núi; Nâng cao trình độ sinh hoạt cho đồng bào miền núi; Mở
trường nâng cao trình độ văn hoá, chính trị cho đồng bào miền núi và
đào tạo cán bộ dân tộc miền núi (trường Trung học miền núi); Đề nghị
khen thưởng đồng bào miền núi có công với nước [121, tr. 10].
2.1.3.3. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu XII
Sau khi thành lập, Khu XII gồm 6 tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải
Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu XII
đã đẩy mạnh công tác vận động đồng bào vùng địch chiếm đóng, tiễu trừ thổ phỉ. Các
địa phương trên địa bàn Khu XII đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền “đoàn kết kháng
chiến”, “mùa Đông kháng chiến” với nhiều hình thức như nói chuyện, bích báo, diễn
thuyết… Đông đảo quần chúng đã tham gia ủng hộ bộ đội, tiếp tế lương thực phục vụ
kháng chiến.
Trong Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Khu uỷ XII lần thứ 2 đã xác định nhiệm
vụ công tác vận động các tầng lớp nhân dân: Các đoàn thể quần chúng của Khu như
49
Mặt trận Việt Minh ngay sau khi chấn chỉnh lại các đoàn thể cứu quốc, số và chất
lượng hội viên Việt Minh tăng lên đáng kể. Tính theo từng tỉnh: “Bắc Ninh có 45.064
hội viên; Bắc Giang có 67.509 hội viên; Lạng Sơn có 72.674 hội viên; Tính theo từng
giới: Phụ lão có 18.520 hội viên; Phụ nữ có 39.400 hội viên; Thanh niên có 48.210
hội viên; Nông dân có 43.615 hội viên; Thiếu nhi có 33.502 hội viên” [137, tr. 9].
Hội Liên Việt: Đã có tổ chức và đang phát triển ở Bắc Ninh, Bắc Giang và
Lạng Sơn. Đoàn thể Liên Việt thu hút hầu hết các tầng lớp thân sĩ trong Khu. Các
Ban Chấp hành huyện, tỉnh trong hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh đã thành lập và
hoạt động rất hiệu quả.
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng của Cứu quốc Hội Khu uỷ XII
với nội dung chính là tuyên truyền vận động trong Hội và tuyên truyền kháng chiến.
Trong đó, tuyên truyền trong Hội để cho quần chúng hiểu rõ chủ nghĩa, chính sách,
chủ trương của Hội, có thiện cảm với Hội và để dần dần vận động họ vào các đoàn
thể quần chúng. Công tác tuyên truyền, vận động của Hội đã có kết quả tốt, kết nạp
thêm nhiều quần chúng tích cực vào Hội.
Bên cạnh việc tuyên truyền Hội, ở Khu uỷ XII còn hình thức tuyên truyền,
vận động kháng chiến. Mục đích là để động viên nhân dân tham gia kháng chiến
dưới nhiều hình thức như: chủ trương kháng chiến, phát triển, củng cố dân quân,
phát triển củng cố làng hay vùng chiến đấu, giữ gìn bí mật… Phổ biến và làm cho
nhân dân hiểu rõ âm mưu của thực dân Pháp để dân chúng vạch mặt nạ bọn Mặt
trận quốc gia thống nhất, giải thích âm mưu lập chính phủ bù nhìn của Bô-la-éc,
đề phòng tấn công Việt Bắc, gặt lúa cất thóc, đóng thuyền phòng lụt, đắp đê, vệ
sinh thôn quê… Hình thức tuyên truyền, vận động thông qua phòng thông tin, chòi
phát thanh, tuyên truyền lưu động, tranh ảnh khẩu hiệu, báo chí, bích báo, ca kịch
lưu động, ca dao kháng chiến.
2.1.3.4. Chủ trương và sự chỉ đạo của Khu uỷ XIV
Tháng 7-1947, Khu XIV được thành lập gồm 2 tỉnh: Sơn La, Lai Châu, một
phần tỉnh Phú Thọ và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình. Ngay sau khi được thành
lập, Khu uỷ XIV đã nhận được Chỉ thị của Trung ương Đảng về công tác dân vận
trong đó đề ra chủ trương chung về việc vận động các giới cũng như kế hoạch tổ
50
chức chấn chỉnh các Ban Dân vận trên địa bàn Khu. Thực hiện Chỉ thị của Trung
ương, Khu uỷ XIV đã đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến, vận động nhân dân
tập trung phá hoại các kiến trúc kiên cố còn lại ở vùng địch có thể dùng làm căn cứ
đóng quân; đào hố cản kỵ binh vào làng cướp phá.
Tiếp đó, ngày 7-9-1947, Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về việc vận động
“Ủng hộ Mùa đông binh sĩ” nhằm khuyến khích tinh thần tự nguyện của người dân,
quyên góp ủng hộ cho chiến sĩ và thực hiện Chỉ thị về việc “Phá kế hoạch tấn công
mùa đông của địch”. Để tăng cường, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tham
gia phong trào ủng hộ kháng chiến, Khu uỷ XIV đã củng cố các ban dân vận từ tỉnh
đến cấp cơ sở nhằm tập hợp mọi lực lượng tham gia vừa sản xuất, vừa chiến đấu
chống thực dân Pháp xâm lược. Để thực hiện những chủ trương của Trung ương
Đảng về vận động toàn dân tham gia ủng hộ kháng chiến, Khu uỷ XIV ra Chỉ thị số
37 gửi các cấp bộ địa phương thực hiện ngay phong trào “Ủng hộ Mùa đông binh
sĩ” để các chiến sĩ kịp có áo mặc trong mùa đông, Khu uỷ vận động đồng bào làm
gấp và ủng hộ cho kháng chiến: Mỗi làng 02 áo trấn thủ hay một chăn cho bộ đội,
phổ biến kiểu áo và chăn của bộ đội năm 1947 để các làng làm cho thống nhất, vận
động anh em thợ may, các bà, các cô may áo, chăn cho bộ đội để nâng cao tinh thần
ủng hộ chiến sĩ của họ [125, tr. 8].
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về tổ chức bộ máy làm công tác
dân vận, Bộ Tổ chức của Trung ương đã chỉ đạo các khu, tỉnh, huyện cần thành lập
Ban Dân vận các cấp để nghiên cứu và điều hành việc vận động các giới và quần
chúng vào các đoàn thể nhằm huy động toàn dân tham gia kháng chiến. Cuối năm
1947, Khu uỷ XIV đã tổ chức xong Ban Dân vận Khu và đang tổ chức tiểu ban vận
động các giới (thanh vận, phụ vận, dân tộc thiểu số, vận động Liên Việt…). Tuy
nhiên, ở một số địa phương tỉnh, huyện, châu chưa tổ chức được Ban Dân vận hoặc
chưa có người phụ trách chuyên môn về dân vận và vận động các giới nên công tác
vận động đạt kết quả chưa cao.
Công tác dân vận miền núi ở những vùng địch chiếm đóng được Khu uỷ thường
xuyên quan tâm. Ban Thường vụ Khu uỷ XIV chỉ đạo đẩy mạnh công tác đào tạo cán
bộ địa phương nhằm phục vụ công tác vận động đồng bào miền núi. Các cấp bộ đoàn
51
thể phải coi việc đào tạo cán bộ địa phương là việc tối quan trọng đối với tất cả các cán
bộ chính trị, cán bộ quân sự và cán bộ làm công tác dân vận; việc lựa chọn cán bộ địa
phương người miền núi không nhất thiết phải có trình độ văn hoá, cũng như hiểu biết
cao về chính trị như miền xuôi mà phải chọn những người có tinh thần cách mạng hăng
hái, huấn luyện cho họ, đưa họ về địa phương để hoạt động.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng về việc phá kế hoạch mùa đông của
thực dân Pháp được thi hành nhanh chóng và chu đáo, Khu uỷ XIV yêu cầu các cấp
bộ phải có kế hoạch thi hành các công tác chính: Củng cố các căn cứ địa về mọi
mặt, dân vận, quân sự, kinh tế… và các căn cứ địa phải có sự liên lạc với nhau;
quân sự hoá các cơ quan và bộ máy kháng chiến, bộ đội cũng như dân quân phải
tích cực bảo vệ các cơ quan khi đóng cũng như khi đi, nhất là các cơ quan trọng
yếu; củng cố bộ máy hành chính và kháng chiến ở vùng địch kiểm soát; họp dân
làm mít tinh, giải thích vạch rõ âm mưu của địch và cổ động nhân dân đoàn kết chặt
chẽ hơn, tham gia tác chiến, giúp đỡ bộ đội và tăng gia sản xuất; dùng mọi hình
thức tuyên truyền và tiếp tục trừ gian trong vùng địch kiểm soát, khiến cho địch
không thể tiến xa khỏi nơi chúng chiếm đóng; tăng cường công tác địch vận với
lính địch (cả lính Pháp, lính lê dương, lính thuộc địa).
2.1.3.5. Chủ trương và sự chỉ đạo của Liên Khu uỷ I
Để thống nhất việc chỉ huy và củng cố các cấp bộ Đảng, ngày 20-01-1948,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 120/SL về việc thống nhất Khu I và Khu
XII thành Liên khu I gồm 10 tỉnh vùng Đông Bắc: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Hồng Gai, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc
Yên. Ngay sau khi thành lập, Liên Khu uỷ I đã thực hiện những chủ trương của Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng về công tác dân vận trong giai đoạn
cách mạng mới, công tác dân vận cần củng cố, kiện toàn các cấp Hội và định rõ
chương trình hành động.
Hội Thanh niên Cứu quốc: ngay sau khi sát nhập Khu I và Khu XII, Khu bộ
Việt Minh đã tổ chức Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc lâm thời và tổ chức Hội
nghị đại biểu toàn Liên khu từ ngày 31-3 đến 5-4 để thảo luận về phong trào thanh
niên ở miền ngược, miền xuôi và miền bị kiểm soát. Hội nghị đã ấn định một
52
chương trình thời gian tới và có kế hoạch phát triển rõ ràng. Sự liên lạc với Mặt trận
và các đoàn thể khác ngày càng chặt chẽ và có sự phối hợp lẫn nhau.
Số lượng đoàn viên thanh niên trong Liên khu có tất cả 124.864 (chiếm
80% tổng số thanh niên trong Liên khu). Thành phần là thanh niên nông
dân, thanh niên trí thức, tiểu tư sản, một số đồng bào công giáo. Công tác
của thanh niên chủ yếu là hoạt động quân sự, nhất là thanh niên trong
vùng tạm chiếm [136, tr. 67].
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương về kế hoạch vận động thanh niên tình
nguyện tòng quân, Ban Chấp hành Liên khu Đảng bộ Liên khu I xác định đây là
một trong những nhiệm vụ quân sự quan trọng để chuẩn bị cho việc Đẩy mạnh
phong trào thi đua ái quốc nhằm mục đích tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản
công. Liên Khu uỷ I đã ra Chỉ thị:
Vận động thanh niên tòng quân với mục đích: làm cho thanh niên hăng hái
tình nguyện đầu quân, ghi tên vào sổ càng nhiều càng hay, ít nhất là đủ số
tân binh mà Bộ Tư lệnh Liên khu đang cần. Kế hoạch vận động được đưa
ra là tuyên truyền đi trước để gây một phong trào sôi nổi để vận động
thanh niên ghi tên vào “Tuần lễ tòng quân” và đề cao những thanh niên
tình nguyện tòng quân. Việc vận động thanh niên tòng quân bắt đầu trước
hết là các đồng chí trẻ tuổi ở các chi bộ xã phải có nhiệm vụ xung phong
tình nguyện tòng quân. Ở các cuộc mít tinh ngày Căm thù đều nói đến
việc tòng quân và vận động thanh niên ghi tên [141, tr. 17-18].
Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc Liên khu đã được thành lập, Hội nghị Phụ
nữ Liên khu I ngày 27-4 đến ngày 2-5 đã thảo luận về phong trào phụ nữ miền
ngược, miền xuôi cũng như bị kiểm soát. “Số lượng đoàn viên phụ nữ trong toàn
Liên khu tính đến cuối năm 1948 là 181.873 (75% tổng số phụ nữ trong toàn Liên
khu). Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Cứu quốc các cấp đã được kiện toàn tương đối
đầy đủ” [136, tr. 67].
Nông dân Cứu quốc Hội của Liên khu uỷ I đang tiến hành thành lập Ban
Chấp hành. Ngay từ khi mới sát nhập, Khu bộ Việt Minh đã cử một đồng chí ra phụ
trách việc thành lập Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc lâm thời. Tính đến cuối
53
năm 1948, số lượng nông dân trong Cứu quốc Hội toàn Liên khu có 138.336 người.
Phong trào nông dân tiến triển mạnh mẽ do các cán bộ đã đi sâu vào các phong trào
để tuyên truyền giác ngộ cho nông dân; đã có những công tác thực tế như vận động
giảm tô, điều tra nông thôn, vận động tự túc… Ngoài ra, cán bộ nông vận phối hợp
công tác với các cơ quan chuyên môn của chính quyền như canh nông, tín dụng, sản
xuất; các cấp đảng bộ chú ý giúp đỡ nông dân; đã đào tạo được một số cán bộ xã để
gây cơ sở hoạt động ở miền ngược và vùng tạm chiếm. Nông dân rất tích cực tham
gia kháng chiến như: phá hoại, phối hợp với du kích để tiêu diệt, quấy rối địch hoặc
rào làng chiến đấu.
Công tác tuyên truyền của Mặt trận giúp dân chúng hiểu rõ về Mặt trận Việt
Minh và tin tưởng vào sự lãnh đạo kháng chiến của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu. Đề cao vai trò của Mặt trận, vận động toàn dân đoàn kết, gia nhập
Hội Liên Việt, động viên tinh thần dân chúng tham gia kháng chiến với những
hành động cụ thể: canh gác, rào làng, đào hầm, lấp làng chiến đấu. Tổ chức tuần lễ
“Ngày xung phong phá hoại” và đề phòng cuộc tấn công của Pháp lên Việt Bắc
lần thứ 2, kết hợp với luyện quân đội lập chiến công, ủng hộ và đỡ đầu bộ đội và
du kích. Vận động nhân dân giảm ăn Tết Nguyên đán, bỏ đốt vàng mã, vận động
tự túc ăn mặc, tăng gia sản xuất…
2.1.3.6. Chủ trương và sự chỉ đạo của Liên khu uỷ X
Theo Sắc lệnh số 120/SL, ngày 20-01-1948 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
việc thống nhất Khu X và Khu XIV thành Liên khu X với 08 tỉnh vùng Tây Bắc và
Trung du Bắc Bộ là: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh
Yên, Lai Châu, Sơn La và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình.
Tháng 6-1948, nhằm đẩy mạnh công tác dân vận trong giai đoạn mới để
phục vụ cho công tác kháng chiến và kiến quốc, Đảng bộ Liên khu X đã tổ chức
Hội nghị dân vận toàn Liên khu. Nghị quyết Hội nghị dân vận của Liên khu ra đời
giữa lúc Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ chuẩn bị thống nhất
Mặt trận Việt Minh và Liên Việt để xây dựng một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi. Hội nghị cán bộ Dân vận Liên khu X đã thảo luận dự án, kế hoạch dựa
trên chủ trương đó. Bản Nghị quyết Hội nghị Dân vận được cán bộ các ngành dân
54
vận trong Liên khu thi hành và thực hiện chỉ thị của Trung ương, đồng thời vạch
rõ cho các cán bộ làm công tác dân vận hiểu nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp
làm việc của Ban Dân vận và các tiểu ban ấn định một chủ trương, kế hoạch vận
động các giới.
Theo Nghị quyết Hội nghị, phải đặt vấn đề dân vận là vấn đề cốt yếu của
cuộc kháng chiến, việc vận động các giới, các tầng lớp nhân dân là một trong những
công tác quan trọng nhất. Công tác dân vận đều hướng theo mục đích đoàn kết để
kháng chiến và kiến quốc trên lập trường “Toàn dân đoàn kết rộng rãi”. Trong đó,
phải tổ chức và kiện toàn Ban Dân vận các cấp và các tiểu ban. Các tỉnh, huyện uỷ
phải cử 01 đồng chí trong cấp uỷ làm Trưởng ban Dân vận; Chi uỷ cử 01 đồng chí
chi uỷ viên phụ trách dân vận. Tiểu ban vận động các giới ở cấp khu, tỉnh (công
vận, thanh vận, phụ vận…) có từ 03 đến 05 đồng chí. Ở các tỉnh khó khăn như Lào
Cai, Sơn La, Hà Giang, và châu Đà Bắc, do hoàn cảnh đi lại khó khăn thiếu nhiều
cán bộ nên tổ chức Ban Dân vận kiêm tiểu ban phụ trách miền núi. Bên cạnh đó,
phải nhận định rõ nhiệm vụ quyền hạn của Ban Dân vận và các tiểu ban:
Ban Dân vận và tiểu ban có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình về mọi mặt kinh
tế, chính trị, văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài tổ chức, tổng kết
kinh nghiệm ở các địa phương để xây dựng kế hoạch vận động các giới. Nghiên cứu
kế hoạch xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi. Cải thiện đời sống cho
nhân dân. Mở rộng ảnh hưởng của Hội trong nhân dân để nghiên cứu sinh hoạt, đời
sống, tâm lý của từng giới để đặt kế hoạch tuyên truyền, vận động cho sát.
Quyền hạn của Ban Dân vận và các tiểu ban là chỉ huy trực tiếp của cấp bộ
Hội và tương đương. Ban Dân vận và các tiểu ban vận động các giới có quyền hạn
về mọi mặt công tác chuyên môn. Ban Dân vận và các tiểu ban không được chỉ huy
trực tiếp Hội đoàn, các đoàn thể quần chúng, mà chỉ liên lạc, trao đổi tài liệu cùng
nhau đặt kế hoạch chung và mọi vấn đề đưa lên cấp uỷ. Những chỉ thị, nghị quyết,
thông cáo của Ban Dân vận và các tiểu ban vận động các giới, gửi xuống các cấp bộ
hội phải được cấp uỷ thông qua mới được thi hành và coi như chỉ thị của cấp uỷ.
Các cán bộ dân vận cấp uỷ phải đi kiểm tra phong trào các địa phương, có quyền
55
can thiệp (khi mang giấy giới thiệu) để cấp uỷ địa phương sửa chữa những điểm trái
với nguyên tắc và nghị quyết đã có trong vấn đề dân vận, những chủ trương mới
đưa lên cấp uỷ trên thông qua và ra các chỉ thị để thi hành.
Công tác dân vận thời kỳ này xác định nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất thực sự và rộng rãi; Cải thiện sinh hoạt cho nhân dân; Động
viên nhân dân thi đua yêu nước; Vận động đồng bào vùng địch tạm kiểm soát; Làm
cho các đoàn thể quần chúng độc lập hoạt động về mọi mặt và tự chỉ huy phong trào;
Mở rộng ảnh hưởng của Hội trong nhân dân.
Cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc bước sang thời kỳ mới, với yêu cầu
cần phải có khối đại đoàn kết toàn dân mới giành được thắng lợi. Nhiệm vụ “Chuẩn
bị tổng phản công” ngày càng đòi hỏi một sự đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ hơn. Sự
đồng thời tồn tại hai hệ thống tổ chức Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt có nhiều
điều bất lợi cho việc tập hợp quần chúng nhân dân. Cả Mặt trận Việt Minh và Liên
Việt đều là tổ chức mặt trận dân tộc phụng sự cho một mục đích là “Giành độc lập,
thống nhất cho nước” và làm chung một công tác là “Kháng chiến, kiến quốc”. Đối
với dân chúng, hai mặt trận đồng thời tồn tại sẽ dễ làm cho họ phân vân, không biết
đâu mới là tổ chức chính và không biết theo bên nào. Công tác vận động đồng bào
sẽ gặp nhiều khó khăn, tổ chức của các giới cũng khó hành động, hội viên ở trong
hai đoàn thể phải khai hội nhiều, số nguyệt phí tăng, phong trào đoàn thể khó phát
triển, lại dễ sinh việc chia rẽ, bè phái và giành giật hội viên của nhau. Do đó, nếu
không hợp nhất Mặt trận và Liên Việt thì không thống nhất được lực lượng toàn dân
để dốc mọi khả năng của dân tộc vào cuộc chuẩn bị tổng phản công. Trái lại, nếu
thống nhất được Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thì sẽ có đủ cán bộ hoạt động cho
đoàn thể, làm cho Liên Việt phát triển mạnh hơn nữa, vững chắc hơn nữa. Các tổ
chức trong mặt trận sẽ dễ dàng chỉnh đốn, mỗi giới sẽ dễ dàng thống nhất tổ chức
và chủ trương hành động của giới mình. Chính vì vậy, mặt trận sẽ ngày càng thống
nhất, đoàn kết và bền chặt.
Nhìn chung, cho đến trước khi thành lập Liên khu Việt Bắc (10-1949), cũng
có thể hiểu là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, công tác dân vận của các
Đảng bộ Khu, Liên khu trên địa bàn Việt Bắc đã tập trung thực hiện được nhiều nội
56
dung quan trọng: quan tâm, đi sâu thực hiện dân vận với đồng bào dân tộc thiểu số
Việt Bắc; hình thành, củng cố hệ thống tổ chức thực hiện công tác dân vận và đội
ngũ cán bộ dân vận; tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ, quán triệt đường lối
kháng chiến và ủng hộ, tham gia kháng chiến; giữ vững tư tưởng, tích cực tham gia
chiến dịch Việt Bắc (Thu - Đông 1947). Đây là những tiền đề quan trọng để Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc tăng cường công tác dân vận sau khi Liên khu ra đời.
2.2. ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC ĐƯỢC THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952
2.2.1. Liên khu Việt Bắc được thành lập
Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của cuộc kháng chiến, Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào ngày 28 và ngày 29-9-1949 ra Nghị quyết số
28/NQ-TW về việc thống nhất hai Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt
Bắc. Nghị quyết Hội nghị thống nhất hai Liên khu I và Liên khu X ngày 27, 28-10-
1949 đã được Trung ương thông qua.
Tiếp sau đó, ngày 04-11-1949, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã ra Sắc lệnh số 127/SL về hợp nhất Uỷ ban Kháng chiến của hai Liên khu thành
Uỷ ban Hành chính kháng chiến Liên khu Việt Bắc. Đồng chí Chu Văn Tấn (Tân
Hồng) làm Chủ tịch, đồng chí Bùi Quang Tạo và đồng chí Thân làm Phó Chủ tịch.
Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động ở Liên khu Việt Bắc trong 17 tỉnh: Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái,
Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng
Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình. Năm
1950, 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành Vĩnh Phúc. Ngày 27-7-1952,
Trung ương ra Nghị quyết thành lập khu Tây Bắc gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu,
Lào Cai và Yên Bái của Việt Bắc cắt ra cho khu Tây Bắc.
Việt Bắc là khu hành chính - quân sự với diện tích 102.700 km2 (chiến
1/10 diện tích cả nước). Phía Bắc là biên giới Việt - Trung, phía Nam giáp với
các tỉnh Liên khu III, phía Đông là bờ biển vịnh Bắc Bộ chạy dọc các tỉnh Quảng
Yên và Hải Ninh, phía Tây là biên giới Việt - Lào. Việt Bắc có vị trí giao thông
khá thuận tiện, giáp với thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng.
57
2.2.2. Tình hình mới và chủ trương của Trung ương Đảng về công tác
dân vận
Năm 1949, cách mạng thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được
thành lập (01-10-1949) đã có những tác động tới bối cảnh lịch sử cách mạng thế giới
nói chung và châu Á nói riêng. Đến tháng 1-1950, mối quan hệ của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được xác lập làm
thay đổi cán cân lực lượng cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Liên Xô và
các nước dân chủ nhân dân Á - Âu giành nhiều thắng lợi trong việc xây dựng đất
nước. Liên minh toàn diện giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa hình thành.
Nhiều hiệp ước hữu nghị và hợp tác được kí kết, góp phần tăng cường sức mạnh của
hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ này, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Á, châu
Phi và khu vực Trung Cận Đông đã làm cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc bị lung lay trên phạm vi toàn thế giới. Phong trào cách mạng trên giải phóng
dân tộc phát triển mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng
cường về mọi mặt. Phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung
chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào bảo vệ hoà bình thế giới trở
thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô. Ngày
18-1-1950, Chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, sau đó là Chính phủ Liên Xô
và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên đã công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam bắt đầu nhận được viện trợ về vật chất của Trung Quốc và Liên Xô.
Một số cố vấn của Trung Quốc đã đến giúp đỡ Việt Nam. Nhân dân nhiều nước châu
Á, châu Phi đã dành cho nhân dân Việt Nam cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.
Phong trào phản chiến của nhân dân tiến bộ Pháp phát triển rầm rộ. Cách mạng Việt
Nam có điều kiện mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung
Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến
bộ trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ vật chất, tinh thần từ bên ngoài, tăng
thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến.
58
Về phía đế quốc, đứng đầu là Mỹ, từ năm 1950, Mỹ đã căn bản hoàn thành
việc chia lại thị trường thế giới tư bản dưới sự khống chế của Mỹ. Mỹ còn ra sức
tiếp tay cho các đế quốc khác trong cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, chuẩn bị
điều kiện hất cẳng bọn thực dân cũ, thay bằng chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
Trong quan hệ với Đông Dương, để cứu nguy cho Pháp đang sa lầy trong
cuộc chiến tranh và thực hiện ý đồ can thiệp sâu vào Đông Dương, Mỹ đã quyết
định tăng cường viện trợ cho Pháp và quân đội bù nhìn. Sự can thiệp của đế quốc
Mỹ vào chiến tranh Việt Nam và mưu đồ của thực dân Pháp đối với chiến tranh
Việt Nam đã có những thay đổi. Tình hình kinh tế và chính trị nước Pháp không ổn
định, ngày càng sa lầy và thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông
Dương, kinh tế suy thoái, phải nhận viện trợ của Mỹ. Đế quốc Mỹ thực hiện kế
hoạch Mácsan với âm mưu vừa vực dậy, vừa khống chế các nước Tây Âu.
Tại Pháp, cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài; thất bại bước đầu trong chiến
tranh ở Đông Dương làm cho Pháp thêm khó khăn. Phong trào phản chiến của nhân
dân tiến bộ Pháp phát triển. Bị thất bại trong chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh"
thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng sang "đánh lâu dài" với âm mưu "lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt". Chúng ráo riết bình định
vùng tạm chiếm, đẩy mạnh xây dựng chính phủ bù nhìn, mở rộng ngụy quân. Mỹ
trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào
cuộc chiến tranh Đông Dương.
Tình hình quốc tế lúc này có tác động vào Đông Dương trên hai phương
diện: Sự ủng hộ về tinh thần và giúp đỡ về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa
cho cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương là một nhân tố tích cực; Song song
với những nhân tố mới tích cực, việc Mỹ cấu kết với Pháp, tăng cường can thiệp
vào Đông Dương… cũng gây cho cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương
nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có những chủ trương, chính sách phù
hợp với tình hình mới.
Ở trong nước, sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình có
những chuyển biến căn bản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đưa nhân
dân Việt Nam từ người mất nước lên địa vị làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm
59
xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam phải tiếp tục cầm súng đứng
lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã liên tiếp thu được
nhiều thắng lợi, thực dân Pháp ngày càng sa lầy vào cuộc chiến và khó tránh
khỏi thất bại. Thế và lực của cuộc kháng chiến từ sau chiến thắng Biên giới
(1950) có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn mới cuộc
kháng chiến lại có những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải giải quyết những vấn
đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên.
Ở hai nước bạn Lào và Campuchia, cuộc kháng chiến cũng giành được
những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của
cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Đảng Cộng sản Đông Dương đã luôn làm
tròn vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Đảng
cũng bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế trong quá trình lãnh đạo. Mặt khác, cuộc kháng
chiến của ba nước Đông Dương tuy cùng chung một mục tiêu, cùng một chiến
trường, nhưng mỗi nước đã có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình đó đang
đòi hỏi mỗi nước cần phải thành lập một chính đảng cách mạng theo Chủ nghĩa Mác-
Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp
phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba nước.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được
triệu tập nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của tình hình mới. Đại hội họp tại
xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ
ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại
biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn
Đông Dương.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh
đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội... Ba nhiệm
vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc,
phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược... Lực
60
lượng của cách mạng Việt Nam gồm có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai
cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước
và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp lại thành khối đoàn kết toàn
dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp
tiên phong lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo,
nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (tháng 3-1951) đã đề ra
những công việc quan trọng và cấp bách trước mắt đó là: sản xuất lương thực; dân
công; giảm chi; thuế; đấu tranh kinh tế tài chính với địch. Như vậy, Hội nghị đã tập
trung giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và bảo đảm
cung cấp đầy đủ mọi mặt cho quân đội; thực hiện phương châm tác chiến là tiêu
diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân; tăng cường công tác địch vận.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai (tháng 9-1951): Nhằm
củng cố và phát triển phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch, Hội nghị đề ra
3 công tác lớn: công tác dân vận, vận động ngụy binh và phát triển chiến tranh
du kích. Ở vùng sau lưng địch công tác dân vận là công tác chính, làm gốc cho
mọi công tác khác… Xây dựng và giữ vững được cơ sở nhân dân tức là tích trữ
được lực lượng, tạo điều kiện cần thiết để phát động, giữ vững và đẩy mạnh đấu
tranh vũ trang. Vận động ngụy binh là một công tác quan trọng trong vùng bị
tạm chiếm và vùng du kích, là công tác vận động quần chúng.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (tháng 4-1952): Với
phương châm nhạy bén, bám sát quần chúng, thống nhất chỉ đạo, tổ chức Đảng phải
chặt chẽ, bí mật, gọn gàng, các cấp ủy Đảng đã đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng, làm cho nhân dân thấy rõ những âm mưu xảo quyệt của địch, xác định trọng
tâm chính của phong trào đấu tranh là phá cho được kế hoạch bình định của địch.
2.2.3. Chủ trương của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc về công tác dân vận từ
tháng 10-1949 đến tháng 7-1952
Trước tình hình mới của cuộc kháng chiến, kiến quốc, Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc đã có những chủ trương lớn về công tác dân vận nhằm huy động sức
61
người, sức của phục vụ kháng chiến. Để đẩy mạnh công tác dân vận trên địa bàn
Liên khu, Đảng bộ Liên khu đã triệu tập Hội nghị Cán bộ dân vận và các Đảng đoàn
(từ ngày 4 đến 5-10-1949) nhằm đề ra phương hướng cho công tác trước mắt của
ngành dân vận, trong đó, phải nắm vững những ngành chính yếu trong thời điểm
này là công giáo, Hoa kiều, miền núi, biên giới, căn cứ địa. Những công tác cần kíp
của các Ban, các ngành nói chung là đào tạo cán bộ và củng cố các tổ chức cơ quan
quần chúng để nắm vững các tổ chức đó; đào tạo các cán bộ địa phương trong vùng
địch. Địch đánh lên chỗ nào thì cán bộ phải ở lại để lãnh đạo phong trào, sau khi
địch rút đi cán bộ phải luôn gần gũi, tuyên truyền, động viên nhân dân, huấn luyện
công tác bí mật cho cán bộ vùng tự do và vùng địch.
Một trong những nội dung quan trọng mà Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ
trương trong thời kỳ này là thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên Việt. Đối
với Mặt trận Việt Minh: các giới xúc tiến việc củng cố, tuyên truyền, giải thích cho
các cấp và quần chúng hiểu ý nghĩa của việc thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội
Liên Việt; theo chỉ thị của Tổng bộ thì bao giờ thống nhất hết ở cấp dưới mới được
thống nhất toàn bộ. Đối với Hội Liên Việt: phải chấn chỉnh ban chấp hành các cấp,
đưa những người có năng lực, tinh thần, hoạt động thực sự vào các ban chấp hành
để thay thế những người chưa làm được việc.
Trong thời gian này, thực dân Pháp và các thế lực phản động luôn dùng
chiêu bài kích động công giáo, âm mưu chia rẽ khối đoàn kết của toàn dân. Không
để kẻ thù chia rẽ và phá hoại sức mạnh của khối đoàn kết, đặc biệt là đoàn kết giữa
đồng bào các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến vấn đề vận
động tôn giáo, mà còn mềm dẻo trong cách ứng xử với với các vị chức sắc tôn giáo,
với các giáo dân. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai
đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng đồng bào
công giáo Việt Bắc nhân dịp Noel (tháng 12-1949) động viên và kêu gọi đồng bào
lương, giáo đoàn kết chặt chẽ đẩy mạnh kháng chiến:
Cuộc kháng chiến ngày càng đến gần toàn thắng, đó là nhờ sự đoàn kết
khăng khít và sự anh dũng chiến đấu của toàn dân ta, giáo cũng như
lương. Sang năm mới, cuộc kháng chiến sẽ bước sang giai đoạn mới, tức
62
là chuẩn bị mau đầy đủ để chuyển sang hướng tổng phản công. Tôi tin
rằng các Vị sẽ nỗ lực kêu gọi đồng bào lương và giáo đoàn kết chặt chẽ
hơn nữa, thi đua tham gia kháng chiến mạnh hơn nữa, để mau đi đến
thắng lợi hoàn toàn [101, tr. 1].
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân
Việt Nam có những phát triển mới, việc thống nhất các đoàn thể quần chúng, các
giới trở thành yêu cầu cấp thiết của công tác dân vận lúc này. Để kịp thời chỉ đạo
công tác dân vận, Hội nghị cán bộ các ngành dân vận Đảng bộ Liên khu Việt Bắc
được triệu tập (từ ngày 25 đến ngày 27-5-1950). Hội nghị đặt ra những chủ trương,
nhiệm vụ và chương trình công tác cơ bản:
Chống chính sách chia rẽ của địch, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết,
vận động nhân dân tích cực chống chính quyền bù nhìn và xây dựng chính quyền
cách mạng, phá việc lập xứ Cao Lạng tự trị và mưu mô phát triển thổ phí hoá của
Pháp ở Hoành Bồ (Hòn Gai), nắm vững công giáo ở trung du, đặc biệt là chú trọng
các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Vĩnh Phúc, đả phá tư tưởng cầu an, thân Mỹ và sợ
Mỹ, gây cho nhân dân có tinh thần chịu đựng gian khổ để chiến thắng.
Đảng bộ Liên khu chú trọng đẩy mạnh công tác xây dựng Mặt trận Dân tộc
thống nhất và củng cố các tổ chức quần chúng phải hoàn thành việc thống nhất Việt
Minh với Liên Việt ở cấp Khu và các tỉnh ở miền ngược; chấn chỉnh lề lối làm việc
cho đúng tính chất mặt trận, sắp xếp các tổ chức quần chúng theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội các ngành, xúc tiến việc
thành lập công đoàn giáo giới, công đoàn viên chức, các uỷ ban xí nghiệp, củng cố
công đoàn cơ sở vận tải.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã vận
động nhân dân thi hành Sắc lệnh Tổng động viên bằng những công tác cụ thể như:
Giải thích và phổ biến sâu rộng vấn đề “hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị
chuyển mạnh sang tổng phản công” trong nhân dân để có ý thức đúng
về tổng động viên; phối hợp với chính quyền thi hành sắc lệnh tổng
động viên; vận động nhân dân đóng công lương, đóng thuế bằng thóc,
bán thóc, quân lương; huy động nhân công sửa chữa cầu cống, đường
63
xá theo chương trình của Bộ Quốc phòng và giao thông công chính;
tiếp tục vận động nhân dân cấp dưỡng bộ đội địa phương; phát triển
phong trào tòng quân luyện tập quân sự, thi đua lập thành tích; vận
động nhân dân tham gia chuẩn bị chiến trường về mọi mặt (y tế, vận
tải, phá hoại…) [111, tr. 28].
Nhằm đẩy mạnh công tác vùng địch, Đảng bộ Liên khu chủ trương vận động
thực hiện khẩu hiệu của Trung ương Đảng “tất cả cán bộ dân vận trở về với quần
chúng mình phụ trách trong lòng địch”, lãnh đạo xúc tiến việc phát triển cơ sở trong
lòng địch, chú trọng những vùng kinh tế quan trọng, các thị trấn, các đường giao
thông chính và vùng công giáo.
Liên khu tập trung xây dựng khối liên minh công, nông, binh để bộ đội và
nông dân hiểu rõ vai trò công nhân và sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức những cuộc
liên hoan công - nông - binh tại nhưng địa phương có xí nghiệp và bộ đội đóng
quân; vận động nông dân ủng hộ và bán rẻ lương thực cho bộ bội và công nhân các
xí nghiệp; vận động công nhân và bộ đội đóng ở địa phương tổ chức những tuần lễ
giúp đỡ nông dân (sản xuất nông cụ; cấy, gặt giúp nông dân…).
Để phục vụ cho những chiến dịch lớn trong thời gian vừa qua, công tác dân
vận của Đảng đã có những chuyển hướng mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Việt Bắc
lần thứ nhất (từ ngày 11 đến ngày 20-5-1951) đã xác định chuyển hướng công tác dân
vận và Mặt trận Dân tộc thống nhất:
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những chủ trương, định hướng mới Công
tác dân vận từ sau Chiến dịch Biên giới (1950), chú trọng công tác huy động nhân
lực, dân công và tổ chức đội ngũ dân công tương tự như các đơn vị bộ đội, các cán
bộ là người chịu trách nhiệm về kết quả công tác của các đoàn dân công mà cấp trên
giao. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Liên khu, công tác dân công được tổ chức chặt
chẽ và kiểm điểm kết quả công tác rõ ràng, nên cán bộ nhận thức được việc bám sát
quần chúng rất quan trọng, thấy rõ được sức mạnh và sáng kiến của quần chúng, tôn
trọng cách làm việc dân chủ, động viên và phát huy được khả năng và tinh thần tích
cực của quần chúng.
64
Về công tác Mặt trận, Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội thống nhất Mặt trận
Việt Minh - Hội Liên Việt được tổ chức. Mặt trận là khối liên minh giai cấp và các
Đảng phái lấy công tác dân vận để tập hợp và vận động quần chúng thi hành các
chính sách của Đảng và tuyên truyền gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.
Quy chế tổ chức và lề lối làm việc của Mặt trận đã được xây dựng đúng với chính
sách liên minh giai cấp và liên minh các Đảng phái của Đảng, Mặt trận sẽ đứng lên
điều hoà quyền lợi của các giai cấp và các vấn đề lớn, ích quốc lợi dân, không can
thiệp vào các việc riêng của đoàn thể, Mặt trận ở cấp nào sẽ phụ thuộc vào sự lãnh
đạo của cấp uỷ ngang cấp ấy và chịu sự chỉ huy theo hệ thống dọc của nó.
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương phát triển củng cố tổ chức quần
chúng để phát huy tinh thần yêu nước chân chính và ý chí kiên quyết kháng chiến
đến toàn thắng của nhân dân. Đảng bộ xác định nhiệm vụ của công tác dân vận thời
kỳ này là phải hoàn chỉnh việc chuyển hướng các tổ chức theo giai cấp, lãnh đạo
các tổ chức mưu lợi ích thiết thực cho quần chúng và cho quốc gia, tìm cách mở
rộng công tác dân vận trong các đoàn dân công. Ngoài ra, phải đặt biệt chú ý phát
triển tổ chức quần chúng tại những vùng mới được giải phóng và những nơi cơ sở
cách mạng còn non yếu, làm thế nào để tổ chức quần chúng thu hút được “đông đảo
quần chúng công giáo ở miền xuôi và quần chúng dân tộc Dao, H’Mông, Thái,
Nùng, Ngái ở Tây Bắc và Đông Bắc” [153, tr. 52]. Trong việc củng cố các tổ chức
quần chúng ngoài công tác giáo dục quần chúng, đào tạo những cán bộ quần chúng
có tinh thần năng lực, phải vận động các tổ chức thi đua đạt thành tích kháng chiến,
kiến quốc để đề cao tổ chức mình với quốc dân. Kinh nghiệm trong thời gian qua
cho thấy cần phải ấn định hướng chính của công tác dân vận thích hợp với khả năng
của mỗi tổ chức. Theo chủ trương của Trung ương Đảng, công tác dân vận ở Liên
khu Việt Bắc được định hướng chính cho các tổ chức:
Thanh niên trong các tổ chức phải nêu cao gương xung phong tích cực thực
hiện nhiệm vụ công tác của tổ chức;
Tổ chức phụ nữ ngoài tăng gia sản xuất cần gây dựng phong trào phụ nữ chủ
động trong các công việc đồng áng và công việc trong các cơ quan, nhà máy (trước
65
đây vẫn do nam giới phụ trách). Những địa phương có chiến dịch, phụ nữ đảm
nhiệm thêm việc săn sóc thương binh trong các quân y viện;
Tổ chức nông dân thi đua tăng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp lương thực
cho bộ đội, lập những kỷ lục về tăng năng suất của ruộng đất, thực hiện “vụ mùa
thắng lợi”, thi đua đề cao chiến sĩ nông nghiệp;
Tổ chức công nhân đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, đề cao những tấm gương
anh hùng lao động, sản xuất. Lao động trí óc thi đua sửa đổi lề lối làm việc, cải tạo
tư tưởng để tăng hiệu suất công việc.
Công tác giáo dục quần chúng phát huy tinh thần yêu nước chân chính và chí
kiên quyết kháng chiến đến toàn thắng để làm thất bại hoàn toàn mọi mưu mô chia
rẽ, lừa phỉnh thâm độc của địch, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, khắc phục mọi
khó khăn gian khổ, thiếu thốn để kháng chiến lâu dài và kháng chiến toàn thắng.
Căn cứ vào tình hình chung và chủ trương mới của Đảng bộ Liên Khu, công
tác vận động, tuyên truyền nhân dân của toàn Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ đầu
năm 1951 đều nhằm mục đích: Nhân đà thắng lợi, đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận
động đồng chí và quần chúng tích cực phục vụ tiền tuyến để tiêu diệt sinh lực địch
trên chiến trường Liên khu, làm cho sức ta hơn hẳn sức địch, góp phần chuẩn bị
chuyển mạnh sang Tổng phản công.
Những nhiệm vụ cụ thể được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đặt ra như: Mở
cuộc tuyên truyền, vận động xây dựng ý thức giữ bí mật, phòng gian, phòng không;
tuyên truyền vận động nhân dân trong các công tác chính:
Sửa đường, vận tải, bán thóc, tiếp lương, mua công trái; tuyên truyền
khuếch trương chiến thắng, đẩy mạnh những nhiệm vụ thường xuyên
trong và ngoài Đảng; tuyên truyền đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng
trung du, địch vận, nguỵ vận, đánh những đòn nặng vào tinh thần địch;
ấn định rõ việc tuyên truyền từng đợt trong từng thời điểm do địa
phương quyết định [57, tr. 2].
Đảng bộ Liên khu đã đề ra kế hoạch thực hiện nhằm giải thích sâu rộng ý
nghĩa quan trọng của việc động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho nhân dân. Nêu rõ
sự quan trọng của từng nhiệm vụ trong từng thời điểm của cuộc kháng chiến để nhân
66
dân hiểu rõ và kịp thời chống phá những quan điểm sai trái trong Đảng cũng như
ngoài quần chúng; tránh tuyên truyền một chiều, nêu khó khăn và nêu triển vọng.
Bước sang năm 1952, công cuộc kháng chiến, kiến quốc của quân và dân Việt
Nam có những chuyển biến mới. Hướng công tác dân vận và mặt trận lúc này nhằm
thực hiện ba nhiệm vụ lớn năm 1952 của Đảng và Chính phủ: Một là, tiêu diệt sinh
lực địch, phát triển chiến tranh du kích; Hai là, phá chính sách lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; Ba là, tăng gia sản xuất và
tiết kiệm để bồi dưỡng quân và dân.
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định ba nhiệm vụ trong đó nhiệm vụ trọng
tâm công tác dân vận ở vùng tự do là vận động nhân dân sản xuất tiết kiệm; ở vùng
du kích và vùng tạm chiếm chú trọng phát triển du kích chiến tranh, tranh đấu
chống địch áp bức bóc lột hàng ngày.
Ở vùng tự do, công tác dân vận và mặt trận là động viên mọi lực lượng nhân
dân thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, kết hợp với việc thu thuế nông nghiệp
trong 1952 và đóng góp phục vụ tiền tuyến. Thực hiện nhiệm vụ những công tác
trọng yếu: Nhận rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm là việc cần thiết nhất ở vùng tự
do. Tất cả các ngành, các giới phải giải thích rõ ý nghĩa kinh tế, chính trị và vận
động nhân dân tích cực thực hiện chương trình sản xuất tiết kiệm của Đảng và
Chính phủ; Vận động nhân dân lập kế hoạch gia đình đồng thời phát động phong
trào ký giao ước ái quốc; Phát triển vận tải và tiểu công nghệ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp; Tích cực sửa chữa những sai lầm trong việc thực hiện chính sách
ruộng đất để đẩy mạnh sản xuất; Thực hiện kế hoạch vụ mùa và chuẩn bị giống cho
vụ chiêm (1953); Vận động nhân dân bảo vệ đê điều và mương phai. Chú trọng giải
thích việc thu thuế rẫy, giáo dục và động viên nhân dân có ý thức trong công tác
dân công và hiểu đúng về công tác tòng quân.
Ở vùng du kích và vùng bị tạm chiếm, quá trình vận động nhân dân vừa qua
đã chỉ rõ nhân dân trong vùng bị chiếm và vùng du kích rất tốt. Trước áp bức, bóc
lột của giặc, nhân dân căm hờn và luôn tin tưởng vào Chính phủ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và sự toàn thắng của kháng chiến. Căn cứ vào chủ trương của Trung ương
về dân vận, trọng tâm công tác ở các vùng này là phải lợi dụng những thắng lợi mà
67
nâng cao tinh thần yêu nước của nhân dân, phát triển cơ sở quần chúng, đẩy mạnh
phong trào tranh đấu của nhân dân giành quyền lợi thiết thực hàng ngày chống địch
tuyển mộ và cướp bóc, giáo dục nhân dân làm công tác nguỵ vận, nhằm phá chính
sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch
kết hợp với việc tổ chức, lãnh đạo nhân dân sản xuất để tự cải thiện đời sống nhưng
phải gắn sản xuất với bảo vệ mùa màng, tài sản chống địch cướp phá.
Để đẩy mạnh việc thực hiện những nhiệm vụ lớn ở vùng tự do và vùng địch
của Đảng và Chính phủ, việc tăng cường thi đua trở thành phong trào thường
xuyên, liên tục và rộng khắp. Đảng bộ Liên khu đã “phát động phong trào ký giao
ước ái quốc; đề cao thành tích và bồi dưỡng các chiến sĩ thi đua” [158, tr. 16]; phổ
biến sâu rộng trong nhân dân bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hội nghị
Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc.
2.2.4. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1952
Để tăng cường công tác dân vận giai đoạn mới, trong chỉ đạo thực hiện, trước
hết Đảng bộ Liên khu Việt Bắc tập trung củng cố bộ máy dân vận. Ban Chấp hành
Đảng bộ Liên khu ra Thông tri số 12, ngày 20-12-1949 về việc thành lập Phòng Dân
vận thuộc Văn phòng Liên khu Đảng bộ Việt Bắc:
Bắt đầu từ ngày 22-12-1949, Văn phòng Đảng bộ Liên khu Việt Bắc
thành lập thêm một số bộ phận phụ trách theo dõi những công việc giấy
tờ của ngành Dân vận gồm các Ban Giáo, Hoa, thiểu vận, Đảng đoàn,
mặt trận và Đảng đoàn các giới công, nông, thanh, phụ. Phòng đó lấy tên
là Phòng Dân vận do đồng chí Dương - Thường vụ, Khu uỷ viên phụ
trách [145, tr. 21].
Trên cơ sở bộ máy, tổ chức được củng cố, chuyên trách, có hệ thống, công
tác dân vận được triển khai toàn diện, thực tiễn và sát với từng đối tượng, từng
nhiệm vụ.
Thực hiện nhiệm vụ chung của các ngành dân vận và mặt trận Việt Bắc
trong việc thực hiện những nhiệm vụ lớn của Đảng:
68
Nhiệm vụ chung của công tác dân vận thời kỳ này là đi sâu vào quần chúng,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, củng cố tư tưởng chính trị; qua việc thực
hiện các chính sách và lo cải thiện đời sống cho quần chúng nhằm củng cố tổ chức và
tranh thủ ủng hộ của quần chúng nhân dân; muốn quần chúng có ý thức với tổ chức
phải làm cho họ có ý thức tự động tham gia việc củng cổ tổ chức của họ; củng cố
nông hội là chính, nhiệm vụ chung của các ngành, củng cố được nông hội thì mới
thực tế củng cố được các tổ chức khác; Đảng bộ các cấp phải theo dõi, thực tế lãnh
đạo thực hiện củng cố tổ chức, tranh thủ quần chúng.
Công tác Nông vận: đại bộ phận kinh tế của Liên khu là nông nghiệp. Nông
dân là lực lượng căn bản to lớn nhất của kháng chiến và kiến quốc. Trong quân đội
cách mạng cũng như trong các cơ quan đoàn thể, chính quyền đại đa số là nông dân.
Cho nên đoàn kết và huy động được mọi khả năng của nông dân thì kháng chiến,
kiến quốc mới bảo đảm thành công.
Ở vùng tự do muốn phát triển sản xuất, trong vùng địch muốn chống chính
sách cướp của bắt người của chúng phải phát động được quần chúng nông dân,
nắm vững các tầng lớp bần, cố nông. Thanh niên, phụ nữ nông thôn chiếm số
đông, họ đều xuất thân từ nông dân. Do đó, muốn động viên được lực lượng này
và củng cố các tổ chức quần chúng thì phải lấy việc củng cố nông hội làm chính.
Việc vận động đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo cũng lấy công tác nông vận làm
chính vì 90% nhân dân thiểu số và tôn giáo là nông dân.
Nhận thức rõ tính chất kinh tế, xã hội và cách mạng nên công tác dân vận của
Đảng trong sự nghiệp vận động cách mạng từ trước đến nay đều hướng về nông thôn.
Vai trò của công tác nông vận và việc củng cố nông hội là trọng tâm của công tác dân
vận và Mặt trận. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng và của các ngành, các tổ chức quần
chúng chứ không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của cán bộ nông vận. Thực hiện những
nhiệm vụ lớn của Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm
vụ của công tác nông vận:
Ở vùng tự do phải tuyên truyền, vận động nông dân hiểu rõ họ là nòng cốt
trong việc thực hiện chính sách sản xuất và tiết kiệm. Chương trình sản xuất của
Chính phủ kết hợp với việc vận động thu thuế nông nghiệp năm 1952 và phục vụ
69
cho tiền tuyến. Bên cạnh đó, nông hội phải tích cực thi hành những chính sách
ruộng đất của Đảng và tăng cường công tác lãnh đạo thi đua nông nghiệp. Củng cố
vững chắc nông hội, chú trọng vận động sự tham gia của nam nữ thanh niên và
nông hội; Trong vùng du kích và vùng tạm chiếm phải vận động nông dân tích cực
tranh đấu bằng mọi hình thức thích hợp chống địch cướp phá tài sản, bắt giết người,
thực hiện nhiệm vụ sản xuất kết hợp với bảo vệ và cất giấu tài sản.
Công tác Phụ vận: cần nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng phụ nữ trong
sản xuất và vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ là một tổ chức liên hiệp nhiều bộ phận
của các tầng lớp phụ nữ khác nhau (công, nông, tiểu tư sản, tư sản…) nên hoạt động
của nó theo tính chất mặt trận rộng rãi. Các chị em phụ nữ công tác trong các cơ
quan, đoàn thể hay chính quyền hoặc trong các tổ chức quần chúng (công đoàn, nông
hội, thanh niên) đều phải thực hiện những nhiệm vụ trong bộ phận công tác của mình.
Thực hiện những nhiệm vụ lớn của Đảng và Chính phủ, Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc xác định công tác phụ vận xác định:
Ở vùng tự do cần tuyên truyền để phụ nữ nhận rõ nhiệm vụ sản xuất là yêu
nước, đề cao thành tích sản xuất có kết quả là thực tế nuôi trồng, còn ở tiền tuyến
phải bảo vệ thiếu nhi và đề cao vai trò bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội. Tích cực vận động phụ nữ vào nông hội và thực tế tham gia củng cố nông
hội. Đảng và các ngành, các cấp cần giúp phụ nữ tham gia vào các ngành hoạt động
nhất là kinh tế tài chính; Trong vùng địch: “Phải kết hợp nhiệm vụ phá chính sách
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt với việc thực hiện
sản xuất và bảo vệ cất giấu tài sản. Giúp đỡ cho phụ nữ buôn bán giữa vùng bị tạm
chiếm với vùng du kích và vùng tự do” [158, tr. 20].
Công tác Thanh vận: được Liên Khu uỷ xác định phải đẩy mạnh sản xuất,
học tập chương trình sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ để hiểu rõ nhiệm vụ mình
đang phát huy tác dụng xung phong phổ biến và thực hiện chính sách. Thiết thực
tham gia thúc đẩy việc lập chương trình, kết hoạch hoạt động cho các tổ đổi công,
hợp công và xung phong làm những việc khó và mới. Đề cao và đào tạo chiến sĩ lao
động thanh niên. Lấy những gương thanh niên trong mùa thi đua (công, nông và
quân đội) năm qua để đề cao và giáo dục thanh niên.
70
Tích cực vận động thanh niên vào nông hội và tham gia củng cố nông hội.
Cùng với phụ nữ và các ngành khác làm nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục và tổ chức thiếu
nhi. Trong vùng du kích và vùng tạm chiếm, vận động thanh niên tích cực tham gia
du kích chiến tranh và chống địch bắt lính.
Công tác Công vận: công tác thi đua công nghiệp đã đạt nhiều kết quả và có
nền nếp, cơ sở công đoàn được củng cố. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm
vụ của công tác công vận giai đoạn này là:
Vận động công nhân thực hiện chương trình sản xuất theo hướng ngoài các
xưởng vũ khí còn chú ý đến tiểu công nghệ và vận tải nhằm phục vụ sản xuất nông
nghiệp và củng cố cơ sở của khối liên minh công nông trong đó đề cao vai trò của
giai cấp công nhân. Vận động trí thức và viên chức tích cực tham gia xây dựng
chuyên môn phục vụ cho sản xuất và thực hành tiết kiệm. Kết hợp phong trào thi đua
chung với phong trào thi đua công nghiệp, để phong trào này trở thành thường xuyên;
Trong vùng địch, cần “gây phong trào đấu tranh rộng rãi chống áp bức bóc lột của
giặc để đòi quyền lợi thiết thực hàng ngày và chống địch bắt lính, củng cố, phát triển
cơ sở. Đồng thời giáo dục cho công nhân có ý thức thường xuyên phá hoại kinh tế
địch” [158, tr. 22].
Công tác Mặt trận: Mặt trận Dân tộc thống nhất là khối liên minh các giai
cấp các tầng lớp cách mạng hoặc yêu nước tán thành kháng chiến. Đây là khối đoàn
kết toàn dân để đưa kháng chiến và kiến quốc đến toàn thắng. Vì vậy, chính sách
Mặt trận là chính sách đoàn kết toàn dân, phải được thực hiện ở khắp nơi trong mọi
ngành và công tác Mặt trận cũng là nhiệm vụ của tất cả các ngành. “Tất cả các cấp
bộ Đảng các cán bộ và đảng viên cần hiểu rõ và kiên quyết sửa chữa những thái độ
không đúng đối với những thân sĩ, các cán bộ ngoài Đảng. Để đoàn kết thực sự với
các tầng lớp, chính sách và thái độ đoàn kết phải dựa trên phương châm: có lý, có
lợi, đúng mực” [158, tr. 23].
Công tác của Uỷ ban Mặt trận: những nhiệm vụ lớn của Đảng được Uỷ ban
Mặt trận Liên khu Việt Bắc xác định: Phải chấn chỉnh lại lề lối làm việc của Uỷ ban
Mặt trận theo đúng chỉ thị của Trung ương Đảng nhất là đối với cấp huyện và xã.
Trong vùng tự do, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện nhiệm vụ sản
71
xuất và tiết kiệm trong việc động viên các tầng lớp tư sản dân tộc, phú nông, địa
chủ bỏ vốn sản xuất kinh doanh theo đúng chính sách của Chính phủ. Trong vùng
địch tạm chiếm, cần động viên nhân dân chống lại chính sách lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch, chú trọng công tác vận động
những thành phần địa chủ, kỳ hào, tư sản, thổ ty, thổ hào… Uỷ ban Mặt trận các
cấp phải sửa chữa lại tổ chức và lề lối làm việc theo đúng quan điểm mới sau Đại
hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt toàn quốc, định hướng Uỷ ban Mặt trận vào
công tác vận động các tầng lớp tư sản, địa chủ, phú nông, kỳ hào… vận động đoàn
kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Đối với dân tộc thiểu số: Việt Bắc là địa bàn có nhiều thành phần dân tộc
khác nhau, ngay các tỉnh trung du cũng rải rác có đồng bào miền núi. Vì vậy, công
tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc chủ yếu là công tác vận động đồng bào các dân tộc
miền núi và đoàn kết các dân tộc. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ rõ những điểm
cần thực hiện của chính sách dân tộc thiểu số:
Giải thích cho đồng bào miền núi thấy rõ âm mưu của địch và quyền lợi của
chính quyền nhân dân đưa lại. Các cấp phải giải quyết những xích mích, hiểu lầm của
đồng bào địa phương do địch gây nên, do thành kiến dân tộc, do sự khác nhau về
phong tục, tập quán… để đoàn kết chặt chẽ và tăng cường quan hệ giúp đỡ lẫn nhau.
Giáo dục cho đồng bào hiểu rõ kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ, nâng cao lòng yêu nước, tin tưởng vào Chính phủ.
Đồng thời giáo dục cho đồng bào hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người công
dân Việt Nam.
Đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ nơi khác đến với cán bộ địa phương, tăng
cường đào tạo cán bộ địa phương để phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Cán bộ hoạt
động ở miền núi phải lấy việc phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân là
chính để phát động nhân dân tích cực tham gia mọi công tác kháng chiến, đấu tranh
với địch, chống âm mưu chia rẽ, đàn áp của địch.
Đối với công giáo: “Tôn trọng tự do tín ngưỡng” đó là chính sách của Đảng
đối với tôn giáo. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã xác định trong công tác vận động
đồng bào công giáo cần phải vạch rõ tội ác và chính sách thâm độc của Pháp - Mỹ
72
để đồng bào hiểu rõ. Đồng thời tỉnh táo đề phòng địch dùng tôn giáo để chống
kháng chiến. Các đoàn thể phải tích cực cử cán bộ gây cơ sở ở vùng công giáo. Phải
lấy việc thực hiện chính sách nông thôn, chính sách sản xuất tiết kiệm, để giác ngộ
tranh thủ quần chúng công giáo.
Đối với Hoa kiều: vận động Hoa kiều phát triển sản xuất. Lấy công tác Hoa
vận để phát triển và tranh thủ quần chúng, tăng cường đoàn kết Hoa - Việt. Ở những
nơi có Hoa kiều thì tích cực vận động họ tham gia công tác kháng chiến, đồng thời
tham gia vào bộ máy các cơ quan chính quyền địa phương như người Việt. Vận
động Hoa kiều và các tổ chức quần chúng Việt Nam và đào tạo cán bộ Hoa kiều.
Từ những nhiệm vụ chung của năm 1949 nhằm đẩy mạnh công tác dân vận
trong trong giai đoạn chiến lược tích cực cầm cự chuẩn bị Tổng phản công được Đảng
bộ Việt Bắc triển khai và đạt được một số kết quả quan trọng:
Các tổ chức cứu quốc chú ý tới phần công tác nội bộ để củng cố và phát
triển các tổ chức. Đề cao những thành tích và quá trình hoạt động. Tích cực đào tạo
cán bộ để đủ sức lãnh đạo phong trào. Khuyến khích và đề cao những thành tích
tăng gia sản xuất của nông dân: “Nông dân Cứu quốc đã củng cố ban chấp hành cấp
xã và hướng dẫn cách tự hoạt động. Toàn khu đã mở được 465 lớp huấn luyện với
11.853 học sinh tham dự” [140, tr. 3].
Thanh niên Cứu quốc ở các tỉnh đã có 2/3 cán bộ chuyên trách hoạt động,
cấp huyện và xã vẫn còn tình trạng không ổn định vì cán bộ thay đổi luôn hoặc phải
kiêm nhiệm thêm công tác khác. Ở miền ngược nói chung các cấp đều thực hiện
chậm vì phần nhiều là làm việc thiếu kế hoạch và chưa hiểu nhiệm vụ, quyền hạn
của mình. Thiếu nhi Cứu quốc ở cấp Khu đã thành lập (2-1949) và tích cực hoạt
động, đặc biệt là ở các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc
Giang đều có một Ban Thiếu nhi Cứu quốc và có một đồng chí phụ trách.
Phụ nữ Cứu quốc trong toàn Liên khu đã mở được 377 lớp huấn luyện
và có 7.406 học sinh tham dự. Số lượng các tổ chức quần chúng phụ
nữ: Đoàn Phụ nữ Cứu quốc: số lượng 381.172; Hội Tương tế: 18.894
hội viên; Hội Mẹ Chiến sĩ: 80.000 hội viên; Hội Phụ mẫu: 20.000 hội
viên; Nữ công nhân: 836 hội viên. Tổng số hội viên trong Mặt trận Liên
73
hiệp Phụ nữ: số lượng 554.518 hội viên. Tổng số cán bộ toàn Việt Bắc
có 611 người. Thành tích về công tác kháng chiến: 437 tiểu đội nữ du
kích; 14 tiểu đội tác chiến; 29 tiểu đội cứu thương; 57 tiểu đội nữ dân
quân. Thành tích chiến đấu: Giết 85 thực dân Pháp; làm bị thương 55
thực dân Pháp [144, tr. 4].
Việc vận động đồng bào công giáo đứng vào hàng ngũ kháng chiến đã được
các ban dân vận Liên khu và tỉnh bám sát, dùng người công giáo có uy tín làm cán bộ
trong các cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể để lôi kéo công giáo. Luôn gần gũi và
giải thích cho cha cố và giáo dân hiểu rõ thắng lợi của mặt trận dân chủ thế giới và
cuộc kháng chiến của dân tộc. Bên lương và các cán bộ phải bỏ thành kiến, thái độ
gây hại cho sự đoàn kết. Thành lập Uỷ ban liên lạc cấp Liên khu gồm những người
công giáo có uy tín để giải quyết những xích mích, hiểu nhầm đề đạt những nguyện
vọng của công giáo với Đảng và Chính phủ. Chính quyền và Mặt trận phải chú ý giúp
đỡ các cha cố nhưng cũng phải cương quyết trừng trị những người chủ trương đi
ngược lại kháng chiến. Nhiều cha cố có tinh thần kháng chiến trong vùng địch đã
hưởng ứng những cuộc vận động của Chính phủ như mua công phiếu kháng chiến,
góp quỹ tham gia kháng chiến. Liên khu đã thành lập Hội Giáo dân kháng chiến để
làm công tác vận động cha cố tham gia kháng chiến. Hội có ảnh hưởng rất lớn trong
các vùng công giáo thuộc Bắc Giang, Bắc Ninh, nhưng nhiều nhất ở Phúc Yên, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Bộ máy công giáo vận ở hầu hết các nơi đã được
thành lập và có một đồng chí phụ trách hoặc có Ban Công giáo vận từ 2 đến 3 người
chuyên trách.
Công tác Hoa vận là một trong những nội dung quan trọng của vận động
quần chúng nhân dân. Đặc biệt là miền duyên hải Liên khu có nhiều Hoa kiều định
cư và sinh sống.
Số Hoa kiều ở đây có ước tính khoảng 45.000 người, là người Ngái, Thổ,
Nùng và người Quảng Đông, Quảng Tây. Do sự di dân của các dân tộc ở
vùng Quảng Đông, Quảng Tây, vì hoàn cảnh kinh tế và mối quan hệ về
địa dư của hai nước nên họ tự ý di cư sang hoặc do mộ phu của các đồn
điền, các xí nghiệp và hầm mỏ của Pháp. Những nơi Hoa kiều tập trung
74
chủ yếu ở dọc đường số 4 từ Tiên Yên đến Móng Cái; dọc đường số 13 từ
Lục Nam đến Đình Lập; trong các thung lũng, núi rừng rải rác ven bờ biển
Hòn Gai, Hoành Bồ, Cẩm Phả mỏ, Cẩm Phả bến, đảo Cát Bà, trong thị xã
Hòn Gai và một số ở các cù lao nhỏ ngoài biển [67, tr. 137].
Việc đẩy mạnh công tác Hoa vận là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong
giai đoạn này. Tuyên truyền sâu rộng những thắng lợi của giải phóng quân, vạch rõ
hành động phản dân, phản nước của Quốc dân Đảng. Vạch rõ sự liên quan giữa hai
cuộc kháng chiến hai nước.
Đầu năm 1950, sau khi chiến dịch Lê Hồng Phong kết thúc Trung ương
Đảng đề ra khẩu hiệu hoàn thành nhiệm vụ chuyển sang Tổng phản công, cùng lúc
đó Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ mới công nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Tháng 4-1950, Sắc lệnh Tổng động viên được ban hành về công tác
Mặt trận Liên khu xúc tiến việc thống nhất Việt Minh với Liên Việt và việc
chuyển hướng các giới.
Từ chiến dịch Biên Giới đến chiến thắng Trung du, thực dân Pháp thất bại
nặng nề, tinh thần sút kém. Biên giới Việt Nam được được giải phóng một khu vực
rộng lớn, trong vùng tạm chiếm Trung du cũng như Tây Bắc, cơ sở của cách mạng
ngày càng phát triển. Đồng bào công giáo có thiện cảm và tham gia kháng chiến
nhiều hơn. Ở miền núi, cách mạng đã lôi kéo được nhiều đồng bào thiểu số khu vực
Điện Biên, Long Hê và đặc biệt là Thổ ty Đồng Văn, Mai Đà. Trong miền tự do chiến
thắng sôi nổi, đồng bào hăng hái phục vụ tiền tuyến, phục vụ kháng chiến.
Trước tình thế thay đổi của Liên khu Việt Bắc, trong năm 1950, công tác dân
vận hướng vào việc giải thích tình hình và khuếch trương thắng lợi để động viên
đồng chí, nhân dân phục vụ tiền tuyến. Tích cực tiến hành cuộc chấn chỉnh tổ chức
cải tiến để nâng cao chất lượng các hình thức vận động, tuyên truyền đạt hiệu quả
cao. Công tác tuyên truyền, vận động tổng động viên trong toàn Liên khu là tập
trung mọi khả năng và phương tiện để chuẩn bị mở một chiến dịch lớn. Hàng vạn
truyền đơn đã được phát tới từng thôn xóm. Các đoàn vận động gồm đại biểu quân,
dân, chính đi tới từng nhà để giải thích. Nhiều hình thức đã được áp dụng như giảng
75
trong các lớp huấn luyện, soạn thành bài học cho các lớp Bình dân học vụ và tiểu
học vụ.
Việc tuyên truyền được thực hiện rầm rộ nên nhân dân vùng địch cũng
như vùng tự do đều biết đến Sắc lệnh Tổng động viên. Trong 3 tháng
hơn 100.000 dân công đã hoàn thành việc sửa chữa 698 km đường với
hàng trăm cầu để xe chạy; 18.066 tấn thóc công lương và quân lương đã
cung cấp cho nhu cầu kháng chiến [56, tr. 37-38].
Để kịp thời tổng kết công tác dân vận, tháng 3-1950, Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc đã triệu tập Hội nghị Cán bộ dân vận toàn Liên khu lần thứ nhất (từ ngày 4 đến
ngày 13-3-1950). Hội nghị đã tổng kết công tác của Mặt trận Dân tộc thống nhất sau
khi thi hành chính sách củng cố mặt trận của Trung ương, Liên khu đã củng cố các
đoàn thể, các giới, xúc tiến thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên Việt. Công
tác tổ chức, chấn chỉnh các giới trên địa bàn Liên khu đạt được nhiều kết quả. Trừ
một phần lớn Lai Châu, Lào Cai và một vài vùng ảnh hưởng thổ ty, còn lại hầu hết
trên địa bàn Liên khu kể cả vùng địch, đều có cơ sở quần chúng. Các giới, các đoàn
thể đã được chấn chỉnh và thống nhất tới cấp tỉnh. Nhưng một vài tỉnh miền ngược và
vùng địch mới thống nhất tới xã, có nơi lại chưa chia thành giới mà chỉ có một hình
thức là Việt Minh (Sơn La, Hải Ninh). Số lượng so với những năm đầu toàn quốc
kháng chiến đã tăng lên nhiều. Việc huấn luyện các đoàn viên đã được chú trọng hơn.
Đáng chú ý nhất là trong năm 1950 đã khôi phục lại được cơ sở ở Hòn Gai, phát triển
công tác tới địa phận Lai Châu.
Các giới đã thực hiện những khẩu hiệu chính công tác của mình như: Nông
dân tăng gia sản xuất, giảm tô, thanh niên tòng quân, luyện tập quân sự… tránh
được tình trạng ôm đồm, dẫm chân lên nhau trong công tác. So sánh về tổ chức thì
công đoàn vẫn có tổ chức chặt chẽ nhất nhưng tiến bộ nhanh hơn cả là nông dân và
phụ nữ.
Liên hiệp Công đoàn Việt Bắc đã tổ chức cho công nhân và người lao động
thi đua thực hiện Sắc lệnh Tổng động viên phục vụ tiền tuyến. Để hoàn thành
nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công, công nhân và lao động
76
vùng tự do đã nỗ lực thi đua thực hiện Sắc lệnh nhằm tăng cường sản xuất phục vụ
tiền tuyến để chiến thắng:
Từ khi có Sắc lệnh Tổng động viên, công nhân các xí nghiệp nô nức thi
đua làm cho mức sản xuất được tăng tiến trong từng bộ phận từ 20% đến
50%, nhất là việc sản xuất vũ khí mới S.K.Z đã cung cấp đủ cho mặt trận
Tây Bắc và Đông Bắc. Nhiều nơi công nhân đã cải tiến kỹ thuật, thu được
kết quả nhất là trong hoàn cảnh khan hiếm nguyên vật liệu. Ngoài ra công
nhân còn thi đua kiến thiết, xây dựng được một số công trường xí nghiệp
lớn và chuẩn bị cho việc sản xuất đại quy mô. Ở các xí nghiệp bị địch uy
hiếp, công nhân đã chuyển dịch máy móc và xây dựng nhà máy mới, bảo
đảm cho việc sản xuất. Công tác Tổng động viên đã gắn liền với các cuộc
vận động từng thời gian như gây thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn
toàn quốc, hoan nghênh ngày thành lập Uỷ ban Xí nghiệp, kỷ niệm Quốc
tế Lao động, sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh… [147, tr. 78].
Trong năm 1950, với những thay đổi căn bản trên chiến trường, Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc chỉ đạo các tỉnh kịp thời vận động nhân dân tham gia dân công
phục vụ kháng chiến với kết quả rất cao:
Tỉnh Bắc Giang: Dân số toàn tỉnh là 377.271 người, đã thống kê được tất
cả dân công của tỉnh là 115.642 người (trong đó hơn nửa là phụ nữ). Số
dân công huy động mới: 1.000 dân công cho Cục Vận tải, 1.000 dân
công cho di chuyển vũ khí, 4.000 dân công tham gia sửa đường, 5.000
dân công phục vụ trực tiếp cho chiến dịch; Tỉnh Phú Thọ: Dân số toàn
tỉnh là 36 vạn, tất cả dân công của tỉnh là 121.500 người. Số dân công có
thể huy động được ngay và có thể đi xa được khoảng 5.000 người. Số
dân công huy động mới: 800 thanh niên do Thanh niên Trung ương huy
động; một số lượng lớn đang vận tải thóc thuế, thóc công lương, quân
lương đã thu được để nhập kho; chuẩn bị sửa đường quốc lộ 2 và đường
xe lửa tuyến Lào Cai - Yên Bái; Tỉnh Thái Nguyên: Dân số toàn tỉnh là
16 vạn, ước tính khoảng 6 vạn người tham gia dân công. Số dân công đã
huy động mới: 2.700 dân công tham gia sửa đường quốc lộ số 3; 1.000
77
dân công cho Cục Vận tải và một số lượng lớn dân công đang vận
chuyển thóc lập kho; Tỉnh Bắc Ninh: Dân số toàn tỉnh là 50 vạn, có thể
huy động ngay 29.409 dân công; Tỉnh Quảng Yên: Dân số toàn tỉnh là
30 vạn, có thể huy động ngay 4.000 dân công [112, tr. 9-10].
Bước sang năm 1951, để chuẩn bị cho các chiến dịch Cao Bằng, Lạng Sơn và
công tác trong các vùng mới được giải phóng, ngày 26-1-1951, Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc đã ra Nghị quyết về việc Chỉ đạo công tác công đoàn và vận động các giới:
Đối với công tác công đoàn cần nắm vững được tình hình công nhân, kịp
thời bảo vệ được xưởng khi địch tấn công Thái Nguyên. Cần nắm được trọng tâm
công tác và phát động những cuộc vận động rầm rộ như: Tuần lễ liên minh công -
nông - binh và cuộc vận động công nhân tăng năng suất để hoan nghênh các chiến
sĩ biên giới. Vận động công nhân tham gia vận tải, sửa chữa cầu đường, sản xuất vũ
khí, đạn dược.
Vận động nông dân ủng hộ và bán rẻ lương thực cho bộ đội tham gia kháng
chiến. Nông dân giúp đỡ lẫn nhau tăng gia sản xuất để nuôi dưỡng dân lực. Hội
viên của Hội Nông dân Cứu quốc đã tích cực tham gia công tác kháng chiến và đạt
nhiều thành tích rất lớn.
Công tác vận động nhân dân các tỉnh tham gia tòng quân của Đảng bộ Liên
khu theo báo cáo của một số tỉnh, thống kê như sau:
Tham gia tòng quân ở các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà
Giang có 453 hội viên; Tham gia du kích ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc
Ninh có 1.041 hội viên; Tham gia phục vụ chiến dịch ở Thái Nguyên,
Bắc Giang, Hải Ninh, Phú Thọ, Bắc Ninh, Quảng Yên các hội viên sửa
đường, vận tải… được 40.292.414 ngày công [150, tr. 29].
Công tác vận động phụ nữ đã chú ý đến vùng mới giải phóng, tập hợp phụ nữ
để huấn luyện kháng chiến. Việc vận động phụ nữ chăm sóc, giúp đỡ thương binh
và các gia đình thương binh, tử sĩ đã hoàn thành tốt. Những thắng lợi oanh liệt ở
biên giới đã làm cho thế và lực của cách mạng ngày càng mạnh, địch bước đầu suy
yếu. Sau chiến thắng biên giới toàn thể chị em phụ nữ từ những nơi xa xôi nhất đã
78
hăng hái tham gia công tác phục vụ chiến trường. Nhân đà chiến thắng của chiến
dịch Biên Giới cũng như để tiếp tục tinh thần anh dũng của chị em, Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc đã đẩy mạnh việc huy động phụ nữ phục vụ chiến trường, tiêu diệt
giặc, góp phần cùng toàn quốc mau hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh sang Tổng
phản công. Tuyên truyền để chị em trong Hội và ngoài Hội hiểu nhiệm vụ đi dân
công. Tổ chức khuyến khích và hoàn nghênh phong trào đi dân công của phụ nữ.
Giáo dục cho phụ nữ hiểu và ý thức với công tác để làm với tinh thần tích cực, thực
sự. Tôn trọng kỷ luật trong khi phục vụ chiến trường.
Công tác vận động thanh niên đã có những chuyển hướng phương thức vận
động mới, nhằm củng cố tổ chức và phát huy khả năng của thanh niên - đội xung
phong công tác được thành lập. Vận động mọi tầng lớp thanh niên tham gia du kích
và bổ sung quân số, thành lập các đội xung phong kháng chiến. Hội nghị Thanh vận
vùng bị chiếm và vùng du kích Việt Bắc (12-1951) đã tuyên truyền giáo dục thanh
niên và xây dựng tinh thần yêu nước chân chính, căm thù giặc, làm cho họ giác ngộ
chính trị cùng tham gia tranh đấu quyết liệt. Giáo dục cho thanh niên quan điểm
trường kỳ gian khổ kháng chiến nhưng nhất định thắng lợi để họ không lạc quan
trước những thắng lợi và bi quan trước những thất bại tạm thời, tin tưởng sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giáo dục cho thanh niên hiểu được nhiệm vụ
của họ đối với kháng chiến, ý thức và phương pháp tranh đấu chống địch, nhất là
chống bắt phu, bắt lính. Phải thường xuyên và kịp thời phản tuyên truyền của địch,
ngăn những ảnh hưởng tuyên truyền của địch đối với thanh niên:
Phải tuyên truyền giải thích cho thanh niên hiểu những chủ trương, chính
sách của địch và những luận điệu tuyên truyền của chúng trong chính
sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt” và cụ thể đối với thanh niên là việc bắt phu, bắt lính. Dùng mọi
hình thức để tuyên truyền, giáo dục thanh niên: phương pháp hiệu quả
nhất là lấy những hành động thực tế phân tích và rút ra những bài học để
tuyên truyền giáo dục thanh niên. Phổ biến tin tức báo chí vào vùng tạm
chiếm và vùng du kích… [151, tr. 16-17].
79
Công tác Mặt trận chú trọng vào việc vận động đoàn kết lương giáo, vận
động lôi kéo thổ ty, bảo vệ hoà bình. Vận động đoàn kết để kháng chiến, động viên
nhân lực, vật lực để phục vụ cho tiền tuyến.
Công tác Tổng động viên phục vụ tiền tuyến và nhiệm vụ công tác vận động
công nhân năm 1951 của Đảng đoàn Liên hiệp Công đoàn Liên khu Việt Bắc đã xác
định nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng và toàn dân từ đầu năm 1950 là “Hoàn
thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công”. Riêng ngành công
vận, căn cứ vào đường lối, chính sách chung của Đảng, đưa và Nghị quyết của Hội
nghị Công đoàn toàn quốc và của Liên Khu uỷ đã tập trung vào vận động công nhân
và lao động thi đua Tổng động viên.
Trong năm 1951, việc huy động nhân công kiến thiết giao thông vận tải đã
chuyển hướng kịp thời đưa công tác này lên vị trí quan trọng phục vụ cho quân sự
và qua đó đạt được nhiều thành tích trong việc kiến thiết đường giao thông vận tải
trong Liên khu. Do hoàn cảnh cấp bách, các cấp bộ toàn Liên khu đã tập trung một
số lượng lớn cán bộ vận tải tham gia xây dựng ngành vận tải quốc phòng ở các tỉnh
biên giới, đồng thời củng cố tổ chức vận tải ở các tỉnh trung du để chuyển tiếp quân
lương và hàng hoá lên chiến trường.
Dưới sự lãnh đạo công khai của Đảng, toàn dân tích cực thi đua đẩy mạnh
công cuộc “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công”:
Công tác công vận có nhiệm vụ thực hiện những chủ trương, chính sách
của Đảng bộ Liên khu là xây dựng Việt Bắc thành 2 căn cứ địa vững
mạnh và tiến lên tiêu diệt sinh lực địch trên toàn bộ chiến trường Việt Bắc.
Tổ chức lãnh đạo quần chúng lao động và công nhân ở vùng tự do cũng
như vùng tạm chiếm đoàn kết chặt chẽ trong tổ chức công đoàn để thiết
thực tham gia xây dựng Đảng và củng cố khối liên minh công - nông - trí
thức, lao động làm nền tảng chính quyền nhân dân và Mặt trận Dân tộc
thống nhất [134, tr. 56].
Trong các xí nghiệp, việc thi đua sản xuất đã gắn liền với Tổng động viên
thành phong trào quần chúng rộng rãi, dù nguyên vật liệu khan hiếm nhưng mức
sản xuất của các ngành công nghiệp, kỹ nghệ quốc phòng đã tăng tiến vượt bậc,
80
nhiều chiến sĩ thi đua cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến. Nhiều cơ sở sản xuất
vận tải quốc phòng pháo binh, hoả xa đã được xây dựng, củng cố và phát triển
rộng rãi…
Công tác Tổng động viên nhân lực trong mọi ngành công nhân và lao động
trong năm 1951 đã gắn liền được phong trào thi đua với công tác Tổng động viên,
tăng năng xuất để phục vụ tiền tuyến và đề cao công tác kiến thiết các đường giao
thông và vận tải. “Để thiết thực phục vụ cho nhu cầu tiền tuyến và thực hiện thắng
lợi công cuộc Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công
thực hiện đúng phương châm “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho chiến thắng” của
Đảng đề ra” [134, tr. 40-41].
Bước sang năm 1952, theo đà phát triển trên các chiến trường, nhiệm vụ
khuếch trương lực lượng vũ trang trở nên cấp thiết. Liên Khu uỷ Việt Bắc nhận thấy
vấn đề giáo dục và động viên về nghĩa vụ tòng quân cho nhân dân có vai trò quan
trọng. Liên Khu uỷ đã chỉ rõ một số công tác chính cần thực hiện trong năm 1952
về nghĩa vụ tòng quân: Tuyên truyền giáo dục nhân dân về nghĩa vụ tòng quân, giáo
dục nhằm đề cao các chiến thắng quân sự, các gương chiến đấu anh dũng của bộ đội
ở tiền tuyến, các gương xung phong tòng quân của thanh niên để tạo tinh thần phấn
khởi và tin tưởng trong nhân dân. Trong việc tuyên truyền giáo dục phải tạo thành
phong trào quần chúng sâu rộng, tổ chức thanh niên phải làm cốt cán, các đoàn thể
khác như nông dân, phụ nữ, phụ lão… có nhiệm vụ phối hợp để gây phong trào.
Việc tuyên truyền vận động phải làm thường xuyên, gắn với việc tuyên truyền các
thành tích công tác khác.
Trong vùng địch hậu phải chú ý kịp thời chống luận điệu phản tuyên truyền
của địch, gắn với công tác chống tuyển mộ nguỵ binh, đẩy mạnh động viên thanh
niên tòng quân. Thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, các gia đình
thương binh, tử sĩ. Nhiệm vụ của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và các đoàn thể địa
phương là thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, gia đình thương
binh, tử sĩ để an ủi tinh thần và giúp đỡ một phần cho họ về vật chất theo khả năng
của từng địa phương. Tại các thôn xóm có nhiều người đi bộ đội, có thể vận động
nhân dân cam kết giúp đỡ nhau để các chiến sĩ yên tâm chiến đấu. Các cấp Đảng bộ
81
phải coi việc tuyển lựa tân binh là nhiệm vụ của Đảng, không được giao khoán hết
cho các cơ quan chuyên môn. Các đảng viên phải xung phong chứ không được coi
mình chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng.
Song song với việc vận động tòng quân, Đảng bộ Việt Bắc đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động đồng bào chống chính sách của địch “lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Nội dung
cụ thể gồm tuyên truyền những thắng lợi quân sự kết hợp với việc tố cáo tội ác của
giặc, đề cao gương anh dũng và phổ biến lời tuyên bố của Chính phủ đối với nguỵ
binh, nhằm mục đích đẩy mạnh công tác dân vận, nguỵ vận, phát triển chiến tranh
du kích.
Tin tức phổ biến một cách rộng rãi và nhanh chóng: Nhân dân ở những vùng
du kích và những nơi có cơ sở cách mạng cũng như một số nơi vùng tạm chiếm và
vùng chưa có cơ sở, vùng đồng bào công giáo, bảo an, tề phản động trên địa bàn Liên
khu đều biết tin thắng trận. Kết quả đạt được như vậy là do cán bộ đã biết căn cứ vào
tình hình từng nơi, từng vùng mà có dùng phương pháp tuyên truyền thích hợp. Ở
vùng du kích thì phát thanh, nói chuyện, ở những nơi chưa có cơ sở, có bảo an hay
phản động thì dùng vũ trang tuyên truyền, ở thị xã thì dùng truyền miệng, ở các xã
mới được giải phóng thì trưng bày tranh ảnh của Ty Thông tin… Đặc biệt là dùng lực
lượng của cán bộ, đảng viên, bộ đội, quần chúng làm công tác tuyên truyền.
Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với việc phá chính sách của địch “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”: song song với tuyên
truyền võ trang quân sự, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng chủ trương tuyên truyền
chính trị, vạch rõ âm mưu của địch, giải thích chính sách của Chính phủ đối với
nguỵ binh: “Bắc Giang đã phát 5.000 truyền đơn cho nguỵ binh, Bắc Ninh đã phát
7.500 bản tuyên bố của Chính phủ cho nhân dân và gia đình nguỵ binh” [54, tr. 8-
9]. Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với giáo dục tư tưởng, một mặt nhân dân có
kinh nghiệm kháng chiến, mặt khác tăng cường giáo dục ý thức kháng chiến trường
kỳ, gian khổ nhất định thắng lợi, tư tưởng tiêu diệt sinh lực địch, phát triển du kích
chiến tranh, phát triển cơ sở nên nhân dân rất phấn khởi, tin tưởng, hạn chế chủ
82
quan khinh địch. Nhờ quân sự hoạt động mạnh, mở đường đi trước, giải phóng
nhiều xã, công tác tuyên truyền gây cơ sở chính trị phần nhiều đi vào chiều sâu.
Thực hiện Chương trình sản xuất và tiết kiệm năm 1952, Hội Nông dân Cứu
quốc Việt Bắc đã tuyên truyền, vận động học tập nhằm nâng cao ý thức tham gia
sản xuất với mục đích sản xuất vì dân, vì nước và phát triển sản xuất để đẩy kháng
chiến mau thắng lợi với các mục tiêu nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, bồi dưỡng sức dân để có sức duy trì chiến tranh đến
thắng lợi. Kháng chiến cần gắn với kiến quốc, phát triển sản xuất không những để
kháng chiến mà còn gây nền móng nhằm kiến thiết kinh tế. Sản xuất cải thiện được
đời sống cho nhân dân, sản xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, trong quá trình
sản xuất phải cố gắng sử dụng ít nhân công, ít giống mà vẫn đạt năng suất cao. Giáo
dục cho cán bộ và nhân dân yêu lao động, yêu khoa học, quý trọng sản xuất…
Từ sau chiến thắng Biên Giới (1950), Việt Nam đã giành lại thế chủ động và
liên tiếp mở các chiến dịch tấn công địch và tiêu diệt những bộ phận sinh lực quan
trọng của địch, làm cho địch khó khăn, lúng túng. Tuy nhiên, chúng đã cố gắng
nhiều hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường, một mặt cầu xin Mỹ viện trợ,
mặt khác ra sức khai thác nhân, tài, vật, lực và bình định hậu phương, tích cực thực
hiện mục tiêu:
Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.
Chúng đánh ra Hoà Bình, chợ Bến, hòng chiếm lại Hoà Bình để gây khó
khăn cho ta. Nhưng quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt,
chủ trương kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động, Chính
phủ kiên quyết phá tan kế hoạch chiếm đóng mới của địch, làm chúng
ngày càng thêm khó khăn [227, tr. 1].
Những nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh hoạt động trong vùng địch và vùng du kích
để chống chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt” của địch chủ yếu là tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu rõ âm mưu của
địch, vạch mặt những tội ác của chúng đối với đồng bào, đồng thời phổ biến những
chính sách, chủ trương của Đảng và những tin tức thắng lợi làm cho nhân dân nhất
là vùng công giáo và miền núi. Đồng bào ngày càng tin tưởng và kiên quyết đứng
83
vào hàng ngũ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Giáo dục cho
nhân dân hiểu rõ ý thức giữ bí mật và bảo vệ cán bộ, bộ đội, cơ sở, gây cho họ có
tinh thần tranh đấu, chống địch. Vận động nhân dân cương quyết chống chính sách
bắt phu, bắt lính của địch và làm công tác vận động nguỵ binh phải phát động thành
một phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn Liên khu, phổ biến chính sách của
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khoan hồng đối với nguỵ binh, nhất là đối
với các gia đình có con em đi lính cho địch và trong hàng ngũ nguỵ binh làm cho họ
hiểu rõ chính sách của Chính phủ.
Ở vùng trung du, đẩy mạnh sự đoàn kết lương, giáo vạch rõ âm mưu lợi dụng
tôn giáo của địch, phổ biến chính sách tôn trọng tín ngưỡng của Chính phủ, nêu cao
thành tích kháng chiến của đồng bào tôn giáo và sự đoàn kết giữa lương, giáo để
phục vụ kháng chiến. Ở miền ngược, tăng cường đoàn kết dân tộc, nêu cao những
tấm gương hăng hái phục vụ chiến dịch của đồng bào miền ngược, đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục cho đồng bào nhất là những vùng xa mà cán bộ và bộ đội ít qua lại
hiểu về dã tâm của thực dân Pháp là muốn bắt nhân dân Việt Nam làm nô lệ một lần
nữa. Chính phủ của dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đem lại quyền lợi cho
dân, Đảng lãnh đạo đánh Pháp đem lại nhiều thắng lợi lớn.
Tổng kết công tác dân vận năm 1951 và 6 tháng đầu năm 1952 của Đảng bộ
Việt Bắc tại Hội nghị Cán bộ dân vận Liên khu (từ ngày 15 đến ngày 20-5-1952) đã
chỉ rõ những thành tích của công tác dân vận thời kỳ này: Nhiều nơi cán bộ đã đi sát
dân, tìm hiểu dân và chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân tự giác,
tự động thi hành các chính sách của Đảng, Chính phủ. Các tỉnh, huyện của Liên khu
đã biết kết hợp công tác, lãnh đạo tổ chức quần chúng để thi hành các chính sách
đồng thời trong khi thi hành các chính sách đó cần củng cố các tổ chức quần chúng
và vận động đoàn kết thực sự các giai cấp. Các tỉnh, huyện dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, đã biết đi đúng đường lối trong việc củng cố các tổ
chức quần chúng, tổ chức kiểm tra, giám sát để các hội viên, đoàn viên có ý thức
trách nhiệm vào việc củng cố tổ chức của họ, do đó nhiều nơi trên địa bàn Liên khu
các tổ chức quần chúng được chặt chẽ, ý thức hội viên tốt. Nhiều địa phương đã chú
ý bàn bạc và giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống nhân dân nhằm giác
84
ngộ quần chúng và củng cố tổ chức hoặc thực hiện đoàn kết giữa các dân tộc, nhất
là vận động sản xuất tiết kiệm để đẩy mạnh công tác dân vận ở các vùng đồng bào
công giáo và đồng bào miền ngược. Những cán bộ dân vận đã tuyệt đối tin ở dân,
kiên quyết đi sâu và nhân dân và nhẫn nại giải thích nên cuối cùng đã giác ngộ được
nhân dân và thực hiện được nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao phó.
Tiểu kết Chương 2
Công tác dân vận của Đảng nói chung và của Liên khu uỷ Việt Bắc nói riêng
giai đoạn từ năm 1949 đến năm 1952 được triển khai toàn diện và đạt được những
thành tựu to lớn, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân và thống nhất các giai cấp, các
dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Liên khu Việt Bắc. Để phát triển và củng cố Hội Liên
Việt, chăm lo đoàn kết lương giáo, Đảng chủ trương mở rộng đoàn kết dân tộc, vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc,
ban Dân vận và các đảng, đoàn, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể
cứu quốc tăng cường cán bộ về các địa phương xây dựng tổ chức. Mặt trận Việt
Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận của các giới đã phát triển
rộng khắp, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở góp phần động viên các tầng lớp
nhân dân tự nguyện góp công sức trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền
cách mạng, đồng thời chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Các đoàn thể cứu quốc thu hút hầu hết người trong các giới. Ở nhiều nơi,
một số đoàn thể mới được thành lập làm nòng cốt trong các phong trào, cụ thể
như Đoàn thanh niên làm nòng cốt trong phong trào dân quân, tòng quân giết
giặc; đoàn thể phụ nữ làm nòng cốt trong sản xuất, vận động nuôi quân, đoàn thể
của nông dân làm nòng cốt trong phong trào tăng gia sản xuất, vận động giảm
tô… Các đoàn thể cứu quốc còn lập ra nhiều tổ chức quần chúng như Hội mẹ
chiến sĩ, Hội giúp binh sĩ bị nạn…
Nhằm thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, khắc phục nạn đói, củng cố và
xây dựng hệ thống chính quyền, Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến công tác vận
động toàn dân đấu tranh trên mặt trận văn hoá, diệt “giặc dốt” và đẩy lùi những hủ
tục lạc hậu. Đảng đã phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở
mang kiến thức cho nhân dân lao động.
85
Trong những năm 1949-1952, công tác vận động nhân dân các dân tộc trên
địa bàn Liên khu Việt Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến trường được
Đảng bộ Liên khu rất chú trọng và lãnh đạo thực hiện sát sao. Công tác vận động
các gia đình tương trợ lẫn nhau để tiếp tục tăng gia sản xuất trong thời gian đi dân
công và vận động nhân dân giúp đỡ dân công trong thời gian đi công tác. Đối với
các chiến sĩ ngoài mặt trận vận động đồng bào hoan nghênh những chiến công để
động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ. Đối với các thương binh, tử sĩ và
gia đình bộ đội phải vận động nhân dân giúp đỡ về mọi mặt. Đây chính là sức
mạnh đoàn kết, một lòng kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Việt
Bắc, làm nên những thắng lợi quan trọng, đóng góp vào cuộc kháng chiến chung
của đất nước.
Như vậy, công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong giai đoạn
1949-1952 đã đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt: tổ chức bộ máy
được kiện toàn; cán bộ dân vận được tăng cường, trong đó đã có cán bộ chuyên
trách; định hình nội dung, phương pháp dân vận tới từng đối tượng, từng nhiệm vụ
của công tác dân vận, của từng tình thế (khi có chiến sự làm nhiệm vụ chiến đấu và
khi tập trung làm làm nhiệm vụ hậu phương).
86
Chương 3
ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954
3.1. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRƯỚC YÊU CẦU MỚI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Sang năm 1952, cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam đã bước vào năm
thứ sáu với những chuyển biến quan trọng trên chiến trường. Đảng chủ trương đẩy
mạnh cuộc kháng chiến, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Để thực hiện thắng
lợi những chủ trương đã đề ra và cụ thể hoá những nhiệm vụ trong giai đoạn mới,
Đảng luôn sáng suốt lựa chọn những thời điểm có tính quyết định để kịp thời chỉ
đạo trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến.
Để kịp thời ứng phó với tình hình mới, đầu năm 1952, Ban Bí thư Trung ương
Đảng ra Chỉ thị gửi các Liên khu ủy và Tỉnh ủy trong vùng địch hậu, trong đó yêu
cầu các cán bộ làm công tác dân vận ở vùng địch hậu phải thận trọng về xây dựng và
chỉnh đốn tổ chức quần chúng mà công tác đầu tiên cần phải làm là chú trọng việc
lãnh đạo nhân dân đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân, giúp nhân dân giải
quyết các việc cần thiết trước mắt. Vận động và tổ chức nhân dân phối hợp chặt chẽ
với bộ đội và dân quân du kích địa phương để chống giặc càn quét, bảo vệ sản xuất,
nhà cửa của nhân dân, chống giặc bắt lĩnh, bắt phu, nộp thóc, thuế. Trong quá trình
thực hiện các công việc trên, phải tiến hành việc xây dựng và chấn chỉnh các tổ chức
quần chúng.
Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp âm mưu cấu kết với bọn phản động
lang đạo, phìa tạo ở địa phương, thẳng tay đàn áp, bóc lột đồng bào các dân tộc
thiểu số. Đặc biệt, chúng ra sức dùng chính sách lừa bịp, chia rẽ xúi giục hận thù
giữa các dân tộc, giữa đồng bào các dân tộc với đồng bào Kinh hòng phá hoại chính
sách đại đoàn kết chống thực dân xâm lược của Đảng và Chính phủ. Chúng xúc tiến
lập lại xứ Mường, xứ Thái, xứ Nùng, xứ Tây Kỳ “tự trị" nhằm mục đích tận dụng
sức người, vơ vét của cải của đồng bào, phá hoại công cuộc kháng chiến.
87
Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và tay sai, tháng 8-1952, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số. Nghị quyết đã chỉ ra một
số thiếu sót trong công tác vận động dân tộc thiểu số, đó là biểu hiện coi nhẹ công
tác đoàn kết các dân tộc, coi thường âm mưu chia rẽ của địch, công tác vận động
lệch một chiều, chưa có biện pháp tích cực giúp đỡ đồng bào dân tộc cải thiện đời
sống, đội ngũ cán bộ dân tộc còn yếu và thiếu… Để khắc phục nhanh những thiếu
sót trên, Trung ương Đảng chỉ rõ: Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là
một trong những công tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, Chính phủ và Mặt
trận nhằm đẩy mạnh chính sách đại đoàn kết các dân tộc vào công cuộc chống
thực dân, đế quốc.
Nội dung của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số được xác định
một cách toàn diện cả về chính trị, quân sự, xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá và
nếp sống mới. Bộ Chính trị yêu cầu mọi hoạt động đều phải nhằm vào việc tập
trung lực lượng toàn dân đoàn kết kháng chiến, tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược,
đánh bại can thiệp Mỹ, đánh đổ Việt gian bù nhìn, giành độc lập tự do cho tất cả các
dân tộc Việt Nam. Phương châm vận động tuyên truyền là đoàn kết, nắm vững quần
chúng, chủ yếu là nông dân; phát triển lực lượng tiến bộ, lôi kéo những phần tử ở
lớp trên, cô lập và đánh bại bọn phản động, bọn theo Pháp chống lại nhân dân.
Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc cần phải chú ý làm tốt các
nhiệm vụ: lôi kéo tầng lớp trên, vận dụng đúng chính sách đối với ngụy binh và gia
đình ngụy binh; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, tích cực đào tạo cán bộ
vùng dân tộc; về kinh tế chưa chủ trương thủ tiêu chế độ phong kiến ở miền núi mà
chỉ hạn chế dần dần và cần phải làm có trọng điểm; phải tôn trọng tiếng nói và chữ
viết của đồng bào, vận động bỏ nếp sống lạc hậu; về quân sự cần phát triển dân
quân du kích để tham gia tiễu phỉ giữ làng; ra sức xây dựng và phát triển Đảng
trong đồng bào các dân tộc.
Để giành những thắng lợi to lớn hơn nữa cho cuộc kháng chiến của nhân
dân, trong giai đoạn phản công, ngày 9-1-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ để động viên nhân lực, vật lực phục vụ mặt trận. Căn cứ
vào kinh nghiệm trước đây, Trung ương Đảng chỉ đạo các liên khu và các tỉnh đặc
88
biệt chú ý đả thông tư tưởng cán bộ của ngành, các cấp về sự quan trọng và cấp
bách của công tác phục vụ này để đảm bảo thắng lợi mới của cuộc kháng chiến.
Đồng thời, các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải giải thích và thực hiện đầy đủ
khẩu hiệu tất cả để chiến thắng, tất cả cho tiền tuyến.
Chỉ thị nêu rõ yêu cầu của việc cung cấp mặt trận gồm mấy điểm sau:
Về dân công, cung cấp số dân công cần thiết trong thời gian sắp tới là việc
trọng yếu bậc nhất. Đó cũng là một việc gay go, vì mới đây một số lớn
đồng bào đi dân công vừa về địa phương có người tinh thần phấn khởi,
nhưng còn một số tinh thần chán nản. Cho nên cán bộ các cấp liên khu và
tỉnh cần phải giải thích sâu rộng trong nhân dân để họ tự giác ra sức phục
vụ kháng chiến, đồng thời phải giúp đỡ gia đình có người ra tiền tuyến về
mặt sản xuất; Về gạo, lương thực, phải phụ trách việc xay giã và đưa đủ số
gạo cần thiết trong thời gian đã định; Về sửa đường, công tác này nặng và
gấp hơn trước nên sửa đường là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của các liên
khu và tỉnh; Về các phương tiện vận tải, các tỉnh phải chuẩn bị động viên
theo thể lệ đã quy định [77, tr. 7-9].
Trước yêu cầu cấp bách đó, Trung ương quyết định tất cả các liên khu và các
tỉnh thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận, phụ trách toàn bộ công tác cung cấp cho
mặt trận về nhân lực, vật lực. Hội đồng cung cấp Mặt trận sẽ làm việc dưới sự chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ thị của Ban Bí thư đã kịp thời đẩy mạnh vận
động các cấp, các ngành huy động nhân lực, vật lực phục vụ cuộc kháng chiến.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 25
đến ngày 30-1-1953): Hội nghị xác định để duy trì kháng chiến trường kỳ và đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, trước mắt, phải tập trung giải quyết hai
vấn đề chính:
Một là, lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự. Để đánh thắng thực dân
Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ Việt gian bù nhìn, phải có một quân đội nhân dân thật
mạnh và luôn luôn tiến bộ. Phương hướng chiến lược của cách mạng trong giai đoạn
này là: Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt,
để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi. Chiến trường sau lưng địch
89
phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để
chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm
chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực
và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích, cần phải xây
dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất. Phải kết hợp những
hình thức đấu tranh (giữa bộ đội chủ lực, du kích) một cách linh hoạt, khéo léo. Phải
nhận thức được tính chất trường kỳ của kháng chiến để giữ gìn sức chiến đấu. Phải
tăng cường công tác chính trị, công tác quân sự trong bộ đội.
Hai là, phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức để tiến đến
cải cách ruộng đất. Trước hết, phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm
cho quần chúng tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm
tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo, tổ
chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau khi giảm tô, giảm tức, quần chúng đã được phát động,
tổ chức đã vững chắc, lực lượng đã đầy đủ, ưu thế chính trị đã về tay nông dân lao
động, đa số nông dân được yêu cầu thực hiện cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất
sẽ giải quyết nhiều vấn đề về quân sự, kinh tế, chính trị... Phát động quần chúng
triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức là một việc rất to lớn và quan trọng. Nó sẽ làm
đà cho công việc cải cách ruộng đất sau này. Đảng phải định phương châm, chính
sách, phải có kế hoạch, phải có tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra. Trước nhất phải thống
nhất tư tưởng trong Đảng, từ trên xuống dưới, phải đả thông tư tưởng các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Hội nghị xác định những công tác chính trong năm 1953:
Một là, phát động quần chúng; Hai là, tăng cường sự chỉ đạo chiến tranh
của Đảng, đẩy mạnh các công tác chỉnh quân và tác chiến để tiêu diệt
nhiều sinh lực của địch; Ba là, phải chú ý cải thiện đời sống nhân dân,
giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân, tích cực đề phòng và chống nạn đói;
Bốn là, về công tác sau lưng địch, tiếp tục tăng cường về mọi mặt, phát
triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng
vùng du kích và căn cứ du kích. Phá âm mưu của địch xây dựng ngụy
quyền và ngụy quân, chống địch phá hoại và cướp bóc kinh tế, chống sự
90
tuyên truyền lừa bịp của địch. Phải tăng cường việc tuyên truyền, giáo
dục và tổ chức nhân dân. Phải thực hiện thống nhất lãnh đạo của Đảng và
của Chính phủ ở sau lưng địch; Năm là, về chỉnh Đảng, kết hợp với công
tác phát động quần chúng để chỉnh đốn chi bộ xã. Tiếp tục chỉnh huấn
cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng [77, tr. 135].
Trước yêu cầu mới về công tác vận động quần chúng vùng kháng chiến, Hội
nghị Nông vận và dân vận toàn quốc được triệu tập (diễn ra từ ngày 5-2 đến ngày 18-
3-1953), Hội nghị chỉ rõ vai trò to lớn của nông dân trong cách mạng dân tộc dân
chủ, coi cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân và cơ sở của nó là ruộng
đất, nông dân là động lực trong cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hàng triệu chiến sĩ nông dân khi đã giác
ngộ thì họ là những chiến sĩ quyết chiến quyết thắng. Hội nghị nêu rõ: chính sách
ruộng đất của Đảng chưa được thi hành triệt để, chưa nhận rõ vai trò của nông dân và
chưa chú ý đến quyền lợi của nông dân, quá nhân nhượng đối với địa chủ, không dám
phóng tay phát động quần chúng.
Hội nghị nghe báo cáo và thảo luận về sự lãnh đạo công tác nông vận ở
khu, tỉnh. Báo cáo nêu rõ, lãnh đạo công tác nông vận tuy đã đi vào cụ
thể, đã chú ý giải quyết khó khăn cho nông dân, nhưng lãnh đạo thiếu
kịp thời, nhiều nơi còn ít chú ý giải quyết quyền lợi cho bần, cố nông,
nhiều phong trào chỉ trên hình thức, tình trạng cơ sở trắng còn nhiều...
Hội nghị nhất trí cần nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công
nhân và đường lối quần chúng lãnh đạo nông dân trong kháng chiến và
kiến quốc [170].
Hội nghị Cán bộ toàn quốc về vấn đề phát động quần chúng nông dân (tháng
3-1953): Hội nghị được triệu tập để thảo luận làm rõ một số nội dung về công tác vận
động quần chúng nông dân. Tại Hội nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh cần
chỉ rõ công tác phát động quần chúng nông dân như sau:
Ai phát? Cán bộ phải phát. Muốn phát phải hiểu rõ chính sách của Đảng,
của Chính phủ, phải hiểu rõ quần chúng; Phát là thế nào? Là phải đoàn kết
bần, cố, trung nông. Phải tổ chức họ chặt chẽ, phải giáo dục cho họ giác
91
ngộ; Động rồi phải làm gì? Phải triệt để giảm tô để cải thiện đời sống nông
dân. Giảm tô rồi phải thi đua tăng gia sản xuất. Cán bộ phải nắm vững
chính sách của Đảng, của Chính phủ đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt
đối không bao biện, lúc phát động nông dân phải đoàn kết giác ngộ họ.
Cán bộ phải nói cho nông dân hiểu rõ. Đồng bào thiểu số hay đa số, lương
hay giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động được [179, tr. 92].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 14 đến
ngày 23-11-1953): Hội nghị quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến
hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, Đảng phát
động quần chúng triệt để giảm tô đợt 1 được tiến hành ở 22 xã thuộc Liên khu Việt
Bắc và Liên khu IV, đợt 2 mở rộng trong phạm vi 162 xã thuộc 10 tỉnh Liên khu Việt
Bắc và Liên khu IV. Hội nghị cũng được nghe hai bản báo cáo quan trọng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh trình bày và thông qua Cương lĩnh
ruộng đất của Đảng.
Hội nghị cũng đã nghe các báo cáo về Chính quyền dân chủ nhân dân và cải
cách ruộng đất; Quân đội nhân dân với cải cách ruộng đất; Công tác tổ chức đối với
cuộc vận động cải cách ruộng đất. Hội nghị Trung ương lần thứ năm và Hội nghị
toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã quyết định phát động quần chúng triệt để giảm
tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng", thông
qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng.
Ngày 26-1-1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ về công tác ở
những xã đã vận động quần chúng giảm tô. Nội dung Chỉ thị nhấn mạnh việc đề
phòng âm mưu của địa chủ; bảo vệ và giúp đỡ những cán bộ mới được cất nhắc trong
phong trào; đảng viên và chi uỷ phải đoàn kết với những cốt cán ngoài Đảng trong
Nông hội; bước đầu chỉnh đốn cấp huyện, có kế hoạch cho các huyện uỷ tham gia
phát động quần chúng. Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục nông dân tăng cường
đoàn kết, ổn định việc tăng gia sản xuất, quan tâm đến đời sống hằng ngày của quần
chúng để đẩy mạnh mọi công tác kháng chiến và sửa đổi lề lối làm việc.
Ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô thì Việt gian phản động, cường
hào gian ác đã bị đánh đổ, thế lực kinh tế, chính trị của giai cấp địa chủ đã bị suy
92
yếu. Đảng và Chính phủ đã bước đầu giành được ưu thế chính trị cho nông dân lao
động, thoả mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân. Các tổ chức quân, dân,
chính, Đảng ở nông thôn bước đầu được chỉnh đốn. Sau khi giảm tô, thoái tô, nông
dân hăng hái sản xuất, phong trào đổi công giúp nhau làm ăn, phục vụ kháng chiến
phát triển mạnh. Công tác thuế nông nghiệp, đi dân công, tòng quân, học tập văn
hoá... đều được đẩy mạnh.
Để tiếp tục giành được nhiều thắng lợi mới, nắm vững cơ hội tốt, nhân đà
thắng lợi, Bộ Chính trị quyết định phải động viên quân đội và nhân dân tiếp tục
đánh giặc và phục vụ tiền tuyến không những trong mùa xuân này, mà còn cần mở
rộng thắng lợi trong mùa hạ. Ngày 8-2-1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về động viên
quân đội và nhân dân tiếp tục đánh giặc và phục vụ tiền tuyến: Đảng uỷ các cấp cần
phải nhận rõ chủ trương quân sự của Trung ương, phải đặt nhiệm vụ tác chiến và
phục vụ tiền tuyến là nhiệm vụ trung tâm thứ nhất trong mọi công tác lúc này và
phải quyết tâm huy động nhân lực, vật lực để phục vụ tiền tuyến. Đồng thời kết hợp
chặt chẽ việc phục vụ tiền tuyến với việc phát động quần chúng giảm tô, cải cách
ruộng đất và việc tăng gia sản xuất. Nơi nào có vùng mới giải phóng, thì phải kết
hợp giữa tác chiến với củng cố vùng mới giải phóng về mọi mặt như đào tạo cán bộ,
xây dựng lực lượng vũ trang, sửa chữa đường sá, phục hồi sản xuất, chăm lo đời
sống của nhân dân để giữ vững thắng lợi và giúp cho tiền tuyến liên tục đánh giặc.
Đảng uỷ, các cấp chỉ huy quân đội và dân quân du kích ở những vùng sau
lưng địch phải ra sức mở rộng chiến tranh du kích kết hợp với việc tích cực chống
địch bắt lính, phá kế hoạch bổ sung quân số của địch, triệt để lợi dụng sơ hở của
địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và củng cố vùng căn cứ du kích, mở rộng
vùng du kích, thu hẹp vùng tạm bị chiếm.
Thực hiện mục tiêu phá kế hoạch bắt lính của địch và đẩy mạnh phong trào
chống bắt lính ở vùng sau lưng địch và vùng tạm bị chiếm, ngày 9-3-1954, Ban Bí
thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc chống địch bắt lính. Chỉ thị yêu cầu các cấp
uỷ phải nhận thức rõ âm mưu của địch và nhiệm vụ rất trọng yếu của đấu tranh
chống bắt lính. Tuyên truyền rộng rãi chống địch bắt lính: vạch rõ âm mưu thâm độc
của địch dùng người Việt đánh người Việt, đưa thanh niên làm bia đỡ đạn cho chúng
93
để kéo dài chiến tranh xâm lược, gây ra cảnh cốt nhục tương tàn, làm cho nhiều gia
đình lâm vào cảnh tang tóc. Vạch rõ những luận điệu độc lập giả hiệu của đế quốc và
bọn bù nhìn phản quốc, vạch rõ mưu mô của địch tuyên truyền lập địa phương quân để
dễ bắt lính cơ động đi đánh nơi khác; đề phòng tư tưởng chủ quan của nhân dân và cán
bộ xem thường sự nguy hiểm của nguỵ binh. Phải vận động, giáo dục mọi tầng lớp
nhân dân hiểu rõ âm mưu của địch và nhiệm vụ chống bắt lính trong nhân dân, làm
cho nhân dân quyết tâm và hăng hái chống địch bắt lính, kịp thời nêu rõ những thủ
đoạn bắt lính dã man của địch và những cuộc đấu tranh anh dũng chống địch bắt
lính của nhân dân.
Ở những vùng sau lưng địch, phải động viên, giáo dục và tổ chức thanh
niên tham gia du kích, chuẩn bị chống địch càn quét, kết hợp chặt chẽ với chống
địch bắt lính. Phải dùng đủ mọi hình thức đấu tranh từ đấu tranh lẻ tẻ, bí mật đến
dùng những hành động vũ trang chống lại khi bị giặc bắt, dùng lực lượng vũ trang
cứu những thanh niên bị bắt, đánh giải thoát những thanh niên bị bắt tập trung ở
trại, ở trường.
Thông qua những nội dung của Hội nghị Trung ương lần thứ năm và Hội
nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã tạo đà phấn khởi của các tầng lớp nhân
dân cả nước. Đặc biệt, với thắng lợi của việc phát động quần chúng thực hiện
chính sách ruộng đất theo Cương lĩnh ruộng đất của Đảng trong năm 1953 và
tiếp theo đó là năm 1954, đã góp một phần quyết định vào thắng lợi của chiến
cuộc Đông Xuân 1953-1954 và đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
3.2. ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI (7-1952 - 7-1954)
3.2.1. Sự thay đổi về địa giới hành chính Liên khu Việt Bắc
Năm 1952, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt.
Trong giai đoạn này, ở vùng tạm chiếm và vùng du kích, công tác vận động quần
chúng nhằm giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh mọi mặt của nhân dân chống áp
bức, để bảo vệ quyền lợi cho nhân dân, phá chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh, dùng người Việt đánh người Việt”; phát triển sản xuất để cải thiện đời sống
94
nhân dân; giáo dục để nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng; tăng cường đại
đoàn kết toàn dân.
Sau khi Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi (2-1952), kết quả đã giải
phóng được 20.000 dân, ở vùng sau lưng địch, giải phóng 2 triệu dân, mở rộng và
khôi phục nhiều căn cứ và khu du kích. Đây là chiến thắng lớn nhất sau chiến dịch
Biên Giới, phá tan âm mưu lập "hành lang Đông Tây" và giành lại thế chủ động trên
chiến trường Bắc Bộ của địch. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã phát triển
lên một giai đoạn mới, Trung ương Đảng chủ trương tiến công lên Tây Bắc, đây là
nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng, nơi hiểm yếu, nhưng địch có nhiều sơ hở, lực
lượng tương đối yếu, bố trí phân tán và rải rác. Tháng 4-1952, Bộ Chính trị và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc mở chiến dịch giải phóng Tây Bắc nhằm tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn.
Tháng 5-1952, Trung ương Đảng chủ trương tách 4 tỉnh Yên Bái, Lào Cai,
Lai Châu và Sơn La khỏi Liên khu Việt Bắc, thành lập một khu hành chính - kháng
chiến mới với mật danh Khu 20. Ngày 17-7-1952, Trung ương ra nghị quyết thành
lập khu Tây Bắc. Các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái của Liên khu Việt
Bắc cắt ra cho Khu Tây Bắc.
Sau khi thành lập Khu Tây Bắc, Liên khu Việt Bắc còn lại các tỉnh Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hải Ninh, Quảng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái
Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên. Trong Ban Chấp hành Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc, một số đồng chí chuyển sang đảm nhận nhiệm vụ mới tại Khu
uỷ Tây Bắc đã đặt ra cho Đảng bộ Liên khu Việt Bắc những yêu cầu mới về việc kiện
toàn bộ máy tổ chức, cán bộ để tiếp tục lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kháng chiến đi
đến thắng lợi. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng trong giai đoạn mới Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc đã sớm triển khai việc kiện toàn Ban Chấp hành Đảng bộ.
Đồng chí Nguyễn Khang tiếp tục đảm nhiệm cương vị Bí thư Liên khu uỷ.
Sự điều chỉnh về địa giới hành chính và bộ máy tổ chức của Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc diễn ra trong bối cảnh Trung ương Đảng triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba, đặt ra cho Đảng bộ Liên khu những nhiệm vụ mới trong
công tác vận động quần chúng tập trung vào công tác chuẩn bị tổng phản công.
95
Theo tinh thần của Nghị quyết, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định nhiệm vụ
chính của Liên khu trong giai đoạn này là tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời bồi
dưỡng, tích trữ lực lượng vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến. Để thiết thực
chuẩn bị tổng phản công, Đảng bộ Liên khu xác định phải tiến hành chỉnh quân,
đề cao chất lượng chính trị của bộ đội; chỉnh Đảng đề cao trình độ tư tưởng và ý
thức chính trị của đảng viên, làm cho toàn Đảng thống nhất về tư tưởng và hành
động và phải phát động quần chúng một cách đầy đủ, thực sự giành lấy ưu thế
quần chúng hơn nữa. Đại đa số quần chúng trên địa bàn Liên khu là nông dân,
muốn giành được ưu thế quần chúng phải cải thiện đời sống cho nông dân. Phải ra
sức thực hiện chính sách ruộng đất, cần phải chỉnh đốn công tác quần chúng, trước
hết là công tác nông vận.
Liên khu uỷ xác định Chính sách ruộng đất của Đảng ở giai đoạn này là chính
sách giảm tô giảm tức, chia ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho dân cày
nghèo, sử dụng công điền và ruộng đất vắng chủ một cách hợp lý. Mục đích là đoàn kết
dân tộc để kháng chiến, cô lập bọn đế quốc xâm lược, giảm nhẹ sự bóc lột của phong
kiến, cải thiện đời sống cho nông dân. Phải giành ưu thế chính trị cho nông dân lao
động, nhất là bần, cố nông.
Cuộc vận động giảm tô giảm tức phải trải qua 3 bước: Một là, giác ngộ
nông dân làm cho họ có ý thức về quyền lợi chính đáng của họ, giải thích
chính sách của Đảng cho địa chủ khiến họ hiểu việc họ phải làm; Hai là,
phát động quần chúng nông dân đòi giảm tô giảm tức theo đúng sắc lệnh
của Chính phủ; Ba là, đảm bảo cho địa chủ thu tô, thu tức để thực hiện đoàn
kết kháng chiến” [76, tr. 65].
3.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc về công tác dân vận
trong giai đoạn mới
Bước sang năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương vận động toàn dân thực
hiện kế hoạch sản xuất tiết kiệm, cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo cung cấp
đầy đủ quân lương cho bộ đội nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến, chuyển sang tổng
phản công. Nhiệm vụ chính của công tác dân vận được xác định phải đề cao công
tác vận động đồng bào các dân tộc ở vùng biên giới, ở các nơi lạc hậu, ở các căn cứ
96
biệt lập ngay sau lưng địch; phát triển thêm công tác võ trang, tuyên truyền, tiến tới
thống nhất phương pháp chỉ huy theo dõi từ Trung đoàn đến Liên khu, đào tạo thêm
cán bộ để cung cấp kịp thời sự đòi hỏi của công tác; phát triển du kích chiến tranh,
giúp đỡ du kích trong kế hoạch công tác chính trị, làm cho các đội du kích trưởng
thành nhanh chóng; Vận động dân chúng sâu và thiết thực hơn nữa, sửa chữa kế
hoạch vận động đỡ đần chiến sĩ.
Để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc chỉ đạo việc xây dựng và phát triển bộ máy chính quyền và các đoàn thể
nhân dân để tăng cường công tác dân vận và gây một cuộc vận động lớn trong nhân
dân và các giới nhằm hết sức cố gắng thực hiện kế hoạch sản xuất năm 1952.
Công tác nông vận: mục tiêu của công tác vận động nông dân thời kỳ này là
cải thiện nông thôn, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đề ra các khẩu hiệu: Nông thôn
kháng chiến, Nông thôn kiến quốc, Nông thôn tiến bộ…; giải quyết vấn đề điền
địa, công điền, dồn điền của Pháp và Việt gian cho dứt khoát; chấn chỉnh và phát
triển tổ chức nông dân cho mạnh mẽ. Trung, bần, cố nông là lực lượng chính trong
nông thôn, phải lấy lực lượng ấy làm nòng cốt để lôi kéo những tầng lớp nông dân
khác trong việc đoàn kết nông thôn. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc cho nên phải có sự liên hiệp giữa địa chủ, phú nông với trung, bần,
cố nông. Phải có sự đoàn kết đi đôi với sự tranh đấu của nông dân. “Tính chất của
nông dân là thích quyền lợi thực tế, cần cù cho nên công tác nông vận phải: Mang
lại lợi ích thực tế cho người nông dân; Lấy việc cụ thể làm lợi ích tuyên truyền;
Công tác nông vận phải là công tác lâu dài, liên tục và tỉ mỉ” [155, tr. 48-49]. Phát
động nông dân nâng cao năng suất, có kế hoạch cụ thể, thúc đẩy việc thực hiện kế
hoạch tăng gia sản xuất. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương giảm địa tô 25%
và giải quyết vấn đề ruộng đất ở vùng thôn quê, khuyến khích và đề cao thành tích
tăng gia nông nghiệp.
Công tác thanh vận: đề cao vai trò của thanh niên trong cuộc kháng chiến;
động viên toàn thể thanh niên xung phong tham gia kháng chiến và kiến quốc;
thống nhất các tổ chức thanh niên thành một mặt trận thanh niên rộng lớn; giáo dục
thanh niên và đào tạo cán bộ thanh niên cho mọi ngành hoạt động xã hội; cải thiện
97
đời sống và sinh hoạt cho thanh niên. Công tác vận động thanh niên cần hướng vào
những phong trào sôi nổi, luôn luôn đổi mới những hình thức và phương pháp hoạt
động. Trong cuộc kháng chiến, các thanh niên đã chiến đấu anh dũng, đoàn thanh
niên đã cung cấp những tài liệu về hoạt động của thanh niên cho các ban thanh niên
hiện đang chiến đấu ở mặt trận và kiến thiết ở hậu phương nhằm khích lệ, động viên
tinh thần xung phong của thanh niên.
Công tác công vận: Đảng bộ Liên khu Việt Bắc chủ trương phải củng cố lại
công tác vận động công nhân ở Hòn Gai, nhiệm vụ chính là vận động công nhân cải
tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và khai thác mỏ. Bên cạnh đó, công đoàn
khai thác mỏ phải chú trọng đến việc cải thiện đời sống công nhân, nâng cao mức
sống cho họ. Giáo dục và huấn luyện cho công nhân thật có ý thức chính trị hơn các
giới khác.
Công tác phụ vận: Từ trước đến nay, phụ nữ tham gia phong trào và kháng
chiến rất đông, đã làm tất cả công tác mà nam giới đã làm kể cả trên lĩnh vực quân
sự. Từ khi kháng chiến nổ ra, phụ nữ đã tham gia vào công việc đồng áng, thay cho
thanh niên nam giới ra trận. Chính vì vậy, nhiệm vụ mấu chốt của công tác vận
động phụ nữ thời kỳ này là hướng trào lưu phụ nữ vào công tác kinh tế và xã hội,
đồng thời giúp đỡ chị em tiến bộ. Liên khu uỷ chỉ đạo việc thúc đẩy các Liên hiệp
Phụ nữ hoạt động và giúp đỡ để giữ vững cán bộ hiện có và đào tạo nhiều cán bộ
địa phương. Nâng cao giáo dục phụ nữ về mọi mặt công tác, chuyển hướng công tác
phụ nữ về kinh tế và xã hội. Định hướng cho phụ nữ tranh đấu và thống nhất nội bộ.
Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số: Ngày 16-8-1952, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc Thi hành chính sách dân tộc thiểu số ở Khu QT
(Quang Trung) thuộc Liên khu Việt Bắc. Để thực hiện tốt chính sách của Đảng đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã xác định những
nhiệm vụ cụ thể đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là tuyên
truyền, giáo dục tinh thần đoàn kết kháng chiến và lòng yêu nước của các dân tộc
thiểu số làm cho đồng bào tin tưởng vào kháng chiến nhất định thắng lợi; đề cao
tinh thần căm thù của đồng bào với thực dân Pháp và tay sai.
98
Ở Liên khu Việt Bắc rất nhiều đồng bào các dân tộc miền ngược sinh sống
tại những nơi hẻo lánh (thung lũng, miền rừng núi) trình độ hiểu biết còn hạn chế,
cán bộ làm công tác dân vận ở những vùng này phải có sự nghiên cứu về các dân
tộc để hiểu rõ nguyện vọng, tính chất của từng vùng, từng dân tộc. Như vậy mới có
thể giải quyết được một các xác thực và hợp lý quyền lợi của quốc dân miền ngược.
Công tác vận động đồng bào miền ngược cơ bản là chăm lo, cải thiện đời sống vật
chất cho đồng bào.
Khẩu hiệu vận động được nêu ra:
Dao, Nùng, Thổ, Kinh đoàn kết một lòng; Đả phá mưu mô và chính sách
chia rẽ các dân tộc của thực dân phản động Pháp; Nỗ lực thi đua ái quốc;
Hết sức làm ra nhiều ngô, khoai, bông, lúa để kháng chiến; Hăng hái đi
học chữ; Hăng hái đi họp; Cương quyết bài trừ hủ tục; Quyết tâm giữ
vững chiến khu Việt Bắc; Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm;
Hồ Chủ tịch muôn năm [155, tr. 1-2].
Đi đôi với việc tuyên tuyền, vận động, việc cải thiện sinh hoạt cho quốc dân
miền ngược được thực hiện theo hai nguyên tắc là căn cứ vào tình hình kinh tế, văn
hoá, chính trị, xu hướng, nguyện vọng của mỗi dân tộc phải được nghiên cứu tỉ mỉ,
đầy đủ và thích hợp với từng dân tộc, từng địa phương. Tăng gia sản xuất; chú trọng
nhu cầu cần thiết hàng ngày, tiếp tế vải, gạo, muối… cho đồng bào. Nâng cao sự
hiểu biết của đồng bào, phát triển tiểu học và Bình dân học vụ; mở những lớp huấn
luyện ngắn và phát những tài liệu ngắn cho đồng bào; vận động đồng bào xoá bỏ
những hủ tục, lễ nghi, tập quán lạc hậu để xây dựng đời sống mới.
Trước tình hình mới của kháng chiến và yêu cầu của công cuộc cải cách
ruộng đất, từ ngày 27 đến ngày 29-4-1953, Hội nghị Thường vụ Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc họp bàn về công tác phát động quần chúng thực hiện giảm tô, giảm tức.
Hội nghị nghe báo cáo về việc phát động quần chúng và tổ chức lãnh đạo thí điểm ở
các xã Đồng Bẩm, Dân Chủ, Phú Xuân, Nha Lộng, Đức Liên, Đồng Tiến (Phổ Yên,
Thái Nguyên) và ba xã Hợp Tiến, Đào Quản, Hưng Đạo thuộc tỉnh Bắc Giang.
Để bảo đảm lực lượng và thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cuộc
kháng chiến, toàn Liên khu sẽ mở một cuộc vận động tòng quân rộng khắp từ 1-6
99
đến 30-6-1953, với mục đích tuyên truyền giáo dục cho thanh niên và nhân dân, đặc
biệt các gia đình thanh niên đi tòng quân hiểu rõ nghĩa vụ tòng quân, nhiệm vụ xây
dựng quân đội. Phương châm của cuộc vận động là chống càn, chống phá việc
tuyển mộ của địch, kết hợp công tác phát động quần chúng với việc vận động tuyển
mộ tân binh.
Thực hiện Chỉ thị phát động quần chúng giảm tô thuộc vùng dân tộc thiểu số
sinh sống lẫn với người Kinh ở Liên khu Việt Bắc của Ban Bí thư Trung ương Đảng
ngày 05-12-1953, “Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã phát động quần chúng ở một số
xã có dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh trong đợt 1 và đợt 2. Trong 40 xã phát
động quần chúng ở Thái Nguyên và Bắc Giang đợt 2 thì gần 20 xã có dân tộc thiểu
số” [82, tr. 527-536]. Cuộc vận động giảm tô những vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với
người Kinh nhất định phải có cán bộ dân tộc thiểu số tham gia và cần giáo dục cho
tất cả cán bộ thấm nhuần chính sách dân tộc.
Một trong những nội dung quan trọng của công tác dân vận mà Đảng xác
định là công tác vận động đồng bào công giáo. Thực hiện chủ trương của Trung
ương Đảng, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định việc vận động đồng bào công
giáo cần phải:
Thành thực đoàn kết và cương quyết trừng trị bọn công giáo phản động;
Phải thống nhất kế hoạch vận động và phối hợp kế hoạch với các ngành;
Phải tập trung công tác với những nơi công giáo yếu nhất để nắm chắc lấy;
Trung lập hoá cha cố và làm cho giáo dân thoát ly dần ảnh hưởng của cha
cố; Lợi dụng sự cách biệt và những mâu thuẫn nội bộ của công giáo đẻ lôi
kéo dần từng bộ phận (dòng áo đen với dòng áo trắng, già với trẻ, cha cố
với thầy già, họ này với họ khác, giáo dân nghèo với giáo dân giàu…);
Dùng lợi ích thực tế và lối tuyên truyền giản dị, gần gũi cụ thể làm
phương tiện lôi kéo; Dùng đồng bào lương để vận động giáo dân (phổ
biến ý thức giáo vận trong đồng bào lương); Các cấp bộ phải coi công tác
giáo vận là một công tác quan trọng (thái độ lừng chừng của công giáo là
một điểm yếu mất đoàn kết dân tộc hiện tại)” [223, tr. 23].
100
Coi công tác giáo vận là một công tác trường kỳ, khó khăn do đó cần cán bộ
có năng lực, tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ về mọi phương diện; Tích cực đào tạo cán
bộ giáo vận và có chính sách rõ ràng, mạnh dạn dùng những người công giáo tốt,
nuôi dưỡng, giáo dục và giác ngộ họ, đem những thắng lợi nhỏ để kích thích tinh thần
cán bộ. Phải coi công tác giáo vận là công tác vận động chứ không phải là công tác
đối phó.
Ở Liên khu Việt Bắc, số lượng Hoa kiều chiếm một phần dân số khá lớn, rải
rác xung quanh các cứ điểm quân sự quan trọng, dọc nhiều đường giao thông chính,
biên giới Liên khu; Đây là một lực lượng khá quan trọng, Đảng xác định việc vận
động Hoa kiều là một nhiệm vụ quan trọng để cuộc kháng chiến vững vàng thêm.
Chính vì vậy, công tác Hoa vận được xác định là một bộ phận quan trọng trong
công tác dân vận kháng chiến của ta.
Người Hoa sinh sống ở Liên khu Việt Bắc tập trung chủ yếu tại vùng
duyên hải và biên giới, ước chừng 45.000 người, là người Ngái, Thổ,
Nùng và người Quảng Đông, Quảng Tây. Do sự di dân của các dân tộc ở
vùng Quảng Đông, Quảng Tây; Vì hoàn cảnh kinh tế và sự quan hệ về
địa dư của hai nước nên họ tự ý di cư sang; Một bộ phận do sự mộ phu
của các đồn điền, các xí nghiệp và hầm mỏ của Pháp. Hoa kiều tập trung
chủ yếu ở dọc đường số 4 từ Tiên Yên đến Móng Cái; dọc đường số 13
từ Lục Nam đến Đình Lập; Ở trong các thung lũng, núi rừng rải rác ven
bờ biển Hòn Gai, Hoành Bồ, Cẩm Phả mỏ, Cẩm Phả bến, đảo Cát Bà,
trong thị xã Hòn Gay và một số ở các cù lao nhỏ ngoài biển [55, tr. 33].
Hoa kiều ở Liên khu Việt Bắc chủ yếu là nông dân, trình độ thấp, còn nhiều mê
tín, dị đoan và tinh thần phân biệt dân tộc một cách rõ rệt. Việc giải quyết vấn đề Hoa
kiều theo tinh thần dân chủ rộng rãi, cần tôn trọng quốc tịch Hoa kiều. Công tác Hoa
vận là công tác thi hành chính sách đại đoàn kết của ta, phải hướng vào quảng đại quần
chúng cần lao để phát triển tổ chức. Công tác Hoa vận phải kiễn nhẫn, tỉ mỉ và liên tục.
Cũng như đối với các bộ phận dân tộc Việt Nam, phải tìm phương pháp để cải thiện
sinh hoạt và đời sống cho Hoa kiều. Mục tiêu của công tác Hoa vận là: Tăng cường
101
công tác võ trang tuyên truyền, tiễu phỉ, trừ đặc vụ; Đặt cơ sở và phát triển các tổ chức
quần chúng: nông hội, công đoàn…; Cải thiện đời sống và sinh hoạt cho Hoa kiều.
Bước sang năm 1954, tình hình kháng chiến chống Pháp của quân và dân
Việt Bắc có nhiều chuyển biến mới, thế và lực trên chiến trường đã có những thay
đổi đáng kể. Để thực hiện chương trình kế hoạch cầu đường năm 1954 phục vụ cho
cuộc kháng chiến, Trung ương giao cho Liên khu Việt Bắc nhiệm vụ xây dựng 2
công trường lớn để kiến thiết 2 con đường mới. Nhiệm vụ của Liên khu phải hoàn
thành trong 5 tháng đầu năm 1954 và phải khởi công từ tháng 1-1954. Thi hành
nhiệm vụ của Trung ương giao cho, Liên khu đã vận động ra công trường một số
lượng lớn dân công, cán bộ cùng với thóc gạo, thực phẩm dùng cho dân công. Đặc
biệt là vấn đề huy động dân công hết sức quan trọng và cần kíp, quyết định sự thành
công của kế hoạch.
Căn cứ vào nhu cầu cấp bách của kế hoạch và khả năng của các tỉnh, Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc đã giao chỉ tiêu vận động dân công và thóc gạo phục vụ dân
công cho các tỉnh như sau:
Về dân công: Huy động dân công loại A và B. Thời gian từng đợt dân công
phải làm việc trên công trường là 3 tháng rưỡi:
Lạng Sơn huy động 13.000 dân công, chia làm 2 đợt: đợt 1 là 5.000 dân
công; đợt 2 là 8.000 dân công; Bắc Giang phải huy động 4.000 dân
công; Bắc Ninh phải huy động 5.000 dân công; Cao Bằng huy động
2.000 dân công; Thái Nguyên huy động 1.000 dân công [161, tr. 65].
Dân công huy động theo đúng thể lệ huy động dân công của Chính phủ.
Trước khi huy động cần tổ chức cho dân công học tập, nghiên cứu một cách đơn
giản chính sách, đả thông cho họ về nhiệm vụ tránh lộ bí mật. Các tỉnh uỷ phải
báo cáo số lượng và chất lượng dân công, phải tập trung đầy đủ và đúng hạn ở
công trường. Phải chú ý huy động đảng viên đi lãnh đạo dân công, tỉnh phải cử
những cán bộ có ý thức lao động, có tinh thần xung phong gương mẫu. Dân công
phải biên chế thành những đơn vị từ cấp xã, thành lập các đoàn thể quần chúng để
lãnh đạo các giới.
102
Về thóc gạo: “Bảo đảm cung cấp cho số lượng dân công tham gia làm đường
đủ gạo. Liên khu uỷ quyết định phân phối như sau: Lạng Sơn bảo đảm: 1.800 tấn;
Bắc Giang phải đảm bảo: 500 tấn; Thái Nguyên phải đảm bảo: 500 tấn” [161, tr. 66].
Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà Trung ương Đảng giao cho
Liên khu Việt Bắc, các ỉnh uỷ cần nhận thức rõ tầm quan trọng và nhận rõ trách
nhiệm phải lãnh đạo thực hiện.
Trong năm 1954, trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh
giá sự cần thiết về số lượng tân binh để bổ sung vào các đơn vị, Bộ Tư lệnh Liên
khu Việt Bắc đã có kế hoạch tuyển mộ gửi các Tỉnh đội thi hành. Ban Thường vụ
Liên khu uỷ ra Thông tri về việc tuyển tân binh yêu cầu tỉnh uỷ các tỉnh phải phối
hợp giúp đỡ các Tỉnh đội để bảo đảm vận động tuyển mộ quân số cho năm 1954.
Con số tân binh cần tuyển chia theo các tỉnh: “Bắc Giang là 500 người,
Bắc Ninh là 450 người, Quảng Yên là 700 người, Vĩnh Phúc 600 người,
Phú Thọ 600 người, Lạng Sơn 300 người, Cao Bằng 300 người, Tuyên
Quang 250 người, Bắc Kạn 300 người, Hà Giang 200 người, Thái
Nguyên 500 người” [161, tr. 74].
Để vận động và làm cho nhân dân ủng hộ, hiểu rõ cuộc kháng chiến của quân
dân ta, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên huấn (từ ngày
23 đến ngày 30-3-1954) với mục tiêu nâng cao ý thức kháng chiến trường kỳ, tự lực
cánh sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn, tin tưởng vững chắc kháng chiến nhất
định thắng lợi. Cuộc kháng chiến ngày một trưởng thành, lực lượng ngày càng
mạnh, khu du kích đã mở rộng, đất đai nhiều nơi được giải phóng. Tuy nhiên,
những khó khăn do hành động của địch ngày càng dã man, yêu cầu của kháng chiến
nhanh chóng phát triển, đòi hỏi mọi tầng lớp nhân dân phải khắc phục mọi khó
khăn, tích cực đấu tranh chống địch, hăng hái sản xuất, tòng quân, đi dân công phục
vụ tiền tuyến để giành thắng lợi hoàn toàn. Lấy các gương chiến đấu anh dũng,
thành tích sản xuất để giáo dục, nâng cao tinh thần vượt trở ngại trong nhân dân.
Với cán bộ, bộ đội, du kích cần nâng cao ý thức phục vụ nhân dân. Đồng thời chủ
trương giải đáp thắc mắc của quần chúng trong mọi công tác chiến đấu, sản xuất,
sinh hoạt hàng ngày.
103
Cuộc kháng chiến của quân dân Việt Bắc đang đi vào giai đoạn mới, giai
đoạn chuẩn bị về mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội đồng thời phải tạo nên
những điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng phản công. Liên khu uỷ phải vận động cho
toàn khối dân tộc có một tinh thần bền bỉ, dẻo dai, để chịu đựng và vượt qua tất cả
mọi khó khăn để nhân dân có đủ ăn, đủ mặc, đủ điều kiện để chống giặc và đánh bại
giặc, nhân dân sẽ coi việc kháng chiến là bổn phận tất nhiên của người công dân.
Muốn được như vậy, việc tổ chức cuộc vận động nhân dân phải được chấn
chỉnh quy củ, khoa học và đơn giản. Từ bộ máy dân vận của đoàn thể cho đến các
tổ chức quần chúng, công tác dân vận phải thật sự thiết thực và có kế hoạch cụ thể.
Như vậy, so với giai đoạn trước, thời kỳ này công tác dân vận của Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc tập trung chủ yếu vào vận động toàn dân thực hiện kế hoạch sản
xuất tiết kiệm, đảm bảo cung cấp đầy đủ quân lương cho bộ đội nhằm đẩy mạnh
cuộc kháng chiến, chuyển sang tổng phản công. Công tác vận động đồng bào các
dân tộc ở vùng biên giới được đề cao; phát động nhân dân tham gia phát triển chiến
tranh du kích, giúp đỡ du kích; động viên toàn thể thanh niên các dân tộc trên địa
bàn xung phong tham gia kháng chiến và kiến quốc… đây là những nhiệm vụ quan
trọng mà Đảng bộ Liên khu đã xác định phải thực hiện để đưa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi.
3.2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc từ tháng 7-1952 đến tháng 7-1954
Bước sang năm 1952, tình hình công tác dân vận của Liên khu Việt Bắc đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Các cơ sở quần chúng đã nhanh chóng gây dựng lại
và phát triển khá mạnh ở hầu hết các nơi trong vùng bị tạm chiếm. Ban chấp hành đã
được củng cố ở tất cả các cấp, công tác của các giới đã đi vào chiều sâu hơn trước,
phong trào thanh niên, phụ nữ hăng hái tham gia vào các tổ chức cứu quốc nhất là ở
trong vùng địch tạm chiếm. Phong trào nông dân đã lớn mạnh và lôi kéo được nhiều
bần, cố nông tham gia vì quyền lợi cho họ thiết thực hơn, lãnh đạo họ tranh đấu đòi
giảm địa tô thắng lợi.
Vai trò của công tác dân vận ở Liên khu ngày càng được đề cao. Trong đó,
lực lượng mới bao gồm giới tư sản, địa chủ, trí thức trước đây lừng chừng
104
đã tham gia kháng chiến. Một số đồng bào công giáo cũng đã tham gia các
đoàn thể kháng chiến. Tinh thần dân chúng lên cao, đã phá tan được âm
mưu chia rẽ của địch, địch đã thất bại trong việc định thành lập Liên ban
Thổ, Nùng, Dao [53, tr. 20].
Phong trào thi đua nộp thuế nông nghiệp: Phấn khởi trước thắng lợi to lớn của
quân và dân Việt Bắc trên mặt trận Hoà Bình và các mặt trận khác, đồng bào các dân
tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc đã nô nức thi đua nộp thuế nông nghiệp. Huyện
Định Hoá (Thái Nguyên) có sáng kiến mở Đại hội giao lương ở các xã để phát động
phong trào thi đua nộp thuế và được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Đồng bào giúp
đỡ nhau thu hoạch, vận chuyển, phơi khô quạt sạch, chọn thóc tốt để đóng thuế lương
thực. Ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, đồng bào rủ nhau sửa chữa đường thôn bản để đưa
xe trâu, xe quệt vào tận nơi vận chuyển thóc. Những tổ giao lương ở Lạng Sơn,
Tuyên Quang xung phong đi vận chuyển thóc đã được huy động vận chuyển ở từng
thôn, từng hộ, giúp đỡ những nhà neo người, có con đi bộ đội, gia đình thương binh,
tử sĩ... Ở Thái Nguyên, việc vận động bán gạo để Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân
đã hoàn thành tốt, mặc dù nhiệm vụ đưa ra rất gấp và phải thực hiện trong thời gian
ngắn, giữa lúc nhân dân đang ở trong tình trạng giáp hoa, giáp hạt nhưng với tinh
thần sẵn có của đồng bào trong tỉnh, đã thu được kết quả khả quan với 160 tấn. Ngoài
ra, còn nhiều địa phương dân chúng đã tự nguyện bán thóc, gạo cho bộ đội với giá rẻ
hơn thị trường. Việc mua gạo để Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân được dân chúng
nhiệt liệt hưởng ứng và hăng hái xung phong bán, không riêng gì các nông gia mang
thóc bán, mà đến ngay cả đồng bào chuyên sống với nghề buôn bán cũng nô nức bỏ
tiền đong thóc để xung phong bán.
Phong trào thi đua nộp thuế diễn ra rầm rộ, sôi nổi, đồng bào rất nhiệt tình
giúp đỡ nhau và tinh thần, ý thức bảo vệ của công, nộp đâu gọn đấy, làm ngày chưa
đủ, tranh thủ vận chuyển cả đêm để kịp nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Sau khi
nộp thuế xong, các địa phương đều tổ chức Hội nghị kiểm thảo ở từng thôn, từng
xã. Trong Hội nghị, đồng bào đã mạnh dạn phê bình thái độ quan liêu của một số
cán bộ hay uỷ viên Ban Thuế, một số đồng bào cũng tự phê bình khuyết điểm của
mình về giấu sản lượng, khai man, nộp thóc chưa tốt. Cán bộ cũng trung thực nhận
105
lỗi, tự phê bình nghiêm túc. Những cuộc Hội nghị kiểm thảo rút kinh nghiệm kịp
thời và thiết thực đã góp phần củng cố tình đoàn kết giữa cán bộ và nhân dân. Đó là
dịp để nhân dân phát huy lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm ủng hộ Chính phủ, thể
hiện lòng tin vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh và tình thương yêu bộ đội đang cần
sự chi viện đóng góp to lớn từ hậu phương.
Bên cạnh việc thi đua hưởng ứng cuộc vận động nộp thuế nông nghiệp, Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc cũng chú trọng nâng cao mức sinh hoạt của nhân dân ở vùng
tự do, dưới chế độ dân chủ nhân dân đời sống được nâng cao, nhân dân hăng hái
tham gia mọi công tác kháng chiến, tòng quân, đi dân công… lòng tin tưởng vào
sức mạnh của toàn dân vào cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi ngày càng được
củng cố.
Thực hiện nghĩa vụ tòng quân trong đợt Trung ương Đảng chủ trương
chuyển mạnh sang tổng phản công và chuẩn bị cho những chiến dịch lớn, Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc đã chỉ đạo các tỉnh vận động nhân dân tham gia tòng quân.
Tỉnh uỷ Thái Nguyên đã nêu cao khẩu hiệu “Thanh niên xung phong
tòng quân” được tuyên truyền khắp các huyện, xã trong tỉnh. Sau 02 tuần
lễ ghi tên tòng quân do thanh niên tổ chức đã có tới 9.400 thanh niên và
nữ ghi tên. Nông dân đã vận động được ¾ số lượng đoàn viên tham gia
du kích và vận động được hơn 3.000 đoàn viên thường xuyên luyện tập
quân sự. Thanh niên vận động hầu hết đoàn viên vào dân quân du kích
và cũng đã tổ chức phát động 100 ngày luyện tập quân sự [11, tr. 131].
Để có đủ số lượng bộ đội phục vụ cho chiến trường, Tỉnh uỷ Phú Thọ cũng
đẩy mạnh công tác vận động tuyển mộ tân binh:
Tỉnh uỷ đã xây dựng thêm 2 đại đội bộ đội địa phương Lâm Thao và
Đoan Hùng, 4 trung đội của 2 huyện Phù Ninh, Thanh Ba, bổ sung thêm
491 bộ đội địa phương, tuyển mộ 703 bộ đội chủ lực. Tổng số đã vận
động là 1.413 tân binh bổ sung cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực,
vượt mức Liên khu đã giao cho là 200 người [213, tr. 18].
Tỉnh uỷ đã bổ khuyết và có kế hoạch tổ chức việc tuyên truyền giáo dục vận
động thanh niên và nhân dân, phối hợp được công tác vận động của các ngành,
106
thêm vào đó đã gây ảnh hưởng tốt tới phong trào phát triển quần chúng nên công
tác tân binh đã có kết quả cao hơn, hiện tượng bộ đội đảo ngũ còn nhưng rất lẻ tẻ.
Song song với việc vận động tòng quân, việc vận động cấp dưỡng bộ đội cũng
nhanh chóng được triển khai trên địa bàn Liên khu. Tỉnh Thái Nguyên đã đi đầu
trong việc vận động cấp dưỡng bộ đội địa phương đạt kết quả cao: “Thóc 551.517 kg;
Tiền 786.423 đồng; Quần áo 603 bộ quần áo nâu, 605 trấn thủ” [11, tr. 124]. Việc
vận động cấp dưỡng bộ đội địa phương quân được đặt biệt chú ý nên đã đem lại kết
quả khả quan, dân chúng có ý thức về việc này, đã có nhiều địa phương đem số áo
nẹp, cờ thần ra may quần áo cho anh em bộ đội. Phong trào đỡ đầu bộ đội chính quy
cũng được triển khai thực hiện tại các tỉnh trong Liên khu. Tiêu biểu như Tỉnh uỷ
Thái Nguyên đã “Vận động ủng hộ bộ đội chính quy mỗi xã 13 áo trấn thủ, ngoài ra
còn nhận đỡ đầu nhiều đơn vị thuộc đại đoàn 308. Do sự cố gắng trong công tác vận
động quần chúng nên đã thu được kết quả trội số áo trấn thủ đã hứa với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, hơn nữa các địa phương còn nhận đỡ đầu 162 tiểu đội” [11, tr. 126].
Bên cạnh đó, hoạt động bồi dưỡng sức dân theo chủ trương của Đảng được
nhiều địa phương của Liên khu thực hiện bằng nhiều hình thức như: giảm tô, giảm
tức, chia lại ruộng công, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân thiếu ruộng
hoặc không có ruộng, động viên nông dân hăng hái tham gia sản xuất. Phong trào
thi đua nộp nhanh, nộp đủ, nộp vượt mức thuế dấy lên sôi động trong các vùng căn
cứ, hậu phương và cả vùng địch tạm chiếm. “Mức đóng góp của nhân dân chiếm
khoảng 20% thu hoạch. Vụ mùa năm 1952, Liên khu Việt Bắc thu được 107.765 tấn
thóc thuế” [162, tr. 17].
Theo nghị quyết của Trung ương Đảng, trong năm 1952, các đoàn thể phải cử
bí thư hay phó bí thư đảng đoàn chịu trách nhiệm về công tác vận động, tuyên truyền
trong đoàn thể của mình. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc quy định cách thức làm việc
giữa Ban Tuyên huấn Liên khu với ban tuyên huấn của các ngành, các cấp nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động đoàn kết toàn dân trong
thời kỳ mới của cuộc kháng chiến chống Pháp. Để công tác tuyên huấn và công tác
dân vận được đẩy mạnh, Liên khu uỷ yêu cầu: Công tác tuyên truyền, vận động của
các đoàn thể công, nông, thanh, phụ, bộ đội phải báo cáo kết quả định kỳ. Liên khu
107
cũng thường xuyên triệu tập hội nghị mở rộng công tác tuyên truyền với các đoàn
thể và bộ đội để thống nhất kế hoạch tuyên truyền, vận động, giáo dục.
Công tác thanh vận trong năm 1952 đã thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ
yếu do Trung ương và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đề ra, toàn thể thanh niên của
Liên khu được động viên góp sức hoàn thành nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
Thanh niên toàn Liên khu hăng hái tham gia tòng quân và luyện tập quân sự cho du
kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Những vùng địch tạm chiếm cũng như
khu vực miền núi, thanh niên đã nỗ lực góp một phần quan trọng vào việc sửa chữa
cầu đường, đi dân công, phục vụ cho các chiến dịch lớn. Công tác thanh niên đã giữ
vững và phát triển được cơ sở, tổ chức của mình, luôn cảnh giác và đấu tranh với
âm mưu của địch, chống chia rẽ lương giáo, chống bắt lính… Thanh niên ở Liên
khu đã tham gia tích cực vào công cuộc chống giặc dốt, giặc đói, đẩy mạnh công tác
Bình dân học vụ và tăng năng suất ở nông thôn.
Công tác vận động thiếu nhi tham gia sản xuất tiết kiệm trong năm 1952 đã
đạt được nhiều kết quả. Các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc
Giang đều có ban và có một người phụ trách công tác thiếu nhi. Thời kỳ này, việc
giáo dục thiếu nhi thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhấn mạnh
ba điểm: “yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động”. Trong khi tham gia sản
xuất, giáo dục cho thiếu nhi chuộng lao động, tăng gia nhiều thì ích lợi cho bản thân,
cho gia đình là thực hiện được việc thương đồng bào, yêu Tổ quốc mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy.
Nhiệm vụ của các em là cổ động, tuyên truyền nhân dân, người thân tham
gia sản xuất tiết kiệm. Riêng từng đợt các em có thể làm những việc sau:
các gia đình học tập chương trình ở xóm: tổ chức rước đuốc, cổ động,
tuyên truyền tới toàn dân tham gia việc học tập ở xóm. Trông em nhỏ,
trông nhà để bố mẹ, anh chị đi học tập. Ngày đại hội sản xuất: rước đuốc,
hoá trang, tham gia góp vui. Phụ trách và các em diễn kịch, múa, hát với
nội dung hướng về sản xuất tiết kiệm. Làm kế hoạch gia đình: các em lớp
4, lớp 5 đi viết chương trình giúp các gia đình không biết chữ. Tham gia
108
vào các buổi họp ở gia đình về trình bày ý kiến công việc trong nhà và
nhân sự, nhân công của gia đình [157, tr. 2].
Công tác nông vận trong năm 1952 có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện chủ
trương của Đảng và Chính phủ về cuộc vận động toàn dân tăng gia sản xuất và tiết
kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Muốn đánh thắng thì quân và dân phải ăn no.
Muốn ăn no thì phải có nhiều lương thực. Muốn nhiều lương thực thì phải cày cấy
nhiều… Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công thì đồng bào ở hậu
phương phải thi đua tăng gia sản xuất. Trong hoạt động của các tổ chức quần chúng,
ở Phú Thọ vai trò của Nông hội là nổi bật nhất với việc phát động quần chúng,
chuẩn bị phát động, giáo dục động viên nông dân tiến hành các công tác sản xuất,
thuế nông nghiệp, dân công phục vụ công trường. Trong quá trình đấu tranh và sản
xuất, Nông hội đã có điều kiện thuận lợi để phát triển và củng cố tổ chức.
Những nơi chưa phát động quần chúng, qua các đợt học tập, hầu hết các
xã đã được chấn chỉnh và chấp hành, đưa bần cố nông tích cực vào, số
hội viên cũng phát triển mạnh. Ở những nơi phát động quần chúng, Nông
hội càng được củng cố vững mạnh, tổ chức Nông hội chiếm 26% dân số,
bần cố nông trong các cơ quan chấp hành chiếm 73,3%. Sau khi củng cố
lại tổ chức, mọi mặt hoạt động được đẩy mạnh, tinh thần nông dân rất
phấn khởi tích cực tham gia công tác Hội [213, tr. 35].
Thực hiện chủ trương của Trung ương, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phong trào sản xuất và tiết kiệm được nhân dân hưởng ứng rộng rãi.
Cán bộ các cơ quan, xí nghiệp, học sinh và quân đội trên địa bàn Liên khu Việt Bắc
tích cực tham gia sản xuất lương thực và thực phẩm. Phong trào sản xuất nông
nghiệp nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp.
Nông dân thi đua trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông, đẩy mạnh chăn nuôi gia
súc, khôi phục nghề phụ gia đình. Phong trào đổi công, hợp công phát triển, tạo
thành sức mạnh chống thiên tai, địch hoạ. Công tác vận động nông dân ở Liên khu
ngày càng được củng cố và thực hiện tới cấp xã, “Liên khu đã mở được 465 lớp
huấn luyện với 11.853 người tham dự” [112, tr. 1].
109
Công tác phụ vận: Những thắng lợi liên tiếp trong các chiến dịch lớn trên
chiến trường đã làm cho tương quan lực lượng giữa ta và địch ngày càng thay đổi.
Sau khi Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi, toàn thể phụ nữ ở Liên khu Việt
Bắc từ những nơi xa xôi nhất đã hăng hái tham gia công tác phục vụ chiến trường.
Nhân đà chiến thắng của các chiến dịch, cũng như để tiếp tục tinh thần xung phong
anh dũng, Liên khu uỷ đã đẩy mạnh việc huy động phụ nữ phục vụ chiến trường,
tiêu diệt giặc, góp phần cùng toàn quốc mau hoàn thành nhiệm vụ tổng phản công.
Tuyên truyền, vận động để chị em trong Hội và ngoài Hội hiểu và tham
gia nhiệm vụ đi dân công. Phụ nữ toàn khu đã mở được 377 lớp huấn
luyện và có 7.406 người tham dự. Tổ chức khuyến khích và hoàn nghênh
phong trào đi dân công. Giáo dục cho chị em hiểu và ý thức với công tác
để làm với tinh thần tích cực, thực sự. Tôn trọng kỷ luật trong khi phục
vụ chiến trường [146, tr. 3].
Công tác vận động chị em phụ nữ đi dân công phục vụ kháng chiến được đẩy
mạnh ngay từ đầu năm 1953.
Kết quả các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hải
Ninh, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc đã vận động một số lớn phụ nữ phục vụ
kháng chiến với 92.458 chị em đi phục vụ và bố trí một số lượng lớn cán
bộ tỉnh, huyện lãnh đạo và chú trọng công tác này nhằm củng cố và đẩy
mạnh năng suất ngoài công trường, đảm bảo nhiệm vụ, đồng thời chú ý
đến việc bảo vệ sức khoẻ cho chị em. Nhân những ngày 8-3, 20-10 động
viên chị em tăng năng suất, gây tinh thần thi đua của chị em trong Hội. Ở
những xã phát động phong trào thi đua, chị em sẵn sàng đi dân công, số
lượng chị em đăng ký đi dân công luôn vượt con số đề ra [113, tr. 51].
Công tác vận động dân công phục vụ kháng chiến của Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc đạt kết quả cao, đi đầu là Tỉnh uỷ Phú Thọ đã:
Huy động tất cả là 91.508 dân công, trong đó có 45.250 dân công loại A,
44.780 dân công loại B và 478 dân công loại C. Những dân công được
huy động đã thực hiện tất cả là 4.269.036 nhân công, trung bình mỗi dân
công loại A và B một năm phục vụ 60 ngày. Người nhiều nhất là 150
110
ngày, người ít nhất là 30 ngày. Về phương tiện phục vụ công tác dân
công hoả tuyến đã huy động 937 chiếc xe đạp làm 3 đợt, mỗi đợt 20
ngày, 87 xe trâu, 758 thuyền nan của nhân dân, mỗi cái phục vụ 41 ngày
và 619 thuyền gỗ trong công đoàn mỗi chiếc phục vụ 30 ngày [9, tr. 20].
Nhiệm vụ dân công, công tác cầu đường, giao thông phục vụ tiền tuyến được
đảm bảo cho chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào. Đi đầu trong công tác
này là Tỉnh uỷ Phú Thọ đã triển khai và thực hiện đầy đủ, mặc dù bị địch phá hoại
ác liệt nhưng kể từ “sau chiến dịch Thượng Lào, suốt năm giao thông bị gián đoạn
chỉ có 10 ngày. Công tác cầu đường phục vụ các chiến dịch đã tu bổ đường Quốc lộ
số 2, Đường 15 và Đường liên tỉnh 11 đã thực hiện được 90%” [9, tr. 21]. Tỉnh uỷ
đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác cầu đường nên khi có nhu cầu của kế
hoạch vận tải quốc phòng đã tăng cường lãnh đạo, bảo đảm giao thông liên tục cho
các chiến dịch.
Thực hiện yêu cầu của Trung ương Đảng về công tác vận động nhân dân ủng
hộ, đóng góp, tham gia phục vụ kháng chiến, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã làm tốt việc vận
động nhân dân trong toàn tỉnh chuẩn bị 200 tấn gạo để cấp phát và vận chuyển cho
dân công:
Đợt 1 có 6.313 dân công trợ cấp hết 5.706 kg gạo; Đợt 2 có 2.595 dân
công trợ cấp 717 kg gạo; Đợt 3 số lượng gạo dân công vận chuyển để
phục vụ chiến dịch là 84.365 kg gạo và 475 kg muối. Về phương tiện: tỉnh
đã chuẩn bị kịp thời, mỗi gia đình phải có 1 đôi bồ có nắp để chuẩn bị đi
dân công. Các phương tiện khác tỉnh đã chuẩn bị cho các xã: mỗi người 1
con dao, 1 nón áo tơi, bát đũa, bồ có nắp, thuốc men. Một tiểu đội có 2
cuốc, 2 xẻng, nồi nấu cơm. Sau 3 đợt vận động dân công với số lượng
4.282 dân công đã chuyển vận được 10.450.716 kg gạo [213, tr. 8-9].
Thực hiện kế hoạch cầu đường của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, Tỉnh uỷ
Quảng Yên đã vận động nhân dân tham gia dân công phục vụ kế hoạch cầu đường,
kế hoạch phục hồi đường sắt, khai thác mỏ Hồ Thiên.
Tỉnh uỷ Quảng Yên đã huy động số lượng dân công là 4.116 người hầu
hết là xung phong, vượt mức yêu cầu của Liên khu (Khu yêu cầu 4.000
111
người). Trong kế hoạch phục hồi đường sắt của Liên khu, tỉnh huy động
3.092 dân công và 1.500 dân công làm đường mỏ than Hồ Thiên. Ngoài
ra, tỉnh còn huy động một số lượng lớn dân công phục vụ hoạt động quân
sự ở địa phương [215, tr. 105].
Công tác vận động đồng bào miền ngược được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc
chú trọng củng cố. Liên khu đã cử một số cán bộ lên chiến khu Việt Bắc xây dựng
phong trào, công tác vận động quốc dân miền ngược đã được chấn chỉnh và tích luỹ
thêm nhiều kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến. Về mặt tổ chức, Liên khu đã thành
lập Phòng Quốc dân Miền núi ở cấp khu và cấp tỉnh. Về công tác cán bộ, Liên khu
uỷ chủ trương đào tạo cán bộ địa phương gồm đủ các dân tộc sinh sống trên địa bàn,
đặc biệt chú ý cán bộ người dân tộc Dao, cán bộ người Kinh phải giúp đỡ cho các
cán bộ của địa phương.
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định việc vận động đồng bào miền ngược
phải thiết thực cải thiện đời sống của đồng bào, Liên khu uỷ đã chỉ đạo mua một tấn
muối để phát cho đồng bào, nhất là những vùng bị địch tàn phá và đồng bào dân tộc
Dao. Hình thức vận động, tuyên truyền cổ động đồng bào miền núi trong thời kỳ
này là nêu cao uy tín của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, uy tín của chính quyền,
làm cho đồng bào tin tưởng vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc kháng chiến; đem
những tin thắng trận tuyên truyền để đồng bào tin tưởng vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chính nghĩa; cổ động phong trào tham gia bộ đội, du kích, xây dựng
làng chiến đấu; dùng hình thức đơn giản, dễ hiểu (tranh ảnh, đặt bài hát ca dao, kịch
bằng thơ…). Công tác tổ chức cho đồng bào miền ngược tham gia kháng chiến chủ
yếu là hình thức phát động phong trào triệt để phá hoại, vận động đồng bào tham
gia “Tuần lễ tiếp tế” huy động toàn dân vận tải gạo, muối tích trữ vào những nơi đã
định; vận động phong trào tăng gia sản xuất, tổ chức cuộc thi đua tăng gia sản xuất,
phát rẫy trồng bắp sau vụ gặt; vận động đồng bào thực hiện đời sống mới.
Công tác vận động đồng bào công giáo ở các tỉnh trên địa bàn Liên khu đã
xác định rõ nhiệm vụ vận động đồng bào công giáo tham gia các tổ chức kháng
chiến. Liên khu đã thành lập Ban Giáo vận và có cán bộ giáo vận các cấp. Các Ban
Giáo vận đã làm tốt công tác liên lạc để giúp đỡ nhau rút kinh nghiệm về các mặt
112
công tác trong toàn Liên khu. Để vận động đồng bào công giáo đứng vào hàng ngũ
kháng chiến, Liên khu uỷ đã chủ trương dùng người công giáo có uy tín trong các
cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể để lôi kéo đồng bào công giáo. Thực hiện chủ
trương của Liên khu, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã đi đầu trong việc đẩy mạnh công tác
giáo vận, tỉnh đã thành lập Ban Giáo vận và đã triển khai thành lập tại 5 huyện: Yên
Phong, Võ Giàng, Quế Dương, Gia Bình và Lương Tài. Công tác vận động của Ban
Giáo vận đã lôi kéo được giáo dân ở các huyện vào các tổ chức cứu quốc.
Đảng bộ Liên khu chỉ đạo đẩy mạnh công tác Hoa vận, mở cuộc Đại biểu hội
nghị Hoa kiều sau khi thành lập Ty Hoa kiều để động viên tinh thần nhân dân. Hạn
chế những thành kiến giữa cán bộ Việt Nam và Trung Hoa trong những cuộc gặp
gỡ, phê bình; vạch rõ mối quan hệ giữa hai cuộc kháng chiến hai nước. Công tác
vận động Hoa kiều giai đoạn này chủ yếu là tuyên truyền sâu rộng những thắng lợi
của giải phóng quân. Đã làm cho quần chúng Hoa kiều hiểu rõ và hoàn toàn tin
tưởng vào sự thắng lợi của giải phóng quân và nhất là gần đây Chính phủ Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa mới ra đời họ lại càng thêm phấn khởi, những cuộc mít tinh
rầm rộ ở những vùng có Hoa kiều đã được tổ chức để hoan nghênh Chính phủ Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa.
Như vậy, điểm mới của công tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc trong thời kỳ
này mục đích là thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh cuộc
kháng chiến, chuyển sang tổng phản công. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã nhanh
chóng kiện toàn các tổ chức và đội ngũ cán bộ dân vận. Theo đó, các đoàn thể phải
cử bí thư hay phó bí thư đảng đoàn chịu trách nhiệm về công tác vận động, tuyên
truyền trong đoàn thể của mình. Vai trò của công tác dân vận ở Liên khu ngày càng
được đề cao, đã kêu gọi những lực lượng mới (giới tư sản, địa chủ, trí thức, đồng bào
công giáo…) tham gia các đoàn thể kháng chiến. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ
đạo các tỉnh vận động nhân dân tham gia tòng quân phục vụ cho việc chuyển mạnh
sang tổng phản công và chuẩn bị cho những chiến dịch lớn. Nhiệm vụ dân công,
công tác cầu đường, giao thông phục vụ tiền tuyến đã được Liên khu đảm bảo để
phục vụ cho các chiến dịch quan trọng (Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Thượng
Lào, Chiến dịch Điện Biên Phủ…) đi đến thắng lợi.
113
Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong chiến cuộc Đông
Xuân và chiến dịch Điện Biên Phủ
Sau những thắng lợi của quân dân Việt Nam trên mặt trận quân sự Hòa Bình,
Tây Bắc và Thượng Lào, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường được củng
cố vững chắc, không chỉ trên chiến trường Bắc Bộ mà đã mở rộng trên toàn chiến
trường miền Bắc Đông Dương. Lực lượng kháng chiến trong nhân dân đã lớn
mạnh. Hậu phương kháng chiến được tăng cường về mọi mặt. Khối đại đoàn kết
toàn dân được củng cố. Các chính sách kinh tế, tài chính của Đảng và Chính phủ
được nhân dân hưởng ứng. Điều kiện giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng
chiến tăng lên rõ rệt.
Về phía thực dân Pháp, càng kéo dài chiến tranh xâm lược, địch càng gặp
khó khăn lớn, thất bại nặng nề và càng phụ thuộc vào đế quốc Mỹ. Tháng 5-1953,
Chính phủ Pháp cử tướng Nava (H.Navarre) - Tham mưu trưởng lục quân khối
Trung Âu của NATO, sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông
Dương thay tướng Xalăng. Kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng Chính phủ và
Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24-7-1953. Nhiệm vụ trung tâm của kế
hoạch là tổ chức khối cơ động chiến lược mạnh gấp ba lần binh lực hiện có, nhằm
giành thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường. Với việc thực hiện kế
hoạch này, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tin tưởng trong 18 tháng sẽ "chuyển
bại thành thắng". Để thực hiện kế hoạch, Nava ra sức bắt lính để tăng cường quân
ngụy, tập trung lực lượng cơ động mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Từ Hè - Thu 1953,
thực dân Pháp liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét trong vùng chiếm đóng
ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ.
Trước những diễn biến mới của cuộc kháng chiến, công tác chuẩn bị thực
hiện kế hoạch được khẩn trương triển khai. Hội đồng Cung cấp tiền phương được
thành lập để chỉ đạo công tác huy động sức người, sức của, tổ chức vận chuyển ra
mặt trận. Trước đó, tháng 7-1953, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ủy ban Chi
viện tiền tuyến nhằm huy động tối đa sức người, sức của của hậu phương vào việc
chuẩn bị cho Đông Xuân đánh lớn.
114
Để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, công tác xây dựng
lực lượng vũ trang địa phương ở vùng tự do, công tác vùng địch hậu được khẩn
trương triển khai. Hàng chục vạn dân công được động viên, điều động vào việc
chuẩn bị vận tải cho các chiến trường. Hàng vạn xe đạp thồ và xe đẩy thô sơ, hàng
nghìn thuyền, mảng, hàng đoàn ngựa được huy động để vận chuyển lương thực, đạn
dược, thuốc men ra tiền tuyến... Tất cả đều tập trung bảo đảm cho kế hoạch Đông -
Xuân 1953-1954 toàn thắng.
Vấn đề bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ quan trọng phục vụ nhiệm vụ
quân sự. Ngày 15-6-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc lãnh đạo
công tác làm cầu đường giao thông vận tải để đảm bảo việc vận chuyển quân sự, để
sẻ bớt gánh nặng vận chuyển cho dân và đồng thời cũng để mở rộng việc vận
chuyển kinh tế.
Các cấp uỷ Liên khu Việt Bắc và Tỉnh uỷ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La,
Phú Thọ, Hòa Bình phải tăng cường việc lãnh đạo công tác cầu đường,
điều động những cán bộ tích cực, có năng lực phụ trách các công tác ấy
[82, tr. 244].
Thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, “chiến dịch cầu đường” được triển khai
trên quy mô lớn tại khắp các tỉnh thuộc vùng tự do Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III,
Liên khu IV. Với khẩu hiệu “Quân sự trên hết, tiền tuyến trên hết!”, hàng vạn dân
công ở các địa phương, trên khắp các công trường cầu, phà, với những phương tiện
thô sơ là chủ yếu, đã quyết tâm khắc phục mọi khó khăn làm đường, cầu đúng tiêu
chuẩn kỹ thuật, đúng thời hạn. Cùng với đường liên tỉnh trong từng khu và liên khu
đã hình thành hệ thống đường chiến lược nối liền Việt Bắc với Tây Bắc, Tây Bắc
với Liên khu III và Liên khu IV. Trong năm 1953, mặc dù địch đánh phá ác liệt
nhưng dân công cả nước đã làm mới được 156 km, sửa chữa, tu bổ đưa vào hoạt
động thêm 2.075 km đường bộ. Các tập đoàn vận tải của nhân dân được Chính phủ
khuyến khích phát triển.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ
đạo công tác vận động nhân dân tham gia vận tải phục vụ tiền tuyến. Phương tiện
115
vận tải chủ yếu trên đường thủy là thuyền, trên đường bộ là xe súc vật kéo và xe
đạp. “Lực lượng xe đạp thồ ở Liên khu Việt Bắc phát triển nhanh chóng: Phú Thọ
năm 1953 có 616 chiếc, Thái Nguyên 700 chiếc. Năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt
trận đã huy động được 12.400 xe đạp thồ của đồng bào Việt Bắc phục vụ các chiến
dịch” [54, tr. 63-64]. Năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy Việt Bắc, các tỉnh
ủy, huyện ủy tập trung chỉ đạo cứu đói và chữa bệnh đi đôi với tăng gia sản xuất,
vận động nhân dân vùng căn cứ giúp dân vùng mới giải phóng để sản xuất.
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trên các chiến trường chính, hậu
phương và vùng sau lưng địch, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Liên khu Việt Bắc dốc
sức tiến hành nhiều hoạt động tổ chức lực lượng, huy động sức người, sức của với tinh
thần quyết tâm cao giành thắng lợi tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định những khó khăn về cung cấp, tiếp tế sẽ giải quyết
được, vì nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm cao; cuộc kháng chiến đang
trên đà thắng lợi; toàn dân tin tưởng, đoàn kết. Vì vậy, dù khó khăn đến đâu, nhân dân
cũng sẽ đem hết tinh thần và sức lực, của cải vật chất phục vụ kháng chiến, phục vụ
bộ đội đánh địch ở Điện Biên Phủ. Trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hiện chiến
dịch, Đảng chú trọng đến vấn đề phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đặc biệt là sức
mạnh của nhân dân ở các hậu phương Liên khu Việt Bắc, đồng thời tổ chức chiến đấu
rộng khắp trên các chiến trường nhằm “chia lửa” với Điện Biên Phủ.
Từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho chiến dịch
Điện Biên Phủ diễn ra dồn dập, khẩn trương. Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ
trương mở chiến dịch tiêu diệt quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo
phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, dự kiến đánh trong ba đêm hai ngày.
Lãnh đạo thực hiện phương án đánh chắc tiến chắc, Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chỉ đạo quân đội, các ngành, các địa phương hoàn
thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến dịch. Quyết tâm chiến lược của Trung
ương Đảng đã nhanh chóng biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng",
các cấp ủy Đảng, các ban ngành động viên nhân dân dồn sức người, sức của cho
chiến dịch. Các chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong và nhân dân địa phương
116
anh dũng mở đường, sửa đường, phá bom nổ chậm, nêu cao tinh thần quyết tâm
mở đường thắng lợi để bộ đội nhanh chóng kéo pháo vào trận địa.
Phong trào hậu phương chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ đã được
nhân dân Liên khu Việt Bắc nhiệt tình ủng hộ. Liên khu đã đóng góp hàng vạn dân
công vận chuyển lương thực, súng đạn, thuốc men cho mặt trận. Hàng vạn thanh
niên xung phong đã mở hàng ngàn kilômét đường, huy động thuyền bè, xe đạp thồ,
ngựa thồ và hàng ngàn xe trâu bò được huy động phục vụ chiến dịch. Đảng bộ Liên
khu Việt Bắc đã tập trung chỉ đạo tất cả bộ máy Đảng, chính quyền, các tổ chức
đoàn thể quần chúng như Mặt trận, Hội Phụ nữ, Thanh niên... khẩn trương tổ chức
vận động đồng bào các dân tộc hăng hái tham gia các đoàn dân công mở đường, vận
tải và đóng góp lương thực thực phẩm, ngựa thồ, thuyền mảng phục vụ chiến dịch.
Các đoàn cán bộ cử người đến các vùng sâu, rẻo cao vận động đồng bào. Từ các
đồng chí lãnh đạo chủ chốt đến cán bộ, đảng viên không quản ngại hy sinh gian
khổ, đi đến những nơi khó khăn nhất để động viên, hướng dẫn đồng bào tham gia
phục vụ chiến dịch. Hàng ngàn thanh niên, gái trai ở các địa phương đã tích cực
tham gia đi dân công phục vụ chiến dịch. Để có đủ gạo tiếp tế cho bộ đội, đồng bào
giã gạo cả ban đêm, nhiều gia đình mang cả ngựa đi chở vũ khí, đạn dược, lương
thực, thực phẩm phục vụ từ 1 đến 2 tháng. Nhiều người hết thời gian phục vụ theo
qui định nhưng vẫn ở lại, ngày đêm cùng bộ đội trên các tuyến đường. Thắng lợi
bước đầu của công tác phát động quần chúng tại Liên khu Việt Bắc đã tiếp thêm sức
mạnh cho bộ đội và dân công vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, phát huy cao độ
chủ nghĩa anh hùng cách mạng để giành toàn thắng cho chiến dịch.
Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương, đầu tháng 3-1954, các công
việc chuẩn bị cho chiến dịch đã hoàn thành. Bộ Chính trị chỉ đạo phải tổ chức dự
trữ gấp đôi hay ít nhất gấp rưỡi so với yêu cầu của mặt trận. Từ cơ quan của Chính
phủ đến các Liên khu ủy, Khu uỷ, Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính kháng chiến các cấp
thuộc Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV động viên nhân dân phát huy
cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc và tinh thần cách mạng, tình nguyện vào bộ
đội, đi dân công hỏa tuyến... Trên 100.000 dân công được tăng cường cho công tác
phục vụ chiến trường.
117
Các Tỉnh uỷ thuộc Liên khu Việt Bắc chỉ đạo các ngành, các cấp động viên
nhân dân ra sức thi đua đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến. Dưới sự lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng ở nhiều nơi mở các
cuộc vận động tuyên truyền nhân dân đấu tranh bằng các biện pháp thích hợp như
tổ chức các cuộc họp với những gia đình có người thân đi lính cho địch; họp đoàn
thanh niên ký giao ước không đi lính cho địch. Nhiều hình thức đấu tranh binh vận
được thực hiện như rải truyền đơn, dán áp phích, vây bốt kết hợp với gọi loa thuyết
phục địch ra hàng. Những cuộc đấu tranh bằng hình thức tuyên truyền, vận động
mang lại những thắng lợi quan trọng, hàng ngàn lính nguỵ bỏ hàng ngũ địch, bỏ
súng quay trở về với nhân dân. Song song với công tác vận động quần chúng làm
công tác binh vận, tại vùng tự do, các cấp chính quyền, đoàn thể vận động nông dân
đấu tranh đòi địa chủ, phú nông phải triệt để giảm tô, thoái tô và bước đầu tiến hành
cải cách ruộng đất.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân các dân
tộc nỗ lực khắc phục những khó khăn, trở ngại, ngày đêm ra sức phục vụ chiến dịch
Điện Biên Phủ. Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ tuyến đường qua Đèo Cà - Yên Thế,
Pha Đin - Điện Biên Phủ, dân công và thanh niên xung phong có đóng góp quan
trọng để bảo vệ tuyến đường. Được sự chỉ đạo, động viên của Đảng bộ và các cấp
chính quyền, hàng vạn dân công và công nhân kiên trì bám trụ ngày đêm, dũng cảm,
gan dạ tháo gỡ bom nổ chậm, nhanh chóng sửa đường, cầu phà, đảm bảo giao thông
thông suốt. Trong những ngày diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ ác liệt, đoàn Thanh
niên với sức trẻ, tinh thần dũng cảm chiến đấu và đảm bảo giao thông. Lực lượng
thanh niên hướng dẫn ô-tô chở hàng và kéo pháo an toàn lên chiến dịch Điện Biên
Phủ. Đồng bào Tây Bắc tổ chức cứu chữa, chăm sóc thương bệnh binh.
Số vật chất và nhân lực do đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III và
Liên khu IV đóng góp cho chiến dịch là rất lớn, bảo đảm sức khoẻ cho bộ
đội xây dựng trận địa và chiến đấu ròng rã trong nhiều tháng. Các địa
phương đã huy động trên 260.000 (tính ra trên 14 triệu ngày công) dân
công miền ngược, miền xuôi, cả vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, đã
phục vụ tiền tuyến. 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận
118
chuyển thô sơ và nửa thô sơ; cung cấp cho chiến dịch (số huy động tại
gốc) 250.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm
khác. Tính riêng số vật phẩm chuyển được ra mặt trận là hơn hai vạn tấn
[19, tr. 202].
Trước yêu cầu to lớn và khẩn trương của chiến dịch, từng đoàn dân công Liên
khu Việt Bắc già, trẻ, gái, trai trong những bộ quần áo nâu, chàm của đồng bào Kinh,
Tày, Nùng, H’Mông, Dao ngày đêm vượt núi, băng rừng, vượt đèo cao, suối sâu, vận
chuyển vũ khí và lương thực phục vụ chiến dịch. Nhân dân các địa phương ven
đường quốc lộ có sáng kiến lập nhiều tổ, đội nhân dân, ngày đêm bám sát bảo vệ các
cung đường, bảo đảm giao thông thường xuyên thông suốt tới mặt trận. Bảo đảm vật
chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn về sức
người sức của. Công tác vận chuyển tiếp tế đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên
chiến trường.
Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Ngày 13-3-1954, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân đội nổ súng
mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 30-3-1954,
quân đội mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân
khu trung tâm. Đánh vào khu đông, bộ đội tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần
lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều
kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Ngày 01-5-1954, bộ đội mở đợt tiến công thứ ba. Quân đội lần lượt đánh chiếm
những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của
địch. Ngày 7-5-1954, bộ đội Việt Nam đã phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở
chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm
bị bắt sống.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ đã toàn thắng. Chiến thắng Điện Biên Phủ có sự đóng góp to lớn của quân dân
Việt Bắc với trên 26 vạn dân công miền ngược, miền xuôi, cả vùng tự do và vùng bị
tạm chiếm vừa ra sức bảo vệ hậu phương, vừa ra sức cung cấp sức người, sức của
cho tiền tuyến.
119
Đi đầu toàn Liên khu với những đóng góp, ủng hộ cho chiến dịch là tỉnh
Thái Nguyên đã đóng góp 3.051 tấn thóc, 31.041.I41 đồng, 2.215 bộ
quần áo trị giá 1.075.000 đồng, mua công phiếu kháng chiến 1.299.000
đồng, ủng hộ bộ đội địa phương và thương binh 21.027.733 đồng và 604
tấn thóc; tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra mặt trận 829 tấn gạo, 43 tấn thóc, 7
tấn rau và 305.612 ngày công phục vụ chiến dịch [55, tr. 22].
Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân
đội Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá
sản Kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ
đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa
thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới. Trong con mắt của các học giả nước
ngoài, Điện Biên Phủ là trận Valmy của các dân tộc da màu; "trên thế giới, trận
Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh
hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng
hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang” [195].
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ,
anh dũng của quân dân Việt Nam. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch
sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh
Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi lớn nhất của cuộc chiến tranh
nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt
Nam. Điện Biên Phủ đánh dấu chủ nghĩa thực dân bắt đầu quá trình sụp đổ, là niềm
hy vọng lớn lao và tươi sáng, ngọn cờ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đấu tranh vì độc
lập tự do. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi cao nhất của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đi vào lịch sử dân tộc như một
Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX. Điện Biên Phủ lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu, là niềm hy vọng lớn lao và tươi sáng cổ vũ cho các dân
tộc thuộc địa đấu tranh vì độc lập tự do.
120
Tiểu kết Chương 3
Bước vào giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
quân và dân Việt Nam phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Để có thể
vượt qua những năm tháng hiểm nghèo đó, Đảng xác định phải huy động được
sức mạnh của toàn dân tộc, từng bước khắc phục khó khăn. Đảng đã lãnh đạo
toàn dân vừa kháng chiến vừa xây dựng mọi mặt cho Nhà nước Dân chủ cộng
hoà, đấu tranh quyết liệt chống lại âm mưu, thủ đoạn của thù trong, giặc ngoài.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân thực hiện những việc cấp bách
nhằm tăng cường thực lực cách mạng, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, bồi
dưỡng sức dân, củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến để chuẩn bị cho giai đoạn
tổng phản công.
Bước sang năm 1952, sau khi Chiến dịch Hoà Bình thắng lợi, cuộc kháng
chiến của quân và dân Việt Nam đã có những chuyển biến mới, trước tình hình đó,
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương,
chính sách đẩy mạnh đoàn kết các dân tộc, động viên sức người, sức của cho giai
đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhân dân cả nước tự nguyện
góp tiền bạc, mua sắm vũ khí, gửi chăn màn, quần áo cho các chiến sĩ chiến đấu
trong các chiến dịch lớn của cuộc kháng chiến. Cuộc động viên, tổ chức lực lượng
toàn dân đánh giặc phát triển mạnh mẽ trong thời gian cả nước chuyển vào chiến
tranh, thực hiện cuộc tổng di chuyển; thực hiện vườn không nhà trống, bao vây
địch; xây dựng căn cứ và hậu phương kháng chiến...
Phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, Trung ương Đảng chủ trương
giáo dục, động viên và hướng dẫn toàn thể đồng bào đồng lòng, quyết tâm đánh thắng
giặc, mỗi người đều trở thành một chiến sĩ. Niềm tin ở sức mạnh vô địch của toàn dân
kháng chiến đã được Hồ Chí Minh khẳng định ngay từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc
sắp bùng nổ: "20 triệu người Việt Nam kiên quyết chống lại 10 vạn thực dân Pháp,
chúng ta nhất định sẽ thắng lợi" [165, tr. 159].
Trung ương Đảng chủ trương thực hiện công tác vận động nhân dân tham gia
kháng chiến trên mọi mặt trận, vừa huy động, vừa bồi dưỡng sức dân. Thực hiện
chủ trương của Trung ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã ban hành những chính
121
sách khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh, tiến hành giảm tô,
giảm tức, động viên nhân dân tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho
chiến dịch.
Các hình thức và biện pháp đại đoàn kết toàn dân được mở rộng hơn với sự
thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt), thu hút thêm các đảng
phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp,
tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Đảng thực hiện chủ trương tăng cường đoàn
kết dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc càng thêm bền chặt khi thống nhất Việt
Minh, Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt (1951). Phong trào thi đua ái quốc, một
phương pháp tổ chức toàn dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động và trở thành một
chủ trương của Đảng nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng sâu
rộng, tạo thành sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
122
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
Trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và các cấp chính quyền, đoàn
thể Liên khu Việt Bắc bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác nhau đã
tiến hành công tác dân vận, vận động, cổ vũ nhân dân các địa phương thi đua sản
xuất, giết giặc, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm đem sức người, sức của ủng hộ kháng
chiến. Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, thấm nhuần lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, các cấp chính
quyền, đoàn thể đã khơi dậy trong mỗi một người cán bộ, đảng viên và nhân dân
tinh thần dũng cảm, ý chí cách mạng, nhiệt huyết hy sinh, phấn đấu vì quê hương,
đất nước. Sức mạnh của công tác dân vận đã, vận động toàn quân, đoàn kết toàn dân
quyết tâm chiến đấu, lao động, sản xuất đồng thời phát huy vai trò của công tác dân
vận làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, chống địch lập tề; động viên hàng
ngàn thanh niên viết đơn xung phong ra chiến trường, hàng chục ngàn dân công đi
tiền tuyến vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, đặc biệt là
chiến dịch Điện Biên Phủ. Tất cả những yếu tố đó, tạo nên sức mạnh, tiền đề vững
chắc để kế thừa, phát huy trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc từ tháng 10-1949 đến
tháng 7-1954, đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Liên
khu, của các Tỉnh uỷ và các tổ chức quần chúng trên địa bàn với công tác dân vận
diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thử thách của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Tuy nhiên, công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đạt nhiều kết
quả to lớn, góp phần quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân,
hoàn thành nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Pháp.
123
4.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc nhanh chóng hoàn thiện những chủ trương và
kiện toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ dân vận đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp
Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, để có thể phát huy tối đa sức
mạnh của quần chúng và huy động sức người, sức của mọi tầng lớp nhân dân, các
giới đồng bào cho sự nghiệp củng cố nền độc lập, yêu cầu đặt ra đối với công tác
dân vận của Trung ương Đảng thời kỳ này là phải nhanh chóng tập hợp, tổ chức
toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc, giữ vững nền độc lập, tự do và xây dựng
chế độ mới. Tình hình cách mạng có những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chủ trương thành lập Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) và Mặt trận Việt Minh. Công tác Mặt trận
trở thành cơ sở chính trị, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, của chính quyền cách
mạng, đồng thời là tổ chức giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Trước những yêu cầu của cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định
thành lập Liên khu Việt Bắc (năm 1949). Việc thành lập Liên khu Việt Bắc đã đáp
ứng được yêu cầu và phù hợp với tình hình mới của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Liên khu Việt Bắc được thành lập với 17 tỉnh là nơi cư trú của
28 dân tộc, là nơi được Trung ương Đảng lựa chọn làm căn cứ địa đầu não của cuộc
kháng chiến, nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Trong
quá trình kháng chiến, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định công tác dân vận là một
trong những công tác quan trọng nhất để vận động đồng bào, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Việt Bắc là cái nôi cách mạng,
đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống yêu nước, luôn tin tưởng sự lãnh đạo
của Đảng, Chính phủ và cuộc kháng chiến của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Ngay sau khi thành lập, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về công
tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã nhanh chóng triển khai toàn diện, đồng bộ
việc vận động đồng bào các dân tộc trên địa bàn đoàn kết thực hiện đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Trong quá trình lãnh đạo thực
hiện công tác dân vận trên địa bàn Liên khu, các cấp uỷ Đảng Việt Bắc luôn coi trọng
124
nhiệm vụ vận động quần chúng nhân dân nhằm phục vụ đường lối kháng chiến kiến
quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân. Đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc và nhân dân trên địa bàn Liên khu. Đảng
bộ Liên khu Việt Bắc luôn lấy tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nam cho mọi chủ trương, hành động trong công tác dân vận của Liên khu.
Bài báo đã thể hiện một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc những quan điểm, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác này. Người chỉ rõ vai trò của công tác dân
vận: “Việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công” [177, tr. 234] nghĩa là dân vận là cái gốc, là điểm xuất
phát của mọi phong trào cách mạng của quần chúng và là sự khởi đầu của mọi thành
công. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, trước hết phải biết tuyên truyền và vận
động nhân dân - chính là làm tốt công tác dân vận.
Vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân
vận” và quán triệt chủ trương của Đảng về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc thông qua hoạt động của Mặt trận và các tổ chức quần chúng đã lãnh đạo nông
dân tích cực thực hiện giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất, thi hành nhiều chủ
trương, biện pháp cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nhà tư sản, nhân
sĩ dân chủ, thân sĩ yêu nước, triệt để phân hóa giai cấp địa chủ, ổn định tư tưởng và
đoàn kết những địa chủ kháng chiến cùng con em họ đang tham gia công tác ở hậu
phương hay tiền tuyến.
Song song với việc hoàn thiện những chủ trương, đường lối về công tác dân
vận, sau khi được thành lập, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc nhanh chóng kiện toàn hệ
thống tổ chức bộ máy làm công tác dân vận của Liên khu, xây dựng đội ngũ cán bộ
dân vận của Mặt trận Liên Việt để thực hiện nhiệm vụ đoàn kết toàn dân kháng chiến
chống thực dân Pháp, phá tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp thi hành chính
sách “Dùng người Việt đánh người Việt; lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Để phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của địch, thông qua tổ chức Mặt trận, Đảng
bộ Liên khu đã xác định nhiệm vụ quan trọng của công tác dân vận trên địa bàn là
vận động đồng bào dân tộc thiểu số miền ngược, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
125
tranh vũ trang, diệt ác, phá tề, thực hiện đoàn kết các tôn giáo, dân tộc, đoàn kết trí
thức, văn nghệ sĩ, xây dựng một nền văn hóa kháng chiến. Bộ máy và cán bộ dân vận
của Liên khu đã lãnh đạo, vận động quần chúng nhân dân đẩy mạnh sản xuất, đáp
ứng nhu cầu tối thiểu của nhân dân trong hoàn cảnh kháng chiến. Nhiều phong trào
thi đua của các giới đồng bào đã diễn ra sôi nổi, liên tục và rộng khắp trong thời kỳ
kháng chiến, như phong trào: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Thực hiện chủ trương của Trung ương về tăng cường công tác dân vận trong
tình hình mới, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ đạo các cơ quan, cán bộ dân vận
của Liên khu tập trung củng cố, phát triển các đoàn thể nhân dân như Hội Nông dân
Cứu quốc, Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,… Công tác vận
động các giới như thanh vận, công vận, nông vận, phụ vận, vận động đồng bào
thiểu số, đồng bào Công giáo, đồng bào trong vùng địch chiếm đã được Liên khu uỷ
chú trọng và tăng cường hơn trước. Đảng bộ Liên khu đã thi hành nhiều chủ trương,
biện pháp cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp tư sản, nhân sĩ
dân chủ, thân sĩ yêu nước, đoàn kết những địa chủ kháng chiến.
Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác dân vận một cách toàn diện,
đồng bộ, sát thực tiễn
Ngay sau khi được thành lập (10-1949), Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã chỉ
đạo và tổ chức thực hiện công tác vận động đồng bào và nhân dân các tỉnh trên địa
bàn Liên khu vừa kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vừa bảo vệ thành
quả cách mạng.
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có những
phát triển mới, việc thống nhất các đoàn thể quần chúng, các giới trở thành yêu
cầu cấp thiết của công tác dân vận lúc này. Để kịp thời chỉ đạo công tác dân vận,
Hội nghị Cán bộ các ngành dân vận Đảng bộ Liên khu Việt Bắc được triệu tập và
chỉ rõ công tác dân vận của Liên khu lúc này tập trung vào việc động viên toàn
nhân dân tích cực phục vụ tiền tuyến và tích cực tiến hành cuộc chấn chỉnh tổ
chức, cải tiến các hình thức vận động, tuyên truyền đạt hiệu quả cao. Việc tuyên
truyền vận động nhân dân được thực hiện rầm rộ nên nhân dân vùng địch cũng
như vùng tự do đều biết đến Sắc lệnh Tổng động viên. Trong một thời gian ngắn
126
hơn 10 vạn dân công đã hoàn thành sửa chữa hàng trăm ki-lô-mét đường với hàng
trăm cầu để xe chạy; gần 2 vạn tấn thóc công lương và quân lương đã được cung
cấp để phục vụ cuộc kháng chiến.
Giai đoạn 1951-1952, công cuộc kháng chiến của quân và dân Việt Nam có
những chuyển biến mới. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định hướng công tác dân
vận và Mặt trận của Liên khu lúc này nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn của Đảng và
Chính phủ: Tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích; Phá chính sách
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; Tăng
gia sản xuất và tiết kiệm để bồi dưỡng quân và dân.
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định thực hiện ba nhiệm vụ trong đó nhiệm
vụ trung tâm công tác dân vận ở vùng tự do là sản xuất tiết kiệm, ở vùng du kích và
vùng tạm chiếm làm phát triển du kích chiến tranh, tranh đấu chống địch áp bức bóc
lột hàng ngày.
Những năm 1953-1954, để tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng
trong giai đoạn này, phải phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện
giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho
nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô, nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng
về kinh tế của nông dân. Bên cạnh việc thi đua hưởng ứng cuộc vận động nộp thuế
nông nghiệp, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng chú trọng nâng cao sinh hoạt của
nhân dân ở vùng tự do, dưới chế độ dân chủ nhân dân đời sống được nâng cao, hăng
hái tham gia mọi công tác kháng chiến, tòng quân, đi dân công…
Chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc đã huy động sức người, sức của từ các vùng tự do và cả trong vùng tạm bị địch
chiếm đóng để đảm bảo cho hoạt động quân sự trên các chiến trường. Hàng chục vạn
dân công được động viên, điều động vào việc chuẩn bị vận tải cho các chiến trường.
Hàng vạn xe đạp thồ và xe đẩy thô sơ, hàng nghìn thuyền, mảng, hàng đoàn ngựa
được huy động để vận chuyển lương thực, đạn dược, thuốc men ra tiền tuyến... Từ
cuối tháng 11 đến đầu tháng 12-1953, công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên
Phủ diễn ra dồn dập, khẩn trương. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trên các
chiến trường, hậu phương và vùng sau lưng địch, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
127
Liên khu Việt Bắc dốc sức tiến hành nhiều hoạt động tổ chức lực lượng, huy động
sức người, sức của với tinh thần quyết tâm cao giành thắng lợi tại chiến dịch Điện
Biên Phủ. Quân dân Liên khu Việt Bắc đã đóng góp hàng vạn dân công vận chuyển
lương thực, súng đạn, thuốc men cho mặt trận. Hàng vạn thanh niên xung phong đã
mở hàng ngàn kilômét đường, huy động thuyền bè, xe đạp thồ, ngựa thồ và hàng
ngàn xe trâu bò được huy động phục vụ chiến dịch. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã
tập trung chỉ đạo tất cả bộ máy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể quần chúng
như Mặt trận, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên... khẩn trương tổ chức vận động đồng bào
các dân tộc hăng hái tham gia các đoàn dân công mở đường, vận tải và đóng góp
lương thực thực phẩm, ngựa thồ, thuyền mảng phục vụ chiến dịch.
Trước yêu cầu cấp thiết, khẩn trương của chiến dịch Điện Biên Phủ, từng
đoàn dân công Liên khu Việt Bắc già, trẻ, gái, trai trong những bộ quần áo nâu,
chàm của đồng bào Kinh, Tày, Nùng, H’Mông, Dao ngày đêm vượt núi, băng rừng,
vượt đèo cao, suối sâu, vận chuyển vũ khí và lương thực. Nhân dân các địa phương
ven đường quốc lộ có sáng kiến lập nhiều tổ, đội nhân dân, ngày đêm bám sát bảo
vệ các cung đường, bảo đảm giao thông thường xuyên thông suốt tới mặt trận. Công
tác vận chuyển tiếp tế đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên chiến trường. Bảo
đảm vật chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn
về sức người sức của. Riêng trong bảo đảm chiến dịch phần lớn phải dựa vào dân,
vào sự chi viện của hậu phương. Đây là nhân tố hết sức quan trọng bảo đảm cho
thắng lợi của chiến dịch. Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng sống động của
tinh thần đoàn kết, đóng góp nhân lực, vật lực của nhân dân trong cả nước nói chung
và của đồng bào Liên khu Việt Bắc nói riêng.
Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những đóng góp to
lớn trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Để có được
những thành công đó là do các nhân tố cơ bản sau đây:
Một là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở Liên khu Việt Bắc chính là nhân tố
quan trọng nhất quyết định những thành công to lớn của công tác này ở Việt Bắc.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng được thể hiện qua nhiều chỉ thị, nghị quyết về công
128
tác dân vận, chỉ đạo việc hoàn thiện, kiện toàn bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ
làm công tác dân vận.
Hai là, Công tác dân vận được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định là công
tác quan trọng nhất trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia vào các tổ chức
đoàn thể và sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng Liên khu cùng nhân dân tranh đấu với
địch và thi hành những chính sách của Đảng và Chính phủ mục đích đem lại quyền
lợi cho nhân dân. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc rất quan tâm, chú trọng thực hiện
công tác vận động đồng bào các dân tộc tham gia mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi - Mặt trận Liên Việt và các đoàn thể quần chúng. Đó là nội dung của công tác
dân vận mà Liên khu uỷ Việt Bắc đã rất thành công trong việc lãnh đạo quần chúng
nhân dân tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
Ba là, Việt Bắc là cái nôi cách mạng, đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền
thống yêu nước, hăng hái tham gia kháng chiến, luôn tin tưởng vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng. Đây chính là cơ sở để toàn dân đoàn kết một lòng, xây dựng khối đại đoàn
kết dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên sức mạnh vật chất
và tinh thần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đến thắng lợi.
Với ý chí "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ", nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu kiên
cường và chiến thắng ngày càng to lớn, tiêu biểu là chiến thắng lẫy lừng Điện Biên
Phủ. Chúng ta đã bảo vệ được chính quyền cách mạng, đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và hào hùng của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta.
4.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu và đóng góp của công tác dân vận trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, việc lãnh đạo thực hiện công
tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng còn một số tồn tại, hạn chế.
Liên khu Việt Bắc với địa bàn rộng lớn nhưng địa bàn rừng núi chiếm tới
90%, giao thông đi lại khó khăn. Thành phần dân cư chủ yếu là đồng bào các dân
129
tộc thiểu số sinh sống với những tập quán sinh hoạt và ngôn ngữ có nhiều khác biệt
giữa các dân tộc nên gây ra những khó khăn cho công tác vận động đồng bào của
Đảng bộ Liên khu. Trên địa bàn Liên khu vừa có vùng giải phóng, vừa có vùng tạm
bị chiếm, đặc biệt là bị địch kích động, chia rẽ, nạn thổ phỉ diễn ra ở nhiều nơi (Hà
Giàng, Lào Cai, Lạng Sơn). Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Liên khu còn
hạn chế số lượng và chất lượng, chủ yếu hoạt động dựa trên kinh nghiệm, gây ra
không ít khó khăn trong việc vận động đồng bào và nhân dân trên địa bàn.
Trong một số thời điểm, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc còn có những nhận thức
về đường lối dân vận của Trung ương Đảng chưa đầy đủ và sâu sắc, đặc biệt là đối
với công tác vận động đồng bào miền ngược, công giáo và Hoa kiều. Chính vì vậy,
quá trình triển khai thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu gặp nhiều khó
khăn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tham gia kháng chiến. Ở
những vùng đồng bào các dân tộc miền núi (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hoà Bình),
mỗi khi địch đến chiếm và ta phải rút lui là mất đất, mất cả dân chúng.
Nguyên nhân là do nhận thức của một số cán bộ dân vận còn kém, chưa gây
được cơ sở vững chắc trong dân chúng miền núi, phong trào chỉ là hình thức mà
chưa làm cho dân chúng giác ngộ sâu sắc, thiết tha với nền độc lập. Đảng bộ Liên
khu chưa hiểu và chưa chú ý giải quyết được nguyện vọng của đồng bào miền núi
một cách thực tế, không chú trọng đào tạo cán bộ địa phương, chỉ để một số cán bộ
dưới xuôi lên công tác, nên không đi sát với nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh
kháng chiến, chuẩn bị cho tổng phản công, yêu cầu về công tác vận động thanh niên
tòng quân trở nên cấp thiết và khẩn trương, Liên khu uỷ đã sát sao chỉ đạo việc
động viên thanh niên tòng quân, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nặng về mệnh
lệnh, có nơi bắt thanh niên tòng quân như bắt lính, việc giúp đỡ và săn sóc gia đình
chiến sĩ, thương binh, tử sĩ chưa được chú trọng nên ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần
của thanh niên, làm giảm sút sự nhiệt tình của họ.
Để tiến thêm một bước trong việc xóa bỏ sự chiếm hữu ruộng đất bất công của
địa chủ, nhằm tăng cường hơn nữa sở hữu ruộng đất cho nông dân, bồi dưỡng lực
lượng chính cho cuộc kháng chiến, phát triển sản xuất, chi viện cho chiến trường thì
việc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng ruộng đất là cần thiết. Song xét về
130
vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cao của cuộc kháng chiến thì không nhất
thiết phải phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách
ruộng đất như đã làm. Do vậy, việc đề ra chủ trương cải cách ruộng đất và quá trình
thực hiện đã phạm sai lầm ngay từ đầu và càng về sau càng nặng nề và nghiêm trọng.
Chính sách ruộng đất của Đảng trong từng thời kỳ trước năm 1953 có khác
nhau, nhưng đều tựu chung lại ở một điểm: chính sách đó một mặt biểu hiện đường
lối đại đoàn kết dân tộc, phân hoá giai cấp địa chủ, tranh thủ tất cả các tầng lớp đứng
về phía dân tộc chống kẻ thù chủ yếu nhất là đế quốc xâm lược, một mặt cũng biểu
hiện không tách rời nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc với nhiệm vụ xoá bỏ sở
hữu ruộng đất phong kiến đưa ruộng đất về tay nông dân. Cải cách ruộng đất trong
những năm 1953-1954 thực sự đã trở thành một cuộc đấu tranh giai cấp giằng co, gay
go và quyết liệt, gây tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân trong khi nhiệm vụ dân
tộc chưa hoàn thành.
Tính riêng từ tháng 4-1953 đến 12-1953, ba đợt giảm tô đã được thực hiện
trong phạm vi toàn miền Bắc. Tuy nhiên, khẩu hiệu trung lập phú nông không thích
hợp, ảnh hưởng đến chủ trương cô lập địa chủ. Khẩu hiệu ấy đi đôi với khẩu hiệu
thanh toán tiền công quỵt, làm cho nhiều nơi đả kích phú nông, đẩy phú nông về phe
địa chủ và ảnh hưởng một phần nào đến trung nông.
Một số chủ trương, chính sách và biện pháp thực hiện có tính “tả” khuynh
trong việc thực thi chính sách ruộng đất của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong những
năm 1953-1954 đã hạn chế phần nào đến việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.
Đặc biệt là những khuyết điểm, sai lầm về cách làm và phương thức tiến hành do
Đảng bộ không chấp hành đúng nguyên tắc tổ chức của Đảng trong việc tổ chức cơ
quan cải cách ruộng đất theo hệ thống riêng với quyền hạn quá lớn vượt quyền cấp ủy
Đảng và chính quyền từ cấp khu trở xuống. Không thực hiện đúng đường lối giai cấp
nông thôn của Đảng là dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông,
liên hiệp với phú nông, phân biệt và có chính sách phù hợp với từng loại địa chủ. Số
người bị quy sai thành phần là địa chủ, phú nông chiếm tỷ lệ quá lớn. Trong đấu tranh
nặng về sử dụng biện pháp đấu tố tràn lan.
131
Nhìn thẳng vào những sai phạm trong cải cách ruộng đất, Trung ương Đảng
nhận định: Những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai
lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và
điều lệ của một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà
nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi
đã thu được, mà lại gây ra những tổn thất rất lớn cho cơ sở của Đảng, của chính
quyền, của các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách mặt trận
của Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tinh thần đoàn kết
và phấn khởi trong Đảng và trong nhân dân, đến công cuộc củng cố miền Bắc, đến sự
nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nước nhà. Hội nghị đã thẳng thắn vạch ra những
sai lầm, phân tích những nguyên nhân và gọi đúng tên những sai lầm là tả khuynh.
Trên cơ sở đó, Hội nghị đưa ra những biện pháp hữu hiệu và kiên quyết sửa sai. Một
biểu hiện trước tiên của tinh thần nhìn thẳng, dũng cảm sửa chữa sai lầm là thi hành
biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo Uỷ ban Cải cách ruộng đất Trung ương.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
Trong kháng chiến chống Pháp, Liên khu Việt Bắc có vai trò là hậu phương
lớn, là căn cứ địa kháng chiến của cả nước với khu đầu não của cuộc kháng chiến
đặt tại ATK (An toàn khu); bên cạnh đó, Liên khu Việt Bắc có phạm vi địa giới
rộng lớn, trải rộng trên 17 tỉnh, là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc sinh sống nên Việt
Bắc được Trung ương Đảng xác định là hậu phương lớn của kháng chiến, đồng bào
các dân tộc trên địa bàn Liên khu đi theo tiếng gọi của Đảng, của Bác vừa ra sức
sản xuất đáp ứng nhu cầu vừa cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.
Từ thực tiễn công tác dân vận của Đảng trên địa bàn Việt Bắc từ khi kháng
chiến toàn quốc bùng nổ đến thắng lợi oanh liệt của Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết
thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đã để lại nhiều kinh
nghiệm lịch sử quý báu:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, các ngành về vai trò,
tầm quan trọng của công tác dân vận trong kháng chiến chống thực dân Pháp,
đặc biệt đối với địa bàn chiến lược Việt Bắc
132
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Một trong nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất đối
với một đảng cầm quyền là đảng đó quan liêu, xa rời quần chúng, tự cắt đứt mối
quan hệ với quần chúng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
…một giây một phút cũng không thể giảm bớt mối quan hệ giữa ta và dân
chúng. Giữ chặt mối quan hệ với dân chúng và luôn luôn nắng nghe ý kiến
dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng
lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng
như đứng lơ lửng giữa trời nhất định thất bại [181, tr. 300].
Từ những bài học lịch sử của dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác dân vận, theo Người công tác dân vận là
công tác vô cùng quan trọng quyết định tới vận mệnh của dân tộc, quyết định sự
thành bại của cách mạng. Người khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân
vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công” [169].
Mỗi thời kỳ cách mạng, công tác dân vận của Đảng có nội dung, phương thức
khác nhau nhưng đều nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một lực lượng to
lớn, đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào các phong trào cách
mạng vì độc lập dân tộc, vì xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngay từ khi
mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng công tác vận động quần
chúng. Điều này xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là
công việc chung của dân chúng chứ không phải là công việc của một số ít; mọi thắng
lợi của cách mạng phải dựa trên cái nền của nhân dân. Công tác vận động quần chúng
xuất phát từ chính nhân dân và trở lại vì lợi ích của nhân dân.
Nhận thức đầy đủ về vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến trình cách
mạng, mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, Đảng đã có những chủ trương, đường
lối nhằm tập hợp, tổ chức, hướng dẫn quần chúng rất đúng đắn; Nhà nước có nhiều
chính sách được triển khai trong thực tiễn và đi vào cuộc sống của quần chúng nhân
dân, phù hợp với từng vùng, từng miền, đặc biệt là những chủ trương, chính sách
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới.
133
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Trung ương Đảng xác
định Liên khu Việt Bắc một trong những vùng căn cứ địa cách mạng trọng điểm,
trung tâm đầu não kháng chiến, đây là địa bàn tụ cư của 28 dân tộc, gồm: Kinh,
Tày, Nùng, Thái, Mường, H.mông, Dao, Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), Sán Dìu,
Giáy, Khơ - mú, Kháng, Xinh - mun, Hà Nhì, Lào, La Chí, La Ha, Phù Lá, La Hủ,
Lự, Lô Lô, Mảng, Pà Thẻn, Cơ Lao, Cống, Bố Y, Si La, Pu Péo. Các dân tộc nơi
đây có truyền thống lao động cần cù, đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn
nhau. Việt Bắc có một bộ phận nhân dân theo đạo công giáo, sinh sống trên địa bàn
các tỉnh: Bắc Ninh, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang… Tuy nhiên, phần lớn địa
bàn là khu vực miền núi, dân cư thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn, đặc diểm
phong tục tập quán sinh hoạt, ngôn ngữ, nhất là trình độ học vấn hạn chế... của nhân
dân các dân tộc Việt Bắc cũng gây ra nhiều khó khăn trong công tác dân vận của
Đảng, nhất là làm sao cho đồng bào hiểu và đi theo cách mạng.
Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của Đảng, nhằm xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân đặc biệt là trong những năm trường kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và
chính quyền, đoàn thể quần chúng ở Liên khu Việt Bắc đã nhận thức được tầm quan
trọng của công tác dân vận, bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác
nhau đã tiến hành công tác vận động, động viên nhân dân tham gia hưởng ứng các
phong trào thi đua: “Diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm…”; động viên toàn dân
thi đua “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm
đem sức người, sức của ủng hộ trên chiến trường. Thực hiện chủ trương của Trung
ương, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc coi công tác dân vận là nguồn sức mạnh để toàn
quân, toàn dân quyết tâm chiến đấu, lao động, sản xuất; động viên hàng ngàn thanh
niên viết đơn xung phong ra chiến trường, hàng chục ngàn dân công đi tiền tuyến
vận tải lương thực, thực phẩm, vũ khí phục vụ các chiến dịch, nhất là chiến dịch
Điện Biên Phủ. Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu trong giai đoạn này chủ
yếu tập trung vào vận động nhân dân tham gia đóng góp sức người, sức của cho
Đông - Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ, đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
134
Dưới sự chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc,
căn cứ địa kháng chiến được xây dựng, củng cố về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc
kháng chiến lâu dài của quân và dân ta. Tại Liên khu Việt Bắc, chính quyền nhân
dân được chăm lo củng cố và kiện toàn từ cấp liên khu cho đến cấp tỉnh, cấp huyện
và cấp xã; khối đoàn kết toàn dân được tăng cường; quần chúng nhân dân các dân
tộc trên địa bàn Liên khu được quy tụ trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt với
các đoàn thể (nông hội, hội phụ nữ, hội thanh niên…). Đảng, chính quyền, các tổ
chức đoàn thể ở Liên khu Việt Bắc đã vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn
đóng góp to lớn sức người, sức của cho kháng chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho
chiến trường.
Đồng thời với việc xây dựng lực lượng vũ trang, tại căn cứ địa Việt Bắc,
Liên Khu uỷ cùng đoàn thể các cấp luôn nhận thức rõ vai trò quan trọng của công
tác dân vận, các cấp uỷ đảng, các cơ quan dân vận của Liên khu đã tổ chức thực
hiện vận động, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân ra sức tăng gia sản xuất, từng bước
giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất cho đồng bào; vừa huy động vừa bồi dưỡng sức
dân; xây dựng kinh tế kháng chiến. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt
Bắc hăng hái tăng gia sản xuất, trở thành nơi cung cấp nhân lực, lương thực, thực
phẩm cho chiến trường. Thắng lợi của cuộc phản công chiến lược Đông - Xuân
1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đã in đậm dấu ấn của
nhân dân các dân tộc ở Liên khu Việt Bắc. Mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến,
nhân dân các dân tộc đã đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi quyết định của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hai là, quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về
công tác dân vận phù hợp với thực tiễn, đặc điểm của Liên khu
Để thực hiện tốt công tác dân vận, trước hết Đảng cần có chủ trương, chính
sách đúng và hợp lòng dân. Chủ trương, chính sách hợp lòng dân, khi triển khai, dù
chưa phổ biến, tuyên truyền sâu rộng, vận động thuyết phục chưa nhiều, nhưng vẫn
đến được với nhân dân, nhân dân vẫn đồng tình hưởng ứng thực hiện. Ngược lại,
chủ trương, chính sách không hợp lòng dân, thì rất khó vận động, thuyết phục nhân
135
dân thực hiện có hiệu quả, không thể phát động được các phong trào hành động
cách mạng hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách đó vào cuộc sống.
Bên cạnh việc không ngừng nâng cao năng lực, trí tuệ và luôn đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo công tác dân vận, Đảng phải đề cao vai trò của nhân
dân trong tham gia xây dựng chủ trương, chính sách. Là đảng cầm quyền, mọi
đường lối, chính sách của Đảng đề ra đúng đắn, sát với thực tiễn, hợp với lòng dân
sẽ là định hướng quan trọng cho mọi hoạt động diễn ra trên mọi lĩnh vực. Đường
lối, chính sách của Đảng đề ra cho từng giai đoạn cách mạng phải xuất phát từ lợi
ích chính đáng của nhân dân, bao gồm lợi ích chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Căn
cứ vào mục tiêu đề ra cho từng giai đoạn phát triển của cách mạng mà xác định lợi
ích nào trong các lợi ích đã xác định giữ vị trí trung tâm chi phối.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và kháng chiến chống thực dân
Pháp, hàng loạt những phong trào vận động quần chúng nhân dân đã đi vào lịch sử
công tác dân vận trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh cách mạng, tiêu biểu
là các phong trào: “Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” trước Cách mạng Tháng
Tám; “Hũ gạo kháng chiến”, “Quỹ độc lập”, “Kháng chiến kiến quốc”,... thời kỳ
chống thực dân Pháp; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,
“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”,... thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước; Phong trào làm chủ tập thể thời kỳ cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; phong trào “Xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”... thời kỳ đổi mới. Thông qua công tác
dân vận mà trí tuệ, sức sáng tạo vĩ đại của nhân dân đã dẫn tới những thành tựu có
tính lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định công tác dân vận là
nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, phải nâng cao nhận thức về công tác
dân vận một cách toàn điện, đồng bộ và sâu sắc. Trong những năm toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Đảng luôn coi trọng công tác vận động
nhân dân đoàn kết, thực hiện cuộc kháng chiến toàn diện, giữ vững chính quyền
cách mạng, đánh đổ thực dân xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ.
136
Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận,
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thời kỳ này đã bám sát những nhiệm vụ của Đảng,
trong đó, kháng chiến là nhiệm vụ chủ yếu, xây dựng đất nước là một nhiệm vụ cơ
bản, nhiệm vụ trước mắt là củng cố chính quyền cách mạng. Muốn thực hiện
nhiệm vụ cách mạng phải củng cố, phát triển Đảng và Mặt trận Việt Minh. Mặt
trận Việt Minh được Liên khu uỷ Việt Bắc xác định phải bao gồm mọi tổ chức
cứu quốc và mọi tầng lớp nhân dân. Sau khi Trung ương Đảng chỉ đạo thành lập
Bộ Dân vận, các cấp tỉnh, huyện trên địa ban Liên khu đã thành lập Ban Dân vận;
trong Ban Dân vận có các tiểu ban: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận,
Thiểu vận, Giáo vận… ngoài ra còn có Ban Địch vận, Hoa vận để giúp Đảng phụ
trách giới vận (1949).
Vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng về công tác vận động đồng
bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc - trong vùng giải phóng, các đoàn
thể quần chúng tiếp tục được củng cố và hoàn thiện, đã có bước phát triển mau
chóng, thu hút đông đảo thanh niên nam nữ các dân tộc tham gia, thanh niên tình
nguyện đi dân công hoả tuyến, sửa đường, vận chuyển lương thực, thuốc men, đạn
dược cho mặt trận. Được sự động viên, vận động của các đoàn thể quần chúng,
các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, các đơn vị thanh niên xung phong, hàng ngàn dân
công ngày đêm bám đường, bám cầu phà dưới bom đạn giặc, bảo đảm giao thông
liên tục. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong và bộ đội vận chuyển cả ngàn
tấn lương thực, thực phẩm, súng đạn ra tiền tuyến, đón và chăm sóc hàng trăm
thương binh từ mặt trận trở về.
Nhằm khuyến khích sản xuất, nhiều chính sách của Đảng được ban hành như
chính sách về thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất, khai hoang, phục hoá,
đổi công sản xuất… tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất được phục hồi và phát
triển. Chính sách thuế khoá được cải tiến, đơn giản, công bằng và hợp lý, nhất là
chính sách thuế nông nghiệp đã làm cho nhân dân ở Liên khu Việt Bắc phấn khởi
và tích cực đóng góp cho kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là
thành công to lớn công tác dân vận của Đảng. Đó là thắng lợi của đường lối mở
137
rộng đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, với yêu cầu vận
động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân, không bỏ sót một người dân nào,
góp thành lực lượng toàn dân. Đó là sự sáng tạo và phát triển công tác dân vận
trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Ba là, lãnh đạo công tác dân vận với nhiều hình thức, phương pháp linh
hoạt, bám sát nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng
Công tác dân vận được xác định là công tác khoa học và mang tính nghệ thuật.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì việc xác định đúng những nội dung,
phương thức và đối tượng vận động phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng và đặc điểm, lợi ích, trình độ và khả năng của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội.
Mỗi giai đoạn cách mạng, Trung ương Đảng luôn xác định công tác dân vận
là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh,
trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc bằng
nhiều hình thức và biện pháp đã đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến với đông đảo quần chúng nhân dân, phù hợp với từng đối tượng quần chúng
nhân dân trên địa bàn Liên khu, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Đảng bộ Liên khu đã sáng tạo nhiều hình thức dân vận phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng.
Liên khu Việt Bắc với diện tích tự nhiên rộng lớn, trải rộng trên địa bàn 17
tỉnh, số lượng đồng bào các dân tộc thiểu số tụ cư rất đông đảo với 28 dân tộc.
Đảng bộ Liên khu đã xác định rõ các giai cấp, tầng lớp cơ bản như công nhân, nông
dân, trí thức đều có biến đổi so với thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám. Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc luôn chăm lo, củng cố và kiện toàn bộ máy tổ chức dân vận từ
cấp liên khu cho đến cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; Xây dựng và tăng cường khối
đoàn kết toàn dân; đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu được tập hợp trong
Mặt trận Việt Minh và Liên Việt với các đoàn thể (công hội, nông hội, hội phụ nữ,
hội thanh niên…).
Công tác dân vận được Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện với nhiều hình
thức vận động phong phú, phương pháp vận động linh hoạt, khéo léo, bám sát
138
nhiệm vụ trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính vì
vậy, Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở Liên khu Việt Bắc rất thành
công trong việc vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn luôn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự nguyện đóng góp sức người, sức
của cho kháng chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho chiến trường.
Ngày nay, đời sống các tầng lớp nhân dân khu vực miền núi phía Bắc vốn trước
kia là địa bàn Liên khu Việt Bắc đã được cải thiện rõ rệt, song nhìn chung vẫn còn
nghèo, đặc biệt là ở những khu vực vùng sâu, vùng xa và vùng biên giới. Sự phân hoá
về khoảng cách giàu - nghèo không chỉ giữa vùng nông thôn với thành thị mà sự phân
hoá rõ rệt nhất là khu vực miền núi với đồng bằng. Sự chênh lệch về mức sống và chất
lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư khá rõ nét. Điều đó có tác động không nhỏ,
thậm chí rất phức tạp tới tư tưởng, phẩm chất đạo đức và lối sống của quần chúng. Vì
vậy, các hình thức, phương pháp công tác dân vận phải đa dạng, phù hợp với từng
hoàn cảnh, điều kiện, đối tượng cụ thể, với nhiều cấp độ khác nhau để tập hợp mọi
đối tượng thành khối đại đoàn kết dân tộc. Có như vậy mới phát huy được khả năng
sáng tạo phong phú của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở đâu có sự
cố kết của cộng đồng, sự tập hợp của nhân dân, ở đó phải có Đảng lãnh đạo và có
sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện vật chất
và pháp lý cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
Bốn là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số
Để thực hiện thành công công tác dân vận, một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu xuất phát từ những quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật,
chương trình, kế hoạch về kinh tế - xã hội và hoạt động của hệ thống chính trị, phải
đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của các nhân dân, giai cấp và các
tầng lớp xã hội.
Tư tưởng lấy dân làm gốc đã trở thành truyền thống đạo lý xuyên suốt quá
trình lịch sử Việt Nam và được các bậc minh quân, trung thần, các bậc tiền nhân
vận dụng rất thành công trong quá trình dựng nước và giữ nước. Thời nhà Lý, vua
Lý Công Uẩn vì trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân mà dời đô về Thăng Long, cốt
139
để dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ. Trong Phạt tống lộ bố văn của Lý Thường Kiệt
coi đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn lại rất coi
trọng việc khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, bởi đó mới là thượng sách
giữ nước. Đại công thần Nguyễn Trãi luôn xem việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Việc
coi trọng và tiết kiệm sức dân không chỉ là quy luật tồn vong của một chế độ, mà
phải trở thành một đường lối, một chính sách trị nước tích cực của mọi chế độ chính
trị. Vấn đề nâng cao trình độ dân trí, tuyên truyền thuyết phục quần chúng đi đôi với
giải quyết hài hoà các lợi ích có những nội dung mới, phải được coi trọng. Kinh
nghiệm công tác dân vận của Đảng và của các đoàn thể nhân dân mấy chục năm
qua đã khẳng định vấn đề này. Ba yếu tố: Dân trí - dân sinh - dân chủ luôn luôn gắn
bó hữu cơ, chặt chẽ với nhau là điều kiện, là tiền đề cho nhau, hỗ trợ nhau cùng
phát triển vững chắc, lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng lớn ấy, nhưng ở tầm cao
hơn, nhân văn hơn, đó là Người đặt dân lên vị thế người làm chủ đất nước; trong tất
cả mọi việc, kể cả huy động sức dân trước hết vẫn là vì chính lợi ích của dân, vì theo
Người lợi ích của dân càng cao, sức dân càng mạnh. Người khẳng định cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính quần chúng
nhân dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trực tiếp thực hiện đường lối cách
mạng, biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Có được dân, quy tụ
được lòng dân là có tất cả, làm được tất cả, điều này đã trở thành phương pháp luận
trong tư tưởng của Người vì Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó ngàn lần dân liệu
cũng xong. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến
của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối cách mạng, đường lối đổi mới của
Đảng. Cũng chính phong trào cách mạng của nhân dân là yếu tố quan trọng nhất cụ
thể hóa đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước thành hiện thực.
Suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ
trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng bộ Liên khu
Việt Bắc rất quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với mỗi tầng lớp nhân dân, Đảng bộ
luôn có những chỉ đạo riêng phù hợp với nguyện vọng của từng đối tượng vận động.
140
Trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng bộ Liên khu đã chỉ
rõ phải đem lại quyền lợi thực tế như: đặt phòng phát thuốc, mở trường học, tiếp tế
bán muối rẻ cho đồng bào, xoá thuế, giảm tô ở những vùng bị địch tàn phá nặng
nề… Tổ chức Đảng, Mặt trận không ngừng chăm lo đời sống vật chất và văn hoá
của đồng bào, tôn trọng phong tục tập quán, thuyết phục và cảm hoá các Lang, Phìa,
Thổ ty; lập uỷ ban dân tộc thiểu số ở từng vùng. Đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ dân
vận là người dân tộc thiểu số của địa phương.
Đối với đồng bào Công giáo, Đảng bộ đã chỉ rõ, công tác vận động giáo dân
có ý nghĩa hết sức quan trọng, khắc phục những thành kiến, nhận thức lệch lạc với
giáo dân và giáo sĩ. Vạch trần những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của địch hòng
chia rẽ đồng bào với Chính phủ và Mặt trận Việt Minh. Nội dung, hình thức chủ
yếu là khích lệ lòng yêu nước, sử dụng phương pháp nêu gương những cá nhân yêu
nước, trừng trị các phần tử phản động để răn đe.
Đối với Hoa kiều, tôn trọng và bảo vệ tài sản, giúp họ di cư, tản cư; phát huy
vai trò của cán bộ người Hoa để vận động đồng bào người Hoa, kịp thời nâng cao
vai trò hoạt động của Ủy ban Hoa vận.
Để làm tốt công tác dân vận trong thời kỳ mới, các cấp uỷ đảng và các đoàn
thể nhân dân phải có sự quan tâm sâu sát, có những quyết định cụ thể, chăm lo lợi
ích thiết thực, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quần chúng. Phải tìm những
biện pháp giải quyết ổn thỏa những vấn đề nóng, gây bức xúc trong nhân dân, như:
đất đai, việc làm, y tế, giáo dục, giàu - nghèo... Đồng thời nêu cao vai trò tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Phải quán triệt sâu sức tư tưởng Hồ Chí
Minh: làm sao cho nhân dân hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, để dân nói, dân làm,... Phải mở rộng dân chủ thực sự với nhân dân; tiếp tục
khẳng định và làm rõ nỗi dung cốt lõi của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đó
là giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân” [178, tr. 4].
Năm là, chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, cán bộ làm công tác
dân vận, gắn với đổi mới phương thức, đa dạng hóa các hình thức vận động
nhân dân
141
Thực tiễn công tác dân vận ở Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh
chất lượng và hiệu quả công tác dân vận phụ thuộc trực tiếp, quyết định ở chất
lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận. Đội ngũ này góp phần quan trọng
vào việc đề xuất, kiến nghị, tham gia xây dựng đường lối, chủ trương về công tác
dân vận và quyết định trong việc quán triệt, thực hiện, biến đường lối, chủ trương
đó thành hiện thực.
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc, đội ngũ cán bộ làm công tác
dân vận là những người “vào sinh ra tử”, “ba cùng” với nhân dân, góp phần làm nên
những chiến công hiển hách trong lịch sử quang vinh của Đảng và của dân tộc. Đội
ngũ cán bộ làm công tác dân vận tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng,
thành thạo công việc được giao; luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân,
phải luôn nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác dân vận cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Thực hiện những chủ trương của Trung ương về công tác xây dựng tổ chức
bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ dân vận, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong kháng
chiến chống thực dân Pháp đã thường xuyên xây dựng, củng cố và hoàn thiện tổ
chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận; trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng bộ có
những đổi mới về phương thức công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện nhiệm vụ đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, phá tan âm
mưu thâm độc của thực dân Pháp thi hành chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh; dùng người Việt đánh người Việt” [177, tr. 522-523], Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc đã chỉ đạo các cơ quan, cán bộ dân vận của Liên khu tập trung củng cố, phát
triển các đoàn thể nhân dân như Hội Nông dân Cứu quốc, Đoàn Thanh niên Cứu
quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,… Công tác vận động các giới như thanh vận, công
vận, nông vận, phụ vận, vận động đồng bào thiểu số, đồng bào Công giáo, đồng bào
trong vùng địch chiếm đã được Liên khu uỷ chú trọng và tăng cường hơn trước. Các
cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và cán bộ làm công tác dân vận phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân, nghe dân nói - nói dân hiểu…
142
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: trong bất cứ hoàn cảnh và thời điểm lịch sử
nào, người cán bộ làm công tác dân vận phải tận trung với nước, tận hiếu với dân, phải
là những người hiểu dân, tin dân, vì dân và nắm được nguyện vọng của nhân dân, đồng
cam cộng khổ, gắn bó với dân. "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi
viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc" [177, tr. 233-234].
Công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay đã có những điểm mới so với thời
kỳ lịch sử trước đây. Công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận
phải gắn liền, đi đôi với xây dựng, củng cố, kiện toàn các tổ chức làm công tác dân
vận. Cùng với xây dựng và sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ, phải quan tâm xây dựng
cơ chế, chính sách, phương thức làm việc, chăm lo tạo điều kiện cho cán bộ làm công
tác này có cơ hội phấn đấu trưởng thành. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân
vận hội đủ phẩm chất của người cán bộ cách mạng; với nghĩa cơ bản nhất là người
lãnh đạo, định hướng quần chúng, tổ chức điều hành công việc, là hạt nhân của tổ
chức, là nòng cốt của phong trào. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ lĩnh vực, địa
phương nào, cán bộ cũng đóng vai trò quyết định. “Cán bộ là gốc của mọi công việc.
Công việc thành công hay thất bài đều do cán bộ tốt hay kém” [168, tr. 313]. Bởi vậy,
xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận phải xuất phát từ phong trào quần chúng, có đủ
phẩm chất năng lực và tâm huyết, quan tâm chăm lo đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ dân vận các cấp đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ và các cấp chính quyền, đoàn
thể Việt Bắc bằng nhiều cách thức, phương pháp vận động khác nhau đã tiến hành
công tác dân vận, vận động, cổ vũ nhân dân các địa phương thi đua sản xuất, giết
giặc, nỗ lực chiến đấu, ngày đêm đem sức người, sức của ủng hộ chiến sỹ chiến đấu
trên chiến trường.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải luôn luôn đổi mới phương
pháp công tác dân vận cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Đây cũng là
kinh nghiệm quý báu được đúc kết từ lịch sử. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ,
143
lực lượng đấu tranh là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước chống lại các lực
lượng phản dân tộc và phản dân chủ; đấu tranh chủ yếu thông qua các tổ chức
chính trị của mình: Đó là Đảng Cộng sản, Mặt trận và các thành viên của Mặt trận.
Qua các giai đoạn cách mạng, tùy tình hình trong nước và quốc tế, Đảng đưa ra
các chiến lược, sách lược đấu tranh khác nhau, những khẩu hiệu tập hợp lực lượng
khác nhau, nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chung là mở rộng lực lượng cách
mạng, huy động tất cả mọi lực lượng cách mạng...
Những bài học kinh nghiệm chủ yếu trong công tác dân vận của Đảng được
đúc kết luôn đồng hành cùng dân tộc ta trên con đường chấn hưng đất nước hiện nay.
Tiểu kết Chương 4
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Trung ương Đảng luôn
xác định công tác dân vận là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo của Đảng; là nhiệm vụ chiến lược, phải được tiến hành thường xuyên
trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân dân. Phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hơn 80 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo quần chúng nhân dân vượt qua bao gian nan, thử thách, tiến hành Tổng
khởi nghĩa thành công trong Cách mạng Tháng Tám 1945, tiếp đó là đấu tranh bảo
vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, trường kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận,
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã có những hình thức và biện pháp đại đoàn kết toàn
dân, mở rộng hơn với sự thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên
Việt), thu hút thêm các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái,
không phân biệt giai cấp, tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị. Khối đại đoàn kết
dân tộc càng thêm bền chặt khi thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành Mặt trận
Liên Việt.
Sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, một lần nữa cho thấy sự
144
phát triển và trưởng thành của Đảng. Những kết quả ấy không chỉ làm cho toàn
Đảng, toàn dân vững tin đi tiếp chặng đường đã lựa chọn mà còn khẳng định sự
phát triển mới của Đảng trong việc khơi dậy và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo
to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới.
Đồng thời chứng minh hùng hồn sức mạnh của mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng với Dân, là sức mạnh trường tồn của sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước, vì mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
145
KẾT LUẬN
Trung ương Đảng xác định công tác dân vận là vận động tất cả các lực lượng
của mọi tầng lớp nhân dân góp thành lực lượng toàn dân để thực hiện những chính
sách kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Chính phủ. Công tác dân vận là gốc của
đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, nội dung công tác dân vận gồm nhiều mặt: tuyên
truyền giáo dục, tổ chức, lãnh đạo đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân, dân tộc và
hoà bình thế giới, ba công tác này có liên quan mật thiết với nhau. Tuyên truyền,
vận động là chủ yếu của công tác dân vận, vì đây là công tác giác ngộ quần chúng
nhân dân, làm cho họ nhận rõ chính sách cách mạng của Đảng và chính sách áp
bức, bóc lột của thực dân Pháp.
Trong việc củng cố các tổ chức quần chúng cần phải tuyên truyền, vận động
quần chúng mà trước tiên phải củng cố về tư tưởng, tinh thần cho quần chúng. Việc
tuyên truyền, vận động phải đi đôi với tổ chức và lãnh đạo nhân dân tranh đấu vì có tổ
chức thì mới có sức mạnh, nếu không lực lực quần chúng sẽ rời rạc không thể thực
hiện được nhiệm vụ cách mạng. Tuy nhiên, muốn tổ chức ngày càng phát triển và củng
cố phải tiến hành tranh đấu, trong vùng địch thì tranh đấu với giặc để giành lại những
quyền lợi hàng ngày, ngoài vùng tự do thì tăng gia sản xuất, bồi dưỡng lực lượng của
ta, phục vụ công tác tiền tuyến, phòng gian bảo mật, đề phòng máy bay bắn phá, bài trừ
văn hoá phong kiến đế quốc còn lại… tất cả những việc làm đó đều có ý nghĩa mục
đích tranh đấu với địch. Có tuyên truyền, vận động đề cao giác ngộ quần chúng thời
mới tổ chức và lãnh đạo được quần chúng tham gia kháng chiến. Có tổ chức thì mới dễ
dàng tuyên truyền, vận động quần chúng và hướng dẫn cho họ đấu tranh. Có tranh đấu
thì mới đề cao được giác ngộ quyền lợi cho quần chúng và mới làm cho tổ chức ngày
càng vững mạnh. Vì vậy, việc tuyên truyền, vận động và củng cố tổ chức phải tiến
hành ngay trong thực tế đấu tranh với địch và thi hành các chính sách của Đảng, của
Chính phủ thì mới có kết quả.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về vận động quần chúng nhân
dân ủng hộ và tham gia kháng chiến, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc xác định công tác
dân vận là công tác quan trọng nhất trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia
146
vào các tổ chức đoàn thể và sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng Liên khu cùng nhân
dân tranh đấu với địch và thi hành những chính sách của Đảng và Chính phủ mục
đích đem lại quyền lợi cho nhân dân. Muốn thực hiện được như vậy người cán bộ
dân vận phải làm cho dân tin, dân yêu. Đó là nội dung của công tác dân vận mà
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã rất thành công trong việc lãnh đạo quần chúng nhân
dân tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
Đồng bào các dân tộc trên địa bàn Liên khu Việt Bắc đã thực hiện triệt để
chiến tranh du kích làm cho quân địch đi tới đâu cũng vấp phải sức kháng chiến của
quần chúng nhân dân; phá hoại cầu đường ngăn cản giao thông vận tải của địch, khi
giặc tới thì thực hành vườn không nhà trống, triệt để giữ bí mật theo khẩu hiệu “ba
không” khiến cho địch có mắt như mù, có tai như điếc, nhanh chóng bị bộ đội và du
kích tiêu diệt. Nhiều đội du kích dũng cảm đã làm cho quân Pháp vô cùng hoảng sợ.
Nhân dân Liên khu Việt Bắc đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng
chiến thắng lợi. Hàng vạn thanh niên các dân tộc đã hăng hái tham gia bộ đội, anh
dũng cầm súng đánh giặc. Trong 5 chiến dịch lớn của quân và dân ta: Biên Giới,
Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Hoà Bình và Điện Biên Phủ, Liên khu Việt Bắc
đã phục vụ tiền tuyến tới 13 triệu ngày công. Với tinh thần quyết thắng, nhân dân đã
lấy sức người và dụng cụ thô sơ mà chuyển được hàng chục vạn tấn lương thực và vũ
khí qua hàng mấy trăm cây số từ hậu phương ra mặt trận, chèo đèo, lội suối đảm bảo
cung cấp đầy đủ, nhanh chóng cho chiến dịch. Mặc dù gặp nhiều khó khăn lớn và
địch luôn oanh tạc nhưng nhân dân Liên khu Việt Bắc đã thi đua vừa chống giặc, vừa
sản xuất, nên kháng chiến không những được bảo đảm lương thực mà còn cung cấp
hàng chục vạn tấn thóc gạo cho tiền tuyến. Những cống hiến lớn lao ấy của nhân dân
Liên khu Việt Bắc đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, đem lại hoà bình
cho đất nước.
Công tác dân vận dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc đã đạt
được những thành quả to lớn, đặc biệt là tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân, thực
hiện tốt nhiệm vụ phục vụ kháng chiến đi đến thắng lợi. Công tác dân vận trên địa
bàn Liên khu Việt Bắc đã góp phần quyết định vào thắng lợi trên chiến trường. Bảo
đảm vật chất cho nhiệm vụ chiến đấu đòi hỏi phải huy động một khối lượng rất lớn
147
về sức người, sức của. Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng sống động của tinh
thần đoàn kết, đóng góp nhân lực, vật lực của nhân dân trong cả nước nói chung và
của đồng bào các dân tộc Liên khu Việt Bắc nói riêng.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo công tác dân vận vẫn còn một số hạn
chế, khiếm khuyết. Trong một số giai đoạn, nhận thức về đường lối dân vận của
Đảng chưa đúng và đầy đủ, đặc biệt là đối với công tác vận động đồng bào miền
ngược, công giáo và Hoa kiều. Một số chủ trương, chính sách và biện pháp vận
động nhân dân còn mang tính “tả” khuynh, nhất là trong việc thực thi chính sách
ruộng đất của Đảng trong những năm 1953-1954 đã hạn chế đến việc phát huy cao
độ truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Trong ba đợt giảm tô đã được thực hiện
trong phạm vi toàn miền Bắc, khẩu hiệu trung lập phú nông không thích hợp, ảnh
hưởng đến chủ trương cô lập địa chủ. Khẩu hiệu ấy đi đôi với khẩu hiệu thanh toán
tiền công quỵt, làm cho nhiều nơi đả kích phú nông, đẩy phú nông về phe địa chủ
và ảnh hưởng một phần nào đến trung nông. Cải cách ruộng đất thời kỳ này bộc lộ
khuyết điểm, sai lầm về cách làm và phương thức tiến hành: không chấp hành đúng
nguyên tắc tổ chức của Đảng trong việc tổ chức cơ quan cải cách ruộng đất theo hệ
thống riêng với quyền hạn quá lớn vượt quyền cấp ủy Đảng và chính quyền từ cấp
khu trở xuống.
Những thành công, hạn chế, khiếm khuyết của quá trình lãnh đạo công tác
dân vận ở Việt Bắc đã để lại những kinh nghiệm quý, có giá trị lý luận và thực tiễn
đối với công tác dân vận của Đảng trong điều kiện lịch sử mới.
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thái Dũng (2012), “Vai trò của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong chiến dịch Tây
Bắc”, trong cuốn Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.158-163.
2. Vũ Thái Dũng (2013), “Về phương hướng chiến lược và chủ trương tác chiến
của Đảng trong Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, (5), tr.79-81.
3. Vũ Thái Dũng (2013), “Xây dựng lực lượng cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa
giành chính quyền tại tỉnh Tuyên Quang”, trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Khởi nghĩa Thanh La trong tiến trình Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb
Chính trị quốc gia, tr.174-178.
4. Vũ Thái Dũng (2013), “Nông dân Bắc Kạn tham gia xây dựng, củng cố chính
quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)” trong
cuốn Lịch sử Phong trào nông dân và Hội Nông dân tỉnh Bắc Kạn (1930-
2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.67-76.
5. Vũ Thái Dũng (2016), “Những tư tưởng sáng tạo về dân vận và quan điểm chỉ
đạo đối với công tác dân vận của Hồ Chí Minh”, trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Hồ Chí Minh - Tầm nhìn thời đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.272-282.
6. Vũ Thái Dũng (2016), “Công tác dân vận của Đảng năm đầu sau Cách mạng
Tháng Tám (8-1945 - 12-1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr.14-19.
7. Vũ Thái Dũng (2016), “Công tác vận động nhân dân những ngày đầu toàn quốc
kháng chiến”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 16-11.
8. Vũ Thái Dũng (2017), “Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng
Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong cuốn 70 năm ngày Bác Hồ
gửi thư Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku (19-4-1946 - 19-4-
2016), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.158-168.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Văn Ba (Chủ biên) (1998), Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang (1926-1975), Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng
(1930-2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu
tập I (1945-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1993), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ,
Tập 1 (1930-1968), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, Tập 1 (1939-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang (1940-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150
15. Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc, tỉnh Phú Thọ (1952), Chỉ thị về hoàn
thành giảm tô, giảm tức ngày 14-4-1952, Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban Nhân
dân tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.
16. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) (2013), Nghị quyết số 25-NQ/TW
về “Tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới”, Hà Nội.
17. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam (2006), Lịch sử Chính phủ Việt
Nam, tập 1 (1945-1955), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Quốc hội Việt Nam (2000), Lịch sử Quốc hội Việt
Nam 1946-1960, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
20. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Ban Dân vận Liên khu uỷ I (1948), Chỉ thị, chương trình, báo cáo của Ban Dân
vận Liên khu uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 252.
22. Ban Dân vận Liên khu uỷ I (1948), Nghị quyết Hội nghị Ban Dân vận Liên khu
uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu
uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 251.
23. Ban Dân vận Liên khu uỷ X (1948), Nghị quyết Hội nghị Ban Dân vận Liên khu
uỷ X tháng 6-1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên
khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 312.
24. Ban Dân vận Liên khu X (1948), Báo cáo của Ban Dân vận Liên khu X về tình
hình dân vận năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 465.
151
25. Ban Dân vận Trung ương (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Ban Dân vận Trung ương (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Ban Dân vận Trung ương (2015), Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1930-2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ban Dân vận Trung ương (1999), Sơ thảo Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930-1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Ban Dân vận Trung ương (2002), Truyền thống 72 năm công tác dân vận của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Ban Dân vận Trung ương (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Ban Dân vận Trung ương (1994), Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt
trận dân tộc thống nhất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Ban Giáo vận Khu uỷ XII (1949), Biên bản Hội nghị Giáo vận toàn Khu uỷ 12
và công văn của Khu uỷ XII gửi các Tỉnh uỷ để nghiên cứu thi hành các
điểm trong biên bản, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông
Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 43.
33. Ban Giáo vận Liên khu X (1949), Báo cáo của Ban Giáo vận Liên khu X về tinh
hình công giáo quý II năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 476.
34. Ban Giáo vận Liên khu X (1949), Báo cáo, nghị quyết, thi đua hội nghị cán bộ
giáo vận Liên khu X lần thứ 2 từ 25 đến 27-2-1949, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 475.
35. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1947 - tập I, Việt Bắc.
36. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập II, Việt Bắc.
152
37. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập III, Việt Bắc.
38. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1948 - tập IV, Việt Bắc.
39. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1949 - tập V, Việt Bắc.
40. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1950 - tập VI, Việt Bắc.
41. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1951 - tập VII, Việt Bắc.
42. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1952 - tập VIII, Việt Bắc.
43. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1953 - tập IX, Việt Bắc.
44. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1971), Văn kiện Đảng bộ
Liên khu Việt Bắc năm 1954 - tập X, Việt Bắc.
45. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, sơ thảo, Tập 1 (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội.
46. Ban Nghiên cứu Lịch sử Quân sự - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng
(1974), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
47. Ban Phụ vận Khu uỷ I (1947), Báo cáo của Ban Phụ vận Khu uỷ I về tinh hình
công tác quý III năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 08.
48. Ban Phụ vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Ban Phụ vận Khu uỷ X về công tác
tổ chức hội và một số mặt công tác khác năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 33.
153
49. Ban Thanh vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Ban Thanh vận Khu uỷ X về tình
hình thanh vận năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 32.
50. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2005), Lịch sử Biên niên công tác tư
tưởng - văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam 1925-1995, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
51. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), Sơ thảo công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1997), “Hồ Chí Minh với việc xây dựng
ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc (1947-1954)”, Hội thảo khoa
học ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),
Thái Nguyên.
53. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ
Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc về tổ chức Ban Tuyên huấn các cấp, học
tập chính trị, tuyên truyền, phát triển văn nghệ nhân dân trường Đảng cấp
khu, tỉnh tháng 12-1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1722.
54. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Ban Tuyên huấn Liên
khu uỷ Việt Bắc và kinh nghiệm về đặt lưới tuyên truyền, nhận xét công tác
tuyên truyền các tỉnh, tình hình công tác quý I, II, III năm 1952, Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),
Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1728.
55. Ban Tuyên huấn Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Chương trình công tác năm, kế
hoạch công tác tuyên huấn trong dân công, báo cáo của Ban Tuyên huấn
Liên khu uỷ Việt Bắc 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1736.
154
56. Ban Tuyên truyền Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Báo cáo của Ban Tuyên truyền
Liên khu uỷ Việt Bắc về nhận xét công tác tuyên truyền 1950 và kinh
nghiệm tuyên truyền Đảng, vùng tạm cấp năm 1950, Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục
lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1776.
57. Ban Tuyên truyền Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết của Ban Tuyên truyền
Liên khu uỷ Việt Bắc về đẩy mạnh tuyên truyền phục vụ tiền tuyến, Cục Lưu
trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),
Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1777.
58. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I (1990), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
59. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ chiến lược quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), tập III, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
60. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị (2000), Đẩy mạnh công tác dân vận tham
gia xây dựng nền chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
61. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị (1996), Đổi mới công tác dân vận của
Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
62. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần (1995), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam, tập I (1944-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
63. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần (1979), Những sự kiện về lịch sử hậu cần
quân đội (1930-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
64. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến
tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
65. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), tập I, tập II, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
155
66. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1993), Lịch sử cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), tập VI, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
67. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Việt Bắc 30 năm chiến
tranh cách mạng (1945-1975), Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
68. Bộ Tư lệnh Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Bộ Tư lệnh Liên khu uỷ
Việt Bắc về tổng hợp tình hình cơ sở, khu căn cứ du kích, tình hình cơ sở 6
tháng đầu năm và một số vấn đề khác năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 874.
69. Đào Trọng Cảng (1993), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây
dựng các vùng tự do lớn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954), Luận án tiến sĩ lịch sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam (1949), Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
gửi các Liên khu I và X về đẩy mạnh chiến dịch Tây Bắc, phá âm mưu chiếm
đóng trung du của địch và một số vấn đề khác năm 1949, Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục
số 01, Đơn vị bảo quản số 125.
71. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, (Sơ thảo),
tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
72. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, Toàn tập 1930, tập 3, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
156
77. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập 1930, tập 2, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
81. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
82. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
83. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng
và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác dân vận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực
dân Pháp, tập I (1945-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn - Lịch sử
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
88. Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Lào Cai (2001), Lào Cai - Lịch sử kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
89. Lê Quang Đạo (1995), “Đại đoàn kết dân tộc”, in trong sách Cách mạng tháng
Tám - Một số vấn đề lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
90. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2011), Lược sử Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh thiếu nhi Việt Nam (1931-
2011), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
157
91. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã
hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
92. Nguyễn Minh Đức (2004), Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954), Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
93. Võ Nguyên Giáp (1994), “Điện Biên Phủ xưa và nay”, Tạp chí Xưa và nay, (2),
Tháng 5-1994.
94. Võ Nguyên Giáp (1999), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
95. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
96. Võ Nguyên Giáp (1960), Những năm tháng không thể nào quên, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
97. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
98. Y. Gơ-ra (1979), Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Bản dịch
lưu tại thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, kí hiệu VL/624-630.
99. Nguyễn Mạnh Hà (1996), Chính sách chính trị, quân sự của Pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn 1945-1954 và nguyên nhân thất bại của chúng, Luận án
Phó Tiến sĩ Khoa học Quân sự, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
100. Lê Mậu Hãn (1999), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1949), Thư gửi đồng bào Công giáo Việt Bắc nhân dịp Lễ Noel
tháng 12-1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu
uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 509.
102. Khuất Thị Hoa (2000), Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954),
Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
103. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2004), Giáo
trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hệ cử nhân Chính trị, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
158
104. Học viện CT-HC quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2009), Lịch sử
biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III: Đảng lãnh đạo kháng chiến
và kiến quốc (1945-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. Hội Nông dân Việt Nam (1999), Công tác vận động nông dân trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Nông nghiệp , Hà Nội.
106. Đinh Thế Huynh (2012), “Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác quần chúng
- thực tiễn và một số kinh nghiệm”, Tạp chí Dân vận, (1-2012).
107. Hà Thị Khiết (2010), “Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của
Đảng sau gần 25 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (816).
108. Hà Thị Khiết (2013), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động quần chúng trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, (6-2013).
109. Không rõ tên (1948), Báo cáo của Chính uỷ và Bộ Tư lệnh khu về tình hình
công tác quân sự và công tác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 76.
110. Không rõ tên (1949), Nghị quyết Hội nghị các Trưởng Ban Dân vận, các đảng
đoàn và cuộc họp các ban và đảng đoàn 2 liên khu I và X năm 1949, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1782.
111. Không rõ tên (1950), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận và sơ kết tạm cấp
ruộng đất các bí thư đảng đoàn, quân dân chính Trung du và đảng đoàn
các ngành dân vận 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 535.
112. Không rõ tên (1950), Tài liệu Hội nghị Huy động dân công ở Trung du tháng
12-1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 533.
113. Không rõ tên (1953), Báo cáo của Khu hội Phụ nữ về tình hình công tác và
phong trào phụ nữ năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1905.
159
114. Không rõ tên (1953), Chỉ thị giảm tô, giảm tức, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
115. Khu uỷ I (1947), Báo cáo của Khu uỷ I về tình hình công tác quý II-1946, tình
hình xã hội, hàng binh, Việt kiều ở Cao Bằng và quý II, IV năm 1947, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1956), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 02.
116. Khu uỷ I (1947), Công văn của Khu uỷ I năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 03.
117. Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Khu uỷ X về tình hình công tác quý I, II, III và
IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu
uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 13.
118. Khu uỷ X (1947), Biên bản họp Ban Chấp hành, nghị quyết hội nghị đại biểu
của Phụ nữ Cứu quốc Khu X năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 37.
119. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Cứu quốc hội toàn Khu X, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 10.
120. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết Hội nghị Khu uỷ X về Công tác vùng dân tộc thiểu
số, về tình hình thực hiện và kiểm điểm các công tác của khu, về kế hoạch
phá cuộc tấn công mùa đông của địch, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 09.
121. Khu uỷ X (1947), Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Khu uỷ X về công tác năm
1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 12.
122. Khu uỷ XII (1947), Báo cáo của Khu uỷ XII về công tác tổ chức “Lớp tháng
tám” tình hình Hội quý II, III, IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 45.
160
123. Khu uỷ XII (1947), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận Khu uỷ XII lần thứ
hai, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 42.
124. Khu uỷ XIV (1947), Báo cáo của Khu uỷ XIV về tình hính chính quyền, kháng
chiến hành chính về tình hình nội bộ và mọi mặt công tác quý 4-1947, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 59.
125. Khu uỷ XIV (1947), Các chỉ thị, thông tri của Khu uỷ XIV năm 1947, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 58.
126. Khu uỷ XIV (1947), Nghị quyết Hội nghị Vận động dân tộc miền núi của Khu
uỷ XIV tháng 12-1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông
Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 57.
127. Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ (1949), Chỉ thị về công tác vận động quần chúng
của Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ, gửi cho các cán bộ Việt Minh toàn xứ, Ký
hiệu X1/16.10, II4/01/7, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng.
128. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
129. Nguyễn Thị Lan (2015), Đảng bộ Liên khu Việt Bắc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng (1949-1956), Luận án tiến sĩ lịch sử, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn.
130. J.Laniel (1954), Thảm họa Đông Dương từ Điện Biên Phủ đến cuộc đánh đổ ở
Giơ-ve-vơ, Bản dịch lưu tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sử Việt Nam, ký
hiệu VL/436.
131. V.I.Lênin (1980), Bàn về chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự và nghệ
thuật quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
132. Cao Xuân Lịch (Chủ biên) (1991), Một số trận đánh trên chiến trường Việt
Bắc (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
133. Liên hiệp Công đoàn Khu X (1947), Báo cáo của Liên hiệp Công đoàn Khu X
về phong trào công nhân trong năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,
Đơn vị bảo quản số 35.
161
134. Liên hiệp Công đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Báo cáo của Liên hiệp Công
đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc về tổng kết thi đua sản xuất lập công, đề cao chiến
sĩ năm 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1874.
135. Liên khu uỷ I (1949), Báo cáo công tác Hoa vận miền Duyên Hải của Liên
khu I năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên
khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 154.
136. Liên khu uỷ I (1948), Báo cáo của Liên khu uỷ I về tình hình chung của Liên
khu và một số vấn đề khác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 70.
137. Liên khu uỷ I (1948), Báo cáo của Liên khu uỷ I về tình hình công tác quý I, II,
III năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu
uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 69.
138. Liên khu uỷ I (1948), Các chỉ thị, nghị quyết của Liên khu uỷ I năm 1948, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 68.
139. Liên khu uỷ I (1948), Nghị quyết Hội nghị cán bộ, biên giới, giáo vận Liên
khu uỷ I năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông
Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 66.
140. Liên khu uỷ I (1949), Báo cáo của Liên khu uỷ I về kinh nghiệm công tác vùng
địch tạm chiếm và công tác dân vận 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 141.
141. Liên khu uỷ I (1949), Các chỉ thị, nghị quyết của Liên khu uỷ I năm 1949, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 139.
142. Liên khu uỷ I (1949), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ và Ban Chấp hành Liên
khu Đảng bộ I năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 129.
162
143. Liên khu uỷ I (1949), Tài liệu các hội nghị chuyên đề do Liên khu uỷ I triệu
tập năm 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu
uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 136.
144. Liên khu uỷ Việt Bắc (1949), Báo cáo kiểm điểm của Liên khu uỷ Việt Bắc về
thành tích và việc thi hành công tác phụ vận 2 Liên khu uỷ I và X năm
1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 516.
145. Liên khu uỷ Việt Bắc (1949), Các chỉ thị, thông tri, thông báo, công văn của
Liên khu uỷ Việt Bắc - 1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 515.
146. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Các chỉ thị, kế hoạch của Khu hội Phụ nữ Việt
Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên
khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1901.
147. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Các đề án, kế hoạch, báo cáo của Liên hiệp
Công đoàn Liên khu uỷ Việt Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 1873.
148. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành, chỉ thị, báo
cáo của khu đoàn Thanh niên Việt Bắc năm 1950, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,
Đơn vị bảo quản số 1888.
149. Liên khu uỷ Việt Bắc (1950), Tài liệu Hội nghị Cán bộ toàn Liên khu uỷ Việt
Bắc lần thứ nhất từ 4 đến 13-3-1950, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 530.
150. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Các chỉ thị, báo cáo của Khu hội Nông dân Việt
Bắc 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1911.
163
151. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Khu đoàn mở
rộng và Hội nghị Cán bộ Thanh vận năm 1951, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,
Đơn vị bảo quản số 1889.
152. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Nghị quyết Hội nghị Đảng đoàn các ngành dân
vận Liên khu uỷ Việt Bắc họp thường lệ ngày 7 đến 9-1-1951, Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),
Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 687.
153. Liên khu uỷ Việt Bắc (1951), Tài liệu Đại hội Đảng bộ Liên khu uỷ Việt Bắc
lần thứ nhất tháng 5-1951, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 681.
154. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc về công tác
địch hậu năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên
khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 842.
155. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Các chỉ thị, báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc
năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 835.
156. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Các chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của Khu hội
Nông dân Việt Bắc 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1913.
157. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành đoàn Thanh
niên Cứu quốc Liên khu uỷ Việt Bắc mở rộng (1952), Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục
số 01, Đơn vị bảo quản số 1891.
158. Liên khu uỷ Việt Bắc (1952), Nghị quyết Hội nghị Cán bộ dân vận Liên khu
uỷ Việt Bắc tháng 5-1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 828.
164
159. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các chỉ thị, báo cáo của Liên hiệp công đoàn
Liên khu uỷ Việt Bắc 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1877.
160. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của
Khu đoàn Thanh niên Việt Bắc năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01,
Đơn vị bảo quản số 1894.
161. Liên khu uỷ Việt Bắc (1953), Các thông tri, báo cáo của Liên khu uỷ Việt Bắc
năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 959.
162. Liên khu uỷ Việt Bắc (1954), Nghị quyết Hội nghị Tuyên huấn của Liên khu
uỷ Việt Bắc tháng 3-1954, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 1739.
163. Liên khu uỷ X (1948), Thông cáo, công văn của Liên khu uỷ X về tổ chức Ban
Hoa vận Liên khu và phân phát sử dụng muối, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 321.
164. Liên khu uỷ X (1949), Nghị quyết Hội nghị Đại biểu Việt Minh toàn Liên khu
X (từ ngày 9 đến ngày 12-3-1949), Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 497.
165. Trần Huy Liệu (1957), Lịch sử 80 năm chống Pháp, quyển I, Nxb Văn Sử Địa,
Hà Nội.
166. Nguyễn Văn Linh (1987), Về công tác quần chúng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
167. Nguyễn Văn Linh (2009), “Đổi mới nội dung, phương thức vận động quần
chúng”, Tạp chí Dân vận, (8-2009).
165
168. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - I.V. Xtalin (1977), Bàn về mối liên hệ giữa
kinh tế, hậu phương, chiến tranh, quân đội và quốc phòng, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
169. Hồ Chí Minh (1949), “Dân vận”, Báo Sự thật, (15-10-1949).
170. Hồ Chí Minh (1953), “Bài phát biểu tại Hội nghị Nông vận và dân vận toàn
quốc”, Báo Nhân dân, (21-5-1953).
171. Hồ Chí Minh (1974), Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
172. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
173. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
174. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
175. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
176. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
177. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
178. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
179. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
180. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
181. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
182. Nguyễn Xuân Minh (1996), An toàn khu (ATK) Trung ương ở Việt Bắc (trong
kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954), Luận án Phó Tiến sĩ Lịch
sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.
183. Đỗ Mười (1993), “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”, Tạp chí Dân vận, ( 12-1993).
184. H.Nava (1958), Đông Dương hấp hối, Nxb Pion, Bản dịch tiếng Việt của Viện
sử học.
185. H.Nava (1979), Thời điểm của những sự thật, Nxb Pion, Bản dịch tiếng Việt
của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, kí hiệu VL/3061.
186. H.Nava (1958), Thư gửi các chiến binh ở Đông Dương, Nxb Pion, Bản dịch
tiếng Việt lưu tại Viện Lịch sử Việt Nam, kí hiệu VL/433.
187. Dương Xuân Ngọc (2005), “Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công
tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân vận, (10).
166
188. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2008), An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng
chiến Việt Bắc, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
189. Trịnh Nhu (1996), Về con đường cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
190. L.A.Pátti (1995), Tại sao Việt Nam ? Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
191. Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945-2000), tập I (1945-1954), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
192. Tòng Thị Phóng (2005), “75 năm công tác dân vận của Đảng”, Tạp chí Dân
vận, (10-2005).
193. Phòng Tuyên truyền Liên khu Việt Bắc (1949), 10 trận thắng lớn xuân hạ
1949, Cứu quốc Trung ương, Việt Bắc.
194. Phùng Hữu Phú (Chủ biên) (1996), Chiến lược Đại đoàn kết Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
195. J.Roy (1994), Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
196. J.Sainteny (2004), Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ (viết năm 1954),
Bản dịch của Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
197. Trương Tấn Sang (2010), “Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân: Nhân tố quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Dân vận, (1-2-2010).
198. Sở Thông tin Chiến khu IV (1948), Việt Bắc chiến thắng (1948), Sở Thông tin
Chiến khu IV, Khu IV.
199. Lê Trọng Tấn (1984), Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 - Một bước phát
triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
200. Văn Tạo (1991), "Việt Minh - Liên Việt - hai mặt trận của một quá trình biết
đánh, biết thắng từng bước trong Cách mạng Việt Nam", Tạp chí Lịch sử
Đảng (4), năm 1991.
201. Âu Thị Hồng Thắm (2013), Tỉnh Bắc Kạn trong Căn cứ địa Việt Bắc từ năm 1942
đến năm 1954, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Khoa học xã hội.
167
202. Phan Thị Thoa (2011), Hoạt động tài chính ở Liên khu Việt Bắc trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1945-1954), Luận án tiến sĩ lịch
sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.
203. Tiểu ban Công vận Khu uỷ X (1947), Báo cáo của Tiểu ban Công vận Khu uỷ
X về tình hình công tác công vận tháng 9, 10 và tình hình chung năm
1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 31.
204. Tỉnh uỷ Bắc Giang (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Giang về tình hình công
tác các tháng, công tác dân vận, tổ chức quần chúng và một số vấn đề
khác năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên
khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 86.
205. Tỉnh uỷ Bắc Giang (1953), Nghị quyết Hội nghị Bảo vệ cầu đường, các đảng
đoàn, công, nông, thanh, phụ vận, Liên Việt tỉnh đội và hội nghị cán bộ
tỉnh Bắc Giang năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng,
Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo
quản số 981.
206. Tỉnh uỷ Bắc Kạn (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Kạn về tình hình Hội bộ
Bắc Kạn về tình hình chính quyền năm 1948, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 82.
207. Tỉnh uỷ Bắc Kạn (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Kạn về Tổng kết kinh
nghiệm công tác và tình hình mọi mặt trong năm 1949, Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục
lục số 01, Đơn vị bảo quản số 169.
208. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh mọi mặt công tác
năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 53.
209. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1948), Báo cáo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh về tình hình công tác
dân vận từ Tổng khởi nghĩa tới 31-5-1948, về công tác quý II, III năm
1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 91.
168
210. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (1948), Biên bản, nghị quyết Tỉnh uỷ Bắc Ninh triệu tập bàn
về vấn đề giáo vận, vấn đề giải tán Hội tề và một số vấn đề khác năm
1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 89.
211. Tỉnh uỷ Hải Ninh (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Hải Ninh về tình hình Hoa kiều
và báo cáo tình hình công tác năm 1952, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 900.
212. Tỉnh uỷ Phú Thọ (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Phú Thọ về tình hình, kinh
nghiệm phát triển Hội, công tác Hội ở một số huyện hữu ngạn sông Hồng,
về tổ chức hệ thống các cấp chỉ đạo năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 19.
213. Tỉnh uỷ Phú Thọ (1953), Báo cáo của Tỉnh uỷ Phú Thọ về tình hình công tác
năm và tình hình giáo dân trong năm 1953, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản số 1010.
214. Tỉnh uỷ Quảng Yên (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Quảng Yên về tình hình địch
vận, tình hình đấu tranh của công nhân và một số vấn đề khác năm 1949,
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 214.
215. Tỉnh uỷ Quảng Yên (1954), Báo cáo của Tỉnh uỷ Quảng Yên về tình hình công
tác năm; tình hình địch hậu và một số vấn đề khác trong năm 1954, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1094.
216. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1949), Báo cáo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên về tình hình
công tác dân vận, chính quyền trong tỉnh và một số vấn đề khác năm
1949, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt
Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 217.
169
217. Tỉnh uỷ Thái Nguyên (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Thái Nguyên về tình hình
hội, huyện Võ Nhai và một số vấn đề khác năm 1946-1947, Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),
Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 07.
218. Tỉnh uỷ Vĩnh Yên (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Vĩnh Yên về công tác quý III,
IV và báo cáo về tình hình Hội của tỉnh năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số
01, Đơn vị bảo quản số 25.
219. Tỉnh uỷ Yên Bái (1947), Báo cáo của Tỉnh uỷ Yên Bái về tình hình Hội, Mặt
trận, chính quyền và một số công tác khai thác năm 1947, Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954),
Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 29.
220. Y.Tsuboi (1990), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb Khoa
học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
221. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1951), Bản dự thảo kinh nghiệm công
tác vùng địch (7-1949 đến 4- 1951) của Liên khu Việt Bắc, Hồ sơ 1187,
Tr. 32-33, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.
222. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1952), Công văn của Ủy ban kháng
chiến hành chính tỉnh Thái Nguyên về dân phá kho thóc chính phủ và vay
tiền tiếp tế thóc giống cho dân 1952, Hồ sơ 109676, Trung tâm Lưu trữ quốc
gia III.
223. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1953), Biên bản các cuộc họp của
Ban Nội chính Liên khu Việt Bắc 1953, Hồ sơ 1.191, Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III.
224. Uỷ ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc (1953), Chỉ thị của Ủy ban Kháng
chiến hành chính Liên khu Việt Bắc về xử lý đối với các vụ tham ô năm
1953, Hồ sơ 10977, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.
225. Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu I (1948), Báo cáo của Uỷ ban
Kháng chiến hành chính Liên khu I về 1.000 ngày 19-12-1946 đến tháng
5-1948, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ
Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 74.
170
226. Uỷ ban Kháng chiến Khu I (1947), Báo cáo của Uỷ ban Kháng chiến Khu I về
tình hình công tác quý IV năm 1947, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc (1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị
bảo quản số 04.
227. Uỷ ban Mặt trận Liên Việt Liên khu Việt Bắc (1952), Nghị quyết của Uỷ ban
Mặt trận Liên Việt Liên khu Việt Bắc về nhiệm vụ công tác năm và Nghị
quyết Hội nghị Ban Thường trực Uỷ ban Liên Việt khu tháng 11 năm 1952,
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông Liên khu uỷ Việt Bắc
(1946-1954), Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản số 1869b.
228. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Biên niên sự kiện lịch
sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (Dự thảo), Hà Nội, Lưu tại Trung
tâm tư liệu, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
229. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), 60 năm toàn quốc kháng chiến - Ký
ức lịch sử và bài học kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
230. Viện Kinh tế (1966), Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến kháng
chiến thắng lợi (1945-1954), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
231. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), Tập I - Chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
232. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), Tập II - Toàn quốc kháng chiến, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
233. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2009), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), Tập III - Triển khai kháng chiến toàn diện, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
234. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2011), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), Tập IV - Bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
171
235. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954), Tập V - Phát triển thế tiến công chiến lược, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
236. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2013), Lịch sử Việt
Nam, Tập 10 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1950, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
237. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2014), Lịch sử Việt
Nam, Tập 11 - Lịch sử Việt Nam từ năm 1951 đến 1954, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
238. Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2017), Lịch sử Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
239. Viện Sử học, Lịch sử Việt Nam tập X (1945-1950), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
240. Nguyễn Thị Xuân (2005), Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo xây dựng kinh tế
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Luận văn thạc sĩ
lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
172
PHỤ LỤC
173
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ SẮC LỆNH VÀ QUYẾT NGHỊ VỀ LIÊN KHU VIỆT BẮC
SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 127-SL NGÀY 4 THÁNG 11 NĂM 1949 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức Chính quyền nhân dân,
Chiểu Sắc lệnh số 254-SL ngày 19-11-1949 tổ chức Chính quyền nhân
dân trong thời kỳ kháng chiến,
Xét nhu cầu hiện thời và để thực hiện việc gian chinh,
Chiểu đề nghị của Hội đồng Quốc phòng Tối cao,
theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ sau khi Ban thường trực Quốc
hội thoả thuận.
RA SẮC LỆNH: Điều 1- Nay hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10 thành Liên khu Việt Bắc. Điều 2- Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Liên khu Việt bắc gồm có: - 1 Chủ tịch, - 2 Phó chủ tịch,
- 2 hay 4 uỷ viên, - 1 đến 3 cố vấn. Điều 3- Về phần tổ chức các ngành chuyên môn trong Uỷ ban Kháng
chiến Hành chính Liên khu Việt Bắc, Hội đồng Quốc phòng tối cao có thể tuỳ tình thế và nhu cầu công việc quy định cho thích hợp.
Điều 4- Hội đồng Quốc phòng Tối cao chiểu Sắc lệnh thi hành.
CHỦ TỊCH NƯỚC (Đã ký)
Hồ Chí Minh
Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
174
SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 128-SL NGÀY 4 THÁNG 11 NĂM 1949
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh số 254-SL ngày 19-11-1949 tổ chức Chính quyền nhân
dân trong thời kỳ kháng chiến,
Chiểu Sắc lệnh số 127 ngày 4 tháng 11 năm 1949 thành lập Liên khu
Việt Bắc,
Chiểu đề nghị của Hội đồng Quốc phòng Tối cao,
Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ.
RA SẮC LỆNH:
Điều 1- Nay cử các vị có tên sau đây vào Uỷ ban Kháng chiến Liên
khu Việt Bắc:
- Chủ tịch, kiêm Uỷ viên quân sự: Thiếu tướng Chu Văn Tấn:
- Phó Chủ tịch: Ô. Bùi Quang Tạo, Ô. Nguyễn Duy Thần.
- Uỷ viên: Ô. Nguyễn Văn Tuất, Ô. Nguyễn Quang Tạo.
Điều 2- Hội đồng Quốc phòng Tối cao chiểu Sắc lệnh thi hành.
CHỦ TỊCH NƯỚC
(Đã ký)
Hồ Chí Minh
Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
175
SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 134-SL NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1949
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
- Chiểu Sắc lệnh số 50-SL ngày 18-6-1949 tổ chức Bộ Quốc phòng;
- Chiểu Sắc lệnh số 53 ngày 22-3-1946 và số 71 ngày 22-5-46 tổ chức
và ấn định quy tắc Quân đội Quốc gia Việt Nam;
- Chiểu Sắc lệnh số 127 ngày 4-11-1949 thành lập Liên khu Việt Bắc;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh
Quân đội Quốc gia Việt Nam.
RA SẮC LỆNH:
Điều 1- Nay cử các vị có tên dưới đây sung vào Bộ Tư lệnh quân đội
địa phương và dân quân Liên khu Việt Bắc:
Thiếu tướng Chu văn Tấn: Chính trị uỷ viên;
Đại tá Lê Quang Ba: Tư lệnh Liên khu;
Đại tá Thanh Phong: Phó Tư lệnh Liên khu;
Điều 2- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc
gia và Dân quân Việt Nam chiểu sắc lệnh thi hành.
CHỦ TỊCH NƯỚC
(Đã ký)
Hồ Chí Minh
Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
176
ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Số: 17/NQ
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
QUYẾT NGHỊ
Về việc sắp xếp và bổ sung cán bộ cho khu XX mới thành lập
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUYẾT NGHỊ
1. Khu uỷ khu XX sẽ gồm đồng chí Bùi Quang Tạo làm Bí thư, các
đồng chí Học, Quyết, Trung, Đình, Bằng, Giang và hai Khu uỷ viên nữa
của Liên khu Việt Bắc do Liên khu uỷ Việt Bắc đề nghị.
2. Liên khu uỷ Việt Bắc sẽ điều động giúp cho khu XX
- 4 tỉnh uỷ viên,
- 51 cán bộ huyện (trong số này có thể lấy 30 cán bộ huyện đang học
lớp huấn luyện cán bộ thiểu số của Liên khu uỷ Việt Bắc),
- Một số cán bộ Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn chọn trong số cán bộ cũ
trước công tác ở các ngành, các địa phương hiện đã trở về công tác ở Cao - Bắc -
Lạng.
Ban Liên khu uỷ Việt Bắc và các đồng chí kể trong điểm 1 ở trên, có
nhiệm vụ thi thành Quyết nghị này.
Ngày 15 tháng 7 năm 1952
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
T/M BAN BÍ THƯ
LÊ VĂN LƯƠNG
(đã ký)
Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
177
PHỤ LỤC 2
LƯỢC ĐỒ CÁC CHIẾN DỊCH LỚN TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN LIÊN KHU VIỆT BẮC CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947
(Từ ngày 7-10 đến ngày 20-12-1947)
Nguồn: Bảo tàng Quân khu 1
178
CHIẾN DỊCH CAO - BẮC - LẠNG (Từ ngày 15-3 đến ngày 30-4-1949)
Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên
179
CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU - ĐÔNG 1950 (Từ ngày 16-9 đến ngày 17-10-1950)
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt
180
CHIẾN DỊCH TÂY BẮC (Từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952)
Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
181
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ (Từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954)
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
182
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÔNG TÁC DÂN CÔNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Dân công các tỉnh đồng bằng vận tải lương thực, vũ khí lên chiến dịch Nguồn: Bảo tàng Biên phòng
183
Đoàn xe đạp thồ vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến dịch Biên Giới Nguồn: Bảo tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam
Dân công vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
184
Đại đội dân công xe đạp thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam
Dân công và bộ đội khiêng phụ tùng xe máy vượt gần 100km để lắp thành xe ôtô phục vụ chiến dịch giải phóng Điện Biên
Nguồn: Bảo tàng Quân khu 1
185
Dân công dùng bè mảng chở xăng dầu phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Hậu cần
Dân công tiếp vận chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
186
Từng mảng bè vượt ghềnh thác, chở lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
Dân công Cao - Bắc - Lạng vận chuyển lương thực ra mặt trận Nguồn: Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam
187
Xe trâu vượt dốc chở lương thực ra mặt trận Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Ngựa thồ trong chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
188
Đồng bào Thái gùi gạo phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam
Đồng bào H’Mông đi dân công góp sức cho chiến dịch giải phóng Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
189
Đồng bào thiểu số Tạ Khoa phục vụ thương binh tại Đội điều trị I, Điện Biên Phủ
Nguồn: Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam
Xưởng may quân nhu phục vụ chiến sĩ giải phóng Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
190
Công binh và dân công chặt cây mở đường cho chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
191
Dân công sửa đường để đưa những chiến sĩ bị thương về hậu phương Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Công binh và dân công làm đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
192
Mở đường vào Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
193
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
194
Xe đạp thồ của ông Bùi Tín, dùng để vận chuyển trong chiến dịch Điện Biên Phủ đạt trọng tải từ 80kg đến 213kg
Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
195
Xe cút kít của ông Trịnh Đình Bầm, đạt thành tích 280kg/chuyến tiếp vận chiến dịch Điện Biên Phủ Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
196
Chiếc xe đạp thồ của ông Trịnh Ngọc, đạt kỷ lục với tải trọng 345,5kg, chở nặng nhất bằng xe đạp thồ trong chiến dịch Điện Biên
Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
197
Các chiến sỹ Điện Biên Phủ bên cạnh chiếc xe thồ trưng bày tại triển lãm "Điện Biên Phủ - một thiên sử vàng" Nguồn: Bảo tàng Quân khu 4