ĐẶC ĐIỂM HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN...
Transcript of ĐẶC ĐIỂM HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN...
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN QUANG HƯNG
ĐẶC ĐIỂM HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ 1975 ĐẾN 2010
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62 22 01 21
TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - 2016
Công trình được hoàn thành tại: Đại học Khoa học, Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hường
TS. Ngu n Đình nh
Phản biện 1: …………………………………………………………..
Phản biện 2: …………………………………………………………..
Phản biện 3: …………………………………………………………..
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế
họp tại : ………………………………………………………………
...............................................................................................................
ào hồi ……… giờ …......... ngà ……… tháng …….. năm ……….
Có thể tìm thấ luận án tại thư viện …………………………………..
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. “Đặc điểm hồi ký văn học iệt Năm từ 1975 đến 2010”, 2006,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (Bộ văn hóa Thông tin), số 4, tr. 78-
80 và 91.
2. “Chân dung các nhà văn trong hồi ký văn học”, 2010, Tạp chí Non
Nước (Thành phố Đà Nẵng) số 155, tr. 66 - 68.
3. “Chân dung tự họa trong hồi ký nhìn từ đặc trưng thể loại”, 2016,
Tạp chí Văn học, số 2, tr. 122-.129.
4. “Tính đa dạng giọng điệu c a hồi ký văn học Việt Nam sau 1975”,
2016, Tạp chí h a học Đại học Huế, số 1, tr. 91-99.
5. “Cảm quan hiện thực, con người trong hồi ký văn học iệt Nam
giai đoạn từ sau 1975”, 2016, Tạp chí h a học Đại học Sài Gòn
(Kèm theo Giấ nhận đăng).
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ 1975 đã có sự cách tân, phát triển ở nhiều
bình diện. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự đa dạng
hóa của đời sống văn học giai đoạn này là sự vận động, đổi mới về
mặt thể loại. Ở những giai đoạn trước, từ quan niệm của từng cộng
đồng văn học, có thể loại được xem là trụ cột, trung tâm, cũng có thể
loại chỉ nằm ở ngoại vi/cận văn học. Từ sau đổi mới, trong sự
chuyển đổi tư duy nghệ thuật, “cái nhìn thể loại” cũng có sự thay
đổi. Trong sự vận động tự thân của từng thể loại, sự bình đẳng thể
loại ngày càng đậm rõ trong quan niệm, trong tâm thế tiếp nhận của
cộng đồng văn học. Theo Bakhtin: Trong đời sống văn học, các thể
loại luôn được đặt trong quan hệ đồng đẳng về giá trị, song mỗi thể
loại là sự thể hiện “một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách
cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người”. Hồi ký là một
trong những thể loại đặc biệt của diễn trình văn học Việt Nam.
1.2. Từ sau 1975, nh t là sau đổi mới, trong sự tiếp nhận những lý
thuyết mới m của văn học toàn c u, như một xu thế t t yếu, hồi ký
cũng mang trong bản thân thể loại nhiều yếu tố hiện đại. Những tác
phẩm hồi ký văn học từ sau 1975 không chỉ cung c p những lượng
thông tin phong phú, đa chiều mà còn đáp ứng được những khoái
cảm thẩm mỹ trong t m đón đợi của người đọc hiện đại. ức h p d n
của những thiên hồi ký là ở mỹ cảm nghệ thuật, ở nội dung đa dạng,
phong phú; từ hình thức thể hiện mới m , cũng như từ t m lòng,
trách nhiệm đối với cõi người, cõi nghề của nhà văn.
1.3. Về mặt thể loại, hồi ký được xem là một tiểu loại của ký. Tuy
vậy, hồi ký v n chưa thực sự được quan tâm đúng với vai trò, vị trí
của nó; chưa được nghiên cứu một cách đ y đủ, toàn diện dưới góc
độ đặc trưng thể loại.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Đặc
điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010, nhằm tìm ra quy
luật vận động, những bước phát triển về nội dung và nghệ thuật biểu
hiện của thể hồi ký, đồng thời khẳng định những thành tựu và đóng
góp của hồi ký đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm hồi ký văn học
Việt Nam từ 1975 đến 2010.
Những tác phẩm hồi ký văn học được xu t bản ở Việt Nam từ
1975 đến 2010 đều thuộc diện khảo sát của luận án. Tuy nhiên, luận
án tập trung hơn vào những hồi ký của các nhà văn, nhà thơ có ảnh
hưởng lớn đến đời sống văn học và tác phẩm của họ có giá trị văn
chương, thẩm mỹ cao.
Từ những tiêu chí nêu trên, đối tượng khảo sát của luận án là
những tập hồi ký văn học được phân loại như sau:
Hồi ký của thế hệ các nhà thơ/nhà văn đã từng sáng tác trước
1945: Nhớ lại một thời (Tố Hữu); Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư);
Núi Mộng gương Hồ (Mộng Tuyết); Hồi ký Anh Thơ (Anh Thơ); Cát
bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài); Hồi ký Quách Tấn (Quách T n);
Hồi ký Song Đôi (Huy Cận).
Hồi ký của thế hệ các nhà thơ/nhà văn sáng tác sau 1945: Nhớ
lại (Đào Xuân Quý); Mất để mà còn (Hoàng Minh Châu); Năm tháng
nhọc nhằn năm tháng nhớ thương (Ma Văn Kháng); Một thời để mất
(Bùi Ngọc T n); Trong mưa núi (Phan Tứ);…
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là từ đặc trưng thẩm mỹ của
thể loại, cụ thể hóa những đặc điểm hồi ký văn học từ 1975 đến 2010
ở một số phương diện: diện mạo hồi ký- các khuynh hướng chính;
những đặc điểm cơ bản về nội dung; nhân vật hồi ký và nghệ thuật
tr n thuật.
3. C sở ý thu t và phư ng ph p nghiên cứu
3.1. s thu t
Luận án vận dụng các khái niệm của thi pháp học, tự sự học để
phân tích cách tiếp cận và khám phá hiện thực; cái nhìn về con
người; cách tổ chức điểm nhìn tr n thuật… của hồi ký. Ngoài ra,
luận án còn sử dụng lý thuyết về thể loại để khu biệt đặc điểm hồi ký
và những thể loại/tiểu loại khác.
3
3.2. Phư ng pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp c u trúc - hệ thống
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp thống kê - phân loại
4. Đóng góp của uận n
4.1. Từ việc hệ thống hóa lý luận về thể hồi ký, luận án đưa ra những
kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khát quát một số khái niệm
thuộc đặc trưng thể hồi ký văn học.
4.2. Là công trình nghiên cứu hệ thống về thể hồi ký để tái hiện diện
mạo và chỉ ra sự vận động, phát triển của bộ phận hồi ký, cụ thể là
hồi ký văn học Việt Nam từ năm 1975 đến 2010; trên cơ sở đó, luận
án hướng tới những v n đề lý thuyết và văn học sử như sự vận động
của thể loại, sự tương tác văn học, tâm lý sáng tạo và tiếp nhận.
4.3. Khẳng định những cá tính sáng tạo độc đáo trong việc làm mới
thể loại. Qua đó, khẳng định vai trò, vị trí và giá trị của hồi ký
trong văn học dân tộc nói chung và văn học giai đoạn từ sau 1975
nói riêng.
5. Cấu trúc uận n
Ngoài ph n Mở đ u, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung
chính luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Diện mạo hồi ký trong văn học Việt Nam hiện đại
Chương 3: Cảm quan về hiện thực và các dạng chân dung
nhân vật của hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Chương 4: Nghệ thuật tr n thuật của hồi ký văn học Việt Nam
từ 1975 đến 2010
4
Chư ng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu thể hồi ký từ 1975 đ n 2010
1.1.1. Những công trình, bài báo nghiên cứu khái quát
Về lý thuyết thể loại, các v n đề được các nhà nghiên cứu, phê
bình quan tâm là tính hư c u trong hồi ký, mối quan hệ giữa người
kể và người ghi hồi ký; sự khác nhau của nhân vật trong hồi ký với
nhân vật trong tiểu thuyết;… Các bài viết của Nguyễn Thế Hưng và
Lương Ích Cẩn, Phạm Hồng Giang, chú ý nhân vật và vai trò của
người kể chuyện trong hồi ký. Vũ Đức Phúc đã đề cập tính hư c u
trong hồi ký. Còn Hà Minh Đức đã phân biệt sự khác nhau của cái
tôi trong ký cũng như hồi ký với tiểu thuyết – tự truyện.
Khái quát được diện mạo của hồi ký văn học Việt Nam từ
1975 đến 2010, tiêu biểu là Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại
của trường Đại học ư phạm Hà Nội; công trình Lý luận văn học do
Hà Minh Đức chủ biên.
Nhà văn Nguyên Ngọc chú ý đến hồi ký văn học, ít nhiều đã
cho th y nguyên nhân của sự phát triển hồi ký sau 1975. Đỗ Hải
Ninh đã đi tìm căn nguyên để lý giải hiện tượng thú vị là sự xu t
hiện ồ ạt hồi ký trên văn đàn những năm sau 1975. Lý Hoài Thu
khẳng định vị trí hồi ký, sự đa dạng về chủ đề, sự đáp ứng nhu c u
nhận thức thực tại của hồi ký thời đổi mới. Bích Thu có cái nhìn
tổng quan về sự phát triển của hồi ký văn học sau 1975 nói riêng.
1.1.2. Công trình, bài báo nghiên cứu về từng tác giả, tác phẩm
ố lượng các bài viết về hồi ký Tô Hoài thật phong phú. Vân
Thanh đã đưa ra những nhận xét có tính gợi mở về nghệ thuật viết
hồi ký của Tô Hoài. Nghiên cứu, khảo luận về Cát bụi chân ai và
Chiều chiều của Tô Hoài, đã có nhiều bài viết có những đánh giá sâu
sắc về những đặc sắc của nội dung và nghệ thuật hai cuốn hồi ký
này, từ đó khái quát về tiềm lực và t m vóc hồi ký Tô Hoài nói riêng
và hồi ký văn học Việt Nam nói chung. Nguyễn Đăng Điệp với bài
Tô Hoài, người sinh ra để viết, tác giả chú ý phương diện nghệ thuật
và ch t tiểu thuyết trong hồi ký của Tô Hoài với nhận định: “Cái
nhìn không nghiêm trọng hóa là thế mạnh của Tô Hoài, nó khiến cho
5
nhà văn, dù viết thể loại nào đi chăng nữa, v n thổi được vào đó cái
ch t tiểu thuyết mà M. Bakhtin từng nói đến”... Các bài viết của
Đặng Thị Hạnh, Phong Lê, Đặng Tiến, Vương Trí Nhàn, Nguyễn
Văn Thọ, Xuân ách và Tr n Đức Tiến đều đánh giá cao hai tác
phẩm hồi ký của Tô Hoài.
Hồi ký của Anh Thơ cũng được các nhà nghiên cứu, phê bình
quan tâm. Trong cuốn Đẹp mãi bức tranh quê, đã quy tụ các bài viết
về hồi ký Anh Thơ của các tác giả: Vũ Qu n Phương, Phạm Tú
Châu, Xuân Cang, Tr n Cư, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Ngọc Hiền,
Lý Thị Trung… Những bài viết đã bước đ u tạo những cơ sở nghiên
cứu hồi ký của Anh Thơ ở góc độ đặc trưng thể loại.
Hồi ký của nữ sĩ Mộng Tuyết - Núi Mộng gương Hồ cũng gây
được sự chú ý của các nhà phê bình, nghiên cứu.
Về cuốn hồi ký Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương
của Ma Văn Kháng có các bài viết của Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc
Thiện, Bùi Bình Thi, Đinh Hương Bốn, Thi Thi, và công trình
nghiên cứu của Nguyễn Thị Nguyên, Lê Thị Kim Liên. Các tác giả
đã ban đ u đưa ra nhận định về những giá trị đặc sắc của hồi ký Ma
Văn Kháng trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
Về cuốn hồi ký Nhớ lại một thời của Tố Hữu, tác giả Mai
Hương đã nhận ra nét riêng trong lối viết của Tố Hữu là luôn đặt
song hành cùng nhau giữa hành trình cách mạng với hành trình thơ.
Tr n Đình ử đã đánh giá cuốn hồi ký của Tố Hữu: “cuốn hồi ký đã
củng cố thêm quan niệm của chúng tôi: thơ Tố Hữu là thơ trữ tình
chính trị và nhiều đặc điểm của thơ ông phải đặt trong yêu c u của
công tác tư tưởng thì mới lý giải được th u đáo” [111, 355].
Những tác phẩm hồi ký văn học của Nguyễn Vỹ, Lưu Trọng
Lư, Huy Cận, Đào Xuân Quý, Nguyễn Ngọc T n, Hoàng Minh
Châu, Phan Tứ,… cũng được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm
và đưa ra những đánh giá, nhận định có giá trị.
1.2. Đ nh gi tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
1.2.1. Về tình hình nghiên cứu
Chưa có công trình bao quát chung về diện mạo thể hồi ký. ự
phân tích, lý giải điều kiện, quy luật phát triển, các khuynh hướng
6
cũng như đặc điểm hồi ký ở mỗi giai đoạn còn riêng l . Ngay các
công trình lý luận, các giáo trình cũng chỉ dành vài trang cho hồi ký.
Những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm hồi ký chưa có tính hệ thống
và toàn diện.
1.2.2. Hướng triển khai đề tài
Khảo sát và phân loại các tác phẩm hồi ký để tái dựng diện
mạo và chỉ ra sự vận động, phát triển của bộ phận hồi ký, cụ thể là
hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010; đồng thời đặt tác phẩm
hồi ký trong chỉnh thể để khảo sát, đối sánh làm rõ thêm chân dung
các nhà văn, hiện tượng văn học, chính trị, văn hóa giáo dục… trong
đời sống xã hội Việt Nam. Qua đó, hệ thống, đánh giá những đặc
trưng nghệ thuật của thể hồi ký văn học nhằm xác lập vai trò, vị trí
và giá trị của thể loại này trong đời sống văn học dân tộc.
Tiểu k t
Ở Việt Nam, hồi ký ra đời muộn hơn so với các thể loại văn
học khác nhưng sự hình thành và phát triển của hồi ký đã tạo nên
một diện mạo mới cho đời sống văn học nước nhà. Các nhà nghiên
cứu văn học đã có sự chú ý và đưa ra những đánh giá về vị trí của
từng tác giả, tác phẩm hồi ký; đã cung c p những cơ sở lý luận căn
bản cho việc nghiên cứu về đặc trưng thể hồi ký. Tuy nhiên, các
công trình còn mang tính đơn l , rời rạc, chưa có tính hệ thống.
7
Chư ng 2
DIỆN MẠO HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Về kh i niệm và quan niệm thể oại
2.1.1. Giới thu t khái niệm và quan niệm thể oại
Hồi k
Trong các loại từ điển, khái niệm hồi ký được hiểu thống nh t.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê): “Hồi ký là thể văn ghi lại
những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc”.
Nguyễn Văn Đạm trong Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt,
đưa ra cách hiểu: “Hồi ký là thể văn thuật lại theo thứ tự thời gian
những sự việc mà tác giả đã trải qua hoặc chứng kiến một ph n nào
trong những mối quan hệ thời đại”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại những biến cố xảy
ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến. Như
vậy, các cách lý giải trên về cơ bản đều dựa theo hình thức chiết tự từ
Hán Việt: hồi là quay trở lại, ký là ghi chép những điều chứng kiến.
Các thuật ngữ tư ng đồng và quan niệm thể oại Về quan điểm thể loại, nhiều quan niệm cho rằng hồi k à một
tiểu oại của k , là thể tài văn học. Quan niệm này thống nh t trong
h u hết các công trình lý luận văn học (Lại Nguyên n trong 150
thuật ngữ văn học; công trình Lý luận văn học (Tr n Đình ử chủ
biên); Lý luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên) xác định: “Hồi ký
ghi lại những diễn biến của câu chuyện và nhân vật theo bước đi của
thời gian qua hồi tưởng”. Một số nhà nghiên cứu trên cơ sở so sánh
loại hình, đã chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hồi ký với
những tiểu loại khác của ký.
Hồi k và nhật k , có nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học;
nhóm tác giả trong Từ điển Văn học (bộ mới); Lại Nguyên n trong
150 thuật ngữ văn học.
Hồi ký và tự tru ện, trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức
Hiểu phân biệt: “Hồi ký có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kỳ
lịch sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể
chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự truyện không phải một tập hợp những
kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết”.
Hồi k và các dạng thức tự thuật: Tiểu thuyết tự thuật, văn
xuôi lịch sử, tiểu thuyết khoa học đều viết về sự thật nhưng ở đây là
cái giống, có khi là “phiên bản” của sự thật, tác giả là người không
8
chịu trách nhiệm về điều đó. Còn hồi ký, nếu có hư c u thì đó cũng
chỉ là cách để chuyển tải sinh động cái sự thật.
2.1.2. Đặc trưng hồi k
Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Tr n Đình ử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên), Lý luận văn học (Hà Minh Đức), Lý luận
văn học (Phương Lựu) đều thống nh t:
Một trong những đặc trưng cơ bản nh t của thể hồi ký là tính
xác thực của đối tượng miêu tả và tính trung thực của người hồi
tưởng; Hồi ký mang tính chủ quan của người kể chuyện quá khứ; Xét
ở phương diện nghệ thuật, một trong những đặc trưng nổi bật nh t
của thể hồi ký là cách kể chuyện theo dòng hồi tưởng, nhớ đến đâu
kể đến đó và thường không sử dụng thủ pháp cốt truyện. Tác giả có
thể hồi tưởng lại quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính. Tuy nhiên
trong tác phẩm hồi ký, dòng hồi ức cũng có thể bị đảo lộn không theo
một quy luật khách quan mà chịu sự tác động của ý thức-tác giả. Có
nghĩa là sự phản ánh hiện thực trong hồi ký được tuân theo quy luật
riêng của dòng hồi tưởng.
2.1.3. Cách phân oại hồi k
Dựa vào khái niệm có thể chia hồi ký thành hai dạng. Một là,
dạng theo “khung” truyền thống, đó là đảm bảo “tái hiện quá khứ
người thật việc thật”, người kể chuyện xưng “tôi”, là người trong
cuộc hoặc chứng kiến. Hai là, dạng hồi ký được định danh bằng thể
loại khác do ý đồ của tác giả vì những lý do ngoài sáng tạo hoặc kiểu
hồi ký ẩn trong một thể loại khác (mang dáng d p của thể loại khác,
pha trộn với thể loại khác). Đây là dạng thức nới rộng đường biên so
với “khung” thể loại truyền thống.
Dựa vào đề tài/chủ đề, tác phẩm hồi ký có thể thuộc hồi ký lịch
sử, hồi ký đời tư, hồi ký chân dung.
Theo cảm hứng chủ đạo, hồi ký phát triển theo ba khuynh
hướng chính: khuynh hướng thể hiện cảm hứng tôn vinh, ngợi ca;
khuynh hướng nhận thức lại và khuynh hướng tự trào.
Căn cứ vào bản ch t của thể loại, hồi ký có thể chia thành hai
xu hướng. Thứ nh t là hồi ký hướng nội, chủ yếu là tái hiện hiện thực
dựa vào sự trải nghiệm, chiêm nghiệm của bản thân người viết. Xu
hướng thứ hai là hồi ký hướng ngoại.
Căn cứ vào sự đan xen thể loại, hồi ký có r t nhiều dạng thức:
hồi ký –tự truyện, hồi ký mang dáng d p tiểu thuyết tự thuật.
9
2.2. Những chặng đường ph t triển của hồi ký trong văn học
Việt Nam hiện đại
2.2.1. Giai đoạn trước 1975 – Những kh i động có tính dự báo
Trong giai đoạn đ u của sự chuyển đổi phạm trù văn học, đời
sống thể loại chưa ổn định. Bên cạnh những thể tài truyền thống,
dạng ghi chép, tự thuật bắt đ u phát triển. Xu t hiện những tác phẩm
có tính “ghi chép”, hoặc đan xen giữa hồi ký, bút ký, du ký như:
Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (Trương Vĩnh Ký), Hạn mạn du ký
(Nguyễn Bá Trác), Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ (Phạm
Quỳnh),… Tiếp sau đó là sự xu t hiện của những tác phẩm có tính tự
thuật, những hồi ký-tự truyện như: Phan Bội Châu niên biểu (Phan
Bội Châu), Giấc mộng lớn (Tản Đà),… Tuy nhiên, giai đoạn này
chưa có hồi ký nguyên dạng (tức có những tác phẩm đáp ứng đ y đủ
yêu c u của “khung” lý luận về hồi ký).
Từ năm 1930 đến năm 1945, trong hệ hình hiện đại, đời sống
thể loại có nhiều thay đổi. Các thể loại hiện đại từng bước định hình,
phát triển; đường biên thể loại, khung đặc trưng thể loại v n chưa
được xác định rõ, từ đó d n đến sự không thống nh t trong cách định
danh thể loại. Điều này cũng xảy ra với các sáng tác v n được định
danh là tùy bút của Nguyễn Tuân tuy gọi là tùy bút, “nhưng thật ra có
sự đan xen tự truyện, du ký, tạp văn v.v...”. Những ngày thơ ấu
(Nguyên Hồng), Cỏ dại (Tô Hoài) đều là hồi ức về quãng đời thơ tr
của hai nhà văn lớn thuộc khuynh hướng hiện thực. Tuy vậy sự phân
định thể loại ở hai tác phẩm này v n còn gây tranh cãi (là hồi ký, tự
truyện, hay hồi ký-tự truyện). Nới rộng đường biên thể loại, Những
ngày thơ ấu, Cỏ dại là những tác phẩm hồi ký, góp ph n khẳng định
sự phát triển của hồi ký giai đoạn nửa đ u thế kỉ XX. Đặc biệt là sự
xu t hiện một số hồi ký của các nhà hoạt động cách mạng, làm phong
phú thêm diện mạo hồi ký.
Từ 1945 đến 1975, diện mạo hồi ký đ y đặn hơn nhưng mới
chỉ đạt thành tựu bước đ u. Đội ngũ sáng tác giai đoạn này về cơ bản
là những nhà văn thuộc thế hệ tiền chiến. Nội dung của hồi ký của
thế hệ nhà văn này đều viết về những đời văn-đời người, khắc họa
chân dung văn nghệ sĩ cùng thời qua hồi ức, hoặc ghi chép, luận bàn
về đời sống văn chương, báo chí (Vũ Bằng, Nguyễn Vỹ, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương ).
Đáng chú ý là sự xu t hiện những tác phẩm hồi ký của các
tướng lĩnh, các nhà hoạt động cách mạng. Tiêu biểu như: Hai lần
10
vượt ngục (Tr n Đăng Ninh); Những năm tháng không thể nào quên
là tập hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Hữu Mai thể hiện;
Nhân dân ta rất anh hùng của Hoàng Quốc Việt (nhà báo Thép Mới
ghi); Không còn con đường nào khác (Nguyễn Thị Định)…
2.2.2. Giai đoạn từ 1975 đ n 2010 – Những mùa vàng hồi k
au 1975, hồi ký phát triển mạnh mẽ, trở thành thể loại độc
lập, có đời sống riêng, diện mạo riêng với sự tập hợp nhiều thế hệ.
Đóng góp lớn cho thành tựu hồi ký giai đoạn này là thế hệ các nhà
văn tiền chiến, thuộc các khuynh hướng. Tham dự với vai trò chủ đạo
trong nhiều chặng đường văn học, có nhu c u viết hồi ký trở nên bức
thiết đối với thế hệ này.
Trong thành tựu chung của hồi ký sau 1975, số lượng tác giả
trong phong trào Thơ mới tham gia khá nhiều. Những tác phẩm hồi
ký ra đời ghi lại cả một khoảng trời về tuổi thơ, về quê hương, gia
đình, về những sự kiện lịch sử in đậm trong hồi ức của: Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Xuân anh, Huy Cận, Quách T n. Đặc biệt các nhà thơ
nữ cũng làm mới diện mạo hồi ký bằng những tác phẩm đậm tính nữ
như Mộng Tuyết, Anh Thơ…
Trong số các nhà văn tiền chiến có hành trình sáng tác qua
nhiều giai đoạn văn học, Nguyên Hồng là nhà văn viết hồi ký thành
công; sau 1975, Nguyên Hồng gây n tượng bởi tập hồi ký Những
nhân vật ấy đã sống với tôi với phong cách hồi ký độc đáo. Trong số
các nhà văn viết hồi ký, có thể khẳng định, Tô Hoài là nhà văn khơi
nguồn cho mùa vàng hồi ký sau 1975. Với Cát bụi chân ai và Chiều
chiều, nhà văn đã chứng tỏ bản lĩnh, cá tính, sự trải đời, tinh đời, sắc
sảo. Là nhà thơ cách mạng, chặng đường thơ của Tố Hữu trùng khít
với những chặng đường lịch sử. Những sự kiện lớn nhỏ của đời, của
đ t nước đều in d u n trong tập hồi ký Nhớ lại một thời.
Thế hệ các nhà văn trưởng thành sau 1945 cũng thành công ở
hồi ký: Đào Xuân Quý (Nhớ lại); Hoàng Minh Châu (Mất để mà
còn); Ma Văn Kháng (Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương);
Bùi Ngọc T n (Một thời để mất); Phan Tứ (Trong mưa núi)…
Hồi ký của nhóm các nhà nghiên cứu phê bình cũng khá đa
dạng (Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Hiến Lê, Đặng Anh Đào…).
Viết hồi ký cũng là nhu c u của nhiều người hoạt động ở
những lĩnh vực ngoài văn học. Các tác giả hoạt động trong lĩnh vực
chính trị cũng góp ph n tăng thêm số lượng hồi ký sau 1975. Tiêu
11
biểu là Võ Nguyên Giáp, Tr n Tiến Cung, Lê Hải Lý, Hoàng Văn
Thái, Phùng Thế Tài, Đặng Vũ Hiệp, Tr n Văn Giàu, Nguyễn Thị
Bình… Hồi ký cách mạng thời kỳ này góp ph n làm nên những d u
mốc trong diện mạo phát triển của thể hồi ký. Các tác giả trong lĩnh
vực sân kh u, điện ảnh, âm nhạc, báo chí viết hồi ký tập trung vào
những thăng tr m của nghề nghiệp, những ẩn khu t của cuộc sống
đời tư cũng như kinh nghiệm để đưa họ đến với thành công trong
nghề nghiệp. Có thể nhắc đến Tr n Văn Khê, Trung ơn, Đặng Nhật
Minh, Nguyễn Văn Thương. Và một số hồi ký xu t hiện trên Internet
của Tô Hải, Cao Xuân Huy, Phạm Duy,…
Từ diện mạo khái quát trên cho th y sự vận động và phát triển của
hồi ký hiện đại, trong đó thành tựu đáng kể là hồi ký văn học sau 1975.
Về phương diện nội dung, hồi ký văn học cung c p những
lượng thông tin phong phú về những trang sử buồn vui của dân tộc;
những hoạt động nghề nghiệp, kể cả chuyện bếp núc, sinh hoạt riêng
tư của văn nghệ sĩ. Cái nhìn đa chiều về bản thân, về tha nhân còn
cho th y sự chuyển đổi trong quan niệm về con người của các tác giả
hồi ký văn học sau 1975.
Về phương diện thể loại, thành tựu của hồi ký văn học hiện đại
cho th y sự đồng đẳng giữa các thể loại, xóa bỏ quan niệm văn học
hay cận văn học, thể loại lớn hay thể loại nhỏ. Hồi ký văn học cho
th y sự dung hợp thể loại, một đặc thù không dành riêng cho thể loại
nào. Hồi ký văn học sau 1975 cũng “nuốt” vào bản thân những tiểu
loại của ký như nhật ký, du ký qua những trang văn ghi chép hằng
ngày về những chuyến đi. ự đan xen giữa các thể loại ngày càng
phổ biến, đặc biệt giai đoạn đ u thế kỷ XXI, khiến việc định danh thể
loại càng khó khăn.
Về tính thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, hồi ký sau 1975 có nhiều
đổi mới. Tác phẩm hồi ký là những áng văn hoàn chỉnh, với những kĩ
thuật hiện đại- từ cách tổ chức văn bản, phương thức tự sự đến tính
đa thanh, đa giọng điệu.
Tiểu k t
Trong sự nghiệp sáng tác của mỗi nhà văn, tuy hồi ký chiếm
một tỉ lệ r t khiêm tốn nhưng là vị trí không thể thay thế trong. Mỗi
tác phẩm hồi ký là một phong cách, một giọng điệu độc đáo và có
những nét đặc sắc riêng, để lại d u n trong lòng người đọc. ự đóng
góp của nhiều thế hệ nhà văn đã làm nên diện mạo đa dạng và sự
phát triển nội tại của bản thân hồi ký như một thế loại độc lập.
12
Chư ng 3
CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC VÀ CÁC DẠNG CHÂN DUNG
NHÂN VẬT CỦA HỒI KÝ VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ 1975 ĐẾN 2010
3.1. Cảm quan về hiện thực
3.1.1. Hiện thực đ i sống hội qua những bi n thiên ch s
Hồi ký văn học Việt Nam, bên cạnh việc phản ánh bức tranh
muôn màu của cuộc sống thì hiện thực đ t nước, dân tộc qua chiều
dài thế kỷ, đặc biệt qua hai cuộc chiến tranh cứu quốc vĩ đại được tái
hiện rõ nét.
Những nét chấm phá về hiện thực đời sống trước Cách mạng
tháng Tám. Đối với thế hệ nhà văn tiền chiến, đã từng sống và sáng
tác trong những năm tháng trước cách mạng, ký ức về những tháng
ngày gian khổ v n ám ảnh. D u thuộc khuynh hướng lãng mạn (Anh
Thơ, Huy Cận), hiện thực (Tô Hoài) hay trữ tình chính trị (Tố
Hữu)… thì trong hồi ký của thế hệ nhà văn này đều in đậm hiện thực
một thời. Từ điểm nhìn hiện tại, lùi về một thời kì lịch sử đã xa, các
nhà văn viết hồi ký gặp g nhau ở điểm chung là thiên về tái hiện
những tháng ngày gian khổ của nhân dân trước Cách mạng. Từ
những thông tin cụ thể, những trang hồi ký không dừng lại ở những
con số thống kê, những sự kiện khô khan mà là những “thông tin về
sự thực của các giá trị nhân sinh”, là những trang đời, trang văn giàu
tính thẩm mỹ và đậm giá trị nhân bản.
Những mảng màu đa dạng về hiện thực đời sống sau Cách mạng
tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Trong hồi ký hiện thực đời
sống xã hội, những bước ngoặt lịch sử không diễn ra theo thứ tự thời
gian biên niên. Qua con đường ký ức, những sự kiện d u chắp vá, lắp
ghép theo quy luật trí nhớ v n đủ độ xác thực. Cách mạng tháng Tám
bùng nổ. Cả nước trong không khí hồ hởi, ph n khởi trước vận hội
mới, dân tộc được giải phóng. Niềm vui trước vận hội mới trở thành
miền nhớ trong nhiều hồi ký và được tái hiện sinh động. Qua cái tôi
hồi ức, qua chỗ đứng, vị trí của nhà văn trong đời sống kháng chiến
toàn dân, bức tranh kháng chiến hiện ra với những mảng riêng.
Hiện thực đa chiều về cuộc sống mới ở miền Bắc và kháng
chiến chống Mỹ. au 1954, niềm vui hòa bình không trọn vẹn. Bắc
13
Nam chia cắt. Miền Bắc đi vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cuộc đ u tranh thống nh t đ t nước, kháng chiến chống Mỹ. Đây
là những v n đề lớn của đ t nước gợi cảm hứng nghệ thuật và trở
thành đề tài chính cho các thể loại văn học giai đoạn này. Các tác giả
hồi ký cũng đề cập những v n đề trọng đại của đ t nước qua độ khúc
xạ của thời gian và cảm xúc.
Hiện thực ngổn ngang bề bộn thời hậu chiến và đổi mới. Hiện
thực đời sống những năm sau chiến tranh khơi gợi cảm hứng sáng tạo
của nhà văn. Trong hồi ký, “cái hôm nay” không xu t hiện đồng thời
trên những trang văn, khác với “hiện tại chưa hoàn kết của tiểu
thuyết”, thời gian trong hồi ký là thời gian quá khứ, nhưng d u qua
độ lùi thời gian, độ lắng sâu của cảm xúc, hiện thực ngổn ngang đó
v n tươi ròng sự sống. D u n những sự kiện chính diễn ra trên toàn
đ t nước, độ giao thoa giữa cũ và mới trong đời sống xã hội, những
đột biến lớn lao trong đời sống tinh th n của từng cá nhân; sự lựa
chọn của người trí thức trước sự chuyển đổi lịch sử… T t cả những
v n đề lớn của cuộc sống sau chiến tranh và đổ mới đều được thể
hiện trong hồi ký.
3.1.2. Hiện thực đ i ngư i qua những bước thăng trầm
Đáp ứng nhu c u đổi mới của văn học, cũng như bao thể loại
văn học khác, từ sau 1975 các nhà văn viết hồi ký hướng ngòi bút
vào cảm hứng thế sự đời tư. Cũng chính cảm hứng này đã tạo sức
mạnh trong việc bộc lộ cảm quan về số phận cá nhân của thể hồi ký.
Điểm chung của phần lớn các hồi ký là đều đề cập số phận con
người trong những thời đoạn khốc liệt nhất của lịch sử. Bằng vài nét
phác họa nhưng đ y n tượng, Tô Hoài dừng lại lâu hơn ở số phận của
những người nông dân trong những cơn biến thiên lịch sử. Ma Văn
Kháng đặc biệt quan tâm đến số phận của người trí thức. Năm tháng
nhọc nhằn năm tháng nhớ thương là những trang tự bạch, trong đó nhà
văn cúi xuống lòng mình để nói lên những số phận trí thức trong một
xã hội “bề bộn, ngổn ngang. Phan Tứ quan tâm đến số phận của những
người dân miền cao trong những năm tháng chiến tranh.
Nhiều hồi ký đặt trọng tâm ở sự trăn trở “nhận đường”, “lên
đường” của văn nghệ sĩ. Với tư cách là người trong cuộc viết lại đời
mình, những sự kiện các tác giả hồi ký văn học từ 1975 đến 2010
quan tâm nh t là sự trăn trở, “nhận đường”, “lên đường” của các văn
14
nghệ sĩ, đặc biệt là thế hệ nhà văn từng sáng tác trước 1945. Những
trăn trở này đã trở thành cảm hứng trong sáng tác, đồng thời cũng là
thước đo giá trị của sự nghiệp văn học của mỗi tác giả trong dòng
chảy lịch sử. Các tác giả tập trung luận giải những cơn “chuyển dạ”
trong hành trình sáng tác: l y hiện thực cuộc sống đương thời làm
nguồn cảm hứng sáng tác. Nó đã trở thành tuyên ngôn nghệ thuật của
một thế hệ văn nghệ sĩ đương thời, quan niệm văn nghệ và thái độ
của người nghệ sĩ đối với thời cuộc.
Hồi ký văn học từ sau 1975 đề cập nhiều về những hiện tượng
văn học không thuận chiều, gắn liền với nó là những số phận “không
đồng hành”. Trong hồi ký văn học từ 1975 đến 2010 của các nhà văn
đã đề cập r t nhiều về hiện tượng văn học không thuận chiều, những
“vụ án” văn chương, d n đến những số phận lạc thời. Một trong
những “vụ án” văn chương gây ch n động bao thế hệ là Nhân văn-
Giai phẩm. Những tác giả viết hồi ký ít nhiều đều là người trong
cuộc, muốn hay không muốn, dư ch n Nhân văn- Giai phẩm v n còn
ám ảnh (Mất để mà còn, Nhớ lại, Một thời để mất, Chiều chiều...).
Từ đặc trưng thể loại-hồi ký mang tính chủ quan, hiện thực
trong hồi ký văn học do tác giả là người trực tiếp tham gia hoặc
chứng kiến, nhớ lại, cho nên những sự kiện dù có tính phổ quát v n
đậm màu sắc cá nhân. Hiện thực trong hồi ký văn học đều gắn liền
với một không gian, sự kiện, con người... r t cụ thể. Hiện thực nhớ
lại, tái dựng trong hồi ký là hiện thực khúc xạ qua cảm xúc tâm trạng,
đúc kết những trải nghiệm của người viết hơn là tạo lập một văn bản
có tính hư c u, hoặc đơn thu n ghi chép những sự kiện. Cảm quan về
hiện thực trong hồi ký văn học vừa có tính chân xác theo lối điểm,
vừa có bề sâu, mang đậm nhân cách văn hóa của người c m bút.
3.2. C c dạng chân dung nhân vật
3.2.1. hân dung tự họa – Chủ thể hồi k văn học
Những cuốn hồi ký “là nơi tự thú mà tác giả không có ý gi u
mình dưới bóng dáng của nhân vật hư c u”. Viết về đời mình, chân
dung tự họa của nhà văn được đặt trong nhiều mối quan hệ đa chiều.
Đa ph n những nhà văn viết hồi ký đều hồi ức về tuổi thơ và
các mối quan hệ gia đình. Theo Freud, tuổi u thời đã ảnh hưởng,
để lại d u n trong suốt hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Qua
những trang hồi ký, từ trường nhìn liên văn bản, người đọc hiểu
15
thêm chân dung tính cách mỗi nhà văn (Tố Hữu, Tô Hoài, Anh Thơ,
Huy Cận...).
Điểm nh n của các hồi ký văn học là các nhà văn đều viết về
hoạt động nghề nghiệp của chính mình. Chân dung tự họa của chủ
thể hồi ký trong mối quan hệ với nghề nghiệp thể hiện được những
phẩm ch t cao đẹp của người nghệ sĩ. Cái tôi hồi ức trong hồi ký
thường là cái tôi tự ý thức, tỉnh táo nhìn lại sáng tác cũng như con
người mình (Tô Hoài, Lưu Trọng Lư, Quách T n, Đào Xuân Quý,
Ma Văn Kháng...).
3.2.2. hân dung được họa – Nhân vật trong hồi k văn học
Nhân vật trong hồi ký văn học đa dạng, đ y đủ mọi hạng
người, có nhiều mối quan hệ đậm nhạt với chủ thể viết hồi ký. Tuy
vậy, trong h u hết các hồi ký văn học, n tượng đậm nh t chính là
chân dung các văn nghệ sĩ, trong nhiều mối quan hệ và có cả cái tốt
l n cái x u, của cá nhân và tập thể, cộng đồng.
Điểm gặp g của các tác giả viết hồi ký là đều kể về những nhà
văn có cá tính, có sự nghiệp văn chương đồ sộ và cuộc đời lắm nỗi
thăng tr m. Huy Cận khắc họa chân dung nhà thơ Xuân Diệu (Hồi ký
Song Đôi). Tô Hoài dựng chân dung Nguyễn Tuân đậm nét bên cạnh
những nhà thơ/nhà văn khác như Nguyên Hồng, Xuân Diệu (Cát bụi
chân ai). Anh Thơ dựng chân dung Nguyễn Bính bên cạnh nhiều văn
nghệ sĩ cùng thời (Hồi ký Anh Thơ)…. Trong nhiều trang hồi ký,
không nổi lên như một nhân vật trung tâm, qua những hồi đoạn đứt
nối, lắp ghép, với những mảng màu tươi sáng hoặc xảm tối, l n lượt
chân dung các nhà văn hiện ra toàn vẹn.
Tiểu k t
Hiện thực đời sống và các dạng chân dung nhân vật - chân
dung tự họa của người viết hồi ký; cũng như các nhà văn, nhà thơ lớn
được khắc họa từ điểm nhìn của người viết hồi ký thật sinh động,
chân thật đến b t ngờ. Những góc khu t, những sinh hoạt bếp núc
văn chương đều được lột tả - đây chính là điều mà các thể loại khác
khó làm được, kể cả thể tài chân dung văn học r t phổ biến những
năm đ u thế kỉ XXI. Những trang hồi ký đã cho người đọc có cơ hội
được kiểm chứng lại hiện thực, lịch sử đ t nước mà trong đó những
con người một thời đã sống, đã viết...
16
Chư ng 4
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT CỦA HỒI KÝ VĂN HỌC
VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN 2010
4.1. Trần thuật từ ngôi t c giả và tổ chức điểm nhìn
4.1.1. Sự chu ển hóa hình tượng tác giả vào ngư i kể chu ện
Ở hồi ký, tác giả vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người kể
chuyện. Hình tượng tác giả đồng nh t với con người tác giả, với chủ
thể sáng tạo, thể hiện trực tiếp trong văn bản nghệ thuật.
Theo quy ước của thể loại, tr n thuật từ ngôi tác giả, đa ph n
các hồi ký đều kể chuyện từ ngôi thứ nh t- một cái tôi thông suốt, kể
về mình, kể về những người có mối quan hệ với mình, kể về những
hiện tượng gây n tượng sâu đậm trong hồi ức. Hồi ký có sự đồng
nh t giữa cái tôi hư c u và cái tôi của tác giả. Hồi ký của Huy Cận có
sự trùng khít giữa tác giả- chủ thể tr n thuật- người kể chuyện. Hồi
ký của Phan Tứ, người kể chuyện- chủ thể hồi ức- tôi giữ quyền kể
chuyện từ đ u đến cuối. Còn hồi ký của Lưu Trọng Lư được triển
khai trên điểm nhìn người kể chuyện xưng tôi.
4.1.2. Sự uân chu ển điểm nhìn
Trong nhiều văn bản hồi ký, những sự kiện trong quá khứ,
chân dung tự họa, chân dung được họa tái dựng từ điểm nhìn của
điểm nhìn chủ quan nhà văn- người viết hồi ký. Tuy vậy, để tạo tính
khách quan cho câu chuyện quá khứ, vả lại tôi không phải là đ ng
toàn năng, trong mạch tr n thuật, các tác giả luôn chuyển điểm
nhìn; hoặc trao quyền cho nhân vật khác kể chuyện; hoặc mờ hóa
điểm nhìn chủ quan. Điều này th y ở hồi ký của Huy Cận, Phan Tứ,
Tô Hoài,...
ự luân chuyển điểm nhìn tr n thuật khiến câu chuyện quá khứ
không đơn điệu, hiện thực đời sống, chân dung nhân vật trở nên sinh
động. Trong Hồi Ký Song Đôi, Huy Cận trượt điểm nhìn thời gian,
đưa câu chuyện kể về thời điểm hiện tại. Cuốn hồi ký chủ yếu kể về
tình bạn giữa Huy Cận và Xuân Diệu, vì vậy những đoạn hồi ức về
nhà thơ, người kể chuyện chuyển điểm nhìn, để Xuân Diệu tự kể về
mình. Từ cách thức đó, người kể chuyện số 1 trao quyền kể chủ thể
hồi ức thứ 2, xưng tôi, kể về mình. Liên tục đổi vai người kể chuyện,
chuyển đổi điểm nhìn, những trang hồi ký không đơn thu n tái hiện
17
quá khứ lép, một chiều mà sinh động, đa dạng. Các sự kiện, con
người trong hồi ký vừa được nhìn đa chiều, đa góc độ nhưng vừa
đảm bảo tính khách quan thông qua điểm nhìn hiện tại của người kể.
4.2. Đa dạng hóa k t cấu trần thuật
4.2.1. K t cấu tu n tính
Nhìn bề mặt văn bản đa ph n hồi ký văn học từ 1975 đến 2010
v n sắp xếp các sự kiện theo trật tự thời gian tuyến tính kiểu truyền
thống. Tuy vậy, trong hồi ký, mạch tr n thuật, c u trúc văn bản chịu
sự chi phối bởi cơ chế hồi ức, vì vậy dòng hồi tưởng có lúc phá v
thứ tự thời gian. Cũng có những trường hợp c u trúc văn bản đảo
ngược, tuân thủ theo logic hồi ức, trí nhớ của người kể chuyện.
Cũng tái dựng lại quá khứ xuôi theo chiều như mạch thời gian
chảy trôi tuyến tính nhưng hồi ký của Anh Thơ, Hoàng Minh Châu
mở đ u là điểm đ u mút của quá khứ, kết thúc là hiện tại với bao
phồn tạp, đa đoan của cuộc đời. Hồi ký của Tô Hoài mở đ u và kết
thúc theo kiểu tương ứng, vòng tròn. Dạng kết c u này tỏ ra hữu
dụng để nhà văn vừa xoay quanh nhân vật trung tâm, vừa dung chứa
trong cái vòng tròn y bao thời đoạn, cảnh đời, số phận con người.
4.2.2. K t cấu ắp ghép
Với cách tổ chức tr n thuật này, nhiều mảnh ghép sự kiện,
mảnh đoạn đời người đan xen không theo logic, tưởng như mạch kể
có v lan man, rối rắm, tùy tiện nhưng thực ch t người kể chuyện r t
chủ động xâu chuỗi nối kết các yếu tố trong câu chuyện tạo thành
mạch liên kết văn bản.
Trên bề mặt văn bản, các chương đoạn như bị cắt rời, mạch kể
nhớ đâu kể đó, đậm nhạt khác nhau nhưng trong mạch ng m văn bản
v n có độ kết dính. Việc lắp ghép sự kiện g n xa, quá khứ hiện tại
khiến câu chuyện quá khứ dung chứa nhiều mẩu chuyện, nhiều mảnh
đời, nhiều thăng tr m lịch sử. Kết c u này đã tạo được sự linh hoạt
trong di chuyển không gian, sự kiện và điểm nhìn làm cho mạch kể
trở nên linh hoạt, h p d n.
4.2.3. K t cấu iên văn bản
ự dung hợp thể loại, độ nhòe mờ giữa đường biên thể loại;
những yếu tố ngoài cốt truyện lồng vào truyện kể tạo nên hình thức
liên văn bản hay văn bản trong văn bản hồi ký. Chính hình thức này
18
làm cho lối tr n thuật sinh động, h p d n, vừa là khả năng để người
viết chuyển tải những thông tin theo dòng hồi ức.
Hình thức liên văn bản trong hồi ký sau 1975 khá đa dạng.
Những yếu tố ngoài văn bản như lời mở đ u, lời bạt, chú thích, thông
báo… như một thủ pháp tr n thuật để tái hiện dòng hồi ức, đồng thời
tạo cảm giác về độ chân xác của câu chuyện kể.
Trong c u trúc văn bản, các tác giả hồi ký đã trích đoạn các
dạng thức văn bản khác như nhật ký, thư từ, những bài thơ, hoặc tiểu
luận. Một số hồi ký đan lồng vào dòng hồi ức bằng những bức ảnh,
thủ bút của chính mình hay của những người có uy tín liên quan đến
câu chuyện kể. Thư trong hồi ký cũng là hình thức phổ biến. Về nghệ
thuật tr n thuật, hình thức bức thư là một cách di chuyển điểm nhìn,
khiến cho câu chuyện kể đ đơn điệu, điểm nhìn của người kể cũng
như nhân vật được khắc họa trở nên đa chiều và h p d n. Một thể
loại chiếm ưu thế trong những trang hồi ký là nhật ký. Đưa nhật ký
vào hồi ký khiến những trang hồi ức trở nên tươi mới, độ xác thực
của sự kiện càng cao, những v n đề gan ruột nh t, riêng tư nh t được
bày ra làm cho những v n đề một thời được lý giải ở t ng sâu nh t
của nó. Thơ trong hồi ký là hình thức đặc biệt, được các nhà văn sử
dụng phổ biến trong mạch tự sự làm cho hồi ký trở nên trữ tình, tạo
nên ch t thơ cho những trang ghi chép và mạch ng m văn bản từ đó
được mở ra gắn với những cảm hứng của người kể.
4.3. Sự đa dạng của ngôn ngữ trần thuật
4.3.1. Ngôn ngữ ngư i kể chu ện
Với đặc thù của thể hồi ký, kể lại những biến cố xảy ra trong
quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến, do vậy, ngôn
ngữ kể trong hồi ký là thành ph n r t quan trọng. Tuy nhiên, do nhu
c u bộc lộ cảm xúc cũng như ý thức của nhà văn trong quá trình kể
cốt sao làm cho trang hồi ký của mình trở nên h p d n; để từ chuyện
của một người nói chuyện của nhiều người, chuyện cá nhân nhưng là
chuyện xã hội, người viết phải đắp da, đắp thịt cho cái khung sự việc
của mình bằng ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm xúc. ự kết hợp này
vừa tạo được trường nhìn về hiện thực cuộc sống và con người của
người viết hồi ký, vừa làm tăng thêm nét sinh động và mỹ cảm cho
trang hồi ký của mình.
19
Là thể loại người viết trực tiếp kể lại câu chuyện quá khứ, nên
ngôn ngữ trong hồi ký thường mạng đậm ch t chủ thể, thể hiện
phong cách, cá tính của tác giả. Khi ý thức về cá nhân phát triển thì
nhà văn càng cố gắng tạo dựng d u n ngôn ngữ riêng. Ch t hài
hước, suy ng m hay nên thơ trữ tình, sự trau chuốt bóng bẩy hay ch t
mộc mạc, cái khôn ngoan minh m n hay đáo để của người viết đều
bộc lộ sắc nét qua lời bình trong tác phẩm. Ch t trữ tình đậm nét
trong ngôn ngữ của Lưu Trọng Lư, Anh Thơ. ắc thái ngôn từ của Tô
Hoài thật đa dạng, lúc thì thật trữ tình sâu lắng, thoắt cái trở nên sắc
cạnh, gân guốc và đôi khi lạnh lùng, tàn nh n trong từng từ ngữ. Đào
Xuân Quý, Hoàng Minh Châu, Tố Hữu, Huy Cận lựa chọn một ngữ
vựng chính xác và cú pháp linh hoạt đã tạo nên lối viết có chiều sâu.
Lớp ngôn ngữ trong hồi ký Phan Tứ giản dị nhưng linh hoạt, h p d n.
Ngôn ngữ của Ma Văn Kháng vừa chân phương, tự nhiên trong lời
kể, vừa r t tinh tế, sống động trong những hình ảnh miêu tả.
4.3.2. Ngôn ngữ nhân vật cá tính hóa, đậm chất đ i thư ng
Với lối tr n thuật hồi ức, trong hồi ký chủ yếu là ngôn ngữ
người kể chuyện, ít ngôn ngữ nhân vật. Chân dung nhân vật hiện ra
chủ yếu qua lời kể, lời tả, lời bình của người kể chuyện. Tuy vậy, linh
hoạt trong cách kể, nhiều hồi ký văn học sau 1975 sử dụng đối thoại
như một yếu tố hình thành câu chuyện kể. Lời thoại nhân vật được cá
thể hóa, góp ph n lớn trong việc khắc họa chân dung người thật việc
thật. Tổ chức đối thoại giữa các nhân vật, các tác giả hồi ký gặp g
nhau ở việc sử dụng hệ ngôn từ đậm ch t sống, ch t đời thường để
tạo dựng một quá khứ g n gũi, chân thật, một hiện thực cuộc sống
đúng như chính nó với t t cả v thô mộc, xù xì. Hệ ngôn ngữ này
được tạo ra bởi ch t liệu ngôn từ đặc sắc: các lớp từ, hình ảnh, cách
diễn đạt mang màu sắc địa phương, phong tục, khẩu văn,… Lối sử
dụng ngôn từ này để tạo cái tươi nguyên cho quá khứ, gây hiệu ứng
nhận thức, thẩm mỹ cao; sử dụng ngôn từ giàu thông tin, cách miêu
tả, phân tích tỉ mỉ, sống động làm cho lối tr n thuật mang nét sắc thái
riêng của người kể ở trang hồi ký của nhà văn.
Nhiều tác giả hồi ký còn gán vào lời thoại của nhân vật những
từ ngữ thô tục, hoặc sử dụng thành ngữ, quán ngữ lồng trong ngôn
ngữ nhân vật nhằm bàn về nhân tình thế thái; hoặc thể hiện ý đồ tái
hiện hiện thực; tô đậm tính cách của một con người, hay đánh giá về
một hiện tượng trong thời cuộc đã qua một cách n tượng nh t.
20
4.4. Giọng điệu trần thuật
4.4.1. Giọng tri t , su tư
Hồi ký luôn là nơi người viết thành thực với chính mình; nơi
người viết muốn chia s , tâm tình, bộc bạch sau cả chặng đường đời
trải nghiệm với bao thăng tr m, đa đoan của kiếp người; những va
đập trong cuộc đời riêng tư, những trăn trở về nghề, những số phận
truân chuyên liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến tác giả hồi ký.
Đặc điểm đó chi phối cách tổ chức văn bản hồi ký, đặc biệt là giọng
điệu. Với đặc thù của thể hồi ký- kể về quá khứ từ điểm nhìn hiện tại
đa chiều, giọng điệu hồi ký sau 1975 là giọng triết lý, chiêm nghiệm.
Ngay từ các nhan đề tác phẩm hồi ký đã là những tín hiệu thẩm
mỹ giàu ch t triết lý về đời người (Nửa đêm sực tỉnh, Cát bụi chân
ai, Chiều chiều, Mất để mà còn..). Xuyên suốt các tập hồi ký là
những triết lý, chiêm nghiệm của người kể chuyện về những sự kiện,
biến cố đã xảy ra trong cuộc đời mình; hoặc liên quan đến những
người chung quanh mà mình đã chứng kiến. Ng m suy, chiêm
nghiệm về mình, về người, về đời, giọng triết lý trong hồi ký nhiều
sắc thái.
4.4.2. Giọng trữ tình, hoài niệm
Một trong những yếu tố làm nên tính thẩm mỹ của các thiên
hồi ký sau 1975 là đa thanh, đa giọng. Trong đó, ch t giọng trữ tình
(đan xen với giọng chính luận của ký) là một bình diện thẩm mỹ tạo
sức cuốn hút cho những câu chuyện được kể lại từ hồi ức. Giọng điệu
trữ tình là dây truyền cảm giữa chủ thể viết hồi ký- người kể chuyện
và đối tượng thẩm mĩ- hiện thực và con người. Hồi ức về làng quê,
gia đình, những số phận con người, đời văn, những v p váp nghề
nghiệp…qua ngôn ngữ, giọng điệu trữ tình trở nên tươi mới, gợi cảm.
Người viết hồi ký- chứng nhân của những câu chuyện quá khứ,
khi kể thường bộc lộ cảm xúc. Do đặc trưng thể loại, cảm thức hoài
vãng đã chi phối giọng điệu tr n thuật của hồi ký, làm nên ch t giọng
trữ tình, hoài niệm ở nhiều tác phẩm. Giọng trữ tình là ch t men say
tô đậm thêm sức h p d n của Hồi ký Anh Thơ. Giọng chủ đạo trong
hồi ký của Huy Cận là giọng tâm tình sâu lắng của một nhà văn sống
trong hoài niệm, nhìn về những ngày tháng đã xa bằng cái nhìn của
người trong cuộc. Hồi ký của Huy Cận thuộc dạng “hồi ký trữ tình”.
Cát bụi chân ai là thiên hồi ký đa giọng điệu, trong đó giọng trữ tình
21
cảm thương khá đậm nét. Hồi ức về những số phận văn chương,
những chân dung nhà văn lạc thời, giọng trùm trên nhiều trang hồi ký
của Tô Hoài là trữ tình sâu lắng. Giọng trữ tình còn thể hiện qua
những lời tả xu t hiện với t n số lớn trong hồi ký Bùi Ngọc T n,
Phan Tứ…
4.4.3. Giọng dí dỏm, hài hước
Theo Pospelov, trong Dẫn luận nghiên cứu văn học, “Thiên
hướng khám phá ch t hài trong đời sống và tái tạo nó trong tác phẩm,
không chỉ là do những đặc điểm tài năng bẩm sinh của nhiều nhà văn
mà còn do những đặc điểm thế giới quan làm cho họ tập trung chú ý
vào sự không phù hợp giữa kỳ vọng và khả năng thực tế của những
con người thuộc một giai t ng xã hội nh t định”. Tác giả hồi ký là
những nhà văn dày tuổi đời, tuổi nghề, hành trình sáng tác nhiều
thăng tr m qua những chặng đường lịch sử. Nhìn lại những “năm
tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương”, các nhà văn gặp g nhau ở
một điểm chung là chọn tiếng cười hài hước nhẹ nhàng để lý giải độ
vênh lệch giữa tác phẩm của mình/của đồng nghiệp với t m đón đợi
của thời đại. Giọng dí dỏm, hài hước trở thành một giọng chủ đạo ở
thể loại “ôn cố tri tân” này.
“Ch t hài hước chân chính bao giờ cũng xu t phát từ sự suy tư
triết lí, khái quát hóa về những thiếu sót của cuộc đời”. Giọng hài
hước còn nhằm hướng vào chính mình. Từ sau 1975, với nhu c u tự
nhận thức, dạng hồi ký tự trào trở nên phổ biến. Dưới một hệ thẩm
mỹ mới, tiếng cười- một phạm trù thẩm mỹ, được lựa chọn như một
cách thức nói rõ, nói thật những v n đề quá khứ, trong đó có chủ thể
hồi ký khi dựng chân dung tự họa hoặc chân dung được họa.
Tiểu k t
Nghiên cứu hồi ký văn học từ 1975 đến 2010, chúng ta nhận ra
sự đa dạng của giọng điệu, ngôn từ, kết c u tr n thuật. Ngôn ngữ hồi
ký không còn đóng khung trong nhiệm vụ ghi chép, thuật kể mà là
thứ ngôn ngữ đa thanh, nhiều âm hưởng. Người kể chuyện trong hồi
ký không đơn thu n thuật chuyện từ một điểm nhìn mà luôn có sự
luân phiên thay đổi điểm nhìn tr n thuật. Trong hồi ký từ 1975 đến
2010 đã có mặt kỹ thuật hiện đại trong dựng cảnh, dựng người, tái
hiện hiện thực đã qua. Những tác phẩm hồi ký văn học sau 1975 đến
2010 trở thành những tác phẩm nghệ thuật thực thụ.
22
KẾT LUẬN
1. Hồi ký nói chung và hồi ký văn học nói riêng là thể loại ra
đời, phát triển r t muộn trong đời sống thể loại văn học Việt Nam.
Nhìn từ quá trình vận động nội tại của văn học, đây là sự tìm tòi thể
loại có khả năng thích ứng với tâm thế nhà văn, với nhu c u được
giãi bày và khuynh hướng tự v n đang ngày càng phổ biến trong văn
học nước ta. ự phát triển của thể hồi ký cũng chứng tỏ kinh nghiệm
cá nhân đang trở nên có giá trị hơn và hồi ký chính là một cách nhìn
trực diện vào cái tôi của người viết. Với cá nhân mỗi nhà văn, bằng
hồi ức về cuộc đời mình, tác giả viết hồi ký chẳng c n phải tìm kiếm
thế giới ở đâu xa mà ở chính trên gương mặt đ y d u n thời gian của
mình. Viết hồi ký cũng là cách sòng phẳng với quá khứ bởi dù có nhớ
và quên, thật và giả, chủ quan và khách quan,… thì nhà văn cũng
không thể l n tránh được chính mình. Có lẽ đ y là lý do chủ yếu để
nhà văn thời đổi mới tìm đến thể hồi ký như tìm đến một cách tiếp
cận không chỉ với hiện thực bề mặt mà còn với hiện thực bên trong
đ y phức tạp và bí ẩn của con người.
Cũng th y rằng, trong sự vận động tự thân nội tại văn học,
những khung thể loại tự bộc lộ sự giới hạn của nó, chính vì thế, hồi
ký đã phát triển để tự nó tạo nên những đặc trưng riêng nhằm đáp
ứng quan niệm về thể loại đang được nới rộng. Không phải ng u
nhiên mà hồi ký là nơi lưu giữ những câu chuyện thật nh t, đời nh t
của văn nhân, nghệ sĩ bằng những ch t giễu nhại và giọng tự thú, tự
v n làm cho cái ch t đời, ch t người hiện lên một cách chân thật đến
“cận cảnh” và không kém ph n h p d n, lôi cuốn. Và cũng từ sự nới
rộng thể loại, nội tại văn học đã cho phép thể hồi ký viết về quá khứ -
những cái quá khứ y luôn đặt trong trạng thái động để biên độ của
thể loại hồi ký mở được tới những thể nghiệm và khám phá mới mà
người viết hồi ký tiếp cận lịch sử tự do hơn, gửi gắm được nhiều hơn
những n tượng, tâm trạng của mình từ chính sự trải nghiệm của bản
thân. Như vậy hồi ký đã đáp ứng được nhu c u về vai trò kinh
nghiệm của cá nhân tham gia đánh giá lịch sử được coi trọng hơn vai
trò kinh nghiệm tập thể.
2. Xu t phát từ nhu c u đáp ứng những đòi hỏi của con người
trong xã hội hiện đại luôn mong muốn được tiếp cận sự thật, nhận
thức quá khứ, chiêm nghiệm cuộc sống thì tự thân hồi ký đã đảm
23
trách được nhiệm vụ khai thác hiện thực ở bề rộng l n chiều sâu. Hơn
thế nữa, nhu c u người viết hồi ký không c n phải xây dựng cốt
truyện một cách công phu, nhân vật với những tình huống lôi cuốn,
h p d n. T t cả chỉ c n thành thật, sòng phẳng với quá khứ bằng
những n tượng, tâm trạng của mình cũng như những cảm nhận còn
lại sau năm tháng, những suy nghiệm được chắt lọc từ chính sự từng
trải của bản thân mình.
Thành tựu của hồi ký văn học từ 1975 đến 2010 đã tạo được
một diện mạo phong phú và đóng một vai trò quan trọng trong nền
văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những cơ sở làm nên giá trị
của hồi ký giai đoạn này là bản thân nó hướng đến “cự ly g n” của sự
thật, đáp ứng được xu hướng tiếp nhận văn học của công chúng. Và
hồi ký đã thỏa mãn được hướng tiếp nhận từ nhiều góc độ: văn hóa,
văn học, lịch sử, mỹ học...
3. Trong thực tiễn sáng tác, hồi ký văn học Việt Nam từ 1975
đến 2010 vừa phát triển trong quy luật chung của đặc trưng thể loại
nhưng v n có những xu hướng riêng trong từng giai đoạn phát triển
của mình. Mười năm đ u trước đổi mới (1975 - 1986), người viết hồi
ký tái hiện quá khứ để tri ân, với cái tôi chứng nhân phát ngôn cho
tinh th n cộng đồng chứ chưa phải là nơi bộc bạch tiếng nói của cái
tôi cá nhân đậm tính chủ quan. Từ sau đổi mới (1986 - 2010), v n
xoay quanh hai v n đề cốt lõi là cái tôi cá nhân và sự thật lịch sử
nhưng cái tôi nhân chứng trong các tác phẩm hồi ký trở về với cuộc
sống đời thường, nơi để bộc bạch tiếng nói đậm tính chủ quan, những
sự thật bị chìm l p đòi được lên tiếng... Những giá trị thuộc về cá
nhân, những sự thật về lịch sử, về con người... đã được hồi ký giai
đoạn này tìm lại và chuyển tải càng làm cho đời sống vận động của
mình vừa có tính kế thừa, vừa trở nên phong phú, bề thế trong một
diện mạo riêng.
Hồi ký văn học từ 1975 đến 2010, trong sự vận động đã khẳng
định được những bước phát triển đáng kể với những biểu hiện phong
phú về nội dung, những đổi mới đáng kể về phương thức biểu đạt.
Thành công đó khiến hồi ký không còn là tiếng nói cá nhân, tiếng nói
của ngày hôm qua, mà chuyển tải được những v n đề lớn có ý nghĩa
khái quát cho mọi thời đại. ự cách tân đáng ghi nhận trong nghệ
thuật biểu hiện và thi pháp thể loại của hồi ký văn học giai đoạn 1975
24
đến 2010 là sử dụng ngôn từ cá tính hóa, đậm ch t đời thường; đã tạo
ra sự đa giọng điệu; với các kết c u lỏng, bản ch t thể loại khó phận
định rõ ràng bởi có sự thâm nhập các thể loại khác (nhật ký, tự
truyện, tiểu thuyết tự thuật,…) vừa làm tăng thêm mỹ cảm trong tiếp
nhận, vừa chia s “cách đọc”, khơi gợi những định hướng trong việc
nhận diện, đánh giá dưới góc nhìn khách quan, khoa học và có tính
khu biệt về thể hồi ký.
4. Những giá trị đạt được ở phương diện nội dung và nghệ
thuật, hồi ký văn học từ 1975 đến 2010 đã khẳng định một trí quan
trọng của thể loại trong nền văn học nước nhà. ong, v n còn một
số tác giả, tác phẩm quá chú trọng đến sự liệt kê những tư liệu, nặng
“ghi chép”; yếu tố thẩm mỹ, cái tôi tác giả mờ nhạt làm cho độ
“nặng” của những trang hồi ký chưa thỏa mãn được nội lực thể loại
và nhu c u của người đọc. Trong một số hồi ký ngoài những thành
công cũng không tránh khỏi những hạn chế, do tính chủ quan của
hồi ký. Tự kể lại chuyện đời, cái tôi hồi ức trong quá trình đối diện
với chính mình nhưng v n chưa “thành thật”, có thiên hướng “tự
mê”, hoặc tinh th n “sám hối” quá cường điệu. Những “lỗi” này
thuộc về cá nhân chứ không thuộc về đặc trưng của thể hồi ký. Do
đó, khi tiếp nhận tác phẩm hồi ký cũng c n trang bị những hiểu biết
về thể hồi ký để có tâm thế thẩm định và công tâm đón nhận sao
cho thỏa mãn về một tác phẩm hồi ký trong chỉnh thể đặc trưng thể
loại này: vừa “chỉn chu” theo cái “khung” truyền thống vừa phóng
khoáng, năng động trong hành trình phát triển của nó để làm sao
mỗi tác phẩm hồi ký là một viên gạch làm nên diện mạo thể hồi ký
nói riêng và đời sống văn học nước nhà nói chung trên hành trình
hội nhập với văn học thế giới.
HUE UNIVERSITY
COLLEGE OF SCIENCES
NGUYEN QUANG HUNG
CHARACTERISTICS OF
VIETNAMESE LITERARY MEMOIRS
FROM 1975 TO 2010
Program : Vietnamese Literature
Code : 62 22 01 21
DISSERTATION SUMMARY
VIETNAMESE LITERATURE
HUE - 2016
The dissertation is finished at: College of Sciences, Hue University
Supervisor: Le Thi Huong, PhD
Nguyen Dinh Vinh, PhD
Reviewer 1: …………………………………………………………..
Reviewer 2: …………………………………………………………..
Reviewer 3: …………………………………………………………..
The dissertation is defensed at Hue University Graduate Council at:
...............................................................................................................
...............................................................................................................
At .........………time …......... date……… month …….. year ……….
The dissertation is archived at the library ……………………………
PUBLICATIONS
1. “Characteristics of Vietnamese literary memoirs from 1975 to
2010”, 2006, Journal of Arts and Culture (Ministry of Information
and Culture), no. 4, p. 78-80 and 91.
2. “Portrait of writers in literary memoirs”, 2010, Non Nước Journal
(Da Nang City) no. 155, p. 66 - 68.
3. “Self-portrait in memoirs as viewed from genre features”, 2016,
Literature Journal, no. 2, p. 122-.129.
4. “Multitone of Vietnamese literary memoirs after 1975”, 2016,
Journal of Sciences, Hue University, no. 1, p. 91-99.
5. "The perception of reality and humanity in Vietnamese literary
memoirs after 1975", 2016, Journal of Sciences, Saigon University
(Attach the Confirmation to publish).
1
INTRODUCTION
1. Topic choice reason
1.1. From 1975 onwards, Vietnamese literature has been rejuvenated
under various terms. One of the important facets conforming to the
diversity in literature at this stage is the renovation and
transformation in genre. At previous stages, as seen from each
literature community’s perspective, there are genres considered the
backbone, while others are on the periphery/peripheral literature.
After Doi Moi policy (especially 1986 onwards), in the shift of
artistic thinking, the “genre view” is also subjected to changes. In
each genre’s self-movement, the genre equity is gradually
highlightened in receving perception and awareness of literature
community. According to Bakhtin, in literature life, genres are
placed in equal relationship in regard to their values, but each genre
is the demonstration of “an artistic attitude toward reality, a way of
sensing, viewing, regarding and explicating the world and human
being”. Memoir is one of special genres of Vietnamese literature
process.
1.2. After 1975, notably after Doi Moi, in reception of revitalized
theories of global literature, as an essential trend, memoir bears
various modern factors. Post-1975 works of memoir endow with
conducive and multifaceted information, adapting to artistic
sensation expected by modern audience. The magnet of memoirs is
exposed within theirs arts aesthetics; abundant and lavish content;
stemming from invigorating demonstration, from the compassion
and responsibility for human being and profession felt by writers.
1.3. As for genre category, memoir is a narrative one. However, it
has not been adequately interested in its role and position; it has not
been researched thoroughly and comprehensively in terms of genre
characteristic.
For above-mentioned reasons, we choose to study Memoir
characteristics of 1975-2010 Vietnamese literature to ascertain rules
of movement, development steps in the demonstration of content and
artsin memoir, affirming memoir’s accomplishments in addition to
modern Vietnamese literary improvement.
2
2. Research target and scope
2.1. Research target
The dissertation’s research target is memoir characteristics of
1975-2010 Vietnamese literature.
Works of literary memoir published in Vietnam from 1975 to
2010 are in survey ranges of the dissertation. However, the
dissertation focuses on memoirs written by influential writers, poets
who published high-profile works in terms of literature and arts.
On those criteria, the dissertation’s survey target is memoir
volumes classified as:
Memoirs written by writers with pre-1945 published works: In
reminiscence of an age (To Huu); Awaken at midnight (Luu Trong
Lu); Dream Mountain-Lake Mirror (Mong Tuyet); Anh Tho Memoir
(Anh Tho); Sandunder some feet, Late afternoon (To Hoai); Quach
Tan Memoir (Quach Tan); Song Doi Memoir (Huy Can).
Memoirs written by writers with post-1945 published works:
Recall (Dao Xuan Quy); To lose to remain (Hoang Minh Chau);
Hard months, hard years and memories (Ma Van Khang); An age to
lose (Bui Ngoc Tan); In mountain rain (Phan Tu); …
2.2 . Research scope
The dissertation’s research scope ranges from the genre’s
aesthetic properties to narrowing down 1975-2010 literary memoir
characteristics in some terms: memoir overview – main trends; main
features of content; memoir character and narrative art.
3. Theoretical foundation and research methodologies
3.1. Theoretical foundation
The dissertation adopts definitions of prosody, autobiographical
study to analyze the approach and exploitation into reality; a look at
human being; the conduct of narrative point of view, … of memoir.
Besides, the dissertation applied the genre theory to localize memoir
properties against other genres/subgenres.
3.2. Research methodologies
- Typological method
3
- Structural-Systematical method
- Comparative-Collating method
- Statistictical-Classifying method
4. The dissertation’s contribution
4.1. Systemizing related theories of memoir, the dissertation sets
forth explications of factual research to generalize various
definitions characterized by literary memoir.
4.2. This is a systematic study of memoir to revive lineaments, to
depict the movement and development of memoir, especially literary
memoir in Vietnam from 1975 to 2010; on that basis, the dissertation
focuses on theoretical issues and historical literature as the genre
movement, the literary interactivity, and psychology of creativity
and reception.
4.3. To assert unique personality in revitalizing the genre, and to
affirm memoir’s role, position and value in national literature in
general and post-1975 literature in particular.
5. The dissertation’s structure
Apart from the Introduction, Conclusions and References, the
main content includes 4 chapters:
Chapter1: Research overview.
Chapter 2: Lineaments of memoir in modern Vietnamese
literature.
Chapter 3: Perceptions of reality and portrait types of
memoir’s characters in 1975-2010 Vietnamese literature.
Chapter 4: Narrative art of literary memoir in Vietnamese
literature from 1975 to 2010.
4
Chapter 1
RESEARCH OVERVIEW
1.1. The overview of 1975-2010 memoir research
1.1.1. Gerenal works and papers of research
As for genre theory, the interested issues of researchers and
critics is the fictionality in memoir, the relationship between the
narrator and the writer; the difference between the characters in
memoir and those in novel;…Papers by Nguyen The Hung and Lung
Ich Can, Pham Hong Giang, lay emphasis on the narrator’s character
and role in memoir. Vu Duc Phuc mentioned the fictionality in
memoir. Ha Minh Duc distinguishes the difference of ego
demonstrated in narrative genre - memoir and in novel-
autobiography.
To generalize features of 1975-2010 Vietnamese literature’s
memoir, notably Textbook of modern Vietnamese literature
published by Hanoi University of Education; and Literary theory,
chief author Ha Minh Duc.
Writer Nguyen Ngoc took notice of literary memoir, more or
less showing the result for post-1975 memoir development. Do Hai
Ninh searches the answer for the interesting phenomenon of
widespeard coverage of memoir in literary circle after 1975. Ly Hoai
Thu gave prominence to memoi’s stand, the topic diversity, and the
adaption to the cognitive demand of reality made by memoir in Doi
Moi period. Bich Thu shares an outline of post-1975 memoir’s
development in literature, in particular.
1.1.2. Research works and papers into each author and each work
There is a remarkable number of writings on To Hoai’s
memoir. Van Thanh addresses evocatively of memoir writing art by
To Hoai. Studies and treatise on Sand under some feet and Late
afternoon by Tô Hoài, shows some significant reviews on the unique
features in their content and art, drawing the whole picture of
potentiality and breadth of To Hoai’s memoir in particular and
Vietnamese literary memoir, in general. As for To Hoai, who is born
to write, Nguyen Dang Diep highlights artistic facet and novel
5
substance in To Hoai’s memoir remarking: “Possessing a not –
overstated-look is strength of To Hoai. It makes the author, no
matter under what genre he/she is writing, be able to endow the
novel substance which was mentioned by M. Bakhtin”. Writings
made by Dang Thi Hanh, Phong Le, Dang Tien, Vuong Tri Nhan,
Nguyen Van Tho, Xuan Sach and Tran Duc Tien all apperiated 2
works of To Hoai’s memoir.
Anh Tho’s memoir also appeals to researchers and critics. In
Long-lasting beauty of the hometown paiting, there are writings of
Anh Tho’s memoir by Vu Quan Phuong, Pham Tu Chau, Xuan
Cang, Tran Cu, Nguyen Van Long, Nguyen Ngoc Hien and Ly Thi
Trung … Those writings set the tone for study into Anh Tho’s
memoir in regard to genre characteristics.
Female author Mong Tuyet’s memoir–Dream Mountain-Lake
mirror Núi Mộng gương Hồ captivated the attraction of researchers
and critics.
As for Ma Van Khang’s Hard months, hard years, and
memories, there arewritings by Ho Anh Thai, Nguyen Ngoc Thien,
Bui Binh Thi, Dinh Huong Bon, Thi Thi, and research works by
Nguyen Thi Nguyen, Le Thi Kim Lien. Authors initially endow
remarks on specific values of Ma Van Khang’s memoir concerning
its content and art.
As for In reminiscence of an age of To Huu, author Mai Huong
recognizes To Huu’s unique writing style is to exhibit parallelism in
revolutionary process and poetic process. Tran Dinh Su addresses on
To Huu’s memoir: “consolidated our definition: To Huu poetry is
politic romantic poetry in which various characteristics are thoroughly
explicated only under related school of thought”.
Works of memoir by Nguyen Vy, Luu Trong Lu, Huy Can,
Dao Xuan Quy, Nguyen Ngoc Tan, Hoang Minh Chau, Phan Tu…
are interested by researchers and critics together with valuable
remarks.
1.2. Assessing research activity and direction
1.2.1. About research activity
There has not been any general work on memoir’s
linearments. The analysis and explication of conditions, trends and
6
rules of memoir’s development are still divided. Even theoretic
works or textbooks give credit to memoir only in a few pages.
Research works of memoir’s authors and writings are not
implemented in a systematical and comprehensive manner.
1.2.2. Research direction
To survey and classify works of memoir to revive their
linearments, depicting the movement and improvement of memoir,
notably Vietnamese literary memoir from1975 to 2010; at the same
time, to place memoir in a complete format to survey and benchmark
to clarify portraits of writers, and phenomena of literature, politics,
education and culture…in Vietnamese society. Accordingly, to
systemize and evaluate artistic features of literary memoir is to
define role and position of this genre in national literary life.
Sub Conclusion
In Vietnam, memoir’s emergence is later than other literary
genres but its establishment and growth set a new tone for national
literary life. Literary researchers take notice, remark about positions
of each author and work of memoir, endowing basic theoretic
grounds to study memoir’s features. However, related works are
scattered, divided and unsystematical.
7
Chapter 2
LINEARMENTS OF MODERN VIETNAMESE
LITERARY MEMOIR
2.1. About genre definition and viewpoint
2.1.1. Theory of genre definition and viewpoint
Memoir
In various dictionaries, memoir definition is unifiedly
expressed. Vietnamese Dictionary (Hoang Phe): “Memoir is literary
genre to narrate recalled experienced memories”. Nguyen Van Dam
in Dictionary of clarifying and connecting Vietnamese language,
points out that: “Memoir is the literary genre to narrate
chronologically experienced or witnessed incidents in contemporary
relationships”. According to Dictionary of literary terminologies:
“Memoir is a narrative genre which is to narrate incidents happened
in the past whereas the author is the participant or the witness”.
Accordingly, basically those explications are Chinese-Vietnamese
hieroglyph: hồi is to return, ký is to narrate witnessed incidents.
Similar terminologies and genre viewpoint
As for genre viewpoint, it is defined that memoir is a sub-
genre of narratives, is literary style. This definition is unified in most
of literary theoretic works (Lai Nguyen An in 150 literary
terminologies; the work of Literary theory (Tran Dinh Su chief
author); Literary theory (Ha Minh Duc chief author) confirm:
“Memoir narrate development of the story and character as time
passes by in reminiscence”. Some researchers when compare among
genres, depict similarities and differencies between memoir and other
narratives’ sub-genre.
Memoir and Diary, author groupin Dictionary of literary
terminologies; author group in Dictionary of Literature (new
edition); Lai Nguyen An in 150 literary terminologies.
Memoir and Autobiography, memoir and other narrative form,
in Dictionary of Literature (new edition), Do Duc Hieu distinguishes:
“Memoir can only narrate events of a historical period in which the
author is not the main character; while autobiography narrates the
8
story of the author himself/herself. Autobiography is not a collection
of memories, but displayed as a story, a novel”.
Memoir and narrative forms: Autobiography, historical prose
and scientific noel all write about the fact but the common thing is, in
some situation, it is just the “version” of the fact, but the author is not
responsible. As for memoir, in cases of fictionality, it is only the
revitalized interpretation of the fact.
2.1.2. Memoir’s features
Dictionary of literary terminologies (Le Ba Han, Tran Dinh Su,
Nguyen Khac Phi co-author), Literary theory (Ha Minh Duc),
Literary theory (Phuong Luu) all confirm:
One of the basic features of memoir is the verification of
depicted subject and the honesty of narrator; Memoir bear the
subjectivity of narrator; In terms of artistic facet, one of the most
outstanding characteristic of memoir is the narrative style in the
reminiscent stream, telling while remembering without using plot.
The author can recall past events in chronological manner. However,
in works of memoir, the memory stream can be reversing irrespective
of an objective rule, but under the affect of concsiousness-author
instead. In other words, the truth reflection in memoir abides by
separate rule of reminiscent flow.
2.1.3. Memoir classifying method
By definition, memoir can be divided into two types. Firstly,
the “traditional” one, which is to “revive incidents and people exactly
the way it happened in the past”, the narrator announces him/herself
as “I”, as the participant or the witness. Secondly, the memoir type
named under other genre owing to the author’s purpose apart from
creativity, or the memoir type hidden in another genre (in the look of
other genre, blended with other genres). This is the broadening of
border as compared with “traditional” type.
By topic/subject, memoir works can be categorized into
historical memoir, personal memoir, portrayal memoir, …
By crucial inspiration, memoir is developed in 3 main trends:
the trend of honoring inspiration, the trend of re-awareness and the
trend of self-sarcasm.
9
By genre nature, memoir is classified into two trends. The first
one is internal one, reviving reality based on experience of the
narrator him/herself. The second one is external one.
By hybrid genre, memoir has various forms: memoir-
autobiography, memoir in the form of autobiographical novel.
2.2. Development phases of modern Vietnamese literary memoir
2.2.1. Pre-1975 phase – Anticipative start-up
In the initial phase of literary category transition, the genre life
was not stable. Apart from traditional style and narration,
autobiography emerge. There were works of “record”, or the hybrid
among memoir, notes narrative and travel narrative such as: The trip
to the North in Ất Hợi year (Truong Vinh Ky), Hạn mạn travel
narrative (Nguyen Ba Trac), Ten days in Huế, One month in the
South (Pham Quynh), … Following were autobiographical works,
memoirs-authobigraphica novels such as: Phan Bội Châu yearly
agenda (Phan Boi Chau), Big dream (Tan Da),… However, there
were not any originally formed memoir (those which adhere to full
requirements of theoretic “frame” of memoir).
From 1930 to1945, in modern context, there were a lot of
changes in genre life. Modern genres gradually are defined and
developed; genre borderline, genre typical frame were not clearly
elucidated, resulting in inconformity in genre naming. This occurred
to writings to be named as notes by Nguyễn Tuân, although they are
called notes, “but actually, there was the cross-genre among
autobiography, travel narrative and miscellanea, etc”. Childhood days
(Nguyen Hong), Wild grass (To Hoai) were memories of childhood
of two influential writers in reality trend. However, the genre
classification in these two works is still controversial (to be memoir,
autobiography, or to be memoir-autobiography). Enlarging genre
borderline, Childhood days, Wild grass are works of memoir, adding
to specify the growth of memoir in the first half of the 20th century.
Especially there was the emergence of memoirs by some
revolutionary war activists, diversifying memoir’s linearments.
From 1945 to 1975, memoir’s linearments were more enriched
but they are just start-up achievements. Writers of this phase were
basically pre-war generations. Memoir’s content of this generation
10
was about literary life-human life, depicting contemporary writers’
portraits in reminiscence, or notes, and discussion about literary and
newspaper life (Vu Bang, Nguyen Vy, Nguyen Cong Hoan, Nguyen
Hong, Vu Hoang Chuong).
Most notably, there were works of memoir by generals and
revolutionary war activists. Typical ones are: Double prison break
(Tran Dang Ninh); Unforgettable months & years is the memoir by
General Vo Nguyen Giap, demonstrated by Huu Mai; Our people are
heroic by Hoang Quoc Viet (recorded by Thep Moi reporter); No
other way (Nguyen Thi Dinh) …
2.2.2. 1975-2010 phase – The heyday of memoir
After 1975, memoir substantially propagated to be an
independent genre with a separate life and look, with a collection of
various generations. Tremendous contributions were from writers of
pre-war generation, belonging to many trends. As crucrial in many
literary phases, memoir writing became essential as for this generation.
In post-1975 memoir’s general accomplishments, authors in
New Poetry Movement constituted a great number. Works of memoir
then were the illustration of childhood, hometown and family; of
historic events in bold outline, memorized by Luu Trong Lu, Nguyen
Xuan Sanh, Huy Can, Quach Tan. Especially, female poets revitalized
memoir by feminine writing, who are Mong Tuyet, Anh Tho, etc…
Among pre-war writers through literary phases, Nguyen Hong
was a successful memoir writer; after 1975, Nguyen Hong impressed
with the memoir volume of Thosecharacters lived with me with
unique memoir style. Among memoir writers, it can be assured that,
To Hoai was the starter of post-1975 memoir’s heyday. With Sand
under some feet and Late afternoon, the writer proved his talents, the
experience, the taste, and the sharpness. As a revolutionary poet, To
Huu’s poetic path fit in historic paths. Small and big events in life, in
the country are marked in the memoir of In reminiscence of an age.
Post-1945 grown writers were also successful in memoir: Dao
Xuan Quy (Recall); Hoang Minh Chau (To lose to remain); Ma Van
Khang (Hard months, hard years and memories); Bui Ngoc Tan (An
age to lose);Phan Tu (In mountain rain)…
Memoir of researchers and critics were also in diversity (Vu
Ngoc Phan, Nguyen Hien Le, Dang Anh Dao…).
11
Writing memoir is a need of activists in extraliterary areas.
Political activists are a large part of literary memoirs after 1975. Most
notably are General Vo Nguyen Giap, Tran Tien Cung, Le Hai Ly,
Hoang Van Thai, Phung The Tai, Dang Vu Hiep, Tran Van Giau and
Nguyen Thi Binh … Revolutionary memoir of this phase adds to
milestones in memoir linearments. Writers in areas of theatre, movie,
music and newspaper focus the memoir content on career upheaval,
ups and downs of personal life as well as experience to yield in
success. Writers are Tran Van Khe, Trung Son, Dang Nhat Minh,
Nguyen Van Thuong. V m t s h i k xu t hi n tr n Internet c a To
Hai, Cao Xuan Huy and Pham Duy, etc…
Those overview linearments depicted the movement and
growth of modern memoir, most notably post-1975 literary memoir.
In terms of content, literary memoir endows diverse
information of national historic ups and downs; professional activity,
even culinary and daily habits of writers. Multidimensional look at
himself/herself and at other revealed transition in human viewpoint
by writers of post-1975 literary memoir.
In terms of genre, the achievement of modern literary memoir
illustrates the equality among genres, depriving of the literary or
peripheral literary viewpoint, big or small genre. Literary memoir
elucidates the cross-genre, a typical characteristic unheld by any
genre. Post-1975 literary memoir “swallowed” sub-genre of
narratives such as diary and travel narrative through daily notes of
trips. The cross-genre is getting more and more popular, especially in
the first phase of the 21st century, hardening the genre naming.
In terms of aesthetic facet, and artistic value, there were
updated transformations in post-1975 memoir. Works of memoir are
ones of completion with modern techniques – from the text
organization, autobiographical method to multitone and multisound.
Sub Conclusion
In each writer’s career, memoir signifies a modest but
indispensable proportion. Each work of memoir is a style, a unique
tone with individual specification, leaving the audience with
impressions. The joining of many writers in various generations
boosts the diversity and internal growth of memoir itself as an
independent genre.
12
Chapter 3
PERCEPTIONS OF REALITY AND PORTRAIT TYPES OF
MEMOIR’S CHARACTERS IN 1975-2010 VIETNAMESE
LITERATURE
3.1. The perception of reality
3.1.1. Social reality in historical upheavals
Vietnamese literary memoir is tangibly revived to reflect
colorful picture of life, of the people and the country along the
century, especially in two wars’ victory.
Illustrated features in social reality prior to the August
Revolution. As for pre-war writers who lived and wrote in pre-
revolutionary years, memories of hard time remained. Athough they
belong to romantic trend (Anh Tho, Huy Can), reality (To Hoai) or
politically romantic (To Huu)… this generation’s memoirs are well
shaped in the reality of an age. At present viewpoint, looking over
distant history, memoir writers meet at the inclination to depict hard
months and years of pre-revolutionary time. Among specific
information, memoir pages are not only statistic, or specific
incidents, also “information of human life value”, are pages of life, of
literature in rich artistic and human value.
Diverse colors of social reality after the August Revolution and
Anti-French Resistance War. In memoirs of social reality, historical
turning points were not in chronological order. In reminiscence,
events, though were patched or combined by recall, were also
verified. The August Revolution took place. The whole country was
eager and joyful facing new opportunity of liberation. The joy with
the new fate became the rememberance in various memoirs which
was depicted invigoratingly. Through the remisniscent egoi, through
the stand of writers in the country’s resistant life, the picture of
resistance was visible with signature fragments.
Multidimensional reality of new life in the North and the
American War. After 1954, the joy of new peace was not complete.
The North and the South were divided. The North went to the
socialism foundation and country reunification, to resist the
American. These were big events of the nation for artistic inspiration,
being the prime subject for literary genres in this phase. Memoir
13
authors also mentioned crucial issues of the nation reflected by time
and emotion.
The reality of post-war chaos and renovation. Post-war
social reality incites writers’ inspiration. In memoirs, “the today” did
not appear simultaneously, unlike “unfinished present of novel”, the
time in memoir was the past time. In spite of the past timestamp, the
emotional intensity and the chaotic realiy were vital. Milestones of
crucial events in the whole country, the interactivity between the new
and the old in social life, breakthroughs in individual spiritual life;
and intellectuals’ choice facing historical transition,etc…All post-war
tremendous incidents in social life were demonstrated in memoirs.
3.1.2. The reality of human life through twists and turns
Adapting to literary renewal, as other literary genres, after
1975, memoir authors focused on personal life. This inspiration
strengthened the perception revelation of individual fate.
Common point in most of memoirs is to refer to human life in
the toughest phases of history. With some impressive outlines, To
Hoai placed more attention at farmers’ destiny in historical
upheavals. Ma Van Khang highlighted intellectuals’ fate. Hard
months, hard years and memories was self-expressive pages which
the writer wholeheartedly described intellectuals’ fate in a “chaotic”
society. Phan Tu laid emphasis on the destiny of highland people in
years of war.
In many memoirs, crucial focus is placed on the thoughtfulness
of “setting off” of authors. As the insider to narrate his/her life, the
most interested event by memoir authors from 1975 to 2010 was the
the mindfulness, the “setting off” of authors, especially those who
used to write ahead of 1945. This deliberation became the inspiration,
being value meter of literary career of each author in historical flow.
It was evolved into artistic declaration of a contemporary generation
of author, artistic viewpoint and authors’ attitude towards social
reality.
Post-1975 literary memoir mentioned a great deal literary
phenomena which were not smoothly directed, attached with
“unaccompanied” fates. In literary memoir from 1975 to 2010,
authors brought up phenomena literary without smooth direction,
literary “criminal cases”, leading to outdated destinies. One of the
14
most influential “criminal cases” over generations was Nhan Van -
Giai Pham. Memoir authors more or less were the insiders, therefore,
the aftershock of Nhan Van - Giai Pham was still an obsession (To
lose to remain, Recall, A lost age, Late afternoon, etc…).
As for genre characteristic, memoir bears subjectivity. The
reality in literature in which the author is the insider or the witness, to
recall, therefore, though events are general, they are all details of
individuals. Literary memoir’s is linked with a specific space, event
and person. The reality of recalling and rebuilding in memoir is the
reality reflected over emotion, collected from writers’ experience,
other than to conform a fictional writing, or simply notes of events.
Reality perception in literary memoir is genuine in point style, is
deep with intensively cultural personality of the writer.
3.2. Potrait types of character
3.2.1. Self-portrait – Literary memoir’s subject
Memoirs are “places of confession where the author does not
mean to hide himself/herself under the shadow of fictional
character”. Writing about his/her life, writers’ self-portrait is placed
in multidimensional relation.
Most of memoir writers write about memories of childhood
and family relationships. According to Freud, childhood leaves the
impact and mark throughout the artist’s creativity. Through memoir’s
pages, from intertextual view, the audience knows more about each
writer’s personality.
The crucial point of literary memoir is the fact that authors
all write about his/her professional activity. Self-portrait of memoir’s
subject in relation with related profession demonstrates noble
qualities of the artist. The reminiscent ego in memoir usually is the
self-awared ego, reviewing his/her works and own person (Awake at
midnight, Hard months, hard years and memories, etc…).
3.2.2. Depicted portrai – Literary memoir’s character
Literary memoir’s characters are diverse with persons from all
walks of life, in the tight or loose relationship with the subject
writing memoir. However, in most literary memoirs, the most
remarkable impression is authors’ portrait in various relations.
15
Venue of memoir authors is that they write about writers who
are recognized by their personality and influential literary career,
with a ups and downs life. Huy Can depicts the portrait of the poet
Xuan Dieu (Song Doi Memoir). To Hoai illustrates Nguyen Tuan
boldly along with other poets/writers such as Nguyen Hong, Xuan
Dieu (Sand under some feet). Anh Tho demonstrates the portrait of
Nguyen Binh together with other contemporary authors (Anh Tho
Memoir)…. In many memoir pages, writers’ portraits are all
depicted, not as a central character, in various fragments and
fractures, in bright or dark shades.
Sub Conclusion
Social reality and portrait types of character – self-portrait of
memoir writer; as well as depicted portraits of influential writers,
poets as viewed from memoir writers are surprisingly revitalized and
genuine.Hidden corners, literary culinary habits are displayed –
which is hard to be done by other genres, even the literary portrait
mode which was very popupar early 21st century.
16
Chapter 4
NARRATIVE ART OF LITERARY MEMOIR IN
VIETNAMESE LITERATURE FROM 1975 to 2010
4.1. First person narrative mode and narrative point of view
4.1.1. The transformation of author into narrator
In memoirs, author is the creativity subject and narrator at the
same time. Author symbol is unified with the author as a person, as a
creativity subject, demonstrating directly in artistic writings.
According to genre terms, first person narrative mode in the
one in most memoirs, narrates in the first person perspective – a
bright ego tells story of himself/herself, of those who are in the
relationship, of impressive events in memories. Memoir bears the
conformity between the fictional ego and the author’s ego. Huy
Can’s memoir has the coincidence among the author-the focal
character-the narrator. Phan Tu’s memoir, the narrator-protagonist - I
tell the story from scratch to the end. As for Luu Trong Lu’s memoir,
viewpoint character is displayed with the form of “I”.
4.1.2. Alternating point of view
In various memoirs, events in the past, self-portraits and
depicted portraits rebuilt from the subjective viewpoint of writer-the
memoir writer. However, to set up objectivity for the past story,
beside I am not God, in narrative flow, authors always alter their
point of view, or delegate the narration to other character; or dim the
subjectivity perspective. This can be seen in memoirs of Huy Can,
Phan Tu, To Hoai, ...
The alternation of narrative point of view saves the past story
from being monotonous, then social reality and character portrait is
reinvigorated. In Song Doi Memoir, Huy Can omits the timing point
of view, bringing the story to present perspective. The memoir is
mostly about the friendship between Huy Can and Xuan Dieu,
therefore, in reminiscent phases of the poet, the narrator alters the
perspective and lets Xuan Dieu writes about himself. In that mode,
the first person narrative delegates the second person narrative with
the form of “I” to tell the story about himself/herself. Continuous
roleplay and alternation of perspective lead to the fact that memoir
17
pages are not simply the reappearance of a flat and one-way past but
a vital and diverse past.
4.2. Diversify narrative structure
4.2.1. Linear structure
On the surface, the majority of 1975-2010 literary memoir aligns
events in traditionally chronological linear order. However, in
memoirs, narrative flow and textual structure are dominated by
memory mechanism; therefore, memory flow can at times breaks
timing order. In other cases, textual structure is reversed, adhering to
memorial logic and the narrator’s memory. Also in the format of
rebuilding the past into the linear time flow but memoirs of Anh Tho,
Hoang Minh Chau begins with the starting point in the past, and ends
with the present full of chaos in a hectic life. This structure proves
useful in the way that the writer can spin around the focal character,
complementing in that circle phases, fates and destinies of human life.
4.2.2. Fragmentary structure
With this narrative structure, various fragments of events, and
human life are braided in an illogical way, which makes the narrative
flow seemingly lousy and rambling. However, the narrator actively
connects factors in the story to bring them up into a textual flow. On
the surface, chapters look like being cut with rambling flow, telling
when remembering, being dark and faded but in the underground, the
text is characterized with adhesion. The fragmentation of past and
present events results in the fact that the past story is consisted of
various stories, lives and historic upheavals.
4.2.3. Intertextual structure
The cross-genre, the blur of genre’s borderline; external factors
from the plot integrated into the strory, forming intertextuality or
shaping of text’s meaning by another text. This mode makes the
narrative vital and attractive, making the writer to convey
information in reminiscence.
Post-1975 intertextuality in memoir is diverse. Extra factors of
text such as the introduction, note, and announcement are narrative mode
to revive memorial flow, building the verification of the told story.
18
In textual structure, memoir authors quoted textual forms like
diary, letter, poem or essay. Some memoirs braided into memorial
flow through pictures and autograph of himself/herself or of high-
profile figures related in the story. Letter in memoirs is also popular.
As for narrative art, the form of letter is an alteration way of
perspective, causing the told story to be less monotonous, the
narrator’s perspective and depicted character becomes
multidimensional and appealing. One dominant genre in memoirs is
diary. The integration of diary into memoir reinvigorates memoir
pages, with high level of verification. Poem in memoir is a special
mode, applied popularly by writers in autobiographical flow,
transforming memoir to be more romantic with more poetic features
in pages of notes.
4.3. The diversity of narrative language
4.3.1. Narrator’s language
As for memoir’s features, writing memoirs is to narrate past
incidents in which the author is the insider or the witness. Therefore,
language used in memoirs is an extremely important component.
However, due to the need to reveal emotion as well as the writer’s
awareness to tell the story in such a way to make memoir pages
appealing. This helps to refer to majority from the story of minority,
the story of individual but it is the one of society, the writer has to
complement to the frame with demonstrative language and revealing
emotions. This combination creates the perspective of social reality
and human life of memoir writer, and revitalizes the memoir pages.
As a genre of direct narrator who tells the past story,
language in memoir is fully characterized with subjectivity,
displaying the personality and style of the author. When self-
awareness develops, the writer tries to set his/her tone of own
language. The humor, romantic and thoughtful, the polished or the
plain, the smart or the unconventional of the writer are depicted
sharply in the work’s review. The romance is clearly showed in the
language of Luu Trong Lu, Anh Tho. Linguistic shade of To Hoai is
diverse, once romantic, other time sharp and cruel in each word. Dao
Xuan Quy, Hoang Minh Chau, To Huy, Huy Can select exact
vocabularies and flexible syntax to deepen the writing style.
19
Language in Phan Tu’s memoir is simple but flexible and appealing.
Ma Van Khang’s memoir is genuine and pristine in the writing,
which is sophisticated and revitalized in depicted images.
4.3.2. The language of personalized and ordinary characters
With memory narrative mode, in memoirs, there is mainly
language of the narrator, with only a few of character’s language.
Character’s portrait is demonstrated in the telling, description, and
review of the narrator. However, being flexible in telling, various
post-1975 literary memoirs advance dialogue as the founding
component of the told story. Character’s line is personalized, adding
to depicting the real person-character’s portrait. Conducting
dialogues among characters, memoir authors meet at using vital
linguistic system of ordinary life to set up a familiar, factual past, a
social reality as the way it is with all raw and tought facets. This
linguistic system is made by unique linguistic material: word layers,
images, the demonstration of local color, and customs, etc…This
linguistic application is to invigorate the past, create awareness and
artistic effect: adopt information-rich language, vital and concrete
description and analysis.
Many memoir authors attach character’s line with wild words,
or use proverb integrated with character’s language to discuss
common sense; or to reveal the intention of reality revival; sharpen a
human personality; or to evaluate a past phenomenon in an
impressive way.
4.4. Narrative tone
4.4.1. Philosophical and contemplating tone
Memoir is where the writer shows honesty with
himself/herself. This is the shelter where the writer shares, confides
and reveals after a long lifespan with ups and downs experience;
wretchedness in personal life; contemplation of the profession,
miserable fates direct or indirect to memoir writer. This feature
dominates the textual organization of memoir, especially the tone. As
characterized by memoir, to tell about the past from the present
viewpoint of multidimension, post-1975 memoir tone is
philosophical and pondering tone.
20
Even the memoir works’ title signifies philosophical artistic
value of human life (Awake at midnight, Sand under some feet, Late
afternoon, To lose to remain, etc…). Throughtout memoir volumes,
there are philosophy and contemplation of the narrator of upheaveals
and events occurred in his/her life; or related to surrounding people
whereas the narrator is the witness. Contemplating, pondering about
oneself, about people, and about life, philosophical tone in memoir is
displayed in various coloration.
4.4.2. Romantic and reminiscent tone
One of the component factors conforming artistic value of
post-1975 memoir is the multisound and multitone. Accordingly,
romantic tone (braided with commentary tone of memoir) is an
artistic facet which endows the attraction to told stories upon
memory. Romantic tone is the emotional bond between memoir
writer-the narrator and artistic-realistic subject, and human being.
Memories of hometown, family, human destiny, literary life, and
professional accidents, etc…become reinvigorated through the
romantic tone and language.
Memoir writer – the witness of past stories, reveals the emotion
while telling. Due to genre feature, reminiscent sense dominates the
narrative tone of memoir, and creates the romantic and reminful tone
in various works. Romantic tone adds to the appeal of Anh Tho
Memoir. Crucial tone as seen in Huy Can Memoir is the confiding
tone of a writer who lives in reminiscence, looking back past days
with an insider’s viewpoint. Huy Can Memoir conforms with
“romantic memoir”. Sand under some feet is the multitone memoir
with sharp features of romantic tone. Memories of literary fates,
outdated writers’ portraits are overwhelming with romantic tone in
To Hoai memoir. Romantic tone is also illustrated by descriptions of
high frequency in memoirs of Bui Ngoc Tan, Phan Tu, etc…
4.4.3. Humorous and witty tone
According to Pospelov, in Literary research commentary,
“The inclination to discocer humor in life and to revive it in works, is
not only owing to innate talent of many writers, it is also due to
world viewpoint resulted in their concentration on the inconformity
between expectation and real ability of people in a certain social
21
circle”. Memoir writers are mature in age, in profession and
upheavals in creativity in historical ups and downs. Reviewing “Hard
months, hard years and memories”, writers meet at a common point
is to select witty and gentle smile to explicate the discrimination
between oneself’s works/co-author’s works in the related age’s
expectation. Humorous and witty tone becomes the crucial tone in
this “reminiscent” genre.
“True sense of humor always stems from philosophical
contemplation, generalizing life’s drawbacks”. The witty tone also
orientates into oneself. After 1975, with self-awareness need, self-
published memoir became popular. Under new artistic system, the
laugh – an artistic category, is selected as a clarifying method to tell
the truth about the past, in which memoir subject demonstrates self-
portrait or depicted portrait.
Sub Conclusion
Studying 1975-2010 literary memoirs, we recognize the
diversity of narrative tone, word and structure. Literary language is
not framed only in noting and narrating task, it is the one with
multisound and various harmony. Memoir’s narrator does not simply
narrate from a perspective; he/she always alter the narrative point of
view. In 1975-2010 memoirs, there were modern techniques in
setting scenes and people to revive past reality. 1975-2010 literary
works of memoir became genuine works of art.
22
CONCLUSIONS
1. Memoir in general and literary memoir in particular is the
genre which initiates and develops late in Vietnamese literary life. As
seen from internally literary improvement, this is the search for genre
adapting to writers’ state of mind, to the confiding need, and to the
popular self-questioning trend in our literature. The development of
memoir exhibits the fact that personal experience becomes more
valuable, and that memoir is the face-to-face look into the writer’s
ego. As for each writer personally, with oneself’s memories of life,
memoir writer does not need to find the world anywhere else, it is on
oneself’s old-time face. Writing memoir is a straightforward way
toward the past, because, when one remembers and forgets, be real
and be fake, be subjective and objective, etc... the writer can not hide
from himself/herself. That perhaps is the reason for renovation-
period writers are appealed to memoir as an access to outer reality
and also inner reality of complication and mystery of human being.
It can be seen that, in the self-movement made by literature,
genre frames themselves reveal their drawbacks; therefore, memoir is
grown to create itself specific characteristics to respond to broadening
genre definition. It is not a random when memoir is the holder of the
most genuine and real stories of artists and authors. The sarcasm, the
confession and self-questiong voice inspire the human being and life
substances appear vitally as “close scene”, which is not less attractive
and seductive. Stemming from genre broadening, literary inner allows
memoir to write about the past – which is always placed in mobile
state so that memoir borderline can reach new experiment and
experience. Through this, memoir writer when approaching history can
be more liberated, conveying more impression and mood from one
own experience. Therefore, memoir is able to respond to the need of
personal experience when taking part in assessing history, which is
more appreciated than collective experience.
2. Rising from the need to respond to demand by people in a
modern society, who always like to get access to the truth, to
perceive the past and contemplate life; memoir itself fulfils the task
of exploiting realtiy both at-width and in-depth. Moreover, memoir
writer does not need to set up plot sophisticatedly, with characters in
23
appealing situations. It is only necessary to be straightforward and
honest towards the past by oneself’s impression and mood as well as
remaining perception over time, filtered contemplation from
oneself’s experience.
1975-2010 literary memoir accomplishment yields a diverse
look, and plays a crucial role in modern Vietnamese literature. One
of the foundations for memoir’s value of this period is the fact that
the memoir itself is inclined to “near point” of the truth, meeting the
requirement of literary adoption of the public. And memoir satisfies
receiving directions in various perspectives: culture, literature,
history and aesthetics, etc…
3. In the reality of creativity, 1975-2010 Vietnamese literary
memoir develops in commeon rule of genre feature, but it is also
subjected to separate trend in each development phase. In the first ten
years prior to renovation (1975 - 1986), memoir writer revives the
past to show gratitude, with the ego as the speaker for community
spirit, which is not yet the revelation of the voice from the subjective
individual. After renovation (1986 - 2010), issues are demonstrated
around the witness ego in works of memoir in ordinary life, the place
to reveal subjective voice, hidden truth asking the raise its voice,
etc...Values of individual, of histohical facts, of people are found and
conveyed by memoir to make the movement inherited, diverse in a
separate look.
1975-2010 literary memoir, in its movement, affirmed
remarkable growth with abundant illustrations of content, and
significant renewal of demonstration methods. That success converts
memoir to be not only personal voice, the voice of yesterday, but to
be the conveyance of tremendous issues of general significance for
all ages. Acknowledged renewal in artistic demonstration and genre
poetry of literary memoir from 1975 to 2010 is to utilize personalized
word in ordinary color of life, creating multitone, with loose
structure, genre nature is hard to be clearly defined due to the
integration of other genres (diary, autobiography, autobiographical
novel, etc...), which increases artistic sense in reception, and shares
“reading method”, inciting directions in defining, assessing memoir
in objective, scientific and localized perspective.
24
4. With achieved values in terms of content and art, literary
memoir from 1975 to 2010 signifies a crucial stand among its genre
in our literature. However, some authors and works exaggerate the
listing of material, noting; while artistic factor, the faded ego make
“the significance” of memoir pages unsatisfied to genre inner
strength and the audience’s need. Some memoirs, apart from success,
suffer from some drawbacks due to memoir’s subjectivity. Narrating
oneself’s life story, the reminiscent ego while facing itself is not yet
“honest”, and to be inclined to be “self-induces”, or exaggerating
“redemption”. These faults belong to individual, not to memoir
characteristic. Therefore, when receiving memoir work, it is
neccesary to obtain insights of memoir to appraise and receive
wholeheartedly characteristic of this genre: both “standardized” as
aligned by traditional “frame”, and energetic, outgoing in its
development process so that each memoir work is a stone for the
whole memoir linearment in particular and national literature in
general in the world literature integration.