BẢN TIN THÁNG 05/2018 -...

60
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 1/60 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 05/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Hệ thống gắn trên người theo dõi hoạt động của dạ dày trong 24h Công nghệ xét nghiệm máu mới Thử nghiệm máu mới dự đoán sự khởi phát của bệnh lao trước hai năm Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của tim người Phương pháp mới giúp thay thế van tim an toàn hơn Các nhà khoa học phát triển các tấm nano bọc đường để nhắm đích có chọn lọc các tác nhân gây bệnh Các nhà nghiên cứu tạo ra loại băng tiêm y tế NanoZymes sử dụng ánh sáng để diệt khuẩn Sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán bệnh về mắt do tiểu đường Hàn Quốc sử dụng trí tuệ nghệ nhân tạo dự đoán sự tương tác thuốc Cảm biến siêu nhỏ theo dõi thường xuyên nồng độ cồn Thuốc trừ sâu tự nhiên' giết chết tế bào ung thư tuyến tiền liệt Nhật Bản sẽ thực hiện xét nghiệm nước tiểu đầu tiên để phát hiện ung thư Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát triển loại thuốc mới để ức chế tế bào gốc ung thư Chẩn đoán sự phát triển của khối u não không cần sinh thiết Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung thư Loại thuốc đầy hứa hẹn có thể ngăn chặn gen gây ung thư Các loại thuốc cho bệnh ung thư ruột già mới có thể nghiên cứu từ protein Giải pháp mới ngăn ung thư gan tái phát Các nhà nghiên cứu phát triển quy trình mới để phân biệt các tế bào gốc Các nhà nghiên cứu phát triển miếng dán trong suốt có khả năng phát hiện thực phẩm không an toàn Đột phá trong việc lọc nước bằng ánh nắng mặt trời và hydrogel Graphene có thể được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện Vật liệu cấu trúc hình lá có thể xử lý tràn dầu Vật liệu bền vững mới giá rẻ giảm ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước Công nghệ đóng mở van mới hứa hẹn khả năng phát triển các loại động cơ sạch, ít tốn kém Oxit kim loại tự hàn gắn có thể bảo vệ chống ăn mòn Các kỹ sư khám phá kỹ thuật sản xuất nhiên liệu sinh học rẻ hơn và thân thiện hơn với môi trường Chế tạo pin lithium lưu huỳnh bằng giấy sinh khối Chất điện phân natri-ion mới có thể tìm thấy trong các loại pin rắn Công nghệ sản xuất pin với thành phần thay thế coban Quy trình mới làm cứng bề mặt thép không gỉ

Transcript of BẢN TIN THÁNG 05/2018 -...

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 1/60

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 05/2018

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Hệ thống gắn trên người theo dõi hoạt

động của dạ dày trong 24h

Công nghệ xét nghiệm máu mới

Thử nghiệm máu mới dự đoán sự khởi

phát của bệnh lao trước hai năm

Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của

tim người

Phương pháp mới giúp thay thế van tim

an toàn hơn

Các nhà khoa học phát triển các tấm nano

bọc đường để nhắm đích có chọn

lọc các tác nhân gây bệnh

Các nhà nghiên cứu tạo ra loại băng tiêm

y tế

NanoZymes sử dụng ánh sáng để diệt

khuẩn

Sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán bệnh về mắt do tiểu đường

Hàn Quốc sử dụng trí tuệ nghệ nhân tạo

dự đoán sự tương tác thuốc

Cảm biến siêu nhỏ theo dõi thường xuyên

nồng độ cồn

Thuốc trừ sâu tự nhiên' giết chết tế bào ung thư tuyến tiền liệt

Nhật Bản sẽ thực hiện xét nghiệm nước

tiểu đầu tiên để phát hiện ung thư

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát

triển loại thuốc mới để ức chế tế bào gốc

ung thư

Chẩn đoán sự phát triển của khối u não

không cần sinh thiết

Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung

thư

Loại thuốc đầy hứa hẹn có thể ngăn chặn gen gây ung thư

Các loại thuốc cho bệnh ung thư ruột già

mới có thể nghiên cứu từ protein

Giải pháp mới ngăn ung thư gan tái phát

Các nhà nghiên cứu phát triển quy trình

mới để phân biệt các tế bào gốc

Các nhà nghiên cứu phát triển miếng dán

trong suốt có khả năng phát hiện thực

phẩm không an toàn

Đột phá trong việc lọc nước bằng ánh

nắng mặt trời và hydrogel

Graphene có thể được sử dụng làm thuốc

nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện

Vật liệu cấu trúc hình lá có thể xử lý tràn

dầu

Vật liệu bền vững mới giá rẻ giảm ô

nhiễm không khí và ô nhiễm nước

Công nghệ đóng mở van mới hứa hẹn khả

năng phát triển các loại động cơ sạch, ít

tốn kém

Oxit kim loại tự hàn gắn có thể bảo vệ

chống ăn mòn

Các kỹ sư khám phá kỹ thuật sản xuất

nhiên liệu sinh học rẻ hơn và thân thiện

hơn với môi trường

Chế tạo pin lithium lưu huỳnh bằng giấy

sinh khối

Chất điện phân natri-ion mới có thể tìm

thấy trong các loại pin rắn

Công nghệ sản xuất pin với thành phần

thay thế coban

Quy trình mới làm cứng bề mặt thép

không gỉ

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 2/60

Chế tạo màng nano để lưu trữ dữ liệu mật

độ cao

Màn hình tinh thể lỏng mới mỏng như tờ

giấy, mềm dẻo, bền và rẻ

Sản xuất vật liệu cho máy in 3D từ chất

thải của con người

Mực in thông minh được sử dụng để in

3D

Gốm trong suốt có độ d n điện ion âm

Màng mỏng biến đổi nhiệt từ thiết bị điện

tử thành năng lượng

Tìm ra cách mới để phân hủy chất dẻo

Phát triển được loại nhựa có thể tái sử

dụng nhiều lần

Các kỹ sư phát triển kỹ thuật để tạo vật

liệu thích ứng

Phát triển được loại bê tông bền gấp 4 lần

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0018564 Vacxin cúm bất hoạt bị hấp

phụ và phương pháp sản xuất vacxin này

1-0018567 Quy trình điều chế hợp chất 2-

(pyriđin-3-yl)thiazol

1-0018568 Hợp chất 3-(5-flopyrimiđin-4-

yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-

4yl)isoinđolin-1-on và dược phẩm chứa

1-0018569 Quy trình sản xuất dung dịch

chứa polysacarit vỏ nang của

Streptococcus pneumoniae và quy trình

sản xuất vacxin phế cầu khuẩn chứa

polysacarit này

1-0018570 Muối piperazin để sử dụng

làm chất đối kháng thụ thể dopamin

D3/D2, dược phẩm chứa muối này và quy

trình điều chế muối này

1-0018573 Muối cộng của amin chứa

nhóm hydroxyl và/hoặc carboxylic với

d n xuất axit amino nicotinic và dược

phẩm chứa nó

1-0018574 Dược phẩm chứa đất sét

1-0018583 Quy trình tách và tinh chế

solvat của hợp chất pyripyropen ở dạng

tinh thể

1-0018586 Chất chủ vận thụ thể dị vòng

dùng đề điều trị các bệnh tiểu đường và

các rối loạn chuyển hóa và dược phẩm

chứa chúng

1-0018590 Hợp chất phenyloxadiazol,

dược phẩm chứa hợp chất này và quy

trình điều chế hợp chất này

1-0018591 Hợp chất oxazolin và

isoxazolin có tác dụng làm chất điều biến

kênh canxi được hoạt hóa để giải phóng

canxi (CRAC), dược phẩm chứa chúng

và quy trình điều chế chúng

1-0018627 Hợp chất pyrolopyrimidin

dùng làm chất ức chế kinaza, dược phẩm

chứa hợp chất này và phương pháp điều

chế hợp chất này

1-0018630 Hợp chất pyridinon có tác

dụng chống xơ hóa và dược phẩm chứa

hợp chất này

1-0018662 Hợp chất peptit liên kết với

thụ thể thrombopoietin và dược phẩm

chứa hợp chất này

1-0018674 Phương pháp sản xuất axit 5'-

guanylic và vi sinh vật được sử dụng để

sản xuất axit này

1-0018676 Hợp chất flo hóa của 3-

hydroxypyridin-4-on

1-0018689 Hợp chất metastin và thuốc

chứa hợp chất này làm chất đối kháng thụ

thể metastin

1-0018691 Phương pháp điều chế hợp

chất 4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin

1-0018710 Kháng thể liên kết với CD37

ở người, phân tử ADN chứa vùng mã hoá

chuỗi nặng biến đổi của kháng thể này và

dược phẩm chứa kháng thể này

1-0018715 Hợp chất pyrazolyl quinoxalin

có tác dụng ức chế kinaza, dược phẩm

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 3/60

chứa hợp chất này và quy trình điều chế

hợp chất này

1-0018748 Phương pháp sản xuất axit L-

glutamic

1-0018751 Hợp chất imidazol và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0018775 Hợp chất purinon và dược

phẩm chứa nó

1-0018792 Phương pháp điều chế hợp

chất trung gian để tổng hợp dược chất

1-0018815 Dược phẩm dạng viên nang

cứng và phương pháp bào chế duợc phẩm

này

1-0018820 Hợp chất sulfonamit dùng làm

chất gây chết tế bào theo

chương trình chọn lọc BCL-2 để điều trị

bệnh ung thư và bệnh miễn dịch

1-0018617 Chế phẩm kháng thể kháng

CD20

1-0018660 Chế phẩm dùng ngoài da chứa

silicon dễ bay hơi và phương pháp bào

chế chế phẩm này

1-0018707 Protein liên kết đặc hiệu

CD37 và chế phẩm chứa protein liên kết

này

1-0018778 Tổ hợp của chế phẩm globulin

miễn dịch và chế phẩm hyaluronidaza

dùng để điều trị các bệnh có thể điều trị

được bằng globulin miễn dịch

1-0018653 Dụng cụ tiêm thuốc tự động

1-0018780 Huyền phù chứa hạt keo axit

silixic cỡ nano được làm ổn định, chế

phẩm, bột và dược phẩm chứa huyền phù

này và phương pháp điều chế huyền phù

này

1-0018694 Chế phẩm khử trùng và

phương pháp làm sạch nước bị ô nhiễm

1-0018702 Phương pháp tinh chế chế

phẩm chứa natri clorua trong nước

1-0018655 Hợp chất trừ sâu xyano

antranilamit, chế phẩm chứa chúng và

phương pháp phòng trừ loài gây hại

không xương sống

1-0018588 Phương pháp bảo vệ vật liệu

nhân giống thực vật và phương pháp

phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do

sinh vật gây hại

1-0018680 Chế phẩm diệt nấm hoặc diệt

côn trùng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt

tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở

cây và/hoặc loài gây hại và phương pháp

xử lý hạt giống

1-0018700 Hợp chất xyclopentandion,

chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng

trừ cỏ và cỏ dại

1-0018587 Hợp chất đithiocarbamat,

phương pháp làm giàu quặng khoáng và

chế phẩm thu gom chứa hợp chất này

1-0018811 Chế phẩm dạng huyền phù

đặc để diệt loài chân đốt và

phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây

hại

1-0018819 Chế phẩm diệt cỏ, phương

pháp sản xuất chế phẩm này và

phương pháp phòng trừ thực vật không

mong muốn

1-0018663 Thức ăn, thành phần thức ăn

và phương pháp nuôi trồng loài thủy sinh

bằng thức ăn hoặc thành phần thức ăn

này

1-0018721 Chế phẩm tẩy giặt chứa

enzym dạng hạt

1-0018560 Hệ thống chăm sóc răng

miệng

1-0018741 Bàn chải đánh răng và quy

trình sản xuất bàn chải đánh răng

1-0018678 Hệ thống sấy khô-bao gói

quần áo và phương pháp sấy khô-bao gói

quần áo

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 4/60

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Hệ thống gắn trên người theo dõi hoạt động của dạ dày trong 24h

Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

California San Diego đã chế tạo được một hệ

thống mang theo người, không xâm lấn để

theo dõi hoạt động điện trong dạ dày trong 24

giờ, chủ yếu là điện tâm đồ trong đường tiêu

hóa.

Hệ thống có nhiều ứng dụng bao gồm

theo dõi hoạt động đường tiêu hóa cho bệnh

nhân ngoại trú, làm giảm chi phí khám chữa

bệnh. Việc theo dõi hoạt động của đường tiêu

hóa trong thời gian dài cũng làm tăng khả

năng phát hiện những dấu hiệu bất thường.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Scientific Reports vào ngày 22/3/2018.

Thiết bị sử dụng 10 điện cực như trong

điện tâm đồ. Các linh kiện điện tử và pin được

đặt trong một hộp in 3D và kết nối với điện

cực, đặt trên bụng người sử dụng ở vị trí ngay

phía trên dạ dày một chút. Nhóm nghiên cứu

đã thử nghiệm thiết bị với 11 trẻ em tại Bệnh

viện Nhi Rady ở San Diego và 1 người trưởng

thành. Dữ liệu được thu thập từ hệ thống

tương đương với dữ liệu thu từ phòng khám

bằng cách áp dụng những phương pháp hiện

đại không xâm lấn, bao gồm sử dụng ống

thông đường tiểu luồn qua mũi bệnh nhân để

đo áp suất tại một số điểm trong dạ dày. Ngoài

ra, hoạt động điện của dạ dày thay đổi không

chỉ quanh các bữa ăn, mà còn trong lúc ngủ và

theo nhịp sinh học riêng của mỗi người.

Todd Coleman, giáo sư kỹ thuật sinh

học và là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:

“Nghiên cứu mở ra triển vọng theo dõi cụ thể

hoạt động của hệ thống tiêu hóa. Đến nay,

việc đo chính xác các mô hình điện liên quan

đến hoạt động của dạ dày một cách liên tục ở

bên ngoài các cơ sở y tế hoàn toàn là thách

thức. Từ nay, chúng ta có thể quan sát và phân

tích các mô hình ở cả người khỏe mạnh và

người bệnh ngay trong đời sống thường nhật”.

David Kunkel, đồng tác giả nghiên cứu

và là nhà nghiên cứu về tiêu hóa cho rằng:

“Thiết bị giúp chúng ta biết dạ dày có hoạt

động bình thường trong các bữa ăn hay

không và quan trọng nhất là khi bệnh nhân

đang xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn

và đau bụng”.

Hệ thống hiện được kết nối với ứng

dụng điện thoại thông minh cho phép bệnh

nhân theo dõi bữa ăn, giấc ngủ và nhiều hoạt

động khác. Các nhà nghiên cứu đề ra mục

tiêu lâu dài là thiết kế ứng dụng sẽ cho phép

bệnh nhân và bác sỹ theo dõi dữ liệu thu thập

từ thiết bị trong thời gian thực.

Theo vista.gov.vn, 03/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Công nghệ xét nghiệm máu mới

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 5/60

Quá trình lấy máu và xét nghiệm nước

tiểu thường tốn kém, tốn nhiều thời gian để có

thể kiểm tra kỹ lưỡng. Các nhà nghiên cứu

thuộc Đại học South Florida ở Tampa - Hoa

Kỳ đã tạo ra phiên bản di động của phương

pháp ELISA, công nghệ tiêu chuẩn vàng được

sử dụng để phát hiện sự có mặt của kháng thể

hoặc kháng nguyên. Thay vì đưa bệnh nhân

vào phòng thí nghiệm, công nghệ dựa trên

điện thoại di động mới cho phép tiến hành thử

nghiệm tương tự tại phòng mạch bác sĩ, phòng

khám hoặc thậm chí ở vùng sâu vùng xa.

“ELISA hay còn gọi là phương pháp

ELISA hay EIA là kỹ thuật sinh hóa để phát

hiện kháng thể hay kháng nguyên trong mẫu

xét nghiệm. ELISA là công nghệ quan trọng

để phân tích sinh hóa các protein và các

hoocmon và rất cần thiết cho việc chẩn đoán

nhiều bệnh như HIV và Lyme Disease", Tiến

sĩ Anna Pyayt - Phó giáo sư tại Đại học Kỹ

thuật Nam Florida - Hoa Kỳ cho biết:

“MELISA cho phép bệnh nhân trải qua quá

trình thử nghiệm và đạt được kết quả ngay tại

điểm chăm sóc”.

Thử nghiệm miễn dịch di động liên kết

enzyme (MELISA) được mô tả chi tiết trong

bài viết vừa công bố trên tạp chí Biosensors

and Bioelectronics. Kỹ thuật này đo chính xác

lượng progesterone, hoocmon chính ảnh

hưởng đến khả năng sinh sản của phụ nữ và là

dấu hiệu của một số bệnh ung thư. MELISA

bao gồm tủ ấm và các m u được bảo quản tủ

ấm ở nhiệt độ mục tiêu và phân tích chúng

thông qua hình ảnh chụp bằng điện thoại di

động. Nó sử dụng phân tích màu để xác định

các thành phần màu RGB (đỏ, xanh). Thành

phần màu xanh được sử dụng để phân tích

thêm do độ nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ

progesterone.

Tiến sĩ Pyayt nói thêm: "Nó được thiết

kế để thực hiện các thử nghiệm y sinh học

đơn giản và giá cả phải chăng. Khi thử

nghiệm chi phí thấp có thể được tích hợp với

các cuộc thăm khám lâm sàng định kỳ, điều

này sẽ nâng cao chất lượng chăm sóc sức

khoẻ và phát hiện ra các dấu hiệu đáng lo

ngại trước đó”.

MELISA di động chỉ nặng 500 gr,

giúp bệnh nhân lớn tuổi mắc bệnh mãn tính

và mọi người trên khắp thế giới. Tiến sĩ Pyayt

và nhóm của cô tại USF hiện đang hiệu chuẩn

MELISA cho một loạt các xét nghiệm bao

gồm testosterone. Với những kết quả này, họ

sẽ nộp đơn xin FDA chấp thuận để phòng

khám có thể bắt đầu sử dụng thiết bị.

Theo vista.gov.vn, 06/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Thử nghiệm máu mới dự đoán sự khởi phát của bệnh lao trước hai năm

Nghiên cứu mới đây đã cho thấy một

xét nghiệm máu mới có thể tiên đoán chính

xác sự phát triển của bệnh lao (TB) lên đến

hai năm trước khi nó xuất hiện trong một

người sống chung với một người mắc bệnh.

Những người sống chung với người có

bệnh lao hoạt động có nguy cơ phát triển

bệnh cao hơn, nhưng khoảng 5-20% số người

nhiễm mắc bệnh lao thực sự.

Theo nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y

học Hồi sức cấp cứu và Hô hấp của Hoa Kỳ,

xét nghiệm máu mới dự đoán sự phát triển

của bệnh lao mà không cần buộc một lượng

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 6/60

lớn người có nguy cơ thấp phải điều trị dự

phòng không cần thiết.

Các nhà nghiên cứu từ Liên hợp

nghiên cứu quốc tế đã báo cáo rằng họ đã

phát triển và xác nhận một xét nghiệm máu

để đánh giá mức biểu hiện của bốn gen có thể

dự đoán tốt hơn sự phát triển của bệnh lao ở

những bệnh nhân có nguy cơ cao - điều hiện

nay không có ở châu Phi hạ Sahara.

Dấu hiệu bốn gen

Giáo sư Gerhard Walzl, tác giả nghiên

cứu chính của nhóm nghiên cứu về miễn dịch

học của Đại học Stellenbosch, Tygerberg,

Nam Phi, cho biết: "Chúng tôi thấy rằng dự

báo lên đến hai năm trước khi phát bệnh có

thể thông qua các phép đo kết hợp dấu hiệu

bốn gen trong máu".

"Dấu hiệu này, được gọi là 'RISK4',

được tìm thấy có mặt trong tất cả các nhóm

nghiên cứu, từ Nam Phi, Gambia và

Ethiopia”.

RISK4 là sự kết hợp của bốn gen gắn

liền với phản ứng viêm.

Trọng tâm của nghiên cứu là gì?

Nhóm nghiên cứu đã tập trung vào

những người sống chung với một người mắc

bệnh lao hoạt động và ghi nhận 4.466 người

tham gia nghiên cứu sức khoẻ có HIV âm tính

từ các hộ gia đình của 1.098 trường hợp chỉ

số (những người có TB hoạt động cho phép

các nhà nghiên cứu ghi danh các thành viên

trong gia đình họ không bị bệnh lao trong giai

đoạn hoạt động của nó).

Các phép đo sinh học khác nhau có thể

đánh giá được sự kết hợp giữa các mức độ

gen và protein cùng tạo ra kết quả xét nghiệm

liên quan đến nguy cơ hiện tại hoặc tương lai

phát triển tình trạng này.

Walzl nói thêm: "Các thành phần

riêng biệt của dấu hiệu này có thể không đủ

để đưa ra một chẩn đoán dự đoán chính xác,

nhưng sự kết hợp của các dấu hiệu này làm

tăng độ chính xác của nó”.

Bước đầu tiên trong công tác phòng

chống lao

Walzl kết luận: "Nghiên cứu này là

bước đầu tiên và bây giờ tác động của xét

nghiệm này đối với việc phòng ngừa bệnh lao

sẽ phải được thử nghiệm trong các thử

nghiệm lâm sàng đa trung tâm. Ngoài ra, cần

phải đánh giá tính hợp lệ của dự đoán ở các

cá nhân có nguy cơ cao ở Châu Á, Nam Mỹ

và các khu vực có mức độ ưu tiên cao khác".

Theo vista.gov.vn, 13/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của tim người

Các nhà khoa học tại trường Đại học

Syracuse, Hoa Kỳ đã nghiên cứu tế bào gốc

đa năng ở người để tìm hiểu khả năng tái tạo

mô, thuốc tái tạo mô và kỹ thuật tế bào gốc.

Các tế bào gốc đa năng có thể được sử dụng

để tạo ra mô tim, nhưng nhóm nghiên cứu tin

rằng sẽ còn có nhiều ứng dụng khác nữa.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Nature Protocols vào tháng 3/2018.

Zhen Ma, Giáo sư kỹ thuật Y sinh và

là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng

tôi có thể tái định hình tim phát triển ở giai

đoạn đầu trong phòng thí nghiệm. Đó là sự

mô phỏng giai đoạn sớm của quá trình hình

thành phôi thai - cách tim được hình thành”.

Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được

quy trình kết hợp tạo m u tế bào từ vật liệu

sinh học và công nghệ tế bào gốc để lập mô

hình mô 3D mô phỏng sự phát triển của tim

người ở giai đoạn đầu. Nhờ có một lớp

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 7/60

polymer trong đĩa nuôi cấy mô và thao tác

khắc các m u nhỏ trong polymer, các tế bào

gốc sẽ chỉ gắn kết bên trong những mô hình

đó. Vì các tế bào gốc không liên kết với

polymer, nên chúng phát triển trong các mô

hình và cuối cùng tạo nên cấu trúc 3D gồm có

ba loại mô khác biệt. Quy trình này tập trung

vào mô tim nhưng cũng có thể áp dụng cho

các loại mô khác. Nền tảng này cho phép mô

hình thành trong quá trình biệt hóa tế bào mà

không phải từ các tế bào tim có sẵn. Mô tạo

thành gồm có nhiều lớp và thể hiện cụ thể hơn

cách mô phát triển theo cách tự nhiên ở người.

Plansky Hoang, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: “Chúng tôi sử dụng các dòng tế

bào của người, nên biết chúng sẽ ảnh hưởng

đến mô người theo cách nhất định trái ngược

với sự bất ổn xuất hiện khi sử dụng mô hình

động vật”.

Một số phụ nữ mang thai tránh không

dùng loại thuốc họ cần uống để kiểm soát

bệnh mãn tính, nhưng nếu sức khỏe của bà

bầu không tốt cũng sẽ ảnh hưởng đến em bé.

Các kết quả thử nghiệm xác thực sẽ tạo lòng

tin cho bệnh nhân và bác sỹ.

Xác định độc tính gây ra cho phôi thai

chỉ là một ứng dụng tiềm năng của mô hình

do nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Syracuse phát triển. Vô số các mô khác ở

người cũng có thể được nuôi cấy bằng quy

trình này. Quy trình cũng cho phép xét

nghiệm độc tính thuốc trên người. Người

bệnh có những phản ứng khác nhau với cùng

một loại thuốc nhưng xét nghiệm riêng biệt

sử dụng các tế bào gốc ở người có thể xác

định mức độ an toàn của thuốc trước khi

người bệnh sử dụng.

Hoang cho rằng: “Đối với phương

pháp sàng lọc truyền thống, các bác sỹ sẽ

xem xét tiểu sử của bệnh nhân và sau đó, cho

người bệnh dùng thử thuốc trong vòng 1 hoặc

2 tháng và đánh giá phản ứng. Tuy nhiên, khi

sử dụng mô hình mới, có thể thử nghiệm cùng

lúc nhiều loại thuốc để xác định tác dụng của

thuốc đối với người bệnh mà không phải thực

hiện những xét nghiệm riêng rẽ mất nhiều

thời gian”.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp mới giúp thay thế van tim an toàn hơn

Các nhà khoa học đã phát triển một kỹ

thuật mới và an toàn hơn để ngăn ngừa tắc

nghẽn động mạch vành trong quá trình thay

van động mạch vành (TAVR), một biến

chứng hiếm gặp nhưng thường gây tử vong.

Phương pháp này được gọi là Ph u

thuật nội soi sinh học nhằm ngăn ngừa tắc

nghẽn động mạch vành (BASILICA). Nó sẽ

làm tăng các lựa chọn điều trị cho những bệnh

nhân có nguy cơ cao cần thủ thuật van tim.

TAVR, một thủ thuật được sử dụng để

điều trị hẹp van động mạch chủ, bao gồm một

ống dài, mỏng, linh hoạt, được gọi là catheter,

thông qua động mạch đùi ở chân đến tim.

Hẹp động mạch chủ là sự hẹp van gây tử

vong kiểm soát máu đi từ tim đến các phần

còn lại của cơ thể. Sự thu hẹp này làm giảm

lưu lượng máu tới các cơ quan quan trọng,

d n đến thở ngắn, đau ngực, ngất và suy tim.

Đối với bệnh nhân cao tuổi hoặc yếu,

TAVR cung cấp một giải pháp thay thế hiệu

quả và ít xâm lấn hơn so với ph u thuật mở

tim. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ các bệnh nhân

này có thể bị tắc nghẽn động mạch vành trong

suốt quá trình TAVR. Đối với hơn một nửa số

bệnh nhân bị tắc nghẽn động mạch vành trong

TAVR, biến chứng này đã gây tử vong.

BASILICA được phát triển bởi TS y khoa

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 8/60

Jaffar M. Khan của Viện tim, phổi và máu

Quốc gia (NHLBI), một bộ phận của Viện y

học Quốc gia (NIH), để tăng sự an toàn của

TAVR cho nhóm bệnh nhân này.

TS Robert J. Lederman, nghiên cứu

viên cao cấp ở Phòng Nghiên cứu Nội trú của

NHLBI, người phụ trách nghiên cứu với TS

Khan, cho biết: "Những bệnh nhân này hoặc

không đủ điều kiện cho TAVR thông thường,

hoặc họ có nguy cơ cao”.

Lederman giải thích rằng trong TAVR,

bác sĩ ph u thuật đặt một ống thông bên trong

tim và sử dụng một quả bóng để mở một van

mới bên trong van động mạch chủ. Tuy

nhiên, ở một số bệnh nhân có trái tim có cấu

trúc không bình thường, chẳng hạn như các lá

van tim lớn hoặc các rễ động mạch chủ nhỏ,

các lá van tim lớn ngăn chặn sự lưu thông

máu tới động mạch vành khi hệ thống van

mới mở ra.

"Không có một phương pháp điều trị

hoặc phòng ngừa tốt cho chứng nghẽn mạch

vành do TAVR gây ra. Kỹ thuật sử dụng stent

trước đây để mở động mạch vành dường như

có kết quả lâu dài không tốt”. Lederman nhận

định.

BASILICA đưa ra giải pháp cho vấn

đề nghẽn mạch vành trong suốt thời gian

TAVR. Bác sĩ tim mạch can thiệp một sợi

dây điện đã được kích hoạt bằng kích thước

của một sợi chỉ may qua ống thông và sử

dụng nó để phân chia lá gốc thành hai, do đó

nó không thể chặn được động mạch vành sau

khi nó đã bị đẩy qua bên trái van tim bởi

đường ống thông.

Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà

nghiên cứu báo cáo thành công của thủ tục

BASILICA trong bảy bệnh nhân nặng, những

người đủ điều kiện sử dụng kỹ thuật này - sau

đó chưa được kiểm tra ở người - bởi vì không

có các lựa chọn chăm sóc khác.

"Tất cả bệnh nhân đều có TAVR thành

công mà không bị tắc nghẽn mạch máu, đột

quỵ hoặc bất cứ biến chứng lớn nào",

Lederman nói. "Họ đã ổn khi đạt điểm mốc

30 ngày sau phẫu thuật”.

Kỹ thuật BASILICA sẽ được đánh giá

trong một nghiên cứu khả thi nhiều kỳ, được

tài trợ bởi NHLBI.

Các nhà nghiên cứu hy vọng kỹ thuật

này cuối cùng sẽ giúp giảm được số người

chết do bệnh van tim. Theo Hiệp hội Tim

Mạch Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 5 triệu

người ở Hoa Kỳ được chẩn đoán bị bệnh van

tim, và hơn 20.000 người chết.

Theo vista.gov.vn, 09/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà khoa học phát triển các tấm nano bọc đường để nhắm đích có chọn lọc các tác nhân gây bệnh

Các nhà nghiên cứu đã phát triển được

một quy trình xử lý tạo ra các tấm vật liệu

tổng hợp tự lắp ráp, siêu mỏng mà có thể hoạt

động giống như giấy b y ruồi kết dính có

chọn lọc các loại vi rút, vi khuẩn và các tác

nhân gây bệnh khác.

Bằng cách này, nền tảng mới do nhóm

các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Quốc

gia Lawrence Berkeley Hoa Kỳ (Phòng thí

nghiệm Berkeley) phát triển này rất có tiềm

năng ứng dụng để vô hiệu hóa hoặc phát hiện

mầm bệnh.

Mới đây, nhóm nghiên cứu bao gồm cả

các nhà nghiên cứu Trường Đại học New

York đã tạo ra các tấm nano tổng hợp tại Lò

đúc phân tử thuộc Phòng thí nghiệm

Berkeley. Các polyme này lấy cảm hứng từ

sinh học, có khả năng tự lắp ráp này được gọi

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 9/60

là các peptide. Nghiên cứu này đã được công

bố trên tạp chí ACS Nano mới đây.

Các tấm nano này được thiết kế để

“biểu thị” đường theo các khuôn m u theo bề

mặt của chúng, và những viên đường này

được chứng minh là có sự kết dính có chọn

lọc với một số protein bao gồm chất độc

Shiga, loại chất gây bệnh lỵ. Vì bề ngoài của

các tế bào của chúng là phẳng và được bọc

đường, tấm nano 2D này có thể mô phỏng các

bề mặt tế bào một các hiệu quả.

Ronald Zuckermann, nhà khoa học tại

Molecular Foundry, và là người đứng đầu

nghiên cứu, nói: “Nó không chỉ là một cái

chốt và cái khóa, nó giống như loại khóa

Velcro, với một chùm các móc nhỏ cùng lúc

hội tụ vào protein mục tiêu”.

Ông lưu ý rằng rất nhiều tác nhân gây

bệnh, từ vi-rút cúm đến vi khuẩn tả, kết dính

với đường trên bề mặt tế bào. Vì vậy, việc lựa

chọn đúng loại đường để dính kết với các tấm

nano peptoid, theo sự sắp xếp hợp lý, có thể xác

định được các mầm bệnh bị chúng dính vào.

Zuckermann nói thêm: “Với lĩnh vực

hóa học, chúng ta sẽ thực hiện đơn giản.

Chúng ta có thể “đưa” các loại đường khác

nhau vào và biểu thị chúng lên một bề mặt

phẳng đã được xác định rõ ràng. Chúng tôi

có thể kiểm soát chúng cách xa nhau ra sao.

Chúng ta có thể làm điều này với khá nhiều

loại đường khác nhau”.

Nền tảng peptoid cũng bền và ổn định

hơn so với các phân tử sinh học tự nhiên, ông

nói, vì vậy nó có thể được triển khai đưa vào

lĩnh vực kiểm tra sinh học của nhân viên quân

sự và các cơ quan cứu hộ khẩn cấp.

Các tấm nano này cũng có tiềm năng

ứng dụng trong việc làm sạch môi trường để

trung hoà các độc tố và mầm bệnh cụ thể, và

các tấm này có thể được thu nhỏ để nhắm

mục tiêu đến các chủng virut như Ebola và vi

khuẩn như E. coli và các mầm bệnh khác.

Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà

nghiên cứu xác nhận rằng việc tạo ra sự kết

dính với các protein mục tiêu đã thành công

khi “nhúng” thuốc nhuộm huỳnh quang vào

các tấm và gắn thuốc nhuộm huỳnh quang

khác vào các protein mục tiêu. Sự biến đổi

màu sắc cho thấy protein đã được gắn kết với

tấm nano.

Cường độ biến đổi màu sắc này cũng

có thể chỉ đ n cho các nhà nghiên cứu để họ

có thể cải tiến chúng và khám phá ra các tấm

nano mới có thể nhắm mục tiêu các mầm

bệnh cụ thể.

Theo vista.gov.vn, 10/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà nghiên cứu tạo ra loại băng tiêm y tế

Một vết thương sâu do mảnh đạn là trở

ngại lớn trong việc xử lý các vết thương trên

chiến trường, cuối cùng có thể d n đến tử

vong. Dù tỷ lệ tử vong cao do xuất huyết,

nhưng nhu cầu về vật liệu có khả năng nhanh

chóng tự điều chỉnh để ngăn ngừa tai họa do

mất máu v n chưa được đáp ứng.

Các nhà nghiên cứu tại Phòng thí

nghiệm kỹ thuật mô và vật liệu nano thuộc

trường Đại học Texas A&M đã chế tạo thành

công loại băng tiêm để ngăn chảy máu và

tăng tốc độ hàn gắn vết thương.

Trong nghiên cứu được công bố trên

tạp chí Acta Biomaterialia, TS. Akhilesh K.

Gaharwar, phó giáo sư Khoa Kỹ thuật y sinh

tại trường Đại học Texas A&M đã sử dụng

kappa-carrageenan và silicat nano để tạo

thành hydrogel tiêm nhằm tăng tốc cầm máu

và làm cho vết thương mau lành nhờ giải

phóng thuốc điều trị có kiểm soát.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 10/60

TS. Gaharwar cho rằng: “Hydrogel

tiêm là vật liệu triển vọng để cầm máu trong

trường hợp tổn thương và chảy máu bên

trong, vì các vật liệu sinh học này có thể được

đưa vào vị trí vết thương bằng các phương

thức xâm lấn tối thiểu. Băng tiêm lý tưởng

nên được làm đông lại sau khi tiêm vào vị trí

vết thương và thúc đẩy quá trình đông máu tự

nhiên. Ngoài ra, băng tiêm sẽ khởi động phản

ứng hàn gắn vết thương sau khi đạt đến trạng

thái cầm máu”.

Nghiên cứu sử dụng một chất làm dày

phổ biến được gọi là kappa-carrageenan chiết

tách từ cỏ biển để tạo ra hydrogel tiêm. Các

hydrogel là mạng lưới polymer 3D căng phồng

nước, tương tự như thạch Jell-O mô phỏng cấu

trúc của mô người. Khi kappa-carrageenan

được trộn với các hạt nano từ đất sét, sẽ tạo

thành gelatin tiêm. Tính chất tích điện của các

hạt nano từ đất sét cung cấp cho hydrogel khả

năng cầm máu. Cụ thể, protein huyết tương và

tiểu cầu tạo khả năng hút máu trên bề mặt gel

và kích kích quá trình đông máu.

Giriraj Lokhande, nghiên cứu sinh và

là đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Điều thú

vị là chúng tôi đã phát hiện thấy băng tiêm

này có thể giải phóng thuốc điều trị dùng để

hàn gắn vết thương. Thao tác sạc các hạt

nano trên bề mặt cho phép các tương tác tĩnh

điện diễn ra với thuốc điều trị, từ đó, dẫn đến

khả năng giải phóng thuốc từ từ”.

Theo vista.gov.vn, 10/04/2018

Trở về đầu trang

**************

NanoZymes sử dụng ánh sáng để diệt khuẩn

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

RMIT đã tạo ra một loại enzyme nhân tạo

mới có tên là NanoZymes, sử dụng ánh sáng

để tiêu diệt vi khuẩn. Enzyme nhân tạo trong

tương lai sẽ được sử dụng để chống nhiễm

trùng và giữ vệ sinh cho các không gian công

cộng có nguy cơ cao như môi trường bệnh

viện để tránh các vi khuẩn như E.colo và

Golden Staph.

E.coli gây bệnh lỵ và viêm dạ dày ruột,

trong khi vi khuẩn Golden Staph là nguyên

nhân chính gây nhiễm trùng thứ phát do môi

trường bệnh viện và nhiễm trùng vết thương

mãn tính. NanoZymes được cấu thành từ các

thanh nano nhỏ hơn 1.000 lần sợi tóc và sử

dụng ánh sáng nhìn thấy để tạo ra loại oxy có

tốc độ phản ứng cao nhanh chóng phân tách

và diệt khuẩn.

Giáo sư Vipul Bansal, trưởng nhóm

nghiên cứu cho rằng NanoZymes, enzyme

nhân tạo mới có khả năng vượt trội hơn so

với khả năng diệt khuẩn tự nhiên. Theo GS.

Bansal, “Nhiều năm qua, chúng tôi đã cố

gắng phát triển loại enzyme nhân tạo có thể

diệt khuẩn, trong khi mở ra các cơ hội để

kiểm soát nhiễm trùng vi khuẩn bằng cách sử

dụng yếu tố kích thích bên ngoài. Cuối cùng,

chúng tôi đã làm được điều đó”.

NanoZymes là enzyme nhân tạo kết

hợp ánh sáng với độ ẩm để kích hoạt phản

sinh hóa tạo ra các gốc OH và tiêu diệt vi

khuẩn. Hoạt động kháng khuẩn tự nhiên

không phản ứng với các yếu tố kích thích bên

ngoài như ánh sáng. Kết quả nghiên cứu cho

thấy khi chiếu ánh sáng trắng, hoạt động của

NanoZymes tăng hơn 20 lần, tạo thành nhiều

lỗ trong các tế bào vi khuẩn và tiêu diệt vi

khuẩn hiệu quả.

NanoZymes hoạt động trong dung dịch

mô phỏng dịch trong vết thương. Dung dịch

này có thể được phun lên bề mặt. Ngoài ra,

NanoZymes được sản xuất từ bột để trộn với

sơn, gốm và các sản phẩm tiêu dùng khác. Có

nghĩa là tường và bề mặt trong bệnh viện sẽ

không còn vi khuẩn. Nhà vệ sinh công cộng

nơi có mật độ vi khuẩn cao và đặc biệt là

E.coli, cũng là địa điểm lý tưởng cho

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 11/60

NanoZymes. Các nhà nghiên cứu tin rằng

công nghệ mới thậm chí có tiềm năng chế tạo

bồn cầu tự làm sạch.

Dù NanoZymes hiện sử dụng ánh sáng

nhìn thấy từ đèn pin hoặc các nguồn sáng

tương tự, nhưng trong tương lai có thể được

kích hoạt bởi ánh nắng mặt trời. Nhóm

nghiên cứu đã chứng minh NanoZymes hoạt

động trong môi trường phòng thí nghiệm và

hiện đang đánh giá hiệu quả lâu dài của

NanoZymes đối với các sản phẩm tiêu dùng.

Mới đây, nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí ACS Applied Nano Materials.

Theo vista.gov.vn, 12/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán bệnh về mắt do tiểu đường

Thiết bị có tên IDx-DR có thể chẩn đoán bệnh màng lưới do tiểu đường. Nguồn: eyediagnosis.net

Ngày 11/4, Cục Quản lý thực phẩm và

dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp phép cho việc

quảng bá thiết bị y tế đầu tiên sử dụng trí

thông minh nhân tạo (AI) trong việc phát hiện

các tổn thương ở mắt do ảnh hưởng của bệnh

tiểu đường.

Bước đi này cho phép các bác sỹ chẩn

đoán bệnh màng lưới do tiểu đường mà

không cần diễn giải các chỉ số hay hình ảnh.

Thiết bị trên, có tên IDx-DR, có thể

chẩn đoán bệnh màng lưới do tiểu đường,

nguyên nhân phổ biến d n gây mù lòa cho

hơn 30 triệu bệnh nhân tiểu đường tại Mỹ.

Căn bệnh này xảy ra khi lượng đường trong

máu tăng cao khiến các mạch máu võng mạc

bị tổn thương.

Phần mềm của thiết bị này sử dụng

một thuật toán AI để phân tích các hình ảnh

của mắt do máy chụp hình võng mạc Topcon

NW400 chụp lại. FDA cho biết bác sỹ có thể

tải những hình ảnh kỹ thuật số chụp võng mạc

của bệnh nhân đến một máy chủ ảo được triển

khai trên nền tảng điện toán đám mây mà

phần mềm IDx-DR được cài đặt.

Nếu chất lượng hình ảnh đáp ứng đủ

tiêu chuẩn, phần mềm này sẽ cung cấp cho

bác sỹ một trong 2 kết quả, theo đó nếu bệnh

nhân mắc bệnh màng lưới tiểu đường trên

mức thể nhẹ, bệnh nhân được khuyến cáo cần

tham vấn với chuyên gia nhãn khoa để có sự

chăm sóc và điều trị mắt hợp lý. Nếu kết quả

là âm tính đối với bệnh màng lưới tiểu đường

trên mức thể nhẹ, bệnh nhân sẽ được sàng lọc

lại mắt trong 1 năm.

Giới chức FDA cho biết việc phát hiện

sớm bệnh màng lưới đóng vai trò quan trọng

trong việc chăm sóc hàng triệu người mắc

bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân

không được sàng lọc hợp lý bệnh màng lưới

do khoảng 50% người bệnh không đến tham

vấn các bác sỹ nhãn khoa mỗi năm. Do đó,

việc sử dụng IDx-DR mang lại giải pháp sàng

lọc hiệu quả mà không cần các bác sỹ đọc kết

quả qua hình ảnh hay các chỉ số.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng

khuyến cáo không sử dụng thiết bị này cho

bệnh nhân có tiền sử điều trị laser, ph u thuật

hay từng tiêm mắt; những người mất thị lực

lâu dài; hay những bệnh nhân mắc bệnh rối

loạn võng mạc.

Thiết bị này cũng không được khuyến

cáo đối với phụ nữ mang thai do bệnh màng

lưới do tiểu đường có thể diễn biến rất nhanh

và IDx-DR không được sử dụng để đánh giá

nhanh căn bệnh này.

Theo vietnamplus.vn, 12/04/2018

Trở về đầu trang

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 12/60

**************

Hàn Quốc sử dụng trí tuệ nghệ nhân tạo dự đoán sự tương tác thuốc

Nguồn: Yonhap

Một nhóm nhà khoa học người Hàn

Quốc đã phát triển một công nghệ mới dựa

trên trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính

xác khả năng tương tác giữa các loại thuốc

khác nhau.

Theo thông báo của Bộ Khoa học và

Công nghệ thông tin Hàn Quốc ngày 17/4,

nhóm nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và

Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) đã

phát triển công nghệ dự đoán sự tương tác

thuốc tiềm ẩn (DDI), qua đó giúp các chuyên

gia y tế dễ dàng xác định loại tương tác nào

sẽ xảy ra giữa các loại thuốc khác nhau.

Các nhà khoa học đã sử dụng công

nghệ "deep learning" - một nhánh đặc biệt

trong AI có khả năng giải quyết các vấn đề

thực tế bằng cách khai thác các mạng thần

kinh nhân tạo và mô phỏng việc đưa ra các

quyết định của con người - để nâng cao hiệu

quả khai thác DDI.

DeepDDI có thể dự đoán tổng cộng

192.284 tương tác giữa thuốc với thuốc, với

độ chính xác ở mức cao 92,4%. Ngoài ra,

DeepDDI có thể được sử dụng để dự đoán các

tương tác giữa thuốc và thực phẩm.

Các chuyên gia đánh giá công nghệ này

đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển

và điều chế thuốc, cũng như việc kê đơn bởi

điều này giúp bệnh nhân hạn chế gặp tác dụng

phụ do uống nhiều loại thuốc khác nhau.

Nghiên cứu mới nhất này có thể đóng

vai trò như một công nghệ nền tảng thúc đẩy

sự phát triển y học chính xác - phương pháp

điều trị phân loại bệnh nhân vào các nhóm

bệnh khác nhau với các quyết định điều trị,

can thiệp và chỉ định phù hợp với từng cá nhân

dựa trên sự tổng hợp, phân tích dữ liệu về gen.

Tương tác thuốc là những thay đổi về

tác dụng của một loại thuốc do chịu tác động

của một loại thuốc khác khi được sử dụng

đồng thời.

Trong trị liệu, đôi khi bác sỹ lợi dụng

sự tương tác thuốc nhằm làm tăng tác động

của từng loại thuốc khi được sử dụng kết hợp.

Tuy nhiên, tương tác thuốc thường có hại, có

thể làm tăng hoặc giảm tác dụng mong muốn

của một loại thuốc, làm trầm trọng thêm các

tác dụng phụ của thuốc.

Theo vietnamplus.vn, 17/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Cảm biến siêu nhỏ theo dõi thường xuyên nồng độ cồn

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 13/60

Các kỹ sư tại trường Đại học

California San Diego đã chế tạo được cảm

biến sinh học có thể tiêm và tiêu thụ rất ít

năng lượng để theo dõi liên tục nồng độ cồn

trong thời gian dài. Chip có kích thước đủ

nhỏ để cấy vào trong cơ thể người ở vị trí

giữa bề mặt da và được cung cấp năng lượng

theo phương thức không dây bằng thiết bị đeo

trên người như đồng hồ hoặc miếng dán.

Một trong những thách thức đối với

bệnh nhân trong các chương trình điều trị lạm

dụng chất kích thích là thiếu các công cụ phù

hợp để theo dõi thường xuyên. Máy kiểm tra

nồng độ cồn qua hơi thở hiện là phương pháp

phổ biến để xác định nồng độ cồn trong máu

và là thiết bị rườm rà cần có sự hợp tác của

bệnh nhân và không phải lúc nào cũng chính

xác. Xét nghiệm máu là kỹ thuật cho kết quả

chính xác nhất, nhưng cần được thực hiện bởi

kỹ thuật viên có trình độ. Cảm biến nồng độ

cồn giống như hình xăm có thể được dán lên

da, dễ bóc tách và chỉ sử dụng một lần, là

phương pháp mới triển vọng.

Drew Hall, giáo sư kỹ thuật điện và là

trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Cảm biến

siêu nhỏ có thể tiêm sẽ được sử dụng trong

phòng khám mà không cần phẫu thuật, tạo

điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân theo dõi

tiến trình điều trị theo đơn trong thời gian

dài”.

Chip cảm biến sinh học có kích thước

khoảng 1 mm3 và có thể được tiêm dưới da

trong chất dịch ở khe - chất dịch bao quanh

các tế bào của cơ thể. Chip có chứa cảm biến

phủ rượu oxidaza, một enzyme tác động có

chọn lọc với cồn để tạo ra sản phẩm phụ có

thể được phát hiện bằng phương pháp điện

hóa. Các tín hiệu điện được truyền không dây

đến thiết bị mang theo người như đồng hồ

thông minh cung cấp năng lượng theo phương

thức không dây cho chip. Hai cảm biến bổ

sung trên chip đo các tín hiệu và độ pH cơ

bản. Các thiết bị này cản trở việc cung cấp

các số liệu chính xác.

Các nhà nghiên cứu đã thiết kế chip

tiêu thụ ít điện năng nhất có thể (tổng số 970

nano Wat), thấp hơn khoảng 1 triệu lần năng

lượng cần để một chiếc điện thoại thông minh

thực hiện cuộc gọi. Chip hoạt động được ở

mức điện năng công suất thấp này là nhờ

truyền dữ liệu bằng kỹ thuật phản xạ ngược.

Hoạt động này diễn ra khi một thiết bị ở gần

như đồng hồ thông minh truyền tín hiệu tần

số vô tuyến đến chip và chip gửi dữ liệu bằng

cách thay đổi và phản xạ các tín hiệu đó. Các

nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế mạch hiển thị

cảm biến siêu tiết kiệm năng lượng cho chip

và giảm thiểu thời gian đo chỉ còn 3 giây, d n

đến năng lượng tiêu thụ ít hơn.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm chip

trong ống nghiệm với một thiết lập mô phỏng

môi trường cấy ghép, liên quan đến hỗn hợp

etanol trong huyết thanh người pha loãng bên

dưới các lớp da lợn. Trong tương lai, nhóm

nghiên cứu dự kiến thử nghiệm chip trên

động vật sống và sẽ phối hợp nghiên cứu tối

ưu hóa việc sử dụng chip để theo dõi phục

hồi. Các nhà khoa học đang chế tạo những

phiên bản chip có thể theo dõi thuốc và những

phân tử khác trong cơ thể.

Theo vista.gov.vn, 19/4/2018

Trở về đầu trang

**************

Thuốc trừ sâu tự nhiên' giết chết tế bào ung thư tuyến tiền liệt

Điểm nổi bật của ung thư tuyến tiền

liệt là một gen ức chế khối u PTEN bị lỗi.

Hiện nay, sau khi kiểm tra các hợp chất có

ảnh hưởng đến các tế bào không có PTEN,

các nhà khoa học đã khám phá ra rằng một

loại thuốc trừ sâu tự nhiên gọi là deguelin có

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 14/60

thể giết chết các tế bào như vậy bằng cách

phá vỡ cung cấp năng lượng của chúng.

Deguelin thuộc một loại thuốc được

gọi là chất ức chế ty thể. Ngăn chặn hoạt

động của ty thể. Mitochondria là những

khoang nhỏ bên trong các tế bào, chuyển

glucose trong tế bào thành các phân tử

adenosine triphosphate (ATP), dùng làm đơn

vị năng lượng để thúc đẩy các hoạt động khác

nhau của tế bào.

Các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm

Cold Spring Harbor ở New York - Hoa Kỳ

nhận thấy rằng điều trị các tế bào thiếu PTEN

với một số loại chất ức chế ty thể đã khiến

các tế bào sử dụng glucose từ môi trường của

chúng để làm cho ATP và sau đó vận chuyển

nó vào ty thể của chúng để bảo vệ chúng.

Nhà nghiên cứu Lloyd Trotman- Giáo

sư tại Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor,

giải thích: “Nó giống như các tế bào không có

PTEN, tiêu thụ một lượng lớn glucose" để

giúp chúng tồn tại ty thể. Chúng làm việc này

đến mức khi hết nhiên liệu và chết.

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học

đã sử dụng một mô hình di truyền ung thư

tuyến tiền liệt di căn được phát triển bởi

nhóm của Giáo sư Trotman. Họ cho rằng

những phát hiện của họ với liều thuốc đúng,

một số chất ức chế ty thể như deguelin và một

loại mà họ nhận biết được gọi là rotenone - có

thể giết được tế bào ung thư tuyến tiền liệt mà

không gây tổn hại cho tế bào khỏe mạnh. Tuy

nhiên, họ cũng lưu ý rằng thời gian và điều

kiện phải vừa đúng - ví dụ thuốc sẽ không

hoạt động nếu mức đường huyết cao.

Sau ung thư da, ung thư tuyến tiền liệt

là loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới ở

Hoa Kỳ, ở đâu, vào năm 2017, ước tính có

161.360 người phát hiện ra họ mắc bệnh này.

Trong phần lớn các trường hợp, ung thư

tuyến tiền liệt được chẩn đoán trước khi bệnh

bắt đầu lan rộng. Trong khi ung thư ở quốc

gia này, điều trị sẽ dễ dàng hơn nhiều và tỉ lệ

sống sót 5 năm gần 100%. Tuy nhiên, khi

bệnh ung thư đã di căn, nghĩa là nó đã lan

rộng và tạo ra các khối u mới ở các bộ phận

khác của cơ thể điều này khó hơn nhiều. Đối

với những người đàn ông được chẩn đoán ung

thư tuyến tiền liệt hoặc di căn, tỷ lệ sống

trung bình 5 năm là 29%. Trong bài nghiên

cứu, các tác giả lưu ý rằng "dấu hiệu của ung

thư tuyến tiền liệt tiên tiến" là hai gen ức chế

khối u PTEN và p53 không hoạt động tốt vì

chúng bị biến đổi.

Khi các gen ức chế khối u hoạt động

bình thường, chúng "làm chậm phân chia tế

bào", sửa chữa DNA bị hỏng và kích hoạt sự

phá hủy tế bào. Mặt khác, các gen ức chế khối

u bị lỗi, không thực hiện được các chức năng

này và làm phát triển các tế bào bị lỗi mà có

thể phát triển không kiểm soát được và gây

ung thư. Giáo sư Trotman và các cộng sự cho

hay, trong số 3 triệu nam giới ở Mỹ có ung thư

tuyến tiền liệt, "gần 100.000 trường hợp mắc

bệnh ung thư có đột biến [PTEN và p53]".

Điều này "thúc đẩy" họ tìm kiếm các loại

thuốc có thể hoạt động đặc biệt chống lại ung

thư tuyến tiền liệt có PTEN và p53 đột biến.

Tuy nhiên, vì "một số nghiên cứu" đã

chỉ ra rằng sự mất mát của p53 không làm tăng

ung thư tuyến tiền liệt, họ quyết định tập trung

vào PTEN. Chúng tôi đã bắt đầu nghiên cứu

bằng cách chạy một loạt các thí nghiệm sử

dụng các tế bào có và không có PTEN. Kết

quả thấy rằng deguelin có khả năng tiêu diệt cả

hai loại tế bào, nhưng liều cần thiết để diệt tế

bào với PTEN (mô hình tế bào bình thường)

gấp 500 lần so với liều cần thiết để diệt tế bào

mà không có PTEN (mô hình tế bào ung thư).

Và thuốc có ảnh hưởng mạnh hơn đến các tế

bào không có PTEN bởi vì ty thể của chúng

tiêu thụ ATP "thay vì tạo ra nó".

Giáo sư Trotman nói: "Điều đó hoàn

toàn ngược lại", về những gì mitochondria

được cho là sẽ làm. Mitochondria được cho

là sẽ tạo ra ATP cho phần còn lại của tế

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 15/60

bào”. Cuối cùng, khi kiểm tra deguelin trong

mô hình chuột của họ về ung thư tuyến tiền

liệt gây tử vong, chúng tôi phát hiện ra nó đã

ngăn chặn ung thư tiến triển.

Theo vista.gov.vn, 13/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Nhật Bản sẽ thực hiện xét nghiệm nước tiểu đầu tiên để phát hiện ung thư

Một công ty của Nhật Bản đã sẵn sàng

triển khai thử nghiệm đầu tiên trên thế giới để

kiểm tra ung thư thông qua các m u nước

tiểu, sẽ tạo điều kiện cho việc sàng lọc căn

bệnh chết người này.

Nhóm nghiên cứu tại Tập đoàn Kỹ

thuật và Công nghệ thông tin Hitachi đã phát

triển công nghệ cơ bản để phát hiện ung thư

vú hoặc đại tràng từ các m u nước tiểu cách

đây hai năm. Tập đoàn sẽ thử nghiệm công

nghệ với 250 m u nước tiểu để kiểm tra các

m u nước tiểu trong điều kiện nhiệt độ phòng

có phù hợp để phân tích hay không.

Chiharu Odaira, phát ngôn viên của

Tập đoàn Hitachi cho biết: “Nếu phương

pháp này có thể sử dụng trên thực tế, nhiều

người sẽ dễ dàng thực hiện xét nghiệm ung

thư, vì sẽ không cần đi đến các cơ sở y tế để

làm xét nghiệm máu. Phương pháp này đặc

biệt hữu ích cho xét nghiệm ung thư ở trẻ nhỏ

do trẻ thường sợ kim tiêm”.

Theo một nghiên cứu được công bố

vào đầu năm nay, xét nghiệm máu mới có

triển vọng phát hiện 8 loại khối u khác nhau

trước khi chúng di căn khắp cơ thể. Các

phương pháp chẩn đoán ung thư vú thông

thường bao gồm chụp X quang tuyến vú, sau

đó đến sinh thiết nếu phát hiện nguy cơ. Đối

với ung thư đại tràng, việc sàng lọc thường

được thực hiện thông qua xét nghiệm phân và

nội soi đại tràng cho các bệnh nhân có nguy

cơ cao.

Các trung tâm công nghệ Hitachi phát

hiện thấy chất dư thừa trong các m u nước

tiểu đóng vai trò như “chỉ dấu sinh học” -

chất xuất hiện tự nhiên khi một bệnh nào đó

được xác định. Công nghệ mới nhằm nâng

cao khả năng phát hiện sớm ung thư, cứu

sống con người và giảm chi phí y tế và xã hội

cho quốc gia. Nhóm nghiên cứu sẽ phối hợp

với trường Đại học Nagoya thực hiện thử

nghiệm trong thời gian từ tháng 4 đến hết

tháng 9 tới.

Odaira cho rằng: “Chúng tôi đặt mục

tiêu ứng dụng công nghệ vào những năm

2020, dù điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố

như sự chấp thuận của chính quyền”.

Theo vista.gov.vn, 24/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát triển loại thuốc mới để ức chế tế bào gốc ung thư

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 16/60

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã

phát triển được một loại thuốc mới có thể ức

chế sự phát triển và lây lan của các tế bào gốc

ung thư.

Các nhà nghiên cứu từ Vũ Hán và

Thượng Hải đã thông báo rằng một loại thuốc

tổng hợp nhắm đích phân tử gọi là WYC-209

có thể giết chết hoặc ức chế sự gia tăng của

các tế bào gốc của khối u ác tính và ung thư

phổi, buồng trứng và vú.

Thông qua các thí nghiệm trên chuột,

các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng loại

thuốc này cũng có thể ngăn ngừa sự di căn

của ung thư phổi trong 87,5% các trường hợp.

Nghiên cứu được thực hiện bởi Wang

Ning, giáo sư tại Đại học Khoa học và Công

nghệ Huazhong, và Yu Biao, nhà nghiên cứu

tại Viện hóa học hữu cơ Thượng Hải thuộc

Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, đã được

công bố trên tạp chí Nature Communications

vào ngày 11 tháng 4 vừa qua.

Liệu pháp tế bào gốc ung thư là một

chiến lược hiện tại để điều trị ung thư. Các tế

bào gốc ung thư có thể làm giảm nguy cơ các

khối u mới. Wang và Yu bắt đầu hợp tác về

việc tổng hợp loại thuốc mới từ năm 2014.

Theo các nhà nghiên cứu, thí nghiệm

trên động vật cho thấy loại thuốc mới có thể

điều trị các khối u ác tính có độc tính thấp.

Theo vista.gov.vn, 27/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Chẩn đoán sự phát triển của khối u não không cần sinh thiết

Phương pháp mới chẩn đoán khối u não không cần sinh thiết giúp người bệnh tránh được can thiệp xâm lấn đau đớn và điều trị hiệu quả hơn -

Ảnh: Getty Images

Lần đầu tiên, các nhà khoa học Mỹ đã

phát triển một công nghệ cho phép đưa chỉ

dấu sinh học vượt qua hàng rào máu não

giúp phát hiện khối u não chỉ bằng cách xét

nghiệm máu đơn giản.

Theo tạp chí Scientific Reports, các

nhà khoa học đã tìm ra phương pháp chẩn

đoán sự phát triển của khối u não mà không

cần can thiệp ph u thuật, tức là không cần

sinh thiết. Phương pháp này giúp phát hiện

bệnh chỉ với một xét nghiệm máu đơn giản.

Để bảo vệ các tế bào thần kinh của não

khỏi sự thâm nhập của các vi sinh vật, độc tố

và các yếu tố nguy hiểm khác lưu thông trong

máu, trong cơ thể chúng ta luôn có một hàng

rào máu não.

Đó là một loại bộ lọc độc đáo chỉ cho

phép các chất dinh dưỡng cần thiết đi vào

não. Trong một số trường hợp (ví dụ, trong

điều trị các bệnh về hệ thần kinh trung ương),

hàng rào máu não luôn là một khó khăn cho

các bác sĩ, vì nó ngăn cản các loại thuốc xâm

nhập vào não.

Các chuyên gia đã tạo ra được nhiều

loại thuốc để vượt qua “cửa ải” này, nhưng từ

trước đến nay, v n không có cách nào để đưa

một chỉ dấu sinh học đặc biệt tới các tế bào não

giúp có thể nhận ra sự phát triển của khối u.

Lần đầu tiên, các nhà khoa học Mỹ đã

phát triển một công nghệ cho phép đưa chỉ số

sinh học vượt qua hàng rào máu não. Để xác

định mức độ ác tính của khối u não, thường

phải tiến hành sinh thiết - ph u thuật khai

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 17/60

thác một khu vực nhỏ của khối u để nghiên

cứu thêm. Đối với các dạng ung thư khác, có

thể xác định mức độ ác tính qua xét nghiệm

máu, nhưng cho đến nay v n chưa có cách xét

nghiệm máu để xác định khối u não.

Các tác giả của nghiên cứu mới đã sử

dụng một đại phân tử làm chỉ dấu sinh học về

khối u, đó là ARN thông tin (mRNA) giúp

các protein được tổng hợp qua thông tin được

mã hóa trong ADN. Các nhà khoa học đã đưa

vào máu của chuột thí nghiệm bị khối u não

một chất đặc biệt như chiếc bong bóng. Khi

chạm tới hàng rào máu não, bong bóng vỡ ra,

gây tổn thương cho cấu trúc hàng rào máu

não và do đó cho phép mRNA đi qua. Sau đó,

các nhà nghiên cứu tiến hành xét nghiệm máu

định kỳ và xác định các đặc tính của sự phát

triển khối u qua mRNA trong máu.

Theo các nhà nghiên cứu, công nghệ

mới sẽ giúp không chỉ chẩn đoán khối u não

không cần can thiệp ph u thuật mà còn giúp

điều trị khối u một cách hiệu quả hơn.

Theo motthegioi.vn, 29/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung thư

Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm

Dornsife, Đại học Southern California đã chế

tạo được dầu dò nano hybrid mới có khả năng

phát hiện và điều trị bệnh ung thư theo cách

không xâm lấn ở cấp độ của tế bào đơn lẻ.

Fabien Pinaud, Phó giáo sư về khoa

học sinh học, hóa học và vật lý và là đồng tá

giả nghiên cứu đã đưa ra phương pháp

khuếch đại tín hiệu sinh hóa trên bề mặt của

các tế bào ung thư. Kỹ thuật mới liên kết và

lắp ghép các phân tử hữu cơ vàng trong các tế

bào sống bằng cách sử dụng 2 đoạn protein

huỳnh quang làm “keo phân tử”. Các dầu dò

này hoạt động như bộ khuếch đại, làm tăng

khả năng các nhà nghiên cứu phát hiện ra

những dấu hiệu sinh học khác biệt như những

protein biểu hiện quá mức hoặc đột biến được

phát hiện trong các tế bào ung thư.

Tín hiệu tăng cường cho phép các nhà

khoa học phân biệt tế bào ung thư với tế bào

khỏe mạnh thông qua sử dụng quang phổ

Raman, kỹ thuật chụp ảnh laser chuyên dụng.

PGS. Pinaud cho rằng: “Phương pháp của

chúng tôi dựa vào hai loại hạt nano khác nhau

không hoạt động, nhưng trở nên kích hoạt khi

chúng lắp ghép trên các tế bào ung thư”.

Sử dụng khối lắp ghép “keo phân tử”

để thiết kế các đầu dò nano mới là phương

thức phổ biến trong nghiên cứu y sinh hiện

nay, nhưng hầu hết các nhà khoa học tạo nên

các khối lắp ghép này bằng ADN hơn là

protein. Dù các đầu dò quang học triển vọng

đang được chế tạo bằng cách sử dụng các khối

lắp ghép ADN trong ống nghiệm, nhưng ADN

không phải chất dính thực tế trong tế bào sống.

Protein thường mang lại hiệu quả hơn.

Nhóm nghiên cứu bắt đầu với protein

huỳnh quang phát sáng khi ánh sáng xanh

(cực tím) chiếu vào. Protein huỳnh quang

được tách thành hai đoạn và mỗi đoạn được

gắn vào một tập hợp hạt nano vàng. Cả hai

tập hợp hạt nano nằm trên tế bào và liên kết

với các tín hiệu sinh học trên bề mặt tế bào.

Khi các hạt nano va chạm trên tế bào ung thư,

các đoạn protein tự ghép lại một cách tự

nhiên trên toàn bộ protein huỳnh quang.

Quy trình tái cấu trúc có 2 ưu điểm.

Thứ nhất, hoạt động của tín hiệu sinh hóa mới

trong protein huỳnh quang được khuếch đại

mạnh nhờ các hạt nano cho phép phát hiện

hình ảnh Raman. Thứ hai, nhiệt và sóng siêu

âm được phát ra khi laser tác động đến các

hạt nano, có thể được đo bằng máy dò siêu

âm. Ảnh hưởng kép này tạo độ tin cậy cao

trong việc phát hiện một tế bào trên thực tế là

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 18/60

tế bào ung thư, mà không phải là tín hiệu

dương tính giả từ tế bào khỏe mạnh.

Các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ thăm

dò khả năng phá hủy các tế bào ung thư,

nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến tế bào

khỏe mạnh bằng cách sử dụng laser để làm

nóng các hạt nano.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Loại thuốc đầy hứa hẹn có thể ngăn chặn gen gây ung thư

Các nhà khoa học thuộc Trường Đại

học Michigan State đang tiến hành thử

nghiệm một loại thuốc rất hứa hẹn có thể

ngăn chặn một gen liên quan đến chứng béo

phì do ung thư vú và ung thư phổi, cũng như

ngăn ngừa các căn bệnh ung thư này phát

triển. Những phát hiện này, dựa trên nên tảng

của hai công trình nghiên cứu đặc biệt, đã

được công bố trên tạp chí Cancer Prevention

Research mới đây.

Nghiên cứu tiền lâm sàng đầu tiên do

Karen Liby, Phó Giáo sư tại Khoa Dược và

Sinh học d n dắt. Các kết quả cho thấy loại

thuốc có tên là I-BET-762 cho thấy có khả

năng trì hoãn đáng kể sự phát triển của ung

thư vú và ung thư phổi.

“I-BET-762 hoạt động bằng cách

nhắm mục tiêu ADN để nó ức chế một số

protein quan trọng - gồm cả ung thư và tế

bào miễn dịch - và cuối cùng làm giảm số

lượng tế bào ung thư ở chuột xuống 80%”,

Liby cho biết.

Các protein này rất quan trọng bởi vì

chúng đóng một vai trò quan trọng đối với

những gì xảy ra bên trong giữa các tế bào. Ví

dụ, một protein đặc biệt, có tên gọi là

pSTAT3, có thể hoạt hóa trong tế bào miễn

dịch và ngăn không cho chúng thực hiện công

việc của chúng, chẳng hạn như chiến đấu

chống lại ung thư xâm lấn. Protein này cũng

có thể trở nên tăng sinh quá mức bên trong

các tế bào ung thư và hoạt động như một vật

che chở và cuối cùng là bao trùm khối u.

“Trong nghiên cứu của chúng tôi, loại

thuốc này giảm cấp độ của pSTAT3 xuống

50% trong cả hai loại tế bào”, Liby nói.

Nghiên cứu thứ hai, d n đầu bởi Jamie

Bernard, trợ lý giáo sư dược lý và độc tính

học, đã áp dụng những phát hiện trong nghiên

cứu của Liby lên tế bào tiền ung thư. “Chúng

tôi đã xem xét trực tiếp tác động của I-BET-

762 lên tế bào mà nó có thể trở thành khối u

trên người, nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Tuy

nhiên chúng tôi phát hiện ra rằng loại thuốc

này có thể ngăn chặn hơn 50% các tế bào này

trở thành ung thư”. Bernard nói.

Gen c-Myc do các chất béo nội tạng

gây ra, gen này được tìm thấy nằm xung

quanh các cơ quan bên trong cơ thể nhưng nó

trái ngược lại với chất béo dưới da, nằm dưới

da. Mỡ nội tạng này nguy hiểm hơn cho sức

khoẻ của bạn.

Bernard cho biết, gần 500 dạng ung thư

mới liên quan đến béo phì. Có bằng chứng

rằng chế độ ăn có chất béo nội tạng và nhiều

chất béo có thể làm tăng nguy cơ ung thư, và

mặc dù các phương pháp điều trị ung thư hiện

nay đã giúp làm giảm tỉ lệ tử vong do ung thư,

nhưng số lượng các bệnh ung thư liên quan

đến béo phì v n ngày càng tăng lên. “Do sự

thành công hạn chế trong việc làm giảm tỷ lệ

tử vong cao ở những bênh nhân ung thư vú và

ung thư phổi, các phương pháp phòng ngừa

mới là rất cần thiết”, Bernard nói.

Các loại thuốc mà hoạt động tương tự

như I-BET-762 cũng đang được thử nghiệm

trong các thử nghiệm lâm sàng để điều trị một

loạt các loại ung thư khác bao gồm ung thư

bạch cầu, lymphoma, u não và u tủy. Liby và

Bernard hy vọng I-BET-762 sẽ làm tăng cơ

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 19/60

hội sống sót của bệnh nhân ung thư vú và ung

thư phổi.

“Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là sẽ

làm rõ những gì cần phải được nhắm đích và

do đó có thể được sử dụng để ngăn ngừa ung

thư ở những bệnh nhân có nguy cơ cao”,

Bernard cho biết.

Theo vista.gov.vn, 03/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các loại thuốc cho bệnh ung thư ruột già mới có thể nghiên cứu từ protein

Các phương pháp điều trị ung thư ruột

già tốt hơn có thể được phát hiện qua một

nghiên cứu mới, loại protein duy nhất có thể

ngăn chặn sự phát triển bệnh. Nhóm nghiên

cứu nhận thấy rằng protein có tên APC có thể

"phanh" sự tiến triển của những tế bào d n

đến sự phát triển của ung thư ruột già. Khám

phá này có thể mở cánh cửa cho những loại

thuốc mới cho ung thư kết trực tràng. Đồng

tác giả nghiên cứu, Tiến sĩ Yashi Ahmed, đến

từ Trung tâm Ung thư Norris ở Trường Y

khoa Geisel ở Hanover - Đức và các cộng sự

đã báo cáo kết quả của họ trên tạp chí

Developmental Cell.

Ung thư đại trực tràng bắt đầu từ đại

tràng hoặc trực tràng, hiện nay là ung thư phổ

biến thứ ba ở Hoa Kỳ. Đây cũng là nguyên

nhân thứ ba gây tử vong do ung thư. Ở thời

điểm hiện tại, khoảng 97.220 ca ung thư ruột

già được chẩn đoán ở Hoa Kỳ. Các nhà khoa

học đã xác định được APC - một protein có

tiềm năng của gen APC, như mục tiêu có thể

phòng ngừa ung thư đại trực tràng; protein

điều hòa sự phát triển và sự phân chia của tế

bào, ngăn chặn chúng thoát khỏi sự kiểm soát

và hình thành khối u. Mặt khác, việc ngừng

hoạt động của APC có thể thúc đẩy sự phát

triển của ung thư đại trực tràng.

Tiến sĩ Ahmed và các đồng nghiệp giải

thích rằng khi nói đến vai trò bảo vệ chống

ung thư của APC, họ thấy các protein mục

tiêu và phá hủy một "chất kích hoạt" duy

nhất, protein đó gọi là beta-catenin để phòng

ngừa ung thư ruột già. Bằng cách nghiên cứu

các tế bào ruồi giấm với APC - có khoảng

75% gen gây bệnh ở người, họ phát hiện ra

những cơ chế khác mà APC có thể ngăn chặn

ung thư ruột già.

Các tác giả cho biết: "Chúng tôi thấy

rằng việc ngăn chặn sự hoạt động của thụ thể

Wnt trong các tế bào thiếu APC ức chế sự

truyền tín hiệu Wnt một cách độc lập với phối

tử Wnt. Và việc kích hoạt thụ thể Wnt và tăng

mức beta-catenin. Những phát hiện này thách

thức cái nhìn hiện nay về cách APC ngăn

ngừa ung thư kết trực tràng, và vai trò của

APC sẽ rộng và đa dạng hơn”.

Hơn nữa, các nhà nghiên cứu tin rằng

khám phá của họ có thể d n tới các phương

pháp điều trị mới cho một trong những loại

ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất. Tiến

sĩ Ahmed giải thích, "Vì vai trò mới của APC

liên quan đến các protein trên bề mặt tế bào",

việc làm ung thư đại trực tràng có thể trở nên

dễ dàng hơn. Ví dụ, các kháng thể trị liệu,

thông thường không thể hoạt động trong tế

bào, bây giờ có thể được sử dụng để điều trị

ung thư đại trực tràng có đột biến APC.

Đồng tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Ethan

Lee đến từ Đại học Vanderbilt ở Nashville,

TN, cho biết thêm: “Nghiên cứu của họ cũng

có thể giúp các nhà nghiên cứu hiểu tại sao

đột biến của APC dường như là một nhân tố

chủ chốt trong các bệnh ung thư”. Và chúng

tôi cần có thêm các nghiên cứu để khám phá

những chi tiết sâu hơn về cách APC có thể

ngăn chặn ung thư ruột già.

Theo vista.gov.vn, 11/04/2018

Trở về đầu trang

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 20/60

**************

Giải pháp mới ngăn ung thư gan tái phát

Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã xác

định một hợp chất nhân tạo từ vitamin A có

thể tác động vào một lớp tế bào gốc ung thư

gan, ngăn chúng phát triển và tạo ra những

khối u mới

Nhóm nghiên cứu do chuyên gia

Soichi Kojima đến từ Trung tâm RIKEN Nhật

Bản đứng đầu đã phát hiện ra acyclic retinoid

(hay còn gọi là Peretinoin) có thể ngăn chặn

các tế bào ung thư gan HCC (ung thư biểu mô

tế bào gan) tái sản sinh.

Nhóm nghiên cứu đã so sánh bản sao

của những tế bào ung thư được tiếp xúc với

acyclic retinoid và những tế bào ung thư

không tiếp xúc với hợp chất này.

Kết quả cho thấy những tế bào của

nhóm 1 có ít gene MYCN (loại gene thường

xuất hiện trong tế bào ung thư và có liên hệ

tới tình trạng tiên lượng xấu) hơn so với

nhóm 2.

Sau khi thực hiện thêm một số so sánh,

các nhà khoa học tin rằng việc giảm số lượng

gien MYCN có thể giúp làm chậm quá trình

phát triển của tế bào ung thư gốc, loại tế bào

đặc biệt, có thể sống sót qua quá trình ph u

thuật hay hóa trị.

Các thí nghiệm cũng chỉ ra, khi tiếp

xúc với acyclic retinoid với một phù hợp,

những tế bào gốc ung thư EpCAM-positive sẽ

bị tiêu diệt một cách có chọn lọc và khi kiểm

tra các m u sinh thiết của các bệnh nhân ung

thư sau ph u thuật được sử dụng acyclic

retinoid, nhóm nghiên cứu cũng tìm thấy

MYCN giảm trong 4/6 trường hợp được sử

dụng 600 mg/ngày.

Hiện nhóm nghiên cứu đang thực hiện

những thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 trong

việc sử dụng acyclic retinoid để ngăn chặn tái

phát ung thư gan HCC.

Ung thư gan HCC là dạng ung thư gan

gây ra tỉ lệ tử vong lớn và có tỷ lệ tái phát cao

nên dù có thể được điều trị hiệu quả nhờ

những biện pháp ph u thuật can thiệp thì sau

đó bệnh sẽ trở lại rất nhanh.

Điều trị khỏi bệnh bằng ph u thuật cắt

bỏ và ghép gan là các lựa chọn được chỉ định

đối với một thiểu số bệnh nhân bị ung thư

HCC; hơn 80% bệnh nhân bị HCC có các

khối u tiến triển và không thích hợp đối với

những can thiệp chữa khỏi bệnh này. Ngoài

ra, trong số những bệnh nhân đã trải qua trị

liệu có khả năng chữa khỏi bệnh, tỉ lệ tái phát

cao là 50% vào thời điểm 2 năm.

Kết quả nghiên cứu trên đã cung cấp

một gợi ý quan trọng cho việc can thiệp giảm

thiểu nguy cơ tái phát và điều trị cho bệnh

nhân ung thư gan.

Theo baochinhphu.vn, 25/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà nghiên cứu phát triển quy trình mới để phân biệt các tế bào gốc

Đau cổ và lưng làm suy nhược và tốn

kém: khoảng 80% người lớn sẽ bị một hoặc

cả hai trường hợp ở một thời điểm nào đó

trong suốt cuộc đời của họ, thu về 86 tỷ đô la

chi phí y tế và mất việc ở Hoa Kỳ. Thông

thường, căn bệnh này là do các đĩa đệm bị tổn

thương, gãy vỡ, các vật chịu tải nặng, những

cấu trúc giống như bánh rán làm lớp đệm cho

các xương cột sống và được làm chủ yếu

bằng mô gọi là nhân mềm (nucleus pulposus -

NP). Các nhân mềm có thể thoái hóa theo độ

tuổi, làm cho các đĩa đệm bị mất hình dạng và

vỡ gãy - d n đến bệnh nhânh bị đau đớn.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 21/60

Trong khi các nhà khoa học nỗ lực tìm

ra các phương pháp trị liệu sớm để chống lại

căn bệnh thoái hóa đĩa thì hiện nay nhóm các

nhà nghiên cứu có quan tâm lớn đến việc khai

thác các tế bào gốc để khôi phục lại nhân

mềm, viết tắt là NP. Nghiên cứu trước đây

cho thấy các tế bào gốc đa nhân tạo từ người

(hiPSCs) được sản sinh trực tiếp từ tế bào

trưởng thành có thể biểu hiện các dấu hiệu

sinh học của nhiều tế bào kể các những tế bào

tiết ra NP.

Hiện nay, một nhóm các nhà khoa học

thuộc Đại học Washington tại St. Louis đã

phát triển được một quy trình mới tạo ra các

tế bào giống NP từ hiPSCs. Quy trình này

quay ngược lại từ đầu và bắt chước hệt quy

tình phát triển của phôi.

Lori Setton, giáo sư kỹ thuật y sinh ưu

tú, đồng thời là giáo sư Khoa Kỹ thuật Y sinh

học thuộc Trường Đại học Kỹ thuật và Khoa

học ứng dụng, cho biết: “Những gì chúng tôi

làm ở đây là nghiên cứu phát triển sinh học

trước khi chúng tôi thiết kế thử nghiệm. Đây là

những gì khác biệt trong nghiên cứu đặc biệt

này, chúng tôi đã tạo ra được một giao thức

khác biệt để bắt chước sự phát triển phôi”.

Trong các dự án trước đây, các nhà

khoa học đã cố gắng bắt nguồn từ nhiều loại

tế bào đã được phân biệt từ tế bào gốc như

xương, mô, dây thần kinh hoặc chất béo - trực

tiếp dựa vào hiPSCs. Setton và nhóm của cô

bắt đầu lại từ đầu, lần đầu tiên tìm ra một loạt

các bước để tạo ra một trong những cấu trúc

giống phôi thai hình thành sớm nhất có tên là

dây sống (notochord). Ở người, dây sống này

là một giống thanh sụn và nó tiến hóa thành

cột sống trong quá trình phát triển trong ống

nghiệm.

Nhóm của Setton đã hợp tác nghiên

cứu với Farshid Guilak, giáo sư ph u thuật

chỉnh hình tại Trường Đại học Y Washington,

và là giám đốc nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi

Shriners, tại St. Louis thực hiện một quá trình

nghiên cứu kéo dài ba năm.

Phòng thí nghiệm của Setton đã phơi

nhiễm hiPSC với nhiều yếu tố tăng trưởng và

môi trường nuôi cấy khác nhau để tạo ra các

chỉ dấu sinh học phát triển đầu tiên, và sau đó

định thành đầy đủ thành các tế bào dây sống.

Khi các nhà khoa học có các tế bào dây sống

này, họ áp dụng quá trình tiếp xúc hóa học

tương tự để phát triển chúng thành các tế bào

dạng NP. Phòng thí nghiệm đã theo dõi quá

trình phân biệt này bằng việc sử dụng phương

pháp tạo ảnh tế bào huỳnh quang, đây là

phương pháp kiểm tra các chỉ dấu sinh học

cần thiết trong từng bước nghiên cứu.

Công trình nghiên cứu của họ đã được

công bố trên tạp chí Stem Cell Research &

Therapy mới đây.

Setton nói rằng quá trình đa bước

phòng thí nghiệm của cô sử dụng để chuyển

hóa các tế bào dạng NP từ hiPSCs cung cấp

sự kiểm soát chất lượng rất cần khi các nhà

khoa học bổ sung ứng dụng cho các liệu pháp

tế bào gốc.

“Khi nghĩ đến một sản phẩm y học đã

được điều chỉnh, chúng ta cần phân loại nó ở

từng giai đoạn sử dụng và ở mỗi giai đoạn

phát triển. Như thể bạn đang sản xuất một bộ

phận ô tô, bạn kiểm soát chất lượng ở mọi

giai đoạn. Đó là những gì chúng tôi đã làm ở

đây”, Cô nói.

Các bước tiếp theo của nghiên cứu bao

gồm đánh giá các tín hiệu môi trường như độ

cứng của bề mặt nuôi cấy, địa hình tế bào và

cách thức một tế bào gắn kết và quan sát tác

động của chúng trong việc chuyển đổi các

hiPSCs.

Theo vista.gov.vn, 24/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các nhà nghiên cứu phát triển miếng dán trong suốt có khả năng phát hiện thực phẩm không an toàn

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 22/60

Một nhóm các nhà khoa học bao gồm

các kỹ sư cơ khí và hóa học với các nhà sinh

hóa thuộc trường Đại học McMaster, Canada

đã hợp tác để thử nghiệm và phát triển một

miếng dán trong suốt được gắn các phân tử

vô hại có khả năng phát ra những tín hiệu

cảnh báo trong trường hợp thực phẩm bị ô

nhiễm. Miếng dán có thể được gắn trực tiếp

lên bao bì thực phẩm vì đây là vị trí lý tưởng

để nó có thể theo dõi dấu hiệu của sự xuất

hiện các mầm bệnh như vi khuẩn E. coli và

Salmonella gây tiêu chảy. Công nghệ mới là

câu trả lời cụ thể, chắc chắn cho câu hỏi tuy

tế nhị nhưng lại có ý nghĩa quan trọng về mức

độ vệ sinh an toàn của thực phẩm tươi sống

như thịt và các loại thực phẩm khác.

Trong tạp chí nghiên cứu ACS Nano,

công nghệ mới được mô tả và đánh giá là có

tiềm năng thay thế cho hạn "best before" -

hạn sử dụng thường thấy trên các sản phẩm

đông lạnh, đồ hộp hoặc thức ăn khô, các thực

phẩm có thể để được lâu nhằm chỉ chất lượng

của thực phẩm hơn là mức độ an toàn. Khi

đọc loại hạn sử dụng này có nghĩa là sản

phẩm có thể để đến ngày cuối cùng mà v n

đảm bảo chất lượng tốt nhất.

Tác giả nghiên cứu Hanie Yousefi,

nghiên cứu sinh và trợ lý nghiên cứu Khoa

Kỹ thuật, McMaster cho biết: "Trong tương

lai, khi bạn đi đến một cửa hàng và muốn

chắc chắn về mức độ vệ sinh an toàn của loại

thực phẩm bạn muốn mua tại bất kỳ thời điểm

nào trước khi sử dụng, bạn có thể sử dụng

phương pháp mới được đánh giá là đáng tin

cậy hơn nhiều so với ngày hết hạn".

Khi có dấu hiệu về sự xuất hiện của

một mầm bệnh bên trong thực phẩm hoặc đồ

uống, nó sẽ kích hoạt một tín hiệu trong bao

bì thông qua một ứng dụng được cài đặt sẵn

trong điện thoại thông minh hoặc các thiết bị

đơn giản khác. Quá trình kiểm tra hoàn toàn

không làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản

phẩm.

Theo công bố mới đây của Tổ chức Y

tế thế giới (WHO), mỗi năm có hơn 600 triệu

người mắc các bệnh do tiêu thụ các loại thực

phẩm ô nhiễm, trong đó, có khoảng 420.000

ca tử vong. Đáng chú ý, gần 1/3 số ca tử vong

là trẻ em trong độ tuổi từ năm trở xuống.

Các nhà nghiên cứu đặt tên cho vật liệu

mới là "Sentinel Wrap" để tôn vinh mạng lưới

Sentinel Bioactive Paper của McMaster vốn là

một mạng lưới nghiên cứu liên ngành làm việc

trên các hệ thống phát hiện dựa trên giấy. Từ

nghiên cứu của mạng lưới d n đến sự ra đời

của công nghệ thử nghiệm thực phẩm mới. Kỹ

sư hoá học Carlos Filipe và kỹ sư sinh y học

cơ khí Tohid Didar đã hợp tác chặt chẽ với dự

án nghiên cứu công nghệ mới này.

Filipe, Chủ tịch Phòng Kỹ thuật Hóa

học của McMaster, chia sẻ: "Yingfu Li là

người đã tìm ra chiếc chìa khoá, còn chúng

tôi tạo ra ổ khóa và một cánh cửa tương ứng

đi kèm”. Công nghệ phát tín hiệu để kiểm tra,

giám sát an toàn vệ sinh thực phẩm được phát

triển trong phòng thí nghiệm hóa sinh của nhà

hóa sinh Yingfu Li.

Các chuyên gia cho biết điều kiện sản

xuất ra thiết bị miếng dán tương đối đơn giản,

chi phí rẻ, do các phân tử ADN phát hiện các

mầm bệnh trong thực phẩm có thể dễ dàng

được gắn trên vật liệu thử.

Didar, trợ lý giáo sư về kỹ thuật cơ khí

đồng thời là thành viên của Viện nghiên cứu

Bệnh truyền nhiễm McMaster, cho biết: "Bất

kỳ một nhà sản xuất thực phẩm nào cũng có

thể dễ dàng ứng dụng công nghệ mới vào quá

trình sản xuất”.

Nhóm nghiên cứu cho biết để đưa sáng

chế đến với thị trường cần một đối tác thương

mại cũng như chấp thuận quy định. Họ chỉ ra

rằng công nghệ trên cũng có thể được áp

dụng trong các ứng dụng khác, chẳng hạn như

miếng dán hiển thị dấu hiệu nhiễm trùng của

vết thương hoặc để bọc dụng cụ ph u thuật để

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 23/60

đảm bảo duy trì trạng thái vô trùng của những

dụng cụ đó.

Theo vista.gov.vn, 13/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Đột phá trong việc lọc nước bằng ánh nắng mặt trời và hydrogel

Theo thông tin của Liên Hợp Quốc,

mỗi tuần có 30.000 người chết do tiêu thụ và

sử dụng nước không hợp vệ sinh. Dù phần

lớn các trường hợp tử vong này xảy ra tại các

nước đang phát triển, nhưng Hoa Kỳ cũng

không còn xa lạ với tình trạng thiếu nước

ngoài dự kiến, đặc biệt là sau các thảm họa tự

nhiên như bão, có thể làm gián đoạn nguồn

cung cấp nước nhưng không báo trước.

Vì thế, nhóm nghiên cứu tại trường

Đại học Texas do Guihua Yu, phó giáo sư

khoa học vật liệu và kỹ thuật cơ khí d n đầu,

đã phát triển được công nghệ nhỏ gọn và chi

phí hiệu quả bằng cách sử dụng kết hợp vật

liệu hybrid gel-polyme. Các hydrogel này

(mạng lưới chuỗi polyme nổi tiếng với khả

năng hút nước) có cả tính chất ưu nước (hút

nước) và tính chất bán d n (hấp thụ năng

lượng mặt trời) cho phép sản xuất nước uống

sạch và an toàn từ bất cứ nguồn nước nào, dù

là nước biển hoặc các nguồn cung cấp nước ô

nhiễm. Kết quả nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí Nature Nanotechnology.

Nhóm nghiên cứu đã chế tạo máy sản

xuất hơi nước bằng năng lượng mặt trời dựa

vào hydrogel mới, sử dụng năng lượng mặt

trời trong môi trường tự nhiên để cấp năng

lượng cho quá trình bốc hơi nước để khử

muối hiệu quả. Các công nghệ hóa hơi bằng

năng lượng mặt trời hiện có được áp dụng để

xử lý nước mặn liên quan đến một quy trình

rất tốn kém phụ thuộc vào các công cụ quang

học để thu ánh nắng mặt trời. Các nhà khoa

học đã tạo ra loại gel có cấu trúc nano cần rất

ít năng lượng và chỉ cần ánh nắng mặt trời

xuất hiện bình thường trong tự nhiên để hoạt

động trong khi cũng có khả năng làm tăng

mạnh khối lượng nước bốc hơi.

Hydrogel mới cho phép sản sinh hơi

nước trong điều kiện ánh nắng chiếu trực tiếp

và sau đó bơm vào bình ngưng để phân phối

nước ngọt. Tính chất khử muối của hydrogel

thậm chí được thử nghiệm trên các m u nước

mặn được thu nhập từ Biển chết và kết quả đã

thành công tuyệt vời. Sử dụng các m u nước

từ một trong những thủy vực mặn nhất Trái

đất, nhóm nghiên cứu đã khử được muối từ

các m u nước mặn ở Biển chết sau khi áp

dụng quy trình dựa vào hydrogel. Trên thực

tế, nước thu được đã đáp ứng các tiêu chuẩn

về nước uống do Tổ chức Y tế thế giới và Cơ

quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đề ra.

PGS. Yu cho biết: “Các thử nghiệm

được thực hiện ngoài trời cho thấy sản lượng

nước chưng cất hàng ngày đạt 25 lít/m2, đủ

đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình và thậm chí

cho các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai.

Tốt nhất, hydrogel nên được trang bị để thay

thế thành phần lõi trong các hệ thống khử

muối bằng năng lượng mặt trời hiện có, từ

đó, không cần cải tiến toàn bộ hệ thống khử

mặn đã được sử dụng”.

Vì muối là một trong những chất khó

tách khỏi nước nhất, nên các nhà nghiên cứu

cũng đã chứng minh thành công khả năng của

hydrogel trong việc lọc một số chất ô nhiễm

phổ biến khác trong nước được xem là không

an toàn để tiêu thụ.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 24/60

PGS. Yu tin rằng công nghệ có thể

được thương mại hóa. Công nghệ sẽ có tiềm

năng tác động mạnh hơn hơn khi nhu cầu

nước ngọt trên toàn cầu vượt quá các nguồn

cung cấp tự nhiên hiện có.

Theo vista.gov.vn, 17/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Graphene có thể được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện

Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Northwestern đã giải quyết được vấn đề tồn

tại hơn một thế kỷ qua nhờ có khoa học vật

liệu: Đó là việc nhuộm tóc quá thường xuyên

gây tổn thương cho mái tóc suôn mượt của

bạn. Các nhà khoa học đã sử dụng siêu vật

liệu graphene để chế tạo loại thuốc nhuộm tóc

mới không độc, vô hại và giữ màu tóc sau

nhiều lần gội. Tính chất d n điện của

graphene cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho

tóc như biến đổi nó thành các điện cực tại chỗ

hoặc kết hợp với các thiết bị điện tử mang

theo người.

Nhuộm tóc xem ra là thao tác đơn giản

và bình thường, nhưng trên thực tế lại là một

quá trình hóa học tinh vi. Lớp ngoài cùng của

sợi tóc là lớp biểu bì, được hình thành từ các

tế bào chồng lên nhau trong một mô hình

giống như vảy. Thuốc nhuộm tóc thương mại

hoạt động nhờ sử dụng các hóa chất mạnh

như amoniac và thuốc tẩy để mở lớp biểu bì

cho các phân tử thuốc nhuộm đi vào bên

trong và sau đó kích thích phản ứng bên trong

tóc để tạo màu. Quá trình này không chỉ

khiến cho tóc trở nên dễ gãy mà một số phân

tử nhỏ cũng trở nên khá độc hại.

Nhóm nghiên cứu đã không sử dụng

các hóa chất độc hại nhờ khai thác hình dạng

tự nhiên của các tấm graphene. Dù các loại

thuốc nhuộm hiện nay sử dụng hỗn hợp phân

tử nhỏ hoạt động bằng cách làm thay đổi tóc

về mặt hóa học, nhưng các tấm graphene

mềm và dẻo, do đó, chúng quấn quanh mỗi

sợi tóc một lớp phủ. Công thức này cũng kết

hợp các chất dính polymer không độc hại và

có thể ăn được để đảm bảo rằng graphene

dính và tồn tại sau ít nhất 30 lần gội, là yêu

cầu về mặt thương mại đối với thuốc nhuộm

tóc lâu dài. Ngoài ra, graphene còn chống tĩnh

điện nên tóc ít bị bay vào mùa đông.

So sánh hình dạng của graphene với

hình dạng của các hạt sắc tố đen khác như

cacbon đen hoặc oxit sắt chỉ được sử dụng

trong thuốc nhuộm tóc tạm thời, Huang giải

thích: “Tương tự như sự khác biệt giữa giấy

ướt và quả bóng tennis. Giấy ướt sẽ bao phủ

và bám tốt hơn nhiều. Các hạt hình dạng của

quả bóng dễ dàng bị rửa trôi bằng dầu gội”.

Hình dạng của graphene cũng góp phần giải

thích vì sao graphene là giải pháp an toàn.

Trong khi các phân tử nhỏ có thể dễ dàng bị

bị nuốt hoặc di chuyển qua hàng rào của da,

thì graphene có kích thước quá lớn để thâm

nhập vào cơ thể.

Graphene, mạng lưới cacbon 2 chiều,

đã phát triển mạnh mẽ vào năm 2004 với vô

số ứng dụng tiềm năng. Nhưng để phát triển

các ứng dụng đó, vật liệu graphene phải hoàn

hảo về cấu trúc ở mức có thể để có được

những tính chất điện, cơ hoặc nhiệt tuyệt vời.

Đối với thuốc nhuộm mới, tính chất quan

trọng nhất của graphene là màu đen. Do đó,

nhóm nghiên cứu đã sử dụng oxit graphene,

chất d n xuất oxy hóa sẵn có, giá rẻ. Các loại

thuốc nhuộm khác trong tương lai có thể khai

thác các tính chất đáng chú ý của graphene

như tính chất d n điện tốt. Cho đến nay,

nhóm nghiên cứu đã tạo ra loại thuốc nhuộm

tóc từ graphene với các màu nâu và đen,

nhưng dự kiến sẽ thử nghiệm nhiều màu hơn.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 25/60

Theo vista.gov.vn, 28/03/2018 Trở về đầu trang

**************

Vật liệu cấu trúc hình lá có thể xử lý tràn dầu

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Southern California đã dựa vào cấu trúc của

lá cây để chế tạo vật liệu tách dầu khỏi nước,

có triển vọng cho ra đời một phương pháp

làm sạch tràn dầu hiệu quả và an toàn.

Ngoài ra, vật liệu còn có khả năng

“điều khiển giọt nhỏ” hoặc vận chuyển khối

lượng nhỏ chất lỏng. Kỹ thuật vi lưu dựa vào

giọt nhỏ là công cụ được sử dụng trong nhiều

ứng dụng như nuôi cấy tế bào, tổng hợp hóa

học và lập trình tự AND

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương

pháp in 3D để mô phỏng thành công hiện

tượng sinh học trong lá cây được gọi là “hiệu

ứng bèo ong”. Những chiếc lá độc đáo này

siêu chống thấm nước, nghĩa là kỵ nước và

giữ lại túi khí ở xung quanh khi ngập trong

nước do sự xuất hiện của các sợi lông chống

thấm nước.

PGS. Yong Chen, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng bề mặt lá cây chống thấm nước

rất tốt là do cây sống trên mặt nước và cần

không khí để sinh tồn. Nếu thiếu không khí

cho sự phát triển lâu dài của cây, cây có thể

ngập chìm trong nước và sẽ chết.

Cấu trúc chống thấm nước

Ở cấp độ vi mô, các sợi lông trên lá

sắp xếp thẳng hàng theo một cấu trúc giống

như máy đánh trứng. Bề mặt lá của bèo ong

bao gồm cấu trúc như “máy đánh trứng” có

khả năng chống thấm nước tuyệt vời.

Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương

pháp in 3D tích tụ trên bề mặt ngập nước để

tạo ra vi cấu trúc của máy đánh trứng trong

các m u được làm từ nhựa và các ống nano

cacbon. Phương pháp này cho phép nhóm

nghiên cứu chứng minh khả năng chế tạo vật

liệu có cả hai tính chất siêu chống thấm nước

và hút dầu để tạo ra lực mao mạch giúp tách

dầu khỏi nước với hiệu quả cao.

Các nhà khoa học đã in 3D m u vật

liệu có thể tách thành công dầu khỏi nước

trong các thủy vực rộng. Nhóm nghiên cứu hy

vọng công nghệ có thể được áp dụng để sản

xuất vật liệu trên quy mô lớn phục vụ xử lý

tràn dầu ở phạm vi rộng như đại dương. Các

phương pháp hiện nay cần nhiều năng lượng

ở dạng điện trường hoặc áp suất cơ học.

Ứng dụng vi lưu

“Hiệu ứng bèo ong” còn có triển vọng

cho công nghệ xử lý chất lỏng thực hiện “điều

chỉnh hạt nhỏ” - bước đột phá trong đó mức

độ bám dính của chất lỏng vào cánh tay rô bốt

có thể được điều chỉnh phù hợp và d n đến

khả năng vận chuyển khối lượng nhỏ chất

lỏng mà không bị tổn thất. Kỹ thuật có thể

được áp dụng theo nhiều phương thức như

tổng hợp hạt nano, kỹ thuật mô, phát hiện

thuốc và theo dõi phân phối thuốc.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp

chí Advanced Materials.

Theo vista.gov.vn, 30/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 26/60

Vật liệu bền vững mới giá rẻ giảm ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước

Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học

Brescia đã chế tạo được một loại vật liệu

hybrid mới bền vững và có giá thành rẻ như

lựa chọn thay thế than hoạt tính trong việc xử

lý nước thải và giảm ô nhiễm không khí. Vật

liệu này được tổng hợp với chi phí thấp từ

chất thải rắn và polymer dồi dào trong tự

nhiên và có thể khử các chất ô nhiễm trong

không khí và nước thải hiệu quả hơn cacbon

hoạt tính, chất hấp phụ đáp ứng tiêu chuẩn

vàng hiện nay.

TS. Elza Bontempi, trưởng nhóm

nghiên cứu cho biết: “Báo cáo nêu rõ việc

tổng hợp dễ dàng vật liệu hybrid xốp là có thể

thực hiện nhờ sử dụng các vật liệu giá rẻ và

phụ liệu. Vật liệu được chế tạo trên cơ sở yêu

cầu của Ủy ban châu Âu về việc phát triển

dung dịch từ vật liệu mới giá rẻ và bền vững

để giảm nồng độ chất hạt trong các khu đô

thị”.

Chất hạt - các hạt chất rắn và giọt nhỏ

chất lỏng được tìm thấy trong không khí và

phát thải từ các nhà máy điện, ngành công

nghiệp, ô tô và các đám cháy - xuất hiện phổ

biến trong các thành phố và thậm chí ở nông

thôn. Ngoài ra, mỗi năm, hàng triệu tấn nước

thải công nghiệp đổ vào các thủy vực trên thế

giới. Cả chất hạt và thuốc nhuộm hữu cơ đều

gây độc ở mức cao cho các hệ sinh thái và

con người.

Than hoạt tính là chất hấp phụ phổ

biến nhất được dùng để giảm ô nhiễm trong

khí quyển và ô nhiễm nước thải, nhưng có chi

phí sản xuất và tái tạo cao. Thách thức nằm ở

việc tìm kiếm một lựa chọn thay thế tiết kiệm.

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã kết

hợp sodium alginate (polysaccharide có thể

được chiết tách từ cỏ biển và tảo), nguyên

liệu dồi dào trong tự nhiên với khói silica (sản

phẩm phụ của quá trình ferrosilicon hay xử lý

hợp kim silicon), phụ phẩm công nghiệp có

khối lượng lớn để sản xuất chất hấp phụ xanh

tốt hơn than hoạt tính.

Theo TS. Bontempi, các kết quả ban

đầu cho thấy khả năng hấp phụ chất hạt của

vật liệu mới. Vật liệu cũng được sử dụng để

xử lý nước thải. Đặc biệt, khả năng thay thế

cacbon hoạt tính đã được chứng minh.

Phương pháp tổng hợp vật liệu hybrid

mới dễ dàng mở rộng quy mô. Các nhà khoa

học đã khai thác tính chất gel của alginate kết

hợp với sự phân tách của baking soda để gia

cố vật liệu. Thí nghiệm gây ô nhiễm nước thải

đã được thực hiện bằng cách sử dụng thuốc

nhuộm xanh metylen như m u chất ô nhiễm.

Vật liệu hybrid đã hấp phụ và khử thuốc

nhuộm thậm chí ở nồng độ cao với hiệu quả

lên đến 94%.

Các phân tích cho thấy so với than hoạt

tính, hoạt động sản xuất vật liệu hybrid tiêu

thụ ít năng lượng trong khi phát thải ít cacbon

hơn nhiều. Vật liệu cũng được chứng minh có

khả năng b y chất hạt từ khói thải diesel. Bên

cạnh đó, vật liệu mới cũng có thể được dùng

làm lớp mạ để phun hoặc quét sơn và được sử

dụng để in 3D. Nghĩa là vật liệu sẽ bao phủ

các mặt ngoài của tòa nhà để loại bỏ chất hạt,

cũng như thiết kế bộ lọc nước. Tính linh hoạt

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 27/60

của vật liệu bổ sung cho bộ công cụ giảm ô

nhiễm không khí và ô nhiễm nước.

Theo vista.gov.vn, 30/03/2018

Trở về đầu trang

**************

Công nghệ đóng mở van mới hứa hẹn khả năng phát triển các loại động cơ sạch, ít tốn kém

Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ trường

Đại học Waterloo, Canada vừa phát triển

thành công giải pháp công nghệ mới được

đánh giá là đáng tin cậy, giúp nâng cao mức

độ hiệu quả hoạt động của động cơ đốt trong

lên đến hơn 10%.

Công nghệ mới là sản phẩm của công

trình nghiên cứu trong vòng 10 năm qua và đã

được cấp bằng sáng chế cho giải pháp van

đóng mở, giúp giảm thiểu đáng kể mức tiêu

thụ nhiên liệu của các loại động cơ từ động cơ

tàu biển cho đến động cơ xe van nhỏ.

Amir Khajepour, giáo sư về cơ khí và

cơ điện tử tại Đại học Waterloo, cho biết:

"Giải pháp mới của chúng tôi với ưu điểm là

mức chi phí và độ phức tạp không đáng kể, có

tiềm năng mang lại những lợi ích thiết thực

của hệ thống van biến thiên ngoài phạm vi

phòng thí nghiệm và có khả năng ứng dụng

trong các động cơ sản xuất”.

Thông thường, van nạp và van xả

trong động cơ đốt trong thường được điều

khiển bởi các trục cam sao cho thời gian trục

khuỷu đóng mở van không thay đổi. Trong

nghiên cứu mới, các chuyên gia đã thay thế

trục cam bằng xi lanh thủy lực và van thủy

lực quay cho phép thay đổi thời điểm đóng

mở van biến thiên khi tốc độ và momen xoắn

của động cơ thay đổi. Khả năng điều chỉnh

thời gian đóng mở van dựa vào hoạt động của

động cơ là điểm mấu chốt giúp gia tăng hiệu

suất tiêu thụ nhiên liệu cũng như là giải pháp

giảm thiểu phát thải khí nhà kính cũng như

chi phí.

Khajepour, giám đốc Phòng thí

nghiệm Hệ thống Phương tiện Cơ điện tử của

Waterloo, chi biết: "Giải pháp mới được đánh

giá là lý tưởng, giúp động cơ của van luôn ở

trong trạng thái hoàn toàn có thể điều khiển

được".

Mặc dù trước đó đã có rất nhiều hệ

thống có khả năng thay đổi thời gian đóng mở

van, nhưng việc sử dụng động cơ mới chỉ giới

hạn trong phạm vi phòng thí nghiệm do chi

phí và tính phức tạp cao. Công nghệ được

phát triển và thử nghiệm tại Waterloo rất đơn

giản và chi phí ít tốn kém, mang lại hy vọng

cho khả năng sử dụng động cơ để sản xuất

điện năng, phương tiện khai thác mỏ, ngành

công nghiệp vận tải và các ứng dụng khác,

trong đó có cả thị trường công nghiệp ô tô.

Khajepour cho biết giải pháp biến đổi

thời gian đóng mở van ít tốn kém và đáng tin

cậy giúp làm giảm đáng kể lượng carbon

trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống điện

sạch hơn trong vài thập kỷ tới. Thậm chí, mức

độ hiệu quả có thể tăng lên đến hơn 10%.

Nghiên cứu về giải pháp tối ưu hóa hệ thống

van thủy lực biến thiên dựa trên một nghiên

cứu được bắt đầu thực hiện vào năm 2008 và

được đăng tải trên tạp chí Mechatronics.

Theo vista.gov.vn, 05/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 28/60

Oxit kim loại tự hàn gắn có thể bảo vệ chống ăn mòn

Các nhà nghiên cứu tại Viện Công

nghệ Massachusetts (MIT) đã phát hiện ra

rằng lớp bảo vệ rắn bằng oxit kim loại, khi

được sử dụng dưới dạng lớp mỏng vừa phải,

có khả năng biến dạng như chất lỏng và làm

đầy mọi vết nứt và khe hở xuất hiện.

Lớp phủ mỏng đặc biệt này có tác

dụng ngăn chặn sự rò rỉ của các phân tử nhỏ

để thâm nhập qua hầu hết các chất liệu như

khí hydro được sử dụng để cung cấp năng

lượng cho ô chạy pin nhiên liệu hoặc triti

phóng xạ (dạng nặng của hydro) hình thành

bên trong lõi của các nhà máy điện hạt nhân.

Hầu hết các kim loại ngoại trừ vàng có

xu hướng bị oxy hóa khi tiếp xúc với không

khí và nước. Phản ứng này tạo ra gỉ trên sắt,

vết xỉn trên bạc và gỉ trên đồng, có thể làm suy

yếu kim loại theo thời gian và d n đến các vết

nứt hoặc hỏng cấu trúc. Tuy nhiên, có 3 loại

oxit kim loại gồm oxit nhôm, oxit crom và oxit

silicon trên thực tế có thể được dùng làm lớp

bảo vệ để ngăn chặn hiện tượng oxy hóa.

Nhóm nghiên cứu đứng đầu là nghiên

cứu sinh Yang Yang, đã sử dụng các công cụ

đặc biệt chuyên dụng để xem xét chi tiết bề

mặt kim loại phủ những loại oxit này nhằm

quan sát hiện tượng xảy ra khi chúng được

tiếp xúc với môi trường oxy và trong điều

kiện có ứng suất. Dù hầu hết các loại kính

hiển vi điện tử truyền qua (TEM) đòi hỏi phải

đặt các m u vào môi trường chân không,

nhưng nhóm nghiên cứu đã sử dụng loại kính

hiển vi đã điều chỉnh có tên là Kính hiển vi

điện tử truyền qua môi trường (E-TEM) cho

phép nghiên cứu m u khi có sự hiện diện của

các khí hoặc chất lỏng. Thiết bị này được sử

dụng để nghiên cứu quy trình d n đến sự cố

nứt mà nguyên nhân là do hiện tượng ăn mòn

do ứng suất.

Kim loại dưới tác động của ứng suất

bên trong bể lò phản ứng và tiếp xúc với môi

trường hơi quá nóng có thể bị ăn mòn nhanh

nếu không được bảo vệ. Thậm chí nhờ lớp

bảo vệ rắn, các vết nứt sẽ hình thành, cho

phép oxy thâm nhập vào bề mặt của kim loại

trơ, cụ thể là các điểm giao diện giữa các hạt

kim loại cấu thành vật liệu kim loại cỡ lớn,

gây ra hiện tượng ăn mòn mạnh hơn và làm

hỏng cấu trúc.

Nghiên cứu sinh Yang cho rằng, trước

đây, mọi người nghĩ oxit kim loại giòn và dễ

bị nứt và chưa ai chứng minh được vì rất khó

quan sát hành vi của vật liệu trong các điều

kiện thực tế. Giờ đây, nhóm nghiên cứu lần

đầu tiên đã quan sát được trong phạm vi phân

giải gần như ở cấp độ nguyên tử. Phương

pháp này đã chứng minh lớp oxit nhôm

thường rất giòn nên sẽ bị vỡ dưới tác động

của ứng suất, khi được sản xuất ở dạng siêu

mỏng thì gần như biến dạng như lớp kim loại

nhôm mỏng, mỏng hơn nhiều lõi nhôm. Khi

oxit nhôm được phủ trên bề mặt của mảnh

nhôm khổ lớn, dòng chảy giống như chất lỏng

giữ cho nhôm được phủ lớp bảo vệ.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh

bên trong E-TEM, nhôm được phủ lớp oxit có

thể được kéo dài gấp hơn 2 lần độ dài ban đầu

của nó mà không gây ra bất cứ vết nứt nào.

Oxit tạo thành một lớp phủ đồng nhất bảo vệ

bề mặt mà không có ranh giới giữa các hạt

hay bất cứ vết nứt nào, thậm chí khi bị kéo

căng. Về mặt kỹ thuật, vật liệu là một loại

thủy tinh, nhưng nó di chuyển giống như chất

lỏng và phủ đầy bề mặt lâu như khi nó ở dạng

đủ mỏng.

Ju Li, giáo sư kỹ thuật và khoa học hạt

nhân và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:

Với ưu điểm là bề mặt mềm và không có vết

nứt hoặc ranh giới giữa các hạt để có thể thâm

nhập vào bên trong vật liệu, lớp phủ tự hàn

gắn có rất nhiều ứng dụng tiềm năng.

Theo vista.gov.vn, 12/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 29/60

Các kỹ sư khám phá kỹ thuật sản xuất nhiên liệu sinh học rẻ hơn và thân thiện hơn với môi trường

Vi khuẩn được phân tách từ nấm rơm

có thể chuyển hóa trực tiếp nguyên liệu thực

vật thành butanol (C4H9OH).

Ảnh: Các tế bào Thermoanaerobacterium thermosaccharolyticum TG57 bám dính vào các

phân tử xen-lu-lô. Bộ gen đặc biệt của dòng TG57 cho phép vi khuẩn tạo ra các en-zym tăng cường

khả năng tổng hợp biobutanol

Một nhóm các kỹ sư của Đại học Quốc

gia Singapo (NUS) gần đây đã phát hiện ra

một loại vi khuẩn xuất hiện một cách tự

nhiên, có tên là: Thermoanaerobacterium

thermosaccharolyticum TG57, phân tách từ

rác thải phát sinh sau khi thu hoạch nấm, có

khả năng chuyển đổi trực tiếp xen-lu-lô -

nguyên liệu thực vật - thành biobutanol.

Nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Kỹ thuật

Dân dụng và Môi trường của NUS do Phó

giáo sư He Jianzhong d n đầu đã phát hiện ra

dòng TG57 mới này vào năm 2015. Họ đã tiếp

tục nuôi cấy để nghiên cứu tính chất của

chúng. Ông đã giải thích rằng: "Việc sản xuất

nhiên liệu sinh học không sử dụng nguyên liệu

thực phẩm có thể cải thiện tính bền vững và

giảm chi phí rất nhiều. Trong nghiên cứu của

chúng tôi, chúng tôi đã chứng minh một

phương pháp mới chuyển đổi trực tiếp xen-lu-

lô thành biobutanol bằng cách sử dụng dòng

TG57 mới. Đây là bước đột phá lớn trong kỹ

thuật trao đổi chất và là một mốc quan trọng

trong việc sản xuất nhiên liệu sinh học tiết

kiệm chi phí, tăng sự tái tạo và bền vững".

Biobutanol - Nhiên liệu sinh học có

khả năng ứng dụng cao

Nhiên liệu sinh học truyền thống được

sản xuất từ lương thực. Cách làm này rất tốn

kém và ảnh hưởng đến việc sản xuất lương

thực, bởi nó lấy đi nguồn tài nguyên đất,

nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên

môi trường khác. Nhiên liệu sinh học được

sản xuất từ nguyên liệu xen-lu-lô chưa qua xử

lí - khối thực vật, rác nông nghiệp, và rác

công nghiệp - dự kiến sẽ đáp ứng nhu cầu

năng lượng ngày càng tăng mà không làm

tăng phát thải khí nhà kính do việc đốt nhiên

liệu hóa thạch. Những nguyên liệu xen-lu-lô

này rất phổ biến, thân thiện với môi trường,

và bền vững về mặt kinh tế.

Trong số các loại nhiên liệu sinh học,

biobutanol hứa hẹn là chất thay thế xăng vì

hiệu năng cao và đặc tính ưu việt. Nó có thể

trực tiếp thay thế xăng, mà không cần phải

chỉnh sửa động cơ của phương tiện. Tuy

nhiên, việc sản xuất thương mại của

biobutanol đã bị cản trở bởi sự thiếu hụt các

vi sinh vật có khả năng chuyển sinh khối xen-

lu-lô thành nhiên liệu sinh học. Kỹ thuật hiện

nay khá tốn kém và cũng đòi hỏi phải có hệ

thống xử lý hóa học phức tạp.

Sản xuất nhiên liệu sinh học theo cách

thân thiện với môi trường hơn

Kỹ thuật mới được phát triển bởi nhóm

NUS mang nhiều tiềm năng thay đổi chi phí

và tính bền vững của việc sản xuất nhiên liệu

sinh học.

Phân để ủ nấm - thường bao gồm rơm

rạ và mùn cưa - là chất thải từ những nhà

trồng nấm. Các vi sinh vật trong chất thải

được giữ lại để phát triển tự nhiên trong hơn

hai năm để có được dòng TG57 duy nhất.

Quá trình lên men rất đơn giản, không

cần phải xử lí hóa học, hay là biến đổi gen vi

sinh vật. Khi xen-lu-lô được thêm vào, vi

khuẩn chỉ cần tiêu hóa xen-lu-lô để sản xuất

butanol.

Trong tương lai, nhóm nghiên cứu sẽ

tiếp tục tối ưu hóa khả năng của dòng TG57,

và tiếp tục nghiên cứu nó để tăng tỷ lệ và

năng suất biobutanol bằng các công cụ di

truyền phân tử.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 30/60

Theo vista.gov.vn, 16/04/2018 Trở về đầu trang

**************

Chế tạo pin lithium lưu huỳnh bằng giấy sinh khối

Sản phẩm phụ chủ yếu trong ngành

công nghiệp sản xuất giấy là lignosulfonate,

vật liệu cacbon sunfonat hóa thải loại thường

được đốt cháy tại chỗ, giải phóng CO2 vào

trong khí quyển sau khi lưu huỳnh được thu

giữ để tái sử dụng.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Học

viện Bách khoa Rensselaer đã đưa ra phương

pháp sử dụng giấy sinh khối giá rẻ và dồi dào

để chế tạo pin lithium-lưu huỳnh. Loại pin này

có thể được sử dụng để cung cấp năng lượng

cho các trung tâm dữ liệu lớn cũng như là lựa

chọn lưu trữ năng lượng chi phí thấp cho các

lưới điện nhỏ và lưới điện truyền thống.

Trevor Simmons, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: “Nghiên cứu của chúng tôi

chúng tỏ tiềm năng sử dụng sản phẩm phụ

của quy trình nghiền giấy công nghiệp để

thiết kế vật liệu điện cực giá rẻ, bền vững cho

pin lithium-lưu huỳnh”.

Pin lithium-lưu huỳnh hiện là công

nghệ pin vượt trội. Tuy nhiên, trong những

năm gần đây, mọi người quan tâm nhiều hơn

đến việc phát triển pin lithium-lưu huỳnh có

khả năng lưu trữ năng lượng gấp đôi pin

lithium-ion cùng khối lượng.

Pin sạc có hai điện cực gồm cực âm và

cực dương. Nằm giữa các điện cực là chất

điện phân lỏng đóng vai trò là môi trường cho

các phản ứng hóa học sinh ra dòng điện.

Trong pin lithium-lưu huỳnh, cực âm được

cấu thành từ chất nền lưu huỳnh-cacbon và

một oxit kim loại lithium được sử dụng cho

cực dương.

Ở dạng nguyên tố, lưu huỳnh không

d n điện, nhưng khi kết hợp với cacbon ở

nhiệt độ cao, nó trở thành chất d n điện tốt,

cho phép áp dụng cho nhiều công nghệ pin

mới. Tuy nhiên, lưu huỳnh có nhược điểm là

dễ dàng hòa tan vào trong chất điện phân của

pin, làm cho các điện cực bị hỏng chỉ sau vài

chu kỳ.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những

dạng cacbon khác nhau như các ống nano và

bọt cacbon để giữ lưu huỳnh tại chỗ nhưng

hiệu quả còn hạn chế. Simmons cho rằng:

“Phương pháp của chúng tôi cung cấp một

phương thức đơn giản để chế tạo cực âm tối

ưu từ vật liệu lưu huỳnh”.

Để phát triển phương pháp này, nhóm

nghiên cứu đã sử dụng lignosulfonate, chất

lỏng màu nâu khô lại và sau đó được nung

nóng ở 700 oC trong lò thạch anh. Nhiệt độ

cao loại bỏ gần như toàn bộ khí lưu huỳnh

nhưng chỉ giữ lại một phần lưu huỳnh dưới

dạng polysulfide (các chuỗi lưu huỳnh) được

nhúng sâu trong chất nền cacbon hoạt tính.

Quy trình nung nóng được lặp lại cho đến khi

lượng lưu huỳnh phù hợp mắc kẹt trong chất

nền cacbon. Sau đó, vật liệu được nghiền và

trộn với chất dính polymer mất hoạt tính để

tạo ra lớp mạ cực âm trên lõi nhôm.

Cho đến nay, nhóm nghiên cứu đã chế

tạo được m u pin lithium-lưu huỳnh có kích

thước bằng pin đồng hồ có thể hoạt động

khoảng 200 lần. Bước tiếp theo các nhà khoa

học dự kiến mở rộng m u để tăng đáng kể tốc

độ xả sạc và kéo dài thời hạn sử dụng pin.

Theo vista.gov.vn, 10/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 31/60

Chất điện phân natri-ion mới có thể tìm thấy trong các loại pin rắn

Theo các nhà nghiên cứu từ Phòng thí

nghiệm quốc gia Pacific Penn State và

Northwest (PNNL) cho biết, một cấu trúc rất

mới được phát hiện của vật liệu gốc natri có

thể cho phép các vật liệu này sử dụng như

một chất điện phân trong pin.

Nhóm nghiên cứu hiện đang nỗ lực

tinh chỉnh các vật liệu này bằng cách ứng

dụng phương pháp tiếp cận thiết kế lặp đi lặp

lại mà họ hy vọng sẽ có thể sớm đưa vào sử

dụng thực tế hàng ngày.

Chất điện phân, là một trong ba phần

chính của pin, chịu trách nhiệm chuyển ion

tích điện trong pin rắn (solid-state battery).

Quy trình này sẽ tạo ra dòng điện khi hai bộ

phận khác của pin, cực dương và cực âm,

được kết nối trong mạch điện. Hầu hết các

loại pin có thể sạc lại trong các dòng điện

thoại thông minh, máy tính và các thiết bị

điện tử tiêu dùng khác đều sử dụng chất điện

phân dạng lỏng, gốc lithium.

Donghai Wang, phó giáo sư kỹ thuật

cơ khí tại Penn State nói: “Các chất điện

phân lỏng thường gặp sự cố an toàn vì chúng

dễ cháy nổ. Đó là động lực thúc đẩy chúng tôi

tìm ra một nguyên liệu tốt để sử dụng trong

các loại pin rắn”.

Vật liệu mới của nhóm nghiên cứu bao

gồm có natri, photpho, thiếc và lưu huỳnh và

có hình dạng tinh thể bốn cạnh. Nó có các

góc khuyết, hoặc các khoảng trống để nguyên

tử natri, thiếc và lưu huỳnh chuyển hóa ion.

Do natri có nhiều hơn hơn lithium nên pin

natri-ion sẽ có tiềm năng lớn, rẻ hơn nhiều so

với giá thành pin lithium-ion. Vật liệu này

cũng an toàn khi sử dụng hơn rất nhiều.

“Vật liệu của chúng tôi có một điện áp

mở rộng cũng như có độ ổn định nhiệt cao.

Khi nhiệt chất điện phân lỏng lên đến 150 độ

C ( 302 độ F), chúng sẽ bắt lửa hoặc giải

phóng nhiều nhiệt (pin rất nóng) có thể làm

hỏng pin hoặc các thành phần điện tử khác.

Trong khi đó vật liệu của chúng tôi hoạt động

rất tốt, lên đến 400 độ C (752 độ F)”,

Zhaoxin Yu, nhà nghiên cứu về cơ khí và kỹ

thuật hạt nhân tại Penn State nói.

Theo báo cáo của nhóm đăng trên tạp

chí Nano Energy, vật liệu của nhóm nghiên

cứu có d n suất ion nhiệt độ phòng khoảng

bằng 1/10 chất lỏng điện phân được sử dụng

trong các loại pin ngày nay. Họ nói rằng,

khám phá quan trọng đó là hình dạng của các

góc khuyết bên trong cấu trúc tinh thể.

“Phát hiện về cấu trúc mới của vật liệu

này của chúng tôi cũng cho chúng ta thấy có

một con đường để tạo ra một hệ chất dẫn

natri - ion tiên tiến mới”, Shun-Li Shang,

giáo sư vật liệu tại Penn State nói.

Nhóm nghiên cứu đã chế tạo và thử

nghiệm loại pin mới này trong phòng thí

nghiệm của Wang thuộc Trung tâm Pin &

Công nghệ Lưu lũy Năng lượng, Penn State.

Việc áp dụng quy trình xử lý thiết kế kết hợp

này, nhóm nghiên cứu có đủ khả năng xác

định được sự hình thành tinh thể khác nhau

cũng như tính phi nhất quán bên trong vật liệu

đã ảnh hưởng đến hiệu suất của nó như thế

nào.

Zi-Kui Liu, giáo sư khoa học và kỹ

thuật vật liệu tại Penn State, nói: “Nếu bạn

không có bộ công cụ này thì rất khó để tạo

nên bước đột phá. Phương pháp tiếp cận của

chúng tôi áp dụng cả các phương pháp tính

toán và thí nghiệm đã cho phép chúng tôi

phân tích lý do tại sao vật liệu có ảnh hưởng

khác nhau. Điều đó sẽ làm cho quá trình thiết

kế thực hiện nhanh hơn vì chúng ta biết

chúng ta cần kiểm soát những gì để tăng

cường vận chuyển ion”.

Viện CyberScience thuộc Penn State

đã tiến hành đưa một phần mô hình m u của

nhóm nghiên cứu hiện diện trong các siêu

máy tính chủ.

Theo vista.gov.vn, 20/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 32/60

Công nghệ sản xuất pin với thành phần thay thế coban

Coban là một trong hai thành phần

chính và là vật liệu cơ sở, chiếm tỉ lệ hơn

50% trong sản xuất pin Lithium-ion (Li-ion).

Pin Li-ion thường được sử dụng để cung cấp

năng lượng cho những thiết bị điện thoại di

động, máy tính xách tay và thậm chí là cả xe

hơi. Khoảng 50% trữ lượng Coban nguyên

chất trên thế giới được khai thác thủ công

(chủ yếu bằng tay) từ những mỏ khoáng ở

Congo bởi những người thợ mỏ, trong đó có

cả trẻ em.

Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây

được thực hiện bởi các nhà khoa học tại

trường Đại học California, Berkeley đã mở

đường cho khả năng sử dụng các chất xúc tác

kim loại khác trong sản xuất pin lithium-ion,

đồng thời, chế tạo ra điện cực âm (cathode)

với khả năng lưu trữ lithium cao hơn 50% so

với các vật liệu thông thường.

GS. GerbrandCeder, Khoa Khoa học

và Kỹ thuật Vật liệu tại Berkeley, cho biết:

"Nghiên cứu của chúng tôi đã mở ra một

không gian mới cho công nghệ pin. Lần đầu

tiên, chúng ta đã tìm ra yếu tố vật liệu không

những giá thành rẻ mà còn có thể làm tăng

hiệu quả trao đổi electron trong pin".

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí

Nature là sự hợp tác giữa các nhà khoa học tại

Đại học UC Berkeley, Phòng thí nghiệm

Berkeley, Phòng thí nghiệm quốc gia

Argonne, MIT và UC Santa Cruz.

Trong pin lithium ngày nay, ion

lithium được lưu trữ trong điện cực âm (điện

cực tích điện âm) là các hợp chất mà cấu trúc

tinh thể của chúng có dạng lớp. Vai trò của

Coban là giúp duy trì cấu trúc lớp này. Trong

quá trình sạc pin, các ion Li chuyển động từ

cathode sang phía bên kia của pin. Sự vắng

mặt của các ion lithium trong cực âm để lại

rất nhiều không gian. Hầu hết các ion kim

loại sẽ di chuyển vào không gian đó, phá vỡ

cấu trúc của cathode. Tuy nhiên, là một trong

số ít các yếu tố không di chuyển xung quanh

nên coban đóng vai trò quan trọng đối với

ngành công nghiệp pin.

Vào năm 2014, các chuyên gia làm

việc tại phòng thí nghiệm của Ceder đã tìm ra

một phương pháp giúp cathode duy trì mật độ

năng lượng cao mà không cần cấu trúc dạng

lớp có tên gọi là muối đá hỗn độn. Nghiên

cứu mới chỉ ra rằng mangan có thể hoạt động

trong cấu trúc này. Đây là một bước đi đầy

hứa hẹn, vì so với coban, mangan là nguyên

tố rẻ tiền và được tìm thấy nhiều trong lớp vỏ

Trái đất.

Ceder cho biết: "Nếu muốn thay thế

coban bằng các chất xúc tác khác, cần thiết

phải phá vỡ cấu trúc phân tầng trong

cathodes. Việc thay đổi trật tự cấu trúc trong

cực âm cho phép chúng ta sử dụng nhiều

nguyên tố kim loại khác trong bảng tuần

hoàn".

Công nghệ mới có thể được sử dụng

nâng cao hiệu suất của cathode. Bằng cách

pha loãng florua, các chuyên gia đã kết hợp

một lượng lớn mangan trong cathode. Các ion

mangan với điện tích phù hợp cho phép các

cathode lưu giữ nhiều ion lithium, do đó, tăng

hiệu suất của pin. Ceder khẳng định nghiên

cứu về cấu trúc hỗn độn chính là chìa khóa

quan trọng cho sự thành công của họ.

Hiệu suất của cathode được đo bằng

năng lượng trên một đơn vị trọng lượng, được

gọi là watt-giờ trên kilogram. Hiệu suất hoạt

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 33/60

động của cathode chứa mangan có cấu trúc

hỗn độn là 1.000 watt-giờ/kg trong khi hiệu

suất thông thường của cathode trong pin li-

ion đạt khoảng 500-700 watt-giờ/kg.

Nghiên cứu sinh tại MIT Jinhyuk Lee

cho biết: "Nghiên cứu mới là một cải tiến lớn

so với các cathode thông thường trong ngành

công nghiệp pin”.

Công nghệ mới cần được mở rộng và

thử nghiệm nhiều hơn trong các ứng dụng

như máy tính xách tay hoặc xe điện. Nhưng

Ceder cho biết cho dù trong tương lai công

nghệ này có được sử dụng trong sản xuất pin

hay không thì cũng cần phải công nhận rằng

các nhà nghiên cứu đã mở ra những khả năng

mới trong sản xuất cathode, và điều này thậm

chí được cho là quan trọng hơn rất nhiều.

Ceder khẳng định có thể sử dụng bất kỳ

nguyên tố nào trong bảng tuần hoàn vì các cực

âm không có cấu trúc lớp. Do đó, chúng ta có

nhiều cơ hội để khám phá các cathode mới.

Theo vista.gov.vn, 23/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Quy trình mới làm cứng bề mặt thép không gỉ

Các nhà nghiên cứu do EU tài trợ đã

phát triển một quy trình mới để làm cứng bề

mặt thép không gỉ nhằm đảm bảo độ cứng cao

với đặc tính chống ăn mòn đặc biệt.

Thép không gỉ là vật liệu được lựa

chọn trong các ngành công nghiệp khác nhau,

nơi khả năng chống ăn mòn là cực kỳ quan

trọng, ví dụ như các bộ phận được tiếp xúc

với môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên, đặc

tính rất thuận lợi này không phải luôn luôn đi

đôi với độ cứng bề mặt cao, sức chịu lực cao

và bền.

Hầu hết các phương pháp xử lý nhiệt

không thể dễ dàng áp dụng cho thép không gỉ

để cải thiện tính chất của nó. Đặc biệt, làm

cứng bề mặt thép không gỉ bằng cách thấm

nitơ và nitrocarbur hóa trong dải nhiệt độ

thông thường từ 500 đến 1000°C là rất bất lợi

cho các đặc tính ăn mòn của nó. Một giải

pháp có thể là thực hiện các quy trình cho

phép làm cứng bề mặt thép không gỉ ở nhiệt

độ thấp hơn.

Dự án PLASSTEEL do EU tài trợ đã

phát triển một quy trình tiên tiến cho việc làm

cứng bề mặt thép không gỉ ở nhiệt độ thấp,

cho phép điều chỉnh chính xác các đặc tính

vật liệu. Quá trình xử lý nhiệt mới có thể

được áp dụng cho tất cả các lớp Ferit,

martensitic, Austenit và duplex, tạo cho vật

liệu khả năng chống mòn và bền chắc.

Tăng độ cứng ở nhiệt độ thấp hơn

Dựa trên hơn 40 năm kinh nghiệm,

IONITECH LTD đã phát triển một lò sấy

nitriding/nitrocarbur hóa plasma đạt được độ

đồng nhất nhiệt độ tuyệt vời trên toàn bộ khu

vực chịu tác động. Lò đốt nóng bằng ni-tơ mới

này cũng giúp loại bỏ khả năng xảy ra hiệu

ứng “cực âm cực”, quá nóng cục bộ có thể d n

đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ cần thiết, d n

đến kết tủa crom cacbua và crôm nitri.

Quy trình của dự án PLASSTEEL dựa

trên công nghệ plasma và bao gồm một quá

trình nitrat hóa ở nhiệt độ dưới 500° C làm

giàu lớp bề mặt của một phôi bằng nitơ và

cacbon. Khí chứa carbon có trong nitrocarbur

có thể là mêtan, propan hoặc khí tự nhiên. Hàm

lượng của nó thay đổi từ 2 đến 10% trong hỗn

hợp khí. Bước xử lý có thể kéo dài từ vài phút

đến 20 giờ, tùy thuộc vào vật liệu gia công và

các yêu cầu liên quan đến độ sâu lớp.

Trong suốt dự án, một số loại thép

không gỉ đã được xử lý và thử nghiệm. Tùy

thuộc vào tỷ lệ phần trăm của các thành phần

hợp kim trong loại thép này cũng như các tính

chất khác, kết quả hơi khác nhau. "Một số

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 34/60

nguyên tố hợp kim làm cho sự khuếch tán của

các nguyên tử cacbon ngày càng khó khăn

hơn, dẫn đến sự khác biệt nhỏ trong lớp

khuếch tán và độ cứng bề mặt. Tuy nhiên,

trong mọi trường hợp, mục tiêu là cải thiện

tính chất mài mòn của tất cả các loại thép

không gỉ, trong khi vẫn giữ lại đặc tính chịu

ăn mòn của chúng”, Tiến sĩ Varhoshkov nói.

Hầu hết các kỹ thuật làm cứng bề mặt

làm giảm khả năng chống ăn mòn gốc của

thép không gỉ. Lò nung nitriding mới và tiên

tiến của IONITECH cho thấy đây không còn

là vấn đề. "Sự thiếu sót này đã được giải

quyết thành công bởi lò sấy nitriding plasma

tuyệt vời này cung cấp sự kiểm soát chính xác

đối với các đặc tính vật chất", Tiến sĩ

Varhoshkov nói.

Các đối tác của dự án đã thành công

không chỉ trong việc tăng độ cứng bề mặt của

các bộ phận lên 4 lần mà còn cải thiện độ

bám dính và mài mòn, và các đặc tính của bộ

phận kim loại nữa.

Kết quả dự án sẽ không chỉ làm tăng

sức cạnh tranh của ngành công nghiệp thép

không gỉ EU mà còn cải thiện chất lượng và an

toàn của các sản phẩm dựa trên thép không gỉ.

Theo vista.gov.vn, 24/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo màng nano để lưu trữ dữ liệu mật độ cao

Khi chúng ta tạo ra càng nhiều dữ liệu,

thì nhu cầu lưu trữ ổn định dữ liệu mật độ cao

theo thời gian đang trở nên cấp thiết. Loại

màng mới được chế tạo từ các hạt nano mỏng

hơn 80 lần sợi tóc, sẽ đáp ứng nhu cầu đó

bằng cách cung cấp vật liệu có khả năng lưu

trữ khối lượng dữ liệu lớn gấp 1.000 lần đĩa

DVD chỉ trong một màng có kích thước

10x10cm nhờ kỹ thuật toàn ảnh. Công nghệ

này trong tương lai sẽ cho phép các thiết bị

nhỏ đeo trên người thu và lưu trữ hình ảnh 3D

về con người và đồ vật.

Shencheng Fu, trưởng nhóm nghiên

cứu tại trường Đại học Northeast Normal,

người đã phát triển loại màng mới cho biết:

“Trong tương lai, loại màng này sẽ được tích

hợp vào chíp lưu trữ cực nhỏ để ghi lại thông

tin về hình ảnh 3D và sau này xem lại chi tiết

dưới dạng ảnh hologram 3D. Vì môi trường

lưu trữ ổn định, nên thiết bị có thể được sử

dụng bên ngoài hoặc thậm chí trong các điều

kiện bức xạ khắc nghiệt của môi trường bên

ngoài không gian”.

Trên tạp chí Optical Materials

Express, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến

quá trình tạo màng mới và chứng minh khả

năng ứng dụng công nghệ cho hệ thống lưu

trữ bằng hình ảnh hologram với môi trường

ổn định. Các màng này không chỉ lưu trữ khối

lượng lớn dữ liệu, mà dữ liệu cũng có thể

được khai thác với tốc độ 1GB/giây, gấp

khoảng 20 lần tốc độ đọc của bộ nhớ nhanh

hiện nay.

Lưu trữ nhiều dữ liệu trong không gian

hẹp

Màng mới được thiết kế để lưu trữ dữ

liệu bằng hình ảnh hologram, kỹ thuật sử

dụng laser để tạo ra và đọc dữ liệu hologram

3D trong một vật liệu. Do màng có thể ghi và

đọc hàng triệu bit dữ liệu cùng một lúc, do

đó, tốc độ lưu trữ dữ liệu hologram nhanh

hơn nhiều so với các phương pháp quang học

và từ tính thường dùng để lưu trữ dữ liệu hiện

chỉ đọc từng bit dữ liệu riêng lẻ mỗi lần. Các

phương thức hologram vốn có khả năng lưu

trữ dữ liệu mật độ cao vì ghi lại thông tin qua

hình dạng 3D của vật liệu, mà không chỉ bề

mặt vật liệu và có thể ghi lại nhiều hình ảnh

tại cùng một vị trí bằng các sử dụng ánh sáng

ở góc độ khác nhau hoặc màu sắc khác nhau.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 35/60

Mới đây, các nhà nghiên cứu đã thử

nghiệm sử dụng vật liệu nano composite bán

d n kim loại làm môi trường lưu trữ hình ảnh

hologram ở cấp độ nano với độ phân giải

không gian cao. Các màng xốp được làm từ

chất bán d n titan và các hạt nano bạc, có

triển vọng cho ứng dụng này vì chúng thay

đổi màu sắc khi tiếp xúc với nhiều bước sóng

ánh sáng laser và vì bộ hình ảnh 3D có thể

được ghi tại khu vực tập trung chùm laser chỉ

bằng một bước duy nhất. Dù các màng có thể

được sử dụng để lưu trữ dữ liệu hologram đa

bước sóng, nhưng tiếp xúc với tia cực tím đã

được chứng minh gây ra sự cố xóa dữ liệu,

khiến cho màng không ổn định để lưu trữ

thông tin lâu dài.

Ghi hình ảnh hologram trên màng

titan-bạc liên quan đến việc sử dụng laser để

biến đổi các hạt bạc thành các cation bạc

mang điện tích dương do các điện tử tăng

thêm. Fu cho biết: “Chúng tôi đã nhận thấy

ánh sáng cực tím có thể xóa dữ liệu vì nó làm

cho các điện tử di chuyển từ màng bán dẫn

đến các hạt nano kim loại, gây biến đổi

quang học tương tự như laser. Việc đưa các

phân tử nhận điện tử vào trong hệ thống làm

cho một số điện tử di chuyển từ chất bán dẫn

đến các phân tử này, làm suy giảm khả năng

của ánh sáng cực tím trong việc xóa dữ liệu

và tạo môi trường lưu trữ dữ liệu mật độ cao

ổn định”.

Thay đổi dòng điện tử

Đối với loại màng mới, nhóm nghiên

cứu đã sử dụng các phân tử nhận điện tử cỡ từ

1-2 nano mét để làm gián đoạn dòng điện tử

từ chất bán d n đến các hạt nano kim loại.

Các nhà khoa học đã tạo ra màng bán d n có

cấu trúc lỗ nano tổ ong cho phép các hạt

nano, các phân tử nhận điện tử và chất bán

d n đi đến tất cả các giao diện. Kích thước

siêu nhỏ của các phân tử nhận điện tử cho

phép chúng gắn bên trong các lỗ mà không

làm ảnh hưởng đến cấu trúc lỗ. Màng cuối

cùng chỉ dày 620 nano mét.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm màng

mới và phát hiện ra các hình ảnh hologram có

thể được ghi trên màng một cách hiệu quả với

mức độ ổn định cao khi có ánh sáng cực tím.

Nhóm nghiên cứu cũng đã chứng minh việc

sử dụng các tác nhân nhận điện tử để làm

thay đổi dòng điện tử đã tạo nên nhiều con

đường d n chuyển điện tử, khiến cho vật liệu

phản ứng nhanh hơn với ánh sáng laser và

tăng tốc độ ghi dữ liệu.

Nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ kiểm tra

mức độ ổn định về môi trường của màng mới

thông qua các thử nghiệm bên ngoài và nhấn

mạnh, ứng dụng thực tế của màng sẽ đòi hỏi

phải phát triển các kỹ thuật tái tạo hình ảnh

3D hiệu quả cao và các phương pháp tạo màu

sắc cho việc hiển thị hoặc đọc dữ liệu lưu trữ.

Theo vista.gov.vn, 13/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Màn hình tinh thể lỏng mới mỏng như tờ giấy, mềm dẻo, bền và rẻ

Mới đây các kỹ sư quang điện tử tại

Trung Quốc và Hồng Kông đã chế tạo thành

công một m u màn hình tinh thể lỏng (LCD)

đặc biệt có độ mỏng như tờ giấy, mềm dẻo,

nhẹ và bền. Các nhà khoa học ước tính chi

phí sản xuất thiết bị này có lẽ chỉ tốn khoảng

5 USD đối với màn hình có kích thước 5 inch.

Thiết kế LCD có thể sao chép quang học này

đã được báo cáo trên tạp chí Applied Physics

Letters.

Nhóm nghiên cứu tập trung vào hai

sáng kiến quan trọng để đạt được những thiết

kế có độ linh hoạt cao này. Đây là lần đầu

tiên phát triển được màn hình LCD có thể ghi

chép dữ liệu quang, giống như các màn hình

LCD thông thường, màn hình này được cấu

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 36/60

trúc như chiếc bánh sandwich với tinh thể

lỏng lấp đầy ở giữa hai tấm.

Không giống như các tinh thể lỏng

truyền thống mà ở đó các kết nối điện trên

các tấm để tạo ra các điện trường cần thiết

cho việc chuyển đổi các điểm ảnh riêng lẻ từ

sáng sang tối, màn hình LCD mới này sẽ phủ

lên các tấm này các phân tử đặc biệt được sắp

xếp lại trước nguồn ánh sáng phân cực và

chuyển đổi các điểm ảnh.

Điều này loại bỏ sự cần có điện cực

truyền thống, giúp làm giảm khối lượng của

cấu trúc và cho phép có nhiều sự lựa chọn

hơn đối với các kiểu loại và độ dày của tấm.

Vì thế, các màn hình mới này có độ mỏng

hơn nhiều so với các màn hình tinh thể lỏng

truyền thống, có kích thước nhỏ hơn ½, và nó

có thể được làm bằng nhựa dẻo với trọng

lượng của nó chỉ bằng 1 vài gram.

Jiatong Sun, Trường Đại học Donghua

(Trung Quốc), đồng tác giả công trình kỹ

thuật này cho biết: “Nó chỉ dày hơn một chút

so với tờ giấy”.

LCD mới này cũng rất bền và rẻ tiền do

chúng có cấu trúc đơn giản. Hơn nữa nó giống

như một màn hình báo điện tử trong một cuốn

sách điện tử, năng lượng chỉ cần có để chuyển

hình ảnh hoặc văn bản hiển thị do đó chi phí

vận hành rất thấp bởi vì các màn hình LCD

mới không cần nguồn điện để duy trì hình ảnh

một khi nó đã được ghi trên màn hình.

Sáng kiến đổi mới thứ hai liên quan

đến các miếng đệm để tạo phân tách tấm nhựa

hoặc tấm thủy tinh. “Chúng tôi đặt các tấm

chắn giữa các lớp kính để giữ cho lớp tinh thể

lỏng đồng đều”, Sun nói.

Các miếng đệm được sử dụng trong tất

cả các màn hình LCD để xác định trạng thái

của tinh thể lỏng. Trạng thái ổn định là rất

cần thiết để có tỷ lệ tương phản, thời gian đáp

ứng và góc nhìn tốt. Tuy nhiên, khi các tấm

uốn cong, nó giữ các tinh thể lỏng ra xa vị trí

bị tác động, cho phép mặt cắt của màn hình

trống rỗng và do đó sự thay đổi trong thiết kế

miếng đệm là rất quan trọng để có thể giúp

ngăn tinh thể lỏng trong các màn hình LCD

mềm dẻo khỏi chuyển dịch quá mức. Việc

phát triển thiết kế mà có thể vượt được qua

các rào cản này là một thách thức lớn.

Các nhà nghiên cứu đã cố gắng thử

nghiệm ba thiết kế miếng đệm khác nhau và

nhận thấy rằng miếng đệm làm bằng lưới có

thể ngăn không cho tinh thể lỏng chảy qua

khi màn hình LCD bị uốn cong hoặc bị hỏng

hóc. Sự đổi mới này cho phép họ tạo ra màn

hình LCD mềm dẻo có khả năng ghi chép dữ

liệu bằng quang.

Một cải tiến nữa liên quan đến việc cải

thiện màu sắc. Các nhà khoa học cho biết đến

thời điểm nghiên cứu này, màn hình LCD có

thể sao ghi dữ liệu bằng quang này chỉ có thể

hiển thị hai màu cùng một lúc. Hiện giờ, màn

hình LCD mới này có thể đồng thời hiện thị

ba màu sắc chính. Thành tựu này đạt được là

khi nhóm nghiên cứu đặt một loại tinh thể

lỏng đặc biệt vào phía sau màn hình LCD mà

nó có thể phản chiếu màu đỏ, xanh dương và

xanh lá cây. Để có thể đưa sản phẩm này trở

thành sản phẩm thương mại, Sun muốn cải

thiện độ phân giải của màn hình LCD mềm

dẻo mới này.

“Bây giờ chúng ta có ba màu nhưng để

màu sắc phong phú chúng ta cần phải tạo ra

các điểm ảnh rất nhỏ để con người có thể

nhìn thấy”, Sun nói.

Theo vista.gov.vn, 05/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 37/60

Sản xuất vật liệu cho máy in 3D từ chất thải của con người

Thành tựu chế biến chất thải trong hoạt động sống của con người thành vật liệu dùng cho máy

in 3D đặc biệt hữu ích đối với các nhà du hành làm việc dài ngày trên các trạm quỹ đạo

Ảnh: 14cdn.com

Trước đây đã có các công trình nghiên

cứu chế biến chất thải của con người thành

thức ăn và nước uống, nay các nhà khoa học

Canada lại tiến thêm một bước trong việc chế

biến chất thải trong hoạt động sống của con

người thành vật liệu dùng cho máy in 3D.

Theo Biorxiv, các nhà khoa học Đại

học Calgary, Canada đã phát triển một

phương thức mới để tạo ra vật liệu dùng cho

máy in 3D từ chất thải của con người. Phương

thức mới này không chỉ cho phép tận dụng

phân mà còn thu lợi từ đó. Phân qua chế biến

được dùng làm nguyên liệu để in những vật

dụng cỡ nhỏ.

Vấn đề tái chế chất thải đã khiến các

nhà khoa học để ý đến nhà vệ sinh trên các

trạm quỹ đạo. Khi nghiên cứu về khả năng sử

dụng phân của phi hành gia, các nhà nghiên

cứu thuộc Đại học Calgary đã đặt câu hỏi

trong đó có thể có gì hữu ích và cách tận dụng.

Trong quá trình phân hủy phân, các

axit béo chuỗi ngắn (là các axit béo có ít hơn

6 nguyên tử carbon được vi khuẩn tạo ra

trong ruột già) được hình thành trong đó. Các

nhà khoa học sử dụng phương pháp ly tâm và

lọc, tách chúng ra khỏi các sản phẩm phân

hủy khác, sau đó thêm vào môi trường dinh

dưỡng để nuôi cấy E. coli.

Đây không đơn thuần là các vi khuẩn

bình thường, chúng đã biến đổi gien để có thể

tổng hợp polyhydroxybutyrate (PHB), một

loại polymer axit isobutyric, một trong số các

axit, được chiết xuất từ chất thải. Sản phẩm

cuối cùng của quá trình tổng hợp là PHB có

các thuộc tính gần với polypropylene. Sau khi

làm sạch và sấy khô, chất dẻo sinh học này

trở thành một vật liệu tốt cho máy in ba chiều.

Kết quả nghiên cứu do các nhà khoa

học cho phép không chỉ sử dụng hiệu quả

chất thải tại các trạm quỹ đạo, mà còn giúp

trực tiếp chế tạo tại chỗ các dụng cụ và các đồ

dùng cỡ nhỏ cho các nhà du hành vũ trụ.

Theo motthegioi.vn, 17/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Mực in thông minh được sử dụng để in 3D

Các nhà nghiên cứu tại trường

Dartmouth đã tạo ra loại mực in thông minh

với khả năng chuyển đổi các cấu trúc in 3D

thành những đồ vật có thể biến hình và đổi

màu. Đột phá này hứa hẹn bổ sung thêm

nhiều tính năng cho in 3D và sẽ mở đường

cho ra đời vật liệu in thế hệ mới.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 38/60

Tiến bộ trong lĩnh vực in thông minh đã

thay đổi hình thức được gọi là in 4D, cung cấp

một giải pháp thay thế chi phí thấp để in các

bộ phận được sử dụng trong nhiều lĩnh vực từ

y sinh cho đến ngành công nghiệp năng lượng.

Chenfeng Ke, phó giáo sư hóa học tại trường

Dartmouth cho biết: “Kỹ thuật này cho ra đời

những đồ vật in 3D. Dù các cấu trúc in 3D chỉ

là những hình dạng không phản ánh tính chất

phân tử của vật liệu, nhưng mực in tạo ra các

phân tử chức năng cho thế giới in 3D. Chúng

tôi hiện có thể in các đồ vật thông minh cho vô

số mục đích sử dụng”.

Nhiều giao thức in 3D phụ thuộc vào

nhựa làm cứng chất polyme bằng ánh nắng

mặt trời và tạo ra các đồ vật bằng nhựa cứng

có cấu trúc phân tử cứng ngắc, nhưng ng u

nhiên. Quy trình mới cho phép các nhà thiết

kế giữ lại các liên kết và chức năng phân tử

cụ thể trong vật liệu và biến đổi các cấu trúc

đó để sử dụng trong in 3D.

Nhờ kết hợp sử dụng các kỹ thuật mới

trong quá trình in trước và in sau, các nhà

nghiên cứu đã giảm 1% kích thước của các đồ

vật in so với ban đầu và tăng 10 lần độ phân

giải. Các đồ vật in 3D thậm chí có thể được

tạo hiệu ứng để liên tục mở rộng và thu hẹp

kích cỡ thông qua sử dụng các trụ cột siêu

phân tử. Với máy theo dõi huỳnh quang, các

đồ vật có thể được tạo ra để đổi màu trước tác

động của kích thích bên ngoài như ánh sáng.

Khả năng giảm kích thước của đồ vật

sau khi in, trong khi v n duy trì các đặc trưng

chức năng và tăng độ phân giải cho phép máy

in giá rẻ in các đồ vật có độ phân giải cao

trước đây chỉ có thể làm được nhờ máy in

tinh vi hơn nhiều. Theo báo cáo nghiên cứu,

mực thông minh có thể in với độ phân giải

300 micron, nhưng sản phẩm cuối cùng có

chiều rộng trên 30 micron.

Để tạo ra loại mực in thông minh, các

nhà nghiên cứu đã sử dụng “phương tiện” dựa

vào polime để đưa các hệ thống phân tử thông

minh vào trong gel in và cho phép biến đổi

các chức năng của chúng từ vi mô đến vĩ mô.

Dù hầu hết các vật liệu được làm cứng trong

quá trình in 3D, nhưng quy trình mới đưa vào

một chuỗi các phản ứng sau in để ngăn chặn

các thành phần hoạt tính và duy trì dạng cấu

trúc phân tử trong suốt quá trình in. Kết quả

là đồ vật in có thiết kế phân tử được lập trình

để tự biến đổi: Nếu bạn cung cấp cho nó

nhiên liệu hóa học, nó sẽ biến hình. Nếu bạn

chiếu ánh sáng vào, nó có thể đổi màu.

Trong khi các nhà nghiên cứu tin rằng

công nghệ v n còn xa rời các hệ thống 3D

thông minh, có thể tự động thay đổi cấu hình,

nhưng công nghệ hiện có thể được áp dụng để

in các bộ lọc và thiết bị lưu trữ chính xác.

Nhóm nghiên cứu hy vọng quy trình có thể

d n đến sự ra đời của một loại đồ vật in 3D

mới ở cấp vĩ mô phục vụ cung cấp thuốc hoặc

sản xuất xương thay thế có độ phân giải cao.

Trước mắt, nhóm nghiên cứu hy vọng

mực in sẽ hữu ích cho các nhà hóa học vật

liệu, các kỹ sư in 3D và những người quan tâm

đến việc sử dụng vật liệu chức năng để in 3D.

Theo vista.gov.vn, 17/4/2018

Trở về đầu trang

**************

Gốm trong suốt có độ d n điện ion âm

Các nhà nghiên cứu từ Phòng thí

nghiệm nghiên cứu vật liệu nhiệt độ cao và

chiếu xạ (CEMHTI) ở Trường Đại học

Orléans (Pháp) đã tìm ra phương pháp kết

tinh hoàn toàn bằng kính, để tổng hợp gốm sứ

trong suốt đầu tiên có tính d n ion âm

(anion). Công trình này, được xuất bản trong

Tạp chí Hóa học Vật liệu A, mở đường cho

sản xuất năng lượng sạch hơn.

Gốm sứ là vật liệu đa tinh thể có các

đặc tính cơ khí, điện, từ, đặc biệt quang hoặc

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 39/60

siêu d n và được sử dụng như vật liệu cách

nhiệt hoặc các vật liệu che chắn điện hoặc lưu

trữ dữ liệu, bộ phận giả... Để có được loại

gốm linh hoạt này, các nhà nghiên cứu đã

nghiên cứu và phát triển trong 10 năm trong

phòng thí nghiệm CEMHTI (Trường Đại học

Orléans). Nhờ phương pháp này, các nhà

nghiên cứu từ phòng thí nghiệm này đã sản

xuất ra những sản phẩm gốm đầu tiên kết hợp

tính d n điện anion và tính chất trong suốt để

cho các ứng dụng năng lượng. Phương pháp

thông thường để sản xuất gốm sứ trong suốt

là sự thiêu kết dưới áp lực của các loại bột

nano. Sự kết tinh từ một giai đoạn vô định

hình (không kết tinh) như thủy tinh cho phép

tổng hợp ở nhiệt độ vừa phải (<1000 °C) của

giai đoạn kết tinh mới không thể tiếp cận ở

nhiệt độ cao.

Hơn nữa, do không có độ xốp và độ

lưỡng tính thấp của cấu trúc thu được, gốm sứ

được tổng hợp qua kênh thủy tinh trong suốt

trong tia nhìn thấy được và gần hồng ngoại.

Đây là những đồ gốm đầu tiên kết hợp các

tính chất d n anion và độ trong suốt.

Bằng tính d n điện của chúng, vật liệu

này có thể được sử dụng như các chất điện

phân rắn trong các tế bào nhiên liệu oxit rắn

(IT-SOFC) ở nhiệt độ trung gian, để sản xuất

năng lượng ít gây ô nhiễm hơn thông thường

ở nhiệt độ cao. Các ứng dụng cũng có thể

được dự kiến trong các hệ thống tách nước

làm cho hệ thống có thể có được hydro và

oxy bằng cách phân tách qua làm nóng các

nguyên tử tạo thành phân tử nước: đồ gốm

trong suốt, truyền ánh sáng hấp thụ vào lõi

của hệ thống, sẽ được đưa đến nhiệt độ cao

bằng bức xạ mặt trời, do đó nâng cao hiệu

quả và giảm tác động môi trường của các hệ

thống này.

Theo vista.gov.vn, 18/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Màng mỏng biến đổi nhiệt từ thiết bị điện tử thành năng lượng

Gần 70% năng lượng sản sinh mỗi

năm ở Hoa Kỳ bị thải loại dưới dạng nhiệt.

Phần lớn lượng nhiệt thải này đều ở mức dưới

100 độ C và phát ra từ nhiều nguồn như máy

tính, xe hơi hoặc các quy trình công nghiệp

lớn. Nhưng giờ đây, các kỹ sư tại trường Đại

học California đã chế tạo được hệ thống màng

mỏng sử dụng các nguồn nhiệt thải này để sản

xuất năng lượng ở mức chưa từng có.

Hệ thống màng mỏng sử dụng quy

trình chuyển đổi năng lượng hỏa điện

(pyroelectric) mà nghiên cứu mới đã chứng

minh rất phù hợp để khai thác các nguồn cung

cấp năng lượng nhiệt thải dưới 100 độ C hay

còn gọi là nhiệt thải chất lượng thấp. Quy

trình chuyển đổi năng lượng hỏa điện giống

như nhiều hệ thống biến đổi nhiệt thành năng

lượng, hoạt động tốt nhất nhờ sử dụng các

chu kỳ nhiệt động học, giống như phương

thức hoạt động của động cơ ô tô. Nhưng khác

động cơ ô tô, quá trình chuyển đổi năng

lượng hỏa điện có thể được thực hiện hoàn

toàn ở trạng thái rắn mà không cần các chi

tiết động vì nó biến đổi nhiệt thải thành điện.

Kết quả nghiên cứu cho thấy công

nghệ màng mỏng quy mô rất nhỏ này đặc biệt

phù hợp cho việc lắp đặt và khai thác nhiệt

thải từ các thiết bị điện tử tốc độ cao và cũng

có phạm vi ứng dụng rộng rãi. Đối với các

nguồn nhiệt đang thay đổi, nghiên cứu cho

thấy màng mỏng có thể biến đổi nhiệt thải

thành năng lượng hữu ích có mật độ năng

lượng, mật độ công suất và hiệu quả cao hơn

so với các phương thức chuyển đổi năng

lượng hỏa điện.

Lane Martin, phó giáo sư khoa học vật

liệu và kỹ thuật cho biết: “Chúng tôi biết rằng

chúng ta cần có các nguồn năng lượng mới,

nhưng cũng cần sử dụng hiệu quả nguồn

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 40/60

năng lượng đã có. Các màng mỏng này có thể

giúp sản xuất nhiều năng lượng hơn so với

những gì chúng tôi đang làm hiện nay từ mọi

nguồn năng lượng”.

Hiệu ứng hỏa điện đã được biết đến từ

lâu, nhưng việc xác định chính xác tính chất

của những phiên bản màng mỏng của hệ thống

hỏa điện v n gặp khó khăn. Nhóm nghiên cứu

đã tổng hợp các phiên bản màng mỏng của vật

liệu chỉ dày từ 50-100 nano mét và sau đó chế

tạo thử nghiệm các cấu trúc của thiết bị hỏa

điện dựa vào những màng này. Các cấu trúc đó

cho phép các kỹ sư đo đồng thời cả nhiệt độ và

dòng điện xuất hiện cũng như nhiệt nguồn để

kiểm tra khả năng phát điện của thiết bị trên

màng dày gần 100 nano mét.

Nghiên cứu đề cập đến kỷ lục mới về

mật độ năng lượng của quy trình chuyển đổi

năng lượng hỏa điện (1,06 J/cm3), mật độ

năng lượng (526W/cm3) và hiệu suất (19%

hiệu suất Carnot, là đơn vị đo tiêu chuẩn cho

hiệu suất của động cơ nhiệt). Bước tiếp theo,

nhóm nghiên cứu sẽ tìm cách tăng tối đa hiệu

quả của vật liệu màng mỏng cho các dòng

nhiệt thải và nhiệt độ cụ thể.

Theo vista.gov.vn, 26/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Tìm ra cách mới để phân hủy chất dẻo

Một loại enzym mới được phát hiện có

thể phân huỷ chất dẻo đã gợi mở hy vọng giải

quyết một trong những vấn đề ô nhiễm môi

trường lớn nhất của thế giới-rác thải nhựa.

Hình ảnh enzyme "ăn" nhựa PET trên kính hiển vi

điện tử. Ảnh: Univesity of Portsmouth

Một loại enzym mới được phát hiện có

thể phân huỷ chất dẻo đã gợi mở hy vọng giải

quyết một trong những vấn đề ô nhiễm môi

trường lớn nhất của thế giới-rác thải nhựa.

Các nhà khoa học Mỹ đã chế tạo được

một enzyme có thể phân hủy chất dẻo, một

trong những chất gây ô nhiễm phổ biến nhất,

qua đó, cung cấp một giải pháp tiềm năng giải

quyết một trong những vấn đề môi trường lớn

nhất thế giới-rác thải nhựa làm từ

polyethylene terephthalate (PET).

Nghiên cứu do nhóm các nhà khoa học

thuộc Đại học Portsmouth và Phòng thí

nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia (NREL)

của Bộ Năng lượng Mỹ công bố ngày 16/4

trong các báo cáo của Viện Hàn lâm quốc gia

Mỹ.

Trong quá trình nghiên cứu, nhóm các

nhà khoa học do Giáo sư John McGeehan của

Đại học Portsmouth và Tiến sĩ Gregg

Beckham tại NREL d n đầu, đã phát hiện một

enzyme có thể phân huỷ chất dẻo (sử dụng

chất dẻo làm thực phẩm), gọi là PTEase.

Đột phá trong nghiên cứu này xuất

phát từ việc phát hiện một loại vi khuẩn tự

nhiên có tên khoa học là Ideonella sakaiensis

có đặc tính "ăn" PET tại Nhật Bản cách đây

vài năm từ một trung tâm tái chế chất thải. Từ

đó, các nhà khoa học Mỹ quyết định tập trung

nghiên cứu cấu trúc của vi khuẩn này để xem

enzyme PETase của vi khuẩn hoạt động như

thế nào.

Phát hiện này có thể d n tới một giải

pháp tái chế hàng triệu tấn chai nhựa làm từ

PET, những chất có thể tồn tại hàng trăm năm

trong môi trường.

Hiện các nhà nghiên cứu đang nỗ lực

cải thiện enzyme để làm cho nó có thể phá

hủy nhựa trong một thời gian ngắn.

Theo baochinhphu.vn, 21/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 41/60

Phát triển được loại nhựa có thể tái sử dụng nhiều lần

Có tất cả các thuộc tính cần thiết của nhựa,

nhưng loại vật liệu mới có thể chế biến đi chế biến lại hàng nghìn lần - Ảnh: Hightech

Các nhà hóa học Mỹ đã phát triển

được loại polimer mới tương tự như nhựa với

các thuộc tính cần thiết nhưng có thể tận dụng

được nhiều lần.

Theo Science, các nhà hóa học ở Đại

học Colorado, Mỹ, với sự hướng d n của giáo

sư Eugene Chen, đã phát triển một loại

polymer mới, tương tự như nhựa. Loại

polimer mới này có thể được chế biến đi chế

biến lại nhiều lần, trong quá trình đó vật liệu

bị vỡ thành các monomer riêng biệt.

Vật liệu mới được tạo ra từ một phân

tử dựa trên gamma-butyrolactone (GBL)

nhưng trong đó, hai nguyên tử cacbon được

kết hợp thành một cấu trúc tuần hoàn khi biến

đổi. Đồng thời, vật liệu tổng hợp mới được

tạo ra từ các chất phản ứng thông thường,

được bán tự do - điều này làm giảm chi phí

của sản xuất.

Sau khi sử dụng vật liệu này thay thế

cho nhựa, nó có thể được chế biến đi chế biến

lại hàng ngàn lần. Các nhà khoa học lưu ý

rằng các polymer tương tự đã từng được phát

triển trước đó, nhưng so với nhựa, chúng luôn

khác nhau về tính chất và khả năng chống lại

sự hư hại.

Được biết, trước đó, các nhà khoa học

Nhật Bản đã phát hiện ra một loài vi khuẩn

giúp phân hủy nhựa trong vài ngày. Vi khuẩn

Ideonella sakaiensis phân hủy nhựa PET bằng

cách dùng 2 loại enzyme là PETase và

MHETase. Hiện tại, một nhóm nhà khoa học

đang nghiên cứu để các vi khuẩn này tăng tốc

xử lý khi có thể “ăn” chai nhựa trong vòng

vài giây. Đây là loại nhựa thường được dùng

trong sản xuất nước đóng chai, mỹ phẩm và

đồ dùng gia đình.

Theo vista.gov.vn, 28/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Các kỹ sư phát triển kỹ thuật để tạo vật liệu thích ứng

Các kỹ sư tại Phòng thí nghiệm

Nghiên cứu Quân sự Hoa Kỳ và Đại học

Maryland đã phát triển được một phương

pháp kỹ thuật làm cho vật liệu composite trở

nên rắn chắc hơn và cứng hơn theo yêu cầu

khi tiếp xúc với ánh sáng cực tím.

Điều khiển hành vi của vật liệu

composite theo yêu cầu này có thể cho phép

tạo ra một loạt năng lực tiềm tàng mới cho

việc thiết kế, hoạt động và bảo trì máy bay

trực thăng quân sự trong tương lai.

Tiến sĩ Frank Gardea, kỹ sư nghiên

cứu của ARL cho biết, trọng tâm của nghiên

cứu này là kiểm soát cách thức các phân tử

tương tác với nhau.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 42/60

“Động lực thúc đẩy quan trọng đối với

nghiên cứu này là mong muốn tạo ra các cấu

trúc mới, bắt đầu từ phạm vi nano, nhằm

nâng cao các khái niệm về máy bay trực

thăng đã được đề xuất trước đây nhưng

không khả thi do những hạn chế tồn tại đối

với các loại vật liệu composite hiện nay. Một

trong những khả năng tiềm tàng quan trọng

nhất có thể hình dung được là giảm gánh

nặng bảo trì đáng kể do bị hư hỏng khi bay

với tốc độ cao”, Tiến sĩ Bryan Glaz, giám đốc

khoa học công nghệ xe của ARL cũng nói.

Công trình nghiên cứu này, đã được

công bố trên tạp chí Advanced Materials

Interfaces mới đây, cho thấy rằng những vật

liệu tổng hợp này có thể trở nên cứng hơn

93% và mạnh hơn 35% sau 5 phút tiếp xúc

với ánh sáng cực tím.

Kỹ thuật này gồm các phân tử phản ứng

ánh sáng cực tím để tăng thêm sức mạnh cho

các tác nhân tương tự như các ống nano

cacbon. Các tác nhân tăng cường phản ứng

này sau đó được nhúng trong polymer. Khi

tiếp xúc với ánh sáng cực tím, một phản ứng

hóa học xảy ra sao cho sự tác động qua lại

giữa các tác nhân tăng cường và polymer tăng

lên, do đó làm cho vật liệu cứng hơn và mạnh

hơn.

Các nhà nghiên cứu cho biết, chất hóa

học được sử dụng ở đây thông thường có thể

áp dụng cho một loạt các kết hợp của chất

tăng cường/polymer do đó phát triển được lợi

ích của phương pháp kiểm soát này đối với

hàng loạt các hệ thống vật liệu.

“Nghiên cứu này cho thấy rằng có thể

kiểm soát được toàn bộ các đặc tính vật chất

của các nanocomposite này thông qua kỹ

thuật phân tử tại giao diện giữa các thành

phần composite. Điều này không chỉ quan

trọng đối với nền khoa học cơ bản mà còn đối

với việc tối ưu hóa phản ứng thành phần cấu

trúc”, tiến sĩ Zhongjie Huang, một nghiên cứu

bậc sau tiến sĩ tại Đại học Maryland cho biết.

Các cấu trúc tương lai dựa trên nền

tảng nghiên cứu này có thể giúp đưa đến các

vật liệu tổng hợp mới có độ giảm chấn cấu

trúc được kiểm soát và trọng lượng nhẹ để mà

có thể cho phép các khái niệm về máy bay

trực thăng tốc độ cao, không phải bảo trì

nhiều sẽ trở nên khả thi trong tương lai (ví dụ:

soft in-plane tiltrotors). Ngoài ra, phản ứng cơ

học có thể kiểm soát sẽ cho phép phát triển

các cấu trúc không gian thích ứng có khả

năng đáp ứng các điều kiện tải trọng cơ học.

Phòng thí nghiệm nghiên cứu quân sự

và các đối tác sẽ tiếp tục đầu tư vào các công

nghệ mới nổi và được lấy cảm hứng từ

Soldier (binh lính) mà độ tin cậy cao hơn,

hiệu suất lớn hơn và có nhiều khả năng nhảy

vọt làm chìa khóa cho sự phát triển của các

nền tảng thế hệ tiếp theo. Sự hợp tác giữa

ARL và Đại học Maryland là rất quan trọng

trong sự phát triển của phương pháp này.

“Phòng thí nghiệm của ông tại UMD

đã phát triển các vật liệu nano cacbon và các

chất hóa học độc đáo nhưng phải đến khi

Gardea tiếp cận chúng tôi, chúng tôi mới

nhận thức được thách thức và cơ hội hấp dẫn

để tái cấu trúc vật liệu composite”, giáo sư,

tiến sỹ YuHuang Wan, Khoa Hóa học và Sinh

Hóa tại Trường đại học Maryland cho biết.

Theo vista.gov.vn, 27/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Phát triển được loại bê tông bền gấp 4 lần

Loại vật liệu composite mới với thành phần gồm graphene và hỗn hợp bê tông giúp tăng hiệu quả

xây dựng các ngôi nhà siêu bền Ảnh: Getty Images

Các nhà nghiên cứu Anh đã sử dụng

công nghệ nano lồng các lớp graphene vào bê

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 43/60

tông giúp tăng độ bền của bê tông và giảm khí

thải nhà kinh trong sản xuất vật liệu xây dựng.

Theo Advanced Functional Materials,

các nhà vật lý đã tạo ra một loại vật liệu

composite mới bằng cách thêm graphene hỗn

hợp bê tông. Để tạo ra bê tông siêu bền này,

các nhà nghiên cứu ở Đại học Exeter, Anh, đã

sử dụng công nghệ nano lồng các lớp

graphene vào bê tông và thu được loại vật

liệu bền hơn gấp 4 lần, chịu được độ ẩm gấp

2 lần bê tông bình thường.

Trước đó, để cải thiện các thuộc tính

của xi măng, các nhà khoa học đã cố gắng đa

dạng hóa các thành phần khác nhau của xi

măng - thành phần chính của hỗn hợp bê

tông. Các tác giả của nghiên cứu mới đề xuất

một phương pháp khác - thêm vào hỗn hợp

grapheme ở dạng huyền phù (một dạng

carbon đặc biệt). Sau đó, họ đã tiến hành một

loạt các thử nghiệm và xác định được rằng

vật liệu thu được đã cải thiện được độ bền. Ví

dụ, mô đun Young (một tham số xác định khả

năng kéo giãn và nén của vật liệu) tăng thêm

1,5 lần.

Công nghệ mới cũng khiến sản xuất

thân thiện hơn với môi trường. Lượng khí thải

carbon (tức là lượng khí nhà kính) trong sản

xuất xi măng ít hơn nhiều. Hiệu ứng này đã

đạt được nhờ giảm 2 lần lượng nguyên liệu

cần thiết cho việc sản xuất bê tông.

Các nhà nghiên cứu tin rằng thành tựu của

họ sẽ là cơ sở cho việc tạo ra những loại vật

liệu nano mới có thể đưa vào thành phần xi

măng, giúp nâng cao hiệu quả xây dựng và

tăng độ bền cho các ngôi nhà và các cấu trúc

xây dựng trên toàn thế giới.

Theo motthegioi.vn, 24/04/2018

Trở về đầu trang

**************

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 44/60

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0018564 Vacxin cúm bất hoạt bị hấp phụ và phương pháp sản xuất vacxin này

Tác giả: Goto Shuro (JP), Kino Yo-

ichiro Gotanda Toru (JP), Arai Setsuo(JP),…

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất vacxin cúm virion

nguyên vẹn bất hoạt bị hấp phụ, có hiệu lực

phòng chống virut cúm kiểu mới (cụ thể là

kiểu virut mới có khả năng sinh miễn dịch

thấp) ở nồng độ kháng nguyên thấp và gây ít

phản ứng phụ hơn, cũng như phương pháp

sản xuất vacxin này. Các giải pháp gồm:

nghiên cứu tìm ra vacxin cúm bất hoạt bị hấp

phụ chứa gel nhôm hyđroxit (được điều chế

từ natri cacbonat và nhôm kali sulfat) và

virion nguyên vẹn của virut cúm đã được

phân lập làm thành phần hoạt tính; xây dựng

phương pháp sản xuất vacxin cúm bất hoạt bị

hấp phụ đó, bao gồm việc tiến hành từng

bước trong dung môi không chứa các chất

hoạt động bề mặt và các ete.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018567 Quy trình điều chế hợp chất 2-(pyriđin-3-yl)thiazol

Tác giả: Ross Ronald (US), Deamicis

Carl (US), Zhu Yuanming (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến quy trình điều chế

hợp chất 2-(pyriđin-3-yl)thiazol là sản phẩm

trung gian để tổng hợp các thiazol amit có

hoạt tính diệt trừ sinh vật gây hại. Các hợp

chất có công thức (I) và (II) được đóng vòng

để tạo ra hợp chất có công thức (III). Bước

này được thực hiện với sự có mặt của bazơ

khi hợp chất có công thức (II) ở dạng muối.

Các bazơ thích hợp bao gồm, nhưng

không giới hạn ở, natri bicacbonat, kali

bicacbonat, natri cacbonat, xesi cacbonat, kali

cacbonat, natri hyđroxit, kali hyđroxit, natri

bisulfat, natri axetat, kali axetat, amoni

hyđroxit, natri metoxit, kali metoxit, natri

etoxit, kali etoxit, trietylamin và pyriđin.

Phản ứng này có thể được tiến hành ở nhiệt

độ và áp suất môi trường xung quanh, nhưng

nhiệt độ và áp suất cao hơn hoặc thấp hơn có

thể sử dụng được, nếu thích hợp. Phản ứng

này được thực hiện trong dung môi proton

phân cực. Ví dụ về các dung môi này bao

gồm, nhưng không giới hạn ở, n-butanol,

isopropanol, n-propanol, etanol, metanol, và

nước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018568 Hợp chất 3-(5-flopyrimiđin-4-yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-4yl)isoinđolin-1-on và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Dally Robert Dean (US),

Woods Timothy Andrew (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất 3-(5-

flopyrimiđin-4-yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-4-

yl)isoinđolin-1-on hoặc muối dược dụng của

nó có tác dụng ức chế CDC7 và do đó có thể

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 45/60

là hữu dụng trong việc điều trị bệnh ung thư.

Sáng chế cũng đề cập đến dược phẩm chứa

hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018569 Quy trình sản xuất dung dịch chứa polysacarit vỏ nang của Streptococcus pneumoniae và quy trình sản xuất vacxin phế cầu khuẩn chứa

polysacarit này

Tác giả: Yuan Yonghui (CN), Ruppen

Mark (US), Sun Wei-Qiang (US), Chu Ling

(US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến quy trình rút ngắn

để sản xuất dung dịch chứa polysacarit vỏ

nang được tinh chế gần như hoàn toàn từ dịch

phân giải tế bào Streptpcoccus pneumoniae.

Siêu lọc và lọc thấm tách dịch tan

S.pneumoniae đã được làm trong, sau đó điều

chỉnh độ pH đến giá trị thấp hon 4,5, tốt hơn

là bằng khoảng 3,5, sẽ làm kết tủa ít nhất 98%

protein trong dung dịch mà không làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến hiệu suất

polysacarit. Hơn nữa, sau khi siêu lọc, lọc

thấm tách và axit hoá đến độ pH thấp hơn 4,5,

quá trình lọc bằng cách sử dụng cacbon hoạt

tính sẽ làm kết tủa được ít nhất 90% protein

còn lại mà không làm ảnh hưởng nghiêm

trọng đến hiệu suất polysacarit. Ví dụ, các typ

huyết thanh của S.pneumoniae mà không làm

giới hạn phạm vi của sáng chế có thể được

tinh chế bằng cách sử dụng quy trình rút ngắn

theo sáng chế là 1,4, 5, 6A, 6B, 7F, 9V, 14,

18C, 19A, 19F, và 23F. Theo một phương án,

các tế bào Streptococcus pneumoniae được

phân giải bằng cách sử dụng deoxycholat

natri (DOC), trong lúc đó, theo một phương

án khác chất phân giải là chất phân giải

không có nguồn gốc từ động vật như N-lauryl

sarcosin natri (NLS).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018570 Muối piperazin để sử dụng làm chất đối kháng thụ thể dopamin D3/D2, dược phẩm chứa muối này và quy trình điều chế muối này

Tác giả: Againe Csongor Eva (HU),

Czibula László (HU), …

Quốc gia: Hungary

Sáng chế đề cập đến muối

monohyđroclorua của trans 4-{2-[4-(2,3-

điclophenyl)-piperazin-l-yl]-etyl}-N,N-

đimetylcarbamoyl-xyclohexylamin và/hoặc

hyđrat và/hoặc solvat của nó. Ngoài ra, sáng

chế còn đề cập đến quy trình điều chế các

muối này và hyđrat và/hoặc solvat của nó, và

dược phẩm chứa chúng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018573 Muối cộng của amin chứa nhóm hydroxyl và/hoặc carboxylic với d n xuất axit amino nicotinic và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Garcia Martin Digna José

(ES), Boix Bernardini Maria Carmen (ES), …

Quốc gia: Tây Ban Nha

Sáng chế đề cập đến muối cộng kết

tinh dược dụng hòa tan trong nước của (i)

amin chứa một hoặc nhiều nhóm hydroxyl

và/hoặc carboxylic với (ii) các d n xuất axit

amino nicotinic có công thức (I):

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 46/60

trong đó Ra, R

b, R

c và R

d độc lập là các nhóm

được chọn từ các nguyên tử hydro, các

nguyên tử halogen, các nhóm C1-4 alkyl có thể

tùy ý được thế bằng 1, 2 hoặc 3 phần tử thế

được chọn từ các nguyên tử halogen và các

nhóm hydroxy, và các nhóm C1-4 alkoxy có

thể tùy ý được thế bằng 1, 2 hoặc 3 phần tử

thế được chọn từ các nguyên tử halogen và

các nhóm hydroxy, và các solvat dược dụng

của nó.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018574 Dược phẩm chứa đất sét

Tác giả: Hacher Beatrice (FR),

Kubiak Didier (FR), Harnett Jeremiah (IE),

Mondoly Nathalie (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến dược phẩm dạng

lỏng hoặc bán rắn, cụ thể hơn là dược phẩm

dạng huyền phù trong nước hoặc bột nhão

bán rắn chứa đất sét khoáng tự nhiên làm

thành phần hoạt tính. Các dược phẩm này là

đặc biệt hữu ích để điều trị bệnh tiêu chảy

cấp tính và mạn tính.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018583 Quy trình tách và tinh chế solvat của hợp chất pyripyropen ở dạng tinh thể

Tác giả: Peters Olaf (DE), Brauer

Nico (DE), Blume Thorsten (DE), …

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến hợp chất

benzimidazol có công thức chung (I):

trong đó các biến R1a

, R1b

, R4 , R

6 , A và B

có ý nghĩa như được nêu trong bản mô tả.

Hợp chất này là hữu ích để sản xuất dược

phẩm nhằm điều trị bệnh và các chỉ định liên

quan đến thụ thể EP4.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018586 Chất chủ vận thụ thể dị vòng dùng đề điều trị các bệnh tiểu đường và các rối loạn chuyển hóa và dược phẩm chứa chúng

Tác giả: Chen Xin (CN), Cheng Peng

(CN), Clemens L. Edward (US), Johnson

Jeffrey D.(US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến các hợp chất và

các phương pháp dùng để điều trị, chẳng hạn

như, các bệnh tiểu đường tuyp 2 và các bệnh

liên quan đến kiểm soát nồng độ glucoza

trong máu. Các hợp chất theo sáng chế có

hoạt tính theo đường miệng.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 47/60

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018590 Hợp chất phenyloxadiazol, dược phẩm chứa hợp chất này và quy trình điều chế hợp chất này

Tác giả: Vandeusen Christopher L.

(US), Weiberth Franz J. (US), Gill Harpal S.

(US), …

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (I):

trong đó R1, R2 và R3 là như được xác định

trong bản mô tả, dược phẩm chứa hợp chất

này, chất trung gian và quy trình điều chế các

hợp chất này. Sáng chế cũng đề cập đến hợp

chất có công thức (I), trong đó hợp chất này

được dùng để điều trị bệnh viêm và/hoặc dị

ứng, đặc biệt là bệnh như bệnh viêm mũi dị

ứng, bệnh hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

(COPD) và bệnh thoái hóa điểm vàng có liên

quan đến tuổi (AMD).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018591 Hợp chất oxazolin và isoxazolin có tác dụng làm chất điều biến kênh canxi được hoạt hóa để giải phóng canxi (CRAC), dược phẩm chứa chúng

và quy trình điều chế chúng

Tác giả: Irlapati Nageswara, Rao (IN),

Deshmukh Gokul Keruji (IN), Karche Vijay

Pandurang (IN), …

Quốc gia: Ấn Độ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (Id):

trong đó R1, R2, R3, L, vòng D, vòng E và

vòng W là như được xác định trong phần mô

tả và quy trình điều chế chúng. Hợp chất này

hữu ích trong điều trị, ngăn ngừa và/hoặc

kiểm soát bệnh, các rối loạn, hội chứng hoặc

các tình trạng bệnh liên quan đến quá trình

điều biến CRAC.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018627 Hợp chất pyrolopyrimidin dùng làm chất ức chế kinaza,

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 48/60

dược phẩm chứa hợp chất này và phương pháp điều chế hợp chất này

Tác giả: Zhang Jiazhong (CN),

Ibrahim Prabha N. (US), Spevak Wayne (US)

Tsai James (US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất, muối

của chúng, d n xuất của chúng, dạng liên hợp

và các dạng khác của chúng và dược phẩm

chứa chúng. Theo các khía cạnh và phương

án cụ thể, hợp chất theo sáng chế hoặc muối

của chúng, d n xuất của chúng, dạng liên hợp

và các dạng khác của chúng có hoạt tính đối

với một hoặc nhiều protein kinaza Fms, Kit,

Flt3, TrkA, TrkB và TrkC. Ngoài ra, hợp

chất theo sáng chế có thể được sử dụng để

điều trị bệnh và tình trạng bệnh bao gồm,

nhưng không chỉ giới hạn ở các bệnh và tình

trạng bệnh do hoạt động của một hoặc nhiều

protein kinaza Fms, Kit, Flt3, TrkA, TrkB và

TrkC gây ra. Sáng chế cũng đề cập đến dược

phẩm chứa các hợp chất nêu trên.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018630 Hợp chất pyridinon có tác dụng chống xơ hóa và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Buckman Brad Owen (US),

Nicholas John Beamond (US), Ramphal

Johnnie Y. (US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

pyridinon, phương pháp điều chế các hợp

chất này, và dược phẩm chứa chúng để điều

trị rối loạn xơ hóa.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018662 Hợp chất peptit liên kết với thụ thể thrombopoietin và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Arikawa Yasuyoshi (JP),

Jones Benjamin (US), Lam Betty (US), Nie

Zhe (CN), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất các hợp chất peptit

liên kết và hoạt hoá thụ thể thrombopoietin

(c-mpl hoặc TPO-R) hoặc mặt khác, chúng

hoạt động như chất chủ vận TPO. Sáng chế

cũng đề cập đến dược phẩm chứa hợp chất

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018674 Phương pháp sản xuất axit 5'-guanylic và vi sinh vật được sử dụng để sản xuất axit này

Tác giả: Hiroaki Fukada (JP),

Takayuki Asahara (JP), Kenichi Hashiguchi

(JP).

Quốc gia: Nhật

Axit 5'-guanylic (GMP) được tạo ra

một cách hiệu quả bằng cách cho vi sinh vật

phản ứng với axit xantylic (XMP) để tạo ra

GMP và gom GMP, trong đó vi sinh vật này

có khả năng chuyển hóa axit xantylic thành

axit 5'-guanylic và đã được cải biến sao cho

gen nagD không thực hiện chức năng thông

thường và hoạt tính axit 5'-guanylic

synthetaza được tăng cường..

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 49/60

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018676 Hợp chất flo hóa của 3-hydroxypyridin-4-on

Tác giả: Tam Tim Fat (CA), Leung-

Toung Regis (CA), Wang Yingsheng (CA),

Zhao Yanqing (CA), …

Quốc gia: Canada

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức I là d n xuất của 3-hydroxypyridin-4-on.

Các hợp chất này có thể được dùng để điều trị

tình trạng bệnh liên quan tới nồng độ gây độc

của sắt. Các hợp chất này có thể được sử

dụng để bào chế thuốc để điều trị tình trạng

bệnh liên quan tới nồng độ gây độc của sắt.

Tình trạng bệnh liên quan tới nồng độ gây

độc của sắt có thể được chọn từ nhóm bao

gồm: bệnh ung thư, bệnh phổi, bệnh thận tăng

tiến và chứng mất điều hòa Frederich.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018689 Hợp chất metastin và thuốc chứa hợp chất này làm chất đối kháng thụ thể metastin

Tác giả: Taiji Asami (JP), Naoki

Nishizawa (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất các hợp chất metastin

ổn định có các hoạt tính sinh học tuyệt vời

(hoạt tính ức chế sự di căn ung thư, hoạt tính

ức chế sự phát triển của bệnh ung thư, hoạt

tính kích thích tiết xuất hormon kích dục,

hoạt tính kích thích tiết xuất hormon giới tính,

v.v.). Bằng cách thay thế các axit amin thế

của metastin bằng các axit amin đặc hiệu

trong hợp chất metastin theo sáng chế, tính ổn

định trong máu, tính hoà tan,.v.v., được cải

thiện, xu hướng làm đông tụ được giảm, tác

dụng dược lý của thuốc tới cơ thể cũng được

cải thiện, và hoạt tính ức chế sự di căn ung

thư tuyệt vời hoặc hoạt tính ức chế sự phát

triển của bệnh ung thư được thể hiện. Ngoài

ra, hợp chất metastin theo sáng chế có các tác

dụng ức chế sự tiết xuất hormon kích sinh

dục, ức chế tiết xuất hormon giới tính,.v.v..

Sáng chế còn đề xuất thuốc chứa hợp chất

metastin làm chất đối kháng thụ thể metastin.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018691 Phương pháp điều chế hợp chất 4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin

Tác giả: Umetani Hideki (JP), Kondo

Nobuhiro (JP), Kajino Fumie (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến phương pháp điều

chế với quy mô lớn hợp chất 4,4-diflo-3,4-

dihydroisoquinolin một cách đơn giản và hiệu

quả. Theo phương pháp điều chế hợp chất

4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin có công thức

chung (1):

hợp chất có công thức chung (2):

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 50/60

được cho phản ứng với hydro florua.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018710 Kháng thể liên kết với CD37 ở người, phân tử ADN chứa vùng mã hoá chuỗi nặng biến đổi của kháng thể này và dược phẩm chứa kháng thể này

Tác giả: Heider Karl-Heinz (DE),

Borges Eric (DE), Ostermann Elinborg (AT).

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các kháng thể

liên kết với CD37 ở người ở dạng khảm và

các dược phẩm chứa kháng thể này. Các

dược phẩm này hữu dụng dùng để điều trị

các khối u ác tính tế bào B và bệnh tự miễn

và viêm liên quan đến tế bào B trong bệnh lý

của chúng. Ngoài ra, phân tử ADN chứa

vùng mã hóa chuỗi nặng biến đổi của kháng

thể này cũng được đề xuất.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018715 Hợp chất pyrazolyl quinoxalin có tác dụng ức chế kinaza, dược phẩm chứa hợp chất này và quy trình điều chế hợp chất này

Tác giả: Saxty Gordon (GB), Murray

Christopher William (GB), Berdini Valerio

(IT), …

Quốc gia: Anh

Sáng chế đề cập đến hợp chất

quinoxalin, dược phẩm chứa hợp chất này và

quy trình điều chế nó. Hợp chất này được sử

dụng để điều trị bệnh, ví dụ, bệnh ung thư.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018748 Phương pháp sản xuất axit L-glutamic

Tác giả: Yoshihiko Hara (JP), Hiroshi

Izui (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến vi khuẩn sản xuất

axit L-glutamic thuộc giống Pantoea,

Enterobacter, Klebsiella hoặc Erwinia, trong

đó vi khuẩn này đã được cải biến bằng cách

tái tổ hợp gen để bất hoạt gen rpoS, đ-ợc nuôi

cấy trong môi trường để tích lũy axit L-

glutamic trong môi trường, và axit L-glutamic

được thu gom từ môi trường này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018751 Hợp chất imidazol và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Buzard Daniel J. (US),

Edwards James P. (US), Kindrachuk David E.

(CA), Venable Jennifer, D. (US).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hợp chất

imidazol, chế phẩm chứa chúng và các

phương pháp sử dụng chúng trong việc ức

chế việc bổ sung bạch cầu, trong việc điều

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 51/60

biến sự biểu hiện thụ thể H4 và trong việc

điều trị các tình trạng như chứng viêm, các

tình trạng do thụ thể H4 điều chỉnh và các tình

trạng có liên quan.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018775 Hợp chất purinon và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Yamamoto Shingo (JP),

Yoshizawa Toshio (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến các hợp chất có

công thức chung (I) (tất cả các ký hiệu trong

công thức này có định nghĩa giống như trong

phần mô tả) là các hợp chất mà ngoài hoạt

tính ức chế chọn lọc Btk còn có tính ổn định

chuyển hóa và có thể ngăn ngừa được tình

trạng gây độc cho gan hoặc tình trạng tương

tự và do đó có thể bào chế thuốc điều trị an

toàn cho các bệnh có liên quan đến tế bào B

hoặc dưỡng bào.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018792 Phương pháp điều chế hợp chất trung gian để tổng hợp dược chất

Tác giả: Kim Bong Chan (KR), Kim

Kyu Young (KR), Lee Hee Bong (KR), An Ji

Eun (KR), Lee Kyu Woong (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề xuất phương pháp điều

chế hợp chất có công thức (2) làm chất trung

gian, có thể được sử dụng một cách hữu hiệu

để điều chế hợp chất có công thức (1) có hoạt

tính ức chế mạnh đối với enzym đipeptiđyl

peptidaza IV.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018815 Dược phẩm dạng viên nang cứng và phương pháp bào chế duợc phẩm này

Tác giả: Kim Kyeong Soo (KR), Kim

Dong Ho (KR), Kwon Taek Kwan (KR), …

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề xuất dược phẩm dạng viên

nang cứng chứa các viên nén đa liều dạng

hình cầu được bao gói trong vỏ nang cứng và

phương pháp bào chế dược phẩm này. Các

viên nén đa liều dạng hình cầu của dược

phẩm này có thể được nạp hiệu quả vào

khoảng không hữu hạn của vỏ nang, cho phép

nạp liều cao các dược chất khác nhau vào vỏ

nang có kích cỡ nhỏ, nhờ đó nâng cao năng

suất và dễ sử dụng cho người bệnh. Do các

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 52/60

dược chất chứa trong vỏ nang được tách rời

nhau; nên dược phẩm này có tỷ lệ hòa tan cao

và tỷ lệ hòa tan của các dược chất ít bị ảnh

hưởng l n nhau. Do dược phẩm này có độ ổn

định cao, nên có thể tối đa hoá được tác dụng

điều trị.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018820 Hợp chất sulfonamit dùng làm chất gây chết tế bào theo

chương trình chọn lọc BCL-2 để điều trị bệnh ung thư và bệnh miễn dịch

Tác giả: Park Chang H. (US), Bruncko

Milan (US), Ding Hong (CN), Doherty

George A. (US), …

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (I):

trong đó A1, B

1, D

1, E

1, Y

1, Z

1 là như được xác

định trong bản mô tả. Hợp chất theo sáng chế

có tác dụng ức chế hoạt tính của protein chống

lại quá trình chết tế bào theo chương trình Bcl-

2 hoặc Bcl-xL. Sáng chế cũng đề cập đến dược

phẩm chứa hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018617 Chế phẩm kháng thể kháng CD20

Tác giả: Brisbane Charlene E. (US),

Ketkar Amol Sharad (US), Lashmar Ulla

Tove (DK).

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề xuất chế phẩm kháng thể

ổn định với sự chia cắt và nhiệt độ mà ổn

định hơn so với chế phẩm chuẩn (như xitrat

30mM, NaCl 100mM, độ pH 6,5). Các chế

phẩm kháng thể ổn định với sự chia cắt và

nhiệt độ theo sáng chế cho thấy giảm sự kết

tủa khi chịu các điều kiện khắc nghiệt trong

khi chế phẩm chuẩn đông tụ lại. Kết quả này

là không thể dự đoán trước được bởi vì về

mặt nhiệt động học hai chế phẩm giống nhau

như được thấy bằng đồ thị DSC (đo nhiệt

lượng kế quét vi sai) của chúng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018660 Chế phẩm dùng ngoài da chứa silicon dễ bay hơi và phương pháp bào chế chế phẩm này

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 53/60

Tác giả: Mikulasik Endre (HU),

Fazekas Patrik (HU).

Quốc gia: Hungary

Sáng chế đề cập đến chế phẩm dùng

ngoài da chứa dược chất, trong đó các hạt

dược chất được bao bằng silicon dễ bay hơi

hoặc hỗn hợp của chúng, và các hạt được bao

này được phân tán trong chất nền dạng gel.

Thành phần silicon dễ bay hơi là

hexametyldisiloxan và/hoặc octametyl-

trisiloxan và/hoặc

decametylpentaxyclosiloxan. Sáng chế cũng

đề cập đến phương pháp bào chế chế phẩm

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018707 Protein liên kết đặc hiệu CD37 và chế phẩm chứa protein liên kết này

Tác giả: Grosmaire Laura, Sue (US),

Hayden-Ledbetter Martha Susan (US),

Ledbetter Jeffrey A. (US), ...

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất các phân tử liên kết

đặc hiệu CD37, các phân tử liên kết đặc hiệu

CD20 và tổ hợp có tác dụng hiệp đồng của

chúng để làm giảm tế bào B. Cụ thể là, sáng

chế đề xuất các phân tử liên kết đặc hiệu

CD37 được sử dụng một mình, hoặc tổ hợp

của các phân tử liên kết đặc hiệu CD37 và

các phân tử liên kết đặc hiệu CD20, trong

một số trường hợp tổ hợp này có tác dụng

hiệp đồng. Sáng chế còn đề xuất vật phẩm và

bộ kit để điều trị bệnh liên quan đến hoạt tính

khác thường của tế bào B. Ngoài ra, sáng chế

còn đề xuất các phân tử liên kết đặc hiệu

CD37 được làm giống như của người.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018778 Tổ hợp của chế phẩm globulin miễn dịch và chế phẩm hyaluronidaza dùng để điều trị các bệnh có thể điều trị được bằng globulin

miễn dịch

Tác giả: Schiff Richard (US), Leibl

Heinz (AT), Frost Gregory I. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến tổ hợp, chế

phẩm và bộ kit chứa chế phẩm globulin miễn

dịch (IG) và chế phẩm hyaluronidaza tan

được được bào chế để dùng dưới da. Các sản

phẩm này có thể được sử dụng trong phương

pháp điều trị các bệnh hoặc tình trạng bệnh lý

có thể điều trị được bằng IG. Sáng chế còn đề

cập đến phương pháp dùng globulin miễn

dịch d-ới da trong đó chế độ dùng liều về cơ

bản là giống với phương pháp dùng cùng liều

lượng như vậy trong tĩnh mạch để điều trị

cùng một loại bệnh hoặc tình trạng bệnh lý

có thể điều trị được bằng IG.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018653 Dụng cụ tiêm thuốc tự động

Tác giả: Edhouse Mark Jeffrey (NZ),

Driver Philip Jerome (GB), Moseley Guy

Conwyn Julian (GB), Lewis Scott Alexander

(GB).

Quốc gia: Luxembourg

Sáng chế đề cập đến dụng cụ tiêm

thuốc tự động các liều thuốc bao gồm ống

trượt (30) mà, khi ấn đầu phía trước của nó

(3) vào vị trí tiêm, sẽ tương tác với bộ phận

cam (26, 27, 28) để kích hoạt cần đẩy (8), mà

kiểm soát việc phân phối liều thuốc. Bộ phận

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 54/60

d n hướng có nấc (44) được lắp để kiểm soát

trình tự và bộ phận phát động (4) để chuyển

dụng cụ sang trạng thái phân phối liều. Dụng

cụ này có thể che lại kim tiêm một cách tự

động và thiết lập lại trạng thái sau khi phối

mỗi liều thuốc. Ngoài ra, dụng cụ này còn có

số lượng chi tiết giảm, do đó cấu trúc đơn

giản hơn và chi phí sản xuất giảm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018780 Huyền phù chứa hạt keo axit silixic cỡ nano được làm ổn định, chế phẩm, bột và dược phẩm chứa huyền phù này và phương pháp điều chế

huyền phù này

Tác giả: Suvee Ivo (BE), Tourgis

Guillaume (FR).

Quốc gia: Luxembourg, Uruguay

Sáng chế đề cập đến huyền phù chứa

các hạt axit silixic cỡ nano được ổn định

bằng ion hydro, chế phẩm thu được từ huyền

phù pha loãng chứa các hạt này, bột thu được

từ huyền phù loại nước và chế phẩm hoặc

dược phẩm dạng liều thu được từ huyền phù

này, chế phẩm hoặc bột, quy trình điều chế

và sử dụng trong tất cả các ứng dụng trong

lĩnh vực thực phẩm, thuốc, dược phẩm, mỹ

phẩm. Sáng chế đề xuất huyền phù ổn định

của các hạt keo axit silixic cỡ nano có độ pH

nhỏ hơn 0,9, nồng độ mol của silic nằm trong

khoảng từ 0,035 đến 0,65, nồng độ nước tự

do ít nhất là 30% (trọng lượng/thể tích) và tỷ

lệ giữa nồng độ mol của ion hydro và Si lớn

hơn 2 và tốt hơn là nhỏ hơn 4. Sáng chế còn

đề xuất phương pháp điều chế huyền phù ổn

định của các hạt keo axit silixic cỡ nano, bao

gồm các bước tạo ra dung dịch nước silic vô

cơ hoặc hữu cơ và trộn nhanh dung dịch

nước silic vô cơ hoặc hữu cơ với nước chứa

hợp chất axit mạnh ở nhiệt độ nhỏ hơn 30°C,

tốt hơn là nằm trong khoảng từ 1 đến 25°C,

để tạo ra huyền phù chứa các hạt keo axit

silixic cỡ nano có độ pH nhỏ hơn 0,9, được

làm ổn định bằng ion hydro, tỷ lệ giữa nồng

độ mol của ion hydro và Si lớn hơn 2 và tốt

hơn là nhỏ hơn 4, nồng độ mol của silic nằm

trong khoảng từ 0,035 đến 0,65 và nồng độ

nước tự do ít nhất là 30% (trọng lượng/thể

tích).

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018694 Chế phẩm khử trùng và phương pháp làm sạch nước bị ô nhiễm

Tác giả: Samiran Mahapatra (IN),

Satyajit Samadder (IN), Prasanth Chennothu

Soman Nair (IN).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến chế phẩm khử

trùng và quy trình khử trùng, và cụ thể để

khử trùng và làm sạch nước bị ô nhiễm. Sáng

chế đặc biệt hữu ích trong việc loại bỏ tạp

chất lơ lửng và chất gây ô nhiễm vi sinh vật

có hại như vi khuẩn, virut và các u nang

trong nước để nưuớc có lợi cho sức khỏe và

có thể chấp nhận được để sử dụng cho người.

Một mục đích của sáng chế là nhằm đề xuất

chế phẩm làm sạch nước bị ô nhiễm bởi vi

sinh vật có hại mà v n bảo đảm nước an toàn

và có thể chấp nhận được để sử dụng. Do

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 55/60

vậy, sáng chế đề xuất chế phẩm khử trùng

dạng rắn chứa tác nhân oxy hóa và chất diệt

sinh vật với chất nền rắn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018702 Phương pháp tinh chế chế phẩm chứa natri clorua trong nước

Tác giả: Pastacaldi Alessandra (IT).

Quốc gia: Bỉ

Sáng chế đề cập tới phương pháp tinh

chế chế phẩm chứa natri clorua trong nước

bằng cách loại silicon, trong đó hợp chất có

nhôm được thêm vào chế phẩm chứa natri

clorua trong nước để thu được nồng độ mol

nhôm cao hơn nồng độ mol silicon trong chế

phẩm, kiểm soát và duy trì độ pH của chế

phẩm ở giá trị cao hơn hoặc bằng 8 và thấp

hơn hoặc bằng 10, và tủa được tạo thành

được tách ra khỏi huyền phù trong nước thu

được

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018655 Hợp chất trừ sâu xyano antranilamit, chế phẩm chứa chúng và phương pháp phòng trừ loài gây hại không xương sống

Tác giả: Hughes Kenneth Andrew

(US), Lahm George Philip (US), Selby

Thomas Paul (US), Stevenson Thomas

Martin (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có

công thức 1, N-oxit và các muối thích hợp

của chúng,

trong đó R

1 là Me, Cl, Br hoặc F; R

2 là F, Cl,

Br, C1-C4 haloalkyl hoặc C1-C4 haloalkoxy;

R3 là F, Cl hoặc Br; R

4 là H hoặc C1-C4 alkyl,

C3-C4 alkenyl, C3-C4 alkynyl, C3-C5

xycloalkyl, hoặc C4-C6 xycloalkylalkyl, mỗi

gốc này tuỳ ý được thế bằng một phần tử thế

được chọn từ nhóm gồm halogen, CN, SMe,

S(O)Me, S(O)2Me và OMe; R5 là H hoặc Me;

R6 là H, F hoặc Cl; và R

7 là H, F hoặc Cl.

Sáng chế còn đề cập đến phương pháp phòng

trừ loài gây hại không xương sống bao gồm

việc cho loài gây hại không xương sống hoặc

môi trường của nó tiếp xúc với hợp chất có

công thức 1 với lượng hữu hiệu về mặt sinh

học, N-oxit của nó hoặc muối thích hợp của

hợp chất này (ví dụ, dưới dạng chế phẩm

được mô tả trong bản mô tả này). Sáng chế

còn đề cập đến chế phẩm dùng để phòng trừ

loài gây hại không xương sống chứa hợp chất

có công thức 1 với lượng hữu hiệu về mặt

sinh học, N-oxit của nó hoặc muối thích hợp

của hợp chất và ít nhất một thành phần bổ

sung được chọn từ nhóm gồm chất hoạt động

bề mặt, chất pha loãng dạng rắn và chất pha

loãng dạng lỏng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018588 Phương pháp bảo vệ vật liệu nhân giống thực vật và phương pháp phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do sinh vật gây hại

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 56/60

Tác giả: Schade Michael (DE),

Grimm Christoph (AT), Faerber Martin

(CH), …

Quốc gia: Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến tổ hợp thích hợp

để sử dụng trong nông nghiệp bao gồm (I)

hợp chất có công thức (X) và (II) một hoặc

nhiều chất được chọn, độc lập với nhau, từ

chất bất kỳ trong số các chất từ (A) đến (G):

(A) thuốc diệt nấm bất kỳ, (B) thuốc diệt côn

trùng hoặc thuốc diệt giun tròn bất kỳ, (C)

protein bất kỳ được tạo ra bởi vi khuẩn gây

bệnh thực vật Erwinia amylovora, (D) chủng

sinh học bất kỳ, (E) isoflavon bất kỳ, (F) chất

điều hòa sinh trưởng thực vật, và (G) chất

kích thích sinh trưởng thực vật, trong đó hợp

chất có công thức (X) là hỗn hợp của

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018680 Chế phẩm diệt nấm hoặc diệt côn trùng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại và

phương pháp xử lý hạt giống

Tác giả: Assmann Lutz (DE),

Wachendorff-Neumann Ulrike (DE),Dahmen

Peter (DE),…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các tổ hợp hợp

chất hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm

và/hoặc diệt côn trùng, bao gồm isotianil

(3,4-diclo-N-(2-xyanophenyl)-5-

isothiazolcarboxamit, CAS số 224049-04-1)

và ít nhất một thuốc diệt côn trùng khác

thuộc nhóm fiprole và một thuốc diệt côn

trùng khác thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra,

sáng chế đề cập đến phương pháp phòng trừ

nấm gây bệnh ở thực vật và/hoặc vi sinh vật

và/hoặc loài gây hại ở thực vật hoặc cây

trồng, đến tổ hợp theo sáng chế được sử dụng

để xử lý hạt giống, đến phương pháp xử lý để

bảo vệ hạt giống và đặc biệt là hạt giống

được xử lý.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018700 Hợp chất xyclopentandion, chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng trừ cỏ và cỏ dại

Tác giả: Jeanmart Stephane Andre

Marie (BE), Taylor John Benjamin (GB),

Tyte Melloney (GB), …

Quốc gia: Anh

Sáng chế đề cập đến hợp chất có

công thức (I):

trong đó, các phần tử thế là như được xác

định trong điểm 1, thích hợp để sử dụng làm

chất diệt cỏ. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập

đến chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng

trừ cỏ và cỏ dại.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 57/60

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018587 Hợp chất đithiocarbamat, phương pháp làm giàu quặng khoáng và chế phẩm thu gom chứa hợp chất này

Tác giả: Nagaraj Devarayasamudram

R. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm thu

gom dùng trong tuyển nổi chứa

đithiocarbamat có công thức (I) như được xác

định dưới đây, là chất hữu ích để làm giàu và

thu hồi các kim loại từ quặng khoáng.

Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến phương

pháp làm giàu quặng khoáng bằng cách dùng

chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018811 Chế phẩm dạng huyền phù đặc để diệt loài chân đốt và phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây hại

Tác giả: Gutsche Oliver Walter (DE),

Annan Isaac Billy (US), Portillo Hector

Eduardo (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm dạng

huyền phù đặc chứa các thành phần có khối

lượng tính theo tổng khối lượng của chế

phẩm là (a) từ 0,1% đến 50% là một hoặc

nhiều chất diệt loài chân đốt carboxamit có

trạng thái rắn ở nhiệt độ trong phòng; (b) từ

0% đến 50% là một hoặc nhiều hoạt chất sinh

học khác ngoài chất diệt loài chân đốt

carboxamit; (c) từ 20% đến 70% là nước; (d)

từ 10% đến 70% là một hoặc nhiều chất lỏng

không trộn l n được với nước; và (e) từ 1%

đến 55% là thành phần hoạt động bề mặt có

đặc tính phân tán. Sáng chế cũng đề cập đến

phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây hại,

bao gồm bước pha loãng chế phẩm dạng

huyền phù đặc này bằng nước, tùy ý bổ sung

chất bổ trợ để thu được chế phẩm pha loãng

và cho loài chân đốt gây hại hoặc môi trường

của nó tiếp xúc với lượng hữu hiệu của chế

phẩm loãng này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018819 Chế phẩm diệt cỏ, phương pháp sản xuất chế phẩm này và phương pháp phòng trừ thực vật không mong muốn

Tác giả: Yamaji Yoshihiro (JP),

Honda Hisashi (JP), Kobayashi Masanori

(JP), Hanai Ryo (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt cỏ

có độ an toàn cao đối với cây mùa vụ và có

khả năng phòng trừ cỏ dại gây hại, chẳng hạn

ở các cánh đồng lúa, cánh đồng vùng cao và

vùng không thuộc nông nghiệp trong phạm vi

rộng từ trước đến sau khi cây nảy mầm. Chế

phẩm diệt cỏ bao gồm hoạt chất là thành

phần A và thành phần B, trong đó: Thành

phần A là ít nhất một hợp chất được chọn từ

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 58/60

nhóm gồm các d n xuất isoxazolin có công

thức [I] và các muối của chúng sau đây:

trong đó mỗi R

1 và R

2 độc lập với nhau là

nguyên tử hydro, nhóm C1-C10 alkyl, nhóm

C3-C8 xycloalkyl hoặc nhóm C3-C8

xycloalkyl C1-C3 alkyl, mỗi R3 và R

4 độc lập

với nhau là nguyên tử hydro, nhóm C1-C10

alkyl, nhóm C3-C8 xycloalkyl, hoặc R1, R

2,

R3 và R

4 có thể cùng với các nguyên tử

cacbon mà chúng gắn vào tạo thành vòng có

5 đến 8 cạnh, mỗi R5 và R

6 độc lập với nhau

là nguyên tử hydro hoặc nhóm C1-C10 alkyl,

Y là nhóm dị vòng thơm hoặc nhóm dị vòng

ng-ng tụ thơm có 5 hoặc 6 cạnh có nguyên tử

khác loại tùy ý được chọn từ nhóm gồm

nguyên tử nitơ, nguyên tử oxy và nguyên tử

lưu huỳnh, và n là số nguyên từ 0 đến 2, và

Thành phần B là: Imazaquin, diuron,

sulfentrazone, sulcotrione, norflurazon,

clomazone, dimethenamidP, prosulfocarb,

isoproturon, trifluralin hoặc triallate. Ngoài

ra, sáng chế còn đề cập đến phương pháp sản

xuất chế phẩm diệt cỏ này và phương pháp

phòng trừ thực vật không mong muốn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018663 Thức ăn, thành phần thức ăn và phương pháp nuôi trồng loài thủy sinh bằng thức ăn hoặc thành phần thức ăn này

Tác giả: David Morgan Smith (AU),

Nigel Philip Preston (GB).

Quốc gia: Úc

Sáng chế đề xuất thức ăn hoặc thành

phần thức ăn chứa sinh khối vi sinh vật, và

phương pháp nuôi trồng các loài thủy sinh

bằng cách sử dụng sinh khối vi sinh vật và

thức ăn hoặc thành phần thức ăn theo sáng

chế.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018721 Chế phẩm tẩy giặt chứa enzym dạng hạt

Tác giả: Olaf Cornelis Petrus Beers

(NL), Willem Oldenburg (NL), Ronaldus

Theodorus Leonardus Van Vliet (NL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến chế phẩm tẩy

giặt dạng hạt chứa chất hoạt động bề mặt

sulphonat của alkyl este của axit béo với

lượng từ 1 đến 30% trọng lượng và các hạt

enzym, trong đó chế phẩm này gần như

không chứa thiosulphat mà không tạo ra mùi

hôi trong thời gian bảo quản.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018560 Hệ thống chăm sóc răng miệng

Tác giả: Jimenez Eduardo Jesus

(US), Gatzemeyer John Jacob (US), Enderby

Christine (US), Kahute Trent (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cấp đến hệ thống chăm

sóc răng miệng dùng cho bàn chải đánh răng,

như bàn chải đánh răng dùng điện, được tạo

kết cấu để thuận tiện cho các cấu trúc giải

ph u của trẻ em. Theo một phương án thực

hiện, bàn chải đánh răng có các bộ phận ba

chiều có các hình ảnh nhận biết được hoặc

hấp d n thị giác để khuyến khích trẻ em chải

răng một cách thường xuyên hơn. Theo

phương án khác, bàn chải đánh răng bao gồm

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 59/60

các bộ phận thay thế hay các nắp đậy cho

phép người sử dụng biến đổi một cách tuỳ

chọn hình dáng nhìn thấy được của bàn chải

đánh răng của chúng hay để tạo ra các sản

phẩm bằng cách tạo ra các vùng cho việc bố

trí quảng cáo hay vật liệu quảng cáo khác.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018741 Bàn chải đánh răng và quy trình sản xuất bàn chải đánh răng

Tác giả: Fischer Franz (CH), Strahler

Reto (CH).

Quốc gia:Thụy Sĩ

Sáng chế đề cập đến bàn chải đánh

răng có tay cầm (2) và phần đầu (1), trên đó

các sợi lông chải (3) và ít nhất một bộ phận

đánh răng mềm (6) được bố trí. Theo sáng

chế, ít nhất một bộ phận đánh răng mềm (6)

được bố trí trên bộ phận mang (5) làm từ vật

liệu cứng và được nối vào phần đầu (1). Sáng

chế cũng đề cập đến quy trình sản xuất bàn

chải đánh răng này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************

1-0018678 Hệ thống sấy khô-bao gói quần áo và phương pháp sấy khô-bao gói

quần áo

Tác giả: Fukai Yasuhiro (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến hệ thống sấy khô

và phương pháp sấy khô quần áo để không

cần phải loại bỏ các vết nhăn xuất hiện trên

quần áo sau khi đã được sấy khô-bao gói để

vận chuyển bằng cách là quần áo hoặc

phương pháp tương tự. Phương pháp sấy

khô-bao gói bao gồm các bước sau: sấy khô

quần áo được may nhờ thiết bị sấy khô (1)

bằng không khí nóng có nhiệt độ nằm trong

khoảng từ 86°C đến 94°C trong khoảng thời

gian từ 16 phút đến 24 phút mà không trải

qua quy trình giặt hoặc làm sạch; bịt kín quần

áo sau khi khử khí trong túi bao gói kín khí

tương ứng; và xác định độ ẩm tương đối ở

mức 5% RH trong các túi kín khí sau khi bịt

kín tương ứng ở thời điểm nhiệt độ thông

thường.

Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 60/60

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 361/2018

Trở về đầu trang

**************