BẢN TIN THÁNG 05/2018 -...
Transcript of BẢN TIN THÁNG 05/2018 -...
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 1/60
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 05/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Hệ thống gắn trên người theo dõi hoạt
động của dạ dày trong 24h
Công nghệ xét nghiệm máu mới
Thử nghiệm máu mới dự đoán sự khởi
phát của bệnh lao trước hai năm
Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của
tim người
Phương pháp mới giúp thay thế van tim
an toàn hơn
Các nhà khoa học phát triển các tấm nano
bọc đường để nhắm đích có chọn
lọc các tác nhân gây bệnh
Các nhà nghiên cứu tạo ra loại băng tiêm
y tế
NanoZymes sử dụng ánh sáng để diệt
khuẩn
Sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán bệnh về mắt do tiểu đường
Hàn Quốc sử dụng trí tuệ nghệ nhân tạo
dự đoán sự tương tác thuốc
Cảm biến siêu nhỏ theo dõi thường xuyên
nồng độ cồn
Thuốc trừ sâu tự nhiên' giết chết tế bào ung thư tuyến tiền liệt
Nhật Bản sẽ thực hiện xét nghiệm nước
tiểu đầu tiên để phát hiện ung thư
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát
triển loại thuốc mới để ức chế tế bào gốc
ung thư
Chẩn đoán sự phát triển của khối u não
không cần sinh thiết
Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung
thư
Loại thuốc đầy hứa hẹn có thể ngăn chặn gen gây ung thư
Các loại thuốc cho bệnh ung thư ruột già
mới có thể nghiên cứu từ protein
Giải pháp mới ngăn ung thư gan tái phát
Các nhà nghiên cứu phát triển quy trình
mới để phân biệt các tế bào gốc
Các nhà nghiên cứu phát triển miếng dán
trong suốt có khả năng phát hiện thực
phẩm không an toàn
Đột phá trong việc lọc nước bằng ánh
nắng mặt trời và hydrogel
Graphene có thể được sử dụng làm thuốc
nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện
Vật liệu cấu trúc hình lá có thể xử lý tràn
dầu
Vật liệu bền vững mới giá rẻ giảm ô
nhiễm không khí và ô nhiễm nước
Công nghệ đóng mở van mới hứa hẹn khả
năng phát triển các loại động cơ sạch, ít
tốn kém
Oxit kim loại tự hàn gắn có thể bảo vệ
chống ăn mòn
Các kỹ sư khám phá kỹ thuật sản xuất
nhiên liệu sinh học rẻ hơn và thân thiện
hơn với môi trường
Chế tạo pin lithium lưu huỳnh bằng giấy
sinh khối
Chất điện phân natri-ion mới có thể tìm
thấy trong các loại pin rắn
Công nghệ sản xuất pin với thành phần
thay thế coban
Quy trình mới làm cứng bề mặt thép
không gỉ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 2/60
Chế tạo màng nano để lưu trữ dữ liệu mật
độ cao
Màn hình tinh thể lỏng mới mỏng như tờ
giấy, mềm dẻo, bền và rẻ
Sản xuất vật liệu cho máy in 3D từ chất
thải của con người
Mực in thông minh được sử dụng để in
3D
Gốm trong suốt có độ d n điện ion âm
Màng mỏng biến đổi nhiệt từ thiết bị điện
tử thành năng lượng
Tìm ra cách mới để phân hủy chất dẻo
Phát triển được loại nhựa có thể tái sử
dụng nhiều lần
Các kỹ sư phát triển kỹ thuật để tạo vật
liệu thích ứng
Phát triển được loại bê tông bền gấp 4 lần
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0018564 Vacxin cúm bất hoạt bị hấp
phụ và phương pháp sản xuất vacxin này
1-0018567 Quy trình điều chế hợp chất 2-
(pyriđin-3-yl)thiazol
1-0018568 Hợp chất 3-(5-flopyrimiđin-4-
yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-
4yl)isoinđolin-1-on và dược phẩm chứa
nó
1-0018569 Quy trình sản xuất dung dịch
chứa polysacarit vỏ nang của
Streptococcus pneumoniae và quy trình
sản xuất vacxin phế cầu khuẩn chứa
polysacarit này
1-0018570 Muối piperazin để sử dụng
làm chất đối kháng thụ thể dopamin
D3/D2, dược phẩm chứa muối này và quy
trình điều chế muối này
1-0018573 Muối cộng của amin chứa
nhóm hydroxyl và/hoặc carboxylic với
d n xuất axit amino nicotinic và dược
phẩm chứa nó
1-0018574 Dược phẩm chứa đất sét
1-0018583 Quy trình tách và tinh chế
solvat của hợp chất pyripyropen ở dạng
tinh thể
1-0018586 Chất chủ vận thụ thể dị vòng
dùng đề điều trị các bệnh tiểu đường và
các rối loạn chuyển hóa và dược phẩm
chứa chúng
1-0018590 Hợp chất phenyloxadiazol,
dược phẩm chứa hợp chất này và quy
trình điều chế hợp chất này
1-0018591 Hợp chất oxazolin và
isoxazolin có tác dụng làm chất điều biến
kênh canxi được hoạt hóa để giải phóng
canxi (CRAC), dược phẩm chứa chúng
và quy trình điều chế chúng
1-0018627 Hợp chất pyrolopyrimidin
dùng làm chất ức chế kinaza, dược phẩm
chứa hợp chất này và phương pháp điều
chế hợp chất này
1-0018630 Hợp chất pyridinon có tác
dụng chống xơ hóa và dược phẩm chứa
hợp chất này
1-0018662 Hợp chất peptit liên kết với
thụ thể thrombopoietin và dược phẩm
chứa hợp chất này
1-0018674 Phương pháp sản xuất axit 5'-
guanylic và vi sinh vật được sử dụng để
sản xuất axit này
1-0018676 Hợp chất flo hóa của 3-
hydroxypyridin-4-on
1-0018689 Hợp chất metastin và thuốc
chứa hợp chất này làm chất đối kháng thụ
thể metastin
1-0018691 Phương pháp điều chế hợp
chất 4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin
1-0018710 Kháng thể liên kết với CD37
ở người, phân tử ADN chứa vùng mã hoá
chuỗi nặng biến đổi của kháng thể này và
dược phẩm chứa kháng thể này
1-0018715 Hợp chất pyrazolyl quinoxalin
có tác dụng ức chế kinaza, dược phẩm
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 3/60
chứa hợp chất này và quy trình điều chế
hợp chất này
1-0018748 Phương pháp sản xuất axit L-
glutamic
1-0018751 Hợp chất imidazol và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0018775 Hợp chất purinon và dược
phẩm chứa nó
1-0018792 Phương pháp điều chế hợp
chất trung gian để tổng hợp dược chất
1-0018815 Dược phẩm dạng viên nang
cứng và phương pháp bào chế duợc phẩm
này
1-0018820 Hợp chất sulfonamit dùng làm
chất gây chết tế bào theo
chương trình chọn lọc BCL-2 để điều trị
bệnh ung thư và bệnh miễn dịch
1-0018617 Chế phẩm kháng thể kháng
CD20
1-0018660 Chế phẩm dùng ngoài da chứa
silicon dễ bay hơi và phương pháp bào
chế chế phẩm này
1-0018707 Protein liên kết đặc hiệu
CD37 và chế phẩm chứa protein liên kết
này
1-0018778 Tổ hợp của chế phẩm globulin
miễn dịch và chế phẩm hyaluronidaza
dùng để điều trị các bệnh có thể điều trị
được bằng globulin miễn dịch
1-0018653 Dụng cụ tiêm thuốc tự động
1-0018780 Huyền phù chứa hạt keo axit
silixic cỡ nano được làm ổn định, chế
phẩm, bột và dược phẩm chứa huyền phù
này và phương pháp điều chế huyền phù
này
1-0018694 Chế phẩm khử trùng và
phương pháp làm sạch nước bị ô nhiễm
1-0018702 Phương pháp tinh chế chế
phẩm chứa natri clorua trong nước
1-0018655 Hợp chất trừ sâu xyano
antranilamit, chế phẩm chứa chúng và
phương pháp phòng trừ loài gây hại
không xương sống
1-0018588 Phương pháp bảo vệ vật liệu
nhân giống thực vật và phương pháp
phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do
sinh vật gây hại
1-0018680 Chế phẩm diệt nấm hoặc diệt
côn trùng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt
tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở
cây và/hoặc loài gây hại và phương pháp
xử lý hạt giống
1-0018700 Hợp chất xyclopentandion,
chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng
trừ cỏ và cỏ dại
1-0018587 Hợp chất đithiocarbamat,
phương pháp làm giàu quặng khoáng và
chế phẩm thu gom chứa hợp chất này
1-0018811 Chế phẩm dạng huyền phù
đặc để diệt loài chân đốt và
phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây
hại
1-0018819 Chế phẩm diệt cỏ, phương
pháp sản xuất chế phẩm này và
phương pháp phòng trừ thực vật không
mong muốn
1-0018663 Thức ăn, thành phần thức ăn
và phương pháp nuôi trồng loài thủy sinh
bằng thức ăn hoặc thành phần thức ăn
này
1-0018721 Chế phẩm tẩy giặt chứa
enzym dạng hạt
1-0018560 Hệ thống chăm sóc răng
miệng
1-0018741 Bàn chải đánh răng và quy
trình sản xuất bàn chải đánh răng
1-0018678 Hệ thống sấy khô-bao gói
quần áo và phương pháp sấy khô-bao gói
quần áo
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 4/60
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Hệ thống gắn trên người theo dõi hoạt động của dạ dày trong 24h
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
California San Diego đã chế tạo được một hệ
thống mang theo người, không xâm lấn để
theo dõi hoạt động điện trong dạ dày trong 24
giờ, chủ yếu là điện tâm đồ trong đường tiêu
hóa.
Hệ thống có nhiều ứng dụng bao gồm
theo dõi hoạt động đường tiêu hóa cho bệnh
nhân ngoại trú, làm giảm chi phí khám chữa
bệnh. Việc theo dõi hoạt động của đường tiêu
hóa trong thời gian dài cũng làm tăng khả
năng phát hiện những dấu hiệu bất thường.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Scientific Reports vào ngày 22/3/2018.
Thiết bị sử dụng 10 điện cực như trong
điện tâm đồ. Các linh kiện điện tử và pin được
đặt trong một hộp in 3D và kết nối với điện
cực, đặt trên bụng người sử dụng ở vị trí ngay
phía trên dạ dày một chút. Nhóm nghiên cứu
đã thử nghiệm thiết bị với 11 trẻ em tại Bệnh
viện Nhi Rady ở San Diego và 1 người trưởng
thành. Dữ liệu được thu thập từ hệ thống
tương đương với dữ liệu thu từ phòng khám
bằng cách áp dụng những phương pháp hiện
đại không xâm lấn, bao gồm sử dụng ống
thông đường tiểu luồn qua mũi bệnh nhân để
đo áp suất tại một số điểm trong dạ dày. Ngoài
ra, hoạt động điện của dạ dày thay đổi không
chỉ quanh các bữa ăn, mà còn trong lúc ngủ và
theo nhịp sinh học riêng của mỗi người.
Todd Coleman, giáo sư kỹ thuật sinh
học và là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:
“Nghiên cứu mở ra triển vọng theo dõi cụ thể
hoạt động của hệ thống tiêu hóa. Đến nay,
việc đo chính xác các mô hình điện liên quan
đến hoạt động của dạ dày một cách liên tục ở
bên ngoài các cơ sở y tế hoàn toàn là thách
thức. Từ nay, chúng ta có thể quan sát và phân
tích các mô hình ở cả người khỏe mạnh và
người bệnh ngay trong đời sống thường nhật”.
David Kunkel, đồng tác giả nghiên cứu
và là nhà nghiên cứu về tiêu hóa cho rằng:
“Thiết bị giúp chúng ta biết dạ dày có hoạt
động bình thường trong các bữa ăn hay
không và quan trọng nhất là khi bệnh nhân
đang xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn
và đau bụng”.
Hệ thống hiện được kết nối với ứng
dụng điện thoại thông minh cho phép bệnh
nhân theo dõi bữa ăn, giấc ngủ và nhiều hoạt
động khác. Các nhà nghiên cứu đề ra mục
tiêu lâu dài là thiết kế ứng dụng sẽ cho phép
bệnh nhân và bác sỹ theo dõi dữ liệu thu thập
từ thiết bị trong thời gian thực.
Theo vista.gov.vn, 03/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ xét nghiệm máu mới
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 5/60
Quá trình lấy máu và xét nghiệm nước
tiểu thường tốn kém, tốn nhiều thời gian để có
thể kiểm tra kỹ lưỡng. Các nhà nghiên cứu
thuộc Đại học South Florida ở Tampa - Hoa
Kỳ đã tạo ra phiên bản di động của phương
pháp ELISA, công nghệ tiêu chuẩn vàng được
sử dụng để phát hiện sự có mặt của kháng thể
hoặc kháng nguyên. Thay vì đưa bệnh nhân
vào phòng thí nghiệm, công nghệ dựa trên
điện thoại di động mới cho phép tiến hành thử
nghiệm tương tự tại phòng mạch bác sĩ, phòng
khám hoặc thậm chí ở vùng sâu vùng xa.
“ELISA hay còn gọi là phương pháp
ELISA hay EIA là kỹ thuật sinh hóa để phát
hiện kháng thể hay kháng nguyên trong mẫu
xét nghiệm. ELISA là công nghệ quan trọng
để phân tích sinh hóa các protein và các
hoocmon và rất cần thiết cho việc chẩn đoán
nhiều bệnh như HIV và Lyme Disease", Tiến
sĩ Anna Pyayt - Phó giáo sư tại Đại học Kỹ
thuật Nam Florida - Hoa Kỳ cho biết:
“MELISA cho phép bệnh nhân trải qua quá
trình thử nghiệm và đạt được kết quả ngay tại
điểm chăm sóc”.
Thử nghiệm miễn dịch di động liên kết
enzyme (MELISA) được mô tả chi tiết trong
bài viết vừa công bố trên tạp chí Biosensors
and Bioelectronics. Kỹ thuật này đo chính xác
lượng progesterone, hoocmon chính ảnh
hưởng đến khả năng sinh sản của phụ nữ và là
dấu hiệu của một số bệnh ung thư. MELISA
bao gồm tủ ấm và các m u được bảo quản tủ
ấm ở nhiệt độ mục tiêu và phân tích chúng
thông qua hình ảnh chụp bằng điện thoại di
động. Nó sử dụng phân tích màu để xác định
các thành phần màu RGB (đỏ, xanh). Thành
phần màu xanh được sử dụng để phân tích
thêm do độ nhạy cảm với sự thay đổi nồng độ
progesterone.
Tiến sĩ Pyayt nói thêm: "Nó được thiết
kế để thực hiện các thử nghiệm y sinh học
đơn giản và giá cả phải chăng. Khi thử
nghiệm chi phí thấp có thể được tích hợp với
các cuộc thăm khám lâm sàng định kỳ, điều
này sẽ nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khoẻ và phát hiện ra các dấu hiệu đáng lo
ngại trước đó”.
MELISA di động chỉ nặng 500 gr,
giúp bệnh nhân lớn tuổi mắc bệnh mãn tính
và mọi người trên khắp thế giới. Tiến sĩ Pyayt
và nhóm của cô tại USF hiện đang hiệu chuẩn
MELISA cho một loạt các xét nghiệm bao
gồm testosterone. Với những kết quả này, họ
sẽ nộp đơn xin FDA chấp thuận để phòng
khám có thể bắt đầu sử dụng thiết bị.
Theo vista.gov.vn, 06/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Thử nghiệm máu mới dự đoán sự khởi phát của bệnh lao trước hai năm
Nghiên cứu mới đây đã cho thấy một
xét nghiệm máu mới có thể tiên đoán chính
xác sự phát triển của bệnh lao (TB) lên đến
hai năm trước khi nó xuất hiện trong một
người sống chung với một người mắc bệnh.
Những người sống chung với người có
bệnh lao hoạt động có nguy cơ phát triển
bệnh cao hơn, nhưng khoảng 5-20% số người
nhiễm mắc bệnh lao thực sự.
Theo nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y
học Hồi sức cấp cứu và Hô hấp của Hoa Kỳ,
xét nghiệm máu mới dự đoán sự phát triển
của bệnh lao mà không cần buộc một lượng
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 6/60
lớn người có nguy cơ thấp phải điều trị dự
phòng không cần thiết.
Các nhà nghiên cứu từ Liên hợp
nghiên cứu quốc tế đã báo cáo rằng họ đã
phát triển và xác nhận một xét nghiệm máu
để đánh giá mức biểu hiện của bốn gen có thể
dự đoán tốt hơn sự phát triển của bệnh lao ở
những bệnh nhân có nguy cơ cao - điều hiện
nay không có ở châu Phi hạ Sahara.
Dấu hiệu bốn gen
Giáo sư Gerhard Walzl, tác giả nghiên
cứu chính của nhóm nghiên cứu về miễn dịch
học của Đại học Stellenbosch, Tygerberg,
Nam Phi, cho biết: "Chúng tôi thấy rằng dự
báo lên đến hai năm trước khi phát bệnh có
thể thông qua các phép đo kết hợp dấu hiệu
bốn gen trong máu".
"Dấu hiệu này, được gọi là 'RISK4',
được tìm thấy có mặt trong tất cả các nhóm
nghiên cứu, từ Nam Phi, Gambia và
Ethiopia”.
RISK4 là sự kết hợp của bốn gen gắn
liền với phản ứng viêm.
Trọng tâm của nghiên cứu là gì?
Nhóm nghiên cứu đã tập trung vào
những người sống chung với một người mắc
bệnh lao hoạt động và ghi nhận 4.466 người
tham gia nghiên cứu sức khoẻ có HIV âm tính
từ các hộ gia đình của 1.098 trường hợp chỉ
số (những người có TB hoạt động cho phép
các nhà nghiên cứu ghi danh các thành viên
trong gia đình họ không bị bệnh lao trong giai
đoạn hoạt động của nó).
Các phép đo sinh học khác nhau có thể
đánh giá được sự kết hợp giữa các mức độ
gen và protein cùng tạo ra kết quả xét nghiệm
liên quan đến nguy cơ hiện tại hoặc tương lai
phát triển tình trạng này.
Walzl nói thêm: "Các thành phần
riêng biệt của dấu hiệu này có thể không đủ
để đưa ra một chẩn đoán dự đoán chính xác,
nhưng sự kết hợp của các dấu hiệu này làm
tăng độ chính xác của nó”.
Bước đầu tiên trong công tác phòng
chống lao
Walzl kết luận: "Nghiên cứu này là
bước đầu tiên và bây giờ tác động của xét
nghiệm này đối với việc phòng ngừa bệnh lao
sẽ phải được thử nghiệm trong các thử
nghiệm lâm sàng đa trung tâm. Ngoài ra, cần
phải đánh giá tính hợp lệ của dự đoán ở các
cá nhân có nguy cơ cao ở Châu Á, Nam Mỹ
và các khu vực có mức độ ưu tiên cao khác".
Theo vista.gov.vn, 13/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Lập mô hình mô 3D về sự phát triển của tim người
Các nhà khoa học tại trường Đại học
Syracuse, Hoa Kỳ đã nghiên cứu tế bào gốc
đa năng ở người để tìm hiểu khả năng tái tạo
mô, thuốc tái tạo mô và kỹ thuật tế bào gốc.
Các tế bào gốc đa năng có thể được sử dụng
để tạo ra mô tim, nhưng nhóm nghiên cứu tin
rằng sẽ còn có nhiều ứng dụng khác nữa.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Nature Protocols vào tháng 3/2018.
Zhen Ma, Giáo sư kỹ thuật Y sinh và
là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng
tôi có thể tái định hình tim phát triển ở giai
đoạn đầu trong phòng thí nghiệm. Đó là sự
mô phỏng giai đoạn sớm của quá trình hình
thành phôi thai - cách tim được hình thành”.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được
quy trình kết hợp tạo m u tế bào từ vật liệu
sinh học và công nghệ tế bào gốc để lập mô
hình mô 3D mô phỏng sự phát triển của tim
người ở giai đoạn đầu. Nhờ có một lớp
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 7/60
polymer trong đĩa nuôi cấy mô và thao tác
khắc các m u nhỏ trong polymer, các tế bào
gốc sẽ chỉ gắn kết bên trong những mô hình
đó. Vì các tế bào gốc không liên kết với
polymer, nên chúng phát triển trong các mô
hình và cuối cùng tạo nên cấu trúc 3D gồm có
ba loại mô khác biệt. Quy trình này tập trung
vào mô tim nhưng cũng có thể áp dụng cho
các loại mô khác. Nền tảng này cho phép mô
hình thành trong quá trình biệt hóa tế bào mà
không phải từ các tế bào tim có sẵn. Mô tạo
thành gồm có nhiều lớp và thể hiện cụ thể hơn
cách mô phát triển theo cách tự nhiên ở người.
Plansky Hoang, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Chúng tôi sử dụng các dòng tế
bào của người, nên biết chúng sẽ ảnh hưởng
đến mô người theo cách nhất định trái ngược
với sự bất ổn xuất hiện khi sử dụng mô hình
động vật”.
Một số phụ nữ mang thai tránh không
dùng loại thuốc họ cần uống để kiểm soát
bệnh mãn tính, nhưng nếu sức khỏe của bà
bầu không tốt cũng sẽ ảnh hưởng đến em bé.
Các kết quả thử nghiệm xác thực sẽ tạo lòng
tin cho bệnh nhân và bác sỹ.
Xác định độc tính gây ra cho phôi thai
chỉ là một ứng dụng tiềm năng của mô hình
do nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Syracuse phát triển. Vô số các mô khác ở
người cũng có thể được nuôi cấy bằng quy
trình này. Quy trình cũng cho phép xét
nghiệm độc tính thuốc trên người. Người
bệnh có những phản ứng khác nhau với cùng
một loại thuốc nhưng xét nghiệm riêng biệt
sử dụng các tế bào gốc ở người có thể xác
định mức độ an toàn của thuốc trước khi
người bệnh sử dụng.
Hoang cho rằng: “Đối với phương
pháp sàng lọc truyền thống, các bác sỹ sẽ
xem xét tiểu sử của bệnh nhân và sau đó, cho
người bệnh dùng thử thuốc trong vòng 1 hoặc
2 tháng và đánh giá phản ứng. Tuy nhiên, khi
sử dụng mô hình mới, có thể thử nghiệm cùng
lúc nhiều loại thuốc để xác định tác dụng của
thuốc đối với người bệnh mà không phải thực
hiện những xét nghiệm riêng rẽ mất nhiều
thời gian”.
Theo vista.gov.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới giúp thay thế van tim an toàn hơn
Các nhà khoa học đã phát triển một kỹ
thuật mới và an toàn hơn để ngăn ngừa tắc
nghẽn động mạch vành trong quá trình thay
van động mạch vành (TAVR), một biến
chứng hiếm gặp nhưng thường gây tử vong.
Phương pháp này được gọi là Ph u
thuật nội soi sinh học nhằm ngăn ngừa tắc
nghẽn động mạch vành (BASILICA). Nó sẽ
làm tăng các lựa chọn điều trị cho những bệnh
nhân có nguy cơ cao cần thủ thuật van tim.
TAVR, một thủ thuật được sử dụng để
điều trị hẹp van động mạch chủ, bao gồm một
ống dài, mỏng, linh hoạt, được gọi là catheter,
thông qua động mạch đùi ở chân đến tim.
Hẹp động mạch chủ là sự hẹp van gây tử
vong kiểm soát máu đi từ tim đến các phần
còn lại của cơ thể. Sự thu hẹp này làm giảm
lưu lượng máu tới các cơ quan quan trọng,
d n đến thở ngắn, đau ngực, ngất và suy tim.
Đối với bệnh nhân cao tuổi hoặc yếu,
TAVR cung cấp một giải pháp thay thế hiệu
quả và ít xâm lấn hơn so với ph u thuật mở
tim. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ các bệnh nhân
này có thể bị tắc nghẽn động mạch vành trong
suốt quá trình TAVR. Đối với hơn một nửa số
bệnh nhân bị tắc nghẽn động mạch vành trong
TAVR, biến chứng này đã gây tử vong.
BASILICA được phát triển bởi TS y khoa
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 8/60
Jaffar M. Khan của Viện tim, phổi và máu
Quốc gia (NHLBI), một bộ phận của Viện y
học Quốc gia (NIH), để tăng sự an toàn của
TAVR cho nhóm bệnh nhân này.
TS Robert J. Lederman, nghiên cứu
viên cao cấp ở Phòng Nghiên cứu Nội trú của
NHLBI, người phụ trách nghiên cứu với TS
Khan, cho biết: "Những bệnh nhân này hoặc
không đủ điều kiện cho TAVR thông thường,
hoặc họ có nguy cơ cao”.
Lederman giải thích rằng trong TAVR,
bác sĩ ph u thuật đặt một ống thông bên trong
tim và sử dụng một quả bóng để mở một van
mới bên trong van động mạch chủ. Tuy
nhiên, ở một số bệnh nhân có trái tim có cấu
trúc không bình thường, chẳng hạn như các lá
van tim lớn hoặc các rễ động mạch chủ nhỏ,
các lá van tim lớn ngăn chặn sự lưu thông
máu tới động mạch vành khi hệ thống van
mới mở ra.
"Không có một phương pháp điều trị
hoặc phòng ngừa tốt cho chứng nghẽn mạch
vành do TAVR gây ra. Kỹ thuật sử dụng stent
trước đây để mở động mạch vành dường như
có kết quả lâu dài không tốt”. Lederman nhận
định.
BASILICA đưa ra giải pháp cho vấn
đề nghẽn mạch vành trong suốt thời gian
TAVR. Bác sĩ tim mạch can thiệp một sợi
dây điện đã được kích hoạt bằng kích thước
của một sợi chỉ may qua ống thông và sử
dụng nó để phân chia lá gốc thành hai, do đó
nó không thể chặn được động mạch vành sau
khi nó đã bị đẩy qua bên trái van tim bởi
đường ống thông.
Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà
nghiên cứu báo cáo thành công của thủ tục
BASILICA trong bảy bệnh nhân nặng, những
người đủ điều kiện sử dụng kỹ thuật này - sau
đó chưa được kiểm tra ở người - bởi vì không
có các lựa chọn chăm sóc khác.
"Tất cả bệnh nhân đều có TAVR thành
công mà không bị tắc nghẽn mạch máu, đột
quỵ hoặc bất cứ biến chứng lớn nào",
Lederman nói. "Họ đã ổn khi đạt điểm mốc
30 ngày sau phẫu thuật”.
Kỹ thuật BASILICA sẽ được đánh giá
trong một nghiên cứu khả thi nhiều kỳ, được
tài trợ bởi NHLBI.
Các nhà nghiên cứu hy vọng kỹ thuật
này cuối cùng sẽ giúp giảm được số người
chết do bệnh van tim. Theo Hiệp hội Tim
Mạch Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 5 triệu
người ở Hoa Kỳ được chẩn đoán bị bệnh van
tim, và hơn 20.000 người chết.
Theo vista.gov.vn, 09/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học phát triển các tấm nano bọc đường để nhắm đích có chọn lọc các tác nhân gây bệnh
Các nhà nghiên cứu đã phát triển được
một quy trình xử lý tạo ra các tấm vật liệu
tổng hợp tự lắp ráp, siêu mỏng mà có thể hoạt
động giống như giấy b y ruồi kết dính có
chọn lọc các loại vi rút, vi khuẩn và các tác
nhân gây bệnh khác.
Bằng cách này, nền tảng mới do nhóm
các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Quốc
gia Lawrence Berkeley Hoa Kỳ (Phòng thí
nghiệm Berkeley) phát triển này rất có tiềm
năng ứng dụng để vô hiệu hóa hoặc phát hiện
mầm bệnh.
Mới đây, nhóm nghiên cứu bao gồm cả
các nhà nghiên cứu Trường Đại học New
York đã tạo ra các tấm nano tổng hợp tại Lò
đúc phân tử thuộc Phòng thí nghiệm
Berkeley. Các polyme này lấy cảm hứng từ
sinh học, có khả năng tự lắp ráp này được gọi
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 9/60
là các peptide. Nghiên cứu này đã được công
bố trên tạp chí ACS Nano mới đây.
Các tấm nano này được thiết kế để
“biểu thị” đường theo các khuôn m u theo bề
mặt của chúng, và những viên đường này
được chứng minh là có sự kết dính có chọn
lọc với một số protein bao gồm chất độc
Shiga, loại chất gây bệnh lỵ. Vì bề ngoài của
các tế bào của chúng là phẳng và được bọc
đường, tấm nano 2D này có thể mô phỏng các
bề mặt tế bào một các hiệu quả.
Ronald Zuckermann, nhà khoa học tại
Molecular Foundry, và là người đứng đầu
nghiên cứu, nói: “Nó không chỉ là một cái
chốt và cái khóa, nó giống như loại khóa
Velcro, với một chùm các móc nhỏ cùng lúc
hội tụ vào protein mục tiêu”.
Ông lưu ý rằng rất nhiều tác nhân gây
bệnh, từ vi-rút cúm đến vi khuẩn tả, kết dính
với đường trên bề mặt tế bào. Vì vậy, việc lựa
chọn đúng loại đường để dính kết với các tấm
nano peptoid, theo sự sắp xếp hợp lý, có thể xác
định được các mầm bệnh bị chúng dính vào.
Zuckermann nói thêm: “Với lĩnh vực
hóa học, chúng ta sẽ thực hiện đơn giản.
Chúng ta có thể “đưa” các loại đường khác
nhau vào và biểu thị chúng lên một bề mặt
phẳng đã được xác định rõ ràng. Chúng tôi
có thể kiểm soát chúng cách xa nhau ra sao.
Chúng ta có thể làm điều này với khá nhiều
loại đường khác nhau”.
Nền tảng peptoid cũng bền và ổn định
hơn so với các phân tử sinh học tự nhiên, ông
nói, vì vậy nó có thể được triển khai đưa vào
lĩnh vực kiểm tra sinh học của nhân viên quân
sự và các cơ quan cứu hộ khẩn cấp.
Các tấm nano này cũng có tiềm năng
ứng dụng trong việc làm sạch môi trường để
trung hoà các độc tố và mầm bệnh cụ thể, và
các tấm này có thể được thu nhỏ để nhắm
mục tiêu đến các chủng virut như Ebola và vi
khuẩn như E. coli và các mầm bệnh khác.
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà
nghiên cứu xác nhận rằng việc tạo ra sự kết
dính với các protein mục tiêu đã thành công
khi “nhúng” thuốc nhuộm huỳnh quang vào
các tấm và gắn thuốc nhuộm huỳnh quang
khác vào các protein mục tiêu. Sự biến đổi
màu sắc cho thấy protein đã được gắn kết với
tấm nano.
Cường độ biến đổi màu sắc này cũng
có thể chỉ đ n cho các nhà nghiên cứu để họ
có thể cải tiến chúng và khám phá ra các tấm
nano mới có thể nhắm mục tiêu các mầm
bệnh cụ thể.
Theo vista.gov.vn, 10/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu tạo ra loại băng tiêm y tế
Một vết thương sâu do mảnh đạn là trở
ngại lớn trong việc xử lý các vết thương trên
chiến trường, cuối cùng có thể d n đến tử
vong. Dù tỷ lệ tử vong cao do xuất huyết,
nhưng nhu cầu về vật liệu có khả năng nhanh
chóng tự điều chỉnh để ngăn ngừa tai họa do
mất máu v n chưa được đáp ứng.
Các nhà nghiên cứu tại Phòng thí
nghiệm kỹ thuật mô và vật liệu nano thuộc
trường Đại học Texas A&M đã chế tạo thành
công loại băng tiêm để ngăn chảy máu và
tăng tốc độ hàn gắn vết thương.
Trong nghiên cứu được công bố trên
tạp chí Acta Biomaterialia, TS. Akhilesh K.
Gaharwar, phó giáo sư Khoa Kỹ thuật y sinh
tại trường Đại học Texas A&M đã sử dụng
kappa-carrageenan và silicat nano để tạo
thành hydrogel tiêm nhằm tăng tốc cầm máu
và làm cho vết thương mau lành nhờ giải
phóng thuốc điều trị có kiểm soát.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 10/60
TS. Gaharwar cho rằng: “Hydrogel
tiêm là vật liệu triển vọng để cầm máu trong
trường hợp tổn thương và chảy máu bên
trong, vì các vật liệu sinh học này có thể được
đưa vào vị trí vết thương bằng các phương
thức xâm lấn tối thiểu. Băng tiêm lý tưởng
nên được làm đông lại sau khi tiêm vào vị trí
vết thương và thúc đẩy quá trình đông máu tự
nhiên. Ngoài ra, băng tiêm sẽ khởi động phản
ứng hàn gắn vết thương sau khi đạt đến trạng
thái cầm máu”.
Nghiên cứu sử dụng một chất làm dày
phổ biến được gọi là kappa-carrageenan chiết
tách từ cỏ biển để tạo ra hydrogel tiêm. Các
hydrogel là mạng lưới polymer 3D căng phồng
nước, tương tự như thạch Jell-O mô phỏng cấu
trúc của mô người. Khi kappa-carrageenan
được trộn với các hạt nano từ đất sét, sẽ tạo
thành gelatin tiêm. Tính chất tích điện của các
hạt nano từ đất sét cung cấp cho hydrogel khả
năng cầm máu. Cụ thể, protein huyết tương và
tiểu cầu tạo khả năng hút máu trên bề mặt gel
và kích kích quá trình đông máu.
Giriraj Lokhande, nghiên cứu sinh và
là đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Điều thú
vị là chúng tôi đã phát hiện thấy băng tiêm
này có thể giải phóng thuốc điều trị dùng để
hàn gắn vết thương. Thao tác sạc các hạt
nano trên bề mặt cho phép các tương tác tĩnh
điện diễn ra với thuốc điều trị, từ đó, dẫn đến
khả năng giải phóng thuốc từ từ”.
Theo vista.gov.vn, 10/04/2018
Trở về đầu trang
**************
NanoZymes sử dụng ánh sáng để diệt khuẩn
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
RMIT đã tạo ra một loại enzyme nhân tạo
mới có tên là NanoZymes, sử dụng ánh sáng
để tiêu diệt vi khuẩn. Enzyme nhân tạo trong
tương lai sẽ được sử dụng để chống nhiễm
trùng và giữ vệ sinh cho các không gian công
cộng có nguy cơ cao như môi trường bệnh
viện để tránh các vi khuẩn như E.colo và
Golden Staph.
E.coli gây bệnh lỵ và viêm dạ dày ruột,
trong khi vi khuẩn Golden Staph là nguyên
nhân chính gây nhiễm trùng thứ phát do môi
trường bệnh viện và nhiễm trùng vết thương
mãn tính. NanoZymes được cấu thành từ các
thanh nano nhỏ hơn 1.000 lần sợi tóc và sử
dụng ánh sáng nhìn thấy để tạo ra loại oxy có
tốc độ phản ứng cao nhanh chóng phân tách
và diệt khuẩn.
Giáo sư Vipul Bansal, trưởng nhóm
nghiên cứu cho rằng NanoZymes, enzyme
nhân tạo mới có khả năng vượt trội hơn so
với khả năng diệt khuẩn tự nhiên. Theo GS.
Bansal, “Nhiều năm qua, chúng tôi đã cố
gắng phát triển loại enzyme nhân tạo có thể
diệt khuẩn, trong khi mở ra các cơ hội để
kiểm soát nhiễm trùng vi khuẩn bằng cách sử
dụng yếu tố kích thích bên ngoài. Cuối cùng,
chúng tôi đã làm được điều đó”.
NanoZymes là enzyme nhân tạo kết
hợp ánh sáng với độ ẩm để kích hoạt phản
sinh hóa tạo ra các gốc OH và tiêu diệt vi
khuẩn. Hoạt động kháng khuẩn tự nhiên
không phản ứng với các yếu tố kích thích bên
ngoài như ánh sáng. Kết quả nghiên cứu cho
thấy khi chiếu ánh sáng trắng, hoạt động của
NanoZymes tăng hơn 20 lần, tạo thành nhiều
lỗ trong các tế bào vi khuẩn và tiêu diệt vi
khuẩn hiệu quả.
NanoZymes hoạt động trong dung dịch
mô phỏng dịch trong vết thương. Dung dịch
này có thể được phun lên bề mặt. Ngoài ra,
NanoZymes được sản xuất từ bột để trộn với
sơn, gốm và các sản phẩm tiêu dùng khác. Có
nghĩa là tường và bề mặt trong bệnh viện sẽ
không còn vi khuẩn. Nhà vệ sinh công cộng
nơi có mật độ vi khuẩn cao và đặc biệt là
E.coli, cũng là địa điểm lý tưởng cho
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 11/60
NanoZymes. Các nhà nghiên cứu tin rằng
công nghệ mới thậm chí có tiềm năng chế tạo
bồn cầu tự làm sạch.
Dù NanoZymes hiện sử dụng ánh sáng
nhìn thấy từ đèn pin hoặc các nguồn sáng
tương tự, nhưng trong tương lai có thể được
kích hoạt bởi ánh nắng mặt trời. Nhóm
nghiên cứu đã chứng minh NanoZymes hoạt
động trong môi trường phòng thí nghiệm và
hiện đang đánh giá hiệu quả lâu dài của
NanoZymes đối với các sản phẩm tiêu dùng.
Mới đây, nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí ACS Applied Nano Materials.
Theo vista.gov.vn, 12/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán bệnh về mắt do tiểu đường
Thiết bị có tên IDx-DR có thể chẩn đoán bệnh màng lưới do tiểu đường. Nguồn: eyediagnosis.net
Ngày 11/4, Cục Quản lý thực phẩm và
dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp phép cho việc
quảng bá thiết bị y tế đầu tiên sử dụng trí
thông minh nhân tạo (AI) trong việc phát hiện
các tổn thương ở mắt do ảnh hưởng của bệnh
tiểu đường.
Bước đi này cho phép các bác sỹ chẩn
đoán bệnh màng lưới do tiểu đường mà
không cần diễn giải các chỉ số hay hình ảnh.
Thiết bị trên, có tên IDx-DR, có thể
chẩn đoán bệnh màng lưới do tiểu đường,
nguyên nhân phổ biến d n gây mù lòa cho
hơn 30 triệu bệnh nhân tiểu đường tại Mỹ.
Căn bệnh này xảy ra khi lượng đường trong
máu tăng cao khiến các mạch máu võng mạc
bị tổn thương.
Phần mềm của thiết bị này sử dụng
một thuật toán AI để phân tích các hình ảnh
của mắt do máy chụp hình võng mạc Topcon
NW400 chụp lại. FDA cho biết bác sỹ có thể
tải những hình ảnh kỹ thuật số chụp võng mạc
của bệnh nhân đến một máy chủ ảo được triển
khai trên nền tảng điện toán đám mây mà
phần mềm IDx-DR được cài đặt.
Nếu chất lượng hình ảnh đáp ứng đủ
tiêu chuẩn, phần mềm này sẽ cung cấp cho
bác sỹ một trong 2 kết quả, theo đó nếu bệnh
nhân mắc bệnh màng lưới tiểu đường trên
mức thể nhẹ, bệnh nhân được khuyến cáo cần
tham vấn với chuyên gia nhãn khoa để có sự
chăm sóc và điều trị mắt hợp lý. Nếu kết quả
là âm tính đối với bệnh màng lưới tiểu đường
trên mức thể nhẹ, bệnh nhân sẽ được sàng lọc
lại mắt trong 1 năm.
Giới chức FDA cho biết việc phát hiện
sớm bệnh màng lưới đóng vai trò quan trọng
trong việc chăm sóc hàng triệu người mắc
bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân
không được sàng lọc hợp lý bệnh màng lưới
do khoảng 50% người bệnh không đến tham
vấn các bác sỹ nhãn khoa mỗi năm. Do đó,
việc sử dụng IDx-DR mang lại giải pháp sàng
lọc hiệu quả mà không cần các bác sỹ đọc kết
quả qua hình ảnh hay các chỉ số.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng
khuyến cáo không sử dụng thiết bị này cho
bệnh nhân có tiền sử điều trị laser, ph u thuật
hay từng tiêm mắt; những người mất thị lực
lâu dài; hay những bệnh nhân mắc bệnh rối
loạn võng mạc.
Thiết bị này cũng không được khuyến
cáo đối với phụ nữ mang thai do bệnh màng
lưới do tiểu đường có thể diễn biến rất nhanh
và IDx-DR không được sử dụng để đánh giá
nhanh căn bệnh này.
Theo vietnamplus.vn, 12/04/2018
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 12/60
**************
Hàn Quốc sử dụng trí tuệ nghệ nhân tạo dự đoán sự tương tác thuốc
Nguồn: Yonhap
Một nhóm nhà khoa học người Hàn
Quốc đã phát triển một công nghệ mới dựa
trên trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính
xác khả năng tương tác giữa các loại thuốc
khác nhau.
Theo thông báo của Bộ Khoa học và
Công nghệ thông tin Hàn Quốc ngày 17/4,
nhóm nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) đã
phát triển công nghệ dự đoán sự tương tác
thuốc tiềm ẩn (DDI), qua đó giúp các chuyên
gia y tế dễ dàng xác định loại tương tác nào
sẽ xảy ra giữa các loại thuốc khác nhau.
Các nhà khoa học đã sử dụng công
nghệ "deep learning" - một nhánh đặc biệt
trong AI có khả năng giải quyết các vấn đề
thực tế bằng cách khai thác các mạng thần
kinh nhân tạo và mô phỏng việc đưa ra các
quyết định của con người - để nâng cao hiệu
quả khai thác DDI.
DeepDDI có thể dự đoán tổng cộng
192.284 tương tác giữa thuốc với thuốc, với
độ chính xác ở mức cao 92,4%. Ngoài ra,
DeepDDI có thể được sử dụng để dự đoán các
tương tác giữa thuốc và thực phẩm.
Các chuyên gia đánh giá công nghệ này
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
và điều chế thuốc, cũng như việc kê đơn bởi
điều này giúp bệnh nhân hạn chế gặp tác dụng
phụ do uống nhiều loại thuốc khác nhau.
Nghiên cứu mới nhất này có thể đóng
vai trò như một công nghệ nền tảng thúc đẩy
sự phát triển y học chính xác - phương pháp
điều trị phân loại bệnh nhân vào các nhóm
bệnh khác nhau với các quyết định điều trị,
can thiệp và chỉ định phù hợp với từng cá nhân
dựa trên sự tổng hợp, phân tích dữ liệu về gen.
Tương tác thuốc là những thay đổi về
tác dụng của một loại thuốc do chịu tác động
của một loại thuốc khác khi được sử dụng
đồng thời.
Trong trị liệu, đôi khi bác sỹ lợi dụng
sự tương tác thuốc nhằm làm tăng tác động
của từng loại thuốc khi được sử dụng kết hợp.
Tuy nhiên, tương tác thuốc thường có hại, có
thể làm tăng hoặc giảm tác dụng mong muốn
của một loại thuốc, làm trầm trọng thêm các
tác dụng phụ của thuốc.
Theo vietnamplus.vn, 17/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Cảm biến siêu nhỏ theo dõi thường xuyên nồng độ cồn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 13/60
Các kỹ sư tại trường Đại học
California San Diego đã chế tạo được cảm
biến sinh học có thể tiêm và tiêu thụ rất ít
năng lượng để theo dõi liên tục nồng độ cồn
trong thời gian dài. Chip có kích thước đủ
nhỏ để cấy vào trong cơ thể người ở vị trí
giữa bề mặt da và được cung cấp năng lượng
theo phương thức không dây bằng thiết bị đeo
trên người như đồng hồ hoặc miếng dán.
Một trong những thách thức đối với
bệnh nhân trong các chương trình điều trị lạm
dụng chất kích thích là thiếu các công cụ phù
hợp để theo dõi thường xuyên. Máy kiểm tra
nồng độ cồn qua hơi thở hiện là phương pháp
phổ biến để xác định nồng độ cồn trong máu
và là thiết bị rườm rà cần có sự hợp tác của
bệnh nhân và không phải lúc nào cũng chính
xác. Xét nghiệm máu là kỹ thuật cho kết quả
chính xác nhất, nhưng cần được thực hiện bởi
kỹ thuật viên có trình độ. Cảm biến nồng độ
cồn giống như hình xăm có thể được dán lên
da, dễ bóc tách và chỉ sử dụng một lần, là
phương pháp mới triển vọng.
Drew Hall, giáo sư kỹ thuật điện và là
trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Cảm biến
siêu nhỏ có thể tiêm sẽ được sử dụng trong
phòng khám mà không cần phẫu thuật, tạo
điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân theo dõi
tiến trình điều trị theo đơn trong thời gian
dài”.
Chip cảm biến sinh học có kích thước
khoảng 1 mm3 và có thể được tiêm dưới da
trong chất dịch ở khe - chất dịch bao quanh
các tế bào của cơ thể. Chip có chứa cảm biến
phủ rượu oxidaza, một enzyme tác động có
chọn lọc với cồn để tạo ra sản phẩm phụ có
thể được phát hiện bằng phương pháp điện
hóa. Các tín hiệu điện được truyền không dây
đến thiết bị mang theo người như đồng hồ
thông minh cung cấp năng lượng theo phương
thức không dây cho chip. Hai cảm biến bổ
sung trên chip đo các tín hiệu và độ pH cơ
bản. Các thiết bị này cản trở việc cung cấp
các số liệu chính xác.
Các nhà nghiên cứu đã thiết kế chip
tiêu thụ ít điện năng nhất có thể (tổng số 970
nano Wat), thấp hơn khoảng 1 triệu lần năng
lượng cần để một chiếc điện thoại thông minh
thực hiện cuộc gọi. Chip hoạt động được ở
mức điện năng công suất thấp này là nhờ
truyền dữ liệu bằng kỹ thuật phản xạ ngược.
Hoạt động này diễn ra khi một thiết bị ở gần
như đồng hồ thông minh truyền tín hiệu tần
số vô tuyến đến chip và chip gửi dữ liệu bằng
cách thay đổi và phản xạ các tín hiệu đó. Các
nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế mạch hiển thị
cảm biến siêu tiết kiệm năng lượng cho chip
và giảm thiểu thời gian đo chỉ còn 3 giây, d n
đến năng lượng tiêu thụ ít hơn.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm chip
trong ống nghiệm với một thiết lập mô phỏng
môi trường cấy ghép, liên quan đến hỗn hợp
etanol trong huyết thanh người pha loãng bên
dưới các lớp da lợn. Trong tương lai, nhóm
nghiên cứu dự kiến thử nghiệm chip trên
động vật sống và sẽ phối hợp nghiên cứu tối
ưu hóa việc sử dụng chip để theo dõi phục
hồi. Các nhà khoa học đang chế tạo những
phiên bản chip có thể theo dõi thuốc và những
phân tử khác trong cơ thể.
Theo vista.gov.vn, 19/4/2018
Trở về đầu trang
**************
Thuốc trừ sâu tự nhiên' giết chết tế bào ung thư tuyến tiền liệt
Điểm nổi bật của ung thư tuyến tiền
liệt là một gen ức chế khối u PTEN bị lỗi.
Hiện nay, sau khi kiểm tra các hợp chất có
ảnh hưởng đến các tế bào không có PTEN,
các nhà khoa học đã khám phá ra rằng một
loại thuốc trừ sâu tự nhiên gọi là deguelin có
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 14/60
thể giết chết các tế bào như vậy bằng cách
phá vỡ cung cấp năng lượng của chúng.
Deguelin thuộc một loại thuốc được
gọi là chất ức chế ty thể. Ngăn chặn hoạt
động của ty thể. Mitochondria là những
khoang nhỏ bên trong các tế bào, chuyển
glucose trong tế bào thành các phân tử
adenosine triphosphate (ATP), dùng làm đơn
vị năng lượng để thúc đẩy các hoạt động khác
nhau của tế bào.
Các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm
Cold Spring Harbor ở New York - Hoa Kỳ
nhận thấy rằng điều trị các tế bào thiếu PTEN
với một số loại chất ức chế ty thể đã khiến
các tế bào sử dụng glucose từ môi trường của
chúng để làm cho ATP và sau đó vận chuyển
nó vào ty thể của chúng để bảo vệ chúng.
Nhà nghiên cứu Lloyd Trotman- Giáo
sư tại Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor,
giải thích: “Nó giống như các tế bào không có
PTEN, tiêu thụ một lượng lớn glucose" để
giúp chúng tồn tại ty thể. Chúng làm việc này
đến mức khi hết nhiên liệu và chết.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học
đã sử dụng một mô hình di truyền ung thư
tuyến tiền liệt di căn được phát triển bởi
nhóm của Giáo sư Trotman. Họ cho rằng
những phát hiện của họ với liều thuốc đúng,
một số chất ức chế ty thể như deguelin và một
loại mà họ nhận biết được gọi là rotenone - có
thể giết được tế bào ung thư tuyến tiền liệt mà
không gây tổn hại cho tế bào khỏe mạnh. Tuy
nhiên, họ cũng lưu ý rằng thời gian và điều
kiện phải vừa đúng - ví dụ thuốc sẽ không
hoạt động nếu mức đường huyết cao.
Sau ung thư da, ung thư tuyến tiền liệt
là loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới ở
Hoa Kỳ, ở đâu, vào năm 2017, ước tính có
161.360 người phát hiện ra họ mắc bệnh này.
Trong phần lớn các trường hợp, ung thư
tuyến tiền liệt được chẩn đoán trước khi bệnh
bắt đầu lan rộng. Trong khi ung thư ở quốc
gia này, điều trị sẽ dễ dàng hơn nhiều và tỉ lệ
sống sót 5 năm gần 100%. Tuy nhiên, khi
bệnh ung thư đã di căn, nghĩa là nó đã lan
rộng và tạo ra các khối u mới ở các bộ phận
khác của cơ thể điều này khó hơn nhiều. Đối
với những người đàn ông được chẩn đoán ung
thư tuyến tiền liệt hoặc di căn, tỷ lệ sống
trung bình 5 năm là 29%. Trong bài nghiên
cứu, các tác giả lưu ý rằng "dấu hiệu của ung
thư tuyến tiền liệt tiên tiến" là hai gen ức chế
khối u PTEN và p53 không hoạt động tốt vì
chúng bị biến đổi.
Khi các gen ức chế khối u hoạt động
bình thường, chúng "làm chậm phân chia tế
bào", sửa chữa DNA bị hỏng và kích hoạt sự
phá hủy tế bào. Mặt khác, các gen ức chế khối
u bị lỗi, không thực hiện được các chức năng
này và làm phát triển các tế bào bị lỗi mà có
thể phát triển không kiểm soát được và gây
ung thư. Giáo sư Trotman và các cộng sự cho
hay, trong số 3 triệu nam giới ở Mỹ có ung thư
tuyến tiền liệt, "gần 100.000 trường hợp mắc
bệnh ung thư có đột biến [PTEN và p53]".
Điều này "thúc đẩy" họ tìm kiếm các loại
thuốc có thể hoạt động đặc biệt chống lại ung
thư tuyến tiền liệt có PTEN và p53 đột biến.
Tuy nhiên, vì "một số nghiên cứu" đã
chỉ ra rằng sự mất mát của p53 không làm tăng
ung thư tuyến tiền liệt, họ quyết định tập trung
vào PTEN. Chúng tôi đã bắt đầu nghiên cứu
bằng cách chạy một loạt các thí nghiệm sử
dụng các tế bào có và không có PTEN. Kết
quả thấy rằng deguelin có khả năng tiêu diệt cả
hai loại tế bào, nhưng liều cần thiết để diệt tế
bào với PTEN (mô hình tế bào bình thường)
gấp 500 lần so với liều cần thiết để diệt tế bào
mà không có PTEN (mô hình tế bào ung thư).
Và thuốc có ảnh hưởng mạnh hơn đến các tế
bào không có PTEN bởi vì ty thể của chúng
tiêu thụ ATP "thay vì tạo ra nó".
Giáo sư Trotman nói: "Điều đó hoàn
toàn ngược lại", về những gì mitochondria
được cho là sẽ làm. Mitochondria được cho
là sẽ tạo ra ATP cho phần còn lại của tế
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 15/60
bào”. Cuối cùng, khi kiểm tra deguelin trong
mô hình chuột của họ về ung thư tuyến tiền
liệt gây tử vong, chúng tôi phát hiện ra nó đã
ngăn chặn ung thư tiến triển.
Theo vista.gov.vn, 13/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Nhật Bản sẽ thực hiện xét nghiệm nước tiểu đầu tiên để phát hiện ung thư
Một công ty của Nhật Bản đã sẵn sàng
triển khai thử nghiệm đầu tiên trên thế giới để
kiểm tra ung thư thông qua các m u nước
tiểu, sẽ tạo điều kiện cho việc sàng lọc căn
bệnh chết người này.
Nhóm nghiên cứu tại Tập đoàn Kỹ
thuật và Công nghệ thông tin Hitachi đã phát
triển công nghệ cơ bản để phát hiện ung thư
vú hoặc đại tràng từ các m u nước tiểu cách
đây hai năm. Tập đoàn sẽ thử nghiệm công
nghệ với 250 m u nước tiểu để kiểm tra các
m u nước tiểu trong điều kiện nhiệt độ phòng
có phù hợp để phân tích hay không.
Chiharu Odaira, phát ngôn viên của
Tập đoàn Hitachi cho biết: “Nếu phương
pháp này có thể sử dụng trên thực tế, nhiều
người sẽ dễ dàng thực hiện xét nghiệm ung
thư, vì sẽ không cần đi đến các cơ sở y tế để
làm xét nghiệm máu. Phương pháp này đặc
biệt hữu ích cho xét nghiệm ung thư ở trẻ nhỏ
do trẻ thường sợ kim tiêm”.
Theo một nghiên cứu được công bố
vào đầu năm nay, xét nghiệm máu mới có
triển vọng phát hiện 8 loại khối u khác nhau
trước khi chúng di căn khắp cơ thể. Các
phương pháp chẩn đoán ung thư vú thông
thường bao gồm chụp X quang tuyến vú, sau
đó đến sinh thiết nếu phát hiện nguy cơ. Đối
với ung thư đại tràng, việc sàng lọc thường
được thực hiện thông qua xét nghiệm phân và
nội soi đại tràng cho các bệnh nhân có nguy
cơ cao.
Các trung tâm công nghệ Hitachi phát
hiện thấy chất dư thừa trong các m u nước
tiểu đóng vai trò như “chỉ dấu sinh học” -
chất xuất hiện tự nhiên khi một bệnh nào đó
được xác định. Công nghệ mới nhằm nâng
cao khả năng phát hiện sớm ung thư, cứu
sống con người và giảm chi phí y tế và xã hội
cho quốc gia. Nhóm nghiên cứu sẽ phối hợp
với trường Đại học Nagoya thực hiện thử
nghiệm trong thời gian từ tháng 4 đến hết
tháng 9 tới.
Odaira cho rằng: “Chúng tôi đặt mục
tiêu ứng dụng công nghệ vào những năm
2020, dù điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như sự chấp thuận của chính quyền”.
Theo vista.gov.vn, 24/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát triển loại thuốc mới để ức chế tế bào gốc ung thư
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 16/60
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã
phát triển được một loại thuốc mới có thể ức
chế sự phát triển và lây lan của các tế bào gốc
ung thư.
Các nhà nghiên cứu từ Vũ Hán và
Thượng Hải đã thông báo rằng một loại thuốc
tổng hợp nhắm đích phân tử gọi là WYC-209
có thể giết chết hoặc ức chế sự gia tăng của
các tế bào gốc của khối u ác tính và ung thư
phổi, buồng trứng và vú.
Thông qua các thí nghiệm trên chuột,
các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng loại
thuốc này cũng có thể ngăn ngừa sự di căn
của ung thư phổi trong 87,5% các trường hợp.
Nghiên cứu được thực hiện bởi Wang
Ning, giáo sư tại Đại học Khoa học và Công
nghệ Huazhong, và Yu Biao, nhà nghiên cứu
tại Viện hóa học hữu cơ Thượng Hải thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, đã được
công bố trên tạp chí Nature Communications
vào ngày 11 tháng 4 vừa qua.
Liệu pháp tế bào gốc ung thư là một
chiến lược hiện tại để điều trị ung thư. Các tế
bào gốc ung thư có thể làm giảm nguy cơ các
khối u mới. Wang và Yu bắt đầu hợp tác về
việc tổng hợp loại thuốc mới từ năm 2014.
Theo các nhà nghiên cứu, thí nghiệm
trên động vật cho thấy loại thuốc mới có thể
điều trị các khối u ác tính có độc tính thấp.
Theo vista.gov.vn, 27/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Chẩn đoán sự phát triển của khối u não không cần sinh thiết
Phương pháp mới chẩn đoán khối u não không cần sinh thiết giúp người bệnh tránh được can thiệp xâm lấn đau đớn và điều trị hiệu quả hơn -
Ảnh: Getty Images
Lần đầu tiên, các nhà khoa học Mỹ đã
phát triển một công nghệ cho phép đưa chỉ
dấu sinh học vượt qua hàng rào máu não
giúp phát hiện khối u não chỉ bằng cách xét
nghiệm máu đơn giản.
Theo tạp chí Scientific Reports, các
nhà khoa học đã tìm ra phương pháp chẩn
đoán sự phát triển của khối u não mà không
cần can thiệp ph u thuật, tức là không cần
sinh thiết. Phương pháp này giúp phát hiện
bệnh chỉ với một xét nghiệm máu đơn giản.
Để bảo vệ các tế bào thần kinh của não
khỏi sự thâm nhập của các vi sinh vật, độc tố
và các yếu tố nguy hiểm khác lưu thông trong
máu, trong cơ thể chúng ta luôn có một hàng
rào máu não.
Đó là một loại bộ lọc độc đáo chỉ cho
phép các chất dinh dưỡng cần thiết đi vào
não. Trong một số trường hợp (ví dụ, trong
điều trị các bệnh về hệ thần kinh trung ương),
hàng rào máu não luôn là một khó khăn cho
các bác sĩ, vì nó ngăn cản các loại thuốc xâm
nhập vào não.
Các chuyên gia đã tạo ra được nhiều
loại thuốc để vượt qua “cửa ải” này, nhưng từ
trước đến nay, v n không có cách nào để đưa
một chỉ dấu sinh học đặc biệt tới các tế bào não
giúp có thể nhận ra sự phát triển của khối u.
Lần đầu tiên, các nhà khoa học Mỹ đã
phát triển một công nghệ cho phép đưa chỉ số
sinh học vượt qua hàng rào máu não. Để xác
định mức độ ác tính của khối u não, thường
phải tiến hành sinh thiết - ph u thuật khai
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 17/60
thác một khu vực nhỏ của khối u để nghiên
cứu thêm. Đối với các dạng ung thư khác, có
thể xác định mức độ ác tính qua xét nghiệm
máu, nhưng cho đến nay v n chưa có cách xét
nghiệm máu để xác định khối u não.
Các tác giả của nghiên cứu mới đã sử
dụng một đại phân tử làm chỉ dấu sinh học về
khối u, đó là ARN thông tin (mRNA) giúp
các protein được tổng hợp qua thông tin được
mã hóa trong ADN. Các nhà khoa học đã đưa
vào máu của chuột thí nghiệm bị khối u não
một chất đặc biệt như chiếc bong bóng. Khi
chạm tới hàng rào máu não, bong bóng vỡ ra,
gây tổn thương cho cấu trúc hàng rào máu
não và do đó cho phép mRNA đi qua. Sau đó,
các nhà nghiên cứu tiến hành xét nghiệm máu
định kỳ và xác định các đặc tính của sự phát
triển khối u qua mRNA trong máu.
Theo các nhà nghiên cứu, công nghệ
mới sẽ giúp không chỉ chẩn đoán khối u não
không cần can thiệp ph u thuật mà còn giúp
điều trị khối u một cách hiệu quả hơn.
Theo motthegioi.vn, 29/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Đầu dò nano hybrid phát hiện tế bào ung thư
Nhóm nghiên cứu tại Trung tâm
Dornsife, Đại học Southern California đã chế
tạo được dầu dò nano hybrid mới có khả năng
phát hiện và điều trị bệnh ung thư theo cách
không xâm lấn ở cấp độ của tế bào đơn lẻ.
Fabien Pinaud, Phó giáo sư về khoa
học sinh học, hóa học và vật lý và là đồng tá
giả nghiên cứu đã đưa ra phương pháp
khuếch đại tín hiệu sinh hóa trên bề mặt của
các tế bào ung thư. Kỹ thuật mới liên kết và
lắp ghép các phân tử hữu cơ vàng trong các tế
bào sống bằng cách sử dụng 2 đoạn protein
huỳnh quang làm “keo phân tử”. Các dầu dò
này hoạt động như bộ khuếch đại, làm tăng
khả năng các nhà nghiên cứu phát hiện ra
những dấu hiệu sinh học khác biệt như những
protein biểu hiện quá mức hoặc đột biến được
phát hiện trong các tế bào ung thư.
Tín hiệu tăng cường cho phép các nhà
khoa học phân biệt tế bào ung thư với tế bào
khỏe mạnh thông qua sử dụng quang phổ
Raman, kỹ thuật chụp ảnh laser chuyên dụng.
PGS. Pinaud cho rằng: “Phương pháp của
chúng tôi dựa vào hai loại hạt nano khác nhau
không hoạt động, nhưng trở nên kích hoạt khi
chúng lắp ghép trên các tế bào ung thư”.
Sử dụng khối lắp ghép “keo phân tử”
để thiết kế các đầu dò nano mới là phương
thức phổ biến trong nghiên cứu y sinh hiện
nay, nhưng hầu hết các nhà khoa học tạo nên
các khối lắp ghép này bằng ADN hơn là
protein. Dù các đầu dò quang học triển vọng
đang được chế tạo bằng cách sử dụng các khối
lắp ghép ADN trong ống nghiệm, nhưng ADN
không phải chất dính thực tế trong tế bào sống.
Protein thường mang lại hiệu quả hơn.
Nhóm nghiên cứu bắt đầu với protein
huỳnh quang phát sáng khi ánh sáng xanh
(cực tím) chiếu vào. Protein huỳnh quang
được tách thành hai đoạn và mỗi đoạn được
gắn vào một tập hợp hạt nano vàng. Cả hai
tập hợp hạt nano nằm trên tế bào và liên kết
với các tín hiệu sinh học trên bề mặt tế bào.
Khi các hạt nano va chạm trên tế bào ung thư,
các đoạn protein tự ghép lại một cách tự
nhiên trên toàn bộ protein huỳnh quang.
Quy trình tái cấu trúc có 2 ưu điểm.
Thứ nhất, hoạt động của tín hiệu sinh hóa mới
trong protein huỳnh quang được khuếch đại
mạnh nhờ các hạt nano cho phép phát hiện
hình ảnh Raman. Thứ hai, nhiệt và sóng siêu
âm được phát ra khi laser tác động đến các
hạt nano, có thể được đo bằng máy dò siêu
âm. Ảnh hưởng kép này tạo độ tin cậy cao
trong việc phát hiện một tế bào trên thực tế là
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 18/60
tế bào ung thư, mà không phải là tín hiệu
dương tính giả từ tế bào khỏe mạnh.
Các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ thăm
dò khả năng phá hủy các tế bào ung thư,
nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến tế bào
khỏe mạnh bằng cách sử dụng laser để làm
nóng các hạt nano.
Theo vista.gov.vn, 28/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Loại thuốc đầy hứa hẹn có thể ngăn chặn gen gây ung thư
Các nhà khoa học thuộc Trường Đại
học Michigan State đang tiến hành thử
nghiệm một loại thuốc rất hứa hẹn có thể
ngăn chặn một gen liên quan đến chứng béo
phì do ung thư vú và ung thư phổi, cũng như
ngăn ngừa các căn bệnh ung thư này phát
triển. Những phát hiện này, dựa trên nên tảng
của hai công trình nghiên cứu đặc biệt, đã
được công bố trên tạp chí Cancer Prevention
Research mới đây.
Nghiên cứu tiền lâm sàng đầu tiên do
Karen Liby, Phó Giáo sư tại Khoa Dược và
Sinh học d n dắt. Các kết quả cho thấy loại
thuốc có tên là I-BET-762 cho thấy có khả
năng trì hoãn đáng kể sự phát triển của ung
thư vú và ung thư phổi.
“I-BET-762 hoạt động bằng cách
nhắm mục tiêu ADN để nó ức chế một số
protein quan trọng - gồm cả ung thư và tế
bào miễn dịch - và cuối cùng làm giảm số
lượng tế bào ung thư ở chuột xuống 80%”,
Liby cho biết.
Các protein này rất quan trọng bởi vì
chúng đóng một vai trò quan trọng đối với
những gì xảy ra bên trong giữa các tế bào. Ví
dụ, một protein đặc biệt, có tên gọi là
pSTAT3, có thể hoạt hóa trong tế bào miễn
dịch và ngăn không cho chúng thực hiện công
việc của chúng, chẳng hạn như chiến đấu
chống lại ung thư xâm lấn. Protein này cũng
có thể trở nên tăng sinh quá mức bên trong
các tế bào ung thư và hoạt động như một vật
che chở và cuối cùng là bao trùm khối u.
“Trong nghiên cứu của chúng tôi, loại
thuốc này giảm cấp độ của pSTAT3 xuống
50% trong cả hai loại tế bào”, Liby nói.
Nghiên cứu thứ hai, d n đầu bởi Jamie
Bernard, trợ lý giáo sư dược lý và độc tính
học, đã áp dụng những phát hiện trong nghiên
cứu của Liby lên tế bào tiền ung thư. “Chúng
tôi đã xem xét trực tiếp tác động của I-BET-
762 lên tế bào mà nó có thể trở thành khối u
trên người, nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Tuy
nhiên chúng tôi phát hiện ra rằng loại thuốc
này có thể ngăn chặn hơn 50% các tế bào này
trở thành ung thư”. Bernard nói.
Gen c-Myc do các chất béo nội tạng
gây ra, gen này được tìm thấy nằm xung
quanh các cơ quan bên trong cơ thể nhưng nó
trái ngược lại với chất béo dưới da, nằm dưới
da. Mỡ nội tạng này nguy hiểm hơn cho sức
khoẻ của bạn.
Bernard cho biết, gần 500 dạng ung thư
mới liên quan đến béo phì. Có bằng chứng
rằng chế độ ăn có chất béo nội tạng và nhiều
chất béo có thể làm tăng nguy cơ ung thư, và
mặc dù các phương pháp điều trị ung thư hiện
nay đã giúp làm giảm tỉ lệ tử vong do ung thư,
nhưng số lượng các bệnh ung thư liên quan
đến béo phì v n ngày càng tăng lên. “Do sự
thành công hạn chế trong việc làm giảm tỷ lệ
tử vong cao ở những bênh nhân ung thư vú và
ung thư phổi, các phương pháp phòng ngừa
mới là rất cần thiết”, Bernard nói.
Các loại thuốc mà hoạt động tương tự
như I-BET-762 cũng đang được thử nghiệm
trong các thử nghiệm lâm sàng để điều trị một
loạt các loại ung thư khác bao gồm ung thư
bạch cầu, lymphoma, u não và u tủy. Liby và
Bernard hy vọng I-BET-762 sẽ làm tăng cơ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 19/60
hội sống sót của bệnh nhân ung thư vú và ung
thư phổi.
“Mục tiêu của nhóm nghiên cứu là sẽ
làm rõ những gì cần phải được nhắm đích và
do đó có thể được sử dụng để ngăn ngừa ung
thư ở những bệnh nhân có nguy cơ cao”,
Bernard cho biết.
Theo vista.gov.vn, 03/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các loại thuốc cho bệnh ung thư ruột già mới có thể nghiên cứu từ protein
Các phương pháp điều trị ung thư ruột
già tốt hơn có thể được phát hiện qua một
nghiên cứu mới, loại protein duy nhất có thể
ngăn chặn sự phát triển bệnh. Nhóm nghiên
cứu nhận thấy rằng protein có tên APC có thể
"phanh" sự tiến triển của những tế bào d n
đến sự phát triển của ung thư ruột già. Khám
phá này có thể mở cánh cửa cho những loại
thuốc mới cho ung thư kết trực tràng. Đồng
tác giả nghiên cứu, Tiến sĩ Yashi Ahmed, đến
từ Trung tâm Ung thư Norris ở Trường Y
khoa Geisel ở Hanover - Đức và các cộng sự
đã báo cáo kết quả của họ trên tạp chí
Developmental Cell.
Ung thư đại trực tràng bắt đầu từ đại
tràng hoặc trực tràng, hiện nay là ung thư phổ
biến thứ ba ở Hoa Kỳ. Đây cũng là nguyên
nhân thứ ba gây tử vong do ung thư. Ở thời
điểm hiện tại, khoảng 97.220 ca ung thư ruột
già được chẩn đoán ở Hoa Kỳ. Các nhà khoa
học đã xác định được APC - một protein có
tiềm năng của gen APC, như mục tiêu có thể
phòng ngừa ung thư đại trực tràng; protein
điều hòa sự phát triển và sự phân chia của tế
bào, ngăn chặn chúng thoát khỏi sự kiểm soát
và hình thành khối u. Mặt khác, việc ngừng
hoạt động của APC có thể thúc đẩy sự phát
triển của ung thư đại trực tràng.
Tiến sĩ Ahmed và các đồng nghiệp giải
thích rằng khi nói đến vai trò bảo vệ chống
ung thư của APC, họ thấy các protein mục
tiêu và phá hủy một "chất kích hoạt" duy
nhất, protein đó gọi là beta-catenin để phòng
ngừa ung thư ruột già. Bằng cách nghiên cứu
các tế bào ruồi giấm với APC - có khoảng
75% gen gây bệnh ở người, họ phát hiện ra
những cơ chế khác mà APC có thể ngăn chặn
ung thư ruột già.
Các tác giả cho biết: "Chúng tôi thấy
rằng việc ngăn chặn sự hoạt động của thụ thể
Wnt trong các tế bào thiếu APC ức chế sự
truyền tín hiệu Wnt một cách độc lập với phối
tử Wnt. Và việc kích hoạt thụ thể Wnt và tăng
mức beta-catenin. Những phát hiện này thách
thức cái nhìn hiện nay về cách APC ngăn
ngừa ung thư kết trực tràng, và vai trò của
APC sẽ rộng và đa dạng hơn”.
Hơn nữa, các nhà nghiên cứu tin rằng
khám phá của họ có thể d n tới các phương
pháp điều trị mới cho một trong những loại
ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất. Tiến
sĩ Ahmed giải thích, "Vì vai trò mới của APC
liên quan đến các protein trên bề mặt tế bào",
việc làm ung thư đại trực tràng có thể trở nên
dễ dàng hơn. Ví dụ, các kháng thể trị liệu,
thông thường không thể hoạt động trong tế
bào, bây giờ có thể được sử dụng để điều trị
ung thư đại trực tràng có đột biến APC.
Đồng tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Ethan
Lee đến từ Đại học Vanderbilt ở Nashville,
TN, cho biết thêm: “Nghiên cứu của họ cũng
có thể giúp các nhà nghiên cứu hiểu tại sao
đột biến của APC dường như là một nhân tố
chủ chốt trong các bệnh ung thư”. Và chúng
tôi cần có thêm các nghiên cứu để khám phá
những chi tiết sâu hơn về cách APC có thể
ngăn chặn ung thư ruột già.
Theo vista.gov.vn, 11/04/2018
Trở về đầu trang
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 20/60
**************
Giải pháp mới ngăn ung thư gan tái phát
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã xác
định một hợp chất nhân tạo từ vitamin A có
thể tác động vào một lớp tế bào gốc ung thư
gan, ngăn chúng phát triển và tạo ra những
khối u mới
Nhóm nghiên cứu do chuyên gia
Soichi Kojima đến từ Trung tâm RIKEN Nhật
Bản đứng đầu đã phát hiện ra acyclic retinoid
(hay còn gọi là Peretinoin) có thể ngăn chặn
các tế bào ung thư gan HCC (ung thư biểu mô
tế bào gan) tái sản sinh.
Nhóm nghiên cứu đã so sánh bản sao
của những tế bào ung thư được tiếp xúc với
acyclic retinoid và những tế bào ung thư
không tiếp xúc với hợp chất này.
Kết quả cho thấy những tế bào của
nhóm 1 có ít gene MYCN (loại gene thường
xuất hiện trong tế bào ung thư và có liên hệ
tới tình trạng tiên lượng xấu) hơn so với
nhóm 2.
Sau khi thực hiện thêm một số so sánh,
các nhà khoa học tin rằng việc giảm số lượng
gien MYCN có thể giúp làm chậm quá trình
phát triển của tế bào ung thư gốc, loại tế bào
đặc biệt, có thể sống sót qua quá trình ph u
thuật hay hóa trị.
Các thí nghiệm cũng chỉ ra, khi tiếp
xúc với acyclic retinoid với một phù hợp,
những tế bào gốc ung thư EpCAM-positive sẽ
bị tiêu diệt một cách có chọn lọc và khi kiểm
tra các m u sinh thiết của các bệnh nhân ung
thư sau ph u thuật được sử dụng acyclic
retinoid, nhóm nghiên cứu cũng tìm thấy
MYCN giảm trong 4/6 trường hợp được sử
dụng 600 mg/ngày.
Hiện nhóm nghiên cứu đang thực hiện
những thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 trong
việc sử dụng acyclic retinoid để ngăn chặn tái
phát ung thư gan HCC.
Ung thư gan HCC là dạng ung thư gan
gây ra tỉ lệ tử vong lớn và có tỷ lệ tái phát cao
nên dù có thể được điều trị hiệu quả nhờ
những biện pháp ph u thuật can thiệp thì sau
đó bệnh sẽ trở lại rất nhanh.
Điều trị khỏi bệnh bằng ph u thuật cắt
bỏ và ghép gan là các lựa chọn được chỉ định
đối với một thiểu số bệnh nhân bị ung thư
HCC; hơn 80% bệnh nhân bị HCC có các
khối u tiến triển và không thích hợp đối với
những can thiệp chữa khỏi bệnh này. Ngoài
ra, trong số những bệnh nhân đã trải qua trị
liệu có khả năng chữa khỏi bệnh, tỉ lệ tái phát
cao là 50% vào thời điểm 2 năm.
Kết quả nghiên cứu trên đã cung cấp
một gợi ý quan trọng cho việc can thiệp giảm
thiểu nguy cơ tái phát và điều trị cho bệnh
nhân ung thư gan.
Theo baochinhphu.vn, 25/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu phát triển quy trình mới để phân biệt các tế bào gốc
Đau cổ và lưng làm suy nhược và tốn
kém: khoảng 80% người lớn sẽ bị một hoặc
cả hai trường hợp ở một thời điểm nào đó
trong suốt cuộc đời của họ, thu về 86 tỷ đô la
chi phí y tế và mất việc ở Hoa Kỳ. Thông
thường, căn bệnh này là do các đĩa đệm bị tổn
thương, gãy vỡ, các vật chịu tải nặng, những
cấu trúc giống như bánh rán làm lớp đệm cho
các xương cột sống và được làm chủ yếu
bằng mô gọi là nhân mềm (nucleus pulposus -
NP). Các nhân mềm có thể thoái hóa theo độ
tuổi, làm cho các đĩa đệm bị mất hình dạng và
vỡ gãy - d n đến bệnh nhânh bị đau đớn.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 21/60
Trong khi các nhà khoa học nỗ lực tìm
ra các phương pháp trị liệu sớm để chống lại
căn bệnh thoái hóa đĩa thì hiện nay nhóm các
nhà nghiên cứu có quan tâm lớn đến việc khai
thác các tế bào gốc để khôi phục lại nhân
mềm, viết tắt là NP. Nghiên cứu trước đây
cho thấy các tế bào gốc đa nhân tạo từ người
(hiPSCs) được sản sinh trực tiếp từ tế bào
trưởng thành có thể biểu hiện các dấu hiệu
sinh học của nhiều tế bào kể các những tế bào
tiết ra NP.
Hiện nay, một nhóm các nhà khoa học
thuộc Đại học Washington tại St. Louis đã
phát triển được một quy trình mới tạo ra các
tế bào giống NP từ hiPSCs. Quy trình này
quay ngược lại từ đầu và bắt chước hệt quy
tình phát triển của phôi.
Lori Setton, giáo sư kỹ thuật y sinh ưu
tú, đồng thời là giáo sư Khoa Kỹ thuật Y sinh
học thuộc Trường Đại học Kỹ thuật và Khoa
học ứng dụng, cho biết: “Những gì chúng tôi
làm ở đây là nghiên cứu phát triển sinh học
trước khi chúng tôi thiết kế thử nghiệm. Đây là
những gì khác biệt trong nghiên cứu đặc biệt
này, chúng tôi đã tạo ra được một giao thức
khác biệt để bắt chước sự phát triển phôi”.
Trong các dự án trước đây, các nhà
khoa học đã cố gắng bắt nguồn từ nhiều loại
tế bào đã được phân biệt từ tế bào gốc như
xương, mô, dây thần kinh hoặc chất béo - trực
tiếp dựa vào hiPSCs. Setton và nhóm của cô
bắt đầu lại từ đầu, lần đầu tiên tìm ra một loạt
các bước để tạo ra một trong những cấu trúc
giống phôi thai hình thành sớm nhất có tên là
dây sống (notochord). Ở người, dây sống này
là một giống thanh sụn và nó tiến hóa thành
cột sống trong quá trình phát triển trong ống
nghiệm.
Nhóm của Setton đã hợp tác nghiên
cứu với Farshid Guilak, giáo sư ph u thuật
chỉnh hình tại Trường Đại học Y Washington,
và là giám đốc nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi
Shriners, tại St. Louis thực hiện một quá trình
nghiên cứu kéo dài ba năm.
Phòng thí nghiệm của Setton đã phơi
nhiễm hiPSC với nhiều yếu tố tăng trưởng và
môi trường nuôi cấy khác nhau để tạo ra các
chỉ dấu sinh học phát triển đầu tiên, và sau đó
định thành đầy đủ thành các tế bào dây sống.
Khi các nhà khoa học có các tế bào dây sống
này, họ áp dụng quá trình tiếp xúc hóa học
tương tự để phát triển chúng thành các tế bào
dạng NP. Phòng thí nghiệm đã theo dõi quá
trình phân biệt này bằng việc sử dụng phương
pháp tạo ảnh tế bào huỳnh quang, đây là
phương pháp kiểm tra các chỉ dấu sinh học
cần thiết trong từng bước nghiên cứu.
Công trình nghiên cứu của họ đã được
công bố trên tạp chí Stem Cell Research &
Therapy mới đây.
Setton nói rằng quá trình đa bước
phòng thí nghiệm của cô sử dụng để chuyển
hóa các tế bào dạng NP từ hiPSCs cung cấp
sự kiểm soát chất lượng rất cần khi các nhà
khoa học bổ sung ứng dụng cho các liệu pháp
tế bào gốc.
“Khi nghĩ đến một sản phẩm y học đã
được điều chỉnh, chúng ta cần phân loại nó ở
từng giai đoạn sử dụng và ở mỗi giai đoạn
phát triển. Như thể bạn đang sản xuất một bộ
phận ô tô, bạn kiểm soát chất lượng ở mọi
giai đoạn. Đó là những gì chúng tôi đã làm ở
đây”, Cô nói.
Các bước tiếp theo của nghiên cứu bao
gồm đánh giá các tín hiệu môi trường như độ
cứng của bề mặt nuôi cấy, địa hình tế bào và
cách thức một tế bào gắn kết và quan sát tác
động của chúng trong việc chuyển đổi các
hiPSCs.
Theo vista.gov.vn, 24/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu phát triển miếng dán trong suốt có khả năng phát hiện thực phẩm không an toàn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 22/60
Một nhóm các nhà khoa học bao gồm
các kỹ sư cơ khí và hóa học với các nhà sinh
hóa thuộc trường Đại học McMaster, Canada
đã hợp tác để thử nghiệm và phát triển một
miếng dán trong suốt được gắn các phân tử
vô hại có khả năng phát ra những tín hiệu
cảnh báo trong trường hợp thực phẩm bị ô
nhiễm. Miếng dán có thể được gắn trực tiếp
lên bao bì thực phẩm vì đây là vị trí lý tưởng
để nó có thể theo dõi dấu hiệu của sự xuất
hiện các mầm bệnh như vi khuẩn E. coli và
Salmonella gây tiêu chảy. Công nghệ mới là
câu trả lời cụ thể, chắc chắn cho câu hỏi tuy
tế nhị nhưng lại có ý nghĩa quan trọng về mức
độ vệ sinh an toàn của thực phẩm tươi sống
như thịt và các loại thực phẩm khác.
Trong tạp chí nghiên cứu ACS Nano,
công nghệ mới được mô tả và đánh giá là có
tiềm năng thay thế cho hạn "best before" -
hạn sử dụng thường thấy trên các sản phẩm
đông lạnh, đồ hộp hoặc thức ăn khô, các thực
phẩm có thể để được lâu nhằm chỉ chất lượng
của thực phẩm hơn là mức độ an toàn. Khi
đọc loại hạn sử dụng này có nghĩa là sản
phẩm có thể để đến ngày cuối cùng mà v n
đảm bảo chất lượng tốt nhất.
Tác giả nghiên cứu Hanie Yousefi,
nghiên cứu sinh và trợ lý nghiên cứu Khoa
Kỹ thuật, McMaster cho biết: "Trong tương
lai, khi bạn đi đến một cửa hàng và muốn
chắc chắn về mức độ vệ sinh an toàn của loại
thực phẩm bạn muốn mua tại bất kỳ thời điểm
nào trước khi sử dụng, bạn có thể sử dụng
phương pháp mới được đánh giá là đáng tin
cậy hơn nhiều so với ngày hết hạn".
Khi có dấu hiệu về sự xuất hiện của
một mầm bệnh bên trong thực phẩm hoặc đồ
uống, nó sẽ kích hoạt một tín hiệu trong bao
bì thông qua một ứng dụng được cài đặt sẵn
trong điện thoại thông minh hoặc các thiết bị
đơn giản khác. Quá trình kiểm tra hoàn toàn
không làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản
phẩm.
Theo công bố mới đây của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO), mỗi năm có hơn 600 triệu
người mắc các bệnh do tiêu thụ các loại thực
phẩm ô nhiễm, trong đó, có khoảng 420.000
ca tử vong. Đáng chú ý, gần 1/3 số ca tử vong
là trẻ em trong độ tuổi từ năm trở xuống.
Các nhà nghiên cứu đặt tên cho vật liệu
mới là "Sentinel Wrap" để tôn vinh mạng lưới
Sentinel Bioactive Paper của McMaster vốn là
một mạng lưới nghiên cứu liên ngành làm việc
trên các hệ thống phát hiện dựa trên giấy. Từ
nghiên cứu của mạng lưới d n đến sự ra đời
của công nghệ thử nghiệm thực phẩm mới. Kỹ
sư hoá học Carlos Filipe và kỹ sư sinh y học
cơ khí Tohid Didar đã hợp tác chặt chẽ với dự
án nghiên cứu công nghệ mới này.
Filipe, Chủ tịch Phòng Kỹ thuật Hóa
học của McMaster, chia sẻ: "Yingfu Li là
người đã tìm ra chiếc chìa khoá, còn chúng
tôi tạo ra ổ khóa và một cánh cửa tương ứng
đi kèm”. Công nghệ phát tín hiệu để kiểm tra,
giám sát an toàn vệ sinh thực phẩm được phát
triển trong phòng thí nghiệm hóa sinh của nhà
hóa sinh Yingfu Li.
Các chuyên gia cho biết điều kiện sản
xuất ra thiết bị miếng dán tương đối đơn giản,
chi phí rẻ, do các phân tử ADN phát hiện các
mầm bệnh trong thực phẩm có thể dễ dàng
được gắn trên vật liệu thử.
Didar, trợ lý giáo sư về kỹ thuật cơ khí
đồng thời là thành viên của Viện nghiên cứu
Bệnh truyền nhiễm McMaster, cho biết: "Bất
kỳ một nhà sản xuất thực phẩm nào cũng có
thể dễ dàng ứng dụng công nghệ mới vào quá
trình sản xuất”.
Nhóm nghiên cứu cho biết để đưa sáng
chế đến với thị trường cần một đối tác thương
mại cũng như chấp thuận quy định. Họ chỉ ra
rằng công nghệ trên cũng có thể được áp
dụng trong các ứng dụng khác, chẳng hạn như
miếng dán hiển thị dấu hiệu nhiễm trùng của
vết thương hoặc để bọc dụng cụ ph u thuật để
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 23/60
đảm bảo duy trì trạng thái vô trùng của những
dụng cụ đó.
Theo vista.gov.vn, 13/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Đột phá trong việc lọc nước bằng ánh nắng mặt trời và hydrogel
Theo thông tin của Liên Hợp Quốc,
mỗi tuần có 30.000 người chết do tiêu thụ và
sử dụng nước không hợp vệ sinh. Dù phần
lớn các trường hợp tử vong này xảy ra tại các
nước đang phát triển, nhưng Hoa Kỳ cũng
không còn xa lạ với tình trạng thiếu nước
ngoài dự kiến, đặc biệt là sau các thảm họa tự
nhiên như bão, có thể làm gián đoạn nguồn
cung cấp nước nhưng không báo trước.
Vì thế, nhóm nghiên cứu tại trường
Đại học Texas do Guihua Yu, phó giáo sư
khoa học vật liệu và kỹ thuật cơ khí d n đầu,
đã phát triển được công nghệ nhỏ gọn và chi
phí hiệu quả bằng cách sử dụng kết hợp vật
liệu hybrid gel-polyme. Các hydrogel này
(mạng lưới chuỗi polyme nổi tiếng với khả
năng hút nước) có cả tính chất ưu nước (hút
nước) và tính chất bán d n (hấp thụ năng
lượng mặt trời) cho phép sản xuất nước uống
sạch và an toàn từ bất cứ nguồn nước nào, dù
là nước biển hoặc các nguồn cung cấp nước ô
nhiễm. Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Nature Nanotechnology.
Nhóm nghiên cứu đã chế tạo máy sản
xuất hơi nước bằng năng lượng mặt trời dựa
vào hydrogel mới, sử dụng năng lượng mặt
trời trong môi trường tự nhiên để cấp năng
lượng cho quá trình bốc hơi nước để khử
muối hiệu quả. Các công nghệ hóa hơi bằng
năng lượng mặt trời hiện có được áp dụng để
xử lý nước mặn liên quan đến một quy trình
rất tốn kém phụ thuộc vào các công cụ quang
học để thu ánh nắng mặt trời. Các nhà khoa
học đã tạo ra loại gel có cấu trúc nano cần rất
ít năng lượng và chỉ cần ánh nắng mặt trời
xuất hiện bình thường trong tự nhiên để hoạt
động trong khi cũng có khả năng làm tăng
mạnh khối lượng nước bốc hơi.
Hydrogel mới cho phép sản sinh hơi
nước trong điều kiện ánh nắng chiếu trực tiếp
và sau đó bơm vào bình ngưng để phân phối
nước ngọt. Tính chất khử muối của hydrogel
thậm chí được thử nghiệm trên các m u nước
mặn được thu nhập từ Biển chết và kết quả đã
thành công tuyệt vời. Sử dụng các m u nước
từ một trong những thủy vực mặn nhất Trái
đất, nhóm nghiên cứu đã khử được muối từ
các m u nước mặn ở Biển chết sau khi áp
dụng quy trình dựa vào hydrogel. Trên thực
tế, nước thu được đã đáp ứng các tiêu chuẩn
về nước uống do Tổ chức Y tế thế giới và Cơ
quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đề ra.
PGS. Yu cho biết: “Các thử nghiệm
được thực hiện ngoài trời cho thấy sản lượng
nước chưng cất hàng ngày đạt 25 lít/m2, đủ
đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình và thậm chí
cho các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
Tốt nhất, hydrogel nên được trang bị để thay
thế thành phần lõi trong các hệ thống khử
muối bằng năng lượng mặt trời hiện có, từ
đó, không cần cải tiến toàn bộ hệ thống khử
mặn đã được sử dụng”.
Vì muối là một trong những chất khó
tách khỏi nước nhất, nên các nhà nghiên cứu
cũng đã chứng minh thành công khả năng của
hydrogel trong việc lọc một số chất ô nhiễm
phổ biến khác trong nước được xem là không
an toàn để tiêu thụ.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 24/60
PGS. Yu tin rằng công nghệ có thể
được thương mại hóa. Công nghệ sẽ có tiềm
năng tác động mạnh hơn hơn khi nhu cầu
nước ngọt trên toàn cầu vượt quá các nguồn
cung cấp tự nhiên hiện có.
Theo vista.gov.vn, 17/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Graphene có thể được sử dụng làm thuốc nhuộm tóc vô hại, chống tĩnh điện
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Northwestern đã giải quyết được vấn đề tồn
tại hơn một thế kỷ qua nhờ có khoa học vật
liệu: Đó là việc nhuộm tóc quá thường xuyên
gây tổn thương cho mái tóc suôn mượt của
bạn. Các nhà khoa học đã sử dụng siêu vật
liệu graphene để chế tạo loại thuốc nhuộm tóc
mới không độc, vô hại và giữ màu tóc sau
nhiều lần gội. Tính chất d n điện của
graphene cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho
tóc như biến đổi nó thành các điện cực tại chỗ
hoặc kết hợp với các thiết bị điện tử mang
theo người.
Nhuộm tóc xem ra là thao tác đơn giản
và bình thường, nhưng trên thực tế lại là một
quá trình hóa học tinh vi. Lớp ngoài cùng của
sợi tóc là lớp biểu bì, được hình thành từ các
tế bào chồng lên nhau trong một mô hình
giống như vảy. Thuốc nhuộm tóc thương mại
hoạt động nhờ sử dụng các hóa chất mạnh
như amoniac và thuốc tẩy để mở lớp biểu bì
cho các phân tử thuốc nhuộm đi vào bên
trong và sau đó kích thích phản ứng bên trong
tóc để tạo màu. Quá trình này không chỉ
khiến cho tóc trở nên dễ gãy mà một số phân
tử nhỏ cũng trở nên khá độc hại.
Nhóm nghiên cứu đã không sử dụng
các hóa chất độc hại nhờ khai thác hình dạng
tự nhiên của các tấm graphene. Dù các loại
thuốc nhuộm hiện nay sử dụng hỗn hợp phân
tử nhỏ hoạt động bằng cách làm thay đổi tóc
về mặt hóa học, nhưng các tấm graphene
mềm và dẻo, do đó, chúng quấn quanh mỗi
sợi tóc một lớp phủ. Công thức này cũng kết
hợp các chất dính polymer không độc hại và
có thể ăn được để đảm bảo rằng graphene
dính và tồn tại sau ít nhất 30 lần gội, là yêu
cầu về mặt thương mại đối với thuốc nhuộm
tóc lâu dài. Ngoài ra, graphene còn chống tĩnh
điện nên tóc ít bị bay vào mùa đông.
So sánh hình dạng của graphene với
hình dạng của các hạt sắc tố đen khác như
cacbon đen hoặc oxit sắt chỉ được sử dụng
trong thuốc nhuộm tóc tạm thời, Huang giải
thích: “Tương tự như sự khác biệt giữa giấy
ướt và quả bóng tennis. Giấy ướt sẽ bao phủ
và bám tốt hơn nhiều. Các hạt hình dạng của
quả bóng dễ dàng bị rửa trôi bằng dầu gội”.
Hình dạng của graphene cũng góp phần giải
thích vì sao graphene là giải pháp an toàn.
Trong khi các phân tử nhỏ có thể dễ dàng bị
bị nuốt hoặc di chuyển qua hàng rào của da,
thì graphene có kích thước quá lớn để thâm
nhập vào cơ thể.
Graphene, mạng lưới cacbon 2 chiều,
đã phát triển mạnh mẽ vào năm 2004 với vô
số ứng dụng tiềm năng. Nhưng để phát triển
các ứng dụng đó, vật liệu graphene phải hoàn
hảo về cấu trúc ở mức có thể để có được
những tính chất điện, cơ hoặc nhiệt tuyệt vời.
Đối với thuốc nhuộm mới, tính chất quan
trọng nhất của graphene là màu đen. Do đó,
nhóm nghiên cứu đã sử dụng oxit graphene,
chất d n xuất oxy hóa sẵn có, giá rẻ. Các loại
thuốc nhuộm khác trong tương lai có thể khai
thác các tính chất đáng chú ý của graphene
như tính chất d n điện tốt. Cho đến nay,
nhóm nghiên cứu đã tạo ra loại thuốc nhuộm
tóc từ graphene với các màu nâu và đen,
nhưng dự kiến sẽ thử nghiệm nhiều màu hơn.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 25/60
Theo vista.gov.vn, 28/03/2018 Trở về đầu trang
**************
Vật liệu cấu trúc hình lá có thể xử lý tràn dầu
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Southern California đã dựa vào cấu trúc của
lá cây để chế tạo vật liệu tách dầu khỏi nước,
có triển vọng cho ra đời một phương pháp
làm sạch tràn dầu hiệu quả và an toàn.
Ngoài ra, vật liệu còn có khả năng
“điều khiển giọt nhỏ” hoặc vận chuyển khối
lượng nhỏ chất lỏng. Kỹ thuật vi lưu dựa vào
giọt nhỏ là công cụ được sử dụng trong nhiều
ứng dụng như nuôi cấy tế bào, tổng hợp hóa
học và lập trình tự AND
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương
pháp in 3D để mô phỏng thành công hiện
tượng sinh học trong lá cây được gọi là “hiệu
ứng bèo ong”. Những chiếc lá độc đáo này
siêu chống thấm nước, nghĩa là kỵ nước và
giữ lại túi khí ở xung quanh khi ngập trong
nước do sự xuất hiện của các sợi lông chống
thấm nước.
PGS. Yong Chen, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng bề mặt lá cây chống thấm nước
rất tốt là do cây sống trên mặt nước và cần
không khí để sinh tồn. Nếu thiếu không khí
cho sự phát triển lâu dài của cây, cây có thể
ngập chìm trong nước và sẽ chết.
Cấu trúc chống thấm nước
Ở cấp độ vi mô, các sợi lông trên lá
sắp xếp thẳng hàng theo một cấu trúc giống
như máy đánh trứng. Bề mặt lá của bèo ong
bao gồm cấu trúc như “máy đánh trứng” có
khả năng chống thấm nước tuyệt vời.
Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương
pháp in 3D tích tụ trên bề mặt ngập nước để
tạo ra vi cấu trúc của máy đánh trứng trong
các m u được làm từ nhựa và các ống nano
cacbon. Phương pháp này cho phép nhóm
nghiên cứu chứng minh khả năng chế tạo vật
liệu có cả hai tính chất siêu chống thấm nước
và hút dầu để tạo ra lực mao mạch giúp tách
dầu khỏi nước với hiệu quả cao.
Các nhà khoa học đã in 3D m u vật
liệu có thể tách thành công dầu khỏi nước
trong các thủy vực rộng. Nhóm nghiên cứu hy
vọng công nghệ có thể được áp dụng để sản
xuất vật liệu trên quy mô lớn phục vụ xử lý
tràn dầu ở phạm vi rộng như đại dương. Các
phương pháp hiện nay cần nhiều năng lượng
ở dạng điện trường hoặc áp suất cơ học.
Ứng dụng vi lưu
“Hiệu ứng bèo ong” còn có triển vọng
cho công nghệ xử lý chất lỏng thực hiện “điều
chỉnh hạt nhỏ” - bước đột phá trong đó mức
độ bám dính của chất lỏng vào cánh tay rô bốt
có thể được điều chỉnh phù hợp và d n đến
khả năng vận chuyển khối lượng nhỏ chất
lỏng mà không bị tổn thất. Kỹ thuật có thể
được áp dụng theo nhiều phương thức như
tổng hợp hạt nano, kỹ thuật mô, phát hiện
thuốc và theo dõi phân phối thuốc.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp
chí Advanced Materials.
Theo vista.gov.vn, 30/03/2017
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 26/60
Vật liệu bền vững mới giá rẻ giảm ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Brescia đã chế tạo được một loại vật liệu
hybrid mới bền vững và có giá thành rẻ như
lựa chọn thay thế than hoạt tính trong việc xử
lý nước thải và giảm ô nhiễm không khí. Vật
liệu này được tổng hợp với chi phí thấp từ
chất thải rắn và polymer dồi dào trong tự
nhiên và có thể khử các chất ô nhiễm trong
không khí và nước thải hiệu quả hơn cacbon
hoạt tính, chất hấp phụ đáp ứng tiêu chuẩn
vàng hiện nay.
TS. Elza Bontempi, trưởng nhóm
nghiên cứu cho biết: “Báo cáo nêu rõ việc
tổng hợp dễ dàng vật liệu hybrid xốp là có thể
thực hiện nhờ sử dụng các vật liệu giá rẻ và
phụ liệu. Vật liệu được chế tạo trên cơ sở yêu
cầu của Ủy ban châu Âu về việc phát triển
dung dịch từ vật liệu mới giá rẻ và bền vững
để giảm nồng độ chất hạt trong các khu đô
thị”.
Chất hạt - các hạt chất rắn và giọt nhỏ
chất lỏng được tìm thấy trong không khí và
phát thải từ các nhà máy điện, ngành công
nghiệp, ô tô và các đám cháy - xuất hiện phổ
biến trong các thành phố và thậm chí ở nông
thôn. Ngoài ra, mỗi năm, hàng triệu tấn nước
thải công nghiệp đổ vào các thủy vực trên thế
giới. Cả chất hạt và thuốc nhuộm hữu cơ đều
gây độc ở mức cao cho các hệ sinh thái và
con người.
Than hoạt tính là chất hấp phụ phổ
biến nhất được dùng để giảm ô nhiễm trong
khí quyển và ô nhiễm nước thải, nhưng có chi
phí sản xuất và tái tạo cao. Thách thức nằm ở
việc tìm kiếm một lựa chọn thay thế tiết kiệm.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã kết
hợp sodium alginate (polysaccharide có thể
được chiết tách từ cỏ biển và tảo), nguyên
liệu dồi dào trong tự nhiên với khói silica (sản
phẩm phụ của quá trình ferrosilicon hay xử lý
hợp kim silicon), phụ phẩm công nghiệp có
khối lượng lớn để sản xuất chất hấp phụ xanh
tốt hơn than hoạt tính.
Theo TS. Bontempi, các kết quả ban
đầu cho thấy khả năng hấp phụ chất hạt của
vật liệu mới. Vật liệu cũng được sử dụng để
xử lý nước thải. Đặc biệt, khả năng thay thế
cacbon hoạt tính đã được chứng minh.
Phương pháp tổng hợp vật liệu hybrid
mới dễ dàng mở rộng quy mô. Các nhà khoa
học đã khai thác tính chất gel của alginate kết
hợp với sự phân tách của baking soda để gia
cố vật liệu. Thí nghiệm gây ô nhiễm nước thải
đã được thực hiện bằng cách sử dụng thuốc
nhuộm xanh metylen như m u chất ô nhiễm.
Vật liệu hybrid đã hấp phụ và khử thuốc
nhuộm thậm chí ở nồng độ cao với hiệu quả
lên đến 94%.
Các phân tích cho thấy so với than hoạt
tính, hoạt động sản xuất vật liệu hybrid tiêu
thụ ít năng lượng trong khi phát thải ít cacbon
hơn nhiều. Vật liệu cũng được chứng minh có
khả năng b y chất hạt từ khói thải diesel. Bên
cạnh đó, vật liệu mới cũng có thể được dùng
làm lớp mạ để phun hoặc quét sơn và được sử
dụng để in 3D. Nghĩa là vật liệu sẽ bao phủ
các mặt ngoài của tòa nhà để loại bỏ chất hạt,
cũng như thiết kế bộ lọc nước. Tính linh hoạt
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 27/60
của vật liệu bổ sung cho bộ công cụ giảm ô
nhiễm không khí và ô nhiễm nước.
Theo vista.gov.vn, 30/03/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ đóng mở van mới hứa hẹn khả năng phát triển các loại động cơ sạch, ít tốn kém
Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ trường
Đại học Waterloo, Canada vừa phát triển
thành công giải pháp công nghệ mới được
đánh giá là đáng tin cậy, giúp nâng cao mức
độ hiệu quả hoạt động của động cơ đốt trong
lên đến hơn 10%.
Công nghệ mới là sản phẩm của công
trình nghiên cứu trong vòng 10 năm qua và đã
được cấp bằng sáng chế cho giải pháp van
đóng mở, giúp giảm thiểu đáng kể mức tiêu
thụ nhiên liệu của các loại động cơ từ động cơ
tàu biển cho đến động cơ xe van nhỏ.
Amir Khajepour, giáo sư về cơ khí và
cơ điện tử tại Đại học Waterloo, cho biết:
"Giải pháp mới của chúng tôi với ưu điểm là
mức chi phí và độ phức tạp không đáng kể, có
tiềm năng mang lại những lợi ích thiết thực
của hệ thống van biến thiên ngoài phạm vi
phòng thí nghiệm và có khả năng ứng dụng
trong các động cơ sản xuất”.
Thông thường, van nạp và van xả
trong động cơ đốt trong thường được điều
khiển bởi các trục cam sao cho thời gian trục
khuỷu đóng mở van không thay đổi. Trong
nghiên cứu mới, các chuyên gia đã thay thế
trục cam bằng xi lanh thủy lực và van thủy
lực quay cho phép thay đổi thời điểm đóng
mở van biến thiên khi tốc độ và momen xoắn
của động cơ thay đổi. Khả năng điều chỉnh
thời gian đóng mở van dựa vào hoạt động của
động cơ là điểm mấu chốt giúp gia tăng hiệu
suất tiêu thụ nhiên liệu cũng như là giải pháp
giảm thiểu phát thải khí nhà kính cũng như
chi phí.
Khajepour, giám đốc Phòng thí
nghiệm Hệ thống Phương tiện Cơ điện tử của
Waterloo, chi biết: "Giải pháp mới được đánh
giá là lý tưởng, giúp động cơ của van luôn ở
trong trạng thái hoàn toàn có thể điều khiển
được".
Mặc dù trước đó đã có rất nhiều hệ
thống có khả năng thay đổi thời gian đóng mở
van, nhưng việc sử dụng động cơ mới chỉ giới
hạn trong phạm vi phòng thí nghiệm do chi
phí và tính phức tạp cao. Công nghệ được
phát triển và thử nghiệm tại Waterloo rất đơn
giản và chi phí ít tốn kém, mang lại hy vọng
cho khả năng sử dụng động cơ để sản xuất
điện năng, phương tiện khai thác mỏ, ngành
công nghiệp vận tải và các ứng dụng khác,
trong đó có cả thị trường công nghiệp ô tô.
Khajepour cho biết giải pháp biến đổi
thời gian đóng mở van ít tốn kém và đáng tin
cậy giúp làm giảm đáng kể lượng carbon
trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống điện
sạch hơn trong vài thập kỷ tới. Thậm chí, mức
độ hiệu quả có thể tăng lên đến hơn 10%.
Nghiên cứu về giải pháp tối ưu hóa hệ thống
van thủy lực biến thiên dựa trên một nghiên
cứu được bắt đầu thực hiện vào năm 2008 và
được đăng tải trên tạp chí Mechatronics.
Theo vista.gov.vn, 05/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 28/60
Oxit kim loại tự hàn gắn có thể bảo vệ chống ăn mòn
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công
nghệ Massachusetts (MIT) đã phát hiện ra
rằng lớp bảo vệ rắn bằng oxit kim loại, khi
được sử dụng dưới dạng lớp mỏng vừa phải,
có khả năng biến dạng như chất lỏng và làm
đầy mọi vết nứt và khe hở xuất hiện.
Lớp phủ mỏng đặc biệt này có tác
dụng ngăn chặn sự rò rỉ của các phân tử nhỏ
để thâm nhập qua hầu hết các chất liệu như
khí hydro được sử dụng để cung cấp năng
lượng cho ô chạy pin nhiên liệu hoặc triti
phóng xạ (dạng nặng của hydro) hình thành
bên trong lõi của các nhà máy điện hạt nhân.
Hầu hết các kim loại ngoại trừ vàng có
xu hướng bị oxy hóa khi tiếp xúc với không
khí và nước. Phản ứng này tạo ra gỉ trên sắt,
vết xỉn trên bạc và gỉ trên đồng, có thể làm suy
yếu kim loại theo thời gian và d n đến các vết
nứt hoặc hỏng cấu trúc. Tuy nhiên, có 3 loại
oxit kim loại gồm oxit nhôm, oxit crom và oxit
silicon trên thực tế có thể được dùng làm lớp
bảo vệ để ngăn chặn hiện tượng oxy hóa.
Nhóm nghiên cứu đứng đầu là nghiên
cứu sinh Yang Yang, đã sử dụng các công cụ
đặc biệt chuyên dụng để xem xét chi tiết bề
mặt kim loại phủ những loại oxit này nhằm
quan sát hiện tượng xảy ra khi chúng được
tiếp xúc với môi trường oxy và trong điều
kiện có ứng suất. Dù hầu hết các loại kính
hiển vi điện tử truyền qua (TEM) đòi hỏi phải
đặt các m u vào môi trường chân không,
nhưng nhóm nghiên cứu đã sử dụng loại kính
hiển vi đã điều chỉnh có tên là Kính hiển vi
điện tử truyền qua môi trường (E-TEM) cho
phép nghiên cứu m u khi có sự hiện diện của
các khí hoặc chất lỏng. Thiết bị này được sử
dụng để nghiên cứu quy trình d n đến sự cố
nứt mà nguyên nhân là do hiện tượng ăn mòn
do ứng suất.
Kim loại dưới tác động của ứng suất
bên trong bể lò phản ứng và tiếp xúc với môi
trường hơi quá nóng có thể bị ăn mòn nhanh
nếu không được bảo vệ. Thậm chí nhờ lớp
bảo vệ rắn, các vết nứt sẽ hình thành, cho
phép oxy thâm nhập vào bề mặt của kim loại
trơ, cụ thể là các điểm giao diện giữa các hạt
kim loại cấu thành vật liệu kim loại cỡ lớn,
gây ra hiện tượng ăn mòn mạnh hơn và làm
hỏng cấu trúc.
Nghiên cứu sinh Yang cho rằng, trước
đây, mọi người nghĩ oxit kim loại giòn và dễ
bị nứt và chưa ai chứng minh được vì rất khó
quan sát hành vi của vật liệu trong các điều
kiện thực tế. Giờ đây, nhóm nghiên cứu lần
đầu tiên đã quan sát được trong phạm vi phân
giải gần như ở cấp độ nguyên tử. Phương
pháp này đã chứng minh lớp oxit nhôm
thường rất giòn nên sẽ bị vỡ dưới tác động
của ứng suất, khi được sản xuất ở dạng siêu
mỏng thì gần như biến dạng như lớp kim loại
nhôm mỏng, mỏng hơn nhiều lõi nhôm. Khi
oxit nhôm được phủ trên bề mặt của mảnh
nhôm khổ lớn, dòng chảy giống như chất lỏng
giữ cho nhôm được phủ lớp bảo vệ.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh
bên trong E-TEM, nhôm được phủ lớp oxit có
thể được kéo dài gấp hơn 2 lần độ dài ban đầu
của nó mà không gây ra bất cứ vết nứt nào.
Oxit tạo thành một lớp phủ đồng nhất bảo vệ
bề mặt mà không có ranh giới giữa các hạt
hay bất cứ vết nứt nào, thậm chí khi bị kéo
căng. Về mặt kỹ thuật, vật liệu là một loại
thủy tinh, nhưng nó di chuyển giống như chất
lỏng và phủ đầy bề mặt lâu như khi nó ở dạng
đủ mỏng.
Ju Li, giáo sư kỹ thuật và khoa học hạt
nhân và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:
Với ưu điểm là bề mặt mềm và không có vết
nứt hoặc ranh giới giữa các hạt để có thể thâm
nhập vào bên trong vật liệu, lớp phủ tự hàn
gắn có rất nhiều ứng dụng tiềm năng.
Theo vista.gov.vn, 12/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 29/60
Các kỹ sư khám phá kỹ thuật sản xuất nhiên liệu sinh học rẻ hơn và thân thiện hơn với môi trường
Vi khuẩn được phân tách từ nấm rơm
có thể chuyển hóa trực tiếp nguyên liệu thực
vật thành butanol (C4H9OH).
Ảnh: Các tế bào Thermoanaerobacterium thermosaccharolyticum TG57 bám dính vào các
phân tử xen-lu-lô. Bộ gen đặc biệt của dòng TG57 cho phép vi khuẩn tạo ra các en-zym tăng cường
khả năng tổng hợp biobutanol
Một nhóm các kỹ sư của Đại học Quốc
gia Singapo (NUS) gần đây đã phát hiện ra
một loại vi khuẩn xuất hiện một cách tự
nhiên, có tên là: Thermoanaerobacterium
thermosaccharolyticum TG57, phân tách từ
rác thải phát sinh sau khi thu hoạch nấm, có
khả năng chuyển đổi trực tiếp xen-lu-lô -
nguyên liệu thực vật - thành biobutanol.
Nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Kỹ thuật
Dân dụng và Môi trường của NUS do Phó
giáo sư He Jianzhong d n đầu đã phát hiện ra
dòng TG57 mới này vào năm 2015. Họ đã tiếp
tục nuôi cấy để nghiên cứu tính chất của
chúng. Ông đã giải thích rằng: "Việc sản xuất
nhiên liệu sinh học không sử dụng nguyên liệu
thực phẩm có thể cải thiện tính bền vững và
giảm chi phí rất nhiều. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, chúng tôi đã chứng minh một
phương pháp mới chuyển đổi trực tiếp xen-lu-
lô thành biobutanol bằng cách sử dụng dòng
TG57 mới. Đây là bước đột phá lớn trong kỹ
thuật trao đổi chất và là một mốc quan trọng
trong việc sản xuất nhiên liệu sinh học tiết
kiệm chi phí, tăng sự tái tạo và bền vững".
Biobutanol - Nhiên liệu sinh học có
khả năng ứng dụng cao
Nhiên liệu sinh học truyền thống được
sản xuất từ lương thực. Cách làm này rất tốn
kém và ảnh hưởng đến việc sản xuất lương
thực, bởi nó lấy đi nguồn tài nguyên đất,
nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên
môi trường khác. Nhiên liệu sinh học được
sản xuất từ nguyên liệu xen-lu-lô chưa qua xử
lí - khối thực vật, rác nông nghiệp, và rác
công nghiệp - dự kiến sẽ đáp ứng nhu cầu
năng lượng ngày càng tăng mà không làm
tăng phát thải khí nhà kính do việc đốt nhiên
liệu hóa thạch. Những nguyên liệu xen-lu-lô
này rất phổ biến, thân thiện với môi trường,
và bền vững về mặt kinh tế.
Trong số các loại nhiên liệu sinh học,
biobutanol hứa hẹn là chất thay thế xăng vì
hiệu năng cao và đặc tính ưu việt. Nó có thể
trực tiếp thay thế xăng, mà không cần phải
chỉnh sửa động cơ của phương tiện. Tuy
nhiên, việc sản xuất thương mại của
biobutanol đã bị cản trở bởi sự thiếu hụt các
vi sinh vật có khả năng chuyển sinh khối xen-
lu-lô thành nhiên liệu sinh học. Kỹ thuật hiện
nay khá tốn kém và cũng đòi hỏi phải có hệ
thống xử lý hóa học phức tạp.
Sản xuất nhiên liệu sinh học theo cách
thân thiện với môi trường hơn
Kỹ thuật mới được phát triển bởi nhóm
NUS mang nhiều tiềm năng thay đổi chi phí
và tính bền vững của việc sản xuất nhiên liệu
sinh học.
Phân để ủ nấm - thường bao gồm rơm
rạ và mùn cưa - là chất thải từ những nhà
trồng nấm. Các vi sinh vật trong chất thải
được giữ lại để phát triển tự nhiên trong hơn
hai năm để có được dòng TG57 duy nhất.
Quá trình lên men rất đơn giản, không
cần phải xử lí hóa học, hay là biến đổi gen vi
sinh vật. Khi xen-lu-lô được thêm vào, vi
khuẩn chỉ cần tiêu hóa xen-lu-lô để sản xuất
butanol.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu sẽ
tiếp tục tối ưu hóa khả năng của dòng TG57,
và tiếp tục nghiên cứu nó để tăng tỷ lệ và
năng suất biobutanol bằng các công cụ di
truyền phân tử.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 30/60
Theo vista.gov.vn, 16/04/2018 Trở về đầu trang
**************
Chế tạo pin lithium lưu huỳnh bằng giấy sinh khối
Sản phẩm phụ chủ yếu trong ngành
công nghiệp sản xuất giấy là lignosulfonate,
vật liệu cacbon sunfonat hóa thải loại thường
được đốt cháy tại chỗ, giải phóng CO2 vào
trong khí quyển sau khi lưu huỳnh được thu
giữ để tái sử dụng.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Học
viện Bách khoa Rensselaer đã đưa ra phương
pháp sử dụng giấy sinh khối giá rẻ và dồi dào
để chế tạo pin lithium-lưu huỳnh. Loại pin này
có thể được sử dụng để cung cấp năng lượng
cho các trung tâm dữ liệu lớn cũng như là lựa
chọn lưu trữ năng lượng chi phí thấp cho các
lưới điện nhỏ và lưới điện truyền thống.
Trevor Simmons, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: “Nghiên cứu của chúng tôi
chúng tỏ tiềm năng sử dụng sản phẩm phụ
của quy trình nghiền giấy công nghiệp để
thiết kế vật liệu điện cực giá rẻ, bền vững cho
pin lithium-lưu huỳnh”.
Pin lithium-lưu huỳnh hiện là công
nghệ pin vượt trội. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, mọi người quan tâm nhiều hơn
đến việc phát triển pin lithium-lưu huỳnh có
khả năng lưu trữ năng lượng gấp đôi pin
lithium-ion cùng khối lượng.
Pin sạc có hai điện cực gồm cực âm và
cực dương. Nằm giữa các điện cực là chất
điện phân lỏng đóng vai trò là môi trường cho
các phản ứng hóa học sinh ra dòng điện.
Trong pin lithium-lưu huỳnh, cực âm được
cấu thành từ chất nền lưu huỳnh-cacbon và
một oxit kim loại lithium được sử dụng cho
cực dương.
Ở dạng nguyên tố, lưu huỳnh không
d n điện, nhưng khi kết hợp với cacbon ở
nhiệt độ cao, nó trở thành chất d n điện tốt,
cho phép áp dụng cho nhiều công nghệ pin
mới. Tuy nhiên, lưu huỳnh có nhược điểm là
dễ dàng hòa tan vào trong chất điện phân của
pin, làm cho các điện cực bị hỏng chỉ sau vài
chu kỳ.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những
dạng cacbon khác nhau như các ống nano và
bọt cacbon để giữ lưu huỳnh tại chỗ nhưng
hiệu quả còn hạn chế. Simmons cho rằng:
“Phương pháp của chúng tôi cung cấp một
phương thức đơn giản để chế tạo cực âm tối
ưu từ vật liệu lưu huỳnh”.
Để phát triển phương pháp này, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng lignosulfonate, chất
lỏng màu nâu khô lại và sau đó được nung
nóng ở 700 oC trong lò thạch anh. Nhiệt độ
cao loại bỏ gần như toàn bộ khí lưu huỳnh
nhưng chỉ giữ lại một phần lưu huỳnh dưới
dạng polysulfide (các chuỗi lưu huỳnh) được
nhúng sâu trong chất nền cacbon hoạt tính.
Quy trình nung nóng được lặp lại cho đến khi
lượng lưu huỳnh phù hợp mắc kẹt trong chất
nền cacbon. Sau đó, vật liệu được nghiền và
trộn với chất dính polymer mất hoạt tính để
tạo ra lớp mạ cực âm trên lõi nhôm.
Cho đến nay, nhóm nghiên cứu đã chế
tạo được m u pin lithium-lưu huỳnh có kích
thước bằng pin đồng hồ có thể hoạt động
khoảng 200 lần. Bước tiếp theo các nhà khoa
học dự kiến mở rộng m u để tăng đáng kể tốc
độ xả sạc và kéo dài thời hạn sử dụng pin.
Theo vista.gov.vn, 10/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 31/60
Chất điện phân natri-ion mới có thể tìm thấy trong các loại pin rắn
Theo các nhà nghiên cứu từ Phòng thí
nghiệm quốc gia Pacific Penn State và
Northwest (PNNL) cho biết, một cấu trúc rất
mới được phát hiện của vật liệu gốc natri có
thể cho phép các vật liệu này sử dụng như
một chất điện phân trong pin.
Nhóm nghiên cứu hiện đang nỗ lực
tinh chỉnh các vật liệu này bằng cách ứng
dụng phương pháp tiếp cận thiết kế lặp đi lặp
lại mà họ hy vọng sẽ có thể sớm đưa vào sử
dụng thực tế hàng ngày.
Chất điện phân, là một trong ba phần
chính của pin, chịu trách nhiệm chuyển ion
tích điện trong pin rắn (solid-state battery).
Quy trình này sẽ tạo ra dòng điện khi hai bộ
phận khác của pin, cực dương và cực âm,
được kết nối trong mạch điện. Hầu hết các
loại pin có thể sạc lại trong các dòng điện
thoại thông minh, máy tính và các thiết bị
điện tử tiêu dùng khác đều sử dụng chất điện
phân dạng lỏng, gốc lithium.
Donghai Wang, phó giáo sư kỹ thuật
cơ khí tại Penn State nói: “Các chất điện
phân lỏng thường gặp sự cố an toàn vì chúng
dễ cháy nổ. Đó là động lực thúc đẩy chúng tôi
tìm ra một nguyên liệu tốt để sử dụng trong
các loại pin rắn”.
Vật liệu mới của nhóm nghiên cứu bao
gồm có natri, photpho, thiếc và lưu huỳnh và
có hình dạng tinh thể bốn cạnh. Nó có các
góc khuyết, hoặc các khoảng trống để nguyên
tử natri, thiếc và lưu huỳnh chuyển hóa ion.
Do natri có nhiều hơn hơn lithium nên pin
natri-ion sẽ có tiềm năng lớn, rẻ hơn nhiều so
với giá thành pin lithium-ion. Vật liệu này
cũng an toàn khi sử dụng hơn rất nhiều.
“Vật liệu của chúng tôi có một điện áp
mở rộng cũng như có độ ổn định nhiệt cao.
Khi nhiệt chất điện phân lỏng lên đến 150 độ
C ( 302 độ F), chúng sẽ bắt lửa hoặc giải
phóng nhiều nhiệt (pin rất nóng) có thể làm
hỏng pin hoặc các thành phần điện tử khác.
Trong khi đó vật liệu của chúng tôi hoạt động
rất tốt, lên đến 400 độ C (752 độ F)”,
Zhaoxin Yu, nhà nghiên cứu về cơ khí và kỹ
thuật hạt nhân tại Penn State nói.
Theo báo cáo của nhóm đăng trên tạp
chí Nano Energy, vật liệu của nhóm nghiên
cứu có d n suất ion nhiệt độ phòng khoảng
bằng 1/10 chất lỏng điện phân được sử dụng
trong các loại pin ngày nay. Họ nói rằng,
khám phá quan trọng đó là hình dạng của các
góc khuyết bên trong cấu trúc tinh thể.
“Phát hiện về cấu trúc mới của vật liệu
này của chúng tôi cũng cho chúng ta thấy có
một con đường để tạo ra một hệ chất dẫn
natri - ion tiên tiến mới”, Shun-Li Shang,
giáo sư vật liệu tại Penn State nói.
Nhóm nghiên cứu đã chế tạo và thử
nghiệm loại pin mới này trong phòng thí
nghiệm của Wang thuộc Trung tâm Pin &
Công nghệ Lưu lũy Năng lượng, Penn State.
Việc áp dụng quy trình xử lý thiết kế kết hợp
này, nhóm nghiên cứu có đủ khả năng xác
định được sự hình thành tinh thể khác nhau
cũng như tính phi nhất quán bên trong vật liệu
đã ảnh hưởng đến hiệu suất của nó như thế
nào.
Zi-Kui Liu, giáo sư khoa học và kỹ
thuật vật liệu tại Penn State, nói: “Nếu bạn
không có bộ công cụ này thì rất khó để tạo
nên bước đột phá. Phương pháp tiếp cận của
chúng tôi áp dụng cả các phương pháp tính
toán và thí nghiệm đã cho phép chúng tôi
phân tích lý do tại sao vật liệu có ảnh hưởng
khác nhau. Điều đó sẽ làm cho quá trình thiết
kế thực hiện nhanh hơn vì chúng ta biết
chúng ta cần kiểm soát những gì để tăng
cường vận chuyển ion”.
Viện CyberScience thuộc Penn State
đã tiến hành đưa một phần mô hình m u của
nhóm nghiên cứu hiện diện trong các siêu
máy tính chủ.
Theo vista.gov.vn, 20/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 32/60
Công nghệ sản xuất pin với thành phần thay thế coban
Coban là một trong hai thành phần
chính và là vật liệu cơ sở, chiếm tỉ lệ hơn
50% trong sản xuất pin Lithium-ion (Li-ion).
Pin Li-ion thường được sử dụng để cung cấp
năng lượng cho những thiết bị điện thoại di
động, máy tính xách tay và thậm chí là cả xe
hơi. Khoảng 50% trữ lượng Coban nguyên
chất trên thế giới được khai thác thủ công
(chủ yếu bằng tay) từ những mỏ khoáng ở
Congo bởi những người thợ mỏ, trong đó có
cả trẻ em.
Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây
được thực hiện bởi các nhà khoa học tại
trường Đại học California, Berkeley đã mở
đường cho khả năng sử dụng các chất xúc tác
kim loại khác trong sản xuất pin lithium-ion,
đồng thời, chế tạo ra điện cực âm (cathode)
với khả năng lưu trữ lithium cao hơn 50% so
với các vật liệu thông thường.
GS. GerbrandCeder, Khoa Khoa học
và Kỹ thuật Vật liệu tại Berkeley, cho biết:
"Nghiên cứu của chúng tôi đã mở ra một
không gian mới cho công nghệ pin. Lần đầu
tiên, chúng ta đã tìm ra yếu tố vật liệu không
những giá thành rẻ mà còn có thể làm tăng
hiệu quả trao đổi electron trong pin".
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Nature là sự hợp tác giữa các nhà khoa học tại
Đại học UC Berkeley, Phòng thí nghiệm
Berkeley, Phòng thí nghiệm quốc gia
Argonne, MIT và UC Santa Cruz.
Trong pin lithium ngày nay, ion
lithium được lưu trữ trong điện cực âm (điện
cực tích điện âm) là các hợp chất mà cấu trúc
tinh thể của chúng có dạng lớp. Vai trò của
Coban là giúp duy trì cấu trúc lớp này. Trong
quá trình sạc pin, các ion Li chuyển động từ
cathode sang phía bên kia của pin. Sự vắng
mặt của các ion lithium trong cực âm để lại
rất nhiều không gian. Hầu hết các ion kim
loại sẽ di chuyển vào không gian đó, phá vỡ
cấu trúc của cathode. Tuy nhiên, là một trong
số ít các yếu tố không di chuyển xung quanh
nên coban đóng vai trò quan trọng đối với
ngành công nghiệp pin.
Vào năm 2014, các chuyên gia làm
việc tại phòng thí nghiệm của Ceder đã tìm ra
một phương pháp giúp cathode duy trì mật độ
năng lượng cao mà không cần cấu trúc dạng
lớp có tên gọi là muối đá hỗn độn. Nghiên
cứu mới chỉ ra rằng mangan có thể hoạt động
trong cấu trúc này. Đây là một bước đi đầy
hứa hẹn, vì so với coban, mangan là nguyên
tố rẻ tiền và được tìm thấy nhiều trong lớp vỏ
Trái đất.
Ceder cho biết: "Nếu muốn thay thế
coban bằng các chất xúc tác khác, cần thiết
phải phá vỡ cấu trúc phân tầng trong
cathodes. Việc thay đổi trật tự cấu trúc trong
cực âm cho phép chúng ta sử dụng nhiều
nguyên tố kim loại khác trong bảng tuần
hoàn".
Công nghệ mới có thể được sử dụng
nâng cao hiệu suất của cathode. Bằng cách
pha loãng florua, các chuyên gia đã kết hợp
một lượng lớn mangan trong cathode. Các ion
mangan với điện tích phù hợp cho phép các
cathode lưu giữ nhiều ion lithium, do đó, tăng
hiệu suất của pin. Ceder khẳng định nghiên
cứu về cấu trúc hỗn độn chính là chìa khóa
quan trọng cho sự thành công của họ.
Hiệu suất của cathode được đo bằng
năng lượng trên một đơn vị trọng lượng, được
gọi là watt-giờ trên kilogram. Hiệu suất hoạt
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 33/60
động của cathode chứa mangan có cấu trúc
hỗn độn là 1.000 watt-giờ/kg trong khi hiệu
suất thông thường của cathode trong pin li-
ion đạt khoảng 500-700 watt-giờ/kg.
Nghiên cứu sinh tại MIT Jinhyuk Lee
cho biết: "Nghiên cứu mới là một cải tiến lớn
so với các cathode thông thường trong ngành
công nghiệp pin”.
Công nghệ mới cần được mở rộng và
thử nghiệm nhiều hơn trong các ứng dụng
như máy tính xách tay hoặc xe điện. Nhưng
Ceder cho biết cho dù trong tương lai công
nghệ này có được sử dụng trong sản xuất pin
hay không thì cũng cần phải công nhận rằng
các nhà nghiên cứu đã mở ra những khả năng
mới trong sản xuất cathode, và điều này thậm
chí được cho là quan trọng hơn rất nhiều.
Ceder khẳng định có thể sử dụng bất kỳ
nguyên tố nào trong bảng tuần hoàn vì các cực
âm không có cấu trúc lớp. Do đó, chúng ta có
nhiều cơ hội để khám phá các cathode mới.
Theo vista.gov.vn, 23/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Quy trình mới làm cứng bề mặt thép không gỉ
Các nhà nghiên cứu do EU tài trợ đã
phát triển một quy trình mới để làm cứng bề
mặt thép không gỉ nhằm đảm bảo độ cứng cao
với đặc tính chống ăn mòn đặc biệt.
Thép không gỉ là vật liệu được lựa
chọn trong các ngành công nghiệp khác nhau,
nơi khả năng chống ăn mòn là cực kỳ quan
trọng, ví dụ như các bộ phận được tiếp xúc
với môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên, đặc
tính rất thuận lợi này không phải luôn luôn đi
đôi với độ cứng bề mặt cao, sức chịu lực cao
và bền.
Hầu hết các phương pháp xử lý nhiệt
không thể dễ dàng áp dụng cho thép không gỉ
để cải thiện tính chất của nó. Đặc biệt, làm
cứng bề mặt thép không gỉ bằng cách thấm
nitơ và nitrocarbur hóa trong dải nhiệt độ
thông thường từ 500 đến 1000°C là rất bất lợi
cho các đặc tính ăn mòn của nó. Một giải
pháp có thể là thực hiện các quy trình cho
phép làm cứng bề mặt thép không gỉ ở nhiệt
độ thấp hơn.
Dự án PLASSTEEL do EU tài trợ đã
phát triển một quy trình tiên tiến cho việc làm
cứng bề mặt thép không gỉ ở nhiệt độ thấp,
cho phép điều chỉnh chính xác các đặc tính
vật liệu. Quá trình xử lý nhiệt mới có thể
được áp dụng cho tất cả các lớp Ferit,
martensitic, Austenit và duplex, tạo cho vật
liệu khả năng chống mòn và bền chắc.
Tăng độ cứng ở nhiệt độ thấp hơn
Dựa trên hơn 40 năm kinh nghiệm,
IONITECH LTD đã phát triển một lò sấy
nitriding/nitrocarbur hóa plasma đạt được độ
đồng nhất nhiệt độ tuyệt vời trên toàn bộ khu
vực chịu tác động. Lò đốt nóng bằng ni-tơ mới
này cũng giúp loại bỏ khả năng xảy ra hiệu
ứng “cực âm cực”, quá nóng cục bộ có thể d n
đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ cần thiết, d n
đến kết tủa crom cacbua và crôm nitri.
Quy trình của dự án PLASSTEEL dựa
trên công nghệ plasma và bao gồm một quá
trình nitrat hóa ở nhiệt độ dưới 500° C làm
giàu lớp bề mặt của một phôi bằng nitơ và
cacbon. Khí chứa carbon có trong nitrocarbur
có thể là mêtan, propan hoặc khí tự nhiên. Hàm
lượng của nó thay đổi từ 2 đến 10% trong hỗn
hợp khí. Bước xử lý có thể kéo dài từ vài phút
đến 20 giờ, tùy thuộc vào vật liệu gia công và
các yêu cầu liên quan đến độ sâu lớp.
Trong suốt dự án, một số loại thép
không gỉ đã được xử lý và thử nghiệm. Tùy
thuộc vào tỷ lệ phần trăm của các thành phần
hợp kim trong loại thép này cũng như các tính
chất khác, kết quả hơi khác nhau. "Một số
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 34/60
nguyên tố hợp kim làm cho sự khuếch tán của
các nguyên tử cacbon ngày càng khó khăn
hơn, dẫn đến sự khác biệt nhỏ trong lớp
khuếch tán và độ cứng bề mặt. Tuy nhiên,
trong mọi trường hợp, mục tiêu là cải thiện
tính chất mài mòn của tất cả các loại thép
không gỉ, trong khi vẫn giữ lại đặc tính chịu
ăn mòn của chúng”, Tiến sĩ Varhoshkov nói.
Hầu hết các kỹ thuật làm cứng bề mặt
làm giảm khả năng chống ăn mòn gốc của
thép không gỉ. Lò nung nitriding mới và tiên
tiến của IONITECH cho thấy đây không còn
là vấn đề. "Sự thiếu sót này đã được giải
quyết thành công bởi lò sấy nitriding plasma
tuyệt vời này cung cấp sự kiểm soát chính xác
đối với các đặc tính vật chất", Tiến sĩ
Varhoshkov nói.
Các đối tác của dự án đã thành công
không chỉ trong việc tăng độ cứng bề mặt của
các bộ phận lên 4 lần mà còn cải thiện độ
bám dính và mài mòn, và các đặc tính của bộ
phận kim loại nữa.
Kết quả dự án sẽ không chỉ làm tăng
sức cạnh tranh của ngành công nghiệp thép
không gỉ EU mà còn cải thiện chất lượng và an
toàn của các sản phẩm dựa trên thép không gỉ.
Theo vista.gov.vn, 24/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo màng nano để lưu trữ dữ liệu mật độ cao
Khi chúng ta tạo ra càng nhiều dữ liệu,
thì nhu cầu lưu trữ ổn định dữ liệu mật độ cao
theo thời gian đang trở nên cấp thiết. Loại
màng mới được chế tạo từ các hạt nano mỏng
hơn 80 lần sợi tóc, sẽ đáp ứng nhu cầu đó
bằng cách cung cấp vật liệu có khả năng lưu
trữ khối lượng dữ liệu lớn gấp 1.000 lần đĩa
DVD chỉ trong một màng có kích thước
10x10cm nhờ kỹ thuật toàn ảnh. Công nghệ
này trong tương lai sẽ cho phép các thiết bị
nhỏ đeo trên người thu và lưu trữ hình ảnh 3D
về con người và đồ vật.
Shencheng Fu, trưởng nhóm nghiên
cứu tại trường Đại học Northeast Normal,
người đã phát triển loại màng mới cho biết:
“Trong tương lai, loại màng này sẽ được tích
hợp vào chíp lưu trữ cực nhỏ để ghi lại thông
tin về hình ảnh 3D và sau này xem lại chi tiết
dưới dạng ảnh hologram 3D. Vì môi trường
lưu trữ ổn định, nên thiết bị có thể được sử
dụng bên ngoài hoặc thậm chí trong các điều
kiện bức xạ khắc nghiệt của môi trường bên
ngoài không gian”.
Trên tạp chí Optical Materials
Express, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến
quá trình tạo màng mới và chứng minh khả
năng ứng dụng công nghệ cho hệ thống lưu
trữ bằng hình ảnh hologram với môi trường
ổn định. Các màng này không chỉ lưu trữ khối
lượng lớn dữ liệu, mà dữ liệu cũng có thể
được khai thác với tốc độ 1GB/giây, gấp
khoảng 20 lần tốc độ đọc của bộ nhớ nhanh
hiện nay.
Lưu trữ nhiều dữ liệu trong không gian
hẹp
Màng mới được thiết kế để lưu trữ dữ
liệu bằng hình ảnh hologram, kỹ thuật sử
dụng laser để tạo ra và đọc dữ liệu hologram
3D trong một vật liệu. Do màng có thể ghi và
đọc hàng triệu bit dữ liệu cùng một lúc, do
đó, tốc độ lưu trữ dữ liệu hologram nhanh
hơn nhiều so với các phương pháp quang học
và từ tính thường dùng để lưu trữ dữ liệu hiện
chỉ đọc từng bit dữ liệu riêng lẻ mỗi lần. Các
phương thức hologram vốn có khả năng lưu
trữ dữ liệu mật độ cao vì ghi lại thông tin qua
hình dạng 3D của vật liệu, mà không chỉ bề
mặt vật liệu và có thể ghi lại nhiều hình ảnh
tại cùng một vị trí bằng các sử dụng ánh sáng
ở góc độ khác nhau hoặc màu sắc khác nhau.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 35/60
Mới đây, các nhà nghiên cứu đã thử
nghiệm sử dụng vật liệu nano composite bán
d n kim loại làm môi trường lưu trữ hình ảnh
hologram ở cấp độ nano với độ phân giải
không gian cao. Các màng xốp được làm từ
chất bán d n titan và các hạt nano bạc, có
triển vọng cho ứng dụng này vì chúng thay
đổi màu sắc khi tiếp xúc với nhiều bước sóng
ánh sáng laser và vì bộ hình ảnh 3D có thể
được ghi tại khu vực tập trung chùm laser chỉ
bằng một bước duy nhất. Dù các màng có thể
được sử dụng để lưu trữ dữ liệu hologram đa
bước sóng, nhưng tiếp xúc với tia cực tím đã
được chứng minh gây ra sự cố xóa dữ liệu,
khiến cho màng không ổn định để lưu trữ
thông tin lâu dài.
Ghi hình ảnh hologram trên màng
titan-bạc liên quan đến việc sử dụng laser để
biến đổi các hạt bạc thành các cation bạc
mang điện tích dương do các điện tử tăng
thêm. Fu cho biết: “Chúng tôi đã nhận thấy
ánh sáng cực tím có thể xóa dữ liệu vì nó làm
cho các điện tử di chuyển từ màng bán dẫn
đến các hạt nano kim loại, gây biến đổi
quang học tương tự như laser. Việc đưa các
phân tử nhận điện tử vào trong hệ thống làm
cho một số điện tử di chuyển từ chất bán dẫn
đến các phân tử này, làm suy giảm khả năng
của ánh sáng cực tím trong việc xóa dữ liệu
và tạo môi trường lưu trữ dữ liệu mật độ cao
ổn định”.
Thay đổi dòng điện tử
Đối với loại màng mới, nhóm nghiên
cứu đã sử dụng các phân tử nhận điện tử cỡ từ
1-2 nano mét để làm gián đoạn dòng điện tử
từ chất bán d n đến các hạt nano kim loại.
Các nhà khoa học đã tạo ra màng bán d n có
cấu trúc lỗ nano tổ ong cho phép các hạt
nano, các phân tử nhận điện tử và chất bán
d n đi đến tất cả các giao diện. Kích thước
siêu nhỏ của các phân tử nhận điện tử cho
phép chúng gắn bên trong các lỗ mà không
làm ảnh hưởng đến cấu trúc lỗ. Màng cuối
cùng chỉ dày 620 nano mét.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm màng
mới và phát hiện ra các hình ảnh hologram có
thể được ghi trên màng một cách hiệu quả với
mức độ ổn định cao khi có ánh sáng cực tím.
Nhóm nghiên cứu cũng đã chứng minh việc
sử dụng các tác nhân nhận điện tử để làm
thay đổi dòng điện tử đã tạo nên nhiều con
đường d n chuyển điện tử, khiến cho vật liệu
phản ứng nhanh hơn với ánh sáng laser và
tăng tốc độ ghi dữ liệu.
Nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ kiểm tra
mức độ ổn định về môi trường của màng mới
thông qua các thử nghiệm bên ngoài và nhấn
mạnh, ứng dụng thực tế của màng sẽ đòi hỏi
phải phát triển các kỹ thuật tái tạo hình ảnh
3D hiệu quả cao và các phương pháp tạo màu
sắc cho việc hiển thị hoặc đọc dữ liệu lưu trữ.
Theo vista.gov.vn, 13/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Màn hình tinh thể lỏng mới mỏng như tờ giấy, mềm dẻo, bền và rẻ
Mới đây các kỹ sư quang điện tử tại
Trung Quốc và Hồng Kông đã chế tạo thành
công một m u màn hình tinh thể lỏng (LCD)
đặc biệt có độ mỏng như tờ giấy, mềm dẻo,
nhẹ và bền. Các nhà khoa học ước tính chi
phí sản xuất thiết bị này có lẽ chỉ tốn khoảng
5 USD đối với màn hình có kích thước 5 inch.
Thiết kế LCD có thể sao chép quang học này
đã được báo cáo trên tạp chí Applied Physics
Letters.
Nhóm nghiên cứu tập trung vào hai
sáng kiến quan trọng để đạt được những thiết
kế có độ linh hoạt cao này. Đây là lần đầu
tiên phát triển được màn hình LCD có thể ghi
chép dữ liệu quang, giống như các màn hình
LCD thông thường, màn hình này được cấu
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 36/60
trúc như chiếc bánh sandwich với tinh thể
lỏng lấp đầy ở giữa hai tấm.
Không giống như các tinh thể lỏng
truyền thống mà ở đó các kết nối điện trên
các tấm để tạo ra các điện trường cần thiết
cho việc chuyển đổi các điểm ảnh riêng lẻ từ
sáng sang tối, màn hình LCD mới này sẽ phủ
lên các tấm này các phân tử đặc biệt được sắp
xếp lại trước nguồn ánh sáng phân cực và
chuyển đổi các điểm ảnh.
Điều này loại bỏ sự cần có điện cực
truyền thống, giúp làm giảm khối lượng của
cấu trúc và cho phép có nhiều sự lựa chọn
hơn đối với các kiểu loại và độ dày của tấm.
Vì thế, các màn hình mới này có độ mỏng
hơn nhiều so với các màn hình tinh thể lỏng
truyền thống, có kích thước nhỏ hơn ½, và nó
có thể được làm bằng nhựa dẻo với trọng
lượng của nó chỉ bằng 1 vài gram.
Jiatong Sun, Trường Đại học Donghua
(Trung Quốc), đồng tác giả công trình kỹ
thuật này cho biết: “Nó chỉ dày hơn một chút
so với tờ giấy”.
LCD mới này cũng rất bền và rẻ tiền do
chúng có cấu trúc đơn giản. Hơn nữa nó giống
như một màn hình báo điện tử trong một cuốn
sách điện tử, năng lượng chỉ cần có để chuyển
hình ảnh hoặc văn bản hiển thị do đó chi phí
vận hành rất thấp bởi vì các màn hình LCD
mới không cần nguồn điện để duy trì hình ảnh
một khi nó đã được ghi trên màn hình.
Sáng kiến đổi mới thứ hai liên quan
đến các miếng đệm để tạo phân tách tấm nhựa
hoặc tấm thủy tinh. “Chúng tôi đặt các tấm
chắn giữa các lớp kính để giữ cho lớp tinh thể
lỏng đồng đều”, Sun nói.
Các miếng đệm được sử dụng trong tất
cả các màn hình LCD để xác định trạng thái
của tinh thể lỏng. Trạng thái ổn định là rất
cần thiết để có tỷ lệ tương phản, thời gian đáp
ứng và góc nhìn tốt. Tuy nhiên, khi các tấm
uốn cong, nó giữ các tinh thể lỏng ra xa vị trí
bị tác động, cho phép mặt cắt của màn hình
trống rỗng và do đó sự thay đổi trong thiết kế
miếng đệm là rất quan trọng để có thể giúp
ngăn tinh thể lỏng trong các màn hình LCD
mềm dẻo khỏi chuyển dịch quá mức. Việc
phát triển thiết kế mà có thể vượt được qua
các rào cản này là một thách thức lớn.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng thử
nghiệm ba thiết kế miếng đệm khác nhau và
nhận thấy rằng miếng đệm làm bằng lưới có
thể ngăn không cho tinh thể lỏng chảy qua
khi màn hình LCD bị uốn cong hoặc bị hỏng
hóc. Sự đổi mới này cho phép họ tạo ra màn
hình LCD mềm dẻo có khả năng ghi chép dữ
liệu bằng quang.
Một cải tiến nữa liên quan đến việc cải
thiện màu sắc. Các nhà khoa học cho biết đến
thời điểm nghiên cứu này, màn hình LCD có
thể sao ghi dữ liệu bằng quang này chỉ có thể
hiển thị hai màu cùng một lúc. Hiện giờ, màn
hình LCD mới này có thể đồng thời hiện thị
ba màu sắc chính. Thành tựu này đạt được là
khi nhóm nghiên cứu đặt một loại tinh thể
lỏng đặc biệt vào phía sau màn hình LCD mà
nó có thể phản chiếu màu đỏ, xanh dương và
xanh lá cây. Để có thể đưa sản phẩm này trở
thành sản phẩm thương mại, Sun muốn cải
thiện độ phân giải của màn hình LCD mềm
dẻo mới này.
“Bây giờ chúng ta có ba màu nhưng để
màu sắc phong phú chúng ta cần phải tạo ra
các điểm ảnh rất nhỏ để con người có thể
nhìn thấy”, Sun nói.
Theo vista.gov.vn, 05/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 37/60
Sản xuất vật liệu cho máy in 3D từ chất thải của con người
Thành tựu chế biến chất thải trong hoạt động sống của con người thành vật liệu dùng cho máy
in 3D đặc biệt hữu ích đối với các nhà du hành làm việc dài ngày trên các trạm quỹ đạo
Ảnh: 14cdn.com
Trước đây đã có các công trình nghiên
cứu chế biến chất thải của con người thành
thức ăn và nước uống, nay các nhà khoa học
Canada lại tiến thêm một bước trong việc chế
biến chất thải trong hoạt động sống của con
người thành vật liệu dùng cho máy in 3D.
Theo Biorxiv, các nhà khoa học Đại
học Calgary, Canada đã phát triển một
phương thức mới để tạo ra vật liệu dùng cho
máy in 3D từ chất thải của con người. Phương
thức mới này không chỉ cho phép tận dụng
phân mà còn thu lợi từ đó. Phân qua chế biến
được dùng làm nguyên liệu để in những vật
dụng cỡ nhỏ.
Vấn đề tái chế chất thải đã khiến các
nhà khoa học để ý đến nhà vệ sinh trên các
trạm quỹ đạo. Khi nghiên cứu về khả năng sử
dụng phân của phi hành gia, các nhà nghiên
cứu thuộc Đại học Calgary đã đặt câu hỏi
trong đó có thể có gì hữu ích và cách tận dụng.
Trong quá trình phân hủy phân, các
axit béo chuỗi ngắn (là các axit béo có ít hơn
6 nguyên tử carbon được vi khuẩn tạo ra
trong ruột già) được hình thành trong đó. Các
nhà khoa học sử dụng phương pháp ly tâm và
lọc, tách chúng ra khỏi các sản phẩm phân
hủy khác, sau đó thêm vào môi trường dinh
dưỡng để nuôi cấy E. coli.
Đây không đơn thuần là các vi khuẩn
bình thường, chúng đã biến đổi gien để có thể
tổng hợp polyhydroxybutyrate (PHB), một
loại polymer axit isobutyric, một trong số các
axit, được chiết xuất từ chất thải. Sản phẩm
cuối cùng của quá trình tổng hợp là PHB có
các thuộc tính gần với polypropylene. Sau khi
làm sạch và sấy khô, chất dẻo sinh học này
trở thành một vật liệu tốt cho máy in ba chiều.
Kết quả nghiên cứu do các nhà khoa
học cho phép không chỉ sử dụng hiệu quả
chất thải tại các trạm quỹ đạo, mà còn giúp
trực tiếp chế tạo tại chỗ các dụng cụ và các đồ
dùng cỡ nhỏ cho các nhà du hành vũ trụ.
Theo motthegioi.vn, 17/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Mực in thông minh được sử dụng để in 3D
Các nhà nghiên cứu tại trường
Dartmouth đã tạo ra loại mực in thông minh
với khả năng chuyển đổi các cấu trúc in 3D
thành những đồ vật có thể biến hình và đổi
màu. Đột phá này hứa hẹn bổ sung thêm
nhiều tính năng cho in 3D và sẽ mở đường
cho ra đời vật liệu in thế hệ mới.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 38/60
Tiến bộ trong lĩnh vực in thông minh đã
thay đổi hình thức được gọi là in 4D, cung cấp
một giải pháp thay thế chi phí thấp để in các
bộ phận được sử dụng trong nhiều lĩnh vực từ
y sinh cho đến ngành công nghiệp năng lượng.
Chenfeng Ke, phó giáo sư hóa học tại trường
Dartmouth cho biết: “Kỹ thuật này cho ra đời
những đồ vật in 3D. Dù các cấu trúc in 3D chỉ
là những hình dạng không phản ánh tính chất
phân tử của vật liệu, nhưng mực in tạo ra các
phân tử chức năng cho thế giới in 3D. Chúng
tôi hiện có thể in các đồ vật thông minh cho vô
số mục đích sử dụng”.
Nhiều giao thức in 3D phụ thuộc vào
nhựa làm cứng chất polyme bằng ánh nắng
mặt trời và tạo ra các đồ vật bằng nhựa cứng
có cấu trúc phân tử cứng ngắc, nhưng ng u
nhiên. Quy trình mới cho phép các nhà thiết
kế giữ lại các liên kết và chức năng phân tử
cụ thể trong vật liệu và biến đổi các cấu trúc
đó để sử dụng trong in 3D.
Nhờ kết hợp sử dụng các kỹ thuật mới
trong quá trình in trước và in sau, các nhà
nghiên cứu đã giảm 1% kích thước của các đồ
vật in so với ban đầu và tăng 10 lần độ phân
giải. Các đồ vật in 3D thậm chí có thể được
tạo hiệu ứng để liên tục mở rộng và thu hẹp
kích cỡ thông qua sử dụng các trụ cột siêu
phân tử. Với máy theo dõi huỳnh quang, các
đồ vật có thể được tạo ra để đổi màu trước tác
động của kích thích bên ngoài như ánh sáng.
Khả năng giảm kích thước của đồ vật
sau khi in, trong khi v n duy trì các đặc trưng
chức năng và tăng độ phân giải cho phép máy
in giá rẻ in các đồ vật có độ phân giải cao
trước đây chỉ có thể làm được nhờ máy in
tinh vi hơn nhiều. Theo báo cáo nghiên cứu,
mực thông minh có thể in với độ phân giải
300 micron, nhưng sản phẩm cuối cùng có
chiều rộng trên 30 micron.
Để tạo ra loại mực in thông minh, các
nhà nghiên cứu đã sử dụng “phương tiện” dựa
vào polime để đưa các hệ thống phân tử thông
minh vào trong gel in và cho phép biến đổi
các chức năng của chúng từ vi mô đến vĩ mô.
Dù hầu hết các vật liệu được làm cứng trong
quá trình in 3D, nhưng quy trình mới đưa vào
một chuỗi các phản ứng sau in để ngăn chặn
các thành phần hoạt tính và duy trì dạng cấu
trúc phân tử trong suốt quá trình in. Kết quả
là đồ vật in có thiết kế phân tử được lập trình
để tự biến đổi: Nếu bạn cung cấp cho nó
nhiên liệu hóa học, nó sẽ biến hình. Nếu bạn
chiếu ánh sáng vào, nó có thể đổi màu.
Trong khi các nhà nghiên cứu tin rằng
công nghệ v n còn xa rời các hệ thống 3D
thông minh, có thể tự động thay đổi cấu hình,
nhưng công nghệ hiện có thể được áp dụng để
in các bộ lọc và thiết bị lưu trữ chính xác.
Nhóm nghiên cứu hy vọng quy trình có thể
d n đến sự ra đời của một loại đồ vật in 3D
mới ở cấp vĩ mô phục vụ cung cấp thuốc hoặc
sản xuất xương thay thế có độ phân giải cao.
Trước mắt, nhóm nghiên cứu hy vọng
mực in sẽ hữu ích cho các nhà hóa học vật
liệu, các kỹ sư in 3D và những người quan tâm
đến việc sử dụng vật liệu chức năng để in 3D.
Theo vista.gov.vn, 17/4/2018
Trở về đầu trang
**************
Gốm trong suốt có độ d n điện ion âm
Các nhà nghiên cứu từ Phòng thí
nghiệm nghiên cứu vật liệu nhiệt độ cao và
chiếu xạ (CEMHTI) ở Trường Đại học
Orléans (Pháp) đã tìm ra phương pháp kết
tinh hoàn toàn bằng kính, để tổng hợp gốm sứ
trong suốt đầu tiên có tính d n ion âm
(anion). Công trình này, được xuất bản trong
Tạp chí Hóa học Vật liệu A, mở đường cho
sản xuất năng lượng sạch hơn.
Gốm sứ là vật liệu đa tinh thể có các
đặc tính cơ khí, điện, từ, đặc biệt quang hoặc
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 39/60
siêu d n và được sử dụng như vật liệu cách
nhiệt hoặc các vật liệu che chắn điện hoặc lưu
trữ dữ liệu, bộ phận giả... Để có được loại
gốm linh hoạt này, các nhà nghiên cứu đã
nghiên cứu và phát triển trong 10 năm trong
phòng thí nghiệm CEMHTI (Trường Đại học
Orléans). Nhờ phương pháp này, các nhà
nghiên cứu từ phòng thí nghiệm này đã sản
xuất ra những sản phẩm gốm đầu tiên kết hợp
tính d n điện anion và tính chất trong suốt để
cho các ứng dụng năng lượng. Phương pháp
thông thường để sản xuất gốm sứ trong suốt
là sự thiêu kết dưới áp lực của các loại bột
nano. Sự kết tinh từ một giai đoạn vô định
hình (không kết tinh) như thủy tinh cho phép
tổng hợp ở nhiệt độ vừa phải (<1000 °C) của
giai đoạn kết tinh mới không thể tiếp cận ở
nhiệt độ cao.
Hơn nữa, do không có độ xốp và độ
lưỡng tính thấp của cấu trúc thu được, gốm sứ
được tổng hợp qua kênh thủy tinh trong suốt
trong tia nhìn thấy được và gần hồng ngoại.
Đây là những đồ gốm đầu tiên kết hợp các
tính chất d n anion và độ trong suốt.
Bằng tính d n điện của chúng, vật liệu
này có thể được sử dụng như các chất điện
phân rắn trong các tế bào nhiên liệu oxit rắn
(IT-SOFC) ở nhiệt độ trung gian, để sản xuất
năng lượng ít gây ô nhiễm hơn thông thường
ở nhiệt độ cao. Các ứng dụng cũng có thể
được dự kiến trong các hệ thống tách nước
làm cho hệ thống có thể có được hydro và
oxy bằng cách phân tách qua làm nóng các
nguyên tử tạo thành phân tử nước: đồ gốm
trong suốt, truyền ánh sáng hấp thụ vào lõi
của hệ thống, sẽ được đưa đến nhiệt độ cao
bằng bức xạ mặt trời, do đó nâng cao hiệu
quả và giảm tác động môi trường của các hệ
thống này.
Theo vista.gov.vn, 18/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Màng mỏng biến đổi nhiệt từ thiết bị điện tử thành năng lượng
Gần 70% năng lượng sản sinh mỗi
năm ở Hoa Kỳ bị thải loại dưới dạng nhiệt.
Phần lớn lượng nhiệt thải này đều ở mức dưới
100 độ C và phát ra từ nhiều nguồn như máy
tính, xe hơi hoặc các quy trình công nghiệp
lớn. Nhưng giờ đây, các kỹ sư tại trường Đại
học California đã chế tạo được hệ thống màng
mỏng sử dụng các nguồn nhiệt thải này để sản
xuất năng lượng ở mức chưa từng có.
Hệ thống màng mỏng sử dụng quy
trình chuyển đổi năng lượng hỏa điện
(pyroelectric) mà nghiên cứu mới đã chứng
minh rất phù hợp để khai thác các nguồn cung
cấp năng lượng nhiệt thải dưới 100 độ C hay
còn gọi là nhiệt thải chất lượng thấp. Quy
trình chuyển đổi năng lượng hỏa điện giống
như nhiều hệ thống biến đổi nhiệt thành năng
lượng, hoạt động tốt nhất nhờ sử dụng các
chu kỳ nhiệt động học, giống như phương
thức hoạt động của động cơ ô tô. Nhưng khác
động cơ ô tô, quá trình chuyển đổi năng
lượng hỏa điện có thể được thực hiện hoàn
toàn ở trạng thái rắn mà không cần các chi
tiết động vì nó biến đổi nhiệt thải thành điện.
Kết quả nghiên cứu cho thấy công
nghệ màng mỏng quy mô rất nhỏ này đặc biệt
phù hợp cho việc lắp đặt và khai thác nhiệt
thải từ các thiết bị điện tử tốc độ cao và cũng
có phạm vi ứng dụng rộng rãi. Đối với các
nguồn nhiệt đang thay đổi, nghiên cứu cho
thấy màng mỏng có thể biến đổi nhiệt thải
thành năng lượng hữu ích có mật độ năng
lượng, mật độ công suất và hiệu quả cao hơn
so với các phương thức chuyển đổi năng
lượng hỏa điện.
Lane Martin, phó giáo sư khoa học vật
liệu và kỹ thuật cho biết: “Chúng tôi biết rằng
chúng ta cần có các nguồn năng lượng mới,
nhưng cũng cần sử dụng hiệu quả nguồn
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 40/60
năng lượng đã có. Các màng mỏng này có thể
giúp sản xuất nhiều năng lượng hơn so với
những gì chúng tôi đang làm hiện nay từ mọi
nguồn năng lượng”.
Hiệu ứng hỏa điện đã được biết đến từ
lâu, nhưng việc xác định chính xác tính chất
của những phiên bản màng mỏng của hệ thống
hỏa điện v n gặp khó khăn. Nhóm nghiên cứu
đã tổng hợp các phiên bản màng mỏng của vật
liệu chỉ dày từ 50-100 nano mét và sau đó chế
tạo thử nghiệm các cấu trúc của thiết bị hỏa
điện dựa vào những màng này. Các cấu trúc đó
cho phép các kỹ sư đo đồng thời cả nhiệt độ và
dòng điện xuất hiện cũng như nhiệt nguồn để
kiểm tra khả năng phát điện của thiết bị trên
màng dày gần 100 nano mét.
Nghiên cứu đề cập đến kỷ lục mới về
mật độ năng lượng của quy trình chuyển đổi
năng lượng hỏa điện (1,06 J/cm3), mật độ
năng lượng (526W/cm3) và hiệu suất (19%
hiệu suất Carnot, là đơn vị đo tiêu chuẩn cho
hiệu suất của động cơ nhiệt). Bước tiếp theo,
nhóm nghiên cứu sẽ tìm cách tăng tối đa hiệu
quả của vật liệu màng mỏng cho các dòng
nhiệt thải và nhiệt độ cụ thể.
Theo vista.gov.vn, 26/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Tìm ra cách mới để phân hủy chất dẻo
Một loại enzym mới được phát hiện có
thể phân huỷ chất dẻo đã gợi mở hy vọng giải
quyết một trong những vấn đề ô nhiễm môi
trường lớn nhất của thế giới-rác thải nhựa.
Hình ảnh enzyme "ăn" nhựa PET trên kính hiển vi
điện tử. Ảnh: Univesity of Portsmouth
Một loại enzym mới được phát hiện có
thể phân huỷ chất dẻo đã gợi mở hy vọng giải
quyết một trong những vấn đề ô nhiễm môi
trường lớn nhất của thế giới-rác thải nhựa.
Các nhà khoa học Mỹ đã chế tạo được
một enzyme có thể phân hủy chất dẻo, một
trong những chất gây ô nhiễm phổ biến nhất,
qua đó, cung cấp một giải pháp tiềm năng giải
quyết một trong những vấn đề môi trường lớn
nhất thế giới-rác thải nhựa làm từ
polyethylene terephthalate (PET).
Nghiên cứu do nhóm các nhà khoa học
thuộc Đại học Portsmouth và Phòng thí
nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia (NREL)
của Bộ Năng lượng Mỹ công bố ngày 16/4
trong các báo cáo của Viện Hàn lâm quốc gia
Mỹ.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm các
nhà khoa học do Giáo sư John McGeehan của
Đại học Portsmouth và Tiến sĩ Gregg
Beckham tại NREL d n đầu, đã phát hiện một
enzyme có thể phân huỷ chất dẻo (sử dụng
chất dẻo làm thực phẩm), gọi là PTEase.
Đột phá trong nghiên cứu này xuất
phát từ việc phát hiện một loại vi khuẩn tự
nhiên có tên khoa học là Ideonella sakaiensis
có đặc tính "ăn" PET tại Nhật Bản cách đây
vài năm từ một trung tâm tái chế chất thải. Từ
đó, các nhà khoa học Mỹ quyết định tập trung
nghiên cứu cấu trúc của vi khuẩn này để xem
enzyme PETase của vi khuẩn hoạt động như
thế nào.
Phát hiện này có thể d n tới một giải
pháp tái chế hàng triệu tấn chai nhựa làm từ
PET, những chất có thể tồn tại hàng trăm năm
trong môi trường.
Hiện các nhà nghiên cứu đang nỗ lực
cải thiện enzyme để làm cho nó có thể phá
hủy nhựa trong một thời gian ngắn.
Theo baochinhphu.vn, 21/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 41/60
Phát triển được loại nhựa có thể tái sử dụng nhiều lần
Có tất cả các thuộc tính cần thiết của nhựa,
nhưng loại vật liệu mới có thể chế biến đi chế biến lại hàng nghìn lần - Ảnh: Hightech
Các nhà hóa học Mỹ đã phát triển
được loại polimer mới tương tự như nhựa với
các thuộc tính cần thiết nhưng có thể tận dụng
được nhiều lần.
Theo Science, các nhà hóa học ở Đại
học Colorado, Mỹ, với sự hướng d n của giáo
sư Eugene Chen, đã phát triển một loại
polymer mới, tương tự như nhựa. Loại
polimer mới này có thể được chế biến đi chế
biến lại nhiều lần, trong quá trình đó vật liệu
bị vỡ thành các monomer riêng biệt.
Vật liệu mới được tạo ra từ một phân
tử dựa trên gamma-butyrolactone (GBL)
nhưng trong đó, hai nguyên tử cacbon được
kết hợp thành một cấu trúc tuần hoàn khi biến
đổi. Đồng thời, vật liệu tổng hợp mới được
tạo ra từ các chất phản ứng thông thường,
được bán tự do - điều này làm giảm chi phí
của sản xuất.
Sau khi sử dụng vật liệu này thay thế
cho nhựa, nó có thể được chế biến đi chế biến
lại hàng ngàn lần. Các nhà khoa học lưu ý
rằng các polymer tương tự đã từng được phát
triển trước đó, nhưng so với nhựa, chúng luôn
khác nhau về tính chất và khả năng chống lại
sự hư hại.
Được biết, trước đó, các nhà khoa học
Nhật Bản đã phát hiện ra một loài vi khuẩn
giúp phân hủy nhựa trong vài ngày. Vi khuẩn
Ideonella sakaiensis phân hủy nhựa PET bằng
cách dùng 2 loại enzyme là PETase và
MHETase. Hiện tại, một nhóm nhà khoa học
đang nghiên cứu để các vi khuẩn này tăng tốc
xử lý khi có thể “ăn” chai nhựa trong vòng
vài giây. Đây là loại nhựa thường được dùng
trong sản xuất nước đóng chai, mỹ phẩm và
đồ dùng gia đình.
Theo vista.gov.vn, 28/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Các kỹ sư phát triển kỹ thuật để tạo vật liệu thích ứng
Các kỹ sư tại Phòng thí nghiệm
Nghiên cứu Quân sự Hoa Kỳ và Đại học
Maryland đã phát triển được một phương
pháp kỹ thuật làm cho vật liệu composite trở
nên rắn chắc hơn và cứng hơn theo yêu cầu
khi tiếp xúc với ánh sáng cực tím.
Điều khiển hành vi của vật liệu
composite theo yêu cầu này có thể cho phép
tạo ra một loạt năng lực tiềm tàng mới cho
việc thiết kế, hoạt động và bảo trì máy bay
trực thăng quân sự trong tương lai.
Tiến sĩ Frank Gardea, kỹ sư nghiên
cứu của ARL cho biết, trọng tâm của nghiên
cứu này là kiểm soát cách thức các phân tử
tương tác với nhau.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 42/60
“Động lực thúc đẩy quan trọng đối với
nghiên cứu này là mong muốn tạo ra các cấu
trúc mới, bắt đầu từ phạm vi nano, nhằm
nâng cao các khái niệm về máy bay trực
thăng đã được đề xuất trước đây nhưng
không khả thi do những hạn chế tồn tại đối
với các loại vật liệu composite hiện nay. Một
trong những khả năng tiềm tàng quan trọng
nhất có thể hình dung được là giảm gánh
nặng bảo trì đáng kể do bị hư hỏng khi bay
với tốc độ cao”, Tiến sĩ Bryan Glaz, giám đốc
khoa học công nghệ xe của ARL cũng nói.
Công trình nghiên cứu này, đã được
công bố trên tạp chí Advanced Materials
Interfaces mới đây, cho thấy rằng những vật
liệu tổng hợp này có thể trở nên cứng hơn
93% và mạnh hơn 35% sau 5 phút tiếp xúc
với ánh sáng cực tím.
Kỹ thuật này gồm các phân tử phản ứng
ánh sáng cực tím để tăng thêm sức mạnh cho
các tác nhân tương tự như các ống nano
cacbon. Các tác nhân tăng cường phản ứng
này sau đó được nhúng trong polymer. Khi
tiếp xúc với ánh sáng cực tím, một phản ứng
hóa học xảy ra sao cho sự tác động qua lại
giữa các tác nhân tăng cường và polymer tăng
lên, do đó làm cho vật liệu cứng hơn và mạnh
hơn.
Các nhà nghiên cứu cho biết, chất hóa
học được sử dụng ở đây thông thường có thể
áp dụng cho một loạt các kết hợp của chất
tăng cường/polymer do đó phát triển được lợi
ích của phương pháp kiểm soát này đối với
hàng loạt các hệ thống vật liệu.
“Nghiên cứu này cho thấy rằng có thể
kiểm soát được toàn bộ các đặc tính vật chất
của các nanocomposite này thông qua kỹ
thuật phân tử tại giao diện giữa các thành
phần composite. Điều này không chỉ quan
trọng đối với nền khoa học cơ bản mà còn đối
với việc tối ưu hóa phản ứng thành phần cấu
trúc”, tiến sĩ Zhongjie Huang, một nghiên cứu
bậc sau tiến sĩ tại Đại học Maryland cho biết.
Các cấu trúc tương lai dựa trên nền
tảng nghiên cứu này có thể giúp đưa đến các
vật liệu tổng hợp mới có độ giảm chấn cấu
trúc được kiểm soát và trọng lượng nhẹ để mà
có thể cho phép các khái niệm về máy bay
trực thăng tốc độ cao, không phải bảo trì
nhiều sẽ trở nên khả thi trong tương lai (ví dụ:
soft in-plane tiltrotors). Ngoài ra, phản ứng cơ
học có thể kiểm soát sẽ cho phép phát triển
các cấu trúc không gian thích ứng có khả
năng đáp ứng các điều kiện tải trọng cơ học.
Phòng thí nghiệm nghiên cứu quân sự
và các đối tác sẽ tiếp tục đầu tư vào các công
nghệ mới nổi và được lấy cảm hứng từ
Soldier (binh lính) mà độ tin cậy cao hơn,
hiệu suất lớn hơn và có nhiều khả năng nhảy
vọt làm chìa khóa cho sự phát triển của các
nền tảng thế hệ tiếp theo. Sự hợp tác giữa
ARL và Đại học Maryland là rất quan trọng
trong sự phát triển của phương pháp này.
“Phòng thí nghiệm của ông tại UMD
đã phát triển các vật liệu nano cacbon và các
chất hóa học độc đáo nhưng phải đến khi
Gardea tiếp cận chúng tôi, chúng tôi mới
nhận thức được thách thức và cơ hội hấp dẫn
để tái cấu trúc vật liệu composite”, giáo sư,
tiến sỹ YuHuang Wan, Khoa Hóa học và Sinh
Hóa tại Trường đại học Maryland cho biết.
Theo vista.gov.vn, 27/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Phát triển được loại bê tông bền gấp 4 lần
Loại vật liệu composite mới với thành phần gồm graphene và hỗn hợp bê tông giúp tăng hiệu quả
xây dựng các ngôi nhà siêu bền Ảnh: Getty Images
Các nhà nghiên cứu Anh đã sử dụng
công nghệ nano lồng các lớp graphene vào bê
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 43/60
tông giúp tăng độ bền của bê tông và giảm khí
thải nhà kinh trong sản xuất vật liệu xây dựng.
Theo Advanced Functional Materials,
các nhà vật lý đã tạo ra một loại vật liệu
composite mới bằng cách thêm graphene hỗn
hợp bê tông. Để tạo ra bê tông siêu bền này,
các nhà nghiên cứu ở Đại học Exeter, Anh, đã
sử dụng công nghệ nano lồng các lớp
graphene vào bê tông và thu được loại vật
liệu bền hơn gấp 4 lần, chịu được độ ẩm gấp
2 lần bê tông bình thường.
Trước đó, để cải thiện các thuộc tính
của xi măng, các nhà khoa học đã cố gắng đa
dạng hóa các thành phần khác nhau của xi
măng - thành phần chính của hỗn hợp bê
tông. Các tác giả của nghiên cứu mới đề xuất
một phương pháp khác - thêm vào hỗn hợp
grapheme ở dạng huyền phù (một dạng
carbon đặc biệt). Sau đó, họ đã tiến hành một
loạt các thử nghiệm và xác định được rằng
vật liệu thu được đã cải thiện được độ bền. Ví
dụ, mô đun Young (một tham số xác định khả
năng kéo giãn và nén của vật liệu) tăng thêm
1,5 lần.
Công nghệ mới cũng khiến sản xuất
thân thiện hơn với môi trường. Lượng khí thải
carbon (tức là lượng khí nhà kính) trong sản
xuất xi măng ít hơn nhiều. Hiệu ứng này đã
đạt được nhờ giảm 2 lần lượng nguyên liệu
cần thiết cho việc sản xuất bê tông.
Các nhà nghiên cứu tin rằng thành tựu của
họ sẽ là cơ sở cho việc tạo ra những loại vật
liệu nano mới có thể đưa vào thành phần xi
măng, giúp nâng cao hiệu quả xây dựng và
tăng độ bền cho các ngôi nhà và các cấu trúc
xây dựng trên toàn thế giới.
Theo motthegioi.vn, 24/04/2018
Trở về đầu trang
**************
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 44/60
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0018564 Vacxin cúm bất hoạt bị hấp phụ và phương pháp sản xuất vacxin này
Tác giả: Goto Shuro (JP), Kino Yo-
ichiro Gotanda Toru (JP), Arai Setsuo(JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất vacxin cúm virion
nguyên vẹn bất hoạt bị hấp phụ, có hiệu lực
phòng chống virut cúm kiểu mới (cụ thể là
kiểu virut mới có khả năng sinh miễn dịch
thấp) ở nồng độ kháng nguyên thấp và gây ít
phản ứng phụ hơn, cũng như phương pháp
sản xuất vacxin này. Các giải pháp gồm:
nghiên cứu tìm ra vacxin cúm bất hoạt bị hấp
phụ chứa gel nhôm hyđroxit (được điều chế
từ natri cacbonat và nhôm kali sulfat) và
virion nguyên vẹn của virut cúm đã được
phân lập làm thành phần hoạt tính; xây dựng
phương pháp sản xuất vacxin cúm bất hoạt bị
hấp phụ đó, bao gồm việc tiến hành từng
bước trong dung môi không chứa các chất
hoạt động bề mặt và các ete.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018567 Quy trình điều chế hợp chất 2-(pyriđin-3-yl)thiazol
Tác giả: Ross Ronald (US), Deamicis
Carl (US), Zhu Yuanming (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến quy trình điều chế
hợp chất 2-(pyriđin-3-yl)thiazol là sản phẩm
trung gian để tổng hợp các thiazol amit có
hoạt tính diệt trừ sinh vật gây hại. Các hợp
chất có công thức (I) và (II) được đóng vòng
để tạo ra hợp chất có công thức (III). Bước
này được thực hiện với sự có mặt của bazơ
khi hợp chất có công thức (II) ở dạng muối.
Các bazơ thích hợp bao gồm, nhưng
không giới hạn ở, natri bicacbonat, kali
bicacbonat, natri cacbonat, xesi cacbonat, kali
cacbonat, natri hyđroxit, kali hyđroxit, natri
bisulfat, natri axetat, kali axetat, amoni
hyđroxit, natri metoxit, kali metoxit, natri
etoxit, kali etoxit, trietylamin và pyriđin.
Phản ứng này có thể được tiến hành ở nhiệt
độ và áp suất môi trường xung quanh, nhưng
nhiệt độ và áp suất cao hơn hoặc thấp hơn có
thể sử dụng được, nếu thích hợp. Phản ứng
này được thực hiện trong dung môi proton
phân cực. Ví dụ về các dung môi này bao
gồm, nhưng không giới hạn ở, n-butanol,
isopropanol, n-propanol, etanol, metanol, và
nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018568 Hợp chất 3-(5-flopyrimiđin-4-yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-4yl)isoinđolin-1-on và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Dally Robert Dean (US),
Woods Timothy Andrew (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất 3-(5-
flopyrimiđin-4-yl)-3-metyl-6-(1H-pyrazol-4-
yl)isoinđolin-1-on hoặc muối dược dụng của
nó có tác dụng ức chế CDC7 và do đó có thể
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 45/60
là hữu dụng trong việc điều trị bệnh ung thư.
Sáng chế cũng đề cập đến dược phẩm chứa
hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018569 Quy trình sản xuất dung dịch chứa polysacarit vỏ nang của Streptococcus pneumoniae và quy trình sản xuất vacxin phế cầu khuẩn chứa
polysacarit này
Tác giả: Yuan Yonghui (CN), Ruppen
Mark (US), Sun Wei-Qiang (US), Chu Ling
(US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến quy trình rút ngắn
để sản xuất dung dịch chứa polysacarit vỏ
nang được tinh chế gần như hoàn toàn từ dịch
phân giải tế bào Streptpcoccus pneumoniae.
Siêu lọc và lọc thấm tách dịch tan
S.pneumoniae đã được làm trong, sau đó điều
chỉnh độ pH đến giá trị thấp hon 4,5, tốt hơn
là bằng khoảng 3,5, sẽ làm kết tủa ít nhất 98%
protein trong dung dịch mà không làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hiệu suất
polysacarit. Hơn nữa, sau khi siêu lọc, lọc
thấm tách và axit hoá đến độ pH thấp hơn 4,5,
quá trình lọc bằng cách sử dụng cacbon hoạt
tính sẽ làm kết tủa được ít nhất 90% protein
còn lại mà không làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu suất polysacarit. Ví dụ, các typ
huyết thanh của S.pneumoniae mà không làm
giới hạn phạm vi của sáng chế có thể được
tinh chế bằng cách sử dụng quy trình rút ngắn
theo sáng chế là 1,4, 5, 6A, 6B, 7F, 9V, 14,
18C, 19A, 19F, và 23F. Theo một phương án,
các tế bào Streptococcus pneumoniae được
phân giải bằng cách sử dụng deoxycholat
natri (DOC), trong lúc đó, theo một phương
án khác chất phân giải là chất phân giải
không có nguồn gốc từ động vật như N-lauryl
sarcosin natri (NLS).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018570 Muối piperazin để sử dụng làm chất đối kháng thụ thể dopamin D3/D2, dược phẩm chứa muối này và quy trình điều chế muối này
Tác giả: Againe Csongor Eva (HU),
Czibula László (HU), …
Quốc gia: Hungary
Sáng chế đề cập đến muối
monohyđroclorua của trans 4-{2-[4-(2,3-
điclophenyl)-piperazin-l-yl]-etyl}-N,N-
đimetylcarbamoyl-xyclohexylamin và/hoặc
hyđrat và/hoặc solvat của nó. Ngoài ra, sáng
chế còn đề cập đến quy trình điều chế các
muối này và hyđrat và/hoặc solvat của nó, và
dược phẩm chứa chúng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018573 Muối cộng của amin chứa nhóm hydroxyl và/hoặc carboxylic với d n xuất axit amino nicotinic và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Garcia Martin Digna José
(ES), Boix Bernardini Maria Carmen (ES), …
Quốc gia: Tây Ban Nha
Sáng chế đề cập đến muối cộng kết
tinh dược dụng hòa tan trong nước của (i)
amin chứa một hoặc nhiều nhóm hydroxyl
và/hoặc carboxylic với (ii) các d n xuất axit
amino nicotinic có công thức (I):
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 46/60
trong đó Ra, R
b, R
c và R
d độc lập là các nhóm
được chọn từ các nguyên tử hydro, các
nguyên tử halogen, các nhóm C1-4 alkyl có thể
tùy ý được thế bằng 1, 2 hoặc 3 phần tử thế
được chọn từ các nguyên tử halogen và các
nhóm hydroxy, và các nhóm C1-4 alkoxy có
thể tùy ý được thế bằng 1, 2 hoặc 3 phần tử
thế được chọn từ các nguyên tử halogen và
các nhóm hydroxy, và các solvat dược dụng
của nó.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018574 Dược phẩm chứa đất sét
Tác giả: Hacher Beatrice (FR),
Kubiak Didier (FR), Harnett Jeremiah (IE),
Mondoly Nathalie (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến dược phẩm dạng
lỏng hoặc bán rắn, cụ thể hơn là dược phẩm
dạng huyền phù trong nước hoặc bột nhão
bán rắn chứa đất sét khoáng tự nhiên làm
thành phần hoạt tính. Các dược phẩm này là
đặc biệt hữu ích để điều trị bệnh tiêu chảy
cấp tính và mạn tính.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018583 Quy trình tách và tinh chế solvat của hợp chất pyripyropen ở dạng tinh thể
Tác giả: Peters Olaf (DE), Brauer
Nico (DE), Blume Thorsten (DE), …
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến hợp chất
benzimidazol có công thức chung (I):
trong đó các biến R1a
, R1b
, R4 , R
6 , A và B
có ý nghĩa như được nêu trong bản mô tả.
Hợp chất này là hữu ích để sản xuất dược
phẩm nhằm điều trị bệnh và các chỉ định liên
quan đến thụ thể EP4.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018586 Chất chủ vận thụ thể dị vòng dùng đề điều trị các bệnh tiểu đường và các rối loạn chuyển hóa và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Chen Xin (CN), Cheng Peng
(CN), Clemens L. Edward (US), Johnson
Jeffrey D.(US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến các hợp chất và
các phương pháp dùng để điều trị, chẳng hạn
như, các bệnh tiểu đường tuyp 2 và các bệnh
liên quan đến kiểm soát nồng độ glucoza
trong máu. Các hợp chất theo sáng chế có
hoạt tính theo đường miệng.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 47/60
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018590 Hợp chất phenyloxadiazol, dược phẩm chứa hợp chất này và quy trình điều chế hợp chất này
Tác giả: Vandeusen Christopher L.
(US), Weiberth Franz J. (US), Gill Harpal S.
(US), …
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I):
trong đó R1, R2 và R3 là như được xác định
trong bản mô tả, dược phẩm chứa hợp chất
này, chất trung gian và quy trình điều chế các
hợp chất này. Sáng chế cũng đề cập đến hợp
chất có công thức (I), trong đó hợp chất này
được dùng để điều trị bệnh viêm và/hoặc dị
ứng, đặc biệt là bệnh như bệnh viêm mũi dị
ứng, bệnh hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(COPD) và bệnh thoái hóa điểm vàng có liên
quan đến tuổi (AMD).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018591 Hợp chất oxazolin và isoxazolin có tác dụng làm chất điều biến kênh canxi được hoạt hóa để giải phóng canxi (CRAC), dược phẩm chứa chúng
và quy trình điều chế chúng
Tác giả: Irlapati Nageswara, Rao (IN),
Deshmukh Gokul Keruji (IN), Karche Vijay
Pandurang (IN), …
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (Id):
trong đó R1, R2, R3, L, vòng D, vòng E và
vòng W là như được xác định trong phần mô
tả và quy trình điều chế chúng. Hợp chất này
hữu ích trong điều trị, ngăn ngừa và/hoặc
kiểm soát bệnh, các rối loạn, hội chứng hoặc
các tình trạng bệnh liên quan đến quá trình
điều biến CRAC.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018627 Hợp chất pyrolopyrimidin dùng làm chất ức chế kinaza,
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 48/60
dược phẩm chứa hợp chất này và phương pháp điều chế hợp chất này
Tác giả: Zhang Jiazhong (CN),
Ibrahim Prabha N. (US), Spevak Wayne (US)
Tsai James (US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất, muối
của chúng, d n xuất của chúng, dạng liên hợp
và các dạng khác của chúng và dược phẩm
chứa chúng. Theo các khía cạnh và phương
án cụ thể, hợp chất theo sáng chế hoặc muối
của chúng, d n xuất của chúng, dạng liên hợp
và các dạng khác của chúng có hoạt tính đối
với một hoặc nhiều protein kinaza Fms, Kit,
Flt3, TrkA, TrkB và TrkC. Ngoài ra, hợp
chất theo sáng chế có thể được sử dụng để
điều trị bệnh và tình trạng bệnh bao gồm,
nhưng không chỉ giới hạn ở các bệnh và tình
trạng bệnh do hoạt động của một hoặc nhiều
protein kinaza Fms, Kit, Flt3, TrkA, TrkB và
TrkC gây ra. Sáng chế cũng đề cập đến dược
phẩm chứa các hợp chất nêu trên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018630 Hợp chất pyridinon có tác dụng chống xơ hóa và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Buckman Brad Owen (US),
Nicholas John Beamond (US), Ramphal
Johnnie Y. (US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
pyridinon, phương pháp điều chế các hợp
chất này, và dược phẩm chứa chúng để điều
trị rối loạn xơ hóa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018662 Hợp chất peptit liên kết với thụ thể thrombopoietin và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Arikawa Yasuyoshi (JP),
Jones Benjamin (US), Lam Betty (US), Nie
Zhe (CN), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất các hợp chất peptit
liên kết và hoạt hoá thụ thể thrombopoietin
(c-mpl hoặc TPO-R) hoặc mặt khác, chúng
hoạt động như chất chủ vận TPO. Sáng chế
cũng đề cập đến dược phẩm chứa hợp chất
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018674 Phương pháp sản xuất axit 5'-guanylic và vi sinh vật được sử dụng để sản xuất axit này
Tác giả: Hiroaki Fukada (JP),
Takayuki Asahara (JP), Kenichi Hashiguchi
(JP).
Quốc gia: Nhật
Axit 5'-guanylic (GMP) được tạo ra
một cách hiệu quả bằng cách cho vi sinh vật
phản ứng với axit xantylic (XMP) để tạo ra
GMP và gom GMP, trong đó vi sinh vật này
có khả năng chuyển hóa axit xantylic thành
axit 5'-guanylic và đã được cải biến sao cho
gen nagD không thực hiện chức năng thông
thường và hoạt tính axit 5'-guanylic
synthetaza được tăng cường..
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 49/60
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018676 Hợp chất flo hóa của 3-hydroxypyridin-4-on
Tác giả: Tam Tim Fat (CA), Leung-
Toung Regis (CA), Wang Yingsheng (CA),
Zhao Yanqing (CA), …
Quốc gia: Canada
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức I là d n xuất của 3-hydroxypyridin-4-on.
Các hợp chất này có thể được dùng để điều trị
tình trạng bệnh liên quan tới nồng độ gây độc
của sắt. Các hợp chất này có thể được sử
dụng để bào chế thuốc để điều trị tình trạng
bệnh liên quan tới nồng độ gây độc của sắt.
Tình trạng bệnh liên quan tới nồng độ gây
độc của sắt có thể được chọn từ nhóm bao
gồm: bệnh ung thư, bệnh phổi, bệnh thận tăng
tiến và chứng mất điều hòa Frederich.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018689 Hợp chất metastin và thuốc chứa hợp chất này làm chất đối kháng thụ thể metastin
Tác giả: Taiji Asami (JP), Naoki
Nishizawa (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất các hợp chất metastin
ổn định có các hoạt tính sinh học tuyệt vời
(hoạt tính ức chế sự di căn ung thư, hoạt tính
ức chế sự phát triển của bệnh ung thư, hoạt
tính kích thích tiết xuất hormon kích dục,
hoạt tính kích thích tiết xuất hormon giới tính,
v.v.). Bằng cách thay thế các axit amin thế
của metastin bằng các axit amin đặc hiệu
trong hợp chất metastin theo sáng chế, tính ổn
định trong máu, tính hoà tan,.v.v., được cải
thiện, xu hướng làm đông tụ được giảm, tác
dụng dược lý của thuốc tới cơ thể cũng được
cải thiện, và hoạt tính ức chế sự di căn ung
thư tuyệt vời hoặc hoạt tính ức chế sự phát
triển của bệnh ung thư được thể hiện. Ngoài
ra, hợp chất metastin theo sáng chế có các tác
dụng ức chế sự tiết xuất hormon kích sinh
dục, ức chế tiết xuất hormon giới tính,.v.v..
Sáng chế còn đề xuất thuốc chứa hợp chất
metastin làm chất đối kháng thụ thể metastin.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018691 Phương pháp điều chế hợp chất 4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin
Tác giả: Umetani Hideki (JP), Kondo
Nobuhiro (JP), Kajino Fumie (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp điều
chế với quy mô lớn hợp chất 4,4-diflo-3,4-
dihydroisoquinolin một cách đơn giản và hiệu
quả. Theo phương pháp điều chế hợp chất
4,4-diflo-3,4-dihydroisoquinolin có công thức
chung (1):
hợp chất có công thức chung (2):
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 50/60
được cho phản ứng với hydro florua.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018710 Kháng thể liên kết với CD37 ở người, phân tử ADN chứa vùng mã hoá chuỗi nặng biến đổi của kháng thể này và dược phẩm chứa kháng thể này
Tác giả: Heider Karl-Heinz (DE),
Borges Eric (DE), Ostermann Elinborg (AT).
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các kháng thể
liên kết với CD37 ở người ở dạng khảm và
các dược phẩm chứa kháng thể này. Các
dược phẩm này hữu dụng dùng để điều trị
các khối u ác tính tế bào B và bệnh tự miễn
và viêm liên quan đến tế bào B trong bệnh lý
của chúng. Ngoài ra, phân tử ADN chứa
vùng mã hóa chuỗi nặng biến đổi của kháng
thể này cũng được đề xuất.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018715 Hợp chất pyrazolyl quinoxalin có tác dụng ức chế kinaza, dược phẩm chứa hợp chất này và quy trình điều chế hợp chất này
Tác giả: Saxty Gordon (GB), Murray
Christopher William (GB), Berdini Valerio
(IT), …
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến hợp chất
quinoxalin, dược phẩm chứa hợp chất này và
quy trình điều chế nó. Hợp chất này được sử
dụng để điều trị bệnh, ví dụ, bệnh ung thư.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018748 Phương pháp sản xuất axit L-glutamic
Tác giả: Yoshihiko Hara (JP), Hiroshi
Izui (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến vi khuẩn sản xuất
axit L-glutamic thuộc giống Pantoea,
Enterobacter, Klebsiella hoặc Erwinia, trong
đó vi khuẩn này đã được cải biến bằng cách
tái tổ hợp gen để bất hoạt gen rpoS, đ-ợc nuôi
cấy trong môi trường để tích lũy axit L-
glutamic trong môi trường, và axit L-glutamic
được thu gom từ môi trường này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018751 Hợp chất imidazol và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Buzard Daniel J. (US),
Edwards James P. (US), Kindrachuk David E.
(CA), Venable Jennifer, D. (US).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hợp chất
imidazol, chế phẩm chứa chúng và các
phương pháp sử dụng chúng trong việc ức
chế việc bổ sung bạch cầu, trong việc điều
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 51/60
biến sự biểu hiện thụ thể H4 và trong việc
điều trị các tình trạng như chứng viêm, các
tình trạng do thụ thể H4 điều chỉnh và các tình
trạng có liên quan.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018775 Hợp chất purinon và dược phẩm chứa nó
Tác giả: Yamamoto Shingo (JP),
Yoshizawa Toshio (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến các hợp chất có
công thức chung (I) (tất cả các ký hiệu trong
công thức này có định nghĩa giống như trong
phần mô tả) là các hợp chất mà ngoài hoạt
tính ức chế chọn lọc Btk còn có tính ổn định
chuyển hóa và có thể ngăn ngừa được tình
trạng gây độc cho gan hoặc tình trạng tương
tự và do đó có thể bào chế thuốc điều trị an
toàn cho các bệnh có liên quan đến tế bào B
hoặc dưỡng bào.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018792 Phương pháp điều chế hợp chất trung gian để tổng hợp dược chất
Tác giả: Kim Bong Chan (KR), Kim
Kyu Young (KR), Lee Hee Bong (KR), An Ji
Eun (KR), Lee Kyu Woong (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề xuất phương pháp điều
chế hợp chất có công thức (2) làm chất trung
gian, có thể được sử dụng một cách hữu hiệu
để điều chế hợp chất có công thức (1) có hoạt
tính ức chế mạnh đối với enzym đipeptiđyl
peptidaza IV.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018815 Dược phẩm dạng viên nang cứng và phương pháp bào chế duợc phẩm này
Tác giả: Kim Kyeong Soo (KR), Kim
Dong Ho (KR), Kwon Taek Kwan (KR), …
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề xuất dược phẩm dạng viên
nang cứng chứa các viên nén đa liều dạng
hình cầu được bao gói trong vỏ nang cứng và
phương pháp bào chế dược phẩm này. Các
viên nén đa liều dạng hình cầu của dược
phẩm này có thể được nạp hiệu quả vào
khoảng không hữu hạn của vỏ nang, cho phép
nạp liều cao các dược chất khác nhau vào vỏ
nang có kích cỡ nhỏ, nhờ đó nâng cao năng
suất và dễ sử dụng cho người bệnh. Do các
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 52/60
dược chất chứa trong vỏ nang được tách rời
nhau; nên dược phẩm này có tỷ lệ hòa tan cao
và tỷ lệ hòa tan của các dược chất ít bị ảnh
hưởng l n nhau. Do dược phẩm này có độ ổn
định cao, nên có thể tối đa hoá được tác dụng
điều trị.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018820 Hợp chất sulfonamit dùng làm chất gây chết tế bào theo
chương trình chọn lọc BCL-2 để điều trị bệnh ung thư và bệnh miễn dịch
Tác giả: Park Chang H. (US), Bruncko
Milan (US), Ding Hong (CN), Doherty
George A. (US), …
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức (I):
trong đó A1, B
1, D
1, E
1, Y
1, Z
1 là như được xác
định trong bản mô tả. Hợp chất theo sáng chế
có tác dụng ức chế hoạt tính của protein chống
lại quá trình chết tế bào theo chương trình Bcl-
2 hoặc Bcl-xL. Sáng chế cũng đề cập đến dược
phẩm chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018617 Chế phẩm kháng thể kháng CD20
Tác giả: Brisbane Charlene E. (US),
Ketkar Amol Sharad (US), Lashmar Ulla
Tove (DK).
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề xuất chế phẩm kháng thể
ổn định với sự chia cắt và nhiệt độ mà ổn
định hơn so với chế phẩm chuẩn (như xitrat
30mM, NaCl 100mM, độ pH 6,5). Các chế
phẩm kháng thể ổn định với sự chia cắt và
nhiệt độ theo sáng chế cho thấy giảm sự kết
tủa khi chịu các điều kiện khắc nghiệt trong
khi chế phẩm chuẩn đông tụ lại. Kết quả này
là không thể dự đoán trước được bởi vì về
mặt nhiệt động học hai chế phẩm giống nhau
như được thấy bằng đồ thị DSC (đo nhiệt
lượng kế quét vi sai) của chúng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018660 Chế phẩm dùng ngoài da chứa silicon dễ bay hơi và phương pháp bào chế chế phẩm này
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 53/60
Tác giả: Mikulasik Endre (HU),
Fazekas Patrik (HU).
Quốc gia: Hungary
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dùng
ngoài da chứa dược chất, trong đó các hạt
dược chất được bao bằng silicon dễ bay hơi
hoặc hỗn hợp của chúng, và các hạt được bao
này được phân tán trong chất nền dạng gel.
Thành phần silicon dễ bay hơi là
hexametyldisiloxan và/hoặc octametyl-
trisiloxan và/hoặc
decametylpentaxyclosiloxan. Sáng chế cũng
đề cập đến phương pháp bào chế chế phẩm
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018707 Protein liên kết đặc hiệu CD37 và chế phẩm chứa protein liên kết này
Tác giả: Grosmaire Laura, Sue (US),
Hayden-Ledbetter Martha Susan (US),
Ledbetter Jeffrey A. (US), ...
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất các phân tử liên kết
đặc hiệu CD37, các phân tử liên kết đặc hiệu
CD20 và tổ hợp có tác dụng hiệp đồng của
chúng để làm giảm tế bào B. Cụ thể là, sáng
chế đề xuất các phân tử liên kết đặc hiệu
CD37 được sử dụng một mình, hoặc tổ hợp
của các phân tử liên kết đặc hiệu CD37 và
các phân tử liên kết đặc hiệu CD20, trong
một số trường hợp tổ hợp này có tác dụng
hiệp đồng. Sáng chế còn đề xuất vật phẩm và
bộ kit để điều trị bệnh liên quan đến hoạt tính
khác thường của tế bào B. Ngoài ra, sáng chế
còn đề xuất các phân tử liên kết đặc hiệu
CD37 được làm giống như của người.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018778 Tổ hợp của chế phẩm globulin miễn dịch và chế phẩm hyaluronidaza dùng để điều trị các bệnh có thể điều trị được bằng globulin
miễn dịch
Tác giả: Schiff Richard (US), Leibl
Heinz (AT), Frost Gregory I. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến tổ hợp, chế
phẩm và bộ kit chứa chế phẩm globulin miễn
dịch (IG) và chế phẩm hyaluronidaza tan
được được bào chế để dùng dưới da. Các sản
phẩm này có thể được sử dụng trong phương
pháp điều trị các bệnh hoặc tình trạng bệnh lý
có thể điều trị được bằng IG. Sáng chế còn đề
cập đến phương pháp dùng globulin miễn
dịch d-ới da trong đó chế độ dùng liều về cơ
bản là giống với phương pháp dùng cùng liều
lượng như vậy trong tĩnh mạch để điều trị
cùng một loại bệnh hoặc tình trạng bệnh lý
có thể điều trị được bằng IG.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018653 Dụng cụ tiêm thuốc tự động
Tác giả: Edhouse Mark Jeffrey (NZ),
Driver Philip Jerome (GB), Moseley Guy
Conwyn Julian (GB), Lewis Scott Alexander
(GB).
Quốc gia: Luxembourg
Sáng chế đề cập đến dụng cụ tiêm
thuốc tự động các liều thuốc bao gồm ống
trượt (30) mà, khi ấn đầu phía trước của nó
(3) vào vị trí tiêm, sẽ tương tác với bộ phận
cam (26, 27, 28) để kích hoạt cần đẩy (8), mà
kiểm soát việc phân phối liều thuốc. Bộ phận
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 54/60
d n hướng có nấc (44) được lắp để kiểm soát
trình tự và bộ phận phát động (4) để chuyển
dụng cụ sang trạng thái phân phối liều. Dụng
cụ này có thể che lại kim tiêm một cách tự
động và thiết lập lại trạng thái sau khi phối
mỗi liều thuốc. Ngoài ra, dụng cụ này còn có
số lượng chi tiết giảm, do đó cấu trúc đơn
giản hơn và chi phí sản xuất giảm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018780 Huyền phù chứa hạt keo axit silixic cỡ nano được làm ổn định, chế phẩm, bột và dược phẩm chứa huyền phù này và phương pháp điều chế
huyền phù này
Tác giả: Suvee Ivo (BE), Tourgis
Guillaume (FR).
Quốc gia: Luxembourg, Uruguay
Sáng chế đề cập đến huyền phù chứa
các hạt axit silixic cỡ nano được ổn định
bằng ion hydro, chế phẩm thu được từ huyền
phù pha loãng chứa các hạt này, bột thu được
từ huyền phù loại nước và chế phẩm hoặc
dược phẩm dạng liều thu được từ huyền phù
này, chế phẩm hoặc bột, quy trình điều chế
và sử dụng trong tất cả các ứng dụng trong
lĩnh vực thực phẩm, thuốc, dược phẩm, mỹ
phẩm. Sáng chế đề xuất huyền phù ổn định
của các hạt keo axit silixic cỡ nano có độ pH
nhỏ hơn 0,9, nồng độ mol của silic nằm trong
khoảng từ 0,035 đến 0,65, nồng độ nước tự
do ít nhất là 30% (trọng lượng/thể tích) và tỷ
lệ giữa nồng độ mol của ion hydro và Si lớn
hơn 2 và tốt hơn là nhỏ hơn 4. Sáng chế còn
đề xuất phương pháp điều chế huyền phù ổn
định của các hạt keo axit silixic cỡ nano, bao
gồm các bước tạo ra dung dịch nước silic vô
cơ hoặc hữu cơ và trộn nhanh dung dịch
nước silic vô cơ hoặc hữu cơ với nước chứa
hợp chất axit mạnh ở nhiệt độ nhỏ hơn 30°C,
tốt hơn là nằm trong khoảng từ 1 đến 25°C,
để tạo ra huyền phù chứa các hạt keo axit
silixic cỡ nano có độ pH nhỏ hơn 0,9, được
làm ổn định bằng ion hydro, tỷ lệ giữa nồng
độ mol của ion hydro và Si lớn hơn 2 và tốt
hơn là nhỏ hơn 4, nồng độ mol của silic nằm
trong khoảng từ 0,035 đến 0,65 và nồng độ
nước tự do ít nhất là 30% (trọng lượng/thể
tích).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018694 Chế phẩm khử trùng và phương pháp làm sạch nước bị ô nhiễm
Tác giả: Samiran Mahapatra (IN),
Satyajit Samadder (IN), Prasanth Chennothu
Soman Nair (IN).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm khử
trùng và quy trình khử trùng, và cụ thể để
khử trùng và làm sạch nước bị ô nhiễm. Sáng
chế đặc biệt hữu ích trong việc loại bỏ tạp
chất lơ lửng và chất gây ô nhiễm vi sinh vật
có hại như vi khuẩn, virut và các u nang
trong nước để nưuớc có lợi cho sức khỏe và
có thể chấp nhận được để sử dụng cho người.
Một mục đích của sáng chế là nhằm đề xuất
chế phẩm làm sạch nước bị ô nhiễm bởi vi
sinh vật có hại mà v n bảo đảm nước an toàn
và có thể chấp nhận được để sử dụng. Do
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 55/60
vậy, sáng chế đề xuất chế phẩm khử trùng
dạng rắn chứa tác nhân oxy hóa và chất diệt
sinh vật với chất nền rắn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018702 Phương pháp tinh chế chế phẩm chứa natri clorua trong nước
Tác giả: Pastacaldi Alessandra (IT).
Quốc gia: Bỉ
Sáng chế đề cập tới phương pháp tinh
chế chế phẩm chứa natri clorua trong nước
bằng cách loại silicon, trong đó hợp chất có
nhôm được thêm vào chế phẩm chứa natri
clorua trong nước để thu được nồng độ mol
nhôm cao hơn nồng độ mol silicon trong chế
phẩm, kiểm soát và duy trì độ pH của chế
phẩm ở giá trị cao hơn hoặc bằng 8 và thấp
hơn hoặc bằng 10, và tủa được tạo thành
được tách ra khỏi huyền phù trong nước thu
được
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018655 Hợp chất trừ sâu xyano antranilamit, chế phẩm chứa chúng và phương pháp phòng trừ loài gây hại không xương sống
Tác giả: Hughes Kenneth Andrew
(US), Lahm George Philip (US), Selby
Thomas Paul (US), Stevenson Thomas
Martin (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có
công thức 1, N-oxit và các muối thích hợp
của chúng,
trong đó R
1 là Me, Cl, Br hoặc F; R
2 là F, Cl,
Br, C1-C4 haloalkyl hoặc C1-C4 haloalkoxy;
R3 là F, Cl hoặc Br; R
4 là H hoặc C1-C4 alkyl,
C3-C4 alkenyl, C3-C4 alkynyl, C3-C5
xycloalkyl, hoặc C4-C6 xycloalkylalkyl, mỗi
gốc này tuỳ ý được thế bằng một phần tử thế
được chọn từ nhóm gồm halogen, CN, SMe,
S(O)Me, S(O)2Me và OMe; R5 là H hoặc Me;
R6 là H, F hoặc Cl; và R
7 là H, F hoặc Cl.
Sáng chế còn đề cập đến phương pháp phòng
trừ loài gây hại không xương sống bao gồm
việc cho loài gây hại không xương sống hoặc
môi trường của nó tiếp xúc với hợp chất có
công thức 1 với lượng hữu hiệu về mặt sinh
học, N-oxit của nó hoặc muối thích hợp của
hợp chất này (ví dụ, dưới dạng chế phẩm
được mô tả trong bản mô tả này). Sáng chế
còn đề cập đến chế phẩm dùng để phòng trừ
loài gây hại không xương sống chứa hợp chất
có công thức 1 với lượng hữu hiệu về mặt
sinh học, N-oxit của nó hoặc muối thích hợp
của hợp chất và ít nhất một thành phần bổ
sung được chọn từ nhóm gồm chất hoạt động
bề mặt, chất pha loãng dạng rắn và chất pha
loãng dạng lỏng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018588 Phương pháp bảo vệ vật liệu nhân giống thực vật và phương pháp phòng trừ hoặc ngăn ngừa sự phá hoại do sinh vật gây hại
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 05/2018 56/60
Tác giả: Schade Michael (DE),
Grimm Christoph (AT), Faerber Martin
(CH), …
Quốc gia: Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến tổ hợp thích hợp
để sử dụng trong nông nghiệp bao gồm (I)
hợp chất có công thức (X) và (II) một hoặc
nhiều chất được chọn, độc lập với nhau, từ
chất bất kỳ trong số các chất từ (A) đến (G):
(A) thuốc diệt nấm bất kỳ, (B) thuốc diệt côn
trùng hoặc thuốc diệt giun tròn bất kỳ, (C)
protein bất kỳ được tạo ra bởi vi khuẩn gây
bệnh thực vật Erwinia amylovora, (D) chủng
sinh học bất kỳ, (E) isoflavon bất kỳ, (F) chất
điều hòa sinh trưởng thực vật, và (G) chất
kích thích sinh trưởng thực vật, trong đó hợp
chất có công thức (X) là hỗn hợp của
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018680 Chế phẩm diệt nấm hoặc diệt côn trùng bao gồm tổ hợp hợp chất hoạt tính, phương pháp phòng trừ mầm bệnh ở cây và/hoặc loài gây hại và
phương pháp xử lý hạt giống
Tác giả: Assmann Lutz (DE),
Wachendorff-Neumann Ulrike (DE),Dahmen
Peter (DE),…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến các tổ hợp hợp
chất hoạt tính, cụ thể là chế phẩm diệt nấm
và/hoặc diệt côn trùng, bao gồm isotianil
(3,4-diclo-N-(2-xyanophenyl)-5-
isothiazolcarboxamit, CAS số 224049-04-1)
và ít nhất một thuốc diệt côn trùng khác
thuộc nhóm fiprole và một thuốc diệt côn
trùng khác thuộc họ neonicotinoid. Ngoài ra,
sáng chế đề cập đến phương pháp phòng trừ
nấm gây bệnh ở thực vật và/hoặc vi sinh vật
và/hoặc loài gây hại ở thực vật hoặc cây
trồng, đến tổ hợp theo sáng chế được sử dụng
để xử lý hạt giống, đến phương pháp xử lý để
bảo vệ hạt giống và đặc biệt là hạt giống
được xử lý.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018700 Hợp chất xyclopentandion, chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng trừ cỏ và cỏ dại
Tác giả: Jeanmart Stephane Andre
Marie (BE), Taylor John Benjamin (GB),
Tyte Melloney (GB), …
Quốc gia: Anh
Sáng chế đề cập đến hợp chất có
công thức (I):
trong đó, các phần tử thế là như được xác
định trong điểm 1, thích hợp để sử dụng làm
chất diệt cỏ. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập
đến chế phẩm diệt cỏ và phương pháp phòng
trừ cỏ và cỏ dại.
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 57/60
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018587 Hợp chất đithiocarbamat, phương pháp làm giàu quặng khoáng và chế phẩm thu gom chứa hợp chất này
Tác giả: Nagaraj Devarayasamudram
R. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm thu
gom dùng trong tuyển nổi chứa
đithiocarbamat có công thức (I) như được xác
định dưới đây, là chất hữu ích để làm giàu và
thu hồi các kim loại từ quặng khoáng.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến phương
pháp làm giàu quặng khoáng bằng cách dùng
chế phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018811 Chế phẩm dạng huyền phù đặc để diệt loài chân đốt và phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây hại
Tác giả: Gutsche Oliver Walter (DE),
Annan Isaac Billy (US), Portillo Hector
Eduardo (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dạng
huyền phù đặc chứa các thành phần có khối
lượng tính theo tổng khối lượng của chế
phẩm là (a) từ 0,1% đến 50% là một hoặc
nhiều chất diệt loài chân đốt carboxamit có
trạng thái rắn ở nhiệt độ trong phòng; (b) từ
0% đến 50% là một hoặc nhiều hoạt chất sinh
học khác ngoài chất diệt loài chân đốt
carboxamit; (c) từ 20% đến 70% là nước; (d)
từ 10% đến 70% là một hoặc nhiều chất lỏng
không trộn l n được với nước; và (e) từ 1%
đến 55% là thành phần hoạt động bề mặt có
đặc tính phân tán. Sáng chế cũng đề cập đến
phương pháp phòng trừ loài chân đốt gây hại,
bao gồm bước pha loãng chế phẩm dạng
huyền phù đặc này bằng nước, tùy ý bổ sung
chất bổ trợ để thu được chế phẩm pha loãng
và cho loài chân đốt gây hại hoặc môi trường
của nó tiếp xúc với lượng hữu hiệu của chế
phẩm loãng này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018819 Chế phẩm diệt cỏ, phương pháp sản xuất chế phẩm này và phương pháp phòng trừ thực vật không mong muốn
Tác giả: Yamaji Yoshihiro (JP),
Honda Hisashi (JP), Kobayashi Masanori
(JP), Hanai Ryo (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt cỏ
có độ an toàn cao đối với cây mùa vụ và có
khả năng phòng trừ cỏ dại gây hại, chẳng hạn
ở các cánh đồng lúa, cánh đồng vùng cao và
vùng không thuộc nông nghiệp trong phạm vi
rộng từ trước đến sau khi cây nảy mầm. Chế
phẩm diệt cỏ bao gồm hoạt chất là thành
phần A và thành phần B, trong đó: Thành
phần A là ít nhất một hợp chất được chọn từ
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 58/60
nhóm gồm các d n xuất isoxazolin có công
thức [I] và các muối của chúng sau đây:
trong đó mỗi R
1 và R
2 độc lập với nhau là
nguyên tử hydro, nhóm C1-C10 alkyl, nhóm
C3-C8 xycloalkyl hoặc nhóm C3-C8
xycloalkyl C1-C3 alkyl, mỗi R3 và R
4 độc lập
với nhau là nguyên tử hydro, nhóm C1-C10
alkyl, nhóm C3-C8 xycloalkyl, hoặc R1, R
2,
R3 và R
4 có thể cùng với các nguyên tử
cacbon mà chúng gắn vào tạo thành vòng có
5 đến 8 cạnh, mỗi R5 và R
6 độc lập với nhau
là nguyên tử hydro hoặc nhóm C1-C10 alkyl,
Y là nhóm dị vòng thơm hoặc nhóm dị vòng
ng-ng tụ thơm có 5 hoặc 6 cạnh có nguyên tử
khác loại tùy ý được chọn từ nhóm gồm
nguyên tử nitơ, nguyên tử oxy và nguyên tử
lưu huỳnh, và n là số nguyên từ 0 đến 2, và
Thành phần B là: Imazaquin, diuron,
sulfentrazone, sulcotrione, norflurazon,
clomazone, dimethenamidP, prosulfocarb,
isoproturon, trifluralin hoặc triallate. Ngoài
ra, sáng chế còn đề cập đến phương pháp sản
xuất chế phẩm diệt cỏ này và phương pháp
phòng trừ thực vật không mong muốn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018663 Thức ăn, thành phần thức ăn và phương pháp nuôi trồng loài thủy sinh bằng thức ăn hoặc thành phần thức ăn này
Tác giả: David Morgan Smith (AU),
Nigel Philip Preston (GB).
Quốc gia: Úc
Sáng chế đề xuất thức ăn hoặc thành
phần thức ăn chứa sinh khối vi sinh vật, và
phương pháp nuôi trồng các loài thủy sinh
bằng cách sử dụng sinh khối vi sinh vật và
thức ăn hoặc thành phần thức ăn theo sáng
chế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018721 Chế phẩm tẩy giặt chứa enzym dạng hạt
Tác giả: Olaf Cornelis Petrus Beers
(NL), Willem Oldenburg (NL), Ronaldus
Theodorus Leonardus Van Vliet (NL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến chế phẩm tẩy
giặt dạng hạt chứa chất hoạt động bề mặt
sulphonat của alkyl este của axit béo với
lượng từ 1 đến 30% trọng lượng và các hạt
enzym, trong đó chế phẩm này gần như
không chứa thiosulphat mà không tạo ra mùi
hôi trong thời gian bảo quản.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018560 Hệ thống chăm sóc răng miệng
Tác giả: Jimenez Eduardo Jesus
(US), Gatzemeyer John Jacob (US), Enderby
Christine (US), Kahute Trent (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cấp đến hệ thống chăm
sóc răng miệng dùng cho bàn chải đánh răng,
như bàn chải đánh răng dùng điện, được tạo
kết cấu để thuận tiện cho các cấu trúc giải
ph u của trẻ em. Theo một phương án thực
hiện, bàn chải đánh răng có các bộ phận ba
chiều có các hình ảnh nhận biết được hoặc
hấp d n thị giác để khuyến khích trẻ em chải
răng một cách thường xuyên hơn. Theo
phương án khác, bàn chải đánh răng bao gồm
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 03/2018 59/60
các bộ phận thay thế hay các nắp đậy cho
phép người sử dụng biến đổi một cách tuỳ
chọn hình dáng nhìn thấy được của bàn chải
đánh răng của chúng hay để tạo ra các sản
phẩm bằng cách tạo ra các vùng cho việc bố
trí quảng cáo hay vật liệu quảng cáo khác.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018741 Bàn chải đánh răng và quy trình sản xuất bàn chải đánh răng
Tác giả: Fischer Franz (CH), Strahler
Reto (CH).
Quốc gia:Thụy Sĩ
Sáng chế đề cập đến bàn chải đánh
răng có tay cầm (2) và phần đầu (1), trên đó
các sợi lông chải (3) và ít nhất một bộ phận
đánh răng mềm (6) được bố trí. Theo sáng
chế, ít nhất một bộ phận đánh răng mềm (6)
được bố trí trên bộ phận mang (5) làm từ vật
liệu cứng và được nối vào phần đầu (1). Sáng
chế cũng đề cập đến quy trình sản xuất bàn
chải đánh răng này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 361/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0018678 Hệ thống sấy khô-bao gói quần áo và phương pháp sấy khô-bao gói
quần áo
Tác giả: Fukai Yasuhiro (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hệ thống sấy khô
và phương pháp sấy khô quần áo để không
cần phải loại bỏ các vết nhăn xuất hiện trên
quần áo sau khi đã được sấy khô-bao gói để
vận chuyển bằng cách là quần áo hoặc
phương pháp tương tự. Phương pháp sấy
khô-bao gói bao gồm các bước sau: sấy khô
quần áo được may nhờ thiết bị sấy khô (1)
bằng không khí nóng có nhiệt độ nằm trong
khoảng từ 86°C đến 94°C trong khoảng thời
gian từ 16 phút đến 24 phút mà không trải
qua quy trình giặt hoặc làm sạch; bịt kín quần
áo sau khi khử khí trong túi bao gói kín khí
tương ứng; và xác định độ ẩm tương đối ở
mức 5% RH trong các túi kín khí sau khi bịt
kín tương ứng ở thời điểm nhiệt độ thông
thường.