Bài giảng Quản trị học -...
Transcript of Bài giảng Quản trị học -...
Bài giảng Quản trị học
1
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ
1.1 KHÁI NIỆM QUẢN TRỊ
1.1.1. Khái niệm
Hoạt động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con ngƣời kết
hợp với nhau thành tập thể. Nếu một cá nhân tự mình sống và hoạt động thì
không có hoạt động quản trị. Các hoạt động quản trị phát sinh khi con ngƣời
kết hợp thành tập thể, nhƣ là sự cần thiết khách quan. Bởi vì, nếu không có
những hoạt động quản trị, thì mọi ngƣời trong một tập thể sẻ không biết làm gì,
làm lúc nào hay sẽ làm một cách lộn xộn không theo một hƣớng chủ định.
Nhƣ vậy, quản trị là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện
khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm thực hiện những
mục tiêu chung.
Từ khái niệm cho thấy, thuật ngữ quản trị dùng ở đây có nghĩa là một
phƣơng thức làm cho hoạt động hƣớng tới mục tiêu đƣợc hoàn thành với một
hiệu quả cao, bằng và thông qua những ngƣời khác. Phƣơng thức này bao gồm
những chức năng mà nhà quản trị có thể sử dụng, đó là hoạch định, tổ chức,
điều khiển và kiểm tra.
1.1.2 Hiệu quả của quản trị
Hiệu quả đƣợc xác định trên cơ sở so sánh giữa kết quả đạt đƣợc với
những chi phí đã bỏ ra. Hiệu quả cao khi kết quả đạt đƣợc nhiều hơn so với chi
phí và ngƣợc lại. Nhƣ vậy, không biết cách quản trị cũng có thể đạt đƣợc kết
quả nhất định nhƣng nếu xét chi phí thì quá cao không chấp nhận đƣợc, lúc đó
ta nói có kết quả nhƣng không có hiệu quả.
Bảng 1.1 So sánh hiệu quả và kết quả trong quản trị
Hiệu quả:
- Gắn liền với phƣơng tiện
- Làm đƣợc việc (doing things right)
- Tỉ lệ thuận với kết quả (KQ) đạt đƣợc
- Tỷ lệ nghịch với phí tổn (PT) bỏ ra
PT
KQHQ ;
I
OP (P: năng suất, O: giá trị đầu ra, I giá
trị đầu vào). => P>1 càng tăng là hiệu quả càng cao
Kết quả:
- Gắn liền với mục
tiêu thực hiện hoặc
mục đích.
- Làm đúng việc
(doing the right
things)
Trong thực tế hoạt động quản trị đƣợc xem là có hiệu quả khi đạt đƣợc
một trong những vấn đề sau:
Bài giảng Quản trị học
2
- Giảm thiểu chi phí các nguồn lực đầu vào mà vẫn giữ nguyên sản
lƣợng đầu ra.
- Giữ nguyên các yếu tố đầu vào mà gia tăng sản lƣợng đầu ra.
- Vừa giảm đƣợc các chi phí đầu vào, vừa tăng sản lƣợng ở đầu ra.
Có rất nhiều cách so sánh giữa hiệu quả và kết quả. Chúng ta có thể
nghiên cứu sự so sánh qua bảng 1.1.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các doanh nghiệp ngày càng tìm mọi cách
nâng cao hiệu quả bằng cách hạn chế chi phí và gia tăng kết quả. Từ phân tích
trên ta có thể thấy rằng: Lý do tồn tại của hoạt động quản trị trong một tổ
chức là vì muốn có hiệu quả và chỉ khi nào quan tam đến hiệu quả thì lúc
đó mới quan tâm đến những hoạt động quản trị.
1.1.3 Chức năng quản trị
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các chức năng quản
trị. Theo Henri Fayol thì quản trị có năm chức năng là hoạch định, tổ chức, chỉ
huy, phối hợp và kiểm tra. Nhƣng vào thập niên 30 Gulick và Urwick lại cho
rằng có bảy chức năng quản trị là Hoạch định, tổ chức, nhân sự, chỉ huy, phối
hợp, kiểm tra và tài chính.
Vào cuối thập niên 80 trở lại đây, các nhà khoa học và quản trị Mỹ lại có
sự bàn luận về số chức năng quản trị. Theo James Stoner và Stephen Robbins
thì quản trị có bốn chức năng là hoạch địch, tổ chức, điều khiển và kiểm tra.
Nhìn chung, mặc dù các quan điểm có sự khác nhau về số lƣợng các
chức năng. Tuy nhiên về nội dung đều nhằm diễn tả các công việc của nhà
quản trị. Vì vậy, trong bài giảng này chúng tôi đề nghị chia chức năng quản trị
thành bốn chức năng là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra. Trong đó
chức năng điều khiển sẽ bao gồm việc tuyển dụng, động viên, lãnh đạo và tạo
một mạng lƣới thông tin hữu hiệu nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
1.1.3.1 Hoạch định: Là chức năng có mục đích xác định tƣơng lai của tổ chức
mà thông qua đó ta nhận ra những cơ hội, rủi ro và trên cơ sở đó chúng ta xác
định các công việc phải làm để có hiệu quả. Nhƣ vậy, hoạch định là việc xác
lập những mục tiêu cần đạt đƣợc trong tƣơng lại và những phƣơng thức để đạt
đƣợc những mục tiêu đó. Nếu một tổ chức không có kế hoạch thận trọng và
không có phƣơng thức đúng đắn thì sẽ rất dễ dẫn đến thất bại trong quản trị.
Hoạch định cũng có nghĩa là đem nhân tài vật lực để khai thác cơ hội thời cơ
và ngăn chặn hữu hiệu những rủi ro, bất trắc của môi trƣờng.
1.1.3.2 Tổ chức: Là chức năng quản trị có mục đích phân công nhiệm vụ, tạo
dựng một cơ cấu, thiết lập thẩm quyền và phân phối ngân sách cần thiết để
thực hiện kế hoạch. Nó sẽ xác định xem ai sẽ hoàn thành nhiệm vụ nào, ở đâu
và khi nào thì xong. Tổ chức đúng đắn sẽ tạo nên môi trƣờng nội bộ thuận lợi
Bài giảng Quản trị học
3
thúc đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém thì sẽ dẫn đến thất bại cho dù
hoạch định tốt.
1.1.3.3 Điều khiển: Là chức năng quản trị nhằm thực hiện mục tiêu của tổ
chức thông qua việc tác động, thúc đẩy và hƣớng dẫn thực hiện của các nhà
quản trị đến nguồn nhân sự. Thể hiện vai trò của ngƣời lãnh đạo thông qua
việc tuyển dụng, đào tạo và bố trí nhân sự. Sau đó là hoạt động thúc đẩy quan
hệ cá nhân và nhóm trong mối quan hệ quản trị nhằm xây dựng một bản sắc
văn hoá cho tổ chức. Cuối cùng là quá trình thông tin và truyền thông tin trong
tổ chức.
1.1.3.4 Kiểm tra: Là chức năng nhằm mục tiêu đo lƣờng những hoạt động, kết
quả hoạt động để xem xét kết quả thực hiện và mục tiêu đề ra. Trên cơ sở đó
tìm những nguyên nhân tích cực và tiêu cực để tìm giải pháp khắc phục và phát
huy nhằm mở ra một chu kỳ quản trị mới có hiệu quả hơn. Đây là chức năng
giúp nhà quản trị biết khi nào phải điều chỉnh hoạt động, khi nào cần phải
hoạch định mới.
1.2. NHÀ QUẢN TRỊ
1.2.1. Một số khái niệm
Tổ chức là một tập hợp đƣợc sắp đặt có hệ thống nhằm thực hiện một
mục tiêu nhất định. Trƣờng đại học là tổ chức, những doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, cơ quan nhà nƣớc, một đội bóng đá,... là những tổ chức. Tất cả
chúng có ba đặc trƣng cơ bản.
- Thứ nhất, Chúng đều có một mục đích riêng biệt thể hiện thông qua
các mục tiêu cụ thể.
- Thứ hai, Mỗi tổ chức bao gồm nhiều ngƣời.
- Thứ ba, Các tổ chức đều phát triển thành một kiểu sắp đặt nhất định.
Kiểu sắp đặt đó định rõ và giới hạn hành vi của các thành viên, chẳng hạn nó
bao gồm việc đặt ra những luật lệ, chỉ định một số ngƣời giữ chức vụ thủ
trƣởng có một số quyền hành nhất định với một số ngƣời khác,..
Nhƣ vậy, một tổ chức là một thực thể có mục đích riêng biệt, có những
thành viên và có một cơ cấu chặt chẽ có tính hệ thống.
Nhà quản trị làm việc trong một tổ chức, nhƣng không phải bất cứ thành
viên nào trong tổ chức cũng là nhà quản trị. Nói chung trong tổ chức có hai
loại ngƣời: những nhà quản trị và những ngƣời thừa hành. Ngƣời thừa hành là
những ngƣời trực tiếp làm một công việc hay một nhiệm vụ và không có trách
nhiệm trông coi công việc của ngƣời khác. Ví dụ nhƣ một ngƣời hầu bàn, một
công nhân đứng máy tiện,... Trái lại, Nhà quản trị là những người có quyền
và có trách nhiệm điều khiển công việc của người khác, họ được bố trí vào
Bài giảng Quản trị học
4
những vị trí có tầm quan trọng khác nhau trong tổ chức. Ví dụ tổ trƣởng tổ
sản xuất, quản đốc phân xƣởng hay vị tổng giám đốc.
1.2.2. Cấp bậc quản trị
Các nhà quản trị trong một tổ chức thƣờng đƣợc chia thành 3 cấp: Nhà
quản trị cấp cao (Quản trị viên cấp cao), nhà quản trị cấp trung gian (Quản trị
viên trung gian) và nhà quản trị cấp cơ sở (Quản trị viên cấp cơ sở).
Lao động trong một tổ chức chia ra 2 loại, lao động trực tiếp và lao động
gián tiếp. Bộ máy điều hành tổ chức là lao động gián tiếp, lao động quản lý.
Tất cả những ngƣời chỉ huy trong bộ máy điều hành trong tổ chức đều
gọi là nhà quản trị (quản trị viên).
1.2.2.1 Quản trị viên hàng đầu (QTV cấp cao): Bao gồm giám đốc, chủ tịch
hội đồng quản trị, các phó giám đốc phụ trách từng phần việc; chịu trách
nhiệm về đƣờng lối, chiến lƣợc, các công tác tổ chức hành chính tổng hợp của
tổ chức. Nhóm quản trị viên này thƣờng đƣợc gọi là cấp điều khiển, với số
lƣợng nhỏ, có trách nhiệm chung về sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Công
việc của họ rất phức tạp và căng thẳng, đòi hỏi thời gian, sự sáng tạo và sự gắn
bó với tổ chức. Có thể nêu lên những nhóm công tác chính sau:
+ Xác định mục tiêu tổ chức từng thời kỳ, phƣơng hƣớng, biện pháp lớn.
+ Tạo dựng bộ máy quản trị của tổ chức: Phê duyệt về cơ cấu tổ chức,
chƣơng trình hoạt động và vấn đề nhân sự nhƣ tuyển dụng, lựa chọn quản trị
viên cấp dƣới, giao trách nhiệm, uỷ quyền, thăng cấp, quyết định mức lƣơng,...
+ Phối hợp hoạt động của các bên có liên quan.
+ Xác định nguồn lực và đầu tƣ kinh phí cho các hoạt động của tổ chức.
+ Quyết định các biện pháp kiểm tra, kiểm soát nhƣ chế độ báo cáo,
kiểm tra, thanh tra, định giá, khắc phục hậu quả.
+ Chịu trách nhiệm hoàn toàn về mỗi quyết định ảnh hƣởng tốt, xấu đến
doanh nghiệp.
1.2.2.2 Quản trị viên trung gian: Là những nhà quản trị ở giữa hệ thống, dƣới
các nhà quản trị cấp cao và chịu trách nhiệm về các nhân viên cấp dƣới. Họ có
thể là quản đốc phân xƣởng, trƣởng phòng, ban chức năng.
Đây là đội ngũ những quản trị viên trung gian có nhiệm vụ chỉ đạo thực
hiện phƣơng hƣớng, đƣờng lối của quản trị viên hàng đầu đã phê duyệt cho
ngành mình, bộ phận chuyên môn của mình.
Nhiệm vụ của quản trị viên trung gian
+ Nghiên cứu, nắm vững những quyết định của quản trị viên hàng đầu về
nhiệm vụ của ngành, bộ phận mình trong từng thời kỳ, mục đích, yêu cầu,
phạm vi quan hệ với các bộ phận, với các ngành khác.
Bài giảng Quản trị học
5
+ Đề nghị những chƣơng trình, kế hoạch hoạt động, đƣa ra mô hình tổ chức
thích hợp, lựa chọn, đề bạt những ngƣời có khả năng vào những công việc phù
hợp, chọn nhân viên kiểm tra, kiểm soát.
+ Giao việc cụ thể cho từng nhân viên, tránh bố trí 1 ngƣời đảm nhận nhiều
công việc không liên quan gì với nhau.
+ Dự trù kinh phí trình cấp trên phê duyệt và chịu trách nhiệm về việc sử
dụng kinh phí ấy.
+ Thƣờng xuyên rà soát kết quả và hiệu quả của từng công việc.
+ Báo cáo kịp thời với quản trị viên hàng đầu về kết quả vƣớng mắc theo
sự uỷ quyền và chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi công việc của đơn vị và
việc làm của nhân viên cấp dƣới.
Điều lưu ý đối với quản trị viên trung gian:
+ Phải nắm vững mục đích, ý định của cấp trên. Báo cáo kịp thời cho cấp
trên biết về các hoạt động của đơn vị mình.
+ Tìm hiểu, xác định mối liên hệ của đơn vị mình với đơn vị khác và tìm
cách phối hợp hoạt động nhiệt tình, chặt chẽ với các đơn vị khác có liên quan.
+ Phải nắm vững lý lịch từng ngƣời trong đơn vị. Hƣớng dẫn công việc cho
mọi ngƣời và đánh giá đúng mức kết quả của từng ngƣời, động viên, khích lệ
họ làm việc.
1.2.2.3 Quản trị viên cấp cơ sở: Là những nhà quản trị ở cấp bậc cuối cùng
trong hệ thống cấp bậc quản trị, họ chiếm số lƣợng lớn. Thông thƣờng họ là
những tổ trƣởng, trƣởng nhóm,... chịu trách nhiệm thi hành những kế hoạch
hành động do quản trị viên cấp giữa soạn thảo, họ kiểm tra, đôn đốc, chịu trách
nhiệm trƣớc kết quả hàng ngày của các nhân viên. Tuy nhiên do vị trí của mình
nhà quản trị cấp cở sở cũng thƣờng trực tiếp tham gia vào những hoạt động sản
xuất kinh doanh cụ thể nhƣ các nhân viên dƣới quyền của họ.
Quản trị viên cơ sở có nhiệm vụ sau:
+ Hiểu rõ công việc mình phụ trách, phấn đầu hoàn thành nhiệm vụ đúng
kế hoạch, lịch trình, tiêu chuẩn quy định về số lƣợng và chất lƣợng.
+ Luôn cải tiến phƣơng pháp làm việc, rèn lyện tinh thần kỷ luật lao động
tự giác để trở thành thành viên đáng tin cậy của đơn vị, giữ gìn nơi làm việc
gọn gàng, ngắn nắp sạch sẽ.
+ Rèn luyện thói quen lao động theo tác phong đại công nghiệp.
+ Báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo kịp thời của thủ trƣởng đơn vị, có tinh thần
đồng đội, quan hệ mật thiết với đồng nghiệp.
Các cấp bậc quản trị trong một tổ chức thƣờng đƣợc thể hiện qua hình 1.1
Bài giảng Quản trị học
6
Hình 1.1: Các cấp bậc quản trị
Sơ đồ 1.1: Sự trùng lặp về chắc năng quản trị giữa 3 cấp quản trị
Sơ đồ trên chỉ ra rằng không thể có ranh giới tuyệt đối giữa 3 cấp. Trong thực tế có thể
một số công việc lẫn lộn giữa các cấp, tức là quản trị viên cấp cao có một vài việc lấn
xuống quản trị viên trung gian. Quản trị viên trung gian lại có một số việc lấn xuống
quản trị viên cơ sở và ngƣợc lại.
Những công việc của quản trị viên cấp cao không thể lấn xuống công việc
của quản trị viên cơ sở đƣợc. Cần quan tâm đến những chổ trùng hợp nhƣ vậy
để tránh sự dẫm chân lên nhau nhƣ có việc nhiều ngƣời cùng làm, ngƣợc lại có
việc lại không có ngƣời phụ trách.
1.2.3. Các kỹ năng của nhà quản trị
Để hoàn thành nhiệm vụ phức tạp khó khăn của mình nhà quản trị cần
phải có một số kỹ năng cần thiết. Robert Katz đã trình bày 3 loại kỹ năng mà
mỗi nhà quản trị phải có và những kỹ năng đó ảnh hƣởng đến hoạt động của
doanh nghiệp mà nhà quản trị phụ trách, đồng thời cũng ảnh hƣởng đến sự
phát triển nghề nghiệp của nhà quản trị, ba kỹ năng đó là kỹ năng kỹ thuật, kỹ
năng nhân sự và kỹ năng tƣ duy.
- Kỹ năng kỹ thuật: Là những khả năng cần thiết để thực hiện một công
việc cụ thể, nói cách khác là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị.
Ví dụ viết chƣơng trình điện toán, soạn thảo hợp đồng,... Nhà quản trị có đƣợc
những chuyên môn đó qua đào tạo ở các trƣờng hay qua bồi dƣỡng ở đơn vị.
- Kỹ năng nhân sự: Là những khả năng làm việc chung, động viên điều
khiển con ngƣời làm việc. Kỹ năng nhân sự là tài năng đặc biệt của nhà quản
trị, việc quan hệ với những ngƣời khác nhằm tạo sự thuận lợi và thúc đẩy sự
hoàn thành công việc chung. Có thể nói bất cứ nhà quản trị nào, dù cấp cao hay
cấp thấp cũng cần có kỹ năng nhân sự vì xét đến cùng quản trị ở cấp nào cũng
phải tiếp xúc và làm việc với con ngƣời. Một vài kỹ năng nhân sự cần thiết cho
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Ngƣời lao động
I
III
II
Bài giảng Quản trị học
7
nhà quản trị là phải biết cách thông đạt hữu hiệu, có thái độ quan tâm tích cực
đến mọi ngƣời và khung cảnh làm việc, xây dựng không khí làm việc tích cực
thân ái, biết cách động viên những nhân viên dƣới quyền,...
- Kỹ năng tư duy: Là kỹ năng đặc biệt quan trọng đối với các nhà quản
trị, nhất là quản trị cấp cao. Kỹ năng này đòi hỏi nhà quản trị phải hiểu rõ mức
độ phức tạp của môi trƣờng, biết phân tích và giải quyết vấn đề một cách hệ
thống và biết cách giảm thiểu mức độ phức tạp đó xuống một mức độ có thể
đối phó đƣợc. Kỹ năng tƣ duy khó tiếp thu nhất và không phải nhà quản trị nào
cũng đạt đƣợc mức độ tƣ duy cần thiết trong công việc. Tuy nhiên kỹ năng sẽ
đƣợc gia tăng trong quá trình làm việc và tiếp xúc với thực tế công việc.
Các nhà quản trị phải có đầy đủ các kỹ năng trên, nhƣng tầm quan trọng
của mỗi kỹ năng phụ thuộc theo cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức. Nói
chung, kỹ năng kỹ thuật giảm dần độ quan trọng khi lên cao dần trong hệ
thống cấp bậc của nhà quản trị. Ở cấp cao, các nhà quản trị cần có nhiều kỹ
năng tƣ duy chiến lƣợc hơn. Ở cấp thấp kỹ năng kỹ thuật là cần thiết vì tính
trực tiếp trong công việc. Kỹ năng nhân sự cần thiết cho mọi nhà quản trị ở tất
cả các cấp, vì ở cấp nào nhà quản trị cũng phải làm việc với con ngƣời. Tầm
quan trọng của các kỹ năng đối với các cấp quản trị đƣợc thể hiện qua hình
sau.
Hình 1.2 Các kỹ năng của nhà quản trị
1.2.4. Vai trò của các nhà quản trị
Các nhà quản trị phải thể hiện vai trò của mình trong quá trình quản trị, thể
hiện ở các mặt sau:
1.2.4.1 Vai trò quan hệ với con người
Trước hết, nhà quản trị phải đóng vai trò đại diện, có tính chất nghi lễ, ví
dụ giám đốc lễ tân tiếp đón khách quan trọng đến khách sạn mình. Nhà quản
trị này đang đóng vai trò đại diện cho tổ chức của họ. Xét trong mối tƣơng
quan giữa con ngƣời ở trong và ngoài tổ chức, vai trò này của nhà quản trị cho
thấy hình ảnh của tổ chức mà họ quản trị và ở một mức độ nhất định, cũng cho
thấy những nét cơ bản về tổ chức đó.
Kỹ năng tƣ duy
Kỹ năng nhân sự
Kỹ năng kỹ thuật
Nhà Quản trị
cấp thấp
Nhà Quản trị
cấp giữa
Nhà Quản trị
cấp cao
Bài giảng Quản trị học
8
Thứ hai, vai trò của ngƣời lãnh đạo, đòi hỏi nhà quản trị phải phối hợp và
kiểm tra công việc của nhân viên dƣới quyền. Vai trò này có thể đƣợc nhà
quản trị thực hiện trực tiếp hay gián tiếp. Việc tuyển dụng, đào tạo, và động
viên có thể là những việc mà nhà quản trị phải trực tiếp làm. Trái lại, khi ấn
định tiêu chuẩn chất lƣợng của công việc, phân chia chịu trách nhiệm, làm
quyết định, hay ấn định thời gian để cấp dƣới hoàn thành công việc, nhà quản
trị đã thực hiện vai trò lãnh đạo một cách gián tiếp đối với nhân viên.
Thứ ba, vai trò liên lạc là khi nhà quản trị quan hệ với nhiều ngƣời khác, ở
trong hay ngoài tổ chức nhằm hoàn thành công việc đƣợc giao. Thí dụ, quản
đốc phân xƣởng điện thoại cho phòng vật tƣ yêu cầu chuẩn bị nguyên liệu kịp
thời cho công việc tuần sau. Nhà quản trị này đang làm vai trò liên lạc. Xét cho
cùng, vai trò liên lạc cho phép nhà quản trị phát triển hệ thống thu thập thông
tin bên ngoài hữu ích cho sự hoàn thành nhiệm vụ.
1.2.4.2 Vai trò thông tin
Thu thập, phổ biến thông tin và thay mặt cho tổ chức để phát biểu là những
vai trò thông tin của nhà quản trị. Vai trò này xuất phát từ vai trò quan hệ với
con ngƣời đã trình bày ở trên. Do mối quan hệ giữa nhà quản trị với thuộc cấp
cũng nhƣ với cá nhân bên ngoài tổ chức nhà quản trị trở thành trung tâm đầu
não thông tin của tổ chức mà họ phụ trách. Với chức năng đó, nhà quản trị thu
thập, tiếp nhận và chuyển giao những thông tin liên quan đến sự hoạt động của
các thành viên trong đơn vị.
Vai trò thu thập thông tin bằng cách thƣờng xuyên xem xét, phân tích bối
cảnh chung quanh đơn vị để nhận ra những tin tức, những hoạt động và những
sự kiện có thể đem lại cơ hội tốt hay sự đe doạ đối với hoạt động của đơn vị.
Công việc này đƣợc thực hiện qua việc đọc các báo chí, văn bản và qua trao
đổi, tiếp xúc với mọi ngƣời.
Vai trò thông tin thứ hai của nhà quản trị là phổ biến những thông tin liên
hệ đến ngƣời có liên quan, có thể là thuộc cấp, ngƣời đồng cấp, hay thƣợng
cấp.
Vai trò thông tin sau cùng mà nhà quản trị phải đảm nhiệm là thay mặt đơn
vị để cung cấp thông tin trong cùng một đơn vị, hay cho các cơ quan bên
ngoài. Mục tiêu của sự thay mặt phát biểu này có thể là để giải thích, bảo vệ
hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho đơn vị.
1.2.4.3 Vai trò quyết định
Vai trò cuối cùng của nhà quản trị bao gồm có 4 vai trò: vai trò doanh
nhân, vai trò ngƣời giải quyết xáo trộn, vai trò ngƣời phân phối tài nguyên và
vai trò nhà thƣơng thuyết.
Bài giảng Quản trị học
9
- Vai trò doanh nhân: Xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt
động của đơn vị. Việc này có thể đƣợc thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ
thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật
đang áp dụng.
- Vai trò người giải quyết xáo trộn: Nhà quản trị kịp thời đối phó với
những biến cố bất ngờ nhằm đƣa đơn vị sớm trở lại sự ổn định.
- Vai trò của nhà phân phối tài nguyên: Nhà quản trị phải quyết định nên
phân phối tài nguyên cho ai và với số lƣợng nhƣ thế nào. Tài nguyên đó có thể
là tiền bạc, thời gian, quyền hành, trang bị, hay con ngƣời. Thông thƣờng, khi
tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị đều có thể thực hiện vai trò này một cách
dễ dàng. Nhƣng khi tài nguyên khan hiếm, quyết định của nhà quản trị trong
vấn đề này có thể ảnh hƣởng lớn đến kết quả hoạt động của một đơn vị hay
thậm chí, của toàn thể đơn vị.
- Vai trò của một nhà thương thuyết: Nhà quản trị khác chỉ có thể thƣơng
thuyết khi trong tay ngƣời đó có tài nguyên của đơn vị để có thể đem ra trao
đổi, chuyển nhƣợng. Vì vậy, nhà quản trị càng lên cao trong hệ thống cấp bậc
của các nhà quản trị, họ đóng vai trò thƣơng thuyết càng nhiều.
Tuy nhiên, sự phối hợp cũng nhƣ tầm quan trọng của các vai trò này thay
đổi tuỳ theo quyền hành và cấp bậc của nhà quản trị trong đơn vị. Nhƣng dù có
vai trò đƣợc nhấn mạnh hơn vai trò khác do tính chất của công việc, nhà quản
trị nào cũng nhiều ít đảm nhiệm các vai trò trên đây.
1.3. KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT QUẢN TRỊ
1.3.1 Quản trị là khoa học
Khoa học là một lĩnh vực tri thức gồm những kinh nghiệm đã đƣợc tổng
kết và khái quát hoá, nó có thể áp dụng tổng quát trong mọi trƣờng hợp. Khoa
học quản trị có mọi đặc tính cơ bản nhƣ các ngành khoa học, do đó có thể học
và áp dụng trong thực tế. Khoa học quản trị là một bộ phận tri thức đã đƣợc
tích luỹ qua nhiều năm, bản thân nó là một khoa học tổng hợp thừa hƣởng kết
quả từ các ngành khoa học khác nhƣ toán học, kinh tế học, điều khiển học,…
Khoa học quản trị nhằm:
- Cung cấp cho nhà quản trị một cách suy nghĩ có hệ thống trƣớc các
vấn đề phát sinh, những phƣơng pháp khoa học giải quyết các vấn đề trong
thực tiễn làm việc,…
- Cung cấp cho nhà quản trị các quan niệm và ý niệm nhằm phân tích,
đánh giá và nhận diện bản chất các vấn đề. Từ đó hiểu biết và vận dụng chính
xác các quyết định để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế.
- Cung cấp cho các nhà quản trị những “Kỹ thuật” đối phó với các vấn
đề trong công việc, hình thành các lý thuyết, các kinh nghiệm lƣu truyền và
Bài giảng Quản trị học
10
giảng dạy cho các thế hệ sau,… Đồng thời cũng hình thành các phƣơng pháp
khoa học tạo nền tảng cho việc ứng dụng và cải tiến khoa học quản trị.
1.3.2 Quản trị là một nghệ thuật
Quản trị không thể học thuộc lòng hay áp dụng theo công thức. Nó là
một nghệ thuật và là một nghệ thuật sáng tạo. Nghệ thuật quản trị có đƣợc qua
kinh nghiệm, nghiên cứu và quan sát,… Nhà quản trị thực hiện nghệ thuật ấy
trong các công việc hàng ngày. Tất cả các nhà quản trị đều có thể bị nhầm lẫn
nhƣng nhà quản trị giỏi sẽ học hỏi đƣợc ngay từ những sai lầm của mình để
trau dồi những kỹ năng, kỹ xảo trong quản trị đây có thể gọi là nghệ thuật quản
trị của họ thông qua việc linh hoạt vận dụng các lý thuyết quản trị trong tình
huống cụ thể. Nhà quản trị giỏi thƣờng tham gia tích cực vào hoạt động của tổ
chức, nghiên cứu những hoàn cảnh đặc thù, xây dựng lý thuyết riêng để giải
thích những biến cố và áp dụng những lý thuyết này trong quyết định. Thông
qua kinh nghiệm, thực hành, suy luận và trực giác nhà quản trị sẽ trở nên nhạy
cảm và thích nghi nhanh chóng với mọi hoàn cảnh, đó là nghệ thuật quản trị.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao công việc quản trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của một tổ
chức.
2. Quá trình quản trị gồm có những hoạt động tổng quát (chức năng) nào?
Trình bày các hoạt động đó một cách ngắn gọn?
3. Công việc quản trị ở một cơ sở kinh doanh có giống công việc quản trị ở
một đơn vị sàn xuất không ?
4. Tất cả những nhà quản trị đều thực thi những chức năng chung nào ? Nêu
mối quan hệ giữa các chức năng quản trị .
5. Công việc của một nhà quản trị thay đổi nhƣ thế nào theo cấp bậc của ngƣời
đó trong tổ chức ?
6. Hãy giải thích vì sao khả năng nhân sự là cần thiết cho các nhà quản trị ở
các cấp khác nhau trong một tổ chức?
7. Phân tích tính nghệ thuật và tính khoa học quản trị. Từ sự phân tích này rút
ra những điều gì cho Nhà quán trị ?
Bài giảng Quản trị học
11
Chƣơng 2
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TƢ TƢỞNG QUẢN TRỊ
2.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
2.1.1 Vai trò của nghiên cứu lịch sử phát triển các tƣ tƣởng quản trị
Ta có thể thấy rằng một lý thuyết là một tập hợp những mối tƣơng quan
giữa những tƣ tƣởng vừa giải thích vừa tiên đoán nhữg hiện tƣợng xã hội. Lý
thuyết quản trị cũng vậy, quản trị đƣợc thực hành trong thế giới thực tại nên lý
thuyết quản trị cũng phải dựa trên thực tế và quản trị đã đƣợc nghiên cứu có hệ
thống qua các thời đại, nhất là từ thế kỷ 19 đã để lại một di sản về quản trị đồ
sộ và phong phú mà các nhà quản trị ngày nay đang thừa hƣởng. Chính vì vậy
mà việc nghiên cứu lịch sử phát triến của tƣ tƣởng quản trị là cần thiết cho các
nhà quản trị trong lý luận và thực hành, cho cả hiện tại và tƣơng lai.
2.1.2 Lịch sử phát triển tƣ tƣởng quản trị
Có thể nói rằng hoạt động quản trị cùng ra đời và phát triển với văn
minh nhân loại. Từ ba nghìn năm trƣớc công nguyên, ngƣời Ai Cập với những
kim tự tháp là dấu tích của trình độ kế hoạch, tổ chức và kiểm soát một công
trình phức tạp; ngƣời Trung Hoa với những chế độ chính quyền chặt chẽ thể
hiện một trình độ tổ chức cao; ở Châu Âu, những kỹ thuật và phƣơng pháp
quản trị bắt đầu đƣợc áp dụng trong kinh doanh từ thế kỷ 16, khi hoạt động
thƣơng mại đã phát triển mạnh.
Đến thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp với sự áp dụng của máy
móc cơ khí đã chuyển sản xuất từ phạm vi gia đình sang nhà máy. Với hình
thức tổ chức sản xuất mới, quy mô và độ phức tạp gia tăng đòi hỏi việc nghiên
cứu quản trị lúc này trở nên cấp bách. Nhƣng sự chú ý về quản trị cũng chỉ tập
trung ở khía cạnh kỹ thuật của sản xuất hơn là vào nội dung của quản trị.
Đến thế kỷ 19, sự quan tâm đến những hoạt động quản trị mới thực sự
sôi nổi, từ những nhà khoa học đến những ngƣời trực tiếp quản trị những cơ sở
sản xuất kinh doanh. Sự quan tâm vẫn tập trung nhiều vào khía cạnh của sản
xuất, nhƣng đồng thời cũng chú ý đến khía cạnh lao động trong quản trị.
Đến cuối thế kỷ 19 những nỗ lực nghiên cứu nhằm đƣa ra những lý
thuyết quản trị đã đƣợc tiến hành rộng khắp thế giới. Chính Federick W Taylor
đầu thế kỷ 20 với tƣ tƣởng quản trị có khoa học của mình đã là ngƣời đặt nền
móng cho quản trị hiện đại và từ đó đến nay các lý thuyết quản trị đã phát triển
nhanh chóng, góp phần tích cực cho sự phát triển của xã hội loại ngƣời trong
những năm gần đây. Sự phát triển của các lý thuyết quản trị gắn liền với sự ra
đời và phát triển của các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời
Bài giảng Quản trị học
12
chính lý thuyết quản trị lại có những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã
hội.
2.2. CÁC TRƢỜNG PHÁI QUẢN TRỊ
2.2.1 Trƣờng phái quản trị cổ điển
Trƣờng phái này bao gồm các tƣ tƣởng quản trị khoa học và tƣ tƣởng
quản trị tổng quát. Những tƣ tƣởng này dựa trên niềm tin là con ngƣời rất duy
lý, luôn chọn một đƣờng lối hành động một cách hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế
nhất.
2.2.1.1 Trường phái quản trị khoa học
Quản trị khoa học là tiến hành hoạt động quản trị theo những nguyên tắc
khoa học dựa trên những dữ kiện có đƣợc do quan sát, thí nghiệm, suy luận có
hệ thống. Trƣờng phái này quan tâm đến năng suất lao động thông qua việc
quản lý và hợp lý hóa công việc.
Các nhà tiên phong cho trường phái này
Charies Babbage (1792 - 1871): Ông là một nhà toán học Anh tìm cách
tăng năng suất lao động. Cùng với Adam Smith chủ trƣơng chuyên môn hóa
lao động, dùng toán học để tính toán cách sử dụng nguyên vật liệu tối ƣu nhất.
Ông chủ trƣơng các nhà quản trị phải nghiên cứu thời gian cần thiết để hoàn
thành một công việc, từ đó ấn định tiêu chuẩn công việc, đƣa ra việc thƣởng
cho những công nhân vƣợt tiêu chuẩn. Ông cũng là ngƣời đầu tiên đề nghị
phƣơng pháp chia lợi nhuận để duy trì quan hệ giữa công nhân và ngƣời quản
lý.
Federic W Taylor (1856 - 1915): Đƣợc coi là cha đẻ của phƣơng pháp
quản trị khoa học. Trong thời gian làm nhiệm vụ của nhà quản trị ở các xí
nghiệp nhất là trong các xí nghiệp luyện kim, ông đã tìm ra và chỉ trích mạnh
mẽ các nhƣợc điểm trong cách quản lý cũ. Theo ông, các nhƣợc điểm chính là:
- Việc thuê mƣớn công nhân không lƣu ý đến khả năng và nghề nghiệp.
- Công tác huấn luyện nhân viên hầu nhƣ không có, không có hệ thống
tổ chức học việc.
- Không có tiêu chuẩn cho công việc.
- Trách nhiệm và công việc đều giao cho công nhân.
- Nhà quản trị quên mất chức năng chính là lập kế hoạch và tổ chức
công việc.
- Tính chuyên nghiệp của nhà quản trị không đƣợc thừa nhận.
Các tƣ tƣởng chính của ông đƣợc tập trung trong tác phẩm nổi tiếng nhƣ
"Những nguyên tắc trong quản trị khoa học" đƣợc xuất bản tại Hoa kỳ, trong
đó ông chủ trƣơng "Mục tiêu chính của quản trị là bảo đảm sự thịnh vƣợng cho
chủ và sự sung túc cho công nhân". Trong tác phẩm của mình, ông nêu 4
Bài giảng Quản trị học
13
nguyên tắc quản trị khoa học, đƣợc coi là nền tảng cho phƣơng pháp quản lý
Taylor, các nguyên tắc này trở thành nguyên tắc vàng trong quản trị đầu thế kỷ
20. Các nguyên tắc này thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Các nguyên tắc Taylor
NGUYÊN TẮC TAYLOR CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TƢƠNG
ỨNG
1. Xây dựng cơ sở khoa học cho các
công việc với những định mức và các
phƣơng pháp phải tuân theo
Nghiên cứu thời gian và các thao tác
hợp lý nhất để thực hiện một công
việc.
2. Chọn công nhân một cách khoa học
và sự phù hợp với công việc, huấn
luyện một cách tốt nhất để hoàn thành
công việc.
Dùng cách mô tả công việc để chọn
lựa công nhân, thiết lập hệ thống tiêu
chuẩn và hệ thống huấn luyện chính
thức.
3. Khen thƣởng để bảo đảm tinh thần
hợp tác, trang bị nơi làm việc một
cách đầy đủ và hiệu quả.
Trả lƣơng theo năng suất, khuyến
khích thƣởng theo sản lƣợng, bảo đảm
an toàn lao động bằng các dụng cụ
thích hợp.
4. Phân nhiệm giữa quản trị và sản
xuất, tạo ra tính chuyên nghiệp của
nhà quản trị.
Thăng tiến trong công việc, chú trọng
việc lập kế hoạch và tổ chức hoạt
động.
Frank & Lilian Gillbreth: Frank (1868 -1924) và Lillian (1878 - 1972)
là những ngƣời tiên phong trong việc nghiên cứu thời gian - động tác và phát
triển lý thuyết quản trị. Hai ông bà phát triển một hệ thống thao tác để hoàn
thành công việc, đƣa ra một hệ thống xếp loại bao gồm các động tác nhƣ: cách
nắm đồ vật, cách di chuyển,...
Henry Grantt: Ông là một kỹ sƣ chuyên về hệ thống kiểm soát trong các
nhà máy. Ông phát triển sơ đồ Grantt mô tả dòng công việc cần để hoàn thành
một nhiệm vụ, vạch ra những giai đoạn của công việc theo kế hoạch, ghi cả
thời gian hoạch định và thời gian thực hiện.
Một số đánh giá về trường phái quản trị khoa học
Đây là trƣờng có nhiều đóng góp có giá trị cho việc phát triển của tƣ
tƣởng quản trị. Họ phát triển kỹ năng quản trị qua phân công và chuyên môn
hóa quá trình lao động, hình thành đƣờng lối sản xuất dây chuyền. Họ là những
ngƣời đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn luyện nhân
viên, dùng đãi ngộ để tăng năng suất. Họ cũng là những ngƣời nhấn mạnh việc
Bài giảng Quản trị học
14
giảm giá thành để tăng hiệu quả, dùng những phƣơng pháp có hệ thống và hợp
lý để giải quyết các vấn đề quản trị.
Tuy nhiên, trƣờng phái này cũng có những giới hạn nhất định. Trƣớc hết
trƣờng phái này chỉ áp dụng tốt nhất trong trƣờng hợp môi trƣờng ổn định, khó
áp dụng trong môi trƣờng phức tạp nhiều thay đổi. Họ quá đề cao bản chất
kinh tế và duy lý của con ngƣời mà đánh giá thấp nhu cầu xã hội và tự thể hiện
của con ngƣời do vậy vấn đề nhân bản ít đƣợc quan tâm. Họ cố áp dụng những
nguyên tắc quản trị phổ quát cho mọi hoàn cảnh mà không thấy tính đặc thù
của môi trƣờng và họ quá chú tâm tới khía cạnh kỹ thuật của quản trị.
2.2.1.2 Trường phải quản trị hành chính
Trong khi trƣờng phái quản trị khoa học chú trọng đến hợp lý hóa công
việc và những nhiệm vụ mà các công nhân phải làm thì trƣờng phái quản trị
tổng quát lại phát triển những nguyên tắc quản trị chung cho cả một tổ chức,
chính vì thế trƣờng phái này còn đƣợc gọi là tƣ tƣởng quản trị tổ chức cổ điển.
Các nhà tiên phong của trường phải này:
Henry Fayol (1814 - 1925) là một nhà quản trị hành chính ngƣời Pháp,
là ngƣời đầu tiên đề xuất quan điểm chức năng trong quản trị. Ông chia công
việc quản trị thành nhiều chức năng tƣơng ứng với các giai đoạn hoạt động.
Theo ông, công việc quản trị nằm trong 6 lĩnh vực:
+ Kỹ thuật chế tạo sản phẩm
+ Thƣơng mại mua bán
+ Tài chính - kiểm soát tƣ bản
+ An ninh - bảo vệ công nhân và tài sản
+ Kế toán - thống kê
+ Hành chính
Ông đƣa ra 14 nguyên tắc quản trị tổng quát và khuyến cáo rằng các
nguyên tắc này không đƣợc áp dụng cứng nhắc cho các vấn đề mà phải uyển
chuyển, tùy từng trƣờng hợp và phụ thuộc vào sự đa dạng của các yếu tố bao
gồm:
1. Sự phân chia công việc: Sự phân chia công việc, bảo đảm sự chuyên
môn hóa là rất cần thiết. Nó bảo đảm công việc đƣợc hoàn thành nhanh chóng
và có chất lƣợng cao.
2. Thẩm quyền và trách nhiệm: Thẩm quyền và trách nhiệm có quan hệ
mật thiết với nhau, gắn liền với nhau. Giao trách nhiệm mà không giao quyền
thì công việc không hoàn thành đƣợc. Có quyền quyết định mà không có trách
nhiệm về các quyết định đã đƣa ra thì sẽ dẫn tới thói vô trách nhiệm và những
hậu quả xấu.
Bài giảng Quản trị học
15
3. Kỷ luật: Bao hàm sự tuân thủ và tôn trọng những thỏa thuận nhằm đạt
đến sự tuân lệnh. Ông cho rằng kỷ luật đòi hỏi có những nhà quản trị tốt ở mọi
cấp, chất lƣợng và hiệu quả cao trong kinh doanh. Kỷ luật cũng bao hàm quyền
trừng phạt công bằng.
4. Thống nhất chỉ huy: Nhân viên chỉ nhận đƣợc lệnh từ một thƣợng cấp
mà thôi.
5. Thống nhất điều khiển: Mỗi nhóm hoạt động có một mục tiêu cho
nhóm nhƣng tất cả phải có chung một kế hoạch hoạt động thống nhất để cùng
các nhóm khác hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức.
6. Lợi ích cá nhân phụ thuộc lợi ích chung: Quyền lợi của cá nhân phải
phù hợp với quyền lợi của tổ chức, điều đó bảo đảm sự hài hòa và tính khả thi
trong hoạt động của con ngƣời và tổ chức.
7. Thù lao xứng đáng: Cách trả công phải công bằng, hợp lý và mang lại
sự thỏa mãn tối đa có thể cho chủ nhân và ngƣời thợ.
8. Tập trung và phân tán: Là mức độ quan hệ và thẩm quyền giữa tập
trung và phân tán. Chuẩn mực của mối quan hệ này phải dẫn đến "năng suất
toàn bộ cao nhất".
9. Hệ thống quyền hành: Là thứ bậc từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất.
Phải bảo đảm từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Phải bảo đảm nguyên tắc,
không đƣợc đi lệch đƣờng dây. Sự vận dụng phải linh hoạt không cứng nhắc.
10. Trật tự: Ngƣời nào, vật nào cũng có chỗ riêng của nó cần phải đặt
đúng ngƣời đúng chỗ. Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc sắp xếp và sử
dụng con ngƣời và dụng cụ máy móc.
11. Công bằng: Sự công bằng trong cách đối xử với cấp dƣới và nhân
viên cũng nhƣ lòng tử tế đối với họ là sự cần thiết tạo nên lòng trung thành và
sự tận tụy của nhân với đối với tổ chức.
12. Ổn định nhiệm vụ: Sự ổn định nhiệm vụ là nguyên tắc cần thiết trong
quan trị. Nó bảo đảm cho sự hoạt động với mục tiêu rõ ràng và có điều kiện
chuẩn bị chu đáo. Sự thay đổi thƣờng kéo theo sự bất ổn và lãng phí.
13. Sáng kiến: Sáng kiến đƣợc quan niệm là sự suy nghĩ ra và thực hiện
công việc một cách sáng tạo. Ông khuyên các nhà quản trị nên "hy sinh lòng tự
kiêu cá nhân" để cho phép cấp dƣới thực hiến sự sáng tạo của họ, điều này rất
có lợi cho công việc.
14. Tinh thần đoàn kết: Đoàn kết là sức mạnh, đem lại những hiệu quả to
lớn.
Max Weber (1864 - 1920): Là một nhà xã hội học ngƣời Đức, có nhiều
đóng góp vào lý thuyết quản trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu
bàn giấy là phƣơng thức hợp lý tổ chức một công ty phức tạp. Khái niệm quan
Bài giảng Quản trị học
16
liêu bàn giấy đƣợc định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ đƣợc xác định
rõ ràng, phân công phân nhiệm vụ chính xác, các mục tiêu phân biệt, hệ thống
quyền hành có tôn ti trật tự. Cơ sở tƣ tƣởng của ông là ý niệm thẩm quyền hợp
pháp và hợp lý. Ngay nay thuật ngữ "quan liêu" gợi lên một hình ảnh một tổ
chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ tục hành chính phiền hà và nó
hoàn toàn xa lạ với các tƣ tƣởng ban đầu của Weber. Thực chất những đặc tính
của chủ nghĩa quan liêu là:
1. Phân công lao động với thẩm quyền và trách nhiệm đƣợc quy định rõ
và đƣợc hợp pháp hóa nhƣ nhiệm vụ chính thức.
2. Các chức vụ đƣợc thiết lập theo hệ thống chỉ huy, mỗi chức vụ nằm
dƣới một chức vụ khác cao hơn.
3. Nhân sự đƣợc tuyển dụng và thăng cấp theo khả năng qua thi cử,
huấn luyện và kinh nghiệm.
4. Các hành vi hành chính và các quyết định phải thành văn bản.
5. Quản trị phải tách rời sở hữu.
6. Các nhà quản trị phải tuân thủ điều lệ và thủ tục. Luật lệ phải công
bằng và đƣợc áp dụng thống nhất cho mọi ngƣời.
Chester Barnard (1986 - 1961): Ông cho rằng một tổ chức là một hệ
thống hợp pháp của nhiều ngƣời với 3 yếu tố cơ bản:
1. Sự sẳn sàng hợp tác.
2. Có mục tiêu chung.
3. Có sự thông đạt.
Nếu thiếu một trong ba yếu tố này tổ chức sẽ tan vỡ, cũng nhƣ Weber
ông nhấn mạnh đến yếu tố quyền hành trong tổ chức nhƣng lại cho rằng nguồn
gốc của quyền hành không xuất phát từ ra lệnh mà xuất phát từ sự chấp nhận
của cấp dƣới. Sự chấp nhận đó chỉ có thể có với bốn điều kiện:
1. Cấp dƣới hiểu rõ mệnh lệnh
2. Nội dung ra lệnh phù hợp với mục tiêu tổ chức.
3. Nội dung ra lệnh phù hợp với lợi ích cá nhân của họ
4. Họ có khả năng thực hiện mệnh lệnh đó.
Lý thuyết này đƣợc ông gọi là lý thuyết về sự chấp nhận quyền hành và
ông cho rằng mục tiêu của hoạt động quản trị phải đem lại hiệu quả. Tuy
nhiên, hiệu quả đƣợc hiểu là sự thỏa mãn tâm lý và tinh thần của mọi ngƣời
trong tổ chức.
Nhận xét về trường phái quản trị hành chính
Trƣờng phái này chủ trƣơng rằng năng suất lao động sẽ cao trong một tổ
chức đƣợc sắp đặt hợp lý. Nó đóng góp rất nhiều trong lý luận cũng nhƣ thực
Bài giảng Quản trị học
17
hành quản trị, nhiều nguyên tắc quản trị của tƣ tƣởng này vẫn còn áp dụng
ngày nay. Các hình thức tổ chức, các nguyên tắc tổ chức, quyền lực và sự ủy
quyền,... đang ứng dụng phổ biến ngày nay chính là sự đóng góp quan trọng
của trƣờng phái quản trị hành chính.
Giới hạn của trƣờng phái này là các tƣ tƣởng đƣợc thiết lập trong một tổ
chức ổn định, ít thay đổi quan điểm quản trị cứng rắn, ít chú ý đến con ngƣời
và xã hội nên dễ dẫn tới việc xa rời thực tế. Vấn đề quan trọng là phải biết cách
vận dụng các nguyên tắc quản trị cho phù hợp với các yêu cầu thực tế, chứ
không phải là từ bỏ nguyên tắc đó.
2.2.2. Trƣờng phái tâm lý xã hội trong quản trị
Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản trị là những quan niệm quản trị nhấn
mạnh đến vai trò của yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con ngƣời
trong công việc. Lý thuyết này cho rằng hiệu quả của quản trị do năng suất lao
động quyết định, nhƣng năng suất lao động không chỉ do các yếu tố vật chất
quyết định mà còn do sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý xã hội của con ngƣời.
Trong những thập niên đầu thế kỷ 20, giới quản trị ở phƣơng tây giành
hết sự đam mê và tín nhiệm cho lý thuyết quản trị cổ điển. Vì vậy, ngay từ
những năm 20 của thế kỷ này đã có những tác giả nêu lên khía cạnh tâm lý
trong quản trị nhƣng bị lãng quên. Chỉ sau này, tƣ tƣởng đó mới phát triển
mạnh.
Các nhà tiên phong của trường phái này:
Robert Owen (1771 -1858): Là kỹ nghệ gia ngƣời Anh, là ngƣời đầu
tiên nói đến nhân lực trong tổ chức. Ông chỉ trích các nhà công nghiệp bỏ tiền
ra phát triển máy móc nhƣng lại không cải tiến số phận của những "máy móc
ngƣời".
Hugo Munsterberg (1863 -1916): Nghiên cứu tâm lý ứng dụng trong
môi trƣờng tổ chức, ông đƣợc coi là cha đẻ của ngành tâm lý học công nghiệp.
Trong tác phẩm nhan đề "Tâm lý học và hiệu quả trong công nghiệp" xuất bản
năm 1913 ông nhấn mạnh là phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của
con ngƣời để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt.
Ông cho rằng năng suất lao động sẽ cao hơn nếu công việc giao phó cho họ
đƣợc nghiên cứu phân tích chu đáo và hợp lý với những kỹ năng cũng nhƣ tâm
lý của họ. Ông đề nghị những nhà quản trị dùng các bài trắc nghiệm tâm lý để
tuyển chọn nhân viên và tìm hiểu tác phong con ngƣời trƣớc khi đi tìm những
kỹ thuật thích hợp để động viên họ làm việc. Những ý kiến đó lúc sinh thời của
ông đã không đƣợc chú ý thì ngày nay lại đƣợc ứng dụng rộng rãi.
Abraham Maslow (1908 - 1970): Là nhà tâm lý học đã xây dựng một lý
thuyết về nhu cầu của con ngƣời. Sự quản trị hữu hiệu phải căn cứ vào nhu cầu
thực sự đang cần đƣợc thỏa mãn của con ngƣời. Lý thuyết của ông đƣợc gọi là
Bài giảng Quản trị học
18
"Bậc thang nhu cầu", đƣợc ứng dụng rất rộng rãi trong quản trị từ giữa thế kỷ
20 đến nay.
Doulas MC Gregor (1960 - 1964): Chịu ảnh hƣởng của Mayo và
Maslow, ông phát triển lý thuyết tác phong trong quản trị. Ông cho rằng các
nhà quản trị trƣớc đây đã tiến hành các cách thức quản trị trên những giả thiết
sai lầm về tác phong của con ngƣời. Những giả thiết đó cho rằng phần đông
mọi ngƣời đều không thích làm việc, thích đƣợc chỉ huy hơn là tự chịu trách
nhiệm và hầu hết mọi ngƣời làm việc vì lợi ích vật chất và nhƣ vậy các nhà
quản trị đã xây dựng những bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung đặt ra
nhiều quy tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra giám sát chặt chẽ.
Ông gọi những giả thiết đó là X và đề nghị một loại giả thiết khác là Y .
Thuyết Y cho rằng con ngƣời sẽ thích thú với công việc nếu có đƣợc những
thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều điều hơn cho tổ chức. Thay vì nhấn
mạnh đến cơ chế kiểm tra thì nhà quản trị nên quan tâm nhiều hơn đến sự phối
hợp hoạt động.
Chris Argyris (1923): Nghiên cứu tƣ cách con ngƣời và các yếu tố đời
sống tổ chức và cho rằng một sự nhấn mạnh thái quá của nhà quản trị đối với
việc kiểm soát nhân viên sẽ dẫn tới nhân viên có thái độ thụ động, lệ thuộc và
né tránh trách nhiệm. Trong trạng thái tâm lý đó họ sẽ cảm thấy bất bình và có
những thái độ tiêu cực đối với việc hoàn thành mục tiêu chung. Argyris cho
rằng bản chất con ngƣời luôn muốn là ngƣời trƣởng thành, tức là muốn sự độc
lập, sự phong phú trong hành động, sự đa dạng trong mối quan tâm và khả
năng tự chủ. Nhà quản trị hữu hiệu là ngƣời biết tạo điều kiện cho nhân viên
ứng xử nhƣ những ngƣời trƣởng thành và điều đó sẽ có lợi cho tổ chức.
b) Nhận xét về trường phái tác phong trong quản trị
Tƣ tƣởng của trƣờng phái tác phong nhấn mạnh nhu cầu xã hội đƣợc
quý trọng và tự thể hiện mình của ngƣời công nhân. Lý thuyết này bổ sung cho
lý thuyết cổ điển khi cho rằng năng suất không chỉ thuần túy là vấn đề kỷ
thuật. Nó cũng giúp cải tiến cách thức và tác phong quản trị trong tổ chức, xác
nhận mối liên hệ giữa năng suất và tác phong hoạt động. Điều đó thật sự đƣợc
nhận thấy và gây nên một phong trào rầm rộ đƣợc gọi là "phong trào quản trị
con ngƣời" trong thập niên 50 không kém gì "phong trào quản trị khoa học"
của Taylor trƣớc đây. Lý thuyết này có sự đóng góp to lớn trong lý luận và
thực hành quản trị. Nhờ có những đóng góp này mà ngày nay các nhà quản trị
hiểu rõ hơn về sự động viên của con ngƣời, về ảnh hƣởng của tập thể đối với
tác phong cũng nhƣ các vấn đề tâm lý quản trị.
Mặc dù có nhiều ý kiến phê phán lý thuyết tác phong là đã quá chú ý
đến yếu tố xã hội của con ngƣời khiến trở thành thiên lệch. Khái niệm "con
người xã hội" chỉ có thể bổ sung cho khái niệm "con người kinh tế" chứ không
Bài giảng Quản trị học
19
thể thay thế. Không phải lúc nào những "con người thỏa mãn" đều là những
lao động có năng suất cao. Hơn nữa lý thuyết này coi con ngƣời là phần tử
trong hệ thống khép kín, điều đó không thể có trên thực tế. Mặc dù vậy, không
thể phủ nhận đóng góp của trƣờng phái này đối với lý thuyết quản trị. Trong
các yếu tố của quản trị thì con ngƣời là yếu tố khó sử dụng nhất và cũng
thƣờng gây lãng phí nhất. Lý thuyết này quan tâm đến con ngƣời cũng là
hƣớng về quan điểm: quản trị là hoàn thành công việc bằng và thông qua con
ngƣời.
2.2.3 Trƣờng phái định lƣợng trong quản trị
Trƣờng phái quản trị định lƣợng với cơ sở là lý thuyết quyết định, áp
dụng thống kê vào quá trình làm quyết định và sự phát triển của mô hình toán
kinh tế với sự trợ giúp của máy tính điện tử. Trƣờng phái này dựa trên quan
điểm là tất cả vấn đề đều có thể giải quyết đƣợc bằng các mô hình toán và nó
có các đặc tính sau:
1. Chủ yếu tập trung vào làm quyết định vì cho rằng quá trình phân tích
làm quyết định đã bao hàm những hành vi quản trị.
2. Dựa trên lý thuyết quyết định kinh tế, lựa chọn phải mang lại lợi ích
kinh tế.
3. Dùng các mô hình toán học để giải quyết vấn đề.
4. Coi máy tính là công cụ cơ bản trong việc giải quyết các mô hình và
các bài toán quản trị.
Trƣờng phái này tiếp cận theo các hƣớng cơ bản sau:
- Quản trị khoa học: Một trong những áp dụng chính của trƣờng phái
này là quản trị khoa học, cần phải phân biệt với tƣ tƣởng quản trị khoa học của
Taylor ra đời ở đầu thế kỷ này. Ở đây khoa học quản trị là đƣờng lối quản trị
dùng những phân tích toán học trong quyết định, sử dụng các công cụ thống
kê, các mô hình toán học,... Khoa học quản trị có nguồn gốc sau chiến tranh
thế giới thứ 2 khi kỹ thuật chiến tranh phát triển cao, nhu cầu ứng dụng các
kiến thức định lƣợng và tối ƣu hóa ngày càng bức thiết. Hơn nữa các quá trình
sản xuất ngày càng phức tạp hơn so với phƣơng pháp quản trị truyền thống. Sự
liên kết giữa các phƣơng pháp tổ chức sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp vũ
khí với sản xuất dân dụng là tiền đề xuất hiện theo hƣớng này.
- Quản trị tác nghiệp: Là áp dụng phƣơng pháp định lƣợng và công tác
tổ chức, kiểm soát hoạt động. Nó có nhiều ứng dụng trong công tác quản trị
hàng ngày. Quản trị hoạt động sử dụng nhiều kỹ thuật định lƣợng nhƣ tiên
đoán, kiểm tra hàng tồn kho, lập trình tuyến tính, lý thuyết hệ quả, lý thuyết hệ
thống,... Chính theo hƣớng này mở ra các phƣơng pháp quản lý hiện đại hiện
nay.
Bài giảng Quản trị học
20
- Quản trị hệ thống thông tin: Là những chƣơng trình tích hợp thu thập
và sử dụng các thông tin giúp việc ra quyết định. Thông thƣờng các hệ thống
này đƣợc trợ giúp tích cực của hệ thống máy tính. Hệ thống thông tin là kết
quả hợp lý của việc ngày càng có sự công nhận sức mạnh và giá trị của những
thông tin và thông tin phải sẵn sàng dƣới dạng thích hợp, đúng thời điểm cho
các nhà quản trị làm quyết định. Hệ thống thông tin không chỉ có máy tính mà
còn là con ngƣời, chƣơng trình, dữ liệu,... Do đó nhất thiết phải có sự quản trị
thích hợp hệ thống thông tin đó.
Nhận xét về trường phái định lượng trong quản trị
Trƣờng phái này thâm nhập hầu hết trong mọi tổ chức hiện đại với
những kỹ thuật phức tạp. Khoa học quản trị, quản trị tác nghiệp và quản trị hệ
thống thông tin rất quan trọng cho các nhà quản trị các tổ chức lớn và hiện đại
ngày nay. Các kỹ thuật của trƣờng phái này đã đóng góp rất lớn trong việc
nâng cao trình độ hoạch định và kiểm tra hoạt động.
Mặc dù các kỹ thuật định lƣợng đƣợc áp dụng rộng rãi nhƣng vẫn chƣa
giải quyết thỏa đáng khía cạnh nhân bản và tác phong con ngƣời trong xí
nghiệp. Các nhà quản trị cũng nhận xét rằng các khái niệm và kỹ thuật của lý
thuyết này tƣơng đối khó hiểu đối với các nhà quản trị. Trong thực tế chỉ có
các chuyên gia đƣợc đào tạo kỹ trong lĩnh vực này mới có thể sử dụng các kỹ
thuật đó trong thực tế. Bởi lẽ đó, chừng nào các kỹ thuật định lƣợng còn là một
lĩnh vực khoa học thuộc thẩm quyền tri thức riêng của các nhà "khoa học quản
trị" thì sự phổ biến lý thuyết này vẫn còn bị hạn chế. Tuy vậy, sang thế kỷ 21,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tin học và máy tính điện tử thì các kỹ thuật
định lƣợng trong quản trị ngày càng đƣợc phổ biến. Sự kết hợp giữa kỹ thuật
tin học với các biện pháp quản lý khoa học ngày càng phát triển và có những
bƣớc tiến nhảy vọt.
2.2.4 Trƣờng phái hội nhập trong quản trị
Trƣờng phái này bao gồm nhiều lý thuyết phát triển, tạo ra nhiều trƣờng
phái rất đa dạng, thịnh hành trong thập kỷ 1960 - 1980.
- Trường phái "Quá trình quản trị"
Thực chất theo hƣớng nghiên cứu này đã đƣợc đề cập từ đầu thế kỷ 20
qua tƣ tƣởng của Henry Fayol, nhƣng chỉ thực sự phát triển mạnh từ năm 1960
do công của Harold Koontz và các đồng sự. Tƣ tƣởng này cho rằng quản trị là
một quá trình liên tục của các chức năng quản trị đó là hoạch định, tổ chức,
điểu khiển và kiểm soát. Các chức năng này đƣợc gọi là những chức năng
chung của quản trị. Bất cứ trong lĩnh vực nào, dù đơn giản đến phức tạp, dù
trong lĩnh vực sản xuất hay dịch vụ thì bản chất của quản trị là không thay đổi
đó là việc thực hiện đầy đủ các chức năng quản trị.
Hình 2.1 Tƣ tƣởng quá trình quản trị
Bài giảng Quản trị học
21
Từ khi đƣợc Kootz phát triển thì theo hƣớng này đã trở thành một hƣớng
đƣợc chú ý nhất và đƣợc rất nhiều các nhà quản trị từ lý thuyết đến thực hành
ƣa chuộng.
- Trường phái "Ngẫu nhiên"
Lý thuyết này cho rằng kỹ thuật quản trị thích hợp cho một hoàn cảnh
nhất định tùy thuộc vào bản chất và điều kiện của hoàn cảnh đó. Phƣơng thức
quản trị đúng hay tác phong quản trị trong một tình trạng lao động nhất định
phụ thuộc vào nhiều biến số. Quan điểm ngẫu nhiên lập luận rằng các hiện
tƣợng về tổ chức xảy ra theo các hình thái mà nhà quản trị có thể hiểu đƣợc,
nhƣng không thể có một khuôn mẫu cho tất cả các trƣờng hợp vì mỗi vấn đề tự
nó đã là độc đáo. Nghiên cứu hƣớng ngẫu nhiên muốn kết hợp vào thực tế
bằng một cách hội nhập những nguyên tắc quản trị vào trong khuôn khổ hoàn
cảnh. Nó đƣợc xây dựng trên luận đề: Nếu có X thì tất có Y nhưng phụ thuộc
vào điều kiện Z, nhƣ vậy điều kiện Z là những biến số ngẫu nhiên. Những cố
gắng gần đây của hƣớng này là tìm cách cách ly biến số Z, thay bằng những
yếu tố quyết định khác của hoàn cảnh.
Theo hƣớng nghiên cứu này đƣợc cho là hợp lý theo trực giác vì những
tổ chức thì khác biệt nhau về kích thƣớc, mục tiêu, nhiệm vụ nên khó có thể có
những nguyên lý chung áp dụng một cách khái quát.
- Trường phái "Quản trị hệ thống"
Hệ thống có thể đƣợc định nghĩa là một cơ cấu định hƣớng theo mục
tiêu, gồm các thành phần liên kết với nhau sao cho toàn hệ thống lớn hơn tổng
số các thành phần. Một hệ thống phải có 4 thành phần cơ bản: nhập lƣợng, quá
trình biến đổi, xuất lƣợng và phản hồi.
Nguyên lý cơ bản của lý thuyết hệ thống là hệ thống nào cũng gồm
những hệ thống nhỏ gọi là hệ thống con, giữa chúng có mối quan hệ tác động
hữu cơ với nhau, bất kỳ một thay đổi dù nhỏ của hệ thống con cũng có ảnh
hƣởng đến hệ thống và ngƣợc lại. Nếu quản trị phối hợp hữu hiệu những nổ
lực của hệ thống con thì kết quả sẽ lớn hơn tổng số những cố gắng độc lập, từ
là 1 + 1 > 2. Theo hƣớng này còn giúp ta nhận ra rằng tổ chức không phải là
tồn tại độc lập, mà nó phải dựa vào môi trƣờng hoạt động. Nhà quản trị phải
hiểu trách nhiệm của mình đối với môi trƣờng và những hạn chế mà môi
trƣờng đã áp đặt lên tổ chức.
HOẠCH ĐỊNH TỔ CHỨC ĐIỀU KHIỂN KIỂM SOÁT
Bài giảng Quản trị học
22
Hình 2.2 Theo hƣớng hệ thống
Nhận xét về trường phái hội nhập
Hiện nay trƣờng phái hội nhập đã có những ứng dụng thiết thực trong
quản trị, nó cung cấp cho nhà quản trị cái nhìn hệ thống đối với những vấn đề
nảy sinh trong quản trị. Các nhà quản trị đƣợc khuyến cáo là không có khuôn
mẫu chung để giải quyết tất cả các trƣờng hợp, lý thuyết ngẫu nhiên thì lƣu ý
nhà quản trị đến tính độc đáo của môi trƣờng, lý thuyết hệ thống thì chỉ ra sự
liên hệ giữa môi trƣờng và đơn vị. Quản trị quá trình xác định các chức năng
cơ bản mà các nhà quản trị phải thực hiện trong hoạt động quản trị của mình.
Chính trƣờng phái này đã có công hội nhập các tƣ tƣởng quản trị trƣớc nó vào
một tƣ tƣởng chung mang tính toàn vẹn và tổng quát.
2.2.5 Trƣờng phái quản trị hiện đại
Chính tính đa dạng hóa, đa phƣơng hóa và môi trƣờng toàn cầu của kinh
doanh ngày nay không cho phép các nhà quản trị suy nghĩ theo kiểu địa
phƣơng mà phải có suy nghĩ toàn cầu. Môi trƣờng kinh doanh hiện nay đòi hỏi
mọi nhà quản trị muốn thành công phải suy nghĩ trên tầm vóc quốc tế, cho dù
ông hoạt động ở địa phƣơng. Hậu quả là các phƣơng pháp quản trị phải đƣợc
xác định lại để hoạt động trong toàn cầu.
- Lý thuyết Z
Đƣợc một giáo sƣ ngƣời Mỹ gốc Nhật Bản là giáo sƣ William Ouchi xây
dựng trên cơ sở áp dụng cách quản lý của Nhật Bản trong các công ty Mỹ. Lý
thuyết ra đời năm 1978, chú trọng đến quan hệ xã hội và yếu tố con ngƣời
trong tổ chức. Lý thuyết Z có các đặc điểm sau: Công việc dài hạn, quyết định
thuận hợp, trách nhiệm cá nhân, xét thăng thƣởng chậm, kiểm soát kín đáo
bằng các biện pháp công khai, quan tâm đến tập thể và cả gia đình nhân viên...
- Tiếp cận theo 7 - yếu tố (7'S)
Cách tiếp cận này nhấn mạnh rằng trong quản trị cần phải phối hợp hài
hòa 7 yếu tố quản trị có ảnh hƣởng lên nhau, khi một yếu tố thay đổi kéo theo
các yếu tố khác cũng bị ảnh hƣởng. Nhà quản trị phải là ngƣời thông thiểu và
sử dụng tốt trong quản trị, đó là:
+ Chiến lược: Là phân phối các nguồn tài nguyên của tổ chức và ấn
định đƣờng lối hoạt động của tổ chức đó.
+ Cơ cấu: Phân cấp trong tổ chức và xác định quyền hành.
ĐẦU VÀO BIẾN ĐỔI ĐẦU RA
MÔI TRƢỜNG
Bài giảng Quản trị học
23
+ Hệ thống: Các quy trình tổ chức, thủ tục báo cáo và làm các công việc
hàng ngày.
+ Nhân viên: Là những ngƣời hoạt động trong tổ chức, gắn bó và hƣớng
tới mục tiêu.
+ Phong cách: Cách thức quản trị để đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức.
+ Kỹ năng: Trình độ chuyên môn của các nhân viên.
+ Mục tiêu phối hợp: Là hệ thống giá trị mà mọi ngƣời chia sẻ.
Lý thuyết này hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị các công ty có
quy mô lớn, mang tính cạnh tranh toàn cầu.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao anh (chị) nên biết về sự phát triển của quản trị?
2. Hãy so sánh những điểm giống và khác nhau giữa ba trƣờng phái quản trị cổ
điển?
3. Có thể sử dụng những ý tƣởng của trƣờng phái quản trị thƣ lại nhƣ thế nào
để nâng cao tính hiệu quả của doanh nghiệp?
4. Những vấn đề nào mà các tổ chức toàn cầu phải đối mặt khi sử dụng những
nguyên tắc quan liêu để quản lý nhân viên của họ?
5. Trình bày những nguyên tắc của quản trị theo khoa học?
6. Theo anh (hoặc chị) những nguyên tắc nào trong 14 nguyên tắc quản trị
của Fayol khó áp dụng trong thực tiễn quản trị ngày nay?
7. Những nhận định quản trị của Bamard khác với Weber nhƣ thế nào?
8. Những thách thức nào nhân viên đối mặt. Ai đang cố gắng để thực hiện
những đóng góp của quan điểm hành vi trong tổ chức?
Bài giảng Quản trị học
24
Chƣơng 3
MÔI TRƢỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
3.1. KHÁI NIỆM – PHÂN LOẠI MÔI TRƢỜNG
3.1.1 Khái niệm
Môi trƣờng hoạt động của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố từ bên
trong cũng nhƣ từ bên ngoài thƣờng xuyên tác động ảnh hƣởng đến kết quả
hoạt động của doanh nghiệp.
3.1.2 Phân loại môi trƣờng
3.1.2.1 Căn cứ theo phạm vi và cấp độ của môi trường
a. Môi trường bên ngoài: Bao gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
có ảnh hƣởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Môi trƣờng bên ngoài đƣợc
xác định theo cấp độ tác động, chia thành 2 cấp độ:
* Môi trường vĩ mô: là môi trƣờng tổng quát, đƣợc hình thành từ những
điều kiện chung nhất của một quốc gia nào đó. Bao gồm các yếu tố nhƣ: kinh
tế, chính trị, pháp luật, tự nhiên và công nghệ tác động đến doanh nghiệp.
* Môi trường vi mô: là môi trƣờng đặc thù, đƣợc hình thành tuỳ thuộc
vào những điều kiện sản xuất kinh doanh trong từng ngành và bởi đặc điểm
hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Môi trƣờng này thƣờng bao gồm các yếu tố
nhƣ: khách hàng, các đối thủ cạnh tranh, những ngƣời cung cấp, các nhóm áp
lực tác động đến doanh nghiệp.
b. Môi trường bên trong (môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp): Bao gồm
các yếu tố bên trong của doanh nghiệp có tác động đến kết quả hoạt động của
doanh nghiệp. Các yếu tố này nhƣ: nguồn nhân lực, khả năng nghiên cứu và
phát triển của tổ chức, sản xuất, tài chính, marketing, văn hoá của tổ chức,…
Sơ đồ 3.1 Phân loại môi trường theo phạm vi
3.1.2.2 Căn cứ theo mức độ phức tạp và biến động của môi trường
Theo tiêu thức này môi trƣờng hoạt động của doanh nghiệp đƣợc phân
thành 4 loại:
Môi trường vĩ mô:
1. Các yếu tố kinh tế
2. Các yếu tố chính trị
3. Các yếu tố xã hội
4. Các yếu tố dân số
5. Các yếu tố tự nhiên
6. Các yếu tố công nghệ
Môi trường vi mô:
1. Các đối thủ cạnh tranh
2. Khách hàng
3. Những ngƣời cung cấp
4. Các nhóm áp lực
MÔI TRƢỜNG BÊN NGOÀI MÔI TRƢỜNG BÊN TRONG
1. Nguồn nhân lực
2. Khả năng nghiên cứu phát triển
3. Sản xuất
4. Tài chính kế toán
5. Marketing
6. Văn hoá của tổ chức
Bài giảng Quản trị học
25
- Môi trường đơn giản ổn định: Là môi trƣờng có ít các yếu tố tác động và
các yếu tố tác động ít thay đổi.
- Môi trường đơn giản năng động: Là môi trƣờng có ít các yếu tố tác động
nhƣng các yếu tố biến động thƣờng xuyên.
- Môi trường phức tạp ổn định: Là môi trƣờng có nhiều yếu tố tác động
nhƣng các yếu tố lại ít thay đổi.
- Môi trường phức tạp năng động: Là môi trƣờng có nhiều các yếu tố và
các yếu tố biến động thƣờng xuyên.
Từ sự phân loại trên cho thấy, vấn đề quản trị sẻ trở nên đơn giản nếu ở
trong môi trƣờng loại a, b và ngƣợc lại nếu ở trong loại c, d. Trên thực tế, tuỳ
theo đặc điểm của từng ngành kinh doanh và tuỳ theo mục tiêu, chiến lƣợc
hoạt động của doanh nghiệp để có thể xác định đƣợc thuộc loại này hay loại
kia. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay môi trƣờng hoạt động của
doanh nghiệp ngày càng phức tạp và rất hiếm thấy những doanh nghiệp có môi
trƣờng hoạt động đơn giản ổn định, đơn giản năng động trái lại đang có xu
hƣớng chuyển sang môi trƣờng phức tạp năng động. Điều này cho thấy, ở
trong môi trƣờng này doanh nghiệp muốn thành công phải có khả năng phản
ứng nhanh với những thay đổi của môi trƣờng, nếu không sẽ thất bại.
Hai cách phân loại trên thƣờng đƣợc sử dụng kết hợp trong quá trình nghiên
cứu môi trƣờng của một doanh nghiệp. Khi nghiên cứu môi trƣờng theo từng
yếu tố, ta sử dụng cách phân loại thứ nhất. Khi tổng hợp và nhận định chung
về môi trƣờng, có thể sử dụng cách phân loại thứ hai.
3.1.3 Phƣơng pháp nghiên cứu môi trƣờng
Để cho công tác nghiên cứu môi trƣờng có kết quả, các nhà quản trị cần
lƣu ý những vấn đề sau đây:
3.1.3.1 Nghiên cứu môi trường ở cả hai trạng thái tĩnh và động
Khi nghiên cứu môi trƣờng cần xem xét nó ở cả hai trạng thái tĩnh và
động. Ở trạng thái tĩnh cần xác định:
- Kết cấu của môi trường: Tức là xác định môi trƣờng của một doanh
nghiệp gồm những yếu tố tác động cụ thể nào?
- Tính chất và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đó đối với hoạt động
của doanh nghiệp và hiện trạng các yếu tố của môi trƣờng doanh nghiệp
Trên thực tế, môi trƣờng không đứng yên mà luôn vận động biến đổi.
Do đó, sẽ sai lầm, nếu không nghiên cứu môi trƣờng trong trạng thái động.
Việc nghiên cứu môi trƣờng trong trạng thái động có ý nghĩa quan trọng đối
với công tác hoạch định mục tiêu chiến lƣợc của doanh nghiệp. Nội dung
nghiên cứu ở trạng thái này cần là:
Bài giảng Quản trị học
26
- Dự đoán đƣợc xu hƣớng vận động và biến đổi của từng yếu tố và từng
loại môi trƣờng.
- Mỗi tác động qua lại của các yếu tố và các cấp độ môi trƣờng.
3.1.3.2 Phương diện quốc tế trong nghiên cứu môi trường
Vấn đề nghiên cứu môi trƣờng kinh doanh quốc tế không chỉ đặt ra với
những hãng có địa bàn hoạt động ở thị trƣờng nƣớc ngoài, mà ngay cả những
hãng chỉ hoạt động ở thị trƣờng trong nƣớc cũng cần nghiên cứu, điều này là
do quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, quá trình hội nhập và mở cửa ra bên
ngoài trong chiến lƣợc phát triển của cả quốc gia trên thế giới quy định. Có thể
thấy rõ điều này qua ví dụ về sự khủng hoảng tiền tệ ở các nƣớc Đông Á trong
năm 1998 đã tác động một phần không nhỏ đến các doanh nghiệp hoạt động
ngay tại thị trƣờng Việt Nam, không riêng gì các doanh nghiệp hoạt động ở thị
trƣờng nƣớc ngoài. Ở đây cần làm rõ hai vấn đề:
- Dự báo những xu hƣớng biến động của từng khu vực và trên toàn thế
giới.
- Nhận định những tác động có tính chất thuận lợi và khó khăn đối với
doanh nghiệp trong thời gian tới.
Nhƣ vậy để kết quả nghiên cứu môi trƣờng phản ánh đầy đủ và chính
xác thì khi nghiên cứu môi trƣờng các nhà quản trị cần phải kết hợp các cách
tiếp cận nêu trên.
3.2. VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC LOẠI MÔI TRƢỜNG
Bất cứ một doanh nghiệp (hoặc một tổ chức) đều chịu sự tác động của
môi trƣờng, thông thƣờng sự tác động này ở các mặt sau:
- Kết quả hoạt động của doanh nghiệp
- Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp
- Mục tiêu và chiến lƣợc hoạt động của doanh nghiệp
Vì vậy, việc nghiên cứu môi trƣờng là sự tất yếu. Thông thƣờng môi
trƣờng có thể tác động đến doanh nghiệp theo 2 hƣớng cơ bản:
-> Hƣớng thuận, khi nó tạo ra cơ hội thuận lợi cho hoạt động của doanh
nghiệp.
-> Hƣớng nghịch, khi nó đe dọa và gây thiệt hại đối với doanh nghiệp.
3.2.1 Môi trƣờng Vĩ mô (Môi trƣờng tổng quát)
Đây là môi trƣờng đƣợc hình thành từ những điều kiện chung nhất của
một quốc gia nào đó. Cho nên sự ảnh hƣởng của môi trƣờng này đến doanh
nghiệp thƣờng lâu dài, doanh nghệp khó kiểm soát. Mức độ và tính chất tác
động của loại môi trƣờng này thƣờng khác nhau theo từng ngành, thậm chí
theo từng doanh nghiệp. Sự thay đổi của môi trƣờng này có tác động làm thay
Bài giảng Quản trị học
27
đổi cục diện của môi trƣờng vi mô, nội bộ và mỗi yếu tố của môi trƣờng tổng
quát có thể ảnh hƣớng đến tổ chức một cách độc lập hoặc trong mối liên kết
với các yếu tố khác.
3.2.1.1 Môi trường kinh tế
Đây là lĩnh vực rất quan trọng thu hút sự quan tâm của tất cả các nhà
quản trị. Sự tác động của các yếu tố thuộc môi trƣờng này có tính chất trực tiếp
và rất năng động đến hoạt động của doanh nghiệp. Những diễn biến của môi
trƣờng này bao giờ cũng chứa đựng những cơ hội và đe doạ khác nhau đối với
từng doanh nghiệp và có ảnh hƣởng tiềm tàng đến các chiến lƣợc của doanh
nghiệp. Có rất nhiều yếu tố của môi trƣờng này ảnh hƣởng đến doanh nghiệp
nhƣng ở bài giảng này chỉ đề cập đến một số yếu tố cơ bản thƣờng đƣợc quan
tâm nhất.
- Xu hướng tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product: GDP),
tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product: GNP). Số liệu về tốc độ tăng
trƣởng của GDP và GNP hàng năm sẽ cho biết tốc độ tăng trƣởng của nền kinh
tế và tốc độ tăng lên của thu nhập tính bình quân đầu ngƣời qua đây cho phép
các doanh nghiệp dự đoán dung lƣợng thị trƣờng của từng ngành và thị phần
của doanh nghiệp.
- Lãi suất và xu hướng của lãi suất trong nền kinh tế: Yếu tố này ảnh
hƣởng trực tiếp đến chiến lƣợc kinh doanh cả các doanh nghiệp đặc biệt là đối
với những doanh nghiệp mà nguồn vốn hoạt động chủ yếu là vốn vay ở ngân
hàng và các tổ chức tài chính khác. Khi lãi suất tăng có thể sẽ hạn chế nhu cầu
vay vốn, ảnh hƣởng đến mức lời và khi lãi suất tăng sẽ khuyến khích ngƣời
dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn do vậy cũng làm cho nhu cầu tiêu dùng
giảm xuống.
- Cán cân mậu dịch (cán cân thanh toán quốc tế) do quan hệ xuất nhập
khẩu quyết định. Những căn bệnh trong nền kinh tế có thể nảy sinh do sự thâm
thủng mậu dịch gây ra và trong chừng mực nào đó làm thay đổi môi trƣờng
kinh tế nói chung.
- Xu hướng của tỷ giá (còn gọi là hối suất: giá của đồng tiền so với các
ngoại tệ khác). Sự biến động của tỷ giá làm thay đổi những điều kiện kinh
doanh nói chung, tạo ra những cơ hội và đe doạ khác nhau đối với các doanh
nghiệp đặc biệt nó có tác động điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, thƣờng
Chính Phủ sử dụng công cụ này để điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu theo
hƣớng có lợi cho nền kinh tế. Ví dụ khi nâng giá trị đồng tiền trong nƣớc lên
so với ngoại tệ thì tất nhiên làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của các sản
phẩm trong nƣớc tại thị trƣờng hải ngoại nhƣ vậy sẽ làm cho doanh nghiệp
xuất khẩu gặp khó khăn, trong khi đó các hoạt động nhập khẩu lại thuận lợi và
Bài giảng Quản trị học
28
ngƣợc lại với chính sách hạ thấp giá trị đồng tiền trong nƣớc sẽ khuyến khích
hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
- Xu hướng tăng giảm của thu nhập thực tế bình quân đầu ngƣời cũng là
một yếu tố có tác động trực tiếp đến quy mô và tính chất của thị trƣờng trong
tƣơng lai.
- Mức độ lạm phát của nền kinh tế cũng ảnh hƣởng đến tốc độ đầu tƣ
vào nền kinh tế. Khi lạm phát quá cao sẽ tạo ra những rủi ro lớn cho sự đầu tƣ
của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút và làm cho nền
kinh tế bị đình trệ. Trái lại việc duy trì một tỷ lệ vừa phải có tác dụng khuyến
khích đầu tƣ vào nền kinh tế, kích thích thị trƣờng tăng trƣởng. Ở Việt Nam
trong những năm qua chính phủ chủ trƣơng duy trì tỷ lệ lạm phát khoảng từ 10
– 14%.
- Hệ thống biểu thuế và mức thuế: sự thay đổi của hệ thống biểu thuế
hoặc mức thuế có thể tạo ra những cơ hội hoặc những nguy cơ đối với doanh
nghiệp vì nó làm cho mức chi phí của doanh nghiệp bị thay đổi và tất nhiên sẽ
ảnh hƣởng đến sự lời hoặc lỗ.
- Các biến động trên thị trường chứng khoán: sự biến động của các chỉ
số trên thị trƣờng chứng khoán có thể tác động làm thay đổi giá trị của các cổ
phiếu qua đó làm ảnh hƣởng chung đến nền kinh tế cũng nhƣ tạo ra những cơ
hội hoặc rủi ro đối với các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
3.2.1.2 Môi trường chính trị và luật pháp:
Môi trƣờng này gồm hệ thống các quan điểm, đƣờng lối chính sách của
chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, các xu hƣớng chính trị ngoại giao đối
với các nƣớc khác, và những diễn biến chính trị trong nƣớc, trong khu vực và
trên toàn thế giới. Có thể hình dung sự tác động của môi trƣờng chính trị và
pháp luật đối với các doanh nghiệp nhƣ sau:
Luật pháp: đƣa ra những quy định cho phép hoặc không cho phép, hoặc
đƣa ra những ràng buộc đòi hỏi các doanh nghiệp tuân theo. Vấn đề đặt ra đối
với các doanh nghiệp là phải hiểu rõ tinh thần của luật pháp và chấp hành tốt
những quy định của pháp luật.
Chính phủ là cơ quan giám sát, duy trì, thực hiện pháp luật và bảo vệ lợi
ích chung của quốc gia. Chính phủ cũng có một vai trò to lớn trong điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ, thuế khoá,
và các chƣơng trình chỉ tiêu của mình. Trong mối quan hệ với các doanh
nghiệp chính phủ vừa đóng vai trò là ngƣời kiểm soát, khuyến khích, tài trợ,
quy định, ngăn cấm, hạn chế, đồng thời cũng đóng vai trò là khách hàng quan
trọng đối với các doanh nghiệp (trong các chƣơng trình chi tiêu của chính phủ),
và sau cùng chính phủ cũng đóng vai trò là nhà cung cấp các dịch vụ cho các
Bài giảng Quản trị học
29
doanh nghiệp chẳng hạn nhƣ: cung cấp các thông tin vĩ mô, và các dịch vụ
công cộng khác,…
Nhƣ vậy yếu tố chính phủ có thể đƣa ra những cơ hội hoặc là nguy cơ
đối với các doanh nghiệp, để tận dụng đƣợc cơ hội và giảm thiểu nguy cơ các
doanh nghiệp phải nắm bắt cho đƣợc những quan điểm, những quy định,
những ƣu tiên, những chƣơng trình chỉ tiêu của chính phủ và cũng phải thiết
lập một quan hệ tốt đẹp, thậm chí có thể thực hiện sự vận động hành lang khi
cần thiết nhằm tạo ra một môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động của doanh
nghiệp.
Các xu hƣớng chính trị và đối ngoại tự nó cũng chứa đựng những tín
hiệu và mầm mống cho sự thay đổi của môi trƣờng kinh doanh trong tƣơng lai
không xa. Do vậy các nhà quản trị cũng phải nhạy cảm với những thay đổi này.
Những biến động phức tạp trong môi trƣờng chính trị và pháp luật sẽ tạo
ra những rủi ro lớn đối với các doanh nghiệp, một quốc gia thƣờng xuyên có sự
xung đột, nội chiến xảy ra liên miên, đƣờng lối chính sách không nhất quán sẽ
là một trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp.
3.2.1.3 Môi trường văn hoá xã hội
Bao gồm những chuẩn mực và giá trị mà những chuẩn mực và giá trị
này đƣợc chấp nhận (tôn trọng) bởi một xã hội hoặc một nền văn hoá cụ thể.
Sự thay đổi của các yếu tố văn hoá xã hội một phần là hệ quả của sự tác động
lâu dài của các yếu tố vĩ mô khác, do vậy nó thƣờng xảy ra chậm hơn so với
các yếu tố khác. Một số những đặc điểm mà các nhà quản trị cần chú ý đó là:
sự tác động của các yếu tố văn hoá xã hội thƣờng có tính dài hạn, và tinh tế
hơn so với các yếu tố khác, thậm chí nhiều lúc khó mà nhận biết đƣợc, mặt
khác phạm vi tác động của các yếu tố văn hoá xã hội thƣờng rất rộng: ”nó xác
định cách thức ngƣời ta sống, làm việc, sản xuất, và tiêu thụ các sản phẩm và
dịch vụ”. Nhƣ vậy những hiểu biết về mặt văn hoá xã hội sẽ là những cơ sở rất
quan trọng cho các nhà quản trị trong quá trình quản trị ở các tổ chức. Các
công ty hoạt động trên nhiều quốc gia khác nhau có thể bị tác động ảnh hƣởng
rõ rệt của yếu tố văn hoá xã hội và buộc phải thực hiện những chiến lƣợc thích
ứng với từng quốc gia. Các khía cạnh hình thành môi trƣờng văn hoá xã hội
chẳng hạn nhƣ:
- Những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, về lối sống, về nghề nghiệp.
- Những phong tục, tập quán, truyền thống.
- Những quan tâm và ƣu tiên của xã hội.
- Trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội,…
Trên thực tế ngoài khái niệm văn hoá xã hội còn tồn tại khái niệm văn
hoá của vùng, văn hoá làng xã mà chính những phạm trù này quyết định thị
Bài giảng Quản trị học
30
hiếu, phong cách tiêu dùng ở từng khu vực sẽ khác nhau. Nhƣ đã phân tích ở
trên môi trƣờng văn hoá xã hội trên thực tế có sự biến động thay đổi do vậy
vấn đề đặt ra đối với các nhà quản trị là không chỉ nhận thấy sự hiện hiện của
nền văn hoá xã hội hiện tại mà còn dự đoán những chiều hƣớng biến đổi của
nó trong tƣơng lai qua đó chủ động hình thành những chiến lƣợc để đón nhận
các cơ hội và giảm thiểu những nguy cơ.
3.2.1.4 Môi trường dân số
Môi trƣờng dân số là một yếu tố rất quan trọng ảnh hƣởng đến các yếu
tố khác của môi trƣờng tổng quát đặc biệt là yếu tố xã hội và yếu tố kinh tế.
Những thay đổi trong môi trƣờng dân số sẽ tác động trực tiếp đến sự thay đổi
của môi trƣờng kinh tế và xã hội và ảnh hƣởng đến chiến lƣợc kinh doanh của
doanh nghiệp. Những thông tin của môi trƣờng dân số cung cấp những dữ liệu
quan trọng cho các nhà quản trị trong việc hoạch định chiến lƣợc sản phẩm,
chiến lƣợc thị trƣờng, chiến lƣợc tiếp thị, phân phối và quảng cáo,… Những
khía cạnh cần quan tâm của môi trƣờng dân số bao gồm:
- Tổng dân số của xã hội, tỷ lệ tăng của dân số.
- Những xu hƣớng trong tuổi tác, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp và phân
phối thu nhập.
- Tuổi thọ và tỷ lệ sinh tự nhiên
- Các xu hƣớng dịch chuyển dân số giữa các vùng.
3.2.1.5 Môi trường tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, cảnh quan thiên nhiên,
đất đai, sông biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên
rừng biển, sự trong sạch của môi trƣờng nƣớc và không khí,…
Có thể nói các điều kiện tự nhiên luôn luôn là một yếu tố quan trọng
trong cuộc sống của con ngƣời (đặc biệt là các yếu tố của môi trƣờng sinh
thái), mặt khác nó cũng là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng của nhiều
ngành kinh tế nhƣ: nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, du lịch, vận tải,…
trong rất nhiều trƣờng hợp chính các điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố
rất quan trọng để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ.
Tuy nhiên trong những thập niên gần đây nhân loại đang chứng kiến sự xuống
cấp nghiêm trọng của các điều kiện tự nhiên, đặc biệt là:
- Sự ô nhiểm môi trƣờng tự nhiên ngày càng tăng.
- Sự cạn kiệt và khan hiếm của các nguồn tài nguyên và năng lƣợng.
- Sự mất cân bằng về môi trƣờng sinh thái,…
Những cái giá mà con ngƣời phải trả do sự xuống cấp của môi trƣờng tự
nhiên là vô cùng lớn khó mà tính hết đƣợc. Ngày nay dƣ luận của cộng đồng,
cũng nhƣ sự lên tiến của các tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trƣờng đang đòi
Bài giảng Quản trị học
31
hỏi lật pháp của các nƣớc phải khắt khe hơn nhằm tái tạo và duy trì các điều
kiện của môi trƣờng tự nhiên. Trong bối cảnh nhƣ vậy chiến lƣợc kinh doanh
của các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu sau:
* Một là: Ƣu tiên phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
dịch vụ nhằm khai thác tốt các điều kiện và lợi thế của môi trƣờng tự nhiên
trên cơ sở bảo đảm sự duy trì, tái tạo, đặc biệt nếu có thể góp phần tăng cƣờng
hơn nữa các điều kiện tự nhiên.
* Hai là: Phải có ý thức tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt cần phải có nhà quản trị sử dụng các nguồn tài
nguyên không thể tái sinh trong tự nhiên chuyển sang sử dụng các vật liệu
nhân tạo.
* Ba là: Đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển công nghệ, sản phẩm góp
phần bảo vệ môi truờng, môi sinh, giảm thiểu tối đa những tác động gây ô
nhiễm môi trƣờng do hoạt động của doanh nghiệp gây ra.
3.2.1.6 Môi trường công nghệ
Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và
đe doạ đối với các doanh nghiệp. Những áp lực và đe doạ từ môi truờng công
nghệ có thể là:
- Sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng ƣu thế cạnh tranh
của các sản phẩm thay thế đe dọa các sản phẩm truyền thống của ngành hiện
hữu.
- Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi thời
và tạo ra áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng khả
năng cạnh tranh.
- Sự ra đời của công nghệ mới càng tạo điều kiện thuận lợi cho những
ngƣời xâm nhập mới và làm tăng thêm áp lực đe doạ các doanh nghiệp hiện
hữu trong ngành.
- Sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có
xu hƣớng rút ngắn lại. Điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời
gian khấu hao nhanh hơn so với trƣớc.
Bên cạnh những đe doạ này, những cơ hội có thể đến từ môi trƣờng
công nghệ đối với các doanh nghiệp có thể là:
- Công nghệ mới có thể tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm rẻ hơn và
chất lƣợng cao hơn, làm cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Thƣờng
thì các doanh nghiệp đến sau có nhiều ƣu thế để tận dụng đƣợc cơ hội này hơn
là các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành.
- Sự ra đời của công nghệ mới và khả năng chuyển giao công nghệ mới
này vào các ngành khác có thể tạo ra những cơ hội rất quan trọng để phát triển
Bài giảng Quản trị học
32
sản xuất và hoàn thiện sản phẩm ở các ngành. Ví dụ nhƣ sự chuyển giao của
máy tính vào các ngành chế tạo máy móc thiết bị nhƣ chế tạo ô tô, sản xuất
thiết bị điện gia dụng,…
- Sự ra đời của công nghệ mới có thể làm cho sản phẩm rẻ hơn, chất
lƣợng tốt hơn và có nhiều tính năng hơn và qua đó có thể tạo ra những thị
trƣờng mới hơn cho các sản phẩm và dịch vụ của hãng.
3.2.2 Môi trƣờng Vi mô
Môi trƣờng Vi mô đƣợc hình thành tuỳ thuộc vào dặc điểm hoạt động
từng ngành, từng doanh nghiệp. Môi trƣờng này có tác động ảnh hƣởng trực
tiếp và thƣờng xuyên, đe doạ trực tiếp sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy,
các nhà quản trị rất quan tâm và thƣờng dành nhiều thời gian để khảo sát kỹ
các yếu tố của môi trƣờng này. Môi trƣờng Vi mô của doanh nghiệp bao gồm:
3.2.2.1 Khách hàng
Là những ngƣời tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Họ
là yếu tố quyết định đầu ra của doanh nghiệp. Muốn thành công doanh nghiệp
cần phải dành thời giành thời gian để khảo sát thật kỹ yếu tố này, qua đó thiết
lập các chiến lƣợc kinh doanh cho phù hợp. Khi đề cập đến yếu tố này các nhà
quản trị cần làm rõ một số khía cạnh sau đây:
- Khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp là ai? Nhu cầu và thị hiếu của
họ là gì? Những khuynh hƣớng trong tƣơng lai của họ nhƣ thế nào?
- Ý kiến của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp ra sao?
- Mức độ trung thành của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ
của doanh nghiệp?
- Áp lực của khách hàng hiện tại đối với doanh nghiệp và xu hƣớng sắp
tới nhƣ thế nào?
3.2.2.2 Những người cung ứng
Là những nhà cung cấp các nguồn lực nhƣ: vật tƣ, thiết bị, vốn, nhân
lực,… cho hoạt động của doanh nghiệp, kể cả các cơ quan cấp trên nhƣ: bộ chủ
quản, liên hiệp xí nghiệp,… có quyền đƣa ra các chính sách và qui định đối với
hoạt động doanh nghiệp.
Những nhà cung cấp thƣờng là cung cấp các yếu tố đầu vào của quá
trình hoạt động của doanh nghiệp. Số lƣợng, chất lƣợng, giá cả và thời hạn
cung cấp các yếu tố này để có ảnh hƣởng lớn đến kết quả, hiệu quả hoạt động
của một doanh nghiệp. Để giảm bớt rủi ro từ yếu tố này, các doanh nghiệp phải
tạo ra đƣợc mối quan hệ gắn bó với những ngƣời cung ứng, các cơ quan cấp
trên. Mặt khác, phải tìm ra nhiều nhà cung ứng khác nhau về một loại nguồn
lực. Điều này sẽ giúp các nhà quản trị thực hiện quyền lựa chọn và chống lại
Bài giảng Quản trị học
33
sức ép của các nhà cung cấp. Thực tiễn đã chỉ ra nhiều doanh nghiệp có đƣợc
lợi thế cạnh tranh nhờ có mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp.
3.2.2.3 Các đối thủ cạnh tranh
Trong xu thế hiện nay, khi kinh tế thị trƣờng phát triển mạnh, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật ngày càng tăng thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
các đơn vị ngày càng khốc liệt. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh
nghiệp phải ý thức đƣợc sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh và đƣa ra những
chính sách thích hợp nhằm giảm đƣợc các rủi ro trong hoạt động. Các nguy cơ
cạnh tranh trên thực tế có thể chia thành 3 dạng sau đây:
- Cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện hữu trong ngành: là hình thức
cạnh tranh đƣợc các doanh nghiệp quan tâm nhiều nhất, hình thức cạnh tranh
này xảy ra giữa các doanh nghiệp đã có tên tuổi trong ngành. Phƣơng thức
cạnh tranh có thể tồn tại dƣới nhiều hình thức chẳng hạn cạnh tranh bằng giá,
bằng chất lƣợng của sản phẩm và dịch vụ trƣớc và sau bán hàng,… mức độ
cạnh tranh cũng có thể khác nhau tuỳ theo từng ngành (tuỳ thuộc mức độ phân
tán trong ngành, giai đoạn phát triển của ngành,…)
- Nguy cơ xâm nhập mới: Thị phần và mức lời của các doanh nghiệp
trong ngành có thể bị chi sẻ vì sự xâm nhập mới. Nguy cơ này có thể khác
nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng ngành. Một cách tốt nhất để đối phó với
nguy cơ này là làm cho sản phẩm rẻ hơn và tạo ra đƣợc sự trung thành của
khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp.
- Các sản phẩm thay thế, trong xu thế hiện nay, ngoài việc phải đối đầu
với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong ngành, các doanh nghiệp còn phải đối
phó với những hãng ở ngoài ngành với các sản phẩm và dịch vụ có khả năng
thay thế các sản phẩm và dịch vụ của hãng.
3.2.2.4 Các nhóm áp lực xã hội
Các nhóm áp lực xã hội đối với hãng có thể là: cộng đồng dân cƣ xung
quanh khu vực doanh nghiệp đóng, hoặc là dƣ luận xã hội, các tổ chức công
đoàn, hiệp hội ngƣời tiêu dùng, các tổ chức y tế, báo chí. Hoạt động của doanh
nghiệp sẽ gặp những thuận lợi, nếu đƣợc các tổ chức trong cộng đồng ủng hộ.
Ngƣợc lại, sẽ gặp những khó khăn, nếu có sự bất bình từ phí cộng đồng.
Tóm lại, bất kỳ tổ chức nào thì sự hoạt động của nó ít nhiều phải chịu
tác động của các nhóm áp lực nhất định, các nhà quản trị cần phải thƣờng
xuyên mở rộng sự thông tin với các nhóm áp lực trong cộng đồng, nắm bắt kịp
thời những ý kiến, dƣ luận, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra mối quan hệ chặt chẽ
với những nhóm này.
3.2.3 Môi trƣờng nội bộ
Bài giảng Quản trị học
34
Bao gồm các yếu tố và điều kiện bên trong của doanh nghiệp, nhƣ: nhân
sự, khả năng tài chính, văn hoá của tổ chức,… Môi trƣờng nội bộ thƣờng thể
hiện những điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp. Nó là một yếu tố quan trọng
ảnh hƣởng đến việc hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
Khi hoạch định các mục tiêu, nhất là các mục tiêu ngắn hạn các doanh
nghiệp phải xuất phát từ những điều kiện nội bộ của mình; không nên đề ra
những mục tiêu quá ảo tƣởng vƣợt khỏi những khả năng nội bộ của hãng. Với
ý nghĩa đó việc nhận thức đúng hoàn cảnh nội bộ là một trong những tiền đề
chủ yếu cho quá trình lựa chọn và xác định mục tiêu, chiến lƣợc của doanh
nghiệp.
3.2.3.1 Yếu tố nhân lực
Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong tổ chức, cần đƣợc đánh
giá một cách khách quan và chính xác. Khi nghiên cứu yếu tố này các nhà trị
cần làm rõ các khía cạnh sau:
- Tổng nhân lực hiện có của doanh nghiệp
- Cơ cấu nhân lực
- Trình độ chuyên môn, trình dộ lành nghề của lực lƣợng nhân lực
- Tình hình phân bố và sử dụng lực lƣợng nhân lực
- Vấn đề phân phối thu nhập, các chính sách động viên ngƣời lao động
- Khả năng thu hút nhân lực của hãng
- Mức độ thuyên chuyển và bỏ việc
3.2.3.2 Khả năng tài chính
Là một yếu tố đặc biệt đƣợc các nhà doanh nghiệp quan tâm. Những yếu
kém trong yếu tố này thƣờng gây ra những khó khăn lớn đối với việc thực hiện
mục tiêu của các doanh nghiệp. Các nội dung cần xem xét ở yếu tố này là:
- Khả năng nguồn vốn hiện có so với yêu cầu thực hiện các kế hoạch,
chiến lƣợc của doanh nghiệp
- Khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài
- Tình hình phân bổ và sử dụng các nguồn vốn
- Việc kiểm soát các chi phí
- Dòng tiền (thu và chi)
- Các quan hệ tài chính trong nội bộ và trong quan hệ với các đơn vị
khác.
3.2.3.3 Khả năng nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Tƣơng lai của một doanh nghiệp phần nào phụ thuộc vào yếu tố này.
Nhiều nhà quản trị còn cho rằng, yếu tố này nên đƣợc xem là một tiêu thức
Bài giảng Quản trị học
35
quan trọng để đánh giá khả năng, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong
nhiều ngành kinh doanh yếu tố này trở nên quyết định sự thành công của
doanh nghiệp. Ví dụ ngành sản xuất dƣợc phẩm mức chi tiêu cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển là rất lớn. Khả năng này đƣợc thể hiện chủ yếu qua
các mặt sau:
- Khả năng phát triển sản phẩm mới
- Khả năng cải tiến kỹ thuật
- Khả năng ứng dụng công nghệ mới
Để thực hiện đƣợc các mặt trên, đòi hỏi các doanh nghiệp thƣờng xuyên
phải thu nhập thông tin về thị trƣờng, khách hàng, để hình thành nên những ý
tƣởng về sản phẩm mới và phải thƣờng xuyên cập nhật các thông tin về sự phát
triển của khoa học và công nghệ mới.
3.2.3.4 Văn hoá của tổ chức
Văn hoá của tổ chức là những chuẩn mực, khuôn mẫu có tính truyền
thống, những dạng hành vi, những nguyên tắc, thủ tục có tính chất chính thức
mà mọi thành viên của tổ chức phải noi theo, phải thực hiện. Với cách hiểu đó,
văn hoá của tổ chức thƣờng đƣợc biểu hiện qua quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Cụ thể là:
- Tính hợp thức của hành vi: Những ngôn ngữ, thuật ngữ, những nghi lễ
liên quan tới sự tôn kính và cách cƣ xử đƣợc đánh giá cao nhằm hƣớng dẫn
hành vi của các thành viên trong một tổ chức.
- Các chuẩn mực: Những tiêu chuẩn của hành vi.
- Các giá trị chính thống: Những giá trị chủ yếu mà tổ chức tán thành,
ủng hộ và mong đợi những ngƣời tham gia chia sẻ nó.
- Triết lý: Những cái mà tổ chức đánh giá cao và xem là có giá trị, làm
cơ sở cho cách thức đối xử với ngƣời lao động, khách hàng và ngƣời tiêu dùng.
- Những luật lệ: Có những nguyên tắc chặt chẽ liên quan tới việc đƣợc
chấp nhận là thành viên của tổ chức. Những ngƣời mới tới luôn phải học
những điều này để đƣợc chấp nhận là thành viên đầy đủ của nhóm và của tổ
chức.
- Bầu không khí tổ chức: Tổng thể những cảm giác đƣợc tạo ra từ những
điều kiện làm việc, những cách thức cƣ xử, tƣơng tác và những cách thức mà
các thành viên quan hệ với khách hàng và những ngƣời bên ngoài.
Trên đây là 6 đặc tính thể hiện văn hoá của tổ chức, thực tiễn cho thấy
có sự đa dạng về văn hoá của tổ chức. Trong quản trị, văn hoá tổ chức là một
yếu tố bên trong rất quan trọng, nó đƣợc thiết lập nhằm tạo ra một môi trƣờng
thuận lợi cho việc thực hiện sứ mạng, mục tiêu và chiến lƣợc dài hạn của
doanh nghiệp.
Bài giảng Quản trị học
36
CÂU HỎI ÔN TẬP
1 Môi trƣờng của một tổ chức là gì ?
2 . Theo anh (chị) những lực lƣợng nào là quan trọng nhất trong môi trƣờng bên ngoài tạo
ra sự không chắc chắn cho những tổ chức ngày nay? Những lực lƣợng anh (chị) nhận thức
phát sinh trong môi trƣờng vĩ mô hay môi trƣờng vi mô?
3. Những quyển sách quản trị bán hàng tốt nhất hiện này thƣờng cho rằng
khách hàng là yếu tố quan trọng nhất trong môi trƣờng bên ngoài. Anh (chị) có
đồng ý không? Có công ty nào không đúng nhƣ thế không?
4.Tại sao cƣơng vị quản lý môi trƣờng trở nên là mối quan tâm của các nhà
kinh doanh?
5. Quản trị có thể dùng những giải pháp nào để quản trị sự lệ thuộc của nó vào
những nhà cung cấp ? Những tổ chức cạnh tranh ? khách hàng ?
Bài giảng Quản trị học
37
Chƣơng 4
QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ
4.1. NỘI DUNG CỦA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ
4.1.1. Khái niệm
Ta có thể nhận thấy quá trình làm quyết định là quá trình nhận ra và xác
định bản chất vấn đề, nhận ra các biện pháp có thể đƣợc sử dụng, chọn biện
pháp phù hợp và thi hành biện pháp đó. Trên cơ sở thực tế đang xảy ra của một
tổ chức, nhà quản trị xem xét các biện pháp có thể thực hiện, hậu quả của việc
thực hiện các biện pháp từ đó đƣa ra quyết định sử dụng biện pháp nào cho có
hiệu quả. Nhƣ vậy quá trình ra quyết định quản trị thể hiện cả tính khoa học và
tính nghệ thuật trong hoạt động quản trị. Từ sự phân tích trên ta đi đến định
nghĩa quyết định quản trị nhƣ sau:
Quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra
những đường lối và tính chất hoạt động của một đối tượng (tổ chức) nhằm giải
quyết những vấn đề nảy sinh và đã chín muồi, trên cơ sở phân tích các quy luật
khách quan đang vận động, chi phối đối tượng và trên khả năng thực hiện của
đối tượng (tổ chức).
4.1.2 Các loại quyết định
Có rất nhiều cách phân loại quyết định quản trị, thông thƣờng các quyết
định quản trị đƣợc phân loại theo các tiêu thức sau:
4.1.2.1 Theo tính chất của vấn đề ra quyết định
- Quyết định chiến lược: Là những quyết định có tầm quan trọng, xác
định phƣơng hƣớng và đƣờng lối hoạt động của tổ chức. Thƣờng do các nhà
quản trị cấp cao thực hiện.
- Quyết định chiến thuật: Là những quyết định đƣợc thực hiện nhằm giải
quyết những vấn đề lớn bao quát một lĩnh vực hoạt động, thƣờng do các nhà
quản trị cấp giữa thực hiện.
- Quyết định tác nghiệp: Là những quyết định giải quyết những vấn đề
mang tính chuyên môn nghiệp vụ của các bộ phận. Thƣờng do các nhà quản trị
cấp thấp thực hiện.
4.1.2.2 Theo thời gian
- Quyết định dài hạn: Là những quyết định đƣợc thực hiện trong khoảng
thời gian dài, thƣờng dài hơn một vòng hoạch định.
- Quyết định trung hạn: Là những quyết định thực hiện trong thời gian
khá dài, nhƣng dƣới một vòng hoạch định
Bài giảng Quản trị học
38
- Quyết định ngắn hạn: Là những quyết định giải quyết tức thì, nhanh
chóng. Thƣờng là những quyết định mang tính nghiệp vụ thuần túy.
4.1.2.3 Theo phạm vi thực hiện
- Quyết định toàn cục: Là quyết định có tầm ảnh hƣởng đến tất cả các bộ
phận trong tổ chức.
- Quyết định bộ phận: Là những quyết định chỉ ảnh hƣởng đến một hay
vài bộ phận trong tổ chức.
4.1.2.4 Theo chức năng quản trị
- Quyết định kế hoạch: Liên quan đến phân tích xây dựng và lựa chọn
phƣơng án hay kế hoạch hoạt động.
- Quyết định về tổ chức: Liên quan đến xây dựng cơ cấu tổ chức hay vấn
đề nhân sự.
- Quyết định điều hành: Liên quan đến những mệnh lệnh, khen thƣởng,
động viên hay những cách giải quyết vấn đề.
- Quyết định về kiểm tra: Liên quan đến đánh giá kết quả, tìm nguyên
nhân hay biện pháp điều chỉnh hoạt động.
4.1.2.5 Theo phương thức soạn thảo
- Các quyết định được lập trình trước: Dùng trong những tình huống
thƣờng gặp, thể lệ và thủ tục đƣợc triển khai và áp dụng thƣờng xuyên.
- Các quyết định không lập trình: Dùng trong những tình huống bất
thƣờng, mới mẻ khác hẳn những phƣơng pháp chuẩn mà nhà quản trị phải
đoán, dùng trực giác, kinh nghiệm để nghĩ ra cách giải quyết phù hợp trong
từng hoàn cảnh.
Trong thực tế các nhà quản trị cấp cao thƣờng phải đối phó với các
quyết định không lập trình, ngƣợc lại các nhà quản trị cấp thấp hay làm quyết
định có lập trình.
Bảng 4.1: Bản chất của quyết định theo phƣơng thức soạn thảo
LOẠI BẢN CHẤT KỸ THUẬT LÀM QUYẾT ĐỊNH
Lập
trình
Lập lại và thƣờng xuyên, một
thủ tục nhất định đƣợc lập ra,
những quyết định không đƣợc
coi là mới.
Thói quen, cách điều hành căn
bản, những chƣơng trình, các xử lý
dữ liệu tự động.
Không
lập
trình
Mới mẻ, không cấu trúc, kết quả
bất thƣờng, không có phƣơng
pháp rõ ràng.
Phán đoán, trực giác, kinh nghiệm,
sáng tạo trong lựa chọn và thực
hiện.
4.1.3 Các cấp làm quyết định
Bài giảng Quản trị học
39
- Các nhà quản trị cấp cao: Thƣờng lập các quyết định không lập trình
phản ánh những tình huống phức tạp, có nhiều bất trắc nhƣ quyết định chiến
lƣợc, chính sách, kế hoạch lâu dài,....
- Các nhà quản trị cấp trung gian: Thƣờng lập các quyết định chiến
thuật, những quyết định quản trị liên kết tổ chức với môi trƣờng nhằm thực
hiện những mục tiêu do quản trị cấp cao đề ra.
- Các nhà quản trị cấp cơ sở: Các quyết định điều hành hàng ngày lập đi
lập lại, xảy ra trong những tình huống chắc chắn.
Mức độ chia sẻ làm các quyết định giữa các nhà quản trị cấp cao và cấp
thấp phụ thuộc vào ngành kinh doanh, bản chất vấn đề và đặc biệt là tính văn
hóa của dân tộc. Tuy nhiên ngày nay môi trƣờng ngày càng biến động, kỹ thuật
ngày càng thay đổi nhanh chóng thì khuynh hƣớng cá nhân làm quyết định
càng đƣợc coi trọng, chính vì thế trình độ văn hóa, khả năng chuyên môn và
kinh nghiệm của nhà quản trị ngày càng đƣợc chú trọng.
4.1.4 Chức năng và yêu cầu của quyết định quản trị
4.1.4.1 Chức năng của quyết định quản trị
Thông thƣờng một quyết định quản trị cần phải thể hiện đƣợc các chức
năng cơ bản sau:
- Chức năng định hướng: Khi quyết định xác định những phƣơng hƣớng
và tính chất hoạt động cho đối tƣợng.
- Chức năng bảo đảm: Khi quyết định chỉ ra và bảo đảm những điều
kiện cần thiết để đối tƣợng vận hành theo những phƣơng hƣớng đã vạch ra,
bảo đảm tính khả thi của quyết định.
- Chức năng phối hợp: Khi quyết định phải xác định những mối quan
hệ, vai trò và vị trí của các bộ phận tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề.
- Chức năng cưỡng bức: Một quyết định khi ban hành luôn phải có tính
mệnh lệnh, bắt buộc các đối tƣợng phải thi hành; đồng thời nó cũng phải bảo
đảm tính động viên và khuyến khích đối tƣợng tham gia với một tinh thần tự
giác cao nhất.
4.1.4.2 Các yêu cầu cơ bản của quyết định quản trị
Một quyết định quản trị khi ban hành phải thỏa mãn một số yêu cầu cơ
bản, nhằm bảo đảm tính khả thi và phù hợp với môi trƣờng và với đối tƣợng
mà quyết định hƣớng tới. Đây là những yêu cầu cơ bản đòi hỏi nhà quản trị khi
ban hành và thực hiện các quyết định của mình phải tuân thủ một cách đầy đủ
nhất. Các yêu cầu này có tầm quan trọng khác nhau và mức độ tuân thủ nó
cũng đòi hỏi những cố gắng khác nhau của nhà quản trị.
- Căn cứ khoa học: Quyết định quản trị phải tuân thủ các qui luật khách
quan đang vận động và chi phối đối tƣợng.
Bài giảng Quản trị học
40
- Tính thống nhất: Các quyết định quản trị phải bảo đảm tính thống nhất
giữa các bộ phận, các mục tiêu chung và riêng của đối tƣợng. Tránh những
mâu thuẩn và triệt tiêu lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyết định.
- Tính thẩm quyền: Các quyết định quản trị khi ban hành phải đúng thẩm
quyền của các nhà quản trị.
- Phải có địa chỉ rõ ràng: Quyết định quản trị phải có địa chỉ rõ ràng,
qui định và ràng buộc phạm vi thực hiện cho các đối tƣợng cụ thể.
- Tính thời gian: Quyết định quản trị phải kịp thời, đúng lúc có thời gian
và hạn mức thực hiện, bảo đảm khai thác kịp thời những cơ hội nảy sinh trong
quản trị.
- Tính hình thức: Quyết định quản trị phải có hình thức rõ ràng, dễ hiểu,
chính xác và đơn nghĩa.
4.2. QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH
4.2.1 Môi trƣờng làm quyết định
Trong điều kiện lý tƣởng thì các nhà quản trị sẽ ra quyết định khi có các
cơ sở đầy đủ để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên trong thực tế họ thƣờng phải đối
phó với những rủi ro và không chắc chắn từ đó việc ra quyết định còn phụ
thuộc rất lớn vào môi trƣờng làm quyết định. Có 3 loại môi trƣờng làm quyết
định sau:
- Môi trường chắc chắn (ổn định): Khi các nhà quản trị biết rõ các
phƣơng án cũng nhƣ điều kiện và hậu quả của hành động. Trong trƣờng hợp
này nhà quản trị thƣờng sử dụng cách thức so sánh để chọn ra một giải pháp có
lợi nhất trong trƣờng hợp xác định.
- Môi trường không chắc chắn: Phần lớn các quyết định trong điều kiện
hiện nay là trong tình trạng không chắc chắn, vừa không biết hết các tình
huống và cũng không lƣờng hết đƣợc các hậu quả. Những quyết định này đòi
hỏi sự tháo vát, chấp nhận rủi ro. Dƣới môi trƣờng này nhà quản trị không có
đủ thông tin và phải dựa trên suy đoán, kinh nghiệm của mình. Nếu suy đoán
sai hay không thích hợp, chắc chắn sẽ dẫn tới thất bại.
- Môi trường rất mơ hồ (Môi trường rủi ro): Khi vấn đề cần giải quyết
hay mục tiêu không rõ ràng, các đƣờng lối hành động không nhận ra thiếu
thông tin để dự đoán hậu quả. Những liên hệ mong manh và thay đổi thƣờng
xuyên. Đây là trƣờng hợp khó khăn nhất trong khi làm quyết định của các nhà
quản trị. Trƣờng hợp này nhà quản trị phải chấp nhận mạo hiểm.
4.2.2 Các bƣớc ra quyết định quản trị
Quá trình ra quyết định quản trị thể hiện qua sơ đồ 4.1
Bước 1: Nhận ra và xác định vấn đề cần quyết định. Đầu tiên các nhà
quản lý cần nhận thấy các vấn đề cần phải giải quyết, ở đây một vấn đề có thể
Bài giảng Quản trị học
41
Nhận ra và xác định tình huống
Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
Tìm kiếm các phƣơng án
Đánh giá các phƣơng án
Chọn phƣơng án tối ƣu
Quyết định
đƣợc định nghĩa là sự khác biệt giữa tình trạng mong muốn và hiện trang, nhà
quản lý phải đo đƣợc khoảng cách này. Giải quyết vấn đề là quá trình nhận ra
khoảng cách và đƣa ra hành động giải quyết. Trong bƣớc này nhà quản trị cần
phải nắm vững những nội dung sau:
- Truy tìm vấn đề: Xác định vấn đề cần giải quyết và mô tả vấn đề đó là
một trong những cơ sở quan trọng để ra quyết định quản trị. Chẳng hạn để sửa
sai nhƣng không biết sai gì? Vì vậy vấn đề ở đây là phải tìm ra cái sai. Để tìm
ra vấn đề nhà quản trị phải dựa vào thông tin, thông tin là những tri thức cần
thiết cho nhà quản trị tìm ra vấn đề và làm quyết định.
- Nguyên nhân và triệu chứng của vấn đề: Đây là một vấn đề quan trọng
vì thông qua nó nhà quản trị sử dụng các phƣơng pháp để giải quyết vấn đề
một cách phù hợp.
- Quyết định làm quyết định: Để quyết định có nên làm một quyết định
hay không, nhà quản trị phải trả lời 3 câu hỏi sau: (1) Vấn đề có dễ đối phó
không? (2) Vấn đề tự nó có thể sẽ qua đi hay không? (3) Nhà quản trị có cần
tác động đến nó hay không?
- Vấn đề khủng hoảng: Là những vấn đề bất ngờ xảy ra dẫn đến xáo
trộn, tai họa nếu không giải quyết ngay. Kế hoạch tốt có thể giảm thiểu khủng
hoảng nhƣng không một kế hoạch nào có thể loại trừ hết các tình huống nguy
hiểm. Nhà quản trị ở vị trí càng cao càng phải có khả năng giải quyết khủng
hoảng tốt và nhanh chóng. Tức là có khả năng xác định vấn đề nhanh chóng và
chính xác từ đó có các quyết định hợp lý.
Sơ đồ 4.1: Các bước ra quyết định quản trị
Bài giảng Quản trị học
42
Bước hai: Xác định những tiêu chuẩn cho quyết định. Khi đã xác định
rõ hoàn cảnh phải quyết định, nhà quản trị cần phải tìm ra các tiêu chuẩn đánh
giá quyết định, những tiêu chuẩn này sẽ là cơ sở đánh giá tính hiệu quả của
quyết định. Cần chú ý là các tiêu chuẩn của quyết định phải bảo đảm tính định
lƣợng, dễ hiểu, dễ đánh giá và thực tế.
Bước ba: Tìm kiếm các phƣơng án quyết định, số lƣợng các phƣơng án
tùy thuộc vào tính thời gian và tầm quan trọng của vấn đề cần quyết định.
Thông thƣờng khi có nhiều phƣơng án thì khả năng chọn lựa một phƣơng án
tốt là cao nhƣng lại mất thời gian và chi phí. Bƣớc này có thể dễ dàng hơn nếu
nhà quản trị có kinh nghiệm và am hiểu đối tƣợng quản lý.
Bước bốn: Đánh giá các giải pháp, cần phải đánh giá tất cả các giải
pháp đƣa ra, cần phải có một khuôn mẫu đánh giá cũng nhƣ những tiêu chuẩn
đánh giá đúng đắn.
Trƣớc hết cần đánh giá giải pháp ở tính khả thi, nếu không đạt ta không
xét tiếp, nếu đạt thì xét tiếp đến tính phù hợp và cuối cùng phải xét đến tính
hiệu quả của mỗi giải pháp. Ở bƣớc này chúng ta có thể quay lại bƣớc ba để
xác định lại các phƣơng án cho đến khi có đƣợc các phƣơng án đạt tiêu chuẩn.
Bước năm: Chọn giải pháp tốt nhất, chỉ có giải pháp nào qua đƣợc bƣớc
bốn thì mới xét tiếp và trong các giải pháp có thể chấp nhận đó ta chọn giải
pháp nào có tính khả thi cao nhất thích hợp nhất và hậu quả ít nhất trên quan
điểm hiệu quả tối ƣu.
Bước sáu: Quyết định cuối cùng, thực chất là thi hành giải pháp đã
chọn. Sự thành công của một quyết định phụ thuộc vào khả năng biến kế hoạch
thành hành động. Nhà quản lý phải biết tổ chức và thuyết phục. Đôi khi sự thất
bại chỉ đơn giản là không cho ngƣời nhân viên thấy tầm quan trọng của vấn đề
hay đôi khi nhà quản trị không tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của mọi ngƣời.
Trong quá trình thực hiện quyết định cần kiểm tra và đánh giá kết quả.
Kết quả phải đƣợc so sánh với chỉ tiêu để xem xét nó có hiệu quả hay không?
4.2.3 Các hình thức quyết định
- Quyết định cá nhân: Là những quyết định do nhà quản trị thực hiện
một mình dựa vào những thông tin đã có.
- Quyết định có tham vấn: Là những quyết định mà trƣớc đó nhà quản trị
đã có thêm thông tin hay ý kiến của ngƣời khác. Đây là loại quyết định rất cần
khi giải quyết những vấn đề phức tạp, phi cấu trúc hoặc là những vấn đề mà
nhà quản trị không hiểu sâu.
- Quyết định tập thể: Là những quyết định dựa trên ý kiến của một tập
thể quyết định. Quyết định này đảm bảo một quyết sách sáng tạo và cải thiện
mối quan hệ giữa các cá nhân. Nhà quản trị cần phải biết khi nào thì nên dùng
Bài giảng Quản trị học
43
loại quyết định này. Thông thƣờng loại quyết định này đƣợc thực hiện trong
một số hoàn cảnh:
- Có đủ thời gian.
- Mỗi thành viên tham dự có đủ thông tin nhƣ mong muốn.
- Các thành viên cam kết theo đuổi mục tiêu.
- Quyết định không lập trình trƣớc và có nhiều bất trắc.
- Muốn huấn luyện cấp dƣới trong việc ra quyết định.
4.3. CÁC CÔNG CỤ HỖ TRỢ VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH
Các nhà quản trị để có những quyết định hợp lý và có hiệu quả phải có
sự hỗ trợ của các công cụ định lƣợng và bán định lƣợng. Ngày nay sự phát
triển của công nghệ thông tin đã cho phép các nhà quản trị có thể tận dụng
nhiều kỹ thuật tính toán hiện đại vào quá trình ra quyết định của mình. Có
nhiều công cụ đƣợc sử dụng. Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu và điều kiện sử dụng
mà các nhà quản trị sử dụng công cụ thích hợp nhất.
4.3.1 Các công cụ định lƣợng
4.3.1.1 Ma trận kết quả kinh doanh
Ma trận này mô tả giá trị có thể có của những phƣơng án bằng cách trình
bày những hậu quả và những xác suất có thể xảy ra. Xác suất là những biến cố
có thể xảy ra, đƣợc gán cho giá trị từ 0 (không có khả năng xảy ra) đến 1 (chắc
chắn sẽ xảy ra). Giá trị dự liệu của một đƣờng lối hành động là tổng số giá trị
đƣợc dự liệu cho đƣờng lối đó nhân với xác suất xảy ra của từng giá trị. Ví dụ
một nhà quản trị dự định tung ra một sản phẩm mới, ông ta dự đoán xác suất
0,3 cho việc thu về 60.000$, 0,4 cho việc thu về 40.000$ và 0,3 cho việc lỗ
20.000$ thì lúc đó giá trị dự liệu sẽ là:
GTDL = 0.3x60.000 + 0.4x40.000 + 0.3x(-20.000) = 28.000$
Nhà quản trị sẽ so sánh giá trị dự liệu này với các giá trị dự liệu của các
phƣơng án khác, sau đó chọn phƣơng án nào có giá trị dự liệu cao nhất.
Ví dụ: Một nhà đầu tƣ có 100$ và ông ta có 3 công ty để lựa chọn "công
ty A, B, C". Ông tin tƣởng rằng doanh lợi sẽ phụ thuộc vào số bán của các
công ty và ông dự đoán với xác suất 0,4 cho việc số bán cao và 0,6 cho việc số
bán thấp cho cả 3 công ty. Sau khi nhờ tham vấn qua một trung tâm thông tin
ông có ma trận sau:
Số bán cao
(Xác suất 0,4)
Số bán thấp
(Xác suất 0,6)
Phƣơng án 1 Công ty A +45.000$ -10.000$
Bài giảng Quản trị học
44
Phƣơng án 2 Công ty B +80.000$ -25.000$
Phƣơng án 3 Công ty C +30.000$ -5.000$
Lúc này ta có:
GTDLA = 0.4 x 45.000 + 0.6 x (-10.000) = 12.000$
GTDLB = 0.4 x 80.000 + 0.6 x (-25.000) = 17.000$
GTDLC = 0.4 x 30.000 + 0.6 x (-5.000) = 9.000$
Từ kết quả trên cho thấy đầu tƣ vào công ty B là có triển vọng nhất
4.3.1.2 Cây quyết định
Cây quyết định là hình vẽ một chuỗi các quyết định cần thiết cho việc
xác định giá trị dự liệu của các đƣờng lối hành động. Trong đó ta qui định mỗi
khả năng mà ta ra quyết định có thể lựa chọn là một chiến lƣợc, còn mỗi kết
cục là một biến cố và giả thiết xác suất để xảy ra các biến cố bao giờ cũng biết.
Hình vuông là các điểm quyết định và hình tròn là khả năng lựa chọn. Cây
quyết định thực chất xây dựng trên kỹ thuật xác suất, hiện nay đƣợc ứng dụng
khá rộng rãi trong các lĩnh vực quản trị.
Ví dụ: Một công ty cần phải chọn giữa hai sản phẩm A và B, với lĩnh
vực hoạt động mà công ty đang kinh doanh, các nhà nghiên cứu cho rằng yếu
tố quan trọng trong đánh giá phƣơng án là doanh số bán.
- Với sản phẩm A có xác suất 0.55 cho số bán cao và thu về
30.000.000$, xác suất 0,45 cho số bán thấp và thu về 5.000.000$.
- Với sản phẩm B có xác suất 0.65 cho số bán cao và thu về
20.000.000$, xác suất 0,35 cho số bán thấp và thu về 10.000.000$.
Sử dụng phƣơng pháp cây quyết định ta có kết quả sau:
Qua kết quả trên cho thấy giá trị dự liệu của A là 18.750.000$ và của B
là 16.500.000$ điều này có nghĩa là việc đầu tƣ vào A là hợp lý hơn.
4.3.2 Các công cụ bán định lƣợng
4.3.2.1 Kỹ thuật Delphi
1
A
P = 0.55 S = 30.000.0000$
GTDL = 18.750.0000$
P = 0.45 S = 5.000.0000$
B
P = 0.65 S = 20.000.0000$
GTDL = 16.500.0000$
P = 0.35 S = 10.000.0000$
Bài giảng Quản trị học
45
Là kỹ thuật đƣợc sử dụng trong các quyết định tập thể nó không đòi hỏi
sự hiện diện của các thành viên và không bao giờ đối mặt nhau để tránh những
áp lực lên nhau. Kỹ thuật này gồm các bƣớc sau:
Bước 1: Vấn đề đặt ra, các thành viên đƣợc yêu cầu cho các giải pháp
thông qua việc trả lời một loạt các câu hỏi đƣợc chuẩn bị một cách cẩn thận.
Bước 2: Mỗi thành viên hoàn tất một cách độc lập bảng câu hỏi theo các
quan điểm và phƣơng án của mình.
Bước 3:Những kết quả của lần trả lời thứ nhất đƣợc tập hợp lại và in ra.
Bước 4: Đánh giá và in ra, mỗi thành viên nhận một bảng đánh giá kết
quả.
Bước 5: Sau khi xem xét lại kết quả những thành viên đƣợc yêu cầu cho
các giải pháp. Những kết quả đòi hỏi giải pháp mới hay những sửa chữa cho
những giải pháp ban đầu.
Nhắc lại bƣớc bốn và năm nhiều hay ít tùy theo yêu cầu cho đến khi có
sự nhất trí giữa các thành viên theo một giới hạn nhất định.
4.3.2.2 Kỹ thuật tập thể danh nghĩa
Là một nhóm các nhà quản trị có trách nhiệm ra quyết định họp lại để
tìm ra giải pháp trên cơ sở đánh giá các phƣơng án của mỗi cá nhân, các nội
dung sau:
- Những thành viên họp lại, trƣớc khi thảo luận mỗi ngƣời tự ghi những
ý kiến của mình.
- Tiếp theo mỗi ngƣời lần lƣợt trình bày những ý kiến của mình và cứ
tiếp tục nhƣ vậy cho tới khi không còn ý kiến của ai nữa, tất cả những ý kiến
đều đƣợc ghi lại đầy đủ.
- Tiếp theo tập thể thảo luận những ý kiến cho rõ ràng và đánh giá các ý
kiến, đánh giá chung.
- Mỗi thành viên độc lập cho điểm những ý kiến, quyết định sau cùng là
những ý kiến đƣợc nhiều điểm nhất.
4.4. NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ
4.4.1 Những phẩm chất cá nhân cần cho quyết định hiệu quả
Việc ra quyết định quản trị gắn liền với trình độ và nghệ thuật của nhà
quản trị, muốn có một quyết định hiệu quả nhà quản trị cần có những phẩm
chất cá nhân quan trọng sau:
- Kinh nghiệm: Đây là phẩm chất giữ một vai trò quan trọng trong việc
quyết định. Khi đối phó một vấn đề, nhà quản trị nhờ có kinh nghiệm giải
quyết nó trong quá khứ sẽ giải quyết vấn đề một cách dễ dàng, nhanh chóng và
có hiệu quả hơn.
Bài giảng Quản trị học
46
- Khả năng xét đoán: Là khả năng đánh giá thông tin một cách thông
minh và chính xác, bao gồm lƣơng tri, sự chín chắn, lý luận và kinh nghiệm.
Thông thƣờng khả năng xét đoán tăng lên cùng tuổi tác và kinh nghiệm. Tuy
nhiên có những ngƣời có nhiều kinh nghiệm nhƣng không có khả năng xét
đoán thì xử lý vấn đề nhiều khi vẫn không có hiệu quả. Khả năng xét đoán cần
thiết trong các bƣớc ccủa quá trình làm quyết định, nó cung cấp cho nhà quản
trị một cái nhìn hệ thống và bao quát vấn đề.
- Óc sáng tạo: Là khả năng kết hợp hay liên kết những ý tƣởng để đạt
đƣợc một kết quả vừa mới lạ vừa hữu hiệu. Những nhà quản trị dùng óc sáng
tạo của mình trong việc xác định những vấn đề mà các giải pháp, làm cho các
giải pháp phong phú và hình dung đƣợc những kết quả cuối cùng. Có thể nói,
óc sáng tạo là phát hiện những khả năng lựa chọn và nhà quản trị nhờ vào kinh
nghiệm, kến thức,... để phát triển những khả năng lựa chọn mới.
- Khả năng định lượng: Phẩm chất này liên quan đến khả năng sử dụng
những kiến thức toán học, những phƣơng pháp định lƣợng trong quản trị. Đó là
những kỹ thuật giúp nhà quản trị đạt đƣợc những quyết định hiệu quả nhất,
cung cấp những phƣơng pháp khả quan để phân tích và đánh giá đúng vấn đề.
4.4.2 Nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyết định
Tổ chức thực hiện quyết định là một vấn đề quan trọng và là một quá
trình khó khăn phức tạp, nếu quyết định tốt nhƣng triển khai thực hiện quyết
định lại không tốt thì hiệu quả sẽ không đạt đƣợc. Để thực hiện tốt quá trình
thực hiện quyết định cần làm tốt các công việc sau:
- Triển khai quyết định: Bƣớc này đòi hỏi nhà quản trị phải triển khai cụ
thể rõ ràng các nội dung của quyết định tới các nhóm và cá nhân có trách
nhiệm thực thi, bảo đảm rằng các bộ phận liên quan thấu hiểu trách nhiệm và
vị trí của mình trong hoạt động, đồng thời phải đúng thời gian. Cần phải kiểm
tra đánh giá sự am hiểu nhiệm vụ của các bộ phận, nếu có sự hiểu lầm hay
chƣa rõ nhiệm vụ thì nhất thiết phải triển khai lại.
- Bảo đảm các điều kiện vật chất: Đây là điều kiện tất yếu để triển khai
các giải pháp đã lựa chọn. Nếu điều kiện vật chất không đƣợc đảm bảo về số
lƣợng hoặc tiến độ thời gian sẽ dẫn tới sự đình trệ trong việc triển khai quyết
định.
- Giữ vững thông tin phản hồi: Khi giữ vững thông tin phản hồi nhà
quản trị có thể phối hợp có hiệu quả và nhịp nhàng giữa các bộ phận, nhanh
chóng giải quyết các trì trệ và các phát sinh có nguy cơ cản trở hoạt động và
nhận diện những sai lệch để sửa chữa kịp thời.
- Tổng kết và đánh giá kết quả: Nhanh chóng đánh giá kết quả từ việc
thực hiện quyết định để rút ra các kinh nghiệm và các bài học, làm cho các
vòng quyết định sau có hiệu quả hơn.
Bài giảng Quản trị học
47
4.4.3 Các trợ giúp khi làm quyết định
- Người phản bác: Trong quá trình làm quyết định ta bầu một ngƣời làm
phản bác những quyết định và các ý kiến mà ta đƣa ra. Cách thức này giúp nhà
quản trị có thêm ý kiến và phát hiện những vấn đề mới mà khi làm quyết định
ta không nghĩ ra, nó cũng giảm thiểu đầu óc bè phái và những suy nghĩ lối
mòn.
- Tham vấn đa nguyên: Cũng tƣơng tự nhƣ phản bác nhƣng ta sử dụng
nhiều nhóm đại diện nhiều quan điểm khác nhau để tham gia chất vấn. Biện
pháp này bảo đảm mọi quan điểm đều đƣợc quan tâm đúng mức và nó làm
tăng tính hiệu quả của quyết định.
- Chất vấn biện chứng: Một nhóm đƣợc chỉ định đóng vai phản bác
những giá trị, những suy đoán ban đầu của ngƣời làm quyết định. Nhƣ thế
buộc ngƣời ra quyết định phải xét lại những suy đoán và các quyết định của
mình đồng thời phải giải quyết những vấn đề mà nhóm chất vấn biện chứng
đƣa ra. Phƣơng pháp này thông thƣờng nảy sinh những đƣờng lối hành động
tốt hơn.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày tiến trình ra quyết định. Khi đƣa ra bất kỳ một quyết định nào
cũng phải theo tiến trình này phải không? Tại sao?
2. Quyết định của anh (chị) để trở thành sinh viên của Học viện liên quan đến
sự hợp lý có giới hạn phải không? Giải thích câu trả lời của anh (chị)?
3. Trình bày việc ra quyết định trong những điều kiện khác nhau nhƣ thế nào?
4. Trình bày các loại mô hình ra quyết định?
5. Phân tích ƣu nhƣợc điểm của phƣơng pháp ra quyết định cá nhân và phƣơng
pháp ra quyết định tập thể.
Bài giảng Quản trị học
48
Chƣơng 5
CHỨC NĂNG HOẠCH ĐỊNH
5.1. KHÁI NIỆM VÀ TÁC DỤNG CỦA HOẠCH ĐỊNH
5.1.1. Khái niệm
Hoạch định là một quá trình ấn định những mục tiêu và xác định biện
pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu đó. Nó liên hệ với những phƣơng
tiện cũng nhƣ với mục đích. Tất cả những ngƣời quản lý đều làm công việc
hoạch định. Thuật ngữ hoạch định ở đây chỉ hoạch định chính thức. Có những
mục tiêu riêng biệt đƣợc viết ra thành văn bản để cho các thành viên của tổ
chức sử dụng và đƣợc thực hiện trong vài năm. Sau cùng, hoạch định của quản
trị vạch rõ con đƣờng để đi tới mục tiêu đã đặt.
5.1.2 Tác dụng của hoạch định
Hoạch định cho ta sự hƣớng dẫn, giảm bớt những hậu quả của thay đổi,
giảm thiểu những lãng phí lặp lại và đặt ra những tiêu chuẩn để kiểm soát đƣợc
dễ dàng.
Hoạch định đòi hỏi nhà quản trị phải nhìn trƣớc, lo trƣớc những biến
đổi, xem xét những tác động của biến đổi và chuẩn bị những đáp ứng thích
đáng. Hoạch định giúp nhà quản trị và tổ chức những lợi ích chính:
- Tƣ duy có hệ thống để tiên liệu các tình huống quản trị.
- Phối hợp mọi nỗ lực của doanh nghiệp hữu hiệu hơn.
- Tập trung vào các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp.
- Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức quản trị trong quan hệ
hợp tác và phối hợp với các quản trị viên khác trong tổ chức.
- Sẵn sàng ứng phó và đối phó với những thay đổi của môi trƣờng bên
ngoài.
- Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra nhằm làm cho các hoạt
động đó đúng mục tiêu.
5.2. CÁC LOẠI HOẠCH ĐỊNH
5.2.1 Hoạch định chiến lƣợc
Loại hoạch định này, nhà quả trị xác định mục tiêu sản xuất kinh doanh
và các biện pháp lớn có tính cơ bản để đạt đến mục tiêu trên cơ sở các nguồn
lực hiện có cũng nhƣ những nguồn lực có khả năng huy động.
5.2.2 Hoạch định tác nghiệp
Là hoạch định nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động ở các đơn vị cơ
sở, mang tính chi tiết và ngắn hạn, thƣờng ở các lĩnh vực cụ thể. Giữa các loại
hoạch định khác nhau trƣớc hết ở thời hạn, khuôn khổ và ở việc nêu ra những
Bài giảng Quản trị học
49
mục tiêu. Đối với những hoạch định tác nghiệp, thời hạn có thể là hàng ngày,
hàng tuần và hàng tháng. Đối với hoạch định chiến lƣợc thì thƣờng là từ vài
năm trở lên và thƣờng bao quát một lĩnh vực rộng và có ít những chi tiết xác
định hơn với những mục tiêu đƣợc nêu rõ.
Hình 5.1 Các loại hoạch định
5.3. MỤC TIÊU
Mỗi chức năng quản trị đều phải hƣớng về mục tiêu đã định của tổ chức,
nhƣng chức năng hoạch định giữ vai trò chủ đạo trên tiến trình đạt mục tiêu.
Nói cách khác: Mục tiêu là nền tảng của hoạch định. Vậy mục tiêu là gì?
5.3.1 Khái niệm
Có thể nói mục tiêu là những mong đợi mà nhà quản trị muốn đạt đƣợc
trong tƣơng lai cho tổ chức của mình, là phƣơng tiện để đạt tới sứ mạng. Mục
tiêu thƣờng là những mốc cụ thể, linh hoạt, phát triển từng bƣớc hƣớng đến
mục đích lâu dài của tổ chức.
Như vậy, Mục tiêu quản trị là những trạng thái mong đợi có thể có và
cần phải có của hệ thống bị quản trị tại một thời điểm hoặc sau một thời
gian nhất định.
Các nhà nghiên cứu về Quản trị học còn phân biệt giữa mục tiêu thật và
mục tiêu tuyên bố. Các mục tiêu tuyên bố tuỳ theo đối tƣợng của tổ chức là ai
Mục tiêu
Kế hoạch chiến lƣợc
Kế hoạch tác nghiệp
Kế hoạch đơn dụng Kế hoạch thƣờng trực
Ngân sách
Chƣơng trình
Dự án
Chính sách
Thủ tục
Quy định
Cho các hành
động lặp lại
Cho các hành động
không lặp lại
Bài giảng Quản trị học
50
để diễn đạt khác nhau. Mục tiêu tuyên bố có thể khác mục tiêu thật nhƣng đều
chứa đựng sự thật. Nếu không nhƣ thế, mục tiêu khó sức thuyết phục.
5.3.2 Vai trò của mục tiêu
Hoạt động quản trị dù kinh doanh hoặc phi kinh doanh đều đƣợc xem
nhƣ vừa là cơ cấu có tính cách tĩnh vừa là quá trình hoặc tiến trình có tính cách
động nên vai trò của mục tiêu quản trị cũng thể hiện hai mặt.
- Mặt tĩnh tại, khi xác định cụ thể các mục tiêu mà tổ chức theo đuổi, đặt
chúng làm nền tảng của hoạch định, nhằm xây dựng hệ thống quản trị.
- Mặt động, khi hƣớng đến mục đích chiến lƣợc lâu dài của tổ chức.
Theo ý nghĩa này, các mục tiêu quản trị không phải là những điểm mốc cố
định, mà là linh hoạt phát triển với những kết quả mong đợi ngày càng cao hơn
trên cơ sở xem xét các nguồn lực hiện có hoặc sẽ có của tổ chức. Với tính cách
động này, các mục tiêu giữ vai trò hết sức quan trọng đối với các tiến trình
quản trị, quyết định toàn bộ diễn biến của tiến trình này.
5.3.3 Các yêu cầu của mục tiêu
- Đảm bảo tính liên tục và kế thừa
- Phải rõ ràng và mang tính định lƣợng
- Phải tiên tiến để thể hiện đƣợc sự phấn đấu của các thành viên
- Xác định rõ thời gian thực hiện
- Có các kết quả cụ thể
5.3.4 Đặt mục tiêu theo lối truyền thống
Vai trò truyền thống của mục tiêu là kiểm soát, áp đặt bởi quản trị cấp
cao cho tổ chức. Ví dụ Giám đốc công ty chỉ thị cho Phó giám đốc sản xuất là
chi phí sản xuất cho năm tới sẽ phải nhƣ thế nào,…
Đặc trƣng chủ yếu của lối đặt mục tiêu trên là những mục tiêu đã đƣợc
đặt từ trên đỉnh rồi chia thành những mục tiêu nhỏ hơn cho mỗi cấp của tổ
chức. Nó giả thiết rằng cấp thƣợng đỉnh mới nhìn đƣợc “bức tranh lớn”. Một
đặc trƣng khác là mục tiêu thƣờng không rõ ràng và thiếu thống nhất, khi nó đi
từ cấp tột đỉnh xuống các cấp dƣới. Ở cấp cao nhất nó chỉ có tính hƣớng dẫn.
Nhà quản trị cấp dƣới sẽ tuỳ theo sự giải thích riêng của mình cùng với những
thiên kiến mà làm cho nó có tính hiện thực hơn.
5.3.5 Quản trị bằng mục tiêu (MBO)
Một trong những phát triển đáng lƣu ý nhất trong quản trị học hiện đại là
chƣơng trình quản trị theo mục tiêu (MBO: Management By Objectives). Đặc
tính MBO là mỗi thành viên trong tổ chức tự nguyện ràng buộc và tự cam kết
hành động trong suốt quá trình quản trị theo mục tiêu, từ hoạch định đến kiểm
tra. Tác dụng tích cực của MBO là hợp nhất các yêu cầu của tổ chức, hay nói
Bài giảng Quản trị học
51
cách khác, hài hoà giữa mục tiêu và tổ chức. Từ khi hình thành vào giữa thập
niên 1950 (các tác giả tiên phong Peter F.Drucker và Mc Gregor) đến nay,
MBO đã đóng các vai trò sau:
- Ban đầu MBO là phƣơng pháp đánh giá sự hoàn thành nhiệm vụ.
- Sau đó MBO là phƣơng tiện thúc đẩy cá nhân làm việc tốt, hợp tác
trong lao động.
- Gần đây MBO là công cụ xây dựng kế hoạch chiến lƣợc.
- Hiện nay MBO đóng vai trò chính (thay vì phụ trợ cho các công việc
quản trị trƣớc đây) trong tiến trình quản trị, hoặc nói cách khác các
hoạt động quản trị đều gắn liền với MBO nhƣ hình với bóng.
Bốn yếu tố căn bản của chƣơng trình MBO hiện nay là:
1. Sự cam kết của quản trị viên cao cấp (trách nhiệm lãnh đạo) với hệ
thống MBO. Đây là yếu tố cơ bản, thiếu nó MBO sẽ không thể triển khai đƣợc.
2. Sự hợp tác của các thành viên trong tổ chức để xây dựng mục tiêu
chung.
3. Sự tự nguyện tự giác với tinh thần tự quản của các thành viên để thi
hành kế hoạch chung.
4. Tổ chức kiểm soát định kỳ việc thực hiện kế hoạch và thực hiện các
hành động điều chỉnh thích hợp.
5.3.5.1 Quá trình MBO
Quá trình MBO có 4 yếu tố: đặt mục tiêu, hoạch định hành động, tự
kiểm soát và duyệt lại theo kỳ hạn. Mỗi yếu tố đó có thể đổi thành những bƣớc
xác định. Bất cứ kết quả ở cấp bậc nào của quá trình đó cũng là do sự cố gắng
chung của cả hai cấp trên và cấp dƣới.
Trong hoạch định hành động, những phƣơng tiện để đạt những mục đích
đƣợc liên kết phát triển. Nó nhận ra đƣờng lối để đạt những mục đích. Việc
này gồm có sự nhận ra những hoạt động cần thiết để đạt mục tiêu thiết lập
những liên hệ trọng yếu giữa các hoạt động đó, chỉ định trách nhiệm, ƣớc
lƣợng thời gian cần thiết và ấn định những nguồn lực cần thiết cho mỗi hoạt
động. Tự kiểm soát có nghĩa là những cá thể tự làm lấy việc theo dõi một cách
có hệ thống và đo lƣờng sự thực hiện của chính mình.
Yếu tố cuối cùng là xét duyệt định kỳ, đánh giá thực hiện và tiến hành
sửa chữa, khi có sự lệch khỏi mục tiêu đã định. Những xét duyệt này không
phải để tìm lỗi và chỉ trích nhân viên mà có tính xây dựng và giúp đỡ trong
tƣơng lai. Bình thƣờng một năm xét duyệt 2 – 3 lần.
5.3.5.2 MBO có hiệu quả không
Bài giảng Quản trị học
52
Đánh giá hiệu quả của MBO là một công việc phức tạp. Rất nhiều cuộc
khảo sát đều cho rằng những mục tiêu khó khăn mang lại những mức thực hiện
cao hơn, so với những mục tiêu dễ, rằng những mục tiêu khó và xác định mang
đến những mức thực hiện cao hơn là không có mục tiêu hay có một mục tiêu
đại khái “Làm cho thật tốt”, rằng sự trợ giúp về thực hiện đƣa đến những kết
quả thực hiện cao hơn.
Việc nghiên cứu về xây dựng mục tiêu cho biết MBO hiệu quả nhất khi
những mục tiêu đủ khó để đòi hỏi nỗ lực của ngƣời thực hiện. Nhờ trợ giúp
ngƣời thừa hành có thể biết mức cố gắng của mình đã đủ chƣa, có cần phải
tăng lên không, hoặc đòi hỏi một mục tiêu sau khó hơn.
Hình 5.2: Quá tình MBO
Về sự tham dự, MBO luôn đề cao rằng mục tiêu phải đƣợc đề ra với sự
tham dự rộng rãi của tập thể. Để kết luận về MBO, chúng tôi xin đề xuất ba
biến cố ngẫu nhiên có thể quyết định sự thành bại của nó. Đó là văn hoá của tổ
chức, sự đảm nhận của quản lý cấp cao và loại tổ chức. Những biến cố đó có
thể giải thích những thành công và thất bại của MBO. Sự thành công của MBO
cần phải có một sự hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao làm yếu tố quyết định
cho khen thƣởng, cần có nhiệt tình và ủng hộ vì MBO là một phƣơng thức rất
nhân bản và cho rằng ngƣời ta biết trách nhiệm và có khả năng giữ một vai trò
Đặt mục
tiêu
Thiết kế
hành động
Tự kiểm
soát
Duyệt xét
định kỳ
Những yếu tố chủ yếu
Những bƣớc đi chính
1. Trình bày những mục
tiêu và chiến lƣợc dài
2. Thể hiện những mục tiêu
toàn bộ xác định của tổ
3. Thiết lập mục tiêu của
ngành
4. Đặt những mục tiêu của
những công việc cá thể.
5. Trình bày những kế hoạch
hành động
6. Thực hiện và tiến hành
sửa chữa.
7. Duyệt xét và tiến tới mục
tiêu.
8. Đánh giá toàn bộ việc
thực hiện và tăng cƣờng
huấn luyện, bổ sung,…
Bài giảng Quản trị học
53
chủ động trong việc thiết lập những mục tiêu thực hiện. MBO có thể thất bại
nếu những phần thƣởng không dựa vào những kết quả thực hiện nhiệm vụ
đƣợc giao.
MBO trong những tổ chức thuộc khu vực công cộng khó thành công hơn
trong những doanh nghiệp sản xuất vì khó phát triển đƣợc những mục tiêu rõ
ràng.
5.4. QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA HOẠCH ĐỊNH
5.4.1 Những yếu tố ngẫu nhiên trong hoạch định
Ở những cấp dƣới phần lớn là những kế hoạch chiến thuật. Càng lên
cao, việc hoạch định càng có xu hƣớng chiến lƣợc. Ở những tổ chức lớn, hầu
hết công việc hoạch định của những nhà quản trị tột đỉnh đều thuộc loại chiến
lƣợc. Tất nhiên trong một tổ chức kinh doanh nhỏ, ngƣời quản trị kiêm chủ sở
hữu cần phải làm cả hai loại hoạch định chiến lƣợc và chiến thuật.
a. Chu kỳ đời sống của một tổ chức
Những tổ chức cũng phải trải qua một chu kỳ đời sống, lần lƣợt qua các
giai đoạn: hình thành, phát triển, trƣởng thành và có thể có suy thoái. Hoạch
định không giống nhau trong các giai đoạn.
Hình thành Phát triển Trƣởng thành Suy thoái
Những kế hoạch
hƣớng dẫn
Những kế hoạch
ngắn hạn xác
định
Những kế hoạch
dài hạn xác định
Những kế hoạch
ngắn
Hình 5.3: Kế hoạch và chu kỳ đời sống của tổ chức
Trong giai đoạn hình thành, ngƣời quản trị phải dựa vào những kế hoạch
hƣớng dẫn, vì giai đoạn này cần hết sức linh động: Mục tiêu chỉ có thử thách,
nguồn lực sẵn có không chắc chắn, khách hàng chƣa bền chặt. Trong những
điều kiện đó, những kế hoạch hƣớng dẫn sẽ cho ta nhiều linh động. Ở giai đoạn
phát triển những kế hoạch cần phải xác định hơn vì mục tiêu rõ ràng hơn, tài
nguyên đƣợc bảo đảm hơn và quan hệ với khách hàng bền chặt hơn. Khuôn
mẫu đó đảo ngƣợc lại trong phần đi xuống của chu kỳ. Từ giai đoạn trƣởng
thành sang suy thoái, những kế hoạch đi từ xác định sang hƣớng dẫn, trong khi
những mục tiêu đƣợc xét lại, những nguồn lực đƣợc cấp phát lại và cần tới
điều chỉnh khác.
Th
ực
hiệ
n
Bài giảng Quản trị học
54
Thời gian của hoạch định cũng phải liên hệ với chu kỳ đời sống. Kế
hoạch ngắn hạn cho sự linh động tối đa, nên phải đƣợc sử dụng ƣu tiên trong
những giai đoạn hình thành và suy thoái. Ở giai đoạn trƣởng thành, sự ổn định
đã đạt ở mức cao nhất, thì kế hoạch dài hạn sẽ có lợi nhất.
b. Mức độ bất trắc của hoàn cảnh
Sự bất trắc của hoàn cảnh càng lớn thì càng cần phải dùng những kế
hoạch hƣớng dẫn và ngắn hạn. Nếu có những thay đổi nhanh chóng và quan
trọng về kỹ thuật, xã hội, kinh tế, pháp luật,… thì những đƣờng lối rất xác định
và thiết lập tỉ mỉ không những không giúp ích cho sự thực hiện của tổ chức, mà
còn làm trở ngại nữa. Khi độ bất trắc cao, những kế hoạch xác định phải đƣợc
sửa lại cho phù hợp với biến đổi, làm tốn kém và giảm hiệu suất. Sự thay đổi
càng lớn thì kế hoạch càng phải bớt xác định, việc quản trị càng linh động hơn.
Điều đó có nghĩa là càng cần tới những kế hoạch ngắn hạn.
c. Độ lâu dài của những ràng buộc tương lai
Một yếu tố ngẫu nhiên cuối cùng liên quan tới khung thời gian của
những kế hoạch. Những kế hoạch hiện thời càng tác động sâu vào những ràng
buộc tƣơng lai, thì khung thời gian mà quản lý phải hoạch định càng phải lâu
hơn. Quan niệm ràng buộc này có nghĩa là những kế hoạch phải đủ xa để có
thể nhìn thấy suốt qua những ràng buộc có đƣợc hiện nay. Hoạch định cho một
thời kỳ quá dài hay quá ngắn đều là vô hiệu .
5.4.2 Quá trình cơ bản của hoạch định
Nói chung, công tác hoạch định có thể bao gồm các bƣớc cơ bản sau
đây, áp dụng cho mọi hoạt động hoạch định và cho mọi cấp quản trị.
Bước 1: Xác định mục tiêu: Công tác hoạch định bắt đầu với những
quyết định về những gì mà tổ chức hoặc đơn vị phải làm và muốn đạt đến. Nếu
không xác định rõ ràng các mục tiêu, tổ chức sẽ phân tán tài nguyên trên một
diện rộng và không tập trung để thành đạt những điều cụ thể. Vì vậy, phải xác
lập các mục tiêu ƣu tiên và phải thấy những mục tiêu cụ thể cần đạt đƣợc. Chỉ
với công tác đó, nhà quản trị mới có thể phân bổ và sử dụng tài nguyên một
cách hữu hiệu.
Bước 2: Xác định tình thế hiện tại của tổ chức
Hiện nay, tổ chức hay đơn vị còn ở cách mục tiêu bao xa? Có những tài
nguyên nào hiện có để có thể sử dụng? Chỉ có sau khi phân tích và hiểu rõ tình
hình, nhà quản trị mới có thể hoạch định những bƣớc kế tiếp để làm kế hoạch.
Trong giai đoạn này, việc trao đổi thông tin trong nội bộ tổ chức cũng nhƣ với
bên ngoài – đặc biệt là các dữ kiện tài chính và thống kê là rất cần thiết.
Bước 3: Xác định các thuận lợi và khó khăn của việc hoàn thành mục
tiêu
Bài giảng Quản trị học
55
Những yếu tố nào của môi trƣờng bên trong và môi trƣờng bên ngoài có
thể giúp tổ chức thành đạt mục tiêu? Những yếu tố nào có thể tạo ra vấn đề?
Thông thƣờng, những gì hiện đang xảy ra thì dễ nhận thấy hơn là tƣơng lai.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nhà quản trị nên cố gắng dự báo các tình
huống tƣơng lai, các vấn đề sẽ có thể nảy sinh và những cơ hội có thể có.
Bước 4: Xây dựng kế hoạch hoặc hệ thống những hoạt động để đạt mục
tiêu
Bƣớc này trong tiến trình công tác kế hoạch là tìm ra những giải pháp
hành động khác nhau để hoàn thành mục tiêu, lƣợng giá các giải pháp và chọn
giải pháp tốt nhất để thành đạt mục tiêu đã định. Đây là giai đoạn mà nhà quản
trị phải làm những quyết định hành động cho tƣơng lai.
Bước 5: Thực hiện kế hoạch
Cuối cùng trong tiến trình hoạch định là đƣa kế hoạch ra thực hiện.
Những nhà quản trị làm kế hoạch mà không hành động, chỉ làm phí phạm thì
giờ. Công tác kế hoạch không chấm dứt khi kế hoạch đã đƣợc soạn thảo và
nhất trí. Kế hoạch phải đƣợc thực hiện. Trong tiến trình thực hiện và đƣợc
kiểm tra, kế hoạch có thể cần phải điều chỉnh để tránh thiệt hại hoặc làm những
việc vô ích. Làm đi làm lại kế hoạch, đôi khi lại là yếu tố cơ bản để đạt đến
thành quả cuối cùng.
5.4.3 Hoạch định chiến lƣợc
Hoạch định chiến lƣợc liên quan đến việc xác định những mục tiêu dài
hạn, bao quát toàn bộ tổ chức và chiến lƣợc hành động để thực hiện mục tiêu,
căn cứ trên hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và sự tác động của môi trƣờng.
Ngƣời ta đề xuất là quản trị ở các doanh nghiệp lớn có thể theo một trong bốn
loại chiến lƣớc: ổn định, phát triển, cắt giảm để tiết kiệm, hay phối hợp những
chiến lƣợc trên.
5.4.3.1 Chiến lược ổn định: Đặc tính của một chiến lƣợc ổn định là không có
biến đổi đáng kể, chẳng hạn nhƣ tiếp tục phục vụ những khách hàng vẫn có,
cung cấp sản phẩm và dịch vụ vẫn có, duy trình thành tích vối mức lời tính trên
tiền đầu tƣ của tổ chức. Quản lý sẽ theo đuổi sự ổn định khi họ thấy thành tích
của tổ chức là thoả đáng, môi trƣờng có vẻ không thay đổi. Nhận ra đƣợc một
tổ chức đang theod duổi mộtchiến lƣợc ổn định không phải là một chuyện dễ,
trừ phi những ngƣời quản trị cấp tột đỉnh chấp nhận điều đó. Đối với rất nhiều
nhà quản trị, phát triển vẫn có sức lôi cuốn. Cắt giảm để tiết kiệm chỉ đƣợc coi
là điều tệ hại cần thiết. Tích cực theo đuổi sự ổn định có thể bị coi là tự mãn.
5.4.3.2 Chiến lược Phát triển: Phát triển có một sức cám dỗ rất lớn đối với
nhiều nhà quản trị. Càng lớn càng tốt, càng nhiều càng hay. Đối với họ, phát
triển có nghĩa là tăng thêm mức hoạt động của tổ chức, tức là thêm thu nhập,
thêm nhân viên và thêm phần tham gia thị trƣờng. Phát triển có thể thực hiện
Bài giảng Quản trị học
56
bằng cách trực tiếp khuyếch trƣơng, hợp nhất với những hãng cùng loại, hay
đa dạng hoá.
5.4.3.3 Chiến lược cắt giảm để tiết kiệm: Đã có thời từ này là một từ tồi tệ,
nhƣng trong thời gian suy thoái kinh tế đây là một loại chiến lƣợc rất phổ biến.
Khi không còn những tài nguyên thiên nhiên và nhân lực rẻ, những tín dụng lãi
suất thấp và khi có sự cạnh tranh mạnh mẽ của đối thủ, thì nhiều nhà quản trị
nhận ra là mình cần theo đuổi chiến lƣợc cắt giảm để tiết kiệm, có nghĩa là
giảm bớt kích thƣớc hay tính đa dạng của những hoạt động của tổ chức.
5.4.3.4 Chiến lược phối hợp: Một chiến lƣợc phối hợp có thể là sự theo đuổi
hay hay nhiều chiến lƣợc kể trên cùng một lúc, nhƣng thuộc hai bộ phận khác
nhau của tổ chức hoặc sử dụng hai hay nhiều chiến lƣợc kể trên cùng một lúc.
Không có gì lạ khi một tổ chức đa dạng hoá theo đuổi những chiến lƣợc khác
nhau trong những chi nhánh khác nhau.
5.4.4 Hoạch định tác nghiệp
Hoạch định tác nghiệp là những hoạch định liên quan đến việc triển khai
các chiến lƣợc trong những tình huống cụ thể và ở những thời gian ngắn
(thƣờng là hàng quý hoặc hàng năm). Nội dung chủ yếu của hoạch định tác
nghiệp là định ra chƣơng trình hoạt động ngắn, sử dụng các nguồn lực đã phân
bổ để hoàn thành các nhiệm vụ đã đƣợc đề ra.
Các kế hoạch tác nghiệp đƣợc chia thành 2 loại: Kế hoạch đơn dụng và
kế hoạch thƣờng trực. Nhà quản trị làm các kế hoạch đơn dụng để hoàn thành
những mục tiêu cụ thể và chấm dứt khi mục tiêu đã hoàn thành. Trái lại, các kế
hoạch thƣờng trực là những cách thức hành động đã đƣợc tiêu chuẩn hoá để
giải quyết những tình huống thƣờng xảy ra và có thể thấy trƣớc.
5.4.4.1 Các kế hoạch đơn dụng
Các kế hoạch đơn dụng là những phƣơng thức hoạt động sẽ không đƣợc
lập lại nguyên xi trong tƣơng lai. Các loại kế hoạch đơn dụng chủ yếu là
chƣơng trình (progam), dự án (project) và ngân sách (budget).
Chương trình bao gồm một loạt khá nhiều các hoạt động. Mỗi chƣơng
trình sẽ quy định (1) những bƣớc hành động chính để đạt đến mục tiêu (2) đơn
vị hay cá nhân chịu trách nhiệm cho mỗi bƣớc hành động, và (3) thứ tự và thời
gian của mỗi bƣớc hành động.
Dự án là những phần nhỏ và tách biệt của một chƣơng trình. Các dự án
thƣờng có phạm vi hẹp và có những chỉ dẫn cụ thể về công việc và thời gian và
thƣờng đƣợc giao cho từng ngƣời cụ thể phụ trách.
Ngân sách là bản tƣờng trình tài nguyên tiền bạc đƣợc dành cho những
hoạt động cụ thể trong một thời gian nhất định. Đây là những công cụ chủ yếu
Bài giảng Quản trị học
57
để kiểm tra hoạt động của một xí nghiệp và cũng là phần quan trọng trong các
chƣơng trình và dự án.
5.4.4.2 Các kế hoạch thường trực
Khi các hoạt động trong xí nghiệp là những hoạt động thƣờng xuyên lặp
đi lặp lại, có thể chỉ cần một lần quy định là đủ để hƣớng dẫn các hoạt động sẽ
lặp lại đó. Với các kế hoạch thƣờng trực, nhà quản trị có thể tiết kiệm đƣợc khá
nhiều thì giờ làm quyết định đối với những tình huống giống nhau. Ví dụ: nếu
ngân hàng có quy định rõ rệt về chính sách cho vay tín dụng, trƣờng hợp nào
đúng chính sách sẽ đƣợc chấp thuận, trƣờng hợp nào sai sẽ bị bác bỏ. Việc
quyết định nhờ vậy mà sẽ nhanh chóng, tiết kiệm đƣợc công sức và thì giờ.
Các loại kế hoạch thƣờng trực chủ yếu là: chính sách (policy), thủ tục
(procedure) và quy định (rule).
Chính sách là những hƣớng dẫn tổng quát về việc làm quyết định,
hƣớng dẫn tƣ duy của nhân viên vào mục tiêu của xí nghiệp. Trong phạm vi
quản trị xí nghiệp, có những chính sách quan trọng nhƣ chính sách về vệ sinh
thực phẩm trong công nghiệp đồ hộp và cũng có những chính sách ít quan
trọng hơn nhƣ cách thức ăn mặc của nhân viên trong xí nghiệp. Chính sách
thƣờng do cấp quản trị tối cao trong xí nghiệp quy định, xuất phát từ nhu cầu
gia tăng hiệu quả hoạt động, phản ánh hệ thống giá trị của họ (ví dụ về màu sắc
y phục), và cũng có thể để giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn có thể xảy
ở cấp dƣới. Chính sách của xí nghiệp cũng có thể đƣợc hình thành một cách
không chính thức ở cấp dƣới của xí nghiệp do sự lặp đi lặp lại một sự việc lâu
ngày. Ví dụ chính sách của xí nghiệp về việc phát văn phòng làm việc, cùng
các tiện nghi, diện tích cho nhân viên, theo chức vụ trong cơ quan.
Thủ tục, hay Thủ tục điều hành (Standard Operating Procedures –
SOP) là những quy định chi tiết để thực hiện chính sách. Nó cung cấp những
hƣớng dẫn chi tiết để xử lý những sự việc thƣờng xảy ra. Những chỉ dẫn chi
tiết nhƣ thế giúp cho nhân viên biết cách để hành động và bảo đảm sự nhất
quán cho mọi tình huống.
Quy định hay quy tắc (Rules) là những xác định những việc nào phải
làm hay không đƣợc làm trong một hoàn cảnh nhất định. Ví dụ, những quy
định về phòng cháy chữa cháy. Các quy định không nhằm hƣớng dẫn tƣ duy
hay cách thức quyết định, mà chỉ ấn định những việc cụ thể phải làm hay
không đƣợc làm. Mặc dù mọi tổ chức đều cần phải có những quy định để làm
dễ dàng cho hoạt động tập thể, cần lƣu ý rằng quá nhiều quy định có thể làm
cho nhân viên cảm thấy ngột ngạt, mất tự do, và ngƣợc lại, nếu có nhiều quy
định không đƣợc tuân thủ trong thực tế, cũng sẽ tạo tâm trạng xem thƣờng tất
cả mọi quy định trong xí nghiệp.
Bài giảng Quản trị học
58
5.5. NHỮNG CÔNG CỤ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƢỢC TRONG
NHỮNG DOANH NGHIỆP LỚN
5.5.1 Ma trận BCG (Boston Consulting Group)
Nhóm tƣ vấn Boston là một công ty tƣ vấn hàng đầu của Mỹ đã phát
triển một kỹ thuật gọi là ma trận của sự phát triển và tham gia thị trƣờng vào
thập niên những năm 1970. Là một ma trận cấp 2, vị trí của mỗi hoạt động
kinh doanh đƣợc chỉ ra bởi suất tăng trƣởng và thị phần của nó. Một thị trƣờng
có suất tăng trƣởng trên 10% đƣợc coi là cao. Trục hoành chỉ thành phần tham
gia thị trƣờng tƣơng đối tức là phần thị trƣờng của đơn vị so với đối thủ cạnh
tranh lớn nhất của nó. Ví dụ một đơn vị có phần tham gia thị trƣờng 0,2 tức là
đơn vị kinh doanh chiến lƣợc này có doanh số tham gia thị trƣờng chỉ bằng
20% so với đối thủ mạnh nhất của nó. Ma trận đƣợc chia thành 4 ô, mỗi ô chỉ
một chiến lƣợc hoạt động khác nhau của đơn vị.
Ô dấu hỏi (Question marks) chỉ hoạt động kinh doanh của đơn vị trong
thị trƣờng có mức tăng trƣởng cao nhƣng bản thân nó lại có thành phầm tham
gia thị trƣờng thấp. Các đơn vị nằm trong ô này đòi hỏi rất nhiều vốn vì cần
phải đầu tƣ phát triển cho phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển.
Ô ngôi sao (Stars) đơn vị nằm trong ô này là đơn vị dẫn đầu trong một
thị trƣờng phát triển cao. Công ty phải dùng một lƣợng tiền lớn để duy trì và
chống lại cạnh tranh của các đối thủ. Thông thƣờng trong ô này sức cạnh tranh
của các đối thủ là mạnh mẽ nhất. Các đơn vị đứng vững trong giai đoạn này sẽ
có triển vọng trở thành các đơn vị cung cấp vốn cho công ty trong tƣơng lai.
Ô bò tiền (Cash cow) Khi suất tăng trƣởng của thị trƣờng giảm xuống
dƣới 10% thì các đơn vị ở ô star sẽ trở thành các cash cow nếu nó vẫn còn duy
trì đƣợc thành phần tham gia thị trƣờng cao. Các đơn vị nằm trong ô này sản
sinh rất nhiều tiền cho công ty, nó thƣờng đƣợc coi là nguồn tài trợ chính để
công ty đầu tƣ vào các lĩnh vực mới trong kinh doanh.
Ô con chó (dogs) các đơn vị ô này là các đơn vị có phần tham gia thị
trƣờng thấp và ở trong một thị trƣờng có suất tăng trƣởng yếu. Nói chung các
đơn vị này đang gặp khó khăn nhƣ thua lỗ hay lợi nhuận thấp. Công ty cần
xem xét việc có nên duy trì những kinh doanh này không hay cần phải có kế
hoạch hỗ trợ thích đáng, nếu không hậu quả khó lƣờng.
Bài giảng Quản trị học
59
Phần phân chia thị trƣờng tƣơng đối
STARS
QUESTION
MARKS
CASH COW
DOGS
Hình 5.4: Ma trận BCG
Việc phân tích ma trận BCG giúp ích rất nhiều cho công tác hoạch định
của công ty. Nó cho phép các nhà quản trị có cái nhìn tổng thể về chiều hƣớng
chiến lƣợc của các đơn vị trong công ty, giúp xác định mục tiêu hoạt động
trong từng thời kỳ phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng đơn vị. Nói chung
có 4 mục tiêu từ ma trận BCG nhƣ sau:
1. Xây dựng (Build): Là mục tiêu nhằm tăng phần tham gia thị trƣờng cho
các SBU, nó thích hợp cho các đơn vị trong ô dấu hỏi.
2. Duy trì (Hold): Là mục tiêu nhằm giữ gìn và củng cố phần thị trƣờng
của các SBU, nó thích hợp cho các đơn vị trong ô ngôi sao.
3. Gặt hái (Harvest): Là những mục tiêu nhằm tăng cƣờng lƣợng tiền mặt
ngắn hạn của các SBU bất chấp những hậu quả lâu dài, thƣờng cho các
đơn vị trong ô bò tiền.
4. Loại bỏ (Disvest): là những mục tiêu nhằm hạn chế hay thanh lý các đơn
vị yếu kém hay có nguy cơ phá sản, thích hợp ở ô dogs.
Trong hoạt động các nhà quản trị có thể sai lầm trong các trƣờng hợp sau:
- Duy trì quá nhiều SBU trong ô dấu hỏi làm công ty luôn bị động về
vốn.
- Không thanh lý nhanh chóng các SBU đã quá già cỗi làm ứ đọng vốn
và không có hƣớng phát triển.
- Không có chính sách bảo vệ thị phần đúng đắn làm các đơn vị không
chịu đựng đƣợc cƣờng độ cạnh tranh của đối thủ làm cho công ty mất đi vị thế
cạnh tranh.
5.5.2 Những khuôn mẫu chu kỳ đời sống
Hãng tƣ vấn Arthur D.Little Inc đã tìm ra những khuôn mẫu chu kỳ đời
sống cho việc hoạch định chiến lƣợc, có 4 giai đoạn chu kỳ đời sống.
Suất
tăng
trƣởng
của thị
trƣờng
10%
IX
Bài giảng Quản trị học
60
1. Phôi thai: (Phát triển cao, tham gia thị trƣờng thấp). Tình trạng thị
trƣờng cạnh tranh cao, mỗi phần thị trƣờng nhỏ vì có nhiều ngƣời tham
gia.
2. Phát triển: (Phát triển cao, tham gia thị trƣờng cao). Chỉ còn lại một số
sản phẩm nên phần tham gia thị trƣờng tăng lên, ngành sản xuất có vẻ
ổn định. Thị trƣờng vẫn tiếp tục có tiềm năng phát triển.
3. Trưởng thành (Phát triển thấp, tham gia thị trƣờng cao). Một số tƣơng
đối nhỏ sản phẩm độc chiếm thị trƣờng, nhƣng sự phát triển của thị
trƣờng đã suy giảm.
4. Suy thoái: (Phát triển thị trƣờng thấp, tham gia thị trƣờng thấp). Không
còn hoặc còn rất ít tiềm năng phát triển, sản phẩm rất ít có triển vọng
phát triển.
5.5.3 Những chiến lƣợc tổng loại
Giáo sƣ M.Porter của đại học Harvard đề xuất một phƣơng pháp có thể
thay thế ma trận BCG. Phƣơng pháp này có thể giải thích đƣợc những kết quả
mà ma trận BCG không làm đƣợc, chẳng hạn một tổ chức cạnh tranh có phần
tham gia thị trƣờng chỉ 6% mà có mức thu nhập rất cao. Ông đã chỉ ra 3 loại
chiến lƣợc tổng thể có thể áp dụng trong các tổ chức.
1. Dẫn đầu hạ giá: Làm ra những sản phẩm khá chuẩn nhƣng giá là rẻ
nhất trong những đối thủ cạnh tranh.
2. Chiến lược vượt trội: Làm ra những sản phẩm độc đáo, chất lƣợng
cao và mang tính đặc thù. Nó cho phép bán với một giá cao mà ngƣời
mua vẫn chấp nhận.
3. Chiến lược tập trung: Là tập trung vào một loại khách hàng riêng
biệt, thị trƣờng đặc thù hay một phần riêng biệt của sản phẩm mà
thôi.
5.5.4 Ma trận BCG mới (New BCG matrix)
Trong những năm của thập kỳ 80, do sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế thế giới, ngƣời ta đã cải tiến ma trận BCG và gọi là ma trận BCG mới.
Nó đƣợc triển khai từ 3 tiền đề (1) công ty phải đạt thắng lợi trong cạnh tranh
thì mới có lời, (2) độ lớn của thắng lợi thay đổi theo từng ngành sản xuất và (3)
sự phát triển của sản xuất làm thay đổi tầm cỡ và bản chất thắng lợi. Lúc này
trục tung thể hiện những đƣờng lối đạt thắng lợi và trục hoành thể hiện kích
thƣớc thắng lợi.
Bài giảng Quản trị học
61
Kích thƣớc thắng lợi
Nhỏ Lớn
Sản xuất manh
mún
Sản xuất chuyên
môn hoá
Sản xuất bí lối
Sản xuất khối
lƣợng lớn
Hình 5.5: Ma trận BCG
Có 4 loại xu hƣớng chiến lƣợc ứng với các loại ngành sản xuất nhƣ sau:
1. Bí lối: Những ngành sản xuất này thì không có nhiều đƣờng lối để đạt
thắng lợi, và kích thƣớc thắng lợi thì nhỏ.
2. Khối lượng lớn: Thƣờng có ít đƣờng lối nhƣng lại có thể sản xuất khối
lƣợng lớn, các công ty trong trƣờng hợp này có thể thừa hƣởng những
tiết kiệm về chi phí nhờ sản xuất với khối lƣợng lớn.
3. Chuyên môn hoá: Nhiều đƣờng lối và kích thƣớc thắng lợi lớn. Ví dụ
công nghiệp xe hơi, cần phải chọn cho đƣợc thị trƣờng mục tiêu và tấn
công vào đó.
4. Manh mún: Có nhiều đƣờng lối nhƣng thắng lợi lại nhỏ. Ví dụ công
nghiệp thực phẩm. Cần phải chú trọng phát triển các yếu tố vƣợt trội,...
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Một tổ chức có thể vận hành một cách có hiệu quả mà không cần lập kế
hoạch không? Tại sao?
2. Khái niệm và vai trò của hoạch định.
3. Hãy cho nhận xét về ý kiến: "Việc hoạch định là nhìn về phía trƣớc, còn
kiểm tra là nhìn về phía sau"?
4. Phân biệt giữa hoạch định và dự báo.
Đƣờng
lối đạt
thắng
lợi
Nhiều
Ít
Bài giảng Quản trị học
62
Chƣơng 6
CHỨC NĂNG TỔ CHỨC
6.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHỨC NĂNG TỔ CHỨC
6.1.1 Khái niệm
Chức năng tổ chức là một trong những chức năng chung của quản trị liên
quan đến các hoạt động thành lập nên các bộ phận trong tổ chức bao gồm các
khâu và các cấp, tức là qua hệ hàng ngang và hàng dọc để đảm nhận những
hoạt động cần thiết, xác lập các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm giữa các bộ phận đó.
Mục tiêu của chức năng tổ chức là tạo nên một môi trƣờng nội bộ thuận lợi
cho mỗi cá nhân, mỗi bộ phận phát huy đƣợc năng lực và nhiệt tình của mình,
đóng góp tốt nhất vào việc hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức. Công việc
tổ chức thƣờng đƣợc xem xét trên ba mặt: tổ chức bộ máy, tổ chức công việc
và tổ chức nhân sự. Ba mặt đó liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện trên hai
nhiệm vụ cơ bản là thiết kế bộ máy hoạt động và thiết lập hệ thống quyền lực
và phân quyền trong cơ cấu đó. Công việc tổ chức có những đặc điểm chung
là:
* Kết hợp các nỗ lực của các thành viên: Khi các cá nhân cùng nhau tham
gia và phối hợp hoạt động thì nhiều công việc phức tạp và to lớn có thể đƣợc
hoàn thành. Sự kết hợp các nỗ lực sẽ làm tăng lên sự đóng góp của mỗi cá
nhân. Sức mạnh của một tập thể thống nhất bao giờ cũng lớn hơn của một cá
nhân riêng lẻ.
* Phân công lao động: Trên cơ sở phân chia công việc theo chuyên môn
cho các thành viên mà một tổ chức có thể sử dụng nguồn nhân lực của một một
cách có hiệu quả.
* Hệ thống thứ bậc quyền lực: Quyền lực là quyền điều khiển hoạt động
của những ngƣời khác. Nếu không có một hệ thống thứ bậc quyền lực rõ ràng
thì sự phối hợp các cố gắng của các thành viên sẽ rất khó khăn.
Từ những đặc điểm trên dễ nhận thấy chức năng tổ chức là một quá trình
bao gồm nhiều nội dung có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lên nhau:
- Thiết kế, xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức (cơ cấu tổ chức).
- Xây dựng các nguyên tắc và thủ tục hoạt động nhằm bảo đảm cho cơ
cấu đó hoạt động có hiệu quả.
- Chức năng tổ chức còn bao gồm các hoạt động liên quan nhƣ xác
định quyền hạn trách nhiệm và xây dựng mối quan hệ giữa các đơn
vị các bộ phận nhằm bảo đảm cho tổ chức vận hành ổn định, chính
xác và hiệu quả.
Bài giảng Quản trị học
63
Trong hoạt động quản trị vấn đề tổ chức cần đƣợc quan tâm đúng mức.
Dick Cakson, một nhà quản trị nổi tiếng của Mỹ đã nhận xét, có tới 80%
những khiếm khuyết trong quá trình thực hiện mục tiêu là do ảnh hƣởng của
công tác tổ chức và thực tế cũng chỉ ra rằng chỉ có những doanh nghiệp nào
làm tốt công tác tổ chức thì hoạt động sản xuất kinh doanh mới thuận lợi và đạt
hiệu quả cao.
6.1.2 Vai trò của chức năng tổ chức
Công việc tổ chức có một vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu của tổ chức. Có thể nói khi công tác tổ chức đƣợc thực hiện tốt, khoa học
thì mọi quá trình quản trị sẽ đƣợc thực hiện thành công. Vai trò của công tác tổ
chức thể hiện ở những điểm sau:
- Chức năng tổ chức bảo đảm các mục tiêu và kế hoạch sẽ đƣợc triển
khai vào thực tế. Đồng thời tổ chức còn tạo ra môi trƣờng làm việc thích hợp
cho các cá nhân và cho cả tập thể trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ và
chuyên môn của mình. Chính tổ chức tốt tạo ra tính kỷ luật và trật tự trong
hoạt động chung của con ngƣời.
- Khi thiếu một cơ cấu tổ chức hợp lý thì sẽ gây ra nhiều vấn đề khó
khăn, phức tạp cho công tác quản trị. Nếu có một cơ cấu tổ chức hợp lý thì
công việc thực thi các nhiệm vụ quản trị sẽ có hiệu quả và từ đó mục tiêu
chung của tổ chức sẽ đƣợc thực hiện.
- Tổ chức công việc tốt sẽ có tác động tích cực đến việc sử dụng các
nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Giảm thiểu những sai sót và những lãng
phí trong hoạt động chung của con ngƣời.
6.1.3 Những vấn đề khoa học trong công tác tổ chức
Khi thực hiện chức năng tổ chức các nhà quản trị phải dựa vào các vấn
đề mang tính khoa học sau:
6.1.3.1 Tầm hạn quản trị
Tầm hạn quản trị hay còn gọi là tầm hạn kiểm soát, là khái niệm dùng để
chỉ số lƣợng bộ phận hay nhân viên cấp dƣới mà một nhà quản trị có thể điều
khiển một cách hữu hiệu nhất “chúng ta muốn nói đến việc lãnh đạo, giao việc,
kiểm tra, hƣớng dẫn nhân viên dƣới quyền một cách thoả đáng, có kết quả”.
Về mặt tổ chức, tầm hạn quản trị có liên quan mật thiết đến số lƣợng các tầng
nấc trung gian trong một đơn vị. Bộ máy tổ chức ít tầng nấc trung gian đƣợc
gọi là bộ máy tổ chức thấp. Bộ máy có nhiều tầng là bộ máy tổ chức cao.
Chúng ta thấy rằng cùng với một số lƣợng cán bộ nhân viên bằng nhau, nếu
đơn vị chọn tầm hạn quản trị rộng (tức là mỗi nhà quản trị phải điều khiển một
số đông ngƣời), đơn vị sẽ có ít tầng nấc trung gian giữa giám đốc và công nhân
và bộ máy tổ chức của đơn vị sẽ có dạng thấp. Ngƣợc lại nếu doanh nghiệp
Bài giảng Quản trị học
64
chọn tậm hạn quản trị hẹp (tức là, mỗi nhà quản trị sẽ chỉ điều khiển một số ít
ngƣời), đơn vị sẽ có nhiều cấp trung gian và bộ máy tổ chức của đơn vị sẽ có
dạng cao. Thông thƣờng, những bộ máy tổ chức có nhiều tầng nấc trung gian
sẽ làm chậm trễ và lệch lạc sự thông đạt cũng nhƣ tiến trình giải quết công việc
trong doanh nghiệp.
Cần lƣu ý rằng, sự xác định không thể chủ quan. Tầm hạn quản trị rộng
chỉ phù hợp khi nhà quản trị có đầy đủ năng lực, khi cấp dƣới có trình độ làm
việc khá, không công việc của cấp dƣới ổn định, có kế hoạch, ít thay đổi và cấp
dƣới đã đƣợc nhà quản trị cấp trên uỷ quyền hành động khá nhiều. Trái lại, nếu
năng lực của nhà quản trị có hạn chế, trình độ của cấp dƣới cũng không cao,
hoặc khi công việc của cấp dƣới thƣờng xuyên thay đổi, công việc không có kế
hoạch thì tầm hạn quản trị hẹp lại thích hợp hơn.
6.1.3.2 Quyền hành trong quản trị
Quyền hành là năng lực cho phép chúng ta yêu cầu ngƣời khác phải
hành động theo chỉ đạo của mình. Mọi nhà quản trị đều phải điều khiển ngƣời
khác, cho nên mọi nhà quản trị đều phải có quyền hạn thì mới quản trị đƣợc
nếu không nhà quản trị sẽ chấm dứt vài trò của mình.
Có thể nói rằng, quyền hành là công cụ của nhà quản trị. Muốn quản trị,
phải có quyền. Vấn đề đặt ra là quyền hành của nhà quản trị xuất phát từ đâu,
hay nói cách khác, làm sao để nhà quản trị có đƣợc quyền hành. Trong lý
thuyết quản trị học, vấn đề nguồn gốc của quyền hành quản trị đã đƣợc nhiều
tác giả trình bày. Có ngƣời cho rằng quyền hành quản trị xuất phát từ chức vụ.
Lý thuyết này đúng, nhƣng chƣa đủ, vì không giải thích đƣợc hiện tƣợng có
giám đốc ra lệnh mà nhân viên không thi hành, tức là nhân viên không thừa
nhận quyền hành của giám đốc. Tổng hợp các lý thuyết về nguồn gốc của
quyền hành, có thể chấp nhận lý thuyết sau đây của Max Weber, nhà xã hội
học ngƣời Đức – Max Weber cho rằng, quyền hành của nhà quản trị chỉ đầy đủ
nếu có đủ ba yếu tố: sự hợp pháp khi đảm nhận chức vụ, cấp dƣới thừa nhận
quyền hành đó là chính đáng và bản thân nhà quản trị có khả năng và các đức
tính khiến cấp dƣới tin tƣởng. Nếu không có 3 yếu tố đó, quyền hành của nhà
quản trị sẽ không vững mạnh và rất khó để điều khiển cấp dƣới.
Ngoài vấn đề tính chất và nguồn gốc của quyền hành trong quản trị, nên
lƣu ý đến một vấn đề khác là sự giới hạn của quyền hành quản trị. Thật vậy,
mặc dù mọi nhà quản trị đều phải có đầy đủ quyền hành mới quản trị đƣợc,
quyền hành đó không phải là không giới hạn. Trong thực tiễn hoạt động, quyền
hành của nhà quản trị chịu hạn chế bởi nhiều yếu tố nhƣ luật pháp và các quy
định của nhà nƣớc, đạo đức xã hội, điều kiện sinh hoạt của con ngƣời,…
6.1.3.3 Phân cấp quản trị
Bài giảng Quản trị học
65
Thực chất của việc phân cấp quản trị chính là sự phân chia hay uỷ thác
bớt quyền hành của nhà quản trị cấp trên cho các nhà quản trị cấp dƣới. Về mặt
khoa học, ngƣời ta cũng gọi là phân quyền hay phi tập trung hoá trong quan trị.
Mục đích của việc phân cấp chủ yếu là để nhằm tạo điều kiện cho tổ chức đáp
ứng kịp thời, nhanh chóng và phù hợp với những yêu cầu của tình hình. Ngoài
ra, sự phân cấp nhằm giải phóng bớt khối lƣợng công việc cho nhà quản trị cấp
cao, đồng thời cũng tạo điều kiện đào tạo các nhà quản trị trung cấp, chuẩn bị
thay thế các nhà quản trị cấp cao khi cần thiết.
6.2. XÂY DỰNG CƠ CẤU TỔ CHỨC
6.2.1 Khái niệm
Xây dựng cơ cấu tổ chức là việc xác định một chỉnh thể các khâu, các bộ
phận khác nhau đƣợc chuyên môn hoá và có những trách nhiệm, quyền hạn
nhất định, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau và đƣợc bố trí theo các cấp quản
trị nhằm thực hiện các chức năng quản trị và mục tiêu chung của tổ chức. Cơ
cấu tổ chức càng hoàn thiện thì công việc quản trị càng có hiệu quả giúp cho
doanh nghiệp thực hiện tốt mục tiêu đề ra. Ngƣợc lại, nếu cơ cấu tổ chức cồng
kềnh, nhiều cấp, nhiều khâu, thiết kế công việc không tƣơng ứng, xếp đặt nhân
viên không không phù hợp,… sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của
tổ chức và ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của tổ chức. Khi xây
dựng bộ máy tổ chức của doanh nghiệp các nhà quản trị phải dựa trên những
cơ sở chủ yếu sau:
- Bộ máy tổ chức chỉ có thể đƣợc xây dựng khi tổ chức đã xác định đƣợc
mục tiêu và chiến lƣợc hoạt động.
- Phải dựa vào quy mô và đặc điểm (lĩnh vực) hoạt động của doanh
nghiệp.
- Tính toán đến những tác động của môi trƣờng vĩ mô và vi mô của
doanh nghiệp.
- Phù hợp với công nghệ hoặc kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ
chính của doanh nghiệp.
- Các nguồn lực của doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn nhân lực (con
ngƣời) và tài chính (chi phí).
- Tuân thủ nghiêm túc tiến trình của chức năng tổ chức: phân tích công
việc, phân chia công việc một cách hợp lý, thiết lập một cơ chế hợp lý giữa các
bộ phận khác nhau thành một thể thống nhất.
Ngoài những yếu tố trên, khi xây dựng cơ cấu tổ chức cần đặc biệt chú ý
đến những yếu tố ảnh hƣởng trực tiếp đến việc thiết kế và chọn lựa cơ cấu tổ
chức phù hợp. Qua quá trình nghiên cứu và đánh giá thực tế, ngƣời ta nhận
thấy cơ cấu tổ chức chịu ảnh hƣởng từ những yếu tố chính sau đây:
Bài giảng Quản trị học
66
+ Mục tiêu và chiến lược phát triển của doanh nghiệp: Đây là yếu tố
ảnh hƣởng mạnh mẽ nhƣng khó thấy, chiến lƣợc phát triển sẽ quy định cách
thức hoạt động, do đó nó ảnh hƣởng đến cơ cấu tổ chức, với ý nghĩa là bộ máy
điều hành công việc.
+ Quy mô hoạt động của doanh nghiệp: Quy mô khác nhau sẽ dẫn tới số
lƣợng các bộ phận phân hệ và mức độ phức tạp khác nhau. Do vậy mô hình tổ
chức cũng khác nhau.
+ Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp: Các lĩnh vực nhƣ công nghệ
kỹ thuật, ngành nghề, trình độ phát triển,… sẽ đòi hỏi những cách thức quản lý
khác nhau, trình độ nhân viên khác nhau, nhu cầu nhân lực khác nhau, dẫn tới
cách thức hình thành bộ máy quản lý phải khác nhau và mang tính đặc thù.
+ Môi trường hoạt động của doanh nghiệp: Đây cũng là yếu tố ảnh
hƣởng mạnh, vì tất cả các tổ chức luôn chịu sự tác động từ môi trƣờng, muốn
tồn tại phải có khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trƣờng.
+ Khả năng về nguồn lực của doanh nghiệp: Bao gồm nhân lực và vật
lực là yếu tố cần cân nhắc khi xây dựng cơ cấu tổ chức. Mỗi cơ cấu cần có
những chi phí hoạt động và những con ngƣời hoạt động trong cấu trúc tổ chức
của nó. Điều này đòi hỏi khi xây dựng cơ cấu tổ chức phải tính toán và phân
tích kỹ càng các yếu tố nguồn lực để có thể chọn lựa chính xác mô hình hoạt
động, bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm.
6.2.2 Các nguyên tắc cơ bản của tổ chức quản trị
- Nguyên tắc gắn với mục tiêu: Bao giờ bộ máy của doanh nghiệp cũng
phải phù hợp với mục tiêu. Mục tiêu là cơ sở để xây dựng bộ máy tổ chức của
doanh nghiệp.
- Nguyên tắc thống nhất chỉ huy: Theo nguyên tắc này mỗi thành viên
trong tổ chức chỉ nhận mệnh lệnh và chịu trách nhiệm báo cáo cho nhà quản trị
trực tiếp của mình. Nguyên tắc này bảo đảm có sự chỉ huy thông suốt và sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp và các bộ phận trong tổ chức.
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế: Bộ máy tổ chức phải xây dựng trên quan
điểm chi phí. Để duy trì và vận hành bộ máy hoạt động có hiệu quả tối đa và
chi phí tối thiểu.
- Nguyên tắc cân đối: Cân đối giữa quyền hành và trách nhiệm, cân đối
về công việc giữa các đơn vị với nhau. Sự cân đối sẽ tạo sự ổn định trong
doanh nghiệp và phải có cân đối trong mô hình tổ chức doanh nghiệp nói
chung.
- Nguyên tắc linh hoạt: Bộ máy quản trị phải linh hoạt để có thể đối phó
kịp thời với sự thay đổi của môi trƣờng bên ngoài và nhà quản trị cũng phải
Bài giảng Quản trị học
67
linh hoạt trong hoạt động để có những quyết định đáp ứng với sự thay đổi của
tổ chức.
- Nguyên tắc an toàn và tin cậy: Bộ máy quản trị phải bảo đảm độ an
toàn và tin cậy trong hoạt động, có khả năng chịu đƣợc những tác động bên
trong và môi trƣờng bên ngoài trong những giới hạn nhất định.
6.2.3 Các yêu cầu khi thiết kế cơ cấu tổ chức
Khi xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức cần tuân thủ những yêu cầu
sau:
- Xác định số lƣợng bộ phận phân hệ và cấp bậc phải phù hợp với thực
tế và nhu cầu hoạt động bảo đảm khả năng thích nghi nhanh chóng với những
thay đổi.
- Xác định rõ ràng phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của các bộ phận,
phân hệ. Hạn chế đến mức tối đa những chồng chéo trong thông tin và giải
quyết công việc.
- Mỗi một bộ phận, phân hệ có thể đảm nhận một hay một số nhiệm vụ,
nhƣng không thể xảy ra trƣờng hợp mỗi nhiệm vụ do nhiều bộ phận giải quyết.
- Xác định chính xác các luồng thông tin dọc và ngang trong tổ chức,
bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng và cân đối trong hoạt động giữa các bộ phận
và phân hệ trong toàn bộ tổ chức.
6.2.4 Quan điểm thiết kế cơ cấu tổ chức
Hiện nay tồn tại hai quan điểm thiết kế cơ cấu tổ chức, đó là quan điểm
cổ điển (hay gọi là mô hình cơ giới) và quan điểm hiện đại (mô hình hữu cơ).
Hai quan điểm này song song tồn tại và ứng dụng trong những điều kiện cụ thể
của từng tổ chức (qui mô, ngành nghề, cơ chế kinh tế,…). Mỗi quan điểm đều
có những ƣu và nhƣợc điểm nhất định.
- Quan điểm cổ điển nhấn mạnh đến tính chính thức và hệ thống quyền
lực phân biệt rõ ràng. Mô hình này hƣớng vào tập quyền và duy trì tuyến lãnh
đạo theo cấp bậc với những nguyên tắc hoạt động dựa vào thông tin chính
thức.
- Quan điểm hiện đại nhấn mạnh đến tính hợp tác và giải quyết theo tình
huống. Chú trọng đến phân quyền và phi tập trung hoá. Mô hình này có những
cơ cấu linh hoạt theo dự án và có thể thay đổi theo những biến đổi của môi
trƣờng hoạt động.
Dù theo quan điểm nào, khi phân chia các bộ phận trong cơ cấu tổ chức
ngƣời ta thƣờng dựa vào các phân chia cơ bản sau:
- Phân chia theo tầm hạn quản trị: Tầm quản trị tốt nhất thông thƣờng là
từ 3 - 10 nhân viên thuộc cấp. Tuy nhiên, có thể tăng lên đến 12, 15 ngƣời nếu
Bài giảng Quản trị học
68
nhân viên dƣới quyền chỉ làm những việc đơn giản và giảm xuất 2, 3 ngƣời
nếu nhân viên cấp dƣới phải làm những công việc phức tạp.
- Phân chia theo thời gian: Đây là một hình thức phân chia bộ phận lâu
đời nhất. Hình thức này thƣờng áp dụng đối với cấp thấp nhất trong tổ chức, đó
là việc tổ chức hoạt động theo ca, kíp. Việc phân chia này phù hợp với các tổ
chức phải hoạt động liên tục để khai thác cao nhất công suất máy móc.
- Phân chia theo chức năng: Đây là sự phân bố các bộ phận chuyên
môn theo chức năng hoạt động. Việc phân chia này đƣợc áp dụng khá rộng rãi
trong thực tế. Ƣu điểm của cách phân chia này là đảm bảo thực hiện đƣợc các
chức năng chủ yếu của tổ chức và phát huy đƣợc kiến thức chuyên môn.
- Phân chia theo lãnh thổ địa lý: Sự phân chia này căn cứ vào sự hoạt
động của doanh nghiệp trên nhiều địa bàn khác nhau. Việc phân chia này có ƣu
điểm là sử dụng đƣợc các nguồn nhân lực tại chỗ do đó tiết kiệm chi phí và
thời gian, hiểu rõ hơn về thị trƣờng khu vực và có thể phát huy đƣợc các kỹ
năng chuyên môn để giải quyết các vấn đề thực tế ở khu vực đó.
- Phân chia theo sản phẩm: Đây là cách tổ chức của một doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh nhiều sản phẩm khác nhau, do đó phải thành lập nhiều bộ
phận chuyên kinh doanh theo từng loại sản phẩm.
- Phân chia theo khách hàng: Căn cứ vào các nhóm khách hàng mà
phân chia các bộ phận cho phù hợp. Cách tổ chức này thƣờng đƣợc áp dụng
cho các cơ sở kinh doanh các lĩnh vực dịch vụ.
- Phân chia theo quy trình công nghệ và thiết bị kỹ thuật: Một xí nghiệp
chia việc sản xuất của mình theo qui trình công nghệ sản xuất.
6.2.5 Các giai đoạn hình thành cơ cấu tổ chức
Thông thƣờng khi thiết kế cơ cấu tổ chức chúng ta phải thực hiện 3 giai
đoạn là: phân tích, thiết kế và xây dựng.
6.2.5.1 Giai đoạn phân tích
Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất lƣợng của cơ cấu tổ
chức. Giai đoạn này tập trung vào phân tích và tổng hợp các mối liên hệ giữa
mục tiêu và mô hình đáp ứng. Nó xác định các chức năng cần thiết, làm rõ các
nhiệm vụ và giới hạn công việc và quyền hạn của các chức năng đó. Nếu cơ
cấu xây dựng trên nền tảng của các cơ cấu hoạt động có sẵn thì bƣớc này sẽ
phân tích những hạn chế và thiết sót của cơ cấu cũ để đề ra cách thức cải tiến
cho phù hợp. Nói chung giai đoạn này tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Mô hình cơ cấu nào sẽ đáp ứng đƣợc mục tiêu và chiến lƣợc hoạt động
của tổ chức?
- Quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các bộ phận và các cấp
đƣợc thiết kế ra sao? Hệ thống thông tin tổ chức nhƣ thế nào?
Bài giảng Quản trị học
69
6.2.5.2 Giai đoạn thiết kế
Giai đoạn này là chi tiết hoá các phân tích và tính toán các thông số cần
thiết cho các bộ phận. Đồng thời giai đoạn này cũng tiến hành xây dựng những
qui chế, những nguyên tắc hoạt động và thiết lập những qui tắc ứng xử cho các
bộ phận. Giai đoạn thiết kế tập trung tính toán số lƣợng các bộ phận và phân
hệ, số lƣợng các nhân viên (định biên), trình độ chuyên môn, khối lƣợng công
việc, xây dựng bảng phân tích công việc và các biểu mẫu cung cấp thông tin
cần thiết.
6.2.5.3 Giai đoạn xây dựng
Là giai đoạn chính thức ban hành mô hình cơ cấu tổ chức và bổ nhiệm
các chức vụ quản lý. Tiến hành phân chia công việc và giao nhiệm vụ cho các
cá nhân các bộ phạn. Hình thành mối liên hệ quyền hạn trách nhiệm và chính
thức vận hành công việc. Giai đoạn này cũng gắn liền với những sửa đổi và
điều chỉnh cơ cấu cho phù hợp với thực tế.
6.2.6 Các mô hình cơ cấu tổ chức cơ bản
6.2.6.1 Cơ cấu tổ chức quản trị không ổn định
Đây là một loại cơ cấu tổ chức quản trị không có mô hình cụ thể. Cơ cấu
không ổn định dựa vào cách tiếp cận theo hoàn cảnh, cách tiếp cận ngẫu nhiên
(Contigency Approach). Cách tiếp cận này xuất phát từ quan điểm: Không có
một cơ cấu tổ chức tối ƣu cho một doanh nghiệp. Cách tiếp cận này cho rằng
để xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị phù hợp cho một doanh nghiệp phụ thộc
vào: công nghệ, tính ổn định của môi trƣờng và các nhân tố động khác. Theo
cách tiếp cận này, các biến sau ảnh hƣởng tới hình thành cơ cấu tổ chức quản
trị doanh nghiệp:
- Chiến lƣợc của doanh nghiệp (Strategy)
- Mục tiêu của doanh nghiệp (Objectives).
- Tính ổn định của môi trƣờng (Stability of Environment)
- Tình hình công nghệ (Technology invalved).
- Môi trƣờng văn hoá (National Culture).
- Sự khác biệt giữa các bộ phận của doanh nghiệp (Differences in
subunits of organization).
- Quy mô doanh nghiệp (Size of organization)
- Phƣơng pháp và kiểu quản trị (Management approach & Style).
- Đặc điểm của lực lƣợng lao động (Characteristics of Work force)
Để xây dựng, hình thành cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp trƣớc hết
phải đánh giá các biến này, sau đó mới lựa chọn tìm kiếm một mô hình phù
hợp. Tuy nhiên các biến này là động, hay thay đổi nên phải có những phân tích
Bài giảng Quản trị học
70
định kỳ về các biến và đánh giá xem cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp có
phù hợp hay không.
6.2.6.2 Cơ cấu trực tuyến
Kiểu cơ cấu này có đặc điểm cơ bản là mối quan hệ giữa các nhân viên
trong tổ chức đƣợc thực hiện theo một đƣờng thẳng. Ngƣời thừa hành chỉ nhận
và thi hành mệnh lệnh của một cấp trên trực tiếp. Ngƣời phụ trách có mọi
quyền hành và phải chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả hoạt động của những
ngƣời dƣới quyền
Ưu điểm: Quán triệt nguyên tắc chế độ một thủ trƣởng, quyền hạn trách
nhiệm đƣợc phân định rõ ràng, tránh đƣợc tình trạng chồng chéo lên nhau
trong quản lý, tránh đƣợc tình trạng ngƣời dƣới quyền không những chỉ thi
hành những mệnh lệnh khác nhau trong cùng một thời điểm mà nhiều lúc còn
trái ngƣợc nhau.
Nhược điểm: Kiểu cơ cấu này đòi hỏi thủ trƣởng phải có kiến thức toàn
diện về nhiều lĩnh vực khách nhau, mọi gánh nặng của công tác quản lý đều
dồn vào thủ trƣởng trong khi không tận dụng đƣợc năng lực của các chuyên
gia vào công tác quản lý. Vì vậy, kiểu cơ cấu này chỉ phù hợp trong thời gian
trƣớc đây khi nền sản xuất chƣa phát triển, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé,
tính chất sản xuất còn đơn giản. Ngày nay, nếu áp dụng chỉ có những doanh
nghiệp có quy mô rất nhỏ hoặc ở cấp tổ đội sản xuất đối với những doanh
nghiệp khác.
Sơ đồ 6.1: Kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến
6.2.6.3 Cơ cấu tổ chức quản trị chức năng ( W. Taylor đề xƣớng và áp dụng
trong chế độ đốc công chức năng) (sơ đồ 6.2)
Giám đốc
Quản đốc phân xƣởng
Tổ trƣởng sản xuất
CN CN CN CN
Bài giảng Quản trị học
71
Sơ đồ 6.2: Kiểu cơ cấu tổ chức quản trị chức năng
Mở rộng ra trong phạm vi doanh nghiệp thì các phòng ban, các bộ phận
chức năng đƣợc trao các quyền lực hành chính, có quyền ra mệnh lệnh. Tuy
nhiên, chỉ trong phạm vi chức năng mà bộ phận đảm nhiệm.
Ưu điểm: Kiểu cơ cấu này tận dụng đƣợc năng lực của các chuyên gia
trong công tác quản lý, giảm nhẹ gánh nặng cho thu trƣởng. Theo kiểu cơ cấu
này thì các bộ phận chức năng có quyền ra mệnh lệnh trực tiếp nên công việc
đƣợc thực hiện nhanh hơn đáp ứng kịp thời hơn yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Nhược điểm: Kiểu cơ cấu này vi phạm nguyên tắc chế độ một thủ trƣởng,
dễ xảy ra tình trạng dẫm đạp, chồng chéo lên nhau trong quản lý, dễ xảy ra tình
trạng trách nhiệm thiếu rõ ràng, thiếu kỷ luật chặt chẽ.
6.2.6.4 Kiểu cơ cấu tổ chức quản trị trực tuyến - chức năng
Đây là kiểu cơ cấu tổ chức kết hợp hai kiểu cơ cấu kể trên, bằng cách
kết hợp những ƣu điểm và loại trừ những nhiểm điểm của hai kiểu cơ cấu trên.
Trong kiểu cơ cấu trực tuyến - chức năng, các phòng ban không đƣợc
giao các quyền lực hành chính, không có quyền ra mệnh lệnh mà chỉ thực hiện
chức năng tham mƣu cho thủ trƣởng trong việc soạn thảo các phƣơng án, các
quyết định,... những phƣơng án hay quyết định này sau khi đƣợc thủ trƣởng
thông qua sẽ truyền xuống cấp dƣới theo tuyến quy định. Kiểu cơ cấu này vừa
phát huy năng lực chuyên môn của các bộ phận chức năng, vừa bảo đảm quyền
chỉ huy của hệ thống trực tuyến.
Giám đốc
P. tổ chức P. Kỹ thuật P. kế toán P.kinh doanh
Px SXA Px SXB
Tổ SXA
Kỹ
thuật
Tổ SXB Tổ SXC
thuật
Tổ SXD
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
Bài giảng Quản trị học
72
Sơ đồ 6.3: Kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến chức năng
6.2.6.5 Kiểu cơ cấu chương trình mục tiêu
Xuất hiện vào những năm 50 - 60 khi cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật
phát triển mạnh nhất là trong lĩnh vực quốc phòng, sau chiến tranh thế giới thứ
2 nhiều loại vũ khí đƣợc thay đổi cơ bản về chất lƣợng.
Trong công nghiệp nói chung, tình hình cũng diễn ra tƣơng tự, các doanh
nghiệp có quy mô ngày càng lớn, tính chất của sản xuất ngày càng phức tạp,
nhiều khi doanh nghiệp phải thực hiện hàng chục, hàng trăm đơn đặt hàng
khác nhau. Trong bối cảnh đó, nếu chỉ áp dụng các kiểu tổ chức truyền thống
sẽ không đáp ứng đƣợc kịp thời nhu cầu của sản xuất, bản thân giám đốc
không thể quán xuyến bằng phƣơng pháp quản lý tác nghiệp. Vì vậy, kiểu cơ
cấu tổ chức chƣơng trình mục tiêu ra đời.
Theo kiểu cơ cấu này, để giải quyết những chƣơng trình dự án, các đơn
đặt hàng cụ thể doanh nghiệp tiến hành lập các tổ nhóm mục tiêu, nhân sự
đƣợc rút ra từ các phòng chức năng. Nhóm đƣợc thành lập do 1 ngƣời phụ
trách, đƣợc giám đốc giao cho những quyền hạn, trách nhiệm cần thiết đối với
các điều kiện vật chất để giải quyết những mục tiêu này. Đặc điểm của nhóm
mục tiêu có sự khác biệt so với phòng ban, bộ phân chức năng là đƣợc trao các
quyền lực hành chính và các phƣơng tiện cần thiết để hoàn thành chƣơng trình
mục tiêu xây dựng. Khi chƣơng trình đã đƣợc thực hiện xong nếu không có
nhu cầu tiếp tục tồn tại để giải quyết những mục tiêu khác thì nhóm giải tán và
mỗi ngƣời trở về phòng ban cũ của mình.
Giám đốc
P. tổ chức P. Kỹ thuật P. kế toán P.kinh doanh
Px SXA Px SXB
Tổ SXA
Kỹ
thuật
Tổ SXB Tổ SXC
thuật Tổ SXD
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
CN
Kỹ
thu
ật
Bài giảng Quản trị học
73
* Sự khác biệt với các kiểu cơ cấu khác
Nếu trƣớc kia mọi nhiệm vụ, mọi vấn đề và những mục tiêu đề ra thì đều
gắn liền với cơ cấu tổ chức hiện tại của doanh nghiệp thì bây giờ làm cho cơ
cấu tổ chức thích nghi với những mục tiêu cần giải quyết.
Tên gọi là cơ cấu chƣơng trình mục tiêu, trƣớc hết gọi là cơ cấu tổ chức
mục tiêu vì nó xuất hiện khi có mục tiêu mới và nó hết khi mục tiêu đã giải
quyết.
Gọi là cơ cấu tạm thời vì kiểu cơ cấu này chỉ tồn tại trong một thời gian
nhất định.
Gọi là cơ cấu ma trận vì bên cạnh cơ cấu hàng dọc theo trực tuyên, hàng
ngang theo chức năng thông thƣờng xuấn hiện nhiều bộ phận mới tạo thành hệ
thống phức tạp.
Tác dụng của cơ cấu ma trận thể hiện ở những đặc điểm sau:
- Nâng cao đƣợc tính linh hoạt, hiệu quả của công tác quản lý chỉ đạo đối
với nghiệp vụ sản xuất kinh doanh.
- Đảm bảo tác động qua lại, có hiệu quả giữa các bộ phận đang thực hiện
chung nhiệm vụ. Nói cách khác là mối liên kết trở nên chặt chẽ hơn.
- Giải phóng cho giám đốc khỏi những công việc sự vụ để tập trung vào
những chƣơng trình chiến lƣợc.
- Nâng cao trách nhiệm của cán bộ nhân viên đang làm nhiệm vụ thực hiện
các chƣơng trình mục tiêu.
- Bảo đảm việc kiểm tra có hiệu quả tiến trình thực hiện các nhiệm vụ do kế
hoạch định ra.
6.2.6.6 Cơ cấu tổ chức phi hình thể
Trong các nhóm nhân viên có những ngƣời đóng vai trò quan trọng có
thể chi phối những ngƣời khác. Trong tổ chức những ngƣời này chỉ là nhân
viên bình thƣờng, hay nói cách khác quyền lực của họ không phải do chức vụ
mang lại mà do uy tín cá nhân của bản thân họ. Đối với nhà quản trị cần phải
nắm đƣợc những ngƣời nhƣ vậy để có hƣớng tác động tới tập thể những ngƣời
lao động thông qua họ.
6.2.6.7 Các loại liên hệ trong cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp
Một vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị là xác
định đúng đắn rõ ràng các loại liên hệ giữa các bộ phận, các cấp, các nhân viên
trong bộ máy quản lý. Nói chung, có 3 loại liên hệ sau:
- Liên hệ trực thuộc: Là loại liên hệ giữa thủ trƣởng với cán bộ nhân viên
trong bộ phận giữa cán bộ có cƣơng vị chỉ huy trực tuyến cấp trên và cấp dƣới.
Bài giảng Quản trị học
74
- Liên hệ chức năng: Là loại liên hệ giữa các bộ phận chức năng với nhau
trong quá trình chuẩn bị quyết định cho thủ trƣởng, giữa bộ phận chỉ huy chức
năng cấp trên với cấn bộ nhân viên chức năng cấp dƣới nhằm hƣớng dẫn về
mặt chuyên môn nghiệp vụ.
- Liên hệ tư vấn: Là loại liên hệ giữa cơ quan lãnh đạo chung, giữa cán bộ
chỉ huy hay trực tuyến với các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật pháp chế và những
hội đồng đƣợc tổ chức theo từng loại công việc nhƣ hội đồng thi đua, hội đồng
khen thƣởng, kỹ luật,...
Chỉ có cơ sở xã hội đúng đắn hợp lý những loại liên hệ nói trên mới làm
cho mỗi bộ phận, mỗi cá nhân trong cơ cấu tổ chức quản trị nhận rõ vị trí của
mình, biết mình trực thuộc ai, những ngƣời nào phụ thuộc vào mình và nói
chung trong công tác phải liên hệ với những bộ phận nào và liên hệ theo kiểu
nào.
6.3. SỰ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC
6.3.1 Khái niệm
Quyền lực trong tổ chức là mức độ độc lập trong hoạt động dành cho
một ngƣời thông qua việc trao cho họ quyền ra các quyết định hay đƣa ra các
mệnh lệnh chỉ thị.
Phân quyền là xu hƣớng phân tán các quyền ra quyết định trong một cơ
cấu tổ chức. Nó là cơ sở của việc uỷ quyền. Trong trƣờng hợp quyền lực không
đƣợc giao phó, ngƣời ta nói đến sự tập quyền. Có thể có sự tập trung quyền lực
tuyệt đối vào chỉ một ngƣời. Nhƣng điều đó lại có nghĩa là sẽ không có một
nhà quản trị cấp dƣới nào và vì vậy sẽ không có cơ cấu tổ chức. Trong mỗi tổ
chức đều có một sự phân quyền nào đó. Nhƣng cũng không thể có sự phân
quyền tuyệt đối, vì nếu những nhà quản trị phải giao phó hết quyền lực của
mình, cƣơng vị quản trị của họ sẽ mất đi, vị trí của họ phải bị loại bỏ và nhƣ
vậy cũng lại không có cơ cấu tổ chức. Mức độ phân quyền càng lớn khi:
+ Số lượng các quyết định được đề ra ở các cấp tổ chức thấp hơn càng
ngày càng nhiều.
+ Các quyết định được đề ra ở các cấp thấp trong tổ chức càng quan
trọng. Ví dụ khoản chi tiêu vốn mà người quản trị doanh nghiệp có thể phê
duyệt không cần đến sự xét duyệt của cấp trên càng lớn, thì mức độ phân
quyền ngày càng mạnh.
+ Càng có nhiều chức năng chịu tác động bởi các quyết định được ra ở
các cấp thấp hơn trong tổ chức. Chẳng hạn ở các công ty chỉ cho phép các
quyết định về sản xuất ở riêng từng xí nghiệp chi nhánh, sẽ có sự phân quyền ít
hơn so với các công ty cho phép có thêm quyết định về nhân sự và tài chính ở
các xí nghiệp đó.
Bài giảng Quản trị học
75
+ Một nhà quản trị càng ít phải kiểm tra một quyết định cùng với những
người khác. Sự phân quyền càng lớn khi không có bất kỳ sự kiểm tra nào phải
thực hiện và càng nhỏ khi phải thông báo về quyết định đó với cấp trên sau khi
đã được ban ra và càng nhỏ hơn nữa nếu trước khi ra quyết định còn phải
tham khảo ý kiến cấp trên. Càng phải xin ý kiến của ít người cấp bậc quản trị
của họ càng thấp, thì mức độ phân quyền càng lớn.
Quyền hạn bao hàm trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm. Trách nhiệm là
nghĩa vụ phải hoàn thành những nhiệm vụ đƣợc giao. Nhân viên nhận trách
nhiệm về công việc mà mình đƣợc phân công. Còn nhà quản trị vừa chịu trách
nhiệm về nhiệm vụ mà mình đƣợc giao phó đồng thời phải chịu trách nhiệm cả
về những hành động của cấp dƣới. Điều đó có nghĩa là khi nhà quản trị nhận
trách nhiệm để hành động đồng thời phải chịu trách nhiệm về sự thành bại do
hành động đó mang lại.
Sự chịu trách nhiệm và việc ngƣời nhân viên sẽ nhận đƣợc sự tƣởng
thƣởng hay sự khiển trách do kết quả hành động thực hiện nhiệm vụ mang lại.
Nhà quản trị phải thiết lập những nguyên tắc chỉ đạo mà ngƣời nhân viên phải
tuân theo khi tiến hành công việc. Ngƣời nhân viên chỉ chịu trách nhiệm trong
những giới hạn này. Sự chịu trách nhiệm là giao điểm giữa quyền hạn và trách
nhiệm. Khi không giao đủ trách nhiệm hay quyền hạn, các nhà quản trị sẽ
không đòi hỏi cấp dƣới hoàn thành đúng mức nhiệm vụ. Cũng nhƣ vậy, khi
không đề rõ mức độ chịu trách nhiệm thì cấp dƣới dễ dàng biện minh cho việc
không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
6.3.2 Uỷ quyền
6.3.2.1 Khái niệm
Uỷ quyền là việc tạo cho ngƣời khác quyền hành và trách nhiệm để thực
hiện một hoạt động nhất định. Một tổ chức muốn đạt đƣợc mục tiêu cần phải
có sự uỷ quyền. Chính vì không thể có đƣợc nhà quản trị nào đó trong doanh
nghiệp có khả năng tự làm đƣợc tất cả mọi công việc, vì vậy khi một doanh
nghiệp phát triển, vấn đề uỷ quyền phải đƣợc thực hiện.
Nhƣ chúng ta biết, chỉ có một số nhân viên hạn chế mà một nhà quản trị
có thể giám sát và ra quyết định có hiệu quả. Một khi vƣợt quá giới hạn này,
quyền lực sẽ phải đƣợc giao phó. Uỷ quyền không những bảo đảm cho một tổ
chức vận hành ổn định mà nó còn góp phần đào tạo các nhà quản trị cấp dƣới
và nhân viên, thông qua việc giao cho họ những công việc và những trách
nhiệm tƣơng xứng để họ phát huy năng lực của mình.
6.3.2.2 Quá trình uỷ quyền
- Xác định các kết quả mong muốn
- Giao nhiệm vụ
Bài giảng Quản trị học
76
- Giao quyền hạn để hoàn thành các nhiệm vụ đó và yêu cầu ngƣời đƣợc
uỷ quyền phải chịu trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ.
- Kiểm tra theo dõi.
Trong thực tế, không thể tách rời các bƣớc của quá trình này, vì việc
mong muốn một ngƣời hoàn thành nhiệm vụ mà không giao quyền thực hiện
chúng là vô nghĩa, cũng nhƣ giao quyền mà không kiểm tra kết quả cuối cùng
là gì thì nó sẽ bị lợi dụng. Việc uỷ quyền có thể rất cụ thể hay tổng quát, bằng
văn bản hay bằng miệng. Nếu việc giao phó là không rõ ràng, một ngƣời quản
trị có thể không hiểu hết bản chất nhiệm vụ hay kết quả mong đợi.
Việc uỷ quyền bằng văn bản cụ thể là đặc biệt có ích đối với cả ngƣời
quản trị đƣợc uỷ quyền lẫn ngƣời uỷ quyền. Ngƣời uỷ quyền sẽ dễ dàng nhận
ra những muâu thuẫn và chồng chéo với các cƣơng vị khác và cũng sẽ thuận
lợi hơn trong việc chỉ ra những công việc mà một cấp dƣới có thể và phải chịu
trách nhiệm.
6.3.2.3 Những nguyên tắc uỷ quyền
Những nguyên tắc sau đây là những hƣớng dẫn đối với việc uỷ quyền.
Khi chúng không đƣợc thực hiện chu đáo, việc uỷ quyền có thể sẽ kém hiệu
quả, việc tổ chức có thể sẽ thất bại và có thể dẫn đến việc quản lý tồi. Các
nguyên tắc ấy là:
- Ngƣời đƣợc uỷ quyền phải là ngƣời cấp dƣới trực tiếp làm những công
việc đó.
- Sự uỷ quyền không làm mất đi hay thu nhỏ trách nhiệm của ngƣời uỷ
quyền.
- Quyền lợi, nghĩa vụ của ngƣời uỷ quyền và ngƣời đƣợc uỷ quyền phải
bảo đảm và gắn bó với nhau.
- Nội dung, ranh giới của nhiệm vụ đƣợc uỷ quyền phải dƣợc xác định rõ
ràng.
- Uỷ quyền phải tự giác không đƣợc áp đặt.
- Ngƣời đƣợc uỷ quyền phải có đầy đủ thông tin trƣớc khi bắt tay vào
việc.
- Luôn luôn phải có sự kiểm tra trong quá trình thực hiện sự uỷ quyền.
6.3.2.4 Nghệ thuật uỷ quyền
Về phƣơng diện nào đó uỷ quyền là một loại hoạt động quản trị cơ bản.
Tuy nhiên, hành động này ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc và những quy
định nhất định (tức là khía cạnh khoa học) thì nó cũng thể hiện tính nghệ thuật
trong quản trị. Chỉ có những nhà quả trị nào biết vận dụng nghệ thuật uỷ quyền
một cách nhuần nhuyễn thì mới đạt kết quả. Có một số những gợi ý về mặt
Bài giảng Quản trị học
77
nghệ thuật uỷ quyền mà nhà quản trị cần lƣu ý để cho việc uỷ quyền thành
công là:
- Sự hợp tác: Một thuộc tính cơ bản của những ngƣời quản trị khi giao
quyền là sự sẵn lòng tạo cho những ngƣời khác một dịp để suy nghĩ.
- Sự sẵn sàng chia sẽ: Một nhà quản trị muốn uỷ quyền một cách có kết
quả phải sẵn sàng giao quyền ra quyết định cho ngƣời đƣợc uỷ quyền.
- Chấp nhận thất bại của người khác: Bất kỳ ai cũng có thể mắc phải sai
lầm, sự mắc phải sai lầm của cấp dƣới coi nhƣ là sự bỏ ra chi phí để đầu tƣ
phát triển con ngƣời.
- Sẵn sàng tin cậy cấp dưới: Liên quan chặt chẽ với tính sẵn sàng chấp
nhận cấp dƣới có thể mắc sai lầm là tính sẵn sàng tin cậy vào cấp dƣới, vì việc
uỷ quyền chứa đựng một thái độ tin cậy của cả hai bên, mà đặc biệt là nhà
quản trị cấp trên phải có lòng tin là cấp dƣới (ngƣời đƣợc ủy quyền sẽ làm tốt
công việc đƣợc giao).
- Sẵn sàng lập ra và sử dụng kiểm tra rộng rãi: Do cấp trên không thể
giao phó trách nhiệm thực hiện, cho nên họ không thể giao phó quyền lực trừ
khi họ sẵn sàng tìm ra cách thức để tự đảm bảo rằng quyền lực đang đƣợc sử
dụng vì các mục tiêu và kế hoạch doanh nghiệp hay bộ phận. Việc thiết lập các
hoạt động kiểm tra có kết quả là một trong những nghệ thuật quản trị phức tạp
nhất. Đƣơng nhiên việc kiểm tra không thể thiết lập và thực thi nếu không có
mục tiêu, kế hoạch và chính sách đƣợc áp dụng làm tiêu chuẩn cơ bản để đánh
giá các hoạt động của cấp dƣới.
6.3.2.5 Những trở ngại và những biện pháp khắc phục trở ngại đối với uỷ
quyền
Sự uỷ quyền trong quản trị thƣờng gặp những trở ngại. Những trở ngại
này phụ thuộc về tâm lý và tổ chức.
- Tâm lý lo sợ cấp dƣới không hoàn thành nhiệm vụ.
- Tâm lý sợ cấp dƣới thực hiện công việc theo cách riêng của họ hoặc
thực hiện tốt hơn mình sẽ vƣợt mình trong thăng tiến.
- Trở ngại về mặt tổ chức bao gồm sự xác định không rõ ràng trách nhiệm
và quyền hạn.
Khắc phục những trở ngại trên trong uỷ quyền bằng các giải pháp sau:
+ Phải trao cho cấp dƣới quyền tự do hành động để hoàn thành nhiệm vụ
đƣợc giao.
+ Thực hiện sự truyền thông cởi mở giữa các nhà quản trị và cấp dƣới.
Tóm lại, phải uỷ quyền một cách phù hợp để giải phóng khỏi các công việc
sự vụ, tập trung giải quyết những nhiệm vụ quan trọng hơn của tổ chức giao
phó.
Bài giảng Quản trị học
78
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trong những điều kiện nào cơ cấu sản phẩm đƣợc sử dụng là phù hợp nhất?
2. Phân quyền ra quyết định có những lợi ích và khó khăn gì?
3. Những nhân tố nào ảnh hƣởng đến sự phân tán quyền lực trong tổ chức?
Trong những năm tới xu hƣớng phân tán hoặc tập trung quyền lực sẽ ngự trị
trong tổ chức? Tại sao?
5. Sự khác nhau giữa các vị trí trực tuyến hoặc chức năng là gì? Sự khác nhau
bao giờ cũng là rõ ràng trong các tổ chức? Giải thích?
6. Có sự giống nhau và khác nhau nào giữa chuyên môn hóa chức năng và
chuyên môn hóa theo địa lý.
7. Có sự giống nhau và khác nhau giữa chuyên môn hóa sản phẩm và chuyên
môn hóa theo khách hàng?
8. Thế nào là thiết kế tổ chức?
9. Khái niệm sự phối hợp trong tổ chức? Phân tích các nguyên tắc của sự phối
hợp?
Bài giảng Quản trị học
79
Chƣơng 7
CHỨC NĂNG ĐIỀU KHIỂN
7.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA CHỨC NĂNG ĐIỀU KHIỂN
7.1.1 Khái niệm
Điều khiển là chức năng liên quan đến vấn đề tuyển dụng và đào tạo,
lãnh đạo và động viên nhân viên trong tổ chức nhằm hoàn thành với hiệu quả
cao các mục tiêu và nhiệm vụ đề ra của tổ chức.
7.1.2 Vai trò của chức năng điều khiển trong quản trị
Con ngƣời là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong quản trị một tổ
chức, các mục tiêu và nhiệm vụ của quản trị để đạt đƣợc thông qua con ngƣời.
Nói một cách đầy đủ hơn, hiệu quả của quản trị chỉ đạt đƣợc nếu huy động
đƣợc sự nỗ lực, nhiệt tình và tích cực của con ngƣời trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, mà sự nỗ lực ấy chỉ có đƣợc khi mà nhà quản trị biết điều khiển họ,
biết động viên họ đúng mức. Nhà quản trị không quan tâm đến nhân viên,
không khuyến khích động viên họ cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi cho họ
hoàn thành nhiệm vụ, điều này sẽ dẫn đến sự thờ ơ, kém nhiệt tình với mục
tiêu chung và chắc chắn hiệu quả của quản trị sẽ không thể đạt đƣợc.
Vì lẽ đó, điều khiển là một chức năng rất quan trọng trong quản trị mà
nhà quản trị cần hiẻu và nắm đƣợc những vấn đề cơ bản để vận dụng vào thực
hành quản trị.
7.2. TUYỂN DỤNG VÀ ĐÀO TẠO NHÂN VIÊN
7.2.1 Tuyển dụng
7.2.1.1 Các khái niệm
Tuyển dụng: Là quá trình tìm kiếm, tuyển chọn và nhận nhân lực vào làm
việc ở một doanh nghiệp.
Tuyển mộ: Là quá trình thu hút, tìm kiếm ngƣời tham gia quá trình tuyển
chọn nhân viên cho doanh nghiệp.
Tuyển chọn: Là quá trình xem xét đánh giá để chọn đƣợc ngƣời phù hợp
với công việc.
7.2.1.2 Vị trí, mục tiêu của tuyển dụng
- Tuyển dụng là bƣớc đầu tiên triển khai chƣơng trình hành động nhân sự.
- Quá trình thực hiện phân việc này chủ yếu thuộc trách nhiệm chính của
phòng QTNS, mặc dù có nhiều việc, bộ phận này phải phối hợp với giám đốc
bộ phận khác.
- Phòng QTNS có trách nhiệm cụ thể hóa các công việc phải thực thi dựa
vào nhiệm vụ đã ghi trong chƣơng trình hành động.
Bài giảng Quản trị học
80
- Mục tiêu tuyển dụng: Tìm, lựa chọn và bố trí đúng ngƣời vào đúng việc,
đúng thời điểm với chi phí thấp nhất có thể.
7.2.1.3 Quy trình tuyển dụng
Quy trình tuyển chọn nhân viên đƣợc tiến hành qua các bƣớc theo sơ đồ
sau:
Sơ đồ 7.1: Các bƣớc tuyển dụng nhân viên
7.2.1.4 Các nguồn cung cấp ứng viên
a) Nguồn ứng viên từ nội bộ doanh nghiệp
Ưu điểm: Đánh giá các ứng viên chính xác hơn, nhanh hơn, rẻ hơn,
giảm thời gian đào tạo nhân viên mới, khuyến khích và động viên nhân viên
phấn đấu.
Nhược điểm: Thiếu sáng tạo, dễ phát sinh tâm lý không phục tùng lãnh
đạo, bất hợp tác với lãnh đạo mới và phát huy chỗ trống trong công việc.
b) Nguồn ứng viên ngoài doanh nghiệp
Đối tƣợng là sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp từ các trƣờng, nhân viên từ các
doanh nghiệp khác, ứng viên tự do, nhân viên cũ, ngƣời nƣớc ngoài và các
nguồn khác.
Ưu điểm: Tăng tính đa dạng, có thể thúc đẩy sự tăng trƣởng nhờ sạng tạo,
có thể tiết kiệm đƣợc thời gian đào tạo, có điểm mới trong cách thức làm việc.
Nhược điểm: Tốn kém hơn, chậm hơn, các dữ liệu thông tin thu nhận đƣợc
ít tin cậy hơn và kìm hãm sự phấn đấu của nhân viên.
7. 2.2 Đào tạo và phát triển nhân sự
7.2.2.1 Các khái niệm
Tiếp nhận Bƣớc 7
Ra quyết định tuyển dụng
Phỏng vấn
Sơ tuyển, kiểm tra trắc nghiệm
Tìm nguồn và thu hút ứng viên
Xác định công việc và tiêu chuẩn tuyển chọn Bƣớc 1
Bƣớc 2
Bƣớc 3
Bƣớc 4
Bƣớc 6
Xác minh Bƣớc 5
Bài giảng Quản trị học
81
Đào tạo: Là làm cho trở thành ngƣời có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định. Đào tạo nhằm cung cấp các kiến thức, kỹ năng đặc biệt nhằm thực
hiện một công việc cụ thể.
Phát triển: Là quá trình biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp
đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp
Đào tạo và phát triển: Là quá trình nâng cao các kiến thức, kỹ năng mới,
thay đổi các hành vi và nâng cao khả năng thực hiện công việc của các cá nhân
trong hiện tại và tƣơng lai
7.2.2.2 Vị trí, vai trò của đào tạo và phát triển
- Đào tạo và phát triển là một trong những yếu tố chính của quá trình
QTNS.
- Đào tạo và phát triển nhằm mục tiêu hình thành đƣợc NNS đủ khả năng
thực hiện tốt các nhiệm vụ của doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh
cho DN
7.2.2.3 Các cản trở của hoạt động đào tạo
- Nhận thức đào tạo là sự tốn kém
- Tỷ lệ làm việc bán thời gian cao
- Các chƣơng trình đào tạo chƣa đầy đủ
- Thiếu sự hỗ trợ của bộ phận quản lý đối với ngƣời đào tạo
- Không coi đào tạo là sự đầu tƣ
- Chƣa nhận thức đầy đủ đƣợc vấn đề: Chi phí, tổn thất và hiệu quả.
7.2.2.4 Các điều kiện để đào tạo đạt hiệu quả
- Các cá nhân phải có lòng ham muốn đƣợc học.
- Cần đặt mục tiêu cho ngƣời học.
- Phải có chỉ dẫn, hƣớng dẫn cho ngƣời học.
- Ngƣời học phải đƣợc hài lòng trong quá trình học.
- Học theo cách thức chủ động tích cực.
- Sử dụng các kỹ thuật phù hợp.
- Đa dạng hóa các phƣơng pháp học.
- Phải đƣợc bố trí thời gian để học.
- Phải có ý thức thái độ học tốt.
- Không mặc cảm tự ti.
7.2.2.5 Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo
- Hình thành chính sách đào tạo: Khi xây dựng chính sách đào tạo phải có
sự tham gia của cán bộ quản lý các cấp và nhân viên. Chính sách đào tạo phải
rõ ràng, gắn với chức năng, nhiệm vụ, chiến lƣợc kinh doanh của đơn vị.
Bài giảng Quản trị học
82
- Phân tích nhu cầu đào tạo: Phân tích nhu cầu đào tạo là bƣớc quan trọng
của quá trình đào tạo Nó nhằm chỉ ra các yếu kém về kỹ năng, nhận thức,
phong cách làm việc và mức độ hẫng hụt so với yêu cầu công việc. (Phân tích
theo nghiệp vụ và theo từng nhân viên và toàn DN).
Lưu ý: phải xem xét kỹ lƣỡng các nhân tố bên trong và bên ngoài. (Phân
tích môi trường bên ngoài và bên trong ). Nhu cầu đào tạo xuất hiện khi có
khoảng cách giữa thái độ, kỹ năng và kiến thức hiện tại với thái độ, kỹ năng và
kiến thức cần phải có theo yêu cầu công việc hiện tại, tƣơng lai.
- Xây dựng tài liệu, giáo trình giảng dạy: Xây dựng các tiêu chuẩn công
việc là yêu cầu tiên quyết để xây dựng giáo trình, kế hoạch đào tạo (phải cụ thể
cho từng nghề). Các nhiệm vụ của từng nghề phải đƣợc liệt kê và phân tích tỷ
mỉ theo từng nhiệm vụ cụ thể. Đối với đào tạo nội bộ, cách thức tốt nhất để
viết soạn thảo tài liệu giảng dạy là: trƣởng bộ phận chọn nhân viên có năng lực
để mô tả, quá trình thực hiện công việc, trƣởng bộ phận sẽ quan sát và ghi
chép, ... đồng thời cần thêm ngƣời thứ ba ghi chép (có thể ghi bằng hình, quay
video) để đảm bảo thông tin đầy đủ và chính xác. Chƣơng trình đào tạo cần
đƣợc cập nhật kịp thời.
Sơ đồ 6.3: Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo
Hình thành chính sách đào tạo của DN
Phân tích nhu cầu đào tạo
Xây dựng tài liệu, giáo trình giảng dạy
Xây dựng kế hoạch đào tạo hàng năm
Lựa chọn chƣơng trình và phƣơng pháp đào tạo
Quản lý, triển khai các chƣơng trình đào tạo
Đánh giá và điều chỉnh công tác đào tạo
Bài giảng Quản trị học
83
- Xây dựng kế hoạch đào tạo: Kế hoạch đào tạo phải đƣợc xây dựng trên
cả 3 mặt: thái độ làm việc, kỹ năng và kiến thức. Tùy thuộc vào nhu cầu đào
tạo và nguồn kinh phí để có kế hoạch sắp xếp theo thứ tự ƣu tiên. Kế hoạch
phải đƣợc cụ thể cho các nhóm nhân viên, phải cụ thể mục tiêu, nội dung, thời
gian đào tạo, cách thức, kinh phí và phải bảo đảm tính hệ thống về nội dung.
Kế hoạch đào tạo chung hàng năm:
+ Đào tạo chung cho tất cả các bộ phận
+ Đào tạo riêng cho từng bộ phận
+ Đối với cán bộ quản lý, cần chú trọng đào tạo về: kỹ năng quản lý, giao
tiếp, kỹ thuật, cách thức ra quyết định, giải quyết vấn đề....
Kế hoạch đào tạo từng bộ phận:
+ Do trƣởng bộ phận điều phối
+ Chú trọng đào tạo về những kỹ năng yếu hoặc kỹ năng mới.
+ Thực hành càng nhiều càng tốt
- Lựa chọn chương trình và phương pháp đào tạo
+ Chương trình đào tạo phụ thuộc vào mục tiêu, thời gian, phƣơng pháp
đào tạo..Cần phải có các chƣơng trình đào tạo tại doanh nghiệp và ngoài doanh
nghiệp. Các chƣơng trình đào tạo ngoài doanh nghiệp: Đào tạo chính quy, đào
tạo tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo ngắn hạn,... Doanh nghiệp cần xây dựng
chƣơng trình đào tạo tại chỗ.
- Đào tạo theo chứng chỉ cho những ngƣời đã có kinh nghiệm làm việc
lâu năm;
- Đào tạo nhân viên mới
- Đào tạo thƣờng xuyên
+ Các phương pháp đào tạo: Sử dụng các phƣơng pháp giảng giải, nghe
nhìn, tự học và kèm cặp tại nơi làm việc.
- Đánh giá và điều chỉnh chương trình đào tạo: Đánh giá ngay sau khoá
đào tạo và hiệu qủa công tác sau đào tạo. Sử dụng các phƣơng pháp đánh giá
so sánh hiệu quả công việc trƣớc và sau đào tạo; so sánh hiệu quả giữa nhóm
đƣợc đào tạo và nhóm chƣa đƣợc đào tạo; kết quả kiểm tra và ý kiến phản hồi
của học viên và sử dụng phƣơng pháp định lƣợng (tính chi phí - hiệu quả đào
tạo theo tổng giá trị hiện thời - NPV hoặc theo hệ số hoàn vốn nội tại - IRR).
7.3. LÃNH ĐẠO
7.3.1 Các khái niệm
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãnh đạo:
- Lãnh đạo là làm cho công việc đƣợc hoàn thành bởi ngƣời khác.
- Lãnh đạo là chỉ dẫn điều khiển, ra lệnh và đi trƣớc.
Bài giảng Quản trị học
84
- Lãnh đạo là tìm cách ảnh hƣởng đến ngƣời khác để đạt đƣợc các mục
tiêu của tổ chức.
Trong các khái niệm này đều hàm chứa quan điểm cho rằng, lãnh đạo chính
là chỉ huy hay tác động đến ngƣời khác để đạt đƣợc mục tiêu. Muốn chỉ huy
ngƣời khác nhà quản trị phải “đi trƣớc” tức là thấy trƣớc đƣợc vấn đề phải giải
quyết theo hƣớng nào. Trong quá trình lãnh đạo nhân viên mỗi nhà quản trị sẽ
sử dụng phong cách lãnh đạo riêng.
Phong cách lãnh đạo đƣợc hiểu là tập hợp của những phƣơng pháp hay
cách thức tác động mà nhà quản trị thƣờng sử dụng để chỉ huy nhân viên thực
hiện một nhiệm vụ hay công việc nào đó.
7.3.2 Phân loại phong cách lãnh đạo
7.3.2.1 Phân loại phong cách lãnh đạo theo mức độ tập trung quyền lực
(quan điểm của Kurt Lewin)
- Phong cách lãnh đạo độc đoán
Đặc trƣng cơ bản của phong cách này là trong quá trình hình thành và ra
quyết định giám đốc không cần thăm dò ý kiến của ngƣời giúp việc và những
ngƣời dƣới quyền. Nhà quản trị không do dự trƣớc quyết định của mình, tổ
chức quyết định các mệnh lệnh. Và luôn theo dõi nghiêm túc sâu xa những
ngƣời thực hiện quyết định do đó có những đánh giá đúng đắng, khen chê
chính xác. Ngƣời có phong cách lãnh đạo này thƣờng am hiểu sâu sắc công
việc của mình, giám quyết đoán, giám chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, với phong
cách lãnh đạo này, nhà quản trị dễ sa vào tình trạng độc đoán chuyên quyền.
- Phong cách tự do
Nhà quản trị sử dụng rất ít quyền lực, họ dành cho cấp dƣới nhiều quyền
lực để tự giải quyết vấn đề. Vai trò của nhà quản trị ở đây là giúp đỡ tạo điều
kiện cho cấp dƣới hoàn thành nhiệm vụ thông qua việc cung cấp thông tin và
các phƣơng tiện cần thiết khác. Trong phong cách lãnh đạo này nhà quản trị sử
dụng thông tin theo chiều ngang. Phong cách lãnh đạo này thƣờng đem lại hiệu
quả khi trình độ của cấp dƣới đã đƣợc nâng cao và việc thực hiện mang tính
độc lập đòi hỏi phải chủ động và sáng tạo để tự giải quyết.
- Phong cách dân chủ
Phong cách này khắc phục đƣợc hai nhƣợc điểm của hai phong cách trên
và một chừng mực nhất định tận dụng đƣợc ƣu điểm của chúng. Nhà quản trị
tổ chức lãnh đạo theo tác phong này khi ra quyết định thƣờng có ý kiến của
nhiều ngƣời, đặc biệt là những ngƣời có liên quan đến việc ra quyết định. Khi
ra quyết định rất kiên quyết không dao động trƣớc quyết định của mình. Nhà
quản trị quyết đoán nhƣng không độc đoán, luôn theo dõi uốn nắn động viên
cho tổ chức cấp dƣới thực hiện và có khả năng đánh giá khen chê đúng mức.
Bài giảng Quản trị học
85
Nhƣ vậy, có thể nói rằng trong ba tác phong trên thì Nhà quản trị hoàn
toàn không nên áp dụng tác phong thứ 2 vì việc dễ dãi trong quản lý kinh tế
thƣờng dẫn đến buông lỏng quản lý gây hậu quả trong kinh doanh. Và giám
đốc cũng không nên áp dụng phong cách thứ nhất vì nó cƣỡng đoạt quyền dân
chủ của mọi ngƣời, khả năng sáng tạo của tập thể, làm hạn chế đến tính sáng
tạo quyết định. Nhà quản trị cần áp dụng phong cách thứ 3 vì nó khắc phục
đƣợc những nhƣợc điểm của hai phong cách trên.
7.3.2.2 Phân loại phong cách lãnh đạo theo mức độ quan tâm đến công việc
và quan tâm đến con người (mô hình của Đại học OHIO)
Căn cứ vào mức độ quan tâm của nhà quản trị đến công việc và mức độ
quan tâm đến con ngƣời (quan tâm đến nhu cầu của nhân viên và tạo điều kiện
thoả mãn nhu cầu của họ, cải thiện bầu không khí làm việc, chăm lo đời sống
nhân viên), có thể chia thành 4 loại phong cách lãnh đạo (theo hình vẽ dƣới
đây)
S3
Công việc: ít
Công việc: nhiều
S2
Công việc: nhiều
Công việc: nhiều
S4
Công việc: ít
Công việc: ít
S1
Công việc: nhiều
Công việc: ít
Hình 7.1: Mô hình lãnh đạo của đại học OHIO
Quan điểm này cho rằng phong cách S2 là tốt nhất, tuy nhiên trên thực tế
điều này không phải luôn luôn đúng trong mọi tình huống. Điều này cho thấy
tính phức tạp của công việc lãnh đạo và nó cũng thể hiện tính nghệ thuật trong
việc chọn lựa phong cách lãnh đạo phù hợp với tập thể những nhân viên của
nhà quản trị.
7.3.3 Lựa chọn phong cách lãnh đạo
Từ việc nghiên cứu các dạng phong cách lãnh đạo ta thấy mỗi phong
cách lãnh đạo có những đặc trƣng riêng, có những điểm mạnh và những hạn
chế riêng. Khó có thể tìm thấy một phong cách lãnh đạo duy nhất đúng trong
mọi hoàn cảnh, ngay cả đối với phong cách lãnh đạo dân chủ đã đƣợc rất nhiều
nhà lãnh đạo và nhân viên đánh giá cao. Điều này cho thấy nhà quản trị cần
biết chọn lựa đúng phong cách lãnh đạo đối với từng hoàn cảnh cụ thể hay tình
huống cụ thể. Việc lựa chọn phong cách lãnh đạo tuỳ thuộc vào 3 yếu tố sau:
cao
Q
uan
tâm
đến
co
n n
gƣ
ời
Quan tâm đến công việc
cao
Bài giảng Quản trị học
86
- Tuỳ vào đặc điểm của nhà quản trị (trình độ, năng lực, sự hiểu biết và tính
cách của nhà quản trị)
- Tuỳ vào đặc điểm của nhân viên (trình độ, năng lực, sự hiểu biết về công
việc và phẩm chất của nhân viên).
- Tuỳ vào đặc điểm của công việc phải giải quyết (tính cấp bách, mức độ
phức tạp, tầm quan trọng của công việc,…)
Thực tiễn nhà quản trị đã cho thấy nhà lãnh đạo giỏi là ngƣời biết kết hợp
đúng đắn các dạng phong cách lãnh đạo phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và
biết thay đổi phong cách lãnh đạo quen thuộc khi nó không còn phù hợp với sự
phát triển của tổ chức và các thành viên.
7.4. ĐỘNG VIÊN
7.4.1 Khái niệm
Mục tiêu của tổ chức muốn hoàn thành tốt, nhà quản trị phải biết huy
động mọi nỗ lực của con ngƣời trong tổ chức. Những nỗ lực này có thể huy
động đƣợc nếu nhà quản trị biết động viên nhân viên. Động viên là tạo ra sự
hăng hái nhiệt tình và trách nhiệm hơn trong quá trình thực hiện công việc của
các thuộc cấp, qua đó làm cho công việc đƣợc hoàn thành với hiệu quả cao.
Muốn động viên đƣợc nhân viên, nhà quản trị phải tạo ra đƣợc động cơ thúc
đẩy họ làm việc. Động cơ thúc đẩy đƣợc hình thành từ một nhu cầu nào đó mà
con ngƣời muốn đƣợc thỏa mãn nhu cầu. Động cơ thúc đẩy là một phản ứng
nối tiếp (Hình 7.2)
Hình 7.2: Chuỗi hành động tạo động cơ
Để động viên đƣợc nhân viên thực hiện nhiệm vụ với sự nỗ lực cao, nhà
quản trị phải nắm đƣợc và vận dụng đƣợc các lý thuyết về động cơ thúc đẩy (lý
thuyết về động viên).
Nhu cầu
Mong muốn
Thôi thúc
Hành động
Sự thỏa mãn
Biến thành
Là nguyên nhân
Dẫn tới
Đáp ứng
Bài giảng Quản trị học
87
7.4.2 Các lý thuyết về động viên
7.4.2.1 Thuyết phân cấp các nhu cầu của A. Maslow
Trong hệ thống các lý thuyết về động viên, thuyết phân cấp các nhu cầu
A. Maslow, có ý nghĩa rất lớn và gây đƣợc sự chú ý của nhiều nhà quản trị.
Theo Maslow, con ngƣời làm việc để thỏa mãn những nhu cầu của chính họ.
Các nhu cầu mà con ngƣời có đƣợc chia thành 5 loại và đƣợc sắp xếp theo thứ
bậc từ thấp đến cao theo hình sau:
Hình 7.3: Bậc thang nhu cầu của con ngƣời
- Nhu cầu sinh lý: Là những nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con
ngƣời nhƣ nhu cầu ăn, mặc, ở,...
- Nhu cầu an toàn: Là những nhu cầu con ngƣời muốn đƣợc an toàn về
tính mạng, về công việc, nơi ở, ăn uống.
- Nhu cầu xã hội: Là nhu cầu về tình yêu, bạn bè, đồng nghiệp,... đƣợc xã
hội chấp nhận.
- Nhu cầu được tôn trọng: Là nhu cầu của con ngƣời muốn đƣợc ngƣời
khác tôn trọng. Nhu cầu này thể hiện mong muốn của con ngƣời có
quyền lực và địa vị,...
- Nhu cầu tự thể hiện: Là nhu cầu của con ngƣời mong muốn đƣợc hoàn
thiện bản thân cũng nhƣ hƣớng đến chân, thiện, mỹ,...
Maslow đã chia năm loại nhu cầu này thành hai cấp độ:
- Nhu cầu bậc thấp gồm nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn: Nhu cầu bậc
thấp là có giới hạn và đƣợc thỏa mãn chủ yếu từ bên ngoài (việc thỏa
mãn thƣờng dễ hơn).
- Nhu cầu bậc cao gồm các nhu cầu xã hội, nhu cầu tôn trọng và nhu cầu
tự thể hiện: Nhu cầu này đƣợc thỏa mãn chủ yếu từ bên trong (việc thỏa
mãn thƣờng khó hơn).
Quan điểm của Maslow cho rằng trình tự thỏa mãn nhu cầu là đi từ thấp
đến cao. Trƣớc hết con ngƣời mong muốn đƣợc thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở,
an toàn,... Sau khi những nhu cầu bậc thấp này đƣợc thỏa mãn thì nó sẽ không
Tự thể hiện
Tự trọng
Xã hội
An toàn
Sinh lý
Bài giảng Quản trị học
88
còn tính chất động viên nữa, lúc đó nhu cầu bậc cao sẽ xuất hiện. Từ nghiên
cứu của Maslow có thể nhận thấy.
+ Muốn động viên nhân viên, nhà quản trị cần biết thuộc cấp của mình đang
ở cấp độ nhu cầu nào và cố gắng đƣa ra những giải pháp cần thiết cho việc
thỏa mãn nhu cầu của nhân viên, trên cơ sở đó đảm bảo cho các mục tiêu của
tổ chức đƣợc thực hiện.
+ Bản chất lâu dài của quá trình động viên là cần chú trọng đến các nhu cầu
bậc cao của con ngƣời nhƣ nhu cầu xã hội, nhu cầu đƣợc tôn trọng và nhu cầu
tự thể hiện.
7.4.2.2 Thuyết E.R.G (Giáo sƣ Clayton Alderfer)
Phân tích những hạn chế về tính thức tiễn của thuyết phân cấp các nhu
cầu của A. Maslow, Clayton Alderfer đã tiến hành sắp xếp lại các nhu cầu theo
ba nhóm (loại).
- Nhu cầu tồn tại: Gồm các nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn (nhƣ cách
phân loại của Maslow).
- Nhu cầu quan hệ: Gồm các nhu cầu xã hội và một phần của nhu cầu tự
trọng.
- Nhu cầu phát triển: Là nhu cầu đƣợc phát triển cá nhân, bao gồm nhu
cầu tự thể hiện và một phần của nhu cầu tự trọng.
Nghiên cứu của Clayton Alderfer đƣa ra nhận định tích cực hơn so với
Maslow, cho rằng con ngƣời cùng một lúc theo đuổi tất cả các nhu cầu chứ
không phải chỉ một loại nhu cầu nhƣ Maslow đã đề cập. Trình tự thỏa mãn các
nhu cầu không nhất thiết đi từ thấp tới cao. Hơn thế nữa, khi một nhu cầu nào
đó bị cản trở, con ngƣời thƣờng có xu hƣớng dồn nỗ lực sang việc thỏa mãn
những nhu cầu khác.
7.4.2.3 Thuyết hai nhân tố của Herzberg
Theo quan điểm của Herzberg , cần đảm bảo các nhân tố duy trì để không
gây ra sự bất mãn, chán nản thờ ơ đối với công việc và đảm bảo các nhân tố
động viên để tạo nên sự thỏa mãn, sự hƣng phấn hơn trong quá trình làm việc.
(Hình 7.4)
Nghiên cứu thuyết hai nhân tố của Herzberg rút ra một số kết luận sau:
- Những nhân tố làm thỏa mãn ngƣời lao động khác với những nhóm
nhân tố gây nên sự bất mãn của họ. Vì vậy, các nhà quản trị không thể mong
đợi sự thỏa mãn của ngƣời lao động bằng cách đơn giản là xóa bỏ các nguyên
nhân gây nên sự bất mãn.
- Muốn động viên nhân viên đòi hỏi phải áp dụng đồng thời cả hai nhóm
nhân tố duy trì và động viên, không nên coi nhẹ bất cứ nhóm nào.
Bài giảng Quản trị học
89
Các nhân tố duy trì
Liên quan đến quan hệ giữa cá nhân
và tổ chức, bối cảnh làm việc hoặc
phạm vi công việc
Các nhân tố động viên
Liên quan đến tính chất công việc,
nội dung công việc và những tưởng
thưởng.
- Phƣơng pháp giám sát
- Hệ thống phân phối thu nhập
- Quan hệ với đồng nghiệp
- Điều kiện làm việc
- Chính sách của công ty
- Địa vị
- Quan hệ giữa các cá nhân
- Sự thách thức của công việc
- Các cơ hội thăng tiến
- Ý nghĩa của các thành tựu
- Sự nhận dạng khi công việc
đƣợc thực hiện
- Ý nghĩa của các trách nhiệm
Ảnh hƣởng của nhân tố duy trì Ảnh hƣởng của nhân tố động viên
Khi đúng Khi sai Khi đúng Khi sai
Không có sự bất
mãn
Bất mãn Thỏa mãn Không thỏa mãn
Không tạo ra sự
hƣng phấn hơn
Ảnh hƣởng tiêu
cực (chán nản,
thờ ơ,...)
Hƣng phấn trong
quá trình làm việc
(hăng hái hơn, có
trách nhiệm hơn)
Không có sự bất
mãn (vẫn giữ
đƣợc mức bình
thƣờng)
Hình 7.4: Lý thuyết 2 nhân tố
CÂU HỎI ÔN TẬP
1 Hãy sử dụng những lý thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow và mô hình các
nhu cầu đã đƣợc Nghiên cứu của Mc clelland, để giải thích những nhu cầu
đang có của anh (chị). Những nhu cầu nào dƣờng nhƣ là quan trọng nhất đối
với anh (chị). Công việc và tổ chức của anh (chị) đáp ứng những nhu cầu này
nhƣ thế nào?
2. Hãy suy nghĩ về một công việc cụ thể mà anh (chị) đã có. Sử dụng thuyết
động cơ thúc đẩy của Poter và Lawer (thuyết kỳ vọng) để giải thích động cơ
thúc đẩy và sự thực hiện của anh (chị). Những khía cạnh nào của tình huống đã
thúc đẩy anh (chị)? Những khía cạnh nào của tình huống gây trở ngại cho sự
thực hiện của anh (chị)? Một nhà quản trị nên ứng dụng lý thuyết này nhƣ thế
nào để cải thiện động cơ thúc đẩy của nhân viên hoặc sự thực hiện công việc
của nhân viên?
Bài giảng Quản trị học
90
Chƣơng 8
CHỨC NĂNG KIỂM SOÁT
8.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM
SOÁT
8.1.1 Khái niệm
Kiểm soát là một trong bốn chức năng quan trọng của quản trị, là công
việc của bất kỳ một cấp bậc quản trị nào từ vị chủ tịch hội đồng quản trị, giám
đốc cho đến một đốc công hay một tổ trƣởng. Tuy nhiên trong thực tiễn, khái
niệm này vẫn đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau, có quan điểm cho rằng:
"kiểm soát là chức năng sau cùng vì vậy nó chỉ diễn ra khi các công việc đã kết
thúc", "kiểm soát là một hoạt động chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất
định", ... những cách hiểu nhƣ vậy là chƣa đủ và không đúng với bản chất của
khái niệm này. Có thể đƣa ra khái niệm sau đây về kiểm soát:
"Kiểm soát là quá trình đo, lường kết quả thực tế và so sánh với những
tiêu chuẩn nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân sự sai lệch trên cơ sở đó
đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục sự sai lệch hoặc nguy cơ
sự sai lệch, đảm bảo tổ chức đạt được những mục tiêu của nó"
Từ khái niệm trên có thể cho thấy nhà quản trị cần lƣu ý một số vấn đề
sau về kiểm soát:
- Kiểm soát là một quá trình.
- Kiểm soát không chỉ dành cho những hoạt động đã xảy ra và đã kết thúc
mà còn là sự kiểm soát đối với những hoạt động đang xảy ra và sắp xảy
ra.
- Kiểm soát nhằm phát hiện sự sai lệch và nguy cơ sai lệch.
- Kiểm soát để thực hiện các biện pháp khắc phục sự sai lệch hƣớng đến
việc hoàn thành mục tiêu đã định.
8.1.2 Các nguyên tắc xây dựng cơ chế kiểm soát
Trong tác phẩm: "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" các tác giả Koontz
& Donnell đã chỉ ra bảy nguyên tắc định hƣớng cho việc xây dựng cơ chế
kiểm soát trong các tổ chức. Cụ thể là:
- Kiểm soát phải được thiết kế căn cứ trên kế hoạch hoạt động của tổ
chức và căn cứu theo cấp bậc của đối tượng được kiểm soát. Vì mục tiêu chủ
yếu của kiểm soát là kiểm soát tình hình thực hiện kế hoạch, do đó kế hoạch
trở thành đối tƣợng và cũng đồng thời là cơ sở của kiểm soát, kiểm soát phải
đƣợc thiết kế theo kế hoạch hoạt động tổ chức. Nội dung kiểm soát tùy thuộc
vào nội dung của kế hoạch hoạt động, mặt khác kiểm soát còn cần đƣợc thiết
kế căn cứ theo cấp bậc của đối tƣợng bị kiểm soát. Không thể có một cơ chế
Bài giảng Quản trị học
91
kiểm soát chung cho tất cả mọi cấp bậc và đối tƣợng khác nhau. Ví dụ khi
kiểm soát khả năng quản trị của một quản đốc chúng ta phải đặt ra những tiêu
chuẩn để đánh giá khác với những tiêu chuẩn đặt ra với một tổ trƣởng. Kiểm
soát công việc của một giáo viên khác với công việc của một trƣởng khoa.
- Công việc kiểm soát phải được thiết kế theo yêu cầu của các nhà quản
trị. Việc kiểm soát là nhằm làm cho nhà quản trị nắm bắt đƣợc những vấn đề
đang xảy ra mà họ quan tâm. Vì vậy, việc kiểm soát phải xuất phát từ những
nhu cầu riêng của mỗi nhà quản trị để cung cấp cho họ những thông tin phù
hợp. Ví dụ: khi nhà quản trị đang quan tâm đến vấn đề tài chính của doanh
nghiệp thì việc kiểm soát phải nhằm mục đích là xác định cho đƣợc những
diễn biến tài chính hiện tại của doanh nghiệp.
- Sự kiểm soát phải được thực hiện tại những khâu trọng yếu. Khi xác
định rõ đƣợc mục đích của sự kiểm soát, chúng ta cần phải xác định nên kiểm
soát ở đâu? Trên thực thế các nhà quản trị phải lựa chọn và xác định phạm vi
cần kiểm soát. Nếu không xác định đƣợc chính xác khu vực trọng điểm, nhƣ
kiểm soát trên một khu vực quá rộng, sẽ làm tốn kém thời gian, lãng phí về vật
chất việc kiểm soát không đạt đƣợc hiệu quả cao. Khâu trọng yếu cần kiểm
soát là những khâu có ảnh hƣởng lớn đến vấn đề mà chúng ta quan tâm. Ví dụ
một mặt hàng tự nhiên bán rất ít ngƣời mua, vậy vấn đề trọng yếu ở đây là
kiểm soát chất lƣợng mặt hàng đó có còn nhƣ trƣớc hay không? vấn đề bán
hàng có đƣợc tiến hành tốt nhƣ trƣớc đây hay không? Có bị sự cạnh tranh hay
không?...
- Kiểm soát phải khách quan. Nếu nhƣ thực hiện việc kiểm soát với
những định kiến sẵn có sẽ không cho chúng ta đƣợc những nhận xét và đánh
giá đúng mức đối tƣợng đƣợc kiểm soát, kết quả kiểm soát sẽ bị sai lệch và dĩ
nhiên những giải pháp sẽ không đúng, làm cho tổ chức gặp phải những tổn thất
lớn. Vì vậy, kiểm soát cần phải đƣợc thực hiện với thái độ khách quan. Đây là
một yêu cầu rất cần thiết để đảm bảo kết quả và các kết luận kiểm soát đƣợc
chính xác.
- Hệ thống kiểm soát phải phù hợp với bầu không khí của tổ chức. Để
cho việc kiểm soát có hiệu quả cao cần xây dựng một quy trình và các nguyên
tắc kiểm soát phù hợp với nét văn hóa của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có
phong cách lãnh đạo dân chủ, nhân viên đƣợc động lập trong công việc, đƣợc
phát huy sự sáng tạo của mình thì việc kiểm soát không nên thiết lập một cách
trực tiếp và quá chặt chẽ. Ngƣợc lại, nếu các nhân viên cấp dƣới quen làm việc
với các nhà quản trị có phong cách độc đoán, thƣờng xuyên chỉ đạo chặt chẽ
chi tiết và nhân viên cấp dƣới có tính ỷ lại, không có khả năng linh hoạt thì
không thể áp dụng cách kiểm soát, trong đó nhấn mạnh đến sự tự giác hay tự
điều chỉnh của mỗi ngƣời.
Bài giảng Quản trị học
92
- Việc kiểm soát cần phải tiết kiệm và bảo đảm tính hiệu quả kinh tế.
Thực ra việc kiểm soát là chức năng cần thiết trong quản trị. Nó đòi hỏi những
chi phí nhất định trong quá trình thực hiện. Do vậy, cần phải tính toán nhằm
thực hành tiết kiệm, giảm chi phí này và không nên lạm dụng quá nhiều tác
dụng của kiểm soát. Ví dụ, nếu cơ chế quản trị doanh nghiệp đƣợc xây dựng
hợp lý hoạt động xí nghiệp diễn ra một cách trôi chảy, ít khi bị trục trặc thì
công việc kiểm soát thực hiện ít hơn, chi phí kiểm soát giảm xuống.
- Việc kiểm soát phải đưa đến hành động. Việc kiểm soát đƣợc coi là
đúng đắn, nếu những sai lệch so với kế hoạch đƣợc phát hiện và tiến hành điều
chỉnh trên thực tế. Ngƣợc lại, nếu nhƣ việc phát hiện ra sự sai lệch và nguyên
nhân của sự sai lệch mà không gắn với quá trình điều chỉnh lại thì trên thực tế
công việc kiểm soát coi nhƣ vô nghĩa vì không có tác dụng.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản đòi hỏi công việc kiểm soát trong
các doanh nghiệp phải thực hiện. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn các
nguyên tắc này sẽ góp phần làm tăng hiệu quả của kiểm soát.
8.2. TIẾN TRÌNH KIỂM SOÁT
Bước 1: Xác định các tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn kiểm soát là những cột mốc mà dựa vào đó các nhà quản trị
tiến hành đánh giá và kiểm soát đối tƣợng bị quản trị. Ví dụ muốn cân trọng
lƣợng của một vật nào đó, ngƣời ta phải dựa vào một đơn vị đo lƣờng nào đó
làm chuẩn. Vì đối tƣợng chủ yếu mà chúng ta nói ở đây là kiểm soát tình hình
thực hiện kế hoạch, do đó tiêu chuẩn kiểm soát là những mục tiêu, chỉ tiêu,
những tỉ lệ, những đặc tính mà chúng ta đặt ra trong kế hoạch.
Tiêu chuẩn kiểm soát có thể đƣợc đặt ra khác nhau tùy thuộc vào đặc
tính của đối tƣợng cần kiểm soát, nó có thể biểu hiện dƣớ dạng định tính hoặc
định lƣợng. Tuy nhiên thông thƣờng các chỉ tiêu định lƣợng sẽ dễ dàng cho
việc kiểm soát hơn. Để có thể gia tăng hiệu quả của công tác kiểm soát, khi
thiết lập các tiêu chuẩn kiểm soát cần thực hiện các yêu cầu sau:
- Tránh đƣa ra những tiêu chuẩn không đúng hoặc không quan trọng
(phản ánh không đúng bản chất của đối tƣợng bị quản trị hoặc đƣa ra các
tiêu chuẩn quá chi tiết).
- Mang tính chất hiện thực (không quá cao cũng không quá thấp)
- Tránh đƣa ra những tiêu chuẩn mâu thuẫn nhau.
- Phải có sự giải thích về sự hợp lý của các tiêu chuẩn đề ra.
- Dễ dàng cho việc đo lƣờng.
Bước 2: Đo lƣờng thành quả
Nội dung của bƣớc này là căn cứ vào những tiêu chuẩn đề ra trong bƣớc
1, tiến hành đo (đối với những sự việc đang xảy ra hoặc đã xảy ra và kết thúc)
Bài giảng Quản trị học
93
hoặc lƣờng trƣớc đối với những sự việc sắp xảy ra nhằm phát hiện sự sai lệch
hoặc nguy cơ sự sai lệch so với những mục tiêu đã dự kiến. Thực tế cho thấy
hiệu quả đo lƣờng còn tùy thuộc vào phƣơng pháp đo lƣờng và công cụ đo
lƣờng, nhiều khi phải tốn kém rất nhiều chi phí và thời gian để đo lƣờng một
hoạt động nào đó nhƣng hiệu quả lại rất thấp (độ tin cậy không cao). Ví dụ một
nhà sản xuất muốn điều tra thị trƣờng để ƣớc lƣợng khả năng thích ứng của sản
phẩm mới nhƣ thế nào? Trƣờng hợp này cho thấy phƣơng pháp đo lƣờng sẽ
quyết định độ tin cậy của việc đo lƣờng. Ngoài ra việc đo lƣờng đối với những
tiêu chuẩn là định lƣợng sẽ dễ dàng hơn so với những tiêu chuẩn là định tính
hoặc là những tiêu chuẩn mờ, ví dụ đo lƣờng thị phần của sản phẩm sẽ dễ hơn
việc đo lƣờng uy tín của nhãn hiệu.
Bước 3: Điều chỉnh các sai lệch
Nếu nhƣ kết quả thực tế có sai lệch so với những mục tiêu (những tiêu
chuẩn) đã dự kiến thì cần phải phân tích rõ nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch và
đề ra các biện pháp nhằm khắc phục sự sai lệch đó. Sự sai lệch này có thể bắt
nguồn từ nhiều lý do khác nhau nhƣ: Lỗi của ngƣời vận hành, giám sát tồi,
huấn luyện không phù hợp, máy móc hoặc vật tƣ bị hƣ hỏng,... khi có sự sai
lệch, có thể sử dụng nhiều biện pháp để khắc phục nhƣ: tổ chức lại bộ máy đơn
vị, phân công lại các bộ phận, đào tạo lại nhân viên,...
Từ những nội dung đƣợc trình bày ở trên cho thấy kiểm soát là một hệ
thống phản hồi hết sức quan trọng đối với công tác quản trị. Chính nhờ hệ
thống phản hồi mà các nhà quản trị biết rõ đƣợc hiện trạng của doanh nghiệp,
những vấn đề mà nó đang gặp phải để rồi chủ động thực hiện các biện pháp
điều chỉnh kịp thời. Quá trình kiểm soát đƣợc thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ: 8.1 Vòng phản hồi của kiểm soát
8.3. CÁC LOẠI HÌNH KIỂM SOÁT
Phát hiện
sai lệch
So sánh
với các
tiêu
chuẩn
Đo lƣờng
Kết quả
thực tế
Phân tích
nguyên
nhân sai
lệch
Đƣa ra
chƣơng
trình điều
chỉnh
Thực
hiện sự
điều
chỉnh
Kết quả
mong
muốn
Bài giảng Quản trị học
94
Trong quản trị, kiểm soát là chức năng cuối cùng trong 4 chức năng,
điều chỉnh làm cho nhiều ngƣời ngộ nhận kiểm soát là hoạt động chỉ diễn ra
khi việc đã kết thúc. Sự kiểm soát nhƣ vậy trong quản trị gọi là kiểm soát sau
khi thực hiện (kiểm soát đầu ra), loại hình kiểm soát này không đáp ứng đƣợc
đầy đủ yêu cầu công tác quản trị ở các doanh nghiệp, vì lẽ đó trong quản trị đã
xuất hiện 3 loại hình kiểm soát.
8.3.1 Kiểm soát lƣờng trƣớc
Đây là loại hình kiểm soát đƣợc thực hiện trƣớc khi hoạt động chƣa xảy
ra, bằng cách tiên liệu những vấn đề có thể phát sinh để tìm cách ngăn ngừa
trƣớc. Ví dụ trƣớc khi quyết định sản xuất sản phẩm mới để tung ra thị trƣờng,
xí nghiệp cần nghiên cứu thị trƣờng để xác định khả năng thích ứng của sản
phẩm, sau đó nếu kết quả cho thấy sản phẩm mới có tính khả thi mới quyết
định sản xuất đại trà. Tất cả các doanh nghiệp trƣớc khi đƣa kế hoạch vào thực
hiện cũng nên kiểm soát lại kế hoạch xêm có còn phù hợp hay không? nếu thấy
kế hoạch mà chúng ta đã lập ra không còn phù hợp thì phải chủ động điều
chỉnh ngay từ đầu, tránh để tình trạng đƣa một kế hoạch không khả thi vào
thực hiện để rồi chuốc lấy hậu quả. Sự cần thiết của việc kiểm soát lại kế
hoạch trƣớc khi thực hiện là do trong khoảng thời gian từ khi xây dựng kế
hoạch xong đến khi đƣa kế hoạch vào thực hiện có thể xuất hiện những sự thay
đổi nằm ngoài dự kiến của kế hoạch.
Mục đích của sự kiểm soát trƣớc là tránh sai lầm ngay từ đầu. Cơ sở của
kiểm soát trƣớc là dựa vào những thông tin mới nhất về môi trƣờng bên ngoài
và môi trƣờng nội bộ của doanh nghiệp để đối chiếu với những nội dung của
kế hoạch mà ta đã lập ra có còn phù hợp hay không, nếu không phù hợp thì
chủ động điều chỉnh kế hoạch ngay từ đầu. Ngoài ra, một cơ sở khác cho sự
kiểm soát trƣớc là dựa vào những dự báo, dự đoán về môi trƣờng của doanh
nghiệp trong thời gian tới.
Trong xu hƣớng biến động phức tạp của môi trƣờng kinh doanh hiện
nay, loại hình kiểm soát lƣờng trƣớc càng ngày càng trở nên quan trọng và
theo các nhà quản trị đây là loại hình kiểm soát rẻ nhất nhƣng lại hiệu quả cao
nhất. Càng tiến lên cấp bậc cao hơn thì kiểm soát lƣờng trƣớc càng trở nên
quan trọng hơn.
8.3.2 Kiểm soát trong khi thực hiện
Kiểm soát hiện hành là sự kiểm soát đƣợc thực hiện bằng cách theo dõi
trực tiếp những diễn biến trong quá trình thực hiện kế hoạch (trong khi hoạt
động đang xảy ra). Mục đích của sự kiểm soát hiện hành là nhằm tháo gỡ
những vƣớng mắc, những trở ngại khó khăn xảy ra trong quá trình thực hiện để
đảm bảo cho doanh nghiệp đạt đƣợc những mục tiêu, nhiệm vụ đã dự kiến
trong kế hoạch.
Bài giảng Quản trị học
95
8.3.3 Kiểm soát sau khi thực hiện
Kiểm soát ở phía đầu ra đƣợc thực hiện bằng cách đo lƣờng kết quả thực
tế và đối chiếu với kế hoạch ban đầu. Mục đích của sự kiểm soát này là nhằm
rút ra những kinh nghiệm về sự thành công hay thất bại trong quá trình thực
hiện kế hoạch làm cơ sở cho các chu kỳ kế hoạch tiếp theo đạt hiệu quả cao
hơn. Tuy nhiên nhƣ đã chỉ ra ở trên đây, kiểm soát ở phía đầu ra chỉ có tác
dụng cho những lần tiếp theo sau, còn bản thân chu kỳ kế hoạch đó thì đã qua
rồi. Sự kiểm soát này chẳng khác gì nhƣ các bác sĩ giải phẫu tử thi để tìm kiếm
nguyên nhân dẫn đến cái chết của các bệnh nhân. Nhƣ vậy nhƣợc điểm lớn
nhất của loại hình kiểm soát này là độ trễ về thời gian.
Tóm lại, mỗi giai đoạn kiểm soát đều có những vai trò và tác dụng khác
nhau để cho công tác kiểm soát có hiệu quả, sự kiểm soát cần thiết phải thực
hiện ở cả 3 giai đoạn.
Sơ đồ 8.2: Vị trí kiểm soát trong tiến trình lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch
8.4. CÁC CÔNG CỤ KIỂM SOÁT
8.4.1 Ngân quỹ
Ngân quỹ vừa là một công cụ lập kế hoạch, đồng thời vừa là một công
cụ kiểm soát rất quan trọng của các nhà quản trị. Việc lập kế hoạch ngân quỹ
cho phép các nhà quản lý thấy một cách rõ ràng là tiền vốn sẽ đƣợc chi tiêu và
chi tiêu ở đâu và các kế hoạch sẽ bao gồm những khoản nào về chi phí, về
nguồn thu hoặc về số đơn vị đầu vào và đầu ra dƣới dạng vật lý. Khi tin chắc
về điều này, ngƣời quản lý sẽ chuyển giao quyền hạn một cách tự do hơn để
làm cho kế hoạch đạt hiệu quả trong phạm vi có hạn của ngân quỹ.
8.4.1.1 Các dạng ngân quỹ
- Ngân quỹ thu và chi: Ngân quỹ thu gồm các khoản thu từ việc bán
hàng hoặc cung cấp các dịch vụ. Ngân quỹ chi bao gồm các khoản chi cho lao
động trực tiếp, nguyên vật liệu, giám sát, máy móc thiết bị,...
- Ngân quỹ về thời gian, không gian, vật liệu và sản phẩm: Đây là dạng
ngân quỹ đƣợc thể hiện dƣới dạng vật lý nhƣ số giờ lao động trực tiếp, số giờ
máy, số đơn vị vật liệu, số sản phẩm đƣợc sản xuất ra,... Loại ngân quỹ này
Lập kế
hoạch
Thực hiện
kế hoạch
Kết quả
đạt đƣợc
Kiểm soát Kiểm soát Kiểm soát
Bài giảng Quản trị học
96
cũng đƣợc chuyển đổi sang số lƣợng tiền tệ. Tuy nhiên rất khó đo lƣờng chính
xác nguồn lực đƣợc dùng và hiệu quả đích thực của nó.
- Ngân quỹ về tiền mặt: Số tiền mặt thu, chi và tồn. Ngân quỹ này giúp
chúng ta xác định khả năng chi trả các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả, khả năng
đầu tƣ của doanh nghiệp. Ngân quỹ này đƣợc xác định hợp lý trong hoạt động
sẽ giúp tổ chức bảo đảm sự hoạt động bình thƣờng.
8.4.1.2 Kỹ thuật lập ngân quỹ
Mặc dù một trong những mục đích của lập ngân quỹ là nhằm tạo cơ sở
cho phần quyền một cách tự do hơn, tăng quyền hạn cho cấp dƣới nhiều hơn,
song nếu không khéo thì đi ngƣợc lại với mục đích. Trong nhiều trƣờng hợp do
ngân quỹ đƣợc lập ra một cách cứng nhắc, quá cụ thể và chi tiết làm cho cấp
cơ sở bị trói buộc trong những tỉ lệ và con số cố định. Vì vậy, làm khó khăn
cho hoạt động của cấp cơ sở và mất đi khả năng linh hoạt, thậm chi trong nhiều
trƣờng hợp trở nên kém hiệu quả.
Phải thấy rằng mục đích của việc lập kế hoạch về ngân quỹ là nhằm
quản lý có hiệu quả hơn và sau cùng là nhằm thực hiện những mục tiêu cơ sở
tốt hơn, song nếu không khéo thì do bị khống chế trong những con số và tỷ lệ
cứng nhắc của mục tiêu ngân quỹ mà các cơ sở không thể đạt đƣợc mục tiêu
của nó. Vì vậy kỹ thuật lập ngân quỹ là nhằm để vừa đảm bảo sự kiểm soát của
cấp trên thông qua kế hoạch ngân quỹ nhƣng đồng thời vẫn tạo ra quyền chủ
động, năng động và sáng tạo cho cấp cơ sở trong quá trình hoạt động.
Trong tác phẩm "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" Koontz & O
Donnell đã giới thiệu 3 kỹ thuật lập ngân quỹ nhƣ sau:
- Ngân qũy biến đổi: Đƣợc áp dụng chủ yếu cho ngân quỹ chi tiêu, nó đƣợc
thiết kế có thể đƣợc thay đổi khi số lƣợng bán hoặc một vài số đo khác của sản
lƣợng thay đổi. Ngân quỹ biến đổi đƣợc thiết kế dựa trên việc phân tích các
khoản mục chi tiêu để xác định xem các chi phí riêng lẻ sẽ biến đổi nhƣ thế
nào theo khối lƣợng sản lƣợng. Trong các khoản chi phí, một số khoản sẽ
không thay đổi theo khối lƣợng, đặc biệt trong một thời kỳ đủ ngắn nhƣ một
tháng, sáu tháng, hay một năm. Ví dụ nhƣ các chi phí: hao mòn, thuê tài sản,
bảo dƣỡng máy móc thiết bị,... Những chi phí biển đổi theo khối lƣợng sản
lƣợng bao gồm những loại có khả năng biến đổi hoàn toàn cho đến những loại
có khả năng biên đổi ít. Nhiệm vụ của lập kế hoạch ngân quỹ biến đổi là chọn
ra một số đơn vị đo lƣờng để phản ánh khối lƣợng, để kiểm tra những chủng
loại chi phi phí khác nhau và bằng các nghiên cứu thống kê để xác định xem
những chi phí đó sẽ biến thiên nhƣ thế nào theo khối lƣợng sản lƣợng. Căn cứ
vào đây ngƣời ta giao cho mỗi phòng, ban danh mục chi phí biến đổi, cùng một
số khoản tiền nhất định cho những chi phí cố định hoặc tạm thời của nó. Sau
đó một cách định kỳ thƣờng là hàng tháng các trƣởng ban sẽ nhận đƣợc các
Bài giảng Quản trị học
97
con số dự đoán khối lƣợng cho một tƣơng lai vừa phải mà từ đó các khoản tiền
về chi phí biến đổi bổ sung vào ngân quỹ sẽ đƣợc tính toán. Theo cách này,
ngân quỹ cơ bản có thể đƣợc xây dựng trƣớc cho thời gian sáu tháng hoặc một
năm, nhƣng nó sẽ đƣợc thay đổi theo những biến đổi ngắn hạn về lƣợng bán và
sản lƣợng.
- Ngân quỹ cơ sở - Zêrô: Đây là kỹ thuật lập ngân quỹ đƣợc thết kế bằng
cách chi các chƣơng trình của cơ sở thành ra "các gói" bao gồm các mục tiêu,
các hoạt động và các nguồn lực cần thiết và sau đó tiến hành tính toán chi phí
cho mỗi gói này. Bằng cách bắt đầu ngân quỹ của mỗi gói từ cơ sở - Zêrô, cho
nên các chi phí đƣợc tính toán lại cho mỗi thời kỳ ngân quỹ và nhờ vậy sẽ
tránh đƣợc xu hƣớng chung trong việc lập ngân quỹ là chỉ chú trọng vào những
thay đổi so với thời kỳ trƣớc. Thông thƣờng kỹ thuật này đƣợc áp dụng cho các
khu vực phụ trợ. Ƣu điểm chính của kỹ thuật này là nó buộc các nhà quản lý
phải lập kế hoạch cho mỗi gói chƣơng trình. Khi các nhà quản lý làm nhƣ vậy
họ xem xét lại các chƣơng trình đã xây dựng và các chi phí của chúng trong
toàn bộ, song song với các chƣơng trình mới hơn và chi phí của chúng.
- Ngân quỹ lựa chọn và ngân quỹ phụ: Đây là một phƣơng pháp khác để
thu đƣợc ngân quỹ biến đổi xây dựng các ngân quỹ lựa chọn đối với các tình
huống có thể lựa chọn. Đôi khi một công ty xây dựng các ngân quỹ đối với
mức hoạt động cao, một mức vừa và một mức thấp. Các ngân quỹ lựa chọn là
sự biến dạng của ngân quỹ biến đổi. Ở đây các ngân quỹ biến đổi mà thực ra
nó có thể biến thiên vô hạn đƣợc giới hạn lại trong một số khả năng lựa chọn.
8.4.2 Kỹ thuật phân tích thống kê
Ngoài kỹ thuật lập ngân quỹ, kỹ thuật phân tích thống kê cũng có vai trò
khá quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng kiểm soát. Kỹ thuật này
đƣợc thực hiện trên cơ sở dựa vào các dữ liệu quá khứ, tổng hợp thành các
biểu đồ hoặc đồ thị qua đó giúp cho các nhà quản trị đƣa ra những nhận xét:
- Xu thế phát triển của doanh nghiệp trong quá khứ, những dự báo cho
thời gian tới.
- Mối liên hệ giữa các yếu tố trong quá trình phát triển.
- Độ sai lệch so với các tiêu chuẩn đặt ra trong kế hoạch,...
Nhìn chung kỹ thuật phân tích thống kê đƣợc sử dụng trong tất cả các chức
năng và lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Ví dụ trong công tác nghiên cứu
marketing nhờ sử dụng kỹ thuật phân tích thống kê, thông qua việc điều tra
mẫu với những bảng câu hỏi đƣợc thiết kế sẳn để phỏng vấn khách hàng, các
nhà nghiên cứu có thể đƣa ra những dự đoán về thị trƣờng và về xu hƣớng của
khách hàng qua đó tạo cơ sở cho các quyết định kinh doanh.
8.4.3 Các báo cáo và phân tích chuyên môn
Bài giảng Quản trị học
98
Đây là cách thức kiểm soát đƣợc thực hiện bằng cách sử dụng các
chuyên gia nghiên cứu từng lĩnh vực chuyên sâu (chuyên gia về kế toán kiểm
toán, tài chính, dự án, kỹ thuật và công nghệ,...) để có thể phát hiện những vấn
đề mà doanh nghiệp đang gặp phải trong từng lĩnh vực riêng biệt, trên cơ sở đó
có những đề xuất sát thực. Thực tế cho thấy việc sử dụng những phân tích
chuyên môn đƣa lại những lợi ích thiết thực, vì có những lĩnh vực phức tạp mà
kiến thức của nhà quản trị có thể không bao quát hết.
8.4.4 Quan sát cá nhân
Đây là kỹ thuật kiểm soát đƣợc thực hiện bằng cách theo dõi, quan sát
trực tiếp các thuộc cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để phát hiện và điều
chỉnh kịp thời những sai lệch, thực tế cho thấy rất nhiều thông tin hữu ích mà
các nhà quản trị thu đƣợc thông qua quan sát cá nhân, giúp nâng cao hiệu quả
công tác kiểm soát. Biện pháp quan sát cá nhân có tầm quan trọng đặc biệt với
những quản trị viên cấp thấp.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm và ý nghĩa của chức năng kiểm tra
2. Trình bày quá trình kiểm tra
3. Chứng minh kiểm tra là một quá trình phản hồi
4. Thế nào là kiểm tra lƣờng trƣớc, kiểm tra đồng thời
5. Thế nào là kiểm tra thích hợp
6. Trình bày các hệ thống kiểm tra, kiểm soát chính
Bài giảng Quản trị học
99
Chƣơng 9
THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ
9.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÔNG TIN
9.1.1. Khái niệm
Dữ liệu (data)
Dữ liệu (số liệu và dữ kiện) là những “thông tin thô” ban đầu phản ánh
một cách rời rạc các hiện tƣợng, các sự kiện, hoạt động của tổ chức. Nó không
cho thấy đƣợc một ý nghĩa tổng thể về sự vận động, tồn tại và phát triển của tổ
chức.
Dữ liệu bao gồm rất nhiều loại khác nhau và bao quát trên mọi lĩnh vực
có liên quan đến tổ chức và chúng chỉ trở nên hữu ích sau khi đã đƣợc xử lý.
Các hoạt động xử lý dữ liệu thô bao gồm phân loại, phân tích, so sánh
và tổng hợp thành những thông tin hữu ích và có giá trị đối với tất cả các cấp
của tổ chức.
- Xử lý: Xử trí và chỉnh lý
- Phân tích: (hóa) chia lìa ra – xét tìm các nguyên chất trong các hoá-
hợp- vật và so sánh trọng lượng của các nguyên chất ấy.
- Tổng hợp : nhóm họp nhiều cái lại một
Thông tin
Trong khoa học quản lý, ngƣời ta phân biệt giữa dữ liệu và thông tin
thông qua khái niệm:
Dữ liệu (data) là thông tin thô
Thông tin (information) là những dữ liệu đã xử lý, sắp xếp và diễn
giải theo một cấu trúc hợp lý để nâng cao tính hiệu quả của các
quyết định.
Thông tin là tập hợp những dữ liệu đã đƣợc xử lý, mã hoá, sắp xếp
nhằm giúp cho các nhà quản lý đƣa ra các quyết định tốt hơn trong
môi trƣờng cụ thể.
Sự phân biệt nhƣ trên cũng chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối vì còn có thuật
ngữ “thu thập và xử lý thông tin” tồn tại trong mọi tổ chức có cả nghĩa của xử
lý thông tin và xử lý dữ liệu ban đầu.
9.1.2. Các loại thông tin trong tổ chức
Trong tổ chức, tồn tại nhiều loại thông tin khác nhau. Mỗi loại thông tin
chứa đựng những số liệu, dữ liệu và có giá trị khác nhau.
Chia thông tin thành các nhóm sau
Nhóm thông tin liên quan đến kinh tế
Bài giảng Quản trị học
100
Nhóm thông tin liên quan đến thị trƣờng
Nhóm thông tin liên quan đến cạnh tranh
Nhóm thông tin liên quan đến khách hàng
Nhónh thông tin về môi trƣờng
Nhóm thông tin về nhân sự
Nhóm thông tin về nhà nƣớc
Chia theo theo nguồn gốc cung cấp
Nhóm thông tin nội bộ, do các thành viên trong tổ chức thu thập, xử lý
và cung cấp
Nhóm thông tin công khai trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng
Nhóm thông tin cung cấp từ bên ngoài nhƣ các nhà cung cấp
Nhóm thông tin mua bán, trao đổi trên thị trƣờng
Chia theo mức độ sử dụng
Nhóm thông tin cần ngay cho các quyết định quản lý
Nhóm thông tin dự trữ
Nhóm thông tin thừa
Những thông tin sai lệch, giả
Nhóm thông tin sử dụng nhiều lần
Nhóm thông tin chỉ sử dụng một lần
Nhóm thông tin tối mật (chỉ cho nhà quản lý cao cấp)
Nhóm thông tin cho tất cả các cấp quản lý
Nhóm thông tin cho tất cả các thành viên trong tổ chức
Chia theo mục đích phục vụ quản lý
Nhóm thông tin phục vụ ra các quyết định quản lý trên phƣơng diện sản
xuất, kinh doanh
Nhóm thông tin phục vụ ra các quyết định trên phƣơng diện con ngƣời
9.1.3. Một vài đặc điểm cần quan tâm của thông tin
- Thông tin là sự sắp xếp, xử lý các dữ kiện, do đó, thông tin thƣờng
mang tính chủ quan của ngƣời cung cấp bên cạnh tính khách quan, thực tiễn
của dữ liệu
- Các nhà quản lý cần lƣu ý đến các loại thông tin không chính thức
đƣợc cung cấp theo nhiều cách khác nhau. Đó có thể là loại thông tin có giá trị
hay không có giá trị
Bài giảng Quản trị học
101
- Mỗi loại thông tin chỉ có giá trị nhất định khi nó đƣợc sử dụng cho các
mục đích khác nhau của quản lý. Giá trị của thông tin do đó không có thể
lƣợng hóa theo khái niệm giá cả.
- Thông tin có thể bị mất giá trị nhanh khi đƣợc cung cấp. Chính vì vậy
có ngƣời gọi thông tin dữ liệu mới. Điều đó đòi hỏi cần sử dụng tối đa, nhanh
nhất giá trị của thông tin trƣớc khi thông tin đó đƣợc cung cấp chính thức công
khai.
- Cần quan tâm đến khái niệm dòng thông tin, đó là loại thông tin đƣợc
cập nhật thƣờng xuyên. Tính cập nhật sẽ làm tăng giá trị của thông tin đã có và
hoàn thiện hoạt động của các nhà quản lý
9.2 THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ
9.2.1. Vai trò và các yêu cầu của thông tin trong tổ chức
9.2.1.1 Vai trò
- Thông tin có ý nghĩa chung nhất của hoạt động quản lý là đảm bảo sự
tác động của các chủ thể quản lý đến các khách thể quản lý để biến thành các
hành động nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
- Thông tin là một nguồn lực của tổ chức. Không giống nhƣ các nguồn
lực vật chất, việc xác định giá trị thông tin là công việc không dễ dàng, bởi vì
thông tin không có giá trị nội tại. Giá trị của thông tin đƣợc xác định bởi chính
những ngƣời sử dụng nó để ra quyết định.
Các nhà quản trị và nhân viên thuộc tất cả các cấp và các lĩnh vực
chuyên môn của tổ chức đều có những nhu cầu thông tin khác nhau. Chẳng
hạn, các nhà quản trị cấp cao có nhu cầu đối với những thông tin về thành tích
chung của doanh nghiệp và các hoạt động của các đối thủ cạnh tranh.
Nhƣng các công nhân sản xuất tại một phân xƣởng thì không cần những
thông tin chi tiết về các đối thủ cạnh tranh bởi chúng ít có ích đối với họ,
thông tin họ cần là khả năng cung ứng nguyên liệu của các nhà cung cấp, năng
suất của phân xƣởng, tỷ lệ phế phẩm…
9.2.1.2 Các yêu cầu của thông tin
Để đƣợc coi là một nguồn lực, thông tin phải có giá trị. Các tiêu thức để
xác định giá trị của thông tin bao gồm:
Chất lượng của thông tin ( quality )
Chất lƣợng của thông tin đƣợc đo lƣờng bằng mức độ miêu tả chính xác
thực tế khách quan của nó. Thông tin càng chính xác thì chất lƣợng của nó
càng cao. Đồng thời, mức độ về yêu cầu chất lƣợng của thông tin biến động
tùy theo nhu cầu của những ngƣời sẽ xử dụng nó.
Ví dụ: Các nhân viên quản lý kho cần những thông tin chính xác về khối
lƣợng tồn kho nguyên liệu thô hiện có và lịch trình đặt hàng lại. Còn các nhà
Bài giảng Quản trị học
102
quản trị phụ trách knh doanh thì cần những thông tin dự báo về các khuynh
hƣớng của thị trƣờng, nhu cầu, thu nhập của dân cƣ… để dự báo về doanh thu
và vạch ra những định hƣớng chiến lƣợc.
Sự phù hợp của thông tin ( relevance )
Sự phù hợp của thông tin tùy thuộc vào mức độ và phạm vi mà nó hỗ trợ
trực tiếp cho việc ra quyết định. Trong nhiều trƣờng hợp các nhà quản trị và
nhân viên nhận đƣợc những thông tin không phù hợp có thể làm trì hoãn quá
trình ra quyết định bởi sự hỗn độn của chúng. Chẳng hạn, những công nhân
trong một phân xƣởng sản xuất cần những thông tin chi tiết về mức tồn kho
hàng hóa, nguyên liệu, thời hạn giao hàng và lịch trình sản xuất để đƣa ra
những quyết định hợp lý. Họ không cần những thông tin nhƣ chiến lƣợc cạnh
tranh, chiến lƣợc đa dạng hoá sản phẩm.
Khối lượng thông tin (quantity)
Là lƣợng thông tin sẳn sàng phục vụ các nhà quản trị và nhân viên khi họ
cần đến. Trong quá trình ra quyết định, không phải cứ có càng nhiều thông tin
càng tốt, bởi trong nhiều trƣờng hợp có quá nhiều thông tin sẽ dẫn đến tình
trạng quá tải. Do đó, cần phải kiểm soát chặt chẽ lƣợng thông tin cung cấp cho
nhân viên.
Tính kịp thời
Là những ngƣời cần thông tin để ra quyết định phải nhận đƣợc thông tin
cần thiết vào thời điểm thích hợp. Bởi vậy, trong những trƣờng hợp không cấp
bách thì không cần thiết phải xử lý quá gấp để dẫn đến sự lãng phí nguồn lực
này.
9.2.2 Thông tin trong một tổ chức
9.2.2.1 Hệ thống thông tin trong tổ chức
Hệ thống thông tin cơ bản
Đó là thông tin từ ngƣời quản lý các cấp xuống cấp dƣới hoặc những thông
tin từ cấp dƣới đến cấp trên để yêu cầu giúp đỡ hoặc làm một công việc nào
đó, phản ánh yêu cầu quản lý, chịu sự quản lý và phản hồi.
Hệ thống thông tin phụ trợ
Đó là những loại thông tin đƣa ra nhằm làm rõ những thông tin cơ bản.
Các loại thông tin này không gắn liền trực tiếp với những hoạt động quản lý,
điều hành song lại góp phần làm rõ các thông tin cơ bản, tạo ra những cơ hội
mới để cho ngƣời thực hiện nó có những sáng tạo trong hoạt động.
Một loại hình thông tin phụ trợ rất quan trọng cần đƣợc quan tâm là các
loại tin đồn hay các ý kiến không chính thức.
Bài giảng Quản trị học
103
Những ngƣời có thông tin này, có thể vì nhiều lý do khác nhau không
muốn cung cấp trực tiếp cho các nhà quản lý, nhƣng nội dung của nó rất có ý
nghĩa.
Trong nhiều hoạt động kinh doanh, ngoại giao hay chính trị, nhiều thông
tin loại nầy chỉ ra giá trị quan trọng của nó cần quan tâm. Hiệp hội các nhà
quản lý Mỹ tổ chức một hệ thống săn đuổi các thông tin đồn này và họ đã
chứng tỏ hữu ích của nó.
9.2.2.2 Các nhóm thông tin trong một tổ chức
Thông tin từ trên xuống dƣới
Đây là loại thông tin từ các cấp quản lý cao xuống các cấp thấp trong hệ
thống thứ bậc quản lý. Thông tin này có tính chất thông báo, lãnh đạo, hƣớng
dẫn, phối hợp và đánh giá cấp dƣới. Các nhà quản lý cấp trên sử dụng hình
thức này để truyền đạt mục tiêu của tổ chức cho cấp dƣới, mô tả công việc,
thông báo các chính sách, thủ tục, các vấn đề cần tập trung chú ý.
Đó là những thông tin từ các nhà quản lý dự án, cố vấn trƣởng, giám
đốc điều hành dự án xuống cho thành viên của dự án
Thông tin từ dƣới lên trên
Các nhà quản lý cấp cao cũng đòi hỏi các nhà quản lý cấp dƣới mình
cung cấp các thông tin cần thiết: các báo cáo hàng tuần, tháng, quý năm về
hoạt động thực hiện các mục tiêu của tổ chức, những thông tin của cấp dƣới về
điều kiện làm việc, sản xuất, môi trƣờng cạnh tranh hay những kiến nghị để
hoàn thành công việc. Thông tin từ các nhóm, các cá nhân thực hiện các mục
tiêu chi tiết của dự án cho giám đốc điều hành dự án.
Thông tin ngang
Trong các tổ chức sử dụng các hình thức ra quyết định quản lý với sự
tham gia của ngƣời làm việc trong tổ chức thì phƣơng pháp thông tin này rất
quan trọng. Thông tin giữa các bộ phận trong tổ chức thực hiện dự án theo
từng kênh khác nhau.
Thông tin hỗn hợp theo mô hình thiết kế ma trận
Các thông tin vừa cung cấp theo hệ thống thứ bậc (trên dƣới) vừa cung
cấp theo tuyến ngang (cùng cấp nhƣng ở bộ phận khác nhau nhƣng có mối liên
hệ về chuyên môn hay các vấn đề khác). Trao đổi thông tin theo hình thức này
nhằm đẩy nhanh các dòng thông tin, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, phối hợp tốt hơn
giữa các bộ phận của tổ chức và do đó đảm bảo cho mục tiêu của tổ chức có
nhiều cơ hội thành công.
9.2.2.3 Các loại mạng thông tin
Mạng thông tin trực tuyến: Hệ thống thông tin chỉ truyền từ trên xuống
hoặc từ dƣới lên. Đây là loại hình thông tin trong tổ chức không phân
Bài giảng Quản trị học
104
nhánh. Trong hệ thống này, cấp dƣới chỉ chịu trách nhiệm báo cáo và nhận
nhiệm vụ, mệnh lệnh từ một cấp trực tiếp.
Mạng chữ Y: Đƣợc áp dụng cho tổ chức có phân nhánh. Một nhà quản lý
có thể phải báo cáo và nhận chỉ thị từ hai nhà quản lý khác nhau.
Mạng bánh xe: Tất cả các cấp quản lý đều phải báo cáo và chịu sự quản
lý của một nhà quản lý. Không có mối liên hệ giữa các cấp với nhau . Sự
quản lý đƣợc tập trung thống nhất vào một nhà quản lý cấp cao và ông ta
chỉ huy trực tiếp cấp dƣới, không ủy quyền cho cấp dƣới. Mô hình này
thể hiện tính tập quyền cao.
Mạng chu trình: Đây là sơ đồ tổ chức theo mô hình 3 cấp, nghĩa là một
bộ phận có trách nhiệm báo cáo và liên hệ với hai cấp khác
Sơ đồ tổng hợp: Tất cả các bộ phận quan hệ với nhau
9.2.3 Những đòi hỏi đối với thông tin trong quản lý
Nhà quản lý đòi hỏi thông tin trong quản lý cần có đảm bảo đủ về số
lƣợng và chính xác về chất lƣợng.
9.2.3.1.Tính khách quan
Tính khách quan của các loại thông tin là một yêu cầu rất khó khăn vì
bản thân thông tin đã không mang tính khách quan tuyệt đối.
Nhiều thông tin về các hiện tƣợng đã bị xử lý theo những mục đích
riêng của những ngƣời cung cấp thông tin. Các thông tin trƣớc khi đƣa đến các
nhà quản lý đã bị lọc qua nhiều phin lọc với các ý đồ khác nhau.
Các nhà quản lý cần phải có hệ thống kiểm tra hữu hiệu tính khách quan
của thông tin
9.2.3.2. Chất lượng của thông tin
Tính chất lƣợng của thông tin không những đòi hỏi tính khách quan mà
còn đƣợc xác định bởi nhiều thông số khác. Do đó, nếu ít tiêu chí để đo thì
thông tin sẽ có chất lƣợng thấp
9.2.3.3. Tính phù hợp của thông tin
Các cấp quản lý khác nhau có nhu cầu về các loại thông tin ở các cấp độ
khác nhau (vĩ mô, khái quát, chi tiết, cụ thể v.v. ). Sự phù hợp của thông tin sẽ
đem lại cho các nhà quản lý cơ hội đƣa ra quyết định nhanh hơn, hợp lý hơn.
Sự cần thiết thông tin chi tiết về thị trƣờng, giá cả, cạnh tranh, sức mua
hàng sẽ giúp cho các nhà quản lý tác nghiệp có cơ sở để có những quyết định
điều chỉnh nhanh về hoạt động kinh doanh; một nhà chiến lƣợc đòi hỏi những
thông tin vĩ mô để xây dựng chiến lƣợc phát triển doanh nghiệp.
9.2.3.4. Khối lượng thông tin đủ và đa dạng
Bài giảng Quản trị học
105
Đủ về dung lƣợng thông tin trên một lĩnh vực và đa dạng về nguồn
thông tin. Một quyết định quản lý thƣờng đòi hỏi không phải chỉ một loại
thông tin. Cần tạo điều kiện để thu nhận đƣợc nhiều dạng thông tin cần thiết.
9.2.3.5. Tính đúng lúc, đúng thời gian
Thông tin chỉ có giá trị khi nó đƣợc đƣa đến đúng lúc, kịp thời để nắm
bắt thời cơ. Nếu đƣa muộn quá thì thông tin sẽ mất tác dụng vì lạc hậu; nếu
đƣa sớm quá thì có thể bị lãng quên.
9.2.3.6. Tính đơn giản, dễ hiểu cũng như cách xử lý chúng
Nhiều trƣờng hợp thông tin cũng mang nhiều ý nghĩa rất khác nhau và
do đó cũng có thể không giúp cho các nhà quản lý giải quyết vấn đề
9.3 HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ
9.3.1.Khái niệm
Hệ thống thông tin quản lý được hiểu như là một hệ thống dùng để tiến
hành quản lý cùng với những thông tin cần thiết (các loại) được cung cấp
thường xuyên để hỗ trợ cho việc hoạch định, kiểm soát và ra quyết định của
các cấp quản lý.
Hệ thống thông tin quản lý có thể hiểu nhƣ là một tập hợp của nhiều hệ
thống thông tin con trong tổ chức nhƣ:
- Các hệ thống thông tin văn phòng bao gồm thƣ điện tử, bộ phận xử lý dữ
liệu, mạng máy tính…Các hệ thống cung cấp những dịch vụ hỗ trợ cho những
công việc văn phòng hằng ngày nhƣ thảo các văn bản, phục vụ hội nghị, viễn
thông, tính toán và xử lý đơn đặt hàng…
- Hệ thống xử lý dữ liệu bao gồm hệ thống xử lý dữ liệu kế toán, lƣơng
bổng, kiểm soát sản xuất, tồn kho, ghi chép, xử lý và lập báo cáo tình hình kinh
doanh hàng ngày trong doanh nghiệp
- Hệ thống hỗ trợ ra quyết định (DSS = Decision Support System) bao
gồm các báo biểu, kỹ thuật dự báo, các mô hình ra quyết định, các chƣơng
trình tuyến tính, phân tích thống kê….ngƣời sử dụng có thể liên kết các hệ
thống này với nhau để triển khai các hoạt động, tuy nhiên chúng không thể
thay thế óc suy xét của con ngƣời.
Các hệ thống này hỗ trợ các hoạt động xây dựng kế hoạch và ra quyết
định. Ngƣời xử dụng có thể liên kết các hệ thống này với nhau để triển khai
các hoạt động.
- Một hệ thống thông tin quản lý (management information system -
MIS) phải đảm bảo rằng dòng thông tin đƣợc vận hành thông suốt trong tổ
chức, vƣợt qua ranh giới giữa các bộ phận, từ trên xuống dƣới cũng nhƣ từ
dƣới lên, đáp ứng nhu cầu thông tin của tổ chức và phản hồi chính xác, kịp
thời.
Bài giảng Quản trị học
106
Tuy nhiên chúng không thể thay thế óc suy xét của ngƣời ra quyết định.
Trong thời đại ngày nay, bất kỳ một tổ chức nào dù là một tổ chức nhà nƣớc
hay của tƣ nhân không thể thiếu số liệu, thông tin. Điều quan trọng là phải xử
lý các số liệu đó một cách có ích và làm sao cho số liệu đó đến đúng vị trí
ngƣời cần nó.
Điều này cũng có nghĩa là các nhà quản lý cần phải tổ chức, xây dựng
cho tốt hệ thống thông tin quản lý trong tổ chức của mình thì mới có thể tiến
hành hoạt động quản lý có hiệu quả đƣợc.
- DSS (Decision Support System): hệ thống thông tin hỗ trợ ra các quyết
định cần phải thoả mãn đƣợc nhu cầu quản trị hàng đầu là: cung cấp cho nhà
quản trị những thông tin cần thiết để ra những quyết định khôn ngoan. Điều
quan trọng ở đây là không phải cung cấp bất kỳ thông tin nào. Cần phải có một
hệ thống có thể biến những dữ liệu thô thành những thông tin mà ban lãnh đạo
có thể sử dụng thực sự. Để đạt đƣợc mục đích này hệ thống thông tin phải tính
đến nhu cầu thông tin cụ thể của những nhà quản trị và những yêu cầu thông
tin của những loại hình quyết định cụ thể.
DSS là hệ thống thông tin hỗ trợ việc ra quyết định là hệ thống thông tin
chuyên dụng đƣợc thiết kế để hỗ trợ các kỹ năng của một nhà quản trị trong tất
cả các giai đoạn ra quyết định_nhận dạng vấn đề, lựa chọn những dữ liệu liên
quan, chọn phƣơng thức sẽ sử dụng để ra quyết định và đánh giá các phƣơng
án hành động. DSS phải cung cấp thông tin dƣới dạng mà những nhà quản trị
có thể hiểu đƣợc, đúng vào lúc cần đến thông tin đó và đặt thông tin đó dƣới sự
kiểm soát trực tiếp của các nàh quản trị.
Nói tóm lại, DSS định hình thông tin theo các nhu cầu cuả quản trị. Vì
vậy mà DSS đảm bảo đƣợc việc hỗ trợ cho những “quyết định đƣợc chƣơng
trình hoá” và “quyết định chƣa đƣợc chƣơng trình hoá” trong những điều kiện
chắc chắn, rủi ro và không chắc chắn.
Nhìn khái quát ta có thể thấy rằng DSS hiệu quả sẽ thực hiện đƣợc
những việc sau đây:
- Hỗ trợ nhƣng không thay thế việc ra quyết định quản trị
- Hỗ trợ việc ra quyết định trong toàn bộ tổ chức, chủ yếu là ở cấp quản
trị trung gian và tối cao
- Cho phép ngƣời ra quyết định tƣơng tác với máy tính để xem xét hiệu
quả của các phƣơng án quyết định
- Thu thập, lƣu giữ và đảm bảo cung cấp những dữ liệu và các mô hình
ra quyết định phù hợp với các loại hình quyết định cụ thể
- Các loại vấn đề gặp phải và các thủ tục quy định đƣợc sử dụng để xử
lý chúng thay đổi (phù hợp) theo các cấp quản trị khác nhau vì yêu cầu về từng
Bài giảng Quản trị học
107
loại thông tin tuỳ thuộc vào các cấp quản trị khác nhau. Cần phải đảm bảo
thông tin đến đúng nơi, đúng lúc cần thiết, phù hợp với từng loại quyết định
khác nhau của cấp quản trị káhc nhau.
- Thân thiện với ngƣời dùng (dễ dùng)
9.3.2 Các giai đoạn hình thành và phát triển của hệ thống thông tin quản
lý
Trong lịch sử hình thành và phát triển hoạt động quản lý, hệ thống thông
tin quản lý (MIS) đã hình thành và phát triển qua 4 giai đoạn khác nhau và
hiện đang ở giai đoạn thứ 5.
Giai đoạn 1: Xử lý số liệu tập trung. Đây là giai đoạn đầu tiên của việc
sử dụng hệ thống MIS cho hạch toán, kế toán. Nhƣng tất cả các số liệu chỉ tập
trung về một cơ quan kiểm soát. Thông tin đƣa ra thƣờng chậm chạp không
đáp ứng đủ nhu cầu quản lý hàng ngày.
Giai đoạn 2: Xử lý số liệu tập trung trong hoạt đông quản lý (1963-
1979) nhằm cung cấp thông tin cho các nhà quản lý để họ đƣa ra các quyết
định tốt hơn. Mọi nhà quản lý đều gắn với thông tin. Các nhà quản lý đều nhận
thức đƣợc vai trò của thu thập và xử lý số liệu của máy tính, không chỉ cung
cấp số liệu liên quan đến hoạt động quản lý hàng tuần, tháng, năm mà có thể
đƣa ra cho các nhà quản lý lời khuyên và các biện pháp xử lý. Có thể nói đây
chính là sự bắt đầu thực sự của MIS. Và các bộ phận bắt đầu thành lập bộ phận
kiểm soát thông tin quản lý.
Giai đoạn 3: Phi tập trung hóa kiểm soát thông tin. Nghĩa là ngƣời quản
lý là ngƣời sử dụng máy vi tính và do đó kiểm soát thông tin và họ phải kiểm
soát cả sự thành công hay không thành công (?)
Giai đoạn 4: Nối mạng, nghĩa là làm sao các máy tính cá nhân có thể
thông tin cho nhau.
Giai đọan 5: Giai đoạn tiếp theo, hiện nay đang tồn tại và phát triển.
Đây là giai đoạn phát triển cao của MIS và thông tin đƣợc trao đổi trên quy mô
rộng (ví dụ công ty Digital đã thiết kế hệ thống nối 27.000 công ty của 26 nƣớc
trên thế giới).
Trong một tổ chức, mạng và nối mạng thông tin đã trở thành phổ biến
nhằm đảm bảo sự liên hệ trực tiếp giữa nhà quản lý cấp cao của tổ chức với
các cấp quản lý khác.
Trong giai đoạn tiếp theo, ngƣời ta đang muốn xây dựng một hệ thống
các chuyên gia, tức là tạo ra những bộ phận xử lý thông minh các loại thông tin
dể giúp các lời khuyên cụ thể theo loại vấn đề nhiều hơn cho các nhà quản lý.
Trong khi sử dụng hệ thống thông tin quản lý, không ít nhà quản lý hoặc
đã coi nhẹ giá trị của hệ thống thông tin quản lý hặc dã có những đánh giá quá
Bài giảng Quản trị học
108
cao nó. Cần phải thấy rằng hệ thống thông tin có những tiện ích cũng nhƣ
những hạn chế của nó cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu và phát triển
Đánh giá vai trò của hệ thống thông tin quản lý (MIS) trong hoạt động
quản lý tổ chức có 3 xu hƣớng:
- Cho rằng hệ thống thông tin quản lý có thể thay thế toàn bộ các loại
thông tin khác
- Càng nhiều thông tin thì càng có thể quản lý, ra quyết định tốt hơn
- Các nhà quản lý cần nhiều công nghệ thông tin tiên tiến.
* Giả sử có ý kiến rằng hệ thống thông tin quản lý (MIS) có thể thay thế
toàn bộ các loại thông tin khác?
Nhƣ trên đã nêu, hệ thống thông tin quản lý dựa vào máy tính đã góp
phần tăng cƣờng khả năng của các nhà quản lý. Nhƣng chúng ta cần xem hệ
thống này có tích chất hỗ trợ chứ không thể thay thế hoàn toàn các nguồn
thông tin khác.
Những phƣơng pháp khác đã đƣợc xử dụng trong hoạt động thu thập, xử
lý thông tin nhƣ: Hội họp, tiếp xúc tình huống, tiếp xúc mặt đối mặt; các cuộc
dạo chơi không theo những quy định; điện thoại; hoạat động xã hội và những
hình thức tƣơng tự khác cũng đóng vai trò quan trọng cho việc ra quyết định
của nhà quản lý
Giao tiếp bằng lời nói và giao tiếp cá nhân là một bộ phận quan trọng
trong công việc của nhà quản lý. Những thông tin không chính thức có thể
nhắc nhở các nhà quản lý những sự việc đang có thể xảy ra hơn là theo con
đƣờng thông tin chính thức của MIS.
Do đó, không bao giờ nên xem MIS có thể thay thế cho toàn bộ các hệ
thống thông tin khác có liên quan trong hoạt động quản lý của một tổ chức.
* Càng nhiều thông tin thì có thể quản lý, ra quyết định tốt hơn?
Hiện nay, với sự bùng nổ thông tin và sự phát triển của công nghệ thông
tin, nhiều nhà quản lý tin rằng càng có nhiều thông tin thì càng có điều kiện ra
quyết định quản trị hơn, nhƣng có nhiều vấn đề cần đƣợc xem xét.
- Khi có quá nhiều thông tin, liệu nhà quản lý có đủ khả năng xử lý
chúng không? Hay họ có thể bị chìm ngập trong biển thôngn tin mà không tìm
đƣợc lối ra. Các thông tin thƣờng có tính phụ thuộc lẫn nhau nên các nhà quản
lý khó có thể đánh giá chúng một cách chính xác
- Cái mà nhà quản lý cần là giá trị của thông tin chứ không phải là số
lƣợng. Có quá nhiều thông tin có thể làm cho việc ban hành các quyết định bị
che mờ bởi các thông tin chƣa đƣợc phân tích kỹ lƣỡng.
* Các nhà quản lý cần nhiều công nghệ thông tin tiên tiến.
Bài giảng Quản trị học
109
- Hiện nay, một số tổ chức có xu hƣớng luôn vƣơn đến các mới nhất
trong công nghệ thông tin: các hệ thống phần cứng cũng nhƣ phần mềm hiện
đại đều đƣợc các nhà quản lý nghĩ đến, nhƣng nhiều khi đó chỉ là độ trang trí.
Tất cả những điều đó trở thành có ích chỉ khi nào nhà quản lý thấy cần
và chi phí cho chúng là nhƣ thế nào. Đây là một vấn đề đang đặt ra hiện nay
cho các Chính phủ của các quốc gia trên thế giới khi đƣa công nghệ thông tin
hiện đại vào quản lý nhà nƣớc.
Bên cạnh đó, đƣa công nghệ mới luôn đòi hỏi một sự thay đổi (nhân sự)
rất lớn trong cơ cấu tổ chức để đáp ứng nhu cầu của công nghệ thông tin mới.
Điều này không những đòi hỏi những nhàn quản lý phải cân nhắc không những
về khía cạnh tâm lý cũng nhƣ chi phí.
Trong hoạt động quản lý hiện nay, nói chung các hệ thống thông tin
quản lý mới đƣợc khai thác ở mức độ rất thấp. Nguyên nhân chủ yếu là:
- Đội ngũ bộ quản lý chƣa biết và chƣa có thể chỉ ra đƣợc những thông
tin nào là quan trọng cho hoạt động ra các quyết định quản lý khi họ nhận đƣợc
chúng.
- Đội ngũ những ngƣời làm việc trong bộ máy hành chính nhà nƣớc
cũng chƣa đƣợc đào tạo để thích ứng nhanh với hệ thống thông tin quản lý,
chƣa thể thu thập, xử lý và quản lý số liệu.
Đào tạo những kiến thức cơ bản về tin học và sử dụng hệ thống thông
tin quản lý đang là vấn đề cần đặt ra sớm cho các quốc gia đang phát triển.
Hệ thống thông tin quản lý (MIS) đã đem lại cho các tổ chức và các nhà
quản lý nhiều lợi thế mà các loại thông tin thông thƣờng không có thể giải
quyết đƣợc.
- Các nhà quản lý, các nhà sản xuất, kinh doanh xem thông tin nhƣ là
một vũ khí lợi hại nhất để giành thế cạnh tranh trên thị trƣờng.
- Một lợi thế khác của hệ thống thông tin quản lý là làm thay đổi
phƣơng cách làm việc của chính nhà quản lý. Điều này có thể thấy đƣợc qua
các nhà quản lý của thế hệ trẻ sau này (thế hệ 90). Đó là những ngƣời biết sử
dụng thành thạo các chƣơng trình quản lý, sử dụng các thành tƣụ máy tính. Họ
có thể ngồi ở nhà để tham gia các cuộc họp; thay cho việc chờ đợi các bản báo
cáo của cấp dƣời thì họ có thể có ngay đƣợc những thông tin mà họ cần.
Việc nhanh chóng cung cấp thông tin theo đúng nhu cầu của các nhà
quản lý cho phép nâng cao năng lực ra các quyết định, chọn lựa đƣợc các
phƣơng án tốt nhất để nâng cao tính hiệu quả của các quyết định này.
- Một điều quan trọng khi sử dụng MIS là làm thay đổi cách thức hoạt
động của tổ chức và làm cho tổ chức dƣờng nhỏ gắn bó với nhau hơn. Điều
Bài giảng Quản trị học
110
nầy thể hiện thông qua việc sắp xếp lại tổ chức, thu hẹp những bộ phận không
cần thiết giúp cho nhà quản lý sâu sát với tình hình nhiều hơn.
- MIS làm thay đổi cơ cấu quyền lực trong tổ chức theo kiểu truyền
thống
Trong một tổ chức theo kiểu truyền thống, thông tin có sức mạnh của
nó, ai có thông tin thì ngƣời đó có quyền. Cấp dƣới thƣờng chỉ đƣa những
thông tin có lợi cho mình lên cấp trên, cho nên họ thƣờng chế biến chúng trƣớc
khi gữi thông tin đi. Nhƣ thế, nếu cơ cấu tổ chức càng có nhiều cấp trung gian
thì càng có nhiều nguy cơ thông tin bị sai lệch.
Trái lại, hệ thống thông tin hoạt động theo cơ chế nối mạch trực tiếp từ
ngƣời quản lý cao nhất đến các đơn vị cơ sở nên vai trò của cấp trung gian bị
bãi bỏ.
Nhƣ vậy, hệ thống thông tin quản lý (MIS) tăng thêm quyền lực cho nhà
quản lý cấp cao vì họ có thể tiếp cận trực tiếp đến các loại thông tin họ cần mà
không phải qua một cấp trung gian nào.
9.3.3 Sự phản ứng đối với việc áp dụng hệ thống thông tin trong quản lý
Đó là những tâm lý lo sợ phát sinh từ ngƣời lao động trong các tổ chức
có áp dụng công nghệ thông tin nhƣ công nhân thì sợ mất việc, các cấp quản trị
thì sợ bị giảm hay thay đổi quyền lực. Sự chống đối hay không ủng hộ việc áp
dụng công nghệ thông tin trong hoạt đông quản lý đƣợc iểu hiện dƣới nhiều
hình thức son phổ biến nhất là sự thờ ơ với công nghệ thông tin hay có thể
chống đối bằng việc không cung cấp dữ liệu.
Trình độ của các nhà quản lý hiện nay cũng là một cản trở rất lớn đối
với việc áp dụng công nghệ thông tin.
Nguồn tài chính dành cho đầu tƣ và phát triển cũng chƣa ủng hộ cho
việc đƣa công nghệ thông tin vào quản lý. Thiếu sự phối hợp giữa các tổ chức
có liên quan do vấn đề cạnh tranh và bảo mật.
Để có thể đƣa công nghệ thông tin vào trong hoạt động quản lý cần:
- Có chiến lƣợc từng bƣớc cho sự phát triển
- Dành ngân sách cho phát triển (đào tạo, mua trang thiêt bị)
- Huy động sự tham gia của nhiều ngƣời
- Tập trung vào những đối tƣợng sử dụng và thừa hƣởng
- Xây những tiêu chí đánh giá hoạt động mới
9.3.4 Quản trị thông tin để ra quyết định
Khi các tổ chức trở nên phức tạp hơn thì các nhà quản trị phụ thuộc
nhiều hơn vào các nguồn thông tin khác nhau ở bên trong cũng nhƣ bên ngoài.
Mức độ phức tạp tăng lên cũng làm tăng những nơi (các cấp quản lý) cần ra
Bài giảng Quản trị học
111
các quyết định nhƣ từ cấp quyết định tác nghiệp riêng rẽ thấp nhất đến cấp ra
quyết định chiến lƣợc cấp tối cao.
Nhu cầu quản trị thông tin và cung cấp những thông tin đó cho những
ngƣời ra quyết định chắc chắn không phải là một vấn đề nhận thức mới:
Chúng ta đã biết những nỗ lực quản trị thông tin ngay từ những ngày
đầu tiên phát triển những hệ thống kế toán. Ngoài ra, nhiều công ty còn có
những hệ thống thông tin marketing, những hồ sơ thông tin về khách hàng, các
hệ thống thông tin của kho tàng và nhiều hệ thống thông tin khác nữa.
Ngƣời ta thƣờng dùng thuật ngữ “hệ thống thông tin quản lý (MIS)” để
chỉ cho tất cả những kiểu hệ thống và các nguồn thông tin khác nhau này.
Nhƣng gần đây xuất hiện thuật ngữ quan trọng “hệ thống thông tin hỗ trợ ra
quyết định (DSS)”
Để hiểu đƣợc hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định, chúng ta cần lần
lƣợc nghiên cứu các vấn đề sau:
- Những nguồn thông tin đi và đến của các tổ chức
- Nhu cầu về các hệ thống hỗ trợ ra quyết định
- Những chức năng cụ thể của các hệ thống hỗ trợ ra quyết định
- Những vấn đề liên quan đến thiết kế các hệ thống hỗ trợ ra quyết định
9.3.4.1 Các nguồn thông tin
Bƣớc đầu tiên trong việc thiết kế một hệ thống hỗ trợ ra quyết định
(DSS) là tìm hiểu những dòng thông tin khác nhau mà những nhà quản lý phải
quản lý. Nói chung, ta có thể phân biệt các nguồn bên trong và bên ngoài của
các dòng thông tin nhƣ trong hình bên.
Thông tin được truyền đến và đi khỏi một tổ chức. Khi ở trong tổ chức
thì nó di chuyển cả theo chiều dọc lẫn theo chiều ngang
Những dòng thông tin bên ngoài
Những dòng nầy đi từ một tổ chức ra môi trƣờng của nó hay từ môi
trƣờng đến tổ chức đó. Dòng đến đƣợc gọi là thông tin tình báo và dòng đi
đƣợc gọi là sự truyền đạt thông tin của tổ chức
- Thông tin tình báo
Những dòng thông tin này liên quan đến những thành tố khác nhau
trong môi trƣờng hoạt động của tổ chức đó _ chẳng hạn nhƣ các thân chủ,
khách hàng, đối thủ cạnh tranh, ngƣời cung ứng, chủ nợ và chính quyềnđƣợc
sử dụng để đánh giá thông tin lập kế hoạch ngắn hạn và chiến lƣợc liên quan
đến môi trƣờng kinh tế (xã hội, văn hoá) mà tổ chức hoạt động trong đó.
- Việc truyền đạt thông tin của tổ chức
Bài giảng Quản trị học
112
Những dòng thông tin này đi từ tổ chức ra môi trƣờng bên ngoài mà tổ
chức hoạt động
Quảng cáo và những nỗ lực khuyến mãi khác đƣợc xem là việc truyền
đạt thông tin của tổ chức. Bất kể tổ chức đó thuộc loại hình nào, nội dung của
những dòng thông tin này cũng bị tổ chức đó kiểm soát.
Những dòng thông tin trong nội bộ tổ chức
Đó là thông tin lƣu hành trong nội bộ một tổ chức.
Để trở nên hữu ích, thông tin tình báo và thông tin phát sinh trong nội
bộ phải đến đúng nhà quản trị và đúng lúc. Trong nội bộ tổ chức đều có những
dòng thông tin dọc (cả đi lên và đi xuống) và thông tin ngang.
Nguyên tắc cơ bản của DSS là mọi dòng thông tin phải trở thành một bộ
phận của một kế hoạch chính và không đƣợc để hoạt động mà không có kế
hoạch và sự chỉ đạo chính thức.
Mục tiêu của kế hoạch chính là truyền bá thông tin đến đúng ngƣời và
đúng lúc
9.3.4.2 Quản lý thông tin để ra quyết định tốt hơn
Nhƣ ta đã biết, chất lƣợng của một quyết định phụ thuộc rất nhiều vào
mức độ hiểu rõ những hoàn cảnh xung quanh một vấn đề và việc lựa chọn
chiến lƣợc phù hợp với vấn đề đó.
Thông tin càng tốt thì quyết định đƣợc đƣa ra cũng càng đúng đắn hơn
bởi vì mức độ rủi ro và không chắc chắn ít hơn.
Nhu cầu về những hệ thống hỗ trợ ra quyết định hoàn hảo bắt nguồn từ
ba yếu tố: ý nghĩa quan trọng của thông tin trong việc ra quyết định, tình trạng
quản trị tồi thông tin hiện nay, và việc sử dụng ngày càng nhiều các máy tính
các nhân của những ngƣời ra quyết định riêng rẽ.
9.3.4.3. Ý nghĩa quan trọng của thông tin ra quyết định
Thông tin là một thứ chất đốt tạo nên động lực của tổ chức. Mục đích
chính của nhà quản trị là biến thông tin thành hành động thông qua quá trình ra
quyết định. Vì thế, nhà quản trị và tổ chức thực hiện vai trò của một hệ thống
thông tin-quyết định. Các hệ thống thông tin-quyết định phải đƣợc xem xét gắn
liền với những chức năng quản trị cơ bản nhƣ: hoạch định, tổ chức và kiểm tra
v.v.
Nếu tổ chức muốn hoạch định, mà việc hoạch định và tổ chức bị ràng
buộc vào việc trao đổi thông tin, và nếu việc trao đổi thông tin đƣợc thể hiện
bằng một hệ thống thông tin- quyết định thì chìa khoá để thành công trong việc
hoạch định và kiểm tra đều nằm trong hệ thống thông tin-quyết định.
Bài giảng Quản trị học
113
Việc xem tổ chức nhƣ là một hệ thống thông tin-quyết định nói lên ý
nghĩa quan trọng của việc phát đi chính những thông tin cần thiết cho việc ra
quyết định có hiệu quả.
Nếu ban lãnh đạo biến những thông tin thành hành động, thì khi đó,
hành động ấy có hiệu qủa nhƣ thế nào sẽ phụ thuộc vào chỗ thông tin có đầy
đủ, thích hợp và đáng tin cậy đến mức độ nào. Hiệu quả hoạt động của một tổ
chức thƣờng hay bị chi phối bởi những thông tin đƣợc truyền đạt đến những
nhà quản trị tổ chức đó.
9.3.4.4- Nhu cầu về hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định (DSS)
DSS thỏa mãn đƣợc nhu cầu quản trị hàng đầu: cung cấp cho nhà quản
trị những thông tin cần thiết đẻ ra các quyết định khôn ngoan. Điều quan trọng
là ở đây không phải cung cấp bất kỳ thông tin nào mà cần phải có một hệ
thống có thể biến những dữ liệu thô thành những thông tin mà ban lãnh đạo có
thể sử dụng thực sự. Để đạt mục đích này hệ thống thông tin phải tính đến
những nhu cầu thông tin của những nhà quản trị cụ thể và những yêu cầu thông
tin của những loại hình quyết định cụ thể.
Những nhu cầu thông tin của nhà quản trị
DSS là hệ thống thông tin chuyên dụng để hỗ trợ các kỹ năng của một
nhà quản trị trong tất cả các giai đoạn ra quyết định: nhận dạng vấn đề; lựa
chọn những dữ liệu liên quan; đánh giá và lựa chọn phƣơng án; chọn những
phƣơng thức để ra quyết định.
DSS phải cung cấp thông tin dƣới dạng mà những nhà quản trị hiểu
đƣợc, đúng vào lúc cần đến thông tin đó và đặt thông tin đó dƣới sự kiểm soát
của nhà quản trị.
Nói tóm lại, DSS định hình thông tin theo các nhu cầu cuả quản trị. Vì
vậy mà DSS đảm bảo đƣợc việc hỗ trợ cho những “quyết định đƣợc chƣơng
trình hoá” và “quyết định chƣa đƣợc chƣơng trình hoá” trong những điều kiện
chắc chắn, rủi ro và không chắc chắn.
Nhìn khái quát ta có thể thấy rằng DSS hiệu quả sẽ thực hiện đƣợc
những việc sau đây:
Hỗ trợ nhƣng không thay thế việc ra quyết định quản trị
Hỗ trợ việc ra quyết định trong toàn bộ tổ chức, chủ yếu là ở cấp quản
trị trung gian và tối cao
Cho phép ngƣời ra quyết định tƣơng tác với máy tính để xem xét hiệu
quả của các phƣơng án quyết định
Thu thập, lƣu giữ và đảm bảo cung cấp những dữ liệu và các mô hình ra
quyết định phù hợp với các loại hình quyết định cụ thể
Thân thiện với ngƣời dùng (dễ dùng)
Bài giảng Quản trị học
114
Các loại vấn đề gặp phải và các thủ tục quy định đƣợc sử dụng để xử lý
chúng thay đổi (phù hợp) theo các cấp quản trị khác nhau vì yêu cầu về từng
loại thông tin tuỳ thuộc vào các cấp quản trị khác nhau.
Cần phải đảm bảo thông tin đến đúng nơi, đúng lúc cần thiết, phù hợp
với từng loại quyết định khác nhau của cấp quản trị khác nhau.
Nhu cầu về thông tin cụ thể để ra những quyết định cụ thể
Các loại hình thông tin cần thiết đƣợc phân loại theo những loại hình
quyết định khác nhau nhƣ: quyết định hoạch định, quyết định kiểm tra, quyết
định tác nghiệp.
Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định phải phát đi đúng loại thông tin
cần cho những loại hình quyết định cụ thể
- Các quyết định hoạch định:
Những quyết định này đòi hỏi phải đề ra mục tiêu cho tổ chức, xác định
số lƣợng và chủng loại các nguồn tài nguyên cần thiết để đạt mục tiêu nầy và
những chính sách chi phối việc sử dụng các nguồn tài nguyên.
Nhiều thông tin hoạch định đến từ những nguồn bên ngoài và liên quan
đến những yếu tố nhƣ tình hình kinh tế hiện tại và dự đoán, khả năng kiếm
đƣợc các nguồn tài nguyên (phi nhân lực cũng nhƣ nhân lực), môi trƣờng
chính trị và pháp luật.
Việc hoạch định có hiệu qủa rất quan trọng đối với việc thực hiện công
việc có hiệu quả trong các tổ chức công cũng nhƣ tƣ. Thông tin hoạch định
hình thành nên đầu vào của những loại hình quyết định không theo chƣơng
trình đƣợc đƣa ra ở cấp quản trị tối cao trong tổ chức đó.
- Các quyết định kiểm tra:
Các cấp quản trị trung gian đƣa ra các quyết định kiểm tra nhằm đảm
bảo chắc chắn rằng kết quả thực hiện công việc của tổ chức đúng với những
mục tiêu đã đề ra.
Thông tin kiểm tra đến chủ yếu từ các nguồn nội bộ (thƣờng là liên bộ
phận) và liên quan đến những vấn đề xây dựng ngân sách và đo lƣờng kết qủa
thực hiện công việc của những giám sát viên cơ sở. Tính chất của những quyết
định (bài toán) có thể là chƣơng trình hoá hay không chƣơng trình hoá.
- Những quyết định tác nghiệp:
Những quyết định loại này thƣờng tập trung vào các hoạt động hàng
ngày của tổ chức và cách phải sử dụng các nguồn tài nguyên của nó nhƣ thế
nào cho có hiệu quả.
Thông tin về các hoạt động đến từ các nguồn bình thƣờng và cần thiết
nhƣ kế toán tài chính, kiểm tra dữ liệu vật tƣ và lịch tiến độ sản xuất.
Bài giảng Quản trị học
115
Thông tin này đƣợc phát đi từ trong nội bộ và vì nó thƣờng liên quan
đến những nhiệm vụ cụ thể nên nó thƣờng đến từ một bộ phận đƣợc phân
công.
Đây là loại thông tin mà các giám sát viên cơ sở sử dụng chủ yếu vì việc
ra quyết định ở cấp này thƣờng liên quan đến những quyết định đƣợc chƣơng
trình hoá (quyết định hàng ngày)
9.3.4.5 Các chức năng của hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định
Một DSS có hiệu quả phải cung cấp cho nhà quản trị bốn dịch vụ chính:
Xác định các nhu cầu thông tin
Trong bƣớc đầu, nhà quản trị phải cố gắng trả lời những câu hỏi nhƣ
sau:
- Cần bao nhiêu thông tin?
- Nó sẽ đƣợc sử dụng nhƣ thế nào, khi nào và do ai?
- Nó cần có dạng nhƣ thế nào?
Nói một cách khác, nhà quản trị bắt đầu xem xét việc của đầu ra. Các
câu hỏi có ích cho việc nhận dạng những nhu cầu thông tin của một nhà quản
trị có thể thấy nhƣ sau:
1. Bạn thƣờng xuyên phải ra quyết định loại nào?
2. Những thông tin bạn cần đề ra những quyết định đó thuộc loại nào?
3. Bạn thƣờng xuyên nhận đƣợc những thông tin loại nào?
4. Những thông tin bạn muốn có nhƣng không nhận đƣợc thuộc loại
nào?
5. Những thông tin nào bạn cần có hàng ngày? Hàng tuần? Hàng tháng?
Hàng năm?
6. Những chƣơng trình phân tích dữ liệu loại nào bạn muốn có sẵn
Việc xây dựng DSS cần có sự tham gia của các cấp quản trị trong quá
trình triển khai đó. Vì vậy, những yêu cầu của đầu ra đều dựa trên cơ sở
những câu trả lời các câu hỏi sau:
1. Những thông tin nào cần thiết cho việc ra quyết định và kiểm tra ở
các cấp khác nhau?
2. Những thông tin nào cần thiết cho việc phân bổ các nguồn tài
nguyên?
3. Những thông tin nào cần thiết cho việc đánh giá thành tích?
Những câu hỏi nhƣ trên cho thấy rằng loại thông tin nào cần cho việc
xây dựng các mục tiêu, loại thông tin nào cho việc lập tiến độ sản xuất. Vì vậy,
những nhà quản trị phải biết phân biệt những loại thông tin “cần phải biết” với
Bài giảng Quản trị học
116
loại thông tin “nên biết”. Do đó, nhiều thông tin hơn không phải bao giờ cũng
dẫn đến những quyết định đúng đắn hơn.
Việc xác định đƣợc nhu cầu thông tin chỉ có ý nghĩa khi thu thập đƣợc
thông tin cần thiết từ thực tiễn công việc hàng ngày cũng nhƣ từ các chuyên
gia (do đó cần phải xây dựng thêm hệ thống ES nữa)
Thu thập và xử lý thông tin
Mục đích của dịch vụ nầy là cải thiện chất lƣợng chung của thông tin.
Nó bao gồm 5 dịch vụ htành phần: Đánh giá: đòi hỏi phải xác định có thể đặt
niềm tin đến mức nào vào một mẫu thông tin cụ thể. Những yếu tố nhƣ uy tín
của ngƣời đó và độ tin cậy của các dữ liệu phải đƣợc xác định.
- Tóm tắt: phải biên tập và rút ngắn thông tin đến để cung cấp cho nhà
quản trị chỉ những thông tin liên quan đến nhiệm vụ cụ thể của họ
- Đánh chỉ số: đòi hỏi phải phân loại để lƣu giữ và truy xuất dễ dàng sau
khi đã thu thập đƣợc thông tin đó
- Phổ biến: đòi hỏi phải đƣa đúng thông tin đến đúng nhà quản trị vào
đúng lúc cần. Đây cũng chính là mục đích của một DSS
- Lƣu giữ: là một dịch vụ xử lý thông tin cuối cùng. Nhƣ đã nêu ở trên,
một tổ chức không có bộ nhớ tự nhiên thì mọi DSS đều phải đảm bảo lƣu giữ
thông tin sao cho có thể sử dụng đƣợc khi nó cần đến. Ngày nay, máy tính có
vai trò to lớn trong việc giúp cho dung lƣợng “bộ nhớ” của tổ chức tăng lên rất
nhiều.
Sử dụng thông tin
Thông tin đƣợc sử dụng nhƣ thế nào cái đó tuỳ thuộc vào chất lƣợng
(tính chính xác), cách trình bày (dạng thức) và tính kịp thời của nó. Việc sử
dụng có hiệu quả chỉ có thể thực hiện đƣợc nếu ngay từ đầu đã đặt ra đúng
những câu hỏi để xác định những nhu cầu thông tin và nếu hệ thống đó đƣợc
thiết kế một cách cẩn thận.
Mục tiêu chính của một DSS là cung cấp đúng thông tin cho đúng ngƣời
ra quyết định vào đúng lúc cần thiết. Để đạt mục tiêu nầy thì tính kịp thời có
thể đƣợc ƣu tiên hơn tính chính xác. Nếu không có đƣợc thông tin khi cần đến
nó thì tính chích xác không còn quan trọng nữa. Tuy nhiên, trong phần lớn các
trƣờng hợp thì tính chính xác lẫn kịp thời đêu rất quan trọng.
Thiết kế một hệ thống hỗ trợ ra quyết định
Trong một tổ chức, có nhiều hệ thống thông tin khác nhau để phục vụ
các chức năng khác nhau nhƣ hệ thống thông tin kế toán, nhân sự cũng nhƣ
những nghiệp vụ khác v.v thì DSS giúp cho nhà quản trị chung có thể khai thác
thông tin từ các hệ thống chức năng này (ES).
Bài giảng Quản trị học
117
Việc thiết kế một DSS cần phải có quan điểm hệ thống nghĩa là phải
phát triển một ngân hàng dữ liệu trung tâm và một trung tâm thông tin cũng
nhƣ phải xem thông tin là một nguồn tài nguyên quan trọng trong tổ chức.
- Ngân hàng dữ liệu trung tâm
Ngân hàng dữ liệu trung tâm là cốt lõi của DSS. Thông qua ngân hàng
dữ liệu trung tâm này, thông tin thuộc những chức năng khác nhau sẽ đƣợc
cung cấp nhanh chóng.
Công nghệ thông tin đã cho phép có khả năng xây dựng những DSS nhƣ
vậy.
Điều nầy cũng có nghĩa là: việc tập trung thông tin ở những bộ phận
riêng rẽ ở các bộ phận khác nhau nhƣ kế toán, marketing và sản xuất để lƣu
giữ một ngân hàng dữ liệu trung tâm. Các cấp quản trị có thể thoải mái truy
cập thông tin từ ngân hàng dữ liệu khi cần thiết.
- Trung tâm thông tin
Trong nhiều thập kỷ vừa qua, trong một tổ chức, cả ngƣời sử dụng
thông tin lẫn ngƣời cung cấp thông tin đều nằm rải rác trong khắp tổ chức.
Ngày nay, nên cần thiết có một đơn vị để giám sát hoạt động của ngân hàng dữ
liệu trung tâm, thu thập và xử lý các thông tin
Để xây dựng thông tin cần có 3 nhiệm vụ:
+ Phát hiện các họat động thông tin phân tán trong toàn bộ tổ chức
+ Những họat động đó phải xem là một bộ phận của một chỉnh thể
+ Các hoạt động đó phải đặt dƣới sự quản trị của một trung tâm thông
tin riêng biệt.
Trung tâm thông tin là ngƣời tƣ vấn, phối hợp và là ngƣời kiểm tra các
chức năng của DSS (xác định nhu cầu thông tin, thu thập, xử lý thông tin; sử
dụng thông tin)
- Thông tin là một nguồn tài nguyên của của tổ chức
Để đẩy mạnh việc sử dụng có hiệu quả DSS thì cần phải nhìn nhận
thông tin nhƣ một tài nguyên cơ bản của tổ chức nhƣ tiền bạc, vật tƣ, nhân sự,
nhà máy, trang thiết bị.
Vì vậy, với tính cách là một nguồn tài nguyên cơ bản thi thông tin :
+ Có ý nghĩa quyết định sự sống còn của một tổ chức
+ Chỉ có thể đƣợc sử dụng có trả tiền
+ Phải đƣợc cung cấp đúng chỗ và đúng lúc
+ Phải đƣợc sử dụng có hiệu quả để đạt lợi nhuận tối ƣu
Bài giảng Quản trị học
118
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI BÁO CÁO TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
HỌC PHẦN QUẢN TRỊ HỌC
Ghi chú: những yếu tố màu đỏ đƣợc gạch chân sinh viên có thể lựa chọn bất kỳ
sản phẩm, doanh nghiệp hoặc nhà quản trị nào có thực trên thực tế.
1.Tìm hiểu chiến lƣợc kinh doanh của FAMI trong giai đoạn 2010 đến nay
2.Tìm hiểu/Phân tích/Đánh giá chiến lƣợc đại dƣơng xanh của sản phẩm X-
Men
3. Đánh giá tác động của TPP đến hoạt động kinh doanh của ngành dệt may ở
Việt Nam
4.Sử dụng ma trận BCG để đề xuất chiến lƣợc cho Bphone của BKAV từ nay
đến 2020
5. Sử dụng ma trận SWOT để đề xuất chiến lƣợc cho Bphone của BKAV từ
nay đến 2020
6.Tìm hiểu chu kỳ đời sống của Iphone của Apple
7.Đánh giá cơ cấu tổ chức của Vinamilk
8.Tìm hiểu phƣơng pháp giao việc của ông Trƣơng Gia Bình tại FPT
9. Phân tích phong cách lãnh đạo của bà Mai Kiều Liên tại Vinamilk
10.Đánh giá phƣơng pháp động viên nhân viên của ông Lê Phƣớc Vũ tại Tập
đoàn Hoa Sen
Cấu trúc chính của bài báo cáo:
Nội dung chính bao gồm 3 phần:
- Giới thiệu
- Thực trạng
- Giải pháp/ Bài học rút ra
Ví dụ: Đánh giá phương pháp động viên nhân viên của ông Lê Phước Vũ tại
Tập đoàn Hoa Sen
Lời mở đầu
1.Lý do lựa chọn đề tài
2.Mục tiêu nghiên cứu
3.Phạm vi nghiên cứu
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 1. Giới thiệu về Lê Phƣớc Vũ và Tập đoàn Hoa Sen
1.1Giới thiệu về Tập đoàn Hoa Sen
1.1.1Lịch sử hình thành và phát triển
1.1.2Giá trị cốt lõi của doanh nghiệp
Bài giảng Quản trị học
119
1.1.3 …
1.2Giới thiệu về ông Lê Phƣớc Vũ
1.2.1Thông tin chung
1.2.2Quan điểm kinh doanh
1.2.3 …
Chƣơng 2. Phƣơng pháp động viên nhân viên của ông Lê Phƣớc Vũ tại Tập
đoàn Hoa Sen
2.1Phƣơng pháp động viên nhân viên
2.2Hiệu quả của các phƣơng pháp động viên nhân viên của Lê Phƣớc Vũ
2.3Những ƣu điểm và hạn chế
Chƣơng 3. Một số kiến nghị
3.1Kiến nghị giải pháp phát huy ƣu điểm
3.2Kiến nghị giải pháp khắc phục hạn chế
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Lƣu ý:
1.Đạo văn: 0 điểm
2.Thông tin phải ghi nguồn rõ ràng
3.Cách ghi tài liệu tham khảo:
-Đối với bài báo khoa học:
Tên tác giả (năm xuất bản). Tên bài báo khoa học, tên ấn phẩm, trang của bài
báo trong ấn phẩm.
-Đối với sách:
Tên tác giả (năm xuất bản). Tên sách, thứ tự ấn phẩm, nhà xuất bản.
Yêu cầu trình bày:
Khổ giấy: A4
Font chữ: Times New Roman
Cỡ chữ: 13
Giãn dòng: 1.3
Bài giảng Quản trị học
120