Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

54
BÁO CÁO THUYẾT MINH CHI TIẾT VỀ DỰ ÁN LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI) Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Luật Bảo hiểm xã hội quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. Sau 6 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách bảo hiểm xã hội đã đi vào cuộc sống, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động góp phần thực hiện mục tiêu chính sách an sinh xã hội của nhà nước. I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI) 1. Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, luôn được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Hiến pháp qua các thời kỳ. Để tổ chức thực

Transcript of Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Page 1: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

BÁO CÁO THUYẾT MINH CHI TIẾT

VỀ DỰ ÁN LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)

Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Luật Bảo hiểm xã hội quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

Sau 6 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách bảo hiểm xã hội đã đi vào cuộc sống, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động góp phần thực hiện mục tiêu chính sách an sinh xã hội của nhà nước.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)

1. Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, luôn được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Hiến pháp qua các thời kỳ. Để tổ chức thực hiện chính sách này Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt với sự ra đời của Luật Bảo hiểm xã hội (được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006) đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.

Sau 6 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động góp phần thực hiện mục tiêu chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Quá trình triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội đã mang lại một số kết quả sau:

Page 2: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Thứ nhất, nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và xã hội đã có những chuyển biến tích cực.

Thứ hai, Luật Bảo hiểm xã hội đã tạo điều kiện để mọi người lao động đều có thể tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội với việc bổ sung thêm hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tăng: Năm 2006 mới có 6,7 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến nay đã có hơn 10,6 triệu người (tăng gân 1,6 lần). Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện có 6110 người tham gia, đến nay đã có 156.000 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Thứ ba, các chế độ bảo hiểm xã hội được thiết kế phù hợp hơn, đảm bảo tốt hơn nguyên tắc đóng-hưởng, đã góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình làm việc và khi hết tuổi lao động.

Thứ tư, việc giải quyết chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động đã đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật hơn; quản lý chặt chẽ các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hàng tháng; hình thức chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội ngày càng được cải tiến, hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội khi thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn chậm, đặc biệt là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Số người tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp (hiện tại mới chiếm khoảng 20% lực lượng lao động); Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện mặc dù có đối tượng thuộc diện tham gia rộng, tuy nhiên trên thực tế thì số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mới chỉ chiếm khoảng 0,3% số đối tượng thuộc diện tham gia. Việc nắm bắt, quản lý đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế phối hợp giữa tổ chức bảo hiểm xã hội với các cơ quan liên quan như Kế hoạch-Đầu tư, Thuế, Lao động-Thương binh và Xã hội

Thứ hai, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội còn xảy ra khá phổ biến, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm trên 70% tổng số nợ), làm ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động. Một trong những nguyên nhân của tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội nêu trên là do Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định phạt lãi chậm đóng bằng mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội trong năm, trong khi đó mức lãi

2

Page 3: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

suất của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội thường thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, mức xử phạt tiền đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội theo quy định còn thấp. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp cố tình nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội và chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội.

Thứ ba, một số quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành không còn phù hợp với thực tế, bộc lộ những hạn chế, bất cập, cụ thể:

- Đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc: một số quy định trong pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành còn chưa phù hợp, như quy định về điều kiện hưởng lương hưu, tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ chưa tạo sự bình đẳng và tạo điều kiện để lao động nữ có thể tiếp tục làm việc và nâng cao mức thu nhập; quy định cho phép người lao động có dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, chưa phù hợp với mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi hết tuổi lao động; quy định về tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ tính hưởng bảo hiểm xã hội còn có sự khác biệt giữa khu vực hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang và các doanh nghiệp ngoài khu vực doanh nghiệp nhà nước; quy định về trợ cấp tuất hàng tháng và một lần hiện nay còn có sự chênh lệch lớn. Trong một số trường hợp thân nhân hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bị thiệt thòi hơn rất nhiều so với việc hưởng trợ cấp tuất một lần...

- Đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện: Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện quy định còn khá cao so với đại bộ phận người dân ở khu vực nông thôn và lao động tự do có thu nhập hàng tháng thấp và không ổn định. Nhóm đối tượng người lao động từ 45 tuổi trở lên đối với nam và từ 40 tuổi trở lên đối với nữ không thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu, do họ không thể đóng góp bảo hiểm xã hội tự nguyện đủ 20 năm1

theo phương thức hàng tháng hoặc hàng quý hoặc 6 tháng một lần mà Luật bảo hiểm xã hội quy định.

Việc quy định quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện độc lập với quỹ hưu trí và tử tuất trong bảo hiểm xã hội bắt buộc gây nên sự khó khăn cho cơ quan bảo hiểm xã hội khi giải quyết chế độ cho những người nghỉ hưu vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

1 Luật BHXH quy định điều kiện để được hưởng lương hưu trong BHXH tự nguyện là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm so với thời gian quy định thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm.

3

Page 4: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Thứ tư, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội hiệu quả chưa cao, Lãi thu được từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội chưa bảo tồn được giá trị của quỹ, lãi suất đầu tư luôn ở dưới chỉ số tăng giá tiêu dùng (lãi suất đầu tư bình quân của giai đoạn 2007 - 2012 chỉ khoảng 9,5%/năm, trong khi CPI bình quân là 13,2%/năm, tỷ lệ điều chỉnh lương hưu bình quân là 15,2%/năm). Một trong những nguyên nhân của hiệu quả đầu tư quỹ chưa cao là do hình thức đầu tư được quy định trong luật chưa thật đa dạng, đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư của cơ quan bảo hiểm xã hội chưa chuyên nghiệp.

Thứ năm, quy định về chi phí quản lý của tổ chức bảo hiểm xã hội còn chưa phù hợp: Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định tổ chức bảo hiểm xã hội là tổ chức sự nghiệp nhưng lại quy định chi phí quản lý của tổ chức bảo hiểm xã hội bằng mức chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ sáu, quy định về thủ tục, hồ sơ tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội còn chưa thật thuận tiện, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội còn hạn chế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, thống kê, điều hành, giám sát chưa có sự liên thông trong hệ thống từ đó dẫn tới những khó khăn trong giảm thiểu thủ tục hành chính đối với người tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội.

Thứ bẩy, quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội mặc dù đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội nhưng chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ trong quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

Thứ tám, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong tương lai gần, tỷ trọng giữa số tiền chi trả chế độ so với số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hàng năm có xu hướng tăng nhanh, nếu như năm 2007 tỷ trọng số chi so với số thu chỉ chiếm 57,2% thì sang năm 2008 con số này là 73,7%, năm 2009 là 81,8%, năm 2010 là 76,3%; năm 2011 là 77,0%; năm 2012 là 68,56% và ước năm 2013 là 76,6% (năm 2010 và năm 2012 tỷ trọng chi so với thu có giảm xuống là do tác động của việc thực hiện quy định về điều chỉnh tăng tỷ lệ đóng góp thêm 2% ở mỗi năm).

Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), với nền chính sách hiện hành, Quỹ hưu trí và tử tuất đến năm 2021 thu trong năm không đủ chi trong năm nữa, để đảm bảo khả năng chi trả, phải lấy từ nguồn kết dư của quỹ. Đến năm 2034, phần kết dư không còn, số chi lớn hơn rất nhiều so với số thu.

4

Page 5: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Nguy cơ về mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất được lý giải bởi một số nguyên nhân sau đây:

- Đóng- hưởng bảo hiểm xã hội còn mất cân đối, mức đóng chưa tương ứng với mức hưởng, cụ thể:

+ Tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất còn thấp so với mức hưởng lương hưu (từ năm 2012 tổng mức đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 20%, từ năm 2014 trở đi là 22%, trong khi tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75% mức bình quân tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội);

+ Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội còn khoảng cách lớn với mức tiền lương, tiền công thực tế của người lao động (theo kết quả điều tra năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, con số này mới chỉ bằng 66% tiền lương, tiền công thực tế);

+ Tính tuân thủ các quy định về đóng bảo hiểm xã hội còn thấp, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội còn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội.

+ Tỷ lệ hưởng lương hưu cao và công thức tính tỷ lệ hưởng lương hưu còn chưa hợp lý (75% cho 25 năm đóng bảo hiểm xã hội đối với nữ hoặc 30 năm đối với nam). Tỷ lệ tính hưởng lương hưu của nam là 2,5% cho một năm đóng, của nữ là 3% cho một năm đóng là quá cao (bình quân các nước trên thế giới là 1,7%). Tỷ lệ giảm lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi chỉ 1% là thấp.

+ Tiền lương bình quân làm căn cứ tính lương hưu của người lao động trong khu vực nhà nước chỉ tính bình quân trên một số năm cuối (là giai đoạn người lao động có mức lương cao nhất).

+ Số người đóng bảo hiểm xã hội cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm, nếu như năm 1996 có 217 người đóng bảo hiểm xã hội cho 1 người hưởng lương hưu, con số này giảm xuống còn 34 người vào năm 2000, 19 người vào năm 2004, 14 người vào năm 2007, 11 người vào năm 2009, 9,9 người vào năm 2011 và đến năm 2012 chỉ có 9,3 người đóng bảo hiểm xã hội cho 1 người hưởng lương hưu.

+ Tuổi nghỉ hưu thấp dẫn tới thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn (số năm đóng bảo hiểm xã hội bình quân đối với nam là 28 năm và nữ là 23 năm) và thời gian hưởng lương hưu dài. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 thì số năm trung bình còn sống được của nam ở tuổi 60 là 18,1 năm và của nữ ở tuổi 55 là 24,5 năm (trên thực tế tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 chỉ là 54,2 tuổi, trong đó nam là 55,6 tuổi và nữ là 52,6 tuổi).

5

Page 6: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa trong tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội còn chậm, dẫn đến chưa giảm thiểu được chi phí quản lý.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, để khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, đồng thời thể chế hóa được các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội thì việc sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội là cần thiết, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong tình hình mới, đáp ứng được nguyện vọng của người lao động, đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

II. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)

1. Quan điểm

Tiến hành soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hôi (soạn thảo) có nghĩa là thay đổi tổng thể, toàn diện Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ để làm mới lại từ đầu mà phải tiếp thu và kế thừa những quan điểm chỉ đạo đã hình thành trong quá trình xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội; đồng thời phải bổ sung những quan điểm mới để phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, việc xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cần quán triệt các quan điểm sau:

a) Những quan điểm cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành:

- Thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng trong các văn kiện: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa IX, Kết luận Hội nghị Trung ương 8 Khóa IX về cải cách chính sách tiền lương, cụ thể hóa “Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công” và Hiến pháp năm 1992.

- Dự án Luật Bảo hiểm xã hội xây dựng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện những quy định trong pháp luật bảo hiểm xã hội hiện hành, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

- Các chế độ bảo hiểm xã hội xây dựng theo nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội, tùy theo tính chất của từng chế độ, góp phần thực hiện an sinh xã hội; bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ở các thời kỳ khác nhau; bảo đảm quan hệ hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, các chế độ bảo hiểm xã hội và loại hình

6

Page 7: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

bảo hiểm xã hội; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và tiến trình công nghiệp hòa.

- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, kinh bạch, được hạch toán tương ứng với từng nhóm chế độ; quản lý và sử dụng theo nguyên tắc cân đối thu-chi, bảo toàn và phát triển; được Nhà nước bảo hộ.

b) Những quan điểm mới khi xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi):

- Tiếp tục thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong: Hiến pháp năm 2013; Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Kết luận số 63-KL/TW tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020.

- Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn trong thời gian qua để thấy được mặt được, những hạn chế, bất cập để từ đó kế thừa, phát huy các quy định phù hợp, ổn định đã đi vào cuộc sống; khắc phục những hạn chế, bất cập, những quy định không phù hợp nhằm hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội.

- Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, đặc biệt là các quốc gia có điều kiện phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Định hướng

Lần sửa đổi này, với ý nghĩa quan trọng là thay đổi tổng thể, toàn diện Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, định hướng soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bao gồm:

- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng, linh hoạt và bền vững.

- Mở rộng diện bảo phủ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, đặc biệt là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Tuân thủ nguyên tắc đóng-hưởng và bảo đảm khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.

7

Page 8: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Hoàn thiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, đảm bảo sự bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội.

III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)

Thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII ban hành kèm theo Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011, Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII; căn cứ Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17 tháng 02 năm 2012, Quyết định số 1229/QĐ-TTg ngày 07 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh đã được Quốc hội giao Chính phủ tại Nghị quyết số 23/2012/QH13, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tiến hành chuẩn bị dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) từ năm 2011.

Nhiệm vụ soạn thảo dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đã được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện tích cực, với tinh thần trách nhiệm cao, nghiêm túc và tuân theo đúng trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật thể hiện trên những điểm chính sau:

1. Về hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập:

Ban soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) được thành lập kể từ ngày 25/4/2012 (theo Quyết định số 504/QĐ-LĐTBXH ngày 25/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội) gồm 14 thành viên là đại diện của các cơ quan: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Trưởng Ban soạn thảo là Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Đến nay Ban soạn thảo đã tiến hành 5 phiên họp để: tổng kết đánh giá thi hành Luật Bảo hiểm xã hội; quyết định quan điểm, định hướng soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi); đặt ra kế hoạch soạn thảo; thảo luận và cho ý kiến về những nội dung lớn của Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

Tổ biên tập Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) được thành lập theo Quyết định số 511/QĐ-BSTLBHXH ngày 26/4/2012 của Trưởng Ban soạn thảo, gồm 26 thành viên để giúp Ban soạn thảo xây dựng dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). Tổ biên tập đã họp nhiều lần để chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp Ban soạn thảo; tiếp thu ý kiến kết luận của Ban soạn thảo để trực tiếp soạn thảo dự án Luật

8

Page 9: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội (sửa đổi); lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của nội dung Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) để tiếp thu và hoàn thiện dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

2. Về tổng kết đánh giá thi hành Luật Bảo hiểm xã hội:

- Tháng 6/2011, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã có văn bản đề nghị các Bộ, ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo tổ chức đánh giá 5 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội. Trên cơ sở báo cáo tổng kết, đánh giá của các Bộ, ngành và các địa phương, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tiến hành tổng kết đánh giá việc thi hành Luật Bảo hiểm xã hội trên 2 nội dung chính: công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; việc thi hành Luật bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn. Qua tổng kết đánh giá thi hành Luật bảo hiểm xã hội cho thấy Luật Bảo hiểm xã hội được ban hành đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cũng bộc lộ những hạn chế, bất hợp lý đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ hơn về chế độ, chính sách và tổ chức thực hiện để hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế.

- Bên cạnh đó, năm 2012 và năm 2013 Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tiến hành điều tra tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội để thu thập các thông tin về tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội và lấy ý kiến của các đối tượng liên quan về phương án sửa đổi các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Nội dung của cuộc điều tra tập trung vào tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội và tại các doanh nghiệp; đồng thời tham khảo ý kiến của các bên liên quan về dự kiến phương án sửa đổi, bổ sung các nội dung Luật Bảo hiểm xã hội như về đối tượng tham gia, quyền và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, nội dung các chế độ bảo hiểm xã hội, hồ sơ tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, trình tự thủ tục thực hiện,.. Cuộc điều tra được tiến hành tiến hành tại 14 tỉnh, thành phố đại diện cho 3 vùng miền. Đối tượng điều tra gồm người sử dụng lao động, người lao động đang làm việc, người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người đang hưởng lương hưu và cơ quan bảo hiểm xã hội.

3. Về việc nghiên cứu các quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật quốc tế:

9

Page 10: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Ban soạn thảo đã tổng hợp các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước thể hiện qua các văn kiện, Nghị quyết: Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Kết luận số 63-KL/TW tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020.

Các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội thể hiện qua các Nghị quyết đã được Ban soạn thảo nghiêm túc nghiên cứu và thể chế hóa trong nội dung dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

- Ban soạn thảo đã chỉ đạo sưu tầm, nghiên cứu và dịch các đạo luật về bảo hiểm xã hội của các nước trên thế giới và trong khu vực. Trên cơ sở các đạo luật của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước trong khu vực và những nước có điều kiện kinh tế-xã hội tương đồng với Việt Nam, Ban soạn thảo đã nghiên cứu, tham khảo trong quá trình soạn thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

Trong quá trình xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều ý kiến góp ý của các chuyên gia pháp luật đến từ các tổ chức quốc tế như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Ngân hàng Thế giới (WB), Cơ quan hợp tác phát triển Tây Ban Nha (thông qua Dự án “Lồng ghép bình đẳng giới trong pháp luật và chính sách hướng tới việc làm bền vững ở Việt Nam”),..

4. Về quá trình lấy ý kiến dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)

- Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên đề để tham vấn ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia trong nước và quốc tế; các bên tham gia bảo hiểm xã hội như người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan khác,... Các cuộc hội thảo, tọa đàm đã được tổ chức nghiêm túc và thu nhận được nhiều ý kiến dưới nhiều giác độ khác nhau về dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

- Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đã được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội gửi trực tiếp đến các Bộ, ngành, địa phương và một số viện nghiên cứu, tập đoàn kinh tế để lấy ý kiến rộng rãi vào tháng 8/2013

10

Page 11: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cũng đã được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ để lấy ý kiến rộng rãi các đối tượng chịu sự tác động của luật.

IV. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI (SỬA ĐỔI)

1. Về bố cục

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành có kết cấu gồm 11 chương và 141 điều. Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) kế thừa kết cấu này trên cơ sở bỏ 01 chương về bảo hiểm thất nghiệp; gộp Chương VIII về khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội và Chương IX về khen thưởng và xử lý vi phạm thành một chương về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội và gộp một số điều, bổ sung một số điều cho phù hợp, thuận tiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Theo đó, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm có 9 chương và 125 điều.

Tất cả các điều đều đã được đặt tên, các chương được chia thành mục theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.

2. Về nội dung sửa đổi

2.1. Chương I: Những quy định chung

Chương I dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm có 16 điều (từ Điều 1 đến Điều 16) quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, quyền và trách nhiệm của các bên trong quá trình tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội, giải thích một số từ ngữ và một số quy định mang tính nguyên tắc. So với Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, Chương này có một số điểm mới gồm:

a) Phạm vi áp dụng: không áp dụng đối với bảo hiểm thất nghiệp (Điều 1).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, khi đó chưa có Luật Việc làm. Chính vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp được quy định thành một chương trong Luật Bảo hiểm xã hội. Hiện nay, trong trong bối cảnh xây dựng Luật Việc làm với quan điểm bảo hiểm thất nghiệp là một trong các chính sách của thị trường lao động và gắn với quan hệ lao động thì việc chuyển bảo hiểm thất nghiệp sang Luật Việc làm là phù hợp hơn. Do vậy, Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) sẽ không áp dụng đối với bảo hiểm thất nghiệp.

b) Đối tượng áp dụng:

Thực tiễn thực hiện cho thấy số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thấp, mới chiếm khoảng 80% số người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trên cả nước (chiếm khoảng 20% lực lượng lao động). Tốc độ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc khá chậm chỉ đạt bình quân tăng

11

Page 12: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

khoảng trên 5%/năm. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng hàng năm, tuy nhiên đối tượng tham gia còn rất thấp so với số người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (mới chỉ chiếm khoảng 0,22% số đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện). Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2012 số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mới đạt 10,4 triệu người, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt 139.643 người. Trong khi đó, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020 đều đặt ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội”. Như vậy, dự tính đến năm 2020 số đối tượng tham gia Tính tuân thủ các quy định về đóng bảo hiểm xã hội còn thấp, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội còn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội. phải đạt khoảng 29 triệu người. Để đạt được mục tiêu tăng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội như trên, Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cụ thể hóa và bổ sung một số đối tượng sau:

- Luật hóa một số nhóm đối tượng đã được thực hiện ổn định theo các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội như: người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; Học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí từ ngân sách Bộ Quốc phòng, Bộ Công an (tiết e, h khoản 1 Điều 2).

- Bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng được giao kết bằng văn bản (tiết b khoản 1 Điều 2). Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện, thời điểm áp dụng đối với nhóm đối tượng này bắt đầu thực hiện từ ngày 01/01/2018 để tổ chức bảo hiểm xã hội có thời gian kiện toàn, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong công tác quản lý thực hiện bảo hiểm xã hội.

- Bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp (khoản 2 Điều 2). Do đây là nhóm đối tượng mới, có tính đặc thù, lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam nên việc quy định lùi thời điểm áp dụng so với thời điểm có hiệu lực của dự án luật là cần thiết nhằm đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Vì vậy, dự thảo đề xuất thời điểm áp dụng đối với nhóm đối tượng này bắt đầu thực hiện từ ngày 01/01/2018.

12

Page 13: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

c) Về giải thích từ ngữ:

- Bộ luật Lao động năm 2012 bỏ quy định “mức lương tối thiểu chung”. Chính vì vậy, dự thảo luật bỏ khái niệm “mức lương tối thiểu chung” đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội (khoản 5 Điều 3).

- Bổ sung khái niệm “bảo hiểm hưu trí bổ sung”. Theo Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020, có nêu “Thí điểm chính sách bảo hiểm hưu trí bổ sung”. Vì vậy, để có cơ sở triển khai bảo hiểm hưu trí bổ sung theo Nghị quyết số 21-NQ/TW, tại điều về giải thích từ ngữ bổ sung thêm khái niệm giải thích về “bảo hiểm hưu trí bổ sung”.

d) Về nguyên tắc bảo hiểm xã hội:

Theo khoản 2 Điều 5 quy định mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung. Với quy định này, mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện là khá cao so với khả năng tài chính của phần đông số người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, điều này gây khó khăn và hạn chế khả năng tham gia của người lao động. Nhằm tạo điều kiện để mọi người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, thu hút ngày càng nhiều người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo đúng tinh thần Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, dự thảo luật sửa đổi theo hướng bỏ quy định mức thu thập không thấp hơn mức lương tối thiểu chung nhằm hạ mức sàn đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện (khoản 2 Điều 5).

e) Về quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội:

Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện cho thấy trong phân công tổ chức thực hiện còn có sự chồng chéo và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. Do vậy, cần quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội để tránh sự chồng chéo và tổ chức thực hiện được đảm bảo thống nhất.

Tại các địa phương công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội còn hạn chế. Do đặc thù của hoạt động bảo hiểm xã hội, nên mỗi địa phương đều có 2 đơn vị có chức năng riêng về bảo hiểm xã hội, đó là Sở Lao động-Thương binh và Xã hội và Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố. Chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội thuộc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội và tổ chức thực hiện như một đơn vị sự nghiệp là Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố. Tùy từng địa phương mà sự

13

Page 14: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

phối hợp giữa hai đơn vị trong hoạt động bảo hiểm xã hội là hiệu quả hay không hiệu quả. Thực trạng này phụ thuộc chủ yếu vào sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

Chính vì vậy, để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội nên dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung thêm 3 điều (từ Điều 9 đến Điều 11) quy định trách nhiệm của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân các cấp trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

f) Thanh tra bảo hiểm xã hội: bổ sung thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính (khoản 2 Điều 12).

Tại Điều 10 dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc xây dựng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm xã hội. Chính vì vậy, cần bổ sung quy định thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính.

g) Chế độ báo cáo tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội:

Theo quy định hiện hành, hàng năm Chính phủ báo cáo Quốc hội về quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội. Thực tiễn thực hiện hoạt động trong những năm qua cho thấy do báo cáo Quốc hội hàng năm nên việc phân tích, đánh giá không thật kỹ lưỡng, đồng thời cũng chưa phản ánh được những thay đổi lớn trong thực hiện. Ngoài ra, định kỳ hàng năm cơ quan bảo hiểm xã hội cũng đã báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Như vậy, để có phân tích, đánh giá kỹ lưỡng và đưa ra các dự báo về khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội thì định kỳ báo cáo Quốc hội về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội nên quy định 3 năm là phù hợp. Do vậy, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định định kỳ 3 năm một lần, Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội từ hàng năm sang định kỳ ba năm (khoản 1 Điều 15).

2.2 Chương II: Quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức bảo hiểm xã hội

Chương II dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm có 6 điều (từ Điều 17 đến Điều 22) quy định về quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức bảo hiểm xã hội. Chương này có một số điểm mới gồm:

14

Page 15: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Sửa đổi quy định người lao động được nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc trừ trường hợp đã được giải quyết chế độ hưu trí hoặc tử tuất (khoản 3 Điều 17).

Việc quy định người lao động được nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc chỉ phù hợp trong trường hợp người lao động nghỉ việc và bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Trường hợp người lao động nghỉ việc đủ điều kiện được giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất, thì sổ bảo hiểm xã hội cần được lưu tại cơ quan bảo hiểm xã hội. Sổ bảo hiểm xã hội là một thành phần hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ cho người lao động, do đó sau khi giải quyết chế độ cho người lao động thì cơ quan bảo hiểm xã hội cần lưu trữ để làm căn cứ khi có thắc mắc, khiếu kiện.

- Sửa đổi quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động khi người đó không còn làm việc trừ trường hợp đã được giải quyết chế độ hưu trí hoặc tử tuất (khoản 6 Điều 20). Nội dung này được sửa đổi cho phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 17.

- Sửa đổi quy định quyền của người lao động được nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 4 Điều 17).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định quyền của người lao động được “Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời”. Quy định này về cơ bản là phù hợp nhằm đảm bảo quyền thụ hưởng chính sách của người lao động. Tuy nhiên, theo Luật Thi hành án dân sự có quy định trừ vào tiền lương hưu của người phải thi hành án. Do vậy, quy định “người lao động được nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ kịp thời” cũng cần phải sửa đổi cho phù hợp và đảm bảo tính thống nhất giữa các luật.

- Bổ sung quyền của người lao động được hưởng bảo hiểm y tế trong thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi (tiết b khoản 5 Điều 17) và nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc danh mục cần chữa trị dài ngày (tiết d khoản 5 Điều 17).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định người lao động được hưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp người lao động đang hưởng lương hưu, người nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng. Riêng người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con hoặc nuôi con nuôi và người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau do mắc bệnh thuộc danh mục cần chữa trị dài ngày không được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội, mặc dù đã được quy định trong Luật Bảo hiểm y tế nhưng cũng chưa quy định nguồn đóng đối với trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con hoặc nuôi

15

Page 16: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

con nuôi.

- Bổ sung quyền của tổ chức bảo hiểm xã hội trong việc thanh tra chuyên ngành về chính sách bảo hiểm xã hội khi Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội ủy quyền (khoản 3 Điều 21); khởi kiện ra tòa đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội (khoản 7 Điều 21).

Quá trình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội cho thấy, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội còn diễn ra khá phổ biến tại nhiểu doanh nghiệp, đặc biệt nhiều doanh nghiệp nhiều cố tình nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội và chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động và gây ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội. Trước thực trạng nêu trên, tổ chức bảo hiểm xã hội đã tích cực tiến hành kiểm tra nhưng do không có chức năng thanh tra, xử lý vi phạm nên không đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, mặc dù không được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội nhưng một số Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố đã thực hiện khởi kiện đối với các doanh nghiệp cố tình nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định.

Để hạn chế tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội; đảm bảo quyền của người lao động, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung quyền của tổ chức bảo hiểm xã hội trong việc thanh tra chuyên ngành về chính sách bảo hiểm xã hội khi Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội ủy quyền và quyền khởi kiện ra tòa đối với các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

- Bổ sung trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội trong việc giới thiệu thân nhân người lao động, người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội đi giám định mức suy giảm khả năng lao động (khoản 4 Điều 22).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội trong việc giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động trong trường hợp giám định lại hoặc giám định tổng hợp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội muốn giám định mức suy giảm khả năng lao động để hưởng chế độ hưu trí và trường hợp thân nhân người lao động muốn giám định mức suy giảm khả năng lao động để hưởng trợ cấp tuất hàng tháng thì Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành không quy định cơ quan nào giới thiệu đi giám định.

2.3. Chương III: Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Chương III dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm có 5 mục, 48 điều (từ Điều 23 đến Điều 70) quy định về chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai

16

Page 17: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. So với Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành thì nội dung chương này có một số điểm mới như sau:

a) Về chế độ ốm đau:

- Sửa đổi quy định mức hưởng chế độ ốm đau trong trường hợp mắc bệnh cần chữa trị dài ngày (khoản 2 Điều 25).

Luật Bảo hiểm xã hội quy định mức hưởng chế độ ốm đau trong trường hợp mắc bệnh cần chữa trị dài ngày trong 180 ngày được hưởng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc, sau đó nếu tiếp tục điều trị thì được hưởng theo mức thấp hơn. Tuy nhiên, mức hưởng nêu trên được quy định trong một năm nên nếu người lao động có thời gian hưởng chế độ ốm đau từ 2 năm trở lên thì cứ sau mỗi năm mức hưởng lại được lặp lại, điều này không hợp lý và rất phức tạp trong tổ chức thực hiện. Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) sửa đổi theo hướng không quy định thời gian hưởng tối đa trong năm mà quy định tối đa hưởng một trăm tám mươi ngày, sau đó nếu vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn, không tính lặp lại hàng năm như quy định hiện hành.

- Bỏ quy định mức hưởng chế độ ốm đau của người bị mắc bệnh cần chữa trị dài ngày đối với trường hợp nghỉ từ ngày 181 trở đi nếu mức hưởng thấp hơn lương tối thiểu chung thì được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu chung.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thấy rằng, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định mức hưởng chế độ ốm đau cho người bị mắc bệnh cần chữa trị dài ngày đối với trường hợp nghỉ từ ngày 181 trở đi nếu mức hưởng thấp hơn lương tối thiểu chung thì được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu chung. Quy định này tạo ra sự không hợp lý giữa những người cùng mắc bệnh chữa trị dài ngày có mức đóng bảo hiểm xã hội khác nhau và với những người ốm mắc bệnh thông thường. Hơn nữa, trợ cấp ốm đau là khoản bù đắp về thu nhập trong thời gian nghỉ việc do ốm đau nên về nguyên tắc mức hưởng phải thấp hơn tiền lương khi đang làm việc. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012 đã bỏ quy định “mức lương tối thiểu chung”, đồng thời quy định “Mức lương tối thiểu được xác định theo tháng, ngày, giờ và được xác lập theo vùng, ngành” nên đối với các trường hợp người lao động ký hợp đồng lao động làm việc không trọn ngày thì khi tính tiền lương tháng có thể thấp hơn mức lương cơ sở. Ngoài ra, việc quy định như hiện hành khuyến khích người lao động lạm dụng trục lợi chế độ này, đồng thời tạo ra sự không hợp lý giữa chế độ này với chế độ hưu trí. Việc

17

Page 18: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

quy định không cần điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu và không khống chế thời hạn hưởng chế độ ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày đã thể hiện rõ tính chia sẻ và đảm bảo quyền lợi của người lao động.

- Bổ sung quy định về mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày được tính bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho 24 ngày (khoản 4 Điều 27).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành mới chỉ quy định mức trợ cấp ốm đau theo tháng, chưa có quy định mức trợ cấp ốm đau theo ngày. Theo các văn bản hướng dẫn thi hành thì mức trợ cấp ốm đau một ngày được tính bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho 26 ngày. Có ý kiến cho rằng mức trợ cấp một ngày phải được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho số ngày làm việc thực tế trong tháng của người lao động. Tuy nhiên, nếu thực hiện chia cho số ngày làm việc thực tế sẽ tạo sự bất hợp lý trong thụ hưởng chế độ giữa những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (cùng mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội như nhau thì người lao động có số ngày làm việc nhiều khi nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau thì mức hưởng lại thấp hơn), đồng thời nếu thực hiện phương án này cũng rất khó khăn, phức tạp trong tổ chức thức thực hiện. Để vừa đảm bảo tốt hơn quyền thụ hưởng cho người lao động, vừa đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng chế độ và tính khả thi trong tổ chức thực hiện, dự thảo luật quy định mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 24 ngày.

b) Về chế độ thai sản:

- Sửa đổi quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con đối với trường hợp lao động nữ mang thai nhưng thai không bình thường phải nghỉ việc (khoản 3 Điều 30).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con là “người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con”. Quy định này là tích cực, khắc phục được sự lạm dụng chế độ này song lại không hợp lý với các trường hợp người lao động đã có quá trình đóng bảo hiểm xã hội dài, song vì lý do khó mang thai, thai bệnh lý, thai không bình thường nên phải nghỉ việc ngay khi mang thai do vậy không đủ điều kiện đóng bảo hiểm xã hội đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh để được hưởng chế độ thai sản. Trong trường hợp này là không công bằng và không đảm bảo quyền lợi của người lao động vì họ đã có quá trình đóng bảo hiểm xã hội dài nhưng lại không được hưởng chế độ thai sản. Chính vì vậy, để khắc phục được hạn chế này, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định đối với người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà

18

Page 19: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

khi mang thai cơ sở y tế yêu cầu phải nghỉ việc thì điều kiện hưởng chế độ thai sản chỉ cần đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

- Bổ sung quy định lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 5 ngày làm việc hoặc 7 ngày làm việc tùy thuộc vào trường hợp vợ đẻ thường hoặc đẻ mổ (tiết đ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 33).

Theo quy định hiện hành khi lao động nữ sinh con thì chỉ lao động nữ được nghỉ việc để chăm sóc con, tuy nhiên chưa có quy định về lao động nam được nghỉ việc chăm sóc vợ và con. Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định trong thời gian người vợ sinh con thì người cha cũng được nghỉ với một thời gian nhất định để có phẩn trách nhiệm trong việc sinh con của người vợ. Đó là sự chia sẻ và cũng thể hiện rõ vấn đề giới trong lĩnh vực này. Đây là nhu cầu không chỉ riêng của lao động nữ sinh con mà của cả lao động nam có nguyện vọng được chia sẻ trách nhiệm được có thời gian nghỉ việc chăm sóc con, đảm bảo tốt hơn sức khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh trong điều kiện quỹ còn có thể cân đối. Kinh nghiệm thực hiện của một số nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước triển khai hiện chế độ thai sản quy định người chồng được nghỉ việc để chăm sóc vợ, con như: Phillipine, Tây Ban Nha, Anh, Ý,..

- Sửa đổi quy định về thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi cho phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động năm 2012; bổ sung quy định trường hợp lao động nam nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi cho tương đồng với quy định đối với lao động nữ (khoản 1 Điều 33, Điều 34, Điều 36).

Theo Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 quy định thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con 6 tháng; lao động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi nghỉ việc được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi. Quy định này tạo nên sự không thống nhất đối với trường hợp lao động nam nhận nuôi con nuôi theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành chỉ được nghỉ việc hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi và chỉ được hưởng cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Do vậy, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cần điều chỉnh quy định về thời gian hưởng chế độ thai sản cho phù hợp với Bộ luật Lao động, đồng thời cần bổ sung quy định đối với lao động nam nhận nuôi con nuôi cho tương đồng đối với lao động nữ.

- Sửa đổi quy định về trợ cấp một lần khi sinh con trong trường hợp chỉ có

19

Page 20: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

cha tham gia bảo hiểm xã hội theo hướng trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ khi sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con (Điều 36).

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì trong trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha chỉ được hưởng trợ cấp một lần trong trường hợp mẹ chết khi sinh con, điều này không đảm bảo công bằng đối với các trường hợp chỉ có người cha tham gia bảo hiểm xã hội. Khoản trợ cấp một lần khi sinh con là khoản khoản trợ cấp được chi trả nhằm mục đích hỗ trợ mua các vật dụng cần thiết cho con khi mới sinh, vì vậy khoản trợ cấp này nên được chi trả đối với tất cả các trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội hoặc chỉ có mẹ hoặc chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội.

c) Về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:

- Về điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động: luật hóa các quy định từ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, đồng thời bổ sung quy định các trường hợp loại trừ nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện (Điều 41).

- Bổ sung quy định về thời điểm hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong trường hợp không điều trị nội trú (khoản 1 Điều 46).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành đã quy định về thời điểm hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng. Tuy nhiên, mới chỉ quy định thời điểm hưởng trợ cấp đối với các trường hợp điều trị nội trú và các trường thương tật, bệnh tật tái phát, đối với các trường hợp không điều trị nội trú chưa có quy định nên cũng gây khó khăn trong tổ chức thực hiện.

- Bổ sung quy định điều chỉnh trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế (Điều 47).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành chưa có quy định về việc điều chỉnh trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng. Thực tiễn thực hiện trong thời gian qua, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng của người lao động được điều chỉnh tương ứng khi Chính phủ thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội. Do vậy, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cần bổ sung một điều quy định việc điều chỉnh trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng giống như đối với điều chỉnh lương hưu.

20

Page 21: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Sửa đổi quy định về cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo hướng cấp cấp tiền để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình (Điều 48).

Theo quy định Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành thì người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện để phù hợp với thực tế, nhu cầu của người lao động và thuận lợi trong tổ chức thực hiện, Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/1/2007 và Thông tư số 19/2008/TT-BLĐTBXH ngày 23/9/2008 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hướng dẫn theo hướng cấp tiền để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt và dụng cụ chỉnh hình. Kết quả thực hiện thời gian qua cho thấy việc cấp tiền để mua các phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình là phù hợp. Chính vì vậy, cần sửa đổi quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành về nội dung này cho phù hợp với thực tiễn thực hiện.

d) Về chế độ hưu trí:

* Sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu:

Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện nay trong tổng số những người nghỉ việc hưởng lương hưu có khoảng 60% người nghỉ hưu trước tuổi quy định, trong đó phần lớn nghỉ hưu do suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, đây là một trong các nguyên nhân làm cho tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế xuống thấp hơn so với quy định. Trên thực tế tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 chỉ là 54,2 tuổi, trong đó nam là 55,6 tuổi và nữ là 52,6 tuổi. Bên cạnh đó, xu hướng tuổi thọ bình quân của nước ta càng tăng , hiện nay tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam là 73 tuổi, đặc biệt số năm trung bình còn sống được của nam ở tuổi 60 là 18,1 năm và của nữ ở tuổi 55 là 24,5 năm. Tuổi nghỉ hưu bình quân thấp, trong khi tuổi thọ trung bình cao, đây là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng cân đối của quỹ hưu trí và tử tuất. Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), với nền chính sách hiện hành, quỹ hưu trí đến năm 2021 thu trong năm đủ chi trong năm, để đảm bảo khả năng chi trả của quỹ phải lấy từ nguồn kết dư của quỹ. Đến năm 2034, quỹ hưu trí hoàn toàn cạn kiệt, mất khả năng chi trả.

Tóm lại, có thể rút ra một số điểm hạn chế, bất cập về quy định tuổi nghỉ hưu theo quy định hiện hành như sau:

+ Quy định tuổi nghỉ hưu như hiện hành là thấp so với xu hướng tuổi thọ ngày càng tăng và nguy cơ mất khả năng cân đối quỹ hưu trí và tử tuất.

21

Page 22: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

+ Quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thấp hơn lao động nam 5 tuổi là chưa đảm bảo vấn đề giới, chưa hợp lý trong điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.

+ Quy định điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đã thực hiện từ những năm 1995 khi mà điều kiện làm việc và tuổi thọ của người lao động chưa có sự cải thiện so với hiện nay. Quy định này dẫn tới việc người lao động nghỉ hưu sớm khi thực tế vẫn còn khả năng làm việc và tạo ra sự không hợp lý giữa đóng và hưởng.

Do vậy, để giải quyết những bất cập, hạn chế nêu trên, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với từng nhóm đối tượng cho đến khi tuổi nghỉ hưu của nữ là 60 tuổi và nam là 62 tuổi; đồng thời sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động theo hướng nâng lên 5 tuổi so với quy định hiện hành (khoản 2 Điều 53, khoản 1 khoản 2 Điều 54).

* Tỷ lệ hưởng lương hưu:

- Sửa đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo hướng có lộ trình tăng dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tượng ứng với 45% từ 15 năm lên 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (khoản 2 Điều 55).

Theo quy định hiện hành người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm được tính bằng 45%, sau đó thêm 01 năm tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75%. Như vậy, để đạt được tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75% thì người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội 30 năm đối với nam và 25 năm đối với nữ. Tỷ lệ hưởng lương hưu của Việt Nam là cao so với các nước trên thế giới và cao hơn nhiều so với mức đóng góp, điều này không đảm bảo được nguyên tắc đóng-hưởng gây mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất. Khi tuổi nghỉ hưu của nam và nữ về cơ bản được thu hẹp thì cần thiết sửa đổi cách tính tỷ lệ phần trăm (%) tăng thêm đối với mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội sau năm thứ 20 là 2% đối với cả nam và nữ để đảm bảo bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (hiện hành tỷ lệ tính thêm đối với mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội sau năm thứ 15 là 2% đối với nam và 3% đối với nữ).

- Sửa đổi quy định tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% tương ứng với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi (khoản 3 Điều 55).

Việc quy định mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi chỉ bị trừ giảm 1% như hiện hành không đảm bảo được nguyên tắc đóng-hưởng, trong khi tính hưởng thì mỗi

22

Page 23: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 2% đối với nam và 3% đối với nữ nhưng khi nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi năm chỉ giảm 1%. Điều này sẽ khuyến khích người lao động nghỉ hưu sớm (khi chưa quản lý được chất lượng hoạt động của Hội đồng Giám định Y khoa) tạo nên sự bất hợp lý giữa các đối tượng thụ hưởng và mất cân đối quỹ. Do vậy, việc đề xuất sửa đổi quy định tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi là 2% tương ứng với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi là phù hợp.

* Bảo hiểm xã hội một lần:

- Sửa đổi quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng chỉ giải quyết bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp. Riêng đối với lực lượng vũ trang thực hiện như quy định hiện hành, được giải quyết ngay khi phục viên, xuất ngũ, nếu không đủ điều kiện để hưởng lương hưu và người lao động có yêu cầu. Ngoài ra, bổ sung quy định giải quyết đối với người mắc bệnh hiểm nghèo (khoản 1 Điều 59).

Số liệu trên cho thấy, tính bình quân trong giai đoạn 2007-2012 trong tổng số người được giải quyết chế độ hưu trí thì có khoảng 80% giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần, chỉ có khoảng 20% hưởng lương hưu hàng tháng. Hàng năm, có khoảng gần 500.000 người hưởng bảo hiểm xã hội một lần và con số này có xu hướng gia tăng qua từng năm. Điều này đi ngược với quan điểm của Đảng và Nhà nước là từng bước mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Như vậy, việc cho phép người lao động có dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội mà chưa hết tuổi lao động được nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, chưa đảm bảo khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và chưa phù hợp với mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi hết tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội.

Do đặc thù của nhóm lực lượng vũ trang, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ngắn (18 đến 24 tháng), khi xuất ngũ tỷ lệ làm việc để tiếp tục tham gia đóng bảo hiểm xã hội là rất hạn chế, chủ yếu là lao động tự do và sản xuất nông nghiệp ở địa phương nên khi xuất ngũ đại đa số đề nghị nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần. Do vậy, đối với nhóm đối tượng này đề nghị vẫn thực hiện như quy định hiện hành.

Tuy nhiên, đối với một số trường hợp đặc biệt như người mắc các bệnh hiểm nghèo, bệnh nan y thì cần tạo cơ chế để người lao động được giải quyết bảo hiểm xã hội một lần để có tiền điều trị bệnh tật, nếu người lao động có nhu cầu (kể cả người đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 20 năm trở lên).

23

Page 24: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Tăng mức trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần lên mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội (khoản 2 Điều 59).

Theo lộ trình tăng tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ hưu trí và tử tuất theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì từ năm 2014 trở đi mức đóng bảo hiểm xã hội của người lao động và người sử dụng lao động là 22% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Trong khi đó, mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần vẫn quy định mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội hưởng 1,5 mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội. Quy định này là thiệt thòi cho người lao động và chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng-hưởng. Chính vì vậy, việc điều chỉnh tăng mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi là hợp lý, đảm bảo quyền lợi của người lao động.

* Sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, cách tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân toàn bộ quá trình; đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tính bình quân 5 năm, 6 năm, 8 năm hoặc 10 năm cuối cùng tùy thuộc vào thời gian bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành đã có một bước tiến trong việc tạo nên sự bình đẳng trong cách tính mức bình quân giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn phân biệt giữa người lao động thuộc khu vực trong và ngoài nhà nước tạo nên sự bất bình đẳng giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) sửa đổi theo hướng đối với người bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01/7/2015 trở đi (ngày Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực thi hành) thì tính bình quân toàn bộ thời gian giống như người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định (điểm đ khoản 1 Điều 61). Như vậy, với sự thay đổi này sẽ giải quyết sự khác biệt trong cách tính mức bình quân trên để tạo nên sự bình đẳng giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; đồng thời thay đổi này nhằm đảm bảo hơn nguyên tắc đóng-hưởng trong bảo hiểm xã hội. Dự thảo luật đã thể hiện nội dung này tại điểm đ khoản 1 Điều 61.

24

Page 25: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

* Về điều chỉnh tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội

Quy định về điều chỉnh tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội được thể hiện ở Điều 61 Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, theo đó:

- Tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động hưởng lương theo thang bảng lương do nhà nước quy định được điều chỉnh theo mức lương tối thiểu chung tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí.

- Tiền lương, tiền công đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động hưởng lương theo thang bảng lương do người sử dụng lao động quy định được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.

Việc quy định trên tạo ra sự phân biệt và không bình đẳng giữa các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ở khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Mặt khác, với việc bỏ quy định mức lương tối thiểu chung từ 01/5/2013 cũng sẽ gây khó khăn cho việc thực thi Luật Bảo hiểm xã hội. Với quy định điều chỉnh theo mức lương tối thiểu chung tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí dẫn tới người lao động đóng mức thấp nhưng khi hưởng lại được tính trên mức lương cao hơn rất nhiều so với khi đóng góp tạo ra sự mất cân đối giữa đóng- hưởng bảo hiểm xã hội ở khu vực này, từ đó ảnh hưởng đến cân đối tài chính quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn.

Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) sửa đổi theo hướng đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 trở đi thì tiền lương lương đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ như đối với người lao động thuộc khu vực ngoài nhà nước (Điều 62). Như vậy, với sự thay đổi này sẽ giải quyết bất hợp lý trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời đảm bảo được nguyên tắc đóng- hưởng và góp phần cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.

* Về trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu ra nước ngoài để định cư

25

Page 26: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Theo quy định hiện hành mới chỉ quy định việc giải quyết bảo hiểm xã hội một lần với người đang đóng bảo hiểm xã hội hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội ra nước ngoài để định cư hợp pháp. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành chưa có quy định việc giải quyết trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu ra nước ngoài để định cư nên gây khó khăn trong tổ chức thực hiện, đặc biệt là đối với các trường hợp không còn thân nhân ở Việt Nam. Nhằm giải quyết bất hợp lý nêu trên, dự thảo luật bổ sung quy định về giải quyết trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu ra nước ngoài để định cư (Điều 64).

đ) Về chế độ tử tuất:

- Bổ sung giải quyết chế độ tử tuất đối với người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù mà bị chết trong tù (điểm d khoản 1 Điều 65).

Theo quy định hiện hành đối với người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo mà bị chết trong tù thì thân nhân không được hưởng chế độ tử tuất. Điều này ảnh hưởng đến quyền thụ hưởng của thân nhân người lao động, tạo sự bất công bằng trong thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội (đối với các trường hợp đang làm việc hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội bị phạt tù giam mà chết trong tù thì thân nhân vẫn được giải quyết chế độ tử tuất).

- Bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần (khoản 3 Điều 68).

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, mức trợ cấp tuất một lần được cải thiện đáng kể so với trước đây, mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết tương đương mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Quy định này đảm bảo nguyên tắc đóng-hưởng, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của thân nhân người lao động. Tuy nhiên, việc quy định tăng mức trợ cấp tuất một lần như hiện hành cũng làm bộc lộ những hạn chế, bất cập do có chênh lệch lớn về mức hưởng giữa trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất hàng tháng, tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng chế độ này. Sự bất cập này thường xẩy ra đối với thân nhân người hưởng trợ cấp tuất hàng tháng với thời gian hưởng quá ngắn (con chuẩn bị hết tuổi hưởng trợ cấp, bố mẹ đã quá già, yếu,..); trong khi đó nếu họ được hưởng chế độ tuất một lần thì mức hưởng của họ lớn hơn nhiều. Từ sự bất cập nêu trên, thực tiễn thực hiện thời gian qua cũng nảy sinh sự lạm dụng, tùy tiện,..gây khó khăn, phiền hà cho người lao động. Việc quy định cho phép thân nhân người lao

26

Page 27: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

động được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần vừa đảm bảo sự công bằng, nguyện vọng của thân nhân người lao động và đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng trong thực hiện chế độ tử tuất.

- Tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với trường hợp người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết từ 1,5 tháng lên 2 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi, tương đồng với mức bảo hiểm xã hội một lần (khoản 1 Điều 69)

2.4. Chương IV: Bảo hiểm xã hội tự nguyện

Chương IV dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm có 2 mục, 11 điều (từ Điều 71 đến Điều 81) quy định về chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. So với Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành thì nội dung chương này có một số điểm mới như sau:

a) Về chế độ hưu trí:

- Quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu tương đồng với chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc (điểm a khoản 1 Điều 72).

- Sửa đổi quy định cho phép người lao động đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng lương hưu nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội được đóng cho đến khi đủ điều kiện để hưởng lương hưu, không khống chế tuổi trần tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện như hiện hành (khoản 2 Điều 72).

Theo quy định hiện hành quy định trường hợp người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu nhưng còn thiếu không quá 5 năm để đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu, thì họ được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm. Việc quy định chỉ cho phép những người nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có từ đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mới được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đã làm hạn chế khả năng tham gia chế độ này của người lao động. Như vậy, việc quy định không khống chế tuổi trần tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là một giải pháp mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, góp phần đạt được mục tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

- Sửa đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo hướng có lộ trình tăng dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tượng ứng với 45% từ 15 năm lên 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, tương đồng với quy định của bảo hiểm xã hội bắt buộc (khoản 2 Điều 73).

27

Page 28: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

- Sửa đổi quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng chỉ giải quyết bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp; bổ sung đối tượng mắc bệnh hiểm nghèo tương đồng với quy định của bảo hiểm xã hội bắt buộc (khoản 1 Điều 76).

- Tăng mức trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần lên mỗi năm đóng từ năm 2014 trở đi bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội, tương đồng với quy định của bảo hiểm xã hội bắt buộc (khoản 2 Điều 76).

b) Về chế độ tử tuất:

- Bổ sung đối tượng giải quyết chế độ tử tuất đối với người đang bị dừng hưởng lương hưu do phải chấp hành hình phạt tù mà bị chết trong tù, tương đồng với quy định của bảo hiểm xã hội bắt buộc (điểm c khoản 1 Điều 79, Điều 80).

- Tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với trường hợp người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết từ 1,5 tháng lên 2 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội cho mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi, tương đồng với quy định của bảo hiểm xã hội bắt buộc (khoản 2 Điều 80).

2.5. Chương V. Quỹ bảo hiểm xã hội

Chương V dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm 11 điều (từ điều 82 đến điều 92) quy định nguồn hình thành, các nội dung chi quỹ bảo hiểm xã hội, các hình thức đầu tư quỹ và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội. So với quy định hiện hành thì nội dung chương này có một số điểm mới như sau:

- Sửa đổi theo hướng hợp nhất quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện với quỹ hưu trí và tử tuất của quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Việc quy định quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện độc lập với quỹ hưu trí và tử tuất của quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc như hiện nay là chưa hợp lý khi mà về chính sách có sự liên thông giữa hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, quy định này làm nảy sinh nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do hiện nay phần lớn đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là những người đã có quá trình đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trước đó (chiếm trên 70% tổng số đối tượng tham gia), do đó việc phân bổ giữa quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc và quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong trách nhiệm chi trả là rất khó khăn, phức tạp và không có nhiều ý nghĩa. Mặt khác, việc tách quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện độc lập với quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc chỉ mang tính tương đối chưa tách bạch

28

Page 29: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

hoàn toàn (do chi phí quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện và bắt buộc chưa được tách bạch).

- Bổ sung nội dung quy định về sử dụng quỹ theo hướng bổ sung mục chi chi phí giám định y khoa đối với trường hợp do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu đi giám định mức suy giảm khả năng lao động (khoản 4 Điều 84).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành đã quy định khá chi tiết các nội dung chi của quỹ bảo hiểm xã hội, tuy nhiên “phí giám định y khoa” mặc dù luật quy định người lao động được đi giám định, giám định lại mức suy giảm khả năng lao động và tổ chức bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giới thiệu người lao động, thân nhân người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động trong một số trường hợp nhưng không quy định trách nhiệm trong việc chi trả “phí giám định y khoa”.

- Bổ sung phương thức đóng của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm một năm một lần, một lần cho nhiều năm về sau theo hướng thấp hơn mức đóng hằng tháng hoặc một lần cho những năm còn thiếu theo hướng cao hơn và quy định Chính phủ hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội đối với một số trường hợp đặc biệt (Điều 87).

Theo Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 có nêu: “Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. ...Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp”. Thể chế hóa quan điểm nêu trên của Nghị quyết, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định nhà nước có chính sách hỗ trợ nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và giao cho Chính phủ quy định cụ thể đối tượng, mức hỗ trợ cho phù hợp với từng thời kỳ. Ngoài ra, để tăng sức hấp dẫn và sự linh hoạt của chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện thì việc bổ sung phương thức đóng một năm một lần, đóng một lần cho thời gian còn thiếu để đủ điều kiện hưởng lương hưu là phù hợp.

- Bổ sung quy định thực hiện đóng bù cho thời gian được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất sau khi hết thời hạn tạm dừng đóng (khoản 2 Điều 88).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định trong trường hợp người sử dụng lao động gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh hoặc gặp khó khăn do thiên tai, mất mùa dẫn đến việc người lao động và người sử dụng lao động không

29

Page 30: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

có khả năng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất thì được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất trong thời gian không quá mười hai tháng. Tuy nhiên, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không quy định sau khi hết thời gian tạm dừng thì người sử dụng lao động và người lao động có phải đóng bù cho thời gian được tạm dừng hay không, điều này gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Dự thảo luật đề xuất bổ sung quy định thực hiện việc đóng bù đối với trường hợp hết thời hạn tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Khi thực hiện đóng bù cho thời gian được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất, không thực hiện việc tính lãi chậm đóng theo quy định.

- Sửa đổi quy định chi phí quản lý bảo hiểm xã hội được tính theo tỷ lệ % trên tổng số thực thu bảo hiểm xã hội (Điều 90).

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định tổ chức bảo hiểm xã hội là tổ chức sự nghiệp nhưng lại quy định chi phí quản lý của tổ chức bảo hiểm xã hội bằng mức chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước. Điều này không phù hợp và không tạo cơ chế khuyến khích tổ chức bảo hiểm xã hội trong đầu tư ứng dụng công nghệ quản lý tăng thu, giảm chi phí. Việc quy định chi phí quản lý bảo hiểm xã hội được tính theo tỷ lệ % trên tổng số thực thu bảo hiểm xã hội hàng năm do người lao động và người sử dụng lao động đóng vừa đảm bảo đúng với tính chất loại hình tổ chức bảo hiểm xã hội.

- Bổ sung hình thức đầu tư ủy thác đầu tư thông qua các hợp đồng quản lý đầu tư (khoản 5 Điều 92).

Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội trong thời gian qua hiệu quả chưa cao, lãi thu được từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội chưa bảo tồn được giá trị của quỹ, lãi suất đầu tư luôn ở dưới chỉ số tăng giá tiêu dùng (lãi suất đầu tư bình quân của giai đoạn 2008- 2012 chỉ khoảng 10%/năm, trong khi CPI bình quân là 13,4%/năm), tỷ lệ điều chỉnh lương hưu cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ lãi thu được từ đầu tư tăng trưởng quỹ. Một trong những nguyên nhân của hiệu quả đầu tư quỹ chưa cao là do hình thức đầu tư chưa thật đa dạng, đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư của cơ quan bảo hiểm xã hội chưa chuyên nghiệp. Việc bổ sung hình thức đầu tư ủy thác đầu tư thông qua các hợp đồng quản lý đầu tư là cần thiết và là một biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.

2.6. Chương VI. Tổ chức bảo hiểm xã hội

Chương VI dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm 3 điều (từ điều 93 đến điều 95) quy định tổ chức bảo hiểm xã hội, Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội. So với quy định hiện hành thì nội dung chương này về cơ bản không có thay đổi lớn, chủ yếu là cụ thể hóa các quy định tại các văn bản hướng dẫn.

2.7. Chương VII. Thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội

30

Page 31: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Chương VII dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm 23 điều (từ điều 96 đến điều 118) quy định về thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội, cấp sổ bảo hiểm xã hội, hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

- Việc sửa đổi, bổ sung các nội dung này được thực hiện trên nguyên tắc pháp điển hóa các quy định về thủ tục, hồ sơ từ các văn bản hướng dẫn thi hành luật và các các văn bản hướng dẫn của tổ chức bảo hiểm xã hội, quá trình thực hiện đã đi vào cuộc sống, được sự đồng thuận từ phía người lao động, người sử dụng lao động. Việc pháp điển hóa nhằm tăng cường tính pháp lý, tăng cường tính minh bạch, công khai nhằm giảm thiểu các thủ tục gây phiền hà cho các đối tượng khi tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội.

- Nghiên cứu, tiếp thu các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính ban hành kèm theo các Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 02/6/2010, Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 09/12/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi, chức năng quản lý của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội; Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 9/12/2011 của Chính phủ về việc đơn giản hóa các thủ tục thuộc thẩm quyền giải quyết của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

2.8. Chương VIII. Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội

Chương VIII dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm 4 điều (từ điều 119 đến điều 122) quy định về khiếu nại bảo hiểm xã hội, tố cáo bảo hiểm xã hội và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội. Nội dung chương này được thiết kế trên cơ sở gộp Chương VIII về khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội và Chương IX về khen thưởng và xử lý vi phạm thành một chương về khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, đồng thời bỏ Điều 133 về khen thưởng vì nội dung điều này chỉ viện dẫn theo quy định của pháp luật. Như vậy, nội dung chương này có một số điểm mới như sau:

- Bỏ quy định khen thưởng từ quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Quy định về khen thưởng người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại khoản 2 Điều 133 Luật Bảo hiểm xã hội là không cần thiết. Điều này chỉ có ý nghĩa nếu hình thành Quỹ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Thực tế thì nội dung này sau 6 năm thực hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nội dung khen thưởng từ quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người sử dụng lao động theo khoản 2 Điều 133 Luật Bảo hiểm xã hội do vướng mắc với quy định của Luật Thi đua, khen thưởng.

- Sửa đổi quy định về việc tính lãi đối với số tiền chưa đóng, chậm đóng theo hướng tăng lên bằng 02 lần lãi suất liên ngân hàng (khoản 3 Điều 122).

31

Page 32: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định lãi chậm đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng lãi suất đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội trong năm. Thực tiễn thực hiện thời gian qua cho thấy lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội chỉ trong khoảng 9-10% và thường thấp hơn nhiều lãi suất vay Ngân hàng trong cùng kỳ. Điều này đã dẫn tới các doanh nghiệp cố tình chậm đóng, nợ đóng để sử dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội vào mục đích khác, gây thất thu cho quỹ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động. Để khắc phục tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, hạn chế tình trạng người sử dụng lao động chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội thì việc đề xuất quy định tăng mức tính lãi chậm đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội là cần thiết.

2.10. Chương IX. Điều khoản thi hành

Chương IX dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) gồm 3 điều (từ điều 123 đến điều 125) quy định về quy định chuyển tiếp, hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành. So với quy định hiện hành thì nội dung chương này có một số điểm mới như sau:

- Sửa đổi quy định tính thời gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 nhằm giải quyết những vướng mắc, bất cập của quy định hiện hành (khoản 4 Điều 123).

- Bổ sung quy định chuyển 50% số kết dư của quỹ ốm đau, thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và toàn bộ số kết dư quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành được chuyển sang quỹ hưu trí và tử tuất (khoản 6 Điều 123).

Do các quỹ ốm đau, thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là các quỹ cân đối ngắn hạn; theo số liệu thống kê cho thấy cho đến nay tồn tích của các quỹ này là tương đối lớn. Trong khi đó, quỹ hưu trí và tử tuất đang có nguy cơ mất cân đối trong tương lai gần. Mặt khác, do quy định hợp nhất quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện với quỹ hưu trí và tử tuất của bảo hiểm xã hội bắt buộc nên khi luật này có hiệu lực thi hành thì sẽ không còn quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chính vì vậy, dự thảo luật đề xuất bổ sung khoản 6 Điều 123 nêu trên.

- Về hiệu lực thi hành (tại Điều 124): Quy định hiệu lực thi hành áp dụng riêng đối với đối tượng người lao động giao kết hợp đồng lao động dưới 3 tháng và người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam (áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2018).

Đối tượng người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam là nhóm đối tượng mới, có tính đặc thù, lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam; các cơ quan chức năng cũng chưa quản lý, nắm bắt được nhóm đối với đối tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo

32

Page 33: Báo cáo thuyết minh chi tiết dự án Luật bảo hiểm xã hội

một công việc nhất định có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng. Chính vì vậy, để đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện, thời điểm áp dụng đối với nhóm đối tượng này bắt đầu thực hiện từ ngày 01/01/2018 để có thời gian chuẩn bị hướng dẫn thực hiện, tổ chức bảo hiểm xã hội có thời gian kiện toàn, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong công tác quản lý thực hiện bảo hiểm xã hội.

Trên đây là thuyến minh chi tiết về nội dung chủ yếu của dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)./.

BỘ LAO ĐỘNG- THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

33