BẢN TIN THÁNG 05/2017 -...
Transcript of BẢN TIN THÁNG 05/2017 -...
1
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 05/2017
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Nhật Bản phát triển robot cứu hộ thảm
họa thiên nhiên thế hệ mới
Loa Micro siêu mỏng tạo ra năng lượng
từ chuyển động
Vải sinh học có chứa vi khuẩn cho
quần áo thể thao tự làm mát
Điều trị thành công bằng kỹ thuật cấy
ghép thận cho mười bệnh nhân bị
nhiễm vi rút viêm gan C (HCV)
Phương pháp kích điện giúp hồi sinh
người sống thực vật
Kem chống nắng có tác dụng với tia
cực tím khi tiếp xúc qua mồ hôi
Kem chống nắng mới chứa các hạt
nano mô phỏng melanin
Chất keo tiết ra từ con trai có thể giảm
sẹo trên da
Kỹ thuật hiển vi mới giúp phát hiện và
chẩn đoán u hắc tố di căn
Kỹ thuật chụp ảnh mới đảm bảo loại bỏ
hoàn toàn khối u ung thư
Bong bóng siêu nhỏ giúp làm lành tổn
thương xương ở lợn
Nghiên cứu thành công thuốc diệt nấm
sinh học chống bệnh thán thư
Chất xúc tác mới tách nước
Phương pháp mới tái chế vật liệu
composite sợi cacbon
Lần đầu tiên in thành công gạch có thể
xây nhà trên Mặt Trăng
Hà Lan sáng tạo nhựa đường tự vá lành
ổ gà
Bộ lọc bằng gỗ loại bỏ thuốc nhuộm
độc hại trong nước
Chất chống oxy hóa, nhựa có thể được
sản xuất từ sản phẩm phụ của quá trình
xay lúa mì
Hàn Quốc phát triển tấm pin năng
lượng Mặt Trời có thẩm mỹ cao
Hải quân Mỹ phát triển pin sạc không
cháy nổ
Vật liệu ống nano-graphene lai thúc
đẩy phát triển dòng pin lithium metal
Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính
hiển vi thông thường
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016624 Hộp cấp thuốc hiện ảnh và
hệ thống cấp thuốc hiện ảnh có bơm
được vận hành để xả thuốc hiện ảnh
1-0016627 Hợp chất thioaxetat và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0016640 Muối amin hữu cơ của dẫn
xuất axit aminobenzoic, dược phẩm
chứa nó và phương pháp sản xuất nó
1-0016660 Hệ phân tán rắn chứa chất
gây ra sự tự chết tế bào theo chương
trình, quy trình điều chế hệ phân tán
này và dược phẩm dạng liều chứa nó
1-0016661 Chế phẩm hoạt động bề mặt
hoàn nguyên chứa chất tương tự protein
hoạt động bề mặt B (SP-B) và protein
2
hoạt động bề mặt C (SP-C), dược phẩm
và kit chứa chế phẩm này
1-0016697 Vi sinh vật sản sinh axit L-
glutamic và phương pháp sản xuất axit
L-glutamic
1-0016707 Hợp chất acrylamido có tác
dụng làm chất ức chế sự thay đổi tính
thấm của ty thể, quy trình điều chế và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0016720 Viên nén dễ chia có khả
năng giải phóng biến đổi và quy trình
bào chế viên nén này
1-0016688 Phương pháp sản xuất sản
phẩm từ lá trà đã chế biến bằng cách ép
đùn và sản phẩm từ lá trà
1-0016628 Phương pháp làm giảm độ
cứng của nước
1-0016732 Chế phẩm tẩy giặt dạng
lỏng và phương pháp giặt bằng tay sử
dụng chế phẩm này
1-0016630 Hợp chất và chế phẩm đổi
màu theo ánh sáng
1-0016633 Thiết bị xử lý nước thải
1-0016634 Bộ phận in chuyển
1-0016651 Dao gạt mực in và phương
pháp chế tạo dao gạt này
1-0016659 Khớp nối bản lề và phương
pháp lắp các khớp nối bản lề
1-0016685 Quy trình và hệ thống xử lý
kết hợp đồng phân hóa xylen và chuyển
hoá nhóm alkyl
1-0016641 Quy trình điều chế axit
sucxinic
1-0016734 Quy trình điều chế chế
phẩm canxi cacbonat kết tủa
1-0016741 Xe đạp dùng để chạy dưới
nước và trên cạn
1-0016662 Chế phẩm dầu bôi trơn
dùng cho động cơ đốt trong
1-0016744 Giày có thể thấm hơi nước
1-0016743 Phương pháp bảo vệ lúa sạ
ngầm và lúa cấy tránh khỏi tổn hại gây
ra bởi penoxsulam
1-0016724 Hợp chất pyrimiđin, chế
phẩm chứa nó, phương pháp phòng trừ
loài gây hại không xương sống và hạt
giống được xử lý bằng hợp chất này
3
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Nhật Bản phát triển robot cứu hộ thảm họa thiên nhiên thế hệ mới
Robot Fuhga trình diễn tại buổi ra mắt
(Nguồn: Kyodo News)
Đại học Kyoto, Nhật Bản ngày 23/5 đã
cho ra mắt robot cứu hộ có thể tìm kiếm và
cứu hộ người bị mắc kẹt trong các tòa nhà do
thảm họa thiên nhiên.
Robot này có tên Fuhga, chiều cao
25cm và bề rộng 60cm, được thiết kế các bộ
phận giống như tay chân người, giúp robot có
thể nắm giữ mọi người khi cứu hộ.
Robot này được phòng nghiên cứu của
giáo sư Fumitoshi Matsuno ở Đại học Kyoto
chế tạo, vừa giành giải trong cuộc thi "Robo
Cup Nhật Bản mở rộng năm 2017 hồi đầu
tháng Năm.
Giáo sư Matsuno bắt đầu nghiên cứu
chế tạo loại robot này sau vụ một sinh viên
của ông bị mất tích trong trận động đất mạnh
6,8 độ richter ở thành phố cảng Kobe, miền
Tây Nhật Bản hồi tháng 1/1995, tàn phá trên
diện rộng và cướp đi sinh mạng của ít nhất
6.400 người.
Giáo sư Matsuno hiện muốn triển khai
loại robot này để phục vụ các hoạt động cứu
hộ tại nhà máy điện nguyên tử Daiichi
Fukushima tại thành phố Fukushima - khu vực
đã bị phá hủy nặng nề trong thảm họa động
đất và sóng thần tháng 3/2011.
Trước đó, phòng thí nghiệm này cũng
đã chế tạo một loại robot được dùng để tiếp
cận vào sâu các khu vực bị tàn phá trong thảm
họa năm 2011 nêu trên.
Nhật Bản thường xuyên phải hứng chịu
các trận động đất, thậm chí là sóng thần gây
thiệt hại rất lớn về người và vật chất. Điều này
đã thúc đẩy Nhật Bản trong nhiều năm qua
đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu chế tạo robot
nhằm phục vụ các hoạt động cứu hộ trong
nhiều hoàn cảnh thiên tai và địa hình.
Theo vietnamplus.vn, 23/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Loa Micro siêu mỏng tạo ra năng lượng từ chuyển động
Các nhà nghiên cứu ở Đại học bang
Michigan đã phát triển một thiết bị dạng tấm,
được biết đến như là bộ phát nano
ferroelectret hoặc FENG, hoạt động như loa
và micro và có thể tạo ra năng lượng từ
chuyển động của con người, chẳng hạn như
vuốt ngón tay trên màn hình.
Tác giả nghiên cứu, Nelson Sepulveda
– Giáo sư về kỹ thuật điện và máy tính tại Đại
học bang Michigan, cho biết: "Đây là thiết bị
mà bạn có thể cuộn lên và bỏ vào túi và khi đi
đâu đó có thể mở ra và đặt nó lên màn hình
hoặc cửa sổ hoặc bất kỳ nền tảng nào, sau đó
sử dụng nó như một microphone và loa”.
Cuối tháng 12/2016, Nelson Sepulveda và
nhóm của ông đã giới thiệu chi tiết các thành
phần chính của thiết bị này trên tạp chí Nano
4
Energy. Vào thời điểm đó, các nhà nghiên
cứu cho thấy màng mỏng có khả năng phát ra
điện từ chuyển động. Nó có thêm lợi ích làm
tăng điện áp theo cấp số nhân mỗi khi nó
được xếp lại.
Nghiên cứu mới nhất này dựa trên khả
năng đó. Thiết bị này hoạt động như
microphone, thu nhịp rung trong không khí
(nói cách khác là sóng âm) và chuyển chúng
thành năng lượng điện. Ví dụ, nó biến tín hiệu
điệnthành những nhịp rung mà mọi người có
thể nghe như âm thanh. Trong một vài thí
nghiệm khác nhau, các nhà khoa học đã cho
thấy nó hoạt động như thế nào. Họ đã nhúng
thiết bị FENG vào lá cờ của trường Đại học
Spartan và sau đó mở bài hát của Trường
thông qua nó. Họ cho thấy nó có thể hoạt
động như một phần của một hệ thống nhận
dạng giọng nói để xác thực quyền truy cập
vào máy tính.
Sepulveda cho biết: Tính chính xác và
chất lượng của việc nhận biết âm thanh là đủ
cao để nhận ra những âm thanh và các thành
phần tần số trong tiếng nói của cá nhân. Tính
năng của thiết bị microphone hoạt động tương
tự như micro tốt nhất hiện có trên thị trường.
Chúng dựa vào các thành phần tinh thể, được
gọi bộ chuyển đổi điện áp, thu âm và chuyển
nó thành các tín hiệu điện mà máy tính có thể
biến thành âm thanh. Điện áp hoạt động theo
cách này một phần vì cấu trúc nguyên tử, có
chứa các cặp điện tích dương và âm, gọi là
lưỡng cực. Khi sóng âm nảy lên khỏi tinh thể,
chúng tạo ra các điện tích dương và âm để
thẳng hàng và lệch, sau đó tạo ra tín hiệu.
Nelson Sepulveda và các đồng nghiệp của
ông có thể bắt chước cấu trúc này trong thiết
bị FENG nhưng với các lưỡng cực lớn hơn
nhiều. Thiết bị này được tạo ra bằng các lớp
chất rất thân thiện với môi trường, bao gồm
bạc, polyimide và ferroelectret
polypropylene. Các hạt điện tích dương và âm
được thêm vào các lớp, được xếp chồng lên
nhau theo một cách không đều. Các nhà
nghiên cứu cho biết sự không đồng đều tạo ra
những túi khí cực nhỏ giữa các lớp tương tự
như lưỡng cực trong các tinh thể áp điện. Khi
sóng âm nảy lên khỏi túi không khí, chúng
nén các lưỡng cực rỗng, làm cho các điện tích
dương và âm nghiêng và lệch.
Nelson Sepulveda kết luận: "Chúng tôi
đang tạo ra sản lượng điện tương tự như
những chiếc micro rất đắt tiền sử dụng các
tinh thể giòn. Điều ngược lại cũng đúng. Tín
hiệu điện được gửi qua thiết bị có thể mang
đến nhịp rung tạo ra âm thanh. Một ứng dụng
tiềm năng khác, đó là thiết bị hủy bỏ tiếng ồn.
Ví dụ, một người có thể gắn phim trên cửa sổ,
nơi nó có thể thu tiếng ồn ở trên phố và xem
các sóng âm đối diện để làm giảm tiếng ồn.
Thực tế có rất nhiều ý tưởng,và chúng ta
đang tiếp tục nghiên cứu về công nghệ và học
các mẹo của nó hàng ngày”.
Theo vista.gov.vn, 25/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Vải sinh học có chứa vi khuẩn cho quần áo thể thao tự làm mát
Quần áo phòng tập thể dục thường
được làm để thoáng khí, nhưng nay một nhóm
nghiên cứu tại MIT đã phát triển một chất liệu
mới để làm cho quần áo thể thao thực sự có
khả năng làm mát. Bộ trang phục này được tạo
ra từ "vải sinh học" sống có chứa tế bào vi
khuẩn, tự động mở nắp trong áo khi vi khuẩn
cảm nhận thấy nhiệt và mồ hôi.
Trước đây đã có áo lót thể thao và áo
khoác trượt tuyết mở lỗ thoát hơi như vậy,
nhưng trong những trường hợp đó, bộ não của
hoạt động này là bộ vi xử lý. Nghiên cứu mới
của MIT đã khai thác được khả năng cảm nhận
độ ẩm của các tế bào E.coli không gây bệnh và
để làm cho chúng dễ được nhìn thấy hơn, họ
cũng đã thiết kế để các tế bào phát huỳnh
quang khi chúng cảm nhận được độ ẩm.
Để tạo ra vải sinh học, các nhà nghiên
cứu "in" các dòng E. coli lên các tấm nhựa
mủ, gắn chúng vào một lớp thứ hai không có
vi khuẩn và kiểm tra các phản ứng của vật
5
liệu đối với độ ẩm trong phòng thí nghiệm.
Các đoạn vi khuẩn được in khi được nung
nóng trên một đĩa hâm sẽ cong lên và mở ra
các khe ở lớp trên và khi tiếp xúc với hơi, các
tế bào sẽ làm ngược lại, kéo giãn và làm
phẳng các nắp.
Sau đó, nhóm đã làm ra một chiếc áo
tập chạy từ vật liệu trên, với những cái nắp
được kiểm soát bởi tế bào trên khắp lưng.
Lớp hỗ trợ bên dưới giữ cho các vi khuẩn
không tiếp xúc với da của người mặc, trong
khi vẫn cho phép chúng cảm nhận được độ
ẩm toát ra. Để xác định xem mỗi cái nắp cần
độ lớn và độ rộng nên mở ra như thế nào,
nhóm sử dụng các bản đồ hiện có về những
bộ phận cơ thể tạo ra nhiệt và mồ hôi - hai chỉ
số khác nhau nhưng có liên quan.
"Mọi người có thể nghĩ rằng nhiệt và
mồ hôi là như nhau, nhưng trên thực tế, một
số khu vực như xương sống dưới toát ra nhiều
mồ hôi nhưng không nhiều nhiệt," Lining
Yao, đồng tác giả của nghiên cứu cho biết.
"Chúng tôi đã thiết kế lại trang phục bằng
cách sử dụng sự kết hợp giữa bản đồ nhiệt và
mồ hôi, ví dụ như làm cho những chiếc nắp
lớn hơn ở nơi cơ thể tạo ra nhiều nhiệt hơn."
Để thử nghiệm quần áo, các nhà
nghiên cứu đã cho các tình nguyện viên sử
dụng máy chạy bộ và đạp xe trong khi họ
theo dõi nhiệt độ và độ ẩm của da. Nắp đậy
bắt đầu mở sau khoảng năm phút, tương quan
với thời gian người tập bắt đầu cảm thấy hơi
nóng người. So với những bộ quần áo không
có nắp, các cảm biến cho thấy vải sinh học
mới đã làm tốt trong việc loại bỏ mồ hôi và
làm mát cho người mặc.
Nhóm nghiên cứu cũng đã thử nghiệm
việc đưa vật liệu này vào lót giày để loại bỏ
hơi nước và hơi nóng, điều này cũng có thể
làm giảm nguy cơ mắc các bệnh như mụn
cóc. Trong tương lai, nhóm nói rằng họ sẽ
nghiên cứu việc làm rèm cửa, bao bì và tấm
trải giường phản ứng với độ ẩm, cũng như
thiết kế các tế bào để giúp đỡ trong những
việc khác.
Wen Wang, tác giả chính của bài báo,
nói: "Chúng ta có thể kết hợp tế bào của mình
với các công cụ di truyền để đưa các chức
năng khác vào trong các tế bào sống này.
Chúng tôi sử dụng huỳnh quang như một ví
dụ, và nó có thể cho mọi người biết bạn đang
chạy trong bóng tối.Trong tương lai chúng ta
có thể kết hợp các chức năng thoát mùi bằng
kỹ thuật di truyền để có thể sau khi tập thể
dục, chiếc áo sẽ không có mùi hôi."
Theo vista.gov.vn, 26/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật tạo thành bề mặt cảm ứng trên đồ đạc
Chỉ với một bình phun sơn, các nhà
nghiên cứu Mỹ có thể tạo ra các bề mặt cảm
ứng như điện thoại thông minh trên tường hay
bàn ghế.
Các nhà khoa học tại Đại học Carnegie
Mellon ở thành phố Pittsburgh,
bang Pennsylvania, Mỹ vừa giới thiệu kỹ
thuật Electrick có khả năng tạo ra bề mặt cảm
ứng trên nội thất, nhạc cụ chỉ bằng cách phun
sơn, theo Livescience.
Điều kiện để tạo ra các bề mặt cảm
ứng là các vật thể phải được làm từ chất liệu
dẫn điện hoặc được phủ một lớp dẫn điện. Kỹ
thuật Electrick sử dụng các điện cực gắn vào
vật thể để xác định nơi xảy ra điểm chạm. Dù
không chính xác như công nghệ cảm ứng của
điện thoại thông minh, các bề mặt cảm ứng tự
chế vẫn cho phép các nhà nghiên cứu thực
hiện các lệnh cơ bản.
"Công nghệ này rất giống với cách các
màn hình cảm ứng hoạt động", Yang Zhang,
nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Viện Tương tác
Máy tính - Con người của Đại học Carnegie
Mellon, giải thích. "Một phần dòng điện sẽ
được truyền xuống đất khi ngón tay người
chạm vào một trường điện. Bằng cách tìm
6
điểm diễn ra sự truyền dẫn, chúng tôi có thể
tìm ra nơi người dùng chạm vào bề mặt".
"Mục tiêu của công nghệ này là có thể
biến mọi thứ thành cảm biến chạm", Zhang
nói. "Công nghệ chạm đã và đang rất thành
công. Đây là một cách đơn giản để tương tác
với tài nguyên máy tính". Zhang cho biết các
bề mặt sử dụng kỹ thuật Electrick rất bền và
có thể được bảo vệ bằng một lớp phủ.
Màn hình cảm ứng của điện thoại
thông minh làm từ các chất liệu đắt tiền, sử
dụng những kỹ thuật phức tạp và tốn
kém. Theo các nhà nghiên cứu, giải pháp ít
tốn kém Electrick có thể được sử dụng cho
các mục đích giáo dục, giải trí hay thương
mại khác.
Theo vnexpress.net, 30/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Điều trị thành công bằng kỹ thuật cấy ghép thận cho mười bệnh nhân
bị nhiễm vi rút viêm gan C (HCV)
Trong một báo cáo kết quả nghiên cứu
được đăng tải trên Tạp chí Y học New
England, các chuyên gia y tế đến từ Trường Y
khoa Perelman thuộc Đại học Pennsylvania,
Hoa Kỳ cho biết họ đã điều trị thành công
bằng kỹ thuật cấy ghép thận cho mười bệnh
nhân bị nhiễm vi rút viêm gan C (HCV).
Nguồn tạng hiến đến từ những người đã chết
và đặc biệt là họ cũng bị nhiễm HCV khi còn
sống. Phát hiện này góp phần đem lại những
hy vọng mới trong nỗ lực nhằm tăng cường
nguồn cung cấp tạng cho hơn 97.000 bệnh
nhân vốn đã và đang chờ đợi trong nhiều năm
(thường là từ 5 năm trở lên) để được ghép
thận.
Trước đó, vào năm 2016, một nhóm
nghiên cứu tại Bệnh viện Penn Medicine,
trường Đại học Pennsylvania đã thực hiện
một thử nghiệm lâm sàng mang tính sáng tạo
nhằm nghiên cứu vai trò và ảnh hưởng của kỹ
thuật cấy ghép tạng từ những người hiến tặng
bị nhiễm HCV đối với cơ thể hai nhóm bệnh
nhân: nhóm không nhiễm vi rút và nhóm lựa
chọn nhận tạng hiến là những cơ quan nội
tạng khác ngoài thận. Những bệnh nhân tham
gia thử nghiệm sau đó được điều trị bằng một
loại thuốc kháng vi rút. David S. Goldberg -
trợ lý giáo sư Y khoa và Dịch tễ học tại
Trường Y khoa Perelman đã giới thiệu và
trình bày về cơ sở dữ liệu ban đầu của nghiên
cứu này tại Hội nghị Kỹ thuật Cấy ghép Hoa
Kỳ năm 2017 ở Chicago.
Goldberg cho biết: "Chúng tôi hy vọng
rằng, nếu thành công, chúng ta hoàn toàn có
khả năng cung cấp một nguồn hiến tạng phủ
để đáp ứng nhu cầu ghép thận của hàng trăm
bệnh nhân vốn đang mong chờ cơ hội được
chữa khỏi bệnh. Thông thường, thận của
những người bị viêm gan C thường bị cắt bỏ
sau khi họ chết do cơ quan này bị cho là đã
hỏng hoặc mang lại nguy cơ cơ thể đào thải
thận ghép cao. Nghiên cứu lâm sàng ban đầu
của chúng tôi cho thấy một con số đáng kể
bệnh nhân đã được điều trị thành công sau
phẫu thuật cấy ghép tạng. Nếu các nghiên
cứu trong tương lai được thực hiện thành
công, phương pháp mới hoàn toàn có thể trở
thành một lựa chọn, giải pháp khả thi, đem
lại cơ hội được cứu sống cho lượng lớn bệnh
nhân đang chờ ghép tạng".
Goldberg - đồng tác giả nghiên cứu
với bác sĩ Peter Reese - trợ lý giáo sư về Y
học và Dịch tễ học tại Penn đồng thời là Chủ
tịch Ủy ban Mạng lưới liên kết chia sẻ nội
tạng Hoa Kỳ (UNOS), đã tiếp cận và lên danh
sách những bệnh nhân chạy thận nhân tạo vì
lý do chức năng thận của họ không còn hoạt
động. Những đối tượng có tên trong danh
7
sách này thuộc độ tuổi từ 40 đến 65 và họ đã
phải chờ đợi trong ít nhất là một năm rưỡi để
được ghép tạng. Một quy trình về giáo dục
nhận thức và thỏa thuận bao gồm ba bước
được phổ biến và cung cấp cho người bệnh
cũng như đại diện gia đình của họ trong
trường hợp xảy ra rủi ro. Sau đó, các nhà
nghiên cứu tiến hành xét nghiệm xác định
genotype HCV nhằm chọn lọc nguồn thận
hiến có "chất lượng cao" trước khi bắt đầu
quá trình điều trị đặc hiệu.
Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu,
cho đến nay đã có 10 bệnh nhân được thực
hiện ghép tạng. Trung bình, một bệnh nhân sẽ
được ghép tạng sau 58 ngày kể từ khi đăng ký
danh sách tham gia thử nghiệm. Có những
người chỉ mất 11 ngày chờ đợi trong khi
nhiều người phải chờ đợi đến hơn 100 ngày
mới được thực hiện cấy ghép thận. Ba ngày
sau phẫu thuật, bệnh nhân được yêu cầu thực
hiện kiểm tra, xét nghiệm viêm gan C. Kết
quả là có 10 trường hợp bệnh nhân được kết
luận dương tính với vi rút Hepatitis C. Vì vậy,
số bệnh nhân này được các chuyên gia y tế
chỉ định điều trị bằng một loại thuốc mới
được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận có tên gọi là
Zepatier (elbasvir/grazoprevir), hiệu quả
trong điều trị nhiễm virus viêm gan C mạn
tính. Báo cáo nghiên cứu cho thấy, sau đợt
điều trị bằng thuốc, 10 bệnh nhân trên đã
được điều trị thành công.
Reese cho biết: "Các triệu chứng của
bệnh viêm gan siêu vi C thường biểu hiện
muộn hoặc biểu hiện không rõ ràng, khiến
cho người bệnh rất khó nhận biết. Có một
điều hết sức thú vị là số bệnh nhân tham gia
nghiên cứu của chúng tôi đã tự nguyện đăng
ký nhận tạng hiến mặc dù họ lường trước
được khả năng họ sẽ bị nhiễm viêm gan C
vĩnh viễn. Trong quá trình nghiên cứu, chúng
tôi ý thức được rằng có thể một số hay thậm
chí là tất cả số bệnh nhân được thực hiện cấy
ghép thận có nguy cơ mắc bệnh viêm gan C
và nếu điều đó xảy ra, suốt quãng đời còn lại
của họ sẽ gắn với căn bệnh nguy hiểm này".
Sau những kết quả tích cực ban đầu,
nhóm nghiên cứu đã nâng tổng số bệnh nhân
được thực hiện cấy ghép thận thành công lên
20 người.
Các nhà nghiên cứu cho biết họ đang
lên kế hoạch thực hiện bước tiếp theo là tiến
hành một thử nghiệm lâm sàng trên nhóm
bệnh nhân có nhu cầu ghép tim và trong
tương lai sẽ là nghiên cứu mức độ hiệu quả
của kỹ thuật cấy ghép gan và phổi. Họ cũng
lưu ý rằng cần thiết phải thực hiện nhiều
nghiên cứu sâu rộng hơn nhằm tiếp tục đánh
giá ảnh hưởng của biện pháp cấy ghép tạng từ
những người có kháng thể HCV dương tính
vào cơ thể có kháng thể HCV âm tính và tiếp
theo đó là nghiên cứu quá trình điều trị kháng
vi rút ở quy mô lớn hơn.
Theo vista.gov.vn, 10/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công vắcxin phòng bệnh amip sau 20 năm nghiên cứu
Đơn bào Entamoeba histolytica. (Nguồn: wikipedia.org)
Sau 20 năm nghiên cứu, nhóm các nhà
khoa học thuộc trường Đại học tự trị
Aguascalientes Mexico (UAA) đã điều chế
thành công một loại vắcxin tái tổ hợp có khả
năng tăng cường hệ miễn dịch đối với đơn bào
Entomoeba histolytica, tác nhân gây bệnh do
amip.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
giáo sư Javier Ventura Juárez, một trong
8
những thành viên của nhóm nghiên cứu trên,
cho biết mặc dù amip chưa được coi là một
bệnh nguy hiểm, nhưng nó ảnh hưởng tới 40%
dân số thế giới, đặc biệt là người nghèo. Để
ngăn chặn căn bệnh này cần một loạt các cơ
chế bảo vệ như sử dụng nước sạch và chế độ
dinh dưỡng tốt.
Mặc dù cơ thể con người được bảo vệ
bởi hệ miễn dịch chống lại ký sinh trùng,
nhưng đơn bào Entomoeba histolytica vẫn rất
dễ thâm nhập. Entomoeba histolytica gây các
bệnh tiêu chảy và đau dạ dày. Nếu không phát
hiện sớm sẽ gây ra các biến chứng nguy hiểm.
Theo giáo sư Ventura Juárez, loại vắcxin
mới nói trên đã cho các kết quả tốt sau các thử
nghiệm tiền lâm sàng và có khả năng tiêu diệt
hoặc hạn chế sự phát triển của một số vi
khuẩn gây bệnh khác.
Vắcxin mới sẽ được tiến hành thử
nghiệm lâm sàng để đánh giá mức độ an toàn
sinh học, sau đó xin chứng chỉ của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) và bước tiếp theo là ứng
dụng trên cơ thể người.
Bệnh do amip là bệnh nhiễm đơn bào
Entamoeba histolytica, bệnh gây tổn thương
đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng và có
khả năng gây ra các ổ nhiễm trùng ở những cơ
quan khác nhau (gan, não...). Bệnh có xu
hướng kéo dài và mạn tính nếu không được
điều trị tích cực.
Khoảng 90% các trường hợp nhiễm
amip đều không có triệu chứng rõ rệt.
Theo vietnamplus.vn, 13/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát triển kính hiển vi mới
SiriusX - một công ty khởi nghiệp có
trụ sở ở Ai Len đang ở giai đoạn cuối cùng để
phát triển một kính hiển vi X-quang mới, dự
kiến sẽ chứng tỏ là một công cụ mạnh trong
cuộc chiến chống lại bệnh tật.
SXT-100 sử dụng nguồn ánh sáng cho
phép các nhà nghiên cứu làm sáng các tế bào
và các mẫu mô và tạo ra các hình ảnh 3D theo
cách chưa từng có trong phòng thí nghiệm.
Giám đốc điều hành Tony McEnroe,
một trong những đồng sáng lập SiriusXT, cho
biết: "Chúng tôi đang hướng tới một thị
trường toàn cầu là 1 tỷ Euro và đã xác định
được 3.000 tổ chức nghiên cứu trên toàn thế
giới có thể mua sản phẩm”.
Những người sử dụng tiềm năng SXT-
100 bao gồm các nhà nghiên cứu ung thư, các
nhà khoa học đang nghiên cứu các bệnh thoái
hóa - như các công ty Huntington, Alzheimer
và các công ty dược phẩm có thể sử dụng các
hình ảnh tế bào 3D có độ phân giải cao để
quan sát hiệu quả của thuốc.
McEnroe nhận định rằng kính hiển vi
này là duy nhất vì cách chiếu sáng tia X được
tạo ra. Ông giải thích thêm: "Nó tập trung một
tia laser mạnh vào một mục tiêu kim loại để
tạo ra một quả cầu lửa nhỏ nóng như ở trung
tâm của Mặt trời và nhỏ bằng 1/10 tóc người,
từ đó các tia X được giải phóng”.
McEnroe tin rằng công cụ nghiên cứu
này khi được sử dụng sẽ giúp tạo ra hình ảnh
phân giải cao của các tế bào sinh học, từ đó
giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về
nguyên nhân gây ra bệnh ung thư và các bệnh
khác và cũng sẽ giúp các công ty dược phẩm
tạo ra các liệu pháp chữa trị hiệu quả cho rất
nhiều loại bệnh
Theo vista.gov.vn, 17/05/2017
Trở về đầu trang
**************
9
Phương pháp kích điện giúp hồi sinh người sống thực vật
Sử dụng phương pháp kích điện, các
nhà nghiên cứu giúp những người hôn mê ở
trạng thái thực vật có thể giao tiếp suốt một
tuần liền.
Bệnh nhân được thử nghiệm công nghệ TDCS.
Ảnh: New Scientist.
Tiến sĩ Steven Laureys và các cộng sự
tại Đại học Liège, Bỉ vừa thành công trong
việc giúp các bệnh nhân hôn mê sâu ở trạng
thái sống thực vật có thể tỉnh lại và giao tiếp
trong nhiều ngày nhờ phương pháp kích thích
điện vào não, theo New Scientist.
Những người bị tổn thương não
nghiêm trọng thường rơi vào trạng thái hôn
mê. Họ sẽ rơi vào "tình trạng sống thực
vật" khi xuất hiện dấu hiệu hưng phấn thần
kinh nhưng không có nhận thức. Nếu người
bệnh thể hiện một số biểu hiện nhận thức
nhưng không thể giao tiếp thì được xếp vào
tình trạng "ý thức tối thiểu" (MCS).
Từ năm 2014, tiến sĩ Laureys đã tiến
hành các thí nghiệm dùng luồng điện nhẹ kích
thích não bộ các bệnh nhân bị hôn mê và thu
được kết quả khả quan, khi 13 người ở trạng
thái MCS và hai người sống thực vật thể hiện
dấu hiệu của ý thức như cử động tay hoặc
chớp mắt theo hiệu lệnh. Hai người trong số
đó thậm chí còn trả lời được các câu hỏi trong
2 giờ liền bằng cử động cơ thể, trước khi
chìm tiếp vào hôn mê.
Nhận thấy tiềm năng của phương pháp
này, tiến sĩ Laureys mới đây quyết định thực
hiện thí nghiệm mới trên 16 người bị tổn
thương não và đã bị hôn mê ít nhất ba tháng
trước đó.
Những người tham gia thử nghiệm
được kích thích bằng dòng điện xuyên não
(TDCS) 20 phút/ngày trong 5 ngày liên tiếp.
TDCS kích thích thẳng vào vỏ não trước trán,
khu vực liên quan tới các chức năng nhận
thức cao cấp như ý thức.
Sau ngày thứ 5, 9 trong số 16 người
tham gia cho thấy những cải thiện rõ rệt ý
thức với xung quanh. Họ có thể đáp ứng
mệnh lệnh, nhận dạng vật thể và tự vận động
trong ít nhất một tuần sau ngày kích thích não
cuối cùng.
Hai trong số những người tham gia
thậm chí còn có thể giao tiếp với người xung
quanh. Họ không thể nói bình thường, nhưng
đủ khả năng trả lời chính xác những câu hỏi
có - không bằng cách cử động lưỡi hoặc chân.
Nhóm nghiên cứu cho biết kết quả đủ
tốt để xem xét ứng dụng cho bệnh nhân điều
trị tại nhà. Thiết bị kích thích có giá thành
tương đối rẻ và dễ sử dụng. Tuy nhiên, vẫn
cần nhiều thử nghiệm trước khi phương pháp
này được áp dụng vào thực tế. Nhóm thử
nghiệm chưa phát hiện phản ứng phụ của
phương pháp, nhưng tính an toàn và hiệu quả
của thiết bị này vẫn cần kiểm chứng trong dài
hạn.
Theo vnexpress.net, 17/05/2017
Trở về đầu trang
**************
10
Kem chống nắng có tác dụng với tia cực tím khi tiếp xúc qua mồ hôi
Tập đoàn Pola Chemical Industries vừa
phát triển một loại kem chống nắng mới có
thể phản ứng với tia cực tím khi nó chạm vào
mồ hôi.Công nghệ mới này có thể được áp
dụng cho các loại kem chống nắng dạng sữa.
Tập đoàn Pola Chemical Industries sử dụng
bột silica hydrophob hóa của Công ty Nippon
Aerosil (Shinjyuku-ku, Tokyo) cho sản phẩm
kem chống nắng mới này. Bột silica
hydrophob hóa được tổng hợp bởi các ion có
trong mồ hôi.
Kem chống nắng thông thường đôi khi
mất hiệu quả tránh tia cực tím bởi hiện tượng
"tái nhũ hoá", do chất hoạt động ở bề mặt
(được chứa trong lớp bảo vệ) và mồ hôi được
trộn đều và có thể chảy được. Do đó, khi có
một lượng lớn mồ hôi, chúng thường không
thể chặn ánh sáng cực tím.
Mặt khác, loại kem chống nắng mới
không sử dụng chất hoạt động bề mặt; Do đó,
nó không dễ dàng nhũ hóa được và không
thấm nước. Hơn nữa, nó có thể hiệu quả hơn
về việc cắt giảm ánh sáng cực tím khi người
dùng đổ mồ hôi vì các ion chứa trong bột
tổng hợp mồ hôi và phân tán ánh sáng cực tím
trong lớp.
Khi có ảnh hưởng của chất mới được
kiểm tra bằng cách sử dụng chiếc đĩa được
thiết kế để đo, bột đã được tổng hợp trên bề
mặt của thành phần kiểm tra tia cực tím sau
khi chạm vào các ion có trong mồ hôi, làm
tăng độ dày của lớp. Ngoài ra, hiệu suất chiếu
tia cực tím của nó tăng 14% sau khi nó chạm
vào mồ hôi. Dựa trên kết quả, Tập đoàn Pola
Chemical Industries kết luận rằng chức năng
kiểm soát tia cực tím của chất này được tăng
cường khi nó chạm vào mồ hôi.
Các sản phẩm mới này sẽ được Tập
đoàn Orbis làm đại lý và được bán ra vào mùa
hè năm 2017.
Theo vista.gov.vn, 10/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Kem chống nắng mới chứa các hạt nano mô phỏng melanin
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học
California đã tạo ra loại kem chống nắng vừa
mô phỏng lại vừa tăng khả năng bảo vệ tự
nhiên của làn da.
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà hóa
học, nhà khoa học và kỹ sư nano, đã khai thác
các cơ chế bảo vệ của da bằng cách sử dụng
các hạt nano của dopamine oxy hóa. Thử
nghiệm cho thấy các hạt mô phỏng
melanosome - bào quan trong tế bào da, có
nhiệm vụ tổng hợp, lưu giữ và vận chuyển
melanin. Cách đây 2 năm, các nhà khoa học
lần đầu tiên đã tạo ra các hạt nano khi nghiên
cứu hành vi của melanin trong lông chim.
Nathan Gianneschi, giáo sư hóa sinh và
là đồng tác giả nghiên cứu cho biết nhóm
nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng các hạt
nano giống melanin tổng hợp sẽ mô phỏng
melanosome xuất hiện tự nhiên trong da và
được giữ lại bởi keratinocyte, tế bào chủ yếu
được tìm thấy trong lớp biểu bì của da.
Các nhà nghiên cứu tin rằng đột phá
của họ có thể mang lại phương pháp điều trị
bệnh bạch biến và bạch tạng phát sinh do
11
khiếm khuyết trong hệ thống sản sinh melanin
của cơ thể. Bệnh nhân mắc hai căn bệnh này
có nguy cơ ung thư da cao hơn.
Theo GS. Gianneschi, tình trạng phổ
biến của các bệnh liên do melanin gây ra và
mối quan tâm ngày càng lớn đến hiệu quả của
nhiều loại vật liệu polyme có liên quan đến
melanin thôi thúc nhóm nghiên cứu tìm hiếm
các con đường tổng hợp mới để tạo ra các vật
liệu giống như melanin.
Melanosome do tế bào melanocyte sản
sinh, có trong các lớp dưới của biểu bì. Các bào
quan cung cấp melanin cho keratinocyte, tế bào
da ở lớp trên của biểu bì. Ở đó, melanin hoạt
động để bảo vệ các tế bào da khỏi tia cực tím.
Trong các thử nghiệm tại lab sử dụng
phương pháp nuôi cấy mô, các nhà nghiên cứu
đã chứng tỏ các hạt nano được hấp thu và phân
phối trên khắp keratinocyte giống như melanin
tự nhiên. Các hạt nano còn bảo vệ tế bào da
khỏi bị tổn thương ADN do bức xạ cực tím.
Các nhà khoa học cho rằng: "Nhờ tính
đến những hạn chế trong quá trình điều trị các
bệnh liên quan đến khiếm khuyết melanin và
khả năng tương thích sinh học của các hạt
nano giống melanin tổng hợp về khả năng hấp
thu và suy giảm, các hệ thống này có tiềm
năng như melanosome nhân tạo trong việc
phát triển các phương pháp điều trị mới thông
qua bổ sung các chức năng sinh học của
melanin tự nhiên".
Theo vista.gov.vn, 23/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Chất keo tiết ra từ con trai có thể giảm sẹo trên da
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
Trường Đại học khoa học và công nghệ
Pohang Hàn Quốc đã phát triển được một ứng
dụng mới nhằm giảm sẹo trên da do chấn
thương gây ra. Trong báo cáo nghiên cứu
công bố trên Tạp chí Biomaterials, các nhà
khoa học đã mô tả việc tạo ra một chất giống
như keo và phương thức hoạt động của chất
keo này trên chuột.
Sẹo xuất hiện sau tai nạn hoặc phẫu
thuật trông vừa khó coi và vừa khó chịu. Vì lý
do đó, các nhà khoa học đã tìm cách để ngăn
chặn sự hình thành của sẹo. Nghiên cứu trước
đó đã chỉ ra rằng sẹo tạo thành vì da không có
khả năng dệt các sợi collagen trong một mô
hình khung mở rộng trên da do vết cắt hoặc
vết rách. Một chất đã được chứng minh có
hiệu quả làm giảm sẹo là decorin, loại protein
do da sản sinh một cách tự nhiên. Nhưng cho
đến nay, rất khó tổng hợp decorin trong
phòng thí nghiệm, do đó, decorin thường
không được sử dụng phổ biến. Trong nỗ lực
mới, các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học
khoa học và công nghệ Pohang đã tạo ra được
một phiên bản decorin đơn giản và kết hợp nó
với các thành phần khác để sản xuất chất keo
có khả năng lấp đầy khoảng trống trên vùng
da tổn thương.
Chất keo được tạo thành thông qua
việc trộn loại decorin đơn giản với một phân
tử liên kết collagen và sau đó làm cho nó có
khả năng kết dính bằng cách trộn với một
chất do con trai tiết ra. Kết quả cho ra đời một
chất keo có thể dùng trực tiếp cho vết thương.
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm
chất keo bằng cách cắt da của một vài con
chuột và bôi chất keo lên vùng tổn thương.
Sau đó, các nhà khoa học đã phủ lên vùng tổn
thương một màng chất dẻo trong suốt. Để so
sánh, nhóm nghiên cứu đã làm tương tự với
một nhóm chuột khác bằng cách phủ lên vết
thương màng dẻo cùng loại nhưng không có
keo. Sau đó, họ đã chụp ảnh các vết thương
và so sánh giữa 2 nhóm chuột. Kết quả cho
12
thấy vào ngày thứ 11, 99% vết thương của
chuột được xử lý bằng keo đã khép lại, trong
khi ở vết thương của chuột không được xử lý
bằng keo, tỷ lệ này chỉ là 78%. Vào ngày thứ
28, tất cả các vết thương ở cả hai nhóm chuột
đã lành lại, nhưng nhóm chuột được xử lý
bằng keo ít tạo thành sẹo hơn nhóm chuột còn
lại.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lưu ý
rằng da chuột khác da người, nên chưa xác
định được phương thức hoạt động của chất
keo này trên người. Nhóm nghiên cứu dự kiến
sẽ kiểm tra chất keo mới trên lợn có làn da
giống da người hơn.
Theo vista.gov.vn, 22/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật hiển vi mới giúp phát hiện và chẩn đoán u hắc tố di căn
Cuộc chiến chống ung thư da mới được
trang bị thêm một vũ khí mới. Trong nhiều
năm qua, các nhà nghiên cứu u hắc tố đã
nghiên cứu những mẫu vật được coi là đồng
nhất về kích thước và màu sắc, nên dễ dàng
xem xét chúng bằng các phương pháp thông
thường. Nhưng, u hắc tố thường không có hình
dạng và màu sắc giống nhau mà chúng không
đều và sẫm màu, gây khó khăn cho việc nghiên
cứu khối u. Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại
Trường Đại học Missouri đã phát minh ra một
công cụ mới để phát hiện và phân tích các tế
bào u hắc tố đơn lẻ biểu hiện rõ nét căn bệnh
ung thư da. Nghiên cứu mới được công bố trên
Tạp chí Analyst, đề cập đến các kỹ thuật mới
giúp chẩn đoán nhanh và hiệu quả căn bệnh
đang đe dọa tính mạng của con người.
Luis Polo-Parada, Phó giáo sư Y dược
và Sinh lý cho rằng: "Các nhà khoa học
thường tìm ra những loại tế bào ung thư có
bản chất đồng nhất và dễ quan sát bằng các
thiết bị hiển vi truyền thống. Tuy nhiên, vì
nhiều nghiên cứu được tiến hành trên một loại
tế bào, nên thường dẫn đến chẩn đoán sai
trong môi trường lâm sàng".
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã
bổ sung kỹ thuật mới được gọi là quang phổ
quang âm (photoacoustic spectroscopy) - kỹ
thuật quang học đặc biệt được áp dụng để
thăm dò các mô và tế bào theo hướng không
xâm lấn. Các hệ thống hiện nay sử dụng sự
hình thành của sóng âm sau khi có sự hấp thụ
của ánh sáng, nghĩa là các mô phải hấp thụ
đầy đủ ánh sáng laser. Đây là lý do cho đến
nay, các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào các
tế bào u ác tính hấp thụ ánh sáng mạnh.
Nhóm nghiên cứu đã điều chỉnh để
kính hiển vi có khả năng kết hợp các nguồn
ánh sáng ở phạm vi có lợi cho việc quan sát
chi tiết các tế bào u ác tính đơn lẻ. Sử dụng hệ
thống đã được điều chỉnh có thể chẩn đoán
một cách dễ dàng và hiệu quả u hắc tố và u vú
ác tính ở người cũng như các tế bào hắc tố ở
chuột. Các nhà khoa học cũng lưu ý rằng khi
các tế bào ung thư phân chia, màu sắc của
chúng sẽ nhạt hơn nhưng hệ thống vẫn có khả
năng phát hiện ra các tế bào mới và nhỏ hơn.
Theo PGS. Polo-Parada, nhờ có các kỹ
thuật đã điều chỉnh, nhóm nghiên cứu có thể
quan sát các tế bào ung thư không đồng nhất
bất chấp nguồn gốc của chúng. Ngoài ra, khi
các tế bào ác tính này phân chia và phân tán
trong máu, chúng có thể khiến u hắc tố di căn.
Nhóm nghiên cứu đã quan sát được các khối
ung thư đó. Phương pháp này có thể giúp các
bác sĩ và chuyên gia bệnh lý học phát hiện ung
thư khi chúng di căn, trở thành một trong các
công cụ trong cuộc chiến chống lại căn bệnh
chết người này.
Theo vista.gov.vn, 08/05/2017
Trở về đầu trang
**************
13
Phát minh áo lót giúp phát hiện sớm ung thư vú ở phụ nữ
Julián Ríos Cantú, một sinh viên 17
tuổi người Mexico, đã thiết kế ra một loại áo
lót cảm biến sinh học giúp phát hiện sớm bệnh
ung thư vú ở phụ nữ.
Nguồn: media.indiatimes.in
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
phát minh của Julián Ríos Cantú đã giành
chiến thắng trong Cuộc thi toàn cầu dành cho
các sinh viên khởi nghiệp (GSEA) vừa được
tổ chức tại Đức với giải thưởng trị giá 20.000
USD và theo đó, chàng sinh viên trẻ này cũng
được bình chọn là nhân vật khởi nghiệp xuất
sắc nhất thế giới.
Chiếc áo lót có tên gọi là Eva, được
thiết kế bao gồm một mạng lưới gồm 200 bộ
cảm biến sinh học nhỏ, có khả năng lập một
bản đồ bề mặt nhằm xác định độ dẫn nhiệt của
từng vùng da người mặc.
Khi Eva phát hiện ra nhiệt độ cao bất
thường tại một vùng nào đó có nghĩa là ở đó
đang chứa nhiều lưu lượng máu, điều này cho
thấy đang tồn tại một nhân tế bào được nuôi
dưỡng bởi các mạch máu và đó chính là tế bào
ung thư.
Cantú cho biết Eva giúp phụ nữ có thể
tự kiểm tra để sớm phát hiện bệnh thông qua
việc lấy và phân tích dữ liệu về nhiệt độ trên
da, sau đó gửi thông tin này về một thiết bị
hoặc máy tính bất kỳ. Để thực hiện tốt quá
trình phân tích, các bệnh nhân nên sử dụng
sản phẩm từ 60-90 phút mỗi tuần.
Nhờ hoạt động bằng những bộ cảm
biến, Eva không gây đau đớn nhiều cho bệnh
nhân như khi tiến hành quy trình chụp nhũ
ảnh - một kỹ thuật chụp X quang đặc biệt
dành cho tuyến vú thường được dùng trong hỗ
trợ chẩn đoán các bệnh lý tuyến vú ở phụ nữ.
Cách đây hơn 1 năm, Cantú đã bắt đầu
tiến hành dự án này, bắt nguồn từ tình thương
với mẹ mình, người từng suýt mất mạng vì
ung thư vú.
Với sáng kiến này, Julián Ríos Cantú
còn nhận giải thưởng Everis Mexico trị giá
52.631 USD dành cho những người khởi
nghiệp với các dự án có tác động xã hội cao
dựa trên sự sáng tạo và công nghệ nhằm thúc
đẩy phát triển đất nước.
Theo vietnamplus.vn, 10/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Kỹ thuật chụp ảnh mới đảm bảo loại bỏ hoàn toàn khối u ung thư
Trong số một phần tư triệu phụ nữ
được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi
năm ở Hoa Kỳ, khoảng 180.000 người phải
trải qua phẫu thuật để cắt mô ung thư trong
khi vẫn bảo tồn nhiều mô khỏe mạnh. Tuy
nhiên, chưa có phương pháp nào khẳng định
toàn bộ mô ung thư đã được loại bỏ thành
công trong quá trình phẫu thuật. Phân tích
theo tiêu chuẩn vàng phải mất ít nhất 1 ngày,
thời gian này quá dài để bác sỹ phẫu thuật có
thể chờ trước khi khép lại một ca mổ. Kết quả
là khoảng một phần tư số phụ nữ đã trải qua
phẫu thuật cắt u vú, lại phải phẫu thuật lần hai
vì một phần khối u vẫn còn sót lại.
14
Nhưng, giờ đây, các nhà nghiên cứu tại
Trường Y thuộc Đại học Washington và Viện
Công nghệ California đã phát triển được công
nghệ quét mẫu u và cung cấp những hình ảnh
chi tiết với độ chính xác đủ để kiểm tra xem
một khối u đã được loại bỏ hoàn toàn hay
chưa.
Công nghệ mới được gọi là chụp ảnh
quang âm, mất ít thời gian hơn so với các kỹ
thuật phân tích thông thường. Nhưng cần thực
hiện thêm nghiên cứu trước khi công nghệ có
tốc độ đủ nhanh để được sử dụng trong phẫu
thuật. Nghiên cứu đã được công bố vào ngày
17/5 trên tạp Science Advances.
Deborah Novack, phó giáo sư y học và là
đồng tác giả nghiên cứu cho biết: "Đây là ý
tưởng cho thấy chúng tôi có thể sử dụng kỹ
thuật chụp ảnh quang âm trên mô vú và thu
được những hình ảnh giống như bằng các
phương pháp nhuộm truyền thống mà không
cần xử lý mô”.
Các nhà khoa học đang nghiên cứu để
giảm thời gian quét mẫu xuống còn gần 10
phút, đủ nhanh để được sử dụng trong phẫu
thuật. Phương pháp phân tích tiêu chuẩn vàng
hiện nay dựa vào việc bảo tồn mô và sau đó
nhuộm mô để dễ dàng quan sát các tế bào,
không nhanh hơn vì nó được phát triển lần
đầu tiên vào giữa thế kỷ 20.
Đối với những khối u rắn trong hầu hết
các bộ phận của cơ thể, bác sĩ sẽ phải sử dụng
kỹ thuật cắt lạnh để kiểm tra nhanh khối u cần
cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật. Họ xác định
đường viền mỏng của tế bào bình thường
xung quanh khối u. Những tế bào ác tính nằm
ở rìa cho thấy các bác sĩ phẫu thuật đã bỏ qua
một phần khối u, làm tăng cơ hội tái phát
bệnh. Tuy nhiên, kỹ thuật cắt lạnh không hoạt
động tốt trên các mẫu mỡ như từ vú, vì vậy,
bác sĩ phẫu thuật cần phải hoàn thành thủ
thuật cắt u vú mà không biết chắc chắn về
mức độ thành công.
Hiện nay, sau khi phẫu thuật, mẫu vật
được gửi đến nhà nghiên cứu bệnh học để cắt
lát mẫu, nhuộm và kiểm tra rìa của các tế bào
ác tính dưới kính hiển vi. Kết quả được gửi
lại cho bác sĩ phẫu thuật trong vòng một vài
ngày. Để tăng tốc quá trình này, các nhà
nghiên cứu đã sử dụng một hiện tượng gọi là
hiệu ứng quang âm. Khi chùm ánh sáng của
bước sóng phù hợp tác động đến một phân tử,
một phần năng lượng được hấp thụ và sau đó
giải phóng dưới dạng âm thanh trong phạm vi
sóng siêu âm. Các sóng âm đó có thể được
phát hiện và sử dụng để tạo ra một hình ảnh.
Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra kỹ thuật mới
bằng cách quét các lát khối u cắt từ ba bệnh
nhân ung thư vú. Để so sánh, họ đã nhuộm
mẫu theo quy trình tiêu chuẩn. Hình ảnh
quang âm có tất cả các đặc trưng chính phù
hợp với các mẫu đã nhuộm. Cấu trúc mô và
các chi tiết dưới tế bào như kích thước của hạt
nhân rõ nét.
PGS. Novack cho rằng: "Đó là mô
hình của các tế bào - mô hình tăng trưởng,
kích thước và mối quan hệ của chúng với tế
bào khác - cho chúng tôi biết đây là mô
thường hay mô ác tính. Nhìn chung, những
hình ảnh quang âm có nhiều đặc trưng tương
tự như hình ảnh chúng ta nhìn thấy với
phương pháp nhuộm tiêu chuẩn, có nghĩa là
chúng ta có thể sử dụng cùng một tiêu chuẩn
để giải thích các hình ảnh quang âm. Chúng
tôi không cần phải đưa ra tiêu chí mới".
Sau khi xác định kỹ thuật quang âm
tạo ra hình ảnh có thể sử dụng được, các nhà
khoa học đang nghiên cứu để giảm thời gian
quét. TS. Lihong Wang, đồng tác giả nghiên
cứu cho rằng: "Chúng tôi hy vọng có thể đẩy
nhanh quá trình này. Trong nghiên cứu,
chúng tôi chỉ có một kênh duy nhất phát xạ
ánh sáng. Nếu bạn có nhiều kênh, bạn có thể
quét song song và làm giảm thời gian chụp
ảnh. Một cách khác để tăng tốc độ là bắn tia
laser nhanh. Mỗi xung laser mang lại cho
bạn một điểm dữ liệu. Xung laser nhanh đồng
nghĩa với việc thu thập dữ liệu nhanh hơn”.
Theo vnexpress.net, 22/05/2017
Trở về đầu trang
**************
15
Bong bóng siêu nhỏ giúp làm lành tổn thương xương ở lợn
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một
phương pháp thay thế rất cần thiết cho ghép
xương, giúp giảm bớt thời gian nằm viện,
mức độ tàn tật và chi phí đáng kể cho hệ
thống y tế với các chấn thương có sự nứt gãy
không lành.
Có khoảng 100.000 ca gãy xương mỗi
năm tại Hoa Kỳ không chữa hẳn được, dẫn
đến các vết nứt gãy xương không lành, và
hơn 2 triệu ca ghép xương được thực hiện
trên khắp thế giới hàng năm trong nỗ lực để
điều trị những thương tích khó khăn này.
Tuy nhiên, việc lấy mẫu xương sống từ
bệnh nhân thường rất đau đớn và các mẫu
xương hiến tặng từ các ngân hàng mô thường
không tích hợp được. Hiện nay, các nhà khoa
học đã đưa ra phương pháp trị liệu hai bước
cùng với sóng siêu âm và bong bóng siêu nhỏ
đã được FDA chấp thuận, làm lành hoàn toàn
các vết nứt không lành ở lợn trong vòng 8
tuần điều trị.
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã đặt
một khung collagen tại vị trí gãy nứt để tạo ra
một hốc cho các tế bào tiền thân của xương
lấp vào. Tiếp theo, họ tiêm các bong bóng
siêu nhỏ lẫn với vật liệu di truyền để làm yếu
tố tăng trưởng xương. Các xung âm thanh từ
một cây đũa siêu âm thúc đẩy sự hấp thu của
ADN nhân tố tăng trưởng bởi các tế bào tiền
thân, kích thích sự phát triển của xương.
Không giống các liệu pháp gien khác
dựa vào các vec tơ virus để phân phối các tế
bào, dễ gặp rủi ro vì vi rút có thể tích hợp
vĩnh viễn vào bộ gien và sau đó thúc đẩy ung
thư hoặc gây ra phản ứng miễn dịch gây chết
người, sóng siêu âm và bong bóng siêu nhỏ
không gây ra viêm nhiễm, các biểu hiện của
gien được đưa vào không phát hiện thấy sau
10 ngày.
Kỹ thuật này đã được chứng minh là
tối thiểu sự xâm lấn, an toàn và thúc đẩy việc
phục hồi xương tổng thể, với cường độ tương
đương với các quy trình ghép xương chuẩn
vàng. Các nhà nghiên cứu cho biết khi được
phát triển hơn nữa, hệ thống của họ có tiềm
năng được sử dụng trong nhiều ứng dụng kỹ
thuật mô khác nhau.
Theo vnreview.vn, 26/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Sáng chế ôtô đồ chơi hỗ trợ vận động ở trẻ khuyết tật
(Nguồn: ohsu.edu)
Các nhà nghiên cứu trường Đại học
Oregon (OSU) của Mỹ vừa hoàn thiện 2 mẫu
thiết kế ôtô đồ chơi mới được cải tiến dành
riêng cho trẻ khuyết tật, nhằm khuyến khích
các em khám phá, vui chơi cũng như tham gia
các hoạt động thể chất và xã hội.
Trong tuyên bố ngày 24/5, OSU nhấn
mạnh, với việc nhận thấy khả năng di chuyển
độc lập có liên hệ với rất nhiều lợi ích phát
triển ở trẻ nhỏ, trường USU đã phát triển 2
mẫu thiết kế dựa theo chương trình "Go Baby
Go," trong đó cung cấp các mẫu ôtô đồ chơi
cải tiến có thể cầm lái dành cho trẻ khuyết tật,
giúp các em có thể tự di chuyển độc lập.
Thông qua mẫu thiết kế thứ nhất cải
tiến từ sản phẩm ôtô đồ chơi nguyên bản "Go
16
Baby Go," các nhà nghiên cứu đã thiết kế
"chiếc xe đứng-ngồi" nhằm khuyến khích trẻ
đứng lên để có thể kích hoạt bộ phận chuyển
đổi giúp xe di chuyển.
Một cách khái quát, sản phẩm này
nhắm đến mục tiêu tạo kỹ năng vật lý để trẻ
có thể tự đứng bật dậy, chịu được sức nặng và
giữ được thăng bằng, cũng như tăng cường
khả năng tương tác với bạn bè cùng lứa.
Trong khi đó, với mẫu thiết kế thứ 2
mang tên "Throw Baby Throw," sử dụng một
máy bắn đồ chơi để bắn ra các bong bóng
nước, nhóm nghiên cứu hướng tới việc rèn
cho các trẻ nhỏ bị hạn chế khả năng cử động ở
cánh tay vẫn có thể cùng tham gia ném bóng,
một kỹ năng vận động căn bản, trong khi cũng
giúp các bé dễ dàng hòa nhập xã hội.
Chủ nhiệm chương trình "Go Baby
Go," Sam Logan nhấn mạnh cả hai mẫu ôtô
nêu trên đều được thiết kế nhằm khuyến khích
khả năng di chuyển và tương tác xã hội với trẻ
khuyết tật, 2 kỹ năng phát triển vô cùng quan
trọng đối với tất cả các trẻ nhỏ.
Các chuyên gia nhận định việc sử dụng
2 sản phẩm này không phải là biện pháp quá
tốn kém để giúp các bé đang trong giai đoạn
mới biết đi có thể khắc phục các vấn đề về
khả năng di chuyển.
Theo vietnamplus.vn, 25/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thành công thuốc diệt nấm sinh học chống bệnh thán thư
Ảnh minh họa. (Nguồn: cadenanoticias.mx)
Các nhà khoa học của trường Đại học tự
trị quốc gia Mexico (UNAM) đã nghiên cứu
thành công và đăng ký bằng sáng chế một loại
thuốc diệt nấm sinh học có khả năng phòng
ngừa bệnh thán thư gây hại cho cây trồng.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
chuyên gia Leobardo Serano Carreón thuộc
nhóm nghiên cứu trên, cho biết thuốc diệt nấm
Fungifree AB® được bào chế từ một loại vi
khuẩn tách ra từ tán lá cây xoài, hoàn toàn
không có độc tính và có thể dùng thay thế các
loại hóa chất tổng hợp thường được sử dụng
trong nông nghiệp.
Fungifree AB® có khả năng phòng
chống các loại sâu bệnh cũng như giúp cây
trồng tự bảo vệ và phát triển.
Loại thuốc này đã được tiến hành thử
nghiệm nhiều lần với nhiều cách khác nhau
trên nhiều loại cây ăn quả và kết quả rất hữu
hiệu.
Fungifree AB® có thế sử dụng cho 20
loại cây ăn quả như xoài, bơ, đu đủ, cam,
chanh, bưởi và quýt...
Loại thuốc này cũng đang được nghiên
cứu sử dụng để phòng bệnh nấm ở cây cà phê.
Ngoài dự án này, các nhà khoa học của
UNAM cũng đang tiến hành nghiên cứu kỹ
thuật phân tích hình ảnh nhằm đánh giá tác hại
của bệnh thán thư trên cây xoài, giúp xác định
dễ dàng hơn diện tích cây trái bị ảnh hưởng
bởi bệnh này.
Bệnh thán thư là bệnh nguy hiểm nhất
trên cây xoài gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sinh trưởng của cây và năng suất trái.
Bệnh do nấm Colletotrichum
gloeosporioides gây ra, nấm bệnh phá hại trên
cả lá, cành, chồi non và quả non.
Theo vietnamplus.vn, 04/05/2017
Trở về đầu trang
**************
17
Chất xúc tác mới tách nước
Hydro là một trong những nhiên liệu
sạch triển vọng nhất được sử dụng trong xe
hơi, máy phát điện di động và tại hộ gia đình.
Khi được sản xuất từ nước nhờ sự hỗ trợ của
các nguồn năng lượng tái tạo, hydro sẽ trở
thành nhiên liệu bền vững không thải khí
cacbon.
Tuy nhiên, các hệ thống tách nước cần
có chất xúc tác hiệu quả để tăng tốc độ phản
ứng hóa học tách nước thành hydro và oxy,
trong khi lại ngăn chặn các chất khí tái kết
hợp với nước. Giờ đây, một nhóm nghiên cứu
quốc tế trong đó có các nhà khoa học tại
Phòng thí nghiệm gia tốc quốc gia SLAC
thuộc Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đã tạo ra một
chất xúc tác mới với lớp phủ molypden có khả
năng ngăn chặn phản ứng ngược và hoạt động
trong các điều kiện thực tế. Chất xúc tác này
được chứng minh có nhiều ứng dụng trong
các thiết bị xúc tác điện và quang xúc tác để
thúc đẩy phản ứng bằng cách sử dụng điện
hoặc ánh sáng.
Tìm kiếm sự ổn định
Garcia-Esparza, trưởng nhóm nghiên
cứu đã phát triển chất xúc tác mới khi còn là
nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Khoa học
và Công nghệ King Abdullah (KAUST) ở Ả
Rập Xê-út dưới sự chỉ đạo của PGS. Kazuhiro
Takanabe. Nhóm nghiên cứu PGS. Takanabe
đã phát hiện ra độ ổn định, hiệu quả và chức
năng của nhiều nguyên tố khác nhau trước khi
chọn molypden làm lớp phủ cho chất xúc tác
bạch kim tiêu chuẩn.
Dimosthenis Sokaras, đồng tác giả
nghiên cứu cho rằng: "Việc tìm kiếm một lớp
phủ hoạt động tốt trong chất điện phân axit
dùng để tách nước, là thách thức lớn đối, bởi
nhiều vật liệu bị hỏng nhanh trong điều kiện
môi trường axit. Trong số các lớp phủ được
thử nghiệm, molypden hoạt động hiệu quả
nhất trong môi trường axit, nơi có các điều
kiện thuận lợi và dễ dàng cho sự phát triển
của hydro”.
Thử nghiệm hiệu suất
Các nhà khoa học đã phải đối mặt với
thách thức trong việc tìm cách xác định các
đặc tính của chất xúc tác phủ molypden, vì
các hợp chất molypden này không ổn định khi
tiếp xúc với không khí. Garcia-Esparza cho
rằng: "Việc tách chất xúc tác ra khỏi nước làm
ảnh hưởng đến tính đồng nhất của vật liệu.
Do đó, cần nghiên cứu chất xúc tác điện trong
các điều kiện hoạt động khó khăn".
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm chất
xúc tác bạch kim có và không có lớp phủ
molypden trong quá trình điện phân nước
bằng cách sử dụng quang phổ hấp phụ tia X
cùng với pin điện hóa. Kết quả là lớp
molypden đóng vai trò như lớp màng ngăn khí
oxy và hydro di chuyển lên gần bề mặt bạch
kim để tránh sự hình thành của nước.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã khám
phá ra các ứng dụng quang xúc tác. Họ đã xây
dựng một hệ thống tách nước quang xúc tác
dựa vào chất xúc tác tiêu chuẩn của bạch kim
trên oxit stronti titan (Pt/SrTiO3) hoặc chất
xúc tác tương tự phủ molypden. Cả hai hệ
thống này đã được thử nghiệm tại KAUST về
khả năng thúc đẩy phản ứng tách nước khi có
và không có tác động của ánh sáng.
Khi chiếu ánh sáng, chất xúc tác
Pt/SrTiO3 đã làm tăng sản lượng hydro chỉ
trong vòng 6 giờ vì hệ thống mất hiệu quả do
phản ứng ngược. Khi không chiếu sáng, lượng
hydro đã giảm theo thời gian, chứng tỏ khối
lượng lớn khí đã được tái kết hợp để tạo thành
nước.
Trái lại, chất xúc tác phủ molypden liên
tục tách nước trong vòng 24 giờ để sản sinh
lượng khí hydro nhiều gấp 2 lần chất xúc tác
tiêu chuẩn. Ngoài ra, lượng khí hydro vẫn ổn
18
định trong điều kiện bóng tối, thể hiện khả
năng lớp phủ ức chế sự hình thành của nước.
Các kết quả nghiên cứu đầy triển vọng,
nhưng vẫn cần nghiên cứu sâu hơn trước khi
sử dụng chất xúc tác cho thiết bị thực tế.
Theo vista.gov.vn, 05/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới tái chế vật liệu composite sợi cacbon
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học
Washington đã đưa ra một phương pháp triển
vọng để tái chế nhựa gia cố sợi cacbon được
sử dụng phổ biến từ máy bay hiện đại và đồ
thể thao đến ngành công nghiệp năng lượng
gió. Báo cáo nghiên cứu được công bố trên
Tạp chí Polymer Degradation and Stability, đề
cập đến phương pháp tái sử dụng hiệu quả sợi
cacbon đắt tiền và các nguyên liệu khác đã
được dùng để chế tạo vật liệu composite.
Máy bay, cối xay gió và nhiều sản
phẩm khác
Nhựa gia cố sợi cacbon đang xuất hiện
ngày càng phổ biến trong nhiều ngành công
nghiệp, đặc biệt là ngành hàng không vì vật
liệu này nhẹ và chắc chắn. Tuy nhiên, loại
nhựa này rất khó phân tách hoặc tái chế, nên
công đoạn xử lý vật liệu đang trở thành mối lo
ngại ngày càng gia tăng. Trong khi loại nhựa
nhiệt dẻo được sử dụng để sản xuất chai sữa,
có thể được nấu chảy và dễ dàng tái sử dụng,
nhưng hầu hết các vật liệu composite được
dùng trong máy bay là nhựa nhiệt rắn, không
dễ xử lý để trở thành vật liệu ban đầu.
Các hóa chất ăn da bị loại bỏ
Để tái chế nhựa gia cố sợi cacbon,
nhóm nghiên cứu chủ yếu đã mài vật liệu
bằng phương thức cơ học hoặc phân tách nhựa
trong điều kiện nhiệt độ rất cao hoặc bằng hóa
chất mạnh để thu hồi sợi cacbon đắt tiền. Tuy
nhiên, thông thường, sợi cacbon bị hỏng trong
quá trình này. Các hóa chất ăn da được sử
dụng trong quy trình rất nguy hiểm và khó xử
lý. Chúng còn phá hủy nhựa nền trong vật liệu
composite, tạo ra hỗn hợp hóa chất và làm
phát sinh chất thải bổ sung.
Hóa chất nồng độ nhẹ và nhiệt độ thấp
Trong dự án nghiên cứu, Jinwen
Zhang, Giáo sư tại Trường Kỹ thuật cơ học và
vật liệu cùng nhóm nghiên cứu đã phát triển
được phương pháp tái chế hóa học, sử dụng
axit nồng độ nhẹ làm chất xúc tác trong
ethanol lỏng ở nhiệt độ tương đối thấp để
phân tách nhựa nhiệt cứng. Để phân tách vật
liệu một cách hiệu quả, các nhà khoa học đã
tăng nhiệt độ của vật liệu để chất lỏng chứa
chất xúc tác có thể thâm nhập vào vật liệu
composite và phá vỡ cấu trúc phức tạp. GS.
Zhang đã sử dụng ethanol để làm cho nhựa nở
ra và kẽm clorua phá vỡ các liên kết cacbon-
nitơ quan trọng.
Bảo quản sợi cacbon để tái sử dụng
Nhóm nghiên cứu có thể bảo quản sợi
cacbon cũng nhự vật liệu nhựa dưới dạng hữu
ích để dễ dàng tái sử dụng. Bên cạnh đó, các
nhà khoa học đã xin cấp sáng chế và đang tìm
cách thương mại hóa phương pháp mới tái chế
vật liệu composite sợi cacbon.
Theo vista.gov.vn, 04/05/2017
Trở về đầu trang
**************
19
Lần đầu tiên in thành công gạch có thể xây nhà trên Mặt Trăng
Các nhà khoa học lần đầu tiên chế tạo
thành công gạch từ bụi Mặt Trăng mô phỏng
để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của con người lên
thiên thể này.
Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm
Hàng không và Vũ trụ Đức (DLR) ở thành
phố Cologne đã tạo ra những viên gạch Mặt
Trăng trong lò nung sử dụng ánh sáng mặt trời
được khuếch đại qua 147 lăng kính có thiết kế
cong đặc biệt, RT ngày 5/5 đưa tin.
Khoáng vật được nung chảy bằng các
tia có nhiệt độ cao để tạo thành chất liệu mô
phỏng bụi Mặt Trăng trước khi được máy in
3D in thành gạch. "Chúng tôi mang nguyên
liệu mô phỏng bụi Mặt Trăng vào nung trong
lò sử dụng ánh sáng Mặt Trời", Advenit
Makaya, kỹ sư chất liệu giám sát dự án cho
Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) cho biết.
"Sử dụng máy in 3D, chúng tôi tạo ra
các lớp bụi mặt trăng dày 0,1 mm ở nhiệt độ
1.000 độ C và có thể tạo ra một viên gạch có
kích thước 20x10x3 cm dùng cho xây dựng
trong khoảng 5 giờ", vị kỹ sư giải thích thêm.
Ánh sáng đèn xenon được sử dụng thay
thế ánh sáng Mặt Trời trong những ngày nhiều
mây.
Các nhà khoa học tin tưởng việc định
cư trên Mặt Trăng là khả thi với công nghệ
này do tiết kiệm được chi phí vận chuyển vật
liệu xây dựng lên Mặt Trăng. "Dự án này là
một bằng chứng cho thấy một phương pháp
xây dựng trên Mặt Trăng thật sự khả thi",
Makaya nói.
Theo vnexpress.net, 07/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Hà Lan sáng tạo nhựa đường tự vá lành ổ gà
Những con đường nứt nẻ lỗ chỗ ổ gà có
thể đi vào quá khứ nhờ loại vật liệu nhựa
đường mới có khả năng tự vá lành và sạc xe
điện do các nhà khoa học Hà Lan thiết kế.
Các nhà nghiên cứu Hà Lan đang phát
triển những vật liệu có khả năng tự lành, tập
trung vào hai vật liệu cơ bản cho cơ sở hạ tầng
là bê tông và nhựa đường, Tech Times hôm
8/5 đưa tin.
Nhựa đường được sử dụng để rải bề
mặt đường bởi dễ trải, có cấu trúc xốp và tạo
thành bề mặt cứng khi nguội. Tuy nhiên,
nhược điểm chính của nhựa đường là vật liệu
này kém bền và mặt đường rất nhanh nứt nẻ,
xuất hiện ổ gà lớn.
Theo Erik Schlangen, nhà khoa học vật
liệu ở Đại học Delft, Hà Lan, nhựa đường tự
vá lành có thể là giải pháp giúp đường nhựa
trở nên an toàn và bền vững hơn.
Loại nhựa đường mới có khả năng vá lành
những ổ gà trên bề mặt. Ảnh: Inhabitat.
Loại nhựa đường đã qua điều chỉnh do
nhóm Schlangen sáng tạo chứa những sợi thép
nhỏ có tính dẫn điện. Việc chạy máy điện cảm
ứng qua lớp nhựa đường sẽ làm vật liệu nóng
lên và cả cỗ máy đóng vai trò như một chiếc
nam châm cho những sợi thép kết lại với nhau
và sửa chữa vết nứt trên mặt đường. Nói cách
khác, mặt đường nhựa chỉ có thể tự vá lành
nếu sử dụng máy điện cảm ứng, nhưng cách
làm này gọn nhẹ và dễ thực hiện hơn so với
các phương pháp sửa đường hiện nay.
Các nhà khoa học thử nghiệm nhựa
đường tự vá lành trên 12 con đường ở Hà Lan.
20
Schlangen cho biết những con đường nhựa sẽ
ở trong tình trạng tốt trong vòng 7 - 10 năm.
Schlangen ước tính loại nhựa đường tự
vá lành đặc biệt có chi phí cao hơn 25% so với
nhựa đường thông thường, nhưng về lâu dài
đây là giải pháp rất tiết kiệm vì nó giúp tăng
gấp đôi tuổi thọ con đường. Theo một ước
tính, Hà Lan có thể tiết kiệm 98 triệu USD
mỗi năm nếu sử dụng nhựa đường tự vá lành
cho tất cả đường phố.
Theo vnexpress.net, 10/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Bộ lọc bằng gỗ loại bỏ thuốc nhuộm độc hại trong nước
Các kỹ sư tại Trường Đại học Maryland
đã đưa ra một phương pháp mới sử dụng gỗ để
lọc nước. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của ông
Liangbing Hu thuộc Trung tâm Nghiên cứu
năng lượng đã bổ sung các hạt nano vào gỗ,
sau đó sử dụng để lọc thuốc nhuộm độc hại ra
khỏi nước.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã
ngâm khối gỗ của cây bồ đề trong palađi, kim
loại được sử dụng bên trong bộ chuyển đổi
xúc tác của xe hơi để loại bỏ các chất ô nhiễm
từ khí thải. Trong bộ lọc mới, palađi liên kết
với các hạt thuốc nhuộm. Các rãnh tự nhiên
của gỗ trước đây vận chuyển nước và các
dưỡng chất giữa lá và rễ, thì giờ cho phép
nước chảy qua các hạt nano để khử hiệu quả
các hạt thuốc nhuộm độc hại. Nước được
nhuộm màu metylen, từ từ chảy nhỏ giọt qua
gỗ và trong trở lại. Amy Gong, nghiên cứu
sinh chuyên ngành khoa học vật liệu và là
đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: "Phương
pháp này có thể được sử dụng tại những vùng
nước thải chứa các hạt thuốc nhuộm độc hại".
Nghiên cứu của Trường Đại học
Maryland nhằm mục đích phân tích gỗ bằng
ống kính kỹ thuật. Các nhà nghiên cứu không
so sánh bộ lọc bằng gỗ với các loại bộ lọc
khác; đúng ra, họ muốn chứng minh gỗ có thể
được sử dụng để loại bỏ tạp chất. Liangbing
Hu, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết họ đang
tìm cách sử dụng bộ lọc bằng gỗ để khử kim
loại nặng như chì và đồng ra khỏi nước. Nhóm
nghiên cứu dự kiến sẽ mở rộng quy mô công
nghệ này cho các ứng dụng công nghiệp thực
tế.
Nghiên cứu mới của Trường Đại học
Maryland đã được công bố trên tạp chí ACS
Nano, là phương thức sử dụng gỗ sáng tạo
nhất cho đến nay. Trước đây, nhóm nghiên
cứu này đã chế tạo được pin và siêu tụ điện từ
gỗ, một loại pin từ lá và loại gỗ trở nên trong
suốt sau khi được sử dụng cho cửa sổ.
Theo vista.gov.vn, 11/05/2017
Trở về đầu trang
**************
21
Mexico phát minh nhựa sinh học từ hạt quả bơ thân thiện môi trường
Bơ được thu hoạch tại Uruapan, bang Michoacan,
Mexico. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Một sinh viên bang Monterrey,
Mexico, đã sản xuất thành công một loại nhựa
dẻo từ hạt quả bơ, thân thiện với môi trường.
Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,
Hội đồng Khoa học và Công nghệ Mexico
(Conacyt) cho biết loại nhựa sinh học, do anh
Scott Munguia sáng chế, được làm từ nguyên
liệu thực vật nên tiến trình phân hủy rất nhanh
so với nhựa thông thường làm từ hydrocarbon.
Ngoài ra, loại nhựa này còn giúp tiết
kiệm chi phí sản xuất do tận dụng hạt của quả
bơ mà con người thường bỏ đi. Một số loại
nhựa sinh học hiện nay được làm từ ngô - một
trong những loại ngũ cốc chính của con người.
Anh Munguia cho biết loại nhựa mới
này không gây ảnh hưởng đến môi trường vì
thời gian phân hủy sau khi sử dụng là 240
ngày, hoặc có thể lâu hơn tùy thuộc lượng vi
khuẩn trong môi trường. Trong khi đó, nhựa
thông thường cần đến nửa thế kỷ để tự phân
hủy.
Tác động tới môi trường của việc sử
dụng nhựa là một trong những thách thức
ngày càng lớn đối với giới khoa học. Theo số
liệu mới nhất của Hiệp hội nhựa châu Âu
(Plastics Europe), tính đến hết năm 2013, sản
lượng nhựa trên toàn thế giới đã lên tới 229
triệu tấn.
Còn tại Mexico, dự kiến đến năm 2020,
ngành công nghiệp nhựa của nước này sẽ tăng
trưởng 15%/ năm, đồng nghĩa với việc sản
lượng nhựa của nước này tăng thêm gần 11
triệu tấn mỗi năm.
Mexico là nước sản xuất và xuất khẩu
trái bơ hàng đầu trên thế giới, với sản lượng
chiếm hơn 30% tổng sản lượng bơ trên toàn
thế giới.
Theo vietnamplus.vn, 02/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Chất chống oxy hóa, nhựa có thể được sản xuất từ sản phẩm phụ của quá trình xay lúa mì
Cám mì thường được sử dụng làm thức
ăn gia súc, nhưng trong tương lai, giá trị của
cám mì trong chế độ dinh dưỡng của con người
và trong y học có thể được khai thác hết tiềm
năng nhờ phương pháp xử lý mới bền vững do
các nhà nghiên cứu Thụy Điển phát triển.
Phần ít giá trị nhất của hạt lúa mì là
cám, lớp phủ ngoài của hạt nhân, thường được
bán dưới dạng thức ăn gia súc. Nhưng, giờ
đây, quy trình mới của các nhà nghiên cứu tại
Viện Công nghệ hoàng gia KTH ở Stockholm
có thể khai thác các phân tử sinh học giá trị từ
cám mì để sử dụng làm chất chống oxy hóa,
prebiotic (nguồn thức ăn cho các vi sinh vật
hữu ích trong đường ruột của vật chủ) và thậm
chí là vật liệu bao gói thực phẩm.
Quá trình khai thác chỉ sử dụng nước
nóng cao áp và các enzym hoạt tính
cacbohydrat để thu hemicellulose và
oligosaccharide của cám mì. Quá trình này cho
phép polysaccharide duy trì tính chất chống
oxy hóa, thường bị mất đi nếu áp dụng các kỹ
thuật khai thác bằng kiềm thông thường.
PGS. Francisco Vilaplana, đồng tác giả
nghiên cứu cho rằng: "Trong cám mì và các
mô ngũ cốc khác, hemicellulose rất khó tách
vì chúng liên kết với nhau rất chắc”. Để phân
tách, cần có kiềm nhưng quá trình này cũng
22
phá hủy phần phân tử mang lại cho phân tử
chức năng chống oxy hóa.
Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương
pháp tách hemicellulose ở dạng polyme và sau
đó sử dụng enzym để xử lý có chọn lọc dư
lượng chưa được khai thác. Nhờ vậy, họ đã
tăng tối đa tổng khối lượng phân tử sinh học
có giá trị từ cám mì.
Các nhà khoa học đang nghiên cứu
những ứng dụng triển vọng của các polyme
sinh học này, chẳng hạn như để sản xuất màng
bọc thực phẩm tiện ích và chất làm đặc, cung
cấp một phương pháp tự nhiên, không chất
phụ gia để ngăn chặn quá trình oxy hóa. Trong
y học, polyme sinh học cũng có thể được sử
dụng để bao gói các hợp chất hoạt tính nhạy
oxy và giảm viêm do loại oxy phản ứng gây ra
trong các ứng dụng y sinh. Ngoài ra,
hemicelluloses và oligosaccharide cũng được
biết đến có tính chất prebiotic như chất xơ,
quan trọng đối với việc cải thiện chế độ dinh
dưỡng và sức khỏe con người.
Theo vista.gov.vn, 11/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Hàn Quốc phát triển tấm pin năng lượng Mặt Trời có thẩm mỹ cao
Những tấm pin năng lượng Mặt Trời.
(Nguồn: THX/TTXVN)
Một nhóm nhà khoa học Hàn Quốc đã
phát triển tấm pin năng lượng Mặt Trời có thể
phát ra nhiều màu sắc đẹp mắt, mở đường cho
dòng sản phẩm năng lượng sạch này có tính
ứng dụng thẩm mỹ cao.
Ngày 11/5, Viện Khoa học và Kỹ thuật
Hàn Quốc (KIST) thông báo nhóm chuyên gia
do nhà khoa học Min Byoung-koun dẫn đầu
đã phát triển loại pin năng lượng Mặt Trời tên
gọi CIGS. Những tấm pin CIGS có vỏ bao
ngoài bằng kính mang nhiều màu sắc đẹp mắt
như tím, xanh lam...
Ông Min Byoung-koun cho biết các
tấm pin này có thể được sử dụng phục vụ cho
nhiều mục đích công nghiệp, đơn cử như làm
các tấm kính cửa sổ với nhiều màu sắc và biến
cửa sổ các tòa nhà thành các máy phát quang
điện.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
khoa học "Các bề mặt và vật liệu ứng dụng
ACS".
Theo vietnamplus.vn, 11/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu uốn cong khi “hít thở” oxy trong điều kiện nhiệt độ cao
Công việc bảo trì trong các nhà máy
điện hạt nhân gây áp lực lớn đến thiết bị do
điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt làm cho các
linh kiện dễ bị hỏng. Giờ đây, các nhà nghiên
cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT)
và một số đơn vị khác đã đưa ra một phương
thức hoàn toàn mới cho phép sử dụng các
thiết bị truyền động trong những môi trường
cực nóng của lò phản ứng hạt nhân.
Hệ thống này phụ thuộc vào vật liệu
oxit tương tự như vật liệu được sử dụng trong
nhiều loại pin sạc hiện nay, trong đó, các ion
di chuyển vào trong và ra khỏi vật liệu thông
chu kỳ sạc và xả sạc. Cho dù các ion này là
23
ion lithium trong trường hợp của pin lithium
ion, hoặc các ion oxy trong trường hợp của
vật liệu oxit, thì chuyển động ngược của
chúng làm cho vật liệu nở ra và co lại.
Thao tác nở ra và co lại của vật liệu là
yếu tố chính gây ảnh hưởng đến tuổi thọ của
pin hoặc pin nhiên liệu, do những thay đổi lặp
đi lặp lại về thể tích có thể tạo ra các vết nứt,
dẫn đến hiện tượng ngắn mạch hoặc giảm
hiệu suất. Nhưng đối với các thiết bị truyền
động ở nhiệt độ cao, những thay đổi về thể
tích là kết quả mong đợi chứ không phải tác
dụng phụ ngoài ý muốn.
Jessica Swallow, nghiên cứu sinh tại
MIT và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:
"Điều thú vị nhất về các vật liệu này là chúng
hoạt động ở nhiệt độ trên 500oC". Nghĩa là
các chuyển động uốn cong theo dự báo của
vật liệu có thể được khai thác cho hoạt động
bảo dưỡng rô bốt bên trong lò phản ứng hạt
nhân hoặc các thiết bị truyền động trong động
cơ phản lực hoặc động cơ của tàu vũ trụ.
Khi ghép vật liệu oxit với những vật
liệu khác có kích thước không đổi có thể làm
cho các thiết bị truyền động uốn cong khi oxit
nở ra hoặc co lại. Hành động này tương tự
như cách các dải lưỡng kim hoạt động trong
bộ điều nhiệt, trong đó nhiệt làm cho kim loại
nở ra hơn so với kim loại liên kết với nó,
khiến cho dải liên kết uốn cong. Đối với các
thí nghiệm này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
hợp chất PCO cho oxit xeri pha tạp
praseodymium.
Các vật liệu thông dụng đã được dùng
để tạo ra chuyển động bằng cách áp điện như
các thiết bị áp điện và gần như không hoạt
động tốt ở nhiệt độ cao. Do đó, hệ thống mới
có thể mở ra kỷ nguyên mới của các cảm biến
nhiệt độ cao và thiết bị truyền động. Ví dụ, sử
dụng các thiết bị này để mở và đóng van
trong môi trường siêu nóng.
Theo Van Vliet, phát hiện này có được
là nhờ các kết quả của hệ thống đo lường cơ
học dựa vào đầu dò có độ phân giải cao dùng
trong điều kiện nhiệt độ cao mà nhóm nghiên
cứu đã phát triển trong nhiều năm qua. Hệ
thống này cung cấp các số đo chính xác về
chuyển động của vật liệu liên quan trực tiếp
đến nồng độ oxy, cho phép các nhà nghiên
cứu đo lường chính xác cách oxy di chuyển
vào và ra khỏi oxit kim loại.
Để tiến hành đo đạc, nhóm nghiên cứu
đã đặt lớp oxit kim loại mỏng trên chất nền,
sau đó sử dụng hệ thống phát hiện để xác
định những dịch chuyển nhỏ trên phạm vi
nanomet. Đây là những vật liệu đặc biệt vì
chúng “hít thở” oxy và thay đổi về thể tích,
khiến cho chất nền uốn cong.
Dù các nhà khoa học đã chứng minh
quy trình này sử dụng loại hợp chất oxit đặc
biệt, nhưng họ cho rằng các kết quả nghiên
cứu có thể được áp dụng rộng rãi cho nhiều
vật liệu oxit và thậm chí cả với các loại ion
khác ngoài oxy, di chuyển vào trong và ra
khỏi lớp oxit.
Theo vietnamplus.vn, 12/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới tách các chất ô nhiễm khỏi nước
Thông thường, để loại bỏ các chất ô
nhiễm có nồng độ loãng ra khỏi nước, cần
phải sử dụng các phương pháp xử lý tiêu tốn
nhiều năng lượng và hóa chất. Nhưng, giờ
đây, nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) đã đưa ra một phương
pháp mới để loại bỏ một cách có chọn lọc các
hợp chất không mong muốn có nồng độ thậm
chí rất thấp.
24
Phương pháp này dựa vào quy trình
điện hóa để xử lý có chọn lọc các chất ô nhiễm
hữu cơ như thuốc trừ sâu và các sản phẩm chất
thải hóa học và dược phẩm, ngay cả khi chúng
xuất hiện với nồng độ nhỏ chưa đến mức nguy
hiểm. Phương pháp mới cũng khắc phục được
những hạn chế chủ yếu của các phương pháp
tách điện hóa thông thường như làm thay đổi
nồng độ axit và giảm hiệu suất do sự cạnh
tranh của các phản ứng bề mặt.
Các hệ thống xử lý chất ô nhiễm nồng
độ loãng hiện nay sử dụng màng lọc đắt đỏ
nên đã hạn chế hiệu quả xử lý chất ô nhiễm
nồng độ thấp. Hơn nữa, quá trình điện phân
và khử ion điện dung thường cần điện áp cao,
có xu hướng gây ra các phản ứng phụ. Một
yếu tố cản trở nữa là do lượng muối dư thừa.
Trong hệ thống mới, nước chảy giữa
các bề mặt được xử lý hóa học hoặc “chức
năng hóa” đóng vai trò như các điện cực
dương và âm. Bề mặt điện cực được phủ vật
liệu Faradaic thông qua các phản ứng, sẽ tích
điện dương hoặc âm. Bề mặt điện cực có thể
được điều chỉnh để liên kết chặt chẽ với một
loại phân tử chất ô nhiễm cụ thể như nhóm
nghiên cứu chứng minh bằng cách sử dụng
ibuprofen và nhiều loại thuốc trừ sâu khác.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng quá
trình này có thể loại bỏ hiệu quả các phân tử
chất ô nhiễm ngay cả ở mức vài phần triệu.
Các nghiên cứu trước đây thường tập
trung vào các điện cực dẫn điện hoặc tấm kim
loại đã được “chức năng hóa” chỉ trên một
điện cực, nhưng chúng thường đạt điện áp cao
sinh ra những hợp chất ô nhiễm. Bằng cách
sử dụng điện cực chức năng hóa trên cả hai
mặt tích điện dương và âm trong một cấu
hình không đối xứng, nhóm nghiên cứu gần
như đã loại bỏ hoàn toàn các phản ứng phụ
này. Ngoài ra, các hệ thống không đối xứng
cho phép loại bỏ có chọn lọc đồng thời cả ion
âm và ion dương độc hại, như nhóm nghiên
cứu đã chứng minh với thuốc diệt cỏ paraquat
và quinchlorac.
Quá trình chọn lọc tương tự cũng được
áp dụng để thu hồi các hợp chất giá trị cao
trong nhà máy sản xuất hóa chất hoặc dược
phẩm nơi chúng được thải loại. Xiao Su, đồng
tác giả nghiên cứu cho rằng: "Hệ thống này
có thể được áp dụng trong xử lý môi trường
để loại bỏ hóa chất hữu cơ độc hại hoặc
trong nhà máy hóa chất để thu hồi các sản
phẩm giá trị gia tăng vì chúng đều dựa trên
một nguyên tắc chung để loại bỏ số lượng rất
nhỏ ion từ hệ thống đa ion phức tạp".
Hệ thống vốn có tính chọn lọc cao này
trên thực tế có khả năng được thiết kế với
nhiều giai đoạn để xử lý theo trình tự nhiều
loại hợp chất tùy thuộc vào ứng dụng cụ thể.
Su cho rằng: "Hệ thống này cuối cùng sẽ có
ích cho các hệ thống lọc nước tại vùng sâu
vùng xa trong thế giới đang phát triển, nơi ô
nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm và các hóa
chất khác thường là một hạn chế trong hoạt
động cung cấp nước. Hệ thống có thể hoạt
động bằng điện như từ các tấm pin mặt trời ở
vùng nông thôn".
Không giống các hệ thống sử dụng
màng đòi hỏi áp suất cao cũng như các hệ
thống điện hóa khác hoạt động ở điện áp cao,
hệ thống mới hoạt động ở điện áp và áp suất
tương đối thấp. Trái ngược với các hệ thống
trao đổi ion thông thường trong đó việc giải
phóng các hợp chất xử lý và sự tái sinh của
các chất hấp phụ sẽ cần thêm hóa chất, thì
trong trường hợp của hệ thống mới, chỉ cần
thao tác chuyển cực của các điện cực để đạt
được kết quả tương tự.
Matthew Suss, Giáo sư cơ khí tại Viện
Công nghệ Technion tại Israel cho rằng: Kỹ
thuật này “rất quan trọng vì nó mở rộng khả
năng của các hệ thống điện hóa từ về cơ bản
không chọn lọc đến xử lý các chất ô nhiễm
quan trọng với khả năng chọn lọc cao. Cũng
như nhiều kỹ thuật lọc nước mới, hệ thống
vẫn cần được kiểm tra độ bền trong các điều
kiện thực tế trong khoảng thời gian dài. Tuy
nhiên, mẫu hệ thống đã đạt hơn 500 chu kỳ,
cho kết quả đầy triển vọng”.
Theo vista.gov.vn, 15/05/2017
Trở về đầu trang
**************
25
Phương pháp phát triển các màng chất bán dẫn tinh thể rẻ hơn, “sạch” hơn
Các nhà hóa học Trường Đại học
Michigan (U-M) đã phát triển thành công
phương pháp chế tạo các màng mỏng chất bán
dẫn đơn tinh thể, thành phần quan trọng của
tất cả các thiết bị điện tử.
Màng đơn tinh thể của các chất bán dẫn
vô cơ là nền tảng của hầu hết các thiết bị điện
tử, bao gồm điện thoại thông minh, máy tính
và pin mặt trời. Các mạch tích hợp nhanh nhất
có các bóng bán dẫn chứa các màng gecmani
dựa trên nền silic. Tuy nhiên những vật liệu
này thường chỉ được điều chế được ở nhiệt độ
cao, bằng những thiết bị máy móc phức tạp,
và có chứa các chất khí độc hại.
Mới đây, nhóm nghiên cứu U-M, dẫn
đầu bởi phó giáo sư hóa học Stephen
Maldonado, đã phát minh ra một phương pháp
có thể đồng thời tổng hợp và lắng đọng các
màng chất bán dẫn tinh thể từ nước ở nhiệt độ
phòng bằng việc sử dụng các thiết bị có thể tự
lắp ráp với giá thành chỉ vài đô la.
“Phương pháp của chúng tôi không cần
nhiệt độ quá cao, và tất cả mọi thứ được thực
hiện trong dung dịch nước do đó mà chúng tôi
không cần sử dụng bất kỳ một loại chất gây
độc hại nào”, Maldonado cho biết.
Để tạo ra được phương pháp này,
Maldonado và nhóm nghiên cứu của ông đã
tạo ra một màng kim loại lỏng, mỏng được
lắng đọng trên chất nền được kết nối với
nguồn điện. Khi cho nhiễm điện, các màng
kim loại, các phân tử bên trên bề mặt của
màng này - khi chúng liên kết với nước-sẽ bị
biến đổi thành các thành phần nguyên tố của
chúng. Trong trường hợp này, các đơn vị của
oxit germanium đã bị hòa tan biến đổi thành
các phân tử germanium để phân hủy thành các
màng kim loại lỏng.
“Nếu màng kim loại lỏng này đủ mỏng,
các nguyên tử germanium sẽ kết tủa một cách
có chọn lọc ở phần dưới đáy và giống một
màng tinh thể đồng nhất. Điều thú vị là chúng
tôi chỉ sử dụng tiền chất oxi hóa-giống với
những gì chúng tôi đã phát hiện thấy trong tự
nhiên-và chỉ trong một quy trình xử lý, chúng
tôi có thể tạo ra một màng tương thích công
nghệ”, Maldonado cho biết. “Để tạo ra các
thiết bị chất bán dẫn hiệu suất cao đòi hỏi
phải có các cơ sở hạ tầng có giá trị đầu tư
lớn. Với quy trình xử lý này, chúng ta không
cần nhiệt độ cao và không cần máy móc tinh
xảo mà chỉ cần một công cụ để vẽ và đo dòng
điện và một thiết bị điện tử để lắp ráp chúng
với nhau có giá khoảng 20 đô la. Đây là một
bước tiến lớn hướng đến một ngành công
nghiệp sản xuất chất bán dẫn có thể được thực
hiện bởi bất cứ ai, bất cứ nơi nào”.
Maldonado cho biết, bước nghiên cứu
tiếp theo của nhóm sẽ tiến hành phương pháp
tương tự với silic. Chất hóa học này cũng có
yếu tố cấu tạo giống với gecmani.
Không cần sử dụng thiết bị máy móc
phức tạp và nhiệt độ cao, quy trình của
Maldonado có thể cung cấp một phương pháp
rẻ hơn, “sạch” hơn để sản xuất chất bán dẫn.
Công trình nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Journal of the American Chemical
Society mới đây.
Theo vista.gov.vn, 17/05/2017
Trở về đầu trang
**************
26
Nga phát triển công nghệ sản xuất kim loại màu thân thiện môi trường
(Nguồn: steelads)
Các nhà hóa học Nga đã phát triển
thành công phương pháp mới luyện các loại
kim loại màu như đồng, niken và molypden
với chi phí sản xuất thấp hơn, đồng thời góp
phần cải thiện môi trường xung quanh các nhà
máy luyện kim.
Trong công bố ngày 19/5 của trường
Đại học Khoa học và Công nghệ quốc gia Nga
MISIS (NUST MISIS), Giáo sư Alexander
Medvedev, Khoa Kim loại màu và Vàng, cho
biết công nghệ sản xuất mới có 4 ưu điểm vượt
trội: chi phí thấp (do ít tiêu tốn năng lượng khi
sản xuất), tỷ lệ kim loại cao hơn, ít ảnh hưởng
môi trường (do giảm lượng khí thải sulfur
dioxide) và tính thương mại cao hơn.
Phần lớn các phương pháp luyện kim
loại màu được áp dụng rộng rãi hiện nay đều
tiêu tốn nhiều năng lượng và gây hại cho môi
trường do lượng khí thải sulfur dioxide sản
sinh từ quặng chứa lưu huỳnh. Trong khi đó,
phương pháp mới làm giàu quặng mà các nhà
hóa học Nga phát kiến có thêm một số nguyên
vật liệu bổ trợ như muối, nước và axít.
Đây là những nguyên liệu được chứng
minh góp phần giảm tiêu thụ năng lượng hiệu
quả và lượng khí thải - vốn là ưu điểm của
phương pháp trên.
Hiện công nghệ luyện kim mới này
đang được thử nghiệm trong quá trình luyện
quặng niken và quặng đồng ở Nga, Myanmar
và Mông Cổ, và đã được giới thiệu để đi vào
sản xuất tại một số nơi.
Theo vietnamplus.vn, 20/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Hải quân Mỹ phát triển pin sạc không cháy nổ
Vấn đề cháy nổ do pin sạc trên các tàu
chiến của hải quân Mỹ sẽ được giải quyết
bằng loại pin kiềm an toàn mới.
Pin kiềm mới có thể giúp tàu chiến an toàn hơn.
Ảnh: Popsci.
Các tàu ngầm và tàu chiến của hải quân
Mỹ hiện nay sử dụng rộng rãi pin Lithium-ion
(Li-ion), nhưng chúng có nhược điểm là dễ
cháy nổ trong các điều kiện bất lợi. Phòng thí
nghiệm nghiên cứu thuộc hải quân Mỹ (NRL)
mới đây giới thiệu công nghệ pin sạc an toàn
mới, có thể được ứng dụng vào các phương
tiện chạy điện, xe đạp hay tàu thuyền, theo
Popsci.
Chất lỏng hữu cơ bên trong pin Li-ion
rất dễ bắt lửa ở nhiệt độ cao, gây ra cháy nổ
có thể trở thành những sự cố nghiêm
trọng. Năm 2008, pin Li-ion trên một tàu
ngầm thử nghiệm của hải quân Mỹ bốc cháy,
gây thiệt hại nghiêm trọng cho tàu ngầm. Hải
quân Mỹ vừa ra lệnh cấm binh sĩ sử dụng
thuốc lá điện tử trên tàu chiến và tàu ngầm để
ngăn ngừa nguy cơ cháy nổ từ pin Li-ion.
Để giải quyết vấn đề này, NRL phát
triển loại pin sạc mới dựa trên nền tảng pin
alkaline (pin kiềm) vốn có chất điện phân gốc
nước an toàn hơn và không bắt lửa. Loại pin
này có điện cực chế tạo từ kẽm, loại nguyên
liệu rất rẻ và phổ biến. Ưu điểm khó cháy và dễ
chế tạo của pin kiềm đã thu hút hải quân Mỹ.
27
Nhược điểm của pin kiềm là chúng rất
khó để sạc lại. Trong quá trình sử dụng, kim
loại kẽm trong điện cực sinh ra các kết tủa,
khiến chúng không thể nạp điện lại để tái sử
dụng.
Vướng mắc này được các nhà khoa học
tại NRL giải quyết bằng cách tái tạo kẽm thành
dạng khác, giúp ngăn chặn sự hình thành kết
tủa, đem tới khả năng sạc lại cho pin kiềm. Họ
nhũ hóa và xử lý nhiệt hỗn hợp nước, dầu và
bột kẽm, tạo ra dung dịch có độ an toàn cao,
sẵn sàng trở thành cực dương của pin.
NRL cho rằng công nghệ này sẽ giúp
hải quân Mỹ sở hữu các loại pin chống cháy
nổ, cực kỳ an toàn cho các tàu chiến và tàu
ngầm. Loại pin mới này vẫn đang trong giai
đoạn thử nghiệm quy mô nhỏ.
Theo vnexpress.net, 03/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Pin nhiên liệu vi sinh chuyển đổi mêtan thành điện năng
Hoạt động vận chuyển mêtan từ các
giếng khí ra thị trường tạo điều kiện cho khí
nhà kính này rò rỉ vào khí quyển. Giờ đây,
một nhóm nghiên cứu quốc tế bước đầu đã
chuyển đổi trực tiếp mêtan thành điện năng
bằng cách sử dụng vi khuẩn. Quy trình này có
thể được thực hiện gần các địa điểm khoan
dầu khí.
Thomas K. Wood, Giáo sư kỹ thuật
hóa học tại Đại học bang Pennsylvania cho
biết: "Hiện nay, chúng ta phải vận chuyển khí
mêtan qua các đường ống. Khi bạn vận
chuyển khí mêtan, nghĩa là bạn đang tạo điều
kiện cho một loại khí nhà kính được giải
phóng. Chúng ta không thể tránh khỏi tất cả
các hiện tượng rò rỉ khí, nhưng chúng ta có
thể giảm một nửa tình trạng này nếu không
vận chuyển khí bằng đường ống giữa những
quãng đường dài".
Mục tiêu mà các nhà nghiên cứu đặt ra
là sử dụng pin nhiên liệu vi sinh biến đổi
mêtan gần các giếng khí thành điện năng để
tránh phải vận chuyển khí giữa những quãng
đường dài. Đây là mục tiêu còn xa mới đạt
được trong tương lai, nhưng hiện nhóm
nghiên cứu đã chế tạo được loại pin nhiên
liệu hoạt động nhờ vi khuẩn để chuyển đổi
khí mêtan thành điện năng công suất thấp.
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa
học đã cố gắng để chuyển đổi trực tiếp mêtan
thành điện năng, nhưng họ không thể làm
được điều đó với pin nhiên liệu vi sinh. Hiện
nhóm nghiên cứu quốc tế đã tạo ra một chủng
khuẩn phù hợp.
Pin nhiên liệu vi sinh chuyển đổi năng
lượng hóa học thành điện năng bằng cách sử
dụng vi sinh vật. Loại pin này hoạt động dựa
vào hầu hết mọi loại chất hữu cơ bao gồm
nước thải, axetat và chất thải của quá trình
sản xuất bia. Tuy nhiên, mêtan gây ra một số
trở ngại cho pin nhiên liệu vi sinh vì vi khuẩn
tiêu thụ mêtan có tồn tại, nhưng lại nằm sâu
dưới đại dương và không thể nuôi cấy trong
phòng thí nghiệm.
Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tạo
ra một tập hợp vi khuẩn sản xuất điện vì mỗi
loại vi khuẩn làm phần việc của chúng. Sử
dụng phương pháp sinh học tổng hợp bao
gồm sao chép ADN, nhóm nghiên cứu đã
nuôi cấy trong phòng thí nghiệm loại vi
khuẩn giống như vi khuẩn ở sâu dưới Biển
Đen. Vi khuẩn này sử dụng khí mêtan và sản
xuất axetat, electron và enzym năng lượng thu
hút các electron. Các nhà khoa học cũng đã
bổ sung hỗn hợp vi khuẩn có trong bùn từ bể
mêtan - bước cuối cùng trong quy trình xử lý
chất thải. Bùn thải này chứa vi khuẩn sản sinh
hợp chất có khả năng vận chuyển electron
đến điện cực, nhưng những vi khuẩn đó cần
28
được thích nghi với khí mêtan để tồn tại trong
pin nhiên liệu. GS.Wood cho rằng: Quá trình
này cần có hoạt động của con thoi điện tử. Vi
khuẩn trong bùn đóng vai trò này.
Khi các electron di chuyển đến điện
cực, dòng chảy của các electron sinh ra điện.
Để tăng sản lượng điện, các nhà nghiên cứu đã
sử dụng vi khuẩn Geobacter trong tự nhiên,
tiêu thụ axetat do các vi khuẩn tổng hợp tạo ra
để thu hút mêtan nhằm tạo ra các electron.
Để chứng minh sự cần thiết của con
thoi điện tử, các nhà nghiên cứu cho pin
nhiên liệu hoạt động chỉ bằng vi khuẩn tổng
hợp và vi khuẩn Geobacter. Kết quả là pin
nhiên liệu không sản xuất điện. Nhưng khi họ
bổ sung axit humic - con thoi điện tử “không
sống” và pin nhiên liệu đã hoạt động. Vi
khuẩn từ bùn mang lại hiệu quả cao hơn axit
humic, vì chúng tự duy trì hoạt động. Các nhà
nghiên cứu đã xin cấp sáng chế tạm thời cho
quy trình này.
GS. Wood cho biết: "Quy trình này
sản xuất nhiều điện năng cho pin nhiên liệu vi
sinh. Tuy nhiên, vào thời điểm này, điện năng
sản sinh ít hơn 1.000 lần so với điện năng
được sản xuất bởi pin nhiên liệu methanol".
Theo vista.gov.vn, 22/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu ống nano-graphene lai thúc đẩy phát triển dòng pin lithium metal
Các nhà khoa học Trường Đại học Rice
đã tạo ra một loại pin lithium metal có thể sạc
lại với dung lượng gấp ba lần so với các loại
pin lithium-ion thương mại, nhờ gaiir quyết
được vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu bị mắc
kẹt lâu nay đó là vấn đề dendrite (đây là tình
trạng pin tích tụ các chất cặn lắng có cấu trúc
tinh thể hình cây trong quá trình sạc nên dễ
gây ra các vấn đề về an toàn như cháy nổ).
Loại pin này chứa đựng lithium chỉ có
duy nhất một anôt (cực dương), một graphene
lai được đúc khối và các ống nano cacbon. Về
cơ bản, loại vật liệu đầu tiên được tạo ra ở
Trường Đại học Rice vào năm 2012 có bề
mặt cacbon 3 chiều để cung cấp nhiều diện
tích cho lithium tồn tại.
Bản thân anôt này gần như đạt được lý
thuyết tối đa trong việc lưu trữ lithium metal
đồng lúc chống lại sự hình thành các vấn đề
dendrite gây hư hỏng pin (chất lắng đọng phủ
lên bề mặt như “rêu”).
Vấn đề dendrites xảy ra trong pin đã
làm hỏng những nỗ lực thay thế pin lithium –
ion sang pin lithium metal tiên tiến có khả
năng sạc nhanh hơn và bền hơn của các nhà
khoa học. Dendrites là chất lithium bị lắng
đọng phát triển thành chất điện phân của pin.
Nếu chúng kết nối với anôt và catôt sẽ tạo ra
một mạch ngắn, làm cho pin sẽ bi hỏng, bắt
lửa hoặc thậm chí nổ.
Mới đây, nhóm nghiên cứu Trường
Đại học Rice do nhà hóa học James Tour
đứng đầu đã phát hiện ra rằng trong khi loại
pin mới này sạc điện, lithium metal sẽ phủ
đều một lớp carbon lai dẫn điện cao mà trong
đó các ống nano có liên kết cộng hóa trị với
bề mặt graphene.
Theo báo cáo đăng trên tạp chí
American Chemical Society journal ACS
Nano, loại pin lithium lai này thay thế anôt
than chì trong các loại pin lithium-ion thông
thường để nâng cao mức độ an toàn.
Ông James Tour nói rằng cực mới của rừng
ống nano có mật độ thấp và diện tích bề mặt
cao nên có rất nhiều không gian cho các hạt
lithium dịch chuyển ra vào khi pin sạc và xả.
Lithium được phân bố đều, lan tỏa rộng dòng
điện tích tụ bởi các ion trong chất điện phân
và ngăn chặn sự phát triển dendrite. “Mặc dù
dung lượng của pin nguyên mẫu bị hạn chế
bởi catot, nhưng vật liệu anôt lại có thể đạt
được dung lượng lưu trữ lithium là 3.351
miliamph giờ/gam, gần bằng với lý thuyết tối
đa và cao hơn 10 lần so với pin lithium-ion,
Tour nói. “Điều này là do mật độ thấp của
tấm thảm ống nano, nên lithium phủ có thể
phủ hết toàn bộ bề mặt để đảm bảo bề mặt có
29
thể sử dụng tối đa dung tích khả dụng”.
Các nhà khoa học đã thành công khi tạo ra
được pin “Aha!” vào năm 2014 khi Abdul-
Rahman Raji, cựu sinh viên làm việc tại
phòng thí nghiệm của Tour và hiện là phó
giáo sư nghiên cứu tại Trường Đại học
Cambridge, đồng tác giả nghiên cứu đã bắt
đầu tiến hành nghiên cứu lithium metal và
ống nano –graphene lai.
Trong vòng 1 tuần, Raji và Rodrigo
Villegas Salvatierra, phó giáo sư nghiên cứu
tại Rice, và là đồng tác giả nghiên cứu đã lắng
đọng thành công lithium metal thành một
anôt lai độc lập do vậy khi quan sát dưới kính
hiển vi ta sẽ thấy chúng rất khín với nhau, và
đặc biệt là không hề phát hiện thấy sự phát
triển dendrite trong pin.
Theo báo cáo của các nhà nghiên cứu,
để kiểm tra anôt này, phòng thí nghiệm của
Rice đã chế tạo các loại pin hoàn toàn bằng
catôt lưu huỳnh, có thể lưu giữ được 80%
công suất sau hơn 500 chu kỳ sạc, vàcó tuổi
thọ vào khoảng hai năm cho người sử dụng
điện thoại bình thường. Hình ảnh kính hiển vi
điện tử của các anôt sau khi thử nghiệm cho
thấy không có dấu hiệu dendrites hoặc các
cấu trúc phủ như rêu giống như đã được quan
sát trên các anôt phẳng. Theo các nhà nghiên
cứu, bằng mắt thường, các anốt trong pin có
kích thước bằng ¼ so với loại thông thường
này bị đen khi không có lithium metal và bạc.
“Hiện chúng tôi đang tiến hành thử nghiệm
kết quả nghiên cứu này và chúng tôi sẽ tiến
hành sản xuất toàn bộ pin, catôt cộng với
anôt trên quy mô thí điểm”, Tour nói.
Theo vista.gov.vn, 22/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi thông thường
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại
Trường Đại học Sapienza, Ý và Phòng thí
nghiệm Phản lực của NASA, Hoa Kỳ đã phát
triển một phương pháp mới để hỗ trợ hoạt
động phát triển liên tục các hệ thống phát
hiện kịp thời sóng thần dựa vào các số đo về
cách sóng thần gây xáo trộn một phần khí
quyển Trái đất.
Phương pháp mới có tên là Phương
pháp Variometric quan trắc tầng điện ly trong
thời gian thực hay VARION, đã sử dụng các
quan trắc của hệ thống định vị toàn cầu (GPS)
và các hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu khác
(GNSS) để phát hiện trong thời gian thực
những xáo trộn trong tầng điện ly của trái đất
có liên quan đến sóng thần. Tầng điện ly là
lớp khí quyển của Trái đất nằm cách bề mặt
Trái đất khoảng 80 - 1.000 km và được ion
hóa bởi bức xạ mặt trời và bức xạ vũ trụ.
Khi sóng thần hình thành và di chuyển
qua đại dương, các đỉnh và đáy của sóng thần
nén và mở rộng không khí ở phía trên chúng,
tạo ra chuyển động trong khí quyển được gọi
là sóng trọng lực bên trong. Các chuyển động
của sóng trọng lực bên trong được khuếch
đại, khi chúng di chuyển lên phía trên vào
trong khí quyển càng trở nên mỏng hơn ở
những vĩ độ cao. Khi những con sóng đạt vĩ
độ cao từ 300-350 km, chúng gây ra những
thay đổi có thể phát hiện bằng mật độ
electron trong tầng điện ly. Những thay đổi
này có thể đo được khi các tín hiệu GNSS
như tín hiệu của GPS, đi qua vùng nhiễu loạn
do sóng thần gây ra.
Giorgio Savastano, nghiên cứu sinh tại
Phòng thí nghiệm Phản lực cho rằng:
"VARION là đóng góp mới cho các hệ thống
cảnh báo sớm sóng thần tích hợp trong tương.
Chúng tôi đang kết hợp thuật toán vào trong
hệ thống GPS toàn cầu của Phòng thí nghiệm
Phản lực, sẽ cung cấp truy cập trong thời gian
thực với dữ liệu từ khoảng 230 trạm GNSS
trên khắp thế giới thu thập dữ liệu từ nhiều
30
chòm sao vệ tinh, bao gồm GPS, Galileo,
GLONASS và Beidou". Do các cơn sóng thần
lớn không thường xuyên xảy ra, nên việc đưa
VARION vào hoạt động bằng cách sử dụng
nhiều dữ liệu thời gian thực, sẽ giúp xác nhận
thuật toán và thúc đẩy nghiên cứu về phương
thức phát hiện sóng thần này. VARION có
thể được đưa vào nghiên cứu thiết kế các hệ
thống phát hiện sóng thần kịp thời sử dụng dữ
liệu từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả
địa chấn kế, phao, bộ thu GNSS và cảm biến
áp suất dưới đáy đại dương.
Khi động đất được phát hiện tại một
địa điểm cụ thể, hệ thống có thể bắt đầu xử lý
trong thời gian thực các số đo về sự phân bố
của các electron trong tầng điện ly từ nhiều
trạm mặt đất nằm gần tâm chấn động đất và
tìm kiếm những thay đổi liên quan đến sự
hình thành của sóng thần. Các số đo sẽ được
thu thập và xử lý bởi trung tâm xử lý để cung
cấp các đánh giá rủi ro và lập bản đồ về sự
kiện động đất. Việc sử dụng nhiều loại dữ
liệu độc lập sẽ góp phần làm tăng sức mạnh
của hệ thống.
Quan sát tầng điện ly và cách thời tiết
đất liền ở phía dưới tầng điện ly tương tác với
không gian phía trên, tiếp tục là trọng tâm
nghiên cứu quan trọng của NASA. Hai nhiệm
vụ mới bao gồm Thăm dò kết nối của tầng
điện ly và Quan trắc quầng và đĩa quy mô
toàn cầu, dự kiến sẽ được khởi động vào đầu
năm 2018 để quan sát tầng điện ly nhằm cải
thiện các mô hình được sử dụng để bảo vệ
con người trên mặt đất và các vệ tinh trong
không gian.
Theo vista.gov.vn, 23/05/2017
Trở về đầu trang
**************
Vật liệu 3D có cấu trúc phức tạp được tạo ra từ hai khối kiến tạo đơn
Nhóm nghiên cứu các nhà khoa học
Trường Đại học Northwestern đã tạo ra được
vật liệu có cấu trúc phức tạp từ hai khối kiến
tạo đơn. Vật liệu này là khung hữu cơ kim
loại có mật độ thấp nhất chưa từng được tạo
ra từ trước đến nay.
Vật liệu này được định hướng phát
triển theo quy tắc thiết kế do các các nhà khoa
học tạo ra. Các nguyên tử uranium và các
chất liên kết hữu cơ tự lắp ráp thành một tinh
thể mạng lưới 3D gồm các lỗ rỗng có kích
thước khá lớn và rất hữu dụng. Những lỗ rỗng
này rất rộng. Trên thực tế là các nhà khoa học
đã đặt thành công được một enzym cỡ lớn
vào bên trong lỗ rộng này. Đây được xem là
một kỳ tích không hề nhỏ. Loại vật liệu này
đóng vai trò như một chiếc giàn giáo bảo vệ
các enzym.
Omar K. Farha , giáo sư nghiên cứu về
hóa học tại Trường Đại học Khoa học và
nghệ thuật Weiberg, và cũng là người đứng
đầu nghiên cứu nói: “Chúng tôi đang tiến
hành chế tạo vật liệu với độ chính xác một
nguyên tử. Vật liệu của chúng tôi bắt đầu ở
cấp độ các nguyên tử đơn lẻ, được đo bằng
angstrom, và kết thúc ở cấp độ hàng trăm
micron, ở đó chúng tôi có thể nắm giữ tinh
thể nhỏ bé này bằng một cái nhíp và quan sát
nó bằng mắt thường”.
Vật liệu này rất nhẹ, mặc dù được làm
từ uranium, một trong những yếu tố nặng nhất
trong bảng tuần hoàn. (Nhóm nhà khoa học
đã sử dụng uranium 238, chất đồng vị không
phóng xạ). Các nguyên tử uranim này nằm
tách xa nhau trong cấu trúc khung hữu cơ kim
loại (MOF) mật độ thấp nhất này.
Theo Farha, chuyên gia thiết kế MOFs cho
các xúc tác, cảm biến và các ứng dụng lưu trữ
cho biết, các nguyên tử này rất khác thường.
31
Vật liệu này cũng chưa từng được quan sát
thấy hoặc dự đoán trước đây. Mặc dù sự bắt
đầu của nó đơn giản, nhưng cấu trúc của
MOFs trong vật liệu này hoàn toàn phức tạp
về cấu trúc và không có gì so sánh được với
nó. Và hiện chúng tôi mới chỉ bắt đầu nghiên
cứu với bề mặt các khối kiến tạo đơn giản của
cấu trúc vật liệu hình thành vô cùng tinh vi
phức tạp này.
Phát hiện này cho thấy tiềm năng tạo ra
các quy tắc thiết kế tổng quát đối với quá trình
tự lắp ráp của các cấu trúc mở và rất phức tạp
từ các khối kiến tạo đơn giản, đồng thời cũng
làm nổi bật lên tiềm năng của các nguyên tố
phóng xạ, chẳng hạn như urani, trong xu
hướng tổng hợp vật liệu, Farha cho biết.
Hiện các nhà nghiên cứu đã có thể ứng
dụng các quy tắc thiết kế mới này đối với các
phương pháp xây dựng từ dưới lên trên để
tổng hợp hàng loạt các vật loại vật liệu mới
có các cấu trúc phức tạp có thể dự đoán trước
và có thể thiết kế sẵn.
Khung hữu cơ kim loại là các tinh thể
giống với hàng rào mắt cáo và được sắp xếp
rất ngăn nắp. Các điểm nút của hàng rào mắt
cáo này chính là các kim loại, và các phân tử
hữu cơ liên kết với các điểm nút. MOF mới
này, có tên gọi là NU-1301, được tạo nên chỉ
từ các điểm nút oxit uranium và khối liên kết
hữu cơ tricarboxylate. Chỉ với sự liên kết giản
đơn này đã tạo ra các MOF vô cùng hữu ích
về phương diện công nghiệp.
Ngoài độ phức tạp về cấu trúc, NU-
1301 còn có diện tích bề mặt, thể tích lỗ rỗng
và độ ổn định của nước rất cao và có thể được
sử dụng để tách rời các phân tử hữu cơ có
kích cỡ nhỏ, các phân tử sinh học cỡ lớn,
hoặc các enzyme, dựa trên kích cỡ và điện
tích của chúng.
Mỗi tế bào đơn vị - đơn vị cơ bản mà
được lặp đi lặp lại 3 chiều để tạo nên cấu trúc
tinh thể--gồm có 816 nút uranium và 816 khối
liên kết hữu cơ. Một đơn vị tế bào đo được
173 angstroms, và tự nó cứ lặp đi lặp lại. Các
đơn vị tế bào tập hợp thành hình ngũ giác và
hình lục giác, và cuối cùng phát triển thành
một tinh thể có khoảng rộng bằng một phần
tư của một milimet vuông.
Công trình nghiên cứu này đã được
công bố trên tạp chí Science.
Theo vista.gov.vn, 24/05/2017
Trở về đầu trang
**************
32
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016624 Hộp cấp thuốc hiện ảnh và hệ thống cấp thuốc hiện ảnh có bơm được vận hành để xả thuốc hiện ảnh
Tác giả: Okino Ayatomo (JP),
Nagashima Toshiaki (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến hộp cấp thuốc
hiện ảnh, hộp này bao gồm phần chứa thuốc
hiện ảnh được tạo kết cấu để chứa thuốc hiện
ảnh, lỗ xả được tạo kết cấu và định vị để cho
phép xả thuốc hiện ảnh ra khỏi phần chứa
thuốc hiện ảnh, và phần tiếp nhận lực dẫn
động được tạo kết cấu và định vị để tiếp nhận
lực dẫn động. Ngoài ra, phần bơm có khả
năng được dẫn động bởi lực dẫn động để lần
lượt thay đổi áp suất trong của phần chứa
thuốc hiện ảnh giữa áp suất thấp hơn so với
áp suất môi trường và áp suất cao hơn so với
áp suất môi trường để xả thuốc hiện ảnh qua
lỗ xả.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016627 Hợp chất thioaxetat và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: OUK, Samedy (KH), GUNIC,
Esmir (US), VERNIER, Jean-michel (FR)
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất hợp chất hữu ích
trong việc điều biến mức axit uric trong máu
và dược phẩm chứa nó. Ngoài ra, sáng chế
cũng đề cập đến dược phẩm chứa hợp chất
theo sáng chế có tác dụng trong điều trị hoặc
phòng ngừa các chứng rối loạn liên quan đến
hàm lượng bất thường của axit uric.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016640 Muối amin hữu cơ của dẫn xuất axit aminobenzoic, dược phẩm chứa nó và phương pháp sản xuất nó
Tác giả: Iwamoto Shunsuke (JP),
Nakano Satoshi (JP), Ishida Mariko (JP),…
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến muối amin hữu cơ
hoặc muối với ion amoni bậc bốn của axit 3-
{[((2E)-2-{1-[5-(4-t-butylphenyl)-4-
hyđroxy-3-thienyl]etyliđen}hyđrazino)-
carbonothioyl] amino)benzoic có các đặc tính
thích hợp để dùng làm thuốc.
Sáng chế cũng đề cập đến amin hữu cơ
hoặc muối với ion amoni bậc bốn của axit 3-
{[((2E)-2-{1-[5-(4-t-butylphenyl)-4-
hyđroxy-3-thienyl]etyliđen}hyđrazino)-
carbonothioyl] amino}benzoic, phương pháp
sản xuất muối amin hữu cơ hoặc muối với ion
amoni bậc bốn này và chất tăng tạo tiểu cầu.
33
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016660 Hệ phân tán rắn chứa chất gây ra sự tự chết tế bào theo chương trình, quy trình điều chế hệ phân tán này và dược phẩm
dạng liều chứa nó
Tác giả: Rosch Esther (DE), Hoelig
Peter (DE), Lindley David J. (US),…
Quốc gia: Bermuda
Sáng chế đề cập đến hệ phân tán rắn
gây ra sự tự chế tế bào theo chương trình, ở
dạng hầu như không kết tinh, chứa hợp chất
có công thức I, trong đó các ký hiệu là như
được xác định trong bản mô tả, có tác dụng
ức chế protein họ Bc1-2 (B-cell lymphoma 2:
u limphô tế bào B), được phân tán trong chất
nền rắn mà chứa (a) chất mang polyme dược
dụng tan trong nước và (b) chất hoạt động bề
mặt dược dụng. Sáng chế còn đề cập đến quy
trình bào chế hệ phân tán rắn này, bao gồm
các bước gia nhiệt hỗn hợp bao gồm hợp chất
có công thức I, chất mang polyme tan trong
nước và chất hoạt động bề mặt, để thu được
hỗn hợp bán rắn có thể ép đùn được; ép đùn
hỗn hợp bán rắn thu được; và làm nguội hỗn
hợp ép đùn tạo thành để thu được chất nền
rắn chứa chất mang polyme và chất hoạt động
bề mặt và chứa hợp chất được phân tán ở
dạng gần như không kết tinh trong đó. Hệ
phân tán rắn này là thích hợp để dùng qua
đường miệng cho đối tượng cần điều trị bệnh,
đặc trưng bởi sự biểu hiện quá mức của một
hoặc nhiều protein họ Bcl chống lại sự tự chết
tế bào theo chương trình, ví dụ bệnh ung thư
hoặc bệnh miễn dịch hoặc bệnh tự miễn dịch.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016661 Chế phẩm hoạt động bề mặt hoàn nguyên chứa chất tương tự protein hoạt động bề mặt B (SP-B) và protein hoạt động bề mặt C (SP-C),
dược phẩm và kit chứa chế phẩm này
Tác giả: Pivetti Fausto (IT), Bocchi
Monica (IT), Soliani Raschini Annamaria (IT).
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến chế phẩm hoạt
động bề mặt phổi hoàn nguyên bao gồm chất
mang lipit, hỗn hợp của chất tương tự
polypeptit của protein hoạt động bề mặt SP-C
với chất tương tự polypeptit cụ thể của
protein hoạt động bề mặt SP-B. Ngoài ra,
sáng chế đề cập đến dược phẩm chứa chế
phẩm này. Chế phẩm theo sáng chế là hữu
dụng trong việc điều trị hoặc phòng ngừa hội
chứng suy kiệt phổi (RDS) và các rối loạn hô
hấp khác.
34
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016697 Vi sinh vật sản sinh axit L-glutamic và phương pháp sản xuất axit L-glutamic
Tác giả: Jun Nakamura (JP), Seiko
Hirano (JP), Hisao Ito (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến vi khuẩn
coryneform được cải biến bằng cách sử dụng
gen yggB sao cho khả năng sản sinh axit L-
glutamic được gia tăng so với các chủng
không được cải biến được nuôi cấy trong môi
trường để tích lũy axit L-glutamic trong môi
trường hoặc tế bào vi khuẩn, và axit L-
glutamic được thu gom từ môi trường hoặc tế
bào này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016707 Hợp chất acrylamido có tác dụng làm chất ức chế sự thay đổi tính thấm của ty thể, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Fancelli Daniele (IT), Varasi,
Mario (IT), Plyte Simon (GB),…
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến hợp chất
acrylamido có tác dụng làm chất điều trị, cụ
thể là để phòng ngừa và/hoặc điều trị bệnh và
tình trạng bệnh liên quan đến hoạt tính của lỗ
thay đổi tính thấm của ty thể (MPTP), như
các bệnh đặc trưng bởi sự tổn thương thiếu
máu cục bộ/tái tưới máu, tổn thương mô do
oxy hóa hoặc thoái hóa.
Hợp chất này có công thức cấu trúc (I)
:
trong đó R, R', R", W và a là như được
xác định trong bản mô tả. Sáng chế còn đề
cập đến quy trình điều chế hợp chất này cũng
như dược phẩm chứa nó.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016720 Viên nén dễ chia có khả năng giải phóng biến đổi và quy trình bào chế viên nén này
Tác giả: Gilles Fonknechten (FR),
Patrick Genty (FR), Jean-Manuel Pean (FR),
Patrick Wuthrich (FR).
Quốc gia: Pháp
Sáng chế đề cập đến dược phẩm để
giải phóng biến đổi hoạt chất, trong đó dược
phẩm chưa chia nhỏ và một phần của dược
phẩm này thu được bằng cách chia nhỏ có các
profin hoà tan tương tự. Sáng chế còn đề cập
đến quy trình bào chế dược phẩm này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
35
1-0016688 Phương pháp sản xuất sản phẩm từ lá trà đã chế biến bằng cách ép đùn và sản phẩm từ lá trà
Tác giả: Koji Nagao (JP), Koichi
Nakahara (JP), Hideki Maki (JP), Mika
Kimura (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất sản phẩm từ lá trà, trong đó các thành
phần không hòa tan trong nước của lá trà đã
được làm cho hòa tan trong nước và các thành
phần umami tự nhiên vốn có của lá trà đã
được gia tăng. Sáng chế cũng đề cập đến
phương pháp sản xuất đồ uống có cồn từ trà
có "hương thơm từ lá trà", "umami và vị đậm
đà" và "dư vị cồn nhẹ" ở trạng thái cân bằng.
Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến các sản
phẩm thu được từ các phương pháp này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016628 Phương pháp làm giảm độ cứng của nước
Tác giả: Han Aisam (KR)
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến phương pháp làm
giảm độ cứng của nước, trong đó nước có thể
được làm giảm độ cứng xuống đến mức có
thể uống được một cách đơn giản ở những nơi
không được trang bị thiết bị làm sạch nước.
Phương pháp này bao gồm bước bổ sung chế
phẩm làm giảm độ cứng của nước chứa bột
silic oxit ngậm nước vào nước, trong đó chế
phẩm này chứa: bột silic oxit ngậm nước với
lượng nằm trong khoảng từ 44 đến 54 % khối
lượng, muối natri carbonat với lượng nằm
trong khoảng từ 2,0 đến 3,0 % khối lượng, và
ilit với lượng nằm trong khoảng từ 44 đến 54
% khối lượng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016732 Chế phẩm tẩy giặt dạng lỏng và phương pháp giặt bằng tay sử dụng chế phẩm này
Tác giả: Yano Seiji (JP), Kubota
Yuichi (JP), Murata Daiya (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm tẩy giặt
dạng lỏng chứa (a) 5 đến 40% khối lượng của
một hoặc nhiều chất hoạt động bề mặt dạng
anion được chọn từ nhóm bao gồm
polyoxyalkylen alkyl ete sulfat và
alkylbenzen sulfonat, (b) axit béo và/hoặc
muối của nó, (c) alkanol amin, (d) cacbonat,
(e) chất hoạt động bề mặt không ion, và nước,
trong đó tỷ lệ khối lượng của polyoxyalkylen
alkyl ete sulfat so với alkylbenzen sulfonat là
từ 70/30 đến 100/0, tỷ lệ khối lượng của
polyoxyalkylen alkyl ete sulfat so với thành
phần (b) là từ 3/1 đến 20/1, tỷ lệ khối lượng
của polyoxyalkylen alkyl ete sulfat so với
thành phần (e) là từ 60/40 đến 100/0, và có độ
pH ở 250C là từ 9 đến 11.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016630 Hợp chất và chế phẩm đổi màu theo ánh sáng
Tác giả: He Meng (US), Mondal Sujit
(US), Dabideen Darrin R. (US),… Quốc gia: Ấn Độ
36
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức I sau:
trong đó, vòng A của công thức I có thể
là, ví dụ, nhóm aryl, và L1 là nhóm kéo dài đối
xứng hoặc bất đối xứng. Hợp chất có công
thức I có thể là hợp chất đổi màu theo ánh
sáng. Sáng chế cũng đề cập đến chế phẩm đổi
màu theo ánh sáng và vật dụng đổi màu theo
ánh sáng mà chứa một hoặc nhiều hợp chất đổi
màu theo ánh sáng, như có công thức I.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016633 Thiết bị xử lý nước thải
Tác giả: Fukuzaki Yasuhiro (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến thiết bị xử lý
nước thải ứng dụng phương pháp xử lý nước
thải sử dụng các hạt vi sinh, trong đó có thể
ngăn ngừa sự thoát ra không mong muốn của
các hạt vi sinh trong nước đã được xử lý, mà
có thể gây ra bởi mảnh vụn của các hạt vi
sinh, nhờ tách một cách hữu hiệu các bọt khí
khỏi các hạt vi sinh được bám dính vào bọt
khí và giảm thiểu sự tiếp xúc giữa các bọt khí
và các hạt vi sinh, và có thể hoạt động dưới
lượng lớn trong khi tạo ra chất lượng nước đã
được xử lý ổn định mà không làm giảm hiệu
quả xử lý nước thải. Thiết bị xử lý nước thải
theo sáng chế bao gồm tấm xoắn ốc (3) được
bố trí trong bể phản ứng (1). Các bọt khí (10)
và các hạt vi sinh được bám dính vào bọt khí
(12) chảy từ đệm bùn (9) được đi lên cưỡng
bức dọc theo bề mặt bên dưới của tấm xoắn
ốc (3). Trong thời gian đi lên, khi các bọt khí
(10) được tách khỏi các hạt vi sinh (11) do
dòng chảy và sự tiếp xúc được tạo ra bởi các
bọt khí (10) và lực va chạm do tiếp xúc với
tấm xoắn ốc (3), các hạt vi sinh (11) trôi
xuống dọc theo bề mặt bên trên của tấm xoắn
ốc (3) nằm ở bên dưới bề mặt dưới của tấm
xoắn ốc (3) và quay trở lại đệm bùn (9) nằm ở
phần bên dưới của bể phản ứng (1), và các hạt
vi sinh (11) trong đệm bùn (9) lại được hòa
lẫn và tiếp xúc với nước thải (6) để tiếp tục
quy trình xử lý phân hủy sinh học.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
37
1-0016634 Bộ phận in chuyển
Tác giả: Yoshihisa Mizumoto (JP),
Naoyuki Satoyoshi (JP), Kiyotaka Okuda
(JP), Masafumi Yamamoto (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến bộ phận in
chuyển, được sử dụng để in chuyển mực
trong thiết bị tạo ảnh sử dụng phương pháp
chụp ảnh điện, được làm bằng hỗn hợp cao su
có chứa ít nhất các thành phần cao su bao
gồm cao su styren-butađien, cao su etylen-
propylen-đien và cao su epiclohyđrin.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016651 Dao gạt mực in và phương pháp chế tạo dao gạt này
Tác giả: Hiroshi Nakamura (JP),
Hitoshi Yamauchi (JP), Koji Abe (JP),….
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến dao gạt mực in (1)
bao gồm bộ phận đỡ (2) có hệ số đàn hồi nằm
trong khoảng từ 0,5x104 đến 4,0x104
kg/mm2 và mômen quán tính của vùng (Iz)
nằm trong khoảng từ 6,5E-04 đến 1,2E-02, bộ
phận dao (4) được bố trí ở trên bề mặt của bộ
phận đỡ (2) dọc theo mép bên (2A). Bộ phận
dao (4) được làm bằng vật liệu cao su có 25%
độ cứng của vật liệu không lớn hơn 0,85MPa,
và mômen quán tính của vùng (Iz) nằm trong
khoảng từ 8E-02 đến 1,2E+01, bộ phận dao
(4) có độ uốn không lớn hơn 10mm theo
chiều dài.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016659 Khớp nối bản lề và phương pháp lắp các khớp nối bản lề
Tác giả: Horgan Michael W. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến khớp nối để nối
các đoạn ống (2, 4). Khớp nối bao gồm thành
phần khung thứ nhất (12), thành phần khung
thứ hai (14), và then cài nối thành phần khung
thứ nhất và thành phần khung thứ hai với
nhau. Then cài (22) có kết cấu được xếp
thẳng hàng tạo ra trục xếp thẳng hàng sao cho
thành phần khung thứ nhất và thứ hai ở trạng
thái đóng để tạo thành trục qua tâm của khớp
nối. Then cài có kết cấu lệch để tạo thành trục
xoay của then cài sao cho thành phần khung
thứ nhất và thứ hai ở trạng thái mở. Trục xoay
cơ bản song song với trục qua tâm và cơ bản
vuông góc với trục xếp thẳng hàng.
38
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016685 Quy trình và hệ thống xử lý kết hợp đồng phân hóa xylen và chuyển hoá nhóm alkyl
Tác giả: Jason T. Corradi (US), David
W. Ablin (US), David W. Liu (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến thiết bị xử lý đồng
phân hóa xylen và thiết bị xử lý chuyển hóa
nhóm alkyl được kết hợp. Tháp chưng cất
phân đoạn có thể được dùng chung cho hai
thiết bị xử lý này, nhờ đó làm giảm chi phí
vốn đầu tư cho nhà máy liên hợp sản xuất
chất thơm. Theo một số phương án, tháp
chưng cất phân đoạn chia ngăn và bộ phân
tách chia ngăn có thể được sử dụng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016641 Quy trình điều chế axit sucxinic
Tác giả: Groot Willem Jacob (NL),
Van Breugel Jan (NL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến quy trình điều chế
axit sucxinic bao gồm các bước:
a) tạo ra môi trường nước chứa magie
sucxinat bằng cách lên men, trong đó nguồn
hyđrat cacbon được lên men bằng vi sinh vật
để tạo ra axit sucxinic, bazơ chứa magie được
cho vào làm chất trung hòa trong quá trình
lên men để tạo ra magie sucxinat;
b) kết tinh môi trường nước chứa
magie sucxinat và bước trao đổi muối để tạo
ra dung dịch nước chứa muối sucxinat hóa trị
một, trong đó bước trao đổi muối được thực
hiện trước hoặc sau bước kết tinh, bao gồm
xử lý magie sucxinat với bazơ hóa trị một để
tạo ra bazơ chứa magie và muối sucxinat hóa
trị một;
c) điều chỉnh nồng độ của muối
sucxinat hóa trị một trong dung dịch nước đến
giá trị nằm trong khoảng từ 10% đến 35%
khối lượng;
d) điện thẩm tách nước dung dịch nước
chứa muối sucxinat hóa trị một qua bước tách
nước bằng điện thẩm tách, để tạo ra dung dịch
thứ nhất chứa bazơ hóa trị một và dung dịch
thứ hai chứa axit sucxinic và muối sucxinat
hóa trị một, bước điện thẩm tách nước được
thực hiện tới khi tỷ lệ chuyển hoá một phần
nằm trong khoảng từ 40%mol đến 95%mol;
e) tách dung dịch thứ hai chứa axit
sucxinic và muối sucxinat hóa trị một thành
axit sucxinic và dung dịch chứa muối
sucxinat hóa trị một bằng cách kết tinh;
f) tuần hoàn dung dịch thu được từ
bước e) chứa muối sucxinat hóa trị một trở lại
bước d).
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
39
1-0016734 Quy trình điều chế chế phẩm canxi cacbonat kết tủa
Tác giả: Pohl Michael (AT), Rainer
Christian (AT), Primosch Gernot (AT).
Quốc gia: Thụy Sỹ
Sáng chế đề cập đến quy trình điều chế
chế phẩm canxi cacbonat kết tủa. Quy trình
này bao gồm các bước: điều chế huyền phù
nước chứa mầm canxi cacbonat kết tủa bằng
cách sục khí cacbonic vào huyền phù chứa
Ca(OH)2 khi có mặt Sr, ở dạng Sr(OH)2, với
lượng nằm trong khoảng từ 0,005mol đến
0,030mol trên 1 mol Ca(OH)2 trước hoặc
trong quá trình sục khí cacbonic; tạo ra huyền
phù nước chứa chế phẩm canxi cacbonat kết
tủa bằng cách sục khí cacbonic vào huyền
phù đặc chứa Ca(OH)2 khi có mật mầm canxi
cacbonat kết tủa với lượng nằm trong khoảng
từ 0,5% đến 5% khối lượng khô, trong đó
mầm canxi cacbonat kết tủa này có cỡ hạt
D50 nhỏ hơn so với cỡ hạt D50 của chế phẩm
canxi cacbonat kết tủa và mầm canxi
cacbonat kết tủa này có hàm lượng aragonit
dạng đa hình bằng hoặc lớn hơn so với chế
phẩm canxi cacbonat kết tủa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016741 Xe đạp dùng để chạy dưới nước và trên cạn
Tác giả: Kim Young Ki (KR).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến xe đạp dùng để chạy
dưới nước và trên cạn bao gồm: phương tiện
nổi thứ nhất, được bố trí nằm ở trên và quay
cùng với khung bánh xe trước quay kết hợp
với ghi đông, dùng để mở rộng ra trên cả hai
phía nhờ sức nổi để làm nổi khung bánh xe
trước khi đi vào nước; phương tiện nổi thứ
hai, được bố trí trên khung bánh xe sau, dùng
để mở rộng ra trên cả hai phía nhờ sức nổi để
làm nổi khung bánh xe sau khi đi vào nước;
và các cánh quạt, được bố trí trên các nan hoa
lắp trên khung bánh xe sau để cho các bề mặt
này hướng về hướng trong đó bánh xe sau
quay, để sinh ra lực đẩy trong nước.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016662 Chế phẩm dầu bôi trơn dùng cho động cơ đốt trong
Tác giả: Yaguchi Akira (JP), Yagishita
Kazuhiro (JP), Hoshino Koji (JP), Matsui
Shigeki (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dầu bôi
trơn dùng cho động cơ đốt trong mà có thể
làm giảm một cách đủ hiệu quả lực ma sát
trong điều kiện bôi trơn hỗn hợp và có các
đặc tính tiết kiệm nhiên liệu rất tốt. Chế phẩm
dầu bôi trơn này chứa (A) dầu gốc có độ nhớt
động học ở 1000C nằm trong khoảng từ 2 đến
8mm2/s và lượng chất thơm thấp hơn hoặc
bằng 10% theo khối lượng, (B) chất tẩy rửa
kim loại có tỷ lệ kim loại nằm trong khoảng
từ 1,01 đến 3,3 được kiềm hóa quá mức bằng
borat của kim loại kiềm thổ và (C) hợp chất
molypđen hữu cơ với lượng molypđen nằm
trong khoảng từ 0,01 đến 0,2% theo khối
lượng dựa trên tổng khối lượng của chế phẩm
và có độ nhớt ở tốc độ cắt cao ở nhiệt độ cao
40
(High temperature high shear - HTHS) ở
1000C thấp hơn hoặc bằng 5,5mPa.s.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016744 Giày có thể thấm hơi nước
Tác giả: Polegato Moretti Mario (IT).
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập tới giày có thể thấm
hơi nước bao gồm cụm mũ giày (11) bao
quanh vùng xỏ bàn chân (A) và được liên kề
với đế giày (12) vùng bàn chân của nó, với
đế giày (12) có ít nhất một phần có thể thấm
hơi nước hoặc được đục lỗ (13), trong đó:
cụm mũ giày (11) bao gồm chi tiết đệm kết
cấu (14) có ít nhất một phần không thấm
nước được làm kín chống thấm với đế giày
(12), nhờ đó phủ phần có thể thấm hơi nước
hoặc được đục lỗ (13) để ngăn chặn hiện
tượng ngấm chất lỏng qua đó tới vùng xỏ bàn
chân (A);
phần không thấm nước có ít nhất
một phần được tạo bởi chi tiết chức năng
không thấm nước và có thể thấm hơi nước có
kết cấu dạng tấm đơn khối làm bằng vật liệu
polyme không thấm nước ở trạng thái lỏng và
có thể thấm hơi nước, ít nhất một phần chức
năng của chi tiết chức năng có độ dày sao
cho tạo ra độ bền chống xuyên lớn hơn 10 N
như được quy định theo phương pháp nêu ở
chương 5.8.2 của tiêu chuẩn ISO 20344-
2004.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016743 Phương pháp bảo vệ lúa sạ ngầm và lúa cấy tránh khỏi tổn hại gây ra bởi penoxsulam
Tác giả: Mann Richard (US), Shatley
Deborah (US)
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp bảo
vệ lúa sạ ngầm và lúa cấy tránh khỏi tổn hại
gây ra bởi penoxsulam ở nồng độ cần để đạt
được hiệu quả phòng trừ thực vật không
mong muốn, bao gồm bước phun chất an toàn
clomazon vào môi trường nước trồng lúa này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************
41
1-0016724 Hợp chất pyrimiđin, chế phẩm chứa nó, phương pháp phòng trừ loài gây hại không xương sống và hạt giống được xử lý bằng hợp chất này
Tác giả: Holyoke JR Caleb William
(US), Tong My-hanh Thi (US), Coats Reed,
Aaron (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức 1:
trong đó:
X là O hoặc S;
Y là O hoặc S;
và R1, R2, R3 và R4 là như được xác
định trong bản mô tả. Sáng chế cũng đề cập
đến chế phẩm chứa hợp chất có công thức 1
và phương pháp phòng trừ loài gây hại không
xương sống, trong đó phương pháp này
không nhằm mục đích điều trị bệnh, bao gồm
việc cho loài gây hại không xương sống này
hoặc môi trường xung quanh chúng tiếp xúc
với hợp chất hoặc chế phẩm theo sáng chế với
lượng hữu hiệu sinh học.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
349/2017
Trở về đầu trang
**************