Bài tiểu luận

25
Học viện âm nhạc quốc Việt Nam Đề tài: “anh/chị hãy phân tích, chứng minh sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt Nam”. SV: Trần Thanh Nhàn

Transcript of Bài tiểu luận

Page 1: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

Đề tài: “anh/chị hãy phân tích, chứng minh sự ra đời

của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặc vĩ đại của

cách mạng Việt Nam”.

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 2: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

Bài làm

I. Mở đầu.

Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động

nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành

được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những

bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách

mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là

thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến

nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo

của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu

sắc" Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo

của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ

trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách mạng, từ sự

lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được vai

trò và sự cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa to lớn từ sự

xuất hiện, sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (3- 2- 1930) là vô cùng quan

trọng. Năm 2010 cũng là năm kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng. Do vậy, em

lựa chọn đề tài: "Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam" làm đề

tài tiểu luận của mình. 2. Mục đích, yêu cầu: Là công dân của một đất nước Xã

Hội Chủ Nghĩa ,chịu sự dìu dắt của Đảng Cộng Sản, chúng ta phải nắm vững

phải quán triệt được tư tưởng đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu

biết về Đảng và vai trò củaĐảng. Tư tưởng của Đảng là một tư tưởng đúng, tư

tưởng mang tính khoa học biện chứng và điều đó đã được lịch sử chứng minh.

Đựơc chứng minh ngay việc ra đời của Đảng Cộng Sản, sự ra đời của Đảng

Cộng Sản hoàn toàn hợp quy luật .Vai trò của Đảng Cộng Sản vô cùng to lớn,

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 3: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

vai trò đó có ảnh hưởng quan trọng và không thể thiếu đối với lịch sử và tương

lai của nhân loại. 3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu về ý nghĩa

của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đối với lịch sử dân tộc Việt Nam

không còn là vấn đề mới, mà đây là vấn đề có lịch sử nghiên cứu từ rất lâu và

cũng được sự quan tâm của nhiều tác giả, nhóm tác giả, nhiều cơ quan, tổ chức

và đến nay vấn đề này cũng được công bố rộng rãi, là một trong những nội dung

giảng dạy ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học, mà còn ở các cấp học phổ

thông. Như vậy, đây là vấn đề đã mang tính phổ biến và không còn là mới. Song,

tác giả lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng trong bối cảnh

lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên ý nghĩa sự ra đời của Đảng.

II. Tình hình đất nước trước khi Đảng cộng sản Việt

Nam ra đời.

a. Quân Pháp xâm lược và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân

Pháp.

Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà

Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà

Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ

đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế

quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành

đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn.

Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán

đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước

Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 4: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

Về kinh tế, tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở

mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài

nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính

sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc,

nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.

Về xã hội, các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa

nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải

quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong

kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của

nhân dân ta.

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương

thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu

giai cấp mới. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời.

Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần

thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá

thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính

trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác

tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế

lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do

vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong

kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể

tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.

Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến

và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc

lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số

đông vẫn giữ được khí tiết. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 5: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu

tranh chống thực dân, phong kiến.

Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và

phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc

khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một

lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn

để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.

Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác

thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ

XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành

phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới

lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ

còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công

nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người

làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô

sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm

1930 có đến hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong

kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt

Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất

thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này

có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách

mạng.

Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, lại được lãnh

tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân

tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng

11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 6: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi

công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm

1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang

đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu

hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 1928-1929, khi Việt

Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều

kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự

giác.

b. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc .

Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế

kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta

chống đế quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng

lợi vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.

Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ

chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong

trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn

khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh

đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành

thắng lợi.

Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở

nước ta bộc lộ sâu sắc.

Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong

kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con

đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 7: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách

mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)... nhưng đều thất bại.

Từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển

biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản,

đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là

chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có tác

động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.

Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn Ái

Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức,

tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm có khuynh hướng cộng

sản chủ nghĩa.

Cuộc đấu tranh về ý thức hệ, về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên

cách mạng đồng chí Hội và các tổ chức yêu nước khác như: hội Phục Việt

(1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng

của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng (1926-1930),.. đã

diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về

chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt

Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.

III. Những thành tựu đạt được của cách mạng Việt Nam

dưới sự lãnh đạo của Đảng.

1. Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản,

kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng

cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 8: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và

không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia

rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng.

Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì

vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho

những ng¬ười cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản

phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất

thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng

sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại

diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không

thành.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là

phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên

quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương

Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành

một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là

Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là

Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở

Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại

biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam,

thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ

tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác

định là 'đội tiền phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân

quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời,

qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh

đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến,

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 9: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất

của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản

nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng

nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ ...

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ

trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân

lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa

vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức,

trung nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung,

tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi

dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì

phải đánh đổ".

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và

thông qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một

cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng

sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như

vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn

tất.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ

nghĩa Mác-lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công

nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm

vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai

cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 10: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã

chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời

của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi

tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan

trọng trong lịch sử nước ta.

2. Những thành tựu đạt được của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Đảng.

Trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,ở Việt Nam đã từng tồn tại

nhiều tổ chức chính trị, đảng phái tập hợp và và lãnh đạo những phong trào yêu

nước của quần chúng nhân dân để lại nhiều trang sử vẻ vang, nhiều tấm gương

oanh liệt thôi thúc tinh thân của nhân dân cả nước .Song, do hạn chế về mặt ý

thức hệ nên những tổ chức ấy đã không đề ra được đường lối và phương pháp

cách mạng đứng đắn ; không tập hợp và phát huy được lực lượng to lớn của cả

dân tộc ; không có khả năng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và gắn cách

mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Từ khi ra đời, Đảng Cộng Sản Việt

Nam được trang bị lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê nin và

được xây dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản,đã có

đủ khả năng phân tích đúng đắn những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, các

giai cấp, tầng lớp,… từ đó khắc phục được những hạn chế trên. Từ khi có Đảng

lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh

liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc

cho nhân dân.

a. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám (1930-1945)

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. “Thấm nhuần

chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản

Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ

chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 11: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân

dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng

to lớn chung quanh giai cấp mình” (1).

Theo Cương lĩnh đó, Đảng đã phát cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh

cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo

cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Sau cuộc đấu

tranh đầy gian khổ để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng, khôi phục phong

trào cách mạng những năm 1932-1933, Đảng đã biết chuyển ngay sang đấu tranh

đòi dân sinh dân chủ thời kì 1936-1939 khi tình hình trong nước và thế giới có

sự biến chuyển mới. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh

hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng, sự giác ngộ chính

trị của quần chúng được nâng cao.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã chuyển hướng chiến

lược cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung vào mục tiêu

giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa

vũ trang nhằm đảnh đuổi mọi kẻ thù ngoại xâm bất luận da trắng hay da vàng.

Chính từ sự chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời

khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa

Tháng Tám năm 1945.

Bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập

tan xiềng xích nô lệ của thực dân gần 90 năm và chế độ quân chủ chuyên chế để

lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên

ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỉ

nguyên mới của dân tộc Việt Nam – kỉ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân,

đi lên chủ nghĩa xã hội.

b. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1945-1954)

Sau cách mạng Tháng Tám, khó khăn của nước Việt nam Dân chủ Cộng

hoà là hết sức to lớn. Ba thứ giặc: “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, đều là

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 12: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

những hiểm hoạ đặt vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình

hình đó, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Chỉ thị Kháng

chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam. Với những cố

gắng phi thường, đến cuối năm 1946, nhân dân ta đã làm thất bại âm mưu, thủ

đoạn xâm lược của các thế lực đế quốc, bảo vệ được độc lập của đất nước, giữ

vững chính quyền cách mạng, thành quả lớn nhất của cuộc cách mạng Tháng

Tám.

Từ ngày 19/12/1946, khi thực dân Pháp bội ước, gây chiến tranh xâm lược

ra cả nước, với ý chí “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất

nước, nhất định không chịu làm nô lệ“, Đảng đã phát động toàn dân tiến hành

cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp theo đường lối chiến tranh

nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Trải qua những khó khăn ban đầu, đến cuối năm 1950, sau chiến dịch Biên Giới

thắng lợi, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã giành được những thắng lợi quan

trọng. Từ năm 1951, theo đường lối của Đại hội Đảng lần thứ hai, cuộc kháng

chiến của quân dân Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt, với cuộc

tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên

Phủ, quân dân ta đã buộc thực dân Pháp phải đi tới đàm phán và kí kết Hiệp định

Giơnevơ, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can

thiệp Mĩ có ý nghĩ lịch sử vĩ đại. Đó là đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược

của đế quốc Pháp được đế quốc Mĩ giúp sức ở mức độ cao, bảo vệ được chính

quyền cách mạng, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn

vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương. Đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc và

tăng cường sức mạnh vật chất tinh thần cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đoa

còn có ý nghĩa cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở ra

sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa

của thực dân Pháp...

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 13: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

c. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước (1954-

1975)

Với dã tâm làm bá chủ thế giới, từ tháng 7/1954, đế quốc Mĩ đã từ can thiệp

chuyển sang trực tiếp thay chân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc đấu tranh của

nhân dân ta vì độc lập, thống nhất trở nên hết sức gay go, phức tạp. Trải qua

nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương

chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình

thành. Đó là đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược

cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu

chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ

quốc.

Theo đường lối sáng suốt của Đảng, nhân dân miền Bắc đã hăng hái phấn

đấu xây dựng hậu phương xã hội chủ nghĩa và giành được những thành tựu hết

sức quan trọng. Đến năm 1965, miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc của

cách mạng cả nước, hậu phương có tiềm lực kinh tế quốc phòng ngày to lớn cho

miền Nam. Được sự chi viện của miền Bắc, với truyền thống “Thành đồng Tổ

quốc”, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng đấu tranh vượt qua những năm

tháng khó khăn của giai đoạn đấu tranh chính trị là chính, tiến tới cuộc nổi dậy

và “Đồng Khởi” (1959- 1960) theo Nghị quyết lần thứ 15 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng, giành quyền làm chủ ở các vùng nông thôn, rừng núi, đưa

cách mạng chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Tiếp đó đã đánh

bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ (1961- 1965), đưa cuộc

chiến đấu tiến lên mạnh mẽ, làm lung lay tận gốc rễ chế độ nguỵ quân, nguỵ

quyền tay sai.

Từ năm 1965, do đế quốc Mĩ gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đánh phá

ra miền Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến chống Mĩ,

cứu nước trên phạm vi toàn quốc và đề ra đường lối cho cuộc kháng chiến trong

giai đoạn mới, giai đoạn cả nước có chiến tranh. Với tinh thần “Không có gì quý

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 14: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

hơn độc lập, tự do”, quân dân miền Bắc đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân

chống chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mĩ, bào vệ vững chắc hậu

phương, đồng thời ra sức sản xuất, công tác tạo nên tiềm lực to lớn chi viện miền

Nam với tất cả khả năng của mình. Quân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí kiên

cường giành được thắng lợi trong các mùa khô 1965- 1966, 1966- 1967 và nhất

là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) làm cho cuộc chiến

tranh cục bộ của Mĩ bị thất bại, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở

hội nghị Paris. Trong những năm 1969- 1975, quân dân miền Nam đã liến tiếp

đánh bại các thủ đoạn của chiến tranh “Việt Nam hoá” của đế quốc Mĩ, đã “đánh

cho Mĩ cút” và tiến tới “đánh cho nguỵ nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí

Minh mùa xuân 1975.

Thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước với

đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với

nước ta và với thế giới. Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mĩ, cứu

nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư của Đảng đã ghi

rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp

chông Mĩ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những

trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng người về sự toàn thắng của chủ nghĩa

anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một

chiến công vĩ đại của thế kỉ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và

tính thời đại sâu sắc“(2).

d. Chặng đường thứ tư và thắng lợi của công cuộc Đổi mới sau khi

thống nhất đất nước.

Thắng lợi của nhân dân ta sau hơn 30 năm đã đưa đất nước bước sang một

thời kì mới, thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh phải

khắc phục rất nhiều khó khăn do hậu quả nhiều mặt của chiến tranh để lại, Đảng

và nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía

Nam, phía Bắc, trong những năm 1975- 1986, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả

nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành quả to lớn trong

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 15: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

bảo về Tổ quốc và những thành tựu đáng kể về kinh tế. Đồng thời, trong thời

gian đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường

lối đổi mới. Được nhân dân đón nhận và thực hiện, trong những năm 1986-

1996, công cuộc đổi mới đã giành được nhiều thành quả to lớn, đưa đất nước ra

khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.

Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã

hội và thực hiện đường lối của Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), lần thứ IX

(2001), lần thứ X (2006), công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước càng được đẩy mạnh một cách toàn diện và sâu sắc. Nhìn chung, đến cuối

năm 2009 đầu năm 2010, tiềm lực kinh tế của đất nước tăng lên, nước ta đã ra

khỏi tình trạng kém phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa từng bước được hình thành; văn hoá, xã hội đạt được những kết quả nhất

định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt

trình độ của các nước phát triển trung bình; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân

dân được chú trọng và đạt được nhiều kết quả; giáo dục và đào tạo, khoa học và

công nghệ có một số mặt chuyển biến tích cực; môi trường sống được quan tâm

và có mặt được cải thiện; hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước được nâng lên;

phòng, chống tham nhũng, lãng phí có kết quả bước đầu; quốc phòng, an ninh

được tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên

trường quốc tế được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước…

IV. Kết luận.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặc quan trọng của cách

Việt Nam. Bằng sự sáng suốt của mình, Đảng ta đã vận dụng lý luận chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn

tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến giành độc

lập thống nhất hoàn toàn. Trong thời đại ngày nay, việc vận dụng chủ nghĩa Mác

SV: Trần Thanh Nhàn

Page 16: Bài tiểu luận

H c vi n âm nh c qu c Vi t Nam ọ ệ ạ ố ệ

– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tổ chức và hoạt động của Đảng

lại càng trở nên quan trọng, khi mà đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp

hóa – hiện đại hóa. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối từng bước đưa đất

nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam

cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước

phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.

SV: Trần Thanh Nhàn